Tên Ebook: Hỏa Ngục
Tác Giả: Dan Brown
Thể Loại: Trinh Thám, Kinh Dị, Phiêu Lưu
Dịch Giả:
Công ty phát hành: Bách Việt
Nhà xuất bản: NXB Thời Đại
Ngày xuất bản: 03/2014
Chụp pic: Hamy
Type: Candy Lai, TMT
Nguồn: cungquanghang.com
Hỏa Ngục - Dan Brown |
Chương Mở Đầu:
Lời Cám ơn
Xin
gửi lời cảm ơn chân thành và khiêm nhường nhất của tôi tới:
Đầu
tiên và trên hết là người bạn thân cũng là biên tập viên của tôi, Jason
Kaufman, vì sự tận tâm và tài năng...nhưng chủ yểu là vì khiếu hài hước bất tận
của anh ấy.
Người
vợ tuyệt vời của tôi, Blythe, vì tình yêu và lòng kiên nhẫn của cô ấy với quá
trình viết lách, và cũng vì những bản năng siêu đẳng và sự vô tư của cô ấy với
tư cách là một biên tập viên ở vị trí "tiền tuyến".
Đại
diện không biết mệt mỏi và cũng là người bạn tin cậy của tôi, Heide Lange, vì
đã dẫn dất thành thạo nhiều cuộc trò chuyện ở nhiều quốc gia và về nhiều chủ đề
hơn cả những gì tôi biết. Tôi mãi mãi biết ơn những kỹ năng và nghị lực của cô
ấy.
Xin
cảm ơn toàn bộ đội ngũ nhân viên ở Doubleday vì lòng nhiệt thành; sự sáng tạo
và nổ lực đối với các cuốn sách của tôi. Đặc biệt cảm ơn Suzanne Herz (vì phải
đảm nhiệm quá nhiều vai trò...và đã đảm nhận rất thành công), Bill Thomas,
Michael Windsor/ Judy Jacoby, Joe Gallagher, Rob Bloom, Nora Reichard, Beth
Meister, Marta Carella, Lorraine Hyland. Và cũng cảm ơn sự ủng hộ không ngừng
của Sonny Mehta, Tony Chirico, Kathy Trager, Anna Mesitte, và Markus Dofile.
Cảm ơn những con người phi thường thuộc phòng kinh doanh của Nhà xuất bản
Random...Các bạn quả là vô đối.
Cảm
ơn luật Sư uyên bác của tôi, Michael Rudell, vì bản năng hoàn hảo tuyệt vời
trong giải quyết tất cả các vấn đề, cả lớn và nhỏ, cũng như vì tình bạn của anh
ấy.
Cảm
ơn trợ lý không thể thay thế của tôi, Susan Morehouse, vì thái độ làm việc và
sự bền bí của cô ấy. Thiếu cô ấy, mọi thứ sẽ rơi vào hỗn loạn.
Xin
cảm ơn tất cả bạn bè của tôi ở Transworld đặc biệt là Bill Scott-Kerr vì sức
sáng tạo, sự ủng hộ và khuyến khích của anh ấy, và cả Gall Rebuke vì vai trò
lãnh đạo siêu việt của cô ấy.
Cảm
ơn Nhà xuất bản của tôi ở Ý, Mondadori, đặc biệt là Ricky Cavallero, Piera
Cusani, Giovanni Dutto, Antonio Franchini, và Claudia Scheu, và Nhà xuất bản ở
Thổ Nhĩ Kỳ Altin Kitaplar, đặc biệt là Oya Alpar, Erden Heper, và Batu Bozkurt,
vì sự giúp đỡ đặc biệt liên quan tới các địa danh trong cuốn sách này.
Cảm
ơn các nhà xuất bản tuyệt vời khác trên khắp thế giới vì sự tận tụy, chăm chĩ
và cam kết của họ.
Xin
cảm ơn Leon Romero, Montalvo và Luciano Guglielmi vì vai trò quản lý rất ấn
tương của họ đối với công việc dịch thuật ở London
và Milan.
Xin
gửi lời cảm ơn của tôi tới Tiến sĩ Marta Alvarez Gonzalez vì đã dành rất nhiều
thời gian với chúng tôi ở Florence,
và đã mang sức sống tới cho nghệ thuật và kiến trúc c ủa thành phố.
Cảm
ơn Maurizio Pimponi, con người có một không hai, vì tất cả những gì anh ấy
đã làm đế trợ giúp chuyến đi của chúng
tôi tới nước Ý. Dành nhiều thời gian với tôi ở Florence và Venice, chia sẻ kiến
thức của họ: Giovanna Rao và Eugenia Antonucci ở Thư viện Medicea Laurenzianna,
Serena Pini và đội ngũ nhân viên ở Cung điện Vecchio, Giovanna Giusti ở Phòng
trưng bày Uffizi, Barbara Fedeli ở Nhà rửa tội và II Duôm, Ettore Vito và
Massimo Bisson ở Thánh đường St.Mark, Giorgio Tagliaferro ở Cung Doge,
Issabella di Lenardo, Elizabeth Carroll Consavari, và Elena Svalduz ở Venice,
Annalisa Bruni; và đội ngũ nhân viên ở Thư viện Quốc gia Marcianna, và tới
nhiều người mà tôi không thế nhắc đến trong bản danh sách ngắn gọn này.
Cảm
ơn Richael Dillon Fried và Stephanie Delman ở cơ quan Đại diện Sanford
J.Greenburger vì tất cả những gì họ đã làm cả ở Mỹ và ở nước ngoài.
Xin
được cảm ơn những bộ óc phi thường của Tiến sĩ George Abraham, Tiến sĩ John
Treanor, và Tiến sĩ Bob Helm vì khoa học chuyên môn của họ.
Chân
thành cảm ơn các độc giả đầu tiên của tôi, những người đã đưa ra quan điếm của
mình: Greg Brown, Dick và Connie Brown, Rebecca Kaufman, Jerry và Olivia
Kaufman, John Chaffee.
Cảm
ơn chuyên gia web Alex Cannon, người đã cùng với nhóm cộng sự ở xưởng Truyền
thông Sanborn giữ cho mọi thứ hoạt động suôn sẻ trong thế giới trực tuyến.
Cảm
ơn Judd và Kathy Gregg đã dành cho tôi không gian yên tình trong khuôn viên
Green Gables đế tôi viết những chương cuối của cuốn sách này.
Cám
ơn những nguồn trực tuyến tuyệt vời của Dự án Princeton Dante, Digital Dante
tại Đai học Columnia, vả The World of Dante.
NHỮNG
NƠI TÂM TỐI NHẤT CỦA ĐỊA NGỤC DÀNH RIÊNG CHO NHỮNG KẺ GIỮ THÁI ĐỘ TRUNG DUNG
TRONG THỜI KỲ KHỦNG HOẢNG ĐẠO ĐỨC.
Cơ
sở thực tế
Mọi
thông tin tham khảo bằng hình ảnh, minh họa, văn học, khoa học, và lịch sử
trong cuốn tiếu thuyết này đều có thật.
"Consortium"
là một tổ chức tư nhân có văn phòng đặt tại bảy quốc gia. Tên của tổ chức đã
được thay đổi vì những lý do an ninh và quyền riêng tư.
Hỏa
ngục (Inferno) là thế giới địa ngục được mô tả trong trường ca Thần Khúc (The
Divine Comedy) của Dante Alighieri. Bản trường ca này khắc họa địa ngục như một
V ương quốc có cấu trúc phức tạp, là nơi cư ngụ của những thực thế được cho là
"vong linh" - những linh hồn vô hình bị mắc kẹt giữa chốn dương gian
và cõi chết.
Khúc
dạo đầu
Ta
là Vong linh
Qua
thành phố buồn đau, ta lẩn tránh.
Qua
nỗi thống khố vĩnh hằng, ta trốn chạy.
Ta
lê bước dọc bờ song Arno, thở không ra hơi...rẽ trái vào Via dei Castellani,
lần lên phía bắc, lấn vào những bóng râm của tòa nhà Uffizi (1).
Và
chúng vẫn truy lùng ta.
Giờ
thì đã nghe rõ bước chân của chúng hơn khi mà chúng quyết tâm săn đuổi đến
cùng.
Chúng
săn lùng ta đã nhiều năm ròng. Sự đeo bám dai dẳng của chúng khiến ta phải ở
dưới hầm...buộc ta phải sống trong cõi luyện hồn...quằn quại bên dưới mặt đất
như một con quái vật âm phủ.
Ta
là Vong linh.
ở
trên mặt đất lúc này, ta nhướng mắt nhìn về phương bắc, nhưng không thế tìm
thấy con đường thẳng tới sự cứu rỗi...vì dãy núi Apennine che lấp tia sáng đầu
tiên của buổi bình minh.
Ta
đi qua phía sau tòa nhà có ngọn tháp và những lỗ châu mai và đồng hồ chỉ có một
kim...lách qua những người bán hàng rong buổi sớm ở Quảng trường San Firenze,
tiếng rao khàn khàn của họ còn nồng nặc mùi lampredotto và ô liu nướng. Băng
qua trước bảo tàng Bargello (2), ta cắt sang mé tây vè phía cầu thang xoắn ốc
của Tu viện Badia (3) và đến ngay trước cổng sắt ở dưới chân cầu thang. Đến
đây, phải gạt bỏ sau lưng mọi sự do dự. Ta vặn tay nắm và bước vào lối đi ta
biết rõ sẽ không có đường trở lại. Ta hối thúc đôi chân nặng như chì bước lên dãy
cầu thang hẹp...leo lên theo chiều xoắn ốc trên những bậc thang bằng đá cấm
thạch mềm, lỗ chỗ và sứt mẻ.
Từ
phía dưới vang lên những giọng nói. Đang van nài.
Chúng
đang ở phía sau ta, không nhượng bộ, xáp lại gần.
Chúng
không hiếu chuyện gì sắp đến...cũng như những gì ta đã làm cho chúng!
Đúng
là mảnh đất bạc bẽo!
Khi
ta leo lên, tầm nhìn trở nên khó khăn... Những thân hình đầy dục vọng quằn quại
trong làn mưa dữ dội, các linh hồn tham lam ngoi ngóp trong phân thối, những kẻ
xấu xa xảo trá đông cứng trong vòng tay băng giá của quỷ Satan.
Ta
trèo lên mấy bậc thang cuối cùng và lên đến đính, loạng choạng ngã vào bầu
không khí ấm ướt buổi sớm. Ta lao tới bức tường cao hơn đầu người, nhìn qua
những kẻ hở. Xa phía dưới là thành phố thiêng liêng, nơi ta đã phải tìm cách
trốn tránh những kẻ đày ải ta.
Những
giọng nói vang lên, xáp lại gần phía sau lưng ta."Những điều ông vừa làm
thật điên rồ!"
Điên
rồ dung dưỡng điên rồ.
"Vì
tình yêu của Chúa!", chúng gào lên, "Hãy nói cho chúng, tôi biết ông
giấu nó ở đâu!".
Nhưng
chính vì tình yêu của Chúa, ta sẽ không nói.
Giờ
ta đúng,bị dồn vào chân tường, lưng tựa vào lớp đá lạnh. Chúng nhìn xoáy vào
đôi mắt xanh trong veo của ta, và nét mặt chúng sầm lại, không còn vẻ phĩnh
phờ, mà là hăm dọa. "ông biết chúng tôi có phương pháp của mình mà. Chúng
tôi có thế buộc ông nói nó ở đâu."
Vì
lý do đó, ta đã qua nửa chặng đường lên thiên đàng.
Chẳng
cần báo trước, ta xoay người và rướn lên, bấu những ngón tay vào gờ tường cao,
đu mình lên, bò trên hai gối, rồi đứíig dậy...chênh vênh trên vách tường. Xin
hãy dẫn dắt ta, Virgil yêu quý, vượt qua khoảng không trống rỗng.
Chúng
ngạc nhiên, nhào tới trước như muốn tóm lấy chân ta, nhưng lại sỢ rằng chúng sẽ
làm ta mất thăng bằng và ngã nhào xuống. Giờ thì chúng van xin, trong nỗi tuyệt
vọng lặng câm, nhưng ta xoay lung lại phía chúng. Ta biết mình phải làm gì.
Phía
dưới ta, xa tít đến chóng mặt, những mái ngói đò chạy dài như một biến lửa chốn
thôn quê, chiếu sáng mảnh đất thanh sạch nơi những người khổng lồ từhg dạo
bước... Giotto, Donatello, Brunelleschi, Michelangelo, Botticelli.
Ta
nhích từhg ngón chân đến mép tường.
"Xuống
đây đi!", chúng gào lên. "vẫn còn chưa quá muộn mà!"
Ôi,
những kẻ ngu dốt nganh ngạnh! Các ngươi không nhìn thấy tương lai ư? Các ngươi
không hiếu thấu vẻ huy hoàng ở các tác phấm sáng tạo của ta ư? Sự thiết yếu
Ta
sẽ vui vẻ thực hiện sự hy sinh tối thượng này...và bằng việc đó, ta sẽ dập tắt
hy vọng cuối cùng của các ngươi hòng tìm ra những gì các ngươi đang lùng kiếm.
Các
ngươi sẽ chẳng bao giờ kip tìm thấy nó đâu.
Sâu
dưới kia hằng trăm mét, quảng trường rải đá cuội như một ốc đảo yên bình mời
gọi. Ta làm sao đợi thêm được nữa...trong khi thời gian chính là thứ hàng hóa
cho dù có bộn tiền ta cũng không thế mua được.
Trong
vài giây cuối cùng, ta phóng tầm mắt xuống quảng trường, và nhìn thấy một cảnh
tượng khiển ta giật mình.
Ta
nhìn thấy gương mặt nàng.
Từ
trong bóng râm, nàng đang ngước lên nhìn ta.Đôi mắt nàng u sầu, nhưng trong đôi
mắt ấy, ta cảm nhận được sự tôn kính dành cho những gì ta đã hoàn thành.Nàng
hiếu ta không còn lựa chọn nào khác.Vì tinh yêu với Nhân loại, ta phải bảo vệ
kiệt tác của mình.
Ngay
lúc này nó vẫn phát triển... chờ đợi... âm ĩ bên dưới làn nước màu đỏ máu của
cái đầm chẳng bao giờ phản chiếunhững ánh sao.
Ta
rời mắt khỏi nàng và nhìn về phía chân trời. Phía trên thế giới đau khổ này, ta
nói lời khấn cầu cuối cùng.
Hỡi
Chúa kính yêu, con cầu xin thế giới ghi nhớ tên con không phải như một kẻ tội
đồ đáng ghê tởm, mà như một vị cứu tinh vẻ vang, người biết thật sự là như vậy.
Con cầu xin Nhân loại sẽ hiếu món quà con đếlại phía sau.
Món
quà của con là tương lai.
Món
quà của con là sự cứu rỗi.
Món
quà của con là Hỏa ngục.
Nói
xong, ta thầm khấn amen... và gieo bước chân cuối cùng vào khoảng không thăm
thẳm.
(1) Uffizi Gallery là bảo tàng ở Florence, một trong những bảo tàng nghệ thuật
lâu đời và nổi tiếng nhất. Tòa nhà được Giorgio Vasari xây dựng năm 1560 làm
văn phòng cho các quan tòa - vì thế mà thành tên gọi "Uffizi" (tức
"office" hay "văn phòng"), (chú thích trong sách này là của
dịch giả)
(2)
Cung điện Bargello, còn gọi là Cung điện Nhân dân (Palazzo del Popolo) vốn là
trại lính và nhà tù, nay là bảo tàng nghệ thuật ở Florence, Ý. Đây là công
trình công cộng cổ nhất Florence, được xây dựíig năm 1255. Năm 1574, gia tộc
Medici cho cảnh sát trưởng (bargello) của Florence
đóng trụ sở tại tòa nhà này, vì thế thành tên gọi. Từ năm 1865, Bargello trở
thành bảo tàng Quốc gia (Museo Nazionale del Bargello) trưng bày bộ sưu tập lớn
nhất về điêu khắc Gothic và Phục hưng ở Ý (thế kỷ XVI - XVII)
(3) Badia Fiorentina là tu viện kiêm nhà thờ trên
phố Via del Proconsolo ở trung tâm Florence.
Người ta cho rằng thi hào Dante, tác giả Thần Khúc, lớn lên ngay bên kia phố
trong ngôi nhà được xây lại năm 1910 làm Bảo tàng Dante. Hiện nay, Badia là
giáo đoàn của các tu sĩ và nữ tu dòng Tín hữu Gerusalemme, với các buổi cầu
kinh hằng chiều lúc 6 giờ.
Chương 1:
Ký
ức chầm chậm phục hồi... như bong bóng sủi lên từ thẳm sâu của một cái giếng
không đáy.
Một
phụ nữ che mạng.
Robert
Langdon đăm đăm nhìn người phụ nữ phía bên kia con sông nước đỏ sánh như máu.ở
bờ bên đó, người phụ nữ đứng đối diện anh, bất động, trang nghiêm, gương mặt ấn
dưới tấm mạng che. Tay cô giữ chặt một mảnh
vải taỉnỉa màu lam, đang được cô giơ cao lên để tỏ lòng tôn kính với biển xác
chết dưới chân mình. Mùi tử khí nồng nặc khắp nơi.
Hãy
tìm kiểm, người phụ nữ thì thào. Và anh sẽ thấy.
Langdon
nghe thấy những từ ấy như thể người phụ nữ nói ngay trong đầu anh. "Cô là
ai?", anh gọi to, nhưng giọng anh không hề phát thành tiếng.
Thời
gian đang cạn dần, người ấy thì thào. Hãy tìm kiểm và sẽ thấy.
Langdon
nhích một bước về phía sông, nhưng anh nhìn thấy rõ nước đỏ như máu và quá sâu,
không thể lội qua. Khi Langdon ngước mắt nhìn lại người phụ nữ che mạng thì
những xác người dưới chân cô đã nhân lên vô khối. Giờ có đến cả trăm, có khi
hàng nghìn, một số vẫn còn sống, đang quằn quại trong đau đớn, chị
đựng
những cái chểt không dễ gì nghĩ ra được... bị lừa thiêu đốt, bị vùi lấp trông
phân thối, xâu xé lẫn nhau. Anh có thể nghe rõ những tiếng kêu thảm thỉểt của
con người vang vọng trên mặt nước.
Người
phụ nữ tiến về phía anh, chìa hai cánh tay mảnh mai như thể đang cầu xỉn sự
giúp đỡ.
"Cô
là ai?", Langdon lại gọi to
Đáp
lại, người phụ nữ giơ tay và từ từ gỡ tấm mạng khỏi mặt mình. Bà ấy đẹp mê hồn,
nhưng già hơn Langdon hình dung - có lẽ đã ngoài sáu mươi, oai nghiêm và rắn
rỏi, giống nnư một bức tượng không nhuốm màu thời gian. Bà ấy có cái cằm cương
nghị, đôi mắt sâu thẳm có hồn, và mái tóc bạc dài với những lọn quăn buông xõa
xuống bờ vai. Cổ bà ấy đeo một miếng bùa bằng lam ngọc hình một con rắn quấn
quanh cây quyền trượng.
Langdon
có cảm giác mình đã biểt bà ấy... tin tưởng bà. Nhưng bằng cách nào? Tại sao
lại như vậy?
Lúc
này bà ấy chỉ tay vào một đôi chân đang giãy giụa, thò ngược lên từ dưới đất,
rõ ràng là chân của một sinh lỉnh bất hạnh nào đó bị chôn ngược đầu tới tận
thắt lưng. Phần đùi tái nhợt của người đó có một con chữ duy nhất - vỉểt bằng
bùn -
R
ư? Langdon ngẫm nghĩ, đầy phân vân. Giống như trong... Robert ư? "Không lẽ
đó là... mình?"
Gương
mặt người phụ nữ không hé lộ gì cả. Hãy tìm và sẽ thấy, bà ấy nhắc lại.
Không
hề báo trước, người bà ấy bắt đầu tỏa ra một thứ ánh sáng màu trắng... càng lúc
càng sáng hơn. cả cơ thể bà bắt đầu rung lên dữ dội, và sau đó, kèm theo một
tiếng nổ lớn, bà vỡ tan thành cả nghìn mảnh ánh sáng.
Langdon
hét lên, choàng tỉnh.
Căn
phòng sáng trưng. Chỉ có mình anh. Mùi cồn y tể nồng gắt trong không khí và đâu
đó có tiếng máy phát ra những âm thanh trùng khớp với nhịp tỉm của anh. Langdon
cố gắng nhúc nhích cánh tay phải, nhưng một cơn đau nhói khiển anh đành thúc
thủ. Anh nhìn xuống phía dưới và thấy một ống truyền dính chặt lấy lớp da cánh
tay mình.
Mạch
anh đập rộn, và cỗ máy cũng giữ đúng nhịp, phát ra những tiếng kêu nhanh hơn.
Mình
đang ở đâu thể nhỉ? Có chuyện gì không biết?
Gáy
Langdon nhói lên một con đau buốt. Rất cấn thận, anh đưa cánh tay còn lại chạm
vào mặt mình, cố gắng định vị nguồn gốc cơn đau đầu. Bên dưới mái tóc rối bù,
anh sờ thấy những nốt u cứng ngắt của hàng chục mũi khâu đã đóng vảy vì máu
khô.
Anh
nhắm mắt, cố gắng nhớ lại vụ tai nạn.
Không
nhớ được gì cả. Trống rỗng hoàn toàn.
Nghĩ
đi.
Chỉ
có bóng tối mịt mùng.
Một
người đàn ông mặc đồ thanh trùng bước vội vào, chắc chắn vì thấy màn hình cảnh
báo nhịp tỉm đập nhanh của Langdon. ông ấy có bộ râu dày, ria cũng rậm, và đôi
mắt dịu dàng toát ra vẻ điềm tĩnh ân cần bên dưới đôi lông mày rậm.
"Đã
có chuyện., gì vậy?", Langdon gắng gượng. "Tôi bị tai nạn à?"
Người
đàn ông râu rặm đưa một ngón tay lên môi và sau đó chạy vội ra ngoài, gọi một
ai đó dưới sảnh.
Langdon
xoay đầu, cử động đó gây ra một cơn đau nhói lan khắp người anh. Anh hít mấy
hơi thật sâu để cơn đau dịu đi. Sau đó, rất nhẹ nhàng và cấn thận, anh quan sát
không gian vô trùng xung quanh mình.
Căn
phòng bệnh viện này có một giường đơn. Không hoa hòe gì cả. Không bảng hiệu,
Langdon nhìn thấy quần áo mình trên chiếc bàn quầy gần đó, gấp gọn trong một
túi nhựa trong. Tất cả đều dính máu.
Chúa
ơi. Chắc chắn là rất tệ.
Giờ
Langdon chậm rãi xoay đầu về phía ô cửa sổ cạnh giường. Bên ngoài trời tối om.
Đang đêm. Tất cả những gì Langdon có thể nhìn thấy trên kính là hình phản
chiểu
của anh - một kẻ xa lạ nhợt nhạt, xanh xao và mệt mỏi, người đầy ống và dây
nhợ, xung quanh là các thiết bị y tể.
Có
tiếng nói tiến lại gần trong hành lang, và Langdon đưa mắt trở lại căn phòng.
VỊ bác sĩ đã quay lại, đi cùng với một người phụ nữ.
Cô
ấy có vẻ như mới ngoài ba mươi một chút. Cô mặc bộ đồ thanh trùng màu xanh da
trời và buộc gọn mái tóc vàng thành một túm đuôi ngựa đung đưa sau gáy theo
nhịp chân của cô.
"Tôi
là bác sĩ Sỉenna Brooks", cô nói, nhìn Langdon mỉm cười ngay khi vừa bước
vào. "Tôi sẽ làm việc cùng bác sĩ Marconi tối nay."
Langdon
yểu ớt gật đầu.
Cao
ráo và uyển chuyển, bác sĩ Brooks di chuyển với dáng vẻ dứt khoát của một vận
động viên. Ngay cả khi trong bộ đồ thanh trùng kì cục, ở cô vẫn toát lên vẻ
thanh thoát, thướt tha. Mặc dù Langdom có thể thấy rõ là cô không hề trang điểm
nhưng nước da của cô vẫn có vẻ mịn màng lạ thường, với khỉểm khuyết duy nhất là
một nốt ruồi duyên nhỏ xíu ngay phía trên môi. Đôi mắt cô, dù có màu hạt dẻ dịu
dàng, dường như sắc sảo đến kỳ lạ, như thể chúng từng chứng kiến nhiều trải
nghiệm mà một người trạc tuổi cô hiểm có dịp được tao ngộ.
"Bác
sĩ Marconi không nói được nhiều tiếng Anh", cô lên tiếng và ngồi xuống
cạnh anh. "Và ông ấy đề nghị tôi giúp điền mẫu đơn nhập viện cho
anh." Cô lại mỉm cười.
"Cảm
ơn cô", Langdon rên ri.
"Được
rồi", cô lên tiếng, giọng toát lên sự tháo vát ân cần. "Tên anh là gì
nhỉ?" Anh phải mất một lúc mới trả lời được: "Robert...
Langdon".
Co
rọi đèn soi vào mắt anh. "Nghề nghiệp?"
Thông
tin này được đưa ra còn chậm hơn nữa. "Giáo sư. Lịch sử nghệ thuật... và
biểu tượng học. Đại học Harvard."
Bác
sỉ Brooks hạ đèn xuống, vẻ ngạc nhiên. Vị bác sĩ với đôi mày rậm trông cũng bất
ngờ không kém.
"Anh
là... người Mỹ à?"
Langdon
ngơ ngác nhìn cô.
"Chỉ
là...", cô ngập ngừng. "Tối qua lúc anh đến đây, anh không hề có giấy
tờ tùy thân. Lúc ấy anh mặc đồng phục Harris Tvveed và đi giày lười hiệu
Someset, cho nên chúng tôi đoán anh là người Anh."
"Tôi
là người Mỹ", Langdon quả quyết với cô, nhưng anh quá mệt không thể giải
thích được rằng anh rất chuộng quần áo may đo riêng.
"Anh
có thấy đau chỗ nào không?"
"Ở
đầu tôi", Langdon đáp, cái đầu vẫn đang nhoi nhói của anh gặp ánh đèn rọi
sáng
quắc càng thêm khó chịu. May thay, bác sĩ Brooks bỏ đèn vào túi, cầm lấy cổ tay
Langdon và kiểm tra mạch đập.
"Lúc
tỉnh lại, anh la hét dữ dội", cô nói. "Anh có nhớ tại sao
không?"
Langdon
vụt nhớ lại hình ảnh kỳ quái về người phụ nữ đeo mạng với những xác người quằn
quại xung quanh. Hãy tìm và sẽ thấy. "Tôi gặp một cơn ác mộng."
"Như
thế nào?"
Langdon
kể lại cho cô nghe.
Nét
mặt của bác sĩ Brooks vẫn thản nhiên khi cô ghi chép trên kẹp hồ sơ. "Anh
có nghĩ được điều gì gợi ra một hình ảnh khinh khủng như vậy không?"
Langdon
lục lại ký ức rồi lắc đầu, động tác ấy khiển anh đau nhói như bị búa nện.
"Được
rồi, anh Langdon", cô nói, vẫn hý hoáy viết, "Có vài câu hỏi thông
thường dành cho anh. Hôm nay là thứ mấy trong tuần rồi?".
Langdon
nghĩ một lúc. "Thứ bảy. Tôi nhớ lúc sớm hôm nay mình đang đi bộ qua khuôn
viên,chuấn bị có một loạt tiết giảng buổi chiều... đó là điều cuối cùng tôi nhớ
được. Tôi bị ngã phải không?"
"Chúng
ta sẽ nói sau. Anh có biết mình đang ở đâu không?"
Langdon
cố phán đoán. "Bệnh viện Đa khoa Massachusetts
phải không?"
Bác
sỉ Brooks lại ghi chép: "Và chúng tôi có cần gọi ai đó cho anh không? vợ?
Hoặc con cái?"
"Không
có ai cả", Langdon đáp lại theo bản năng. Anh luôn thích sự tĩnh mịch và
độc lập mà mình có nhờ lựa chọn cuộc sống độc thân, mặc dù anh phải thừa nhận
rằng, trong tình huống hiện tại, anh thèm có được một gương mặt quen thuộc ở
bên cạnh. "Tôi có thể gọi cho một vài đồng nghiệp, nhưng tôi ổn mà."
Bác
sỉ Brooks ngừng ghi chép, và vị bác sĩ lớn tuổi hơn tiến lại gần. ông ấy vuốt
vuốt đôi mày rầm về phía sau, móc từ trong túi một chiếc máy ghi âm nhỏ và đưa
cho bác sĩ Brooks. Cô gật đầu hiểu ý và xoay lại phía bệnh nhân của mình.
"Anh
Langdon, tối nay khi anh đến đây, anh cứ lấm bẩm nhắc đi nhắc lại một điều gì
đó." Cô liếc nhìn bác sỉ Marconi đang giơ chiếc máy ghi âm kỹ thuật số ra
và bấm nút.
Một
đoạn ghi âm bắt đầu chạy, và Langdon nghe thấy giọng nói nhát gừng của minh,
lặp đi lặp lại cùm từ: "Rất... xỉn lỗi. Rất... xỉn lỗi."
"Theo
tôi nghe", người phụ nữ nói, "giống như anh đang nói "Rất xỉn
lỗi. Rất xỉn Langdon tán thành, nhưng anh lại không hề nhớ gì về chuyện đó.
Bác
sỉ Brooks đăm đăm nhìn anh với ánh mắt cực kỳ đáng ngại. "Anh có ý tưởng
gì về lý do tại sao anh lại nói câu này không? Anh xỉn lỗi vì điều gì đó
chăng?"
Khi
Langdon lục lại những chỗ tối nhất trong ký ức của mình, anh lại nhìn thấy
người phụ nữ che mạng. Bà ấy đang đứng trên bờ một con sông đỏ máu với những
xác người xung quanh. Mùi tử khí quay trở lại.
Bỗng
nhiên Langdon thấy ngập trong một cảm giác rất bản năng về sự nguy hiểm...
không chỉ cho chính anh... mà cho tất cả mọi người. Tiếng máy theo dõi nhịp tỉm
của anh tăng vọt. Các cơ trong người anh cứng lại, và anh gắng ngồi dậy.
Bác
sỉ Brooks vội ấn mạnh tay lên ức Langdon, ép anh nằm xuống. Cô liếc nhanh về
phía vị bác sĩ râu rặm lúc này đang bước về phía cái bàn quầy kể bên và bắt đầu
chuẩn bị thứ gì đó.
Bác
sỉ Brooks ghé sát người xuống Langdon, thì thào. "Anh Langdon, tâm lý lo
lắng là chuyện rất bình thường với những ca chấn thương não, nhưng anh cần giữ
cho mạch đập giảm xuống. Đừng cử động. Đừng kích động. Hãy nằm yên và nghĩ
ngơi. Anh sẽ ổn thôi. Trí nhớ của anh sẽ dần dần hồi phục."
Giờ
vị bác sĩ kia quay lại cùng một ống tiêm và trao cho bác sĩ Brooks. Cô bơm toàn
bộ số thuốc bên trong vào ống truyền của Langdon.
"Chỉ
là một liều an thần nhẹ để anh bình tĩnh lại", cô giải thích, "Và
cũng để giảm đâu nữa". Cô đứng lên. "Anh sẽ ổn thôi, anh Langdon. Hãy
ngủ đi. Nểu anh cần gì, hãy bấm cái nút bên cạnh giường."
Cô
tắt đèn và rời đi cùng với bác sĩ râu rậm.
Trong
bóng tối, Langdon cảm nhận rõ chất thuốc đang ngấm qua cơ thể anh gần như ngay
tức thì, kéo thân xác anh chìm trở lại cái giếng sâu mà anh vừa ngoi lên. Anh
cố chống lại cảm giác đó, cố mở to mắt trong bóng tối của căn phòng. Anh gắng
ngồi dậy, nhưng có cảm giác cơ thể mình giống như cả khối xỉ măng.
Khỉ
nhúc nhích, Langdon lại thấy mình nhìn ra ô cửa sổ. Đèn đóm đã tắt cả, và trong
ô kính tối đen, hình ảnh phản chiểu của anh đã biển mất, thay vào đó là đường
chân trời sáng lên phía xa.
Xen
giữa những chóp nhọn và mái vòm nhấp nhô, nối bật trong tầm nhìn của Langdon là
một mặt nền tráng lệ. Tòa nhà là một pháo đài đá rất uy nghi với lan can hình
chữ V và ngọn tháp cao đến gần trăm mét phình ra ở gần đỉnh, tạo thành một khối
đồ sộ có lỗ châu mai.
Langdon
ngồi thẳng dậy trên giường, cơn đau như nổ tung trong đầu anh. Anh gắng nén cơn
đau giần giật dữ dội và đăm đăm nhìn ngọn tháp.
Langdon
biết rất rõ công trình trung cổ này.
Nó
là thứ độc nhất vô nhị trên thể giới.
Tiếc
thay, nó còn nằm cách xa Massachusetts
tới bốn nghìn dặm.
Bên
ngoài, cửa sổ phòng anh, ấn kín trong bóng tối của tòa nhà Via Torregalli(4),
một phụ nữ có vóc dáng khỏe mạnh thong dong đấy chiếc mô tô BMW tiến tới với sự
tập trung cao độ của một con beo đang rình mồi. Ánh mắt của ả sắc lạnh. Mái tóc
cắt ngắn kiểu đầu đinh của ả nối bật trên phần cổ áo dựng ngược của bộ đồ lái
xe bằng da đen. Ả kiểm tra lại vũ khí giảm thanh của mình, và chăm chú nhìn lên
ô cửa sổ nơi ánh đèn Robert Langdon vừa tắt.
Chập
tối nay, nhiệm vụ ban đầu của ả đã thất bại thảm hại.
Tiếng
gù của một con bồ câu lẻ đàn đã làm thay đối mọi việc.
Giờ
ả đến để giải quyết mọi thứ cho êm đẹp.
(4)Biệt
thự Torregalli (hay lâu đài Torre Galli) là một phần của hệ thống pháo đài ở
vùng Soffiano, thuộc gia tộc Nerli. Đến thế kỷ 17, quyền sở hữu thuộc về gia
tộc Galli và đến năm 1868, nơi này trở thành tài sản của Paolo Gentile
Farinola, người cho xây lại các phần tường có lỗ châu mai theo phong cách Trung
cổ. Năm 1991, nó được công nhận là di tích lịch sử nghệ thuật và hiện nằm trong
chế độ công quản.
Chương 2:
Mình
đang ở Florence
ư!?
Đầu
Robert Langdon đau như búa bổ. Lúc này anh đang ngồi thẳng trên chiếc giường
bệnh, liên tục nhấn nút gọi bác sĩ. Bất chấp số thuốc an thần trong cơ thể, tim
anh vẫn đập rộn.
Bác
sĩ Brooks vội vã chạy vào, túm tóc đuôi ngựa của cô đung đưa “Anh ổn chứ?”
Langdon
lắc đầu đầy hoang mang. “Tôi đang ở…Ý à?”
“Tốt
rồi”, cô nói. “Anh đang dần nhớ lại.”
“Không!”
Langdon chỉ tay ra ngoài cửa sổ về phía tòa lâu đài uy nghi phía xa. “Tôi nhận
ra cung điện Vecchio.”
Bác
sĩ Brooks bật đèn sáng trở lại, và đường chân trời của Florence biến mất. Cô đến bên giường anh, dịu
dàng nói khẽ. “Anh Langdon, không cần phải lo lắng như vậy. Anh đang tạm thời
bị mất trí nhớ, nhưng bác sĩ Marconi khẳng định chức năng não bộ của anh vẫn
ổn.”
Vị
bác sĩ rậm râu cũng chạy xộc vào, rõ ràng ông cũng nghe thấy tiếng nút gọi. Ông
kiểm tra máy theo dõi nhịp tim của Langdon trong khi đó nữ bác sĩ trẻ nói liến
thoắng với ông bằng thứ tiếng Ý rất trôi chảy, hình như về việc Langdon đã “
kích động “ như thế nào khi biết mình ở Ý …
Kích
động ư? Langdon giận dữ nghĩ thầm. Chết sững thì đúng hơn! Andrenalin trào dâng
trong cơ thể anh lúc này đang đối chọi với thuốc an thần. “Có chuyện gì xảy ra
với tôi?”, anh gặng hỏi. “Hôm nay là thứ mấy?”
“Mọi
thứ đều ổn”, cô đáp. “Mới rạng sáng. Thứ Hai, ngày Mười tám tháng Ba.”
Thứ
hai.
Langdong
cố ép bộ óc đang đau nhói tua lại hình ảnh cuối cùng anh có thể nhớ ra - lạnh
lẽo và tăm tối bước đi một mình qua khuôn viên Harvard để tới buổi giảng bài
tối thứ Bảy. Tức là đã hai ngày trước ư?! Một cơn đau nhức buốt hơn níu chặt
lấy Lanqdon khi anh cố nhớ lại bất kỳ chi tiết nào kể từ buổi lên lớp hoặc sau
đó. Chẳng nhớ được gì. Tiếng máy theo dõi nhi.p tim của anh tăng nhanh.
Vị
bác sĩ lớn tuổi gãi gãi chòm râu và tiếp tục điều chỉnh thiết bị trong khi bác
sĩ Brooks ngồi xuống bên cạnh Langdon.
"Anh
sẽ ổn thôi", cô trấn an anh, giọng rất dịu dàng. "Chúng tôi chấn đoán
anh bị suy yếu ký ức cũ, một chứng rất phố biến khi bị chấn thương vùng đầu. Ký
ức về vài ngày qua của anh có thể lộn xộn hoặc biến mất, nhưng anh không hề bị
tổn thương nào vĩnh viễn." cô ngừng lại. "Anh có nhớ được tên tôi
không? Tôi đã nói với anh lúc tôi mới vào đây."
Langdon
nghĩ một lúc, "Sỉenna". Bác sĩ Sỉenna Brooks.
Cô
mìm cười. "Thấy không? Anh đã hình thành trí nhớ mới." cơn đau đầu
khiến Langdon gần như không chịu nổi, và tầm nhìn rất gần của anh vẫn mờ nhòa.
"Có chuyện gì...vậy? Làm thế nào tôi đến được đây?"
"Tôi
nghĩ anh nên nghỉ ngơi, và có lẽ..."
"Làm
sao tôi đến được đây?", anh gặng hỏi, máy theo dõi nhịp tim càng nhanh
thêm.
"Được
rồi, hãy thở đều nào", bác sĩ Brooks nói, trao đối với đồng nghiệp cái
nhìn lo lắng. "Tôi sẽ nói với anh." Giọng cô trở nên nghiêm túc thấy
rõ. "Anh Langdon, ba giờ trước, anh lảo đảo bước vào phòng cấp cứu, trên
đầu có một vết thương đang chảy máu, và anh ngã gục ngay lập tức. Không có người
nào biết anh là ai hay làm cách nào anh tới được đây. Anh cứ lầm bầm bằng tiếng
Anh cho nên bác sĩ Marconi đề nghị tôi hỗ trợ. Tôi từ Anh tới đây nghỉ
phép."
Langdon
cảm thấy như thể mình vừa tỉnh lại trong một bức tranh của Max Emst*. Mình làm
quái gì ờ Ý chứ? Thông thường Langdon vẫn tới đây vào mỗi dịp tháng Sáu để dự
một hội thảo về nghệ thuật, nhưng giờ mới là tháng Ba.
(*
Max Emst: ( 1891-1976 ) là họa sĩ, nhà điêu khắc và là nhà thơ người Đức. ỏng
được coi làmột trong những nhà tiên phong của phong trào Dada vàchủ n ghĩa siêu
thực.)
Thuốc
an thần giờ có tác dụng mạnh hơn, và anh cảm thấy như thế lực hút trái đất đang
tăng dần lên theo từng giây, ghìm chặt anh xuống tấm đệm. Langdon cố cưỡng lại,
ngấng cao đầu, gắng giữ tỉnh táo.
Bác
sĩ Brooks nghiêng người về phía anh, như một thiên thần che chắn. "Nào,
anh Langdon", cô thì thầm. " Chấn thương đầu rất nhạy cảm trong vòng
hai mươi tư giờ đầu tiên. Anh cần nghỉ ngơi, hoặc anh sẽ bị chấn thương nghiêm
trọng đấy."
Đột
ngột có tiếng nói lại xạo vang lên trong hệ thống liên lạc của căn phòng.
"Bác sĩ Marconi?"
Vị
bác sĩ có râu nhấn một chiếc nút trên tường và trả lời, "vâng?".
Giọng
trong hệ thống liên lạc nói bằng tiếng Ý rất nhanh. Langdon không thể nghe được
họ nói gì, nhưng anh nhìn thấy hai vị bác sĩ trao đổi một cái nhìn đầy ngạc
nhiên. Hay báo nguy chăng?
"Chờ
chút", Marconi đáp, kết thúc cuộc trò chuyện.
"Có
chuyện gì vậy?", Langdon hỏi.
Đôi
mắt của bác sĩ Brooks dường như hơi nheo lại một chút. "Nhân viên lễ tân
bộ
phận
chăm sóc đặc biệt ấy mà. Có người tới thăm anh."
Một
tia hi vọng rọi qua trạng thái chếnh chóng của Langdon. "Tin vui đấy! Có
lẽ người này biết chuyện gì đã xảy ra với tôi."
Trông
Brooks không chắc chắn lắm. "Hơi lạ là lại có ai đến đây. Chính chúng tôi
còn không thể biết tên anh, và thậm chí anh còn chưa được đăng kí vào hệ
thống."
Langdon
cố chống chọi lại tác dụng của các loại thuốc giảm đau và loay hoay tìm cách
ngồi thắng lại trên giường. "Nếu có ai đó biết tôi ờ đây, nhất dịnh người
đó phải biết đã có chuyện gì xảy ra!"
Bác
sĩ Brooks liếc nhìn bác sĩ Marconi, ông lập tức lắc đầu và liếc đồng hồ đeo
tay. Cô quay lại phía Langdon.
"Đây
là khoa chăm sóc đặc biệt", cô giải thích. "Không ai được phép vào,
sớm nhất cũng phải tới 9 giờ sáng. Một lát nữa bác sĩ Marconi sẽ ra xem vị khách
kia là ai và người đó muốn gì."
"Thế
còn điều tôi muốn thì sao?", Langdon vặn hỏi.
Bác
sĩ Brooks kiên nhẫn mìm cười và hạ giọng, cúi xuống sát hơn. "Anh Langdon,
có vài việc trong tối nay mà anh chưa biết...liên quan đến chuyện xảy ra với
anh. Và trước khi anh trò chuyện với bất kỳ ai, tôi nghĩ tốt hơn cả là anh nên
có đầy đủ mọi dữ kiện. Rất tiếc tôi không nghĩ là anh đã đủ khỏe mạnh
để..."
"Dữ
kiện gì cơ?", Langdon thắc mắc, cố nhòm dậy thêm. Đường ống truyền dịch
trên cánh tay anh nhói lên, và cơ thể anh ngã vật xuống như thể nặng đến vài
trăm cân. "Tất cả những gì tôi biết là tôi đang nằm trong một bệnh viện ờ Florence và xuất hiện
trong khi lặp đi lặp lại mấy chữ "rất xin lỗi...""
Một
ý nghĩ đáng sợ vụt hiện ra trong tâm trí anh.
"Hay
là tôi phải chịu trách nhiệm trong một vụ tai nạn xe hơi?", Langdon hỏi.
"Tôi làm ai đó bị thương à?!"
"Không,
không", bác sĩ Brooks đáp, "Tôi không nghĩ vậy!"
"Vậy
thì chuyện gì đây?", Langdon cố nài, nhìn cả hai vị bác sĩ đầy giận dữ.
"Tôi có quyền được biết chuyện gì đang xảy ra!"
Im
lặng kéo dài, và cuối cùng bác sĩ Marconi miễn cưỡng gật đầu với cô đồng nghiệp
trẻ trung quyến rũ. Bác sĩ Brooks thở hắt ra và tiến lại sát bên giường của anh
hơn. "Được rồi, đế tôi kể lại cho anh những gì tôi biết..., và anh cần
lắng nghe một cách bình tĩnh, được chứ?"
Langdon
gật mạnh khiến một cơn đau buốt lan khắp đầu anh. Anh không quan tâm lắm mà
chăm chú chờ nghe câu trả lời.
"Vấn
đề đầu tiên là thế này...vết thương ờ đầu anh không phải do một vụ tai nạn gây
ra."
"Tốt
quá, nhẹ cả người."
"Không
đơn giản thế đâu. Thực tế, vết thương của anh là do một phát đạn."
Màn
hình theo dõi nhi.p tim của Langdon nhảy nhanh hơn, "Xỉn lỗi tôi nghe
không rõ!"
Bác
sĩ Brooks nói điềm tĩnh nhưng nhanh gọn. "Một viên đạn sượt qua đình đầu
anh và chắc chắn khiến anh bị chấn động. Rất may mắn là anh còn sống. Chì thấp
xuống một phân nữa thì..." Cô lắc đầu.
Langdon
đăm đăm nhìn cô vẻ không tin. Có ai đó bắn mình ư?
Phòng
đợi vang lên những tiếng đôi co đầy giận dữ. Có vẻ như ai đó thăm Langdon không
muốn phải chờ đợi. Gần như ngay lập tức, Langdon nghe thấy ờ đầu kia hành lang
có tiếng cánh cửa nặng nề bật tung. Anh cố nhìn cho tới khi thấy một bóng người
đang tiến dần tới trong hành lang.
Người
phụ nữ đó mặc toàn đồ da đen. Dáng cô ta rắn chắc và khỏe khoắn với kiểu đầu
đinh. Cô ta di chuyển rất thư thái, cứ như thể đôi chân không hề chạm đất, và
cô ta nhắm thắng về phía phòng của Langdon.
Không
chút do dự, bác sĩ Marconi bước qua cừa hành lang để chắn lối đi của vị k hách.
"Dừng lại!", người đàn ông ra lệnh, bàn tay vươn ra như một viên cảnh
sát.
Kẻ
lạ mặt vẫn không hề chùn bước, rút ra một khấu sung giảm thanh. Ả nhắm thắng
vào ngực bác sĩ Marconi và nã đạn.
Có
tiếng gió rít.
Langdon
kinh hãi chứng kiến khi bác sĩ Marconi lảo đảo bước lùi vào phòng, ngã vật
xuống sàn, tay ôm chặt lấy ngực, chiếc áo choàng trắng của ông đẫm máu.
Chương 3:
Năm
dặm ngoài khơi nước Ý, chiếc du thuyền sang trọng dài hơn bảy mươi mốt mét*
mang tên The Mendacium chạy băng băng qua màn sương trước lúc rạng đông xuất
hiện trên những lớp sóng dập dềnh của biền Adriatic. Phần thân thon của con tàu
được sơn màu xám chì, khiến nó có khí sắc không mãy thân thiện rãt đặc trưng của
một con tàu quân
thõng
đo lường Anh-Mỹ. Để tiện cho độc giả theo dõi, người dịch đã chuyển sang hệ đo
lường tương ứng thông dụng ớ Việt Nam. VD, ở đây là 237 foot tương
đương 71.1m ( 1 foot ~0.3m)
Với
giá hơn 300 triệu đô la Mỹ, con tàu tự hào với đầy đủ tiện nghi thông dụng -
phòng tắm hơi, bể bơi, rạp chiếu phim, tàu ngầm cá nhân, và cả sân trực thăng.
Tuy nhiên, những thứ lặt vặt cần dung hằng ngày của con tàu lại ít được chủ
nhân quan tâm. Vị chủ nhân này nhận con tàu năm năm về trước, sau đó lập tức phá
bỏ hầu hết tiện nghi này để lâp đặt một trung tâm chỉ huy điện tử cấp quân sự
bậc nhất.
Được
kết nối với ba đường truyền vệ tinh chuyên dụng và một loạt trạm tiếp sóng mặt
đãt, phòng điêu khiển trên tàu The Mendacium có đội ngũ nhân viên hơn hai mươi người
- gồm kỹ thuật viên, chuyên gia phân tích, chuyên gia điêu phôi tác chiến họ
sống luôn trên tàu và giữ liên lạc thường xuyên với nhiều trung tâm tác chiến
trên bộ của tổ chức.
Bộ
phận an ninh thường trực trên tàu gồm một đơn vị binh sĩ tinh anh được huấn
luyên bài bản về quân sự, hai hệ thống dò tìm tên lửa, và một kho vũ khí tối
tân và bộ phận nhân viên hỗ trợ khác - đầu bếp, tạp vụ, và phục vụ - nâng tổng
số người trên tàu lên hơn bốn mươi. Thực tế, tàu The Mendacium chính là tòa văn
phòng di động giúp chủ nhân của nó điều hành cả để chế của mình.
Được
các nhân viên xem như "Thị Trưởng", chủ nhân con tàu là một người đàn
ông nhỏ thó với làn da sạm nắng và cặp mắt sâu hoắm, vẻ ngoài không lấy gì đánh
thuê vô cảm, kẻ tiếp tay cho tội ác, tên tay sai của quỳ dữ - nhưng ông ta
không phải là hạng nào trong số này. Đơn giản là Thị trưởng cung cấp cho khách
hàng cơ hội để theo đuổi tham vọng và dục vọng của họ bất chấp hậu quá, còn
việc vốn dĩ con người ai cũng mâc sai lầm thì không phải vãn đề làm ông ta bận
tâm.
Mặc
kệ việc bị người ta chi trích và phản đối, kim chỉ nam đạo đức của Thị trưởng
là một ngôi sao cố định.
-
Ông ta tạo dựng danh tiếng và đế chế của mình dựaa— trên hai nguyên tắc vàng.
Không
bao giở đưa ra lời hứa nếu không thể giữ lời.
Và
không bao giờ nói dối khách hàng.
Chưa
từng.
Trong
sự nghiệp của mình, Thị trưởng chưa bao giờ thất hứa hay vi phạm thỏa thuận làm
ăn. Lời nói của ông ta có thế đem thế chấp Ngân hàng được - một Trong sự nghiệp
của mình, Thị trưởng chưa bao giờ thãt hứa hay vi phạm thỏa thuận làm ăn. Lời
nói của ông ta có thế đem thế chấp Ngân hàng được - một vật bảo đảm tuyệt đối -
và mặc dù chắc chắn có những hợp đồng ông ta lây làm tiếc vì đã thực hiện nhưng
nuõt lời trước những hợp đồng đó chưa bao giờ là lựa chọn của ông ta cả.
Sáng
hôm nay, khi bước ra ban công phòng ngủ trên du thuyên của mình, Thị trưởng
phóng tầm mắt vê —Phía măt hiển đang nổi sóng và cố gắng xua đi mối băn khoăn
đang cuộn lên trong long.
Những quyết định trong quá khứ chính là các
kiến trúc sư cho hiện tại của chúng ta.
Những
quyết định trong quá khứ của Thị trưởng đã giúp ông ta luôn giành thế chủ động
trong bãt kì hoàn cảnh khó khăn nào và thoát ra ở thê thượng phong. Tuy nhiên,
ngày hôm nay, lúc nhìn qua cửa sổ vê phía những ánh đèn của lục địa phía xa,
ông ta lại cảm thây bức bôi lạ thường.
—Một
năm trước cũng trên chính con tàu này ông ta đã có một quyết định mà những dây
mơ rễ má lằng nhằng của nó giờ đây đang đe dọa lật tung mọi thứ ông ta từng xây
dựng. Ta đã đồng ý cung cấp dịch vụ cho nhầm người mãt rồi. Thời điểm đó, Thị
trưởng không có cách nào biết được đều ấy, và lúc này việc tính toán sai lần đó
kéo theo cả chuỗi thách thức chưa từng có, buộc ông ta phải phái một số
đặc vụ ngoại tuyến giỏi nhất của mình
"vào trận", với mệnh lệnh "làm bãt cứ việc gì cần thiết" để
giữ con thuyền đang chao đảo của ông ta không bị lật úp.
Lúc
này, Thị trưởng đang đợi nghe tin từ một đặc vụ rất đặc biệt.
Vayentha,
ông ta nghĩ thầm, nhớ tới hình ánh một chuyên gia đầu đinh rắn rỏi. Vayentha,
người luôn phục vụ ông ta đâu ra đấy cho tới sứ mệnh lần này tôi qua cô ta đã
phạm một sai lầm với những hậu quả kinh khủng. Sáu tiếng qua quả là một cuộc
ganh đua quyết liệt, một nỗ lực tuyệt vọng nhằm tái kiểm soát tình hình.
Vayentha
nói cô ta phạm lỗi chỉ đơn giản là do không may mán - con chim cất tiếng kêu
không đúng lúc.
Tuy
nhiên, Thị trưởng không tin vào may rủi. Mọi việc ông ta làm đều được sắp xếp
để loại bỏ yếu tố ngẫu nhiên và may rủi. Quyền kiểm soát là chuyên môn cùa Thị
trưởng - tiên liệu mọi khả năng dự đoán mọi phản ứng, và nhào nặn thực tiễn
theo đúng kết quả mong muốn, ông ta có hồ sơ không tì vết về những phi vụ thành
công và kín tiếng, cùng một danh sách khách hàng quen thân đáng nể - những tủ
phú, chính trị gia, tộc trưởng Hồi giáo, và thậm chí các nhân viên Chính phủ.
Phía
đông, quầng sáng nhờ nhờ đầu tiên của buổi sớm bắt đầu nuốt chửng những vì sao
thấp nhất ở đường chân trời. Thị trưởng đứng trên sàn tàu và kiên nhẫn đợi
Vayentha thông báo rằng sứ mệnh của cô ta đã tiên triển đúng như kẽ hoạch.
Chương 4:
Trong
khoảnh khắc, Langdon cảm thấy như thể thời gian ngừng lại.
Bác
sĩ Marconi nằm bất động trên sàn, máu tuôn ra từ ngực ông. Langdon cố cưỡng lại
tác dụng của thuốc an thần trong cơ thể, ngước mắt nhìn lên kẻ ám sát đầu đinh
lúc này vẫn đang sải bước ngoài hành lang, băng qua nốt mấy thước cuối cùng để
tiếp cận khuôn cửa bỏ ngỏ vào phòng anh, Khi gần đến ngưỡng cửa, ả nhìn về phía
Langdon và lập tức chĩa vũ khí về hướng anh...nhắm thẳng vào đầu.
Mình
sắp chết, Langdon nhận ra như vậy. ở đây và ngay lúc này.
Một
tiếng đập chát chúa vang lên trong phòng bệnh chật hẹp.
Langdon
giật nảy, chắc chắn anh đã bị va đập, nhưng tiếng ồn đó không phải là tiếng
súng của kẻ tấn công. Thay vào đó, tiếng đập ấy là tiếng đóng cảnh của thép
nặng nề của phòng bệnh khi bác sĩ Brooks lao người vào cửa và xoay ổ khóa.
Đôi
mắt dại đi vì sợ hãi, bác sĩ Brooks lập tức thụp xuống bên cạnh người đồng
nghiệp đẫm máu của mình, cố gắng bắt mạch. Bác sĩ Marconi thổ ra một búng
máu,
tràn dọc từ má xuống bộ râu dày. Rồi ông lả đi.
"Enrico,
đừng! Xin anh!", cô kêu lên.
Bên
ngoài, cả loạt đạn nổ chát chúa nhằm vào lớp vỏ kim loại phía ngoài ô cửa.
Tiếng chuông báo động vang lên khắp hành lang.
Bằng
cách nào đó, cơ thể Langdon hoạt động trở lại, hoảng hốt và đầy bản năng, lấn
át tác dụng của thuốc an thần. Trong lúc lóng ngóng leo ra khỏi giường, một cảm
giác đau như phải bỏng xé qua cánh tay phải của anh. Trong khoảnh khắc, Langdon
nghĩ một viên đạn đã xuyên qua cửa và trúng anh, nhưng khi nhìn xuống, anh nhận
ra cây kim truyền vừa bung khỏi mình. Đường ống nhựa thòi ra từ một cái lỗ trên
cánh tay, và dòng máiu nóng hổi đang chảy ngược ra khỏi ống.
Giờ
thì Langdon hoàn toàn tỉnh táo.
Bác
sĩ Brooks vẫn quỳ sụp bên cạnh xác Marconi, cố bắt mạch cho ông, nước mắt không
ngừng trào ra. Sau đó, như thế có một công tắc vừa nhảy bên trong, cô đứng lên
và quay lại phía Langdon. Vẻ mặt cô biến đổi ngay trước mắt anh, những nét trẻ
trung như đanh lại với tất cả vẻ điềm tĩnh của một bác sĩ cấp cứu dày dạn đang
phải xử lý một tình huống khủng hoảng.
"Theo
tôi", cô ra lệnh.
Bác
sĩ Brooks nắm lấy tay Langdon và kéo anh băng qua phòng. Tiếng súng và tình
trạng hỗn loạn vẫn tiếp tục trong hành lang khi Langdon lảo đảo bước đi trên
đôi chân còn chưa vững. Đầu óc rất tỉnh táo nhưng cơ thế nặng như đeo đá c ủa
anh lại phản ứng rất chậm. Đi nào! Sàn nhà lát đá hoa lạnh ngắt dưới gan bàn
chân, và bộ quần áo bệnh viện mỏng manh không đủ dài để che kín thân hình hổn
1m80. Anh có thế cảm nhận được máu đang trào ra từ cánh tay và chảy xuống bàn
tay mình.
Đạn
vẫn tiếp tục bay tới ổ khóa nặng nề, bác sĩ Brooks đẩy vội Langdon vào một phòng
tắm nhỏ. Cô định vào theo thì chợt dừng lại, nhìn xung quanh rồi chạy trớ lại
phía quầy nhặt lấy chiếc áo hiệu Harris Tweed đẫm máu của anh.
cứ
mặc xác cái áo khoác chết tiệt của tôi đi!
Cô
quay lại, tay khư khư chiếc áo khoác và nhanh nhẹn khóa cửa phòng tắm.
Vừa
lúc, cánh cửa phòng ngoài bật tung.
Cô
bác sĩ trẻ đã nắm quyền kiếm soát. Cô bước vội qua gian phòng tắm nhỏ tới ô cửa
thứ hai, giật tung ra và dẫn Langdon vào phòng hồi sức liền kề. Tiếng súng vang
lên phía sau họ khi bác sĩ Brooks ghé đầu ra ngoài hành lang, nhanh chóng kéo
tay Langdon và lôi anh băng ngang hành lang lọt vào khu vực cầu thang. Cử động
đột ngột làm Langdon chóng mặt, anh cảm thấy có thế bất tỉnh bất kỳ lúc nào.
Mười
lăm giây tiếp theo là tình trạng mờ nhòe...đi xuống cầu thang...trượt chân...
ngầ. Cơn giật giật trong đầu Langdon gần như không thế chịu nổi. Thị lực của
anh lúc này dường như còn mờ nhòe hơn, các cơ bắp rã rời, mỗi cử động đều có
cảm giác như một phản ứng rất chậm trễ.
Và
lúc này khi trời lạnh hẳn lên.
Mình
đã ra ngoài.
Khi
bác sĩ Brooks đẩy anh rời xa khỏi tòa nhà dọc theo một con hẻm tối om, Langdon
giẫm phải thứ gì đó sắc cạnh và ngã chúi xuống, đập mạnh vào vỉa hè. Cô cố gắng
giúp anh đứng dậy, miệng rủa thành tiếng chuyện anh vẫn chịu tác động của thuốc
an thần.
Khi
họ tới gần cuối hẻm, Langdon lại vấp lần nữa. Lần này cô để mặc anh nằm trên
đất, chạy băng ra phố và thét gọi ai đó ớ phía xa. Langdon có thế nhận ra ngọn
đèn màu xanh lục nhòe nhòe của một chiếc taxi đỗ ngay phía trước bệnh viện.
Chiếc xe không hề di chuyến, rõ ràng người lái xe đang say ngủ. Bác sĩ Brooks
hét to và khua khoắng tay. Cuối cùng, đèn pha taxi bật lên và xe chầm chậm lăn
bánh về phía họ.
Trong
hẻm phía sau Langdon, có tiếng cánh cửa bật tung, tiếp theo là tiếng những bước
chân đang tiến đến rất gấp gáp. Anh ngoảnh lại và nhìn thấy cái bóng đem thẫm
đang lao vọt về phía mình. Langdon cố gắng đứng dậy, nhưng cô bác sĩ đầ ôm lấy
anh, đẩy anh vào ghế sau của chiếc taxi hiệu Fiat. Anh buông nửa người trên
ghế, nửa trên sàn xe trong khi bác sĩ Brooks chồm lên, dùng tay giật cho cửa
đóng lại.
Người
tài xế ngái ngủ ngoái lại và trợn mắt nhìn cặp đôi kỳ quặc vừa chen lên xe
mình
- một phụ nữ tóc đuôi ngựa trẻ trung mặc quần áo bác sĩ và một người đàn ông
mặc đồ bệnh nhân với cánh tay chảy máu. Anh ta sắp lên tiếng yêu cầu họ cuốn
xéo ra khỏi xe thì gương bên sườn xe vồ tan. Người phụ nữa mặc đồ da đen chạy
phăm phăm ra khỏi hẻm, tay chĩa súng. Khẩu súng ngắn của ả lại nhả đạn lần nữa
vừa lúc bác sĩ Brooks nhấn đầu Langdon xuống. Cửa sổ sau vỡ tan, mảnh kính rơi
xuống người họ rào rào.
Người
lái xe không cần ai thúc giục thêm. Anh ta đạp mạnh chân ga, chiếc taxi phóng
vọt đi.
Langdon
vẫn trong trạng thái lơ mơ. Ai đó đang tìm cách giết mình ư?
Khi
họ đã ngoặt qua góc đường, bác sĩ Brooks ngồi dậy và nắm lấy cánh tay chảy máu
của Langdon. Đường ống nhựa thò ra từ cái lỗ trên da thịt anh.
"Nhìn
ra ngoài cửa đi", cô ra lệnh.
Langdon
tuân theo. Bên ngoài, những tấm bia mộ ma quái vùn vụt trôi qua trong bóng tối.
Dường như họ đang băng qua một nghĩa địa. Langdon cảm thấy những ngón tay của
cô bác sĩ nhẹ nhàng nắm lấy ống nhựa và sau đó, không hề báo trước, cô giật
mạnh ra.
Một
cơn đau buốt chạy thẳng lên đầu Langdon. Anh cảm thấy mắt mình mờ đi, và sau đó
mọi thứ tối đen.
Chương 5:
Tiếng
chuông điện thoại vang lên khiến Thị trưởng rời mắt khỏi màn sương êm đềm trên
biển Adriatic, ông ta nhanh nhẹn bước vào văn
phòng riêng.
Rất
đúng lúc, ông ta nghĩ, vẻ háo hức chờ đợi tin báo.
Màn
hình máy tính trên bàn làm việc của ông ta chớp chớp bật lên, thông báo rằng
cuộc gọi đến từ một điện thoại mã hóa giọng nói cá nhân hiệu Sectra Tiger XS
của Thụy Điển, đã được gửi lại qua bốn thiết bị tiếp sóng không thể truy ra dấu
vết trước khi kết nối vào tàu của ông ta.
Ông
ta nhấc ống nghe. "Thị trưởng đây", ông ta trả lời, chậm rãi và cấn
trọng. "Nói đi!"
"Tôi
Vayentha đây", giọng bên kia đáp lại.
Thị
trưởng cảm nhận rõ sắc thái bồn chồn khác thường trong ngữ điệu của ả.
Các
đặc vụ hiếm khi trực tiếp nói chuyện với Thị trưởng, và hiếm khi vẫn được làm
việc cho ông ta sau một thất bại giống như tối qua. Tuy nhiên, Thị trưởng đã
yêu cầu một đặc vụ tại đó giúp khắc phục biến cố, và Vayentha là người thích
hợp
nhất cho công việc này.
"Tôi
có tin mới", Vayentha nói.
Thị
trưởng im lặng, cảm nhận của ông ta về ả vẫn nguyên vẹn.
Khi
ả nói, ngữ điệu hoàn toàn vô cảm, thể hiện rõ một cố gắng ở tầm cổ chuyên gia.
"Langdon đã trốn thoát", cô ta nói. "Anh ta có người."
Thị
trưởng ngồi xuống mặt bàn và im lặng một lúc khá lâu. "Hiểu", cuối
cùng ông ta nói. "Tôi cho rằng anh ta sẽ tìm tới cơ quan chức năng sớm
nhất có thể."
Phía
dưới Thị trưởng hai tầng, ở trung tâm kiếm soát an ninh của con tàu chuyên gia
điều phối cao cấp Laurence Knowlton ngồi trong buồng nhận
ra cuộc gọi mã hóa của Thị trưởng đã
chấm
dứt. Anh ta hy vọng tin tốt lành, vẻ căng thăng của Thị trưởng thấy rất rõ suốt
hai ngày qua, và mọi nhân viên điều hành trên tàu đều cảm thấy chắc chắn có một
tác vụ rất quan trọng nào đó đang diễn ra.
Nguy
cơ đang quá cao, và tốt hơn cả là lúc này Vayentha thu xếp ổn thỏa.
Knowlton
đã quen với việc hỗ trợ những kế hoạch được xây dựng kỹ lưỡng, nhưng riêng kịch
bản này lại chẳng đi đến đâu, và Thị trưởng phải đích thân tham chiến.
Chúng
ta đã tiến vào một lãnh thổ chưa có tên trên bản đồ.
Mặc
dù có đến nửa tá nhiệm vụ khác đang được tiến hành trên khắp thế giới, n hưng
tất cả đều do những văn phòng ngoại tuyến khác nhau của Consortium thực hiện,
giúp Thị trưởng và bộ sậu của ông ta trên con tàu The Mendacium rảnh rang tập
trung vào sứ mệnh này.
Khách
hàng của họ đã nhảy lầu tự sát vài ngày trước tại Florence, nhưng Consortium
vẫn còn nợ người đó vô số công việc - những nhiệm vụ cụ thế người ấy đã giao
phó cho tổ chức này bất kế tình hình thế nào - và Consortium lúc nào cũng vậy,
phải tuân thủ mà không được nghi vấn gì cả.
Mình
cũng nhận được mệnh lệnh, Knowlton nghĩ thầm, và hoàn toàn chấp hành. Anh ta ra
khỏi gian buồng lắp kính chống đạn của mình, đi bộ qua mấy buồng nữa - một số
nhìn xuyên qua được, một số lắp kính mờ - nơi các nhân viên tác vụ đang xử lý
các mảng khác nhau của cùng nhiệm vụ này.
Knowlton
bước qua lớp không khí điều hòa của phòng điều khiến chính, gật đầu với tốp kỹ
thuật, và bước vào một khoang nhỏ có lối đi riêng cất giữ hổn chục cái két. Anh
ta mở một cái két và lấy những thứ bên trong ra - lần này, chỉ là một thẻ nhớ
màu đỏ thẫm. Theo miếng giấy ghi nhiệm vụ đính kèm, thẻ nhớ này chứa một tệp
video lớn, vị khách hàng đã chỉ đạo họ chuyến cho các cơ quan truyền thông lớn
vào một thời điếm cụ thế lúc sáng mai.
Việc
gửi tệp ẩn danh vào sáng mai rất đơn giản, nhưng theo quy trình chung cho tất
cả các tệp số hóa, lưu đồ đã đánh dấu tệp này cho mục duyệt lại ngày hôm nay -
hai mươi tư tiếng trước khi gửi - để đảm bảo Consortium có đủ thời gian thực
hiện bất kỳ quy trình giải mã, biên soạn cần thiết nào, hoặc những bước chuẩn
bị quan trọng khác trước khi chuyến tệp vào đúng thời điếm.
Loại
trừ hết mọi may rủi.
Knowlton
quay lại gian buồng trong suốt của mình và đóng cánh cửa kính nặng nề lại, tách
biệt hẳn với thế giới bên ngoài.
Anh
ta bật công tắc trên tường, gian buồng lập tức trở nên mờ đục. Đế đảm bảo tính
bảo mật, tất cả các buồng vách kính trên tàu The Mendacium đều được tạo bằng
loại kính SPD thông minh. Độ trong suốt cửa kính được kiếm soát dễ dàng bằng
cách vận hành hoặc loại bỏ một dòng điện, giúp điều chỉnh thẳng hàng hoặc làm
lộn xộn hàng triệu phân tử hình que nhỏ xíu lơ lửng trong tấm kính.
Chia
thành từng ngăn là một nền tảng trong Consortium.
Chỉ
biết nhiệm vụ của mình. Không chia sẻ gì hết.
Lúc
này, Knowlton ngồi gọn trong không gian riêng, cắm thẻ nhớ vào máy tính và chọn
tệp để bắt đầu công việc thẩm định.
Lập
tức màn hình của anh ta chuyến sang màu đen...và loa bắt đầu phát ra những âm
thanh khe khẽ của nước chảy. Một hình ảnh từ từ xuất hiện trên màn hình...không
có hình dạng xác định và lờ mờ. Từ trong nền tối dần định hình một khung
cảnh...bên trong một hang đá...hay gian buồng rất lớn. Nền không gian đó là
nước, giống như một cái hồ ngầm. Điều rất lạ là nước có vẻ được chiếu sáng...
Trong
khi âm thanh nước chảy vẫn tiếp tục, máy quay bắt đầu lia xuống dưới hà hạ thấp
dần theo chiều dọc, hướng thẳng tới mặt nước được chiếu sáng rồi lao xuyên qua.
Tiếng nước róc rách biến mất, thay bằng tiếng óc ách rất lạ phía dưới. Giờ thì
máy quay đã chìm nghỉm, tiếp tục tiến xuống, di chuyến vài thước trong nước rồi
dừng lại, lấy nét vào phần nền hang phủ đầy bùn đất.
Trên
nền có bắt vít một tấm biến hình chữ nhật bằng titan tỏa ánh sáng lờ mờ.
Tấm
biến có dòng chữ khắc.
TẠI
NƠI NÀY, VÀO NGÀY NÀY,
THẾ
GIỚI THAY ĐỒI MÃI MÃI.
Phần
dưới tấm biến có khắc một cái tên và ngày tháng.
Đó
là tên vị khách hàng của họ.
Ngày
tháng...chính là ngày mai.
Chương 6
Lúc
này Langdon cảm thấy có bàn tay rắn chắc nâng anh dậy...lay anh tỉnh cơn mê rồi
giúp anh ra khỏi taxi. Anh cảm thấy vỉa hè lạnh ngắt bên dưới hai bàn chân trần.
Được
thân hình mảnh mai của bác sĩ Brooks dìu đd, Langdon bước lảo đảo dọc theo lối
đi vắng vẻ giữa hai tòa nhà. Không khí buổi sớm mai làm chiếc áo bệnh nhân của
anh căng phồng, và Langdon cảm thấy lạnh ở những chỗ anh biết lẽ ra không cảm
nhận được.
Thuốc
an thần anh uống khi còn ở bệnh viện khiến cho cả suy nghĩ và thị lực của anh
đều nhạt nhòa, mờ mịt. Langdon cảm thấy như đang ở dưới nước, cố gắng quờ quạng
tìm lối thoát trong một thế giới lờ mờ, nhớp nháp. Bác sĩ Brooks vẫn xốc anh đi
tới, dìu anh bằng một sức mạnh kinh ngạc.
"Cầu
thang", cô nói, và Langdon nhận ra họ đã tới lối vào bên hông một tòa nhà.
Langdon
bám lấy tay vịn và cố lê bước leo lên trong trạng thái chóng mặt, mỗi bước phải
mất một lúc khá lâu. Cớ thể anh nặng trịch. Giờ thì bác sĩ Brooks phải đấy anh.
Khi họ lên được chiếu nghỉ, cô bấm vài con số trên một phím khóa cũ rĩ
sét
và cánh cửa xè xè mở ra.
Không
khí bên trong không ấm hơn là bao, nhưng so với vỉa hè gồ ghề bên ngoài, nền
gạch lát dưới lòng bàn chân anh lúc này giống như tấm thảm mềm. Bác sĩ Brooks
dẫn Langdon tới một thang máy nhỏ và giật mạnh cửa sập, kéo anh vào trong buồng
thang chỉ bằng cố một quầy điện thoại. Không khí bên trong có mùi thuốc lá MS -
một mùi hương ngòn ngọt pha chút đắng thường gặp ở Ý, không khác gì mùi café
esp resso. Thứ mũi đó giúp đầu
óc Langdong tỉnh táo chút ít. Bác sĩ
Brooks nhãn nút, và đâu đó phía trên đầu họ, bánh rầng rệu rạo bắt đầu uể oải
vận hành.
Dịch
chuyển lên trên
Buồng
thang máy lắc lư và rung bần bệt khi kẽo kẹt chạy lên trên. Vì bốn vách chỉ
toàn những tấm kim loại nên Langdon nhìn rõ không gian bên trong đường ống
thang máy lướt đều đều trước mắt. Cho dù vẫn đang trong trạng thái nửa tỉnh nửa
mê, cảm giác sợ hãi muôn thưở của Langdon đối với những không gian khép kín vẫn
nguyên vẹn và rõ rệt.
Đừng
nhìn!
Anh
dựa vào vách, cố gắng lấy lại nhịp thở. Trán anh đau nhói, và khi nhìn xuống
dưới, anh thấy ống tay áo Harris Tvveed của mình được buộc vội vàng quanh cánh
tay giống như một dải băng. Phần còn lại của áo khoác kéo lê phía sau anh, ngay
trên mặt đất, te tua và bẩn thỉu.
Anh
nhắm mắt lại để cố chống chọi với cơn đau như búa bổ ở đầu, nhưng bong tối lại
nhấn chìm anh lần nữa.
Một
hình ảnh quen thuộc hiện ra - người phụ nữ che mạng đẹp như tượng với chiếc bùa
và mái tóc bạch kim tết thành từng lọn quăn. Như lần trước, bà ấy đứng trên bờ
dòng sông máu với những xác người quằn quại vây quanh. Bà nói với Langdon,
giọng nài nỉ.
Hãy
tìm kiếm và sẽ thấy!
Langdon
cảm giác rất rõ ràng là phải phải cứu bà ấy...cứu tất cả bọn họ. Những đôi chân
chống ngược lên trời, đã bị vùi lấp một nửa, cứ lần lượt theo nhau... mềm oặt
xuống.
Bà
là ai? Anh cố gắng gọi trong lặng câm. Bà muốn điều gì?!
Mái
tóc bạch kim bắt đầu lòa xòa bay trong gió nóng rực. Thời gian của chúng ta
đang
cạn dần, bà ấy thì thào, tay chạm vào chiếc vòng cổ có gắn bùa. Rồi đột ngột bà
ấy nổ tung thành một cột lửa chói lòa, lan nhanh qua dòng sông, bao bọc lấy bọn
họ.
Langdon
hét lên, mở choàng mắt ra.
Bác
sĩ Brooks nhìn anh lo lắng, "Sao vậy?"
"Tôi
cứ bị ảo giác!", Langdon kêu lên. "vẫn là cảnh tượng ấy."
"Người
phụ nữ tóc bạc ư? Và toàn những xác chết phải không?"
Langdon
gật đầu, m@ hôi đọng thành giọt trên trán anh.
"Anh
sẽ ổn thôi", cô trấn an anh, mặc dù chính giọng cô cũng run run.
"Những hình ảnh xuất hiện đi xuất hiện lại là điều thường thấy với chứng
mất trí. Chức nầng não bộ giúp sắp xếp và phân loại ký ức của anh nhất thời bị
chấn đổng, và vì thế nó biến mọi thứ thành một hình ảnh duy nhất."
"Không
phải là hình ảnh đẹp đẽ cho lắm", anh nói.
"Tôi
biết, nhưng cho tôi khi anh lành bệnh, trí nhớ của anh sẽ lộn xộn và không
được
sắp xếp - quá khứ, hiện tại và khả năng tưởng tượng sẽ lẫn lộn với nhau. Tình
trạng tương tự cũng xảy ra trong các giấc mơ."
Buồng
thang máy lắc lư rồi dừng lại, và bác sĩ Brooks kéo cánh cửa xếp ra. Họ I ại đi
bộ, lần này dọc một hành lang hẹp, tốl om. Họ đi qua một ô cửa sổ, phía bên
ngoài bong, các nóc nhà tối thẫm ở Florence bắt đầu hiện rõ trong ánh sáng lúc
sắp rạng đông, ở đầu kia hành lang, bác sĩ Brooks quỳ rạp xuống, tìm chìa khóa
bên dưới một chậu cây trồng có vẻ thiếu nước và mở một cánh cửa.
Căn
hộ rất nhỏ, không khí bên trong rõ ràng có sự tương phản giữa mùi nến hương
vanilla và mùi thảm cũ. Đồ đạc và các tác phẩm nghệ thuật trang trí đều giản
tiện ở mức tối đa - cứ như thể được bài trí cho một buổi bán đồ cũ vậy. Bác sĩ
Brooks điều chỉnh bộ ổn nhiệt, và các lò sưởi bắt đầu hoạt động.
Cô
đứng im một lúc và nhắm mắt lại, thở mạnh ra, như để trấn tính. Sau đó cô quay
lại và giúp Langdon vào gian bếp nhỏ giản dị, nđi có chiếc bàn bọc formica và
hai ghế tựa mỏng manh.
Langdon
cố nhích về phía chiếc ghế với hy vọng ngồi xuống đó, nhưng bác sĩ Brooks nắm
lấy cánh tay anh và dung tay kia mở một ngăn kéo tủ. Tủ gần như trống không...bánh
quy giòn, vài gói mỳ ống, một lon Coke, và một chai Nodoz.
Cô
lấy cái chai và đổ sáu viên thuốc vào lòng bàn tay Langdon. "Chất
caffeine", cô nói. "Dành cho những lúc tôi phải làm ca đêm giống như
tối nay."
Langdon
bỏ thuốc vào miệng và liếc nhìn quanh để tìm nước uống.
"Cứ
nhai cả đi", cô nói. "Thuốc sẽ có tác dụng nhanh hơn và giúp khắc chế
thuốc an thần."
Langdon
bắt đầu nhai và ngay lập tức phải nhăn mặt. Thuốc đắng nghét, rõ ràng là nên
nuốt tất tần tật. Bác sĩ Brooks mở tủ lạnh và đưa cho Langdon chai San
Pellegrino còn một nửa. Anh uống luôn một hơi dài đầy biết ơn.
Lúc
này cô bác sĩ tóc đuôi ngựa mới nắm lấy cánh tay phải của Langdon và gd bỏ đoạn
băng gạc buộc tạm bằng áo khoác rồi đặt lên bàn bếp. Sau đó cô cẩn thận kiểm
tra vết thương. Lúc cô nắm lấy cánh tay trần của anh, Langdon cảm nhận rõ hai
bàn tay mảnh mai của cô run run,
"Anh
sẽ sống", cô tuyên bố.
Langdon
hy vọng cô không sao. Anh có thể hiểu được những gì cả hai người vừa phải chịu
đựng. "Bác sĩ Brooks", anh nói, "chúng ta cần gọi cho ai đó.
Lãnh sự...
cảnh
sát. Bất cứ ai".
Cô
gật đầu nhất trí. "Mà này, anh có thể thôi gọi tôi bằng bác sĩ Brooks được
rồi - tên tôi là Sienna".
Langdon
gật đầu. "Tôi tên là Robert." Dường như mối quan hệ họ vừa xây đắp
được trong quá trình trốn chạy để giữ mạng sống đã giúp họ bảo đảm cho việc
tiết lộ tên thật của nhau. "Cô nói cô là người Anh."
"Xét
về dòng máu thì đúng."
"Tôi
không hề nhận ra tí âm sắc nào."
"Vâng",
cô đáp. "Tôi đã phải cố gắng làm mất giọng."
Langdon
định thắc mắc tại sao nhưng Sienna đã ra hiệu cho anh đi theo. Cô dẫn anh theo
một hành lang hẹp tới buồng tắm nhỏ, tối lờ mờ. Nhờ tấm gương phía trên bồn rửa
mặt, Langdon thoáng nhìn thấy được hình ảnh mình, lần đầu tiên kể từ lúc anh
thấy nó trong ô cửa sổ phòng bệnh.
Tệ
quá. Mái tóc đen rậm của Langdon bết lại, còn đôi mắt thì đỏ ngầu và mệt mỏi.
Đám râu ria lởm chởm che kín cả cằm anh.
Sienna
vặn vòi nước và hướng dẫn Langdon đưa cánh tay bị thương vào làn nước lạnh như
đá. Đau buốt, nhưng anh nhăn mặt cố giữ nguyên tay ở đó.
Sienna
lấy một cái khăn rửa mặt còn mới và thấm ít xà phòng sát khuẩn. "Có lẽ anh
nên quay mặt đi."
"Không
sao đâu. Tôi không ngại chuyện..."
Sienna
bắt đầu chà xát rất mạnh, và cơn đâu ghê gớm làm cánh tay Langdon tê dại. Anh
nghiến chặt răng để cố không hét lên phản kháng.
"Anh
không cần tiêm thuốc", cô nói, chà xát mạnh tay hơn. "Thêm nữa, nếu
anh định gọi cho chính quyền, anh sẽ cần cảnh giác hơn lúc này đấy. Không có gì
sản sinh ra adrenalin nhiều bằng cđn đau đâu."
Langdon
cố gắng chịu đựng chà xát trong khoảng mười giây thì buộc phải giật mạnh tay
ra. Đủrồi! Phải thừa nhận, anh cảm thấy khỏe khoắn và tỉnh táo hơn, cơn đau ở cánh
tay anh lúc này hoàn toàn lấn át cơn đau đầu.
"Tốt
rồi", cô nói, tắt vòi nước và thấm khô cánh tay anh bằng một chiếc khăn
sạch. Sau đó Sienna dán một miếng băng gạc lên tay anh, nhưng khi cô làm việc
đó, Langdon phát hiện ra một chi tiết khiến anh bị sao nhãng - một điều khiến
anh rất không vui.
Trong
suốt gần bốn mươi năm, Langdon luôn đeo chiếc đồng hồ Chuột Mickey cổ lỗ sĩ chỉ
dân sưu tầm đồ cổ mới mua, một món quà của ba mẹ anh. Gương mặt mỉm cười và đôi
tay vẫy lia lịa của Mickey luôn là thứ hằng ngày nhắc nhở anh thường xuyên cười
và đón nhận cuộc sống nhẹ nhàng hơn.
"Đồng
hồ...của tôi", Langdon lắp bắp, "Mất rồi!". Không có nó, anh
bỗng thấy thiếu vắng. "Lúc đến bện viện tôi có đeo nó không?"
Sienna
ném về phía anh cái nhìn ngờ vực, rõ ràng thắc mắc tại sao anh lại có t hể lo
lắng về một thứ tầm thường như vậy. "Tôi không nhớ anh có cái đồng hồ nào
cả. Anh lau sạch người đi. Tôi sẽ quay lại sau mấy phút và chúng ta sẽ nghĩ
cách tìm kiếm trợ giúp cho anh". Cô quay đi, nhưng dừng lại ở ngưdng cửa,
nhìn thẳng vào mắt anh trong gương. "Và trong lúc tôi đi, tôi khuyên anh
nên suy n ghĩ xem tại sao lại có người muốn giết anh. Tôi đoán đó sẽ là câu hỏi
đầu tiên chính quyền đặt ra."
"Đợi
đã, cô định đi đâu?"
"Anh
không thể cứ cởi trần như thế mà nói chuyện với cảnh sát được. Tôi sẽ đi tìm
một ít quần áo cho anh. Hàng xóm của tôi cũng bằng cd anh. ông ấy đi vắng, và
tôi cho mèo của ông ấy ăn. ông ấy nợ tôi."
Nói
xong, Sienna bỏ đi.
Robert
Langdon quay lại tấm gương nhỏ phía trên bồn rửa mặt và nhận ra ngay người đang
đăm đăm nhìn lại mình. Có ai đómuốn mình phải chết. Anh lại nghe thấy những
tiếng lầm bầm lúc mê sảng của mình vang lên trong tâm trí.
Rất
xin lỗi. Rất xin lỗi.
Anh
soát lại ký ức để nhớ lại chút gì đó..-bất kỳ điều gì, song chỉ thấy trống
rỗng. Tất cả những gì Langdon biết là anh đang ở Florence và bị một vết thương ở đầu do đạn
bắn.
Lúc
đăm đăm nhìn vào đôi mắt mệt mỏi của chính mình, Langdon lờ mờ tự hỏl liệu có
khi nào anh choàng tỉnh trên chiếc ghế đọc sách ở nhà, chộp lấy một ly martini
đã cạn và quyển Những linh hồn chết, chỉ để nhắc mình nhớ rằng không bao giờ
nên trộn lẫn rượu Bombay Sapphire với Gogol.
Chương 7:
Langdon
lột bỏ chiếc áo choàng bệnh viện loang máu và quấn khăn tắm quanh hông. Sau khi
vả nước lên mặt, anh cẩn thận sờ những mũi khâu ở phía sau đầu. Phần da rất
đau, nhưng khi anh vuốt phần tóc bết lại che lên chỗ đó, vết thương gần như
biến mất. Mấy viên caffeine đang phát huy tác dụng , và cuối cùng anh cảm thấy
màn sương bắt đầu tan.
Nghĩ
xem Robert. Hãy cố nhớ xem!
Buồng
tắm không có cửa sổ đột nhiên giống như một buồng giam kín, Langdon bước ra
hành lang, theo bản năng lần về phía cột sáng tự nhiên phát ra qua một cách cửa
mở hé mé bên kia. Căn phòng giống như một nơi ngồi học tạm bợ, với cái bàn rẻ
tiền, cái ghế quay đã cũ, những quyển sách được phân loại vút trên sàn, và thật
mừng...có cả một ô cửa sổ.
Langdon
tiến về phía có ánh sáng ban ngày.
ở
phía xa, phần mặt trời xứ Tuscany
nhô lên chỉ vừa bắt đầu chạm đến những
ngọn
tháp cao nhất của thành phố đang tỉnh giấc- lầu chuông, tháp Tu viện
Badia,
tháp Bảo tàng Bargello. Langdon tì trán lên ô kính mát lạnh. Không khí tháng Ba
hanh và lạnh, càng làm ánh sáng mặt trời lúc này đã len lỏi đến các sườn đồi
thêm mạnh mẽ.
Ánh
sáng của người họa sĩ, người ta gọi nó như vậy.
ở
trung tâm đường chân trời, một mái vòm khổng lồ lợp ngói đó vươn lên sừng
sững,
trên đỉnh trang trí một quả cầu bằng đồng mạ vàng lóa sáng như đèn hiệu, vương
cung Thánh đường Brunelleschi* đã tạo nên lịch sử kiên trúc bằng
việc
kiên tạo mái vòm khổng lồ của Thánh đường, và giờ đây, hơn năm trăm năm sau,
công trình cao hơn một trăm mười bốn mét ây vẫn đứng vững, một công trình khổng
lồ bất di bất dịch trên nền Quảng trường Nhà thờ lớn - Quảng trường Duomo.
Tại
sao mình lại ở Florence?
*Filippo
Brunelleschi ( 1377- 1446 ) là một trong những kiến trúc sư và kỹ sư hàng đâu
của thời Phục Hưng Ý. ông nôi tiêng nhât với việc phát hiện ra luật xa gần (
phối cánh ) cũng như kiên tạo mái vòm vương cung Thánh đường Florence. Ông cũng có nhiều thành tựu về kiên
trúc, điêu khăc, toán học và cả thiêt kê tàu.
Với
Langdon, một người suốt đời đam mê nghệ thuật Ý, Florence đã trở thành một trong những điểm
đên yêu thích của anh ở châu Âu. Đây là thành phô nơi Michelangelo từng chơi
đùa trên đường phô khi còn nhỏ, và nơi trào lưu Phục Hưng Ý được khởi xướng
trong những xưởng nghệ thuật. Đây là Florence, với những phòng trưng bày thu
hút hàng triệu du khách đên đê chiêm ngưỡng bức Thân Vệ Nữ chào đời của
Botticelli, Li truyền tin của Leonardo, và niềm tự hào của thành phố - bức
tượng David.
Langdon
đã bị bức tượng David của Michelangelo hút hồn ngay lần đầu tiên nhìn thấy tác
phẩm lúc còn niên thiếu...khi bước vào Học viện Mỹ thuật ( Accademia delle
Belle Arti )...chầm chậm đi qua phòng trưng bày Prigioni* tối mờ còn nguyên sơ
của Michelangelo... Và sau đó cảm thấy ánh mắt mình bị kéo lên trên, không
cưõng được, vẽ phía kiệt tác cao hơn năm mét. Vóc dáng hoàn hảo và hệ cơ bắp
tuyệt vời của David khiến hầu hết du khách lần đầu đến thăm đều phải giật mình,
nhưng với Langdon, chính tư thế của David mới là điều khiến anh thấy.
Michelangelo đã phát huy truyền thống tương phản kinh điển để tạo ra ảo giác
rằng David đang nghiêng về bên phải, chân trái gần như không chịu lực, trong
khi thực tế chân trái của tượng lại chống đỡ hàng tấn đá cẩm thạch.
Tượng
David đã thắp lên trong Langdon nhận thức đầu tiên về sức mạnh của nghệ thuật
điêu khắc. Lúc này, Langdon băn khoăn liệu mình có tới thăm kiệt tác này trong
mấy ngày qua, nhưng ký ức duy nhất anh có thể nhớ được là tỉnh dậy trong bệnh
viện và nhìn thấy vị bác sĩ vô tội bị sát hại ngay trước măt mình. Rất xin lỗi.
Rất xin lỗi.
Cảm
giác tội lỗi khiến anh thấy buồn nôn. Mình đã làm gì?
Lúc
đứng bên cửa sổ, tầm nhìn ngoại biên của anh vẫn nhận ra hình dáng một máy tính
xách tay để trên bàn bên cạnh mình. Langdon đột nhiên nhận ra rằng, bất kỳ
chuyện gì xảy ra với anh tối qua cũng đều có thể được đưa tin.
Nếu
có thể truy cập Internet, mình sẽ tìm ra câu trả lời.
Langdon
ngoảnh về phía cửa sổ và gọi to: "Sienna!".
Im
lặng. Cô ây vẫn ở bên căn hộ của ông hàng xóm và tìm kiếm quần áo.
Tin
chắc Sienna sẽ thông cảm cho hành vi xâm nhập máy tính, Langdon mở máy và bấm
nút nguồn.
*Prigioni
( Tù nhân ) là tên gọi gian trưng bày bốn tác phẩm điêu khắc ( Quattro
Prigioni) của Michelangelo, vốn ban đầu được làm cho mộ của Giáo hoàng Julius
II. Sở dĩ có tên gọi này là vì các nhân vật trong tác phâm như đang cố gắng
thoát ra khỏi khối đá cẩm thạch tạc họ. Michelangelo mất khi chưa kịp hoàn
thành chúng, ở đây còn có tượng Thánh Metthew cũng của Michelangelo và các bức
vẽ của những họa sỹ cùng thời với Michelangelo, như Ghirlandaio và Andrea del
Sarto.
Màn
hình nền của Sienna nhấp nháy – vẫn là nền "mây xanh dương" căn bản
của Windows. Langdon lập tức vào trang tìm kiếm Google phiên bản Ý và gõ dòng
chữ Robert Langdon,
Giá
mà sinh viên của mình có thể nhìn thấy mình lúc này, anh nghĩ trong lúc bắt đầu
tìm kiếm. Langdon thường xuyên phê bình sinh viên về việc Google chính bản thân
họ - một trò rỗi hơi kỳ quặc mới cho thấy nỗi ám ảnh về danh tiếng cá nhân hiện
có vẻ thịnh hành trong giới trẻ Mỹ.
Một
trang kết quả tìm kiếm xuất hiện - hàng trăm đầu mục có liên quan đên Langdon,
sách và các bài giảng của anh. Không phải thứ mình tìm kiếm.
Langdon
thu hẹp phạm vi tìm kiếm bằng cách chọn nút thời sự.
Một
trang mới xuất hiện: Kết quả tin tức cho "Robert Langdon".
Ký
tặng sách: Robert Langdon sẽ xuất hiện...
Robert
Langdon xuất bản sách nhập môn vê Biểu tượng cho...
Bản
danh sách dài vài trang, và Langdon chẳng thấy gì gần đây – chắc chắn không có
gì giúp giải thích tình huống khó chịu hiện nay của anh. Chuyện gì xảy ra tối
qua? Langdon tiếp tục truy cập vào trang web The Florentine, một tờ báo tiếng
Anh xuất bản tại Florence.
Anh lướt qua các nhan đề, các mục tin nóng, và chuyên trang của cảnh sát, chỉ
tìm thấy những bài viết về một vụ cháy chung cư, một vụ thụt két Chính phủ, và
những vụ phạm tội vặt đã được sàng lọc.
Chẳng
có gì sao?!
Anh
dừng lại ở đoạn tin nóng về một quan chức thành phố chết vì đột quỵ đêm qua tại
quảng trường bên ngoài nhà thờ lớn. Tên của vị quan chức chưa được công bố,
nhưng cũng chưa có hành động tội ác nào bị tình nghi.
Cuối
cùng, chẳng biết làm gì khác, Langdon đăng nhập vào tài khoản thư điện tử
trường Harvard và kiểm tra tin nhắn, băn khoăn liệu mình có thể tìm được câu
trả lời ở đó hay không. Tất cả những gì anh tìm được là cả chuỗi thư từ các
đồng nghiệp, sinh viên, và bạn bè, rất nhiều thư trong số đó đề cập những cuộc
hẹn gặp trong tuần tới.
Có
vẻ như chẳng có ai biết mình biến mất.
Langdon
tắt máy tính và đóng màn hình lại, tâm trạng càng lúc càng không chắc chắn. Anh
định rời đi thì một thứ đập vào măt. Ở góc bàn của Sienna, trên chồng tạp chí
và tài liệu y khoa cũ, có một bức ảnh chụp lấy ngay. Bức ảnh ghi lại hình ảnh
Sienna Brooks và vị bác sĩ đồng nghiệp có râu của cô đang cười với cô trong một
hàng lang bệnh viện.
Bác
sĩ Marconi, Langdon nghĩ, lòng cảm thấy có lỗi khi anh nhặt tấm ảnh lên xem.
Lúc
đặt tấm ảnh trở lại chồng sách, anh ngạc nhiên nhận ra cuốn sách nhỏ màu vàng
trên cùng - một quyển chương trình biểu diễn đã cũ của Nhà hát Langdon Globe.
Theo tờ bìa, đây là tác phẩm Giấc mộng đêm hè của Shakespeare...được dàn dựng
gần hai mươi lăm năm trước...
Trên
quyển chương trình là một lời nhắn viết tay nguệch ngoạc bằng bút viết bản
Magic Marker: Em yêu, đừng bao giờ quên em là một phép màu.
Langdon
nhặt quyển chương trình lên, và một tập bài báo đã được cắt rời rơi xuống mặt
bàn. Anh vội vàng sắp xếp lại, nhưng khi mở đến trang kẹp tập bài báo, anh sững
lại.
Anh
đăm đăm nhìn bức ảnh chụp diễn viên nhí đóng vai nhân vật tiểu yêu Puck ranh
mãnh Shakespeare. Bức ảnh có hình một bé gái chưa tới năm tuôi, với mái tóc
vàng óng buộc kiêu đuôi ngựa quen thuộc.
Dòng
chữ bên dưới bức ảnh ghi: Một minh tinh ra đời.
Nội
dung bài viết nói về một thần đồng sân khấu - Sienna Brooks - với chỉ số IQ
ngoại hạng, có khả năng ghi nhớ lời thoại của tất cả nhân vật chỉ trong một đêm
và trong những buổi diễn tập đầu tiên, đã thường xuyên nhắc vở cho các diễn
viên khác. Sở thích của cô bé năm tuổi này là đàn vĩ cầm, cờ vua, sinh học và
hóa học. Là con của cặp vợ chồng giàu có sống ở vùng ngoại ô Blackheath của London, cô bé đã nổi danh
trong giới khoa học. Lên bốn tuôi, cô đã đánh bại một đại kiện tướng cờ vua và
còn có khả năng đọc thạo bảng ba thứ tiếng.
Chúa
ơi, Langdon nghĩ. Sienna. Chuyện này giải thích được vài điều đây.
Langdon
nhớ lại một trong những sinh viên đã tốt nghiệp nổi tiếng nhất của Harvard từng
là thần đông có tên Saul Kripke, lúc lên sáu tuổi đã tự học tiếng Do Thái và
đọc được tất cả sách của Descartes khi mới mười hai tuôi. Gần đây hơn, Langdon
nhớ có đọc về một hiện tượng thần đồng khác có tên Moshe Kai Cavalin, người có
bằng đại học với điểm trung bình 4.0, giành danh hiệu quốc gia về võ thuật khi
mới mười một tuổi và xuất bản một cuốn sách nhan đề Chúng ta có thể làm được
lúc mười bốn tuổi.
Langdon
nhặt một bài viết khác lên, bài báo có bức ảnh Sienna lúc bảy tuôi: TIỂU THIÊN
TÀI CÓ IQ 208.
Langdon
không hề biêt rằng chỉ số IQ thậm chí có thể lên cao đến mức đó. Theo bài viết,
Sienna Brooks là một cây vĩ cầm bậc thầy, có thể thành thạo một ngôn ngữ chỉ
trong một tháng, và đang tự dạy mình giải phẫu học, và sinh lý học.
Anh
xem một bài viết khác cắt ra từ một tạp chí y học: TƯƠNG LAI CỦA TƯ DUY: KHÔNG
PHẢI MỌI BỘ ÓC ĐỀU ĐƯỢC TẠO RA GIỐNG NHƯ NHAU.
Bài
viết này có ảnh của Sienna, lúc này có lẽ đã mười tuổi, vẫn là một cô bé tóc
vàng, đứng bên cạng một cỗ máy y tế lớn. Bài viết có cả đoạn phỏng vấn một bác
sĩ, người giải thích rằng các ảnh chụp PET tiểu não của Sienna cho thấy cơ quan
này có cấu tạo khác hẳn những tiểu não khác, trong trường hợp của cô thì đây là
một cơ quan lớn hơn, thon gọn hơn, có khả năng xử lý nội dung, hình ảnh - không
gian theo những cách thức hầu hêt người khác không thể thực hiện được. Vị bác
sĩ cho rằng ưu thế sinh lý học của Sienna là nhờ mức tăng tế bào thần kinh cao
vọt một cách khác thường ở não, giống như một ô ung thư, chỉ khác ở chỗ nó làm
tầng các mô não có ích chứ không phải những tê bào ung thư nguy hiểm.
Langdon
lại tìm được một bài báo từ một tờ báo của thị trấn.
LỜI
NGUYỀN CỦA SỰ KIỆT XUẤT
Lần
này không có bức ảnh nào, nhưng bài viết nói đến một thiên tài nhỏ tuổi, Sienna
Brooks, người đã cố găng theo học ở các trường bình thường nhưng luôn bị các
học sinh khác dè bỉu vì cô không thể thích ứng. Bài viết nói về tình trạng cô
lập mà những thanh niên có tài nhưng các kỹ năng xã hội không tương xứng với
trí thông minh của họ và thường xuyên cảm thấy bị tẩy chay.
Sienna,
theo bài viết này, đã bỏ trốn khỏi nhà năm lên tám tuôi, và đủ thông minh đê tự
sống mà không bị phát hiện suốt mười ngày. Người ta tìm thấy cô bé trong một
khách sạn hạng sang ở London, nơi cô giả vờ là con gái của một vị khách, đánh cắp
được chìa khóa, và đặt phòng bằng tài khoản của người khác. Rõ ràng cô đã có cả
tuần đọc toàn bộ một nghìn sáu trăm trang cuốn Giải phẫu học của Gray. Khi giới
chức hỏi tại sao cô lại đọc những là liệu y khoa đó, cô bảo họ rằng cô muốn tìm
hiểu xem có chuyện gì không ổn với bộ óc của mình.
Trong
lòng Langdon rất có cảm tình với cô gái nhỏ. Anh không thể hình dung nổi một
đứa trẻ cảm thấy cô độc như thế nào vì quá khác biệt như vậy. Anh gấp những bài
báo, dừng lại ngắm bức ảnh Sienna lúc năm tuổi đóng vai Puck. Nghĩ đến cuộc gặp
gỡ siêu thực sáng nay của anh với Sienna, Langdon phải thừa nhận rằng, dường
như cô phù hợp một cách kỳ lạ với vai một tiểu yêu tinh ranh mãnh trong mơ.
Langdon chỉ mong rằng anh, giống như các nhân vật trong vở kịch, lúc này có thể
tỉnh lại và vờ coi như những trải nghiệm gần đây nhất của mình chỉ là một giấc
mơ.
Langdon
cẩn thận sắp xếp tất cả các bài báo về đúng chỗ và gấp quyển chương trình biểu
diễn lại, lòng chợt cảm thấy buồn khi nhìn thấy dòng chữ trên bìa lần nữa: Em
yêu, đừng bao giờ quên em là một phép màu.
Anh
nhìn xuống, biểu tượng quen thuộc trên trang bìa của tập tài liệu. Đó chính là
đồ hình Hy Lạp vẫn thường trang trí ở hầu hêt các cuốn chương trình biểu diễn
trên khắp thế giới - một biểu tượng đã hai nghìn năm trăm tuổi, đồng nghĩa với
sân khấu kịch.
Cặp
đôi mặt nạ bi hài.
Langdon
nhìn hai gương mặt biểu tượng cho Hài kịch và Bi kịch đang đăm đăm nhìn mình,
và đột nhiên anh nghe thây tiêng vo ve rất lạ trong tai - cứ như thê có một
đường dây dãn đang từ từ kéo căng trong óc anh vậy. Một cơn đau chợt bùng lên
trong đâu. Hình ảnh một chiêc mặt nạ bông bênh ngay trước măt anh. Langdon thd
hôn hẽn, giđ tay lên, ngôi xuông chiêc ghê tực và nhăm nghiên măt lại, hai tay
ôm chặt lây đâu.
Trong
vùng tôi của anh, những hình ảnh kỳ quái lại quay cuông trở lại...dữ dội và
sông động.
Người
phụ nữ tóc bạc và chiêc bùa đang gọi anh từ phía bên kia dòng sông máu. Tiêng
kêu tuyệt vọng của bà xuyên qua bâu tử khí, át hắn tiêng kêu của những kẻ bị
hành hạ và đang hâp hôi, những kẻ mà măt anh có thể thây rõ đang cô quẫy đạp
trong đau đớn. Langdon lại nhìn thây đôi chân chông lên trời có vẽ chữ R, cái
xác bị chôn vùi một nửa với đôi chân quãy đạp điên cuông, tuyệt vọng trong
không khí.
Hãy
tìm và sẽ thây! Người phụ nữ nói về phía Langdon. Thời gian đang cạn dần!
Langdon
lại cảm nhận đước nhu cầu khẩn thiết phải giúp đỡ bà ấy...giúp tất cả. Anh
cuống cuồng gọi to về phía người phụ nữ ở bên kia dòng sông máu. Bà là ai?!
Một
lần nữa, người phụ nữ vươn tay vén mạng che, đê lộ gương mặt ấn tượng mà
Langdon đã thấy trước đó.
Ta
là sự sống, bà ấy đáp.
Không
hề báo trước, một cái bóng khổng lồ xuất hiện trên bầu trời phía trên
người
phụ nữ - chiếc mặt nạ đáng sợ với cái mũi chim dài và đôi măt xanh lè dữ dằn
nhìn chòng chọc vào Langdon.
Và...ta
là cái chết, giọng nói vỡ òa.
Chương 8
Langdon mở choàng mắt và hít một hơi thảng thốt.
Anh vẫn ngồi nguyên bên bàn của Sienna, tay ôm đầu, tim đập loạn xạ.
Chuyện quái quỷ quỷ gì đang xảy ra với mình thế
này?
Hình ảnh người phụ nữa tóc bạc và cái mặt nạ có mỏ
cứ lởn vởn trong tâm trí anh. Ta là sự sống. Ta là cái chết. Anh cố gắng xua đi
hình ảnh đó, nhưng có cảm giác như nó đã bám rễ vĩnh viễn vào tâm trí mình.
Trên bàn phía trước mặt, hai cái mặt nạ trên bìa quyển chương trình biểu diễn
đăm đăm nhìn anh.
Trí nhớ của anh sẽ lộn xộn và không được sắp xếp,
Sienna từng nói như vậy.
Quá khứ, hiện tại và khả năng tưởng tương sẽ bị lẫn
lộn với nhau.
Langdon cảm thấy chóng mặt.
Đâu đó trong căn hộ, có tiếng điện thoại đổ
chuông. Đó là tiếng chuông kiểu cũ, lanh lảnh, vọng đến từ gian bếp.
"Sienna!", Langdon gọi to và đứng dậy.
Không có tiếng đáp. Cô ấy vẫn chứa về. Chỉ sau hai hồi
chuông, cơ chế trả lời tự động được kích hoạt.
"Xin chào, Tôi nghe", giọng Sienna nghe đầy
vui vẻ trong tin nhắn trả lời. "Xin
hằy để lại tin nhắn hoặc gọi lại sau."
Có tiếp bíp, và một phụ nữ vẻ hoảng loạn có chất giọng
Đông Âu khá nặng bắt đầu để lại lời nhắn. Giọng bà ấy vang vọng ra tận hành
lang.
Sienna, Danikova đây! Cô ở đâu rồi? Kinh khủng lắm!
Bác sĩ Marconi bạn cô, chết rồi! Bệnh viện đang náo loạn! Cảnh sát đến đây rồi!
Mọi người khai với họ rằng cô chạy ra ngoài và tìm cách cứu bệnh nhân! Tại sao
thế? Cô không hề biết anh ta. Giờ cảnh sát muốn nói chuyện với cô đây! Họ đẫ thấy
hồ sơ nhân vỉên rồỉ biết thông tin trong đó đều sai - địa chỉ sai, không có số
điện thoại, thị thực làm việc giả - cho nên hôm nay họ không tìm ra cô, nhưng rồi
họ sẽ tìm ra đây! Tôi cố gắng báo trước cho cô. Rất tỉếc, Sienna."
Cuộc gọi kết thúc.
Langdon lại cảm thây noi ân hận chiếm ngự lấy anh. Căn
cứ vào lời lẽ của tin nhăn, bác sĩ Marconi, đã cho phép Sienna làm việc tại bệnh
viện. Giờ đây sự xuât hiện của Langdon đầ khiên cho Marconi mât mạng, còn hành
động bản năng cứu một người xa lạ của Sienna đầ dẫn tới những hệ quả nghiệt ngã
cho tương lai của cô.
Đúng lúc đó thì có tiêng cửa đóng mạnh ờ phía bên kia
căn hộ.
Cô ây trở lại rôỉ.
Một lát sau, tiêng mày trả lời tự động được bật lên.
"Sienna, Danikova đây! Cô ờ đâu rỏi?"
Langdon nhăn mặt, biêt rõ nội dung Sienna săp nghe
thây. Trong khi máy bật lại tin nhăn, Langdon nhanh tay cât quyên chương trình
biêu diễn, săp xêp lại mặt bàn. Sau đó, anh luồn qua sách đê trờ lại phòng tăm,
cảm thây bôi rỗi vì đã lờ mờ biêt vê quá khứ của Sienna.
Mười giây sau, có tiêng gỗ nhẹ vào cửa phòng tăm.
"Tôi đê quân áo của anh trên tay năm cửa"
Sienna nói, giọng mang ý trêu chọc. "Cảm ơn cô rât nhiêu" Langdon
đáp.
"Khi nào xong, anh ra ngoài bêp nhé" cô nói
tỉêp. "Có thứ rât quan trọng Tôi cân cho anh xem trước khi chúng ta gọi
cho ai đó."
Sienna mệt mỏi lân qua sảnh vê gian buông ngủ giản dị
trong căn hộ. Cô lây từ tủ quần áo chiêc quân jeans xanh và áo len, mang tât cả
vào buông tăm riêng.
Đăm đăm nhìn bóng mình trong gương, cô giơ tay năm lây
bím tóc đuôi ngựa dày dặn vàng óng vào kéo mạnh, khiên cho mái tóc giả tuột khỏi
mảng da đâu trọc lóc.
Cô gái ba mươi hai tuôi không có tóc đăm đăm nhìn mình
trong gương.
Sienna đã trải qua không ít thử thách trong cuộc đời,
và mặc dù đầ cô rèn bản t hân luôn dựa vào trí tuệ đê vượt qua khó khăn, nhưng
tình thê khó xử hiện tại cũng khiên cô chân động mạnh vê mặt tình cảm.
Cô đặt mái tóc giả sang bên và rửa mặt mũi, tay chân.
Sau khi lau khô, cô thay quần áo và đội tóc giả trờ lại, chỉnh cho ngay ngăn.
Sienna hiêm khi châp nhận chuyện than thân trách phận, nhưng giờ đây, khi nước
măt đang dâng lên từ sâu thẵm trong lòng, cô biêt mình không thê làm gì khác
ngoài việc đê cho nó trào
Và cô khóc.
Cô khóc vì cuộc sống mà cô không thể kiêm soát nổi.
Cô khóc vì người thầy bị sát hại ngay trước mắt cô.
Cô khóc vì cảm giác cô độc kinh khủng chiếm ngự trong
tim cô.
Nhưng, trên hết thảy, cô khóc cho tương lai...bỗng
chốc cô cảm giác thật bất ổn.
Xem tiếp:
Chương 9
Ở sàn dưới
chiếc thuyền sang trọng The Mendacium, chuyên gia điều phối Laurence Knowlton
ngồi trong gian buồng kính kín mít của mình, đăm đăm nhìn màn hình máy tính mà
không sao tin nổi đoạn video mà vị khách hàng của họ gửi lại.
Theo kế
hoạch mình phải đưa thứ này cho giới truyền thông vào sáng mai ư?
Trong suốt
mười năm làm việc cho Consortium, Knowton đã thực hiện đủ mọi nhiệm vụ kỳ quặc
mà anh ta biết rõ đều thuộc loại bất chính và phi pháp.Làm việc trong lĩnh vực
không lấy gì làm sạch sẽ về mặt đạo đức là chuyện bình thường tại Consortium -
một tổ chức với nền tảng đạo đức duy nhất là sẽ làm bất kỳ việc gì để giữ lời
hứa với khách hàng.
Tuân
thủ.Không hỏi.Bất kể chuyện gì.
Thế nhưng,
kịch bản đăng tải video này khiến Knowlton không yên tâm. Trước đây, cho dù có
phải thực hiện nhiệm vụ kỳ quặc đến đâu anh ta cũng luôn hiểu lý do...nắm chắc động cơ... hiểu rõ kết quả dự
kiến.
Đoạn video
đang tạm dừng.
Có gì đó
rất khác thường.
Khác hẳn.
Ngồi lại
bên máy tính, Knowlton cho video chạy lại lần nữa, hy vọng thêm một giây xem
lại có thể hé thêm chút ánh sáng. Anh ta bật to tiếng và đắm mình vào đoạn
video dài chín phút.
Vẫn như
lần trước, video bắt đầu với tiếng vỗ khe khẽ trong một không gian kín đầy nước
chìm vào thứ ánh sáng đỏ bí ẩn. Một lần nữa, máy quay lia xuống dưới, xuyên qua
mặt nước được chiếu sáng để hiện rõ nền hang đầy bùn. Và một lần nữa, Knowlton
đọc được nội dung trên tấm biển chìm dưới nước.• • •
TẠI NƠI
NÀY, VÀO NGÀY MAI,
THẾ GIỚI
THAY ĐỔI MÃI MÃI.
Thật đáng
ngại là tấm biển bóng loáng đó lại ký tên vị khách của Consortium.Ngày này lại
là ngày mai... khiến cho Knowlton càng lúc càng lo lắng. Nhưng chính những gì
tiếp theo mới thực sự khiến Knowlton hoảng hồn.
Lúc này
máy quay lia ngang sang trái, cho thấy một thứ đáng chú ý lững lờ dưới nước
ngay bên cạnh tấm biển.
Ở đây,
được cột chặt xuống nền bằng một sợi dây ngắn, là một quả cầu bằng nhựa mỏng
đang bập bềnh. Mỏng manh và lập lờ như một bong bóng xà phòng ngoại cỡ, khối
cầu trong suốt đó lơ lửng như một trái bóng chìm dưới nước... không phải được
bơm đầy khí helium, mà là một thứ chất lỏng màu vàng nâu sền sệt. Cái túi vô
định hình này căng phồng, có đường kính khoảng 30 centimet, và bên trong lớp
màng trong suốt, đám chất lỏng xỉn màu dường như đang cuộn xoáy chầm chậm, tựa
hồ mắt một cơn bão đang âm thầm mạnh dần.
Lạy Chúa,
Knowlton nghĩ thầm, cảm thấy lạnh buốt. Cái túi đáng ngờ kia thậm chí trông
càng đáng ngại hơn trong lần xuất hiện thứ hai.
Hình ảnh
từ từ chuyển sang nền đen.
Một hình
ảnh mới xuất hiện - vách hang ẩm ướt, phản chiếu bóng nước hắt ánh sáng nhảy
nhót. Trên vách xuất hiện một bóng đen... bóng một người... đứng trong hang.
Nhưng đầu
người này hình thù... méo mó.
Thay vì có
mũi, người này có một cái mỏ dài... cứ như thế một nửa người gã là chim.
Khi gã cất
tiếng nói, giọng gã nghèn nghẹt... và gã nói bằng giọng điệu hùng biện rất
lạ... ngữ điệu đều đặn... như thể gã là người lĩnh xướng trong một dàn hợp
xướng cổ điển nào đó.
Knowlton
ngồi bất động, hơi thở nặng nề, trong khi bóng đen có mỏ kia nói.
"Ta
là Vong linh.
Nếu các
người đang xem đoạn phim này, tức là cuối cùng linh hồn ta đã yên nghỉ.
Bị xua
đuổi xuống dưới mặt đất, ta đành phải nói chuyện với thế giới từ sâu thẩm trong
lòng đất, lẩn trốn đến lòng hang tăm tối này, nơi thứ nước đỏ như máu tích tụ
trong cái đầm không một ánh sao phản chiếu.
Nhưng đây
là thiên đường của ta... nơi nuôi dưỡng hoàn hảo đứa con yếu ớt của Hỏa ngục.
Ít lâu nữa
các ngươi sẽ biết đến thứ ta để lại.
Nhưng,
ngay tại đây, ta cảm nhận được bước chân của những linh hồn ngu dốt truy lùng
ta... sẵn sàng không từ mọi cách để ngăn cản hành động của ta.
Hãy tha
thứ cho chúng, có lẽ các người nói vậy, vì chúng không biết chúng làm gì. Nhưng
lịch sử sẽ đến khi ngu dốt không còn là một tội lỗi có thể tha thứ nữa... khi
chỉ có trí tuệ mới có quyền được miễn thứ.
Bằng sự
thuần khiết của lương tri, ta để lại cho các người toàn bộ món quà của Hy vọng,
của cứu rỗi, của ngày mai.
Nhưng vẫn
có kẻ săn đuổi ta như một con chó, được tiếp sức bằng niềm tin tự cho là đúng
rằng ta là kẻ điên rồ. Có mỹ nhân tóc bạc dám gọi ta là quái vật! Cũng như lũ
giáo sĩ đui mù vận động cho cái cái chết của Copernicus, mụ phỉ báng ta là quỷ
dữ, sợ rằng ta đã nhìn ra Chân lý.
Nhưng ta không phải là nhà tiên tri.
Ta chính là sự cứu rỗi của các người. Ta là Vong linh."
Chương 10
"Anh ngồi đi", Sienna nói."Tôi có vài câu
hỏi cho anh."
Khi vào bếp, Langdon cảm thấy chân mình bước vững vàng
hơn. Lúc này anh mặc bộ đồ hiệu Brioni của người hàng xóm vừa như in. Ngay cả
đôi giày mềm cũng rất thoải mái, và trong đầu, Langdon đã có lưu ý sẽ đổi sang
đi giày Ý khi trở về nhà.
Nếu mình về được nhà, anh nghĩ bụng.
Sienna đã thay đổi hẳn - một vẻ đẹp tự nhiên. Cô vừa đổi
sang chiếc quần bò rất tôn dáng và áo len màu kem, cả hai thứ trang phục như
càng làm thân hình yểu điệu của cô thêm nổi bật. Mái tóc cô vẫn vấn ra sau
thành đuôi ngựa, và khi không còn vẻ quyền uy nhờ những vật dụng ngành y, dường
như cô yếu đuối hơn. Langdon nhận thấy đôi mắt cô sưng đỏ, như thể cô vừa khóc,
và cảm giác tội lỗi lại xâm chiếm lấy anh.
"Sienna, Tôi rất xin lỗi. Tôi đã nghe hết lời nhắn
trên điện thoại.Tôi không biết phải nói sao."
"Cám ơn anh", cô đáp."Nhưng lúc này chúng ta cần tập trung vào chính bản thân anh.Anh ngồi đi."
Lúc này giọng cô rắn rỏi hơn, gợi nhớ đến những bài báo
mà Langdon vừa đọc về trí tuệ và thời niên thiếu sớm phát triển của cô.
"Tôi cần anh suy nghĩ", Sienna nói, tay ra hiệu
cho anh ngồi."Anh
có nhớ làm thế nào chúng ta tới được căn hộ này không?"
Langdon không dám chắc câu hỏi này có liên quan đến tình
huống trước mắt."Trên một chiếc ta xi", anh nói, ngồi xuống bên
bàn."Có người bắn chúng ta."
"Bắn anh,thưa Giáo sư. Chúng ta cần phải rõ ràng về
chuyện đó."
"Vâng. Xin lỗi."
"Thế anh có nhớ được có mấy phát súng lúc chúng ta
còn trên taxi không?.
Câu hỏi ngớ ngẩn. "Có, hai phát. Một trúng gương bên
hông xe, và một bắn vỡ cửa kính sau".
"Tốt lắm, giờ thì anh nhắm mắt lại!"
Langdon nhận ra cô đang kiểm tra trí nhớ của mình. Anh
bèn nhắm mắt lại.
"Tôi đang mặc đồ gì?"
Langdon có thể nhìn rõ cô. "Giày đế bằng màu đen,
quần bò xanh, và áo len cổ chữ V màu kem. Tóc cô vàng, dài đến vai, vấn ra phía
sau.Mắt cô màu nâu."
Langdon mở mắt và ngắm cô, rất hài lòng khi trí nhớ thị
giác của mình vẫn hoạt động bình thường.
"Tốt lắm. Khả năng nhận thức thị giác của anh rất
tốt, càng xác nhận chứng mất trí của anh đã không còn, và anh không hề bị thương
tổn gì vĩnh viễn liên quan đến quá trình ghi nhớ.Anh có nhớ được điều gì mới về
mấy ngày qua không?"
"Thật tiếc là không hề. Thế nhưng tôi lại nhìn thấy
những hình ảnh ấy lúc cô ra ngoài."
Langdon kể cho cô nghe hình ảnh ảo giác về người phụ nữ
che mạng, người chết, và những đôi chân có chữ R bị chôn vùi một nửa quẫy
đạp.Rồi anh kể cho cô về cái mặt nạ có mỏ kỳ quái lơ lửng trên bầu trời.
"Ta là cái chết ư?", Sienna hỏi, vẻ mặt bồn
chồn.
"Vâng, đó là những gì nó nói."
"Được rồi... Tôi đoán như thế cũng giống "Ta là
Vishnu, kẻ hủy diệt thế giới"."
Người phụ nữ trẻ vừa dẫn lại lời Robert Oppenheimer lúc
ông ta thử nghiệm quả bom nguyên tử đầu tiên.
"Còn cái mặt nạ mắt xanh lè... mũi hình mỏ chim
ư?", Sienna nói, vẻ khó hiểu. "Anh có ý tưởng gì để lý giải tại sao
trí nhớ anh ghi ra hình ảnh đó không?"
"Chẳng có ý tưởng gì cả, nhưng kiểu mặt nạ đó rất
thịnh hành thời trung cổ", Langdon dừng lại. "Người ta gọi đó là mặt
nạ dịch hạch."
Trông Sienna mất bình tĩnh một cách kỳ lạ."Mặt nạ
dịch hạch ư?"
Langdon giải thích nhanh gọn rằng trong thế giới biểu
tượng của anh, hình dáng đặc thù của chiếc mặt nạ mỏ chim gần như đồng nghĩa
với Cái chết Đen - trận đại dịch tràn qua châu Âu vào thế kỷ XIV, giết một phần
ba dân số ở vài vùng. Hầu hết mọi người tin rằng chữ "đen" trong tên
gọi chỉ tình trạng da thịt nạn nhân tím đen lại do hoại tử và xuất huyết dưới
da, nhưng thực tế từ đen là để chỉ nỗi khiếp sợ mà dịch bệnh này gieo rắc trong
dân chúng.
"Cái mặt nạ mỏ dài đó", Langdon nói, "được
các bác sĩ bệnh dịch hạch thời trung cổ đeo để ngăn không cho bệnh xâm nhập vào
lỗ mũi họ trong lúc điều trị người bị nhiễm bệnh.Còn giờ đây, cô chỉ nhìn thấy
chúng được dùng làm phục trang trong lễ hội Venice Carnevale - lời nhắc nhở kì
khôi về một giai đoạn đen tối trong lịch sử nước Ý".
"Và anh chắc chắn mình nhìn thấy cái mặt nạ như thế
trong ảo ảnh của mình chứ?", Sienna hỏi, lúc này giọng cô run run. "Một
mặt nạ của bác sĩ bệnh dịch hạch thời trung cổ à?"
Langdon gật đầu.Một cái mặt nạ mỏ chim thì khó mà nhầm
lẫn được.
Cách Sienna nhíu mày khiến Langdon có cảm giác rằng cô
đang cố nghĩ ra cách tốt nhất để nói với anh vài tin không hay."Và người
phụ nữ cứ nhắc anh 'tìm kiếm và sẽ thấy' phải không?"
"Đúng, vẫn như lúc trước.Nhưng vấn đề là tôi không
rõ mình cần tìm cái gì."
Sienna từ từ thở hắt ra một hơi dài, nét mặt hết sức
nghiêm trọng. "Tôi nghĩ có lẽ tôi biết. Và thêm nữa... Tôi nghĩ có thể anh
cũng đã tìm thấy nó."
Langdon trợn mắt nhìn."Cô đang nói gì thế?!"
"Robert, đêm qua khi anh tới bệnh viện, anh mang
theo một thứ rất không bình thường trong túi áo khoác. Anh còn nhớ nó là gì
không?"
Langdon lắc đầu.
"Anh mang theo một vật... một vật khá đáng chú ý.
Tôi tình cờ thấy nó khi chúng tôi lau rửa cho anh." Cô làm hiệu về phía
chiếc áo Harris Tweed dính máu của Langdon, vẫn còn nằm trên bàn."Nó vẫn
trong túi áo đấy, nếu anh có ý định nhìn xem."
Vẻ ngập ngừng, Langdon nhìn chiếc áo.Ít nhiều điều đó
giải thích tại sao cô ấy quay lại vì chiếc áo của mình.Anh vớ lấy chiếc áo khoác
dính máu và lần tìm các túi, từng cái một.Chẳng có gì cả.Anh lục lại lần nữa.Cuối
cùng, anh nhún vai quay về phía cô."Ở đây chẳng có gì hết."
"Thế còn túi bí mật thì sao?"
"Cái gì? Áo khoác của tôi làm gì có túi bí mật."
"Không ư?"Trông cô rất bối rối."Vậy cái áo
này... là của người khác ư?"
Đầu óc Langdon lại rối tung lên. "Không, đây là áo
khoác của tôi."
"Anh chắc chứ?"
Quá chắc, anh nghĩ bụng. Thực tế, nó là hiệu Camberley mà
tôi ưa chuộng đấy.
Anh lật ngược lớp lót áo và chìa cho Sienna xem nhãn hiệu
có mang biểu tượng mà anh ưa chuộng trong thế giới thời trang - quả cầu của
hãng Harris Tweed được trang trí mười ba viên đá quý hình khuy cùng một chữ
thập Maltese trên đinh.
Hãy để người Scot triệu hồi các chiến binh Thiên Chúa
giáo trên mảnh vải dệt chéo.
"Nhìn cái này đi", Langdon nói, tay chỉ hai chữ
cái R.L.được thêu bằng tay thêm vào nhãn hiệu. Anh luôn thích thú những mẫu may
đo của Harris Tweed, và vì lý do ấy, anh thường trả thêm tiền để người ta thêu
chữ cái tên anh vào nhãn hiệu, ờ trường đại học, nơi hàng trăm chiếc áo khoác
vải len liên tục được cởi ra rồi mặc vào trong phòng ăn và trên giảng đường,
Langdon không hề muốn bị mặc nhầm áo do cẩu thả.
"Tôi tin anh", cô nói, cầm lấy chiếc áo khoác
từ tay anh. "Giờ anh nhìn đây."
Sienna mở rộng chiếc áo khoác để lộ lớp lót gần gáy.Chỗ
đó, được giấu kín trong lớp vải lót, là một cái túi khá lớn có hình thù rất gọn
ghẽ.
Thế quái nào nhỉ?!
Langdon chắc chắn rằng anh chưa bao giờ nhìn thấy cái túi
này trước đó.
Cái túi có một đường chỉ giấu kín, được may rất khéo.
"Nó không hề có ở đó lúc trước!", Langdon dứt
khoát.
"Vậy thì tôi đoán rằng anh chưa bao giờ nhìn thấy...
thứ này đúng không?"
Sienna thò tay vào túi và moi ra một vật kim loại rất đẹp
mà cô nhẹ nhàng đặt vào tay Langdon.
Langdon trợn mắt nhìn xuống vật đó với vẻ hoang mang cực
độ.
"Anh có biết thứ này là gì không?", Sienna hỏi.
"Không../',
anh lắp bắp. "Tôi chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì như thế này."
"Chà,
thật không may, tôi lại biết rõ đây là gì. Và tôi tin chắc nó chính là lý do có
người tìm cách giết anh."
Lúc này
điều phối viên Knowlton đang đi đi lại lại trong buồng riêng trên tàu The
Mendacium, càng lúc càng thấy bồn chồn khi nghĩ đến đoạn video anh ta được giao
phải cung cấp cho cả thế giới biết vào sáng mai.
Ta là Vong linh ư?
Có tin đồn rằng vị khách hàng đặc biệt này bị sang chấn
tâm thần trong mấy tháng qua, nhưng đoạn video dường như xác định những lời đồn
đó là không có cơ sở.
Knowlton biết mình có hai lựa chọn.Anh ta có thể chuẩn bị
phát tán đoạn video vào ngày mai như đã hứa, hoặc có thể mang nó lên gác gặp
Thị trưởng để đưa ra ý kiến về quyết định thứ hai.
Mình đã biết ý kiến của ông ấy rồi, Knowlton nghĩ bụng,
vì chưa bao giờ thấy Thị trưởng có hành động gì khác ngoài những việc đã hứa
với khách hàng.Ông ấy sẽ bảo mình cung cấp đoạn video này cho thế giới, không
cần hỏi làm gì...và ông ấy sẽ nổi điên với mình vì việc này.
Knowlton hướng sự chú ý trở lại đoạn video đã được tua
đến một vị trí đặc biệt đáng lo ngại. Anh ta bắt đầu cho chạy lại, và cái hang
có thứ ánh sáng kỳ dị xuất hiện kèm tiếng nước róc rách. Bóng người hiện ra lù
lù trên vách hang đang nhỏ nước - một gã đàn ông cao lớn với cái mỏ chim dài.
Bằng chất giọng nghèn nghẹt cái bóng quái dị cất tiếng.
"Đã đến thời kỳ Tăm tối mới.
Nhiều thế kỷ trước, châu Âu chìm sâu trong cảnh khốn cùng
- dân chúng túm tụm với nhau, chết đói, chìm trong tội lỗi và vô vọng. Họ giống
như một cánh rừng chật chội, ngột ngạt vì những kẻ vô dụng, chờ đợi tia sét của
Chúa trời - tia lửa sẽ làm đám cháy bùng lên, lan rộng trên mặt đất và thiêu
sạch đám vô dụng, một lần nữa đưa ánh mặt trời tới những gốc cây khỏe mạnh.
Chọn lọc là Quy luật Tự nhiên của Chúa trời.
Hãy tự hỏi bản thân, sau Cái chết Đen là gì?
Tất cả chúng ta đều biết câu trả lời.
Thời kỳ Phục Hưng.
Sự tái sinh.
Luôn là như thế.Tỉếp sau cái chết là sự sinh sôi.
Để đến được Thiên đường, con người phải đi qua Hỏa ngục.
Điều này, thầy đã dạy cho chúng ta.
Thế mà kẻ ngu dốt tóc bạc lại dám gọi ta là quái vật ư?
Chắc mụ vẫn không hiểu rõ môn toán học của tương lai chăng? Cả những điều kinh
hoàng mà nó sẽ mang theo nữa?
Ta là Vong linh.
Ta là sự cứu rỗi của các người.
Và vì thế ta đứng lên, sâu trong lòng hang này, phóng mắt
nhìn qua đầm nước
không một ánh sao phản chiếu.Tại đây, trong dinh lũy đã
bị nhấn chìm này, Hỏa ngục cháy âm ỉ bên dưới làn nước.
Sớm muộn nó sẽ bùng lên thành ngọn lửa.
Và đến khi đó, chẳng có gì trên trái đất có thể ngăn được
nó."
Chương 11
Vật nằm trong bàn tay Langdon nặng hơn hẳn so với kích
thước của nó. Thon và trơn láng, cái hình trụ bằng kim loại nhẵn thín ấy dài
khoảng mười lăm phân và tròn cả hai đầu, giống như một quả ngư lôi thu nhỏ.
"Trước khi mạnh tay cầm vào thứ đó", Sienna lên
tiếng, "Có lẽ anh cần nhìn mặt bên kia đã". Cô mỉm cười với anh nhưng
khá căng thẳng. "Anh nói anh là giáo viên về các biểu tượng phải
không?"
Langdon chăm chú nhìn lại cái ống trụ, xoay nó trong lòng
bàn tay cho tới khi một biểu tượng màu đỏ tươi hiện rõ bên hông ống.
Cơ thể anh ngay lập tức cứng đờ.
Khi còn là sinh viên ngành biểu tượng học, Langdon đã
biết rằng một số hình ảnh ghê gớm có sức mạnh gieo rắc nỗi sợ hãi ngay lập tức
vào tâm trí con người...nhưng cái biểu tượng trước mắt anh thì khỏi phải nói.
Phản ứng của anh hoàn toàn mang tính bản năng và ngay tức thì, anh đặt cái ống
lên bàn rồi ngồi phịch xuống ghế.
Sienna gật đầu, "Vâng, phản ứng của tôi cũng y như
vậy."
Dấu hiệu trên ống là một biểu tượng ba nhánh đơn giản.
Biểu tượng khét tiếng này, như Langdon từng đọc được, do
Dow Chemical nghĩ ra vào những năm 1960, để thay thế cho chuỗi đồ họa cảnh báo
được sử dụng không mấy hiệu quả trước đó. Như tất cả những biểu tượng thành
công khác, biểu tượng này đơn giản, đặc trưng và dễ tạo. Khéo léo khơi gợi mối
liên hệ đặc trưng với mọi thứ, từ cặp càng cua đến những phi tiêu của ninja,
biểu tượng "nguy hiểm sinh học" hiện đại này trở thành một nhãn hiệu
toàn cầu truyền tải ý nghĩa nguy hiểm trong mọi ngôn ngữ.
"Cái ống nhỏ xíu này là một ống tuýp sinh học",
Sienna nói. "Nó dùng để mang những chất nguy hỉểm. Chúng tôi thỉnh thoảng
nhìn thấy chúng trong lĩnh vực y khoa. Bên trong là lớp bọt bao bọc lấy ống
chất mẫu để có thể mang đi an toàn. Trong trường hợp này..." Cô chỉ vào
biểu tượng nguy hiểm sinh học. "Tôi đoán là một tác nhân hóa học chết
người...hoặc có thể là một loại virus?", cô ngừng lại. "Các mẫu
Ebola(1) đầu tiên được mang về từ Châu Phi trong một cái ống y hệt như
thế."
Đây không phải toàn bộ những gì Langdon muốn nghe.
"Nhưng nó làm cái quái gì trong áo khoác của tôi chứ! Tôi là một giáo sư
lịch sử nghệ thuật mà, tại sao tôi lại mang cái thứ này?"
Hình ảnh những xác người quằn quại lại lóe lên trong trí
anh...và lơ lửng phía trên là cái mặt nạ dịch hạch.
Rất xin lỗi. Rất xin lỗi!
"Cho dù thứ này từ đâu đến", Sienna nói,
"nó cũng là một vật có độ bền cao. Titan lót chì. Gần như không thể xuyên
thủng, thậm chí bằng phóng xạ. Tôi đoán là vấn đề cấp Chính phủ." Cô chỉ
vào ô màu đen to bằng con tem ngay bên cạnh biểu tượng nguy hiểm sinh học.
"Xác nhận bằng dấu tay. Bảo đảm an ninh trong trường hợp bị thất lạc hoặc
đánh cắp. Những ống như thế này chỉ một người đặc biệt mới mở được."
Mặc dù Langdon cảm giác đầu óc mình lúc này đang làm việc
với tốc độ bình
thường nhưng anh vẫn thấy như thể đang phải cố hết sức.
Mình đang mang theo một ống tuýp niêm phong bằng vân tay.
"Khi tôi phát hiện cái ống này trong áo khoác của
anh, tôi muốn cho riêng bác sĩ Marconi xem, nhưng tôi không có cơ hội làm vậy
lúc anh chưa tỉnh lại. Tôi đã định thử đặt tay anh lên cái ô kia trong lúc anh
đang bất tỉnh, nhưng tôi lại không rõ thứ gì trong ống, và..."
"Ngón tay tôi ư?", Langdon lắc đầu. "Làm
sao có chuyện thứ này được lập trình để tôi là người mở nó chứ. Tôi có biết gì
về hóa sinh đâu. Tôi chưa từng có thứ gì như thế này cả."
"Anh chắc chứ?"
Langdon rất chắc chắn. Anh vươn tay và đặt ngón cái của
mình vào ô vuông. Chẳng có gì xảy ra cả. "Thấy chưa? Tôi đã nói..."
Cái ống titan phát ra tiếng kêu rất to, và Langdon giật
tay về như phải bỏng. Khốn nạn. Anh đăm đăm nhìn cái ống như thể nó sắp tự mở
toang ra và bắt đầu xì ra một thứ khí độc chết người. Sau ba giây, nó lại phát
ra tiếng động, rõ ràng đang tự khóa lại.
Không nói gì, Langdon quay sang nhìn Sienna.
Cô bác sĩ trẻ thở hắt ra, trông bệch bạc. "Chà, rõ
ràng chính anh là người được chỉ định mang nó đi rồi."
Với Langdon, toàn bộ tấn kịch này thật phi lý.
"Không thể như thế. Trước hết, làm cách nào tôi tha được mẫu kim loại này
qua chốt an ninh sân bay chứ?"
"Có lẽ anh bay bằng máy bay riêng? Hoặc có lẽ người
ta giao cho anh khi anh đến Ý?"
"Sienna, Tôi cần gọi cho lãnh sự. Ngay bây
giờ."
"Anh không nghĩ chúng ta cần mở nó ra trước đã
à?"
Trong đời mình, Langdon từng có một số hành động hấp tấp,
nhưng mở một vật chứa chất độc ngay trong bếp của người phụ nữ này không phải
là một trong những hành động như thế. "Tôi sẽ bàn giao thứ này cho giới
chức trách. Ngay bây giờ!"
Sienna mím chặt môi, suy tính về mọi khả năng. "
Được rồi, nhưng ngay khi thực hiện cuộc gọi đó, anh phải tự giải quyết. Tôi
không can dự vào. Đương nhiên anh không thể gặp họ ở đây. Hoàn cảnh di trú của
tôi ở Ý...rất phức tạp."
Langdon nhìn vào mắt Sienna. "Tất cả những gì tôi
biết, Sienna, là cô đã cứu mạng tôi. Tôi sẽ giải quyết chuyện này đúng như ý
muốn của cô."
Cô gật đầu cảm ơn và bước lại phía cửa sổ, chăm chú nhìn
xuống con phố phía dưới. "Được rồi, chúng ta cần làm như thế này
nhé!"
Sienna nhanh nhẹn vạch ra một kế hoạch. Nó rất đơn giản,
khôn khéo và an toàn.
Langdon đổi cô bật chế độ chặn hiển thị người gọi trong
điện thoại di động và bấm số. Các ngón tay của cô thanh mảnh nhưng di chuyển
rất có chủ định.
"Thông tin thuê bao phải không?", Sienna nói
bằng giọng Ý không thể chê vào đâu. "Xin cho tôi số máy của Lãnh sự quán
Hoa Kỳ tại Firenze được không?"
Cô đổi và sau đó nhanh nhẹn viết ra một số điện thoại.
"Rất cảm ơn", cô đáp và ngắt máy.
Sienna chìa số điện thoại cho Langdon cùng
với điện
thoại của cô. "Anh nói đi.Anh nhớ phải nói gì chưa?"
"Trí nhớ của tôi tốt mà", anh mỉm cười nói
trong lúc bấm số máy ghi trên mẩu giấy. Đường dây bắt đầu đổ chuông.
Chẳng thấy gì cả.
Anh chuyển sang chế độ loa ngoài và đặt điện thoại lên
bàn để Sienna cũng có thể nghe được. Đáp lời là một tin nhắn đã ghi âm sẵn,
cung cấp thông tin chung về các dịch vụ lãnh sự và giờ làm việc, tức là phải
sau 8 giờ 30 phút sáng.
Langdon nhìn đồng hồ trên bàn. Mới chỉ có sáu giờ sáng.
"Nếu đây là tình huống khẩn cấp", đoạn ghi âm
tự động nói, "quý vị có thể gọi tới số 7-7 để báo với nhân viên trực
đêm".
Langdon lập tức bấm số máy lẻ.
Đường dây lại đổ chuông.
"Lãnh sự quán Hoa Kỳ xin nghe", một giọng nói
mệt mỏi trả lời bằng tiếng Ý. "Tôi là nhân viên trực đây".
"Anh nói được tiếng Anh chú?", Langdonhỏi bằng
tiếng Ý.
"Đương nhiên", người đàn ông bên kia đáp lại
bằng tiếng Anh Mỹ. Giọng anh ta có vé khó chịu vì bị đánh thức. "Tôi giúp
gì được anh?"
"Tôi là công dân Mỹ đang có mặt ở Florence và tôi bị
tấn công.Tên tôi là Robert Langdon."
"Xin cho biết số hộ chiếu", người đàn ông ngáp
nghe rõ mồn một.
"Tôi bị mất hộ chiếu. Tôi nghĩ nó bị đánh cắp. Tôi
bị bắn vào đầu. Tôi ở trong bệnh viện. Tôi cần giúp đỡ."
Nhân viên trực đột nhiên tinh ngủ hẳn. "Thưa ông!
Ông vừa nói ông bị bắn phải không? Xin ông nói lại họ tên đầy đủ được
không?"
"Robert Langdon"
Có một tiếng sột soạt trên đường dây và sau đó Langdon
nghe rõ tiếng ngón tay của người đàn ông gõ lách cách trên bàn phím. Tiếng máy
tính kêu "ping". Tạm dừng. Rồi lại nghe tiếng ngón tay trên bàn phím.
Lại một tiếng "ping". Tiếp đến là ba tiếng "pỉng" chói lói.
Tạm dừng lâu hơn.
"Thưa ông?", người đàn ông lên tiếng. "Tên
ông là Robert Langdon phải không?" "Vâng, đúng vậy. Và Tôi đang gặp
rắc rối."
"Được rồi, thưa ông, tên ông được đánh dấu lưu ý, và
tôi được chỉ dẫn lập tức nối máy cho ông với Chánh văn phòng của Tổng lãnh
sự." Người đàn ông ngừng lại, như thể chính anh ta cũng không tin nổi.
"Xin hãy giữ máy!"
"Đợi đã! Anh có thể cho tôi biết../'
Đường dây lại đổ chuông.
Bốn lần đổ chuông và máy được nối.
"Collins nghe đây", một giọng cộc cằn vang lên.
Langdon hít một hơi thật sâu, cố gắng nói thật bình tĩnh
và rõ ràng. "Thưa ngài Collins, tên tôi là Robert Langdon. Tôi là một công
dân Mỹ đang có mặt tại Florence. Tôi bị bắn. Tôi cần giúp đỡ. Tôi muốn được tới
Lãnh sự quán Hoa Kỳ ngay lập tức. Ngài có thể giúp tôi được không?"
Không chút do dự, giọng nói bên kia đáp lại. "Ơn
Chúa là anh vẫn còn sống, anh Langdon. Chúng tôi đang tìm kiếm anh."
(1) Ebola là loại virus gây bệnh sốt xuất
huyết ở người và các loại linh trưởng.
Chương 12
Lãnh sự quán biết mình ở đây ư?
Tin ấy khiến Langdon thấy nhẹ cả người. Ngài Collins -
người tự giới thiệu là chánh văn phòng của Lãnh sự quán - nói chuyện với giọng
chắc nịch, chuyên nghiệp, nhưng cũng có vẻ rất gấp gáp. "Anh Langdon, anh
và tôi cần nói chuyện ngay lập tức. Và nhất định không phải trên điện
thoại."
Đến lúc này, dù vẫn chưa hiểu rõ chuyện gì đang xảy ra,
nhưng Langdon không có ý định ngắt lời.
"Tôi sẽ cho người đến đón anh ngay", Collins
nói. "Anh ở chỗ nào?"
Sienna lo lắng di chuyển vị trí, cố lắng nghe cuộc trao
đổi trên loa điện thoại. Langdon gật đầu trấn an cô, tỏ ý hoàn toàn tuân thủ theo
đúng kế hoạch của cô.
"Tôi đang ở một khách sạn nhỏ có tên Pensione la
Firorentina", Langdon nói, đánh mắt sang bên kia phố về phía khách sạn cũ
kỹ Sienna đã chỉ cho mình trước đó. Anh nói cho Collins địa chỉ phố.
"Được rồi", người đàn ông trả lời. "Đừng di chuyển. Cứ ở trong phòng anh. Sẽ có người đến đón
ngây bây giờ. Phòng nào nhỉ?"
Langdon
quyết định. "Ba mươi chín."
"Được
rồi. Hai mươi phút", Collins hạ giọng. "Anh Langdon, dù anh bị thương
và hơi rối trí, nhưng tôi cần biết...anh vẫn còn giữ chứ?"
Còn giữ.
Langdon cảm thấy câu hỏi này, dù khó hiểu, song chỉ có thể mang một nghĩa. Mắt
anh lia tới chỗ cái ống nằm trên bàn bếp. "Vâng, thưa ngài. Tôi vẫn còn
giữ."
Collỉns
thở phào rõ to. "Lúc không nghe được tin gì của anh, chúng tôi cứ nghĩ...
Chà, nói
thật, chúng Tôi nghĩ đến chuyện xấu nhất. Tôi yên tâm rồi. Cứ ở yên chỗ anh.
Đừng di chuyến. Hai mươi phút thôi. Sẽ có người tới gõ cửa phòng anh."
Collins ngắt máy.
Langdon
cảm thấy hai vai mình nhẹ nhõm hẳn, lần đầu tiên kế từ khi anh tỉnh dậy trong
bệnh viện. Lãnh sự quán biết rõ chuyện gì đang xảy ra, và chỉ lát nữa mình sẽ
có câu trả lời. Langdon nhắm mắt lại và thở ra từ từ, lúc này gần như an tâm.
Cơn đau đầu dần tan biến.
"Chà,
rất MI6", Sienna lên tiếng, giọng nửa đùa nửa thật. "Anh là điệp viên à?"
Lúc này Langdon chẳng rõ mình là gì nữa. Chuyện mất trí
nhớ hai ngày và thấy mình trong một tình thế khó nhận diện làm anh khó hiểu,
nhưng anh vẫn ở đây... Hai mươi phút nữa sẽ có cuộc gặp với một quan chức tòa
Lãnh sự Hoa Kỳ trong một khách sạn xập xệ.
Chuyện gì đang xảy ra ở đây nhỉ?
Anh liếc nhìn Sienna, nhận ra họ sắp sửa đường ai nấy đi
nhưng vẫn có cảm giác họ chưa xong việc. Anh lại nhớ tới vị bác sĩ râu rậm ở
bệnh viện, nằm chết trên sàn ngay trước mắt cô. "Sienna", anh thì
thầm, "bạn của cô...bác sĩ MarconL.Tôi cảm thấy thật kinh khủng".
Cô gật đầu quả quyết.
"Và tôi rất xin lỗi vì đã kéo cô vào vụ này. Tôi
biết tình thế của cô tại bệnh viện rất bất thường, và nếu có điều tra..."
Tiếng anh tắt dần.
"Không sao", cô nói. "Tôi không lạ gì
chuyện phải di chuyển."
Langdon cảm nhận được trong đôi mắt xa xăm của Sienna,
mọi thứ với cô đều đã thay đổi vào sáng nay. Cuộc sống của chính Langdon lúc
này cũng đang hỗn loạn, nhưng anh cảm thấy trái tim mình đang hướng về phía
người phụ nữ này.
Cô ấy đã cứu mạng mình...và mình đã hủy hoại cuộc sống
của cô ấy.
Họ ngồi im lặng suốt một phút, không khí giữa hai người
càng lúc càng nặng nề, như thể cả hai đều muốn nói, nhưng lại chẳng biết nói
gì. Suy cho cùng, họ là những những người xa lạ trong một hành trình ngắn ngủi
và kỳ lạ vừa đi tới ngã ba đường, và giờ đây mỗi người đều cần tìm một lối đi
riêng.
"Sienna", cuối cùng Langdon lên tiếng,
"Khi tôi giải quyết xong chuyện này với Lãnh sự quán, nếu có việc gì cần
tôi giúp, xin hãy..."
"Cảm ơn anh", cô thì thầm, và buồn bã hướng mắt
ra phía cửa sổ.
***
Từng phút trôi qua, Sienna Brooks lơ đễnh nhìn ra ngoài
cửa sổ gian bếp và tự hỏi ngày hôm nay rồi sẽ dẫn cô tới đâu. Cho dù là ở đâu,
cô đều hiểu rõ rằng đến cuối ngày, thế giới của cô sẽ khác hẳn.
Cô biết, có lẽ chỉ là cảm xúc dâng trào nhất thời, nhưng
cô thấy mình bị cuốn hút trước vị giáo sư người Mỹ một cách kỳ lạ. Ngoài vẻ
điển trai, dường như anh còn sở hữu một trái tim nhân hậu. Trong cuộc sống
tương lai, biết đâu Robert Langdon còn có thế là người cô gắn bó cùng.
Anh ấy sẽ chẳng bao giờ muốn mình, cô nghĩ bụng. Mình đã
bị hủy hoại rồi.
Trong lúc cố nén tình cảm lại, bên ngoài cửa sổ có gì đó
khiến cô chú ý. Cô thẳng người lên, áp mặt vào kính và đăm đăm nhìn xuống phố.
"Robert, nhìn xem!"
Langdon phóng mắt nhìn xuống chiếc xe máy hiệu BMW đen
bóng dưới phố vừa đỗ xịch trước khách sạn Penssỉone la Fiorentina. Người điều
khiến xe dong dỏng và mạnh mẽ, mặc bộ đồ da đen và gỡ chiếc mũ bảo hiếm đen
bóng ra, Sienna có thế thấy rõ Langdon nín thở.
Cái đầu đinh của người phụ nữ kia không lẫn đi đâu được.
Ả rút ra khẩu súng quen thuộc, kiểm tra bộ phận giảm
thanh, và đút súng vào túi áo khoác. Sau đó, với vẻ uyển chuyển chết người, ả
bước vào khách sạn.
"Robert", Sienna thì thào, giọng cô căng lên vì
sợ hãi. "Chính phủ Mỹ vừa cử người tới giết anh."
Chương 13
Robert
Langdon cảm nhận được nỗi hoang mang khi anh đứng bên cửa sổ căn hộ, dán mắt về
phía khách sạn bên kia phố. Người đàn bà đầu đinh vừa bước vào, nhưng Langdon
không sao hiểu được làm cách nào ả có được địa chỉ.
Cảm giác
bủn rủn chạy khắp người anh, khiến luồng tư duy của anh gián đoạn lần nữa.
"Chính phủ tôi cử người tới giết tôi ư?"
Sienna
cũng kinh ngạc không kém. "Robert, như thế có nghĩa là lần tấn công anh
lúc đầu ở bệnh viện cũng được sự phê chuẩn của chính phủ anh". Cô đứng dậy
và kiểm tra lại khóa cửa căn hộ. "Nếu Lãnh sự Hoa Kỳ được phép giết
anh..."Cô không nói hết suy nghĩ của mình, nhưng cô cũng không cần phải
nói ra. Hàm nghĩa quá kinh khủng.
Họ nghĩ
mình đã làm chuyện quái gì chứ? Tại sao chính phủ của mình lại săn đuổi mình?!
Lại một
lần nữa, Langdon nghe thấy mấy chữ mà anh lẩm nhẩm khi lảo đảo bước vào bệnh
viện.
Rất xin
lỗi...rất xin lỗi!
"Ở
đây anh không an toàn", Sienna nói, "Chúng ta không an toàn ở
đây." Cô ra hiệu về phía bên kia đường. "Người phụ nữ kia cũng nhìn
thấy chúng ta chạy ra khỏi bệnh viện và tôi dám cá chính phủ của anh cùng cảnh
sát đang tìm cách truy lùng tôi. Căn hộ của tôi được cho thuê lại dưới tên của
người khác, nhưng cuối cùng họ cũng sẽ tìm ra thôi."
Cô lại chú
ý tới cái ống trên bàn. "Anh cần mở thứ đó ra, ngay bây giờ."
Langdon
nhìn cái ống titan, và chỉ thấy cái biểu tượng nguy hiểm sinh học.
"Cho
dù bên trong ống đó là cái gì", Sienna nói. Có lẽ đều có một mã nhận dạng,
một nhãn hiệu cơ quan, một số điện thoại, đại loại thế. Anh cần thông tin. Tôi
cần thông tin! Chính phủ của anh đã giết bạn tôi! "
Nỗi đau
trong giọng nói của Sienna khiến Langdon choàng tỉnh khỏi cơn suy
tưởng, và
anh gật đầu, biết rõ cô nói đúng. "Được, tôi...rất xin lỗi." Langdon
co rúm người, lại nghe thấy những từ ấy lần nữa. Anh ngoảnh nhìn cái ống trên
bàn, băn khoăn không biết bên trong giấu câu trả lời gì. "Mở nó ra có thể
vô cùng nguy hiểm."
Sienna suy
nghĩ một lát. "Bất kỳ thứ gì bên trong đều được giữ gìn kỹ càng, có lẽ
trong một cái ống nghiệm bằng thủy tinh Plexiglas không vỡ cũng nên. Cái ống
sinh học này chỉ là một vỏ bọc bên ngoài để đảm bảo trong quá trình vận chuyển
thôi."
Langdon
nhìn ra ngoài cửa sổ về phía chiếc xe máy màu đen đỗ ngay trước khách sạn.
Người phụ nữ vẫn chưa đi ra, nhưng sớm muộn ả cũng đoán được rằng Langdon không
ở đó. Anh
tự hỏi động thái tiếp theo của ả sẽ là gì...và sẽ mất bao lâu để ả đạp tung cửa
căn hộ này.
Langdon
suy nghĩ để đưa ra quyết định. Anh nhấc ống titan lên và miễn cưỡng áp ngón cái
của mình lên ô nhận diện vân tay. Sau một lúc, cái ống phát ra tiếng cách rất
to.
Trước khi
cái ống kịp khóa lại lần nữa, Langdon vặn hai nửa theo hướng ngược chiều nhau.
Mới xoay một phần tư vòng, cái ống lại kêu "ping" lần thứ hai, và
Langdon biết mình đã hoàn thành.
Hai tay
Langdon ướt đẫm mồ hôi trong lúc anh tiếp tục vặn mớ ống. Hai nửa xoay rất trơn
tru theo những đường rãnh được gia công hoàn hảo. Anh cứ thếvặn, cảm giác như
sắp mở được con búp bê Nga quý giá, ngoại trừ anh không hề biết thứ gì sắp rơi
ra.
Sau năm lần
vặn, hai nửa đầu rời ra. Langdon hít một hơi thật sâu, nhẹ nhàng tách chúng.
Khoảng
trống giữa hai nửa mở rộng, và thứ bên trong bọc cao su xốp lộ ra. Langdon đặt
nó lên bàn. Lớp đệm bảo vệ trông hơi giống một quả bóng bầu dục hiệu Nerf kéo
dài.Chẳng có gìLangdon nhẹ nhàng gỡ phần trên của lớp xốp bảo vệ, cuối cùng
cũng để lộ ra vật nằm bên trong. Sienna chăm chú nhìn thứ bên trong và hếch
đầu, vẻ ngơ ngác. "Rõ ràng không giống Langdon dự đoán là một dạng ống gì
đó lạ lùng, nhưng thứ bên trong cái ống sinh học lại không có vẻ gì là siêu
tưởng. Vật được chạm khắc công phu kia rõ ràng làm bằng ngà voi và có kích cỡ
xấp xỉ một thanh kẹo Life Severs.
"Trông
rất cũ", Sienna thì thào. "Một dạng../'
"Trụ
triện", Langdon nói với cô, thở hắt ra.
Được người
Summer phát minh vào năm 3500 trước Công Nguyên, trụ triện là tiền thân của các
con chữ khắc dùng trong in ấn. Mỗi con triện đều được khắc những hình ảnh trang
trí và có phần thân rỗng để lồng chốt trục qua, sao cho bề mặt chạm khắc có thể
lăn tròn, giống như trục lăn sơn hiện đại, trên đất sét ẩm hoặc sành để
"in" tuần hoàn các dải biểu tượng, hình ảnh hoặc văn tự.Langdon phỏng
đoán con triện này đương nhiên rất hiếm có và giá trị, nhưng anh vẫn không hình
dung nổi tại sao nó lại được cất kín trong một cái ống titan chẳng khác gì một
dạng vũ khí sinh học như vậy. Trong khi khéo léo xoay con triện qua các ngón
tay, anh nhận ra thứ này mang một hình khắc đặc biệt kinh khủng - con quỷ Satan
có sừng, ba đầu đang ăn thịt ba người khác nhau cùng một lúc, mỗi miệng một người.
Thật khôi
hài. Mắt Langdon chuyển tới bảy chữ cái khắc ngay bên dưới con quỷ. Những con
số hoa mỹ được viết đảo ngược, giống như tất cả văn tự trên trục in vậy, nhưng
Langdon không gặp khó khăn gì khi đọc chúng - SALIGIA.
Sienna
nheo mắt nhìn và đọc to hàng chữ. "Saligia?"
Langdon
gật đầu, cảm thấy rợn người khi nghe thấy từ này được đọc to lên. "Đó là
một mẹo nhớ bằng tiếng Latin được toà thánh Vatican
phát minh ra ờ thời trung cổ nhằm nhắc các tín đồ Thiên Chúa giáo về Bảy Trọng
Tội. Saligia là một từ kết hợp các chữ đầu của superbia, avaritia, luxuria,
invidia, gula, ira và acedia."
Sienna cau
mày. "Kiêu ngạo, tham lam, dâm ô, đố kỵ, ham ăn, giận dữ và lười
biếng."
Langdon
rất ấn tượng. "Cô biết tiếng Latin."
"Tôi
theo Công giáo từ nhỏ. Tôi biết tội lỗi."
Langdon cố
mỉm cười trong lúc đưa mắt trở lại con triện, trong lòng thắc mắc tại sao nó
lại được cất giữ trong một cái ống như một vật rất nguy hiếm.
"Tôi
nghĩ nó làm bằng ngà voi", Sienna nói. "Nhưng đó là xương." Cô
đẩy con triện ra chỗ có ánh nắng và chỉ vào những đường nét trên đó. "Ngà
voi tạo thành đường khắc chéo song song hình kim cương với các đường kẻ vằn mờ,
còn xương tạo thành các đường kẻ vằn song song và vết lỗ chỗ thẫm màu như thế
này."
Langdon
nhẹ nhàng cầm con triện lên và xém xét kỹ những vệt chạm khắc. Các con triện
nguyên thủy của người Sumer
được chạm khắc những hình thô mộc và hình nêm.
Thế nhưng
con triện này lại được chạm khắc tinh xảo hơn nhiều. Từ thời trung cổ,
Langdon
phán đoán. Thêm nữa, những chi tiết trang trí cho thấy chúng có mối liên hệ
đáng lo ngại với những ảo giác của anh.
Sienna
nhìn anh lo lắng. "Gì vậy?"
"Chủ
đề tuần hoàn", Langdon nói dứt khoát, và chỉ một trong những hình khắc
trên con triện. "Cô thấy quỷ Satan đang ăn thịt người này không? Đó là một
hình ảnh quen thuộc từ thời trung cổ - một biểu tượng gắn liền với Cái chết
Đen. Ba cái miệng đang nghiến ngấu là biếu tượng cho thấy dịch hạch tiêu diệt
dân số kinh khủng như thế nào."
Sienna lo
lắng liếc nhìn vào biểu tượng nguy hiểm sinh học trên ống.
Những ám chỉ
tới bệnh dịch hạch đang diễn ra trong sáng nay dường như xuất hiện thường xuyên
hơn anh nghĩ, và với chút do dự, anh công nhận thêm một mối liên hệ nữa.
"Saligia đại diện cho tập hợp các trọng tội của loài người...mà theo quan
điểm truyền bá tôn giáo trung cổ..."
"Là
lý do để Chúa trừng phạt thế giới bằng Cái chết Đen", Sienna lên tiếng,
hoàn tất nốt ý nghĩ của anh
"Đúng
vậy." Langdon ngừng lại, nhất thời dứt luôn mạch suy nghĩ. Anh vừa nhận ra
một điều kỳ cục liên quan đến cái ống. Bình thường, một người có thế nhìn xuyên
qua phần lõi rỗng của một trụ triện, như thế xuyên qua lõi một đường ống rỗng
không, nhưng trong trường hợp này, lõi con triện lại kín mít. Có thứ gì đó được
nhét bên trong mẩu xương này. Một đầu ống bắt sáng và tỏa ra ánh sáng lờ mờ.
"Có
gì đó bên trong", Langdon nói. "Và trông như được làm bằng thủy
tinh." Anh xoay ngược con triện để kiểm tra đầu bên kia, bên trong có
tiếng của một vật nhỏ xíu, chạy từ đầu này mẩu xương sang đầu kia, giống như
một viên bi lăn trong ống.
Langdon
cứng đờ người, và anh nghe rõ tiếng Sienna khẽ thở hổn hển ngay bên cạnh.
“Cái quái
gì thế nhỉ?”
"Anh
có nghe thấy tiếng đó không?", Sienna thì thào.
Langdon
gật đầu và thận trọng nhìn vào một đầu ống. "Hình như chỗ hở được bịt lại
nhờ...thứ gì làm bằng kim loại." Có lẽ là nắp của ống nghiệm chăng?
Sienna lùi
lại. "Trông nó có phải đã vỡ không?"
"Tôi
không nghĩ vậy." Anh thận trọng xoay ngược mẫu xương lần nữa để kiểm tra
cái đầu có thủy tinh, và tiếng lóc xóc lại vang lên. Trong chớp mắt, phần thủy
tinh bên trong trụ triện có biểu hiện hoàn toàn bất ngờ.
Nó bắt đầu
phát sáng.
Mắt Sienna
trợn lên. "Robert, dừng lại! Đừng cử động!"
Chương 14
Langdon đứng im bất động, tay giữ nguyên trong không trung, cầm chắc trụ triện bằng xương. Rõ ràng, phần thủy tinh ở đầu ống đang phát sáng... lóe lên như thể thứ chứa bên trong đột nhiên thức dậy.
Rất nhanh, ánh sáng bên trong lại tối đen trở lại.
Sienna nhích lại gần, thở hổn hển. Cô nghiêng đầu và săm soi phần thủy tinh có thể nhìn thấy được bên trong mẫu xương.
"Nghiêng lại đi", cô thì thào. "Thật chậm thôi."
Langdon nhẹ nhàng xoay ngược mẩu xương. Lại một lần nữa, một vật rất nhỏ chạy lọc xọc dọc theo chiều dài mẫu xương rồi dừng lại.
"Thêm lần nữa đi", cô nói. "Nhẹ thôi."
Langdon lặp lại lần nữa, và mẫu xương lại có tiếng lọc xọc. Lần này, phần thủy tinh bên trong hơi sáng, lóe lên một lúc rồi lịm đi.
"Chắc chắn nó là một ống nghiệm", Sienna tuyên bố, "trong có một viên bi trộn".
Langdon đã rất quen với những viên bi trộn dùng trong các bình sơn xịt - đó là những viên bi nằm lẫn bên trong, có tác dụng trộn đều sơn khi lắc bình.
"Có thể nó chứa một dạng hớp chất hóa học lân tinh nào đó", Sienna nói, "hoặc một cấu trúc phát quang sinh học có khả năng lóe sáng khi được kích thích".
Langdon lại có suy nghĩ khác. Vốn đã từng thấy các loại que phát sáng hóa học và thậm chí cả những phiêu sinh vật phát sáng sinh học có khả năng sáng lên khi một chiếc thuyền khuấy đảo môi sinh của chúng, nhưng anh gần như tin chắc rằng cái ống trụ trong tay mình không hề chứa thứ nào trong số này. Anh nhẹ nhàng xoay cái ống thêm vài lần nữa cho tới khi nó lóe sáng, sau đó giữ
phần đầu phát sáng trên bàn tay mình. Đúng như mong đợi quầng sáng màu đỏ nhạt xuất hiện, rọi thẳng lên da anh.
Rất vui biết rằng một người có IQ 208 đôi khi cũng nhầm lẫn.
"Nhìn cái này xem Langdon nói, và bắt đầu lắc mạnh cái ống. Vật bên trong lọc xọc chạy lên chạy xuống, càng lúc càng nhanh.
Sienna nhảy lùi lại. "Anh đang làm gì thế?"
Tay vẫn lắc cái ống, Langdon bước lại phía công tắc đèn và tắt đi, khiến cho gian bếp tối hẳn. "Bên trong không phải ống nghiệm đâu", anh nói, tay vẫn lắc mạnh hết sức. "Nó là đèn rọi Faraday đấy."
Langdon từng được một sinh viên tặng thiết bị tương tự - một cái đèn rọi tia laser dùng cho các giảng viên không thích việc lãng phí những cục phi AAA, và không ngại chuyện lắc mạnh đèn rọi trong vài giây để biến nguồn năng lượng động lực học của đèn thành điện năng. Khi lắc mạnh thiết bị này, viên bi kim loại bên trong sẽ chạy qua hàng loạt chi tiết hình mái chèo và vận hành một máy phát điện nhỏ xíu. Rõ ràng có người đã quyết định nhét đèn rọi này vào một mẫu xương rỗng có chạm khắc - lớp vỏ cổ xưa bao bọc lấy thứ đồ chơi điện tử hiện đại.
Để chiếc đèn rọi trong tay anh lúc này sáng lên rực rỡ, Langdon nhìn Sienna, cười nhăn nhó. "Đến giờ trình diễn."
Anh chĩa chiếc đèn rọi vỏ xương vào một khoảng trống trên tường bếp. khi mảng tường sáng lên, Sienna hít một hơi thảng thốt, nhưng chính Langdon mới là người giật nảy mình vì kinh ngạc.
Khoảng sáng xuất hiện trên tường không phải là một đống laser màu đỏ nhỏ bé. Nó là một bức tranh sinh động có độ phân giải cao phóng ra từ cái ống chẳng khác gì một máy chiếu kiểu cũ.
Chúa ơi! Tay Langdon hơi run khi anh nhìn khung cảnh hãi hùng trên bức tường trước mặt. Thảo nào mình cứ nhìn thấy hình ảnh chết chóc.
Bên cạnh anh, Sienna lấy tay che miệng và ngập ngừng bước lên một bước, rõ ràng thất thần vì những gì cô đang nhìn thấy.
Khung cảnh phóng ra từ mẫu xương chạm trổ kia là một bức tranh cũ về nỗi khổ của con người - hàng nghìn linh hồn trải qua những hình thức tra tấn kinh khủng ở các tầng địa ngục. Thế giới trong lòng đất được khắc họa như một lát cắt dọc của trái đất thành một cái hố hình phễu sâu thăm thẵm. Hố địa ngục này được chia thành nhiều cấp thu hẹp dần, theo mức độ hình phạt tăng dần, mỗi tầng thuộc về một nhóm những kẻ tội đồ bị hành hạ.
Langdon nhận ra cảnh này ngay lập tức.
Kiệt tác trước mặt anh - La Mappa deirinferno (Vực Địa ngục) - do Sandro Botticelli, một trong những họa sĩ Ý kiệt suất thời Phục Hưng, vẽ ra. Là bản sơ
đồ chi tiết về địa ngục, vực Địa ngục là một trong những hình ảnh đáng sợ nhất về cõi chết từng được sáng tạo ra. Tối tăm, u ám, và đáng sợ, ngay cả thời đại bây giờ, bức tranh cũng khiến nhiều người sững sờ bất động. Khác với bức Primavera (Câu chuyện mùa xuân) hay Thần Vệ nữ chào đời đầy sức sống và rực rỡ của mình, Botticelli tạo ra vực Địa ngục bằng tông màu trầm, gồm đỏ, nâu đỏ, và nâu.
Cơn đau dữ dội đột ngột trở lại, và cũng như lần đầu tiên kể từ lúc tỉnh dậy trong bệnh viện xa lạ, Langdon cảm thấy dường như từng mảnh ghép đã tự nhảy vào đúng vị trí của nó. Những ảo giác kinh dị của anh được kích thích do nhìn thấy bức vẽ nổi tiếng này.
Chắc chắn mình đã nghiên cứu vực Địa ngục của Botticelli, anh nghĩ thầm, dù không nhớ được lý do tại sao.
Mặc dù bản thân hình ảnh trước mắt đã rất khó chịu nhưng chính lai lịch của bức vẽ mới là thứ khiến Langdon lúc này càng thêm bồn chồn. Langdon biết rõ rằng ý tướng ra đời của kiệt tác mang tính tiên tri này không phải khởi nguồn trong tâm trí của Botticelli... mà trong tâm trí của một người sống trước ông ấy hai trăm năm.
Một kiệt tác nghệ thuật từ cảm hứng của người khác.
Trên thực tế, vực Địa ngục của Botticelli là món quà dành tặng một tác phẩm văn học ở thế kỷ XIV, kiệt tác này đã trở thành một trong những áng văn chương được ca tụng nhiều nhất trong lịch sử... Một bức tranh khủng khiếp về địa ngục còn vang vọng đến tận ngày nay.
Hỏa ngục của Dante.
Bên kia phố, Vayentha lặng lẽ leo lên cầu thang dành riêng cho nhân viên phục vụ, nấp ở thềm tầng áp mái của khách sạn Pensione la Fiorentina vẫn đang im lìm. Langdon đã đưa số phòng không có thật cùng một địa điểm hẹn gặp giả cho nhân viên lãnh sự - một "cuộc gặp trong gương" như cách gọi trong nghề của ả - kỹ năng nghiệp vụ quen thuộc giúp người ta đánh giá tình hình trước khi tiết lộ vị trí của mình. Lúc nào cũng vậy, địa điểm giả hoặc "trong gương" được lựa chọn bởi vì nó nằm trong tầm quan sát hoàn hảo từ vị trí của chủ thể.
Vayentha tìm một cao điểm kín đáo trên nóc nhà để từ đó ả có thể nhìn bao quát toàn bộ khu vực. Ả từ từ đưa mắt nhìn lên tòa nhà chung cư bên kia phố.
Đến lượt ngài đó, thưa ngài Langdon.
Thời điểm đó, trên boong tàu The Mendacium, Thị trưởng bước ra phần sàn tàu bằng gỗ gụ và hít một hơi thật sâu, thưởng thức không khí mằn mặn của biển Adriatic. Con tàu này là ngôi nhà của ông ta đã nhiều năm, và lúc này đây, một loạt sự kiện đang diễn ra ở Florence đang đe dọa hủy hoại tất cả mọi thứ mà ông ta đã gây dựng.
Đặc vụ ngoại tuyến Vayentha đã để mọi việc lâm vào thế rủi ro, và ả sẽ phải đối mặt với một cuộc thẩm vấn sau khi nhiệm vụ này kết thúc, song ngay lúc này, Thị trưởng vẫn cần đến ả.
Tốt nhất là cô ta phải giành lại quyền kiểm soát mớ bòng bong này.
Có tiếng bước chân đang nhanh nhẹn tiến lại gần từ phía sau, Thị trưởng quay lại và thấy một nữ chuyên gia phân tích đang bước đến.
"Thưa ngài?", chuyên gia phân tích lên tiếng, gần như ngộp thở. "Chúng ta có tin mới." Giọng cô ta xuyên qua không khí buổi sáng với sắc thái dữ dội hiếm thấy.
"Có vẻ Robert Langdon vừa truy cập vào tài khoản e-mail Harvard của anh ta từ một địa chỉ IP không rõ." Cô ta dừng lại, nhìn thẳng vào Thị trưởng. "Giờ có thể lần ra vị trí chính xác của Langdon."
Thị trưởng sững sờ vì thấy có người đần độn đến thế. Mọi việc thay đổi rồi. ông ta khum tay và đăm đăm nhìn về bờ biển, suy ngẫm cho hết mọi nhẽ, "Cô có biết vị trí của đội SRS không?"
"Vâng, thưa ngài. Cách chỗ của Langdon chưa đầy hai dặm."
Thị trưởng chỉ mất một khắc để đưa ra quyết định.
Chương 15
"Hỏa ngục của
Dante", Sienna thì thào, vẻ mặt hết sức chăm chú khi cô nhích lại gần hình
ảnh ảm đạm mô tả địa ngục đang chiếu trên tường bếp nhà mình.
Hình ảnh địa ngục của
Dante, Langdon nghĩ thầm, thể hiện bằng màu sắc sống động.
Được ca tụng là một
trong những tác phẩm văn học xuất sắc, Hỏa ngục là tập đầu trong ba tập sách
thuộc bộ Thần khúc của Dante Alighieri - một trường ca gồm mười bốn nghìn hai
trăm ba mươi ba câu thơ mô tả chuyến du hành đầy mạo hiểm của Dante tới địa
ngục, vượt qua luyện ngục, và cuối cùng đến thiên đường. Trong ba phần của Thần
khúc - Hỏa ngục, Luyện ngục và Thiên đường - cho đến nay Hỏa Ngục được đọc và
nhớ đến nhiều nhất.
Được Dante Alighieri
biên soạn vào đầu những năm 1300, Hỏa ngục thực sự định nghĩa lại những quan
niệm thời trung cổ về kiếp đọa đày. Trước đó khái niệm "địa ngục"
chưa bao giờ khiến công chúng say mê như vậy. Chỉ qua một đêm, tác phẩm của
Dante đã cũng cố khái niệm trừu tương về địa ngục thành một
hình ảnh rõ ràng và
đáng sợ - rất bản năng, cảm nhận được, và không thể nào quên. Chẳng có gì lạ,
sau khi trường ca ra đời, Nhà thờ Công giáo thấy ngay số người nhập giáo là
những kẻ phạm tội tăng vọt, vì muốn tránh khỏi kiếp nạn ở địa ngục mà Dantle
mới vẽ ra.
Còn ở đây, theo mô tả
của Botticelli, hình ảnh địa ngục đáng sợ của Dante có cấu trúc như một cái
phễu hành xác dưới lòng đất - một khung cảnh kinh khủng với lửa, lưu huỳnh,
cống rãnh, quái vật và cả quỷ Satan chờ đợi ở trung tâm. Cái hố tạo thành chín
Cấp độ khác nhau. Chín tầng địa ngục nơi những kẻ tội đồ bị đày xuống tùy theo
mức độ tội lỗi của họ. Gần đỉnh, đám dâm ô hay "những kẻ gian tà nhục dục"
bị cuốn vào cơn bão bất tận, một biểu tượng về sự bất lực của họ trong việc
kiểm soát dục vọng. Bên dưới, những kẻ tham ăn bị buộc phải nằm úp mặt vào một
cái rãnh tởm lợm, miệng dính đầy những thứ sản phẩm do chính thói ăn uống vô độ
của mình thải ra. Sâu hơn, những kẻ dị giáo bị kẹp trong những quan tài đang
cháy, bị hành hạ trong ngọn lữa vĩnh cửu. Và cứ như vậy... kẻ mắc tội lỗi càng
xấu xa thì càng bị
đày xuống sâu hơn.
Trong suốt bảy thế kỷ
kể từ khi ra đời, hình ảnh địa ngục đầy ám ảnh của Dante đã truyền cảm hứng cho
nhiều phụ bản, cách diễn giải và biến tấu của những bộ
óc sáng tạo vĩ đại
nhất trong lịch sử. Longfellow Chaucer, Marx, Milton, Balzac, Borges, và thậm
chí một vài Đức Thánh Cha đều đã viết những tác phẩm dựa trên Hỏa ngục của
Dante, Monteverdi, Liszt, Tchaikovsky, và Puccini đã biên soạn những nhạc phẩm
dựa trên tác phẩm của Dante, và một trong những nghệ sĩ thu âm mà Langdon yêu
thích - Loreena McKennitt - cũng vậy. Ngay cả thế giới trò chơi điện tử và các
ứng dụng trên iPad cũng không thiếu những sản phẩm liên quan đến Dante.
Langdon, vốn rất háo
hức chia sẻ với sinh viên về những biểu tương phong phú trong cách nhìn của
Dante, từng nhiều lần dạy hẳn một khóa học về chuỗi hình ảnh thường xuyên đươc
tái hiện tìm thấy cả trong Dante và các tác phẩm mang cảm hứng của ông qua
nhiều thế kỷ.
"Robert".
Sienna nói, tiến lại gần hơn hình ảnh trên tường, "Nhìn chỗ này xem!"
Cô chỉ vào một khu vực gần đây của địa ngục hình phễu.
Khu vực cô chỉ vẫn
được biết đến như là Malebolge - nghĩa là "rãnh quỷ". Đó là tầng thứ
tám và cũng là tầng áp chót của địa ngục, được chia thành mười rãnh riêng biệt,
mỗi rãnh dành cho một tội gian dối cụ thể.
Lúc này Sienna càng
phấn khích hơn. "Nhìn xem! Không phải chính anh nói, trong giấc mơ, anh
nhìn thấy thứ này sao?"
Langdon nheo mắt nhìn
vị trí Sienna chỉ, nhưng anh chẳng thấy gì cả. Cái máy chiếu đang cạn năng
lương, và hình ảnh bắt đầu nhòe đi. Anh nhanh nhẹn lắc mạnh tay cho tới khi nó
tiếp tục phát sáng. Lúc đó, anh cẩn thận đặt nó lùi xa bức tường hơn, ngay trên
mép chiếc bàn bên kia khu bếp nhỏ, để nó phóng ra hình ảnh lớn hơn nữa. Langdon
tiến lại chỗ Sienna, nhích sang bên để nghiên cứu đồ hình.
Sienna lại chỉ xuống
tầng địa ngục thứ tám. "Nhìn đây. Không phải chính anh nói ảo giác của anh
có một đôi chân thò lên khỏi mặt đất chống ngược lên trời và có chữ R à?"
Cô chạm tay hẳn vào một vị trí xác định trên tường. "Chúng đây thôi!"
Langdon đã xem bức
tranh này rất nhiều lần, rãnh thứ mười ở Malebolge lúc nhúc những kẻ tội đồ bị
chôn nửa người đầu lộn xuống dưới, chân thò lên khỏi mặt đất. Nhưng rất lạ,
trong bản này, một đôi chân lại có chữ R, viết bằng bùn, đúng như Langdon đã
nhìn thấy trong ảo giác.
Chúa ơi! Langdon chăm
chú nhìn chi tiết nhỏ xíu đó. "Chữ R đó... chắc chắn nó không có trong bản
gốc của Botticelli!"
"Còn một chữ nữa
này", Sienna nói và chỉ tay.
Langdon nhìn theo
ngón tay cô tới một rãnh khác trong Malebolge, nơi chữ E được viết nghệch ngoạc
trên người một nhà tiên tri giả danh bị vặn ngược đầu ra sau.
Quái quỷ gì vậy? Bức
vẽ này đã bị chỉnh sửa.
Giờ đây những chữ cái
khác hiện lên trước mắt anh, được viết nghệch ngoạc trên người những kẻ tội đồ
ở khắp mười rãnh Malebolge. Anh nhìn thấy chữ C trên người một kẻ lừa gạt bị
quỷ dữ đánh đập... chữ R trên một tên trộm bị đàn rắn cắn xé... chữ A trên
người một chính trị gia đồi bại bị dìm trong bể hắc ín sôi sùng sục.
"Những chữ cái
này", Langdon nói đầy chắc chắn, "nhất định không có trong bản gốc
của Botticelli. Bức hình này đã bị chỉnh sửa bằng kỹ thuật số".
Anh đưa mắt lên rãnh
Malebolge trên cùng và bắt đầu đọc các chữ cái từ trên xuống, lần lượt qua mười
rãnh.
"Catrovacer?",
Langdon nói, "Đây là tiếng Ý à?"
Sienna lắc đầu.
"Cũng không phải tiếng Latin. Tôi không nhận ra."
"Một... chữ ký
chăng?"
"Catrovacer"
Cô nhìn đầy vẻ nghi ngờ. "Tôi thấy không giống một cái tên cho lắm. nhưng
nhìn chỗ kia xem." Cô chỉ tay vào một trong nhiều nhân vật ở rãnh
Malebolge thứ ba.
Khi nhìn thấy nhân
vật đó, Langdon lập tức có cảm giác ớn lạnh. Trong vô số những kẻ tội đồ ở rãnh
thứ ba có một hình ảnh mang tính biểu tượng từ thời trung cổ - một người mặc áo
choàng đeo mặt na có mỏ chim dài và ánh mắt chết chóc.
Mặt nạ dịch hạch.
"Trong bản gốc
của Botticelli có bác sĩ dịch hạch không?", Sienna hỏi.
"Chắc chắn là
không. Nhân vật đó mới được thêm vào."
"Thế Botticelli
có ký tên bản gốc của mình không?"
Langdon không thể nhớ
nỗi, nhưng khi ánh mắt anh nhích xuống góc phải bên dưới nơi thường có chữ ký,
anh nhận ra tại sao cô lại hỏi vậy. Không hề có chữ ký, nhưng nhìn thấy rõ dọc
phần mép màu nâu sẫm của bức vẽ là một dòng chữ nhỏ xíu viết rời nhau: la
verità è visibile solo attraverso gli occhi della morte.
Vốn tiếng Ý của
Langdon đủ để anh hiểu được ý chính: "Chân lý chỉ có thể được nắm bắt qua
cặp mắt chết chóc".
Sienna gật đầu.
"Thật kỳ lạ!"
Hai người đứng lặng
trong khi hình ảnh đáng sợ trước mắt từ từ nhòa đi. Hỏa ngục của Dante, Langdon
nghĩ thầm. Truyền cảm hứng cho những tác phẩm nghệ thuật mang tính tiên tri kể
từ năm 1330.
Khóa học của Langdon
về Dante luôn có hẳn một phần về các tác phẩm nghệ thuật trứ danh lấy cảm hứng
từ Hỏa ngục. Ngoài vực Địa ngục nổi tiếng của Botticelli, còn có chi tiết điêu
khắc không nhuốm màu thời gian Ba Vong linh trong bức chạm cổng Địa ngục của
Rodin(1)... Hình vẽ lão chèo đò Phlegyas (2) của Stradanus đang chèo qua những
xác người chìm trên con sông Styx... Những kẻ tội đồ tham lam đang lăn lộn
trong cơn bão vĩnh cữu của WiIIiam Blake... Hình
ảnh gợi dục lạ lùng
mô tả Dante và Virgil đang nhìn hai người đàn ông khỏa thân đánh nhau của
Bouguereau... Những linh hồn bị hành hạ trong co rúm dưới cơn mưa những hòn lửa
bỏng rát của Bayros... Loạt tranh màu nước và khắc gỗ kỳ lạ của Salvador
Dali... và tuyển tập đồ sộ tranh khắc axit đen trắng của Doré mô tả mọi thứ từ
lối vào Địa ngục... tới nhân vật quỷ Satan có cánh.
Giờ đây, dường như
phiên bản địa ngục trong trường ca của Dante không chỉ ảnh hưởng đến những nghệ
sĩ đáng kính nhất trong suốt chiều dài lịch sử. Rõ ràng, nó còn truyền cảm hứng
cho một nhân vật nữa - một sinh linh quằn quại đã thay đổi bức vẽ nổi tiếng của
Botticelli bằng kỹ thuật số, cho thêm mười chữ cái, một bác sĩ dịch hạch, và ký
một dòng chữ đầy đe dọa nói về việc nhìn ra chân lý qua con mắt của tử thần.
Nghệ sĩ này còn cất giữ bức vẽ trong một máy chiếu công nghệ cao được giấu
trong mẫu xương được chạm trổ kỳ quái.
Langdon không thể
nghĩ ra ai đã tạo ra một tác phẩm như vậy, nhưng giờ đây, vấn đề này dường như
chỉ là thứ yếu trước một câu hỏi đáng ngại hơn nhiều.
Thế quái nào mình lại
mang theo thứ này?
Khi Sienna đứng bên
Langdon trong gian bếp và ngẫm nghĩ về hành động tiếp theo của mình, bất ngờ có
tiếng động cơ phân khối lớn gầm lên từ đoạn phố phía dưới. Tiếp đến là tiếng
rít của lốp xe và tiếng cửa xe hơi đóng mạnh.
Không hiểu chuyện gì,
Sienna lao đến bên cửa sổ và nhìn ra ngoài.
Một chiếc xe thùng
không biển số màu đen phanh gấp và dừng lại dưới phố. Từ trên xe ùa ra một nhóm
người, tất cả đều mặc đồng phục đen với phù hiệu xanh lục hình tròn trên vai
trái. Họ lăm lăm súng trường tự động và di chuyển đúng dáng dấp của nhà binh.
Không chút do dự, bốn người lính lao tới lối vào tòa chung cư.
Sienna cảm thấy máu
trong người đông cứng. "Robert!", cô hét lên. "Tôi không biết họ
là ai, nhưng họ tìm thấy chúng ta rồi!"
Dưới phố, đặc vụ
Christoph Bruder hét to ra lệnh cho người của mình xông vào tòa nhà. Anh ta là
người có vóc dáng vạm vỡ, những năm tháng trong quân ngũ đã rèn luyện anh ta
thành người chỉ biết thực thi nhiệm vụ của mình, và biết cả những mối nguy
hiểm.
Tổ chức mà anh phục
vụ bao gồm nhiều đơn vị, nhưng đơn vị của Bruder - Giám sát và Hỗ trợ Phản ứng
SRS - chỉ được triệu tập khi có một tình huống lâm vào thế "khủng
hoảng".
Khi người của mình
mất hút trong tòa nhà, Bruder đứng canh cửa trước, móc thiết bị liên lạc và
liên hệ người cần gặp.
"Bruder
đây", anh ta nói. "Chúng tôi đã lần ra Langdon nhờ địa chỉ IP máy
tính của anh ta. Nhóm của tôi đang tiến vào. Tôi sẽ thông báo khi chúng tôi bắt
được anh ta."
Phía trên đầu Bruder,
nơi thềm tầng mái khách sạn Pensione la Fiorentina, Vayentha kinh hãi trợn mắt
nhìn xuống đám đặc vụ đang lao vào tòa nhà chung cư như không tin vào mắt mình.
Bọn họ làm cái quái
gì ở đây thế?!
Ả lùa một tay vào mái
tóc đinh, và chợt hiểu những hậu quả kinh khủng từ điệp vụ thất bại của mình
đêm qua. Chỉ sơ sểnh một chút, tất cả đã thay đổi vượt khỏi tầm kiểm soát.
Chuyện ban đầu tưởng như chỉ là một điệp vụ đơn giản... giờ
đã biến thành một cơn
ác mộng hiện hữu.
Nếu đội SRS ở đây thì
mọi việc với mình chấm hết rồi.
Vayentha cuống quýt
vớ lấy thiết bị liên lạc hiệu Sectra Tiger xs và gọi cho Thị trưởng.
"Thưa
ngài", ả lắp bắp. "Đội SRS ở ngay đây! Người của Bruder đang tràn vào
tòa chung cư bên kia phố!"
Ả đợi phản ứng phía
bên kia, nhưng chỉ nghe thấy những tiếng lách cách sắc lạnh trên máy, rồi một
giọng nói điện tử rất bình thản vang lên, "Giao thức từ chối bắt
đầu".
Vayentha hạ điện
thoại và nhìn màn hình, vừa kịp thấy thiết bị liên lạc bị tắt.
Mặt cắt không còn
giọt máu, Vayentha cố ép mình phải chấp nhận những gì đang diễn ra. Consortium
vừa chấm dứt tất cả mọi liên lạc với ả.
Không liên lạc. Không
giao thiệp.
Mình đã bị từ chối
Cảm xúc bàng hoàng chỉ
thoáng qua.
Tiếp đến là nỗi sợ
hãi.
(1)
Cổng Địa ngục (La Porte de I'Enfer) là cụm điêu khắc của
nghệ sĩ người Pháp Auguste Rodin, mô tả một cảnh trong "Hỏa ngục".
Tác phẩm điêu khắc này cao sáu mét, rộng bốn mét và dài một mét, với một trăm
tám mươi nhân vật có kích thước cao từ mười lăm phân đến hơn một mét. Phiên bản
gốc được lưu giữ từ năm 1917 và hiện trưng bày tại Bảo tàng Ctorsay ở Paris,
Chi tiết Ba Vong linh (Lestrois Ombres), nguyên bản cao chín mươi tám phân, gồm
ba nhân vật riêng biệt chỉ tay vào dòng chữ "Lasciate ogne speranza, voi
ch'entrate" ("Vứt bỏ mọi hy vọng, những kẻ bước vào đây") trích
từ Khổ III của Hỏa Ngục.
(2)
Phlegyas, con trai của Ares và
Chryse, là vua của người Lapith trong thần thoại Hy Lạp. Trong Hỏa ngục,
Phlegyas chèo đò chở Virgil và Dante vượt sông Styx.
Chương 16
"Nhanh lên, Robert!" Sienna giục giã.
"Theo tôi".
Suy nghĩ của Langdon vẫn ngập tràn những hình ảnh
ảm đạm về địa ngục của Dante trong lúc anh vọt ra khỏi cửa, tới hành lang tòa
chung cư. Cho đến lúc này, Sienna Brooks vẫn kiểm soát được tình hình căng
thẳng của buổi sáng nay bằng phong thái hết sức điềm tĩnh, nhưng lúc này, vẻ
bình tĩnh của cô càng lúc càng tăng lên với một cảm xúc Langdon chưa hề thấy
qua ở cô - nỗi sợ hãi thật.
Trong hành lang, Sienna chạy trước, vọt nhanh qua
chiếc thang máy đã chạy xuống dưới, chắc chắn là do những người đàn ông lúc này
đang tiến vào sảnh bấm nút. Cô chạy nhanh về phía cuối hành lang và mất hút vào
khu vực cầu thang bộ mà không hề nhìn lại phía sau.
Langdon bám sát cô, cơ thể trượt đi trên đôi giày
mềm đế trơn đi mướn. Cái máy chiếu bé xíu trong túi ngực áo Brioni nảy lên, đập
vào ngực Langdon trong lúc anh chạy. Đầu anh lóe lên những chữ cái kỳ lạ điểm
xuyết ở tầng thứ tám của địa ngục: CATROVACER. Anh nhớ đến cái mặt nạ dịch hạch
và dòng chữ ký
lạ lùng: Chỉ có thể nắm bắt được chân lý qua cặp
mắt chết chóc.
Langdon cố liên kết những yếu tố rời rạc này,
nhưg lúc này chưa thấy điều gì có ý nghĩa cả. Cuối cùng, khi anh chạy tới một
chỗ chiếu nghỉ của cầu thang, Sienna đã ở đó, đang chăm chú lắng nghe. Langdon
nghe rõ tiếng bước chân chạy lên cầu thang từ phía dưới.
"Có lối thoát khác không?" Langdon thì
thào.
"Theo tôi", cô nói nhanh.
Sienna đã giữ được mạng sống của Langdon một lần
trong ngày hôm nay, cho nên, anh chẳng còn lựa chọn nào khác ngoài cách phải
tin tưởng người phụ nữ này. Langdon hít một hơi thật sâu và chạy nhanh xuống
thang máy ngay sau cô.
Họ xuống được một tầng, nghe rõ tiếng giày ủng
tiến đến gần hơn, vang vọng phía dưới họ chỉ một hoặc hai tầng.
Tại sao cô ấy lại chạy thẳng về phía họ nhỉ?
Langdon chưa kịp phản đối thì Sienna đã nắm lấy
tay anh và kéo tuột anh ra
khỏi khu vực than bộ để chạy thẳng vào hành lang
vắng tanh của khu nhà - một hành lang dài với những cánh cửa khóa kín.
Làm gì có chỗ nấp?
Sienna gạt một công tắc đèn và vài bóng đèn tắt
ngấm, nhưng hành lang lờ lờ vẫn không đủ để che giấu họ. Sienna và Langdon vẫn
bị nhìn rõ ở đây. Tiếng bước chân rầm rập gần như đã áp sát họ, và Langdon biết
những kẻ tấn công sẽ xuât hiện trên cầu thang bất kỳ lúc nào và có thể nhìn
thẳng tới chỗ này.
"Tôi cần áo khoác của anh" Sienna thì
thào trong lúc kéo tuột áo khoác của Langdon khỏi người anh, Sau đó cô ép
Langdon bò rạp sau lưng cô ngay ở một khuôn cửa thụt vào. "Đừng nhúc
nhích!"
Cô ta làm gì không biêt? Cô ta lộ liễu thế này cơ
mà!
Mấy người lính xuất hiện trên cầu thang, lao vội
lên trên nhưng hơi dừng lại khi nhìn thấy Sienna trong hành lang tối om.
"Vì Chúa!", Sienna quát lên với họ,
giọng cô rên rỉ. "Có chuyện lộn xộn quái gì
vậy?"
Hai người đàn ông nheo mắt, rõ ràng không tin lắm
trước những gì họ đang nhìn thấy.
Sienna vẫn quát họ bằng tiếng Ý. "Mới giờ
này mà đã ồn ào quá đấy!"
Giờ thì Langdon đã thấy Sienna trùm cái áo khoác
đen của anh lên trên đầu và vai như tấm khăn choàng của một bà già. Cô gập
người, cô tạo tư thế che chắn để họ không nhìn thấy Langdon đang nép người
trong bóng tối, và lúc này, hoàn toàn bất ngờ, cô cà nhắc tiến một bước vẻ phía
họ và rít lên như một bà già ốm yếu.
Một gã lính giơ cánh tay lên, ra hiệu cho cô quay
trở lại căn hộ của mình. "Bà già! Quay về phòng đi!"
Sienna tập tễnh tiến thêm một bước, vung vẫy nắm
tay đầy giận dữ. "Chúng mày làm chồng tao tỉnh dậy đấy, ông ấy đang
ốm!"
Langdon nghe mà đầy hoang mang. Họ làm anh chồng
ốm đau của cô tỉnh giấc.
Một tên lính khác giơ súng máy lên và nhắm thẳng
vào cô. "Đứng lại không ăn đạn đấy!"
Sienna đứng khựng lại, nguyền rủa không thương
tiếc trong lúc tập tễnh lùi về phía sau, tránh xa bọn họ.
Đám lính chạy lên, mất hút trên gác.
Không hẳn là một màn kịch Shakespeare, Langdon
nghĩ bụng, nhưng rất ấn tượng. Rõ ràng kinh nghiệm đóng kịch có thể là một vũ
khí Iợi hại.
Sienna gỡ áo khoác khỏi đầu và ném trả lại cho
Langdon. "Được rồi, theo tôi!"
Lần này, Langdon làm theo không chút do dự.
Họ xuống đến chiếu nghỉ phía trên sảnh chính, nơi
có hai người lính nữa bước vào thang máy để đi lên. Ngoài phố, một gã lính khác
đứng quan sát bên cạnh chiếc xe thùng, bộ đồng phục đen của gã ôm chặt lây thân
hình lực lưỡng. Sienna và Langdon im lặng đi nhanh xuống tầng ngầm.
Nhà để xe tầng ngầm tối om và nồng nặc mùi nước
tiểu. Sienna chạy tới góc để xe máy. Cô dừng lại trước một chiếc Trike màu bạc
- loại xe ba bánh trông chẳng khác gì hậu duệ cục mịch của Vespa Ý và chiếc xe
đạp ba bánh dành cho người lớn. Cô lùa tay bên dưới tấm chắn bùn trước của
chiếc Trike và gỡ lấy một
hộp nam châm nhỏ. Bên trong là chiếc chìa khóa,
cô tra vào ổ và rồ máy.
Mấy giây sau, Langdon đã ngồi lên xe phía sau cô.
Langdon ngồi chênh vênh ở phần ghế nhỏ xíu, mò mẫm hai bên sườn, cố tìm chỗ bám
hay gì đó để ngồi cho vững.
"Không phải lúc e thẹn đâu" Sienna nói,
tóm lấy hai tay anh và đặt ôm quanh phần eo thon thả của mình. "Anh sẽ cần
bám chặt đấy."
Langdon làm đúng như vậy lúc Sienna cho chiếc
Trike lao lên dốc. Chiếc xe khỏe hơn so với anh hình dung, và họ gằn như rời
hẳn mặt đất khi phóng vọt khỏi nhà để xe, lao vào vùng ánh sáng buổi sớm mai,
cách xa lối vào chính đến 50m. Gã lính vạm vỡ ở phía trước tòa nhà ngay lập tức
xoay người và nhìn thấy Langdon và Sienna lao vọt đi, chiếc Trike của họ phát
ra tiếng nổ chói lói khi Sienna tăng hết ga.
Langdon vắt vẻo ngồi ở phía sau, ngó qua vai nhìn
lại gã lính lúc này đã giương vũ khí lên và ngắm bắn rất cẩn thận. Langdon cố
gắng hết sức. Một phát đạn vang lên, nảy khỏi tấm chắn bùn sau chiếc Trike, vừa
may vượt qua trụ xương sống của Langdon.
Lạy Chúa!
Sienna ngoặc gấp sang trái ở giao lộ, và Langdon
cảm thấy mình đang trượt đi nên phải cố giữ thăng bằng.
"Nghiêng về phía tôi!", cô hét lên.
Langdon ngã về phía trước, lấy lại thăng bằng lần
nữa trong lúc Sienna cho chiếc Trike lao xuống một đường phố rộng hơn. Sau khi
họ chạy hết một khối nhà, Langdon mới bắt đầu dám thở lại.
Đám người đó là lũ nào không biết?
Sienna vẵn tập trung vào đoạn đường phía trước
mặt trong lúc phóng nhanh dọc đại lộ, luồn lách giữa dòng giao thông buổi sớm.
Vài khách bộ hành tỏ vẻ ngạc nhiên khi họ chạy ngang qua, rõ ràng không hiểu
được khi nhìn thấy một người đàn ông hơn 1.8m trong chiêc áo Brioni lại ngồi
phía sau một phụ nữ mảnh mai.
Langdon và Sienna chạy qua ba khối nhà và đang
tiến gần đến một giao lộ chính thì có tiếng còi ré lên phía trước. Một xe thùng
đen bóng nhoáng rẽ ngoặt ở góc phố, ôm cua vào giao lộ rồi tăng tốc lao thẳng
về phía họ. Chiếc xe thùng trông giống hệt xe của đám lính ở tòa chung cư.
Sienna lập tức ngoặt sang phải và đạp thắng gấp.
Ngực Langdon áp chặt vào lưng cô khi cô cho xe trượt vào một điểm đỗ khuất khỏi
tầm nhìn phía sau một xe tải chờ hàng đã đỗ sẵn. Cô lái chiếc Trike nép sát
hông sau của xe tải và tắt máy.
Họ nhìn thấy chúng ta không!?
Cô và Langdon cúi thấp xuống và đợi. Nín thở.
Chiếc xe thùng phóng ào qua không chút do dự, rõ
ràng là chưa hề nhìn thấy họ. Tuy nhiên, khi chiếc xe lao qua, Langdon thoáng
nhìn thấy người bên trong.
Ở ghế sau, một phụ nữ có tuổi quyến rũ bị hai
người lính kèm chặt giống như một kẻ bị bắt. Đôi mắt bà sụp xuống và đầu bà gật
gù như thể đang bị hôn mê hoặc có lẽ say thuốc. Bà đeo một cái bùa và có mái
tóc bạc dài rũ xuống thành từng lọn.
Trong khoảnh khắc, cổ họng Langdon như nghẹn ứ,
và anh nghĩ mình vừa nhìn thấy một bóng ma.
Chính là người phụ nữ trong ảo giác của anh.
Chương 17
Thị trưởng
bước nhanh ra khỏi phòng điều khiển, đi dọc theo mạn phải tàu The Mendacium, cố
gắng tập trung suy nghĩ. Những gì vừa xảy ra ở khu chung cư tại Florence thật không thể
tưởng tương nổi.
Ông ta đi
vòng quanh con tàu đúng hai vòng rồi bước thẳng về văn phòng của mình và lấy ra
một chai single malt (1) Highland Park năm mươi năm tuổi, ông ta không rót ra
ly mà đặt chai xuống và xoay lưng về phía nó - một cách riêng để nhắc rằng ông
ta vẫn đang kiểm soát đước mọi việc.
Theo bản
năng, cặp mắt ông ta di chuyển tới một tập sách bọc da dày dặn trên giá sách -
một món quà của khách hàng...vị khách mà lúc này ông ta biết rõ
giá sách -
một món quà của khách hàng...vị khách mà lúc này ông ta biết rõ rằng mình đừng
bao giờ nên gặp.
Một năm
trước...làm sao ta biết được chứ?
Thông
thường Thị trưởng không trực tiếp phỏng vấn các khách hàng, nhưng vị khách này
do một nguồn đáng tin cậy giới thiệu nên ông ta đành chấp nhận ngoại lệ.
Hôm đó là
một ngày biển hoàn toàn tĩnh lặng. Vị khách lên boong tàu The Mendacium bằng
trực thăng riêng. Đó là một nhân vật nổi tiếng trong lĩnh vực của ông ta,
khoảng bốn mươi sáu tuổi, râu tóc gọn gàng, và rất cao, với đôi mắt màu lục như
nhìn xoáy vào người khác.
"Ngài
biêt đây" người đàn ông lên tiếng, "một người bạn chung của chúng ta
giới thiệu với Tôi vê các dịch vụ của Ngài". Vị khách dướii cặp chân dài
và tỏ ra hêt sức tự nhiên trong văn phòng được trang bị sang trọng của Thị
trưởng. "Nên cho phép Tôi được nói với những gì Tôi cần."
"Thực
tê thì không cần" Thị trường ngăt lời, đê tỏ rõ với người kia răng ai mới
là
người chủ
động. "Quy tăc của Tôi yêu cầu Ngài không nói gì với Tôi cả. Tôi sẽ giải
thích
những dịch vụ mà Tôi cung câp, và Ngài sẽ quyêt định xem Ngài quan tâm
đên dịch
vụ nào, nêu có."
Vị khách
trông có vé ngạc nhiên nhưng châp thuận và chăm chú lăng nghe. Cuôi cùng, những
gì vị khách cao ngồng muôn hóa ra rât bình thường với Consortium - cơ bản chỉ
là biên ông ây thành "vô hình" một thời gian đê ông ây có thê tránh
xa những cặp măt săn tìm trong lúc theo đuôi một công việc.
Đó là trò trẻ con!
Consortium sẽ hoàn thành công việc này băng cách cho ông
ây một nhân dạng giả và một địa điêm bảo mật, hoàn toàn không có kêt nôi gì,
nổi ông ây có thê làm việc trong bí mật tuyệt đôi - bât kê công việc là
gì.Consortium chưa bao giờ thăc măc xem khách hàng cần đên một dịch vụ vì mục
đích gì, mà luôn chọn cách biêt càng ít vê những người họ làm việc cùng càng
tôt.
Suôt một năm trời, với một khoảng lơi nhuận đáng kinh
ngạc, Thị trường cung câp cho trú ân an toàn cho người đàn ông có đôi măt màu
lục, nhân vật hóa ra là một khách hàng lý tưởng. Thị trường không liên hệ gì
với ông ây, và tât cả mị hóa đơn đêu được trả đúng thời hạn.
Thê rỏi, hai tuần trước, mọi việc thay đôi.
Rât bât ngờ, vị khách hàng liên hệ lại, yêu cầu gặp riêng
Thị trường. Nghĩ đên tông sô tiên vị khách đã thanh toán, Thị trường châp nhận.
Phải khó khăn lăm mới nhận ra người đàn ông râu tóc bù xù
xuât hiện trên tàu chính là nhân vật bảnh bao, điêm tĩnh Thị trưởng đã giao kèo
làm ăn cách đó một năm. Cặp măt màu lục săt lẻm một thời ánh lên vẻ hoang dại.
Trông ông ta cháng khác gì người...bệnh,
Chuyện gì xảy ra với ông ta vậy? ông ta đang làm việc gì
không biêt?
Thị trường dẫn vị khách có vẻ rât bồn chôn vào văn phòng
mình.
"Con quỷ tóc bạc" vị khách lăp băp. "Càng
ngày mụ ta càng tiêp cận gần hơn."
Thị trường lỉêc xuông tập hồ sơ của vị khách, măt dừng
lại ờ bức ảnh một người phụ nữa tóc bạc trông rât quyên rũ. "Vâng"
Thị trường nói, "con quỷ tóc bạc của Ngài. Chúng Tôi đêu biêt rõ ké thù
của Ngài. Và dù mụ có thê rât mạnh nhưng suôt cả năm, chúng Tôi đầ bảo vệ Ngài
trước mụ, và chúng Tôi sẽ tiêp tục làm như vậy."
Người đàn ông măt xanh lục dùng ngón tay cuộn những lọn
tóc nhờn dâu đày vẻ
bồn chôn. "Đừng đê cho vé đẹp của mụ đánh lừa ông,
mụ ta là một kẻ thù nguy hỉêm."
Đúng. Thị trường nghĩ, nhưng vẫn cảm thây không hài lòng
vì vị khách của mình lại gây chú ý cho một người có sức ảnh hường đên vậy.
Người phụ nữ tóc bạc có khả năng tỉêp cận và nguồn lực to lớn, do đó bà ta
không phải là hạng đôi thủ mà Thị trưởng muôn đôi đâu.
"Nêu mụ hay lũ quỷ của mụ tìm ra Tôi../', vị khách
băt đâu nói.
"Họ sẽ không làm được", Thị trưởng trân an.
"Không phải chúng Tôi đầ che gỉâu Ngài và cung câp mọi thứ Ngài yêu cầu
u?"
"Phải" người đàn ông nói. "Thê nhưng, Tôi
sẽ ngủ ngon hơn nêu../' ông ta ngừng lại, cô tĩnh tâm. "Tôi cân bỉêt rằng
bêu có chuyện gì xảy ra với Tôi, Ngài sẽ thực hiện nôt những nguyện vọng cuôi
cùng của Tôi."
"Nguyện vọng đó là gì?"
Người đàn ông thò tay vào túi và lây ra một phong bì nhỏ
dán kín. "Nội dung bên trong phong bì này là mằ truy cập một két an toàn ờ
Florence. Bên trong
két, Ngài sẽ thây một vật nhỏ. Nêu có chuyện gì xảy ra
với Tôi, Tôi cần Ngài chuyên vật đó đi thay Tôi. Đó là một món quà."
"Được rỏi!" Thị trưởng câm bút đê ghi chép lại.
"Và Tôi sẽ chuyên nó cho ai?" "Cho con quỷ tóc bạc."
Thị trường ngước lên. "Một món quà cho kẻ khiên Ngài
khô sờ ư?"
"Nhưng là cái gai cho mụ." Măt ông ta ánh lên
vẻ man dại. "Một lưỡi câu nhỏ xíu chê tác rât khéo léo từ xương. Mụ ta sẽ
phát hiện ra đó là một tâm bản đô... Virgil của riêng mụ...một tùy tùng theo
tới trung tâm địa ngục của mụ."
Thị trường săm soi vị khách một lúc lâu. "Sẽ đúng
như Ngài muôn. Coi như mọi việc đầ hoàn thành."
"Vân đê thời gian sẽ rât quan trọng" người đàn
ông đê nghị. "Món quà không được chuyên đi quá sớm. Ngài phải giữ kín nó
cho tới khi../' ông ta ngừng lại, bong nhiên chìm trong suy tưởng.
"Tới khi nào?" Thị trường nhăc.
Người đàn ông đứng phăt dậy và bước vòng ra phía sau bàn
của Thị trường, vớ lây một chiêc bút đánh dâu màu đỏ và khoanh vào một ngày
trên cuôn lịch bàn cá nhân của Thị trường một cách điên cuông. "Cho tới
ngày này."
Thị trường mím môi và thờ hăt ra, cô nén sự khó chịu
trước thái độ trơ trẽn của vị khách. "Hỉêu rỏi" Thị trường nói.
"Tôi sẽ không làm gì cho tới ngày được đánh dâu, đên thời điêm đó thì vật
trong két an toàn, cho dù nó là gì, sẽ được gửi cho người phụ nữ tóc bạc. Tôi
hứa với Ngài." ông ta đêm sô ngày trên quyên lịch tới đúng ngày đã được
khoanh lại. "Tôi sẽ thực hiện nguyện vọng của Ngài đúng mười bôn ngày nữa
tính từ lúc này."
"Và không được sớm hơn dù chỉ một ngày!" vị
khách nhăc nhờ vẻ bồn chôn.
"Tôi hỉêu", Thị trường quả quyêt. "Không
sớm hơn một ngày nào."
Thị trường cầm lấy phong bì, nhét vào tập tài liệu của vị
khách, và viêt những ghi chú cần thiêt đê đảm bảo răng những nguyện vọng của
khách hàng được thực hiện chính xác. Vị khách không mô tả đặc điêm đích xác của
vật trong két an toàn, và Thị trường cũng muôn mọi việc cứ như thê này. Không
đê tâm nhiêu là một nên tảng trong trỉêt lý của Consortium. Cung câp dịch vụ.
Không đặt câu
hỏi. Không phán xét.
Vai vị khách chùng xuông và ông ta thờ hăt ra nặng nê.
"Cảm ơn Ngài."
"Còn gì nữa không?" Thị trưởng hỏi, vẻ rât muôn
tránh xa vị khách đã hoàn toàn biên đôi này.
"Còn, vẫn còn." ông ta thò tay vào túi và lây
ra một thẻ nhớ màu đỏ thẫm nhỏ nhán. "Đây là một tệp video." ông ta
đặt thẻ nhớ trước mặt Thị trường. "Tôi muôn nó được đưa đên cho truyên
thông thê giới."
Thị trường tò mò ngăm nhìn vị khách. Consortium thường
truyên phát đi rât nhiêu thông tin cho khách hàng, nhưng đê nghị của người đàn
ông này có gì đó không ôn. "Cũng đúng ngày đó u?", Thị trưởng hỏi, ra
hiệu vê phía cái vòng tròn nghệch ngoặc trên cuôn lịch của mình.
"Đúng ngày đó", vị khách trả lời. "Không
sớm hơn một khăc."
"Hỉêu!"Thị trường đính những thông tin phù hợp
vào thẻ nhớ màu đỏ. "Vậy là xong phải không?" ông ta đứng lên, muôn
kêt thúc cuộc gặp gỡ.
Vị khách vẫn ngôi yên. "Chưa, còn một điêu cuôi
cùng."
Thị trường lại ngôi xuông.
Đôi măt màu lục của vị khách lúc này trông dữtợn.
"Sau khi Ngài chuyên Video này đi, Tôi sẽ trờ thành một người rât nôi
tiêng."
Ông đầ là một người nôi tiêng rỏi đây thôi, Thị trường
nghĩ bụng và nhớ tới những thành quả ân tượng của vị khách hàng.
"Và Ngài cũng sẽ có công", người đán ông nói.
"Dịch vụ Ngài cung câp giúp Tôi tạo ra kiệt tác...Một tác phâ nghệ thuật
sẽ làm thay đôi thê giới. Ngài nên tự hào với vai trò của mình."
"Cho dù kiệt tác của Ngài là gì", Thị trưởng
nói với vẻ nôn nóng càng lúc càng tăng, "Tôi cũng đầ rât vui vì Ngài đầ có
sự riêng tư cần thỉêt đê tạo ra nó."
"Đê tỏ lòng bỉêt ơn, Tôi mang tới cho Ngài một món
quà chia tay." Ng ười đàn ông nhêch nhác lại thò tay vào túi. "Một
cuôn sách."
Thị trường tự hỏi phải chăng cuôn sách này chính là tác
phâm nghệ thuật bí mật vị khách đầ dày công tạo ra suôt thời gian qua.
"Ngài đầ viêt cuôn sách này u?"
"Không." VỊ khách đặt một tập sách đồ sộ lên
bàn. "Hoàn toàn ngƯợc lạL.cuôn
sách này được vỉêt ra cho Tôi."
Thị trường nhìn cuôn sách mà vị khách vừa đưa ra bầng vé
khó hiêu. ông ta nghĩ thứ này đước viêt ra cho ông ta u? Cuôn sách là một tác
phâm văn học kinh điên...được vỉêt vào thê kỷ XIV.
"Hẫy đọc nó", vị khách nài nỉ kèm theo một nụ
cười kỳ quái. " Nó sẽ giúp Ngài hỉêu tât cả những gì Tôi đã làm."
Nói xong, vị khách nhêch nhác đứng lên, chào tạm biệt và
rời đi ngay lập tức.
Thị trường nhìn qua cửa sô văn phòng mình trong khi trực
thăng của vị khách rời khỏi sàn tàu và quay trờ lại phía bờ biên nước Ý.
Lúc đó Thị trường mới hướng sự chú ý trở lại cuôn sách
lớn trước mặt mình. Những ngón tay đầy do dự của ông mờ trang bìa da và lật tới
phân đâu tiên, khô thơ mờ đâu của tác phâm được vỉêt tay rât to đẹp, chiêm trọn
toàn bộ trang đâu tiên.
"Hỏa Ngục
Giữa chừng trong hành trình cuộc đời chúng ta
Vì đã mât dâu con đường phía trước."
Trên trang đôi diện, vị khách đã ký vào sách với một lời
nhăn viêt tay:
"Bạn thân mên của Tôi, cảm ơn bạn vì đã giúp Tôi tìm
ra đường đi. Thê giới cũng cảm ơn bạn!"
Thị trường không hiêu lời nhăn này có nghĩa gì, nhưng ông
ta thây đọc thê là đủ. Ông ta gập sách lại và đặt nó lên giá sách. Thật may,
môi quan hệ công việc với nhân vật kỳ lạ này săp châm dứt. Thêm mười bôn ngày
nữa thôi, Thị trường thầm nghĩ, và hướng ánh măt vê phía cái vòn tròn đỏ rực
nghệch ngoạc trên cuôn lịch cá nhân của mình.
Những ngày tỉêp theo, Thị trường cảm thây rât không an
tâm với vị khách.
Người đán ông này dường như đã bị quẫn trí. Tuy nhiên,
bât kê trực giác của Thị trưởng thê nào, thời gian vẫn cứ trôi đi mà không xảy
ra biên cô gì.
Thê rỏi, ngay trước cái ngày đã đước khoanh tròn, một
loạt sự việc tai hại xảy ra ờ Florence. Thị trưởng đã cô gáng giải quyêt sự cô,
nhưng nó nhanh chóng vượt ngoài tầm kiêm soát. Cuộc khủng hoảng lên đên đinh
diêm băng sự việc vị
khách của ông ta leo lên tháp Badia.
Ông ta nhảy xuông...và chêt.
Mặc dù mât đi một khách hàng, nhát là lại theo cách thê
này, nhưng Thị trường vẫn giữ đúng lời với vị khách, ông ta nhanh chóng chuân
bị thực hiện đúng lời hứa cuôi cùng của mình với người đã khuât - chuyên cho
người phụ nữ tóc bạc những gì bên trong cái két an toàn ờ Florence - và vân đê
thời gian chuyên hàng, như ông ta đã được lưu ý, là rât quan trọng.
Không được sớm hơn cái ngày đã khoanh tròn trên lịch của
Ngài.
Thị trường trao phong bì có chứa mật mầ két an toàn cho
Vayentha, người được cử đên Florence đê lây thứ bên trong - cái "iưôi câu
nhỏ xíu chê tác rât khéo léo" này. Tuy nhiên, lúc Vayentha gọi lại, tin
tức của cô ta vừa gây sôc vừa rât đáng ngại. Những gì bên trong két a toàn đã
bị lây mât, và Vayentha may măn chạy thoát. Bâng cách nào đó, người phụ nữ tóc
bạc biêt được tài khoản và đã dùng ảnh hưởng của mình đê tiêp cận cái két, đông
thời cũng ra lệnh băt giữ bât kỳ ai khác xuât hiện đê tìm cách mờ két.
Việc đó xảy ra ba ngày trước.
Vị khách có ý định rât rõ ràng rằng muôn cái vật đã bị
đánh căp là lời nguyên cuôi cùng của ông ta dành cho người phụ nữ tóc bạc - một
tiêng nói cay độc từ dưới mô.
Nhưng nó đã được nói quá sớm.
Từ lúc đó, Consortium bước vào một cuộc tranh giành quyêt
liệt - sử dụng mọi nguồn lực của mình đê bảo vệ những nguyện vọng cuôi cùng của
khách hàng, cũng như bảo vệ chính mình. Trong quá trình ây, Consortium đã vượt
qua rât nhiêu ranh giới mà Thị trưởng biêt sẽ rât khó quay trờ lại được nữa.
Lúc này, trước tât cả những gì đang diễn ra ờ Florence, Thị trường đăm đăm nhìn
xuông mặt bàn và tự hỏi tương lai sẽ ra sao.
Trên cuôn lịch của ông ta, cái vòng tròn nghệch ngoạc của
vị khách trừng trừng nhìn lại - một vòng tròn đỏ thẫm bao quanh một ngày rât
đặc biệt.
Ngày mai.
Đầy miền cưỡng, Thị trưởng nhìn chai Scotch trên bàn
trước mặt mình. Thê rôi, lân đầu tiên trong mười bôn năm, ông ta rót ra một ly
và uông cạn chỉ với một hớp duy nhât.
***
ờ sàn tàu phía dưới, điêu phôi viên Laurence Knowlton rút
chiêc thẻ nhớ màu đỏ khỏi máy tính và đặt lên bàn trước mặt mình. Đoạn video là
một trong những điêu lạ lùng nhât anh từng xem.
Và nó dài đúng chín phút...nêu tính theo từng giây.
Cảm thây sợ hãi một cách khác thường, anh ta đứng lên và
sải bước trong căn phòng nhỏ xíu của mình, tự hỏi có nên đưa đoạn video kỳ quái
kia cho Thị trưởng hay không.
Cứ việc thực hiện nhiệm vụ của mày, Knowlton tự nhủ.
Không hỏi. Không phán xét.
Cô giũ đoạn video ra khỏi đâu anh ta đánh dâu vào sô công
việc một nhiệm vụ phải làm. Ngày mai, đúng như yêu cầu của vị khách, anh ta sẽ tung tệp video cho giới truyên
thông.
(1) Loại rượu whisky chưng cất từ mạch nha theo quy
trình đơn cất tạt Scotland. Nhà máy rượu Highland Park đặt tại Kirkvvall,
Orkney là một trong rất ít cơ sở ủ rượu bằng loại lúa mạch riêng.
Chương 18
Viale Niccolò Machiavelli được xem là đại lộ đẹp nhất ở
Florence. Với những khúc cong hình chữs rất rộng uốn lươn qua cảnh quan um tùm
cây cối cùng những bờ rào và hàng cây rụng lá theo mùa, con đường này là nơi
yêu thích của những người đạp xe và người mê dòng xe Ferrari.
Sienna thành thục điề khiển chiếc Trike băng qua từng
khúc quanh khi họ bỏ lại phía sau khu dân cư bẩn thỉu và tiến vào vùng không
khí sạch sẽ, phủ kín tuyết của bờ tây thành phố. Họ vừa chạy qua một tháp đồng
hồ nhà nguyện đang điểm đúng 8 giờ sáng.
Langdon bám chặt sau xe, tâm trí anh đang xoay mòng mòng
với những hình ảnh khó hiểu về hỏa ngục của Dante...và gương mặt bí ẩn của
người phụ nữ xinh đẹp tóc bạc mà anh vừa nhìn thấy. Bà ấy bị hai gằ lính to lớn
kẹp chặt ở băng ghế sau của xe thùng.
Dù bà ấy là ai, Langdon thầm nghĩ, lúc này bọn họ cũng đã
giữ bà ấy.
"Người phụ nữ trên xe", Sienna nói át tiếng
động cơ chiếc Trike. "Anh có chắc đó chính là người phụ nữa trong ảo giác
của anh không?"
"Chắc chắn."
"Vậy nhất định anh đã từng gặp bà ấy vào một lúc nào
đó trong hai ngày qua. Vấn đề là tại sao anh cứ liên tục nhìn thấy bà ấy...và
tại sao bà ấy lại liên tục nhắc anh tìm kiếm và sẽ thấy."
Langdon đồng ý. "Tôi không biết...Tôi không nhớ tì
gì về cuộc gặp với bà ấy, nhưng mỗi lần nhìn thấy gương mặt bà, Tôi lại có cản
giác mẫnh liệt rằng Tôi cần giúp bà ấy."
Rất xin lỗi! Rất xin lỗi!
Langdon bỗng tự hỏi phải chăng lời xin lỗi kỳ lạ rOia ờ anh chính là dành cho người phụ nữ bạc. Hay mình đã làm hỏng việc của bà ấy? Ý nghĩ đó lại hình thành một nút thắt trong lòng anh.
Langdon có cảm giác kho vũ khí của anh đã bị lấy mất một
món quan trọng. Mình không nhớ gì cả. Langdon có khả năng nhớ chính xác mọi
hình ảnh từ thời còn niên
thiếu, vậy nên trí nhớ là thứ
tài sản trí tuệ mà anh phải dựa vào nhiều nhất, vếi một con người đã quen với
việc nhớ được mọi chỉ tiết phức tạp c ủa những gì mình nhìn thấy xung quanh,
thì bị mất trí chẳng khác gì cố cho một máy bay hạ cánh trong đêm tối mà không
hề có ra đa.
"Có vẻ như cơ hội duy nhất của anh để tìm ra câu trả
lời là giải mã bức vực địa ngục", Sienna nói. "Cho dù nó ấn chứa bí
mật gì...dường như đó cũng chính là lý do anh bị săn đuổi."
Langdon gật đầu, suy nghĩ về từ catrovacer được viết trên
nền tranh - nơi có những xác người quằn quại trong Hòa ngục của Dante.
Đột nhiên, một ý nghĩ rất rõ bật ra trong đầu Langdon.
Mình tinh
dậy tại Florence...
Trên thế
giới này, không thành phố nào có quan hệ gật gũi với Dante hơn
Florence. Dante Alighieri sinh ra ở Florence, lớn lên ở
Florence. Theo truyền thuyết, ông phải lòng nàng Beatrice ở Florence, và bị đày
ải khỏi quê nhà
Florence, phải đi lang thang khắp miền quê nước Ý trong
nhiều năm, với nỗi nhớ nhà da diết.
Ngươi sẽ rời bỏ mọi thứ người yêu quý nhất, Dante viết về
sự đày ải. Đây chính là mũi tên đầu tiên mà cây cung đày ải bắn đi.
Khi Langdon nhớ ra những lời ấy trong Khổ XVII của Thiên
đàng, anh nhìn sang bên phải, cố phóng tầm mắt qua sông Amo về phía những ngọn
tháp phía xa của
thành cổ Florence.
Langdon hình dung ra tổng thế thành phố xưa - một mê cung
toàn du khách, những chỗ đông nghịt, và ngựa xe hối hả qua những thành phố chật
hẹp xung quanh nhà thờ lớn lừng danh, các bảo tàng, nhà nguyện và khu mua sắm
của Florence. Anh phỏng đoán rằng nếu anh và Sienna rời khỏi chiếc Trike, hai
người có thế mất tăm trong đám đông.
"Chúng ta cần tới thành cổ", Langdon nói.
"Nếu có câu trả lời thì đó chính là nơi có thế tìm ra. Thành cổ Florence
là toàn bộ thế giới của Dante."
Sienna gật đầu đồng ý và nói qua vai, "Chỗ đó cũng
an toàn hơn - có nhiều nổi đế ấn nấp. Tôi sẽ đi tới cổng chào Porta Romana, và
từ đó chúng ta có thế vượt sông."
Sông, Langdon nghĩ với một thoáng lo lắng. Hành trình đi
xuống địa ngục nổi tiếng của Dante cũng bắt đầu bằng việc vượt qua một con
sông.
Sienna tăng ga, và khi cảnh vật vùn vụt trôi về phía sau,
trong đầu Langdon điếm lại những hình ảnh của hỏa ngục, những người chết và
đang hấp hối, mười rãnh Malebolge với vị bác sĩ dịch hạch cùng một từ lạ lùng -
CATROVACER. Anh
suy nghĩ về những từ viết vội góc dưới bức tranh vượt địa
ngục - Chỉ có thế nắm bắt được chân lý qua cặp mắt chết chóc - và băn khoăn
không biết câu nói dữ dội đó có phải trích từ trường ca của Dante không.
Mình không nhận ra nó.
Langdon thuộc lòng tác phẩm của Dante, và khả năng xuất
sắc của anh, với tư cách một nhà sử học nghệ thuật chuyên về biếu tương, khiến
nhiều lúc người ta phải mời đến anh đế giải thích vô số biểu tượng có sẵn trong
thế giới của Dante. Thật trùng hợp, hoặc có lẽ gần như trùng hợp, anh từng có
bài giảng về Hỏa ngục của Dante khoảng hai năm trước.
Dante thần thánh. Những biếu tương của Địa ngục.
Dante Alighỉeri đẫ trờ thành một trong những biếu tương
sùng bái đích thực của lịch sử, khuấy động việc thành lập các hội Dante trên
khắp thế giới. Chỉ nhánh lâu đời nhất ở Mỹ đươc Henry Wadsworth Longfellow
thành lập năm 1881 tại Cambridge, bang Massachusetts. Nhóm thi sĩ Firesỉde Poet
nổi tiếng ở New England là nhóm đầu tiên ở Mỹ dịch Thần khúc, và bản dịch này
vẫn nằn trong số những bản dịch đươc đánh giá cao và đọc nhiều nhất cho tới
ngày nay.
Là một sinh viên nổi tiếng về tác phẩm của Dante, Langdon
từng được đề nghị diễn thuyết tại một sự kiện lớn do một trong những hội Dante
lâu đời nhất chủ trì - Società Dante Alighỉeri Vỉenna. sự kiện này được tổ chức
tại Viện Hàn Lâm Khoa học Vỉenna. Nhà tài trợ chính của sự kiện - đã tìm cách
mƯợn hẳn giảng đ ường với hai nghìn chỗ ngồi của Viện.
Khi Langdon đến sự kiện đó, anh được chủ tọa hội thảo đón
và dẫn vào trong.
Lúc họ đi qua đại sảnh, Langdon không thế không chú ý đến
năm từ được viết băng kiểu chữ khổng lồ choán hết bức tường phía sau: NẾU CHÚA
SAI THÌ SAO?
"Là một tác phẩm của Lukas Troberg", vị chủ tọa
nói nhỏ. "Dự án nghệ thuật mới nhất của chúng Tôi. Anh nghĩ sao?"
Langdon nhìn dòng chữ đồ sộ, không biết phải phản ứng
sao."ừm...nét bút của ông ấy rất phóng khoáng, nhưng khả năng kiếm soát
chủ thế giả định của ông ấy dường như hơi yếu."
Vị chủ tọa nhìn anh không hiểu. Langdon hy vọng cuộc tiếp
xúc của anh với cử tọa sẽ khá hơn.
Cuối cùng, khi bước lên sân khấu, Langdon nhận được một
tràng pháo tay nhiệt
thành từ đám đông đứng kín trong phòng.
"Thưa quý ông, quý bà!", Langdon bắt đầu nói,
giọng anh vang lên trong loa. "VVIIIkommen,
bienvenue, welcome."
Câu chào nổi tiếng từ Cabaret! (1) khiến đám đông cười ồ
tán thưởng.
"Tôi vừa được thông báo rằng cử tọa của chúng ta tối
nay không chỉ có các hội viên Hội Dante, mà còn có nhiều nhà khoa học và sinh
viên dự khán, những người có lẽ cũng đang khám phá Dante lần đầu tiên. Vì vậy,
với những cử tọa quá bận học hành nên không đọc được các thiên trường ca Ý thời
trung cổ, Tôi n ghĩ mình nên bắt đầu bằng phần giới thiệu tổng quan về Dante -
cuộc đời, tác phẩm và lý do vì sao ông được coi là một trong những nhân vật có
ảnh hưởng nhất trong lịch sử."
Tiếng vỗ tay lại vang lên.
Langdon trình diễn một loạt hình ảnh của Dante bằng một
thiết bị điều khiến từ xa nhỏ xíu trong tay, đầu tiên là bức chân dung to bằng
người thật của Andrea del Castagno vẽ thi sĩ đứng trong khung cửa, tay cầm một
cuốn sách triết học.
"Dante Alighỉeri", Langdon bắt đầu trình bày.
"Nhà văn kiêm triết gia Florence này sống từ năm 1265 đến 1321. Trong bức
chân dung này, giống như trong tất cả các bức vẽ khác, ông đội trên đầu một
chiếc cappuccio màu đỏ - loại khăn trùm vừa khít đầu có vạt che tai - cùng với
áo choàng Lucca màu đỏ thẫm của ông, trở thành hình ảnh Dante được tái tạo
nhiều nhất."
Langdon chuyến tới chân dung Dante của Botticelli lấy từ
phòng trưng bày Uffỉzi, nhấn mạnh đến những đặc điếm đáng chú ý nhất của Dante
là cằm bạnh và mũi khoằm. "Đây, gương mặt độc nhất vô nhị của Dante một
lần nữa được khuôn bên trong chiếc cappuccỉo màu đỏ của ông, nhưng trong ví dụ
này, Botticelli đã thêm một vòng nguyệt quế lên khăn của ông như một biểu tương
về năng lực chuyên môn - trong trường hợp này là nghệ thuật thi ca - một biếu
tương truyền thông vay mƯợn từ Hy Lạp cổ đại và vẫn được sử dụng ngày nay trong
các nghi thức tôn vinh những thi sĩ đoạt giải và cả những người giành giải
Nobel."
Langdon chuyến nhanh qua vài hình ảnh nữa, tất cả đều thế
hiện Dante đội mũ trùm đỏ, áo thụng đỏ, đội vòng nguyệt quế, và có cái mũi rất
nổi bật. "Và đế t ổng hợp cái nhìn của quý vị về Dante, thì đây là một bức
tương ở Quảng trường Santa Croce...và, dĩ nhiên, cả bức bích họa nổi tiếng của
Giotto ở Nhà Nguyện Bargello."
Langdon đế nguyên hình ảnh bức bích họa của Giotto trên
màn hình và tiến ra giữa sân khấu.
"Như các vị đương nhiên đã biết, Dante nổi tiếng
nhất với kiệt tác văn học Thần khúc - một câu chuyện cực kỳ sinh động về chuyến
du hành của tác giả vào địa ngục, vượt qua luyện ngục, và cuối cùng bước lên
thiên đường để trò chuyện với Chúa. Theo những chuấn mực hiện đại, Thần khúc
chẳng có gì hài hước cả. Nó được coi là hài kịch vì một lý do hoàn toàn khác, ờ
thế kỷ XIV, nền văn học Ý, theo yêu cầu, được chia thành hai loại: Bi kịch, đại
diện cho văn học cấp cao, được viết bằng tiếng Ý chính thống, hài kịch, đại
diện cho văn học cấp thấp, được viết bằng phương ngữ và dành cho đại
chúng."
Langdon chuyến các cảnh sang bức bích họa của Michelỉno,
minh họa Dante đang đứng bên ngoài tường thành Florence, trên tay cầm bản Thần
khúc, ờ phía sau,
ngọn núi bậc thang của luyện ngục vươn cao, vượt lên
những cánh cổng địa ngục. Hiện nay bức vẽ được treo tại Nhà thờ lớn Santa Marỉa
del Fiore - được biết đến nhiều hơn ở Florence với tên gọi II Duomo.
"Như quý vị có thế đoán ra từ nhan đề", Langdon
tiếp tục. "Thần khúc được viết bằng phương ngữ, thứ ngôn ngữ của giới bình
dân. Nó hòa trộn với tôn giáo, lịch sử, chính trị, triết học và cả bình luận xầ
hội vào một tấm thảm hư cấu mà, dù rất uyên bác, quần chúng nhân dân vẫn dễ
dàng lĩnh hội được nó. Tác phẩm trở thành một trụ cột quan trọng của văn hóa Ý
đến mức phong cách hành văn của Dante được công nhận như là quy chuấn cho ngôn
ngữ Ý hiện đại."
Langdon dừng lại một chút để tạo hiệu ứng rồi nói nhỏ.
"Thưa các bạn, không thế nào đánh giá hết được tầm ảnh hưởng từ tác phẩm
của Dante Alighỉeri. Xuyên s uốt lịch sử, có lẽ chỉ với ngoại lệ duy nhất là
Kinh Thánh, không một tác phẩm văn học, nghệ thuật hoặc âm nhạc nào truyền cảm
hứng cho nhiều tác phẩm ca ngơi, mô phỏng, biến thế và chú giải hơn Thần
khúc."
Sau khi liệt kê một loạt tên tuổi nhà soạn nhạc, họa sĩ
và tác giả trứ danh đã sáng tạo những tác phấm dựa trên thiên trường ca của
Dante, Langdon lướt nhìn đám đông. "Xin hãy cho Tôi biết, có tác giả nào ở
đây tối nay không?"
Gần như một phần ba số cánh tay giơ lên. Langdon nhìn đầy
sững sờ. ôi chao, hoặc đây là nhóm cử tọa tài năng nhất trên Trái đất, hoặc bài
trình bày điện tử hôm nay đã thật sự phát huy tác dụng.
"Chà, như tất cả các quý vị tác giả đã biết, một nhà
văn không đánh giá điều gì cao hơn lời khen ngỢi sách - những lời bình luận dù
chỉ một dòng của một nhân vật có ảnh hưởng cũng giúp người khác muốn mua tác
phẩm của Quý vị. Và, ở thời trung cổ, cũng đã có những lời khen ngỢi sách,
Dante đã giành không ít lời như vậy."
Langdon đổi hình ảnh. "Quý vị thấy thế nào nếu có
được dòng này trên áo bìa sách của mình?"
"Trên Trái đất này chưa từng có nhân vật nào vĩ đại
hơn ông ấy."
Tiếng thì thào ngạc nhiên lan khắp đám đông.
"Vâng", Langdon nói, "chính là ngài
Michelangedo mà tất cả các vị đều biết qua Nhà nguyện Sistine và bức tượng
David. Không chỉ là họa sĩ và nhà điêu khắc bậ thầy, Michelangelo còn là một
thi sĩ kiệt xuất, xuất bản gần ba trăm bài thơ, trong đó gồm một bài có nhan đề
Dante, dành tặng cho người có cái nhìn khắc
nghiệt về địa ngục, nguồn cảm hứng cho tác phẩm Phán
quyết cuối cùng của mình. Và nếu Quý vị không tin Tôi, xin hãy đọc Khổ III
trong Hoả ngục của Dante và sau đó tới thăm Nhà nguyện Sistine, Quý vị sẽ thấy
hình ảnh rất quen thuộc này ngay phía trên bàn thờ."
Langdon chuyển đến hình ảnh của chi tiết kinh khủng về
một con thú vạm vỡ đang vung mái chèo khổng lồ về phía đám người co rúm lại với
nhau. "Đây là gã chèo đò dịa ngục của Dante, Charon, đang dùng mái chèo
đánh đập các hành k hách không theo hàng lối."
Lúc này Langdon chuyển sang một cảnh mới - chi tiết thứ
hai về bức Phán quyết cuối cùng của Michelangelo - một người đang bị đóng đinh
trên thánh giá. "Đây là nhân vật Haman Xấu xa *, người mà theo Kinh Thánh,
bị treo cổ tới chết. Tuy nhiên trong trường ca của Dante, ông ta bị đóng đinh
lên thánh giá. Như Quý vị có thê’ thấy ở đây, trong Nhà nguyện Sistine,
Michelangelo chọn câu chuyện của Dante thay cho câu chuyện trong Kinh
Thánh", Langdon cười hạ giọng thì thào, "Xin đừng nói với Đức Thánh
Cha!"
Đám đông cười ồ.
"Hỏa ngục của Dante tạo ra một thế giới đau đớn và
thống khổ vượt xa mọi tưởng tượng trước đó của con người, và đúng là tác phẩm
của ông định nghĩa cho những cái nhìn hiện đại của chúng ta về địa ngục."
Langdon dừng lại. "Và xin hãy tin Tôi, Nhà thờ Công giáo phải cảm ơn Dante
rất nhiều vì điều đó. Hỏa ngục của ông hăm dọa những tín đồ sùng đạo suốt nhiều
thế kỷ, và rõ ràng làm cho số người sỢ hãi chăm đi lễ nhà thờ tăng lên gấp
ba."
Langdon chuyển hình ảnh. "Và điều này dẫn tới lý do
tại sao tất cả chúng ta ở đây tối nay."
Màn hình lúc này hiển thị nhan đề bài giảng của anh: DATE
THẦN THÁNH:
NHỮNG BIỂU TƯỢNG CỦA ĐỊA NGỤC.
"Hỏa ngục của Dante là một nơí rất phong phú về biếu
tượng và hình tượng, đến mức Tôi thường dành cả một khóa học kéo dài hết học kỳ
cho đề tài này. Và tối nay, Tôi nghĩ không có cách nào để tiết lộ những biếu
tượng trong Hỏa ngục của Dante tốt hơn là sánh bước cùng ông ấy...qua những
cánh cổng của địa ngục."
Langdon bước tới mép sân khấu và quan sát đám đông.
"Bây giờ, nếu chúng ta có kế hoạch làm một cuộn du ngoạn qua địa ngục, Tôi
đề xuất chúng ta nên sử dụng bản đồ. Và không có tấm bản đồ nào vẽ địa ngục của
Dante hoàn chinh và chính xác hơn tấm do Sandro Botticelli vẽ."
Anh bấm điều khiển, và bức vực Địa Ngục kinh khủng của
Botticelli hiện ra trước mắt đám đông. Anh nghe rõ vài tiếng xuýt xoa khi mọi
người nhìn thấy những cảnh hãi hùng đang diễn ra trong cái hang ngầm hình phễu.
"Không như một số họa sỹ, Botticelli cự kỳ trung
thành trong cách hiểu văn bản c ủa Dante. Thực tế, ông ấy bỏ rất nhiều thời
gian đọc Dante, đến mức nhà sử học nghệ thuật vĩ đại Giorgio Vasari đã phải nói
rằng sự ám ảnh của Botticelli đối với Dante đã dẫn tới "những xáo trộn
nghiêm trọng trong đời sống của ông".
Botticelli sáng tạo hơn hai chục tác phẩm nữa liên quan
đến Dante, nhưng tấm bản đồ này là tác phẩm nổi tiếng nhất."
Rồi Langdon xoay người, chỉ vào góc trên bên trái của bức
vẽ. "Hành trình của chúng ta bắt đầu từ chỗ này, bên trên mặt đất, nơi Quý
vị có thể nhìn thấy Dante trong sắc phục đỏ, cùng với người dẫn đường của mình,
Virgil, đứng bên ngoài những cánh cổng địa ngục. Từ đây, chúng ta sẽ đi xuống
dưới, qua chín tầng hỏa ngục của Dante, và cuối cùng đối diện với..."
Langdon nhanh chóng chuyển sang một cảnh mới - hình phóng
to quỷ Satan đúng như mô tả của Botticelli trong bức tranh này - một Quỷ vương
ba đầu kinh khủng đang ăn thịt ba người, mỗi miệng một người.
Nghe rõ tiếng đám đông ồ lên.
"Chỉ là lướt qua những điểm thú vị sắp tới",
Langdon tuyên bố. "Nhân vật đáng sỢ này chính là nơi hành trình tối nay
kết thúc. Đây là tầng địa ngục thứ Chín, nơi quỷ Satan cư trú. Tuy nhiên...'',
Langdon dừng lại. "Đến được đó cũng khá thú vị, cho nên chúng ta quay trở
lại một chút...trở lại những cánh cổng địa ngục, nơi hành trình của chúng ta
bắt đầu."
Langdon chuyển thêm một cảnh nữa - một tờ in thạch bản
của Gustave Doré mô tả lối vào dạng hầm tối được khoét trên bề mặt vách đá ảm
đạm. Dòng chữ khắc phía trên lối vào đề: vút Bỏ MỌI HY VỌNG, NHỮNG KẺ BƯỚC VÀO
ĐÂY.
"Vì vậy...", Langdon mỉm cười nói. "Chúng
ta đi vào chú?"
***
Tiếng bánh xe rít lên đâu đó rất to, và cử tọa trước mắt
Langdon tan biến. Anh c ảm thấy mình chúi về phía trước, và đập mạnh vào lưng
Sienna khi chiếc Trike phanh kít lại giữa đại lộ Viale Machiavelli.
Langdon loạng choạng, đầu vẫn đang nghĩ tới những cánh
cống địa ngục đầy đe dọa trước mắt của mình. Khi lấy lại tư thế, anh nhận ra
ngay mình đang ở đâu.
"Có chuyện gì vậy?", anh hỏi.
Sienna chỉ về phía cổng chào Porta Romana - cánh cổng
bằng đá cổ kính được xem như lối vào thành cổ Florence - ở phía trước khoảng ba
trăm thước. "Robert, có chuyện gì!"
(1) Cabaret là loại hình giải trí bao gồm hài kịch,
âm nhạc và khiêu vũ, thường diễn ra ở quán ăn hay hộp đêm với sân khấu. Chương
trình này thường bắt đầu với câu chào bằng ba thứ tiếng Đức, Pháp, Anh như
trên.
Chương 19
Đặc vụ Bruder đứng trong căn hộ tồi tàn và cố gắng hiểu
những gì anh ta đang nhìn thấy. Ai lại sống trong chỗ của nỢ này chú?Nơi đây
được bày trí sơ sài và xập xệ, giống như một phòng ký túc đại học được đặt vào
một nhà kho vậy.
"Đặc vụ Bruder?", một người của anh ta gọi vọng
lại từ trong sảnh. "Ngài cần xem thứ này."
Trong lúc bước tới sảnh, Bruder thắc mắc liệu cảnh sát
địa phương đã bắt được Langdon chưa. Bruder muốn giải quyết cuộc khủng hoảng
này "tại chỗ", nhưng việc để Langdon chạy thoát khiến anh ta không
còn lựa chọn nào ngoài đề nghị cảnh sát địa phương hỗ trợ và đặt trạm kiểm soát
trên đường. Một chiếc xe máy nhanh nhẩu trên đường phố như mê cung của Florence
sẽ dễ dàng tránh khỏi đội xe thùng của Bruder, với những ô cửa kính bằng
polycarbonate nặng nề và lốp xe đặc chống thủng giúp họ không dễ bị xâm hại
nhưng lại di chuyển vô cùng ì ạch. Cảnh sát Ý có tiếng là không chịu hợp tác
với người ngoài, nhưng tổ chức của Bruder có ảnh hưởng rất lớn - cảnh sát, các
lãnh sự quán, đại sứ quán. Khi bọn ta có yêu cầu, không ai dám thắc mắc.
Bruder bước vào phòng làm việc nhỏ nơi người của anh ta
đứng trước một máy
tính đã mở và gõ lên lởp lót cao su. "Đây chính là
máy anh ta đã sử dụng", người kia nói. "Langdon dùng nó để truy cập
vào email của mình và thực hiện một số lệnh tìm kiếm. Các tệp tin vẫn còn lưu
dấu vết."
Brudertiến lại phía bàn.
"Có vẻ đây không phải là máy tính của Langdon",
kỹ
thuật viên nói."Nó được đăng ký cho ai đó
có tên
viết tắt
là S.C., Tôi sẽ có tên
đầy đủ ngay thôi."
Trong lúc Bruder chờ đợi, đôi măt anh ta bị thu hút vào
một tập báo trên bàn. Anh ta nhấc lên, giơ nhanh qua tập báo - một quyển chương
trình biểu diễn cũ của Nhà hát London Globe và một loạt bài báo.Bruder càng đọc
mắt càng mở to.
Bruder cầm theo tập tài liệu quay trở lại sảnh và yêu cầu
gọi cho sếp mình. "Tôi Bruder đây", anh ta nói."Tôi nghĩ mình đã
có nhận dạng của người đang giúp đỡ Langdon."
"Là ai?", giọng sếp hỏi lại.
Bruder từ từ thở hắt ra."Ngài sẽ không tin nổi
đâu!" ***
Cách đó hai dặm, Vajentha rạp người trên chiếc BMW phóng
như bay. Những xe cảnh sát phóng ào qua ả theo hướng ngược lại, hú còi inh ỏi.
Ta đã bị từ chối, ả nghĩ thầm.
Bình thường, độ rung nhè nhẹ từ động cơ bốn thì của chiếc
xe phân khối lớn giúp thần kinh ả bình tĩnh lại. Nhưng hôm nay thì không.
Vajentha đã làm việc cho Consortium mười hai năm, leo từ địa vị nhân viên hỗ
trợ mặt đất lên điều phối viên chiến lược, rồi lên đến đặc vụ ngoại tuyến cấp
cao. sự nghiệp là tất cả những gì ta có.Các đặc vụ ngoại tuyến phải chấp nhận
một cuộc sống bí mật, đi I ại nhiều, những nhiệm vụ kéo dài, tất cả nhằm bất kỳ
mối quan hệ hay cuộc sống bên ngoài nào.
Ta đã nhận nhiệm vụ này suốt một năm, ả nghĩ thầm, vẫn
không sao tin được Thị trưởng lại bấm nút và từ chối ả đột ngột như vậy.
Suốt mười hai tháng, Vajentha giám sát các dịch vụ hỗ trợ
cho một khách hàng của Consortium - một thiên tài lập dị có đôi mắt màu xanh
lục chỉ muốn "biến mất" một thời gian để có thể làm việc mà không bị
đối thủ và kẻ thù quấy rầy.
ông ta rất hiếm khi đi lại, và luôn vô hình, nhưng chủ
yếu ông ta làm việc. Vajentha không được biết bản chất công việc của người này
vì hỢp đồng của ả ch đơn giản là giữ bí mật cho khách hàng trước những nhân vật
thế lực đang cố tìm ra ông ta.
Vajentha đã thực hiện nhiệm vụ với mức độ chuyên nghiệp
tuyệt vời, và mọi thứ đều diễn ra hoàn hảo.
Hoàn hảo, tức là... cho đến tối qua.
Trạng thái cảm xúc cùng sự nghiệp của Vajentha lao dốc kể
từ lúc đó.
Giờ ta là kẻ ngoài cuộc.
Nguyên tắc từ chối, nếu được vận hành, đòi hỏi đặc vụ
ngay lập tức rời bỏ nhiệm vụ hiện tại của mình và rút khỏi "đấu
trường" tức thì. Nếu đặc vụ bị bắt, Consortium sẽ từ chối mọi liên can với
đặc vụ. Các đặc vụ đều biết rõ ràng là đừng cố ăn may với tổ chức, vì họ đều
tận mắt chứng kiến khả năng của tổ chức trong việc thay đổi thực tế thành bất
kỳ điều gì phù hợp với nhu cầu của nó.
Vajentha chỉ mới biết có hai đặc vụ bị từ chối.Rất lạ là
ả chưa từng nhìn thấy họ xuất hiện trở lại nữa. Ả luôn cho rằng họ đã bị triệu
tập để giải trình chính thức và sa thải, với yêu cầu không bao giờ được liên
lạc lại với các nhân viên của Consortlum.
Nhưng lúc này Vajentha không chắc như vậy.
Ta đang quan trọng hóa vấn đề thôi, ả cố tự nhủ mình. Cho
đến giờ các giải pháp của Consortium đều tao nhã hơn một sát thủ máu lạnh rất
nhiều.
Cho dù như vậy, ả vẫn cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy khắp
cơ thể.
Bản năng thúc giục ả thoát khỏi mái khách sạn mà không để
ai phát hiện ngay khi ả nhìn thấy nhóm của Bruder đến, và ả thắc mắc không biết
có phải chính bản năng đó đã cứu mạng ả không.
Giờ thì không ai biết ta ở đâu.
Lúc Vajentha phóng lên phía bắc trên Đại lộ Viale del
Poggio Imperiale, ả nhận ra đâu là sự khác biệt trong vài tiếng đồng hồ qua.
Đêm qua, ả lo lắng giữ công việc của mình.Còn bây giờ, ả lo lắng bảo vệ tính
mạng.
Chương 20
Florence từng là một thành phố có tường bao, lối vào
chính là cổng chào bằng đá Porta Romana, được xây dựng năm 1326. Trong khi hầu
hết tường bao của thành phố đã bị phá hủy nhiều thế kỷ trước, cổng Porta Romana
vẫn còn nguyên, và ngày nay, giao thông đi vào thành phố đều thông qua các lối
thông hình vòm sâu hoắm xuyên qua phần tường phòng vệ đồ sộ.
Bản thân cổng thành là một rào chắn cao mười lăm mét bằng
gạch và đá cổ xưa, với lối đi chính vẫn còn nguyên hai cánh cống gỗ có đóng
đinh đồ sộ luôn mở cho xe cộ đi qua. Sáu trục đường chính hội tụ ở ngay trước
những cánh cửa này, nối thành một vòng xuyến với ô cỏ trung tâm có đặt bức
tượng lớn của nghệ sĩ Pistoletto, mô tả một người phụ nữ đang rời khỏi cổng
thành, đầu đội một bó cỏ rất lớn.
Mặc dù hiện nay, địa điểm này giống với một cơn ác mộng
giao thông ồn ào hơn nhưng tòa cổng thành mộc mạc của Florence lại từng là địa
điểm của Fiera dei Contraii - Khu đấu xảo Khế ước - nơi những người cha bán con
gái mình cho những cuộc hôn nhân theo giao ước, thường là buộc họ nhảy múa gỢi
dục để giành được những món hồi môn cao hơn.
Sáng nay, còn cách cổng thành vài trăm thước, Sienna bất
ngờ phanh lại và hoảng hốt chỉ tay. Langdon ngồi ở ghế sau chiếc Trike nhìn về
phía trước và lập tức hiểu ra nỗi lo sỢ của cô. Trước mặt họ, một hàng dài xe
cộ chạy rà rà rồi dừng lại. Xe cộ ở vòng xuyến bị ách lại vì một rào chắn
của cảnh sát, và lúc này có thêm vài xe cảnh sát chạy tới. Những sĩ quan có
vũ trang
đi từ xe này tới xe khác, hỏi han
Không thê là vì chúng ta được
Langdon nghĩ bụng.Không lẽ
nào?
Một người đi xe đạp mồ hôi nhễ nhại đạp xe về phía họ, rời xa đám xe
cộ, ngược lên phía Đại
Machiavelli. Anh ta điều
khiển loại xe đạp nằm ngả người,
đôi chân trần của anh ta duỗi dài phía trước.
Sienna gọi to về phía anh ta bằng tiếng Ý. "Có
chuyện gì thế?"
"TÔI không biết!", anh ta hét to đáp lại, trông
đầy vẻ lo lắng. "Cảnh sát!" Anh ta hối hả đạp qua, vẻ rất muốn thoát
khỏi khu vực này.
Sienna ngoảnh lại phía Langdon, vẻ mặt đanh
lại."Chặn đường, quân cảnh."
Có tiếng còi rít lên phía sau họ một quãng, Sienna thừ ra
trên yên xe, đăm đăm
Chúng ta bị kẹt ở giữa rồi, Langdon thầm nghĩ, phóng mắt
nhìn khắp khu vực xem có lối thoát nào không - một giao lộ, công viên, lối xe
chạy - nhưng tất cả những gì anh thấy là những tư gia ở mé bên trái và một bức
tường đá cao ngất bên phải.
Tiếng còi
hú nghe to hơn.
"Lên
kia", Langdon hối thúc, chỉ tay về phía một công trường xây dựng vắng vẻ
cách đó gần ba mươi thước, nơi cái máy trộn bê tông di động ít nhiều cũng có t
hể thành một chổ ẩn náu.
Sienna cho
xe lao lên vía hè và phóng nhan về phía công trường. Họ đỗ phía sau máy trộn,
nhưng nhận ra rằng nó chỉ đủ che kín chiếc Trike mà thôi.
"Theo
Tôi", Sienna nói, chạy nhanh về phía một kho nhỏ chứa dụng cụ nép trong
bụi cây sát bức tường đá.
Đó đâu
phải là kho chứa dụng cụ, Langdon nhận ra ngay, mũi nhăn lại khi họ đến gần
hơn.Đó là buồng vệ sinh di động mà.
Khỉ
Langdon và Sienna tới bên ngoài buồng vệ sinh hóa chất của công nhân xây dựng,
họ nghe rõ tiếng xe cảnh sát tiến lại gần phía sau. Sienna giật mạnh tay nắm
cửa, nhưng nó không nhúc nhích. Một SỢỈ xích nặng trịch cùng chiếc khóa khóa
chật cánh cửa. Langdon nắm lấy cánh tay Sienna và kéo cô vòng ra phía sau buồng
vệ sinh, đẩy cô vào khoảng trống rất hẹp giữa buồng vệ sỉnh và bức tường đá.
Hai người vừa may lọt được vào đó, nhưng không khí thì rất hôi thối và khó
chịu.
Langdon
len vào ngay sau cô vừa lúc một chiếc Subaru Forester đen xì với dòng chữ CẢNH
SÁT lồ lộ bên sườn xuất hiện. Chiếc xe từ từ lăn bánh qua chỗ họ.
Quân cảnh
Ý, Langdon nghĩ, lòng đầy hoài nghi. Anh thắc mắc không biết những sĩ quan này
có được lệnh nổ súng ngay khỉ nhìn thấy đối tượng không.
"Ai
đó đang ráo riết tìm ra chúng ta", Sienna thì thào."Và bằng cách nào
đó họ đã làm được."
"Nhờ
GPS chăng?", Langdon nóỉ to. "Có lẽ cáỉ máy chiếu có thỉết bị dò tìm
bên trong?"
Sienna lắc
đầu."Tin tôi đi, nếu thứ đó có thể lần tìm được thì cảnh sát đã ở ngay
trên đầu chúng ta rồi."
Langdon
thay đổi vóc người cao lớn của mình, cố gắng cho thoải mái hơn trong không gian
chật hẹp xung quanh. Anh thấy mình mặt đối mặt với một bức graffiti theo phong
cách nhã nhặn được vẽ vội phía sau buồng vệ sinh.
Cứ để nó
cho người Ý.
Hầu hết
các buồng vệ sinh di động ở Mỹ kín đặc những hình vẽ ngông nghênh, nhang nhác giống
như những cặp vú hoặc dương vật to tướng. Còn hình graffiti trên buồng vệ sinh
này trông giống tập vở nháp của một sinh viên nghệ thuật hơn - một con mắt
người, một bàn tay được khắc họa khá rõ nét, một người nhìn nghiêng, và một con
rồng rất bay bướm.
"Tình
trạng phá hoại tài sản tại Ý không phải ở đâu cũng giống thế này", Sienna
nói, rõ ràng là đã đọc được ý nghĩ của anh. "Viện nghệ thuật Florence ở ngay phía bên
kia bức tường đá này."
Như thế
khẳng định cho lời nói của Sienna, một nhóm sinh viên xuất hiện cách đó một
quãng, thong thả tiến về phía họ cùng với đồ nghề nghệ thuật trên tay. Họ đang
nói chuyện phiếm, châm thuốc hút, và tỏ vẻ ngạc nhiên về thứ đang
Langdon và
Sienna khom xuống thấp hơn để tránh khỏi tầm nhìn của nhóm sinh viên, và trong
lúc làm như vậy, bất ngờ một ý nghĩ kỳ lạ nảy ra với Langdon.
Những kẻ
tội đồ bị chôn nửa người với đôi chân thò lên trên không trung.
Có lẽ nó
nảy ra từ cái mùi chất thải của con người, hoặc có lẽ từ anh chàng đạp xe với
đôi chân để trần khua khoắng trước mặt, nhưng cho dù lý do là gì thì Langdon
cũng nhớ đến cái thế giới kinh khủng ở Malebolge và những đôi chân trần chống
ngược thò lên khỏi mặt đất.
Anh đột
ngột ngoảnh lại ngưởi bạn đồng hành. "Sienna, trong bản vực Địa Ngục của
chúng ta, những đôi chân chống ngược ở rãnh thứ mười phải không nhỉ? Tầng thấp
nhất của Malebolge ấy?"
Sienna
nhln anh ngơ ngác, như thế thời điểm này không phải lúc."Đúng, ở dưới
cùng."
Trong chớp
mắt, Langdon quay trở lại Vienna lúc đang có bài giảng.Anh đang đứng trên sân
khấu, chi còn một lúc nữa là đến phần kết thúc, và vừa cho cử tọa xem bức cham
của Doré mô tả Geryon - con quái vát có cánh với cái đuôi chích
"Trước
khi chúng ta gặp Satan", Langdon tuyên bố, giọng nói trầm ấm của anh vang
rền trên loa, "chúng ta phải đi qua mười rãnh Malebolge, nơi trừng phạt
những kẻ gian dối - những kẻ cố ý phạm tội".
Langdon
thay đổi ảnh chiếu để cho cử tọa xem một chi tiết về Malebolge và sau đó lần
lượt dẫn dắt họ đi xuống qua từng rãnh. "Từ trên xuống dưới chúng ta có:
Những kẻ lừa gạt bị quỷ sứ đánh đập... những kẻ nịnh bợ ngoi ngóp trong phân
người... bọn trục lợi trong giới tăng lữ bị chôn ngược nửa người, chân thò lên
không... đám phù thủy bị vặn ngược đầu ra sau... các chính trị gia tham nhũng
trong bế hắc ín sôi sùng sục... bọn đạo đức giả phải mặc áo choẳng bằng chì
nặng nề... những tên trộm cắp bị rắn cắn... các vị chưởng lý dối trá bị lửa
thiêu... những kẻ gieo rắc xích mích bị quỷ sứ phanh thây... và cuối cùng là
những kẻ dối trá, bị các chứng bệnh ngoài sức tưởng tượng."Langdon quay
lại phía cử tọa."Chắc chắn Dante dành rãnh cuối cùng này cho những kẻ dối
trá vì đã có rất nhiều điều dối trá được nói ra liên quan đến ông, khiến ông bị
trục xuất khỏi quê hương Florence
yêu dấu của mình."
"Anh
Robert?", giọng Sienna vang lên.
Langdon giật
mình trở về với hiện tại.
Sienna
đang đăm đăm nhìn anh có chút ngạc nhiên."Chuyện gì thế?"
"Bản
Vực Địa Ngục của chúng ta", anh nói đầy phấn khích."Tác phẩm đã bị
thay đổi!"Anh moi máy chiếu từ túi áo khoác và lắc thật mạnh hết mức trong
không gian chật hẹp.Viên bi trộn kêu xè xè rất to, nhưng những tiếng còi hú đã
át tất cả."Người nào tạo ra hình ảnh này đã sắp xếp lại trật tự các tầng ở
Malebolge!"
Khi máy
chiếu bắt đầu sáng lên, Langdon chĩa nó vào bề mặt bằng phẳng trước mặt họ. Vực
Địa Ngục xuất hiện, sáng rõ trong quầng ánh sáng lờ mờ.
Botticelli
hiện trên một cái buồng vệ sinh hóa chất, Langdon thầm nghĩ, cảm t hấy xấu
hổ.Đây chắc chắn là nơi kinh tởm nhất mà một tác phẩm của Botticelli từng được
trình diễn.Langdon đưa mắt xuống dưới, qua hết mười rãnh và bắt đầu gật gù đầy
phấn khích.
"Đúng
rồi!", anh kêu lên, "Bản này sai! Rãnh cuối cùng ở Malebolge lẽ ra
phải toàn những người bệnh tật, chứ không phải những người bị chôn ngược đầu.
Tầng thứ mười dành cho những kẻ dối trá, không phải cho bọn trục lợi trong giới
tăng lữ!".
Trông
Sienna đầy tò mò."Nhưng... tại sao ai đó lại thay đổi chi tiết ấy
chú?"
"Catrovacer",
Langdon thì thào, mắt nhìn những chữ cái nhỏ xíu đã được thêm vào mỗi
tầng."Tôi không nghĩ đó là những gì từ này thật sự muốn ám chỉ."
Bất chấp
vết thương đã xóa sạch trí nhớ của Langdon về hai ngày qua, giờ đây anh vẫn cảm
thấy đầu óc mình làm việc rất tốt. Anh nhắm mắt lại và hình dung ra cả hai bản
vực Địa Ngục trong đầu để phân tích những điểm khác biệt. Các thay đổi ở
Malebolge không nhiều như Langdon tưởng... và anh cảm thấy như có một tấm rèm
bất ngờ được vén lên.
Đột nhiên,
mọi thứ sáng rõ như pha lê.
Hãy kiếm
và anh sẽ tìm thấy.
"Thế
nào?", Sienna háo hức.
Miệng
Langdon khô khốc."Tôi biết tại sao mình lại ở Florence rồi."
"Thật
chứ?"
"Phải,
và Tôi biết lẽ ra Tôi phải đến chỗ nào."
Sienna nẳm
lấy cánh tay anh. "Chỗ nào?!"
Langdon
cảm thấy như thế bàn chân anh vừa chạm xuống nền đất rắn chắc lần đầu tiên kể
từ lúc anh tinh lại trong bệnh viện."Mười chữ cái này", anh thì thào.
"Thực tế chúng chỉ tới một vị trí chính xác trong thành phố cổ này. Đó là
nơi tìm ra câu trả lời."
"Chỗ
nào trong thành cổ?", Sienna giục. "Anh đã nghĩ ra được gì rồi?"
Có những
tiếng cười vang lên từ mé bên kia buồng vệ sính. Một nhóm sinh viên nghệ thuật
nữa đang đi ngang qua, cười đùa và huyên thuyên bằng đủ thứ ngôn ngữ. Langdon
thận trọng nhìn qua buồng vệ sinh, dõi theo bước họ đi. Rồi anh quan sát đám
cảnh sát. "Chúng ta phải tiếp tục di chuyến. Tôi sẽ giải thích ở trên
đường."
"Trên
đường ư?", Sienna lắc đầu. "Chúng ta sẽ chẳng bao giờ lọt qua được
Porta Romana."
"Cứ ở
yên đây trong ba mươi giây", anh bảo cô, "sau đó theo Tôi".
Nói xong,
Langdon lách ra ngoài, bỏ mặc người bạn mới ngơ ngác ở lại một mình.
Chương 21
"Xin lỗi!", Robert Langdon đuổi theo sau nhóm sinh viên.
"Xin thứ lỗi!"
Tất cả bọn họ quay lại, và Langdon giả bộ nhìn xung quanh một lượt
như một du khách lạc đường.
"Học viện Nghệ thuật Quốc gia ở đâu nhỉ?", Langdon hỏi
bằng thứ tiếng Ý nhát gừng.
Một cậu chàng xăm trổ thản nhiên rít một điếu thuốc lá và đáp lại
vẻ không mấy thân thiện, "Chúng tôi không nói tiếng Ý".Giọng cậu ta
mang ngữ điệu Pháp.
Một cô gái trách móc cậu bạn xăm trổ và lịch sự chỉ tay dọc theo
bức tường dài về phía Porta Romana. "Qua về phía kia, cứ đi thẳng về phía
trước."
Cứ đi thẳng về phía trước, Langdon dịch lại."Rất cảm ơn!"
Đúng lúc đó, Sienna xuất hiện mà không để ai nhìn thấy từ phía sau
buồng vệ sinh và tiến lại. Cô gái ba mươi hai tuổi yểu điệu bước đến gần nhóm
sinh viên, Langdon đặt một bàn tay lên vai cô. "Đây là em gái tôi, Sienna.
Cô ấy là giáo viên nghệ thuật."
Cậu trai xăm trổ lấm bẩm."T-I-L-F13'', và đám bạn trai của cậu
ta cười phá lên.
Langdon mặc kệ bọn họ. "Chúng tôi đến Florence để nghiên cứu những địa điểm khả dĩ,
chuẩn bị cho một năm giảng dạy ở nước ngoài. Chúng tôi đi cùng các bạn được
không?"
"Được thôi ạ", cô gái người Ý mỉm cười nói.
Khi cả nhóm tiến về phía cảnh sát ở Porta Romana, Sienna đã say sưa
trò chuyện cùng đám sinh viên còn Langdon lẩn vào giữa nhóm, cúi thấp xuống, cố
gắng không để lọt vào tầm nhìn.
“Hãy tìm kiếm và anh sẽ thấy”, Langdon nghĩ thầm, mạch đập của anh
rộn lên cảm giác phấn khích khi hình mười rãnh ở Malebolge.
“Catrovacer”. Mười chữ cái này, Langdon nhận ra, đặt ở lối một
trong những bí mật khó hiểu nhất trong thế giới nghệ thuật, một câu đố trải qua
hàng thế kỷ nhưng vẫn chưa có lời giải. Năm 1563, mười chữ cái này được dùng để
đánh vần một thông điệp cao tít trên bức tường bên trong Cung điện Vecchio nổi
danh của Florence, được viết cách mặt đất khoảng mười hai mét, khó lòng nhìn
thấy được nếu không có ống nhòm. Nó vẫn giấu mình ở đó nếu nhìn bằng mắt thường
trong suốt nhiều thế kỷ cho tới những năm 1970, khi một thầy thuốc chấn bệnh
giờ đây đã nổi danh phát hiện ra, và ông đã mất nhiều thập kỷ cố gắng khám phá
ý nghĩa của nó. Mặc dù có nhiều giả thuyết khác nhau, nhưng cho tới ngày nay ý
nghĩa của thông điệp vẫn là một bí ẩn.
Với Langdon, bức mật mã giống như một sân chơi quen thuộc - một bến
cảng an toàn để tránh khỏi vùng biển xa lạ đang nổi song này. Rốt cuộc, lịch sử
nghệ thuật và những bí ẩn cổ xứa mới là lãnh địa thật sự của Langdon chứ không
phải các ống nghiệm chất độc sinh học và súng ống.
Phía trước, lại có thêm xe cảnh sát bắt đầu đổ về Porta Romana.
"Chúa ơi", cậu trai xăm trổ nói."Người họ đang săn
tìm chắc phải làm việc gì đó rất kinh khủng."
Cả nhóm đi tới cổng chính của Học viện Nghệ thuật bên tay phải, nơi
một đám đông sinh viên đã tụ tập để xem sự việc diễn ra ở Porta Romana. Nhân
viên bảo vệ hưởng mức lương tối thiểu của nhà trường liếc nhìn thẻ sinh viên
một cách qua loa chiếu lệ lúc đám sinh viên ồ ạt tràn vào trong, nhưng rõ ràng anh ta chú
ý đến những gì đang diễn ra cùng với đám cảnh sát hơn.
Có tiếng phanh xe rít lên, vang khắp quảng trường khi một xe thùng
màu đen đã quá quen thuộc đỗ xịch tại Porta Romana.
Langdon không cần nhìn lần thứ hai.
Không nói một lời, anh và Sienna chớp lấy cơ hội, lẻn qua cổng cùng
với những người bạn mới của họ.
Con đường đi vào Học viện Nghệ thuật Quốc gia đẹp đến ngỡ ngàng,
gần như Vương giả. Những cây cối sum suê cành lá, tạo thành một vòm lá khuôn
lấy tòa nhà phía xa - một cấu trúc đồ sộ sơn vàng, đã ngả màu, với một vòm cổng
ba lối vào và một bãi cỏ hình bầu dục trải rộng.
Langdon biết rõ tòa nhà này được đặt mua, giống như rất nhiều tòa
nhà khác trong thành phố, bởi một triều đại nổi tiếng không kém từng thống trị
chính giới Florence
trong ba thế kỷ IV, XVI và XVII.
Gia tộc Medici. Chỉ riêng tên gọi đó đã trở thành một biểu tượng
của Florence.
Suốt giai đoạn trị vì kéo dài ba thế kỷ, gia tộc Medici đã tích lũy được số tài
sản và có tầm ảnh hưởng không sao hình dung nổi, đồng thời sản sinh ra bốn giáo
hoàng, hai hoàng hậu của nước Pháp, và cơ sở tài chính lớn nhất châu Âu. Cho
tới ngày nay, những ngân hàng hiện đại vẫn sử dụng phương pháp kế toán do gia
tộc nghĩ ta - hệ thống bút toán kép gồm cả bên có và bên nợ.
Tuy nhiên, di sản vĩ đại nhất của nhà Medici lại không phải về tài
chính hay chính trị, mà về nghệ thuật. Có lẽ là những nhà bảo trợ hào phóng
nhất mà thế giới nghệ thuật từng biết, gia tộc Medici chi các khoản tiền thưởng
hào phóng giúp tiếp sức cho trào lưu Phục Hưng. Danh sách các danh nhân nhận
được bảo trợ của nhà Medici gồm Da Vinci, Galileo và Botticelli - người có bức
vẽ nổi tiếng nhất, bức Thần Vệ nữ chào đời, chính là kết quả của một khoản tiền
thưởng từ Lorenzo de' Medici. Người này đã yêu cầu một bức vẽ gợi dục để treo
phía trên giường ngủ của vợ chồng người em họ như một món quà cưới.
Lorenzo de' Medici - sinh thời được biết đến với biệt danh Lorenzo
Cao thượng bởi tính cách hào phóng - cũng chính là một nghệ sĩ kiêm thi sĩ kỳ
tài được mệnh danh có một con mắt siêu việt. Năm 1489, Lorenzo say mê tác phẩm
của một nhà điêu khắc Florence
trẻ tuổi và đã mời anh ta chuyển tới sống tại lâu đài của gia đình Medici, nơi
anh có thể hành nghề trong môi trường mỹ thuật, thi ca và văn hóa đỉnh cao.
Dưới sự giám hộ của nhà Medici, chàng thiếu niên trưởng thành và cuối cùng đã
tạc lên hai tác phẩm điêu khắc lừng danh nhất trong lịch sử - Pietà và David.
Ngày nay, chúng ta biết đến người đó với tên gọi Michelangelo - một tài năng
sáng tạo, đôi khí được xem như món quà lớn nhất mà gia tộc Medici tặng cho nhân
loại.
Nghĩ đến niềm đam mê nghệ thuật của nhà Medici, Langdon tưởng tượng
rằng gia tộc này sẽ rất hài lòng khi biết rằng tòa nhà trước mặt anh - ban đầu
được xây làm chuồng ngựa chính của gia tộc Medici - đã được cải tạo thành Học
viện Nghệ thuật. Địa điểm thanh bình truyền cảm hứng cho các nghệ sĩ trẻ này
lại từng được chọn làm chuồng ngựa riêng của nhà Medici chỉ vì nó ở gần một
trong những khu vực cưỡi ngựa đẹp nhất Florence,
vườn Boboli.
Langdon liếc nhìn sang trái, nơi có thể nhìn rõ cả rừng toàn những
ngọn cây phía bên kia bức tường cao ngất. Không gian rộng lớn của vườn Boboli
giờ đây là một địa điếm du lich quen thuộc, Langdon tin chắc rằng nếu có thế
vào được vườn này, anh và Sienna sẽ lần qua đó và đi vòng tránh khỏi Porta
Romana mà không bị phát giác. Xét cho cùng, khu vườn đất rộng và không thiếu
chỗ ẩn náu - những khu rừng, mê cung, hang động. Quan trọng hơn, băng ngang qua
vườn Boboli sẽ dẫn họ tới Cung điện Pitti, tòa thành bằng đá từng là nơi ở
chính của đại công tước nhà Medici, và nơi có một trăm bốn mươi gian phòng này
vẫn là một trong những điểm du lịch thường xuyên nhất ở Florence.
Nếu chúng ta có thể tới được Cung điện Pitti, Langdon nghĩ thầm, thì
cây cầu dẫn tới thành cổ chỉ cách đó một tầm ném đá.
Langdon hết sức bình thản chỉ về phía bức tường cao bao quanh khu
vườn. "Làm thế nào vào được trong vườn?", anh hỏi. "Tôi rất muốn
cho em gái mình thăm vườn trước khi chúng tôi đi dạo quanh học viện."
Cậu trai xăm trổ lắc đầu."Anh chị không thể vào được vườn từ
đây đâu. Lối vào chỗ Cung Pitti cơ. Anh chị phải lái xe qua Porta Romana và đi
vòng."
"Vớ vấn", Sienna buột miệng.
Tất cả mọi người ngoảnh lại và đăm đăm nhìn cô, kể cả Langdon.
"Thôi đi", cô nói, cười bẽn lẽn với đám sinh viên trong
lúc vẫn lại túm tóc đuôi ngựa vàng óng của mình."Có phải các cậu đang bảo
tôi rằng các cậu không hề lẻn vào vườn để hút cần sa và giết thời gian phải
không?"
Đám trẻ đưa mắt nhìn nhau rồi phá lên cười.
Anh chàng xăm trổ tỏ ra vô cùng hối lỗi."Chị ơi, chị nên về
đây dạy học thôi." Cậu ta dẫn Sienna tới bên hông tòa nhà và đi vòng qua
góc tới một bãi đỗ xe phía sau. "Chị nhìn thấy nhà xưởng bên trái không?
Có một cái bục cũ phía sau đó.Cứ trèo lên nóc là chị có thể nhảy xuống bên kia
tường."
Sienna đã thực hành ngay.Cô liếc nhìn lại Langdon kèm một nụ cười
kẻ cả. "Đi nào, anh trai Bob. Trừ khi anh già quá nên không trèo rào được
nữa?"
13 Tiếng lóng: Teacher I'd like to F*** (Tôi muốn ngủ cùng cô giáo)
Chương 22
Người phụ nữ tóc bạc trên xe thùng dựa đầu vào ô cửa số chống đạn
và nhắm mắt lại. Bà cảm thấy thế giới quay cuồng dưới chân. Những vỉên thuốc
người ta cho bà uống khiến bà cảm thấy mệt rũ.
Mình cần chăm sóc y tế, bà nghĩ.
Mặc dù vậy, gã vệ sĩ có vũ trang bên cạnh bà đã nhận được mệnh lệnh
nghiêm ngặt: “Không quan tâm đến các nhu cầu của bà cho đến khi nhiệm vụ của họ
kết thúc thành công.” Căn cứ vào những âm thanh hỗn loạn xung quanh thì rõ ràng
sắp đến lúc đó rồi.
Gỉờ thì cảm giác chóng mặt càng tăng lên, và bà cảm thấy rất khó
thở. Trong lúc cố nén một cơn buồn nôn mới đang cồn lên, bà tự hỏi sao cuộc đời
lại xô đẩy mình đến giao lộ kỳ quái này. Câu trả lời quá phức tạp nên không thể
giải đáp được khỉ bà ở trong trạng thái mê man như lúc này, nhưng bà biết rõ nó
bắt đầu từ đâu.
New York.
Hai năm trước.
Bà bay tới Manhattan từ Geneva, nơi bà giữ cương vị giám đốc Tổ
chức Y tế Thế Giới, một vị trí uy tín và được nhiều người thèm khát. Bà đã đảm
nhận công việc này suốt gần một thập kỷ. Là một chuyên gia về bệnh lây truyền
và dịch tễ học bệnh dịch, bà được mời tới Liên Hiệp Quốc để trình bày về hiểm
họa của bệnh dịch tại các nước thuộc thế giới thứ ba. Bà nói chuyện rất lạc
quan và khiến người khác vững dạ, phác họa ra một vài hệ thống phát hiện sớm
bệnh tật rất mới mẻ cùng các kế hoạch điều trị mà WHO và những tổ chức khác
vạch ra. Bà đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ.
Ngay sau bài diễn thuyết, trong khi bà đang trò chuyện cùng một số
học giả còn nán lại trong sảnh thì một nhân viên Liên Hiệp Quốc đeo phù hiệu
ngoại giao cấp cao bước
lại, xen vào giữa cuộc trò chuyện.
"Thưa tiến sĩ Sinskey, Hội đồng Quan hệ Đối ngoại vừa liên hệ
với chúng tôi. Có người ở đó muốn nói chuyện với bà. Đã có xe đợi sẵn bên
ngoài."
Bối rối và có phần lo lắng, tiến sĩ Elizabeth Sinskey cáo lui và
chuẩn bị hành lý đi công tác qua đêm. Khi chiếc limousine lao vào Đại lộ 1, bà
bắt đầu có cảm giác lo lắng kỳ lạ.
Hội đồng Quan hệ Đối ngoại ư?
Elizabeth Sinskey, như hầu hết mọi người, đã nghe nhiều lời đồn
đại.
Thành lập vào những năm 1920 với tư cách nhóm chuyên gia cố vấn bí
mật, trong số thành viên của Hội đồng có mặt gần như tất cả các ngoại trưởng,
gần chục vị Tổng thống đa số các đời giám đốc CIA, các thượng nghị sĩ, thẩm
phán cùng những tên tuổi huyền thoại như Morgan, Rothschild, và Rockefeller.
Tập hợp trí tuệ, ảnh hưởng chính trị và tài sản ít ai bì kịp của các thành viên
giúp cho Hội đồng Quan hệ Đối ngoại nổi tiếng là "Câu lạc bộ bí mật quyền
lực nhất trên trái đất".
Là giám đốc Tổ chức Y tế Thế Giới, Elizabeth không xa lạ gì việc tiếp xúc gần
gũi các nhân vật tai to mặt lớn. Thời gian công tác rất lâu ở WHO, kết hợp với
bản tính thẳng thắn, đã giúp bà được một tờ tạp chí tin tức lớn gần đây xếp vào
tốp hai mươi nhân vật có ảnh hưởng nhất thế giới. Gương mặt đại diện cho sức
khỏe của thế giới, họ đã viết như vậy bên dưới ảnh của bà, chi tiết mà Elizabeth cảm thấy rất
hài hước bởi bà từng là một đứa trẻ ốm yếu.
Bà mắc bệnh hen suyễn nặng năm lên sáu tuổi và được điều trị bằng
một loại tân dược liều cao đầy hứa hẹn - loại glucocorticoid hay steroid
hormone đầu tiên trên thế gỉớỉ - giúp chữa khỏi các triệu chứng suyễn một cách
thần kỳ. Nhưng thật không may, tác dụng phụ khôn lường của thuốc không xuất
hiện ngay, mà mãi nhiều năm sau này khi Sinskey đến tuổi dậy thì nhưng không
thấy xuất hiện chu kỳ kinh nguyệt. Bà không bao giờ quên được thời khắc đen tối
tại phòng mạch của bác sĩ, năm bà mười chín tuối, khi biết rằng hệ sinh sản của
mình đã bị tổn thương vĩnh viễn.
Elizabeth Sinskey sẽ chẳng bao giờ có con.
Thời gian sẽ chữa lành nỗỉ đau, bác sĩ của bà an ủi, nhưng nỗi buồn
và cơn giận dữ vẫn trào dâng trong lòng bà. Thật ác nghiệt, loại thuốc đã cướp
đi của bà khả năng thụ thai lại không thể lấy luôn của bà những bản năng rất
xác thịt muốn được làm việc ấy. Suốt nhiều thập kỷ, bà đã phải vật lộn với khao
khát thỏa mãn cái ước vọng không thành hiện thực này. Thậm chí cho đến bây giờ,
ở tuối sáu mươi mốt, bà vẫn cảm thấy nhói đau vớỉ nỗi trống rỗng mỗi lần nhìn
thấy một người mẹ và đứa con thơ.
"Ngay phía trước rồi, tiến sĩ Sinskey", người lái
limousine nói.
Elizabeth nhanh tay vuốt những lọn tóc màu bạc dài và nhìn lại gương mặt
mình trong gương. Bà chưa kịp định hình thì xe đã dừng lại, và người lái xe
giúp bà bước lên vỉa hè một khu dân cư giàu có của Manhattan,
"Tôi sẽ đợi bà ở đây", người lái xe nói. "Chúng ta
có thể đi luôn ra sân bay khi bà sẵn sàng."
Tổng hành dinh của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại tại New York là một
tòa nhà kiểu tân cổ điển không mấy gây chú ý nằm ở góc phố Park và Đại lộ Sáu
tám, vốn từng là trụ sở của tập đoàn Standard 011. Bề ngoài của tòa nhà hòa hợp
với cảnh quan trang nhã xung quanh, nên không hề gợi ra dấu hiệu gì về mục đích
đặc biệt của nó.
"Tiến sĩ Sinskey", cô nhân viên lễ tân có vóc người đẫy
đà chào bà. "Xin đi theo lối này! Ông ấy đang đợi bà."
Được rồi, nhưng ông ấy là ai nhỉ? Bà theo chân nhân viên lễ tân đi
dọc hành lang sang trọng tới một cánh cửa đóng kín. Cô gái gõ nhanh rồi mở cửa
và ra hiệu cho Elizabeth
bước vào.
Bà đi vào, khép cánh cửa lại phía sau lưng.
Phòng họp nhỏ hẹp và tối chỉ được chiếu sáng nhờ quầng sáng của một
màn hình video. Ngay phía trước màn hình, một bóng người mảnh khảnh và cao lêu
nghêu đối diện với bà. Mặc dù không sao nhìn rõ gương mặt ấy, nhưng bà cảm nhận
được quyền lực ở đây.
"Tiến sĩ Sinskey", giọng nói sắc lạnh của người đàn ông
vang lên. "Cảm ơn bà đã tới gặp tôi." Chất giọng không lẫn vào đâu
được của người đàn ông cho thấy ông ta là người cùng quê hương Thụy Sĩ với Elizabeth, hoặc có lẽ là
Đức.
"Mời bà ngồi!", ông ta nói, ra hiệu về phía chiếc ghế đặt
gần mé trước căn phòng.
Không giới thiệu gì sao? Elizabeth
ngồi xuống. Hình ảnh kỳ quái đang được trình chiếu trên màn hình video làm bà
thấy bất an. Có lẽ nào?
"Sáng nay tôi có mặt tại buổi trình bày của bà", bóng
người kia nói. “Tôi đã đi cả quãng đường dài để nghe bà nói chuyện. Một buổi
diễn thuyết rất ấn tượng."
"Cảm ơn ông", bà đáp.
"Cũng cho phép Tôi được nói rằng bà đẹp hơn tôi tưởng tượng
rất nhiều, bất kể tuổi tác và quan điểm thiển cận của bà về y tế thế
giới."
Elizabeth sửng sốt. Lời nhận xét hết sức khó chịu. "Sao cơ?", bà
gặng hỏi, mắt nhìn đăm đăm vào khoảng tối. "Ông là ai? Và tại sao lại mời
tôi đến đây?"
"Xin thứ lỗi cho câu nói đùa vô duyên của tôi", bóng đen
cao kều đáp lại. "Hình ảnh trên màn hình sẽ giải thích lý do tại sao bà
lại ở đây."
Sinskey nhìn hình ảnh hãi hùng - một bức vẽ mô tả cả một biển
người, những toán người bệnh tật, tất cả đang giẫm đạp lên nhau trong đống lúc
nhúc các xác người trần truồng.
"Nghệ sĩ vĩ đại Doré", người đàn ông nói. "Cách diễn
đạt đặc biệt dữ dội của ông về hình ảnh địa ngục của Dante Alighieri. Tôi hy
vọng bà vẫn thấy nó dễ chịu... bởi vì đó là nơí chúng ta sẽ đến." ông ta
ngừng lại, từ từ lướt về phía bà. "Và cho phép tôi nói với bà lý do tại
sao."
Ông ta vẫn tiếp tục tiến về phía bà, dường như càng lúc càng cao
hơn sau mỗi bước chân. "Nếu tôi cầm mảnh giấy này và xé làm đôi..."
ông ta dừng lại bên bàn, nhặt một tờ giấy lên và xé toạc làm đôi. "Và sau
đó nếu tôi đặt hai nửa chồng lên nhau..." ông ta lại xé giấy, xếp chồng
lên nhau. "Tôi tạo ra một tập giấy lúc này dày gấp bốn lần tờ giấy ban
đầu, phải không?" Dường như đôi mắt ông ta lóe lên vẻ căm hờn trong bóng
tốỉ của căn phòng.
Elỉzabeth không sao đánh giá được ông ta qua ngữ điệu và tư thế đầy
vẻ hung hăng. Bà không nói gì cả.
"Nói một cách gỉả thuyết", ông ta tiếp tục, nhích lại gần
hơn, "nếu tờ giấy ban đầu chỉ dày một phần mười milimet và tôi cứ lặp lại
thao tác này... giả sử năm mươi lần... liệu bà có biết tập giấy sẽ cao chừng
nào không?".
Elỉzabeth nổi cáu. "Tôi biết", bà đáp vớỉ thái độ hằn học
hơn cả dự tính. "Nó sẽ là một phần mười milimet nhân hai lũy thừa năm
mươi. Như thế gọi là cấp số nhân. Cho phép tôi hỏi tôi sẽ làm gì ở đây?"
Người đàn ông cười khẩy và gật đầu cảm kích: "Đúng, và bà có
đoán được giá trị thực tế sẽ như thế nào không? Một phần mười milimet nhân hai
lũy thừa năm mươi chăng? Bà có biết tập giấy của chúng ta sẽ cao chừng nào
không?" ông ta chỉ dừng lại một lát. "Tập giấy của chúng ta, chỉ sau
năm mươi lần nhân đôỉ, giờ đã gần như đủ kín đường tới mặt trời."
Elizabeth không lấy làm ngạc nhiên. Sức mạnh đáng kinh ngạc của tăng trưởng
theo cấp số nhân là điều bà liên tục gặp phải trong công việc của mình. Những
vòng tuần hoàn của quá trình nhiễm bệnh, quá trình tái tạo của các tế bào nhiễm
bệnh... con số ước tính tỉ lệ tử vong. "Tôi xin lỗi nếu tôi có phần ngây
ngô", bà nói, chẳng buồn che giấu thái độ bực dọc của mình. "Nhưng
tôi không hiểu ý ông."
"Ý tôi ư?" Ông ta cười khàn. "Ý tôi là lịch sử tăng
trưởng dân số nhân loại của chúng ta thậm chí còn ấn tượng hơn nữa. Dân số trái
đất, giống như tập giấy của chúng ta, lúc mới đầu có là bao... nhưng tiềm năng
thì ghê gớm."
Ông ta lại bước tớỉ. "Hãy nghĩ tới chuyện này. Dân số trái đất
mất hàng nghìn năm - từ buổi bình mỉnh sơ khai của loài người tới đầu những năm
1800 - để đạt một tỉ người. Thế rồi, thật kỉnh ngạc, chỉ mất khoảng một trăm
năm để dân số tăng gấp đôi lên hai ti vào những năm 1920. Sau đó, mới chỉ năm
mươi năm, dân số lại tăng gấp đôi thành bốn tỉ vào những năm 1970. Như bà có
thể hình dung, chúng ta đang trên đường đạt tới tám tỉ rất nhanh. Ngay hôm nay,
loài người đã bổ sung thêm một phần tư triệu người cho hành tinh. Một phần tư
triệu. Và điều này diễn ra hằng ngày - dù nắng hay mưa. Hiện tại, mỗi năm,
chúng ta bổ sung thêm con số tương đương toàn bộ nước Đức."
Người đàn ông cao lêu nghêu dừng phắt lại, bóng ông ta đè lên Elizabeth. "Bà bao
nhiêu tuổi rồi?"
Lại một câu hỏi khiếm nhã nữa, mặc dù là người đứng đầu WHO, bà đã
quen gặp phải thái độ đối nghịch với phép ngoại giao. "Sáu mươi mốt."
"Bà có biết rằng nếu bà sống thêm mười chín năm, lúc đến tuổi
tám mươi, bà sẽ chứng kiến dân số tăng gấp ba lần trong đời bà không. Một đời -
gấp ba lần.
Hãy nghĩ đến mọi hàm ẩn. Bà biết đấy, Tổ chức Y tế Thế giới của bà
bị nâng mức dự đoán, tiêu liệu rằng sẽ có khoảng chín tỉ người trên trái đất
trước nửa đầu thế kỷ này. Các loài động vật đang bị tuyệt chủng với tốc độ tăng
chóng mặt. Nhu cầu đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng eo hẹp
tăng vọt. Nước sạch ngày càng khan hiếm. Theo bất kỳ tiêu chuẩn đánh giá sinh
học nào thì các giống loài của chúng ta đều đã vượt quá con số bền vững. Và khi
đối mặt với thảm họa này, Tổ chức Y tế Thế giới - người gác cổng cho vấn đề sức
khỏe của hành tinh - lại đang đầu tư cho những thứ như cứu chữa bệnh tiểu
đường, làm đầy các ngân hàng máu, chống lại bệnh ung thư." ông ta ngừng
lại, nhìn xoáy thẳng vào bà. "Và vì thế tôi mời bà tới đây để hỏi thẳng bà
tại sao Tổ chức Y tế Thế giới lại không quyết tâm giải quyết vấn đề này trước
nhất?"
Giờ thì Elizabeth
giận sôi lên. "Cho dù ông là ai thì ông cũng biết rất rõ là WHO nhìn nhận
tình trạng quá tải dân số rất nghiêm túc. Gần đây, chúng Tôi đã chi hàng triệu
đô la để cử các bác sĩ tới châu Phi nhằm phát bao cao su miễn phí và giáo dục
người dân về kiểm soát sinh đẻ."
"Và, đúng!", người đàn ông lêu nghêu chế giễu. "Và
cả một đội quân giáo sĩ Công giáo còn đông hơn nữa đã theo chân bà tiến vào và
bảo với người dân châu Phi rằng nếu họ sử dụng bao cao su, tất cả bọn họ đều sẽ
xuống địa ngục. Châu Phi hiện có một vấn đề môi trường rất mới - những bãi rác
ngập tràn bao cao su chưa sử dụng."
Elizabeth phải rất cố kiềm chế mới không nói gì. Về điểm này thì ông ta
đúng, và các tín đồ Công giáo hiện đại đang đấu tranh lại cách can thiệp của Vatican về vấn đề sinh sản. Đáng chú ý nhất, bản thân
Melinda Gates, một tín đồ Công giáo sùng đạo, cũng can đảm đối diện với thái độ
giận dữ của nhà thờ khi cam kết giành năm trăm sáu mươi triệu đô la giúp cải
thiện quyền tiếp cận phương pháp hạn chế sinh để trên toàn thế giới. Elizabeth
Sinskey đã nhiều lần công khai nói rằng Bill và Melinda Gates xứng đáng được
phong thánh vì những gì họ đã làm bằng quỹ cá nhân nhằm cải thiện tình hình sức
khỏe thế giới. Buồn thay, tổ chức duy nhất có thể phong thánh lại không hề nhận
ra bản chất rất Thiên Chúa giáo trong những nổ lực của họ.
"Tiến sĩ Sinskey", bóng người tiếp tục nói. "Tổ chức
Y tế Thế giới không nhận ra rằng chỉ có một vấn đề y tế mang tính toàn cầu duy
nhất." Ông ta lại chi vào hình ảnh kinh khủng trên màn hình - cái biển
người lúc nhúc. "Và nó đây!", ông ta ngừng lại. "Tôi biết bà là một
nhà khoa học, và vì thế có lẽ không phải là một sinh viên nghiên cứu mỹ thuật
hay nghệ thuật cổ điển, nên cho phép tôi cung cấp một hình ảnh nữa có thể nói
với bà bằng ngôn ngữ bà hiểu rõ hơn."
Căn phòng sầm tối một lúc, rồi màn hình sáng trở lại.
Hlnh ảnh mới là hình ảnh mà Elizabeth
đã nhìn thấy nhiều lần, và nó luôn đem lại một cảm giác rất khó tả về sự tất
yếu.
Căn phòng chìm trong im ắng nặng nề.
"Phải", cuối cùng người đàn ông cao lêu nghêu nói.
"Tâm lý sợ hãi ngấm ngầm là phản ứng hoàn toàn thích đáng khi xem biểu đồ
này. Nhìn nó có phần giống như trợn trừng mắt nhìn thẳng vào đèn pha một đầu
tàu đang lao tới." Ngưồi đàn ông chậm rãi quay lại phía Elizabeth và nở một nụ cười nhún nhường, khó
khăn. "Bà có hỏi gì không, tiến sĩ Sinskey?"
"Chi có một câu thôi", bà đáp trả. "Ông đưa tôi tới
đây để rao giảng hay sỉ nhục tôi?"
"Không hề!" Giọng ông ta trở nên lạ lùng. "Tôi mời
bà tới đây để hợp tác. Tôi tin chắc bà hiểu tình trạng quá tải dân số là một
vấn đề y tế. Nhưng điều tôi sợ là nó sẽ ảnh hưởng đến linh hồn con người. Dưới
sức ép của quá tải dân số, những người chưa từng nghĩ đến việc trộm cắp sẽ trở
thành trộm cắp để nuôi sống gia đình mình. Những người chưa từng nghĩ đến việc
giết người và sẽ giết người để nuôi con cái. Tất cả những tội lỗi đáng chết mà
Dante đề cập - tham lam, tham ăn, dối trá, giết người và những tội khác - sẽ
bắt đầu lan tràn trở nên thịnh hành trong xã hội loài người, và càng tăng mạnh
do những thứ tiện nghi phù phiếm của chúng ta. Chúng ta đang đối mặt với một
trận chiến để bảo vệ linh hồn con người."
"Tôi là một chuyên gia sinh học. Tôi cứu những mạng sống,
không phải linh hồn."
"Vâng, Tôi có thể cam đoan với bà rằng việc cứu những mạng
sống sẽ ngày càng khó khăn trong những năm tới. Tình trạng quá tải dân số phát
triển nhanh hơn sự bất mãn về tinh thần rất nhiều. Có một thông điệp trong
Machiavelli."
"Đúng", bà ngắt lời, nhắc lại nguyên văn câu trích dẫn
nổi tiếng mà bà nhớ nằm lòng. "Khi mọi nơi trên thế giới kín đặc dân cư
đến mức họ không thể sống nổi ở quê hương cũng không biết chuyển đi đâu nữa,
thế giới sẽ tự thanh lọc." Bà đăm đăm nhìn ông ta. "Tất cả chúng tôi
ở WHO đều rất quen với câu trích đó."
"Tốt lắm, vậy chắc bà biết rằng Machiavelli còn nói về các
dịch bệnh như là cách tự thanh lọc rất tự nhiên của thế giới?"
"Đúng, và như tôi đã đề cập trong bài thuyết trình của mình,
chúng tôi đều nhận thức rất rõ mối quan hệ tương liên trực tiếp giữa mật độ dân
cư và khả năng xảy ra các đại dịch quy mô lớn, nhưng chúng tôi liên tục nghĩ ra
các phương pháp phát hiện và điều trị mới. WHO vẫn tự tin rằng chúng tôi có thể
ngăn chặn được các dịch bệnh trong tương lai."
"Thật đáng tiếc!"
Elỉzabeth trơ mắt nhìn vẻ không tin nổi, "Xin lỗi tôi không
hiểu!"
"Tiến sĩ Sinskey", người đàn ông nói kèm theo một tiếng
cười lạ lùng, "Bà nói về việc kiểm soát dịch bệnh cứ như thể đó là một
vỉệc hay ho vậy!".
Bà há hốc miệng nhìn người đàn ông, sửng sốt không nói nên lời.
"Bà hiểu ra rồi đấy!", người đàn ông lêu nghêu nói, giọng
như một luật sư đang kết luận vụ án của mình. "Tôi đứng đây cùng với gỉám
đốc Tổ chức Y tế Thế giới - nhân vật cừ nhất mà WHO có. Một suy nghĩ kinh
khủng, nếu bà nghĩ kỹ. Tôi cho bà xem hình ảnh về nỗi khốn khố sắp xảy ra
này!"
Ông ta thay đổỉ màn hình, trở lại hình ảnh những xác người.
"Tôi đã nhắc bà nhớ về sức mạnh đáng sợ của tình trạng gỉa tăng dân số
không được kiểm soát." ông ta chỉ tập giấy nhỏ của mình. "Tôi đã khai
sáng cho bà về thực tế rằng chúng ta đang đứng trên bờ vực của sự suy sụp về
mặt tinh thần” - ông ta ngừng lại và hướng thẳng về phía bà. "Và phản ứng
của bà? Bao cao su miễn phí ở châu Phi."
Người đàn ông nhếch mép cười giễu cợt. "Việc này có khác gì
vung vỉ ruồi để chặn một tiểu hành tinh đang lao vào. Trái bom hẹn giờ không
còn nhích từng giây nữa. Nó đã nổ tung rồi, và nếu không có những giải pháp quyết
liệt, con số theo cấp số mũ sẽ thành Chúa trời mới của bà và “Ngài” sẽ là một
vị Chúa báo thù rửa hận. Ngài sẽ mang tới cho bà hình ảnh địa ngục của Dante
ngay ngoài kia, trên Đại lộ Park... những đám người lúc nhúc ngoi ngóp trong
đống phân của chính mình. Một sự sàng lọc toàn cầu do chính tự nhiên sắp
đặt."
"Vậy ư?", Elizabeth
gắt lên. "Vậy hãy cho tôi biết, trong hình ảnh của ông về một tương lai
bền vững, thế nào là dân số lý tưởng của trái đất? Con số kỳ diệu mà nhân loại
có thể hy vọng duy trì chính mình một cách ổn định và tương đối thoải mái là
gì?"
Người đàn ông cao ngồng mỉm cười, rõ ràng đáng giá cao câu hỏi.
"Bất kỳ nhà sinh học môi trường hay chuyên gia thống kê nào cũng sẽ cho bà
biết rằng cơ hội tốt nhất để nhân loại tồn tại lâu dài đều đi kèm với mức dân
số toàn cầu khoảng bốn tỉ."
"Bốn tỉ ư?", Elizabeth
vặc lại. "Dân số bây giờ đã là bảy tỉ, cho nên muộn mất rồi!"
Đôi mắt xanh lục của người đàn ông cao ngồng lóe lên ánh lửa.
"Vậy ư?"
Chương 23
Robert Langdon đáp huỵch xuống nền đất xốp cây cối um tùm phía bên
trong bức tường bao quanh khu vực phía nam của vườn Boboli. Sienna đáp xuống
bên cạnh anh và đứng lên, phủi bụi rồi quan sát xung quanh một lượt.
Họ đang đứng trên một trảng rêu và dương xỉ ở rìa một vạt rừng nhỏ.
Từ đây, Cung điện Pitti hoàn toàn bị chắn tầm nhìn, và Langdon cảm thấy họ ở xa
cung điện cũng ngang với khoảng cách người ta có thể đi vào vườn. Ít nhất,
không có nhân viên hay du khách tìm tới chỗ xa xôi này vào thời điểm sáng tinh
mơ như bây giờ.
Langdon chăm chú nhìn một lối đi rải sỏi duyên dáng uốn lượn chạy
sâu vào rừng trước mắt họ.Ở vị trí con đường khuất hẳn sau những rặng cây là
một bức tượng cẩm thạch được đặt ở vị trí đắc địa để thu hút mọi ánh mắt.
Langdon không lấy làm ngạc nhiên, vườn Boboli được ưu ái đón nhận tài năng
thiết kế xuất sắc của Niccolò Tribolo, Giorgio Vasari, và Bernardo Buontalenti
- một nhóm những nhân tài về thẩm mỹ đã sáng tạo nên một kiệt tác có thể đi
bách bộ được trên tấm toan rộng hơn bốn mươi héc ta này.
"Nếu đi về phía đông bắc, chúng ta sẽ đến được cung
điện", Langdon nói, chỉ tay theo lối đi. "Chúng ta có thể lấn vào du
khách ở đó và thoát ra ngoài mà không bị phát hiện. Tôi đoán nó mở cửa lúc 9
giờ."
Langdon liếc mắt kiểm tra lại thời gian nhưng chỉ nhìn thấy cổ tay
mình, nơi có chiếc đồng hồ chuột Mickey, hoàn toàn trống trơn. Anh thẫn thờ tự
hỏi liệu nó có còn nằm ở bệnh viện cùng với số quần áo còn lại của anh và anh
có thể lấy được nó không.
Sienna bước đi đầy cương quyết. "Robert, trước khi đi tiếp,
Tôi muốn biết chúng ta định đi đâu. Lúc này anh đã nghĩ ra điều gì? Rãnh quỷ
Maleboldge à? Anh nói nó không đúng trật tự?"
Langdon ra hiệu đi về phía một khu vực có cây cối ngay trước mặt.
"Chúng ta hãy tránh khỏi tầm nhìn trước đã." Anh dẫn cô men theo lối
đi lượn vòng vào một hốc kín - một "gian phòng", theo cách nói của
giới kiến trúc cảnh quan - nơi có mấy băng ghế giả gỗ và một đài phun nước nhỏ.
Không khí phía dưới những tán cây lạnh hơn hẵn.
Langdon lấy máy chiếu ra khỏi túi và bắt đầu lắc mạnh.
"Sienna, người tạo ra hình ảnh số này không chỉ cho thêm các chữ cái vào
những kẻ tội đồ ở Malebolge mà còn thay đổi trật tự các dạng tội lỗi." Anh
nhảy lên đứng trên ghế, cao hơn hẳn Sienna, và chĩa máy chiếu xuống chân mình.
Bức vựa Địa ngục của Bollicelli hiện lên mờ mờ trên mặt ghế bằng phẳng bên cạnh
Sienna.
Langdon chi vào khu vực phân tầng ở dưới đáy vực hình phễu.
"Cô có nhìn thấy những chữ cái ở mười rãnh Malebolge không?"
Sienna tìm mấy chữ đó trên hình chiếu và đọc từ trên xuống dưới.
"Catrovacer." "Đúng rồi, chẳng có nghĩa gì cả!"
"Nhưng khi đó anh nhận ra mười cái rãnh đã bị xáo trộn phải
không?"
"Thực tế còn dễ hơn thế. Nếu những tầng rãnh này là một cỗ
mười lá bài thì cỗ bài đó chẳng xáo trộn gì nhiều nếu xén bớt đi một lớp. Sau
khi xén đi, các lá bài vẫn giữ nguyên trật tự, nhưng lại bắt đầu bằng một lá
bài khác." Langdon chỉ tay xuống mười rãnh Malebolge. "Theo văn bản
của Dante, tầng trên cùng của chúng ta lẽ ra là những người lừa gạt bị quỷ sứ
đánh đập. Thế nhưng, trong bản này, những kẻ lừa gạt xuất hiện ở tận phía dưới
rãnh thứ bảy."
Sienna nhìn kỹ hình ảnh lúc này đang mờ dần bên cạnh mình và gật
đầu. "Đúng,
Tôi thấy rồi. Rãnh đầu tiên giờ lại là thứ bảy."
Langdon bỏ máy chiếu vào túi rồi nhảy xuống đường. Anh nhặt lấy một
que nhỏ và vạch các chữ cái ra một khoảng đất ngay bên đường. "Đây là các
chữ cái theo thứ tự xuất hiện trong bản địa ngục đã bị chỉnh sửa của chúng
ta."
C
A
T
R
O
V
A
C
E
R
"Catrovacer", Sienna đọc.
"Đúng. Và đây là chỗ "cỗ bài bị xén
mất!" Langdon vẽ một vạch bên dưới chữ cái thứ bảy và đợi Sienna nghiên
cứu bản vẽ đó.
C
A
T
R
O
V
A
C
E
A
C
E
R
"À", cô nói nhanh. "Catrova.
Cer."
"Đúng, và sắp xếp lại các lá bài theo
đúng trật tự, đơn giản là chúng ta không xén cỗ bài và đặt phần dưới lên trên.
Hai nữa hoán đổi vị trí cho nhau."
Sienna nhìn các chữ cái. "Cer.
Catrova." Cô nhún vai, trông không có biểu cảm gì. "Vẫn chẳng có
nghĩa gì..."
"Cer catrova", Langdon lặp lại. Một
lát sau, anh nói lại mấy từ này lần nữa, đọc liền mạch với nhau.
"Cercatrova." Cuối cùng, anh đọc lên cùng với một quãng ngừng xen giữa.
"Cerca... trova."
Sienna thở rõ mạnh và ngước mắt lên nhìn
Langdon.
"Đúng vậy", Langdon mỉm cười nói.
"Cerca trova."
Hai từ tiếng Ý cerca và trova có nghĩa đen là
"tìm kiếm" và "tìm thấy". Khi kết hợp thành một cụm từ
cerca trova, chúng đồng nghĩa với câu cách ngôn trong Kinh Thánh "Hãy tìm
và ngươi sẽ thấy".
"Những ảo giác của anh!". Sienna
thốt lên, gần như không thở nổi. "Người phụ nữ che mạng! Bà ấy liên tục
bảo anh tìm kiếm và sẽ thấy!" Cô nhảy cẫng lên. "Robert, anh có nhận
ra điều này có nghĩa là gì không? Nó có nghĩa là mấy từ cerca trova đã nằm sẵn
trong tiềm thức của anh! Anh không thấy vậy ư? Chắc chắn anh đã giải mã cụm từ
này trước khi anh đến bệnh viện! Có lẽ anh đã nhìn thấy hình ảnh trong máy
chiếu này nhưng quên rồi!"
Cô ấy nói đúng, anh nhận ra như vậy, bởi vì
anh đã quá quen với mật mã này đến mức không nhận ra mình đã từng trải qua toàn
bộ việc này rồi.
"Robert, anh từng nói rằng bức vực Địa
ngục chỉ đến một địa điểm cụ thể trong thành cổ. Nhưng tôi vẫn không hiểu đó là
nơi nào."
"Mấy từ cerca trova không gợi lên điều gì
cho cô sao?"
Cô nhún vai.
Langdon cười thầm. Rốt cuộc cũng có thứ Sienna
không biết. "Hóa ra cụm từ này chỉ cụ thể tới một bức tranh tường nổi
tiếng trứng tại Cung điện Vecchio - Trận Marciano của Giorgio Vasari trong Sảnh
Năm trăm. Gần trên đỉnh bức tranh, rất khó nhìn thấy, Vasari có viết cụm từ
cerca trova bằng cỡ chữ rất bé. Người ta đưa ra nhiều giải thiết để lý giải tại
sao ông lại làm như vậy, nhưng chưa tìm được bằng chúng kết luận nào."
Bỗng nhiên có tiếng rít chói tai của một chiếc
máy bay nhỏ vang lên phía trên đầu, nó xuất hiện hoàn toàn bất ngờ và lướt qua
tán rừng. Âm thanh nghe rất gần, Langdon và Sienna như hóa đá khi nó vụt qua.
Khi chiếc máy bay đi khỏi, Langdon dõi mắt
nhìn theo qua những tán cây. "Một cái trực thăng đồ chơi", anh nói,
thở phào trong lúc nhìn theo chiếc trực thăng dài hơn một mét, điều khiển bằng
sóng vô tuyến đang chao nghiêng ở phía xa. Tiếng của nó nghe như của một con
muỗi khổng lồ đang nổi khùng.
Tuy nhiên, Sienna trong vẫn hết sức cảnh giác.
"Cúi thấp xuống!"
Chắc chắn như vậy, chiếc trực thăng nhỏ xíu
đảo một vòng và lúc này đang quay trở lại chỗ họ, lướt sát những ngọn cây, vọt
qua họ lần nữa, nhưng lần này chếch sang trái họ, ở phía trên một trảng rừng
khác.
"Nó không phải đồ chơi đâu!", cô thì
thào. "Nó là một máy bay trinh thám không người lái. Có lẽ mang theo cả
máy quay video đế gửi hình ảnh trực tiếp về cho ai đó."
Quai hàm Langdon cứng đờ khi anh nhìn thấy
chiếc trực thăng bay nhanh theo hướng nó xuất hiện lúc nãy - Porta Romana và
Học viện Nghệ thuật.
"Tôi không biết anh đã làm gì",
Sienna nói, "nhưng rõ ràng một vài người rất có thế lực đang sốt sắng tìm
anh".
Chiếc trực thăng lại chao nghiêng lần nữa vả
bắt đầu bay chầm chầm dọc theo bức tường bao mà họ vừa nhảy qua.
"Chắc ai đó ở Học viện Nghệ thuật đã nhìn
thấy chúng ta và nói gì đó", Sienna nói, chân bước theo con đường.
"Chúng ta phải ra khỏi đây. Ngay bây giờ!"
Khi chiếc máy bay không người lái vè vè bay về
phía đầu kia của khu vườn, Langdon dùng chân xóa những chữ cái mà anh đã vạch
trên lối đi và vội bước theo Sienna. Đầu óc anh quay cuồng với những ý nghĩ về
cerca trova, bức bích họa của Giorgio Vasari, cũng như phát hiện của Sienna
rằng anh chắc chắn đã từng giải mã thông điệp trong máy chiếu. Hãy tìm và sẽ
thấy.
Đột nhiên, ngay khi họ bước và trảng rừng thứ
hai, Langdon có một ý nghĩ khá bất ngờ. Anh dừng sững lại trên lối đi đầy cây
cối, vẻ mặt đầy sửng sốt.
Sienna cũng dừng lại. "Robert? Có chuyện
gì thế?!"
"Tôi vô tội", anh tuyên bố.
"Anh đang nói chuyện gì thế?"
"Những người đang săn lùng tôi... Tôi
từng nghĩ đó là vì tôi đã làm điều gì đó kinh khủng."
"Đúng, ở bệnh viện anh cứ nhắc đi nhắc
lại rất ‘xin lỗi'."
"Tôi biết. Nhưng khi ấy tôi nghĩ là tôi
đã nói tiếng Anh."
Sienna ngạc nhiên nhìn anh. "Anh đã nói
tiếng Anh!"
Lúc này cặp mắt xanh biếc của Langdon đầy phấn
khích. "Sienna, lúc Tôi cứ nhắc đi nhắc lại 'rất xin lỗi' không phải là
tôi xin lỗi đâu. Là tôi đang lẩm nhẩm về thông điệp bí mật trong bức bích họa ở
Cung điện Vecchio!" Anh vẫn như nghe rõ giọng nói mê sảng của chính mình.
Rất xin lỗi! Rất xin lỗi!
Sienna như mê đi.
"Cô không hiểu sao?", Langdon cười
toe toét. "Tôi không hề nói 'rất xin lỗi, rất xin lỗi!'. Tôi đang đọc tên
của họa sĩ - Va...sari, Vasari!"
Chương 24
Vayentha đạp mạnh phanh.
Đuôi chiếc xe phân khối lớn của ả lảo đảo, rít
to và để lại một vệt dài trên Đại lộ Viale del Poggio Imperiale, sau đó đột
ngột dừng phía sau cả dòng xe cộ. Vile del Poggio đang giờ tắt nghẽn.
"Ta không có thời gian cho việc
này."
Vayentha nghểnh cổ nhìn qua những chiếc xe
hơi, cố gắng xem chuyện gì gây ra tình trạng tắt nghẽn này. Ả đã buộc phải
phóng xe theo một vòng tròn rất rộng để tránh đội SRS và toàn bộ tình trạng hỗn
độn ở tòa chung cư, và lúc này ả cần lọt vào thành phố cổ để dọn ra khỏi phòng
khách sạn nơi ả đã trú ngụ mấy ngày qua vì nhiệm vụ này.
"Ta đã bị từ chối - ta cần biến ngay khỏi
thành phố!"
Thế nhưng, chuỗi đen đủi của ả dường như vẫn
tiếp tục. Tuyến đường ả chọn để vào thành phố cổ có vẻ như đã bị chặn. Không
lòng dạ nào chờ đợi, Vayentha lách xe sang một bên và chạy dọc theo làn hẹp
dành riêng cho xe gặp sự cố cho tới khi nhìn thấy một giao lộ xe cộ ùn lại.
Phía trước là một vòng xuyến tắc nghẽn, nơi có sáu trục đường lớn gặp nhau. Đây
chính là Porta Romana - một trong những giao lộ đông đúc nhất của Florence -
cánh cổng đi vào thành cổ.
"Có chuyện quái gì ở đây không
biết?!"
Giờ thì Vayentha nhìn thấy toàn bộ khu vực này
dày đặc cảnh sát - chặn đường hay đặt chốt kiêm tra gì đó. Một lát sau, ả nhận
ra một thứ ở trung tâm hiện trường, thứ khiên cho ả chịu thất bại – chiếc xe
thùng đen quen thuộc với vài đặc vụ mặc đồ đen đang lớn tiếng ra lệnh cho nhân
viên công lực địa phương hướng. Rõ ràng, những người này là thành viên nhón
SRS, nhưng Vayentha không đoán nổi họ đang làm gì ở đây.
Trừ phi...
Vayentha nuốt khan, không dám hình dung ra
tình huống đó. Langdon đã thoát khỏi Brũder chăng? Điều đó thật khó tưởng tượng
khi mọi cơ hội trốn thoát gần như bằng không. Lại nữa Langdon không hành động
một mình, và Vayentha đã tận măt chứng kiên tài nghệ xoay sở của người phụ nữ
tóc vàng đi cùng anh.
Gần đó, một sĩ quan cảnh sát xuất hiện, đang
đi từ xe này sang xe khác, chìa ra tấm hình một người đàn ông điển trai với mái
tóc nâu dày dặn. Vayentha ngay lập tức nhận ra ảnh chụp trên báo của Robert
Langdon. Tim ả như muốn nhảy ra khỏi lông ngực.
Brũder cũng để anh ta thoát...
Langdon vẫn đang trong cuộc chơi!
Là một chiến lược gia lão luyện, Vayentha lập tức bắt tay vào việc
đánh giá xem thực tế này có thể làm thay đổi tình thế của ả như thế nào.
Lựa chọn một - Rút lui như yêu cầu.
Vayentha đã khiến thị trưởng rơi vào một tình thế rất tồi tệ và vì
việc này mà ả bị từ chối. Nếu may mắn, ả sẽ phải đối mặt với một buổi thẩm vấn
chính thức và có lẽ sẽ chấm dứt sự nghiệp. Tuy nhiên, nếu ả không may đánh giá
nhầm mức độ nghiêm trọng của tình thế đó thì có lẽ cả quãng đời còn lại, ả sẽ
luôn phải đề phòng và tự hỏi không biết Consortium đang lẫn mặt ở đâu.
Còn một lựa chọn thứ hai - Hoàn thành nhiệm vụ của mày.
Tiếp tục nhiệm vụ là chuyện hoàn toàn đối nghịch với quy trình từ
chối vừa áp dụng với ả, nhưng vì Langdon vẫn đang lẩn trốn, nên lúc này
Vayentha lại có cơ hội tiếp tục thực hiện chỉ thị ban đầu của mình.
Nếu như Brũder cũng không tóm được Langdon, ả nghĩ bụng, mạch đập
rộn lên, và nếu ta thành công...
Vayentha biết đây là chuyện một mất một còn, nhưng nếu Langdon tìm
cách thoát khỏi vòng vây của Brũder, còn Vayentha vẫn có thể nhập cuộc và kêt
thúc công việc thì ả sẽ đơn thương độc mã cứu vãn tình hình cho Consortium, khi
đó thị trưởng sẽ không còn lực chọn nào khác ngoài việc tha bổng cho ả. Ta sẽ
tiêp tục công việc của mình, ả nghĩ. Có khi còn được thăng tiên.
Trong nháy mắt, Vayentha nhận ra giờ đây toàn bộ tương lai của ả
đều phụ thuộc vào một công việc then chôt duy nhất. Ta phải tìm ra Langdon
trước Brũder.
Việc đó thật không dễ, Brũder có trong tay nhân lực hùng hậu tùy ý
sử dụng, cũng như vô sô công nghệ giám sát tiên tiến. Còn Vayentha chỉ làm việc
một mình. Tuy nhiên, ả đã nắm được một thông tin mà Brũder, Thị trưởng và cảnh
sát đều không có.
Ta nghĩ ra Langdon sẽ mò tới chỗ nào.
Ả rồ ga chiêc BMW, xoay một trăm tám mươi độ
và quay ngược lại lối vừa nãy. Ponte alle Grazie, ả nghĩ, trong đầu hình dung
ra cây cầu dẫn lên phía Bắc. Đâu phải chỉ có một lối đi vào thành cổ.
Chương 25
Không phải là lời xin lỗi, Langdon trầm ngâm. Tên của một
họa sĩ.
"Vasari", Sienna lắp bắp, mọi suy nghĩ như lùi
lại hẳn một bước dài. "Họa sĩ đã giấu cụm từ cerca trova trong bức bích
họa của mình."
Langdon chỉ biết mỉm cười. Vasari. Vasari. Không chỉ thắp
lên một tia sáng trong tình thế khó khăn kỳ lạ mà phát hiện này cũng giúp
Langdon không còn phải băn khoăn xem mình đã làm việc gì kinh khủng khiến anh
cứ luôn miệng nói xin lỗi.
"Robert, rõ ràng anh đã nhìn thấy bức tranh
Botticelli này trên máy chiếu trước khi bị thương, và biết nó chứa đựng một mật
mã chỉ dẫn tới bức bích họa của Vasari. Đó là lý do vì sao anh tỉnh lại và cứ
liên tục gọi tên Vasari!"
Langdon cố suy đoán xem tất cả việc này có ý nghĩa gì.
Giorgio Vasari - một họa sĩ, kiến trúc sư kiêm nhà văn ở thế kỷ XVI - là người
Langdon thường nhắc đến như "sứ giả nghệ thuật đầu tiên của thế
giới." Mặc dù Vasari đã sáng tạo hàng trăm bức vẽ, và thiết kế hàng chục
công trình, nhưng di sản lâu dài nhất của ông chính là cuốn sách có ảnh hưởng
mạnh mẽ, Cuộc đời của các họa sĩ, điêu khắc gia và kiến trúc sư xuất sắc nhất,
một tập hợp tiểu sử của các nghệ sĩ Ý, đến giờ vẫn là tài liệu bắt buộc cho
những sinh viên học lịch sử nghệ thuật.
Cụm từ cerca trova đưa Vasari trở lại mối quan tâm chính
thống khoảng ba mươi năm trước, khi "thông điệp bí mật" của ông phát
hiện trên bức bích họa đồ sộ tại sảnh Năm trăm trong Cung
điện. Những con chữ bé xíu xuất hiện trên lá cờ trận màu xanh
lục, gần như không thể nhìn thấy trong cảnh chiến tranh hỗn loạn. Mặc dù
vẫn chưa có sự thống nhất về lý do tại sao Vasari lại cho thêm thông điệp kỳ lạ
này và bích họa của mình, nhưng giả thuyết hàng đầu cho rằng đó là manh mối thế
hệ tương lai biết tới sự tồn tại của bức bích họa đã thất lạc của Leonardo da
Vinci, được giấu trong khoảng trống ba phân phía sau bức tường đó.
Sienna lo lắng ngước nhìn qua các tán cây. "vẫn có
một điều tôi không hiểu. Nếu anh không nói "rất xin lỗi, rất xin
lỗi"...thì tại sao người ta lại tìm cách giết anh?"
Langdon cũng đang thắc mắc điều này.
Tiếng động cơ xa xa của chiếc máy bay trinh sát không
người lái lại to dần, và Langdon biết đã đến lúc phải quyết định. Dù không hiểu
được bức Trận Marciano của Vasari có liên hệ như thế nào tới Hỏa ngục của
Dante, hoặc nguyên nhân của vết thương do đạn bắn vào đêm trước, nhưng cuối
cùng anh đã nhìn thấy một con đường hữu hình trước mắt.
Cerca trova.
Hãy tìm và sẽ thấy.
Langdon lại nhìn thấy người phụ nữ tóc bạc gọi anh từ
phía bên kia sông. Thời gian đang cạn dần! Nếu có câu trả lời, Langdon có cảm
giác chúng phải nẳm ở Cung điện Vecchio.
Lúc này anh chợt nhớ đến câu ngạn ngữ cổ của những người
thợ lặn tự do Grecia ngày xưa, những người chuyên săn tôm hùm trong các hang
san hô ở quần đảo Aegea. Khi bơi vào một đường hầm tối tăm, sẽ có lúc anh không
thể trở về nếu không còn đủ dưỡng khí. Lựa chọn duy nhất của anh là đi thẳng
vào chỗ chưa biết...và cầu mong có một lối thoát.
Langdon tự hỏi liệu họ đã tới lúc đó chưa.
Anh dõi mắt nhìn vườn mê cung lối đi ngay trước mặt. Nếu
anh và Sienna có thể tới Cung điện Pitti và ra khỏi vườn thì thành cổ chỉ còn
cách một quãng ngắn. Họ chỉ phải đi bộ qua phía bên kia cây cầu nổi tiếng nhất
thế giới - Ponte Vecchio. Nơi đó luôn đông đúc và sẽ là một chỗ ẩn nấu rất tốt.
Từ đó, Cung điện Vecchio chỉ có cách vài dãy phố.
Tiếng chiếc máy bay không người lái gần hơn, Langdon chợt
cảm thấy kiệt sức. Việc anh nhận ra rằng mình không hề nói "rất xin
lỗi" khiến anh cảm thấy mâu thuẫn với chuyện phải chạy trốn cảnh sát.
"Rốt cuộc họ cũng sẽ bắt được tôi, Sienna ạ!",
Langdon nói. "Có lẽ tốt hơn là tôi đừng chạy nữa."
Sienna
nhìn anh hoảng hốt. "Robert, mỗi lần anh dừng lại là có người nhắm bắn
anh! Anh cần tìm hiểu kỹ xem anh đã dính vào chuyện gì. Anh cần xem xét bức
bích họa đó đó của Vasari và hy vọng nó thức tỉnh trí nhớ của anh. Có lẽ nó sẽ
giúp anh biết được cái máy chiếu từ đâu ra và tại sao anh lại mang theo
nó."
Langdon
nhớ lại người phụ nữ đầu đinh lạnh lùng hạ sát bác sĩ MarconL, những người lính
nã đạn vào họ... quân cảnh Ý vây lấy Porta Romana...Và giờ đây một máy bay thám
sát không người lái đang lùng tìm họ khắp vườn Boboli. Anh im lặng, dịu đôi mắt
mỏi mệt trong lúc cân nhắc mọi lựa chọn của mình.
"Robert!",
giọng Sienna vang lên. "Còn một chuyện nữa...một chuyện có vẻ không mấy
quan trọng, nhưng giờ đây dường như lại rất quan trọng."
Langdon
ngước mắt lên, đáp lại giọng nghiêm nghị của cô.
"Tôi
đã định nói với anh ở căn hộ", cô nói, "nhưng..."
"Chuyện
gì nào?"
Sienna mím
môi, trông không được thoải mái. "Lúc anh đến bệnh viện, anh bị hôn mê và
cố gắng tìm cách giao tiếp."
"Đúng",
Langdon nói, "cứ lầm bầm "Vasari, Vasari".
"Vâng,
nhưng trước đó...trước khi chúng tôi kịp lấy máy ghi âm, vào những khắc đầu
tiên sau khi anh đến, tôi vẫn nhớ anh nói một điều khác. Anh chỉ nói đúng một
lần, nhưng tôi tin là mình hiểu."
"Tôi
đã nói gì?"
Sienna
ngước nhìn về phía chiếc máy bay và sau đó quay lại Langdon. Anh nói "Tôi
nắm giữ chìa khóa tìm ra nó...nếu tôi thất bại, khi đó tất cả sẽ chết."
Langdon
chỉ biết tròn mắt nhìn.
Sienna nói
tiếp, "Tôi nghĩ anh nhắc đến vật trong túi áo khoác của mình, nhưng giờ
thì tôi không dám chắc."
Nếu tôi
thất bại, khi đó tất cả sẽ chết ư? Mấy từ này tác động đến Langdon rất mạnh.
Những hình ảnh chết chóc đầy hăm dọa lóe lên trước mắt anh... Hỏa ngục của
Dante, biểu tượng hiểm họa sinh học, vị bác sĩ dịch hạch. Lại một lần nữa,
gương mặt của người phụ nữ tóc bạc xinh đẹp hiện ra, cầu xin anh từ phía bên
kia dòng sông máu. Hãy tìm và sẽ thấy! Thời gian đang cạn dần!
Giọng
Sienna kéo anh trở lại. "Rốt cuộc, dù cái máy chiếu này dẫn tới đâu... hay
anh đang phải tìm thứ gì, đó nhất định phải là thứ cực kỳ nguy hiểm, sự thực là
có người đang tìm cách giết chúng ta../'. Giọng cô hơi run run, và phải mất một
lúc để định thần. "Hãy nghĩ về điều đó. Họ vừa bắn anh ngay giữa thanh
thiên bạch nhật...bắt cả tôi - một người ngoài cuộc vô tội. Dường như không ai
tìm cách thương thuyết. Chính phủ của anh thù địch với anh...Anh gọi cho họ cầu
cứu nhưng họ lại cử người tới giết anh."
Langdon
nhìn mông lung xuống đất. Việc tòa Lãnh sự Hoa Kỳ tiết lộ vị trí của Langdon
cho kẻ sát nhân hay chính tòa Lãnh sự cử sát thủ tới cũng không đáng quan tâm.
Bởi kết quả cuối cùng vẫn như nhau. Chính phủ của mình không đứng về phía mình.
Langdon
nhìn sâu vào đôi mắt màu nâu của Sienna và thấy sự can trường. Mình khiến cô ấy
dính vào vì cái gì? "ước gì tôi biết được thứ chúng ta đang cần tìm. Điều
đó sẽ giúp tất cả việc này trở lại đâu vào đấy."
Sienna gật
đầu. "Cho dù là gì, tôi nghĩ chúng ta cần phải tìm ra nó. ít nhất nó sẽ
cho chúng ta động lực."
Lập luận
của cô ấy thật khó phản bác. Nhưng Langdon vẫn cảm thấy điều gì đó khúc mắc.
Nếu tôi thất bại, khi đó tất cả sẽ chết. Suốt buổi sáng anh đã phải đánh vật
với những biểu tượng kinh khủng của hiểm họa sinh học, dịch bệnh và địa ngục
của Dante. Phải thừa nhận, anh không có bằng chứng rõ ràng xem mình đang tìm
kiếm thứ gì, nhưng anh không ngốc đến mức không cân nhắc tới khả năng tình
huống này có liên quan đến một thứ dịch bệnh chết người hoặc một hiểm họa sinh
học quy mô lớn. Nhưng nếu đúng như vậy thì tại sao chính phủ lại tìm cách loại
trừ anh?
Phải chăng
họ nghĩ bằng cách nào đó mình có liên can tới một vụ tấn công tiềm năng?
Điều đó
cũng hết sức phi lý. Vẫn còn gì đó khác đang diễn ra ở đây.
Langdon
lại nghĩ tới người phụ nữ tóc bạc. "Trong ảo giác của tôi còn có người phụ
nữ. Tôi cảm thấy mình cần tìm bà ấy."
"Vậy
thì hãy tin vào cảm giác của anh", Sienna nói. "Trong điều kiện của
anh, kim chỉ nam tốt nhất anh có chính là tiềm thức. Đây là tâm lý thông thường
- nếu lòng anh bảo hãy tin tưởng người phụ nữ đó, tôi nghĩ anh nên làm đúng
những gì bà ấy muốn."
"Hãy
tìm và sẽ thấy", họ đồng thanh nói.
Langdon
thở phào, biết rằng con đường của mình đã sáng tỏ.
Tất cả
những gì mình có thể làm là tiếp tục bơi xuống đường hầm này.
Khi đã
quyết tâm trở lại, anh xoay người và bắt đầu để ý xung quanh, cố gắng nắm bắt
tình thế. Đường nào ra khỏi khu rừng này nhỉ?
Họ đang
đứng dưới những tán cây ở rìa một quảng trường rộng nơi có vài lối đi cắt nhau.
Cách một quãng bên trái, Langdon chú ý tới một đầm nước hình bầu dục và hòn đảo
nhỏ được tô điểm bằng cây chanh và một bức tượng. Isolloto, anh thầm nghĩ, nhận
ra ngay tác phẩm điêu khắc nổi tiếng mô tả anh hùng Perseus cưỡi một con ngựa
chim nửa người đang vọt lên khỏi mặt nước.
"Cung
điện Pitti ở lối này", Langdon nói, chỉ về phía đông, rời xa khỏi tượng
Isolloto, tới lối đi chính của khu vườn - Viottolone, chạy theo hướng đông tây
dọc toàn bộ chiều dài của khu vườn. Viottolone rộng bằng một con đường hai làn
xe với hai hàng cây bách mảnh mai bốn trăm năm tuổi.
"Không
có chỗ trú ẩn", Sienna nói, đưa mắt nhìn con đường không được ngụy trang
và ra hiệu về phía máy bay đang lượn vòng tròn.
"Cô
nói đúng", Langdon nói kèm theo một nụ cười méo xệch. "Đó là lý do
chúng ta phải chọn đường hầm bên cạnh."
Lần này
anh lại chỉ tay về phía một hàng rào cây rậm rạp kề bên lối vào Viottolone. Bức
tường cây cối dày đặc có một cổng vòm nhỏ trổ vào trong. Qua cổng vào, có một
lối đi hẹp chạy tít ra xa - một đường hầm nằm song song với Viottolone. Nó được
khép kín một đầu bằng một khoảnh những cây cối xanh được xén tỉa và chăm chút
cẩn thận từ những năm 1600, hướng cành vào mé trong, trùm lên lối đi, đan lấy
nhau phía trên đầu tạo thành một mái che bằng tán lá. Tên gọi của lối đi, La
Cerchiata - theo nghĩa đen là "hình tròn" hoặc "đánh đai" -
xuất phát từ vòm lá của những hàng cây được uốn cong trông giống như những đai
thùng, hay cerchi, tức là "vòng tròn".
Sienna
nhanh chóng bước tới lối vào và chăm chú quan sát bên trong đường hầm râm mát.
Sau đó cô quay trở lại chỗ anh và mỉm cười. "Tốt hơn hẳn!"
Không bỏ
phí thời gian, cô luồn qua lối vào và khuất trong những hàng cây.
Langdon
luôn coi La Cerchiata là một trong những địa điểm thanh bình nhất Florence. Tuy nhiên, hôm
nay, khi anh nhìn Sienna biến mất trong lối đi tăm tối, anh lại nghĩ đến những
người thợ lặn tự do Grecia đang bơi vào đường hầm san hô và cầu mong tới được
lối ra.
Langdon
nhanh chóng cầu nguyện rồi vội vã theo cô.
Cách họ
nửa dặm phía sau, bên ngoài Học viện Nghệ thuật, đặc vụ Bruxder sải bước qua
đám đông cảnh sát và sinh viên, ánh mắt lạnh băng của anh ta rẽ đám đông trước
mặt. Anh ta đi thẳng tới sở chỉ huy dã chiến, vừa được chuyên gia theo dõi của
anh ta thiết lập trên mui xe thùng màu đen.
"Từ
máy bay trinh sát không người lái", tay chuyên gia nói, trao cho Bruxder
một màn hình máy tính bảng. "Chụp được vài phút trước."
Bruxder
kiểm tra các ảnh tĩnh video, dừng lại trước bản phóng to hơi nhòe hai gương mặt
- một người đàn ông tóc sẫm màu và một cô gái tóc vàng để đuôi ngựa - cả hai
nép trong bóng râm và đang nhìn lên bầu trời qua các tán cây.
Robert
Langdon.
Sienna
Brooks.
Không nghi
ngờ gì nữa!
Bruxder
quay sang tờ bản đồ vườn Boboli trải rộng trên mui xe. Lựa chọn của họ rất tệ,
anh ta nghĩ, mắt nhìn sơ đồ khu vườn. Mặc dù lộn xộn, rối rắm và có rất nhiều
chỗ ẩn nấp. nhưng khu vườn cũng bị những bức tường cao vây kín ở mọi phía, vườn
Boboli là thứ gần gũi với một tuyệt lộ tự nhiên nhất mà Bruxder từng nhìn thấy
trên thực địa.
Họ sẽ
không bao giờ thoát ra được.
"Giới
chức địa phương đã phong tỏa mọi lối ra", tay chuyên gia nói. "Và
đang bắt đầu rà quét."
"Giữ
liên lạc với tôi", Bruxder nói.
Anh ta chậm
rãi nhướng mắt về phía ô cửa sổ polycarbonate dày cộp của xe, và nhìn thấy
người phụ nữ tóc bạc ngồi ở ghế sau.
Thứ thuốc
họ đưa rõ ràng đã làm tê liệt mọi giác quan của bà ấy - mạnh hơn Bruxder hình
dung. Tuy nhiên, anh ta có thể khẳng định rằng bà vẫn biết rõ những gì đang xảy
ra, căn cứ bằng vẻ hãi hùng trong mắt bà ấy.
Trông bà
ấy không vui, Bruxder nghĩ. Mà tại sao bà ấy lại như vậy?
CHƯƠNG 26
Một tia
nước bắn vọt lên không trung chừng sáu mét.
Langdon
nhìn tia nước nhẹ nhàng rơi trở lại mặt đất và biết rằng họ đang đến gần. Họ đã
tới phía cuối đường hầm tạo thành từ vòm lá La Cerchiata và chạy băng qua một
bãi cỏ trống để luồn vào khoảng rừng toàn cây bẩn. Lúc này họ đang nhìn ra đài
phun nước nổi tiếng nhất của Boboli - bức tượng của Stoldo Lorenzi mô tả thần
biển Neptune tay cầm cây đinh ba. Được người
địa phương gọi nôm na là "Đài phun nước cái dĩa", công trình này được
gọi là điểm trung tâm của khu vườn.
Sienna
dừng lại ở rìa lùm cây và ngước mắt nhìn qua các tán lá. "Tôi không thấy
cái máy bay đâu!"
Langdon
cũng không còn nghe thấy tiếng nó nữa, vì tiếng của đài phun nước khá ồn ã.
"Chắc
nó đang được tiếp nhiên liệu", Sienna nói. "Đây là cơ hội của chúng ta. Đường nào
đây?"
Langdon dẫn cô đi về bên trái, và họ bắt đầu lần xuống
một đoạn dốc cao. Khi ra khỏi lùm cây, họ đã nhìn thấy ngay Cung điện Pitti.
"Tòa nhà nhỏ nhắn xinh xắn", Sienna thì thào.
"Cách nói khiêm tốn đặc trưng nhà Medici", anh
đáp lại vẻ bông đùa.
vẫn còn cách xa họ một phần tư dặm, song mặt chính bằng
đá của Cung điện Pitti như thống trị toàn bộ khung cảnh, trải rộng sang hai
bên. Ngoại thất bằng đá trát vữa nhám phồng lên đem lại cho công trình một thần
thái uy quyền cương nghị, thần thái ấy càng mạnh mẽ hơn với thiết kế lặp đi lặp
lại của những ô cửa chớp cùng các ô hở lấy sáng hình vòm. Theo truyền thống, các cung điện
trang trọng đều xây trên những khu đất cao để bất kỳ ai trong khu vườn cũng
phải ngước. Tuy nhiên, Cung điện Pitti lại nằm ở thung lũng thấp gần sông Arno,
nghĩa là những người ở trong vườn Boboli đều phải nhìn xuống mới thấy
Tác dụng này càng gây ấn tượng hơn. Một kiến trúc sư đã
mô tả rằng cung điện dường như do chính tự nhiên tạo ra, như thể những khối đá
đồ sộ trong một vụ sạt lở đất đã trôi xuống cả đoạn dốc dài và dồn lại thành
một đống gọn gàng, dưới chân dốc. Mặc dù có vị thế phòng thủ kém vì ở trên khu
đất thấp, kết cấu đá vững vàng của Cung điện Pitti vẫn ấn tượng đến mức
Napoleon từng sử dụng nó như một căn cứ quyền lực trong thời gian ông lưu trú
tại Florence.
"Nhìn kìa", Sienna nói, tay chỉ về những cánh
cửa gần nhất ở cung điện. "Có tin tốt lành rồi."
Langdon cũng nhìn theo. Vào cái buổi sáng lạ lùng này thì
hình ảnh được mong chờ nhất không phải là tòa cung điện, mà là từng đoàn du
khách ùn ùn kéo ra khỏi tòa nhà, tràn vào những khu vườn mé dưới. Cung điện đã
mở ra, nghĩa là Langdon và Sienna có thể lẻn vào trong rồi băng qua tòa nhà để
thoát ra ngoài dễ dàng hơn. Một khi đã ra khỏi cung điện, Langdon biết họ sẽ
thấy sông Arno bên phải, và sau khi vượt qua đó, họ sẽ tới được những ngọn tháp
của thành cổ.
Anh và Sienna vẫn di chuyển dần xuống đường dốc. Trên
đường xuống, họ đi ngang qua đài vòng Boboli - địa điểm tổ chức những màn trình
diễn opera đầu tiên trong lịch sử - nằm nép mình như cái móng ngựa bên sườn
đồi. Hết quãng đường dốc, họ băng qua cột tháp Ramses II và tác phẩm "nghệ
thuật" kém may mắn được đặt ở đế thấp. Các sách hướng dẫn du lịch nhắc đến
tác phẩm này như là "phần đế bằng đá đồ sộ từ Nhà tắm Caracalla ở
Rome", nhưng Langdon luôn nhìn nhận nó theo đúng ý nghĩa thật - cái bồn
tắm lớn nhất thế giới. Người ta thật sự cần đặt thứ này ở nơi khác.
Cuối cùng, họ cũng tới được khu phía sau của cung điện và
đi bộ từ tốn, kín đáo lẫn vào đoàn du khách đầu tiên trong ngày. Họ di chuyển
ngược chiều dòng người, đi xuống một đường hầm hẹp để vào giếng trời, một
khoảng sân trong nhà nơi có những vị khách đang ngồi thưởng thức ly cà phê buổi
sáng trong quán cà phê tiện lợi của cung điện. Không khí ngập tràn mùi cà phê
mới, Langdon bỗng nhiên thấy thèm được ngồi xuống và tận hưởng một buổi sáng
lịch sự. Hôm nay không phải lúc rồi, anh nghĩ khi hai người băng qua đó, lọt
vào một hành lang rộng dẫn về phía cửa chính của cung điện.
Lúc tới gần cửa, Langdon và Sienna vấp phải đám du khách
dồn ứ lại ngày càng đông ở cổng để quan sát gì đó bên ngoài, Langdon cố nhìn
qua đám đông ra khu vực phía trước cung điện.
Theo như anh còn nhớ thì lối vào rộng rãi của Cung Pitti
nhìn không mấy dễ chịu. Thay vì bãi cỏ và cảnh quan được cắt tỉa chăm chút, sân
phía trước là một khoảng trống lát đá trải rộng toàn bộ sườn đồi, lan cả xuống
Đại lộ Via dei Guicciardini như một dốc trượt băng lát đá hoành tráng.
Phía dưới Quảng trường Pitti, có đến nửa tá xe cảnh sát
đang đổ dồn đến từ mọi hướng. Một nhóm phó sĩ quan đang tiến lên đồi, tay mang
vũ khí và tỏa ra để chặn toàn bộ phía trước cung điện.
CHƯƠNG 27
Khi cảnh sát tiến vào Cung Pitti thì Sienna và Langdon đã
đi rồi. Họ men theo đúng lối cũ bên trong cung điện và tránh xa lực lượng cảnh
sát đang tiến vào.
Họ lẩn nhanh qua giếng trời và quán cà phê, nới những
tiếng xì xầm đang loang ra, đám du khách nháo nhác nhìn ngó, cố tìm xem đâu là
nguyên nhân của tình trạng hỗn loạn lúc này.
Sienna ngạc nhiên khi giới chức tìm thấy họ nhanh như
vậy. Cái máy bay không người lái biến mất vì nó đã phát hiện ra bọn mình.
Cô và Langdon tìm lại được đường hầm hẹp lúc họ từ vườn
đi xuống và không do dự lẩn ngay vào đó để leo ngược lên những bậc thang. Đầu
cầu thang chếch sang trái về phía một bức tường chắn khá cao. Khi chạy men theo
tường, họ thấy bức tường bên cạnh mình càng lúc càng thấp xuống, cho tới khi họ
có thể nhìn vượt qua tường sang phía vườn Boboli.
Langdon lập tức nắm lấy tay Sienna và kéo cô lùi lại,
khuất khỏi tầm nhìn phía sau bức tường chắn. Sienna cũng đã nhìn thấy.
Cách đó ba trăm thước, trên đầu dốc phía trên khán đài vòng, một
toán cảnh
sát đang đi xuống, lùng sục trong các lùm cây, hỏi han du
khách và liên lạc với nhau bằng bộ đàm.
Chúng ta mắc kẹt rồi!
Lần đầu tiên gặp Robert Langdon, Sienna không thể tưởng
tượng nổi mọi việc lại trở nên phức tạp như bây giờ. Như thế này còn hơn cả
mình dự tính. Lúc rời khỏi bệnh viện cùng với Langdon, cô cứ nghĩ họ đang chạy
trốn một ả đầu đinh có súng. Giờ thì họ đang chạy trốn cả một đội quân và giới
chức Ý. Cô nhận thấy khả năng trốn thoát của họ lúc này gần như
bằng không.
"Còn lối nào thoát ra khỏi không?", Sienna thở
hổn hển hỏi.
"Tôi không nghĩ là có" Langdon nói. "Khu
vườn này là một thành phố có tường bao, giống … " Anh đột ngột dừng
lại, ngoảnh nhìn về phía đông. "Giống như... Vatican vậy." Một tia hy
vọng kỳ lạ chợt hiện lên trên gương mặt anh.
Sienna không rõ Vatican có liên quan gì đến tình thế mắc
kẹt của họ lúc này, nhưng Langdon bỗng gật đầu, mắt đăm đăm nhìn về phía đông
tới khu vực phía sau cung điện.
"Chỉ một quãng ngắn", anh nói, hối hả kéo cô
theo anh. "Nhưng có thể có một lối khác ra khỏi đây."
Hai bóng người đột nhiên hiện ra trước mặt họ, vừa ngoặt
gấp chỗ góc bức tường chắn, gần như đâm sầm vào Sienna và Langdon. Cả hai nhân
vật này đều mặc đồ đen, và trong lúc hoảng hốt, Sienna nghĩ rằng đó là những
người lính cô đã chạm trán ở tòa chung cư. Nhưng khi họ đi qua, cô nhận ra họ
chỉ là những du khách - người Ý, cô đoán vậy, căn cứ vào trang phục đồ da đen
thời trang của họ.
Sienna chợt nảy ra một ý, cô níu lấy cánh tay một du
khách và cố gắng mỉm cười với ông ấy hòa nhã hết mức. "Làm ơn chỉ cho
chúng tôi lối tham quan Galleria de costume?", cô hỏi bằng tiếng Ý trôi
chảy lối tới phòng trưng bày trang phục nổi tiếng của cung điện. "Tôi và
anh trai bị muộn giờ một tour riêng."
"Rất sẵn lòng!" Vị khách cười tươi với cả hai,
vẻ sẵn lòng giúp họ. "Cô đi thẳng theo lối này!" ông ấy quay đi và
chỉ về phía tây, men theo bức tường chắn, ngược hẳn hướng Langdon đang quan
sát.
"Cám ơn rất nhiều!", Sienna lại mỉm cười khi
hai người đàn ông bỏ đi.
Langdon gật đầu vẻ ấn tượng với Sienna, rõ ràng hiểu hết
ý định của cô. Nếu cảnh sát tiến hành hỏi han du khách, có thể họ sẽ tưởng
Langdon và Sienna đã đi tới phòng trưng bày trang phục mà theo tấm bản đồ ở
trên bức tường trước mặt họ, nơi này nằm ở đầu phía tây của cung điện...xa hết
mức so với hướng của họ lúc này.
"Chúng ta cần phải tới được lối đi đằng kia",
Langdon nói, ra hiệu qua khoảng sân trống trải về phía lối đi chạy xuống một
quả đồi khác cách xa cung điện. Lối đi rải sỏi vụn nằm nép trên sườn đồi, bên
những hàng rào cây sum suê, dù chỗ ẩn mình trước những nhân viên công quyền lúc
này đang tiến xuống đồi, chỉ còn cách khoảng một trăm thước.
Sienna cho rằng cơ hội họ băng được qua khu vực trống
trải để tới lối đi kín đáo kia là rất nhỏ. Mọi du khách đều tập trung ở đây,
nhìn đám cảnh sát với ánh mắt tò mò. Tiếng kêu loáng thoáng của chiếc máy bay
không người lái nghe rõ dần, đang tiến lại từ phía xa.
"Làm ngay hoặc hết cơ hội", Langdon nói, nắm
lấy tay Sienna và kéo cô lao ra khoảng sân trống, luồn qua đám đông du khách
đang dồn lại. Sienna phải cố kìm không chạy, nhưng Langdon giữ chặt tay cô, đi
nhanh nhưng hết sức bình tĩnh qua đám người.
Cuối cùng, khi đến được đầu đường, Sienna liếc nhìn lại
phía sau để xem liệu họ có bị phát giác không. Những sĩ quan cảnh sát duy nhất
lọt vào tầm nhìn đều đang ngoảnh sang hướng khác, ánh mắt họ đều dõi lên bâu
trời về phía tiếng động cơ của chiếc máy bay đang bay lại gần.
Cô cúi mặt xuống và bước vội theo Langdon.
Trước mặt họ lúc này, đường chân trời của thành Florence
cổ kính hiện lên phía trên những tán cây, nhìn rõ mồn một phía trước. Cô thấy
phần mái vòm ngói đỏ của vương cung Thánh đường Duomo cùng ngọn tháp chuông
Giotto xanh, đỏ, trắng. Phía xa, cô nhận ra những lỗ châu mai của Cung điện
Vecchio - cái đích dường như không thể đặt chân tới của họ, nhưng khi họ đi
xuống, những tường bao rất cao che kín tầm nhìn đã giúp họ trốn thoát.
Khi xuống đến chân đồi, Sienna thở không ra hơi và thắc
mắc liệu Langdon có ý tưởng gì về nơi họ đang đến không. Con đường dẫn thẳng
vào một khu vườn như mê cung, nhưng Langdon rất tự tin rẽ trái, đi vào một
khoảnh sân rộng rãi rải sỏi, men theo mép sân, lần sau hàng rào bên dưới những
bóng cây vươn cao. Khoảnh sân vắng tanh, giống bãi để xe của nhân viên hơn là
khu du lịch.
"Chúng ta đang đi đâu đây?", rốt cuộc Sienna
cũng phải lên tiếng, thở hổn hển.
"Gần đến rồi."
Gần đến đâu? Toàn bộ khoảnh sân được bao kín trong những
bức tường cao tới ba tầng nhà. Lối ra duy nhất Sienna nhìn thấy là một cánh
cổng cho xe qua ở bên trái, lúc này đóng kín trong khung cửa bằng sắt rèn đồ sộ
trông như xuất hiện nguyên vẹn cùng với tòa cung điện từ thời của những đội
quân cướp bóc. Phía ngoài chướng ngại này, cô thấy rõ nhiều cảnh sát tụ tập tại
Quảng trường Pitti.
Langdon vẫn bám sát hàng rào cây cối bao quanh, tiến về
phía trước, đên chỗ bức tường trước mặt họ. Sienna đưa mắt nhìn mặt tiền để xem
có ô cửa nào không, nhưng tất cả những gì cô nhìn thấy chỉ là một hốc tường,
đặt bức tượng gớm ghiếc nhất cô từng biết.
Lạy Chúa lòng lành, nhà Medici có đủ tiền để chi bất kỳ
tác phẩm nghệ thuật nào trên Trái đất, nhưng họ lại chọn thứ này sao?
Bức tượng trước mặt họ mô tả một gã lùn trần truồng, béo
ị cưỡi trên con rùa khổng lồ. Đùi của gã lùn ép chặt vào mai rùa, còn miệng con
rùa nhể nước
ròng ròng, như thể đang bị ốm.
"Tôi biết", Langdon nói, vẫn không ngừng sải
bước. "Đó là tượng Braccio di Bartolo - một gã lùn phục vụ cung điện nổi
tiếng. Nếu cô muốn biết nhận xét của tôi thì tôi cho rằng lẽ ra người ta nên
tống gã vào cái bồn tăm thật lớn."
Langdon quay ngoắt sang phải, đi xuống một dãy bậc mãi
đên lúc này Sienna mới nhìn thấy.
Một lối thoát ư?!
Tia hy vọng sớm tàn.
Khi rẽ vào và bước xuống bậc thang theo sau Langdon, cô
nhận ra họ đang lao vào một ngõ cụt - một đường đi không lối thoát với những
bức tường cao gấp đôi lúc trước.
Hơn nữa, giờ đây Sienna cảm thấy chuyến đi đằng đẵng của
họ sắp kết thúc ở một cái miệng hang há hốc khoét sâu vào bức tường hậu. Đây
không thể là nơi anh ấy đưa cả hai tới được!
Phía trong lôi vào hang toang hoác, toàn những nhũ đá sắc
như dao găm đầy
hăm dọa. Trong lòng hang, những yếu tố địa chất vẫn đang
hình thành, quyện với nhau và chảy dọc theo vách hang như thể lớp đá đang tan
chảy...biến thành những hình dạng kỳ dị. Với tâm trạng hoảng hốt của Sienna thì
trông chúng chẳng khác gì những hình người bị chôn một nửa và tròi ra khỏi vách
hang như thể đang bị đá ăn thịt. Toàn bộ cảnh tượng này gợi cho Sienna nhớ điều
gì đó trong bức tranh vực địa ngục của Botticelli.
Còn Langdon, chẳng hiểu sao không hề bối rối mà cứ tiếp
tục chạy thẳng vào miệng hang. Trước đó anh đã nhắc đến thành phố Vatican,
nhưng Sienna nghĩ chắc không hề có lòng hang quái đản nào bên trong những bức
tường của Tòa thánh.
Khi họ đến gần hơn, Sienna đưa mắt nhìn phía trên lối vào
- một cấu trúc ma quái gồm những nhũ đá và khôi đá u ám trồi ra giống như đang
nhấn chìm hai người phụ nữ ngồi dựa vào đó, bên sườn có một tấm khiên mang sáu
quả đạn, hay palle, chính là hình gia huy nổi tiếng của gia tộc Medici.
Langdon chạy nhanh tới cánh cửa, rõ ràng hy vọng có thể
mở được, nhưng nó không hề có tay nắm - chỉ có 15 khóa bằng đồng - và đương
nhiên là chỉ có thể mở từ bên trong.
"Khốn kiếp!" Giờ đây mặt Langdon đầy vẻ lo
lắng, mọi hy vọng lúc trước của anh tan biến. "Tôi hy vọng..."
Bât ngờ, tiếng động cơ rì rì của chiêc máy bay không
người lái vang lên rắt to phía ngoài những bức tường cao bao quanh họ. Sienna
ngoảnh lại, nhìn thấy chiếc máy bay đang lượn lên phía trên cung điện và bay về
phía họ.
Rõ ràng Langdon cũng đã nhìn thấy nó, anh nắm lấy tay
Sienna và chạy vội về phía hang. Họ vừa kịp biến mất bên dưới những nhũ đá của
hang chỉ trong tích tắc.
Một kết cục hợp lý, cô nghĩ thầm. Đâm đầu lao qua những
cánh cổng địa ngục.
Khoảng bốn trăm mét về phía
đông, Vayentha đỗ xe máy lại. Ả đã băng ngang thành cổ qua lối Ponte alle
Grazie và sau đó đi vòng tới Ponte Vecchio - cây cầu bộ hành nổi tiếng nối Cung
điện Pitti với thành cổ. Sau khi gài mũ bảo hiểm vào xe, ả sải bước lên cầu
thang và hòa vào dòng du khách buổi sớm.
Một làn gió nhé tháng Ba mát
mẻ thổi ngược lên từ sông, làm mái tóc kiểu đầu đinh cũn cỡn của Vayentha càng
dựng lên, nhắc ả nhớ rằng Langdon biết ả trông như thế nào. Ả dừng lại một
trong nhiều quầy hàng rong trên cầu và mau chiếc mũ bóng chày hiệu AMO FIRENZE,
kéo mũ sụp xuống che bớt mặt.
Ả chỉnh lại bộ đồ da để
không lộ chỗ phồng lên do khẩu súng và chiếm một vị trí gần giữa cầu, hững hờ
dựa vào một cây cộc và ngoảnh mặt về phía Cung điện Pitti. Từ đây, ả có thể quan
sát tất cả khách bộ hành đang vượt sông Arno để đi vào trung tâm Florence.
Langdon đi bộ, ả tự nhủ. Nếu
anh ta tìm cách vòng qua Porta Romana thì cây cầu này là lối hợp lý nhất để vào
thành cổ.
Phía tây, theo hương Cung
điện Pitti, ả nghe rõ những tiếng còi và tự hỏi không biết thế này là tin vui
hay tin buồn. Họ vẫn đang tìm anh ta chăng? Hay họ đã tóm được anh ta rồi.
Trong lúc Vayentha dỏng tai tìm kiếm manh mối về những câu chuyện đang xảy ra
thì một âm thanh đột ngột vang lên - tiếng rồ rồ rất to ở đâu đó trên đầu. Ả
nhìn lên trời và nhận ra thứ đó ngay lập tức - một chiếc trực thăng nhỏ điều khiển
từ xa đang vọt lên rất nhanh và phía trên cung điện rồi sà xuống trên những ngọn
cây về góc đông bắc của vườn Boboli.
Một máy bay trinh thám không
người lái, Vayentha nghĩ, thoáng thấy chút hy vọng. Nếu nó bay trên trời thế
kia thì Brũder vẫn chưa tìm thấy Langdon rồi.
Chiếc máy bay bay rất nhanh. Rõ ràng nó đang sục
sạo góc đông bắc của khu vườn, nơi gần Ponte Vecchio và vị trí của Vayentha
nhất, điều đó càng khiến ả nhen nhóm thêm hy vọng.
Nếu Langdon thoát khỏi Brũder, chắc chắn anh ta
sẽ di chuyển theo hướng này.
Tuy nhiên, Vayentha đang quan sát thì chiếc máy
bay đột nhiên bổ nhào mất hút phía sau bức tường đá cao. Ả vẫn nghe thấy tiếng
nó lượn lờ ở đâu đó phía dưới hàng cây…. Rõ ràng đã tìm ra thứ gì đó đáng để
quan tâm.
Hãy tìm kiếm và anh sẽ thấy, Langdon nghĩ trong
lúc cùng Sienna nép người trong hang tối lờ mờ. Chúng ta đã tìm kiếm một lối
thoát… và tìm thấy một ngõ cụt.
Đài phun nước có hình dạng phức tạp ở chính giữa
hang là một vật chắn tốt, nhưng khi Langdon nhìn ra ngoài từ phía sau nó, anh
cảm thấy mọi việc đã quá muộn.
Chiếc máy bay không người lái vừa bổ nhào xuống
lối cụt có tường cao, đột ngột dừng ngay phía ngoài hang rồi bay đứng lơ lửng
một chỗ, chỉ cách mặt đất khoảng ba mét, hướng về phía hang, phát ra tiếng kêu
ro ro giống hệt một giống côn trùng bị chọc tức đang đợi con mồi.
Langdon lùi lại và thì thào cho Sienna biết tin
không hay. “Tôi nghĩ nó biết chúng ta ở đây.”
Tiếng rền rĩ rất to của chiếc máy bay dội lại từ
các vách đá, gần như khiến người trong hang điếc tai. Langdon thấy thật khó tin
là họ lại bị giữ làm con tin bởi một máy bay trực thăng thu nhỏ, nhưng anh biết
rằng việc cố chạy thoát sẽ chẳng có kết quả. Giờ chúng ta làm gì đây? Chỉ đợi
thôi ư? Kế hoạch loạt vào phía sau cánh cửa xám ban đầu vốn hợp lý, trừ việc
anh không nhận ra cánh cửa đó chỉ có thể mở được từ bên trong.
Khi mắt đã quen với lòng hang tối tăm, Langdon
bắt đầu quan sát xung quanh họ, tự hỏi liệu còn lối thoát nào không. Anh chẳng
nhìn thấy gì khả dĩ. Trong lòng hang toàn những hình khắc người và động vật,
tất cả đều đang dần bị ăn mòn trên những bức tường thấm nước. Chán nản, Langdon
nhướng mắt nhìn lên trần hang, toàn những nhũ đá chĩa xuống đầy hăm dọa.
Một nơi rất tốt để chết.
Động Buotalenti - được đặt theo tên người kiến
tạo ra nói là Bernardo Buotalenti - được nhiều người cho là nơi kỳ dị nhất ở Florence. Ban đầu được dự
kiến là một dạng nhà cười cho du các du khách trẻ tới thăm quan Cung điện
Pitti, hệ thống hang ba lòng này được bài trí pha trộn giữa phong cách tưởng
tượng theo chủ nghĩa tự nhiên và kiên trúc Gothic. Kiểu bài trí này gồm những
chi tiết giống như các khối kết thành giọt và đá bọt nhễu chảy, nhìn như đang
nuốt lấy hoặc thổ ra vô số những hình thù được tạo tác. Dưới thời gia tộc
Medici, hang này có nước chảy xuống những bức tường bên trong, vừa có tác dụng
làm mát trong những ngày hè nóng nực đồng thời tạo hiệu ứng của một cái hang
thực sự.
Langdon và Sienna ẩn mình trong lòng hang đầu
tiên và cũng là lớn nhất phía sau đài phun nước không rõ hình dạng ở trung tâm.
Xung quanh họ là những hình thù sặc sỡ gồm người chăn cừu, nông dân, nhạc công,
động vật, và thậm chí cả bản sao bốn tù nhân của Michelangelo, tất cả đều như
đang cố gắng thoát ra khỏi lớp đá đang ngoạn lấy họ. Tít phía trên cao, ánh
sáng buổi sớm rọi xuống qua ô sáng trên trần, nơi từng có quả cầu thủy tinh rất
lớn chứa đầy nước đựng những con cá chép đỏ rực bơi lội trong ánh nắng.
Langdon tự hỏi các vị khách thời Phục Hưng sẽ
phản ứng như thế nào trước sự săm soi của một chiếc trực thăng thật - một giấc
mơ huyễn tưởng của chính nghệ sĩ người Ý Leonardo da Vinci - bay lơ lửng bên
ngoài hang.
Đúng lúc đó, tiếng động cơ đinh ta nhức óc của chiếc
máy bay tắt ngấm. Nó không hề nhỏ dần mà chỉ là…. đột ngột tắt phụt.
Ngơ ngác, Langdon nhìn ra từ phía sau đài phun
nước và thấy rõ chiếc máy bay đã đáp xuống. Lúc này, nó đậu yên ở khoảng sân
rải sỏi, trông không còn đáng ngại, đặc biệt là khi ống kính máy quay như cái
vòi châm nọc độc phía trước chếch khỏi họ, lệch sang một bên, hướng về phía
cánh cửa nhỏ màu xám.
Cảm giác nhẹ nhõm của Langdon chỉ vụt qua. Phía
sau chiếc máy bay một trăm thước, gần bức tượng gã lùn và con rùa, ba người
lính mang vũ khí đang sải bước xuống thang, tiến thẳng về phía hang.
Nhóm lính mặc đồng phục màu đen quen thuộc với
phù hiệu xanh lá cây trên vai. Người đàn ông vạm vỡ đi đầucó cặp mắt vô hồn gợi
cho Langdon nhớ tới chiếc mặt nạ dịch hạch trong ảo giác của mình.
Ta là cái chết.
Langdon không hề nhìn thấy chiếc xe thùng của họ
cũng như người phụ nữ tóc bạc bí ẩn ở đâu cả.
Ta là sự sống.
Khi những người lính tiến vào, một trong số họ
dừng lại ở chân cầu thang và xoay người về phía sau, rõ ràng muốn ngăn những
người khác xuống khu vực này. Hai người còn lại tiếp tục tiến về phía hàng.
Langdon và Sienna lại di chuyển mặc dù chỉ là để
trì hoãn điều tất yếu sẽ xảy ra. Họ bò lùi dần về phía sau để luồn vào lòng
hang thứ hai nhỏ hơn, sâu và tối hơn. Nơi này cũng có một tác phẩm nghệ thuật ở
chính giữa - bức tượng cặp tình nhân quấn lấy nhau - giờ là chỗ trú ẩn mới cho
Langdon và Sienna.
Langdon nấp kín trong bóng tối, thận trọng nhìn
qua đế bức tượng và quan sát những kẻ đột kích đang tiến vào. Khi hai người
lính tới chỗ chiếc máy bay, một người dừng lại và cúi xuống nhấc nó lên để kiểm
tra máy quay.
Không biết cái máy bay đã phát hiện ra bọn mình
chưa? Langdon tự hỏi, cảm thấy e ngại vì mình đã biết câu trả lời.
Người lính thứ ba và cũng là người cuối cùng,
nhân vật vạm vỡ có đôi mắt lạnh lẽo, vẫn lạnh lùng tiến thẳng về phía Langdon.
Anh ta tiến tới gần cửa hàng. Hắn sẽ vào. Đúng lúc Langdon chuẩn bị lùi lại sau
bức tượng và nói với Sienna thế là hết rồi, thì anh chứng kiến một chuyện bất
ngờ.
Người lính kia, thay vì bước vào hang, bỗng nhiên
ngoặt sang trái và biến mất.
Hắn đi đâu nhỉ? Hắn không biết bọn mình ở đây à?
Một lát sau, Langdon nghe thấy tiếng đập - tiếng
nắm tay nện trên gỗ.
Cánh cửa nhỏ màu xám, Langdon nghĩ thầm. Chắc
chắn hắn biết nó dẫn đi đâu.
***
Nhân viên an ninh Cung điện Pitti tên Ernesto
Russo lúc nào cũng muốn chơi bóng đá kiểu châu Âu, nhưng ở cái tuổi hai mươi
chín và quá béo, cuối cùng anh đành phải chấp nhận rằng giấc mơ thời niên thiếu
sẽ chẳng bao giờ trở thành hiện thực. Suốt ba năm qua, Ernesto làm chân bảo vệ
tại Cung điện Pitti, luôn ngồi trong cái buồng bé bằng bao diêm, và đảm nhận
công việc tẻ nhạt này.
Ernesto không lại gì những du khách tò mò cứ gõ
vào cánh cửa nhỏ màu xám bên ngoài văn phòng nơi anh vẫn ngồi, và anh thường
mặc kệ cho tới khi họ chán. Nhưng hôm nay tiếng gõ rất mạnh và liên tục.
Bực bội, anh cố tập trung vào cái ti vi của mình,
lúc này đang phát lại trận bóng ồn ã - đội Fiorentina gặp Juventus. Tiếng gõ
càng to hơn. Cuối cùng, vừa nguyền rủa đám du khách, Ernesto vừa chui ra khỏi
buồng trực rồi theo hành lang hẹp đi về phía tiếng gõ. Được nửa đường, anh dừng
lại trước cánh cửa chấn song thép đồ sộ vẫn luôn chặn kín lối đi này, ngoại trừ
vào một vài giờ đặc biệt.
Anh nhập chuỗi số bên ổ khóa và mở cửa, kéo nó
sang bên. Sau khi bước qua cửa, anh làm theo đúng thủ tục và đóng cánh cửa thép
phía sau mình. Rồi anh bước lại cánh cửa gỗ màu xám.
“Cửa đóng!”, anh quát to qua cửa, hy vọng người
bên ngoài sẽ nghe thấy. “Các vị không được vào đây!”
Tiếng đập cửa vẫn tiếp tục.
Ernesto nghiến răng. Lại dân New York đây mà, anh phán đoán. Lúc nào cũng
muốn cho bằng được. Lý do duy nhất đọi bóng Red Bulls của họ có được thành công
trên vũ đài thế giới là vì họ “chôm chỉa” được một trong những huấn luyện viên
giỏi nhất châu Âu.
Tiếng đập cửa vẫn tiếp tục, Ernesto miễn cưỡng mở
cửa và đẩy hé ra vài phân. “Cửa đóng mà!”
“Có chuyện gì vậy?”, Ernesto hỏi, vẻ cảnh giác.
Phía sau gã lính kia, một gã thứ hai đang cúi
xuống, chỉnh sửa thứ gì đó có vẻ như là một chiếc trực thăng đồ chơi. Cách xa
hơn một chút, một gã nữa đứng canh cầu thang, Ernesto nghe rõ tiếng còi cảnh
sát gần đó.
“Anh nói được tiếng Anh không?” Giọng gã lính rõ
ràng không phải dân New York.
Vùng nào của châu Âu nhỉ?
Ernesto gật đầu. “Một chút thôi!”
“Có ai đi qua cánh cửa này sáng nay không?”
“Không, thưa ngài! Không có ai cả.”
“Tốt lắm. Khóa chặt cửa nhé. Không cho phép air a
vào. Rõ
chưa?”
Ernesto nhún vai. Dù sao đó
cũng là công việc của anh. “Rõ, tôi hiểu mà. Nội bất xuất, ngoại bất nhập.”
“Cho tôi biết, cánh cửa này
là lối vào duy nhất phải không?”
Ernesto ngẫm nghĩ. Về mặt kỹ
thuật, cánh cửa này hiện được xem là một lối ra, đó là lý do nó không có tay
nắm ở bên ngoài, nhưng anh hiểu những gì người kia hỏi. “Phải, tiếp cận vào đây
chỉ có duy nhất cánh cửa này. Không còn lối nào khác.” Lối vào cũ bên trong
cung điện đã bị bịt kín nhiều năm rồi.
“Thế còn lối thoát bí mật
nào khác từ vườn Boboli không? Ngoài những cổng thông thường?”
“Không, thưa ngài. Chỗ nào
cũng có tường cao. Đây là lối thoát bí mật duy nhất.”
Gã lính gật đầu. “Cảm ơn anh
đã giúp đỡ!” Gã ra hiệu cho Ernesto đóng và khóa cửa lại.
Ernesto làm theo vẻ khó hiểu. Rồi anh quay trở lại
hành lang, mở khóa cánh cửa chấn song thép, đi qua đó, khóa lại như cũ rồi quay
lại với trận đấu bóng của mình.
Langdon và Sienna đã chớp được một cơ hội.
Trong khi gã lính vạm vỡ đang đập cửa, họ đã bò
sâu hơn vào trong hang và lúc này đang ẩn trong lòng hang cuối cùng. Không gian
chật cội này được trang trí bằng những hình gốm khảm và tượng thần rừng đẽo gọt
xù xì. Ở chính giữa là bức điêu khắc to bằng kích thước người thật mô tả Thần
Vệ nữ tắm. Trùng hợp là trong tình cảnh này, bức tượng như đang lo lắng ngoảnh
nhìn qua vai.
Langdon và Sienna thu mình ở phần khuất của bệ
tượng hẹp, chờ đợi, chăm chú nhìn cây măng đá hình cầu nhô lên phía vách hang
sâu nhất.
“Mọi lối ra đều kín mít!”, một gã lính nói lớn
đâu đó bên ngoài. Gã nói thứ tiếng Anh không rõ giọng nên Langdon không thể
nhận diện được. “Cho máy bay hoạt động trở lại đi. Tao sẽ kiểm tra cái hang ở
đây.”
Langdon cảm thấy Sienna cứng người ngay bên cạnh
anh.
Mấy giây sau, những tiếng giày ủng nặng nề tiến
vào trong hang. Tiếng bước chân nhanh qua long hang thứ nhất, nghe to dần khi
gã lính tiến vào lòng hang thứ hai, thẳng về phía họ.
Langdon và Sienna nép vào nhau sát hơn.
“Này!”, một giọng nói khác vang lên phía xa, “Tóm
được chúng rồi!”
Tiếng bước chân dừng lại.
Giờ thì Langdon có thể nghe ro ai đó chạy vội
trên lối đi trải sỏi về phía hang. “Có người nhận diện!”, giọng nói thể hổn hển
xác nhận. “Chúng tôi vừa nói chuyện với mấy khách du lịch. Vài phút trước,
người đàn ông và người phụ nữ đó hỏi họ hướng đi tới phong trưng bày trang
phục…. nằm ở phía chai tây của cung điện.”
Langdon liếc nhìn Sienna. Dường như cô thoáng mỉm
cười.
Gã lính lấy lại nhịp thở, tiếp tục nói. “Các lối
ra phái tây là những lối đầu tiên bị chặn…. và khả năng cao là chúng ta dồn họ
mắc kẹt trong vườn rồi.”
“Thực thi nhiệm vụ của mày đi!”, gã lính gần hơn
đáp. “Và gọi cho tao ngay khi mày xong việc.”
Có tiếng bước chân hối hả chạy đi lạo xạo trên
sỏi, tiếng chiếc máy bay không người lái cất cánh trở lại, và sau đó, thật
may…. Tất cả chìm vào im lặng hoàn toàn.
Langdon định xoay sang bên để ngó qua bệ tượng
nhưng Sienna nắm lấy tay anh chặn lại. Cô đưa một ngón tay lên môi và hất đầu
về phía bóng người mờ mờ in trên vách hang phía sau. Gã lính chỉ huy vẫn đứng
im lặng ở cửa hang.
Hắn đợi cái gì nhỉ?
“Brũder đây”, gã đột ngột lên tiếng. “Chúng tôi
dồn được họ rồi. Tôi sẽ xác nhận lại ngay!”
Gã đang gọi điện thoại, và giọng gã nghe rất gần,
như thể đang đứng ngay bên cạnh họ. Cái hang lúc này như một chiếc micro hình
parabol, thu hết âm thanh về phía sau.
“Còn nữa”, Brũder nói. “Tôi vừa nhận được tin cập
nhật từ bên tòa án. Căn hộ của cô gái kia có vẻ là cho thuê lại. Đồ đạc không
có nhiều. Rõ ràng là chỉ ở ngắn hạn. Chúng tôi đã tìm thấy ống nghiệm, nhưng
không thấy nhiều máy chiếu. Tôi nhắc lại, không thấy máy chiếu. Chúng tôi cho
rằng nó vẫn đang nằm trong tay Langdon.”
Langdon cảm thấy lạnh toát khi nghe gã lính nói
ra tên mình.
Tiếng bước chân to hơn, và Langdon nhận ra rằng
gã lính đang tiến sâu vào hang. Dáng gã trông không còn vẻ hùng dũng mấy phút
trước và lúc này nghe như thể đi dạo, khám phá trong hang trong khi nói chuyện
điện thoại.
“Đúng”, gã lính nói. “Bên tòa án cũng xác nhận
một cuộc gọi ra ngoài duy nhất ngay trước khi chúng tôi ập vào căn hộ.”
Lãnh sự quán Hoa Kỳ, Langdon nghĩ thầm, nhớ lại
chuyện điện thoại của anh và việc ả sát thủ đầu đinh đến rất nhanh. Dường như ả
đó đã biến mất, và bị thay thế bằng cả đội lính chuyên nghiệp này.
Bọn mình không thể chạy trốn chúng được mãi.
Tiếng giầy của gã lính trên nền đá giờ chỉ còn
khoảng sáu mét và đang tiến lại gần. Gã đã bước vào lòng hang thứ hai và nếu
tiếp tục đi đến cuối chắc chắn gã sẽ phát hiện bọn họ nép sau phần đế hẹp của
bức Thần Vệ nữ.
“Sienna Brooks”, gã lính đột ngột xác nhận, mấy
từ đó nghe rất rành rọt.
Sienna giật thót người bên cạnh Langdon, cô ngước
mắt lên, cứ nghĩ gã lính sẽ chòng chọc nhìn xuống cô. Nhưng chẳng có ai ở đó
cỏa.
“Giờ sẽ kiểm tra máy tính xách tay của cô ta”,
giọng nói tiếp tục, cách khoảng ba mét. “Tôi chưa có báo cáo, nhưng chắc chắn
là cùng cái máy tính chúng tôi dò tìm khi Langdon truy cập vào tài khoản email
Harvard của anh ta.”
Nghe được tin này, Sienna ngoảnh sang Langdon vẻ
không tin nổi, miệng há hộc nhìn anh với nét mặt sửng sốt… và tiếp đến là cảm
giác bị phản bội.
Langdon cũng đờ đẫn không kém. Ra chúng lần được
bọn mình bằng cách đó ư?! Thận chí đến lúc đó anh cũng không nghĩ ra được. Mình
chỉ cần thông tin thôi mà! Langdon chưa kịp nói lời xin lỗi thì Sienna đã
ngoảnh đi, nét mặt cô không biểu lộ gì.
“Đúng vây”, gã lính nói tiếp, tiến đến lối vào
lòng hang thứ ba, chỉ cách Langdon và Sienna gần hai mét. Thêm hai bước chân
nữa, chắc chắn gã sẽ nhìn thấy họ.
“Chính xác”, gã nói, bước thêm một bước nữa. Đột
nhiên, gã dừng lại. “Chờ chút!”
Langdon cứng đờ, sẵn sàng với tình huống bị phát
hiện.
“Chờ chút, tôi mất tín hiệu”, gã lính nói, và sau
đó lùi lại vài bước về phía lòng hang thứ hai. “Tín hiệu kém. Được rồi….” Gã
lắng nghe một lúc, sau đó đáp. “Được, tôi đồng ý, nhưng ít nhất chúng tôi biết
đang đối đầu với ai.”
Nói xong, bước chân gã rút nhẹ dần ra khỏi hang,
di chuyển trên bề mặt trải sỏi rồi sau đó biến mất.
Vai Langdon chùng xuống, anh quay sang Sienna,
lúc này vẫn còn nguyên vẻ sợ hãi và giận dữ trong ánh mắt.
“Anh đã dùng máy tính của tôi?”, cô hỏi. “Để kiểm tra email của anh
à?”
“Tôi xin lỗi… tôi nghĩ cô
hiểu. Tôi cần tìm ra….”
“Vì thế bọn chúng tìm ra
chúng ta! Và giờ chúng biết tên tôi!”
“Tôi xin lỗi, Sienna. Tôi
không nhận ra….”. Langdon ấp úng vẻ hối lỗi.
Sienna quay đi, đăm đăm nhìn vô hồn về phía măng đá hình
củ hành trên vách hang phía sau. Họ không nói gì suốt gần một phút. Langdon tự
hỏi liệu Sienna có nhớ đến những đồ vật riêng tư đặt trên bàn của cô - Chương
trình biểu diễn vở Giấc mộng đêm hè và bài báo nói về cuộc đời cô khi còn là
một cô bé phi thường. Cô ấy có nghi ngờ mình đã thấy chúng không nhỉ? Dẫu có
thì cô cũng không hỏi, và Langdon thấy mình đã gây cho cô đủ phiền toái rồi nên
anh không định nhắc đến nữa.
“Họ biết tôi là ai”, Sienna
nhắc lại, giọng cô nhẹ đến mức Langdon gần như không nghe thấy. Mười giây tiếp
theo, Sienna hít thở chậm rãi vài lần, như thể đang cố chấp nhận thực tế mới mẻ
này. Trong lúc cô làm như vậy, Langdon cảm thấy vẻ cương nghị của cô đang từ từ
trở lại.
Rất đột ngột, Sienna đứng
thẳng lên. “Chúng ta phải đi”, cô nói. “Bọn chúng sẽ không mất nhiều thời gian
để nhận ra chúng ta không hề ở trong khu trưng bày trang phục.”
Langdon đứng lên theo cô. “Đúng, nhưng đi…. Đâu
đây?”
“Tòa thánh?”
“Sao cơ?”
“Cuối cùng tôi cũng hiểu ra ý anh nói lúc trước…
điểm chung giữa Tòa thánh và vườn Boboli.” Cô ra hiệu về phía cánh cửa nhỏ màu
xám. “Đó là lối vào, phải không?”
Langdon miễn cưỡng gật đầu. “Thực tế, đó là lối
ra, nhưng tôi đoán nó là một lối tắt. Tiếc là chúng ta không thể đi qua.”
Langdon đã nghe cuộc trò chuyện giữa anh chàng bảo vệ và gã lính nên biết rõ
cánh cửa này không phải là một lựa chọn.
“Nhưng nếu chúng ta có thể đi qua”, Sienna nói,
vẻ ranh mãnh thoáng trở lại trong giọng nói của cô, “anh có biết thế nghĩa là
sao không?”. Một nụ cười nụ cười thoáng hiện trên môi cô. “Thế nghĩa là trong
ngày hôm nay, anh và tôi đã hai lần được nghệ sĩ Phục Hưng này giúp đỡ đấy!”
Langdon bật cười vì mấy phút trước anh đã có ý
nghĩ đúng như vậy. “Vasari. Vasari.”
Sienna cười thoải mái hơn, và Langdon cảm thấy cô
đã tha thứ cho anh, ít nhất là lúc này. “Tôi nghĩ đó là ý trời”, cô nói, nghe
có phần nghiêm trọng. “Chúng ta nên đi qua cánh cửa đó.”
“Được… và chúng ta sẽ qua mặt anh chàng bảo vệ à?”
Sienna bẻ đốt ngón tay và bước ra khỏi hang.
“Không, tôi sẽ nói chuyện với anh ta.” Cô liếc về phía Langdon, vẻ quyết tâm
trở lại trong mắt cô. “Tin tôi đi, ngài giáo sư, tôi có thể thuyết phục được
người khác khi tôi phải làm vậy.”
***
Lại có tiếng đập vào cánh cửa màu xám.
Chắc nịch và kiên quyêt.
Nhân viên bảo vệ Ernesto Russo càu nhàu đầy bực
dọc. Gã lính lạ mặt có cặp mắt lạnh lẽo rõ ràng đã quay lại, nhưng thời điểm
xuất hiện thì không thể tệ hơn được nữa. Trận bóng đá trên truyền hình đang vào
phút bù giờ trong khi đội Fiorentina thiếu một cầu thủ và số phận như chỉ mành
treo chuông.
Tiếng đập vẫn tiếp tục.
Ernesto không phải thằng ngộc. Anh biết sáng nay
ngoài kia đang có chuyện gì đó rắc rối - toàn nghe tiếng còi và binh lính -
nhưng anh không phải hạng người tự dây dưa vào những chuyện không ảnh hưởng
trực tiếp đến mình.
Chỉ có điên mới chõ mũi vào việc của người khác.
Thêm nưa, gã lính kia rõ ràng là nhân vật rất
quan trọng, cho nên phớt lờ gã có thể không khôn ngoan chút nào. Công ăn việc
làm ở Ý giai đoạn này không dễ kiếm, kể cả những việc nhàm chán. Ernesto liếc
nhìn trận đấu lần cuối rồi đi về phía tiếng đập cửa.
Anh vẫn không thể tin được rằng mình được trả
công để ngồi trong buồng bé tí suốt ngày và xem ti vi. Có lẽ hai lần mỗi ngày,
lại có một tour VIP ở bên ngoài, sau khi đã đi hết quãng đường từ bảo tang
Uffizi. Ernesto sẽ đón họ, mở khóa cánh cửa chấn song thép, để cả nhóm đi qua
cánh cửa xám, để tour của họ kết thúc trong vườn Boboli.
Lúc này, tiếng đập cửa nghe càng gấp gáp hơn,
Ernesto mở cánh cửa chấn song thép, đi qua đó, và khóa lại phía sau mình.
“Ai đấy?”, anh quát át cả tiếng đập cửa trong lúc
tiến vội đến cánh cửa xám.
Không có tiếng trả lời. Tiếng đập vẫn tiếp tục.
Khùng thật! Cuối cùng anh mở cửa và kéo sang bên,
cứ ngỡ sẽ nhìn thấy ánh mắt vô hồn lúc trước.
Nhưng khuôn mặt này hấp dẫn hơn rất nhiều.
“Chào anh”, một phụ nữ xinh xắn tóc vàng óng cất
tiếng và mỉm cười trìu mên với anh. Cô chìa một tờ giấy gấp gọn, khiên anh thò
ngay tay ra nhận lấy một cách đầy bản năng. Ngay khi anh vừa cầm lấy tờ giấy và
nhận ra nó chỉ là thứ vứt đi nhặt từ dưới đất, người phụ nữ đã dùng hai bàn tay
nhỏ nhắn nắm chặt cổ tay anh và bấm ngón tay cái vào vùng xương ngay bên dưới
lòng bàn tay anh.
Ernesto cảm thấy như một lưỡi dao vừa chọc qua cổ
tay. Tiếp theo cú chọc nhói buốt là trạng thái tê rần như điện giật. Người phụ
nữ bước về phía anh, và ấn ngày càng mạnh thêm, khiến cơn đau cứ thế lặp lại.
Anh lảo đảo lùi lại, cố gắng giật tay ra, nhưng hai chân cũng đờ ra và nhũn
xuống, khiến anh khuỵu gối.
Những việc tiếp theo xảy ra trong chớp mắt.
Một người đàn ông cao ráo trong bộ cánh sẫm màu
xuất hiện ở ngưỡng cửa, lách vào trong và nhanh chóng đóng cánh cửa màu xám
lại. Ernesto với tay lấy bộ đàm, nhưng bị một bàn tay mềm mại từ phía sau gáy
Siennaết chặt lại, và các cơ cứng đờ, khiến anh phải há miệng để thở. Người phụ
nữ lấy bộ đàm trong khi người đàn ông tiến lại, trông có vẻ hoảng hốt trước
những hành động của cô không kém gì Ernesto.
“Choáng nhẹ thôi”, người phụ nữ tóc vàng nói
nhanh với người đàn ông. “Điểm huyệt kiểu Trung Hoa thôi mà. Không phải vô cớ
thuật này có mặt khắp nơi suốt ba nghìn năm qua.”
Người đàn ông trố mắt đầy ngạc nhiên.
“Chúng tôi không muốn làm anh đau đâu”, người phụ
nữ thì thào với Ernesto bằng tiếng Ý, nới lỏng áp lực ở cổ.
Ngay khi lực bấm giảm bớt, Ernesto cố gắng vùng
vẫy thoát ra, nhưng lực bấm lập tức trở lại, và các cơ của anh lại cứng đờ. Anh
há hốc miệng vì đau, khó khăn lắm mới thở được.
“Chúng tôi cần đi qua đây”, cô nói bằng tiếng Ý.
Cô ra hiệu về cánh cửa chấn song thép, thật may là Ernesto đã khóa lại phía sau
mình. “Chìa khóa đâu?”
“Tôi không có chìa khóa”, anh cố nói.
Người đàn ông cao ráo vượt qua họ tới cửa thép và
kiểm tra kết cấu. “Là loại khóa mã số”, anh ta nói vọng lại chỗ người phụ nữ,
giọng rõ là người Mỹ.
Người phụ nữ khom xuống bên cạnh Ernesto, đôi mắt
màu hạt dẻ của cô lạnh như băng. “Mã số là gì?”, cô hỏi.
“Tôi không thể!”, anh ta trả lời. “Tôi không được
phép….”
Có gì đó ở đầu cột sống anh, và Ernesto cảm thấy
cả cơ thể cứng đờ. Một khắc sau, anh ngất đi.
***
Khi tỉnh lại, Ernesto cảm thấy như đang nửa tỉnh
nửa mê mất vài phút. Anh nhớ lại một phần cuộc trò chuyện…. cảm giác đau buốt….
có lec bị đâm chăng? Tất cả rất nhạt nhòa.
Khi mớ bùng nhừng đã tan đi, anh nhìn thấy một
cảnh tượng lạ lùng – đôi giày của anh nằm trên nền đất gần đó nhưng dây giày đã
bị gỡ mất. Đến khi đó anh mới nhận ra mình không sao cựa quậy được. Anh đang
nằm nghiêng với hai tay và chân bị bẻ quặt ra phía sau, rõ ràng đã bị chặt bằng
dây giày. Anh cố gắng hét to, nhưng không nghe thấy tiếng gì vọng lại. Miệng
anh bị nhét tất. Cảm giác sợ hãi thật sự ập đến chỉ trong nháy mắt, khi anh
ngước nhìn lên và thấy ti vi vẫn đang chiếu trận đấu bóng. Mình đang ở trong
buồng của mình…. BÊN TRONG cánh cửa chấn song thép.
Cách đó một quãng, Ernesto nghe thấy tiếng bước
chân đang chạy xa dần dọc theo hành lang…. rồi im lặng. Không thể như vậy được!
Bằng cách nào đó, người phụ nữ tóc vàng đã thuyết phục được Ernesto làm một
việc anh được thuê để đừng bào giờ làm – tiết lộ mật mà mở khóa lối vào Hành
lang Vasari nổi tiếng.
Tiến sĩ Elizabeth Sinskey cảm thấy lúc này những
cơn buồn nôn và chóng mặt đang đến nhanh hơn. Bà ngồi rũ người trên băng ghế
sau chiếc xe thùng đỗ trước Cung điện Pitti. Người lính ngồi bên cạnh bà đang
quan sát bà với vẻ càng lúc càng lo lắng.
Trước đó một lúc, bộ đàm của người lính này kêu
sột soạt - chuyện gì đó liên quan đến một phòng trưng bày trang phục - khiến
cho Elizabeth
bừng tỉnh khỏi trạng thái đầu óc tối tăm. Bà mơ thấy con quái vật có cặp mắt
xanh lè.
Bà như quay trở lại căn phòng tối om tại Hội đồng
Quan hệ Đối ngoại ở New York,
lắng nghe những lời say sưa điên rồ của kẻ lạ mặt bí ẩn mời bà tới đó. Người
đàn ông nhìn không rõ ấy đi đi lại lại phía trước căn phòng - một cái bóng cao
lêu nghêu in bóng lên hình chiếu rùng rợn lúc nhúc những con người trần truồng
đang hấp hối, lấy cảm từ Hỏa ngục của Dante.
“Cần ai đó đảm nhận cuộc chiến này”, nhân vật ấy
kết luận, “hoặc đây chính là tương lai của chúng ta. Toán học khẳng định điều
này. Loài người giờ đang trôi nổi trong cõi luyện ngục của thái độ lần khần,
thiếu quyết đoán và lòng tham cá nhân… nhưng những tầng địa ngục đang chờ đợi,
ngay dưới chân chúng ta, đợi để nuốt lấy tất cả chúng ta”.
Elizabeth vẫn quay cuồng trước những ý tưởng kinh khủng mà
người đàn ông này vừa nói ra trước mặt bà. Bà không thể chịu đựng được thêm và
đứng bật dậy. “Những gì ông gợi ý là….”
“Lựa chọn còn lại duy nhất của chúng ta”, người
đàn ông ngắt lời.
“Thực tế”, bà đáp, “tôi sẽ phải nói rằng, đó là
‘phạm tội’!”
Người đàn ông nhún vai. “Đường tới thiên đàng
phải đi qua địa ngục. Dante đã dạy chúng ta như vậy.”
“Ông điên rồi!”
“Điên ư?”, người đàn ông lặp lại, nghe như bị tổn
thương. “Tôi ư? Tôi không nghĩ vậy. Điên rồ là KẺ[1] đăm đăm nhìn xuống vực
thẳm và không chịu tin rằng nó đang tồn tại ở đó. Điên rồ là một con đà điểu
ruvs đầu vào trong bao cát trong khi cả bầy linh cẩu đang tiến gần xung quanh.”
[1]: Ở đây có sự chơi chữ. Trong bản gốc tiếng
Anh, nhân vật dùng từ “WHO” vừa mang nghĩ “người nào, kẻ nào” đồng thời là tên
viết tắt của Tổ chức Y tế Thế giới.
Trước khi Elizabeth
kịp bênh vực tổ chức của mình thì người đàn ông đã đổi hình ảnh trên màn hình.
“Và nói đến linh cẩu”, ông ta nói, chỉ vào hình
ảnh mới. “Đây chính là bầy linh cẩu hiện đang bao vây loài người…. và chúng
đang tiến lại gần rất nhanh.”
Elizabeth kinh ngạc nhìn hình ảnh quen thuộc trước mắt bà.
Đó là một biểu đồ do WHO công bố trong năm trước, mô tả vấn đề môi trường chính
yếu mà WHO cho rằng có tác động lớn nhất đên ý tế toàn cầu.
Danh sách này gồm:
Nhu cầu về nước sạch, nhiệt độ bề mặt toàn cầu,
suy thoái tầng ozone, tiêu thụ các nguồn tài nguyên đại dương, tuyệt chủng
giống loài, nồng độ CO2, nạn phá rừng, và mực nước biển toàn cầu.
Tất cả những chỉ số tiêu cực này đều tăng trong
thế kỷ qua. Nhưng giờ đây, tất cả đều đang tăng vọt với tốc độ đáng kinh ngạc.
Elizabeth luôn có những phản ứng tương tự mỗi lần bà nhìn
thấy biểu đồ này – một cảm giác bất lực. Bà là nhà khoa học, tin vào sự hữu ích
của các số liệu thống kê, và biểu đồ này đã vẽ lên bức tranh đáng sợ không phải
về tương lai xa vời…. mà là một tương lai rất gần.
Đã nhiều lần trong cuộc đời mình, Elizabeth
Sinskey bị ám ảnh vì không còn khả năng có con. Nhưng, khi nhìn thấy biểu đồ,
bà gần như cảm thấy nhẹ nhõm vì đã không sinh ra một đứa trẻ trên cõi đời này.
Đây là tương lai cho con của
ta ư?
“Trong năm mươi năm qua”,
người đàn ông cao kều nói, “tội lỗi của chúng ta chống lại Mẹ Thiên nhiên tăng
lên kinh khủng”. Ông ta ngừng lại. “Tôi lo sợ cho linh hồn loài người. Khi WHO
công bố biểu đồ này, các chính trị gia, những kẻ quyền lực, và các nhà hoạt
động môi trường của thế giới vội triệu tập những hội nghị khẩn, tất cả đều cố
gắng đánh giá xem vấn đề trong số này nghiêm trọng nhất và thực tế chúng ta có
thể hy vọng giải quyết được những gì. Kết quả? Ở phương diện kín đáo, họ vò đầu
bứt tai và khóc lóc. Ở phương diện công khai, họ trấn an chúng ta rằng họ đang
tìm kiếm các giải pháp nhưng đây vốn là những vấn đề phức tạp.”
“Những vấn đề này vốn phức
tạp!”
“Với vẩn!”, người đàn ông
ngắt lời. “Bà thừa biết rằng biểu đồ này mô tả mối quan hệ đơn giản nhất - một
hàm số dựa trên một biến số duy nhất! Mọi đường trên biểu đồ này đều tăng lên
trong mối tương quan trực tiếp chỉ với một giá trị - cái giá trị tất cả mọi người
đều sợ phải thảo luận. Dân số toàn cầu!”
“Trên thực tế, tôi nghĩ điều
đó hơi….”
“Hơi phức tạp hơn phải
không? Thực tế, không hề! Chẳng có gì đơn giản. Nếu bà muốn có thêm nước sạch
bình quân đầu người, bà cần có số người ít hơn trên trái đất. Nếu bà muốn giảm
lượng khí thải xe cộ, bà cần lái ít xe hơn. Nếu bà muốn các đại dương lại đầy
ắp cá, bà cần ít người ăn cá hơn!”
Ông ta nhìn bà chòng chọc,
giọng điệu trở nên sôi nổi hơn. “Hãy mở to mắt ra đi! Chúng ta đang trên bờ vực diệt vong của nhân
loại, và các nhà lãnh đạo thế giới đang ngồi trong phòng họp để mất thời gian
với những nghiên cứu về điện mặt trời, tái chế, và xe hơi hybrid đúng không? Lẽ
nào bà - một phụ nữ có trình độ khoa học - lại không nhìn ra điều đó? Suy thoái
tầng ozone, thiếu nước, và ô nhiễm không phải là dịch bệnh - chúng chỉ là những
triệu chứng. Căn bệnh là tình trạng quá tải dân số thế giới, chúng ta sẽ chẳng
làm được gì hơn là dán một miếng băng gạc lên khối u ác tính đang phát triển
trên rất nhanh.”
“Ông xem loài người như một căn bệnh ung thư ư?”,
Elizabeth vặn
hỏi.
“Ung thư đơn giản là một tế bào mạnh khỏe tái tạo
vượt ngoài tầm kiểm soát. Tôi cho rằng bà thấy ý tưởng của tôi là khó chịu,
nhưng tôi có thể cam đoan bà sẽ thấy những phương án khác còn kém mỹ miều hơn
rất nhiều khi điều đó xảy ra. Nếu chúng ta không hành động dũng cảm thì….”
“Dũng cảm ư?”, bà lắp bắp. “Dũng cảm không phải
là từ ông đang tìm kiếm. Phải là điên rồ!”
“Tiến sĩ Sinskey”, người đàn ông nói, giọng bình
tĩnh đến kỳ lạ. “Tôi mời riêng bà đến đây bởi vì tôi hy vọng rằng bà - một
tiếng nói khôn ngoan của Tổ chức Y tế Thế giới - có thể sẵn lòng hợp tác với
tôi và triển khai một giải pháp khả thi.”
Elizabeth trợn mắt nhìn không sao tin nổi. “Ông nghĩ Tổ
chức Y tế Thế giới sẽ hợp tác với ông… triển khai một ý tưởng như thế này sao?”
“Nói thật là đúng thế?”, ông ta nói. “Tổ chức của
bà gồm những bác sĩ, và khi các bác sĩ có bệnh nhân bị hoại tử, họ không do dự
cắt bỏ chân của người đó để cứu mạng anh ta. Đôi khi, quy trình hành động duy
nhất là giải pháp ít tàn nhẫn hơn.”
“Chuyện này hoàn toàn khác!”
“Không. Chuyện này cũng giống hệt. Sự khác biệt
duy nhất là quy mô.”
Elizabeth cảm thấy nghe đến đây đã quá đủ. Bà đứng phắt
dậy. “Tôi phải đi để kịp máy bay.”
Người đàn ông cao kều tiến một bước đầy hăm dọa
về phía bà, chặn lối ra. “Xin nói thẳng. Dù có sự hợp tác của bà hay không, tôi
cũng có thể tự mình triển khai ý tưởng này rất dễ dàng.”
“Xin nói thẳng”, bà đáp trả. “Tôi coi như việc
này là một lời đe dọa khủng bố và sẽ giải quyết nó theo cách như thế.” Bà rút
điện thoại ra.
Người đàn ông cười phá lên. “Bà sẽ báo rằng tôi
nói những điều chỉ mang tính giả thuyết thôi ư? Thật tiếc, bà sẽ phải đợi mới
thực hiện được cuộc goi. Căn phòng này được che chắn bằng điển tử. Điện thoại
của bà sẽ không có tín hiệu đâu.”
Ta không cần tín hiệu, kẻ điên rồ ạ. Elizabeth giơ điện thoại
lên, và khi người đàn ông chưa kịp nhận ra chuyện gì xảy ra thì bà đã chụp ảnh
gương mặt ông ta. Ánh đèn flash phản chiếu đôi mắt xanh lè của ông ta, trong
khoảnh khắc, bà nghĩ ông ta trông rất quen.
“Dù ông là ai”, bà nói, “ông cũng đã phạm một sai
lầm khi gọi tôi tới đây. Ngay khi tôi tới sân bay, tôi sẽ biết ông là ai, và
ông sẽ có tên trong danh sách theo dõi tại WHO, CDC và ECDC với tư cách một
cách một kẻ khủng bố sinh học tiềm năng. Chúng tôi sẽ cho người theo sát ông
ngày đêm. Nếu ông tìm cách mua chất liệu, chúng tôi sẽ biết. Nếu ông xây dựng
một phòng thí nghiệm, chúng tôi sẽ biết. Không có chỗ nào cho ông ẩn nấp cả”.
Người đàn ông đứng im phăng phắc một lúc, như thể
ông ta định nhào tới tới chiếc điện thoại của bà. Cuối cùng, ông ta chùng xuống
và bước sang bên cùng với nụ cười nham hiểm kỳ quái. “Vậy có vẻ như màn khiêu
vũ của chúng ta đã bắt đầu.”
Il
Corridoio Vasariano - hành lang Vasari - được Giorgio Vasari thiết kế năm 1564
theo lệnh của người đứng đầu gia tộc Medici, Đại Công tước Cosimo I, để tạo
thành một lối đi an toàn từ tư dĩnh của ngài tại Cung điện Pitti tới trụ sở
hành chính nằm ở Cung điện Vecchio bên kia sông Arno.
Tương tự như đường hầm Passetto nổi tiếng của tòa
thánh Vantican, Hành lang Vasari là một lối đi bí mật hoàn hảo. Nó kéo dài gần
một ki-lô-mét từ góc phía đông của vườn Boboli tới trung tâm của cung điện cũ,
chạy ngang qua cầu Ponte Vecchio và uốn lượn qua Bảo tàng Uffizi.
Ngày nay Hành lang Vasari vẫn là một nơi trú ẩn
an toàn, mặc dù không phải cho các quý tộc nhà Medici mà là cho các tác phẩm
nghệ thuật. Với dãy tường bảo vệ dường như vô tận, hành lang chính là chỗ cất
giữ vô vàn bức tranh hiếm hoi đổ về từ Bảo tàng Uffizi nổi tiếng thế giới, nơi
hành lang này chạy ngang qua.
Langdon đã đi vào đó vài năm trước trong một
chuyến du lịch riêng. Chiều hôm ấy, anh đã dừng lại để chiêm ngưỡng kho tranh
đẹp lạ thường trong hành lang, bao gồm cả bộ sưu tập chân dung tự họa đồ sộ
nhất thế giới. Anh cũng dừng lại vài lần để ngó qua những ô cửa quan sát của
hành lang, nơi mọi khách bộ hành có thể phán đoán được lộ trình của mình dọc
theo lối đi nằm ở trên cao này.
Tuy nhiên, sáng hôm nay, Langdon và Sienna di
chuyển qua hành lang bằng cách chạy, mong chóng thoát khỏi những kẻ đang truy
đuổi họ ở đầu bên kia càng xa càng tốt. Langdon tự hỏi sẽ mất bao lâu để người
ta phát hiện ra anh chàng bảo vệ bị trói. Đường hầm trải dài hun hút trước mắt,
Langdon cảm thấy mỗi bước đi lại dẫn họ tới gần thứ họ đang tìm kiếm.
Cerca trova… cặp mắt chết chóc… và một câu trả
lời xem kẻ nào đang truy đuổi mình.
Tiếng động cơ của chiếc trực thăng không người
lái lúc này nghe xa tít phía sau họ. Càng đi sâu vào đường hầm, Langdon càng
nhớ ra lối đi này quả thật là một công trình kiến trúc đầy tham vọng. Nằm cao
hơn thành phố gần hết chiều dài của nói, Hành lang Vasari giống như một con rắn
lớn, uốn mình qua những tòa nhà, suốt từ Cung điện Pitti, vượt qua sông Arno,
chạy vào trung tâm thành cổ Florence. Lối đi hẹp, quét vôi trắng dường như trải
dài vô tận, thỉnh thoảng mới hơi rẽ sang trái hoặc phải để tránh vật cản, nhưng
luôn luôn tiến về phía đông… qua sông Arno.
Bất ngờ có những tiếng âm vang phía trước họ,
ngay trong hành lang, và Sienna dừng phắt lại. Langdon cũng đứng lại, bình thản
đặt một bàn tay lên vai cô, ra hiệu về phía ô cửa quan sát gần đó.
Khách du lịch ngay bên dưới.
Langdon và Sienna tiến lại phía ô cửa và nhìn ra,
lúc này họ đang ở phía trên Ponte Vecchio - cây cầu đá thời Trung cổ có chức
năng như lối đi cho khách bộ hành tiến vào thành cổ. Bên dưới họ, những vị
khách du lịch đầu tiên trong ngày đang thích thú tận hưởng phiên chợ họp ngay
trên cầu, mở ra kể từ những năm 1400. Ngày hôm nay, những người bán hàng chủ
yêu là thợ kim hoàn và người làm đồ trang sức, nhưng không phải lúc nào cũng
như vậy. Ban đầu, cây cầu là nơi họp chợ bán thịt ngoài trời rất lớn của
Florence, nhưng năm 1593 những người bán thịt bị xua đuổi vì mùi thịt ôi lọt và
Hành lang Vasari khiến khứu giác tinh tế của Đại Công tước vô cùng khó chịu.
Đâu đó trên cây cầu phía dưới, Langdon nhớ lại,
chính là nơi một trong những tội ác khét tiếng nhất của Florence từng xảy ra. Năm 1216, một quý tộc
trẻ tuổi tên Buondelmonte đã vì tình yêu đích thực mà từ chối cuộc hôn nhân do
gia đình sắp đặt, và vì quyết định đó, chàng đã bị giết một cách tàn bạo ngay
trên cây cầu này.
Cái chết của chàng, từ lâu vẫn được coi là “vụ án
mạng đẫm máu nhất Florence”, vì nói tạo ra mối bất hòa giữa hai phe chính trị
đầy quyền thế - gia tộc Guelph và gia tộc Ghibelline. Ngay sau đó, họ đã phát
động chiến tranh huynh đệ tương tàn suốt nhiều thế kỷ. Vì mối cừu thù chính trị
này mà Dante phải rời khỏi Florence.
Nhà thi hào đã đau đớn đưa vào sự kiện đó vào Thần khúc: Ôi Buondelmonte, theo
lời khuyên của kẻ khác, chàng thoái thác lời hứa hôn của mình, và dẫn tới tội
ác như vậy!
Ngày đó, có thể tìm thấy ba tấm bảng riêng biệt
gần vị trí vụ án mạng - mỗi tấm trích một dòng khác nhau từ Khổ XVI trong Thiên
đường của Dante. Một trong số đó nằm ở đầu cầu Ponte Vecchio và đầy tính chất
điềm báo thế này:
NHƯNG TRONG THỜI KỲ THÁI BÌNH
CUỐI CÙNG, ĐỊNH MỆNH ĐÃ MANG TỚI CHO VỊ THẦN
GIÁM HỘ BẰNG ĐÁ BỊ THƯƠNG[1] TRÊN CÂY CẦU
CỦA THÀNH PHỐ FLORENCE… MỘT NẠN NHÂN.
[1]: Theo truyền thuyết, người La Mã thành lập
thành phố Florence
vào thế kỷ I trước Công nguyên. Họ xây hẳn một đèn thờ lớn thờ thần Chiến tranh
(Mars) như là vị thần bảo vệ thành phố, cùng với một bức tượng thần cưỡi ngựa.
Sau này, khi người Thiên Chúa giáo đến Florence,
một nhà thờ được xây dựng và ngoại giáo bị bài trừ. Người dân Florence
di chuyển tượng thần Chiến tranh lên một cái bệ nằm bên sông Arno.
Khi người Goth chiếm Florence,
họ xô đổ bức tượng xuống sông. Đến thế kỷ VIII sau Công nguyên, khi Charlemagne
xây lại thành phố, bức tượng được khôi phục và mặc dù đã hư hại, nó vẫn được
đặt trên một cây cột gần đầu phía bắc cầu Ponte Vecchio. Bức tượng “bị thương”
nhưng với người dân Florence,
nó vẫn là biểu tượng cho sự bảo hộ của thần thánh. Bức tượng tồn tại qua cả
thời kỳ của Dante và bị nhấn chìm trở lại sông Arno
trong một trận lụt vào năm 1333.
Langdon rời mắt khỏi cây cầu, nhìn xuống nước
sông xám xịt. Ở phía đông, ngọn tháp lẻ loi của Cung điện Vecchio nổi bật hẳn
lên.
Mặc dù Langdon và Sienna mới chỉ qua được nửa
sông Arno, nhưng anh thấy rõ rằng họ đã vượt
qua giới hạn quay lại từ lâu.
***
Cách gần mười mét phía dưới, trên nền đá cuội của
cầu Ponte Vecchio, Vayentha sốt ruột quan sát đám đông qua lại mà không thể ngờ
được rằng cơ hội lập công chuộc tội duy nhất của ả, chỉ vài phút trước đã đi
qua ngay trên đầu.
Sâu trong khoang con tàu The Mendacium đã buông
neo, điều phối viên Knowlton ngồi một mình trong buồng của mình, cố tập trung
vào công việc nhưng không được. Đầy lo lắng, anh ta xem lại đoạn video và suốt
một giờ qua vẫn đang phân tích đoạn độc thoại dài chín phút nửa thiên tài nửa
điên cuồng.
Knowlton tua lại từ đầu, tìm kiếm bất kỳ manh mối
nào anh ta có thể bỏ sót. Anh ta bỏ qua tấm biển chìm dưới nước… bỏ qua cái túi
treo lơ lửng đựng đầy thứ chất lỏng màu nâu vàng đùng đục… và tìm tới khoảnh
khắc cái bóng có mũi chim xuất hiện – một cái bóng dị dạng in lên vách hang
đang nhỏ nước… được thắp một quầng sáng đỏ yếu ớt.
Knowlton lắng nghe giọng nói đã bị bóp méo, cố
giải mã thứ ngôn ngữ phức tạp. Đoạn độc thoại trôi qua khoảng một nửa, cái bóng
trên tường đột nhiên phình to hơn và âm thanh giọng nói tăng hẳn.
“Địa ngục của Dante không phải hư cấu… nó là lời
tiên tri!
Nỗi thống khổ cùng cực. Những bất hạnh giày vò.
Đây là viễn cảnh của ngày mai.
Nhân loại, nếu không được kìm hãm, sẽ giống như
một đại dịch, một thứ ung thư… Dân số đang tăng lên qua mỗi thế hệ kế tiếp nhau
cho tới khi những tiện nghi trần tục từng nuôi dưỡng đức hạnh và tình huynh đệ
của chúng ta mai một thành hư không… khơi gợi những con quái vật ngay trong
chúng ta… tranh đấu sống mái để nuôi sống con cháu chúng ta.
Đây chính là địa ngục chín tầng của Dante.
Đây là những gì đang chờ đợi.
Khi tương lai lao thẳng vào chúng ta, được tiếp
sức bằng phép toán học kinh khủng của Malthus, chính là lúc chúng ta chao đảo
bên trên tầng địa ngục thứ nhất… chuẩn bị rơi xuống nhanh hơn chúng ta hình
dung.”
Knowlton cho dừng đoạn video. Toán học của
Malthus ư? Tìm kiếm nhanh trên Internet cung cấp cho anh ta thông tin về một
nhà toán học kiêm nhân khẩu học nổi bật người Anh ở thế kỷ XIX có tên Thomas
Robert Malthus, người đã dự đoán sự sụp đổ tất yếu trên toàn cầu do tình trạng
quá tải dân số.
Knowlton lo sợ khi thấy tiểu sử Malthus còn có cả
một đoạn trích bi quan từ cuốn sách Luận về nguyên tắc dân số của ông.
“Sức mạnh của dân số vượt xa sức mạnh tạo ra sinh
kế cho con người trên trái đất, đến mức tình trạng chết yểu sẽ viếng thăm loài
người dưới một hình thức nào đó. Những thói xấu của loài người chính là tác
nhân tích cực cho việc giảm dân số. Nhiều nhan nhản, chúng là điềm báo trước
cho sự hủy diệt, và thường tự chúng sẽ hoàn tất công việc kinh khủng ấy. Nhưng
nếu chúng thất bại trong cuộc chiến tiêu diệt này, mùa đau ốm, các căn bệnh,
trận dịch, và dịch hạch sẽ tràn tới mạnh mẽ và quét một lúc hàng nghìn hàng vạn
người. Nếu thành công vẫn chưa trọn vẹn, nạn đói không thể tránh khỏi sẽ lén
theo sau, và bằng một đòn khủng khiếp sẽ đưa dân số về tương ứng với lương thực
của thế giới.”
Tim đập thình thịch, Knowlton nhìn lại hình ảnh
đang tạm dừng của bóng đen có mũi hình mỏ chim.
Nhân loại, nếu không được kìm hãm, sẽ giống như
một thứ ung thư.
Nếu không được kìm hãm. Knowlton không thích cách
nói đó lắm.
Ngón tay đầy do dự, anh ta cho đoạn video chạy
tiếp.
Giọng nói bị bóp méo tiếp tục vang lên.
“Không làm gì tức là đón chào địa ngục của Dante…
chật chội và đói khát, đắm đuối trong Tội lỗi.
Và ta mạnh dạn hành động.
Một số kẻ sẽ co rúm lại vì sợ hãi, nhưng sự cứu
rỗi nào cũng có giá của nó.
Sẽ có ngày thế giới hiểu rõ sự hy sinh cao cả của
ta.
Vì ta là Cứu rỗi.
Ta là Vong linh.
Ta là cảnh cửa đi vào kỷ
nguyên Hậu loại người.”
Cung điện Vecchio giống hệt
một quân cờ khổng lồ. Với phần mặt tiền hình tứ giác vững chãi và những bức
tường có lỗ châu mai vuông vức, tòa cung điện hình quân xe đồ sộ này tọa lạc ở
vị trí rất phù hợp, trấn giữ góc đông nam của Quảng trường Signoria.
Tòa tháp duy nhất rất lạ
thường của cung điện, vươn lên ở trung tâm pháo đài vuông vức này, như một mặt
cắt rất đặc trưng in trên đường chân trời và trở thành một biểu tượng độc nhất
vô nhị của Florence.
Là trung tâm quyền lực của
chính quyền Ý, tòa cung điện khiến cho những vị khách tới đây có ấn tượng đặc
biệt về vô số tượng nam giới. Tượng thần biển Neptune vạm vỡ của Ammannati đứng
khỏa thân trên lưng bốn con hải mã – biểu tượng cho địa vị thống trị của Florence
trên biển. Một bản sao tượng David của Michelangelo – nhân vật nam giới khỏa
thân được chiêm ngưỡng nhiều nhất trên thế giới – đứng kiêu hãnh ngay lối vào
cung điện. Cùng nhập hội với David là Hercules và Cacus – hai nhân vật nam khỏa
thân khổng lồ khác – phối hợp cùng những dâm thần của Neptune, chào đón các vị
khách tới cung điện bằng cách phô ra hơn một tá dương vật.
Thông thường, những lần tới
tham quan Cung điện Vecchio của Langdon đều bắt đầu từ Quảng trường Signoria -
một trong những quảng trường anh ưa thích nhất ở châu Âu, mặc dù nó có quá
nhiều tượng nam giới khỏa thân. Sẽ không thể coi là đã tới thăm quảng trường
nếu chưa nhâm nhi một tách cà phê espresso tại quán Caffè Rivoire, rồi chiêm
ngưỡng những chú sư tử nhà Medici tại Loggia dei Lanzi – khu trưng bày tượng điêu
khắc ngoài trời của quảng trường.
Những hôm nay, Langdon và
người bạn đồng hành dự định tiến vào cung điện Vecchio qua Hành lang Vasari,
giống như các công tước nhà Medici vẫn thường làm lúc sinh thời – đi qua Bảo
tàng Uffizi nổi tiếng và bám theo hành lang uốn lượn phía trên những cây cầu,
đường sá và qua những tòa nhà, tiến thẳng vào trung tâm của cung điện cũ. Cho
đến lúc này, họ chưa hề nghe thấy tiếng bước chân bám theo phía sau, nhưng
Langdon vẫn rất sốt ruột mong thoát ra khỏi hành lang.
Giờ thì chúng mình đến nơi
rồi, Langdon nhận ra như vậy, mắt hướng về cánh cửa gỗ nặng nề trước mặt. Lối
vào cung điện cũ.
Cánh cửa đó, mặc dù có kết
cấu khóa chắc chắn, vẫn được gia cố thêm một then ngang, hình thành một lối
thoát khẩn cấp đồng thời ngăn bất kỳ kẻ nào ở phía bên kia xâm nhập vào Hành
lang Vasari mà không có thẻ từ.
Tiếng ổ khóa nảy lên.
Ô cửa gỗ hé ra vài phân,
Langdon ghé mắt nhìn ra bên ngoài. Một hốc phòng nhỏ. Vắng vẻ. Im ắng.
Khẽ thở phào, Langdon bước
qua cửa và ra hiệu cho Sienna theo sau.
Chúng ta đã vào trong.
Đứng bên trong một hốc phòng
đâu đó trong Cung điện Vecchio, Langdon đợi một lát và cố gắng trấn tĩnh lại.
Trước mặt họ là một hành lang dài chạy vuông góc với hốc phòng. Bên trái họ,
cách một quãng, có những tiếng nói vọng lên hành lang, bình tĩnh và vui vẻ.
Cung điện Vecchio, giống như Điện Capitol ở Hoa Kỳ, vừa là điểm du lịch vừa là
trụ sở làm việc của chính phủ. Vào giờ này, những giọng nói họ đang nghe thấy
chắc chắn là của các viên chức đang hối hả ra vào văn phòng, sẵn sàng cho một ngày
làm việc mới.
Langdon và Sienna nhích dần
trong hành lang và ngó qua góc tường. Đúng như dự đoán, phía cuối hành lang là
một tiền sảnh có hơn chục viên chức chính quyền đứng nhâm nhi cà phê espressi
buổi sáng và chuyện phiếm với đồng nghiệp trước giờ làm việc
“Bích họa Vasari”, Sienna
thì thào, “anh nói nó ở trong Sảnh Năm trăm phải không?”
Langdon gật đầu và chỉ qua
tiền sảnh đông đúc về phía một khuôn cửa trổ thẳng vào một hành lang đá. “Rất
tiếc, lại phải đi qua tiền sảnh đó.”
“Anh chắc chứ?”
Langdon gật đầu. “Chúng ta
sẽ không có cách nào vượt qua đó mà không bị phát hiện.”
“Họ đều là nhân viên chính
phủ. Họ sẽ không quan tấm đến chúng ta đâu. Cứ việc đi tới như thể anh là người
ở đây.”
Sienna tiến lại, nhẹ nhàng
vuốt phẳng chiếc áo vét hiệu Brioni của Langdon và chỉnh lại cổ áo. “Trông anh
bảnh rồi đấy, Robert.” Cô e thẹn mỉm cười nhìn anh, chỉnh lại áo len của mình,
và bước ra.
Langdon vội vã bám theo cô,
cả hai đường hoàng sải bước về phía tiền sảnh. Khi họ bước vào, Sienna bắt đầu
nói với anh rất nhanh bằng tiếng Ý – chuyện gì đó liên quan đến bảo hộ nông
trại – say sưa khoa chân múa tay trong lúc nói. Họ tiến thẳng tới bức tường
ngoài cùng, giữ một khoảng cách với những người khác. Langdon vô cùng ngạc nhiên
vì đúng là không hề có một nhân viên nào để ý đến họ.
Khi đã đi qua tiền sảnh, họ nhanh chóng tiếp cận hành
lang. Langdon nhớ lại Chương trình biểu diễn kịch Shakespeare. Yêu nữ láu cá.
“Cô đúng là một diễn viên”, anh thì thào.
“Tôi buộc phải làm thế”, cô
đáp lời, giọng có phần xa cách kỳ lạ.
Lại một lần nữa, Langdon cảm
thấy có điều gì đó trong quá khứ của người phụ nũ trẻ này còn đau đớn hơn cả
những gì anh biết, và càng lúc càng hối hận vì đã lôi cô vào tình huống rắc rối
nguy hiểm cùng mình. Anh tự nhủ rằng lúc này chưa có gì xong xuôi cả, ngoại trừ
nhìn nhận cho thấu đáo.
Cứ tiếp tục bơi qua đường
hầm… và cầu mong nhìn thấy ánh sáng.
Khi tới gần khuôn cửa,
Langdon thở phào nhận thấy trí nhớ của mình vẫn rất tốt. Một tấm biển nhỏ có
mũi tên chỉ qua góc tường vào hành lang cùng lời ghi: IL SALONE DEI CINQUECENTO.
Sảnh Năm trăm, Langdon nghĩ, tự hỏi không biết những câu trả lời nào đang đợi
họ bên trong. Chỉ có thể nắm bắt được chân lý qua cặp mắt chết chóc. Điều này
có nghĩa là gì nhỉ?
“Có thể phòng vẫn khóa”,
Langdon lưu ý khi họ đến gần góc tường. Mặc dù Sảnh Năm trăm là một điểm du
lịch quen thuộc nhưng sáng nay lại chưa mở cửa.
“Anh có nghe thấy tiếng đó
không?”, Sienna hỏi, và dừng phắt lại
Langdon đã nghe thấy. Có
tiếng ầm ì rất to tiến lại gần ngay chỗ góc tường. Xin hãy nói với tôi rằng đó
không phải là một chiếc máy bay không người lái trong nhà. Rất thận trọng, Langdon
ngó qua góc ô cửa. Cách đó ba mươi thước là một cánh cửa gỗ đơn giản kỳ lạ mở
vào Sảnh Năm trăm. Rất tiếc, chính giữa cửa lại là một nhân viên bảo vệ to béo
đang đẩy cỗ máy đánh bóng sàn chạy điện theo vòng tròn.
Nhân viên gác cửa.
Langdon chú ý đến ba biểu
tượng trên một tấm biển nhựa bên ngoài cửa. Ngay cả những nhà biểu tượng học ít
kinh nghiệm nhất cũng nhận ra các biểu tượng quen thuộc này: Một máy quay có
dấu X, một cốc uống nước có dấu X, và hai hình người, một nam và một nữ.
Langdon hành động ngay, sải
bước nhanh về phía nhân viên bảo vệ, hơi chậm bước khi lại gần người đó hơn.
Sienna rảo bước sát theo sau anh.
Nhân viên bảo vệ ngước lên,
có vẻ hơi giật mình. “Xin lỗi!” Ông ta giơ tay chặn Langdon và Sienna lại.
Langdon mỉm cười khổ sở,
đúng hơn là nhăn nhó với ông ta và ra hiệu về phía mấy biểu tượng gần cửa. “Nhà
vệ sinh”, anh nói, giọng anh cuống quýt. Đó không phải là một câu hỏi.
Ông bảo vệ lưỡng lự một
chút, vẻ sẵn sàng từ chối yêu cầu của họ, nhưng cuối cùng nhìn thấy dáng đi
không lấy gì làm thoải mái của Langdon, ông ta gật đầu vẻ thông cảm và vẫy tay
cho họ qua.
Khi tới cửa, Langdon nháy
mắt nhanh với Sienna. “Lòng trắc ẩn là một ngôn ngữ phổ thông.”
Đã có thời, Sảnh Năm trăm là
gian phòng rộng nhất thế giới. Nó được xây dựng năm 1494 để làm nơi hội họp cho
toàn thể Consiglio Maggiore – Đại hội đồng gồm đúng năm trăm ủy viên của nền
Cộng hòa – vì thế thành tên của sảnh. Vài năm sau, theo lệnh của Cosimo I,
phòng được cải tạo và mở rộng đáng kể. Cosimo I, nhân vật quyền thế nhất nước
Ý, đã chọn Giorgio Vasari làm giám công kiêm kiến trúc sư của dự án.
Để hoàn thành công trình đặc
biệt này, Vasari đã cho nâng phần mái cũ và cho ánh sáng tự nhiên tràn vào qua
các cửa sổ con rất cao ở cả bốn mặt gian phòng, tạo thành một không gian trang
nhã trưng bày những bức tranh, tác phẩm điêu khắc và kiến trúc đẹp nhất của
Florence.
Sàn của gian phòng này luôn
thu hút ánh mắt của Langdon trước tiên, vì nó như tuyên bố rằng đây không phải
là một không gian bình thường. Phần sàn bằng đá son cùng hệ thống đường kẻ ô
màu đen tạo cho không gian rộng một nghìn một trăm mười lăm mét vuông này vẻ
vững chải, sâu và cân bằng.
Langdon từ từ nhướng mắt
nhìn về đầu kia của gian phòng, nơi sáu bức điêu khắc - Những kỳ công của
Hercules – xếp hàng dọc theo tường như một toán binh sĩ. Langdon cố ý bỏ qua
tác phẩm Hercules và Diomedes vẫn thường xuyên bị chê bai, mô tả những thân
hình trần truồng mắc cứng trong một trận đấu vật trông rất quyết liệt, với động
tác “bóp dương vật” đầy tính sáng tạo vẫn luôn khiến Langdon phát hãi.
Dễ bắt mắt hơn là tác phẩm
Thần Chiến thắng đẹp mê hồn của Michelangelo đứng ở bên trái, choán hết hốc
chính giữa của bức tường phía nam. Cao gần ba mét, tác phẩm điêu khắc này dự
định dành cho phần mộ của vị giáo hoàng gây nhiều tranh cãi Julius II – được
mệnh danh là Đức Thánh Cha Đáng sợ - một nhiệm vụ Langdon luôn thấy rất châm
biếm, nếu xét đến quan điểm về tình dục đồng giới của Vatican. Bức tượng mô tả
Tommaso dei Cavalieri, chàng thanh niên mà Michelangelo yêu say đắm và cũng là
người ông viết tặng hơn ba trăm bài thơ.
“Tôi không thể tin là mình
lại chưa bao giờ đến đây!”, Sienna thì thào bên cạnh anh, giọng cô đột nhiên
nhẹ nhàng và đầy thành kính. “Nơi này… đẹp quá!”
Langdon gật đầu, nhớ lại lần
đầu anh tới thăm khu vực này, nhân một buổi hòa nhạc cổ điển đặc biệt của nghệ
sĩ piano lừng danh thế giới Mariele Keymel. Mặc dù đại sảnh này là nơi hội hợp
chính trị và thiết triều của ngài Đại Công tước, nhưng giờ đây nó được dành cho
các nhạc sĩ, nhà diễn thuyết và những buổi dạ tiệc – từ sử gia nghệ thuật
Maurizio Seracini đến dạ tiệc khai trương chỉ có hai màu đen-trắng của Bảo tàng
Gucci. Nhiều lúc Langdon tự hỏi Cosimo I sẽ cảm thấy thế nào về chuyện phải chia
sẻ đại sảnh riêng vốn rất chân phương của mình với các vị CEO và người mẫu thời
trang.
Langdon hướng ánh mắt sang
những bức bích họa đồ sộ tô điểm cho các bức tường. Lịch sử kỳ lạ của chúng còn
bao gồm kỹ thuật vẽ thử nghiệm bất thành của Leonardo da Vinci, với kết quả là
một “kiệt tác tan chảy”. Cũng đã từng có một “cuộc thi tài” nghệ thuật do Piero
Soderini và Machiavelli dẫn dắt, sử dụng hai người khổng lồ của thời Phục Hưng
– Michelangelo và Leonardo – đấu với nhau, bằng cách ra lệnh cho họ sáng tạo ra
những bích họa ở các bức tường đối diện nhau trong cùng một căn phòng.
Tuy nhiên, hôm nay, Langdon
quan tâm đến một trong những điểm kỳ quặc mang tính lịch sử khác của căn phòng
này.
Cerca trova.
“Cái nào là của Vasari?”,
Sienna hỏi, đưa mắt nhìn các bích họa.
“Gần như tất cả”, Langdon
đáp, biết rõ việc để cải tạo căn phòng, Vasari cùng các phụ tá đã phải vẽ lại
gần như mọi thứ bên trong, từ những bức bích họa nguyên gốc tới ba mươi chín ô
trang trí phần trần “treo” nổi tiếng của gian phòng.
“Nhưng bích họa kia”,
Langdon nói, chỉ bức bích họa ở bên phải họ, “mới là bức chúng ta muốn xem –
Trận Marciano của Vasari”.
Bức tranh mô tả cảnh đối đầu
quân sự quả là đồ sộ - dài một trăm sáu mươi lăm mét và cao hơn ba tầng nhà. Nó
được khắc họa bằng các gam màu nâu đỏ và xanh lục – một đại cảnh dữ dội với
lính, ngựa, giáo mác cùng những lá cờ va đụng nhau trên một sườn đồi ở vùng quê.
“Vasari, Vasari”, Sienna thì
thào. “Và thông điệp bí mật của ông ấy được giấu đâu đó trong bức tranh ấy ư?”
Langdon gật đầu trong lúc
nheo mắt nhìn lên đỉnh bức bích họa khổng lồ, cố gắng định vị lá cờ trận màu
lục đặc biệt, Vasari đã vẽ lên đó thông điệp bí ẩn của ông - CERCA TROVA. “Gần
như không thể nhìn thấy từ dưới này mà không dùng ống nhòm”, Langdon nói, chỉ
tay lên bức tranh, “nhưng ở khoang giữa trên cùng, ngay phía dưới hai ngôi nhà
nông trại trên sườn đồi, có một lá cờ màu xanh lục hơi nghiêng nhỏ xíu và…”
“Tôi nhìn thấy rồi”, Sienna
nói, tay chỉ lên góc trên bên phải, rất đúng vị trí.
Langdon ao ước có được cặp
mắt tinh tường hơn.
Hai người bước lại gần bức
bích họa cao ngất, Langdon ngước nhìn vẻ tráng lệ của nó. Cuối cùng, họ đã ở
đây. Vấn đề duy nhất lúc này là Langdon không biết chắc tại sao họ lại đến đây.
Anh đứng im lặng rất lâu, đăm đăm nhìn những chi tiết trong kiệt tác của Vasari.
Nếu ta thất bại… khi đó tất
cả sẽ chết.
Một cánh cửa hé mở phía sau
họ, và ông bảo vệ cùng cái máy lau sàn ngó vào, vẻ ngập ngừng. Sienna vẫy tay
chào đầy thân thiện. Ông bảo vệ nhìn họ một lát rồi khép cửa lại.
“Chúng ta không có nhiều
thời gian đâu, Robert”, Sienna giục. “Anh cần nghĩ xem. Bức tranh có gợi cho
anh điều gì không? Bất kỳ ký ức gì không?”
Langdon chăm chú nhìn cảnh
chiến trận hỗn loạn phía trên họ.
Chỉ có thể nắm bắt được chân
lý qua cặp mắt chết chóc.
Langdon từng nghĩ có lẽ
trong bức bích họa có một xác chết với ánh mắt vô hồn nhìn về phía một manh mối
nào đó trong bức tranh… hoặc thậm chí là một vị trí nào đó trong gian phòng.
Tiếc thay, lúc này Langdon thấy rằng có đến hàng chục xác chết trong bức bích
họa, và không cái xác nào đáng chú ý cũng như không có cặp mắt người chết nào
hướng tới bất kỳ nơi nào đặc biệt.
Chỉ có thể nắm bắt được chân
lý qua cặp mắt chết chóc ư?
Anh cố gắng mường tượng các
đường kết nối từ xác chết này tới xác chết khác, băn khoăn không biết có thể
tạo ra hình thù gì không nhưng chẳng thấy gì cả.
Đầu Langdon lại căng rần rật
trong lúc cố lục tung những tầng sâu trí nhớ của mình. Đâu đó, giọng của người
phụ nữ tóc bạc vẫn thì thầm: Hãy tìm kiếm và sẽ thấy.
“Tìm cái gì chứ?”, Langdon muốn hét to lên.
Anh cố nhắm mắt lại và từ từ thở ra. Anh xoay vai
vài lần và cố gắng giải phóng mình khỏi tất cả những suy nghĩ có ý thức, hy
vọng chạm đến bản năng sâu thẳm.
Rất xin lỗi.
Vasari.
Cerca trova.
Chỉ có thể nắm bắt được chân
lý qua cặp mắt chết chóc.
Bản năng mách bảo, chắc chắn
anh đã tìm đúng chỗ. Và dù lúc này không hiểu nổi tại sao, anh vẫn có cảm nhận
rõ rệt rằng chẳng mấy chốc mình sẽ thông suốt mọi chuyện.
Đặc vụ Brũder hững hờ nhìn
đống quần áo chẽn nhung màu đỏ trong tủ trưng bày trước mắt mình và rủa thầm.
Đội SRS của anh ta đã lục soát khắp khu trưng bày phục trang, nhưng không tìm
thấy Langdon và Sienna Brooks ở đâu cả.
Giám sát và hỗ trợ phản ứng,
anh ta giận dữ nghĩ. Kể từ lúc nào một thằng cha giáo sư đại học lại thoát khỏi
tay SRS chứ? Bọn họ biến đi chỗ quái nào rồi!
“Mọi lối ra đều đã phong
tỏa”, một người của anh ta khẳng định. “Khả năng duy nhất là bọn họ vẫn còn
trong khu vườn.”
Điều này dường như khá hợp
lý nhưng Brũder lại có cảm giác rằng Langdon và Sienna Brooks đã tìm được một
lối thoát nào đó.
“Cho máy bay bay lại đi”, Brũder quát. “Và lệnh
cho giới chức địa phương mở rộng phạm vi tìm kiếm bên ngoài các bức tường.” Mẹ
kiếp!
Trong khi người của mình tỏa đi, Brũder vớ lấy
điện thoại và gọi cho người có trách nhiệm. “Brũder đây”, anh ta nói. “Tôi e là
chúng ta đang gặp phải vấn đề rất nghiêm trọng. Thực tế là rất nhiều vấn đề.”
Chỉ có thể nắm bắt được chân lý qua cặp mắt chết
chóc.
Sienna lặp lại những từ này trong lúc tiếp tục
xem xét từng phân một trong quang cảnh chiến trận dữ dội của Vasari, hy vọng có
thể thấy chi tiết gì đó nổi bật.
Cô nhìn thấy những đôi mắt chết chóc ở khắp mọi
nơi.
Bọn mình đang tìm kiếm cặp mắt nào đây?
Cô tự hỏi liệu cặp mắt chết chóc có ám chỉ tới
những xác chết thối rữa rải rác khắp châu Âu do dịch hạch không.
Ít nhất điều đó cũng giải thích cho cái mặt nạ
dịch hạch…
Bất ngờ, một bài đồng dao trẻ con nảy ra trong
tâm trí Sienna: Cổ đeo chuỗi hồng hoa. Túi đầy cỏ với hoa. Hóa thành đám tro
tàn. Tất cả đều ra ma.
Cô thường hát bài đồng dao này khi còn là một nữ
sinh ở Anh cho tới khi nghe nói bài đồng dao xuất xứ từ trận dịch hạch ở London năm 1665. Người ta
cho rằng, chuỗi hồng hoa là nói đến những cục hạch sưng tấy có quầng đỏ trên da
phát triển thành chuỗi và là dấu hiệu cho thấy một người đã bị nhiễm bệnh.
Người bệnh thường mang theo trong túi áo đầy các loại thảo dược hoặc hoa với hy
vọng được bảo vệ trước mùi cơ thể đang bị hủy hoại của chính họ cũng như mùi
hôi thối của cả thành phố, nơi hàng trăm nạn nhân dịch hạch bỏ mạng mỗi ngày,
và xác họ được hỏa thiêu sau đó. Hóa thành đám tro tàn19. Tất cả đều ra ma.
19Nguyên tác là “Ashes, ashes”, vừa mang nghĩa là
“tro tàn” sau khi người bệnh bị hỏa thiêu, nhưng cũng đồng âm với “Hắt xì” là
dấu hiệu của hiện tượng chớm bệnh.
“Ơn chúa”, Langdon đột ngột buột miệng, xoay
người về phía bức tường đối diện.
Sienna tò mò. “Có gì không
ổn à?”
“Đó là tên một tác phẩm nghệ
thuật từng được trưng bày ở đây. Ơn chúa.”
Bối rối, Sienna nhìn Langdon
vội vã băng ngang phòng về phía một cánh cửa kính nhỏ và cố gắng mở ra. Cửa đã
bị khóa. Anh áp mặt vào kính, khum hai bàn tay quanh mắt và nhìn vào bên trong.
Dù Langdon đang cố tìm kiếm
cái gì, Sienna cũng hy vọng anh tìm thấy thật nhanh. Ông bảo vệ vừa xuất hiện
lần nữa, lần này mang vẻ mặt nghi ngờ rất rõ ràng khi nhìn thấy Langdon đi tới
săm soi một cánh cửa khóa kỹ.
Sienna rối rít vẫy tay với
ông bảo vệ, nhưng ông ta lạnh lùng nhìn cô một lúc lâu và đi mất.
Lo Studiolo.
Nằm phía sau cánh cửa kính,
ngay đối diện mấy từ cerca trova được giấu kỹ trong Sảnh Năm trăm, là một gian
nhỏ xíu không có cửa sổ. Được Vasari thiết kế như một phòng làm việc bí mật cho
Công tước Francesco I, gian Studiolo vuông vức có trần uốn thành vòm tròn như
hầm rượu, khiến cho người ở bên trong có cảm giác như đang ở trong một hòm châu
báu cỡ lớn.
Rất phù hợp là nội thất gian
phòng cũng lấp lánh những món đồ đầy thẩm mỹ. Hơn ba mươi bức tranh hiếm có
trang hoàng cho những bức tường và trần nhà, được treo sát nhau đến mức không
còn không gian trống nào trên tường. Cú ngã của Icarus… Phúng dụ đời người… Mẹ
Thiên nhiên tặng Prometheus bảo ngọc…
Lúc nhìn qua lớp kính vào
không gian rực rỡ phía sau, Langdon thì thào với chính mình “Cặp mắt chết chóc”.
Lần đầu tiên Langdon ở bên
trong Lo Studiolo là cách đây vài năm, trong một chuyến tham quan riêng theo các
lối đi bí mật của cung điện. Anh đã sững sờ khi biết có vô số cánh cửa, cầu
thang và lối đi bí mật trong cung điện, chẳng khác gì tổ ong, kể cả một vài
hạng mục được giấu kín phía sau những bức vẽ bên trong Lo Studiolo.
Tuy nhiên, các lối đi bí mật
không phải là thứ khiến Langdon quan tâm. Thay vào đó, anh chú ý đến một tác
phẩm nghệ thuật hiện đại rất táo bạo được trưng bày ở đây – Ơn Chúa – một tác
phẩm gây tranh cãi của Damien Hirst, từng gây sóng gió khi xuất hiện bên trong
Studiolo lừng danh của Vasari.
Một cái khuôn đầu lâu kích
thước thật bằng platinum đặc, bề mặt phủ kín hơn tám nghìn viên kim cương nạm
sáng lấp lánh hiện ra. Hiệu ứng vô cùng ấn tượng. Hai hốc mắt trống rỗng của
cái sọ lấp loáng ánh sáng và đầy sức sống, tạo ra một cặp biểu tượng đối lập nhau
– sự sống và cái chết, vẻ đẹp và sự hãi hùng. Mặc dù cái sọ kim cương của Hirst
đã bị chuyển khỏi Lo Studiolo từ lâu nhưng ký ức về nó đã làm Langdon nảy ra
một ý tưởng.
Cặp mắt chết chóc, anh nghĩ
bụng. Một cái đầu lâu là chuẩn xác, phải không nhỉ?
Đầu lâu là một chủ đề thường
xuyên xuất hiện trong Hỏa Ngục của Dante, nổi tiếng nhất là hình phạt tàn khốc
đối với Bá tước Ugolino ở tầng địa ngục thấp nhất – ông ta bị kết án phải mãi
mãi gặm đầu lâu của một vị tổng giám mục xấu xa.
Phải chăng bọn mình đang tìm
một cái đầu lâu?
Langdon biết rõ, gian
Studiolo bí ẩn được xây dựng theo kiểu “tủ bách khoa toàn thư” truyền thống. Gần
như tất cả bức vẽ của gian phòng đều lắp bản lề bí mật, có thể xoay thành những
hộc tủ, nơi công tước cất giữ những món đồ lạ lùng mà ông quan tâm – các mẫu
khoáng vật hiếm hoi, những sợi lông vũ đẹp mắt, một hóa thạch vỏ ốc anh vũ hoàn
hảo, và thậm chí người ta còn cho rằng có cả xương ống chân của một nhà sư được
trang trí bằng bạc.
Rất tiếc, Langdon ngờ rằng
tất cả món đồ trong các hộc tủ đều đã được dọn đi từ lâu, và anh chưa từng nghe
nói có bất kỳ hộp sọ nào được trưng bày ở đây, trừ tác phẩm của Hirst.
Suy nghĩ của anh bị đứt
quãng bởi tiếng cửa đóng mạnh ở đầu sảnh bên kia. Những tiếng bước chân vội vã
băng qua sảnh tiến lại rất nhanh.
“Thưa ông!”, một giọng nói
giận dữ quát lên. “Sảnh này không mở cửa!”
Langdon quay lại nhìn thấy
một nữ nhân viên đang tiến về phía mình. Cô ấy nhỏ, với mái tóc nâu cắt ngắn.
Cô ấy đang mang bầu rất lớn. Người phụ nữ hối hả tiến lại phía họ, tay chỉ vào
đồng hồ và lớn tiếng gì đó về việc khu vực này chưa mở cửa. Lúc tiến lại gần hơn,
cô bắt gặp ánh mắt Langdon và lập tức dừng sững lại, sửng sốt đưa tay che miệng.
“Giáo sư Langdon!”, cô ấy
kêu lên, vẻ bối rối. “Tôi xin lỗi! Tôi không biết anh ở đây. Chào mừng anh trở
lại!”
Langdon cứng đờ người.
Anh tin chắc mình chưa bao
giờ gặp người phụ nữ này trước đó.
“Tôi suýt nữa không nhận ra
anh, thưa giáo sư!”, người phụ nữ nói bằng thứ tiếng Anh nằng nặng trong lúc
tiến lại gần Langdon. “May nhờ trang phục của anh.” Cô mỉm cười trìu mến và gật
đầu tán thưởng bộ cánh Brioni của Langdon. “Rất thời trang. Trông anh chẳng
khác gì người Ý.”
Miệng Langdon khô khốc,
nhưng anh cố nở một nụ cười nhã nhặn lúc người phụ nữ đến bên anh. “Xin… chào
chị!”, anh ấp úng. “Chị khỏe không?”
Cô ấy bật cười, tay ôm lấy
bụng. “Kiệt sức mất rồi. Con bé Catalina đêm nào cũng quẫy đạp.” Người phụ nữ
nhìn quanh phòng, vẻ ngơ ngác. “Ngài Tiểu Mái vòm không hề nói anh sẽ quay lại
đây hôm nay. Tôi cứ ngỡ ông ấy đi cùng anh?”
Ngài Tiểu Mái vòm ư? Langdon
hoàn toàn không hiểu cô đang nói đến ai.
Người phụ nữ rõ ràng nhận ra
vẻ bối rối của anh và phì cười trấn an. “Không sao, tất cả mọi người ở Florence
đều gọi ông ấy bằng biệt danh đó. Ông ấy không bận tâm đâu.” Cô nhìn xung
quanh. “Ông ấy dẫn anh vào à?”
“Đúng vậy”, Sienna lên tiếng
và bước lại từ bên kia sảnh, “nhưng ông ấy có cuộc hẹn ăn sáng. Ông ấy nói các
chị sẽ không phiền nếu chúng tôi ngắm nghía quanh quẩn ở đây”. Sienna nhiệt
tình chìa tay ra. “Tôi là Sienna. Em gái của anh Robert.”
Người phụ nữ bắt tay Sienna
có phần hơi quá trịnh trọng. “Tôi là Marta Alvarez. Cô thật là may mắn vì có
hẳn giáo sư Langdon làm hướng dẫn viên riêng.”
“Vâng”, Sienna tán dương, cố
giấu động tác đảo mắt. “Anh ấy
rất thông minh.”
Không khí chợt im ắng và có phần gượng gạo khi
người phụ nữ ngắm nhìn Sienna. “Buồn cười nhỉ”, cô ấy nói, “tôi chẳng thấy có
nét nào giống nhau. Có lẽ trừ chiều cao của cô.”
Langdon cảm thấy như sắp có vụ va chạm tàu hỏa
đến nơi. Ngay lúc này hoặc hết cơ hội.
“Marta”, Langdon ngắt lời, hy vọng mình đã nghe
chính xác tên của người phụ nữ. “Tôi xin lỗi làm phiền chị nhưng… tôi đoán có
lẽ chị biết lý do vì sao tôi lại ở đây.”
“Nói thật là không hề”, cô ấy trả lời, mắt hơi
nheo lại. “Tôi không tài nào tưởng tượng được là anh đang làm gì ở đây.”
Tim Langdon đập rộn lên, và trong khoảnh khắc im
lặng gượng gạo sau đó, anh nhận ra canh bạc của mình sắp thua đến nơi. Đột
nhiên Marta nhoẻn miệng rồi bật cười to.
“Thưa giáo sư, tôi đùa thôi! Dĩ nhiên, tôi có thể
đoán tại sao anh quay lại. Thành thật mà nói, tôi không biết tại sao anh lại
thấy việc đó thú vị, nhưng vì anh và ngài Tiểu Mái vòm đã bỏ gần một tiếng trên
đó đêm qua nên tôi đoán anh quay lại để cho em gái anh xem phải không?”
“Phải …”, anh vội đáp. “Chính xác đấy. Tôi rất
muốn chỉ cho Sienna xem, nếu việc đó không… phiền?”
Marta ngước nhìn lên ban công tầng hai và nhún
vai: “Không sao. Tôi cũng lên đó bây giờ.”
Tim Langdon đập rộn lên khi anh nhìn lên ban công
tầng hai ở phía sau sảnh. Mình đã ở trên đó tối qua ư? Anh chẳng nhớ gì cả. Cái
ban công ấy, anh biết rõ, ngoài việc ở đúng độ cao với mấy từ cerca trova, còn
là lối vào bảo tàng của cung điện, nơi Langdon luôn tới thăm mỗi khi anh ở đây.
Marta định dẫn họ đi qua sảnh thì chợt dừng lại,
như thể vừa nghĩ ra gì đó. “Này, giáo sư, chẳng lẽ chúng ta không thể tìm được
thứ gì đó đỡ kinh dị hơn cho cô em gái đáng yêu của anh xem à?”
Langdon chẳng biết nói sao.
“Chúng ta sẽ xem thứ kinh dị à?”, Sienna hỏi.
“Cái gì thế? Anh ấy không hề nói với tôi.”
Marta mỉm cười duyên dáng và liếc nhìn Langdon.
“Giáo sư, anh có muốn tôi cho em gái anh biết về nó không, hay anh muốn tự mình
làm việc đó hơn?”
Langdon gần như vồ lấy cơ hội đó. “Tất nhiên rồi,
Marta, tại sao chị không kể cho cô ấy nghe chứ?”
Marta quay lại phía Sienna, nói rất chậm rãi.
“Tôi không biết anh trai cô đã kể với cô những gì, nhưng chúng ta sẽ lên bảo
tàng để xem một cái mặt nạ rất khác thường.”
Mắt Sienna hơi mở to. “Mặt nạ gì cơ? Có phải cái
mặt nạ dịch hạch xấu òm người ta vẫn đeo dịp Carnevale không?”
“Đoán giỏi lắm”, Marta nói, “nhưng không, không
phải mặt nạ dịch hạch đâu. Là một loại mặt nạ khác hẳn. Người ta gọi là mặt nạ
người chết.”
Marta nghe rõ tiếng Langdon há miệng sửng sốt. Cô
lừ mắt nhìn anh, rõ ràng nghĩ rằng anh đang cố tình tỏ ra kịch tính một cách
thái quá để dọa cô em gái.
“Đừng có nghe anh trai cô”, cô ấy nói. “Mặt nạ
người chết là một phong tục rất phổ biến vào thế kỷ XVI. Về cơ bản nó chỉ là
cái khuôn thạch cao theo đúng gương mặt của ai đó, được đúc một thời gian sau
khi người đó qua đời.”
Mặt nạ người chết. Langdon cảm thấy tia sáng đầu
tiên kể từ lúc anh tỉnh lại ở Florence.
Hỏa Ngục của Dante… Nhìn qua cặp mắt chết chóc. Mặt nạ!
Sienna lên tiếng hỏi, “Người ta dùng khuôn mặt ai
để đúc chiếc mặt nạ?!”
Langdon đặt tay lên vai Sienna và cố gắng trả lời
một cách bình thản nhất. “Một thi sĩ nổi tiếng của Ý. Tên ông ấy là Dante
Alighieri.”
Mặt trời Địa Trung Hải chiếu rực rỡ trên boong
tàu The Mendacium trong lúc nó lắc lư theo những đợt sóng trên biển Adriatic. Cảm thấy mệt mỏi, Thị trưởng uống cạn ly Scotch
thứ hai và thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ phòng làm việc.
Tin tức từ Florence
không được tốt.
Có lẽ một phần do lần đầu tiên uống rượu sau một
thời gian rất dài, nên ông ta cảm thấy mất phương hướng và bất lực một cách lạ
lùng, như thể con tàu này đã mất động cơ và đang trôi nổi vô định theo thủy
triều.
Cảm giác là một điều rất xa lạ với Thị trưởng.
Trong thế giới của ông ta, luôn tồn tại một thứ la bàn đáng tin cậy – quy trình
– và nó chưa bao giờ chỉ đường sai cả. Quy trình là thứ giúp ông ta đưa ra
những quyết định khó khăn mà không cần phải xem xét lại.
Cũng chính quy trình yêu cầu phải từ chối
Vayentha, và Thị trưởng thực hiện việc đó không chút do dự. Ta sẽ xử lý cô ả
ngay khi vụ khủng hoảng hiện tại chấm dứt.
Cũng chính quy trình đòi hỏi Thị trưởng biết về
các khách hàng của mình càng ít càng tốt. Cách đây rất lâu ông ta đã quyết định
rằng Consortium không có trách nhiệm đạo đức để phán xét họ.
Cung cấp dịch vụ.
Tin tưởng khách hàng.
Không đặt câu hỏi.
Giống như lãnh đạo của hầu hết các công ty khác,
Thị trưởng chỉ cung cấp dịch vụ với giả định rằng các dịch vụ ấy sẽ được thực
hiện trong khuôn khổ luật pháp. Nói cho cùng, hãng Volvo không có trách nhiệm
bảo đảm rằng những bà mẹ nôn nóng20 sẽ không phóng nhanh qua khu vực trường
học, cũng chẳng khác gì việc hãng Dell sẽ phải chịu trách nhiệm nếu có ai đó sử
dụng một máy tính của họ để tấn công tài khoản ngân hàng.
20Nguyên văn: “soccer mom”, chỉ những phụ nữ
trung lưu sống ở ngoại ô Bắc Mỹ, dành phần lớn thời gian chở con cái tới các sự
kiện thể thao hoặc hoạt động khác. Cụm từ này dần mang nghĩa tiêu cực vì những
phụ nữ này thường bị phê phán về việc ép con cái tham giá quá nhiều hoạt động
ngoại khóa thay vì để cho chúng được sống đúng tuổi thơ.
Còn lúc này, trước tất cả mọi chuyện đang diễn
ra, Thị trưởng thầm rủa cái đầu mối liên hệ đáng tin cậy đã giới thiệu vị khách
hàng này cho Consortium.
“Ông ấy sẽ không đòi hỏi nhiều về hậu mãi và chi
tiền rất hào phóng”, đầu mối liên hệ quả quyết với ông ta. “Ông ấy rất giỏi, là
một siêu sao trong lĩnh vực của mình, và vô cùng giàu có. Ông ấy chỉ cần biến
mất trong một hoặc hai năm thôi. Ông ấy muốn mua khoảng thời gian yên tĩnh để
thực hiện một dự án quan trọng.”
Thị trưởng đã đồng ý mà không cần suy nghĩ nhiều.
Bố trí chỗ lưu trú dài hạn luôn là dịch vụ dễ kiếm tiền, và Thị trưởng tin
tưởng vào khả năng của đầu mối liên hệ.
Đúng như mong đợi, công việc đem lại bộn tiền.
Cho tới tuần trước.
Giờ đây, trước tình trạng hỗn loạn mà người đàn
ông này gây ra, Thị trưởng thấy mình đi vòng quanh chai Scotch và đếm từng ngày
mong cho trách nhiệm của mình với vị khách này nhanh kết thúc.
Điện thoại trên bàn réo vang, Thị trưởng nhận ra
đó là Knowlton, một trong những điều phối viên hàng đầu của mình, đang gọi từ
tầng dưới.
“Ừ”, ông ta đáp.
“Thưa ngài”, Knowlton bắt đầu nói, giọng đầy lo
lắng. “Tôi không muốn làm phiền ngài chuyện này, nhưng có lẽ ngài đã biết,
chúng ta có nhiệm vụ đăng tải một đoạn video lên cho truyền thông vào ngày mai.”
“Phải”, Thị trưởng trả lời. “Đã chuẩn bị xong
chưa?”
“Đã xong, nhưng tôi nghĩ có lẽ ngài cầm xem trước
khi đưa lên.”
Thị trưởng sững lại, không hiểu lời đề nghị.
“Đoạn video có nhắc đến tên chúng ta hay làm ảnh hưởng thế nào đó đến chúng ta
không?”
“Không, thưa ngài, nhưng nội dung khá phiền phức.
Ông khách xuất hiện trên màn hình và nói…”
“Thôi đi”, Thị trưởng ra lệnh, sửng sốt vì một
điều phối viên cao cấp lại dám đề xuất việc phá vỡ quy trình ngang nhiên như
vậy. “Nội dung là thứ vô hình. Cho dù vấn đề gì thì đoạn video của ông ta cũng
phải được công bố, dù qua hay không qua chúng ta. Ông khách đó có thể dễ dàng
công bố đoạn video này bằng hình thức điện tử, nhưng ông ấy thuê chúng ta. Ông
ấy trả tiền chúng ta. Ông ấy tin tưởng chúng ta.”
“Vâng, thưa ngài!”
“Anh không được trả tiền để làm một nhà phê bình
phim”, Thị trưởng cảnh cáo. “Anh được trả tiền để giữ lời hứa. Hãy thực hiện
công việc của mình.”
Trên cầu Ponte Vecchio, Vayentha vẫn đợi, đôi mắt
sắc lẻm của ả quét qua hàng trăm gương mặt trên cầu. Ả rất cảnh giác và cảm
thấy chắc chắn rằng Langdon chưa đi qua mặt mình, nhưng chiếc máy bay không
người lái đã im tiếng, rõ ràng nhiệm vụ truy tìm của nó không còn cần thiết nữa.
Chắc Brũder đã tóm được anh ta.
Đầy miễn cưỡng, ả bắt đầu nghĩ tới viễn cảnh u ám
về một phiên điều trần ở Consortium. Hay còn tệ hơn nữa.
Vayentha lại nghĩ tới hai đặc vụ đã từng bị từ
chối… chẳng bao giờ còn nghe nói đến họ nữa. Chắc họ chỉ chuyển sang công việc
khác, ả tự trấn an mình. Thế nhưng lúc này, ả đang tự hỏi liệu ả có nên phóng
xe vào vùng đồi núi Tuscany,
biến mất và sử dụng những kỹ năng của mình để bắt đầu một cuộc sống mới hay
không.
Nhưng ta có thể trốn tránh họ được bao lâu?
Rất nhiều mục tiêu đã tận mắt chứng kiến khi
Consortium đã để bạn vào tầm ngắm thì chuyện giữ bí mật trở thành điều ảo
tưởng. Vấn đề chỉ là thời gian mà thôi.
Lẽ nào sự nghiệp của ta lại kết thúc như thế này?
Ả tự hỏi, vẫn không tài nào chấp nhận được rằng công việc suốt mười hai năm
ròng rã của ả ở Consortium lại chấm hết vì một loạt những sự cố không may. Suốt
cả năm trời ả đã thận trọng giám sát những nhu cầu của vị khách hàng mắt xanh.
Ông ấy nhảy lầu tự sát đâu phải lỗi của ta… và dường nhu ta đang rơi theo ông ấy.
Cơ hội chuộc tội duy nhất của ả là qua mặt được
Brũder… nhưng ngay từ đầu ả đã biết đây là một việc ít có khả năng thành công.
Đêm qua ta đã có cơ hội, nhưng ta lại thất bại.
Lúc miễn cưỡng quay lại chiếc xe máy của mình,
Vayentha đột nhiên nhận ra một âm thanh phía xa… tiếng rít chói lói quen thuộc.
Ngỡ ngàng, ả ngước nhìn lên. Trước vẻ ngạc nhiên
của ả, chiếc trực thăng giám sát không người lái vừa cất cánh trở lại, lần này
gần phía đầu kia của Cung điện Pitti. Vayentha nhìn theo trong lúc chiếc máy bay
nhỏ xíu bắt đầu bay thành vòng tròn phía trên cung điện.
Chiếc máy bay trở lại hoạt động chỉ có thể đồng
nghĩa với một việc.
Họ vẫn chưa tóm được Langdon!
Anh ta ở chỗ quái nào nhỉ?
Tiếng rít chói tai trên đầu lại kéo Tiến sĩ
Elizabeth Sinskey ra khỏi cơn mê. Chiếc máy bay lại bay lên à? Nhưng mình nghĩ…
Bà đổi tư thế trên băng ghế sau của chiếc xe
thùng, nơi anh chàng đặc vụ trẻ vẫn ngồi bên cạnh. Bà lại nhắm mắt, cố chống
lại cơn đau và buồn nôn. Nhưng chủ yếu là cố chống lại nỗi sợ hãi.
Thời gian đang cạn dần.
Mặc dù kẻ thù của bà đã nhảy lầu tự sát, bà vẫn
thấy bóng của hắn trong những giấc mơ, thuyết giảng cho bà trong bóng tối của
Hội đồng Quan hệ Đối ngoại.
Rất cần người có hành động táo bạo, hắn ta tuyên
bố, đôi mắt xanh lè lóe lên. Nếu không phải chúng ta, thì ai? Nếu không phải
lúc này, thì bao giờ?
Elizabeth sẽ ngăn chặn hắn ngay khi có cơ hội. Bà sẽ không
bao giờ quên lúc thoát vội khỏi cuộc gặp gỡ đó và lao vào ghế sau chiếc
limousine, rồi băng qua Manhattan về phía Sân bay quốc tế JFK. Sốt ruột muốn
biết ngay gã điên này là kẻ nào, bà rút điện thoại di động và nhìn kỹ tấm hình
vừa chụp được.
Khi nhìn tấm hình, bà thốt lên kinh ngạc. Tiến sĩ
Elizabeth Sinskey biết chính xác người đàn ông này lài ai. Tin mừng là rất dễ
lần theo dấu vết hắn. Nhưng rủi thay hắn lại là một thiên tài trong lĩnh vực
của mình – hắn lựa chọn trở thành một con người rất nguy hiểm.
Chẳng có gì sáng tạo… có sức phá hủy… hơn một bộ
óc xuất chúng với một mục tiêu.
Lúc đến sân bay ba mươi phút sau đó, bà gọi cho
đội của mình và đưa người đàn ông này vào danh sách theo dõi khủng bố sinh học
của tất cả cơ quan chức năng trên thế giới – CIA, CDC, ECDC, và tất cả tổ chức
tương tự trên toàn cầu.
Đó là những gì mình có thể làm cho tới khi trở
lại Geneva, bà
nghĩ.
Kiệt sức, bà mang hành lý tới quầy làm thủ tục và
trao cho cô nhân viên hộ chiếu cùng vé của mình.
“Ồ, Tiến sĩ Sinskey”, cô nhân viên mỉm cười nói.
“Một quý ông rất lịch thiệp vừa gửi một tin nhắn cho bà.”
“Sao cơ?”, Elizabeth
không hề biết ai đó lại nắm được thông tin chuyến bay của bà.
“Ông ấy rất cao?”, cô nhân viên nói. “Với đôi mắt
màu xanh lục?”
Elizabeth buông rơi hành lý. Ông ta ở đây ư? Bằng cách
nào?! Bà nhìn quanh, săm soi những gương mặt phía sau mình.
“Ông ấy đã đi rồi”, cô nhân
viên nói, “nhưng ông ấy muốn chúng tôi trao cho bà thứ này”. Cô ấy đưa cho
Elizabeth một tờ giấy gấp lại.
Elizabeth run run mở tờ giấy
và đọc lời nhắn viết bằng tay.
Đó là một câu trích nổi
tiếng rút ra từ tác phẩm của Dante Alighieri.
“Những nơi tăm tối nhất của
địa ngục
dành riêng cho những kẻ
giữ thái độ trung dung
trong những thời kỳ khủng
hoảng đạo đức.”
Marta Alvarez mỏi mệt ngước
nhìn cầu thang dốc đứng dẫn từ Sảnh Năm trăm lên bảo tàng trên tầng hai.
Mình có thể làm được mà, cô
ấy tự nhủ.
Là nhân viên quản lý văn hóa
và nghệ thuật tại Cung điện Vecchio, Marta đã leo lên cầu thang này không biết
bao nhiêu lần, nhưng gần đây, khi đã mang thai hơn tám tháng, việc leo lên cầu
thang này trở nên nhọc nhằn hơn rất nhiều.
“Marta, chị có chắc chúng ta
không cần đi cầu thang máy không?” Robert Langdon nhìn đầy vẻ quan tâm và ra
hiệu về phía buồng thang máy nhỏ gần đó, được bảo tàng lắp đặt dành cho những
vị khách tàn tật.
Marta mỉm cười biết ơn nhưng
lắc đầu. “Tôi đã nói với anh tối qua, bác sĩ của tôi nói việc tập luyện rất tốt
cho đứa bé. Thêm nữa, thưa giáo sư, tôi biết anh sợ bị nhốt trong không gian
chật hẹp.”
Langdon giật mình trước câu
nói của cô ấy. “Ồ, vâng. Tôi quên mất mình đã nói đến chuyện đó.”
Quên mất đã nói đến chuyện
đó ư? Marta bối rối. Mới chưa đầy mười hai giờ trước, và chúng ta đã thảo luận
rất lâu về sự cố thời niên thiếu để lại tâm lý sợ hãi đó cơ mà.
Đêm qua, trong khi người bạn
đồng hành phục phịch mắc lắm bệnh của Langdon, ngài Tiểu Mái vòm, lên gác bằng
thang máy thì Langdon hộ tống Marta đi bộ. Trên đường đi, Langdon đã kể lại cho
cô ấy câu chuyện khó quên về sự cố bị ngã xuống cái giếng hoang khi còn nhỏ và
việc này khiến anh mắc chứng sợ những không gian chật chội.
Lúc này, cô em gái của
Langdon vượt lên phía trước, túm tóc đuôi ngựa vàng óng của cô lúc lắc sau
lưng, trong khi đó, Langdon và Marta từ từ đi lên, dừng lại vài lần để cô ấy có
thể lấy lại nhịp thở. “Tôi ngạc nhiên là anh muốn nhìn lại cái mặt nạ”, cô ấy nói.
“Trong tất cả các tác phẩm ở Florence, thứ này có vẻ ít thú vị nhất.”
Langdon nhún vai vẻ lấp
lửng. “Tôi quay lại chủ yếu để Sienna được ngắm nó. Nhân tiện, cảm ơn chị vì đã
cho chúng tôi vào đây lần nữa.”
“Dĩ nhiên là thế rồi.”
Xét ra thì danh tiếng của
Langdon chắc chắn cũng đủ để tối qua thuyết phục Marta mở phòng trưng bày,
nhưng thực tế anh có ngài Tiểu Mái vòm đi cùng có nghĩa là cô ấy thật sự không
có lựa chọn nào khác.
Ignazio Busoni – người mang
biệt danh ngài Tiểu Mái vòm – là một nhân vật tiếng tăm trong giới văn hóa ở
Florence. Là giám đốc lâu năm của Museo dell’s Opera del Duomo, Ignazio giám
sát tất cả lĩnh vực của di tích nổi bật nhất Florence này – II Duomo – Vương
cung Thánh đường có mái vòm màu đỏ đồ sộ nổi bật cả trong lịch sử cũng như cảnh
quan của Florence. Niềm đam mê của ông ấy dành cho các danh thắng, kết hợp với
trọng lượng cơ thể ngót trăm cân và khuôn mặt đỏ như gà chọi khiến ông được gắn
cái biệt danh rất đôn hậu là ngài Tiểu Mái vòm – II Duomino.
Marta không biết Langdon
quen thân với ngài Tiểu Mái vòm như thế nào, nhưng ông ấy gọi cho cô chiều hôm
qua và nói muốn đưa một vị khách kín đáo tới xem chiếc mặt nạ người chết của
Dante. Khi biết vị khách bí mật hóa ra chính là người biểu tượng học kiêm sử
gia nghệ thuật người Mỹ nổi tiếng Robert Langdon, Marta cảm thấy hơi kích động
vì có cơ hội dẫn hai nhân vật nổi tiếng này vào khu trưng bày của cung điện.
Khi họ lên đến đỉnh cầu
thang, Marta đặt tay lên hông, thở thật sâu. Sienna đã đứng bên lan can ban công,
nhìn xuống Sảnh Năm trăm.
“Vị trí tôi rất thích để
quan sát căn phòng”, Marta thở hổn hển. “Cô có góc nhìn hoàn toàn khác đối với
các bức bích họa. Tôi nghĩ anh trai cô đã kể cho cô nghe về thông điệp bí ẩn
giấu trong bức tranh kia phải không?” Cô ấy chỉ tay.
Sienna sốt sắng gật đầu.
“Cerca trova.”
Trong khi Langdon nhìn về
phía gian phòng, Marta quan sát anh. Nhờ ánh sáng của những ô cửa sổ gác lửng,
cô ấy không thể không nhận ra Langdon trông không ấn tượng như tối qua. Cô
thích bộ cánh mới của anh, nhưng anh cần cạo râu. Gương mặt anh có vẻ xanh xao
và mệt mỏi. Thêm nữa, đầu tóc anh, tối qua vốn dày và tươm tất, sáng nay trông
rất tệ, như thể anh vẫn chưa tắm gội.
Marta quay lại phía bức bích
họa trước khi anh nhận ra ánh mắt cô. “Chúng ta đang đứng gần như cùng độ cao
với cerca trova “, Marta nói. “Cái vị có thể nhìn thấy mấy chữ đó bằng mắt
thường.”
Cô em gái của Langdon tỏ ra
dửng dưng với bức bích họa. “Kể cho tôi nghe về cái mặt nạ người chết của Dante
đi. Tại sao nó lại ở Cung điện Vecchio này?”
Anh nào, em nấy, Marta nghĩ
và lầm bầm trong bụng, vẫn không hiểu tại sao cái mặt nạ lại khiến họ say sưa
đến vậy. Cái mặt nạ người chết của Dante có một lịch sử rất lạ lùng, đặc biệt
là gần đây, và Langdon không phải là người đầu tiên hứng thú gần như phát rồ
với nó. “Chà, nói tôi xem cô biết gì về Dante?”
Cô gái trẻ tóc vàng xinh đẹp
nhún vai. “Thì cũng chỉ những điều mọi người học ở trong trường thôi. Dante là
thi sĩ người Ý nổi tiếng nhất với tác phẩm Thần khúc, mô tả chuyến đi tưởng
tượng của ông qua địa ngục.”
“Mới đúng một phần”, Marta
đáp. “Trong trường ca, rốt cuộc Dante cũng thoát khỏi địa ngục, đi qua luyện
ngục và cuối cùng đến được thiên đường. Nếu cô đã từng đọc Thần khúc, cô sẽ
thấy hành trình của ông được chia thành ba phần – Hỏa Ngục, Luyện ngục và Thiên
đường.” Marta ra hiệu cho họ theo cô đi dọc ban công về phía lối vào bảo tàng.
“Thế nhưng, lý do chiếc mặt nạ nằm tại Cung điện Vecchio chẳng liên quan gì đến
Thần khúc cả. Nó gắn với thực tiễn lịch sử. Dante sống ở Florence, và ông rất
yêu thành phố này. Ông là một công dân Florence xuất chúng và quyền thế, nhưng
khi diễn ra thay đổi về quyền lực chính trị, Dante đã ủng hộ nhầm phe, cho nên
ông bị trục xuất ra khỏi tường thành và cấm không bao giờ được trở về.”
Marta dừng lại để thở khi họ
đến gần lối vào bảo tàng. Cô lại đặt tay lên hông, ngả ra sau và tiếp tục nói.
“Một số người cho rằng việc bị trục xuất là lý do vì sao mặt nạ người chết của
Dante lại buồn như vậy, nhưng tôi có một giả thuyết khác. Tôi hơi lãng mạn, và
tôi nghĩ rằng gương mặt buồn rầu liên quan đến một phụ nữ có tên Beatrice nhiều
hơn. Các vị thấy đấy, Dante dành cả đời mình yêu điên cuồng một thiếu phụ tên
là Beatrice Portinari. Nhưng buồn thay, Beatrice lại cưới một người đàn ông
khác, nghĩa là Dante không những phải sống trong cảnh xa thành Florence yêu dấu
của mình, mà còn phải rời xa cả người phụ nữ ông yêu say đắm. Tình yêu của ông
dành cho Beatrice trở thành chủ đề chính trong Thần khúc.”
“Hay quá”, Sienna nói với
giọng điệu cho thấy cô chẳng nhập tâm lấy một từ. “Nhưng tôi vẫn chưa rõ tại
sao cái mặt nạ người chết lại được cất ở cung điện này?”
Marta nhận thấy việc nhấn đi
nhấn lại này của cô gái trẻ vừa lạ thường vừa gần như bất lịch sự. “Chà”, cô
tiếp tục trong khi bước đi, “khi Dante mất, ông vẫn bị cấm không được về
Florence, và xác ông được an táng tại Ravenna. Nhưng vì người yêu đích thực của
ông, Beatrice, được chôn cất ở Florence và vì Dante yêu Florence đến vậy nên
việc mang mặt nạ người chết của ông đến đây giống như là một lễ vật từ tâm dành
cho ông”.
“Tôi hiểu rồi”, Sienna nói.
“Thế còn việc chọn tòa cung điện này?”
“Cung điện Vecchio là biểu
tượng lâu đời nhất của Florence, và ở thời Dante, đây là trung tâm của thành
phố. Thực tế, có một bức vẽ nổi tiếng trong thánh đường mô tả Dante đứng bên
ngoài tường thành phố, bị trục xuất, trong khi nhìn rõ ở hậu cảnh là tòa tháp
cung điện yêu dấu của ông. Xét theo nhiều khía cạnh, bằng cách cất mặt nạ người
chết của ông ấy ở đây, chúng ta cảm thấy như cuối cùng Dante cũng được trở về
nhà.”
“Hay quá”, Sienna nói, cuối
cùng cũng có vẻ thỏa lòng. “Cảm ơn chị!”
Marta đến cửa bảo tàng và gõ
ba lần. “Tôi, Marta đây! Chúc một buổi sáng tốt lành!”
Có tiếng chìa khóa lạch cạch
phía trong và cánh cửa mở ra. Một nhân viên bảo vệ già mỉm cười mỏi mệt với cô
ấy và kiểm tra đồng hồ đeo tay của mình. “Hơi sớm đấy”, ông ấy mỉm cười nói.
Marta vừa giải thích vừa ra
hiệu về phía Langdon, và ông bảo vệ lập tức tươi cười nét mặt. “Chào ngài! Chào
mừng trở lại đây!”
“Chào bác!”, Langdon đáp lại
rất thân thiện trong khi ông bảo vệ ra hiệu cho tất cả vào trong.
Họ băng qua một gian phòng
nhỏ, nơi ông bảo vệ ngắt hệ thống an ninh rồi mở cánh cửa thứ hai nặng nề hơn.
Khi cửa mở ra, ông ấy bước sang bên, dang tay ra mời chào. “Xin mời vào bảo
tàng!”
Marta mỉm cười cảm ơn và dẫn
các vị khách vào trong.
Không gian dùng làm bảo tàng
này ban đầu được thiết kế làm nơi làm việc của chính quyền, tức là thay vì là
một không gian trưng bày ngổn ngang, nó là một mê cung gồm các gian phòng có
diện tích vừa phải cùng rất nhiều hành lang, tất cả choán lấy nửa tòa nhà.
“Mặt nạ người chết của Dante
ở góc kia thôi”, Marta nói với Sienna. “Nó được trưng bày trong một không gian
hẹp gọi là hành lang, đúng ra chỉ là một lối đi giữa hai gian phòng lớn hơn.
Cái mặt nạ được cất trong một tủ đồ cổ đặt chìm trong bức tường bên nên không
dễ nhận ra cho tới khi các vị tới gần nó. Vì lý do này, có nhiều khách tham
quan đi qua cái mặt nạ mà không hề chú ý đến nó!”
Langdon sải bước nhanh hơn,
mắt nhìn thẳng về phía trước, cứ như thể cái mặt nạ có một sức mạnh lạ lùng gì
đó tác động đến anh. Marta huých Sienna và thì thào, “Rõ ràng anh trai cô không
hề quan tâm đến bất kỳ vật nào khác của chúng tôi, nhưng chừng nào cô đã đến
đây thì đừng bỏ qua bức tượng bán thân Machiavelli hay quả cầu Mappa Mundi
trong Phòng Bản đồ”.
Sienna gật đầu lịch thiệp và
vẫn bước đi, mắt cô cũng nhìn thẳng về phía trước, Marta khó khăn lắm mới theo kịp.
Khi họ đến gian phòng thứ ba, cô ấy đã tụt lại sau một chút và cuối cùng đành
dừng lại.
“Giáo sư?”, cô ấy gọi to,
thở hổn hển. “Anh… có muốn cho em gái anh xem… thứ gì đó của phòng trưng bày…
trước khi chúng ta xem cái mặt nạ này không?”
Langdon quay lại, có vẻ bối
rối, như thể vừa trở lại hiện tại từ một ý nghĩ xa xăm nào đó. “Xin lỗi chị nói
gì cơ?”
Marta thở không ra hơi, chỉ
vào một tủ trưng bày gần đó. “Một trong những… bản in lâu đời nhất cuốn Thần
khúc?”
Khi nhìn thấy Marta thấm mồ
hôi trên trán và cố gắng lấy lại nhịp thở, Langdon có vẻ xấu hổ. “Chị Marta,
thứ lỗi cho tôi! Dĩ nhiên rồi, vâng, xem nhanh văn bản đó cũng rất thú vị.”
Langdon vội vã quay lại, để
Marta hướng dẫn họ tới chỗ chiếc tủ cổ. Bên trong là một cuốn sách bọc da đã
sờn, mở đến trang nhan đề rất hoa mỹ: La Divina Commedia: Dante Alighieri.
“Tuyệt vời”, Langdon thốt
lên, đầy kinh ngạc. “Tôi nhận ra trang đầu sách. Tôi không biết các vị lại có
một ấn bản Numeister gốc.”
Dĩ nhiên anh biết rõ mà,
Marta nghĩ bụng, vẻ khó hiểu. Tôi đã cho anh xem hiện vật này tối hôm qua!
“Giữa thế kỷ XV”, Langdon
nói vội với Sienna, “Johann Numeister đã tạo ra bản sách in đầu tiên của tác
phẩm này. Vài trăm bản được in ra, nhưng chỉ còn khoảng chục bản. Chúng rất
hiếm”.
Giờ thì Marta hiểu rằng
Langdon đang cố tình giả ngây giả ngốc để có thể ra vẻ ta đây với cô em gái của
mình. Việc đó dường như không hay ho cho lắm với một vị giáo sư có tiếng là
khiêm tốn trong giới học thuật.
“Bản sách này mượn từ Thư
viện Laurentia”, Marta kể. “Nếu cô và Robert chưa từng ghé thăm nơi đó thì rất
nên đến ngay đi. Họ có hẳn một cầu thang đặc biệt do chính Michelangelo thiết
kế, là lối lên phòng đọc công cộng đầu tiên trên thế giới. Sách ở đó còn được
xích luôn vào ghế ngồi để không ai có thể lấy mang đi được. Dĩ nhiên, nhiều cuốn
sách chỉ là các bản sao thôi.”
“Tuyệt vời”, Sienna nói, mắt
ngó sâu hơn vào thư viện. “Lối này tới chỗ cái mặt nạ phải không?”
Sao phải nôn nóng thế nhỉ?
Marta cần thêm một phút nữa để lấy lại nhịp thở. “Vâng, nhưng có thể hai vị
muốn nghe chi tiết này.” Cô ấy chỉ tay qua hốc tường về phía một cầu thang nhỏ
mất hút lên trần nhà. “Lối đó dẫn lên một sàn quan sát trên mái, nơi các vị có
thể nhìn xuống trần treo nổi tiếng của Vasari. Tôi rất sẵn sàng đợi ở đây nếu
các vị muốn…”
“Nào, chị Marta”, Sienna vọt
miệng. “ Tôi rất muốn xem cái mặt nạ. Chúng tôi không có nhiều thời gian.”
Marta đăm đăm nhìn người phụ
nữ trẻ xinh xắn, vẻ khó hiểu. Cô rất không thích việc người chưa quen biết
nhiều gọi nhau bằng tên riêng. Tôi là Bà Alvarez, cô thầm mắng. Và tôi đang đặc
cách với các vị đấy.
“Được rồi, Sienna”, Marta
sẵng giọng. “Cái mặt nạ ngay lối này thôi.”
Marta chẳng phí thời gian kể
lể thêm cho Langdon và cô em gái của anh trong lúc họ đi qua dãy các phòng
trưng bày để tới chỗ cái mặt nạ. Đêm qua, Langdon và Tiểu Mái vòm đã dành gần
nửa tiếng trong khu vực hành lang chật hẹp để quan sát chiếc mặt nạ rồi, Marta,
vốn rất tò mò trước vẻ sốt sắng của hai người đàn ông với món đồ đó, nên đã hỏi
xem thái độ quan tâm ấy của họ có liên quan gì đến một loạt sự kiện bất thường
xung quanh cái mặt nạ trong năm qua không. Langdon và Tiểu Mái vòm tỏ ra bối
rối và không trả lời rõ ràng.
Giờ đây, trong lúc họ tiến
tới hành lang, Langdon bắt đầu giải thích cho cô em gái quy trình đơn giản
thường áp dụng để tạo ra một cái mặt nạ người chết. Marta thích thú nghe những
mô tả cực kỳ chính xác của anh, không như lời thừa nhận không thật của anh rằng
anh chưa từng nhìn thấy bản sao hiếm có cuốn Thần khúc của bảo tàng.
“Ngay sau khi có người qua
đời”, Langdon mô tả, “người chết được tẩm liệm, mặt được phủ một lớp dầu ô liu.
Sau đó, da được đắp một lớp thạch cao ướt, phủ kín mọi thứ - miệng, mũi, mi mắt
– từ chân tóc xuống đến cổ. Khi lớp thạch cao đã cứng lại, có thể dễ dàng nhấc
nó ra và sử dụng như một cái khuôn để đổ thạch cao mới vào. Chỗ thạch cao này
khô lại thành một bản sao chi tiết hoàn hảo đúng với khuôn mặt người quá cố.
Tục này đặc biệt phổ biến khi muốn tưởng nhớ những nhân vật lỗi lạc và thiên
tài – Dante, Shakespeare, Voltaire, Tasso, Keats – tất cả họ đều có mặt nạ người
chết”.
“Cuối cùng chúng ta cũng đến
đây”. Marta nói khi cả ba người đến bên ngoài hành lang. Cô ấy bước sang bên và
ra hiệu cho em gái của Langdon vào trước nhất. “Cái mặt nạ nằm trong tủ trưng
bày dựa vào bức tường bên trái cô. Chúng ta đề nghị các vị vui lòng ở ngoài khu
vực rào chắn.”
“Cảm ơn chị!” Sienna bước
vào hành lang hẹp đi về phía tủ trưng bày, và ngó vào bên trong. Mắt cô lập tức
mở to, và cô ngó lại nhìn anh trai với vẻ khiếp đảm.
Marta đã nhìn thấy phản ứng
này cả nghìn lần. Các vị khách tới đây thường đều nhảy dựng lên và lùi ngược
lại khi lần đầu tiên nhìn thấy cái mặt nạ - bộ mặt nhăn nhúm một cách kỳ dị,
cái mũi khoằm và đôi mắt nhắm nghiền của Dante.
Langdon sải bước tiến vào
ngay sau Sienna, đến bên cạnh cô và nhìn vào trong tủ trưng bày. Anh lập tức
lùi lại, gương mặt anh cũng toát lên vẻ kinh ngạc.
Marta càu nhàu. Lại làm màu
làm mè rồi. Cô vào theo họ. Nhưng khi ngó vào tủ, cô cũng há hốc miệng kêu
thành tiếng rất to. Ôi lạy Chúa!
Marta Alvarez cứ ngỡ sẽ nhìn
thấy cái mặt nạ người chết quen thuộc của Dante nhìn lại mình, nhưng không
phải, tất cả những gì cô nhìn thấy là lớp vải sa tanh màu đỏ của cái tủ và cái
giá nơi vẫn thường đặt mặt nạ.
Marta bưng miệng và kinh hãi
nhìn tủ trưng bày trống rỗng. Nhịp thở của cô tăng nhanh và cô phải bám lấy một
trụ rào để đứng vững. Cuối cùng, ánh mắt cô rời khỏi cái tủ trống trơn và xoay
về phía những người bảo vệ gác đêm ở lối vào chính.
“Cái mặt nạ của Dante!”, cô
hét lên như một ả điên. “Cái mặt nạ của Dante đã biến mất!”
Marta Alvarez run rẩy trước
cái tủ trưng bày trống trơn. Cô hy vọng cảm giác căng thẳng đang lan khắp bụng
chỉ là tâm lý hoảng sợ chứ không phải là cơn đau đẻ.
Cái mặt nạ người chết của
Dante đã biến mất!
Hai nhân viên bảo vệ lúc này
đã biết sự việc và vừa vào hành lang, nhìn cái tủ trống trơn, và lập tức hành
động. Một người chạy tới phòng kiểm soát video gần đó để truy cập vào đoạn phim
từ máy quay an ninh đêm qua, trong khi người kia vừa kết thúc cuộc gọi cho cảnh
sát báo mất trộm.
“Cảnh sát sẽ đến sau hai
mươi phút nữa!”, anh ta nói với Marta và ngắt cuộc gọi với cảnh sát.
“Hai mươi phút nữa cơ à?”,
cô ấy hỏi lại. “Chúng ta có một vụ trộm nghệ thuật nghiêm trọng đấy.”
Người bảo vệ giải thích rằng
anh ta được biết hầu hết cảnh sát trong thành phố hiện đang giải quyết một cuộc
khủng hoảng nghiêm trọng hơn nhiều, và họ đang cố gắng tìm một nhân viên còn
rảnh đến để lấy lời khai.
“Vẫn còn gì nghiêm trọng hơn
cơ à?”, cô ấy thắc mắc.
Langdon và Sienna liếc nhìn
nhau lo lắng, và Marta cảm thấy hai vị khách của mình đang bị quá tải về cảm
xúc. Chẳng có gì lạ cả! Đơn giản là họ muốn ghé qua để chiêm ngưỡng chiếc mặt
nạ nhưng lúc này, họ phải chứng kiến hậu quả của một vụ trộm cắp nghệ thuật ghê
gớm. Đêm qua, bằng cách nào đó, có kẻ đã tiếp cận được phòng trưng bày và đánh
cắp cái mặt nạ người chết của Dante.
Marta biết trong bảo tàng có
nhiều đồ vật còn giá trị hơn thế, cho nên cô cố gắng tự trấn an rằng như vậy
vẫn còn may mắn. Thế nhưng, đây là vụ trộm cắp đầu tiên trong lịch sử bảo tàng
này. Mình thậm chí không biết quy trình xử lý!
Marta đột nhiên cảm thấy yếu
đuối hẳn, và cô phải tiến lại bám vào một cột rào chống.
Cả hai nhân viên bảo vệ
phòng trưng bày đều có vẻ hoang mang khi họ kể lại cho Marta nghe chính xác
những hành động của họ cùng các sự việc đêm qua: Lúc 10 giờ, Marta vào đây cùng
với Tiểu Mái vòm và Langdon. Một lúc không lâu sau đó, cả ba người cùng nhau đi
ra. Nhân viên bảo vệ đã khóa mọi cánh cửa lại, cài đặt chế độ báo động, và theo
như họ biết, không hề có ai ở trong hay bên ngoài phòng trưng bày kể từ lúc đó.
“Không thể nào!”, Marta gắt
lên bằng tiếng Ý. “Cái mặt nạ nằm ở trong tủ khi cả ba chúng tôi rời khỏi đó
tối qua, cho nên rõ ràng có ai đã ở bên trong phòng trưng bày kể từ lúc ấy!”
Mấy nhân viên bảo vệ đều ngơ
ngác. “Chúng tôi không hề nhìn thấy gì cả!”
Giờ này, cảnh sát đang trên
đường tới hiện trường, Marta cố gắng vác cái bụng bầu của mình di chuyển thật
nhanh tới phòng điều khiển an ninh. Langdon và Sienna lo lắng bám sát sau cô ấy.
Đoạn video an ninh, Marta nghĩ bụng. Nó sẽ cho
chúng ta biết đích xác kẻ nào ở đây tối qua!
Cách đó ba dãy nhà, trên cầu Ponte Vecchio,
Vayentha lần vào chỗ khuất khi hai sĩ quan cảnh sát lách qua đám đông, rà soát
toàn bộ khu vực cùng ảnh của Langdon.
Khi họ tới gần Vayentha, bộ đàm của một người lạo
xạo lên tiếng – một thông báo định kỳ cho tất cả các chốt. Nội dung thông báo
ngắn gọn bằng tiếng Ý, nhưng Vayentha vẫn nắm được ý chính: Bất kỳ sĩ quan nào
rảnh trong khu vực Cung điện Vecchio đều phải thông báo để tới lấy lời khai tại
cung điện bảo tàng này.
Mấy viên cảnh sát tỏ ra do dự, còn tai Vayentha
thì vểnh lên.
Bảo tàng cung điện Vecchio ư?
Vụ thất bại tối qua – sự cố đã hủy hoại sự nghiệp
của ả - diễn ra trong những ngõ phố ngay bên ngoài Cung điện Vecchio.
Thông báo của phía cảnh sát vẫn tiếp tục bằng
tiếng Ý đầy âm thanh nhiễu đến mức không hiểu nổi, ngoại trừ hai từ nghe rất rõ
ràng. Cái tên Dante Alighieri.
Cơ thể ả lập tức căng cứng. Dante Alighieri ư?!
Chắc chắn đây không phải là sự trùng hợp. Ả xoay người về phía Cung điện
Vecchio và định vị tòa tháp có lỗ châu mai vượt lên trên mái của các tòa nhà
gần đó.
Chính xác thì đã có chuyện gì xảy ra ở bảo tàng?
Ả thắc mắc. Và từ khi nào?!
Gạt các tình tiết sang bên, Vayentha từng làm
chuyên gia phân tích hiện trường đủ lâu để biết rằng khả năng trùng hợp hiếm
xảy ra hơn rất nhiều so với hầu hết mọi người hình dung. Bảo tàng Cung điện
Vecchio… VÀ Dante? Chắc chắn chuyện này phải có liên quan tới Langdon.
Vayentha từ lâu đã nghi ngờ rằng Langdon sẽ quay
lại thành cổ. Chỉ có việc đó mới hợp lý – thành cổ là nơi Langdon có mặt tối
hôm qua khi mọi thứ thất bại.
Lúc này, dưới ánh sáng ban ngày, Vayentha tự hỏi
Langdon làm cách nào quay lại được khu vực xung quanh Cung điện Vecchio để cố
tìm kiếm thứ gì đó. Có rất nhiều cây cầu, nhưng có vẻ chúng đều cách xa vườn
Boboli.
Bên dưới, ả chú ý tới một nhóm chèo thuyền bốn
người đang lướt trên mặt nước và đi qua phía dưới cầu. Trên thân thuyền có dòng
chữ CÂU LẠC BỘ CHÈO THUYỀN FLORENCE / SOCIETA CANOTTIERI FIRENZE. Những mái
chèo trắng-đỏ nổi bật của con thuyền vung lên rồi hạ xuống đều tăm tắp.
Lẽ nào Langdon đã đi thuyền qua sông? Có vẻ điều
đó không đúng, nhưng có gì đó mách bảo ả rằng nội dung thông báo của cảnh sát
về Cung điện Vecchio là một manh mối ả cần chú ý.
“Xin vui lòng để lại tất cả máy ảnh!” một phụ nữ
nói bằng thứ tiếng Anh giọng Ý.
Vayentha quay lại, thấy một quả cầu tua rua bằng
len màu cam có xếp nếp đang vẫy trên cây gậy trong khi một nữ hướng dẫn viên du
lịch cố gắng dẫn nhóm du khách của mình vượt qua cầu Ponte Vecchio.
“Trên đầu quý vị là kiệt tác lớn nhất của Vasari!”,
cô hướng dẫn viên nói bằng vẻ nhiệt thành được rèn luyện kỹ, giơ quả cầu len
lên không và hướng ánh mắt của tất cả mọi người lên trên.
Vayentha không hề chú ý về hướng này trước đó,
nhưng có vẻ đó là một cấu trúc nhà ở tầng hai chạy phía trên các cửa hàng giống
như một tòa chung cư hẹp vậy.
“Hành lang Vasari”, cô hướng dẫn viên nói. “Nó
dài gần một cây số và là lối đi an toàn cho gia tộc Medici di chuyển giữa Cung
điện Pitti và Cung điện Vecchio.”
Mắt Vayentha mở to lúc ả nhìn công trình kiến
trúc như đường hầm phía trên đầu. Ả đã nghe nói về hành lang này, nhưng không
biết nhiều về nó.
Nó dẫn thẳng tới cung điện Vecchio ư?
“Với một số rất ít ỏi những nhân vật quan trọng”,
cô hướng dẫn viên tiếp tục, “thậm chí ngày nay họ vẫn có thể tiếp cận hành lang
này. Đó là một bảo tàng nghệ thuật kỳ vĩ chạy dài suốt lộ trình từ Cung điện
Vecchio tới góc đông bắc vườn Boboli”.
Những gì cô hướng dẫn viên nói tiếp sau đó,
Vayentha không còn nghe nữa.
Ả đã lao bổ về phía chiếc mô tô của mình.
Xem tiếp:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét