XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Năm, 8 tháng 5, 2014

HỎA NGỤC-DAN BROWN (chương 71 đến chương 104)-end


doc truyen hoa ngu full
Luồn lách quan những đám đông người ở Riva degli Schiavonia, Langdon, Sienna và Ferris đi sát theo mép nước, tìm đường tiến vào Quảng trường St. Mark và đến rìa phía nam, nơi quảng trường tiếp giáp biển.
Ở đây, du khách đông nghịt, tạo thành một đám đông chen chúc vây quanh Langdon khi họ cùng đổ dồn tới quảng trường để chụp hai cây cột đồ sộ, sừng sững tại đó.
Cổng chào chính thức đi vào thành phố, Langdon nghĩ thầm, biết rằng địa điểm này từng được dùng cho các vụ hành quyết công khai cho tới cuối thế kỉ XVIII.
Trên đỉnh một trong hai trụ biểu của cổng chào là biểu tượng xuất hiện khắp mọi noi của Venice – con sư tử có cánh. Trong khắp thành phố, có thể nhìn thấy con sư tử có cánh kiêu hãnh đặt móng vuốt lên một cuốn sách mở có dòng chữ Latin Pax tibi Marce, evangelista meus (Mong người bình yên, Mark, nhà truyền giáo của ta). Theo truyền thuyết, những lời này là của một thiên thần ban cho Thánh Mark khi ngài đến Venice, cùng với lời tiên đoán rằng thân xác ngài sẽ có ngày nằm lại đây. Câu chuyện không xác thực này sau này được người dân Venice biện minh cho việc đoạt hài cốt Thánh Mark từ Alexandria để an táng tại Thánh đường St. Mark. Tới hôm nay, con sư tử có cánh vẫn được xem như biểu tượng của thành phố và gần như có thể nhìn thấy ở mọi chỗ.
Langdon ra hiệu về phía bên phải mình, vượt qua những trụ biểu, bên kia Quảng trường St. Mark. “Nếu chúng ta bị tách ra, hãy gặp nhau ở cửa trước của thánh đường.”
Hai người kia đồng ý và nhanh chóng men theo mé ngoài của đám đông, lần dọc bức tường phía tây của Dinh Tổng trấn để tiến vào quảng trường. Mặc dù có luật cấm việc tự ý cho động vật ăn nhưng những đàn bồ câu được yêu quý của Venice có vẻ vẫn sống khỏe, một số con còn kiếm mồi dưới chân đám đông trong khi những con khác sà xuống các quán cà phê ngoài trời, cướp những gói bánh mì không có ai trông giữ và quấy nhiễu những người hầu bàn mặc lễ phục.
Khu quảng trường rộng lớn này, khác với hầu hết quảng trường ở châu Âu, có hình dáng không phải của một quảng trường mà lại là chữ L. Phần chân ngắn hơn – vẫn được gọi là piazzetta – nối đại dương với Thánh đường St. Mark. Phía trước mặt, quảng trường ngoặt sang trái một góc chín mươi độ để ăn vào phần chân dài hơn, chạy suốt từ thánh đường đến Bảo tàng Correr. Rất lạ là, thay vì chạy thẳng, quảng trường này lại là một hình thang không đều, thu hẹp khá nhiều ở một đầu. Cái ảo giác kiểu ngôi nhà hoạt náo này làm cho quảng trường trông dài hơn nhiều so với thực tế, một hiệu ứng càng tăng lên thấy rõ nhờ mảng gạch lát được bố trí bao lấy những gian hàng so khai của các thương gia đường phố ở thế kỉ XV.
Khi tiến đến những khúc ngoặt của quảng trường, Langdon có thể nhìn rõ, thẳng trước mặt cách đó một quãng, mặt kính màu lam lấp loáng của Tháp đồng hồ St. Mark – cũng chính là cái đồng hồ thiên văn nơi điệp viên James Bond ném một tên tội phạm xuống dưới trong phim người đi tìm trăng.
Không phải tới thời điểm này, khi đã tiến vào khu quảng trường kín đáo, Langdon mới đánh giá được đầy đủ món quà độc đóa nhất của thành phố này.
Âm thanh.
Hầu như không có xe hơi hay loại xe gắn động cơ nào, Venice vắng hẳn những dòng xe cộ, tàu điện ngầm, và còi xe, nhường không gian âm thanh cho món “lẩu” tiếng động rất đặc trưng và không hề có tí máy móc nào: Tiếng con người, tiếng bồ câu gù, và tiếng vĩ cầm du dương vang lên ở những quán cà phê ngoài trời. Âm thanh của Venice không giống bất kỳ đại đô thị nào trên thế giới.
Khi trời ngả chiều, mặt trời từ phía tây chiếu xuống St. Mark tọ ra những bóng đổ dài trên quảng trường lát gạch, Landon ngước nhìn tòa tháp chuông cao vút vươn cao phía trên quảng trường và sừng sững in trên bầu trời Venice cổ kính. Phần hành lang phía trên của tháp chen chúc hàng trăm con người. Chỉ nghĩ đến việc leo lên đó đã khiến anh rùng mình, cho nên anh cúi đầu xuống và tiếp tục len qua biển người.
Sienna có thể bám sát Langdon dễ dàng, nhưng Ferris tụt lại phái sau, và Sienna quyết định tách hẳn ra để có thể trông trừng cả hai người. Tuy nhiên, lúc này khi khoảng cách giữa họ thêm cách biệt, cô nôn nóng nhìn lại. Ferris chỉ tay vào ngực mình, tỏ ý ông ta mệt đứt hơi rồi, và ra hiệu cho cô cứ đi tiếp.
Sienna làm theo, nhanh chóng bám sau Langdon và khôngđể mắt đến Ferris nữa, Nhưng khi len lỏi qua đám đông, cô có cảm giác mình đang bị ai đó bám riết. Trong cô dấy lên một nỗi nghi ngờ rất lạ rằng Ferris đang cố tình tụt lại sau, như thể ông ta đang tìm cách tạo ra khoảng cách giữa họ.
Từ lâu đã học được cách tin vào bản năng của mình, Sienna lần vào một hốc tường và từ trong bóng râm nhìn ra, đưa mắt quét qua đám đông phía sau mình và tìm kiếm Ferris.
Ông ta biến đâu rồi?!
Cứ như thế ông ta thậm chí không còn tìm cách bám theo họ. Sienna nhìn kỹ từng gương mặt trong đám đông, và cuối cùng nhìn thấy ông ta. Trước vẻ ngạc nhiên của cô, Ferris dừng lại và cúi thấp, bấm lia lịa trên điện thoại của mình.
Vẫn là cái điện thoại ông t bảo đã hết pin.
Một cảm giác sợ hãi rất bản năng của cô, và một lần nữa cô biết cô cần phải tin vào nó.
Ông ta đã nói dối mình lúc ở trên tàu.
Khi quan sát Ferris, Sienna cố gắng đoán xem ông ta đang làm gì. Bí mật gửi tin nhắn cho ai đó chăng? Tìm hiểu sau lưng cô chăng? Cố gắng giải quyết bí ẩn trong bài thơ của Zobrist trước khi Langdon và Sienna có thể làm được chăng?
Cho dù lý do là gì thì ông ta cũng đã ngang nhiên lừa dối cô.
Mình không thể tin hắn.
Sienna tự hỏi liệu cô có nên trách móc và đối đầu với ông ta không, nhưng cô nhanh chóng quyết định lẩn vào đám đông trước khi ông ta phát giác ra mình. Cô lại nhắm về phía thánh đường, tìm kiếm Langdon. Mình phải cảnh báo anh ấy đừng tiết lộ thêm gì cho Ferris.
Cô chỉ còn cách thánh đường năm mươi thước thì cảm thấy có người túm chặt lấy áo mình từ phía sau.
Cô xoay lại và thấy mình mặt đối mặt với Ferris.
Người đàn ông bị dị ứng đang thở hổn hển, rõ ràng đã phải len lách qua đám đông để bắt kịp cô. Ông ta có vẻ điên cuồng gì đó mà Sienna không nhận ra trước đó.
“Xin lỗi”, ông ta nói, gần như không thở nổi. “Tôi bị lach trong đám đông.”
Khoảnh khắc nhìn vào mắt ông ta, Sienna thấy rất rõ.
Ông ta đang che giấu điều gì đó.
Khi đến được phía trước Thánh đường St. Mark, Langdon ngạc nhiên phát hiện ra rằng hai người bạn đồng hành đều không còn ở phía sau anh. Langdon cũng ngạc nhiên là hoàn toàn không có du khách nào đang đợi vào thăm nhà thờ. Nhưng rồi anh nhận ra giờ đã là chiều muộn ở Venice, thời điểm hầu hết du khách du lịch – do năng lượng giảm sút sau bữa trưa no nê gồm mì sốt và rượu vang – đều quyết định đi dạo trên quảng trường hoặc nhâm nhi chút cà phê thay vì cố thu nạp thêm những chi tiết lịch sử.
Nghĩ rằng Sienna và Ferris sẽ đến bất kì lúc nào, Langdon đưa mắt nhìn lối vào thánh đường trước mặt mình. Đôi khi bị cho là “có quá nhiều không gian ra vào”, phần mặt tiền dưới thấp của tòa nhà gần như bị choán hết diện tích bởi một đội hình năm lối ra vào gồm những nhóm cột trụ, những cổng tò vò uốn cong, và những cánh cửa đồng toang hoác khiến cho công trình, nếu không còn gì khác, luôn rộng mở chào đón.
Là một trong những bản mẫu đẹp nhất của kiến trúc Byzantine ở châu Âu, nhà thờ St. Mark có bề ngoài kỳ lạ và mềm mại, rất nổi bật. Trái ngươc với những tòa tháp xám xịt chân phương của nhà thờ Notre-Dame hay Chartres, nhà thờ St. Mark dường như hùng vĩ nhưng lại gần gũi hơn nhiều. Nhà thờ không vươn cao mà trải rộng ra, có đỉnh là năm mái vòm quét sơn trắng, toát ra vẻ thoáng đãng, gần như náo nhiệt. Không ít cuốn sách hướng dẫn du lịch đã phải so sánh St. Mark với một chiếc bánh cưới phủ kem trứng.
Trên đỉnh của mái vòm trung tâm là bước tượng Thánh Mark nhìn xuống dưới quảng trường mang tên mình. Hai chân ngài đặt trên đỉnh một vòm cung sơm màu lam thẫm và có điểm những ngôi sao bằng vàng. Trên phông nền sặc sỡ này, con sư tử có cánh thếp vàng của Venice đứng sừng sững như linh vật lấp lánh của thành phố.
Tuy nhiên, ngay phía dưới con sư tử vàng, Thánh đường St. Mark lại khoe ra một trong những báu vật nổi tiếng nhất của mình – bốn chú ngựa đực bằng đồng to lớn – lúc này đang phản chiếu ánh nắng về chiều.
Đàn ngựa nhà thờ St. Mark.
Trong tư thế như sẵn sàng nhảy xuống quảng trường bất lỳ lúc nào, bốn con ngựa vô giá này – giống như rất nhiều bảo vật tại Venice – đươc cướp về từ Constantinople trong các cuộc Thập tự chinh. Một tác phẩm nghệ thuât bị tước đoạt khác cũng được trưng ra bên dưới những chú ngựa ở góc tây nam của nhà thời – bức điêu khắc bằng tràng thạch sắc tía vẫn được gọi là Tứ đê44. Bước tượng nổi tiếng vì bị gãy mất một chân lúc đoạt đươc từ Constantinople vào thế kỷ XIII. Thật kỳ diệu, vào những năm 1960, người ta lại đào được cái chân đó ở Istanbul. Venice thỉnh xin mảng tượng thất lạc ấy, nhưng chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ phúc đáp bằng một bức điện vỏn vẹn: Các vị đánh cắp bức tượng – chúng tôi giữ lại cái chân của mình.
“Thưa ông, mời ông mua?”, một giọng phụ nữ vang lên, khiến Langdon phải nhìn xuống.
Một phụ nữ Gypsy đẫy đà đang giơ ra một cây gậy dài có treo cả bộ sưu tập những chiếc mặt nạ Venice. Hầu hết đều theo phong cách volto intero rất thịnh hành – những chiếc mặt nạ cách điệu màu trắng che kín mặt thường được phụ nữ đeo trong lễ hội hóa trang
44 Nguyên văn: The Tetrarchs. Bức tượng điêu khắc mô tả bốn hoàng đến La Mã có niên đại khoảng năm 300. Chế độ “Tứ đế đồng trị” (Tetrarchy) là thể chất trong đó quyền lực được phân chia giữa bốn cá nhân, nhưng trong cách dùng hiện đại, thuật ngữ thường để chỉ một hệ thống do hoàng đế La MÃ Diocletian khởi xướng năm 293, đánh dấu ự phục hồi của đế chế La Mã. Chế độ này kéo dài tới khoảng năm 313, khi cuộc xung đột huynh đệ tương tàn loại bỏ hầu hết những ứng cử viên quyền lực, chỉ còn lại Constantine ở phía đông và Licinius ở phía tây.
Carnevale. Bộ sưu tập của bà cũng có một số mặt nạ Colombina hóm hỉnh chỉ che nửa mặt, vài cái Bauta cằm nhọn hoắt, và một cái mặt nạ tròn Morretta không quai đeo. Mặc dù có nhiều món hàng sặc sỡ nhưng chính chiếc mặt nạ đen xám duy nhất nằm ở đầu gậy mới khiến Langdon chú ý, đôi mắt chết chóc đầy hăm dọa của nó dường như đng nhìn thẳng xuống anh qua cái mũi mỏ chim dài.
Bác sĩ dịch hạch. Langdon ngoảng mặt đi, không cần phải nhớ thêm mình đang làm gì ở Venice này.
“Ông mua không?”, người phụ nữ Gypsy nhắc lại.
Langdong mỉm cười và lắc đầu. “Chúng rất đẹp, nhưng không, cảm ơn bà.”
Khi người phụ nữa rời đi, ánh mắt Langdon dõi theo cái mặt nạ dịch hạch đáng ngại trong lúc nó lắc lư phía trên đám đông. Anh thở dài nặng nề và ngước mắt nhìn lại bốn chú ngựa đồng trên ban công tầng hai.
Một ý nghĩ vụt đến với anh.
Langdon cảm thấy mọi yếu tố đột ngột va vào nhau – Đàn ngựa nhà thờ St. Mark, những chiếc mặt na Venice, và những vật cướp về từ Costantinople.
“Chúa ơi”, anh thì thầm. “Đúng nó rồi!”

Robert Langdon sững sờ.
Đàn ngựa nhà thờ St. Mark!
Bố chú ngựa oai vệ này – với những cái cổ vương giả và vòng cổ khỏe khoắn của chúng – làm hiện lên trong Langdon một ký ức bất ngờ, mà giờ đây anh nhận ra nó chứa đựng lời giải thích cho một yếu tố quan trọng trong bài thờ bí ẩn in trên chiếc mặt nạ người chết của Dante.
Langdon đã từng tham dự tiệc cưới của một nhân vật nổi tiếng tại trang trại Runnymede lịch sử ở New Hampshire – quê hương của chú ngựa vô địch giải Kentucky Derby có tên Hình ảnh Vũ công45. Là một phần trong Chương trình tiếp đón thịnh soạn, các quan khách được xem một màn trình diễn của nhóm kịch ngựa nổi tiếng Behind the Mask – một Chương trình tuyệt vời trong đó các kỵ sĩ biể diễn mặc trang phục lộng lẫy của Venice, giấu kín mặt sau những chiếc mặt nạ volto intero. Đàn ngựa ô Friesian của nhóm là những con ngựa to lớn nhất Langdon từng thấy. Những con vật ấn tượng có vóc dáng cao lớn nhất Langdon từng tháy. Những con vật ấn tượng có vóc dáng cao lớn này phi ầm ầm qua sân, để lộ những tảng cơ bắp cuồn cuộn, cặp vó gắn lông chim, và cái bờm dài gần một mét tung bay phía sau cái cổ dài duyên dáng của chúng.
Vẻ đẹp của những sinh vật này để lại trong Langdon ấn tượng mạnh mẽ đến mức khi về đến nhà, anh đã ngay lập tức tìm kiếm trên mạng và phát hiện ra rằng giống ngựa đực này từng được các vị vua thời Trung cổ ưa chuộng và dùng làm ngựa chiến, nhưng trong những năm gần đây, chúng đã bị đẩy đến bờ vực tuyệt chủng. Vốn được biết đến như là Equus robustus, cái tên Friesian hiện đại của giống ngựa này là món quà tôn vinh quê hương chúng – Friesland, một tỉnh của Hà Lan, cũng là nơi họa sĩ đồ họa xuất chúng M. C. Escher chào đời.
Hóa ra, chính thân hình mạnh mẽ của những chú ngựa Friesian thời xưa đã truyền cảm hứng thẩm mỹ cho Đàn ngựa nhà thờ St. Mark đẹp đến mức được xếp vào hàng “những tác phẩm nghệ thật thường xuyên bị đánh cắp nhất trong lịch sử”.
Langdon trước giờ vẫn tin rằng vinh dự đáng ngờ này thuộc về tác phẩm Ghent Altarpiece và có lướt xem trang web Hiệp hội Nghiên cứu Tội phạm nghệ thuật (ARCA) để xác thực giả thuyết của mình. Hiệp hội không đưa ra xếp hạng tuyệt đối nào, nhưng họ cung cấp một câu chuyện ngắn gọn về cuộc đời phiền toái của những tượng điêu khắc vốn luôn là mục tiêu tranh cướp ấy.
Bốn chú ngựa bằng đồng được đúc trên đảo Chios vào thế kỷ IV bởi một điêu khắc gia Hy Lạp khuyết danh. Chúng nằm nguyên ở đó cho tới khi được Hoàng đế Theodosius II46 mang tới Constantinople để trưng bày tại trường đua Hippodrome47. Sau đó, trong cuộc Thập tự chinh thứ tư, khi binh lực của Venice cướp phá Constantinople, quan tổng trấn đương quyền đã ra lệnh chở bốn bức tượng quý giá bằng thuyền về tận Venice. Do trọng lượng và kích thước chúng rất lớn nên việc vận chuyển là gần như bất khả thi, song cuối cùng, những chú ngựa này cũng được đưa đén Venice vào những năm 1254, và được dựng phía trước mặt tiền của Vương cung Thánh đường St. Mark,
Hơn nửa thiên niên kỷ sau đó, vào năm 1797, Napoleon chinh phạt Venice và đoạt lấy những chú ngựa cho mình. Chúng được chở về Paris và kiêu hãnh xuất hiện trên nóc Khải hoàn môn. Cuối cùng, năm 1815, Napoleon bị đánh bại tại Waterloo và chịu đày ải, đàn ngựa đã bị hạ xuống khỏi Khải hoàn môn và vận chuyển bằng tàu ngược trở lại Venice, nơi chúng được dựng lại trên ban công phía trước của Thánh đường St. Mark.
Mặc dù Langdon đã khá quen với câu chuyện về đàn ngựa này, nhưng trang web của ARCA cò có một đoạn thông tin khiến anh giật mình.
“Phần vòng cổ trang trí được người Venice thêm vào cổ ngựa năm 1204 nhằm che đi chỗ đầu bị cắt đứt để dễ chuyên chở bằng tàu từ Constantinople về Venice”
Vị tổng trấn đã ra lệnh cắt đứt đầu Đàn ngựa nhà thờ St. Mark ư? Langdon dường như không tài nào nghĩ ra nổi.
“Robert?”, tiếng Sienna gọi to.
Langdon bừng tỉnh khỏi những suy nghĩ của mình, quay lại nhìn Sienna đang len qua đám đông cùng với Ferris đi sát bên cạnh.
“Những con ngựa trong bài thơ!”, Langdon hét to đầy phấn khởi. “Anh nghĩ ra rồi!”
“Cái gì cơ?”, Sienna có vẻ ngơ ngác.
“Chúng ta đang tìm kiếm một vị tổng trấn bội bác chặt đứt đầu những con ngựa đấy thôi!”
“Vâng?”
“Bài thơ không nói đến những con ngựa sống.”Langdon chỉ tay lên cao phía trên mặt tiền của nhà thờ St. Mark, nơi một cột nắng chói chang đang chiếu sáng bốn bức tượng đồng. “Nó nói đến những con ngựa kia kìa!”
Chú thích:
45 Nguyên văn: Dancer’s Image, là tên một con gnwaj đua Mỹ giống Thoroughbred và là chú ngựa duy nhất trong lịch sử giải đua Kentucky Derby giành chiến thắng nhưng bị truất quyền thi đấu. Chú ngựa này thuộc sở hữu của doanh nhân Peter Fuller, con trai của cựu Thống đốc bang Masachusetts Alvan T. Fuller, được Lou Cavalaris, Jr. huấn luyện và được kỵ sĩ Bobby Ussery điều khiển trong giải Derby.
46 Theodosius II (401-450) thường được gọi là Theodosius Trẻ hoặc Theodosius Nhà thư pháp, là hoàng đế Đông La Mã từ năm 408 đến 450. Ông được biết đến nhiều về việc ban hành bộ luật Theodosius và công xây dựng các bước tường thành Theodosius qunah Constantinople.
47 Hippodrome là sân vận động để đua ngựa hoặc đua xe kéo. Nhưng Hippodrome của Constantinople, thủ đô của đế chế Byzantine, là một đấu trường, được xem như trung tâm xã hội và thể thao của thành phố. Hiện nay, đây là một quảng trường mang tên Sultan Ahmet taaij thủ đô Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ, với một số tàn tích của các công tình nguyên thủy từng tồn tại.

Trên tàu The Mendacium tay tiến sĩ Elizabeth Sinskey vẫn run rẩy. Bà đã xem đoạn video trong phòng làm việc của Thị trưởng, và mặc dù từng gặp nhiều chuyện kinh khủng trong đời mình nhưng đoạn phim không sao giải thích nổi mà Bertrand Zobrist tạo ra trước khi tự sát để lại trong bà cảm giác lạnh lẽo như cái chết.
Trên màn hình trước mặt bà, cái bóng của bộ mặt có mỏ chim chập chờn, chiếu lên vách hang ngầm. Cái bóng vẫn tiếp tục nói, tự hào mô tả về kiệt tác của gã - một sáng tạo được gọi là Hỏa ngục - thứ sẽ cứu vớt cả thế giới bằng cách chọn lọc dân số.
Chúa cứu rỗi chúng con, Sinskey thầm.-“Chúng ra phải…", bà nói, giọng run run.“Chúng ta phải tìm ra cái địa điểm ngầm trong lòng đất kia. Có thể Còn chưa quá muộn."
“Cứ xem đi đã”, Thị trưởng đáp. “Còn lạ lùng hơn nữa cơ.”
Đột nhiên, cái bóng mặt nạ lớn hẳn lên trên vách hang ẩm ướt, lù lù trước mắt bà, cho tới khi một bóng ngừơi đột ngột xuất hiện trong khuôn hình.
Khốn khiếp.
Sinskey đăm đăm nhìn vị bác sĩ dịch hạch được trang bị đầy đủ, chỉnh tề trong chiếc áo
choàng đen và đeo mặt nạ mỏ chim trông đến ớn lạnh. Vị bác sĩ dịch hạch bước thẳng tới phía máy quay, cái mặt nạ của gã choán hết màn hình để tạo hiệu ứng kinh sợ.
"Những nơi tăm tối nhất chốn địa ngục”, gã thì thào, “dành riêng cho những kẻ giữ thái độ trung dung trong những thời kỳ khủng hoảng đạo đức”.
Sinskey cảm thấy nghẹn ứ tỏng cổ họng. Đây cũng chính là câu trích dẫn mà Zobrist đã để lại cho bà tại quầy thủ tục của hãng hàng không khi bà thoát khỏi hắn ở New York một năm về trước.
“Ta biết”, gã bác sĩ dịch hạch tiếp tục, “có những kẻ gọi ta là quái vật”. Gã ngừng lại, và Sinskey cảm thấy những lời của gã đang nhằm thẳng vào bà. “Ta biết có những kẻ nghĩ ta là một con thú không có trái tim giấu mặt dưới lớp mặt nạ.” Gã lại ngừng lại, bước đến gần máy quay hơn.”Nhưng ta không hề vô diện. Ta cũng không hề nhẫn tâm.”
Nói xong, Z0brist lột chiếc mặt nạ của mình và gỡ bỏ mũ trùm
áo choàng - bộ mặt hắn được phơi ra. Sinskey cứng đờ, nhìn sững cặp
mắt xanh quen thuộc mà bà nhìn thấy lần cuôi trong bóng tối của Hội
đồng Quan hệ Ðối ngoại. Cặp mắt của hắn trong đoạn video cũng
chứa chất ánh lửa và nỗi cuồng mê y như vậy, nhưng giờ đây trong
ấy còn có gì đó tựa như và nhiệt thành man dại của một gã điên.
“Tên ta là Bertrand Zobrist“, hắn nói, mắt nhìn xoáy vào máy quay. “Và đây là gương mặt ra, không che giấu và để nguyên cho cả thế giới thấy. Tâm hồn ta luôn ước giá như mình có thể giơ cao trái tim rực chảy, như Thánh Dante đã làm với hàng Beatrice yêu dấu của ngài, để các người có thể thấy ta cũng đang tràn ngập tình yêu rực cháy.Thứ tình yêu sâu xa nhất. Dành cho tất cả các người. Và, trên hết, cho một người trong số các người.”
Zobrist bước sẵn hơn nữa, nhìn sâu vào máy quay và nói dối khẽ, như thể với một người tình. “Tình yêu của ta”, hắn thì thầm, “tình yêu quý giá của ta.Em là diễm phúc của ta, là người hủy diệt mọi thứ xấu xa của ta, là người ban cho ta mọi đức hạnh, là sự cứu rỗi của ta. Em là người khỏa thân nằm bên ta và vô tình giúp ta vượt qua vực thẳm, cho ta sức mạnh để làm những điều ta muốn”
Sinskey lắng nghe với thái độ ghê tởm.
“Tình yêu của ta”, Zobrist tiếp tục những tiếng thì thầm ai oán vang vọng trong hang ngầm ma quái nơi hắn đang đứng nói. “Em là nguồn cảm hứng và chỉ lối cho ta, nàng Virgil và cũng là nàng Beatrica của ta, và kiệt tác này có công của cả em cũng như của ta. Nếu em và ta, như cặp tình nhân định mệnh, không bao giờ còn được gặp nhau nữa, ta sẽ tanh thản khi biết rằng ta trao gửi tương lai vào đôi tay dịu dàng của em. Công tình bên dưới của ta đã hoàn thành. Và giờ đây đã đến lúc ta lại trở về với thế giới bên trên…và lại ngắm lại nhìn những vì sao”
Zobrist ngừng nói, và cụm từ những vì sao ngân vang một lúc trong lòng hang. Sau đó, rất bình tĩnh, Zobrist vươn tay chạm vào máy quay, kết thúc lời nhắn gửi của mình.
Màn hình tối đen.
“Một nơi ở dưới lòng đất”, Thị trưởng nói, tắt màn hình. “Chúng tôi không tài nào nhận ra. Còn bà?”
Sinskey lắc đầu. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nơi nào như thế này. Bà nghĩ đến Robert Langdon, tự hỏi không biết anh ta có tiến thêm được chút nào trong việc giải mã những đầu mối của Zobrist không.
“Nếu điều này có thể giúp ích”, Thị trưởng nói,”thì tôi tin tôi biết người tình của Zobrist là ai.” Ông ta ngừng 1ại- "Một nhân vật có bí danh FS-2080.”
Sinskey bật dậy. "FS-2080 à?!” Bà sững sờ nhìn Thị trưởng.
Thị trưởng cũng giật mình không kém.”Ðiều đó có nghĩa gì với bà sao?”
Sinskey gật đẩu hoài nghi "Chắc chắn rồi”
Tim Sinskey đập thình thịch.FS-2080. Dù không biết nhân dạng của nhân vật này, nhưng chắc chắn bà biết bí danh đó mang ý nghĩa gì. Suốt nhiều năm WHO đã theo dõi những bí danh tương tự.
“Phong trào Siêu nhân học”, bà nói. “Ông có thấy quen không?”
Thị trường lắc đầu.
“Nói một cách đơn giản nhất”, Sinskey giải thích,”Siêu nhân học là một triết lý cho rằng con người cần sử dụng mọi công nghệ có sẵn để kiến tạo chính giống loài chúng ra, làm cho nó mạnh hơn. Sự tồn tại của những cá thể ưu việt nhất”.
Thị trưởng nhún vai một cách thờ ờ.
“Nói chung”, bà tiếp tục, "phong trào Siêu nhân học gồm các nhân vật có trách nhiệm - những nhà khoa học, người theo †huyết vị lại, người nhìn xa trông rộng có trách nhiệm về đạo đức – nhưng cũng như ở nhiều phong trào khác, vẫn có một bộ phận nhỏ tin rằng phong trào này tiến triển chưa đủ nhanh. Họ là những nhà tư tưởng khải huyền tin rằng sự kết thúc đang đến gần và ai đó cần có hành động quyết liệt để cứu lấy tương lai của giống loài”.
“Và tôi đoán”, Thị trưởng nói, “Bertrand Zobrist là một người như thê?”.
"Chính xác", Sinskey nói. “Một thủ lĩnh của phong trào. Ngoài việc là người cực kỳ thông minh, hắn còn rất có uy tin và đã chấp bút viết nhiều bài báo về ngày tận thế làm sinh ra cả một cộng đồng những kẻ cuồng tín Siêu nhân học. Hiện nay, nhiều tín đồ cuồng tín của hắn sử dụng những bí danh như thế này,tất cả đều có một hình thức giống nhau-hai chữ cái và một con số có bốn chứ số - chẳng hạn DG-2064, BA-2105, hoạc cái bí danh ông vừa nhắc đầu;
"FS-2080."
Sinskey gật đầu. “Đó chỉ có thể là một bí danh Siêu nhân học.”
“Những con số và chữ cái có ý nghĩa gì không?”
Sinskey ra hiệu về phía máy tính của ông ta. “Mở trình duyệt của ông ra. Tôi sẽ chỉ cho ông”
Thị trưởng có vẻ do dự nhưng vẫn đi tới máy tính và mở một Chương trình tìm kiếm.
“Tìm ‘FM-2030’”, và hàng nghìn trang web xuất hiện.
“Cứ bấm vào bất kỳ trang nào cũng được”, Sinskey nói.
Thị trưởng bấm đầu mục trên cùng, mở ra một trang Wikipedia với hình một người Iran điển trai – Fereidoun M. Esfandiary - người được mô tả là một tác giả, triết gia, nhà vị lai chủ nghĩa, ông có công giới thệu triết lý Siêu nhân học cho nhiều người, cũng như đưa ra những dự báo có tính tiên tri về thụ tinh trong ống nghiệm, điều khiến di truyền, và quá trình toàn cầu hóa nền văn minh.
Theo Wikipedia, tuyên bố mạnh bạo nhất của Esfandiary là những công nghệ mới sẽ giúp ông sống được một trăm tuổi - một trường hợp hiếm hoi với thể hệ của ông. Như một cách thể hiện niềm tin vào công nghệ tương lai, Fereidoun M. EsfandiaIy đổi tên mình thành FS-2030, một bí danh hình thành bằng cách kết hợp chữ cái chỉ tên và tên đệm của ông cùng với năm ông sẽ tròn một năm tuổi. Buồn thay, ông chết vì bị ung thư tụy ở tuổi bảy mươi và không bao giờ đạt được mục tiêu của mình, nhưng để tôn vinh ông, những tín đồ Siêu nhân học cuồng tín vẫn suy tôn FM-2030 bằng cách tiếp nhận kỹ thuật đặt tên của ông.
“Vậy là”, cuối cùng ông ta thì thào, như thể đang nghĩ thành tiếng. “Người tình của Bertrand Zobrist – cô ả FS-2080 này – rõ ràng là một trong những… tín đồ Siêu nhân học.”
“Không còn nghi ngờ gì nữa”, Sinskey đáp. “Tôi rất tiếc tôi không biết chính xác FS-2080 này là ai, nhưng…”
“Đó là vấn đề của tôi”, Thị trưởng ngắt lời, vẫn đăm đăm nhìn ra biể. “Tôi biết rõ. Tôi biết đích xác ả là ai.”

Không khí như được tạo tác bằng vàng vậy.
Trong đời mình: Robert Langdon đã tới tham quan nhiều vương cung Thánh đường lộng lẫy nhưng không khí của Chiesa d’Oro (Nhà thờ Vàng) ở St. Mark luôn đem đến cho anh ấn tượng có một không hai. Trong nhiều thế kỷ, người ta nói rằng chỉ cần người ngửi không khí ở St. Mark cũng sẽ làm cho bạn giàu có hơn. Câu nỏi này cần được hiểu không chỉ theo nghĩa ẩn dụ, mà còn cả nghĩa đen.
Với bể mặt nội thất bao gồm vài triệu viên gạch lát bằng vàng cổ, người ta nói nhiều phân tử bụi đang lững lờ trong không khí thực tế chính là những mạt vàng. Thứ bụi vàng lơ lửng này, kết hợp vớí ánh nắng rực rỡ tràn vào qua ô cửa sổ lớn mé tây, tạo ra bầu không khí rực rỡ giúp những tín đồ sùng đạo có được sự giàu có về mặt tinh thẩn và, nếu hít thật sâu, họ còn nhận được sự sung túc thực tiễn hơn dưới hình thức mạ vàng hai là phổi.
Vào giờ này, vầng mặt trời xuống thấp rọi qua cửa sổ mé tây, tỏa ra những tia nắng trên đầu Langdon như chiếc quạt lớn sáng rực, hay một mái hiên bằng lụa tỏa sáng. Langdon không thể không hít một hơi thật mạnh, và anh cảm thấy Sienna cùng Ferris cũng làm y như vậy bên cạnh mình.
“Đường nào đấy”, Sienna thì thào.
Langdon ra hiệu về phía một lối cẩu thang đi lên. Khu bào tàng của nhà thờ nằm ở tầng trên và có một khu trưng bày đồ sộ dành cho Ðàn ngựa St. Mark, nơi mà Langdon tin rằng sẽ nhanh chóng hé lộ nhân dạng của vị tổng trấn bí ẩn đã cắt rời đầu của mấy con vật ấy.
Khi họ leo lên cầu thang, anh nhận ra Farris đang phải cố gắng thở, và Sienna bắt được ánh mắt Langdon, điếu cô đang cố gắng thực hiện suôts mấy phút qua. Nét mặt có hiện vẻ cảnh báo khi cô kín đáo hất đầu về phía Ferris và miệng nói gì đó mà Langdon không thể hiếu. Anh chưa kịp bảo cô nói rõ thì Ferris đã liếc nhìn lại, chỉ trễ một phần mấy giây, vì Sienna đã đảo mắt và nhìn thẳng vào Farris.
"Anh ổn chứ, bác sĩ?", Cô hỏi vẻ ngây thơ.
Ferris gật đầu và leo nhanh hơn.
Nữ diễn viên tài nãng, Langdon nghĩ, nhưng cô ấy đang cố nói gì với mình nhỉ?
Khi lên đến tầng hai, họ có thể nhìn thấy toàn bộ thánh đường trải ra bên dưới. Ðiện thờ được kiến tạo dưới dạng một thập giá Hy Lạp, nhìn vuông vức hơn những hình chữ nhật kéo dài của nhà thờ St. Peter hay Notre-Dame. Với khoảng cách từ lối vào chính tới bản ầ
thờ ngắn hơn hẳn, nhà thờ St. Mark toát ra khi chất đường bệ, vững vàng, cũng như tạo cảm giác dễ tiếp cận hơn.
Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là quá dễ tiếp cận, bàn thờ của công trình này lại được bố trí phía sau một bình phong có cột chống, trên đỉnh có cây thành giá và chúa Jesus chịu khổ hình. Che chở phía trước là một ô đựng mình thánh Chúa mỹ lệ và tự hào là một trong những bệ thời giá trị nhất trên thể giới - được mệnh danh là Pala d’Oro (Tán vàng). Phần hông nền lớn bằng bạc mạ vàng được xem là “tấm vải vàng”, nhưng “vải” chỉ có nghĩa “tâm tranh thảm” gồm những tác phẩm xưa hơn – cơ bản là tranh vẽ trên men kiểu Byzantine – tất cả được đan kết trong một cái khung Gothic duy nhất. Được trang điểm với khoảng một nghìn ba trăm viên ngọc trai, bốn trăm viên hồng lựu ngọc, ba trăm viên ngọc bích, cũng như ngọc lục bảo, thạch anh tím, và hồng ngọc, Pala d’Oro cùng với Đàn ngựa St. Mark, được coi là một trong những bảo vật đẹp nhất ở Venice.
Nói về mặt kiến trúc, từ basilica dùng cho bất kỳ nhà thờ phương đông theo phong cách Byzantine nào ở châu Âu hay phương Tây. Là một bản sao của thánh đường Các thánh Tông đồ do Justinian xây ở Constantinople, nhà thờ St. Mark mang phong cách Đông phương đến mức các sách hướng dẫn du lịch thường gợi ý nơi này như một lựa chọn thay thế cho viecj tham quan các giáo đường Hồi giáo Thổ Nhĩ Kỳ, đa phần trong số đó chính là những thánh đường Byzantine được cải biến thành các cơ sở thờ phụng Hồi giáo.
Langdon chưa bao giờ coi nhà thờ St. Mark như một lựa chọn thay thế cho các giáo đường Hồi giáo ngoạn mục ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng anh phải thừa nhận rằng niềm đam mê của một người dành cho nghệ thuật Byzantine có thể được thỏa mãn nhờ một chuyến tham quan dãy phòng bí mật ngay cung thờ bên phải trong nhà thờ này, trong đó có cất giữ thứ được gọi là Kho báu của Thánh Mark – một bộ sưu tập gồm hai trăm tám mươi ba thánh tượng, đồ trang sức và cốc rượu lễ quý giá thu thập được trong quá trình cướp phá Constantinople.
Langdon hài lòng khi thấy thánh đường khá yên tĩnh trong buổi chiều nay. Vẫn có người nhưng ít nhất có đủ chỗ để di chuyển. Len lách qua những nhóm du khách, Langdo hướng dẫn Ferris và Sienna đi tới ô cửa sổ phía tây, nơi khách tham quan có thể bước ra ngoài để xem những chú ngựa trên ban công. Mặc dù tự tin vào khả nhăng nhận diện vị tổng trân scaanf tìm, nhưng Langdon vẫn thấy lo lắng về bước đi họ phải thực hiện sau đó – tìm ra vị trí của vị tổng trấn. Mộ của ông ta chăng? Hay tượng? Việc này có lẽ cần đến một hình thức hỗ trợ nào đó, bởi lẽ có hàng trăm bức tượng trong nhà thờ, hầm mộ ở bên dưới và cả những mộ vòm dọc nhánh phía đông của nhà thờ.
Langdon chú ý đến một nữ thuyết trình viên trẻ đang dẫn một đoàn khách, và anh lịch thiệp ngắt lời cô, “Xin lỗi”, anh nói. “Ettore Vio có ở đây chiều nay không cô?”
“Ettore Vio à?” Người phụ nữ ngơ ngác nhìn Langdon. “Có, tất nhiên rồi, nhưng…” Cô ấy đột ngột im bặt, mắt sáng lên. “Ông là Robert Langdon có phải không?”
Langdon mỉm cười nhẫn nại. “Vâng, tôi đây,. Tôi có thể nói chuyện với Ettore được không?”
“Được,được!” Người phụ nữ ra hiệu cho nhóm tham quan của mình đợi một lúc và chạy vội đi.
Langdon và người phụ trách bảo tàng, Ettore Vio, đã từng cùng xuất hiện trong một phim tài liệu ngắn về thánh đường này, và họ vẫn giữ liên lạc với nhau kể từ đó “Ettore viết sách về thánh đường này”,Langdon giải thích với Sienna. “Thực tế là có vài quyển kia”.
Sienna vẫn có cảm giác bất an kỳ lạ về Ferris, người vẫn đang theo sát Langdon giải thích với Sienna. “Thực tế là có vài quyển kia.”
Sienna vẫn có cảm giác bất an kỳ lạ về Ferris, người vẫn đang theo sát Langdon trong lúc anh dẫn cả nhóm đi tới cửa sô sphias tây để quan sát đàn ngựa. Qua cửa sổ, họ thấy phần thân sau rắn chắc của đàn ngựa thật nổi bật trên nền trời chiều. Trên ban công bên ngoài là những du khách đi bách bộ để tận hưởng cơ hội tiếp xúc thật gần với đàn ngựa cũng như toàn cảnh Quảng trường St. Mark ngoạn mục.
“Chúng đó!”, Sienna kêu lên, chạy về phía cánh cửa mở ra ban công.
“Không hẳn”, Langdon nói. “Đàn ngựa chúng ta nhìn thấy trên ban công thực tế chỉ là bản sao thôi. Đàn ngựa nhà thời St. Mark thật được cất giữ bên trong vì lý do an toàn và bảo quản.”
Langdon hướng dẫn Senna và Ferris đi dọc hành lang về phía một hốc phòng sáng đèn, nơi có một nhóm bốn chú ngựa giống hệt như đang chạy nước kiệu về phía họ từ lối đi có mái vòm bằng gạch làm nền phía sau.
Langdon ra hiệu về phía những bức tượng, tỏ vẻ ngưỡng mộ. “Đây mới là bản gốc.”
Mỗi lần nhìn thấy những chú ngựa ở khoảng cách gần như vậy, Langdon đều không thể kìm được nỗi kinh ngạc trước kết cấu và chi tiết hệ thống cơ bắp của chúng. Diện mạo ấn tượng của phần da ngựa càng nổi bật nhờ lớp gỉ đồng màu xanh vàng lộng lẫy bao phủ toàn bộ bề mặt. Với Langdon, việc nhìn thấy bốn chú ngựa này được giữ gìn nguyên vẹn bất chấp quá khứ đầy sóng gió của chúng luôn là lời nhắc nhở về tầm quan trọng của bảo tồn nghệ thuật.
“Vòng cổ của chúng”, Sienna nói, tay chỉ những chiếc vòng trang trí quanh cổ ngựa. “anh nói chúng được cho thêm vào phải không? Để che đi mối nối à?”
Langdon đã kể cho Sienna và Ferris về chi tiết “đầu bị chặt” lạ lùng mà anh đọc được trên trang web Hiệp hội ARCA.
“Hiển nhiên rồi”, Langdon nói và tiến về tấm biển thông tin dựng dần đó.
“Roberto!”, một giọng nói thân thiện vang lên phía sau họ.”Anh xem thường tôi quá!”
Langdon quay lại thấy Ettore Vio, một người đàn ông tóc bạc trắng, tươi tỉnh, mặc bộ cánh màu xanh lam và đeo cặp kính có một sợi xích vòng quanh cổ, đang lách qua đám đông. “Anh dám đén Venice mà không thèm gọi cho tôi à?”
Langdon mỉm cười và bắt tay người đàn ông. “tôi thích là cho anh ngạc nhiên, Ettore. Trông anh khỏe lắm. Đây là các bạn tôi, bác sĩ Brooks và bác sĩ Ferris.”
Ettore chào họ sau đó đứng lùi lại, đánh giá Langdon. “Đi du lịch với các bác sĩ à? Anh bị ốm sao? Còn quần áo anh nữa? Anh đang biến thành dân Ý à?”
Nghe giống như hành động bôi bạc, Langdon đăm chiêu. “Và tên ông ta là gì?”
Ettore cau mày. “Robert, tôi nghĩ anh là một sinh viên về lịch sử thế giới mà.”
“Phải, nhưng thế giới rộng lớn, và lịch sử rất dài. Tôi có thể phải cần đến sự trợ giúp.”
“Tốt thôi, một manh mối cuối cùng.”
Langdon định phản đối, nhưng lại cảm thấy mình đang lãng phí công sức.
“Vị tổng trấn của anh sống thọ gần một thế kỷ”, Ettore nói. “Một phép màu ở thời đại của ông ta. Những người mê tín gán tuổi thọ của ông ta cho những hành động táo bạo trong việc lấy hài cốt của Thánh Lucia từ Constantinople và đưa trở về Venice. Thánh Lucia bị mù mắt do…”
“Ông ta moi xương kẻ mù lòa!”, Sienna buột miệng, mắt nhìn Langdon, cũng vừa có ý nghĩ tương tự.
Ettore nhìn Sienna với ánh mắt kỳ lạ. “Nói như vậy cũng được, tôi cho là thế.”
Ferris bỗng chợt tái nhơt, như thể ông ta vẫn chưa lấy lại nhịp thở sau cuộc cuốc bộ dài qua quảng trường và treo lên cầu thang.
“Tôi cần nói thêm”, Ettore nói, “vị tổng trấn này rất yêu kính Thánh Lucia bởi vì chính ông ta cũng mù lòa.Ở tuổi chín mươi, ông ta đứng giữa quảng trường này, không nhìn thây gì cả, và thuyết giáo về Thập tự chinh”
“Tôi biết ông ta là ai rồi”, Langdon nói.
“Chà, tôi cũng hy vọng như vậy!”, Ettore mỉm cười đáp lời.
Vì trí nhớ thị giác của Langdon làm việc tốt với các hình ảnh hơn là những ý tưởng không có bối cảnh, nên trong đầu anh hiện ra một tác phẩm nghệ thuật – một minh họa nổi tiếng của Gustave Doré mô tả vị tổng trấn mù lòa, nhăn nheo, hai tay giơ lên cao trên đầu khi ông ta khích lệ một đám đông gia nhập Thập tự chinh. Tên bức minh họa của Doré còn rất rõ ràng trong tâm trí anh: Dandolo thuyết giáo Thập tự chinh.
“Enrico Dandolo”, Langdon tuyên bố. “Vị tổng trấn sống mãi.”
“Có thế chứ!”, Ettore nói. “Tôi sợ đầu óc anh già cỗi mất rồi, bạn của tôi.”
“Cũng như cơ thể tôi thôi. Ông ấy được chôn ở đây à?”
“Dandolo hả?”, Ettore lắc đầu. “Không, không phải ở đây.”
“Thế ở đâu?”, Sienna hỏi. Ở Dinh Tổng trấn à?”
Ettore tháo kính, nghĩ một lúc. “Để tôi nghĩ một lát. Có rất nhiều tổng trấn, tôi không thể nhớ ra…”
Ettore chưa kịp kết thúc thì một thuyết trình viên hốt hoảng chạy đến và kéo ống ang bên, thì thào vào tai. Ettore sững người, trông đầy cảnh giác, rồi lập tức chạy tới lan can nhìn xuống điện thờ phía dưới. Một lúc sau, ông ấy quay lại phía Langdon.
“Tôi sẽ trở lại ngay”, Ettore hét to, rồi vội vã chạy đi mà không nói thêm lời nào khác.
Ngơ ngác, Langdon chạy ra lan can và nhìn xuống. Có chuyện gì dưới kia nhỉ?
Ban đầu, anh chẳng nhìn thấy gì hết, chỉ có những du khách đi lại xung quanh. Nhưng một lúc sau, anh nhận ra nhiều khách tham quan đang chăm chú nhìn về một hướng, phía lối vào chính, qua đó có thể thấy một nhóm binh sĩ mặc áo đen vừa bước vào nhà thờ và tỏa ra khắp lối vào chính, chặn tất cả đường ra.
Đám lính áo đen. Langdon cảm thấy tay mình bám chặt lấy lan can.
“Robert!”, Sienna gọi to phía sau anh.
Langdon vẫn không rời mắt khỏi đám lính. Là thế nàohọ tìm ra bọn mình?
“Robert”, cô gọi khẩn cấp hơn. “Có chuyện không hay! Giúp em!”
Langdon quay đi khỏi lan can, ngơ ngác vì những tiếng kêu cứu của cô.
Cô ấy đi đâu rồi?
Một lát sau, anh nhìn thấy cả Sienna và Ferris. Trên sàn ngay phía dưới Đàn ngựa nhà thờ St. Mark, Sienna và Ferris đang quỳ bên cạnh bác sĩ Ferris, người vừa ngã sụp xuống trong cơn co giật, tay ôm chặt lấy ngực.
48 Francesco Busone (1382-1432), thường được gọi là bác tước Carmagnola, là một nhà lãnh đạo người Ý. Ông sinh tại Carmagnola trong một gia đình nông dân nghèo. Ông bắt đầu sự nghiệp quân sự khi mới mười hai tuổi và nhanh chóng trở thành một chiến tướng xuất sắc. Ông bị chính Gian Galeazzo Viscontí, quận công Milan, người mà ông phục vụ, nghi ngờ và bỏ tù rồi kết án xử tử ngày 5/5/1432.

Hỏa Ngục - Dan Brown

“Em nghĩ anh ta bị đau tim!”, Sienna kêu to.
Langdon chạy vội lại chỗ bác sĩ Ferris nằm co quắp trên sàn nhà. Ông ta đang há hốc miệng, không sao thở được.
Có chuyện gì xảy ra với anh ta?!” Với Langdon, mọi thứ diễn ra đột ngột chỉ trong khoảng khắc. Trước cảnh đám lính ấy ập tới dưới nhà và Ferris nằm vật trên sàn, Langdon nhất thời cảm thấy tê liệt, không dám chắc nên xoay về hướng nào.
Sienna quỳ xuống bên cạnh Ferris và nới lỏng cà vạt, giật tung vài cúc áo sơ mi phía trên để giúp ông ta thở. Nhưng khi áo sơ của Ferris bung ra, Sienna bật ngược lại và hét lên một tiếng hoảng hốt, đưa tay che miệng trong lúc loạng choạng lùi lại, mắt đăm đăm nhìn khoảng ngực trần của ông ta.
Langdon cũng đã nhìn thấy.
Phần da trên ngực Ferris biến màu rất rõ. Một vết bầm xanh đen trông rất đáng ngại có chu vi bằng một quả bưởi đang loang ra chỗ xương ức. Ferris trông như thể bị cả một quả đạn đại bác bắn trúng ngực.
“Bị chảy máu trong”, Sienna nói, ngước lên nhìn Langdon vẻ choáng váng. “Thảo nào anh ta cứ khó thở suốt cả ngày.”
Ferris ngó ngoáy đầu, rõ ràng đang cố gắng nói, nhưng ông ta chỉ có thể phát ra những tiếng khò khè yếu ớt. Du khách bắt đầu tụm lại xung quanh, và Langdon cảm thấy tình hình sắp trở nên hốn loạn.
“Đám lính ở dưới nhà”, Langdon cảnh báo Sienna. “Anh không biết làm sao họ tìm ra chúng ta.”
Vẻ ngạc nhiên và sợ hãi trên mặt Sienna nhanh chóng chuyển thành giận dữ, và cô trừng mắt xuống Ferris. “Anh đã nói dối chúng tôi có phải không?”
Ferris lại cố gắng nói, nhưng không thể phát ra tiếng. Sienna thò tay lục tìm các túi Ferris và móc ví cùng điện thoại của ông ta rồi đút gọn vào túi mình, trừng mắt đứng nhìn ông ta như buộc tội.
Đúng lúc đó, một phụ nữ Ý có tuổi lách qua đám đông, quát to đầy giận giữ với Sienna. “Ấn vào ngực anh ta!” Bà ấy dùng nắm tay ấn mạnh vào ngực mình.
“Không!”, Sienna quát lại. “Làm hô hấp nhân tạo sẽ khiến anh ta tử vong! Nhìn ngực anh ta xem!” Cô quay lại phía Langdon. “Robert, chúng ta cần thoát ra khỏi đây. Ngay bây giờ.”
Langdon cúi nhìn Ferris, lúc này đang nhìn anh một cách tuyệt vọng, như thể muốn nói gì đó.
“Chúng ta không thể bỏ anh ta lại!”, Langdon nói.
“Tin em đi”, Sienna nói. “Đấy không phải là trụy tim. Và chúng ta phải đi thôi. Ngay bây giờ.”
Khi đám đông tụm lại gần, du khách bắt đầu kêu cứu. Sienna nắm lấy tay Langdon bằng một sức mạnh đáng ngạc nhiên và kéo anh ra khỏi đám hỗn loạn, lách ra khu vực thoáng khí ngoài ban công.
Langdon bị lóa mắt mất một lúc. Mặt trời đang xuống thấp ở đầu phía tây của Quảng trường St. Mark khiến toàn bộ ban công như tắm trong ánh nắng vàng rực. Sienna dẫn Langdon đi về mé bên trái, dọc theo sân thượng tầng hai, len lỏi qua những khách du lịch đang ra ngoài này để chiêm ngưỡng quảng trường và bản sao Đàn ngựa nhà thờ St. Mark.
Khi họ chạy dọc mặt tiền của thánh đường, một vùng đầm nước chợt xuất hiện ngay trước mặt. Ngoài biển kia, một hình ảnh lạ lùng khiến Langdon chú ý – chiếc thuyền siêu hiện đại trông như một dạng tàu chiến thời tương lai nào đó.
Langdon chưa kịp đổi ý thì Sienna và anh lại ngoặt sang trái, theo ban công vòng tới góc tây nam của thánh đường về phía “Khuôn cửa giấy” – phần chái nối thánh đường với Dinh Tổng trấn – được đặt tên như vậy vì các vị tổng trấn thường dán các sắc lệnh ở đó cho công chúng đọc.
Không phải là trụy tim sao? Hình ảnh phần ngực xanh đen của Ferris bám chặt lấy tâm trí Langdon, và anh đột nhiên cảm thấy sợ hãi trước chẩn đoán của Sienna về tình trạng bệnh lý thật của người đàn ông kia. Hơn nữa, dường như có gì đó đã thay đổi, và Sienna không còn tin tưởng Ferris nữa. Phải chăng đó là lý do cô ấy cố ra hiệu bằng mắt cho mình lúc trước?
Sienna đột nhiên dừng sững lại và nhoài người ra phía ngoài lan can, ngó xuống một góc hiên của Quảng trường St. Mark tít phía dưới.
“Khốn kiếp”, cô nói. “Chúng ta ở cao hơn em nghĩ”
Langdon sững nhìn cô. Em đang nghĩ đến việc nhảy xuống ư?!
Trông Sienna rất hoảng sợ. “Chúng ta không thể để họ bắt được, Robert.”
Langdon xoay lại phái thánh đường, đưa mắt nhìn cánh cửa nặng nề bằng sắt đúc và kính ngay phía sau họ. Rất nhiều du khách đang ra ra vào vào và nếu ước tính của Langdon đúng, thì qua được cánh cửa đó là họ sẽ vào trong bảo tàng gần phía sau nhà thờ.
“Họ sẽ bít kín mọi lối ra”, Sienna nói.
Langdon suy ngẫm mọi khả năng thoát thân của họ và đi đến một lựa chọn duy nhất. “anh nghĩ anh đã nhìn thấy thứ bên trong kia có thể giải quyết được vấn đề.”
Không do dự trước những gì mình đang suy tính, Langdon dẫn Sienna quay vào trong thánh đường. Họ đi men theo vòng ngoài của bảo tàng, cố gắng lán vào đám đông để không bị quá chú ý, nhiều người trong đám đông đang nhìn chếch qua không gian rộng của gian trung tâm giáo đường về phái đám đông nhốn nháo quanh Ferris. Langdon chú ý đến người phụ nữ đứng tuổi ý đầy cáu giận đang hướng dẫn hai người lính mặc áo đen chạy ra ban công, chỉ cho họ lối thoát thaanc ủa Langdon và Sienna.
Chúng ta phải nhanh lên,Langdon nghĩ, nhìn lướt các bức tường và cuối cùng nhận ra thứ anh đang tìm kiếm ở gần một tấm thảm cỡ lớn.
Thiết bị ở trên tường có màu vàng tươi với một tấm biển cảnh báo màu đỏ: ALLARME ANTINCENDIO49.
“Báo cháy à””, Sienna nói. “Kế hoạch của anh như vậy à?”
“Chúng ta có thể lẻn ra cùng với đám đông.” Langdon tiến lại và nắm lấy cần báo động. Rồi chẳng ích gì đâu. Trước khi có thể suy nghĩ kỹ lại, anh khẩn trương kéo mạnh xuống, thấy cơ cấu này dễ dàng làm vỡ tan cái trụ thủy tinh nhỏ bên trong.
Không hề có tiếng còi và tình trạng huyên náo mà Langdon mong đợi.
Chỉ thấy im lặng.
49 Báo cháy.
Anh kéo lần nữa.
Chẳng có gì cả.
Sienna trợn mắt nhìn anh như thể anh đã hóa dại. “robert, chúng ta đang ở trong một nhà thờ đá toàn khách du lịch! Anh nghĩ những thiết bị báo cháy công cộng này vẫn hoạt động khi vài kẻ tinh nghịch có thể…”
“Dĩ nhiên! Luật phòng cháy ở Hoa Kỳ…”
“Anh đang ở châu Âu. Ở đây bọn em không có nhiều luật sư như hoa Kỳ.” Cô chỉ qua vai Langdon. “Và chúng ta cũng không còn thời gian đâu.”
Langdon ngoảnh về phía cánh cửa kính nơi họ vừa bước vào và nhìn thấy hai ngwoif lính đang hối hả chạy vào từ phái ngoài ban công, cặp mắt quét qua toàn bộ khu vực. Langdon nhận ra một nguwofi chính là gã đặc vụ cơ bắt đã nổ súng vào họ trên chiếc xe Trike khi họ chạy trốn khỏi căn hộ của Sienna.
Không có nhiều lựa chon, Langdon và Sienna cố gắng né khỏi tầm mắt của họ, lần nhanh vào hốc cầu thang xoắn ốc kín đáo dẫn xuống tầng trệt. Khi bên kia điện thờ có vài người lính đứng canh các lối ra, chăm chú quan sát khắp phòng.
“Nếu chúng ta bước ra khỏi cầu thang này, họ sẽ nhìn thấy ngay”, Langdon nói.
“Cầu thang vẫn chạy xuống phía dưới nữa”, Sienna thì thào, ra hiệu về phía một băng vải đề ACCESSO VIETATO50 quây lấy những bậc thang phía dưới họ. Phía sau băng vải, các bậc thang chạy xoắn ốc hẹp hơn nữa xuống một vùng tối như hũ nút.
Không phải là một ý hay, Langdon nghĩ.Hầm mộ dưới lòng đất sẽ không có lối thoát.
50 Cấm vào.
Sienna đã bước qua băng vải và dò dẫm đường xuống đường hầm xoắn ốc, biến mất hút trong khoảng tối.
“Cửa mở”,Sienna tự thì thào từ phía dưới.
Langdon không hề tỏ ra ngạc nhiên. Hầm mộ của nhà thờ st. Mark khác với nhiều địa điểm khác ở chỗ nó cũng là một nhà nguyện, nơi thường xuyên có các buổi hành lễ trước hài cốt của Thánh Mark.
“Em nghĩ em thấy có ánh sáng tự nhiên”, Sienna nói khẽ.
Làm gì có chuyện như thế được? Langdon cố nhớ lại những lần tham quan trước đây tớ không gian dưới lòng đất linh thiêng này và đoán rằng có lẽ Sienna vừa nhìn thấy ánh sáng vĩnh cửu – một ngọn đèn điện vẫn còn thắp sáng trên mộ Thánh Mark ở chính giữa hầm mộ. Mặc dù vậy, những bước chân đang đến gần ở phía trên khiến Langdon không còn nhiều thời gian để ngẫm nghĩ. Anh nhanh chóng bước qua băng vải, cẩn thận không làm nó đung đưa, và sau đó đặt tay lên tường đá gồ ghề, lần tìm đường đi qua đoạn cua và biến mất hút.
Sienna đang đợi anh ở dưới chân cầu thang. Phía sau cô, hầm mộ tối mù như bưng lấy mắt. Đó là một gian phòng dưới lòng đất với phần trần đá thấp đến đáng sợ được gỡ bằng những cây cột xưa cũ và những lối đi có mái vòm bằng gạch. Trọng lượng của toàn bộ thánh đường chỉ nằm trên những cây cột này, Langdon thầm nghĩ, bắt đầu cảm thấy sợ không gian chật hẹp ở đây.
“Em đã nói với anh rồi đấy”, Sienna thì thào, khuôn mặt xinh đẹp của cô hơi sáng nhờ chút ánh sáng le lối. Cô chỉ về mấy ô cửa sổ con hình vòm cung nho nhỏ ở tít cao trên tường.
Giếng lấy sáng, Langdon nhận ra ngay, dù anh đã quên mất sự hiện diện của chúng ở đây. Những giếng này – được thiết kế để lấy ánh sáng và không khí vào trong hầm mộ tù túng – được mở thành những đường ống sau hút chạy suốt từ Quảng trường St. Mark phái trên xuống. Kính cửa sổ được gia cố bằng một hệ thống hoa sắt ken dày gồm mười lăm vòng tròn lồng vào nhau, và mặc dù Langdon ngờ rằng chúng có thể mở ra được từ bên trong nhưng chúng đều cao đến ngang vai và rất khít khao. Thậm chí nếu bằng cách nào đó họ thoát qua được cửa sổ để lọt vào giếng thì việc trèo lên khỏi giếng vẫn là bất khả thi, vì chúng sâu đến hơn ba mét và đươc phủ những lưới sắt an ninh to nặng ở trên đỉnh.
Trong thứ ánh sáng lờ mờ lọt qua giếng, hầm mộ nhà thờ St. Mark giống như một khu rừng dưới ánh trăng – một khoảng rừng dày đặc những cột trụ giống như những thân cây đổ bóng dài và nặng nề xuống nền đất. Langdon đưa mắt về phía trung tâm hầm mộ, nơi một bóng đen duy nhất cháy sáng chỗ mộ Thánh Mark. Vị thánh trùng tên với nhà thờ yên nghỉ trong quách đá phía sau một bàn thờ, còn đằng trước là những hàng ghế dài cho số ít người may mắn được mời xuống hành lễ tại đây – trung tâm của cộng đồng Thiên Chúa giáo Venice.
Một đốm sáng nhỏ xíu bất chợt nhấp nháy sáng lên bên cạnh Langdon, anh ngoảnh nhìn thấy Sienna đang giơ lên chiếc điện thoại sáng đèn của Ferris.
Langdon ngạc nhiên, “Anh nghĩ Ferris nói điện thoại của anh ta hết pin rồi cơ mà.”
“Anh ta nói dối”, Sienna nói, vẫn bấm lia lịa. “Về rất nhiều chuyện.” Cô cau mày trước cái điện thoại và lắc đầu. “Không có tín hiệu. Em nghĩ có lẽ em có thể tìm được vị trí mộ của Enrico Dandolo.” Cô đi vội tới giếng trên đầu cho gần tấm kính, cố gắng bắt sóng tín hiệu.
Enrico Dandolo, Langdon thầm nghĩ, vẫn chưa có cơ hội ngẫm nghĩ về vị tổng trấn này trước lúc phải tháo chạy. Bất chấp tình thế khó xử hiện tại của họ, trên thực tế việc họ tới nhà thờ St. Mark vẫn đạt được mục đích – hé lộ nhân dạng của vị tổng trấn bội bạc đã chặt đứt đầu ngựa, và moi xương người mù lòa.
Thật không may, Langdon lại không biết mộ của Enrico Dandolo nằm ở đâu, và rõ ràng Ettore Vio cũng vậy. Anh ấy biết từng li từng tí về nhà thờ này…có khi cả Dinh Tổng trấn nữa. Việc Ettore không lập tức chỉ địa điểm mộ của Dandolo cho Langdon thấy rằng ngôi mộ này có lẽ chẳng nằm ở đâu gần nhà thờ St. Mark hoặc Dinh Tổng trấn.
Vậy nó ở đâu?
Langdon liếc nhìn Sienna, lúc này đang đứng trên một ghế băng cô vừa đặt xuống bên dưới một giếng lấy sáng. Cô mở chốt cửa sổ, đẩy nó mở bung ra, và giơ chiếc điện thoại của Ferris vào lòng giếng.
Những âm thanh bên ngoài Quảng trường St. Mark lọt xuống từ phía trên, và Langdon đột nhiên tự hỏi liệu có thể có cách nào đó thoát ra khỏi đây không. Có một dãy ghế gấp phía sau những ghế băng, và Langdon cảm thấy anh có thể nhấc bổng một chiếc đưa vào giếng lấy sáng.Có khi những lưới sắt phía trên cũng được mở từ bên trong?
Langdon vội băng qua bóng tới tới chỗ Sienna. Anh chỉ mới bước vài bước thì một cú táng rất mạnh vào trán khiến anh bật ngược trở lại. Khi khụy gối xuống, ngay lập tức anh nghĩ mình vừa bị tấn công. Nhưng anh nhanh chóng nhận ra không phải, nên đành thầm rủa chính mình đã không phán đoán được rằng thân hình cao hơn một mét tám của mình thật quá khổ so với chiều cao của mái vòm được xây cho người có tầm vóc trung bình từ hơn một nghìn năm trước.
Trong lúc vẫn quỳ trên nền đá cứng và chờ cho đom đóm mắt dịu lại, anh nhận ra mứt mình đang nhìn xuống một dòng chữ khắc trên nền hầm.
Sanctus Marcus.
Anh nhìn sững một lúc lâu. Không phải tên của Thánh Mark khắc ở đó khiến anh chú ý mà là thứ ngôn ngữ được dùng để viết cái tên đó.
TiếngLatin.
Sau cả ngày trời đắm mình trong tiếng Ý hiện đại, Langdon cảm thấy hơi mất phương hướng khi thấy tên Thánh Mark được viết bằng tiếng Latin, một chi tiết gợi nhớ nhanh rằng thứ từ ngữ này là ngôn ngữ chung của đế chế La Mã khi Thánh Mark qua đời.
Rồi một ý nghĩ nữa vụt đến với Langdon.
Giai đoạn đầu thế kỷ XIII – thời kỳ của Enrico Dandolo và cuộc Thập tự chinh thứ tư – ngôn ngữ của giới cầm quyền vẫn chủ yếu là tiếng Latin. Một tổng trấn Venice đã đem vinh quang to lớn cho đế chế La Mã bằng việc tái chiếm Constantinople sẽ không bao giờ được chôn cất với cái tên Enrico Dandolo, thay vào đó sẽ là cái tên bằng tiếng Latin của ông ta.
Henricus Dandolo.
Nghĩ đến đó, một hình ảnh đã bị lãng quên từ lâu vụt đến với Langdon như điện giật. Mặc dù nhận ra mình điều này khi đang quỳ trong một nhà nguyện nhưng anh biết rằng đó không phải là phép màu. Đúng hơn, một manh mối thị giác đã làm lóe lên trong tâm trí anh một mối liên hệ bất ngờ. Hình ảnh đột ngột nảy ra từ sâu thẳm trí nhớ của Langdon chính là tên gọi Latin của Dandolo, được khắc trên một phiến đá hoa cương đã mòn, gắn trên một nền gạch trang trí.
Henricus Dandolo.
Langdon thở một cách khó nhọc khi nghĩ đến tấm bia mộ lẻ loi của vị tổng trấn. Mình đã từng đến đó. Đúng y như bài thơ đã nói, Enrico Dandolo thực tế được chôn trong một bảo tàng mạ vàng – một bảo quản của tri thức thánh thiêng – nhưng không phải là Thánh đường St. Mark.
Khi chân lý đã xuất hiện, Langdon chậm rãi đứng lên.
“Em không tài nào bắt được tín hiệu”, Sienna nói, từ giếng lấy sáng trèo xuống và tiến lại phía anh.
“Em không cần làm thế nữa.”, Langdon nói. “Bảo quán mạ vàng của tri thức thánh thiêng…” Anh hít một hơi thật sâu. “Anh…đã nhầm lẫn.”
Sienna tái nhợt. “Đùng có nói là chúng ta đến nhầm bảo tàng nhé!”
“Sienna”, Langdon thì thầm, cảm thấy mệt rũ.” Chúng ta ở nhầm quốc gia rồi.”

Bên ngoài Quảng trường St. Mark, người phụ nữ Gypsy bán những chiếc mặt nạ Venice đang dựa vào bức tường ngoài của thánh đường để nghỉ ngơi. Như mọi khi, bà tìm đến chỗ ưu thích của mình – hốc tưởng nhỏ giữa hai tấm lưới kim loại trên vỉa hè – một chỗ lý tưởng đẻ đặt số hàng nặng trích và ngắm mặt trời lặn.
Bà đã chứng kiến nhiều chuyện trên Quảng trường St. Mark trong bấy nhiêu năm, nhưng cái sự kiện quái lạ khiến bà chú ý lúc này không phải diễn ra trên quảng trường, mà ở bên dưới. Giật mình vì một tiếng động lớn dưới chân, người phụ nữ ngó qua tấm lưới nhìn xuống một cái giếng hẹp, có lẽ sâu tới ba mét. Ô cửa sổ dưới đáy mở toang và một chiếc ghế gấp được đẩy lên từ đấy giếng, cào cào vào vìa hè.
Trước vẻ ngạc nhiên của người phụ nữ Gypsy, theo sau chiếc ghế là một cô gái xinh đẹp có mái tóc đuôi ngựa vàng óng, rõ ràng được đun lên từ phía dưới và giờ đang leo qua cửa sổ chui vào lỗ hổng nhỏ hẹp.
Cô gái tóc vàng lách người đứng dậy và lập tức ngước nhìn lên, giật bắn mình khi thấy bà Gypsy đang đăm đăm nhìn xuống qua tấm lưới. Cô gái tóc vàng đưa một ngón tay lên môi và cố mỉm cười. Sau đó cô ta mở ghế và trèo lên, vươn tay về phía lưới sắt.
Cô thấp quá, bà Gypsy nghĩ bụng. Mà cô làm cái gì vậy?
Cô gái tóc vàng tụt khỏi ghế và nói với ai đó bên trong. Mặc dù không có nhiều chỗ để đứng trong lòng giếng chật hẹp bên cạnh cái ghế, nhưng lúc này cô vẫn bước sang bên khi có người thứ hai – một người đàn ông tóc đen cao lớn mặc bộ đồ bảnh bao – tự mình chui lên khỏi tầng hầm thánh đường và lách vào đường ống chật chội.
Anh ta cũng ngước lên, nhìn thẳng vào bà Gypsy qua tấm lưới sắt. Sau đó, anh ta đổi chỗ cho cô gái tóc vàng và trèo lên chiếc ghế yếu ớt. Anh ta cao hơn, và khi vươn người, anh ta có thể tháo được cái then an ninh bên dưới tấm lưới sắt. Anh ta đứng kiễng trên mấy đầu ngón chân, đặt tay lên tấm lưới và đẩy lên trên. Tấm lưới nhấc lên một phân rồi anh ta lại phải đặt nó xuống.
“Giúp chúng tôi một tay được không?”, cô gái tóc vàng gọi với lên chỗ bà Gypsy.
Giúp các người một tay à? Bà Gypsy tự hỏi, không hề có ý định can thiệp. Các người đang làm gì nào?
Cô gái tóc vàng móc ra một chiếc ví đàn ông và rút tờ 100 euro, vẫy vẫy như một lời đề nghị. Tờ tiền còn nhiều hơn bà Gypsy kiếm được với những chiếc mặt nạ trong cả ba ngày trời. Không lạ gì chuyện mặc cả, bà bán mặt nạ lắc đầu và giơ ra hai ngón tay. Người phụ nữ tóc vàng rút ra một tờ tiền nữa.
Không tin nổi vận may của mình, bà Gypsy nhún vai đồng ý vẻ miễn cưỡng, cố gắng tỏ ra dửng dưng trong lúc nhoài xuống và kéo những thanh sắt, nhìn vào mắt người đàn ông để họ có thể hợp lực cho ăn khớp.
Khi người đàn ông đẩy thanh sắt một lần nữa, bà Gypsy kéo mạnh chúng lên bằng đôi tay đã được rèn luyện suốt nhiều năm mang vác hàng, và tấm lưới sắt bung lên nửa chừng. Đúng lúc bà nghĩ họ đã làm được thì có tiếng loảng xoảng rất to bên dưới, và người đàn ông biến mất, rơi tuột xuống giếng khi chiếc ghế gấp gẫy sập dưới chân anh ta.
Ngay lập tức tấm lưới sắt trở nên nặng trĩu trong tay bà, và bà nghĩ mình sẽ phải bỏ nó xuống, nhưng lời hứa 200 euro như tiếp thêm sức mạnh, vậy là bà cố kéo tấm lưới lên và vứt vào bên hông thánh đường, khiến nó vang lên một tiếng rất lớn.
Thở không ra hơi, bà Gypsy ngó xuống giếng chỗ hai con người đang xoắn lấy nhau và cái ghế gãy gập. Khi người đàn ông đứng dậy và phủi bụi trên người, bà Gypsy bèn cúi xuống giếng và chìa tay ra để nhận tiền.
Người phụ nữ tóc đuôi ngựa gật đầu biết ơn và giơ hai tờ giấy bạc lên quá đàu. Bà Gypsy cúi xuống nhưng vẫn còn quá xa.
Đưa tiền cho người đàn ông.
Đột nhiên trong giếng có sự náo loạn – những giọng nói giận dữ vang ầm ầm bên trong thánh đường. Người đàn ông và người phụ nữ đều hoảng hốt, bật ngược lại từ cửa sổ.
Rồi mọi thứ trở nên hỗ loạn.
Người đàn ông tóc sậm màu cúi khom xuống và ra lệnh cho cô gái đặt chân lên những ngón tay khum lại thành một bàn đạp. Cô bước lên, và anh ta đẩy mạnh lên. Cô vọt lên thành giếng, răng cắn chặt mất tờ tiền để giải phóng hai tay trong lúc vươn người cố bám lấy mép. Người đàn ông đẩy lên, cao hơn… cao hơn nữa… nâng cô cho tới khi cô bám được hai tay vào mép giếng.
Lấy hết sức, cô gái đun mình lên hẳn quảng trường giống như một người phụ nữ leo khỏi bể bơi. Cô ta dúi tiền vào tay bà Gyspy và lập tức xoay người, quỳ bên mép giếng, cúi xuống đón người đàn ông.
Đã quá muộn.
Những cánh tay rắn rỏi trong trang phục đen đang với vào giếng như những xúc tu quăng quật của một con quái vật đói mồi, tóm lấy chân người đàn ông, kéo anh ta về phía cửa sổ.
“Chạy đi, Sienna!”, người đàn ông vùng vẫy kêu to. “Chạy ngay đi!”.
Bà Gypsy nhìn thấy mắt họ nhìn nhay đầy đau đớn tiếc nuối và mọi việc kết thúc.
Người đàn ông bị kéo tuột xuống qua ô cửa sổ vào lại thánh đường.
Người phụ nữ tóc vàng trân tối nhìn xuống, mắt cô ầng ậng nước. “Em xin lỗi, Robert”, cô ấy khế nõi. Thế rồi, sau một lúc sững lại, cô ấy nói thêm. “Vì tất cả.”
Một khắc sau, cô bò dậy, mái tóc đuôi ngựa vùng vẩy khi cô lao nhanh vào ngõ hẹp Merciaria dell’Orologio, mất hút vào trung tâm Venice.

Tiếng nước vỗ mơn man nhẹ nhàng kéo Robert Langdon tỉnh lại, Anh ngửi thấy mùi thuốc vô trùng lẫn với mùi biển mằn mặn và cảm thấy thế giới đang lắc lư phía dưới mình.
Mình đang ở đâu đây?
Chỉ một lúc trước, có vẻ như vậy, anh đã bị khống chế trong cuộc vật lộn tuyệt vọng với những cánh tay mạnh mẽ kéo tuột anh ra khỏi giếng lấy sáng và lôi trở lại hầm mộ. Còn giờ đây, thật lạ lùng, anh không còn càm thấy nền đá lạnh lẽo của nhà thờ St. Mark dưới
lưng mình nữa, mà chỉ cảm nhận được một tấm nệm mềm.
Langdon mở mắt và ngó xung quanh - một gian phòng nhỏ sạch sẽ vơi một ô cửa sổ duy nhất. Chuyển động lắc lư vẫn tiếp tục.
Mình đang ở trên một con thuyên sao?
Ký ức cuối cùng của Langdon là bị một người lính mặc đồ đen đè chặt xuống nền hầm mộ và giận dữ rít lên với anh, "Đừng tìm cách chạy trốn nữa!”.
Langdon kêu ầm ĩ, cố gắng cầu cứu khi những người lính tìm cách bịt miệng anh lại.
“Chúng ta cần đưa gã ra khỏi đây”, một người lính nói với đồng bọn.
Anh chàng kia gật đầu do dự. “Cứ làm đi.”
Langdon cảm thấy những ngón tay chắc khỏe thành thục tìm động mạch và ven trên cổ anh. Sau đó, khi đã xác định được vị trí chính xác trên động mạch cảnh, những ngón tay ấy bắt đầu ép một lưc rất mạnh xuống. Chỉ trong vài giây, mắt Langdon bắt đầu nhòa đi, và anh cảm thấy mình đang trôi, não không còn dưỡng khí.
Họ đang giết mình,Langdon nghĩ. Ngay ở đây, bên cạnh mộ Thánh Mark.
Mọi thứ tối sầm, nhưng dường như vẫn chưa đủ vì còn có thêm những bóng xám câm lặng xuất hiện.
Langdon không biết thời gian đã trôi qua bao nhưng lúc này thế giới bắt đầu trở lại với anh. Từ những gì anh có thể phán đoán thì anh đang ở trong một bệnh xá trên tàu. Khung cảnh vô
trùng xung quanh anh cùng với mùi cồn isopropyl tạo nên một cảm giác ngờ ngợ rất lạ, cứ như thể Langdon vừa đì trọn một vòng tròn, tỉnh lại y như đêm hôm trước, trên một giường bệnh xa lạ với những ký ức không nói được lên lời.
Ý nghĩ của anh lập tức hướng đến Sienna và sự an toàn của cô. Anh vẫn còn thấy đôi mắt nâu dịu dàng của cô nhìn xuống anh, chứa đầy hối tiếc và sợ hãi. Langdon cầu mong rằng cô thoát được và sẽ tìm cách ra khỏi Venice an toàn.
Chúng ta ở nhầm quốc gia rồi, Langdon đã nói với cô, vì sững sờ nhận ra địa điểm đích thực phần mộ của Enrico Dandolo. Toà bảo quán của tri thức thành thiêng bí ẩn trong bài thơ không nằm ở Venice, mà ở một thế giới xa vời. Đúng như tác phẩm gia Dante đã nói, ý nghĩa của bài thơ đươc giấu “bên dưới lớp màn thơ phú khó hiểu”.
Langdon định giải thích mọi việc cho Sienna ngay khi họ thoát ra khỏi hầm mộ, nhưng anh không còn cơ hội nữa.
Cô ấy bỏ chạy mà chỉ biết rằng mình đã thất bại.
Langdon cảm thấy dạ dày quặn thắt.
Đại dịch vẫn ở ngoài kia…một thế giới xa vời.
Từ bên ngoài bệnh xá, Langdon nghe thấy tiếng giầy ủng vang lên rất to trong sảnh, và ngoảnh nhìn một người đàn ông mặc áo đen đang bước vào chỗ anh nằm. Vẫn là gã lính vạm vỡ đè nghiến anh xuống sàn hầm mộ.Ðôi măt gã lạnh lẽo như đá. Bản năng của Langdon nhắc anh lùi lại khi người đàn ông tiến đên, nhưng chẳng còn chỗ nào để chạy nữa. Bất kỳ việc gì những kẻ này muốn ra tay với mình, họ đều có thể làm.
"Tôi đang ở đâu?", Langdon hỏi, giọng cố tó ra thách thức
hết mức.
"Trên một Chiếc thuyền buông neo ngoài khơi Venice.”
Langdon nhìn tấm phù hiện xanh là cây trên đồng phục của người đàn ông - một quả cầu có những chữ cái ECDC51 bao quanh.Langdon chưa bao giờ nhìn thấy biếu tượng hay cụm từ viết tắt này.
“Chúng tôi cần thông tin từ anh”, người lính nói, “và chúng tôi không có nhiều thời gian”.
"Tại sao tôi phải nói gì đó cho các người chứ?", Langdon hỏi lại. "Các người suýt giết tôi.”
“Không đến mức thế.Chúng tôi dùng một kỹ thuật vô hiệu hóa của judo gọi là shime waza.. Chúng tôi không có định làm hại anh đâu.”
“Anh bắn tôi sáng nay đấy thôi!”, Langdon nói, còn nhớ rõ âm thanh rền vang khi viên đạn bắn trúng chắn bùn chiếc Trike của Sienna. “Đạn của anh suýt trúng đốt sống tôi còn gì!”
51 Viết tắt của Europian Centre for Disease Perevention and Control.
Người đàn ông nheo mắt. “Nếu tôi muốn bắn vào sống lưng anh thì tôi đã làm được ngay rồi.Tôi chỉ bắn một viên duy nhất để xuyên thủng lốp sau xe của anh, không cho các anh chạy đi thôi. Tôi được lệnh liên hệ với anh và tìm hiểu xem tại sao anh lại hành động thất thường như vậy.”
Langdon còn chưa lĩnh hội được đầy đủ những lời này thì thêm hai người lính nữa bước qua cửa, tiến lại phía giường anh nằm.
Đi giữa họ là một người phụ nữ.
Một bóng ma.
Đầy vẻ siêu trần và thuộc về thế giới khác.
Langdon lập tức nhận ra bà ấy chính là hình ảnh trong những ảo giác của anh. Người phụ nữ trước mặt anh rất đẹp, với mái tóc bạc dài và cái bùa bằng lam ngọc. Vì trước đây, bà ấy xuất hiện trong khung cảnh đáng sợ toàn những xác chết nên Langdon phải mất một lúc lâu mới tin rằng đích thực bà ấy đang đứng trước mặt mình, bằng xương bằng thịt.
“Giáo sư Langdon”, bà ấy nói, mỉm cười mệt mỏi lúc đến bên giường anh. “Tôi thấy nhẹ người vì anh không sao.” Bà ngồi xuống và bắt mạch cho anh. “Tôi nghe nói anh bị mất trí nhớ. Anh còn nhớ tôi không?”
Langdon nhìn kỹ người phụ nữ một lúc. “Tôi đã từng…thấy hình ảnh bà, mặc dù tôi không nhớ đã gặp bà.”
Người phụ nữ cúi về phía anh, vẻ mặt đầy thông cảm. “Tên tôi là Elizabeth Sinskey. Tôi là giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới, và tôi chiêu mộ anh để giúp tôi tìm ra…”
“Một đại dịch”, Langdon nói. “Do Bertrand Zobrist tạo ra.”
Sinskey gật đầu, trông phấn khơi hẳn. “Anh còn nhớ à?”
“Không, tôi tỉnh dậy trong một bệnh viện với một cái máy chiếu nhỏ rất lạ cùng những hình ảnh về bà luôn bảo tôi hãy tìm kiếm và sẽ thấy. Đó chính là những gì tôi đang cố làm khi những người đàn ông này tìm cách giết tôi.” Langdon ra hiệu về phía những người lính.
Gã lính cơ bắp sửng cồ, rõ ràng sẵn sàng trả miếng, nhưng Elizabeth Sinskey đã vẫy tay ra hiệu cho gã im lặng.
“Giáo sư”, bà nhẹ nhàng nói,”tôi biết chắc anh bị nhầm lẫn. Là người đã lôi anh vào vụ này, chính tôi cũng hết hồn vì những gì đã xảy ra và tôi biết ơn vì anh vẫn an toàn.”
“An toàn ư?”, Langdon đáp lại. “Tôi bị mắc kẹt trên một con tàu!” Và bà cũng vậy!
Người phụ nữ tóc bạc gật đầu thông cảm. “tôi sợ rằng chứng mất trí nhớ sẽ làm đầu óc anh rối beng trước những vấn đề tôi định nói. Thế nhưng, thời gian của chúng ta rất ít, và nhiều người cần sự giúp đỡ của anh.”
Sinskey do dự, như thể không biết phải tiếp tục thế nào. “Trước hết”, bà ấy bắt đầu, “tôi cần anh hiểu rằng bụ Bruder và nhóm của anh ấy chưa bao giờ cố làm hại anh cả. Họ đang trực tiếp nhận mệnh lệnh liên hệ lại với anh bất kỳ cách cần thiết nào”.
“Liên hệ lại ư? Tôi không…”
“Giáo sư, làm ơn cứ nghe thôi. Mọi thứ sẽ được làm sáng tỏ. Tôi hứa đấy.”
Langdon yên vị trở lại trên chiếc giường bệnh xá, ý nghĩ của anh xoay vòng trong lúc tiến sĩ Sinskey nói.
“Đặc vụ Bruder và người của anh ấy là một đội SRS – Hỗ trợ giám sát và phản ứng. Họ hoạt động dưới quyền Trung tâm Phòng ngừa và Kiểm soát dịch bệnh Châu Âu.”
Langdon liếc nhìn những chiếc phù hiệu ECDC trên đồng phục của họ.Phòng ngừa và Kiểm soát dịch bệnh à?
“Nhóm của anh ấy”, bà tiếp tục, “chuyên phát hiện và ngăn chặn những hiểm họ bệnh lây lan. Về cơ bản, họ là một nhóm SWAT chuyên ứng phó với các nguy cơ sức khỏe cấp tính quy mô lớn. Anh là hy vọng duy nhất của chúng tôi trong việc xác định bệnh dịch mà Zobrist đã tạo ra, vì thế khi anh biến mất, tôi giao nhiệm vụ đó cho nhóm SRS tìm kiếm anh…Tôi triệu tập họ tới Forence để hỗ trợ tôi.”
Langdon sững sờ. “Những người lính kia làm việc cho bà sao?”
Bà gật đầu. “Mượn họ từ ECDC. Tối qua, khi anh biến mất và không gọi lại, chúng tôi nghĩ có chuyện gì đó đã xảy ra với anh. Mãi cho đến tận sáng sớm nay, khi nhóm hỗ trợ kỹ thuật của chúng tôi phát hiện thấy anh kiểm tra tài khoản thư ddienj tử Harvard của mình thì chúng tôi mới biết anh còn sống. Đến lúc đó, lời giải thích duy nhất của chúng tôi cho cách hành xử kỳ lạ của anh là anh đã đổi phe…có thể vì được đề nghị những khoản tiền rất lớn để tìm dịch bệnh cho một ai khác.”
Langdon lắc đầu. “Chuyện đó thật phi lý!”
“Phải, nó như là một kịch bản không chắc chắn, nhưng đó là cách giải thích hợp lý duy nhất – và với nguy cơ quá cao, chúng tôi không thể đánh liều. Dĩ nhiên, chúng tôi không bao giờ nghĩ ra được anh lại đang mất trí nhớ. Khi đội hỗ trợ công nghệ của chúng tôi thấy tài khoản thư điện tử Harvard của anh đột nhiên hoạt động, chúng tôi dò theo địa chỉ IP máy tính của anh thới căn hộ ở Florence và tiến vào. Nhưng anh bỏ chạy bằng chiếc xe máy, cùng với cô gái kia, càng làm tăng sự nghi ngờ của chúng tôi rằng lúc này anh đang làm việc cho một ai đó khác/”
“Chúng tôi phóng ngay qua bà!”,Langdon ngắt lời. “Tôi nhìn thấy bà ở phía sau một xe thùng đen, có lính tráng vây quanh. Tôi nghĩ bà là người bị bắt.Có vẻ như bà bị hôn mê, giống như họ đã cho bà dùng thuốc.”
“Anh nhìn thấy chúng tôi ư?” Tiến sĩ Sinskey có vẻ rất ngạc nhiên. “Lạ nhỉ, anh nói đúng…họ cho tôi dùng thuốc.” Bà dừng lại, “nhưng là chỉ vì tôi ra lệnh cho họ làm việc đó.”
 Giờ thì Langdon hoàn toàn không hiểu. Bà ấy bảo họ cho mình dùng thuốc ư?
“Có lẽ anh không còn nhớ chuyện này”, Sinskey nói, “nhưng khi chiếc C-130 của chúng ta hạ cánh tại Florence, áp suất thay đổi, và tôi bị một hiện tượng vẫn đươc gọi là mất thăng bằng vị trí đột phát – một chứng tai trong suy nhược mạnh mà tôi đã bị từ trước. Nó chỉ tạm thời và không nghiêm trọng, nhưng khiến cho nạn nhân bị chóng mặt và buồn nôn nên không thể tỉnh táo được. Bình thường, tôi phải đi nằm và rất buồn nôn. Nhưng chúng ta đang đối phó với cuộc khủng hoảng Zobrist, và vì thế tôi tự kê toa thuốc cho mình bằng những mũi tiêm metolopramide đều đặn mỗi giờ để giúp tôi chống nôn. Thuốc có hiệu ứng rất nặng là gây ra tình trạng uể oản, nhưng ít nhất nó giúp tôi có thể điều hành mọi việc bằng điện thoại từ phía sau xe thùng.Nhóm SRS muốn đưa tôi tới bệnh viện, nhưng tôi ra lệnh cho họ không được làm vậy cho tới khi chúng tôi liên hệ lại được với anh. Thật may, cuối cùng chứng mất thăng bằng cũng dứt trong chuyến bay đến Venice”.
Langdon nằm vật xuống giường, bực bội. Mình đã chạy trốn Tổ chức Y tế thế giwois suốt cả ngày- trốn chính những người chiêu mộ mình vào cuộc.
“Giờ chúng ta phải tập trung, giáo sư”, Sinskey nói, giọng bà đầy khẩn trương. “Đại dịch của Zobrist anh có manh mói xem nó ở đâu không?” Bà nhìn anh với vẻ mặt đầy mong ngóng. “Chúng ta có rất ít thời gian.”
Nó ở rất xa, Langdon muốn nói vậy, nhưng có gì đó ngăn anh lại. Anh ngước lên nhìn Bruder, gã lính đã nổ súng vào anh sáng nay và gần như bóp nghẹt anh cách đây không lâu. Với Langdon, mọi chuyện thay đổi nhanh đến mức anh không biết phải tin vào ai nữa.
Sinskey cúi xuống, nét mặt bà vẫn rất chăm chú. “Chúng tôi có linh cảm rất mạnh mẽ rằng đại dịch ở tại Venice này. Có phải vậy không?Hãy cho chúng tôi biết chỗ nào, và tôi sẽ phải một đội vào đất liền.”
Langdon do dự.
“Thưa ngài!” Bruder lên tiếng vẻ nôn nóng. “Rõ ràng ngài biết điều gì đó…hãy cho chúng tôi biết nó ở đâu! Ngài không hiểu chuyện gì sắp xảy ra sao?”
“Đặc vụ Bruder!”, Sinskey giận dữ quát gã kia. “Đủ rồi”, bà ra lệnh, sau đó quay lại Langdon và nói khẽ. “Nghĩ đến tất cả những gì anh vừa trải qua, hoàn toàn có thể hiểu rằng anh bị mất phương hướng, và không biết tin ai.” Bà ngừng lại, nhìn sâu vào mắt anh. “Nhưng thời gian của chúng ta rất ít, và tôi đang đề nghị anh tin tưởng tôi.”
“Ông Langdon có đứng lên được không?”, một giọng nói mới vang lên.
Một người đàn ông thấp nhỏ với nước da sạm nắng xuất hiện ở ngưỡng cửa. Ông ta nhìn kỹ Langdon với vẻ bình thản đã được rèn luyện, nhưng Langdon thấy rõ sự nguy hiểm trong mắt ông ta.
Sinskey ra hiệu cho Langdon ngồi dậy. “Giáo sư, đây là một người mà tôi không định hợp tác, nhưng tình hình quá nghiêm trọng nên tôi không còn lựa chọn nào khác.”
“Theo tôi”, người đàn ông nói, đi lại phía cửa. “Có thứ các vị cần xem.”
Langdon vẫn đứng nguyên. “Ông là ai?”
Người đàn ông dừng lại và khum khum những ngón tay. “Tên tuổi không quan trọng. Anh có thể gọi tôi là Thị trưởng. Tôi điều hành một tổ chức mà đã… tôi xin lỗi phải nói vậy, phạm sai lầm giúp Bertrand Zobrist đạt được mục đích của hắn. Giờ tôi đang cố gắng sửa chữa sai lầm đó trước khi quá muộn.”
“Ông muốn cho tôi xem thứ gì?”, Langdon hỏi.
Người đàn ông nhìn sững Langdon với ánh mắt kiên nghị. “Một thứ chắc chắn sẽ khiến anh có suy nghĩ rằng tất cả chúng ta cùng một chiến tuyến.”

Langdon theo người đàn ông sạm nắng đi qua cả một mê cung những hành lang chật chội ở sàn dưới tàu, cùng với tiến sĩ Sinskey và những người lính ECDC rồng rắn theo sau thành một hàng. Khi cả nhóm đến gần một cầu thang, Langdon hy vọng họ sẽ đi lên phía có ánh sáng ban ngày, nhưng họ lai đi sâu xuống phía dưới hơn.
Ở sâu trong bụng con tàu lúc này, người hướng dẫn đưa họ đi qua một khu vực gồm toàn những buồng kính kín mít – một số buồng có tường trong suốt và một số còn lại là tường mờ. Bên trong mỗi gian phòng cách âm đó, nhiều nhân viên đang miệt mài gõ máy tính hoặc nói điện thoại. Họ ngước nhìn nhóm người đang đi qua, trông họ đều rất cảnh giác khi thấy người lại mặt ở khu vực này của con tàu. Người đàn ông sạm ắng gật đầu và trấn an họ đi tiếp.
Nơi này là nơi nào? Langdon thắc mắc khi họ tiếp tục đi qua một loạt khu vực làm việc được thiết kế san sát.
Cuối cùng, vị chủ tàu đưa họ đến một phòng họp lớn, và tất cả đều bước vào. Khi cả nhóm đã ngồi xuống, người đàn ông ấn một cái nút, những bức tường kính đột nhiên chuyển sang mờ đục, nhốt kín họ bên trong. Langdon giật mình, vì chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì như thế này.
“Chúng ta đang ở đâu?” Cuối cùng Langdon lên tiếng hỏi.
“Đây là tàu của tôi – The Medacium.”
“Medacium à?”, Landon hỏi. “Như trong… tên gọi Latin của Pseudologos – vị thần dối trá của người Hy Lạp à?
Người đàn ông có vẻ rất ấn tượng. “ Không có nhiều người biết điều đó đâu.”
Một danh hiệu không hay tí nào, Langdon nghĩ thầm. Medacium là vị thần hắc ám cai quản tất cả những pseudologoi – những con quỷ chuyên dối trá, lừa lọc và dựng chuyện.
Người đàn ông rút ra chiếc thẻ nhớ nhỏ màu đỏ và cắm vào một ổ điện tử ở cuối phòng. Một màn hình LCD phẳng rất lớn nhấp nháy sáng lên, và các ngọn đèn trên đầu mờ đi.
Trong không khí im lặng, Langdon nghe thấy tiếng nước vỗ nhè nhẹ. Mới đầu anh nghĩ những âm thanh đó đến từ phía ngoài con tàu, nhưng sau đó anh nhận ra ra âm thanh ấy đến từ loa của màn hình LCD. Một hình ảnh từ từ hiện ra – một vách hang nước rỏ tong tong, được chiếu thứ ánh sáng màu đỏ lập lòe.
“Bertrand Zobrist đã tạo ra đoạn video này”, vị chủ tàu của họ lên tiếng. “Và ông ta đề nghị tôi tung nó ra trước thế giới vào ngày mai.”
Không tin nổi, Langdon trân trối nhìn đoạn phim kỳ quái – một không gian trong hang với một hồ nước để tiến gần phần nền lát gạch phủ bùn có bắt vít một tấm biển ghi TẠI NƠI NÀY, VÀO NGÀY NÀY, THẾ GIỚI THAY ĐỔI MÃI MÃI.
Tấm biển ký tên: BERTRAND ZOBRIST.
Ngày tháng chính là ngày mai.
Chúa ơi! Langdon quay sang Sinskey khuất trong bóng tối, nhưng bà ấy đang nhìn vô định xuống nền gạch, rõ ràng đã xem đoạn phim rồi, và chắc chắn không muốn xem lại lần nữa.
Giờ máy quay lia sang trái, Langdon nhìn thấy lơ lửng dưới nước là một bong bóng bằng nhựa trong suốt bập bềnh, bên trong chứa một thứ chất lỏng màu vàng nâu sền sệt. Cái quả cầu đó có vẻ được cột xuống nền nên không thể trồi hẳn lên mặt nước.
Cái quái gì vậy? Langdon nhìn kỹ cái túi căng phồng đó. Thứ chất nhầy nhụa bên trong có vẻ đang xoay chầm chậm, gần như đang cháy âm ỉ.
Langdon nín thở. Dịch bệnh của Zobrist.
“Cho dừng lại.” Sinskey nói trong bóng tối.
Hình ảnh dừng lại – một túi chất dẻo bị cột chặt lơ lửng dưới nước – một đám mây chất lỏng được bọc kín lững lờ trong không gian.
“Tôi nghĩ các vị có thể đoán được thứ đó là gì”, Sinskey nói, “Câu hỏi là, nó còn được bọc kín như vậy bao lâu nữa?” Bà đi lại phía màn hình LCD và chỉ vào một dấu vết rất nhỏ trên cái túi trong suốt. “Rất tiếc, thứ này cho chúng ta biết cái túi đó làm bằng gì. Các vị có đọc được không?”
Tim đập rộn lên, Langdon nheo mắt nhìn dòng chữ, chính là thương hiệu của nhà sản xuất: Solublon.
“Hãng sản xuất chất dẻo có thể tan trong nước lớn nhất thế giới” Sinskey nói.
Langdon cảm thấy dạ dày thắt lại. “Bà nói rằng cái túi này đang…tan dần phải không?!”
Sinskey nhăn nhó gật đầu với anh. “Chúng tôi đã liên hệ với nhà sản xuất, và nhờ đó biết rằng, thật không may họ sản xuất hàng chục loại chất dẻo kiểu này khác nhau,chục loại chất dẻo này khác nhau, tan hết ở bất cứ chỗ nào từ mười phút đến mười tuần, tùy cách sử dụng. Tốc độ phân hủy cũng có chút thay đổi tùy theo loại nước và nhiệt độ, nhưng chúng tôi biết chắc rằng Zobrist tính toán rất kỹ những nhân tố này”. Bà ngừng lại. “Chúng tôi tin rằng cái túi này sẽ tan hết vào…”
“Ngày mai”, Thị trưởng chen ngang. “Ngày mai là ngày Zobrist khoanh tròn trên cuốn lịch của tôi. Và cũng là ngày ghi trên tấm biển.”
Langdon ngồi im trong bóng tối, không nói lên lời.
“Cho anh ấy xem nốt đi”, Sinskey nói.
Trên màn hình LCD, hình ảnh video trở lại, giờ máy quay lia theo phần nước được chiếu sáng vào khoảng tối của hang. Langdon biết chắc đây là địa diểm được nói đến trong bài thơ. Cái đầm không thể phản chiếu ánh sao.
Cảnh tượng này gợi nhớ đến những hình dung của Dante về địa ngục – dòng sông Cocytus chảy qua những hang hốc của âm ty.
Cho dù cái đầm này tọa lạc ở đâu thì nước của nó cũng được bưng kín trong những bức tường trơn tuột mà theo Langdon cảm nhận, đó là do bàn tay con người làm ra. Anh cũng cho rằng máy quay chỉ mới hé lộ một góc nhỏ của không gian rộng lớn bên trong, và điều này được củng cố nhờ sự hiện diện của những cái bóng lờ mờ nằm dọc trên tường. Những cái bóng ấy rất lớn, có hình trụ và ở vị trí cách đều nhau.
Những cột trụ, Langdon nhận ra như vậy.
Trần hang được đỡ bằng hàng cột trụ.
Đầm nước này không phải nằm trong một cái hang, mà trong một gian phòng rộng.
Hãy lần sâu vào tòa cung điện bị chìm…
Anh chưa kịp nói lời nào thì đã phải chú ý đến sự xuất hiện của một cái bóng mới trên tường – một hình người với cái mũ mỏ chim dài.
Ôi, lạy Chúa lòng lành…
Cái bóng bắt đầu nói, từ ngữ của nó bị bóp méo, thành những tiếng thì thầm lan trên mặt nước theo nhịp thơ rất lạ.
“Ta là sự cứu rỗi. Ta là Vong linh.”
Mấy phút tiếp theo, Langdon đã phải xem đoạn phim kinh dị nhất mà anh từng thấy. Roc ràng, đam me của một thiên tài điên rồ, lời độc thoại của Bertrand Zobrist – được truyền tải dưới lớp vỏ của một bác sĩ dịch hạch – có rất nhiều dẫn giải đến Hỏa ngục của Dante và mang theo một thông điệp rõ ràng: Tăng trưởng dân số đang vượt ra khỏi tầm kiểm soát, và sự tồn vong của nhân loại đang như chỉ mành treo chuông.
Trên màn hình, giọng nói vẫn vang lên:
“Không làm gì cả chính là chào đón địa ngục của Dante… tù túng và đói khát, ngập chìm trong Tội lỗi. và vì thế ta mạnh dạn hành động. Một số kẻ sẽ co rúm lại sợ hãi, nhưng sự cứu rỗi nào cũng có giá của nó. Một ngày nào đó thế giới sẽ há hốc mồm trước vẻ đẹp của thứ ta hiến tế.”
Langdon giật mình khi đích thân Zobrist xuất hiện, phục sức như một bác sĩ dịch hạch, và sau đó lột mặt nạ của mình. Langdon nhìn sững bộ mặt dễ sợ và đôi mắt xanh lục hoang dại, nhận ra rằng cuối cùng anh cũng nhìn thấy bộ mặt của gã đàn ông đang là trung tâm của cuộc khủng hoảng này. Zobrist lại bắt đầu lải nhải về tình yêu của hắn với một người nào đó mà hắn gọi là nguồn cảm hứng cho hắn.
“Ta trao gửi tương lai vào đôi tay dịu dàng của em. Công trình bên dưới của ta đã hoàn thành. Và giờ đây đã đến lúc ta leo trở lại thế giới bên trên… và lại ngắm nhìn những vì sao.”
Khi đoạn video kết thúc, Langdon nhận ra những lời nói cuối cùng của Zobrist gần như lặp lại những lời cuối cùng trong Hỏa ngục của Dante.
Trong bóng tối của phòng họp, Langdon nhận ra rằng tất cả những khoảnh khắc sợ hãi mà anh trải qua hôm nay đều kết tinh thành một thực tế đáng sợ duy nhất.
Giờ đây Bertrand zobrist có hẳn một khuôn mặt… và một giọng nói.
Đèn phòng họp lại sáng lên, Và Langdon nhìn thấy tất cả mọi ánh mắt đều dồn về phía anh đầy mong ngóng.
Vẻ mặt Elizabeth Sinskey dường như đông cứng khi bà đứng lên và bồn chồn mân mê cái bùa của mình. “Giáo sư, rõ ràng tời gian của chúng ta rất ngắn. Tin tức tốt lành duy nhât scho đến lúc này là chúng ta không có trường hợp phát hiện mầm bệnh nào, hay có tin báo về bệnh, cho nên chúng ta cho rằng cái túi Solublon lơ lửng kia vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng chúng ta không biết tìm nó ở đâu. Mục tiêu của chúng ta là vô hiệu hóa mối đe dọa này bằng cách cách ly cái túi trước khi nó vỡ bung. Cách duy nhất chúng ta có thể làm được việc đó, dĩ nhiên, là tìm ra vị trí của nó ngay lập tức.”
Giờ đây đặc vụ Bruder đứng dậy, đăm đăm nhìn Langdon. “Chúng tôi đinh ninh rằng anh đến Venice vì anh biết rằng đây là nơi Zobrist giấu bệnh dịch của hắn.”
Langdon nhìn đám người trước mặt mình, những gương mặt căng thẳng vì sợ hãi, tất cả mọi người đều hy vọng một phép màu, vá anh ước gì mình có những tin tức tốt lành hơn để nói cho họ biết.
“Chúng ta đã ở nhầm quốc gia rồi”, Langdon tuyên bố. “Những gì các vị tìm kiếm cách đây ngót một nghìn dặm cơ.”
***
Ruột gan Langdon dội lại tiếng động cơ đều đều của tàu The Mendacium khi con tàu tăng tốc lượn một vòng rộng, hướng trở lại sân bay Venice. Trên tàu, tất cả bắt đầu nháo nhào. Thị trưởng hối hả lớn tiếng ra lệnh cho người của mình. Elizabeth Sinskey vớ lấy điện thoại và gọi phi công chiếc máy bay vận tải C-130 của WHO, yêu cầu họ sẵn sàng bay ra khỏi sân bay Venice càng sớm càng tốt. Và đặc vụ Bruder lập tức ngồi trước máy tính xách tay để tìm kiếm một nhóm quốc tế mà anh ta có thể phối hợp tại đích đến cuối cùng.
Một thế giới xa vời.
Giờ Thị trưởng quay lại phòng họp và gấp gáp nói với Bruder. “Có thêm tin gì từ giới chức Venice chưa?”
Bruder lắc đầu. “Không có dấu vết gì. Họ đang tìm, nhưng Sienna Brooks đã biến mất.”
Langdon hiểu ngay. Họ đang tìm Sienna sao?
Sinskey kết thúc cuộc gọi và đến nói chuyện cùng. “Chưa tiến triển gì trong việc tìm kiếm cô ta sao?”
Thị trưởng lắc đầu. “Nếu bà đồng ý, tôi nghĩ WHO cần cho phép sử dụng sức mạnh nếu cần thiết để đưa cô ta về.”
Langdon bật dậy. “Tại sao?! Sienna Brooks không liên quan gì đến chuyện này!”
Đôi mắt đen của Thị trưởng quay sang Langdon. “Giáo sư, có một vài chuyện tôi phải nói với anh về cô Brooks.”

Chen qua đám đông khách du lịch trên cầu Rialto, Sienna Brooks bắt đầu chạy, gấp gáp lao về phía tây dọc theo lối đi Fondamenta Vin Castello phía trước con kênh.
Họ đã bắt được Robert.
Cô vẫn còn thấy ánh mắt tuyệt vọng của anh ngước nhìn lên chỗ mình khi những người lính kéo tuột anh xuống khỏi giếng lấy sáng và lôi vào hầm mộ. Cô biết chắc rằng những người bắt giữu anh sẽ nhanh chóng thuyết phục anh, bằng cách này hay cách khác, tiết lộ mọi điều anh đã đoán ra.
Chúng ta ở nhầm quốc gia rồi.
Thế nhưng, tai hại hơn nữa là cô biết rõ những người bắt giữ anh sẽ không phí thời gian tiết lộ cho Langdon biết bản chất thật sự của tình hình.
Em rất xin lỗi, Robert.
Vì mọi chuyện.
Xin hiểu cho, em không còn lựa chọn nào.
Thật lạ, Sienna đã thấy nhớ anh mất rồi. Ở đây, giữa đám đông người tại Venice, cô vẫn cảm thấy sự cô độc quen thuộc.
Cái cảm giác ấy chẳng có gì mới cả.
Từ thời niên thiếu, Sienna Brooks đã luôn cảm thấy đơn độc.
Lớn lên với trí thông minh xuất chúng, Sienna có cả một thời tuổi trẻ luôn cảm thấy mình là kẻ xa lạ ở một vùng đất xa lạ - một kẻ ngoại lai bị mắc kẹt trong một thế giới đơn độc. Cô đã cố gắng kết bạn, nhưng bạn bè đồng trang lứa đều chỉ biết đắm đuối với những thứ phù phiếm mà cô không hề quan tâm. Cô cố gắng tôn trọng những người hơn tuổi, nhưng hầu hết người lớn dường như đếu chẳng khác gì những đứa trẻ đang già đi, thiếu ngay cả kiến thức cơ bản nhất về thế giới quanh họ, và tệ nhất là họ thiếu thái độ tò mò hay quan tâm đến thế giới ấy.
Mình cảm thấy mình chẳng thuộc về nơi nào cả.
Và vì thế Sienna Brooks học cách trở thành một bóng ma. Vô hình. Cô học cách làm một kẻ biết thích nghi, một diễn viên, phô bày một gương mặt khác hẳn giữa đám đông. Niềm đam mê thời niên thiếu của cô dành cho sân khấu bắt nguồn từ những gì sẽ trở thành giấc mơ suốt đời của cô, đó là biến thành một người khác, cô biết rõ như vậy.
Một người bình thường.
Vai diễn trong vở Giấc mộng đêm hè của Shakespeare giúp cô cảm thấy hòa nhập, bởi những diễn viên đã trưởng thành không hề tự phụ mà luôn ủng hộ, giúp đỡ cô. Tuy nhiên, niềm vui thích của cô không kéo dài lâu, nó tan biến ngay khi cô rời sân khấu vào đêm mở màn và đối diện với cả đám người của truyền thông với những cặp mắt hiếu kỳ, trong khi các bạn diễn của cô lặng lẽ lẻn ra khỏi cửa sau mà không bị chú ý.
Lên bảy tuổi, Sienna đã đọc sách đủ nhiều để có thể chẩn đoán được mình mắc phải căn bệnh trầm cảm. Khi cô nói cho cha mẹ mình, họ dường như chết lặng, vì họ luôn biết con gái mình không được bình thường. Tuy nhiên, họ vẫn gửi cô tới một bác sĩ tâm thần. Bác sĩ hỏi cô rất nhiều câu hỏi mà chính Sienna đã tự hỏi mình, và rồi ông ấy kê một dơn thuốc gồm amitrityline và chlordiazepoxide52.
52 Hai loại thuốc an thần, chống trầm cảm.
Sienna nổi khùng và nhảy khỏi ghế. “Amitrityline ư?!”, cô thách thức, “Cháu muốn hạnh phúc hơn – không phải làm xác sống!”
Vị bác sĩ tâm thần, quả không hổ danh, vẫn rất bình tĩnh trước cơn giận dữ của cô bé và lại nêu ra gợi ý thứ hai. “Sienna, nếu cháu không muốn dùng thuốc, chúng ta có thể thử một phương pháp tổng quát hơn.” Ông ấy ngừng lại. “Có vẻ như cháu đang bị kẹt trong vòng tròn luẩn quẩn với suy nghĩ về bản thân cũng như cho rằng cháu không thuộc về thế giới này.”
“Đúng như vậy”, Sienna đáp. “Cháu đã cố không như vậy, nhưng cháu không thể!”
Ông ấy mỉm cười bình tĩnh. “Dĩ nhiên cháu không thể ngừng được. Bộ óc con người không thể thôi suy nghĩ. Tâm hồn luôn cần những cảm xúc, và nó sẽ tiếp tục tìm kiếm liệu cho tình cảm đó – tốt hoặc xấu. Vấn đề là cháu đang cấp cho nó không đúng nhiên liệu nó cần.”
Sienna chưa bao giờ nghe ai nói về tư duy với những thuật ngữ máy móc như vậy, và cô lập tức thấy tò mò. “Làm thế nào cháu cấp cho nó một loại nhiên liệu khác được?”
“Cháu cần thay đổi mối quan tâm của mình”, ông ấy nói. “Hiện tại, cháu chủ yếu nghĩ về bản thân. Cháu tự hỏi tại sao cháu không thích hợp… và có chuyện gì không ổn với cháu.”
“Đúng thế ạ”, Sienna lại nói, “nhưng cháu chỉ cố giải quyết vấn đề. Cháu cố gắng thích nghi. Cháu không thể giải quyết vấn đè nếu cháu không nghĩ về nó”.
Ông ấy bật cười. “Bác tin rằng nghĩ về một vấn đề… chính là vấn đề của cháu.” Ông bác sĩ gợi ý rằng cô thử thay đổi mối quan tâm khỏi bản thân mình và các vấn đề của chính mình, hướng sự chú ý đến thế giới xung quanh và những vấn đề của nó.
Đó chính là lúc mọi thứ thay đổi.
Cô bắt đầu dồn hết mọi năng lực, không phải vào nỗi chán nản bản thân, mà vào việc thương cảm những người khác. Cô bắt đầu một sáng kiến mang tính bác ái, phân phát súp tại các khu nhà tạm cho người vô gia cư, và đọc sách cho người mù. Thật kỳ lạ, không ai trong số những người Sienna giúp đỡ có vẻ thấy rằng cô khác thường cả. Họ chỉ tỏ lòng biết ơn người đã quan tâm họ.
Sienna làm việc chăm chỉ hơn mỗi tuần, gần như không ngủ vì nhận ra rằng có rất nhiều người cần sự giúp đỡ của cô.
“Sienna, từ từ thôi!”, mọi người khuyên can cô. “Cô không thể cứu cả thế giới được đâu!”
Nói ra điều ấy mới kinh khủng làm sao.
Qua những hành động vì cộng đồng, Sienna được tiếp xúc với vài thành viên của một nhóm nhân đạo địa phương. Khi họ mời cô tham gia với họ trong một chuyến đi dài cả tháng tới một trong những thành phố dông đúc nhất thế giới, cô đã nắm lấy cơ hội ngay.
Sienna cứ ngỡ họ sẽ đi giúp những ngư dân hoặc nông dân nghèo ở thôn quê, được thăm xứ sở có vẻ đẹp địa lý thần tiên, hay những vùng đáy biển rực rỡ và những đồng bằng đẹp mê hồn. Nhưng khi tới nơi, Sienna chỉ biết há hốc miệng vì hãi hùng. Cô chưa bao giờ thấy cảnh nghèo khó đến mức độ này.
Làm thế nào một người có thể làm ra sự khác biệt được?
Khi Sienna cho một người ăn thì có hàng trăm người khác nhìn chòng chọc cô với cặp mắt sầu não. Thành phố này có những vụ kẹt xe dài đén hàng tiếng, lại bị ô nhiễm nặng, và tình trạng kinh doanh tình dục kinh khủng, với công nhân tình dục chủ yếu là trẻ em, nhiều em bị chính bố mẹ bán vào các ổ chứa với niềm an ủi rằng ít nhất con cái họ cũng sẽ được cho ăn uống.
Trong môi trường hỗn loạn của nạn mại dâm trẻ em, ăn mày, móc túi và tệ hơn nữa, Sienna thấy mình đột nhiên như tê liệt. Tất cả mọi thứ xung quanh cô, cô đều thấy nhân tính bị lấn át bời bản năng nguyên thủy trước sự tồn tại. Khi đối diện với tuyệt vọng… con người trở thành loài vật.
Toàn bộ tâm trạng chán nản u uất lại ồ ạt tràn về với Sienna. Cô đột nhiên hiểu ra nhân loại là thế nào – một giống loài bên bờ vực.
Mình nhầm rồi, cô nghĩ. Mình không thể cứu được thế giới.
Như hóa điên, cô vụt bỏ chạy qua các đường phố, len lách qua đám đông, xô ngã họ, đạp lên họ, tìm kiếm một không gian thoáng đãng.
Mình đang chết ngạt vì thịt người!
Lúc bỉ chạy, cô lại cảm thấy những cặp mắt đang nhìn mình. Cô không còn hòa nhập nữa. Cô cao ráo và có nước da trắng trẻo với mái tóc đuôi ngựa vàng óng ả vung vẩy sau lưng. Những gã đàn ông chòng chọc nhìn cô như thể cô đang trần truồng.
Cuối cùng, khi hai chân rã rời, cô không còn biết mình đã chạy được bao xa hay đi đến đâu nữa. Sau khi lau sạch nước mắt và bụi bẩn, cô nhận ra mình đang đứng ở một khu ổ chuột – một khu phố làm bằng những mảnh tôn lượn sóng, bìa cứng dựng lên và buộc lại với nhau. Xung quanh cô, những tiếng khóc của trẻ nhỏ và mùi hôi thối của chất thải người ngập ngụa không khí.
Mình vừa chạy qua cánh cổng địa ngục.
“Cô em”, một giọng nói bỉ ổi vang lên sau lưng cô. “Giá bao nhiêu?”
Sienna quay người lại, thấy ba gã thanh niên đang tiến lại, hau háu như lũ sói. Cô lập tức hiểu rằng mình đang gặp nguy hiểm và cô cố gắng lùi lại, nhưng chúng đã quây lấy cô, như những con thú săn mồi cùng đi săn theo đàn.
Sienna hét lên cầu cứu, nhưng chẳng có ai chú ý đến tiếng cô. Cách đó chỉ hơn bốn mét, cô nhìn thấy một bà già đang ngồi trên một lốp xe, gọt một củ hành già bằng con dao hoen gỉ. Bà già thậm chí không hề ngước lên khi Sienna kêu cứu.
Khi lũ kia tóm và kéo cô vào một cái lán nhỏ, Sienna còn không biết chuyện gì đang xảy ra, và hoàn toàn bị nỗi sợ hãi lấn át. Cô kháng cự bằng mọi khả năng có thể, nhưng chúng rất khỏe, nhanh chóng vật cô xuống một tấm nệm bẩn thỉu, cũ kỹ.
Chúng xé toang áo cô, cào cấu làn da mềm mại của cô. Khi cô kêu thét, chúng nhét chiếc áo rách của cô vào sâu trong miệng cô đến mức cô nghĩ mình sẽ chết nghẹn. Rồi chúng lật sấp cô xuống, ấn mặt cô vào tấm đệm hôi hám.
Sienna Brooks luôn cảm thấy thương xót những sinh linh ngu xuẩn cứ đi tin vào Chúa trong cái thế giới đầy rẫy đau khổ này, nhưng khi ấy chính cô lại cầu nguyện, cầu nguyện bằng tất cả trái tim mình.
Xin Chúa hãy giải thoát con khỏi lũ quỷ này.
Thậm chí khi cầu nguyện, cô vẫn nghe thấy lũ đàn ông cười, chọc ghẹo trong lúc những bàn tay nhớp nhúa kéo tuột chiếc quần bò của cô xuống đôi chân đang cố vùng vẫy. Một gã trong số đó leo lên lưng cô, mồ hôi nhoe nhoét và nặng ghê gớm, hơi thở của hắn như thấm vào da thịt cô.
Mình là trinh nữ, Sienna nghĩ. Đây là chuyện sẽ xảy ra với mình sao.
Đột nhiên gã đàn ông trên lưng cô tuột xuống, những tiếng cười cợt chọc ghẹo biến thành những tiếng rú giận dữ và khiếp hãi. Thứ mồ hôi nóng hổi lăn trên lưng Sienna đột nhiên phun mạnh lên tấm đệm thành những giọt đỏ rực.
Khi Sienna lật người lại để xêm chuyện gì xảy ra, cô thấy bà già với củ hành gọt dở và con dao gỉ đang đứng phía trên kẻ tấn công cô, lúc này máu me đầm đìa phun ra từ sau lưng.
Bà già trừng mắt đầy hăm dọa với hai gã còn lại, tay vung vẩy con dao đẩm máu trong không khí cho đến khi ba gã vội vàng bỏ chạy.
Không nói một lời, bà già giúp Sienna lấy lại quần áo và mặc vào.
“Salamat”, Sienna nói khẽ trong nước mắt. “Cám ơn bà.”
Bà già vỗ vào tai, ra ý bà bị điếc.
Sienna chắp hai tay, nhắm mắt, và cúi đầu kính cẩn. Khi cô mở mắt ra, bà già đã đi mất.
Sienna rời khỏi đất nước ấy ngay lập tức, thậm chí còn không chào tạm biệt những thành viên khác của nhóm. Cô không bao giờ nói đến chuyện đã xảy ra với mình. Cô hy vọng răng việc lờ đi sự cố đó sẽ khiến nó chóng phai nhạt, nhưng điều đó dường như chỉ càng thêm tệ hại. Nhiều tháng sau, cô vẫn bị những cơn hoảng hốt ám ảnh về đêm, và cô không còn cảm thấy an toàn ở bất kỳ nơi nào nữa. Cô học võ, và mặc dù nhanh chóng thành thạo lỹ năng điểm mạch53 chết người, cô vẫn cảm thấy đầy rủi ro ở mọi nơi mình đến.
53 Nguyên văn: “Dim Mak”, hay tiếng Anh “Touch of Death” (điểm mạch), là một kỹ thuật trong võ thuật được cho là có thể giết người nhằm vào một số khu vực đặc biệt của cơ thể mà không phải dùng lực quá nhiều. Điểm mạch được mô tả là một bí kíp với những kỹ thuật tấn công vào các huyệt vị và kinh mạch, làm đối thủ mất năng lực hoặc gây chết người ngay lập tức hoặc từ từ.
Cảm giác chán nản trở lại, còn tăng lên gấp bội, và cuối cùng cô không ngủ được nữa. Mỗi lần chải đầu, cô lại nhận thấy từng mảng tóc rụng xuống, ngày một nhiều thêm. Cô vô cùng sợ hãi khi thấy chỉ trong vòng vài tuần, cô đã trọc nửa đầu, có những triệu chứng mà cô tự chẩn đoán là telegenic effluvium – hiện tượng rụng tóc liên quan đến căng thẳng và không có cách chữa trị nào khác ngoài việc xử lý chính tình trạng đó. Mỗi lần ngắm mình trong gương, cô lại nhìn cái đầu đang hói dần và cảm thấy tim mình đập loạn lên.
Mình trông như một mụ già!
Cuối cùng, cô không còn lựa chọn nào khác ngoài việc cạo trọc đầu. Ít nhất trông cô cũng không còn già nữa. Đơn giản là trông cô ốm yếu thôi. Không muốn giống như một bệnh nhân ung thư, cô mua một bộ tóc giả, vấn thành kiểu tóc đuôi ngựa, và ít nhất trông giống như cô khi trước.
Tuy nhiên, trong lòng Sienna Brooks đã thay đổi hẳn.
Mình đã bị hủy hoại.
Với cố gắng tuyệt vọng nhằm bỏ lại cuộc đời mình phía sau, cô tới Mỹ và học trường y. Cô luôn thích ngành y khoa, và hy vọng rằng làm một bác sĩ sẽ khiến cô cảm thấy mình đang cống hiến, như vậy ít nhất cô cũng có thể làm việc gì đó để làm dịu nỗi đau của cơ thế giới nhiễu nhương này.
Mặc dù học dài nhưng Sienna có thể thiếp thu mọi kiến thức rất dễ dàng, do đó khi các bạn cùng lớp bận học thì cô tìm một việc làm bán thời gian để kiếm thêm chút tiền. Tuy không phải trong kịch Shakespeare, nhưng những kỹ năng và ngôn ngữ và ghi nhớ giúp cô trút bỏ cảm giác mình đang làm việc, mà thay vào đó là đang diễn xuất, việc này giống như một nơi ẩn náu giúp Sienna có thể quên đi mình là ai và trở thành một người khác.
Là bất cứ ai khác.
Sienna đã cố gắng lẩn tránh nhân dạng của mình kể từ lần đầu tiên biết nói. Khi cò bé, cô đã né tránh không dùng tên thật, Felicity, mà dùng tên đệm, Sienna. Felicity nghĩa là “vận may”, và cô biết mình chẳng hề được như vậy.
Hãy dừng tập trung vào những vấn đề của chính mình, cô tự nhắc nhở. Hãy tập trung vào vấn đề của thế giới.
Những gì Sienna từng chứng kiến trong chuyến đi vừa qua đã khơi dậy trong cô một mối lo về tình trạng quá dông đúc và vấn dề dân số thế giới. Chính khi đó cô phát hiện ranhwngx bài viết của Bertrand Zobrist, một chuyên gia di truyền học đã đề xuất một số lý thuyết rất tiến bộ về dân số thế giới.
Anh ấy là một thiên tài, cô nhận ra như vậy khi đọc các tác phẩm của ông ta. Sienna chưa bao giờ có cảm giác như vậy về người khác, và càng đọc Zobrist, cô càng cảm thấy như thẻ mình đang nhìn thấu trái tim của một con người chung trí hướng. Bài viết “Bạn không thể cứu thế giới” của ông khiến Sienna nhớ về những gì mọi người thường nói với cô lúc bé, nhưng Zobrist tin vào điều ngược lại.
Bạn CÓ THỂ cứu được thế giới, Zobrist viết. Nếu không phải là bạn, thì là ai? Nếu không phải lúc này thì là khi nào?
Sienna nghiên cứu kỹ những phương trình toán học của Zobrist, tìm hiểu những dự đoán của ông ta về một thảm họa theo thuyết Malthus cùng sự diệt vong sắp tới của loài người. Đầu óc cô ham thích những phỏng đoán trù vận, nhưng cô cảm thấy mức độ căng thẳng của mình tăng lên khi nhìn thấy toàn bộ tương lai trước mắt được dảm bảo bằng những phép toán, rõ ràng là không thể tránh khỏi.
Tại sao không ai khác nhìn thấy điều này đang xảy đến?
Mặc dù thấy kinh sợ trước những ý tưởng của ông ta, Sienna vẫn bị ám ảnh bởi Zobrist, xem video những bài diễn giải của ông ta, đọc mọi thứ ông ta viết. Khi Sienna nghe tin ông ta có một Chương trình nói chuyện ở Hoa Kỳ, cô biết mình phải tới gặp ông ta. Và đó là đêm toàn bộ thế giới của cô thay đổi.
Một nụ cười nở trên gương mặt cô, một khoảnh khắc hạnh phúc hiếm hoi, và cô lại hình dung ra cái buổi tối kỳ diệu – một buổi tối cô còn nhớ rõ cách đây chỉ vài giờ lúc đang ngồi trên tàu hỏa cùng Langdon và Ferris.
Chicago. Trận bão tuyết.
Tháng Giêng, sáu năm về trước… nhưng vẫn có cảm giác như mới hôm qua. Mình đang lê bước trên những đống tuyết trăng dọc đại lộ Magnifcent Mile hút gió, cổ áo dựng đứng lên trong cơn nhòa trắng chói mắt. Dù lạnh, mình vẫn tự nhủ rằng chẳng có gì ngăn mình đi tới đích đến. Tối nay là cơ hội mình được nghe Bertrand vĩ đại nói chuyện riêng.
Hội trường gần như vắng tanh khi Bertrand lên san khấu, và anh ấy cao… rất cao… với đôi mắt màu lục lanh lợi sâu thẳm như nắm bắt toàn bộ bí mật của thế giới.
“Vứt cha cái khán phòng trống trơn này đi thôi”, anh ấy nói. “Chúng ta tới quán rượu nào!”
Và rồi bọn mình đến đó, chỉ có một nhúm, trong một không gian buồng yên tĩnh, trong khi anh ấy nói về di truyền học, về dân số, về niềm say mệ mới nhất của anh ấy – Siêu nhân học.
Càng uống, mình càng cảm thấy như thể mình đang được gặp gỡ riêng một ngôi sao nhạc rock vậy. Mỗi lần Zobrist liếc nhìn mình, đoi mắt xan lục của anh ấy lại làm dấy lên trong mình một cảm giác hoàn toàn khác lạ -một ham muốn nhục dục sâu thẳm.
Đó là một cảm giác hoàn toàn mới mẻ với mình.
Rồi chỉ còn lại chúng mình.
“Cảm ơn anh vì buổi tối nay”, mình nói với anh ấy, hơi ngà ngà vì quá chén. “Anh đúng là một giáo viên tuyệt vời.”
“Lại tâng bốc phải không?”, Zobrist mỉm cười và ghé lại gần hơn, giờ chân bọn mình đã chạm nhau. “Điều đó sẽ đưa em đi tới mọi nơi đấy.”
Chuyện tán tỉnh rõ ràng không thích hợp tí nào nhưng đó là một đêm gió tuyết tại một khách sạn vắng vẻ ở Chicago, và có cảm giác như cả thế giới ngừng lại.
“Vậy em nghĩ gì nào?”, Zobrist nói. “Uống với anh vài ly tại phòng anh nhé?”
Mình như đông cứng lại, biết rõ chắc chắn mình trông giống như một con hươu trước ánh đèn pha. Mình không biết làm việc này như thế nào!
Đôi mắt của Zobrist hấp háy ân cần. “Để anh đoán nhé”, anh ấy thì thào. “Em chưa bao giờ ở cùng với một người đàn ông nổi tiếng.”
Mình cảm thấy máu dồn lên mặt, cố gắng dấu đi những cảm xúc dâng trào – xấu hổ, phấn khích, sợ hãi. “Thực ra, nói rất thật”, mình nói với anh ấy, “em chưa bao giờ ở cùng bất kỳ người đàn ông nào”.
Zobrist mỉm cười và nhích lại sát hơn. “Anh không biết chắc em đang chờ đợi điều gì, nhưng hãy để anh là người đầu tiên của em.”
Khoảnh khắc ấy, mọi nỗi sợ hãi và thất vọng nhục dục quái lạ từ thời niên thiếu của mình biến mất, như bốc hơi vào màn đêm gió tuyết.
Thế rồi, mình trần truồng trong vòng tay anh ấy.
“Thư giãn đi, Sienna”, anh ấy thì thầm, và sau đó, với đôi bàn tay kiên nhẫn, anh ấy mơn trớn cơ thể ngây dại của mình và mang lại những cảm xúc mình chưa bao giờ hình dung chúng có thể tồn tại.
Trong vòng tay ôm ấp của Zobrist, mình cảm thấy như thể mọi thứ trên thế giới đều đâu vào đấy, và mình biết cuộc đời mình có mục đích.
Mình đã tìm thấy Tình yêu.
Và mình sẽ đi theo nó tới bất kỳ đâu.

Ở boong trên con tàu The Mendacium, Langdon bám chặt lấy hàng lan can bằng gỗ tếch bóng loáng, gắng trụ vững trên đôi chân đang loạng choạng, và cố lấy lại nhịp thở. Không khí trên biển giờ lạnh hơn, và tiếng ồn của những chiếc máy bay thương mại tầm thấp cho anh biết họ đang đến gần sân bay ở Venice.
Có một vài chuyện tôi phải nói với anh về cô Brooks.
Thị trưởng và tiến sĩ Sinskey, đứng cạnh anh trên lan can vẫn im lặng nhưng rất chu đáo, cố gắng dành cho anh một khoảng thời gian để lấy lại bình tĩnh. Những gì họ vừa nói với Langdon ở boong dưới khiến anh mất phương hướng và buồn đến mức Sinskey phải đưa anh ra ngoài để hít thở không khí thoáng đãng.
Không khí biển cả thật trong lành, nhưng đầu óc Langdon vẫn không thể nào thông suốt. Tất cả những gì anh có thể làm là nhìn mông lung xuống lằn nướcdo con tàu tạo ra, cố gắng tìm kiếm một chút logic cho những gì anh vừa được nghe.
Theo lời Thị trưởng, Sienna Brooks và Bertrand Zobrist là tình nhân đã lâu. Họ cùng nhau tham gia rất tích cực vào phong trào Siêu nhân học ngầm dưới một số hình thức. Tên đầy đủ của cô là Felicity Sienna Brooks, nheng cô cũng có mật danh FS-2080 liên quan đến tên viết tắt và năm có ngày sinh nhật tròn một trăm của mình.
Không chi tiết nào có ý nghĩa gì cả!
“Tôi biết Sienna Brooks thông qua một nguồn khác”, Thị trưởng nói với Langdon, “và tôi tin cô ta. Cho nên, khi cô ta đến chỗ tôi năm ngoái và đề nghị tôi gặp một khách hàng tiềm năng giàu có, tôi đồng ý ngay. Ứng viên triển vọng ấy hóa ra là Bertrand Zobrist. Ông ta thuê tôi cung cấp cho ông ta một nơi an toàn để có thể thực hiện ‘kiệt tác’của mình mà không bị phát hiện. Tôi cứ đinh ninh ông ta đang phát triển một công nghệ mới mà không muốn bị đánh cắp bản quyền… hay có lẽ ông ta đang thực hiện một nghiên cứu di truyền mới nhất nào đó mâu thuẫn với những quy định đạo đức của WHO… tôi không hề đặt câu hỏi, nhưng tin tôi đi, tôi chưa bao giờ nghĩ ông ta đang tạo ra… một đại dịch”.
Langdon chỉ có thể ngơ ngác gật đầu, vô cùng đờ đẫn.
“Zobrist là một kẻ cuồng Dante”, Thị trưởng nói tiếp, “và do đó ông ta chọn Florence làm nơi ẩn nấp. Vì thế tổ chức của chúng tôi cung cấp cho ông ta mọi thứ mà ông ta cần – một phòng thí nghiệm kín đáo có khu sinh hoạt, nhiều biệt danh khác nhau và đảm bảo các kênh thông tin liên lạc, cùng một tùy viên riêng giám định mọi việc, từ vấn đề an ninh của ông ta đến chuyện mua đồ ăn và nhu yếu phẩm. Zobrist không bao giờ sử dụng thẻ tín dụng của mình hay xuất hiện trước công chúng, cho nên không ai có thể tìm ra ông ta. Chúng tôi thậm chí còn cung cấp cho ông ta những hình thức ngụy trang, mật danh và thay đổi hồ sơ để đi lại mà không bị chú ý”. Ông ta ngừng lại. “Rõ ràng Zobrist đã làm đúng như vậy khi đặt cái túi Solublon vào chỗ đó.”
Sinskry thở hắt ra, cố gắng che giấu nỗi thất vọng. “WHO đã cố gắng kiểm soát ông ta kể từ năm ngoái, nhưng dường như ông ta đã biến mất khỏi trái đất.”
“Thậm chí xa kanhs cả Sienna, Thị trưởng nói.
“Sao cơ?”, Langdon ngước lên, cố nuốt cảm giác nghèn nghẹn trong họng. “Tôi tưởng ông nói họ là tình nhân cơ mà?”
“Đúng vậy, nhưng ông ta cũng đột ngột cắt đứt liên hệ với cô ta khi ở ẩn. Cho dù Sienna chính là người đã tiến cử ông ta với chúng tôi nhưng thỏa thuận của tôi chỉ là riêng với Zobrist, và một phần thỏa thuận của chúng tôi là khi ông ta biến mất, ông ta sẽ biến mất trước toàn thế giới, kể cả Sienna. Rõ ràng sau khi lánh đi, ông ta có gửi cho cô ta một lá thư từ biệt nói rằng ông ta rất ốm, sẽ chết trong vòng một năm nữa, và không muốn cô ta nhìn thấy mình suy sụp.”
Zobrist đã bỏ rơi Sienna chăng?
“Sienna cố gắng liên hệ với tôi để có thông tin”, Thị trưởng nói, “nhưng tôi từ chối nhận cuộc gọi của cô ta. Tôi phải tôn trọng những mong muốn của khách hàng”.
“Hai tuần trước”, Sinskey tiếp tục. “Zobrist tới một ngân hàng ở Florence và giấu tên thuê một ngăn két an toàn. Sau khi hắn bỏ đi, chúng tôi nhận được tin cho hay phần mềm mới nhận dạng khuôn mặt của ngân hàng đó nhận ra kẻ giả trang chính là Bertrand Zbrist. Nhóm cảu tôi bay tới Florence và phải mất một tuần mới xác định được ngôi nhà hắn ẩn náu, nhưng nó trống trơn, dù chúng tôi tìm thấy bằng chứng bên trong cho thấy hắn đã tạo ra một mầm bệnh lây lan rất mạnh nào đó và giấu ở nơi khác”.
Sinskey ngừng lại. “Chúng tôi đã dốc hết sức tìm kiếm hắn. Sáng hôm sau, lúc trước bình minh, chúng tôi phát hiện hắn đang đi dọc sông Arno, và chúng tôi lập tức truy đuổi. Đó là lúc hắn leo leenthaps Badia và nhảy xuống tự sát”.
“Có lẽ ông ta đã lên kế hoạch làm việc đó rồi,” Thị trưởng nói thêm, “Ông ta đinh ninh rằng mình sẽ không sống được lâu.”
“Hóa ra”, Sinskey nói, “Sienna cũng đang tìm kiếm hắn. Bằng cách nào đó, cô ta biết rằng chúng tôi đã tìm tới Florence, cà cô ta theo sát động tĩnh của chúng tôi, nghĩ rằng chúng tối có thể tìm ra hắn. Thật không may, cô ta có mặt đúng lúc Zobrist nhảy xuống”. Sinskey thở dài. “Tôi ngờ rằng cô ta bị tổn thương ghe gớm khi chứng kiến người tình và cũng là người thầy của mình tự sát.”
Langdon cảm thấy mệt mỏi, gần như không thể tiếp nhận được những gì mình đang nghe. Người duy nhất trong toàn bộ tấn kịch này mà anh thấy tin tưởng lại chính là Sienna, và những người kia đang nói với anh rằng cô không phải là con người cô nói sao? Cho dù họ nói gì, anh cũng không thể tin Sienna lại tha thứ cho ý nguyện tạo ra một đại dịch của Zobrist.
Hay là cô ưng thuận với hắn?
Anh có dám giết bớt một nửa dân số hôm nay, Sienna đã từng hỏi anh, để cứu lấy loài người chúng ta khỏi diệt vong không?
Langdon cảm thấy rùng mình.
“Khi Zobrist chết đi rồi”, Sinskey giải thích, “tôi dùng ảnh hưởng của mình buộc ngân hàng phải mở cái ngăn két an toàn của Zobrist, trong đó chỉ có đúng 1 lá thư gửi cho tôi… cùng với một thiết bị lạ lùng”.
“Cái máy chiếu”, Langdon đánh bạo.
“Chính xác. Trong bức thư hắn muốn tôi là người đầu tiên ghé thăm ổ dịch, nơi không ai có thể tìm ra nếu không lần theo bức Vực Địa ngục của hắn.”
Langdon nhớ lại bức vẽ của Botticelli đã bị biến cải được chiếu ra từ cái máy chiếu nhỏ xíu.
Thị trưởng nói thêm, “Zobrist đã thỏa thuận rằng tôi sẽ gửi cho tiến sĩ Sinskey những thứ bên trong két an toàn, nhưng không được gửi trước buổi sáng ngày mai. Khi tiến sĩ Sinskey có được những thứ đó sớm hươn dự kiến, chúng tôi rất hoảng hốt và lập tức hành động ngay, cố gắng lấy lại nó theo đúng mong muốn từ khách hàng của mình”.
Sinskey nhì Langdon. “Tôi không hy vọng nhiều rằng chúng tôi có thể hiểu được tấm bản đò kịp thời gian, cho nên tôi mời anh giúp. Giờ anh có nhớ chi tiết nào không?”
Langdon lắc đầu.
“Chúng tôi âm thầm đưa anh bay tơi sFlorence, nơi anh đã có lịch hẹn với một người àm anh nghĩ có thể giúp được mình.”
Ignazio Busino.
“Đêm qua anh đã gặp người đó”, Sinskey nói, “và sau đó anh biến mất. Chúng tôi nghĩ đã có chuyện gì đó xảy ra với anh.”
“Và trên thực tế”, Thị trưởng nói, “đúng làcó chuyện xảy ra với anh. Nhằm cố lấy lại cái máy chiếu, chúng tôi đã phái một đặc vụ tên là Vayentha bám theo anh từ sân bay. Cô ta mất dấu anh ở đâu đó gần Quảng trường Sidnoria”. Ông ta quắc mắt. “Để mất dấu anh là một sai lầm ghê gớm. Và Vayentha cho biết tất cả là do một con chim.”
“Sao cơ?”
“Một con chim bồ câu cất tiếng gù. Theo tường thuật của Vayentha, cô ta ở vị trí rất thuận lợi, theo dõi anh từ một hốc tường tối,đúng lúc có một nhóm du khách đi qua. Cô ta nói rằng có một con bồ câu đột ngột gù rất to từ một ô cửa sổ phía trên đầu cô ta, khiến cho đám du khách dừng lại và chặn mất đường ra của Vayentha. Đến lúc cô ta có thể lách được vào ngõ thì anh đã biến mất.” Ông ta lắc đầu bực bội. “Cô ta mất dấu anh vài giờ liền. Cuối cùng, cô ta lại lần được ra dấu của anh – và đến lúc này thì anh đã đi cùng một người đàn ông nữa.”
Ignazio, Langdon thầm nghĩ. Chắc chắn ông ấy và mình vừa thoát khỏi cung điện Vecchio cùng với chiếc mặt nạ.
“Cô ta bám được theo cả hai anh về hướng quảng trường Signoria, nhưng rõ ràng hai anh đã nhìn thấy cô ta và quyết định lánh đi, đi theo hai hướng khác nhau.”
Ra vậy, Langdon nghĩ, Ignazio chạy trốn cùng chiếc mặt nạ và giấu nó vào trong nhà rửa tội trước khi bị truy tìm.
“Sau đó Vayentha đã phạm một sai lầm khủng khiếp”, Thị trưởng nói.
“Cô ta bắn vào đầu tôi phải không?”
“Không, cô ta để lộ quá sớm. Cô ta bắt anh để tra hỏi khi anh chưa biết gì cả. Chúng tôi cần biết liệu anh đã giải mã được tấm bản đò hay đã nói với tiến sĩ Sinskey mhững gì bà ấy cần biết chưa. Anh không chịu nói một lời. Anh nói anh thà chết còn hơn.”
Tôi đang truy tìm một thứ bệnh dịch chết người! Có lẽ tôi nghĩ các vị là những kẻ đánh thuê đang tìm cách chiếm lấy một thứ vũ khí sinh học!
Động cơ của côn tàu đột ngột chuyển sang chế độ lùi, khiến cho con tàu chậm lại khi nó áp sát cuầ cảng của sân bay. Phái xa, Langdon có thể nhìn rõ phần thân khó nhận dạng của chiếc máy bay vận tải C-130 đang tiếp hiên liệu. Thân máy bay mang dòng chữ TỔ CHỨC Y TẾ THẾ GIỚI.
Vừa lúc đó Bruder đến, vẻ mặt cau có. “Tôi vừa được biết nhóm phản ứng ddue khả năng duy nhất của chúng ta trong vòng năm tiếng chính là chúng tôi, có nghĩa là chúng ta phải tự xoay xờ.”
Sinskey ngồi phịch xuống. “Thế còn việc hợp tác với cơ quan chức năng địa phương?”
Bruder đầy cảnh giác. “Chưa nên. Đó là đề xuất của tôi. Vì không có vị trí chính xác đến thời điểm này cho nên chúng ta chẳng thể làm được gì. Hơn nữa, tác vụ ngăn chặn vượt khỏi tầm chuyên môn của họ, và chúng ta dễ có nguy cơ gặp cảnh lợi bất cập hại.”
“Primum non nocere”, Sinskey gật đầu, khẽ nhắc lại quy tắc cơ bản về đạo đức ngành y bằng tiếng Latin: Trước tiên không được gây hại.
“Cuối cùng”, Bruder nói, “chúng tôi vẫn chưa có thông tin gì về Sienna Brooks”. Anh ta nhìn Thị trưởng. “Ông có biết liệu có người quen naofcuar Sienna ở enice có thể giúp đỡ cô ta không?”
“Tôi không lấy làm lạ về điều đó”, ông ta đáp, “Zobrist có đẹ tử ở khắp mọi nơi, và theo tôi biết thì Sienna sẽ sử dụng tất cả nguồn lực sẵn có để thực hiện chỉ thị của mình.”
“Các anh không thể để cô ta thoát khỏi Venice”, Sinskey mói. “Chúng ta không biết hiện trạng của cái túi Solublon như thế nào. Nếu có ai đó phát hiện ra, lúc này chỉ một cái chạm nhejcungx làm cho lớp nhựa vỡ bung và giải phóng dịch bệnh vào nước.”
Tất cả chìm trong bầu im lặng nặng nề trước tình thế hiện tại.
“Tôi sợ rằng chúng ta còn có những tin xấu nữa”, Langdon nói. “Tòa bảo quản mạ vàng của tri thức thánh thiêng”. Anh ngừng lại. “Sienna biết nó ở đâu. Cô ấy biết chúng ta sẽ đi đâu.”
“Tại sao?”, Sinskey thảng thốt hỏi. “Anh nói rằng anh còn chưa kịp nói cho Sienna những gì anh đã đoán ra kia mà! Anh nói tất cả những gì anh cho cô ta biết là hai nguwoif đang ở nhầm quốc gia!”
“Đúng như vậy”, Langdon nói, “nhưng cô ấy biết chúng tôi đang tìm kiếm mộ của Enrico Dandolo. Chỉ cần tìm kiếm nhanh trên web là có thể giúp cô ấy biết rõ nơi đó. Và một khi cô ấy tìm ra mộ của Dandolo… Việc cái túi hòa tan trong nước kia sẽ không còn xa nữa. Bài thơ nói cứ theo tiếng nước chảy nhỏ giọt đi xuống cung điện chìm dưới nước.”
“Mẹ kiếp!”, Bruder buột miệng, và lao ra ngoài.
“Cô ta sẽ chẳng thể thắng chúng ta được”, Thị trưởng nói. “Chúng ta ra tay trước.”
Sinskey thở dài não nề. ‘Tôi không chắc. Phương tiện di chuyển của chúng ta chậm lắm, và có vẻ Sienna Brooks cực kỳ tháo vát.”
Khi The Mendacium cập bến, Lamgdon nhấp nhổm nhìn chiếc C-130 kềnh càng trên đường băng. Trông nó như thể không tài nào bay nổi và lại chẳng có cái cửa sổ nào. Mình đã từng ở bên trong cái thứ này rồi sao? Langdon không tài nào nhớ nổi điều gì.
Không rõ do chuyển động của con tàu đang cập bến hay do tâm lý càng lúc càng e ngại về chiếc máy bay kín bưng, nhưng anh đọt nhiên cảm thấy buồn nôn.
Anh quay sang Sinskey. “Tôi không dám chắc tôi có đủ khỏe để bay không.”
“Anh không sao đâu”, bà ấy nói. “Ngày hôm nay anh đã quá mệt mỏi rồi, và dĩ nhiên, trong cơ thể anh vẫn còn những độc tố.”
“Độc tố sao?”, Langdon loạng choạng lùi bước lại. “Bà đang nói sao cơ?”
Sinskry ngó đi chỗ khác, rõ ràng đx nói hớ nhiều hơn cần thiết.
“Giáo sư, tôi rất xin lỗi. Rất tiếc, chúng tôi vừa được biết rằng tình trạng sức khỏe của anh hơi phức tạp chứ không chỉ là một vết thương ở đầu.”
Langdon cảm thấy kinh hãi khi hình dung ra vết bầm tím trên ngực Ferris khi ông ta đổ gục trong thánh đường.
“Có chuyện gì không ổn với tôi à?”, Langdon hỏi.
Sinskey có vẻ do dự, như thể không dám chắc nên xử lý thế nào. “Chúng ta hãy lên máy bay trước đã.”



Nằm ngay phía đông nhà thờ Frari kỳ vĩ, xưởng Pietro Longhi luôn là một trong những nhà cung cấp đồ cổ trang, tóc giả, và các phụ kiện hàng đầu Venice. Danh sách khách hàng của nó bao gồm những công ty điện ảnh và đoàn kịch, cũng như các nhân vật có ảnh hưởng của công chúng, những người phải nhờ cậy đến tay nghề của đội ngũ ở đây để giúp họ phục sức trong những buổi dạ tiệc tốn kém nhất của lễ hôi Carnevale.
Nhân viên bán hàng vừa định đóng cửa nghỉ tối thì có tiếng chuông cửa réo vang. Anh ta ngước lên và thấy một phụ nữ quyến rũ với mái tóc đuôi ngựa vàng óng xộc vào. Cô ấy thở không ra hơi, như thể vừa chạy hàng dặm đường. Cô vội tới bên quầy, đôi mắt màu nâu đầy tuyệt vọng và bấn loạn.
“Tôi muốn nói chuyện với Giorgio Venci”, cô ấy hổn hển nói.
Khéo thế, anh chàng nhân viên thầm nghĩ. Làm gì có ai tói để gặp phù thủy đâu.
Giorgio Venci – chuyên gia thiết kế trưởng của xưởng – thực hiện ‘phép màu’ từ sau rèm, hiếm khi trò chuyện với khách hàng và chẳng bao giờ thiếu lịch hẹn. Là người giàu có và có thế lực, Giorgio được phép có một số đểm lập dị nhất định, trong đó bao gồm cả việc qa thích được cô độc. Ông ấy uống riêng, bay riêng, và không ngớt than phiền về số lượng khách du lịch ngày càng tăng ở Venice. Ông không phải là người ưa thích bầu bạn khách khứa.
“Tôi xin lỗi”. anh chàng nhân viên nói kèm theo một nụ cười nhà nghề. “Tôi sợ rằng ngaifVenci không ở đây. Tôi có thể giúp được gì cho cô không?”
“Giorgio ở đây”, cô gái tuyên bố. “Phòng ông ấy trên tầng. Tôi nhìn thấy đèn còn sáng. Tôi là một người bạn của ông ấy. Tình hình rất khẩn cấp.”
Ở người phụ nữ này có sự quyết liệt cháy bỏng. Một người bạn ư? Cô ấy nhận như vậy. “Tôi có thể nói với Giorgio tên cô được không?”
Người phụ nữ vớ lấy một mảnh giấy trên quầy và ghi vội xuống mấy chữ cái và con số.
“Cứ đưa cho ông ấy cái này”, cô ấy nói, trao cho anh chàng nhân viên mẩu giấy. “Và xin nhanh lên cho. Tôi không có nhiều thời gian.”
Anh chàng nhân viên ngần ngừ cầm mảnh giấy lên gác và đặt nó trên một chiếc bàn dài, nơi Giorgio vẫn chăm chú gò lưng bên máy khâu.
‘Thưa ông”, anh ta nói khẽ. “Có người đến đây gặp ông. Cô ấy nói là tình huống khẩn cấp.”
Không ngừng tay cũng chẳng nhìn lên, người đàn ông thò một tay và nhặt mẩu giấy, đọc nội dung.
Máy khâu của ông ta chạy lạch xạch rồi dừng lại.
“Dẫn cô ấy lên đây ngay lập tức”, Giorgio ra lệnh trong khi xé vụn mảnh giấy thành những mẩu nhỏ.

Chiếc máy bay vận tải C-130 to lớn vẫn đang tăng độ cao trong lúc liệng về phía đông nam, ầm ầm bay qua biển Adriatic. Trên máy bay, Robert Langdon vừa cảm thấy tù túng vừa thấy lâng lâng. Anh bức bối vì xung quanh không có những ô cửa sổ, và hoang mang trước tất cả những câu hỏi chưa có lời giải đáp vẫn đang quay cuồng trong tâm trí.
Tình trạng sức khỏe của anh, Sinskey đã nói, hơi phức tạp chứ không chỉ là một vết thương ở đầu.
Mạch đập của Langdon rộn lên khi nghĩ về những gì bà ấy có thể nói với mình, nhưng vào lúc này bà ấy đang bận thảo luận các chiến lược ngăn chặn nhóm SRS. Bruder đang điện thoại gần đó, nói chuyện với các cơ quan chính phủ về Sienna Brooks, cập nhật tình hình tìm kiếm cô ấy của tất cả mọi người.
Sienna…
Langdon vẫn đang cố gắng tiếp nhận sự thật rằng cô có dính dáng đến tất cả chuyện này. Khi chiếc máy bay lấy lại thăng bằng, người đàn ông thấp nhỏ tự gọi mình là Thị trưởng bước qua khoang lái vầ ngồi xuống đối diện với Langdon. Ông ta chống tay lên cằm và mím môi. “Tiến sĩ Sinskey đề nghị tôi nói chuyện với anh… cố gắng làm rõ thêm tình cảnh của anh.”
Langdon tự hỏi người đàn ông này có thể nói gì để làm cho câu chuyện rối rắm này sáng sủa hơn.
“Như tôi đã nói ban nãy”, Thị trưởng nói, “có rất nhiều rắc rối xảy ra sau khi đặc vụ Vayentha của tôi bắt anh quá sớm. Chúng tôi không biết anh đã làm những gì cùng với tiến sĩ Sinskey, hau anh đã chia sẻ với bà ấy được chừng nào. Nhưng chúng tôi sợ nếu bà ấy biết được địa điểm dụ án nơi khách hàng thuê chúng tôi bảo vệ thì bà ấy sẽ thịch thu hoặc phá hủy nó. Chúng tôi phải tìm ra nó trước bà ấy, và vì thế chúng tôi cần anh làm việc cho chúng tôi… chứ không phải cho bà Sinskey.” Thị trưởng ngừng lại, đập đập những ngón tay vào nhau. “Rất tiếc chúng tôi đã để lộ kế hoạch của mình… và chắc chắn anh không tin chúng tôi.”
“Cho nên các ông bắn vào đầu tôi phải không?”, Langdon giận dữ đáp lại.
“Chúng tôi lập một kế hoạch để làm cho anh tin tưởng chúng tôi.”
Langdon cảm thấy tối bời. “Làm sao có chuyện các ông làm cho ai đó tin các ông… sau khi các ông bắt cóc và tra khảo anh ta được?”
Giờ người đàn ông có vẻ không thoải mái. “Giáo sư, anh có quen với nhóm các hóa chất vẫn được gọi là benzodiazepine không?”
Langdon lắc đầu.
“Đó là một dòng dược chất được dùng để điều trị chứng căng thẳng sau chấn thương, bên cạnh nhiều tác dụng khác. Như anh có thể biết, khi ai đó trải qua một sự kiện kinh khủng như tai nạn xe hơi hay bị xâm hại tình dục, trí nhớ lâu dài có thể bị suy yếu vĩnh viễn. Thông qua việc sử dụng benzodiazepine, các nhà khoa học thần kinh giờ đây có thể điều trị và ngăn ngừa tình trạng căng thẳng hậu chấn thương.”
Langdon im lặng lắng nghe, không sao hình dung ra được cuộc trò chuyện này sẽ đi tới đâu.
“Khi những ký ức mới được hình thành”, Thị trưởng tiếp tục, “các sự kiện đó được lưu giữ trong ký ức ngắn hạn của anh khoảng bốn mươi tám tiếng trước khi chuyển sang trí nhứ lâu dài. Sử dụng các hỗn hợp benzodiazepine mới, người ta có thể dễ dàng làm mới lại trí nhớ ngắn hạn… Cơ bản là xóa bỏ nội dung của nó trước khi những ký ức gần đây được chuyển sang ký ức lâu dài, đại để như vậy. Xin lấy ví dụ, một nạn nhân bị tấn công, nếu được cấp một liều benzodiazepine trong vài giờ sau vụ tấn công, anh ta có thể bị xóa sạch những ký ức đó mãi mãi, và cơn tổn thương sẽ không bao giờ trở thành một phần trong tinh thần của người đó nữa. Cái dở duy nhất là người đó cũng mất sạch toàn bộ ký ức về vài ngày trong cuộc đời mình.”
Langdon nhìn sững người đần ông nhỏ bé mà không tin nổi. “Các ông gây cho tôi chứng quên!”
Thị trưởng thở dài như xin lỗi. “Tôi e là như vậy. Sử dụng hóa chất. Rất an toàn. Nhưng đúng, đã xóa sạch toàn bộ trí nhớ ngắn hạn của anh.” Ông ấy ngừng lại. “Khi anh ở ngoài kia lúc trước, anh lẩm nhẩm gì đó về một đại dịch, chúng tôi cho là do anh xem những hình ảnh trong chiếc máy chiếu. Chúng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng Zobrist đã tạo ra một dịch bệnh thực sự.” Ông ta ngừng lại. “Anh cũng cứ lẩm bẩm một cụm từ mà chúng tôi nghe giống như ‘Rất xin lỗi. Rất xin lỗi’.”
Vasari. Đó chính là tất cả những gì anh nghĩ ra từ chiếc máy chiếu đến thời điểm đó. Cerca trova. “Nhưng… tôi nghĩ chứng quên của tôi là do vết thương trên đầu.”
“Sao cơ?!” Theo bản năng, Langdon đưa tay lần sờ những vết khâu và chỗ đau sưng phồng lên ở phía sau gáy. “Vậy đây là cái quái gì!” Anh vén tóc để lộ ra vùng da bị cạo sạch.
“Một phần của ảo giác. Chúng tôi tạo ra một vết rách nhỏ trên da đầu anh và sau đó lập tức khâu lại bằng chỉ, để anh tin là mình đã bị tấn công.”
Đây không phải là một vết thương do đạn bắn sao?!
“Khi anh tỉnh dậy”, Thị trưởng nói, “chúng tôi muốn anh tin rằng người ta đang tìm cách giết anh…rằng anh đang gặp nguy hiểm”.
“Có người tìm cách giết tôi!”, Langdon hét lên, cơn giận của anh khiến những người khác trên máy bay đều phải chú ý. “Tôi thấy vị bác sĩ trong bệnh viện – bác sĩ Marconi – bị bắn gục trong vũng máu!”
“Đó là những gì anh nhìn thấy”, Thị trưởng vẫn bình thản nói, “nhưng không phải những gì đã xảy ra. Vayentha làm việc cho tôi. Cô ta có một kỹ năng siêu việt dành cho loại ciing việc này”.
“Giết người à?”, Langdon vặn hỏi.
“Không”, Thị trưởng bình tĩnh đáp. “Giả vờ giết người.”
Langdon trợn mắt nhìn ông ta một lúc lâu, nhớ lại vị bác sĩ râu xám với đôi lông mày rậm gục đổ trên sàn, máu phun xối xả từ ngực.
“Súng của Vayentha được lắp đạn rỗng”, Thị trưởng nói. “Nó kích hoạt một mồi nổ điều khiển bằng sóng vô tuyến làm nổ tung một túi máu trên ngực bác sĩ Marconi. Nhưng thật ra ông ấy không sao”.
Langdon nhắm mắt, chết lặng trước những gì đang nghe. “Và… gian phòng bệnh viện?”
“Một sân khấu ứng biến nhanh”, Thị trưởng nói. “Giáo sư, tôi biết tất cả chuyện này rất khó tiếp nhận. Chúng tôi làm việc rất nhanh, và anh thì đang choáng váng, cho nên không cần phải hoàn hảo lắm. Khi tỉnh dậy, anh nhìn thấy những gì chúng tôi muốn anh thấy – trang bị bệnh viện, một vài diễn viên, và một cảnh tấn công được dàn dựng.”
Langdon như quay cuồng.
“Đây là những điều công ty chúng tôi làm”, Thị trường nói. “Chúng tôi rất giỏi tạo ra những ảo giác.”
“Thế còn Sienna?”, Langdon hỏi, tay giụi mắt.
“Tôi cần đưa ra quyết định, và tôi chọn bắt tay với cô ta. Ưu tiên của tôi là bảo vệ dự án của khách hàng trước tiến sĩ Sinskey, và Sienna với tôi có chung mong muốn đó. Để có được sự tin tưởng của anh, Sienna đã cứu anh khỏi kẻ ám sát và giúp anh trốn vào một ngõ nhỏ phía sau. Chiếc taxi đợi sẵn là của chúng tôi, với một mồi nổ điều khiển bằng sóng vô tuyến khác gắn trên kính chắn gió sau để tạo ra hiệu ứng cuối cùng khi anh chạy trốn. Chiếc taxi đưa anh tới một căn hộ được chúng tôi bố trí sẵn.”
Căn hộ tuềnh toàng của Sienna, Langdon nghĩ, giờ đã hiểu tại sao trông như thể căn hộ được bài trí đồ đạc thanh lý vậy. Và nó cũng giải thích cho sự trùng hợp là “người hàng xóm” của Sienna lại có quần áo hoàn toàn vừa vặn với anh.
Toàn bộ mọi thứ đã được dàn cảnh.
Ngay cả cuộc điện thoại tuyệt vọng của người bạn Sienna ở bệnh viện cũng là giả. Sienna, Danikova đây!
“Khi anh gọi điện cho lãnh sự quán Hoa Kỳ”, Thị trưởng nói tiếp, “anh gọi tới một số mà Sienna đã bố trí cho chúng tôi. Đó là số đổ chuông trên tàu The Mendacium”.
“Tôi chưa hề gọi đến lãnh sự quán…”
“Chưa hề”.
Cứ ở nguyên chỗ của anh, gã nhân viên lãnh sự quán giả mạo đã nhắc anh. Tôi sẽ cho người đến đón anh ngay. Sau đó, khi Vayentha xuất hiện, Sienna đã dễ dàng phát hiện ra ả ở bên kia phố và kết nối mắt xích lại với nhau. Robert, chính phủ của anh đang tìm cách giết anh! Anh không thể liên lạc với bất kỳ cơ quan công quyền nào! Hy vọng duy nhất của anh là phán doán xem cái máy chiếu kia có ý nghĩa gì.
Thị trưởng và tổ chức bí ẩn của ông ta – cho dù nó là thứ quái gì – đã rất thành công khi làm cho Langdon ngừng hợp tác với Sinskey và bắt đầu làm việc cho họ. Màn đánh lừa đã hoàn thành.
Sienna dắt mũi mình quá hoàn hảo, anh nghĩ, cảm thấy buồn nhiều hơn là giận. Anh đã thấy cảm mến cô trong quãng thời gian ngắn ngủi bên nhau. Điều phiền toái nhất với Langdon là câu hỏi nhức nhối rằng tại sao một tâm hồn tinh anh và nồng ấm như Sienna lại có thể hoàn toàn ưng thuận giải pháp điên rồ của Zobrist đối với tình trạng quá tải dân số.
Em có thể nói với anh không chút ngờ vực, Sienna đã nói với anh, rằng nếu không có một hình thức thay đổi quyết liệt nào đó, sự cáo chung của giống loài chúng ta sẽ đến… Các phép tính toán không có gì để bàn cãi nữa.
“Thế còn bài báo về Sienna?”, Langdon hỏi, nhớ đến cuốn Chương trình biểu diễn kịch Shakespeare và những bài viết về chỉ số IQ cao chất ngất của cô.
“Đều là thật”, Thị trưởng đáp. “Những màn đánh lừa tốt nhất phải càng liên quan đến thế giới thật càng tốt. Chúng tôi không có nhiều thời gian để bố trí, vì thế máy tính của Sienna và những hồ sơ cá nhân đời thật gần như là tất cả những gì chúng tôi phải sử dụng. Anh chẳng bao giờ thật sự có ý định xem bất kỳ thứ gì trong số đó trừ phi anh bắt đầu thấy nghi ngờ về độ chân thực của cô ta.”
“Cũng như không sử dụng máy tính của cô ấy”, Langdon nói.
“Đúng, chúng tôi mất kiểm soát ở chỗ đó. Sienna không hề nghĩ đội SRS của bà Sinskey tìm ra căn hộ, cho nên khi những người lính ập đến, Sienna rất hoảng hốt và phải ứng biến. Cô ta cùng anh dùng chiếc xe máy bỏ chạy, cố gắng duy trì tấn kịch. Khi toàn bộ nhiệm vụ bị phơi bày, tôi không còn lựa cọn nào khác ngoài việc từ bỏ Vayentha, mặc dù cô ta đã phá bỏ quy trình và đuôit theo bọn anh.”
“Cô ta suýt giết tôi”, Langdon nói, kể lại cho Thị trưởng tình huống trên tầng áp mái của Cung điện Vecchio, khi Vayentha giơ súng lên và nhắm thẳng vào ngực Langdon. Chỉ đau trong nháy mắt thôi…, nhưng đó là lựa chọn duy nhất của tôi. Sau đó Sienna vọt ra và đẩy cô ta ngã nhào ra ngoài lan can, khiến Vayentha rơi xuống dưới và tử vong.
Thị trưởng thở dài rất rõ, ngẫm nghĩ những gì Langdon vừa kể. “Tôi không nghĩ Vayentha cố tìm cách sát hại anh… súng của cô ta chỉ bắn đạn rỗng. Hy vọng chuộc lỗi duy nhất của cô ta vào thời điểm đó là kiểm soát được anh. Có lẽ cô ta nghĩ nếu cô ta bắn anh bằng một phát đạn rỗng thì cô ta có thể làm cho anh hiểu cô ta không phải là một kẻ ám sát và rằng anh đang bị đánh lừa.”
Thị trưởng ngừng lại, ngẫm nghĩ một lúc, và sau đó tiếp tục. “Sienna có định sát hại Vayentha hay chỉ cố gắng can thiệp, tôi không dám mạo muội suy đoán. Tôi bắt đầu nhận ra rằng mình không biết nhiều về Sienna Brooks như tôi nghĩ.”
Tôi cũng vậy, Langdon đồng ý, mặc dù khi nhớ lại vẻ sững sờ và đau đớn trên gương mặt của người phụ nữ trẻ, anh cảm thấy những gì cô làm với người phụ nữ đầu đinh chắc chắn là một sai lầm.
Langdon cảm thấy thông suốt và vô cùng cô độc. Anh ngoảnh ra phía cửa sổ, muốn nhìn ra thế giới bên dưới, nhưng tất cả những gì anh thấy chỉ là vách máy bay.
Mình phải ra khỏi đây.
“Anh ổn chứ?”, Thị trưởng hỏi, mắt nhìn Langdon vẻ lo lắng.
“Không:, Langdon đáp. “Tôi rất không ổn.”
***
Anh ta sẽ ổn thôi, Thị trưởng nghĩ. Anh ta chỉ đang cố gắng xử lý thực tế mới mẻ của mình.
Vị giáo sư người Mỹ trông như thể vừa bị cuốn bay khỏi mặt đất vì một trận lốc xoáy, xoay tít thò lò rồi rơi xuống một vùng đất xa lạ, khiến anh hoàn toàn mất phương hướng và choáng váng.
Những người là mục tiêu của Consortium hiếm khi nhận ra sự thật đằng sau tất cả các sự kiện được dàn dựng mà họ đã chứng kiến, và nếu họ nhận ra thì chắc chắn Thị trưởng cũng không bao giờ có mặt để nhìn hậu quả. Ngày hôm nay, ngoài cảm giác tội lỗi khi trực tiếp chứng kiến nỗi hoang mang của Langdon, trng lòng thị trưởng còn nặng trĩu cảm giác về trách nhiệm đối với cuộc khủng hoảng hiện tại.
Mình đã sai lầm khi chấp nhận một vị khách. Bertrand Zobrist.
Mình đã tin tưởng nhầm một con người. Sienna Brooks.
Giờ Thị trưởng đang bay về phía mắt bão – khu vực tâm chấn nơi có thể chính là một đại dịch chết người có khả năng hủy hoại cả thế giới. Nếu còn sống sót qua toàn bộ vụ việc này, thì ông ta ngờ rằng Consortium của mình sẽ không tài nào thoát khỏi ảnh hưởng của nó. Sẽ có những cáo buộc và chất vấn liên tu bất tận.
Đây là cách mọi việc kết thúc với mình sao?
Hỏa Ngục - Dan Brown

Mình cần không khí, Robert Langdon nghĩ. Một khung cảnh… bất kỳ thứ gì.
Thân máy bay kín mít như đang khép chặt lại xung quanh anh. Dĩ nhiên, câu chuyện lạ lùng về những gì thực sự đã xảy ra với anh hôm nay không giúp được gì cả. Tâm trí anh vẫn quay cuồng với những câu hỏi chưa có lời giải đáp, hầy hết đều liên quan đến Sienna.
Thật lạ, anh lại rất nhớ cô.
Cô ấy đang ra tay, anh tự nhủ. Lợi dụng mình.
Không nói một lời, Langdon rời khỏi chỗ Thị trưởng rồi đi về phía đầu máy bay. Cánh cửa khoang lái vẫn mở, và ánh sáng tự nhiên lọt qua đó lôi cuốn anh như một ngọn đèn hiệu. Đứng ở khuôn cửa mà những người phi công không hề phát hiện ra, Langdon để cho ánh nắng ấm áp rọi lên mặt mình. Không gian rộng mở trước mắt anh giống như món quà trời ban. Bầu trời xanh trong trông thanh bình đến vĩnh cửu.
Chẳng có gì là vĩnh cửu, anh tự nhủ, trong khi vẫn phải gắng chấp nhận thảm họa tiềm tàng mà họ đang đối mặt.
“Giáo sư?”, một giọng nói khẽ vang lên sau lưng anh, và anh quay lại.
Langdon giật mình lùi lại một bước. Đứng ngay sau anh chính là bác sĩ Ferris. Lần cuối cùng Langdon nhìn thấy người đàn ông này là lúc ông ta đang co quắp trên sàn nhà Thánh đường St. Mark, không tài nào thở nổi. Giờ đây ông ta ở trong chiếc máy bay này, dựa lưng vách ngăn, đội một chiếc mũ bóng chày, mặt ông ta tái nhợt, phủ kín một lớp thuốc calamine. Ngực và nửa thân trên của ông ta được băng kín, còn hơi thở rất yếu ớt. Nếu Ferris có bệnh thì dường như ai cũng nghĩ rằng căn bệnh đó sẽ dễ lây lan.
“Anh còn… sống à?”, Langdon nói, nhìn sững người đàn ông.
Ferris mệt mỏi gật đầu. “Ít nhiều như vậy. “Thái đọ của người đàn ông này đã thay đổi thấy rõ, dường như thư thái hơn.
“Nhưng tôi cứ nghĩ…”, Langdon im bặt. “Thực tế… tôi không chắc phải nghĩ gì thêm nữa.”
Ferris mỉm cười với anh đầy thông cảm. “Anh đã nghe rất nhiều lời dối trá ngày hôm nay rồi. Tôi nghĩ tôi cần dành thời gian nói lời xin lỗi. Như anh đoán ra, tôi không hề làm việc cho WHO, và tôi không hề tới để mời anh ở Cambridge.”
Langdon gật đầu, vì quá mệt mỏi nên chẳng còn tỏ ra ngạc nhiên trước bất kỳ điều gì đến thời điểm này nữa. “Anh làm việc cho Thị trưởng.”
“Đúng vậy. Ông ấy cử tôi tới để hỗ trợ khẩn cấp cho anh và Sienna… và giúp anh thoát khỏi nhóm SRS.”
“Vậy thì tôi đoán anh đã thực hiện nhiệm vụ của mình rất hoàn hảo”, Langdon nói, nhớ lại chuyện Ferris xuất hiện tại nhà rửa tội, thuyết phục anh tin rằng ông là một nhân viên WHO, sau đó giúp anh và Sienna di chuyển ra khỏi Florence, tránh xa nhóm của Sinskey. “Rõ ràng anh không phải là một bác sĩ.”
Người đàn ông lắc đầu, “Không, nhưng tôi đóng vai đó ngày hôm nay. Công việc của tôi là giúp Sienna duy trì màn kịch để anh có thể phán đoán ra vị trí chiếc máy chiếu chỉ tới. Thị trưởng định tìm kiếm thứ mà Zobrist tạo ra để có thể bảo vệ nó trước bà Sinskey.”
“Anh không hề biết đó là một dịch bệnh ư?’’, Langdon nói, vẫn rất tò mò về hiện tượng dị ứng lạ lùng và xuất huyết bên trong của Ferris.
“Dĩ nhiên là không rồi! Khi anh nhắc đến dịch bệnh, tôi cứ nghĩ đó là câu chuyện Sienna nói ra để khích lệ anh. Cho nên tôi cũng đóng kịch theo. Tôi đưa tất cả tàu đi Venice… và sau đó, mọi việc thay đổi.”
“Như thế nào?”
“Thị trưởng nhìn thấy đoạn video đáng sợ của Zobrist.”
Có lẽ là như vậy. “Ông ấy nhận ra Zobrist là một kẻ điên rồ.”
“Chính xác. Thị trưởng đột nhiên hiểu ra tất cả những gì Consortium đang dính vào, và ông ấy hoảng sợ. Ông ấy lập tức đề nghị nói chuyện riêng với người biết rõ Zobrist nhất – FS-2080 – để xem liệu cô ta có biết những gì Zobrist làm không.”
“FS-2080 ư?”
“Xin lỗi, Sienna Brooks chứ. Đó là bí danh cô ta chọn cho nhiệm vụ này. Một cái tên theo phong trào Siêu nhân học. Và Thị trưởng không có cách nào tiếp cận được Sienna trừ cách thông qua tôi.”
“Cuộc điện thoại trên tàu”, Langdon nói. “’Bà mẹ già yếu’ của anh.”
“Chà, rõ ràng không thể nhận điện của Thị trưởng trước mặt anh, cho nên tôi phải ra ngoài. Ông ấy hy vọng Sienna cũng bị lừa gạt, nhưng khi tôi nói với ông ấy rằng anh và Sienna đã nói về dịch bệnh và dường như không có ý định từ bỏ nhiệm vụ, thì ông ấy biết ngay Sienna và Zobrist cùng một phe trong vụ này. Sienna lập tức trở thành đối thủ. Ông ấy bảo tôi giúp ông ấy bám sát vị trí của chúng ta ở Venice… vì ông ấy sẽ cử một nhóm người tới bắt giữ cô ta. Nhóm của đặc vụ Bruder gần như đã tóm được cô ta ở Thánh đường St. Mark… nhưng cô ta lại tìm cách thoát được.”
Langdon nhìn trân trân xuống sàn, vẫn như thấy đôi mắt nâu rất đẹp của Sienna sững sờ nhìn xuống anh trước khi chạy đi.
Em xin lỗi, Robert. Vì tất cả mọi việc.
“Cô ta rất ghê gớm”, người đàn ông nói. “Có lẽ anh không thấy cô ta tấn công tôi tại thánh đường.”
“Tấn công anh sao?”
“Phải, khi những người lính ập vào, tôi định hét to và tiết lộ vị trí của Sienna, nhưng chắc chắn cô ta cảm nhận được chuyện đó. Cô ta đánh thẳng cườm tay của mình vào giữa ngực tôi.”
“Sao cơ?!”
“Tôi không biết thứ gì nện vào mình. Một kiểu động tác võ thuật gì đó, tôi đoán vậy. Vì tôi đã bị bầm tím rất nặng ở đó, đau kinh khủng. Tôi phải mất đến năm phút mới thở lại được. Sienna kéo anh ra ban công trước khi có nhân chứng phát giác ra những gì vừa xảy ra.”
Sững sờ, Langdon nhứ lại người phụ nữ Ý có tuổi quát lên với Sienna – “Ấn vào ngực anh ta!” – và làm động tác ấn tay lên ngực mình.
Không! Sienna đã trả lời. Làm hô hấp nhân tạo sẽ khiến anh ta tử vong! Nhìn ngực anh ta xem!
Khi nhớ lại tấn kịch trong đầu, Langdon mới nhận ra Sienna Brooks đã suy nghĩ thật nhanh. Cô đã khôn khéo ứng biến trước câu tiếng Ý của người phụ nữ. Ấn vào ngực anh ta không phải là gợi ý rằng Sienna làm động tác ép ngực, đó là lời cáo buộc giận dữ: Cô ta đã đánh vào ngực anh ta!
Trong tình thế hỗn loạn lúc đó, Langdon thậm chí còn không chú ý.
Ferris mỉm cười đau đớn với anh. “Chắc anh đã nghe rồi, Sienna Brooks rất ghê gớm.”
Langdon gật đầu. Tôi nghe rồi.
“Người của bà Sinskey đưa tôi trở lại tàu The Mendacium và băng bó cho tôi. Thị trưởng bảo tôi đi cùng đội hỗ trợ quốc tế, bởi vì tôi là người duy nhất ngoài anh, đã ở cùng Sienna ngày hôm nay.”
Langdon gật đầu, vẫn phân vân vì chứng dị ứng của người đàn ông. “Mạt của anh?”, Langdon hỏi, “Và vết bầm trên ngực anh nữa. Không phải là…”
“Dịch hạch phải không?”, Ferris bật cười và lắc đầu. “Tôi không biết anh đã được thông báo chưa, nhưng thực tế tôi đóng vai hai vị bác sĩ hôm nay.”
“Sao cơ?”
“Khi tôi xuất hiện ở nhà rửa tội, anh nói tôi trông hơi quen.”
“Đúng vậy. Hơi hơi thôi. Đôi mắt anh, tôi nghĩ vậy. Anh bảo tôi đó là vì anh là người đã mời tôi ở Cambridge…”, Langdon ngừng lại. “Điều mà giờ tôi biết là không đúng, cho nên…”
“Tôi trông quen bởi vì chúng ta đã gặp nhau. Nhưng không phải ở Cambridge”. Người đàn ông cố nhìn vào mắt Langdon để xem anh có nhận ra điều gì không. “Thực ra tôi chính là người đầu tiên nhìn thấy anh khi anh tỉnh dậy vào buổi sáng nay trong bệnh viện.”
Langdon nhớ lại căn phòng nhỏ ảm đạm trong bệnh viện. Lúc đó anh đứng không vững và thị lực cũng bị ảnh hưởng, cho nên anh chắc chắn rằng người đầu tiên mình nhìn thấy khi tỉnh dậy là một vị bác sĩ đứng tuổi xanh xao, với đoi lông mày và chòm râu xám rậm rạp, chỉ nói tiếng Ý.
“Không”, Langdon nói. “Bác sĩ Marconi là người đầu tiên tôi nhìn thấy khi…”
“Xin chào, giáo sư”, người đàn ông ngắt lời bằng một giọng Ý rất chuẩn. “Nhưng anh không nhớ tôi phải không?” Ông ta cúi khom người như một người đứng tuổi, vuốt vuốt ngược đôi lông mày rậm tưởng tượng và bộ râu không hề tồn tại. “Tôi là bác sĩ Marconi.”
Miệng Langdon há hốc. “Bác sĩ Marconi là… anh sao?”
“Đó là lý do tại sao anh thấy mắt tôi rất quen. Tôi chưa bao giờ đeo râu và lông mày giả, và thật không may là cũng chẳng biết gì cho đén khi bị dị ứng với chất kết dính – một thứ keo chế bằng nhựa cây – khiến cho da mẩn ngứa. Tôi chắc anh rất sợ khi nhìn thấy tôi, nhất là anh đang dè chừng một thứ dịch bệnh có thể bùng phát.”
Langdon chỉ biết nhìn sững, giờ thì anh đã nhớ ra vị bác sĩ Marconi luôn gãi râu trước khi bị Vayentha tấn công khiến ông ấy nằm dài trên sàn bệnh viện, máu chảy loang từ ngực.
“Tệ hơn nữa”, người đàn ông nói, tay chỉ chỗ băng gạc quấn quanh ngực mình, “cái mồi nổ của tôi lệch đi trong lúc thực hiện công việc. Tôi không tài nào kịp chỉnh nó về đúng vị trí, và khi nổ, nó bị lệch. Gãy một xương sườn và bầm tím nặng. Tôi khó thở suốt cả ngày là vì vậy.”
Và tôi cứ nghĩ anh bị bệnh dịch.
Người đàn ông hít hơi thật sâu và nháy mắt. “Thực tế, tôi nghĩ đã đến lúc tôi cần ngồi nghĩ lại.” Khi rời đi, ông ấy ra hiệu về phía sau Langdon. “Có vẻ như anh có bạn đồng hành rồi.”
Langdon quay lại và thấy tiến sĩ Sinskey đang sải bước lên khoang lái, mái tóc dài bạc buông sau lưng. “Giáo sư, anh đây rồi!”
Vị giám đốc WHO trông như kiệt sức, nhưng thật lạ là Langdon lại nhận ra một tia hy vọng trong mắt bà. Bà ấy đã phát hiện ra điều gì đó.
“Tôi rất xin lỗi đã để anh ở lại đây một mình”, Sinskey nói, đến bên cạnh Langdon. “Chúng tôi vừa phối hợp và thực hiện một số tìm kiếm.” Bà làm hiệu về phía buồng lái để ngỏ. “Tôi thấy anh hứng một chút ánh nắng thì phải?”
Langdon nhún vai. “Máy bay của bà cần có cửa sổ.”
Bà mỉm cười thông cảm với anh. “Về vấn dề ánh sáng, tôi hy vọng Thị trưởng đã soi rọi cho anh một chút về những sự kiện gần đây?”
“Vâng, mặc dù chẳng có gì khiến tôi hài lòng.”
“Tôi cũng cậy thôi”, bà đồng tình, ngó quanh để đảm bảo rằng chỉ có họ. “Tin tôi đi”, bà thì thầm, “sẽ có hình phạt nghiêm khắc cho ông ta và tổ chức của ông ta. Tôi sẽ làm việc đó. Còn lúc này, tất cả chúng ta cần tập trung vào việc tìm cho ra cái túi chứa dịch kia trước khi nó tan ra và làm lây lan dịch bệnh’”
Hoặc là trước khi Sienna tới đó và làm cho nó tan nhanh hơn.
Langdon đã hìh dung ra tòa nhà tráng lệ kể từ khi anh nhận ra đó mới chính là đích đến của họ. Tòa bảo quản của tri thức thánh thiêng.
“Tôi vừa biết được một truyện rất thú vị”, Sinskey nói. “Chúng tôi đã nối máy với một sử gia địa phương”, bà nói. “Ông ấy không biết tại sao chúng ta lại hỏi về mộ Dandolo, nhưng tôi đã hỏi ông ấy có biết những gì nằm dưới mộ không, và anh thử đoán xem ông ấy nói gì.” Bà mỉm cười. “Nước.”
Langdon ngạc nhiên. “Thật sao?”
“Đúng, có vẻ như bên dưới tòa nhà đều bị ngập nước. Suốt nhiều thế kỷ, mực nước dưới tòa nhà đã dâng cao, ngập ít nhất hai tầng bên dưới. Ông ấy nói ở đó có tất cả các dạng túi khí và không gian bị ngập một phần phía dưới.”
Chúa ơi. Langdon nhớ lại đoạn video của Zobrist và cái hang ngầm kỳ quái có những bức tường rêu mốc nơi anh nhìn thấy phần bóng lờ mờ thẳng đứng của những cây cột chống. “Đó là một căn phòng ngập nước.”
“Chính xác.”
“Nhưng vậy thì… làm cách nào Zobrist mò được xuống đó?”
Mắt Sinskey sáng lên. “Đó là một chi tiết kỳ lạ. Anh sẽ không thể tin nổi những gì chúng tôi phát hiện ra đâu.”
***
Lúc đó, cách bờ biển Venice chưa đầy một dặm, trên hòn đảo nhỏ có tên Lido, một chiếc Cessna Citation Mustang bóng bẩy cất cánh khỏi sân bay Nicelli và lao vút lên bầu trời đang thẫm dần lúc chạng vạng.
Chủ nhân của chiếc máy bay, nhà thiết kế trang phục lừng danh Giorgio Venci, không có trên máy bay, nhưng ông đã ra lệnh cho phi công của mình đưa vị hành khách trẻ tuổi quyến rũ đi tới bất kỳ đâu cô ấy cần.

Đêm đã buông xuống cố đô Byzantine.
Suốt dọc bờ biển Marmara, những ngọn đèn pha nhấp nháy chiếu sáng, soi tỏ đường chân trời với những giáo đường sáng đèn và những ngọn tháp mảnh mai. Lúc này là giờ aksam – giờ hành lễ tối, và những chiếc loa phóng thanh bố trí khắp thành phố đang ngân vang lên tiếng adhãn, lời mời gọi đến cầu nguyện.
La-ilaha-illa-Allah.
Không có thần thánh nào ngoài Đức Thánh.
Trong khi các tín đồ hối hả tới các giáo đường thì bộ phận còn lại của thành phố vẫn tiếp tục mọi việc mà chẳng hề bận tâm: Đám sinh viên đại học tiếp tục uống bia, giới doanh nhân chốt lại những thỏa thuận làm ăn, những nhà buôn rap bán ia vị và thảm, còn khách du lịch thì ngỡ ngàng nhìn ngắm tất cả.
Đây là một thế giới bị chia rẽ, một thành phố của những đối nghịch – tôn giáo và thế tục, cổ xưa và hiện đại, phương Đông và phương Tây. Với biên giới địa lý trải ra giữa châu Âu và châu Á, thành phố không chịu ảnh hưởng của thời gian này đúng là cây cầu từ Cựu Thế giới, nổi sang một thế giới thậm chí còn xưa cũ hơn nữa.
Istanbul.
Mặc dù không còn là thủ đô của Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng trong nhiều thế kỷ, nơi đây là tâm điểm của ba đế chế tách biệt – Byzantine, La Mã và Ottoman. Vì lý do này, Istanbul vẫn được xem là một trong những địa điểm có lịch sử phong phú nhất trên trái đất. Từ cung điện Topkapi cho đến Giáo đường Xanh hay lâu đài Bảy ngọn tháp, thành phố này có vô số câu chuyện dân gian về các trận đánh, niềm vinh quang và cả thất bại.
Tối nay, tít cao trên bầu trời đêm phía trên những đám đông náo nhiệt của thành phố, một chiếc máy bay vận tải C-130 đang hạ thấp dần qua một vùng biên bão đang hình thành, tiếp cận sân bay Ataturk. Trong khoang lái, Robert Langdon ngồi chắc chắn trong chiếc ghế phụ lật phía sau phi công, nhìn qua kính chắn gió, cảm thấy nhẹ nhõm vì anh được dành một ghế ngồi có thể nhìn ra ngoài.
Sau khi được ăn một chút và ngủ gà gật ở phía cuối máy bay trong gần một tiếng nghỉ ngơi quý giá, Langdon đã phần nào tỉnh táo trở lại.
Lúc này, ở phía bên phải, Langdon nhìn rõ những ánh đèn của Istanbul, một bán đảo lấp lánh ánh sáng hình chiếc sừng nhô ra vùng đen thẫm của biển Marmara. Đây là phần phía châu Âu, tách biệt với phần châu Á bằng một dải tối chạy ngoằn nghoèo.
Thủy lộ Bosporus.
Mới nhìn qua, Bosporus có vẻ chỉ là một dòng nước rộng chia tách Istanbul làm đôi. Nhưng thực tế, Langdon biết con kênh này chính là huyết mạch thương mại của Istanbul. Bên cạnh việc cung cấp cho thành phố hai đường bờ biển thay vì chỉ có một, kênh Bosporus còn giúp tàu bè đi từ Địa Trung Hải vào Hắc Hải, cho phép Istanbul trở thành một trạm dừng giữa hai thế giới.
Khi máy bay hạ thấp qua một lớp sương mờ, Langdon dõi mắt nhìn về thành phố phía xa, cố xác định vị trí tòa nhà đồ sộ mà họ đang tìm kiếm.
Vị trí phần mộ của Enrico Dandolo.
Hóa ra Enrico Dandolo – vị tổng chấn bội bạc của Venice – lại không được an táng ở Venice, thay vào đó, hài cốt của ông ta được chôn ngay chíh giữa pháo đài mà ông ta chinh phục được năm 1202 – thành phố trải dài bên dưới họ. Rất thích hợp là Dandolo lại yên nghỉ trong ngôi đền kỳ vĩ nhất ở thành phố này – một công trình cho đến ngày hôm nay vẫn là báu vật của cả vùng.
Hagia Sophia.
Được xây dựng vào năm 360 sau Công nguyên, Hagia Sophia tùng là một thánh đường Chính thống giáo phương Đông cho tới tận năm 1204. Khi Enrico Dandolo chiếm được thành phố và biến nó thành một nhà thờ Thiên Chúa giáo vào cuộc Thập tự chinh lần thứ tư. Sau đó, vào thế kỷ XV, sau khi Fatih Sultan Mehmed chiếm được Constantinople, nó trở thành một giáo đường Hồi giáo, và vẫn là nơi thờ nguyện của đạo Hồi cho tới năm 1935, khi tòa nhà được thế tục hóa và trở thành một bảo tàng.
Tòa bảo quán mạ vàng của tri thức thánh thiêng, Langdon thầm nghĩ.
Hagia Sophia không chỉ được trang hoàng bằng số gạch lát vàng nhiều hơn cả thánh đường St. Mark mà tên gọi của nó – Hagia Sophia – theo đúng nghĩa đen cũng là “Tri thức thánh thiêng”.
Langdon hình dung ra tòa nàh đồ sộ, cố gắng nghĩ về thực tế rằng đâu đó bên dưới nó, có cái dầm tối tăm chứa một chiếc túi đang dập dờn trong nước, từ từ tan dần và chuẩn bị giải phóng những gì đựng bên trong.
Langdon cầu mong họ không đến quá muộn.
“Những tầng dưới của tòa nhà đã bị ngập”, Sinskey đã nói trước đó trong lúc bay, phấn chấn ra hiệu cho Langdon theo bà trở lại khu vực làm việc. “Anh sẽ không thể tin nổi những gì chúng tôi phát hiện ra đâu. Anh đã bao giờ nghe nói về một đạo diễn phim tài liệu tên là Goksel Gulensoy chưa?”
Langdon lắc đầu.
“Trong lúc nghiên cứu về Hagia Sophia”, Sinskey giải thích, “tôi phát hiện ra rằng đã có một bộ phim được làm về địa diểm này. Một phim tài liệu do Gulensoy thực hiện vài năm trước”.
“Có hàng chục bộ phim đã được làm về Hagia Sophia.”
“Đúng”, bà nói lúc đến khu vực làm việc của mình, “nhưng khồn có bộ phim nào như thế này”. Bà xoay máy tính của mình để anh có thể nhìn rõ. “ Hãy đọc nội dung này đi.”
Langdon ngồi xuống và xem bài viết – một bài tổng hợp từ vài nguồn tin thời sự khác nhau, trong đó có tờ Hurriyet Daily News, nói về bộ phim mới nhất của Gulensoy: Dưới những tầng sâu của Hagia Sophia.
Lúc bắt đầu đọc, Langdon lập tức nhận ra tại sao Sinskey lại phấn khích đến vậy. Chỉ mấy từ đầu tiên đã làm cho Langdon phải ngước lên nhìn bà đầy ngạc nhiên. Lặn bằng bìn khí?
“Tôi biết”, bà ấy nói. “Cứ đọc đi.”
“LẶN BẰNG BÌNH KHÍ BÊN DƯỚI HAGIA SOPHIA: Nhà làm phim tài liệu Goksel Gulensoy và đội thám hiểm lặn bình khí của ông đã xác định được vị trí những bồn trũng ngập nước nằm sâu hàng trăm sải bên dưới công trình tôn giáo thu hút nhiều du khách của Istanbul.
Trong quá trình ấy, họ đã phát hiện ra nhiều kỳ quan kiến trúc, trong đó có những mộ phần chìm dưới nước có tuổi đời đã tám trăm năm của các trẻ em tử đạo, cũng như những đường hầm chìm nổi Hagia Sophia với Cung điện Topkapi, Cung điện Tekfur, và những không gian mở rộng dưới lồng đất của nhà ngục Anemas người ta vẫn đồn đại bấy lâu nay.
“Tôi tin những gì bên dưới Hagia Sophia còn thú vị hơn cả những gì nổi trên bề mặt”, Gulensoy giải thích, mô tả rõ anh lấy cảm hứng để làm bộ phim ssau khi nhìn thấy một bức ảnh cũ chụp các nàh nghiên cứu đang khảo sát phần móng của Hagia Sophia bằng thuyền, bơi qua một đại sảnh bị ngập một phần dưới nước”.
“Rõ ràng anh đã tìm đúng tòa nhà rồi!”, Sinskey kêu lên. “Và có vẻ như những không gian lớn bơi thuyền được ở bên dưới tòa nhà đó, nhiều chỗ có thể tiếp cận được mà không cần thiết bị lặn bình… Điều đó có thể giải thích cho những gì chúng ta thấy trong đoạn video của Zobrist”.
Đặc vụ Bruder đứng phía sau họ, nghiên cứu màn hình máy tính, “Cũng có vẻ như bên dưới tòa nhà có những thủy lộ tỏa ra ngoài tới mọi khu vực khác. Nếu túi Solublon đó bị tan trước khi chúng ta đến thì sẽ không có cách gì ngăn được những thứ chứa bên trong loang rộng ra.”
“Thứ bên trong…”, Langdon đánh bạo, “Các vị có ý kiến gì về nó không? Ý tôi là đích xác ấy? Tôi biết chúng ta đang phải giải quyết một thứ bệnh dịch, nhưng…”
“Chúng tôi đang phân tích đoạn phim”, Bruder nói, “gợi ý rằng thực tế thứ đó là sinh học chứ không phải hóa học… nói thế tức là mooth thứ gì đó sống. nếu xét số lượng ít ỏi trong cái túi thì chúng tôi cho rằng nó có khả năng lây nhiễm rất cao và có khả năng sinh sôi nảy nở. Chúng tôi chưa dám chắc đó là một loại dịch bệnh dựa vào nước giống như một loại vi khuẩn, hay nó có khả năng lan truyền trong không khí như một loại vi rút khi được giải phóng, nhưng khả năng nào cũng có thể xảy ra”.
Sinskey nói, “Giờ chúng ta đang thu thập dữ liệu về nhiệt độ nước ngầm trong khu vực, cố gắng đánh giá xem những loại chất truyền nhiễm nào có thể phát triển mạnh trong các khu vực dưới lòng đất đó, nhưng Zobrist là người vô cùng tài năng và có thể dễ dàng tạo ra thứ gì đó có những khả năng độc nhất vô nhị. Và tôi dám chắc rằng Zobrist chọn địa điểm này là có lý do”.
Bruder gật đầu rồi nhanh nhẹn trình bày tiếp đánh giá của anh ta về cơ chế phát tán khác thường của cái túi Solublon chìm dưới nước. Và tất cả bọn họ chỉ mới bắt đầu nhận ra sự tài tình đơn giản của nó mà thôi. Bằng cách để cho cái túi ở dưới nước và ngầm trong lòng đất, Zobrist đã tạo ra một môi trường ủ bệnh cực kỳ ổn định: Nơi có nhiệt độ nước không đổi, không có bức xạ mặt trời, có lớp đệm động lực học, và hoàn toàn kín đáo. Bằng cách chọn một cái túi có độ bền đúng mức, Zobrist có thể để mặc thứ bệnh dịch ấy sinh trưởng trong một khoảng thời gian nhất định mà không cần trông coi trước khi nó tự giải thoát đúng hạn định.
Kể cả khi Zobrist không bao giờ quay trở lại nơi đó nữa.
Cú xóc bất ngờ khi máy bay tiếp đất làm Langdon chúi trở lại ghế phụ của mình trong khoang lái. Phi công đạp mạnh phanh và sau đó cho máy bay dừng hẳn lại một nhà chứa khá cách biệt.
Langdon hy vọng sẽ được đón chào bởi cả một đội quân nhân viên WHO trong trang phục phòng dịch. Nhưng lạ thay, người duy nhất đợi họ đến lại là tài xế một chiếc xe thùng màu trắng lớn, mang biểu trưng là một chữ thập cân đối màu đỏ tươi.
Chữ thập đỏ ở đây sao? Langdon nhìn lại, nhận ra còn một chủ thể nữa cũng sử dụng chữ thập đỏ. Đại sứ quán Thụy Sĩ.
Anh tháo khóa ghế ngồi và tìm kiếm Sinskey khi mọi người chuẩn bị rời máy bay. “Mọi người đâu cả rồi?”, Langdon hỏi, “Nhóm WHO ấy? Rồi cả cơ quan chức năng Thổ Nhĩ Kỳ nữa? Không nhẽ tất cả đều đã đến Hagia Sophia rồi sao?”.
Sinskey nhìn anh lo lắng. “Thực ra”, bà giải thích, “chúng tôi quyết định không đánh động giới chức địa phương. Chúng ta đã có nhóm SRS cừ nhất của Trung tâm Ngăn ngừa và Kiếm soát dịch bệnh châu Âu đi cùng rồi, và có vẻ giữ kín nhiệm vụ này một thời gian thì tốt hơn là tạo ra một cơn hoảng loạn có khả năng lan rộng”.
Gần đó, Langdon nhìn thấy Bruder cùng nhóm của anh ta đang kéo khóa những chiếc túi đen có chứa đầy đủ các dụng cụ đối phó với độc chất – quần áo chống khuẩn, mặt nạ phòng độc, và cả thiết bị dò tìm điện tử.
Bruder xốc túi của mình lên vai và bước lại. “Chúng tôi sẽ thử. Chúng tôi sẽ vào trong tòa nhà, tìm mộ của Dandolo, nghe tiếng nước như bài thơ gợi ý, sau đó sẽ đánh giá lại và quyết định xem liệu có nên gọi những đơn vị chức năng khác đến hỗ trợ không.”
Langdon nhìn ra kế hoạch có vấn đề. “Hagia Sophia sẽ đóng cửa vào buổi chiều, cho nên nếu không có giới chức địa phương, chúng ta không thể vào trong được.”
“Không sao đâu”, Sinskey nói. “Tôi có một đầu mối liên lạc trong sứ quán Thụy Sĩ. Người đó dã liên lạc với người phụ trách Bảo tàng Hagia Sophia và đè nghị một cuộc tham quan riêng hạng VIP ngay khi chúng ta đến nơi. Người phụ trách đã dồng ý rồi.”
Langdon gần như cười phá lên. “Một chuyến tam quan hạng VIP cho giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới sao? Và cả một đội quân mang theo đồ nghề ứng phó với độc chất nữa à? Các vị không nghĩ điều đó có thể khiến một vài người thắc mắc sao?”
“Đội SRS và đồ nghề sẽ ở nguyên trong xe trong khi Bruder, anh và tôi đánh giá tình hình”, Sinskey nói. “Thêm nữa, để cho thật chính xác, tôi không phải là VIP. Chính anh đấy.”
“Bà nói sao cơ?”
“Chúng tôi đã nói với bảo tàng rằng có một vị giáo sư Mỹ nổi tiếng bay tới cùng một nhóm nghiên cứu để viết bài về những biểu tượng của Hagia Sophia, nhưng máy bay của họ bị trễ năm tiếng và anh ta lỡ mất giờ tới tham quan tòa nhà. Vì anh ta cùng nhóm của mình sẽ đi ngay vào sáng mai nên chúng tôi hy vọng…”
“Được rồi”, Langdon nói. “Tôi hiểu ý rồi.”
“Bảo tàng đang cử một nhân viên tới đó để gặp riêng chúng ta. Quả nhiên, anh ta là người rất hâm mộ những bài viết của anh về nghệ thuật Hồi giáo”. Sinskey mỉm cười mỏi mệt với anh, rõ ràng đang cố tỏ ra lạc quan. “ Chúng ta được đảm bảo rằng anh có thể tiếp cận tất cả ngóc ngách của tòa nhà.”
“Và quan trọng hơn”, Bruder nói, “sẽ chỉ có chúng ta làm chủ toàn bộ không gian đó”.

Robert Langdon trân trân nhìn ra ngoài cửa sổ chiếc xe thùng khi nó lao vùn vụt dọc theo xa lộ kề bên bờ nước nối sân bay Ataturk với trung tâm của Istanbul. Các quan chức Thụy Sĩ bằng cách nào đó đã giúp cho thủ tục hải quan dễ dàng, và Langdon, Sinskey cùng những thàng viên khác trong nhóm đã lên đường chỉ trong vài phút.
Sinskey ra lệnh cho Thị trưởng và Ferris ở lại tren chiếc C-130 cùng với vài nhân viên WHO và tiếp tục truy tìm dấu vết của Sienna Brooks.
Mặc dù không tin Sienna có thể đến Istanbul kịp thời gian nhưng mọi người vẫn có tâm lý e ngại rằng trước khi nhóm Sinskey có thể can thiệp, cô đã kịp gọi điện cho một trong những đề tử của Zobrist ở Thổ Nhĩ Kỳ và đề nghị trợ giúp thực hiện kế hoạch đầy hoang tưởng của Zobrist.
Liệu có thật sự Sienna dính vào việc giết người hang loạt không? Langdon vẫn không sao chấp nhận được tất cả những gì đang diễn ra ngày hôm nay. Anh cảm thấy đau đớn khi phải nghĩ về cô như vậy, nhưng anh buộc phải chấp nhận sự thật. Mày chưa bao giờ hiểu cô ta, Robert ạ. Cô ta dắt mũi mày.
Một cơn mưa nhẹ bắt đầu trút xuống thành phố, và Langdon bỗng cảm thấy mệt mỏi khi nghe thấy tiếng rít lặp đi lặp lại của những cần gạt nước trên kính chắn gió. Bên phải anh, trên biển Marmara ngoài kia, anh có thể nhìn thấy ánh đèn quét qua của những du thuyền sang trọng và những tàu chở dầu đồ sộ ra vào hải cảng phía trước mặt. Dọc bờ cảng là những tòa tháp mảnh mai và trang nhã vươn cao phía trên các giáo đường có mái vòm, như âm thầm nhắc người ta nhớ rằng mặc dù Istanbul là một thành phố thế tục hiện đại, nhưng cốt lõi của nó vẫn dựa vào tôn giáo.
Langdon luôn thấy đoạn cao tốc dài mười dặm này là một trong những đoạn đường đẹp nhất ở châu Âu. Là một ví dụ hoàn hảo cho sự va chạm giữa cái cũ và cái mới của Istanbul, cung đường này bám theo một phần bức tường của Constantine, được xây dựng trước cả khi nhân vật được lấy tên cho đại lộ này – John F.Kennedy – cất tiếng khóc chào đời hơn mười sáu thế kỷ. Vị Tổng thống Hoa Kỳ rất ngưỡng mộ tầm nhìn của Kemal Ataturk (54), người đưa nước cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ vươn lên từ đống tro tàn của một đế chế đã sụp đổ.
Với những góc nhìn ra biển không đâu sánh bằng, Đại lộ Kennedy uốn mình qua những trảng cây tuyệt đẹp cùng các công viên lịch sử, chạy qua bến cảng ở Yenikapi, và cuối cùng len lỏi giữa ranh giới của thành phố với vịnh Bosporus, nơi nó tiếp tục chạy lên phía bắc tới tận mũi Vàng (55). Ở đó, sừng sững phía trên thành phố là pháo đài của đế chế Ottoman, Cung điện Topkapi. Với tầm nhìn chiến lược cho toàn bộ thủy lộ của Bosporus, cung điện này là một trong những nơi được du khách rất ưa chuộng. Họ tới đây để chiêm ngưỡng cả khung cảnh lẫn bộ sưu tập báu vật Ottoman có một không hai, trong đó có cả áo choàng và thanh gươm được đồn là những vật thuộc về nhà tiên tri Muhammad.
Chúng ta sẽ không đi xa đến thế, Langdon biết như vậy, trong đầu hình dung ra điểm đến của họ ở phía trước, Hagia Sophia, cách trung tâm thành phố không xa lắm.
Khi họ rời khỏi Đại lộ Kennedy và bắt đầu len lỏi vào thành phố dân cư đông đúc, Langdon nhìn những đường phố và vỉa hè tấp nập người, cảm thấy bị ám ảnh bởi những cuộc trò chuyện trong ngày.
Quá tải dân số.
Dịch bệnh.
Những nguyện vọng lệch lạc của Zobrist.
Mặc dù hiểu rõ địa diểm nhóm SRS này đang hướng tới, nhưng cho tới lúc này Langdon mới đánh giá được đầy đủ về nó. Chúng ta đang tiến tới tâm chấn. Anh hình dung ra cái túi đang từ từ tan dần, bên trong chứa chất dịch màu vàng nâu, và tự hỏi làm cách nào anh lại rơi vào tình cảnh này.
Bài thơ lạ lung mà Langdon và Sienna phát hiện ở mặt sau chiếc mặt nạ người chết của Dante cuối cùng chỉ dẫn anh tới đây, Istanbul. Langdon đã hướng dẫn nhóm SRS tới Hagia Sophia, và biết sẽ có nhiều việc cần làm khi tới đó.
“Hãy quỳ gối bên trong bảo quán mạ vàng của tri thức thánh thiêng,
và áp tai xuống đất,
lắng nghe tiếng nước nhỏ giọt,
Hãy lần sâu vào tòa cung điện bị chìm…
vì ở đây, trong bong tối, con quái vật chốn địa phủ chờ đợi,
lặn ngụp trong thứ nước đỏ như máu…
của cái đầm không hề phản chiếu ánh sao.”
Langdon lại cảm thấy run bắn khi biết rằng khổ cuối Hỏa ngục của Dante kết thúc bằng một cảnh tượng gần như giống hệt: Sau một hành trình dài đi xuyên qua địa phủ, Dante và Virgil đến điểm thấp nhất của địa ngục. Ở đây không có lối ra, họ nghe thấy tiếng nước chảy nhỏ giọt qua những khối đá dưới chân. Họ đi theo khe nước qua các kẽ nứt và khe hở để rồi tìm được chỗ an toàn.
Dante viết: “Một nơi dưới đó… nơi không thể nhận biết bằng mắt, mà qua tiếng khe nước,chảy xuôi theo chỗ trũng của tảng đá… và theo con đường ẩn kín đó, người dẫn đường của ta và ta bước vào, để trở lại thế giới dương gian”.
Cảnh tượng của Dante rõ ràng chính là cảm hứng cho bài thơ của Zobrist, mặc dù trong trường hợp này, dường như Zobrist đã đảo ngược mọi thứ. Thực tế, Langdon và những người khác đang theo tiếng nước nhỏ giọt, nhưng khác với Dante, họ không rời khỏi hỏa ngục… mà đi thẳng vào trong đó.
Khi chiếc xe thùng chạy qua những đường phố hẹp hơn và đông đúc hơn, Langdon bắt đầu hiểu ra cái logic khác thường khiến Zobrist lựa chọn trung tâm Istanbul là tâm chấn của một đại dịch.
Đông gặp Tây.
Giao lộ của thế giới.
Trong rất nhiều thời điểm của lịch sử, Istanbul từng bị những đại dịch giết người hoành hành, cướp đi số lượng lớn dân cư. Thực tế, trong giai đoạn cuối cùng của Cái chết Đen, thành phố được gọi là “tâm dịch” của cả đế chế và người ta nói đại dịch này đã giết hơn một vạn dân cư một ngày. Đã có một vài bức vẽ Ottoman nổi tiếng mô tả người dân thành phố tuyệt vọng đào những hố dịch hạch để chôn hàng núi xác chết tại các cánh đồng ở Taksim gần đó.
Langdon hy vọng Karl Marx đã sai khi nói, “Lịch sử luôn lặp lại”.
Dọc những con phố mưa rơi, các sinh linh vô tư lự vẫn đang bận rộn với công việc buổi tối của mình. Một phụ nữ Thổ Nhĩ Kỳ xinh đẹp gọi con cái về ăn tối, hai ông già cùng nhâm nhi tại một quán cà phê ngoài trời, một cặp đôi ăn mặc chỉnh tề tay trong tay đi dạo dưới ô, và một người đàn ông mặc áo lễ phục nhảy xuống từ xe buýt và chạy dọc phố, cố giấu hộp đàn vĩ cầm của mình bên dưới áo khoác, rõ ràng vì đến muộn một buổi hòa nhạc.
Langdon xem xét những gương mặt quanh mình, cố gắng hình dung ra những điều phức tạp trong cuộc đời mỗi người.
Đám đông được hình thành từ những cá nhân.
Anh nhắm mắt lại, ngoảnh mặt khỏi cửa sổ và cố gắng gạt bỏ chiều hướng u ám trong suy nghĩ. Nhưng vết thương đã hằn sâu. Trong khoảng tối tâm trí của anh, một hình ảnh không mong muốn hiện rõ – cảnh tượng hoang tàn trong bức tranh Chiến thắng của Tử thần của Bruegel – một bức đại cảnh gớm ghiếc về dịch hạch, nỗi thống khổ và đau đớn tàn phá một thành phố ven biển.
Chiếc xe thùng ngoặt sang phải vào Đại lộ Torun, và trong khoảnh khắc langdon nghĩ họ đã đến đích. Bên trái anh, một giáo đường sừng sững xuất hiện trong màn sương.
Nhưng đó không phải là Hagia Sophia.
Giáo đường Xanh, anh nhanh chóng nhận ra nó khi nhìn thấy sáu tòa tháp hình bút chì của đền thờ với nhiều tầng ban công vươn lên bầu trời với chỏm tháp nhọn hoắt. Langdon đã từng đọc được rằng vẻ đẹp như trong chuyện thần tiên của các tòa tháp có ban công ở Giáo đường Xanh đã truyền cảm hứng cho việc thiết kế tòa lâu đài của nàng Cinderella trong công viên Thế giới Disney. Giáo đường Xanh có tên gọi như vậy là do những bức tường bên trong đều được ốp gạch màu xanh dương, chẳng khác gì một vùng biển đẹp đến sững sờ.
Chúng ta đến gần lắm rồi, Langdon nghĩ khi chiếc xe thùng lao vùn vụt về phía trước, ngoặt sang Đại lộ Kabasakal và chạy dọc theo quảng trường Công viên Sultanahmet rộng rãi nằm giữa Giáo đường Xanh và Hagia Sophia, vốn nổi tiếng vì có thể quan sát được hai kỳ quan ấy.
Langdon nheo mắt nhìn qua lớp kính chắn gió ướt mưa, cố tìm kiếm hình dáng Hagia Sophia ở đường chân trời, nhưng mưa và ánh đèn pha làm cho thị lực trở nên khó khăn. Tệ hơn nữa, xe cộ dọc đại lộ dường như đang dừng lại.
Phía trước, Langdon chẳng nhìn thấy gì ngoài một hàng đèn hậu đỏ lòe.
“Có sự kiện gì đó rồi”, người lái xe thông báo. “Tôi nghĩ là một buổi hòa nhạc. Có lẽ đi bộ nhanh hơn.”
“Bao xa?”, Sinskey hỏi.
“Chỉ cần qua công viên này thôi. Ba phút. Rất an toàn.”
Sinskey gật đầu với Bruder và sau đó quay sang đội SRS. “Cứ ở trong xe. Tới càng gần tòa nhà càng tốt. Đặc vụ Bruder sẽ liên lạc lại ngay.”
Nói xong, Sinskey, Bruder và Langdon nhảy ra khỏi chiếc xe thùng xuống phố và tiến thẳng qua công viên.
Những hàng cây lá rộng trong Công viên Sultanah-met che chắn cả nhóm khỏi thời tiết đang càng lúc càng xấu đi khi họ hối hả bước dọc những lối đi dưới vòm lá của công viên. Các lối đi thỉnh thoảng lại có biển chỉ dẫn cho du khách tới nhiều điểm tham quan trong công viên – cột tháp Ai Cập lấy từ quần thể Đền Luxor, cột đồng Rắn biển (56) lấy từ Đền Apollo ở Delphi, và cột mốc Milion từng được xem như “điểm số 0” để đo mọi khoảng cách ở đế quốc Byzantine.
Cuối cùng, họ ra khỏi những tán cây ngay chân một bể nước hình tròn ở trung tâm công viên. Langdon bước ra chỗ trống và ngước mắt nhìn về phái đông.
Hagia Sophia.
Không giống một tòa nhà mà giống như một trái núi.
Vẫn lấp lánh trong màn mưa, hình dáng đồ sộ của Hagia Sophia chẳng khác gì cả một thành phố. Mái vòm trung tâm của tòa nhà lớn đến khó tin và được chống đỡ bằng khung màu xám bạc, như dựa trên cả khối kết hợp gồm những tòa nhà có mái vòm khác được chồng lên xung quanh nó. Bốn ngọn tháp cao vút – mỗi tháp đều chỉ có một ban công duy nhất và phần chóp nhọn màu xám bạc – vươn lên ở bốn góc tòa nhà, cách xa hẳn mái vòm trung tâm khiến cho người ta khó xác định được chúng chính là điểm hợp phần của một tòa nhà duy nhất.
Cả Sinskey và Bruder, cho đến lúc này vẫn chăm chú bước đều, bỗng cùng vượt lên, ngước mắt nhìn lên trên… lên trên nữa… nhe thể tâm trí của họ cố gắng thu hết toàn bộ chiều cao và bề rộng của công trình sừng sững trước mắt họ
“Lạy Chúa lòng lành”, Bruder khẽ thốt lên như khồn tin nổi. “Chúng ta sẽ phải tìm kiếm… chỗ đó sao?”
(54) Mustafa Kemal Ataturk (1881-1938) là nhà cách mạng, tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ. sau khi đế quốc Ottoman thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông lãnh đạo Phong trào Quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ, và kết quả là nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ ra đời năm 1923. Sau chiến tranh, Ataturk tiến hành cải cách chính trị, kinh tế vá văn hóa nhằm biến cựu đế quốc Ottoman thành một nhà nước hiện đại và thế tục. Những nguyên tắc cải cách đó đươc biết đến với tên “chủ nghĩa Kemal”.
(55) Mũi Vàng: Golden Horn là một vịnh nhỏ chia thành phố Istanbul và tạo thành một hải cảng tự nhiên cho các tàu thuyền của Hy Lạp, La Mã, Byzantine, Ottoman và các nước khác suốt hang nghìn năm. Đây là cửa biển có hình thanh đao, của các sông Alibeykoy và Kagithane, nối với Bosphorus đúng vị trí eo biển nhập vào biển Marmara, hình thành nên một bán đảo với phần đầu mút chính là “Istanbul” cũ (Byzantium cổ và Constantinople).
(56) Cột đông Rắn biển (Serpent Column) là cột đồng cổ tại Hippodrome thuộc Constantinople, khu vực nay là Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Đây là một phần của tháp ba chân hiến tế thời Hy Lạp cổ đại, nguyên đặt tại Delphi và được Constantine I Đại đế dời tới Constantinople năm 324. Tháp được xây dựng để tưởng niệm những người Hy Lạp đã chiến đấu và đánh bại đế quốc Ba Tư trong trận Plataea (479 trước Công nguyên). Phần đầu rắn của cây cột cao tám mét này vẫn còn nguyên vẹn cho đến cuối thế kỷ XVII và nay được trưng bày tại Bảo tàng Khảo cổ Istanbul gần đó.

Mình đang bị tạm giữ, Thị trưởng cảm thấy như vậy khi ông ta bước tới bước lui trong khoang chiếc máy bay vận tải C-130. Ông ta đồng ý với Istanbul sẽ giúp Sinskey ngăn chặn cuộc khủng hoảng này trước khi nó hoàn toàn vượt khỏi tầm kiểm soát.
Thị trưởng biết rõ rằng hợp tác với Sinskey có thể giúp giảm mức độ hình phạt mà ông ta có thể phải chịu vì khinh suất dính líu vào cuộc khủng hoảng này. Nhưng giờ Sinskey lại bắt giữ mình rồi.
Ngay khi chiếc máy bay đậu lại bên trong nhà chứa của chính quyền tại sân bay Ataturk, Sinskey và nhóm của bà đã rời khỏi máy bay, và bị giám đốc WHO ra lệnh cho Thị trưởng cùng một vài nhân viên trong đội ngũ Consortium của ông ta phải ở nguyên trên máy bay.
Thị trưởng đã tìm cách ra ngoài hít thở một chút không khí nhưng bị mấy tay phi công mặt lạnh như tiền chặn lại. Họ nhắc ông ta nhớ rằng tiến sĩ Sinskey đã yêu cầu tất cả mọi người phải ở nguyên trong khoang máy bay.
Không xong rồi, Thị trưởng nghĩ thầm, kiếm một chỗ ngồi trong khi thực sự bắt đầu của thấy không an tâm về tương lai của mình.
Thị trưởng từ lâu đã quen làm người điều khiển, là thế lực tối thượng kiểm soát những sợi dây, nhưng đột nhiên tất cả quyền năng này của ông ta bị tước hết.
Zobrist, Sienna, Sinskey.
Tất cả bọn họ đều coi thường và thao túng chính ông ta.
Lúc này, bị kẹt cứng trong khoang chiếc máy bay vận tải xa lạ không có lấy một ô cửa sổ của WHO, ông ta bắt đầu tự hỏi phải chăng vận may của mình đã chấm hết, nếu như tình thế hiện tại có thể chính là một hình thức trừng phạt tiền oan nghiệt báo đối với cả một đời không lấy gì làm lương thiện của ông ta.
Ta dối lừa để kiếm sống.
Ta là người cung cấp những thông tin sai lệch.
Mặc dù không phải là người duy nhất bán những lời dối trá trên cõi đời này, nhưng Thị trưởng đã thành danh như là con cá to nhất ao. Những con cá nhỏ hơn là một giống khác hẳn, và Thị trưởng không thích liên quan gì đến bọn họ.
Cũng hiện diện trên mạng Internet, những công ty với tên gọi kiểu như Công ty Alibi và mạng Alibi kiếm tiền trên khắp thế giới bằng việc giới thiệu những đối tác hôn nhân bội bạc chuyên lừa dối và không để bị phát hiện. Hứa rằng sẽ “cho thời gian ngừng lại” trong khoảnh khắc để khách hàng của họ có thể thoát khỏi chồng, vợ, hoặc con cái, các tổ chức này là bậc thầy trong việc tạo ra những chuyện lừa gạt - thỏa thuận làm ăn giả dối, cuộc hẹn gặp bác sĩ giả dối, thậm chí cả đám cưới giả dối - tất cả mọi hình thức, kể cả những lời mời qua điện thoại, tờ rơi, vé máy bay, mẫu xác nhận của khách sạn, và thậm chí cả số liên lạc đặc biệt nối với tổng đài của Công ty Alibi, nơi các chuyên gia được đào tạo sẽ đóng giả làm bất kỳ nhân viên lễ tân hay đầu mối liên lạc gì mà màn lừa gạt cần có.
Tuy nhiên, Thị trưởng không bao giờ phí phạm thời gian của mình với những mánh lới như thế. Ông ta chỉ thực hiện những cú lừa dối quy mô lớn, làm việc với những người có khả năng chi hàng triệu đô la để nhận được dịch vụ tốt nhất.
Các chính phủ.
Các tập đoàn lớn.
Những nhân vật VIP cự phú.
Để đạt được mục tiêu, những khách hàng này sẽ có thể tùy ý sử dụng tài sản, nhân sự, kinh nghiệm và khả năng sáng tạo của Consortium. Mặc dù vậy, trên hết, họ nhận được quyền phủ nhận - lời cam kết rằng bất kỳ màn lừa gạt nào được dựng lên để hậu thuẫn cho sự dối trá của họ đều không bao giờ liên can gì tới họ.
Cho dù là chống lưng cho một thị trường chứng khoáng, hậu thuẫn một cuộc chiến, giành thắng lợi trong một cuộc bầu cử, hay nhử một kẻ khủng bố ra khỏi chỗ ẩn náu, thì các tay trùm môi giới của thế giới đều phải dựa vào những âm mưu lừa lọc nhằm định hình nhận thức của công chúng.
Luôn luôn theo cách thức như vậy.
Vào những năm 1960, người Nga xây dựng một mạng lưới gián điệp hoàn toàn giả mạo chuyên dùng hộp thư chết khiến người Anh phải tìm cách đề phòng suốt nhiều năm. Năm 1947, Không lực Hoa Kỳ tạo ra một màn đánh lừa về vật thể bay không xác định rất tinh vi nhằm đánh lạc hướng sự chú ý khỏi vụ rơi máy bay ở Roswell, bang New Mexico. Và gần đây hơn, thế giới bị “dắt mũi” để tin rằng Iraq có những vũ khí hủy diệt hàng loạt.
Trong suốt gần ba thập kỷ, Thị trưởng đã giúp nhân vật quyền thế bảo vệ, duy trì và tăng quyền lực cho họ. Mặc dù đặc biệt cẩn trọng với các nhiệm vụ mà mình tiếp nhận, nhưng Thị trưởng vẫn luôn sợ rằng sẽ có ngày ông ta đảm nhận một nhiệm vụ sai lầm.
Và giờ cái ngày đó đã đến.
Thị trưởng tin rằng, mọi thiên hung ca sụp đổ đều có thể truy vết ngược trở lại một thời điểm duy nhất - một cuộc gặp tình cờ, một quyết định không đúng, một ánh mắt khinh suất.
Trong trường hợp này, ông ta nhận ra rằng, cái khoảnh khắc đó gần như đã đến từ chục năm về trước, khi ông ta đồng ý thuê một sinh viên y khoa trẻ tuổi đang muốn kiếm thêm một chút tiền. Trí thông minh sắc sảo, khả năng ngôn ngữ đáng kinh ngạc, và tài năng ứng biến của cô gái này đã khiến cô ngay lập tức trở thành nhân vật nổi bật tại Consortium.
Sienna Brooks là một tài năng bẩm sinh.
Sienna ngay lập tức hiểu hoạt động của Thị trưởng, và ông ta cảm thấy cô gái trẻ này không lạ lẫm với việc giữ bí mật. Sienna làm việc cho ông ta suốt gần hai năm, kiếm được một khoản lương rất khá giúp cô trang trải được chi phí học ngành y của mình, và sau đó, hoàn toàn không báo trước, cô tuyên bố đã xong xuôi. Cô muốn cứu thế giới, và như đã nói với Thị trưởng, cô không thể làm việc đó tại Consortium.
Thị trưởng không bao giờ nghĩ Sienna Brooks lại xuất hiện trở lại gần một thập kỷ sau đó, mang theo mình một món quà tuyệt vời - một vị khách hang giàu có kinh khủng.
Bertrand Zobrist.
Thị trưởng thấy phát điên khi nhớ lại mọi việc.
Đây chính là lỗi của Sienna.
Cô ta luôn tham gia vào kế hoạch của Zobrist.
Gần đó, bên chiếc bàn hội ý tạm thời trong chiếc C-130, cuộc trò chuyện càng lúc càng sôi nổi, với những nhân viên WHO trao đổi trên điện thoại và tranh luận với nhau.
“Sienna Brooks à?!”, một người như quát trên điện thoại. “Có chắc không đấy?” Nhân viên này lắng nghe một lúc, lông mày cau lại. “Được, cho tôi chi tiết đi. Tôi sẽ giữ máy.”
Anh ta bịt ống nghe và quay sang các cộng sự của mình. “Hình như Sienna Brooks đã rời khỏi Ý ngay sau chúng ta.”
Tất cả mọi người bên bàn đều sửng lại.
“Bằng cách nào chứ?”, một nhân viên nữ thắc mắc. “Chúng ta chặn sân bay, cầu, ga tàu…”
“Sân bay Nicelli”, người kia trả lời. “Trên chiếc Lido.”
“Không thể nào”, cô nhân viên phản ứng lại, lắc đầu quầy quậy. “Nicelli rất bé. Không có chuyến bay nào rời đó cả. Nó chỉ phục vụ được các chuyến bay trực thăng trong vùng và…”
“Không hiểu sao Sienna Brooks có thể sử dụng một máy bay riêng đậu tại Nicelli. Họ vẫn đang tìm hiều về nó.” Anh ta lại đưa ống nghe lên miệng. “Vâng, tôi đây. Các anh có gì rồi?” Trong lúc lắng nghe thông tin cập nhật, vai anh ta càng lúc càng nặng trĩu, anh ta ngồi phịch xuống. “Tôi hiểu. Cảm ơn.” Anh ta kết thúc cuộc gọi.
Các đồng nghiệp của anh ta đều chăm chú nhìn với vẻ mong đợi.
“Máy bay của Sienna hướng về Thổ Nhĩ Kỳ”, anh ta thông báo, tay dụi dụi mắt.
“Vậy thì gọi ngay cho Cục Vận tải Hàng không châu Âu!”, ai đó nói. “Bảo họ cho chiếc máy bay đổi hướng.”
“Không được đâu”, anh chàng nhân viên WHO nói. “Nó đã hạ cánh cách đây mười hai phút tại sân bay riêng Hezarfen, chỉ cách nơi này có mười lăm dặm. Sienna Brooks đã biến mất rồi.”


Lúc này mưa trút ào ào xuống mái vòm cổ kính của Hagia Sophia.
Suốt gần một nghìn năm, đây là nhà thờ lớn nhất thế giới, và thậm chí bây giờ vẫn khó có thể nghĩ ra thứ gì lớn hơn. Nhìn lại tòa nhà lần nữa, Langdon nhớ rằng Hoàng đế Justinian [57], khi hoàn thành Hagia Sophia, đã bước lùi lại và tự hào tuyên bố, “Này ngài Solomon, tôi đã vượt qua ngài rồi!”.
Sinskey và Brüder quả quyết tiến nhanh về phía tòa nhà đồ sộ, như càng lúc càng phình lên khi họ lại gần.
Các lối đi ở đây đều có hai hàng đạn súng thần công được lực lượng của Mehmet Người Chinh phạt [58] sử dụng - một hình thức trang trí gợi nhớ rằng lịch sử của tòa nhà này thấm đẫm bạo lực vì sau khi bị chinh phục, nó được chuyển đổi công năng để phục vụ nhu cầu tinh thần của những thế lực chiến thắng.
Khi họ tiến gần đến mặt tiền phía Nam, Langdon liếc nhìn sang bên phải, chỗ ba khu phụ trông như những hầm chứa có mái vòm nhỏ ra khỏi tòa nhà chính. Đây chính là lăng của các vị Sultan, một trong số đó – vua Murad III - theo lời đồn đại, có tới một trăm người con.
Có tiếng chuông điện thoại di động vang lên trong không gian về đêm, và Brüder lấy điện thoại ra, kiểm tra nhận dạng người gọi, rồi trả lời cộc lốc: “Chuyện gì?”.
Trong lúc nghe thông tin, anh ta lắc đầu lia lịa như không tin nổi. “Sao có thể thế được?” Anh ta lắng nghe thêm và thở dài. “Được rồi, liên tục thông báo cho tôi. Chúng tôi sắp vào trong.” Anh ta tắt máy.
“Chuyện gì vây?”, Sinskey hỏi.
“Cần để mắt dè chừng”, Brüder nói, liếc nhìn toàn khu vực. “Chúng ta có thể có bạn đồng hành.” Anh ta đưa mắt nhìn Sinskey. “Có vẻ như Sienna Brooks đã có mặt tại Istanbul.”
Langdon nhìn sững Brüder, vô cùng ngạc nhiên khi nghe nói rằng Sienna đã tìm được cách lọt vào Thổ Nhĩ Kỳ và thêm nữa, sau khi trốn thoát khỏi Venice, cô còn dám bất chấp khả năng bị bắt và thậm chí bị giết để đảm bảo rằng kế hoạch của Bertrand Zobrist sẽ thành công.
Sinskey cũng cảnh giác không kém và hít một hơi dài như thể chuẩn bị hỏi thêm Brüder, nhưng rõ ràng bà đã suy nghĩ lại, nên quay sang Langdon. “Lối nào đây?”
Langdon chỉ sang trái chỗ góc tây nam của tòa nhà. “Đài phun nước Tẩy uế đằng kia”, anh nói.
Điểm gặp gỡ của họ với nhân viên của bảo tang là một nguồn nước có rào chắn trang nhã từng được sử dụng cho các nghi lễ tẩy uế trước khi thực hiện việc cầu nguyện của đạo Hồi.
“Giáo sư Langdon!”, một giọng nam giới gọi to khi họ tới gần.
Một người đàn ông Thổ Nhĩ Kỳ tươi cười bước ra từ bên dưới vòm bát giác che bên trên đài phun nước. Anh ta vẫy vẫy tay. “Giáo sư, ở đây!”
Langdon và hai người vội vã đi tới.
“Xin chào, tên tôi là Mirsat”, anh ta nói, giọng tiếng Anh nặng trịch đầy nhiệt tình. Đó là một người đàn ông mảnh dẻ với mái tóc lưa thưa, cặp kính nhìn tri thức, và mặc bộ đồ màu xám. “Thật vinh hạnh cho tôi.”
“Chúng tôi cũng rất vinh hạnh”, Langdon đáp, bắt tay Mirsat. “Cảm ơn vì lòng hiếu khách của anh dù chúng tôi đến thông báo vội vàng.”
“Vâng, vâng!”
“Tôi là Elizabeth Sinskey”, tiến sĩ Sinskey nói, bắt tay Mirsat và sau đó ra hiệu về phía Brüder. “Còn đây là Cristoph Brüder. Chúng tôi đến đây để hỗ trợ giáo sư Langdon. Tôi rất xin lỗi vì máy bay của chúng tôi bị trễ. Anh thật chu đáo khi tiếp đón chúng tôi thế này.”
“Không sao! Không phải suy nghĩ gì đâu!”, Mirsat rối rít. “Vì giáo sư Langdon, tôi sẽ phục vụ riêng bất kỳ giờ nào. Cuốn Những biểu tượng Thiên Chúa giáo trong thế giới Hồi giáo của anh ấy rất được ưa chuộng trong cửa hàng quà tặng của bảo tàng chúng tôi.”
Thật sao. Langdon nghĩ thầm. Giờ thì mình biết nơi duy nhất trên đời đón nhận cuốn sách đó.
“Chúng ta đi chứ?”, Mirsat nói, ra hiệu cho bọn họ đi theo.
Cả nhóm vội vã băng qua một khoảnh sân nhỏ, đi qua lối vào dành cho khách du lịch và tiếp tục đi tới nơi ban đầu là lối vào chính của tòa nhà - ba cổng tò vò khắc sâu với những cánh cửa đồng đồ sộ.
Hai nhân viên an ninh có vũ trang đang đợi sẵn để đón họ. Ngay khi nhìn thấy Mirsat, những nhân viên này mở khóa một cánh cửa và đẩy mạnh ra.
“Sağ olun”, Mirsat nói một trong những cụm từ tiếng Thổ Nhĩ Kỳ mà Langdon quen thuộc - một cách nói “cảm ơn” đặc biệt lịch thiệp.
Cả nhóm bước qua, và các nhân viên an ninh lập tức đóng những cánh cửa nặng nề phía sau lại, tiếng va chạm vang vọng khắp không gian nội thất bằng đá.
Giờ Langdon và mấy người kia đang đứng ở sảnh của Hagia Sophia - một dạng phòng chờ hẹp vốn rất phổ biến trong các nhà thờ Thiên Chúa giáo, có chức năng như một khu đệm kiến trúc giữa không gian linh thiêng với không gian trần tục.
Đường hào tinh thần, Langdon thường gọi khu vực này như vậy.
Cả nhóm đi về phía những cánh cửa tiếp theo, và Mirsat đẩy một bên cửa mở ra. Phía sau, thay vì nhìn thấy điện thờ như dự đoán, Langdon lại thấy một sảnh thứ hai, lớn hơn cái đầu tiên một chút.
Sảnh nội, Langdon nhận ra ngay, dù quên mất rằng điện thờ của Hagia Sophia có đến hai tầng bảo vệ cách ly với thế giới bên ngoài.
Như thể để chuẩn bị cho khách tham quan về những gì nằm ở phía trước, khu sảnh nội này được trang trí cầu kỳ hơn hẳn khu sảnh ngoài, các bức tường đều được làm bằng đá mài bóng loáng nên bắt sáng từ những ngọn đèn chùm rất đẹp. Langdon chăm chú ngắm nhìn bốn cánh cửa ở đầu bên kia của không gian trầm lắng này, phía trên có những bức gốm khảm vô cùng ngoạn mục.
Mirsat bước tới cánh cửa lớn nhất - một cánh cổng đồ sộ bọc đồng. “Hoàng môn”, Mirsat nói khẽ, giọng anh ta nhẹ hẫng nhưng vẫn hết sức nhiệt thành, “cho tôi hỏi, có cái gì các vị đặc biệt muốn xem ở bên trong không?”
Langdon, Sinskey và Brüder đều nhìn nhau.
“Có”, Langdon nói. “Có rất nhiều thứ cần xem, dĩ nhiên rồi, nhưng nếu được, chúng tôi muốn bắt đầu từ mộ Enrico Dandolo.”
Mirsat nghiêng nghiêng đầu như thể không hiểu rõ. “Sao cơ ạ? Các vị muốn xem… mộ Dandolo à?”
“Vâng.”
Mirsat đầy vẻ thất vọng. “Nhưng, thưa… mộ Dandolo rất đơn giản. Không hề có biểu tượng gì cả. Không phải là đề xuất tuyệt nhất của chúng tôi.”
“Tôi biết thế”, Langdon nhã nhặn nói. “Tuy nhiên, chúng tôi rất biết ơn nếu anh có thể đưa chúng tôi đến đó.”
Mirsat nhìn Langdon một lúc lâu, và sau đó anh ta đưa mắt nhìn lên phần gốm khảm ngay trên cánh cửa, nơi Langdon vừa ngắm nhìn. Phần gốm khảm này là hình ảnh từ thế kỷ IX của Chúa Jeus Toàn năng - hình ảnh đã trở thành biểu tượng mô tả Chúa Jeus cầm Kinh Tân ước bên tay trái trong khi tay phải ban phước.
Sau đó, như thể có một tia sáng lóe lên trong tâm trí, khóe miệng Mirsat nhếch lên thành một nụ cười đầy hiểu biết, và anh ta bắt đầu ngoắc ngoắc ngón tay. “Quả là sắc sảo! Rất sắc sảo!”
Langdon nhìn sững. “Tôi không hiểu?”
“Không sao, thưa giáo sư”, Mirsat nói bằng một giọng thì thào đầy mưu mô. “Tôi sẽ không nói cho bất kỳ ai biết lý do thật sự khiến giáo sư tìm đến đây đâu.”
Sinskey và Brüder cũng nhìn Langdon vẻ khó hiểu.
Langdon chỉ biết nhún vai trong khi Mirsat đẩy cửa mở ra và dẫn họ vào trong.
[57] Justinian I (482-565) là hoàng đế Đông La Mã từ năm 527 đến khi qua đời. Ông được phong thánh bởi các tín đồ Chính Thống giáo Đông phương. Triều đại của Justinian được đánh dấu bởi tham vọng phục hồi lãnh thổ của đế quốc Tây La Mã nhưng chỉ có thể thực hiện được một phần ở Bắc Phi, khôi phục lại Dalmatia, Sicilia, Ý và Rome trở về đế quốc sau hơn một nửa thế kỷ nằm dưới sự kiểm soát của người man di. Justinian là người san định và hệ thống luật pháp La Mã. Ông đã thành lập một bộ luật được biết dưới cái tên “dân luật đại toàn” (Corpus Juris Civilis).
(58) Mehmed II (được biết là Mehmed Người Chinh phạt) (1432-1481) là vị Sultan thứ bảy của đế quốc Ottoman trong một thời gian ngắn từ năm 1444 tới tháng Chín năm 1446, và sau đó là từ tháng Hai năm 1451 tới 1481. Ở tuổi hai mươi mốt ông chinh phạt Constantinople, dẫn tới sự sụp đổ của đế quốc Đông La Mã. Mehmet tiếp tục chinh chiến ở châu Á, thống nhất lại Tiểu Á, và mở rộng lãnh thổ tới Beograd ở châu Âu.

Kỳ quan thế giới thứ tám, một số người gọi nơi này như vậy, nhưng lúc này đứng bên trong, Langdon không có ý định tranh luận về đánh giá đó.
Khi cả nhóm bước qua ngưỡng cửa tiến vào khu điện thờ đồ sộ, Langdon sực nhớ rằng Hagia Sophia có thể gây được ấn tượng với khách tham quan về quy mô tráng lệ của nó chỉ trong nháy mắt.
Gian phòng này lớn đến mức dường như ngay cả những đại giáo đường của châu Âu cũng biến thành những chú lùn. Langdon biết rằng, sự choáng ngợp của nó một phần là ảo giác - một hiệu ứng phụ nhờ phần mặt sàn kiểu Byzantine, với toàn bộ không gian thờ cúng tập trung trong một gian phòng vuông vức duy nhất, chứ không phải trải ra theo bốn nhánh của bố cục hình thập tự - vốn là phong cách được sử dụng cho các thánh đường sau này.
Tòa nhà này còn nhiều tuổi hơn Notre-Dame đến bảy trăm năm, Langdon nghĩ bụng.
Sau khi mất một lúc mới quan sát được hết quy mô rộng lớn của gian phòng, Langdon ngước mắt nhìn lên, phải hơn bốn mươi lăm mét phía trên đầu, về phía mái vòm màu vàng sáng lấp lánh trùm lấy gian phòng. Từ điểm trung tâm, bốn mươi gọng vòm tỏa đều ra như những tia nắng mặt trời, chạy tới dãy tường cuốn hình tròn gồm buốn mươi ô cửa sổ vòng cung. Vào ban ngày, ánh sáng tràn qua những ô cửa sổ này phản chiếu và khúc xạ những mảnh kính khảm chặt trên lớp mái vàng, tạo ra “thứ ánh sáng kỳ ảo”, điểm nổi tiếng nhất của Hagia Sophia.
Langdon từng một lần duy nhất thấy cái không gian mạ vàng của gian phòng này được nắm bắt một cách chính xác trong tranh vẽ. Họa sĩ John Singer Sargent. Không có gì lạ, khi tạo ra bức Hagia Sophia nổi tiếng của mình, vị họa sĩ người Mỹ này chỉ giới hạn bảng màu trong phạm vi những sắc độ khác nhau của một màu duy nhất.
Màu vàng.
Phần mái vòm vàng lấp lánh, thường gọi là “mái vòm của Thiên đường”, được đỡ bằng bốn khung tò vò cực lớn và những khung này lại được cố định bằng rất nhiều kết cấu nửa vòm và lá nhĩ. Rồi lại có một tầng nửa vòm và dãy cuốn nhỏ hơn đỡ dưới các chi tiết này, tạo ra hiệu ứng như thể một thác nước gồm toàn những dạng thức kiến trúc đang từ trên trời tìm đường xuống trái đất.
Chạy từ trên trời xuống đất, mặc dù theo một lộ trình trực tiếp hơn, những sợi cáp dài từ mái vòm lao thẳng xuống và đỡ cả một biển chúc đài được treo thấp đến mức những vị khách cao lớn rất dễ va phải chúng. Nhưng thực tế, đây lại là một ảo giác nữa do sự hoành tráng của không gian này tạo ra, bởi lẽ những ngọn chúc đài đều treo cao cách sàn gần bốn mét.
Cũng như với tất cả các điện thờ khác, kích thước đồ sộ của Hagia Sophia nhằm hai mục đích. Thứ nhất, nó là bằng chứng trước Chúa về những gì con người sẵn sang thực hiện để tỏ lòng tôn kính với ngài. Và thứ hai, nó là hình thức gây sốc với các tín đồ - một không gian vật lý hung vĩ đến mức những người bước vào đều cảm thấy mình trở nên nhỏ bé, cái tôi của họ tan biến, cái bản thể vật chất cùng tầm quan trọng của họ chỉ còn là một chấm nhỏ nhoi trước Chúa - nguyên tử trong bàn tay của Tạo hóa mà thôi.
Chừng nào con người chẳng là gì cả thì Chúa cũng chẳng thể tạo ra được gì từ anh ta. Martin Luther từng nói những lời này vào thế kỷ XVI, nhưng quan niệm đó đã nằm trong tư duy của những người xây dựng từ thời có những hình mẫu xưa nhất của kiến trúc tôn giáo.
Langdon liếc nhìn Brüder và Sinskey, cũng đang chăm chú nhìn lên và lúc này mới hạ ánh mắt xuống.
“Chúa Jeus”, Brüder nói.
“Phải!” Mirsat hào hứng nói. “Và cả Thánh Allah cùng Đức Muhammad nữa!”
Langdon phì cười khi anh chàng hướng dẫn viên của họ bảo Brüder nhìn bàn thờ chính, nơi này có một bức tranh gốm khảm cao ngất hình Chúa Jeus kèm hai bên là hai chiếc đĩa lớn có tên bằng tiếng Ả Rập của Muhammad và Thánh Allah theo kiểu thư pháp trang trí.
“Bảo tàng này”, Mirsat giải thích, “cố gắng gợi cho khách tham quan nhớ đến những mục đích đa dạng của không gian thiêng liêng, nên lần lượt thể hiện cả biểu tượng Thiên Chúa giáo, từ thời kỳ khi Hagia Sophia còn là một nhà thờ, lẫn biểu tượng Hồi giáo, khi nó được dùng như một giáo đường”. Anh ta mỉm cười tự hào. “Bất chấp sự xích mích giữa hai tôn giáo giữa đời thực, chúng tôi vẫn nghĩ những biểu tượng của họ khá hòa hợp với nhau. Tôi biết anh cũng tán thành, thưa giáo sư.”
Langdon chân thành gật đầu, nhớ lại rằng tất cả những biểu tượng Thiên Chúa giáo đều đã bị che kín bằng vôi khi tòa nhà này trở thành một giáo đường Hồi giáo. Việc phục hồi lại những biểu tượng Thiên Chúa giáo bên cạnh các biểu tượng Hồi giáo đã tạo ra một hiệu quả hấp dẫn, đặc biệt vì những phong cách và đặc điểm nhạy cảm của hai hệ thống biểu tượng này lại là hai cực đối lập nhau.
Trong khi truyền thống Thiên Chúa giáo ưa những hình ảnh thế tục của các vị thần thánh, Hồi giáo lại tập trung vào thư pháp chữ Ả Rập và những hoa văn kỳ hà để thể hiện vẻ đẹp trong vũ trụ của Chúa trời. Truyền thống Hồi giáo cho rằng chỉ có Chúa trời mới tạo ra cuộc sống, do đó con người không thể tạo ra những hình ảnh của cuộc sống - không thần linh, không con người, thậm chí không động vật.
Langdon nhớ đã từng cố gắng giải thích quan niệm này cho các sinh viên của mình: “Một Michelangelo theo đạo Hồi, xin lấy ví dụ như vậy, sẽ chẳng bao giờ vẽ gương mặt của Chúa trên trần Nhà nguyện Sistine. Ông ấy sẽ khắc tên Chúa trời. Thể hiện gương mặt Chúa bị coi là hành động bang bổ”.
Langdon tiếp tục giải thích lý do của việc này.
“Cả Thiên Chúa giáo và Hồi giáo đều lấy ngôn từ làm trung tâm luận”, anh nói với sinh viên, “có nghĩa là họ tập trung vào Ngôi Lời. Theo truyền thống của Thiên Chúa giáo, Ngôi Lời trở thành xác thịt trong cuốn sách của Thánh John: ‘Và Ngôi Lời đã trở thành xác thịt, và Ngài ở giữa chúng ta’. Do đó, người ta chấp nhận việc mô tả Ngôi Lời có hình dạng con người. Còn trong truyền thống Hồi giáo, Ngôi Lời không trở nên xác thịt, cho nên Ngôi Lời cần giữ nguyên hình dạng của ngôn từ… trong hầu hết các trường hợp, đó là những hình thức thể hiện bằng thư pháp tên của các nhân vật thần thánh trong đạo Hồi”.
Một trong số các sinh viên của Langdon đã đúc kết đoạn lịch sử phức tạp này bằng một ghi chú bên lề vở chính xác đến thú vị rằng: “Người Thiên Chúa giáo thích mặt, người Hồi giáo thích chữ”.
“Trước mặt chúng ta đây”, Mirsat tiếp tục, ra hiệu về phía bên kia gian phòng kỳ vĩ, “các vị thấy một sự hòa trộn độc đáo giữa Thiên Chúa giáo và Hồi giáo”.
Anh ta chỉ rõ sự kết hợp của các biểu tượng ở khu hậu cung hoành tráng, đáng chú ý nhất là hình tượng Đức mẹ Đồng trinh và Chúa Hài đồng nhìn xuống mihrab - chỗ ngách tường hình bán nguyệt trong một giáo đường Hồi giáo cho biết phương hướng của Mecca. Gần đó, một dãy cầu thang chạy đến bục giảng kinh, trông giống kiểu bục dùng làm nơi thực hiện các bài thuyết pháp Thiên Chúa giáo, nhưng trên thực tế lại là một minbar, bục thánh lễ cho thầy tế thực hiện các buổi lễ ngày thứ Sáu. Tương tự, kết cấu hình hoa cúc gần đó trông giống khu vực dành cho đội hợp ca nhà thờ Thiên Chúa giáo nhưng thực tế lại là müezzin mahfili, một loại bục được tôn cao dành cho thầy tu báo giờ quỳ và cầu kinh đáp lại lời cầu nguyện của thầy tế.
“Các giáo đường Hồi giáo và thánh đường Thiên Chúa giáo giống nhau đến kinh ngạc”, Mirsat tuyên bố. “Truyền thống của Đông và Tây không khác biệt nhiều như chúng ta nghĩ!”
“Anh Mirsat?”, Brüder thúc bách, giọng đầy nôn nóng. “Chúng tôi rất muốn vào xem mộ Dandolo, nếu có thể?”
Mirsat có vẻ hơi bực mình, như thể vẻ nóng vội của Brüder chính là một biểu hiện thiếu tôn trọng đối với nhà thờ này.
“Phải”, Langdon nói. “Tôi xin lỗi vì vội vàng, nhưng chúng tôi có thời gian biểu rất sít sao.”
“Cũng được thôi”, Mirsat nói, tay chỉ một ban công khá cao bên trái họ. “Chúng ta lên gác và xem ngôi mộ.”
“Đi lên sao?”, Langdon giật mình đáp lại. “Không phải Enrico Dandolo được chôn cất trong hầm mộ à?” Langdon nhớ rõ về ngôi mộ, nhưng không nhớ vị trí chính xác trong tòa nhà nơi có mộ. Anh hình dung ra những khu vực tối tăm ngầm trong lòng đất của tòa nhà.
Mirsat có vẻ khó chịu trước câu hỏi. “Không, thưa giáo sư, mộ của Enrico Dandolo chắc chắn ở trên tầng.”
Có chuyện quái quỷ gì ở đây vậy nhỉ? Mirsat thắc mắc.
Khi Langdon đề nghị tới thăm mộ Dandolo, Mirsat cảm thấy đề nghị đó như một kiểu nghi trang. Chẳng ai muốn xem mộ Dandolo cả. Mirsat cho rằng thứ Langdon thật sự muốn xem là kho báu bí ẩn ngay bên mộ Dandolo kia - tác phẩm Gốm khảm Deesis - bức chân dung Chúa Toàn năng cổ vẫn được xem là một trong những tác phẩm nghệ thuật bí ẩn nhất của tòa nhà này.
Langdon đang tìm kiếm bức tranh gốm, và đang cố gắng giữ kín điều đó, Mirsat phán đoán, cho rằng vị giáo sư có lẽ đang viết một tác phẩm bí mật về bức Deesis.
Tuy nhiên, đến giờ thì Mirsat không hiểu. Chắc chắn Langdon biết tác phẩm Deesis nằm trên tầng hai, nhưng tại sao anh lại có phản ứng ngạc nhiên như vậy?
Trừ phi đúng là anh ta đang tìm kiếm mộ Dadolo chăng?
Bối rối, Mirsat dẫn họ về phía cầu thang, đi qua một trong hai cái đỉnh nổi tiếng của Hagia Sophia - một đại khí nặng tới gần một nghìn hai trăm năm mươi cân đẽo từ một khối cẩm thạch nguyên khối vào thời kỳ Hy Lạp hóa.
Lúc này, Mirsat im lặng leo lên cùng cả đoàn, cảm giác hơi bồn chồn. Các cộng sự của Langdon dường như không giống dân học thuật chút nào. Một trong số họ giống một dạng lính tráng nào đó, cơ bắp và cứng nhắc, lại mặc toàn đồ đen. Còn người phụ nữ có mái tóc bạc thì Mirsat cảm thấy như mình đã gặp bà ấy từ trước. Có lẽ trên truyền hình chăng?
Anh ta bắt đầu thấy nghi ngờ rằng mục đích chuyến viếng thăm này không phải như họ nói lúc đầu. Thật sự thì tại sao họ lại đến đây?
“Chỉ một đợt cầu thang nữa thôi”, Mirsat vui vẻ nói khi họ đến chiếu nghỉ. “Chúng ta sẽ thấy mộ của Enrico Dandolo trên tầng, và dĩ nhiên”, anh ta ngừng lại, mắt nhìn Langdon, “bức Gốm khảm Deesis nổi tiếng”.
Không có lấy một chút do dự.
Có vẻ như Langdon, trên thực tế, không hề đến đây vì bức Deesis một tí nào. Anh và các vị khách của mình dường như tập trung một cách khó hiểu vào ngôi mộ của Dandolo.

Khi Mirsat dẫn đường lên gác, Langdon nhận thấy Brüder và Sinskey rất lo lắng. Phải thừa nhận, việc leo lên tầng hai dường như chẳng có ý nghĩa gì. Langdon cứ nghĩ đến đoạn video ngầm trong lòng đất của Zobrist và bộ phim tài liệu về những khu vực ngầm bên dưới Hagia Sophia.
Chúng ta cần phải đi xuống.
Cho dù như vậy, nếu đây đúng là nơi có ngôi mộ của Dandolo thì họ cũng không còn lựa chọn nào khác ngoài việc làm theo đúng những chỉ dẫn của Zobrist. Hãy quỳ gối bên trong bảo quán mạ vàng của tri thức thánh thiêng, và áp tai xuống mặt đất, lắng nghe tiếng nước nhỏ giọt.
Cuối cùng khi đến tầng hai, Mirsat dẫn họ sang bên phải, đi dọc theo gờ ban công, nơi có tầm nhìn đẹp đến nín thở về khu điện thờ phía dưới. Langdon vẫn hướng về phía trước, rất tập trung.
Mirsat vẫn nhiệt thành nói về bức Gốm khảm Deesis, nhưng Langdon chẳng hề để tâm.
Giờ anh đã nhìn thấy mục tiêu của mình.
Ngôi mộ của Dandolo.
Ngôi mộ vẫn đúng như Langdon còn nhớ - một tiếng cẩm thạch trắng hình chữ nhật được khảm vào nền đá nhẵn bóng và được quay lại bằng cọc và xích.
Langdon tiến nhanh lại và xem xét những dòng chữ khắc:
Henricus Dandolo
Khi những người khác tiến đến phía sau, Langdon lập tức hành động, bước nhanh qua xích bảo vệ và đặt chân ngay phía trước bia mộ.
Mirsat lớn tiếng phản đối, nhưng Langdon vẫn tiếp tục, nhanh nhẹn quỳ gối như thể đang chuẩn bị cầu nguyện dưới chân vị tổng trấn bội bạc.
Tiếp đó, bằng một động tác khiến Mirsat thốt lên kinh hãi, Langdon đặt hai tay lên mộ và úp sấp mặt xuống sàn. Lúc ấy, Langdon thấy mình như đang quỳ lạy ở Mecca vậy. Động tác của anh khiến Mirsat cứng đờ, câm bặt, và đột nhiên toàn bộ tòa nhà đột nhiên chìm vào im lặng.
Langdon hít một hơi thật sâu, ngoảnh mặt sang phải và nhẹ nhàng áp tai trái vào mộ. Da thịt anh cảm nhận rõ sự lạnh lẽo của lớp đá.
Thứ âm thanh anh nghe vọng lên qua lớp đá rõ rệt như ban ngày.
Lạy Chúa.
Khúc cuối Hỏa ngục của Dante dường như đang vọng lên từ bên dưới.
Rất chậm rãi, Langdon xoay đầu, đăm đăm nhìn lên Brüder và Sinskey.
“Tôi nghe thấy rồi”, anh thì thào. “Tiếng nước nhỏ giọt.”
Brüder nhảy qua dây xích và quỳ xuống bên cạnh Langdon lắng nghe. Một lúc sau, anh ta gật đầu lia lịa.
Giờ đây khi họ nghe thấy tiếng nước chảy xuống dưới, một câu hỏi vẫn còn đó. Nó chảy đi đâu?
Tâm trí Langdon bỗng nhiên ngập tràn những hình ảnh của một cái hang chìm một nửa, ngập trong thứ ánh sáng màu đỏ kỳ quái, đâu đó bên dưới họ.
“Hãy lần sâu vào tòa cung điện bị chìm…
vì ở đây, trong bóng tối, con quái vật chốn địa phủ chờ đợi,
lặn ngụp trong thứ nước đỏ như máu…
của cái đầm không hề phản chiếu ánh sao.”
Khi Langdon đứng lên và bước qua các cọc rào lần nữa, Mirsat vẫn trừng trừng nhìn anh với vẻ cảnh giác và bị phản bội hiện rõ trên mặt. Langdon đứng cao hơn anh chàng hướng dẫn người Thổ đến hơn gang tay.
“Mirsat”, Langdon bắt đầu nói. “Tôi xin lỗi. Anh có thể thấy đấy, đây là một tình thế rất bất thường. Tôi không có thời gian để giải thích, nhưng tôi có một câu hỏi quan trọng để hỏi anh về tòa nhà này.”
Mirsat cố gắng gật đầu yếu ớt. “Vâng.”
“Ở đây, bên mộ của Dandolo, chúng tôi nghe thấy một dòng nước chảy đâu đó bên dưới lớp đá. Chúng tôi cần biết chỗ nước này chảy đi đâu.”
Mirsat lắc đầu. “Tôi không hiểu. Có thể nghe thấy tiếng nước bên dưới sàn nhà ở khắp mọi chỗ trong Hagia Sophia mà.”
Tất cả mọi người cứng đờ.
“Vâng”, Mirsat nói với họ, “đặc biệt khi trời mưa. Hagia Sophia có xấp xỉ chín nghìn ba trăm mét vuông mái cần thoát nước, và thường phải mất hàng ngày trời. Và thông thường trời lại đổ mưa trước khi nước kịp thoát hết. Tiếng nước nhỏ giọt rất phổ biến ở đây. Có lẽ các vị biết rằng Hagia Sophia ở bên trên những hang nước rất lớn. Có hẳn một phim tài liệu mà…”.
“Đúng, đúng”, Langdon lên tiếng, “nhưng anh có biết liệu chỗ nước nghe rất rõ ở đây, tại mộ của Dandolo này, chảy tới một chỗ nào đó cụ thể không?”.
“Dĩ nhiên”, Mirsat nói. “Nó chảy tới cùng chỗ mà toàn bộ nước trút xuống từ Hagia Sophia chảy tới. Đó là bể chứa của thành phố.”
“Không”, Brüder lên tiếng, chân bước qua rào chắn. “Chúng tôi không tìm kiếm bể chứa nước. Chúng tôi tìm một không gian ngầm rất lớn, có lẽ còn có cả những cột trụ nữa?”
“Đúng rồi”, Mirsat nói. “Bể chứa nước cổ của thành phố chính là nơi đó - một không gian ngầm rất lớn có cột trụ. Thực tế là rất ấn tượng. Nó được xây dựng vào thế kỷ VI để chứa nguồn cấp nước của thành phố. Còn bây giờ nó chỉ còn khoảng hơn một mét hai nước, nhưng…”
“Nó nằm ở đâu!”, Brüder hỏi, giọng anh ta vang rền trong không gian trống trải.
“Cái… bể nước hả?”, Mirsat hỏi lại, vẻ sợ hãi. “Cách đây một dãy nhà, ngay phía đông tòa nhà này.” Anh ta chỉ tay ra bên ngoài. “Nó được gọi là Yerebatan Sayari.”
Sayari sao? Langdon thắc mắc. Giống như trong Topkapi Sayari à? Tấm biển chỉ dẫn Cung điện Topkapi xuất hiện thường xuyên lúc họ lái xe tới đây. “Thế… sayari có phải nghĩa là ‘cung điện’ không?”
Mirsat gật đầu. “Đúng vậy. Tên bể nước cổ của chúng tôi là Yerebatan Sayari. Nó có nghĩa là… cung điện chìm.”

Mưa bắt đầu giăng khi tiến sĩ Sinskey bắt đầu lao vội ra khỏi Hagia Sophia cùng với Langdon, Brüder và anh chàng hướng dẫn viên Mirsat đang choáng váng của họ.
Hãy lần sâu vào tòa cung điện bị chìm, Sinskey nghĩ.
Địa điểm bể chứa nước của thành phố - Yerebatan Sayari - rõ ràng ở phía sau Giáo Đường Xanh và hơi chếch về phía bắc.
Mirsat dẫn đường.
Sinskey không còn lựa chọn nào khác là nói cho Mirsat biết họ là ai và rằng họ đang phải chạy đua để ngăn cản một cuộc khủng hoảng y tế có thể nổ ra ngay trong cung điện chìm đó.
“Lối này!”, Mirsat gọi, dẫn họ chạy men theo công viên tối om. Giờ Hagia Sophia đồ sộ như trái núi đã ở phía sau họ, và những ngọn tháp như trong truyện cổ tích của Giáo Đường Xanh lấp lánh phía trước.
Bên cạnh Sinskey, đặc vụ Brüder nói như quát vào điện thoại, cập nhật tình hình cho đội SRS và ra lệnh cho họ gặp nhau tại lối vào bể chứa nước. “Xem ra Zobrist nhắm vào nguồn cấp nước của thành phố”, Brüder nói, thở không ra hơi. “Tôi cần giản đồ của tất cả đường ống ra-vào bể chứa. Chúng ta sẽ thực hiện quy trình ngăn chặn và cách ly hoàn toàn. Chúng ta cần các rào chắn hóa học và vật lý với chân không…”
“Đợi đã”, Mirsat gọi anh ta. “Anh hiểu nhầm tôi rồi. Bể chứa không phải là nguồn cấp nước của thành phố. Không còn chức năng ấy nữa!”
Brüder hạ điện thoại, nhìn sững người hướng dẫn. “Sao cơ?”
“Thời xưa thì bể nước là nguồn cấp nước”, Mirsat nói rõ. “Nhưng không còn thế nữa rồi. Chúng tôi đã hiện đại hóa rồi.”
Brüder dừng phắt lại bên dưới tán cây, và tất cả mọi người cũng dừng lại theo.
“Mirsat”, Sinskey nói, “anh có chắc rằng không còn ai uống nước từ bể chứa không?”.
“Hoàn toàn không”, Mirsat nói. “Nước nằm nguyên dưới đó… cuối cùng tự thẩm thấu vào trong đất.”
Sinskey, Langdon và Brüder cùng nhìn nhau vẻ không chắc chắn. Sinskey không biết mình cảm thấy nhẹ nhõm hay thêm hoảng. Nếu không ai thường xuyên tiếp xúc với nước thì tại sao Zobrist lại chọn đầu độc nơi đó?
“Khi chúng tôi hiện đại hóa nguồn cấp nước từ nhiều thập kỷ trước”, Mirsat giải thích, “bể chứa không còn được sử dụng nữa và trở thành một cái bể lớn trong một gian phòng ngầm dưới đất”. Anh ta nhún vai. “Còn bây giờ thì chỉ là một điểm du lịch thôi.”
Sinskey xoay người về phía Mirsat. Một điểm du lịch ư? “Khoan đã… mọi người có thể đi xuống đó à? Xuống bể nước ấy?”
“Dĩ nhiên rồi”, anh ta nói. “Có đến hàng nghìn người tham quan mỗi ngày. Hang ngầm khá ấn tượng. Có các lối đi lót ván phía trên mặt nước… và thậm chí còn có một quán cà phê nhỏ. Thông khí hơi hạn chế nên không khí khá ngột ngạt và ẩm thấp, nhưng nơi đó vẫn rất nổi tiếng.”
Sinskey nhìn sững Brüder, và bà có thể khẳng định rằng cả bà và anh chàng đặc vụ SRS được huấn luyện kỹ càng đều cùng hình dung ra một điều - một hang ngầm ẩm thấp, tối tăm toàn nước đọng trong đó có ủ một thứ mầm bệnh. Cơn ác mộng thêm hoàn chỉnh với sự hiện diện của những lối đi lót ván nơi khách du lịch qua lại suốt ngày, ngay phía trên mặt nước.
“Hắn tạo ra một dạng thuốc phun sinh học”, Brüder tuyên bố.
“Nghĩa là sao?”, Langdon hỏi.
“Nghĩa là”, Brüder đáp, “nó có thể lan truyền trong không khí”.
Langdon im bặt, và Sinskey thấy rõ lúc này anh đang hình dung mức độ ghê gớm của cuộc khủng hoảng này.
Đã có lúc trong đầu Sinskey nghĩ đến kịch bản một thứ mầm bệnh lan truyền trong không khí, nhưng khi bà tin rằng bể chứa nước chính là nguồn cung cấp nước của thành phố, bà hy vọng có lẽ Zobrist chọn một dạng bệnh lây lan theo nước. Các vi khuẩn sống trong nước rất mạnh và chống chịu được thời tiết, nhưng chúng cũng chậm phát tán.
Các mầm bệnh dựa vào không khí lại lan truyền nhanh.
Rất nhanh.
“Nếu nó tồn tại trong không khí”, Brüder nói, “thì có khả năng là vi rút”.
Một loại vi rút, Sinskey đồng ý. Thứ mầm bệnh lây lan nhanh nhất mà Zobrist có thể lựa chọn.
Phải thừa nhận việc giải phóng một loại vi rút tồn tại trong không khí xuống nước là điều lạ thường, nhưng có điều dạng sống sinh trưởng trong chất lỏng và sau đó nở trong không khí - muỗi, bào tử nấm mốc, những loại vi khuẩn gây bệnh viêm phổi khuẩn, độc tố nấm, thủy triều đỏ [59], và thậm chí cả con người. Sinskey hình dung ra thứ vi rút tỏa ra khắp đầm nước trong bể chứa, và sau đó những giọt nước siêu nhỏ bị lây nhiễm bay lên trong không khí ẩm thấp.
Lúc này Mirsat trân trân nhìn một đường phố ùn tắc với vẻ lo sợ hiện rõ trên mặt. Sinskey nhìn theo ánh mắt của anh ta tới một tòa nhà thấp lát gạch trắng-đỏ có một cánh cửa mở, để lộ ra thứ trông như cầu thang. Một nhóm người ăn mặc chỉnh tề đang đứng dưới những chiếc ô che bên ngoài trong khi một nhân viên gác cửa đang kiểm tra dòng khách khứa theo lối cầu thang đi xuống dưới.
Một sàn nhảy dưới lòng đất thì phải?
Sinskey nhìn dòng chữ vàng khắc trên tòa nhà và cảm thấy ngực đột nhiên thắt lại. Sàn nhảy này được gọi là Bể chứa và được xây dựng vào năm 523 sau công nguyên, cho nên bà nhận ra tại sao Mirsat trông lo lắng như vậy.
“Cung điện chìm”, Mirsat lẩm bẩm. “Dường như… có một buổi hòa nhạc tối nay.”
Sinskey có vẻ hoài nghi. “Hòa nhạc trong một cái bể chứa à?”
“Đó là một không gian trong nhà rất rộng”, anh ta đáp lại. “Nó thường được sử dụng như một trung tâm văn hóa.”
Rõ ràng Brüder cũng đã nghe được đầy đủ. Anh ta lao vội về phía tòa nhà, lách qua dòng xe cộ lộn xộn trên Đại lộ Alemdar. Sinskey và những người khác cũng vội chạy theo, bám sát gót anh chàng đặc vụ.
Khi họ đến lối vào bể chứa, khuôn cửa bị chặn bởi một nhóm người dự hòa nhạc đang đợi đến lượt vào trong - một nhóm ba phụ nữ mặc áo choàng che kín mặt, hai du khách tay nắm tay, một người đàn ông vận lễ phục. Tất cả đều túm tụm bên dưới khung cửa, cố gắng tránh nước mưa.
Sinskey nghe rõ những giai điệu du dương của một tác phẩm âm nhạc cổ điển vang lên từ bên dưới. Berlioz, bà phỏng đoán căn cứ theo cách phối âm rất đặc trưng, nhưng cho dù đó là bản gì thì cũng có cảm giác nó không thích hợp lắm trong khung cảnh những đường phố tại Istanbul này.
Khi họ đến gần cửa hơn, bà cảm nhận được một luồng hơi ấm thổi ngược lên cầu thang, từ tít sâu trong lòng đất và thoát ra từ cái hang kín mít. Luồng hơi mang theo lên mặt đất không chỉ tiếng vĩ cầm, mà cả mùi hơi ấm và mùi đám đông người không lẫn đi đâu được.
Nó còn mang tới cho Sinskey một linh tính vô cùng bất an.
Một nhóm du khách từ dưới cầu thang xuất hiện, vừa đi vừa trò chuyện vui vẻ trong lúc ra khỏi tòa nhà, nhân viên gác cửa liền cho nhóm tiếp theo đi xuống.
Brüder lập tức tiến vào, nhưng nhân viên gác cửa chặn anh ta lại bằng một cái vẫy tay vui vẻ. “Một lát thôi, thưa ông. Bể chứa kín người rồi. Chưa đến một phút nữa là du khách tiếp theo ra thôi. Cảm ơn ông.”
Nhìn Brüder có vẻ sẵn sàng cố chen vào, nhưng Sinskey vẫn đặt một tay lên vai anh ta và kéo sang một bên.
“Đợi đi”, bà ra lệnh. “Nhóm của anh đang trên đường và anh không thể lùng sục ở nơi thế này một mình đâu.” Bà ra hiệu về phía tấm biển trên tường bên cạnh cửa. “Bể chứa rất rộng.”
Tấm biển thông tin nói rõ về một gian phòng dưới lòng đất có kích thước bằng cả một thánh đường - gần chín nghìn ba trăm mét vuông và được chống đỡ bằng cả một khu rừng ba trăm ba mươi sáu cây cột đá cẩm thạch.
“Nhìn xem”, Langdon nói, đứng cách đó vài thước. “Các vị sẽ không tin nổi đâu.”
Sinskey quay lại. Langdon ra hiệu về phía một tấm áp phích hòa nhạc trên tường.
Ôi, lạy Chúa lòng lành.
Giám đốc WHO đã đúng khi xác định phong cách âm nhạc là lãng mạn, nhưng tác phẩm đang được biểu diễn không phải do Berlioz biên soạn. Nó là của một nhà soạn nhạc phong cách lãng mạn khác - Franz Liszt.
Tối nay, sâu trong lòng đất, dàn nhạc Giao hưởng Bang Istanbul biểu diễn một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Liszt - Giao hưởng Dante - một tác phẩm hoàn toàn lấy cảm hứng từ cuộc du hành xuống địa ngục rồi trở về của Dante.
“Nó được trình diễn ở đây một tuần liền”, Langdon nói trong lúc chăm chú đọc tấm áp phích. “Một buổi hòa nhạc mở cửa tự do. Bên dưới ký tên một nhà tài trợ giấu tên.”
Sinskey nghĩ mình có thể đoán ra ai là nhà tài trợ giấu tên đó. Niềm đam mê kịch của Bertrand Zobrist dường như cũng là một chiến lược rất thiết thực nhưng nhẫn tâm. So với bình thường, tuần biểu diễn hòa nhạc miễn phí này sẽ thu hút thêm hàng nghìn du khách kéo xuống bể chứa và nhét họ vào một khu vực chật cứng, nơi họ sẽ hít thở thứ không khí bị nhiễm bệnh, sau đó quay về nhà mình cả ở đây lẫn ở nước ngoài.
“Thưa ông?”, nhân viên gác cửa gọi Brüder. “Chúng tôi có chỗ cho hai người nữa.”
Brüder quay sang Sinskey. “Gọi cho chính quyền địa phương. Cho dù tìm ra thứ gì dưới đó, chúng ta cũng vẫn cần hỗ trợ. Khi nhóm của tôi đến, bảo họ liên lạc với tôi để cập nhật tình hình. Tôi sẽ xuống dưới và xem xem liệu tôi có thể nhận ra Zobrist ém thứ này ở đâu không.”
“Không dùng mặt nạ phòng độc à?”, Sinskey hỏi. “Anh không biết chắc cái túi Solublon còn nguyên vẹn không.”
Brüder cau mày, tay giơ lên luồng khí ấm nóng phả ra khỏi cửa. “Tôi phải nói điều này, nếu thứ bệnh lây này thoát ra thì tôi đoán có lẽ tất cả mọi người trong thành phố này đều bị nhiễm rồi.”
Sinskey cũng đang nghĩ đến chính điều ấy nhưng không muốn nói ra trước mặt Langdon và Mirsat.
“Thêm nữa”, Brüder nói thêm, “tôi đã nhìn thấy chuyện gì sẽ xảy ra với đám đông khi nhóm của tôi tiến vào cùng với trang phục phòng độc. Chúng ta sẽ gặp cảnh hoảng loạn và giẫm đạp lên nhau”.
Sinskey quyết định chiều theo Brüder vì nói cho cùng, anh ta là một chuyên gia và đã ở trong những tình huống như thế này trước đó rồi.
“Lựa chọn thực tiễn duy nhất của chúng ta”, Brüder nói với bà, “là giả định rằng nó vẫn còn an toàn dưới đó, và cố gắng ngăn chặn việc này”.
“Được rồi”, Sinskey nói. “Làm đi.”
“Còn một vấn đề nữa”, Langdon xen vào. “Sienna thì sao?”
“Cô ta sao chứ?”, Brüder hỏi.
“Cho dù ý định của cô ta ở Istanbul này là gì thì cô ta cũng rất giỏi ngôn ngữ và có thể nói chuyện với một số người Thổ Nhĩ Kỳ.”
“Vậy thì sao?”
“Sienna biết bài thơ nói đến ‘cung điện bị chìm’”, Langdon nói. “Và trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, ‘cung điện bị chìm’ theo nghĩa đen chính là…” Anh chỉ về phía tấm biển YEREBATAN SAYARI phía trên khung cửa. “… đây.”
“Đúng vậy”, Sinskey mệt mỏi đồng ý. “Cô ta có thể đoán ra nơi này và đã bỏ qua Hagia Sophia.”
Brüder nhìn khuôn cửa hiu quạnh và lầm bầm rất khẽ. “Được thôi, nếu cô ta xuống đó và tìm cách phá vỡ cái túi Solublon trước khi chúng ta kịp bao nó lại thì ít nhất cô ta cũng chưa ở đó được lâu. Đó là một khu vực rất rộng, và có lẽ cô ta chưa biết tìm đến chỗ nào. Và có rất nhiều người ở xung quanh, nên cô ta không thể nhảy ùm xuống nước mà không bị chú ý.”
“Thưa ông?”, nhân viên canh cửa lại gọi Brüder. “Ông có muốn vào bây giờ không?”
Brüder nhìn thấy một nhóm người đi dự hòa nhạc nữa đang từ bên kia phố tiến sang, nên gật đầu với nhân viên canh cửa ra ý rằng anh ta đến ngay.
“Tôi sẽ đi cùng anh”, Langdon nói và đi theo.
Brüder xoay lại và đối diện với anh. “Chẳng để làm gì đâu.”
Giọng Langdon rất cương quyết. “Đặc vụ Brüder, một trong những lý do chúng ta ở trong tình thế này là vì Sienna Brooks đã dắt mũi tôi suốt cả ngày nay. Và như anh nói, có thể tất cả chúng ta đều đã bị nhiễm bệnh rồi. Tôi sẽ giúp anh cho dù anh có thích hay không.”
Brüder nhìn anh một lúc rồi dịu lại.
Khi vượt qua ngưỡng cửa và bắt đầu đi xuống cầu thang khá dốc theo sau Brüder, Langdon cảm thấy luồng hơi ấm thổi qua họ từ rất sâu dưới bể chứa. Luồng khí ẩm thấp mang theo nó những giai điệu bản Giao hưởng Dante của Liszt cũng như một thứ mùi quen thuộc nhưng khó tả - thứ mùi của rất nhiều người chen chúc nhau trong một không gian kín mít.
Langdon bỗng cảm thấy có một tấm màn ma quái vây phủ lấy mình, như thể những ngón tay rất dài của một bàn tay vô hình đang vươn lên từ mặt đất và sờn nắn da thịt anh.
Âm nhạc.
Dàn hợp xướng giao hưởng - với một trăm giọng hát - lúc này đang trình bày một đoạn nổi tiếng, đọc rành rẽ từng âm tiết trong lời văn u sầu của Dante.
“Lasciate ogne speranza”, họ cất tiếng hát vang, “voi ch’ entrate”.
Sáu từ này - chính là dòng thơ nổi tiếng nhất trong toàn bộ phần Hỏa ngục của Dante - vang lên từ tít phía dưới cầu thang chẳng khác gì mùi tử khí đáng sợ.
Kèm theo tiếng kèn cùng tù và vút cao, dàn hợp xướng lại ngân nga lời cảnh báo ấy. “Lasciate ogne speranza voi ch’ entrate!”
Vứt bỏ mọi hy vọng, những kẻ bước vào đây!
[59] Thủy triều đỏ (red tide) là tên gọi quen thuộc chỉ hiện tượng các vi sinh vật biển, đặc biệt là các loại thực vật phù du, tập trung dày đặc gần mặt nước, khiến nước như đổi sang màu đỏ hoặc nâu. Một số trường hợp thủy triều đỏ sản sinh ra các độc tố tự nhiên, làm giảm ô xy trong nước và gây ra những tác động có hại khác. Ảnh hưởng đáng sợ nhất của hiện tượng này là khiến cho các loài cá, chim, động vật biển và những sinh vật đại dương và duyên hải khác chết hàng loạt.




Ngập trong thứ ánh sáng màu đỏ, cái hang ngầm âm vang những tiếng nhạc đầy hơi hướng địa ngục - những giọng hát rền rĩ, tiếng dây đàn chói tai, và tiếng trống trầm đục, vang vọng khắp hang như một cơn địa chấn nhẹ.
Theo những gì Langdon nhìn thấy trong tầm mắt, thì nền của cái thế giới ngầm này là một màn nước trong vắt - tối tăm, tĩnh tại, phẳng lặng - giống như lớp băng màu đen ở một hồ nước đóng băng tại New England.
Cái đầm không hề phản chiếu ánh sao.
Nhô lên khỏi mặt nước là hàng trăm cột trụ Doric vững chãi được bố trí kỹ càng thành những hàng lối dường như bất tận, vươn cao đến hơn chín mét để đỡ phần trần uốn vòm cung của lòng hang. Các cột trụ được rọi từ bên dưới nhờ hàng loạt bóng đèn rọi sắc đỏ, tạo thành một cánh rừng siêu thực với những thân cây được chiếu sáng chạy hút vào bóng tối, tựa như một dạng ảo ảnh qua gương.
Langdon và Brüder dừng lại ở chân cầu thang, đứng ngây một lúc ở ngưỡng cửa trước khi tiến vào khoảng không gian trước mặt. Dường như chính lòng hang cũng tỏa ra một thứ sắc đỏ, và khi quan sát xung quanh, Langdon nhận thấy mình đang cố gắng hít thở nhẹ nhàng hết sức.
Không khí dưới này nặng nề hơn anh tưởng.
Langdon nhìn thấy đám đông cách đó một quãng bên tay trái họ. Buổi hòa nhạc đang diễn ra tít sâu trong không gian ngầm này, ở quãng giữa khoảng cách tới bức tường bên kia, và khán giả đều ngồi trên những cái bục. Vài trăm khán giả ngồi thành những vòng tròn đồng tâm được bố trí xung quanh dàn nhạc trong khi có khoảng một trăm người khác đang đứng ở vòng ngoài. Vẫn có thêm những người ở các vị trí bên ngoài, trên những lối đi lót ván gần đó, tựa người vào hàng rào chắn vững chãi và chăm chú nhìn xuống nước trong lúc lắng nghe tiếng nhạc.
Langdon đưa mắt nhìn khắp lượt những cái bóng vô định hình, mắt anh cố tìm kiếm Sienna. Không nhìn thấy cô ở đâu cả. Thay vào đó, anh thấy những bóng người mặc áo đuôi tôm, áo choàng dài, bisht của người Ả Rập, áo che mặt của người Hồi giáo, và thậm chí cả những du khách mặc quần cộc và áo lạnh cộc tay. Cảnh tượng nhiều người tụ lại trong thứ ánh sáng màu đỏ đối với Langdon giống như những người tham dự một nghi thức tế lễ huyền bí nào đó.
Nếu Sienna ở dưới này, anh nhận ra như vậy, thì gần như không thể nào phát hiện ra cô ấy.
Đúng lúc đó, một người đàn ông bệ vệ đi qua họ, len lên cầ thang, ho sặc sụa. Brüder quay phắt lại và nhìn theo người đó, chăm chú quan sát anh ta. Langdon cảm thấy hơi nhột nhạt ở trong cổ họng nhưng tự nhủ đó chỉ là do tưởng tượng.
Lúc này Brüder quả quyết bước lên lối đi lót ván, đưa mắt nhìn vô số khả năng lựa chọn của họ. Lối đi trước mặt họ chẳng khác gì lối vào mê cung của quái vật đầu bò Minotaur. Lối đi lót ván duy nhất nhanh chóng chia làm ba ngả, từng ngã lại tiếp tục chia nhánh, tạo thành một mê cung lơ lửng trên mặt nước, luồn lách qua những cột trụ và chạy hút vào trong bóng tối.
Mình đang ở trong một khu rừng tối tăm, Langdon nghĩ thầm, nhớ đến khổ thơ đầu tiên trong kiệt tác của Dante, vì cái lối đi dễ thấy đã mất dấu rồi.
Langdon ngó qua hàng rào chắn của lối đi, nhìn xuống nước. Nước sâu đến hơn một mét và trong đến kỳ lạ. Có thể nhìn rõ nền lát đá, phủ một lớp bùn mịn.
Brüder nhìn nhanh xuống dưới, bật ra tiếng lầm bầm không rõ thái độ cụ thể, và sau đó lại đưa mắt về phía gian phòng. “Anh có nhìn thấy gì giống như khu vực trong đoạn video của Zobrist không?”
Tất cả mọi thứ, Langdon nghĩ, mắt quan sát những bức tường trơn trượt, ẩm ướt xung quanh họ. Anh ra hiệu về góc hang xa nhất, tít bên phải, cách biệt hẳn với khu sân khấu hòa nhạc đông nghịt. “Tôi đoán ở đâu đó phía sau kia.”
Brüder gật đầu. “Trực giác tôi cũng mách bảo như vậy.”
Hai người vội vã bám theo lối đi lót ván, men theo ngả bên phải dẫn họ rời xa đám đông về hướng xa nhất của cung điện chìm.
Trong lúc họ di chuyển, Langdon nhận ra việc ẩn náu qua đêm tại nơi này mà không bị phát hiện thật quá dễ dàng. Zobrist có thể đã làm như vậy để thực hiện đoạn video của mình. Dĩ nhiên, nếu hắn đã hào phóng đứng tên tổ chức Chương trìn hòa nhạc dài cả tuần này thì hắn cũng có thể đề nghị được sử dụng một khoảng thời gian riêng tư ngay trong bể chứa.
Chuyện đó không còn thành vấn đề nữa.
Giờ Brüder sải bước nhanh hơn, như thể đang vô thức bắt theo nhịp độ của bản giao hưởng lúc này đã tăng tốc thành cả loạt quãng lửng bán cung thấp dần.
Dante và Virgil đi xuống địa ngục.
Langdon chăm chú nhìn khắp lượt những bức tường rêu trơn trượt phía xa bên phải họ, cố gắng so sánh những gì họ đã thấy trong đoạn video. Đễn mỗi ngã ba mới, họ đều rẽ sang phải, di chuyển rời xa đám đông thêm nữa, tiến về góc xa nhất của cái hang. Langdon ngoái nhìn lại và vô cùng kinh ngạc trước quãng đường mà họ đã đi.
Giờ họ đi rảo chân hơn, vượt qua một vài khách tham quan đang đi vẩn vơ, họ càng tiến vào sâu, số người lại càng thưa dần cho đến khi chẳng còn ai.
Chỉ còn lại Brüder và Langdon.
“Nhìn chỗ nào cũng giống nhau”, Brüder tỏ vẻ thất vọng. “Chúng ta bắt đầu từ đâu đây?”
Langdon cũng chung tâm trạng. Anh còn nhớ rất rành rẽ đoạn video, nhưng dưới này chẳng có gì làm đặc điểm nhận diện cả.
Langdon đọc kỹ những tấm biển thông tin có đèn chiếu sáng được bố trí từng quãng dọc lối đi trong lúc họ di chuyển về phía trước. Một tấm biển ghi rõ không gian này có sức chứa gần tám mươi nghìn mét khối. Một tấm biển khác cho biết có một cây trụ không đồng bộ vì được đoạt về từ một công trình gần đó trong quá trình xây dựng. Và còn một tấm biển khác nữa vẽ một hình chạm cổ giờ đã mờ không còn nhìn rõ nữa - đó là biểu tượng Mắt Gà Nhỏ Lệ - khóc thương cho tất cả những nô lệ đã bỏ mình trong quá trình xây dựng bể chứa này.
Rất lạ là có một tấm biển chỉ vỏn vẹn có một từ duy nhất khiến Langdon dừng sững lại.
Brüder cũng dừng bước, quay trở lại. “Có chuyện gì sao?”
Langdon chỉ tay.
Trên tấm biển, kèm theo một mũi tên chỉ phương hướng, là tên của một yêu nữ đáng sợ - một con quái vật khét tiếng.
MEDUSA
Brüder đọc tấm biển rồi nhún vai. “Thì sao chứ?”
Tim Langdon đập rộn lên. Anh biết Medusa không chỉ là con quỷ có tóc là những con rắn đáng sợ, với cái nhìn có khả năng biến bất kỳ ai nhìn nó hóa thành đá, mà còn là một nhân vật nổi bật trong hệ thống yêu thần sống trong lòng đất của Hy Lạp - một nhóm đặc biệt thường được biết đến như là những quái vật địa phủ.
Hãy lần sâu vào tòa cung điện bị chìm…
vì ở đây, trong bóng tối, con quái vật chốn địa phủ chờ đợi…
Ả đang chỉ lối, Langdon nhận ra như vậy, và vùng chạy dọc theo lối đi lót ván. Brüder khó khăn lắm mới bắt kịp Langdon trong khi chạy ngoằn ngoèo khuất vào bóng tối, theo đúng những tấm biển mà chỉ dẫn tới chỗ Medusa. Cuối cùng, anh tới một lối cụt chỗ một sàn quan sát nhỏ, gần móng bức tường tận cùng bên phải của bể chứa.
Ở đó, trước mắt anh là một cảnh tượng lạ thường.
Vọt lên khỏi mặt nước là một khối cẩm thạch đồ sộ đã được đục đẽo - chính là đầu Medusa - với mái tóc chính là những con rắn quằn quại. Sự hiện diện của ả ở đây càng kỳ quái hơn nữa vì cái đầu ả được đặt xoay ngược trên cổ.
Đảo ngược như kẻ bị đầy đọa, Langdon nhận ra như vậy, trong đầu lại hình dung ra bức Vực Địa Ngục của Botticelli và những kẻ tội đồ bị xoay ngược đầu mà ông đã đưa vào rãnh quỷ Malebolge.
Brüder hổn hiển đến bên cạnh Langdon chỗ rào chắn, nhìn sững chiếc đầu lộn ngược của Medusa với nét mặt sửng sốt.
Langdon ngờ rằng cái đầu chạm khắc này, hiện có chức năng như chân đế đỡ lấy một chiếc cột, có lẽ được đoạt về từ một nơi nào đó khác và sử dụng ở đây như một hạng mục cung ứng xây dựng không mấy tốn kém. Lý do tư thế đảo ngược của Medusa chắc chắn là do niềm tin có phần mê tín rằng việc xoay ngược như vậy sẽ tước bỏ quyền năng hắc ám của ả. Mặc dù vậy, Langdon vẫn không thể nào xua tan được những ý nghĩ đầy ám ảnh đang dồn dập tấn công anh.
Hỏa ngục của Dante. Đoạn cuối. Trung tâm trái đất. Nơi trọng lực đảo ngược. Nơi lên biến thành xuống.
Lúc này anh thấy nổi gai ốc với lời tiên tri, anh nheo mắt nhìn qua làn hơi nước đỏ ngầu xung quanh cái đầu chạm khắc kia. Phần lớn mái tóc rắn của Medusa ngập chìm trong nước, nhưng đôi mắt của ả thì ở trên mặt nước, ngoảnh sang trái, đăm đăm nhìn qua đầm nước.
Đầy sợ hãi, Langdon nhoài người ra ngoài rào chắn và ngoái đầu, đưa mắt dõi theo ánh mắt của bức tượng về phía góc tường trống trơn khá quen của tòa cung điện chìm.
Trong khoảnh khắc, anh biết rõ.
Đây chính là vị trí cần tìm.
Điểm không bề mặt của Zobrist.

Đặc vụ Brüder rón rén cúi người, lách qua bên dưới rào chắn và thả người xuống đầm nước sâu tới ngực. Khi cảm giác lành lạnh của nước thấm qua quần áo, các cơ của anh ta căng lên để chống lại. Sàn bể chứa trơn nhẫy dưới đế giày ủng của anh ta, nhưng rất chắc chắn. Anh ta đứng yên một lúc để đánh giá tình hình, quan sát những vòng tròn nước đồng tâm từ chỗ cơ thể mình lăn tăn loang ra khắp đầm nước như những đợt sóng xung kích.
Brüder nín thở một lúc. Di chuyển thật chậm, anh ta tự nhủ. Không gây xáo động.
Trên lối đi lót ván phía trên, Langdon đứng bên rào chắn, quét mắt khắp những lối đi xung quanh.
“Ổn cả”, Langdon thì thào. “Không ai thấy chúng ta.”
Brüder xoay người và nhìn chiếc đầu to tướng chổng ngược của Medusa được chiếu sáng bằng một ngọn đèn rọi đỏ rực. Lúc này khi Brüder đã xuống ngang với nó, trông con quái vật bị xoay đầu càng to lớn hơn.
“Cứ bám theo ánh mắt của Medusa qua bên kia đầm”, Langdon thì thào. “Zobrist rất giỏi về biểu tượng và kịch nghệ… Tôi sẽ không lấy làm lạ nếu hắn bố trí công trình của hắn đúng trên trục ánh mắt chết người của Medusa.”
Những ý tưởng lớn suy nghĩ giống nhau. Brüder thầm cảm ơn vì vị giáo sư người Mỹ đã khăng khăng đòi xuống đây cùng anh ta. Kiến thức chuyên môn của Langdon đã dẫn dắt họ tới góc bể chứa hẻo lánh này gần như ngay lập tức.
Trong khi những giai điệu của bản Giao hưởng Dante tiếp tục ngân nga phía xa thì Brüder rút chiếc đèn bút máy chống nước hiệu Tovatec của mình ra và nhúng sâu xuống nước, bật công tắc lên. Một quần sáng halogen rực rỡ xuyên qua nước, soi sáng phần sàn bể chứa trước mắt anh ta.
Bình tĩnh, Brüder tự nhủ. Không được gây xáo động một thứ gì.
Không nói thêm một lời, anh ta bắt đầu thận trọng thực hiện lộ trình của mình vào sâu trong đầm nước, chậm rãi lội, di chuyển cây đèn pin của mình tới lui nhịp nhàng, giống như một chuyên gia dò mìn dưới nước.
Bên rào chắn, Langdon bắt đầu thấy cổ họng căng cứng rất đáng ngại. Không khí trong bể chứa, mặc dù ẩm ướt, nhưng lại thiếu vị tanh và thiếu dưỡng khí. Trong khi Brüder thận trọng lội sâu vào đầm nước, vị giáo sư tự trấn an mình rằng mọi thứ sẽ ổn thỏa.
Chúng ta đã đến kịp lúc.
Tất cả vẫn còn nguyên.
Nhóm của Brüder có thể chặn được thứ này lại.
Cho dù vậy, Langdon vẫn cảm thấy rất bồn chồn. Là người suốt đời mang chứng sợ không gian kín, anh biết trong bất kỳ hoàn cảnh nào mình cũng đều rất bồn chồn khi ở dưới này. Cảm giác gì đó về hàng nghìn tấn đất đá lơ lửng trên đầu, không có thứ gì chống đỡ ngoài những cây cột cũ kỹ.
Anh cố xua ý nghĩ đó ra khỏi đầu và liếc nhìn lại đằng sau xem có ai chú ý đến họ không đúng lúc không.
Chẳng có gì.
Những người duy nhất ở gần đó đều đang đứng trên những lối đi khác, và họ đều nhìn theo hướng ngược lại, về phía dàn nhạc. Dường như không ai chú ý đến Brüder đang từ từ di chuyển trong nước ở góc bể chứa sâu tít này.
Langdon đưa mắt về phía đội trưởng đội SRS, với chùm ánh sáng halogen chìm dưới nước vẫn đong đưa trước mặt, soi sáng đường đi.
Langdon chăm chú nhìn, và chợt nhận ra có sự chuyển động bên trái - một cái bóng đen đúa đáng ngại đang trồi lên khỏi mặt nước ngay trước mặt Brüder. Langdon xoay người và đăm đăm nhìn vào khoảng tối om, cho rằng mình sẽ nhìn thấy một giống thủy quái nào đó trồi lên từ dưới nước.
Brüder dừng phắt lại, rõ ràng cũng đã nhìn thấy thứ đó.
Ở góc phía xa, một hình thù đen đúa chờn vờn nhô cao khoảng chín mét trên tường. Cái bóng ma quái đó trông khá giống cái bóng của vị bác sĩ dịch hạch xuất hiện trong đoạn video của Zobrist.
Nó là một cái bóng, Langdon nhận ra và thở phào. Bóng của Brüder.
Cái bóng xuất hiện khi Brüder di chuyển qua một chiếc đèn rọi chìm vào trong đầm nước, và dường như nó đúng y cái bóng Zobrist trong đoạn video.
“Chính là vị trí đó”, Langdon gọi Brüder. “Anh tới gần rồi đấy.”
Brüder gật đầu và tiếp tục nhích dần tới trong đầm. Langdon di chuyển men theo rào chắn, ở vị trí ngang với anh ta. Khi anh chàng đặc vụ tiến xa dần, Langdon lại liếc nhanh về phía dàn nhạc để đảm bảo rằng Brüder không bị chú ý.
Không có gì cả.
Lúc đưa mắt trở lại đầm nước, mắt Langdon thoáng bắt được một vệt sáng phản chiếu trên lối đi dưới chân.
Anh nhìn xuống và thấy một vũng nhỏ chất lỏng màu đỏ.
Máu.
Lạ thay, chính Langdon lại đang đứng trong cái vũng ấy.
Không lẽ mình đang chảy máu?
Langdon không hề thấy đau, nhưng anh vội vàng kiểm tra khắp người xem có vết thương hay phản ứng gì bất thường trước một thứ độc tố vô hình trong không khí hay không. Anh kiểm tra cả mũi, các móng tay, và tai xem có bị xuất huyết không.
Không tìm thấy chỗ nào chảy máu, Langdon nhìn xung quanh để khẳng định rằng thực tế anh chỉ có một mình trên lối đi vắng vẻ này.
Langdon nhìn xuống vũng nước lần nữa, và lần này anh nhận ra một vệt nước nhỏ xíu đang chảy theo lối đi và đọng lại ở chỗ trũng dưới chân anh. Dường như thứ chất lỏng màu đỏ đang từ chỗ nào đó phía trước chảy tới và dồn xuống chỗ thấp trên lối đi.
Phía trên kia có người bị thương, Langdon cảm thấy như vậy. Anh liếc nhanh ra chỗ Brüder lúc này đang đến gần trung tâm đầm nước.
Langdon sải bước nhanh trên lối đi, lần theo vệt nước. Khi anh tiến về phía lối cụt, vệt nước nhìn to hơn, đang chảy tràn tự do. Thế này là thế quái nào? Đến vị trí này, nó biến thành cả một dòng nước nhỏ. Anh rảo chân thêm, lần theo thứ chất lỏng đang chảy tràn tới tận tường, nơi lối đi đột ngột kết thúc.
Lối cụt.
Trong khoảng tối tăm, anh thấy một bể nước lớn sóng sánh sắc đỏ, như thể ai đó vừa bị giết ở đây.
Vào khoảnh khắc nhìn thấy thứ chất lỏng màu đỏ ấy tràn qua lối đi, nhỏ giọt xuống bể chứa, Langdon nhận ra phán đoán ban đầu của mình là sai lầm.
Không phải máu.
Ánh đèn đỏ của cái không gian rộng lớn này, kết hợp với sắc đỏ của lối đi lót ván, đã tạo ra ảo giác, khiến cho những vệt nước này có sắc đỏ thẫm.
Nó chỉ là nước.
Thay vì mang lại cảm giác nhẹ nhõm, phát hiện đó khiến anh sợ đến đờ đẫn. Anh đăm đăm nhìn xuống vũng nước, lúc này còn thấy cả những vệt nước bắn lên lan can và những dấu chân.
Có người từ dưới nước leo lên ở đây.
Langdon xoay người gọi Brüder, nhưng anh cách quá xa và tiếng nhạc đang đến đoạn hòa âm của kèn và trống. Đinh tai nhức óc. Langdon bỗng cảm thấy bên cạnh mình có người.
Không chỉ có riêng mình ở chỗ này.
Bằng động tác rất chậm rãi, Langdon xoay người về phía bức tường nơi kết thúc lối đi lót ván. Cách đó khoảng ba mét, trong bóng tối, anh nhận ra một khối tròn lẳn, giống như một tảng đá lớn phủ áo choàng đen, ướt sủng nước chảy tong tong. Cái khối đó bất động.
Và sau đó nó cử động.
Cái khối kéo dài ra, cái đầu không rõ nét của nó ngóc lên.
Một người thu mình trong một tấm áo choàng phụ nữ Hồi giáo màu đen, Langdon nhận ra ngay.
Thứ trang phục che kín cơ thể truyền thống của người Hồi giáo ấy không để hở da thịt, nhưng khi cái đầu đã bịt kín mặt xoay về phía Langdon, hai con mắt đen hiện ra, trừng trừng nhìn qua khe hở hẹp của phần mũ che mặt, khóa chặt lấy mắt của Langdon.
Trong khoảnh khắc, anh đã hiểu.
Sienna Brooks bật dậy từ chỗ nấp của mình. Cô bung người, tăng tốc chạy thật nhanh, xô mạnh làm anh ngã xuống sàn rồi chạy vụt theo lối đi lót ván.

Trong đầm nước ngoài kia, đặc vụ Brüder đã dừng lại. Quần sáng halogen từ chiếc đèn bút Tovatec của anh ta vừa lướt qua một vệt kim loại sáng ở phía trước, trên nền bể chứa.
Gần như nín thở, Brüder nhẹ bước lại gần hơn, thận trọng không gây ra bất kỳ xáo trộn gì trong nước. Qua mặt nước trong veo, giờ anh có thể nhận ra một hình chữ nhật sáng loáng bằng titan, được bắt vít xuống sàn.
Tấm biển của Zobrist.
Nước trong đến mức anh ta gần như có thể đọc được con số chỉ ngày mai và dòng chữ đi kèm:
TẠI NƠI NÀY, VÀO NGÀY NÀY,
THẾ GIỚI THAY ĐỔI MÃI MÃI.
Xem nào, Brüder trầm ngâm, trong lòng thấy tự tin hơn hẳn. Chúng ta vẫn còn vài giờ để ngăn chặn thứ này trước ngày mai.
Nhớ lại đoạn video của Zobrist, Brüder nhẹ nhàng nhích quần sáng đèn pin sang bên trái tấm biển để tìm cái túi Solublon đã được cột lại. Khi quần sáng soi tỏ vùng nước tối tăm, Brüder căng mắt nhìn đầy hoang mang.
Không có cái túi.
Anh ta di chuyển quần sáng nhích thêm sang trái, tới đúng vị trí nơi cái túi xuất hiện như trong đoạn video.
Vẫn không thấy gì cả.
Nhưng... đúng chỗ này mà!
Brüder nghiến chặt răng trong khi quả quyết bước gần thêm một bước, từ từ quét quần sáng đèn quanh toàn bộ khu vực.
Không hề có cái túi. Chỉ có tấm biển.
Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi đầy hy vọng, Brüder tự hỏi phải chăng mối đe dọa này, giống như nhiều thứ khác hiện nay, chẳng là gì hơn ngoài một vố lừa.
Phải chăng tất cả chỉ là một trò đùa ác ý?!
Phải chăng Zobrist chỉ muốn dọa chúng ta?!
Bên trái tấm biển, khó khăn lắm mới nhìn thấy trên nền đầm nước, có một sợi dây mềm oặt. Cái sợi dây èo uột trông chẳng khác gì một con sâu không còn sinh khí chìm trong nước. Ở đầu kia của sợi dây là một cái móc nhựa nhỏ xíu vẫn còn dính lại một ít nhựa Solublon.
Brüder nhìn sững tàn tích còn lại của cái túi trong suốt. Nó đính vào đầu sợi dây giống như nút thắt của một quả bóng bay đã bị vỡ.
Sự thật từ từ thấm vào gan ruột anh ta.
Chúng ta đã quá muộn.
Anh ta hình dung ra cảnh cái túi chìm trong nước tan dần và vỡ bung, phát tán thứ chất chết người chứa bên trong vào nước và sủi bọt lên mặt đầm.
Bằng một ngón tay run run, anh ta tắt đèn pin và đứng một lúc trong bóng tối, cố gắng lấy lại tinh thần.
Những ý nghĩ trong đầu nhanh chóng biến thành lời cầu khấn.
Chúa giúp chúng con.
“Đặc vụ Brüder, nói lại xem!”, Sinskey hét lên trong bộ đàm, đang len được nửa đường xuống cầu thang đi vào bể chứa, cố gắng nhích đến chỗ nhận sóng tốt hơn. “Tôi không nghe rõ!”
Luồng hơi ấm phả qua mặt bà, ngược theo cầu thang lên phía khung cửa mở rộng phía trên. Bên ngoài, nhóm SRS đã đến và các thành viên đang chuẩn bị sẵn sàng phía sau tòa nhà, cố gắng không để công chúng nhìn thấy những dụng cụ phòng độc trong lúc đợi tiếp nhận thông tin đánh giá tình hình của Brüder.
“… cái túi đã vỡ…” Tiếng Brüder lạo xạo trong bộ đàm của Sinskey. “… và … đã phát tán.”
Cái gì?! Sinskey cầu nguyện rằng mình đang hiểu nhầm trong lúc lap vội xuống cầu thang. “Nhắc lại xem!”, bà ra lệnh, tiến gần xuống chân cầu thang, nơi tiếng nhạc càng to hơn.
Lần này giọng Brüder rõ hơn. “… và tôi nhắc lại… chất lây bệnh đã bị phát tán!”
Sinskey lảo đảo lao về phía trước, gần như ngã nhào vào lối dẫn tới bể chứa ở chân cầu thang. Sao có thể như thế được?!
“Cái túi đã tan rồi”, giọng Brüder vang lên rất to. “Chất lây bệnh đã hòa vào nước!”
Mồ hôi lạnh túa ra khắp người khi tiến sĩ Sinskey ngước nhìn lên và cố gắng nắm bắt thế giới dưới lòng đất đang ở ngay trước mắt mình. Qua màn hơi đỏ ngầu, bà nhìn thấy một vùng nước rộng với hàng trăm cây cột trụ. Tuy nhiên, trên hết, bà nhìn thấy những con người.
Hàng trăm người.
Sinskey nhìn sững đám đông vẫn chưa hay biết gì, tất cả đều bị nhốt trong cái bẫy chết người dưới lòng đất của Zobrist. Bà phản ứng theo bản năng. “Đặc vụ Brüder, lên ngay lập tức. Chúng ta sẽ bắt đầu sơ tán mọi người ngay.”
Brüder trả lời ngay tức thì. “Tuyệt đối không! Đóng chặt cửa lại! Không ai được ra khỏi đây!”
Là giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới, Elizabeth Sinskey đã quen với việc mệnh lệnh của bà được thi hành mà không ai chất vấn gì. Nhất thời, bà nghĩ bà hiểu sai những lời của đội trưởng SRS. Đóng chặt cửa ư?!
“Tiến sĩ Sinskey!”, Brüder hét át cả tiếng nhạc. “Bà có nghe rõ tôi không?! Đóng hết các cửa lại!”
Brüder nhắc lại yêu cầu, nhưng không cần thiết nữa. Sinskey đã biết rằng anh ta nói đúng. Khi đương đầu với một đại dịch tiềm tàng, ngăn chặn là lựa chọn khả dĩ duy nhất.
Sinskey đưa tay lên và cầm chiếc bùa bằng đá lam ngọc của mình. Hy sinh vài người để cứu nhiều người. Với vẻ đầy quyết tâm, bà giơ bộ đàm lên môi. “Xác nhận, Đặc vụ Brüder. Tôi sẽ ra lệnh đóng chặt cửa.”
Sinskey vừa định quay người rời khỏi cái bể chứa hãi hùng này và ra lệnh phong tỏa khu vực thì bà cảm thấy trong đám đông có sự chuyển biến đột ngột.
Cách đó không xa, một phụ nữ mặc áo choàng che mặt màu đen đang len nhanh về phía bà, men theo một lối đi chật cứng người, dùng tay gạt phăng mọi người để tìm lối thoát. Người phụ nữ che mặt dường như đang tiến thẳng về phía Sinskey và lối ra.
Cô ta đang bị truy đuổi, Sinskey nhận ra như vậy và nhìn thấy một người đàn ông chạy phía sau.
Rồi Sinskey cứng đờ người. Đó là Langdon!
Mắt Sinskey lia trở lại người phụ nữ khoác áo choàng, lúc này đang tiến lại rất nhanh và đang hét ầm ĩ điều gì đó bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ cho tất cả những người ở trên lối đi. Sinskey không biết tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng qua phản ứng hốt hoảng của mọi người, tiếng hô của người phụ nữ kia rất giống như tiếng hô “cháy!” trong một rạp hát đông người.
Cơn hoảng loạn lan nhanh khắp đám đông, và đột nhiên không chỉ người phụ nữ che mặt và Langdon đang phăm phăm lao tới chỗ cầu thang nữa. Tất cả mọi người.
Sinskey xoay lưng nhìn cảnh tượng giẫm đạp đang sắp diễn ra và bắt đầu hét một cách tuyệt vọng với nhóm của mình ở phía trên.
“Đóng cửa lại!” Sinskey hét lên. “Phong tỏa bể chứa! NGAY LẬP TỨC!”
Lúc Langdon lần qua góc tường để lao vào khu vực cầu thang, Sinskey đang lên được nửa chừng, cố leo lên mặt đất, cuống cuồng ra lệnh đóng cửa. Sienna Brooks bám sát sau bà, cố đánh vật với chiếc áo choàng ướt nhẹp, nặng trịch trong lúc ì ạch leo lên cầu thang.
Langdon sải bước đằng sau họ, cảm nhận rõ cả một đám đông những người dự hòa nhạc đang hoảng loạn ùa theo sau anh.
“Chặn lối ra!”, Sinskey lại hét lên.
Cặp chân dài của Langdon giúp anh vọt lên ba bậc mỗi lần, dần bắt kịp Sienna. Phía trên anh nhìn thấy những cánh cửa đôi nặng nề của bể chứa bắt đầu đóng lại.
Quá chậm.
Sienna vượt qua Sinskey, tóm lấy vai bà và dùng nó như một đòn bẩy để vọt lên trước, lao nhanh về phía lối ra. Sinskey loạng choạng khuỵu xuống, chiếc bùa yêu quý của bà đập mạnh xuống bậc thang xi măng và vỡ đôi.
Langdon phải cố kìm bản năng dừng lại để giúp người phụ nữ bị ngã. Thay vào đó, anh vọt qua bà, chạy nhanh lên chiếu nghỉ trên cùng.
Sienna chỉ còn cách vài thước, gần như đã trong tầm với, nhưng cô đã tới được chiếu nghỉ, và những cánh cửa đóng không đủ nhanh. Không chút chậm trễ, Sienna nghiêng thân hình mảnh mai của mình và lách qua khe hở hẹp.
Cô lọt được nửa người qua cửa thì chiếc áo choàng mắc phải then cửa, khiến cô chững lại, kẹt cứng giữa cửa, dù chỉ còn vài phân nữa là thoát ra. Trong lúc cô cố vùng vẫy để thoát, tay Langdon đã vươn tới và tóm chặt lấy chiếc áo choàng. Anh giữ chặt, kéo lại, cố gắng lôi cô vào trong, nhưng cô vùng vẫy điên cuồng, và đột nhiên Langdon chỉ còn giữ được một đống vải ướt rượt.
Cánh cửa đóng sầm lại, suýt kẹp đứng tay Langdon. Chiếc áo mắc lại giờ vướng ngay khuôn cửa, khiến cho những người bên ngoài không tài nào đóng hẳn cửa lại được.
Qua khe hở, Langdon nhìn thấy Sienna lao vọt qua một đường phố đông đúc, cái đầu trọc lốc của cô lấp loáng trong ánh đèn đường. Cô vẫn mặc đúng chiếc áo len và quần bò xanh cô mang trên người cả ngày, và Langdon đột nhiên có cảm giác bị phản bội ghê gớm.
Cái cảm giác đó chỉ kéo dài trong khoảnh khắc. Một sức đẩy đột ngột và mạnh mẽ xô Langdon dính chặt vào cửa.
Đám đông hỗn loạn đã đến sát sau anh.
Cả cầu thang ầm ầm những tiếng la hét hoảng loạn và ngơ ngác, trong khi những âm thanh của dàn nhạc giao hưởng biến thành một mớ tạp âm hỗn loạn phía dưới. Langdon cảm nhận rõ sức ép trên lưng tăng dần khi chỗ tắc nghẽn thêm đông người. Lồng ngực của anh bắt đầu thấy đau nhói khi bị ép chặt vào cửa.
Rồi cánh cửa bật tung, và Langdon bị xô văng ra đường phố ban đêm chẳng khác gì một chiếc nút bật ra khỏi chai sâm panh. Anh loạng choạng trên vỉa hè, gần như ngã vật xuống phố. Phía sau anh, cả biển người ào ra như đàn kiến chạy trốn khỏi cái tổ bị nhiễm độc.
Các đặc vụ SRS, nghe thấy tiếng hỗn loạn, lúc này mới từ phía sau tòa nhà xuất hiện. Đồ nghề cùng mặt nạ phòng độc của họ càng làm tình trạng hoảng loạn gia tăng.
Langdon xoay người và nhìn sang bên kia phố tìm kiếm Sienna. Tất cả những gì anh nhìn thấy chỉ là phương tiện giao thông, ánh đèn và vẻ ngơ ngác của người dân.
Nhưng chỉ trong chớp mắt, trên phố phía trái anh, một cái đầu trọc lốc bắt đèn nhá lên trong đêm, đang len lỏi trên vỉa hè đông đúc và biến mất ở một góc phố.
Langdon tuyệt vọng nhìn lại phía sau, cố tìm Sinskey, hay cảnh sát, hay một đặc vụ SRS không mặc bộ đồ phòng độc kềnh càng.
Chẳng có ai cả.
Langdon biết anh phải tự mình hành động.
Không chút chần chừ, anh vọt theo Sienna.
Tít bên dưới, ở nơi sâu nhất của bể chứa, đặc vụ Brüder đứng một mình trong vùng nước sâu tới thắt lưng. Những âm thanh hỗn loạn vang vọng trong bóng tối khi những du khách và nhạc công hoảng loạn chen nhau tìm đường ra phía lối thoát và biến mất trên cầu thang.
Chẳng thể đóng cửa được nữa, Brüder hãi hùng nhìn ra như vậy. Ngăn chặn không thành công rồi.



Robert Langdon không phải vận động viên chạy, nhưng nhiều năm bơi lội giúp anh có đôi chân cứng cáp, và có thể sải những bước chân rất dài. Anh đến góc phố chỉ trong vài dây và vòng qua đó, thấy mình đã đứng trên một đại lộ rộng rãi hơn. Mắt anh vội quét khắp các vỉa hè dành cho người đi bộ.
Cô ta dứt khoát phải ở đây!
Mưa đã tạnh, và từ góc phố này, Langdon có thể thấy rõ toàn bộ đường phố đèn đuốc sáng trưng. Không có chỗ nào để ẩn nấp cả.
Nhưng dường như Sienna đã biến mất.
Langdon dừng lại, tay chống nạnh, thở hổn hển trong lúc nhìn hết con phố đẫm nước mưa trước mặt. Chuyển động nhanh nhất anh nhìn thấy là cách năm mươi thước phía trước, một chiếc xe buýt hiện đại của Istanbul đang rời khỏi lề đường và tăng tốc lao tới trên đại lộ.
Không lẽ Sienna đã nhảy lên một chiếc xe buýt?
Có vẻ hơi quá mạo hiểm. Chẳng lẽ cô lại thực sự nhốt mình vào trong một chiếc xe buýt khi mà cô biết tất cả mọi người đều đang lùng tìm mình? Lại nữa, nếu cô tin không ai nhìn thấy mình vòng qua góc phố, và nếu chiếc xe buýt vừa tình cờ lăn bánh, mang cho cô một cơ hội đúng lúc thì…
Có lẽ vậy.
Hiện rõ trên nóc xe buýt là tấm biển ghi đích đến - một bảng đèn đã được lập trình hiện rõ một từ duy nhất: GALATA.
Langdon chạy xuống lòng đường, hướng về phía một người đàn ông đã có tuổi đang đứng bên ngoài một nhà hàng bên dưới mái hiên. Ông ấy ăn mặc rất chỉnh tề với áo dài thêu và đội khăn trắng.
“Xin lỗi ông”, Langdon hổn hển nói lúc đi đến trước mặt ông ấy. “Ông có nói được tiếng Anh không?”
“Có chứ”, người đàn ông đáp, vẻ khó chịu vì sắc thái thúc bách trong giọng nói của Langdon.
“Galata?! Đó là một địa danh phải không?”
“Galata à?”, người đàn ông đáp lại. “Cầu Galata? Hay tháp Galata? Cảng Galata?”
Langdon chỉ tay về phía chiếc xe buýt đang chạy đi. “Galata! Chiếc xe buýt kia chạy đi đâu?”
Người đàn ông đội khăn xếp nhìn theo chiếc xe chạy xa dần và ngẫm nghĩ một lúc. “Cầu Galata”, ông ấy đáp. “Nó dẫn ra khỏi thành cổ và bắc qua thủy lộ.”
Langdon lầm bầm, mắt anh lại cuống cuồng nhìn qua phố nhưng không thấy bóng dáng Sienna đâu. Lúc này có tiếng còi hụ khắp mọi nơi, những chiếc xe phản ứng khẩn cấp lao vụt qua họ về phía bể chứa nước.
“Có chuyện gì vậy?”, người đàn ông hỏi, vẻ cảnh giác. “Mọi việc vẫn ổn chứ?”
Langdon lại nhìn theo chiếc xe buýt chạy xa dần và biết đây là một canh bạc, nhưng anh không còn lựa chọn nào khác.
“Không sao, thưa ông”, Langdon đáp. “Tôi đang gặp một tình huống khẩn cấp và cần sự giúp đỡ của ông.” Anh ra hiệu về phía vệ đường, nơi người hầu bàn vừa lái một chiếc xe Bently màu bạc bóng lộn đến. “Xe của ông phải không?”
“Phải, nhưng…”
“Tôi cần đi xe”, Langdon nói. “Tôi biết chúng ta chưa bao giờ gặp nhau, nhưng có chuyện rất tai hại vừa xảy ra. Đây là vấn đề sinh tử.”
Người đàn ông đội khăn xếp nhìn xoáy vào mắt vị giáo sư một lúc lâu, như thể đang cố nhìn thấu gan ruột. Cuối cùng, ông ấy gật đầu. “Vậy thì anh nên lên xe đi.”
Khi chiếc Bently rời khỏi vệ đường, Langdon thấy mình phải bấu chặt vào ghế. Người đàn ông rõ ràng là một tài xế rất có kinh nghiệm và có vẻ rất khoái thử thách luồn lách giữa dòng xe cộ, cố đuổi theo chiếc xe buýt.
Qua chưa đầy ba tòa nhà ông ấy đã đưa chiếc Bently của mình sát sau chiếc xe buýt. Langdon nhổm về phía trước, nheo mắt nhìn qua cửa sổ hậu xe buýt. Đèn trong xe rất tối, và những thứ duy nhất Langdon có thể nhận ra là những cái bóng lờ mờ của hành khách.
“Xin hãy bám sát xe buýt”, Langdon nói. “Mà ông có điện thoại không?”
Người đàn ông rút điện thoại di động từ trong túi và đưa nó cho vị khách của mình. Langdon cảm ơn ông ta rối rít rồi mới chợt nhận ra mình không biết phải liên lạc với ai. Anh không hề có số liên lạc của Sinskey hay Brüder, còn gọi cho các văn phòng của WHO tại Thụy Sỹ thì mất quá nhiều thời gian.
“Tôi gọi cho cảnh sát địa phương bằng cách nào?”, Langdon hỏi.
“Một-năm- năm”, người đàn ông trả lời. “Bất kỳ ở đâu tại Istanbul.”
Langdon bấm ba con số và chờ đợi. Đường dây dường như đổ chuông mãi không thôi. Cuối cùng, một giọng nói đã được ghi âm vang lên, thông báo bằng cả tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và tiếng Anh rằng do các đường dây đều bận nên anh cần phải chờ máy. Langdon thắc mắc không biết lý do đường dây bận có phải chính là cuộc khủng hoảng ở bể chứa nước không.
Có lẽ lúc này cung điện chìm đang ở trạng thái hoàn toàn hỗn loạn. Anh hình dung đến cảnh Brüder đang lội ra khỏi đầm nước và những gì anh ta sẽ thấy ở bên ngoài. Langdon có cảm giác nặng trĩu trong lòng.
Sienna đã nhảy xuống nước trước anh ta.
Phía trước, đèn phanh của chiếc xe buýt sáng lên, và chiếc xe tấp vào một điểm đỗ bên đường, giúp Langdon nhìn rõ những hành khách lên xuống xe. Chỉ có ba người xuống xe - tất cả đều là đàn ông - nhưng Langdon vẫn quan sát từng người thật cẩn thận, vì anh biết quá rõ khả năng cải trang của Sienna.
Mắt anh lại di chuyển về ô cửa sổ hậu. Nó được làm tối đi nhưng lúc này đèn trong xe đều sáng và Langdon có thể nhìn thấy những người trên xe rõ hơn. Anh nhổm về phía trước, ngỏng cổ, áp sát mặt vào kính chắn gió của chiếc Bently để tìm kiếm Sienna.
Xin đừng bảo rằng tôi đã đặt nhầm cửa!
Và anh nhìn thấy cô.
Ở phần sau cùng của chiếc xe hiện rõ một đôi vai mảnh mai cùng phần gáy của một cái đầu cạo trọc đang ngoảnh mặt đi chỗ khác.
Chỉ có thể là Sienna.
Khi chiếc xe buýt tăng tốc, đèn trong xe lại mờ đi. Trong một giây rất nhanh trước khi chìm vào bóng tối, cái đầu ngoái lại, nhìn ra ngoài cửa sổ hậu.
Langdon thụp đầu xuống ghế, khuất vào trong phần tối của chiếc Bently. Cô ta có thấy mình không nhỉ? Người lái xe đội khăn xếp lại đánh xe ra, bám sát theo chiếc xe buýt.
Lúc này con đường chạy dần xuống bờ nước, và phía trước mặt, Langdon có thể nhìn thấy ánh đèn từ một cây cầu thấp vươn dài trên mặt nước. Cây cầu nhìn như tắc nghẽn vì xe cộ. Thực tế, toàn bộ khu vực gần đầu cầu đều bị tắc nghẽn.
“Chợ gia vị”, người đàn ông nói. “Rất tấp nập vào những tối trời mưa.”
Ông ta chỉ tay về phía mép nước, nơi một dãy nhà dài một cách kỳ lạ nép dưới bóng một trong những giáo đường ngoạn mục của Istanbul – Giáo đường Mới, nếu Langdon không nhầm, căn cứ theo chiều cao hai tòa tháp đôi lừng danh của nó. Chợ Gia vị nhìn rộng hơn hẳn hầu hết các khu mua bán của Mỹ, và Langdon thấy rất đông người đang ra vào qua cổng vòm đồ sộ của chợ.
“Alô?!”, một giọng nói lý nhí vang lên đâu đó trong xe. “Trường hợp khẩn cấp phải không? Alô?!”
Langdon cúi nhìn chiếc điện thoại trong tay mình. Cảnh sát.
“Vâng, xin chào!” Langdon lên tiếng, đưa tai nghe lên. “Tên tôi là Robert Langdon. Tôi làm việc cho Tổ chức Y tế Thế giới. Các ông có một cuộc khủng hoảng lớn tại bể chứa nước thành phố, và tôi đang bám theo kẻ chịu trách nhiệm việc đó. Cô ta ở trên một chiếc xe buýt gần chợ Gia vị, đang tiến về…”
“Làm ơn chờ một chút”, nhân viên trực nói. “Để tôi kết nối ông với bộ phận khẩn cấp.”
“Đừng, đợi đã!” Nhưng Langdon lại phải chờ máy.
Người lái chiếc Bently ngẩng sang anh với vẻ mặt sợ hãi. “Một cuộc khủng hoảng ở bể chứa nước thành phố à?!”
Langdon vừa định giải thích thì mặt của người lái xe đột nhiên đỏ bừng lên, như một bộ mặt quỷ.
Đèn phanh!
Người lái xe quay vội đầu lại và chiếc Bently phanh kít ngay sau chiếc xe buýt. Đèn trong xe lại sáng lên và Langdon có thể nhìn rõ Sienna như ban ngày. Cô đang đứng ở cửa sau, liên tục giật sợi dây báo dừng khẩn cấp và đập cửa xe để đòi xuống xe.
Cô ta đã nhìn thấy mình, Langdon nhận ra như vậy. Rõ ràng Sienna cũng đã nhin thấy tình trạng kẹt cứng ở cầu Galata và không muốn bị mắc kẹt trên đó.
Langdon mở cửa rất nhanh, nhưng Sienna đã nhảy xuống xe buýt và tức tốc lao vào màn đêm. Langdon ném điện thoại trả lại cho chủ nhân của nó. “Báo cho cảnh sát những gì vừa xảy ra! Bảo họ bao vây khu vực này!”
Người đàn ông đội khăn xếp gật đầu sợ hãi.
“Và cảm ơn ông!”, Langdon hét vội. “Teşekkürler!”
Nói xong, Langdon lao vội xuống đuổi theo sau Sienna, lúc này đang chạy thẳng về phía đám đông đang chen chúc trong chợ Gia vị.

Chợ Gia vị ba trăm năm tuổi của Istanbul là một trong những khu chợ có mái che lớn nhất thế giới. Được xây dựng theo hình chữ L, quần thể này có tám mươi tám gian phòng mái vòm chia thành hàng trăm gian hàng, nơi các thương gia địa phương chào bán vô vàn thứ thực phẩm trên khắp thế giới - gia vị, hoa quả, thảo dược, và cả món kẹo Thổ Nhĩ Kỳ rất thịnh hành của Istanbul, thỏa mãn khẩu vị của mọi khách hàng.
Người ta đồn rằng lối vào chợ, một cổng chào bằng đá đồ sộ với vòm cung Gothic, tọa lạc ở góc phố Çiçek Parazi và Tahmis, chứng kiến hơn ba trăm nghìn khách khứa ghé qua mỗi ngày.
Tối nay, khi tiến gần lối vào kín đặc người, Langdon cảm thấy như thể tất cả ba trăm nghìn người đều đang có mặt ở đây tại thời điểm này. Anh vẫn đang chạy rất nhanh, chưa hề rời mắt khỏi Sienna. Giờ cô chỉ còn cách anh hai mươi thước phía trước, tiến thẳng về phía cổng chợ và không hề có ý dừng lại.
Sienna đã tới cổng chào vòm cung và gắng chen qua đám đông. Cô lách qua mọi người, cố tiến vào bên trong. Lúc bước qua cổng chợ cô còn liếc lại phía sau. Langdon nhìn thấy trong mắt cô đầy sự hoảng sợ của một cô gái nhỏ bé đang chạy trốn vì hoang mang… tuyệt vọng và không kiểm soát được.
“Sienna!”, anh gọi to.
Nhưng cô đã lẩn vào biển người và biến mất.
Langdon nhào theo sau cô, thúc, đẩy,nhướng cổ cho tới khi phát hiện cô đang len lỏi xuống sảnh phía tây của chợ bên trái anh.
Những thùng gia vị lạ mắt xếp thành dãy ở dọc đường - bột cà ri Ấn Độ, nghệ tây Iran, trà hoa Trung Quốc - màu sắc rực rỡ của chúng tạo thành một đường hầm màu vàng, nâu, và vàng kim. Cứ mỗi bước chân, Langdon lại ngửi thấy một mùi hương mới - những loại nấm hăng hăng, những loại củ ngai ngái, các loại dầu thơm - tất cả quyện trong không khí cùng với bản hợp xướng ồn ào gồm đủ mọi ngôn ngữ trên khắp thế giới. Kết quả là một thứ hỗn hợp những tác nhân kích thích giác quan trong tiếng huyên náo bất tận của con người.
Hàng nghìn người.
Cảm giác sợ không gian chật hẹp bóp nghẹt lấy Langdon, anh gần như đứng lại trước khi tự trấn an và len sâu hơn vào chợ. Anh có thể nhìn thấy Sienna ngay phước phía, cố lách qua đám đông với một sức mạnh rắn rỏi. Rõ ràng cô đang cố đi tới cùng cho dù đó có thể là nơi nào đi nữa.
Có một lúc, Langdon tự hỏi tại sao anh lại đuổi theo cô.
Vì công lý chăng? Nghĩ lại những gì Sienna đã làm, Langdon không thể không hình dung xem hình phạt gì đang đợi cô nếu cô bị bắt.
Để ngăn chặn một đại dịch ư? Bất kỳ việc gì được làm đều đã làm rồi.
Khi cố len qua cả biển người lạ mặt, Langdon đột nhiên nhận ra tại sao anh lại ra sức tìm cách chặn Sienna Brooks lại như vậy.
Mình muốn câu trả lời.
Chỉ mười thước phía trước, Sienna tiến thẳng tới một cửa thoát hiểm ở cuối dãy phía tây của khu chợ. Cô lại liếc nhanh về phía sau, vẻ rất hốt hoảng khi nhìn thấy Langdon quá gần. Lúc ngoảnh lại, cô bất ngờ hụt chân và ngã.
Đầu Sienna chúi về phía trước, đập mạnh vào vai người trước mặt. Khi người đó chúi xuống, tay phải cô vung ra, cố tìm kiếm thứ gì đó để kìm đà ngã. Cô chỉ thấy một cái miệng thùng hạt dẻ khô nên túm lấy một cách tuyệt vọng, kéo nó đổ ụp xuống mình và cả một cơn lũ hạt dẻ tràn ra sàn.
Langdon phải mất ba bước mới tới được chỗ cô bị ngã. Anh nhìn xuống sàn nhưng chỉ nhìn thấy cái thùng đổ nghiêng và hạt dẻ. Không thấy Sienna.
Người chủ cửa hàng đang kêu thét điên dại.
Cô ta biến đâu rồi?!
Langdon xoay tròn một vòng, nhưng bằng cách nào đó Sienna đã biến mất. Lúc ánh mắt anh dừng lại ở lối thoát phía tây chỉ cách đó mười lăm thước, anh biết rằng cú ngã đầy chất kịch của cô không phải là tình cờ.
Langdon lao nhanh tới lối thoát và vọt ra một quãng trường mênh mông, cũng rất đông người. Anh chăm chú quan sát khắp quãng trường, tìm kiếm một cách vô vọng.
Thẳng phía trước, về phía bên lề kia của một đại lộ nhiều làn xe, cầu Galata vươn dài qua vùng nước mênh mông của khu vực Mũi Vàng. Cặp tháp đôi của Giáo đường Mới sừng sững bên tay phải Langdon, sáng rực rỡ phía trên quãng trường. Và bên trái anh không có gì khác ngoài một quãng trường mở, đầy người.
Tiếng còi xe inh ỏi kéo ánh mắt Langdon trở lại phía trước, nơi đường cao tốc chia tách quãng trường với vùng nước. Anh nhìn thấy Sienna, đã ở cách xa một trăm thước, đang băng qua những chiếc xe lao vun vút và vừa kịp tránh không bị nghiền nát giữa hai chiếc xe tải. Cô đang chạy thẳng ra phía biển.
Bên trái Langdon, trên bờ khu Mũi Vàng, một đầu mối giao thông đang bận rộn hoạt động - các bến phà, xe buýt, taxi và cả những chiếc thuyền du lịch.
Langdon chạy nhanh qua quãng trường về phía đường cao tốc. Khi tới rào chắn, anh chọn thời điểm khớp với những ánh đèn pha đang lao đến và an toàn vượt qua làn đường cao tốc hai luồng xe đầu tiên. Trong mười lăm giây, trước những ánh đèn pha chói lòa và tiếng còi xe đầy giận dữ, Langdon khó khăn lắm mới tiến được từ vỉa hè giữa đường tới vỉa hè tiếp theo. Anh dừng lại, di chuyển, len lách cho tới khi anh tới được rào chắn cuối cùng ngay trên bờ biển toàn cỏ.
Mặc dù Langdon vẫn có thể nhìn thấy Sienna nhưng cô đã cách anh một quãng dài phía trước, vượt qua bến taxi, mấy chiếc xe buýt đang đợi khách và tiến thẳng ra cầu cảng, nơi các loại thuyền bè đang chạy ngược xuôi - xuồng chở khách du lịch, taxi nước, thuyền cá của tư nhân, xuồng cao tốc. Xa xa, những ánh đèn thành phố nhấp nháy trên bờ tây của khu Mũi Vàng, và Langdon tin chắc rằng nếu Sienna đến được bờ bên kia, sẽ không còn hy vọng tìm thấy cô nữa, có lẽ không bao giờ.
Cuối cùng, Langdon cũng đến được bờ nước. Anh ngoặt sang trái và chạy dọc theo lối đi lót ván, khiến những du khách đang xếp hàng lên những chiếc xuồng trang trí lộng lẫy toàn màu vàng kim, có mái vòm kiểu giáo đường Hồi giáo, và đèn nê ông trang trí nhấp nháy, thảng thốt nhìn theo.
Las Vegas ở eo biển Bosporus, Langdon lầm bầm, chân bước nhanh hơn.
Anh nhìn thấy Sienna tít phía trước, và cô không còn chạy nữa. Cô đã dừng lại trên cầu cảng tại khu vực có nhiều xuồng máy tư nhân, đang năn nỉ một chủ thuyền.
Đừng để cô ta lên xuồng.
Trong lúc thu hẹp khoảng cách, anh thấy rõ Sienna đang khẩn khoản nói chuyện với một anh chàng trẻ tuổi đứng ở khoang lái một chiếc xuồng máy rất đẹp đang chuẩn bị rời khỏi cầu cảng. Anh chàng kia mỉm cười nhưng nhã nhặn lắc đầu từ chối. Sienna tiếp tục khua chân múa tay, nhưng người chủ thuyền có vẻ đã quyết định nên ngoảnh mặt trở lại bảng điều khiển xuồng.
Lúc Langdon chạy lại gần hơn, Sienna liếc nhìn anh, nét mặt toát lên vẻ tuyệt vọng. Phía dưới cô, máy thủy gắn ngoài của chiếc xuồng rồ lên, khuấy tung nước và đưa chiếc xuồng rời khỏi cầu cảng.
Sienna đột nhiên tung người lên không, nhảy vọt khỏi cầu cảng. Cô đáp mạnh xuống khoang xuồng làm bằng sợi thủy tinh. Bị chấn động, người lái xuồng ngoảnh lại nhìn với vẻ mặt không thể tin được. Anh ta giật ngược van tiết lưu, cho xuồng dừng lại cách cầu cảng khoảng hai mươi thước. Anh ta xông tới chỗ vị hành khách không mời quát tháo đầy giận dữ.
Khi hai người lái xuồng đến chỗ cô, Sienna dễ dàng né sang bên, tóm lấy cổ tay anh ta và dùng chính sức lao tới của anh ta để nhấc bổng anh ta lên rồi ném qua thành xuồng. Một lúc sau, anh ta ngoi lên mặt nước, phun phì phì và quẫy đạp loạn xa, miệng tuôn ra hàng tràng âm thanh chắc chắn là những lời chửi rủa bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ.
Dường như không thèm chú ý, Sienna quăng một tấm đệm phao xuống nước, bước tới mép xuồng và đẩy van tiết lưu về phía trước.
Động cơ xuồng rồ lên và chiếc xuồng lao đi.
Langdon đứng trên cầu cảng, thở hổn hển trong lúc nhìn chiếc xuồng màu trắng sang trọng băng băng rẽ nước rời đi, như môt bóng ma trong đêm tối. Langdon ngước mắt nhìn về phía chân trời và biết rằng lúc này Sienna sẽ không chỉ tới được bờ bên kia ở rất xa mà còn lọt được vào một mạng lưới thủy lộ gần như bất tận. chạy suốt từ Hắc Hải đến Địa Tung Hải.
Cô ta đã thoát rồi.
Gần đó, người chủ xuồng leo lên khỏi nước, đứng lên và vội vã đi gọi cảnh sát.
Langdon cảm thấy hoàn toàn cô độc khi nhìn ánh đèn trên chiếc xuồng bị đánh cắp nhòa dần. Tiếng động cơ rền rĩ cũng dịa dần.
Và rồi đột ngột tiếng động cơ im bặt.
Langdon đăm đăm nhìn ra xa. Cô ta tắt máy sao?
Đèn trên xuồng dường như không còn khuất dần mà lúc này đang bập bềnh nhẹ nhàng trên những con sóng nhỏ của vùng Mũi Vàng. Vì một lý do gì đó chưa rõ, Sienna Brooks đã ngừng lại.
Lẽ nào cô ta hết nhiên liệu?
Anh khum tay và lắng nghe, và giờ có thể nghe thấy tiếng động cơ rất khẽ ở chế độ ngừng.
Nếu không hết nhiên liệu thì cô ta đang làm gì vậy?
Langdon chờ đợi.
Mười giây. Mười lăm giây. Ba mươi giây.
Sau đó, rất bất ngờ, tiếng động cơ lại rồ lên, lúc đầu có vẻ ngập ngừng, và sau đó quả quyết hơn. Trước vẻ ngạc nhiên của Langdon, ánh đèn của chiếc xuồng bắt đầu ngoặt một vòng rộng, và nó phăm phăm lao về phía anh.
Cô ta quay lại.
Khi chiếc xuồng lại gần, Langdon nhìn thấy Sienna đứng bên vô lăng, trân trân nhìn về phía trước. Còn cách ba mươi thước, cô giảm ga và cho xuồng an toàn cập vào cầu cảng. Sau đó cô tắt máy.
Im lặng.
Phía trên cô, Langdon trân trối nhìn mà không sao tin nổi.
Sienna không hề nhìn lên.
Thay vào đó, cô úp mặt vào hai bàn tay. Cơ thể cô bắt đầu rung lên, hai vai cô rũ xuống và rung bần bật. Cuối cùng, khi ngước lên nhìn Langdon, hai mắt cô đẫm lệ.
“Robert”, cô thổn thức. “Em không thể chạy trốn được nữa. Em chẳng có chỗ nào để đi cả.”

Thế là hết.
Elizabeth Sinskey đứng dưới chân cầu thang dẫn xuống bể chứa và trân trân nhìn cái lòng hang trống rỗng. Hơi thở của bà như tắc nghẽn qua lớp mặt nạ phòng độc. Mặc dù có lẽ đã bị phơi nhiễm với thứ dịch bệnh gì đó ở dưới này, nhưng Sinskey vẫn cảm thấy nhẹ nhõm trong bộ đồ phòng độc khi cùng nhóm SRS bước vào không gian tiêu điều này. Họ khoác trên người bộ đồ màu trắng phình lên với mũ bảo hiểm kín mít, và cả nhóm trông như một đội phi hành gia đang rời khỏi một con tàu vũ trụ xa lạ.
Sinskey biết rằng ngoài đường phố ở phía trên, hàng trăm người đi dự hòa nhạc và các nhạc công đang ngơ ngác túm tụm lại, nhiều người đang được điều trị các vết thương sau quá trình giẫm đạp. Những người khác đã rời khỏi khu vực. Bà cảm thấy may mắn vì đã thoát ra mà chỉ bị bầm tím một bên gối và vỡ mất chiếc bùa.
Chỉ có một dạng lây lang đi nhanh hơn vi rút, Sinskey nghĩ. Đó là tâm lý sợ hãi.
Giờ những cánh cửa bên trên đã được khóa chặt, niêm phong, và được chính quyền địa phương canh gác. Sinskey đã lường trước sẽ có một cuộc đối chất pháp lý với lực lượng cảnh sát địa phương đang trên đường đến đây, nhưng bất kỳ cuộc va chạm tiềm tàng nào cũng đều tan biến ngay lập tức khi họ nhìn thấy thiết bị chống chất độc sinh học của nhóm SRS và nghe Sinskey cảnh báo về một hiểm họa dịch bệnh.
Chỉ còn chúng ta tự xoay xở thôi, giám đốc WHO nghĩ thầm, mắt trân trân nhìn cả rừng cột trụ phản chiếu trong đầm nước. Không ai muốn xuống đây cả.
Phía sau bà, hai đặc vụ đang trải một tấm polyurethane lớn trên nền khu cầu thang và dính chặt nó vào tường bằng súng nhiệt. Hai người nữa đã tìm được một chỗ trống trên lối đi lót ván và bắt đầu bố trí các thiết bị điện tử, như thể đang chuẩn bị phân tích một hiện trường tội ác.
Chính xác là như vậy, Sinskey nghĩ. Một hiện trường tội ác.
Bà lại nghĩ đến người phụ nữ mặc áo choàng ướt sũng chạy trốn khỏi bể chứa. Rõ ràng, Sienna Brooks đã mạo hiểm mạng sống của mình để phá mọi nỗ lực ngăn chặn của WHO và hoàn thành nhiệm vụ điên rồ của Zobrist. Cô ta xuống đây và phá vỡ cái túi Solublon…
Langdon đã đuổi theo Sienna ngay trong đêm, và Sinskey vẫn chưa nhận được tin gì liên quan đến cả hai người.
Mình hy vọng giáo sư Langdon an toàn, bà nghĩ.
Đặc vụ Brüder đứng trên lối đi lót ván, nước từ trên người nhỏ xuống tong tong, đưa mắt nhìn vô định chiếc đầu Medusa xoay ngược và tự hỏi cần phải xử lý như thế nào.
Là một đặc vụ SRS, Brüder được đào tạo để học được khả năng suy nghĩ ở cấp vĩ mô, gạt hết những mối bận tâm về cá nhân hay đạo đức nhất thời để hoàn toàn tập trung vào việc cứu được càng nhiều sinh mạng càng tốt. Những đe dọa đối với sức khỏe của chính anh không còn quan trọng nghĩa kể từ thời khắc này. Ta đã lội xuống chỗ này, anh ấy nghĩ, thầm trách mình đã có hành động mạo hiểm nhưng cũng biết rõ là bản thân không có nhiều lựa chọn. Chúng ta cần đánh giá tình hình ngay lập tức.
Brüder buộc mình phải nghĩ đến nhiệm vụ trước mắt - triển khai kế hoạch B. Thật không may, trong một cuộc khủng hoảng ngăn chặn, kế hoạch B luôn như nhau: Mở rộng bán kính. Ứng phó với bệnh lây nhiễm thường giống như ứng phó với một đám rừng: Đôi khi bạn phải lùi lại phía sau và chấp nhận thua một trận để có hy vọng giành chiến thắng trong cả cuộc chiến.
Đến thời điểm này, Brüder vẫn không từ bỏ ý nghĩ rằng có thể
thực hiện ngăn chặn đầy đủ. Chắc chắn Sienna Brooks đã phá vỡ cái túi chỉ vài phút trước khi đám đông hỗn loạn và bỏ chạy. Nếu đúng như thế, thậm chí có hàng trăm người đã rời khỏi hiện trường và ở xa nguồn bệnh đủ để tránh được khả năng bị lây nhiễm.
Tất cả mọi người trừ Langdon và Sienna, Brüder nhận ra như vậy. Cả hai bọn họ đều đã ở địa điểm này, và hiện đang ở đâu đó trong thành phố.
Brüder còn một mối lo khác - một lỗ hổng trong logic vẫn tiếp tục bám riết lấy anh. Lúc ở dưới nước, anh không hề tìm thấy cái túi Solublon bị vỡ. Với Brüder, dường như nếu chính Sienna phá vỡ cái túi - bằng cách đá hoặc xé nó hay bất kỳ hình thức gì - thì anh cũng sẽ tìm thấy phần xác còn sót lại trôi nổi đâu đó trong khu vực.
Nhưng Brüder không tìm thấy gì cả. Dường như những gì còn lại của cái túi đã biến mất. Brüder rất nghi ngờ việc Sienna mang theo cái túi Solublon bên mình, vì đến thời điểm này nó chẳng là gì ngoài một thứ đồ bỏ đi nhớp nháp.
Vậy thì nó biến đi đâu?
Brüder có cảm giác rất bất an rằng mình đang bỏ qua một điều gì đó. Cho dù như vậy, anh vẫn phải tập trung vào chiến lược ngăn chặn mới, đòi hỏi phải trả lời một câu hỏi mấu chốt.
Bán kính phát tán hiện tại của dịch bệnh là đến đâu?
Brüder biết câu hỏi sẽ được trả lời chỉ trong vài phút nữa. Nhóm của anh đã thiết lập một loạt thiết bị dò tìm virut dọc lối đi lót ván theo khoảng cách tăng dần tính từ đầm nước. Những thiết bị này - gọi là các bộ PCR - dùng phản ứng tổng hợp dây chuyền nhờ Polymerase để phát hiện sự hiện diện của mầm bệnh dạng vi rút.
Đội trưởng SRS vẫn còn hy vọng. Với điều kiện nước trong đầm không hề lưu chuyển cùng với thời gian trôi qua chưa nhiều, anh tự tin rằng các thiết bị PCR sẽ phát hiện được một khu vực lây nhiễm tương đối hẹp để sau đó, họ có thể xử lý bằng hóa chất và sử dụng phương pháp hút thu.
“Sẵn sàng chưa?”, mổ kỹ thuật viên gọi qua bộ đàm.
Các đặc vụ có mặt ở trong khu vực bể chứa đều đưa ngón tay cái lên ra hiệu.
“Lấy mẫu”, tiếng bộ đàm vang lên.
Trong khắp lòng hang, các chuyên gia phân tích cúi xuống và bắt đầu khởi động máy PCR cá nhân của mình. Mỗi thiết bị đều bắt đầu phân tích một mẩu lấy tại điểm mà người sử dụng máy đứng, bố trí thành những vòng cung nới rộng dần quanh tấm biển của Zobrist.
Toàn bộ bể chứa chìm vào im lặng khi tất cả mọi người chờ đợi, cùng cầu mong sẽ chỉ nhìn thấy tín hiệu đèn màu xanh.
Và rồi điều đó xảy ra.
Trên chiếc máy gần Brüder nhất, một đèn phát hiện vi rút bắt đầu nhấp nháy đỏ. Các cơ của anh căng cứng, và mắt anh chuyển sang máy tiếp theo.
Nó cũng bắt đầu nhấp nháy đỏ.
Không.
Những tiếng lầm rầm lan khắp lòng hang. Brüder kinh hãi nhìn khi lần lượt tất cả các thiết bị PCR bắt đầu nhấp nháy đỏ, chạy khắp bể chứa ra đến tận lối ra vào.
Ôi, lạy Chúa! Anh nghĩ thầm. Cả một loạt đèn đỏ phát hiện vi rút đang nhấp nháy đã vẽ lên một bức tranh không thể nhầm lẫn.
Bán kính lây nhiễm rất rộng.
Toàn bộ khu vực bể chứa đang tràn ngập vi rút.

Robert Langdon trân trân nhìn Sienna Brooks ngồi thu lu bên vô lăng chiếc xuồng máy bị đánh cắp, và cố gắng hiểu những gì anh vừa chứng kiến.
“Em biết chắc anh khinh thường em”, cô thổn thức, ngước lên nhìn anh qua đôi mắt đẫm lệ.
“Khinh thường cô ư?!”, Langdon thốt lên. “Tôi không hề biết cô là ai! Tất cả những gì cô đã làm là lừa dối tôi!”
“Em biết”, cô nói khẽ. “Em xin lỗi. Em chỉ cố gắng làm điều đúng đắn thôi.”
“Bằng cách phán tán một thứ dịch bệnh à?”
“Không, Robert, anh không hiểu đâu.”
“Tôi hiểu quá đi chứ!”, Langdon đáp. “Tôi hiểu cô lội xuống nước để phá vỡ cái túi Solublon! Cô muốn giải phóng thứ vi rút của Zobrist trước khi có ai đó phong tỏa nó!”
“Cái túi Solublon ư?” Mắt Sienna toát lên vẻ ngơ ngác. “Em không biết anh đang nói gì nữa. Robert, em đến bể chứa để ngăn vi rút của Bertrand, để đánh cắp nó và cho nó biến mất mãi mãi, để không ai có thể tìm hiểu về nó, kể cả tiến sĩ Sinskey và WHO.”
“Đánh cắp nó? Tại sao phải giấu nó trước WHO chứ?”
Sienna hít một hơi dài. “Có rất nhiều điều anh không biết, nhưng giờ thì có thể thảo luận rồi. Chúng ta đã đến quá muộn, Robert ạ. Chúng ta chẳng bao giờ có cơ hội.”
“Dĩ nhiên, chúng ta đã từng có cơ hội! Thứ vi rút ấy sẽ không bị giải phóng cho tới ngày mai! Đó là cái ngày Zobrist đã chọn, và nếu cô không lội xuống nước…”
“Robert, em không hề giải phóng vi rút!”, Sienna hét lên. “Khi em xuống nước, em cố gắng tìm kiếm nó, nhưng đã quá muộn. Chẳng còn gì cả.”
“Tôi không tin cô”, Langdon nói.
“Em biết anh không tin. Và em không trách anh.” Cô thò tay vào túi và rút ra một tờ giấy ướt sũng. “Nhưng có thể thứ này sẽ giúp ích.” Cô ném tờ giấy cho Langdon. “Em tìm thấy nó ngay trước lúc em lội xuống đầm.”
Anh đón lấy nó và mở ra. Đó là Chương trình hòa nhạc gồm bảy màn trình diễn bản Giao hưởng Dante tại bể chứa.
“Hãy nhìn ngày tháng xem”, cô nói.
Langdon đọc ngày tháng và sau đó đọc lại, cảm thấy bối rối trước những gì mình thấy. Vì một lý do gì đó, anh cứ đinh ninh rằng màn trình diễn tối nay là tối mở màn - màn trình diễn đầu tiên trong bảy buổi diễn suốt cả tuần lễ, được vạch ra nhằm thu hút người dân tới khu bể chứa toàn dịch bệnh. Tuy nhiên, Chương trình này lại cho biết một câu chuyện khác hẳn.
“Tối nay là tối kết thúc sao?”, Langdon hỏi, đưa mắt khỏi tờ giấy. “Dàn nhạc đã biểu diễn trọn một tuần rồi sao?”
Sienna gật đầu. “Em cũng ngạc nhiên y như anh vậy.” Cô ngừng lại, mắt cô đầy u uất. “Thứ vi rút đó đã thoát ra rồi, Robert ạ. Nó đã thoát ra được một tuần rồi.”
“Không thể như vậy”, Langdon cố cãi. “Ngày mai mới đúng ngày. Zobrist thậm chí còn tạo ra một tấm biển ghi rõ ngày mai trên đó.”
“Phải, em đã nhìn thấy tấm biển đó dưới nước.”
“Vậy cô biết hắn chọn ngày mai mà.”
Sienna thở dài. “Robert, em hiểu rất rõ Bertrand, rõ hơn nhiều so với những gì em từng thừa nhận với anh. Anh ấy là một nhà khoa học, một người chú trọng đến kết quả. Giờ em nhận ra rằng ngày tháng ghi trên tấm biển không phải ngày phát tán vi rút. Nó là thứ khác, thứ quan trọng hơn đối với mục đích của anh ấy.”
“Và nó là…?”
Sienna trịnh trọng từ dưới xuồng nhìn lên. “Là ngày lây nhiễm trên toàn cầu - một phép chiếu toán học về cái ngày vi rút của anh ấy truyền ra khắp thế giới… và nhiễm vào tất cả mọi người.”
Viễn cảnh ấy khiến Langdon rùng mình kinh hãi, nhưng anh vẫn không thể không nghi ngờ cô đang nói dối. Câu chuyện của cô có một chỗ hổng then chốt, và Sienna Brooks đã chứng tỏ cô vừa nói dối điều gì đó.
“Có một vấn đề, Sienna”, anh nói, mắt nhìn xuống cô. “Nếu thứ dịch bệnh này đã lây lan ra khắp thế giới thì tại sao không có ai bị bệnh?”
Sienna nhìn đi chỗ khác, đột nhiên không dám đón lấy ánh mắt anh.
“Nếu thứ dịch bệnh này đã thoát ra một tuần rồi”, Langdon nhắc lại, “thì tại sao không hề có người nào chết?”.
Cô chậm rãi nhìn lại anh. “Bởi vì…”, cô bắt đầu nói, từng lời như dính trong cổ họng cô. “Bertrand không tạo ra một dịch bệnh.”
Mắt cô lại ầng ậng nước. “Anh ấy tạo ra một thứ gì đó nguy hiểm hơn nhiều.”

Bất chấp luồng dưỡng khí chạy qua mặt nạ phòng độc của mình, Elizabeth Sinskey vẫn cảm thấy ngột ngạt. Năm phút đã qua kể từ lúc các thiết bị PCR của Brüder cho biết một sự thật hãi hùng.
Khả năng ngăn chặn của chúng ta đã tiêu tan từ lâu.
Cái túi Solublon rõ ràng đã tan hết từ tuần trước, chắc chắn là vào đêm khai mạc Chương trình hòa nhạc, mà lúc này Sinskey biết đã biểu diễn bảy tối rồi. Chút ít dấu vết của Solublon gắn chặt với sợi dây không biến mất chỉ là vì nó được phủ một chất kết dính để không bị tác động bởi cái móc khóa của sợi dây.
Dịch bệnh đã thoát ra suốt một tuần rồi.
Giờ đây, khi không còn khả năng cô lập dịch bệnh, các đặc vụ SRS tập hợp mẫu phẩm tại phòng thí nghiệm tạm thời trong bể chứa và thực hiện quy trình thông thường của họ - phân tích, phân loại và đánh giá mức độ đe dọa. Cho đến giờ, các thiết bị PCR chỉ cung cấp một dữ liệu vững chắc duy nhất, và phát hiện đó không khiến mọi người ngạc nhiên.
Vi rút giờ đang ở trong không khí.
Những gì bên trong cái túi Solublon rõ ràng đã trồi lên mặt nước và các phân tử vi rút đã phát tán vào không khí. Không mất nhiều công sức, Sinskey biết. Đặc biệt trong khu vực kín mít như thế này.
Một loại vi rút - khác với vi khuẩn hay mầm bệnh hóa học - có thể lây lan trong dân chúng với tốc độ và khả năng xâm nhập cao đến kinh ngạc. Là loại sống ký sinh, các vi rút xâm nhập vào sinh vật và bám chặt vào tế bào chủ theo một quá trình gọi là “hút bám”. Sau đó, chúng bơm DNA hoặc RNA của chính mình vào tế bào đó, trưng dụng tế bào bị xâm chiếm, và buộc tế bào này phải sản sinh thật nhiều vi rút. Một khi đã có đủ số lượng nhân bản, các phân tử vi rút mới sẽ giết chết tế bào và phá vỡ thành tế bào, tràn ra tìm kiếm các tế bào chủ mới để tấn công, quá trình này cứ thế lặp đi lặp lại.
Một cá thể bị lây nhiễm sẽ thở ra hoặc hắt hơi, truyền những hạt khí nhỏ xíu ra khỏi cơ thể mình. Những hạt này sẽ lơ lửng trong không khí cho tới khi chúng lại được các chủ thể khác hít vào, và quá trình như vậy lại bắt đầu.
Tăng trưởng theo cấp số mũ, Sinskey thầm nhủ, trong đầu nhớ lại những biểu đồ của Zobrist chứng minh về tình trạng bùng nổ dân số loài người. Zobrist dùng phương pháp tăng trưởng cấp số mũ của vi rút để chống lại tăng trưởng cấp số mũ của loài người.
Tuy nhiên, câu hỏi nhức nhối lúc này là: Loại vi rút này sẽ hoạt động như thế nào?
Nói một cách lạnh lùng: Nó sẽ tấn công vật chủ như thế nào?
Vi rút Ebola làm suy yếu khả năng đông máu, gây ra tình trạng xuất huyết không ngừng. Vi rút Hanta làm suy phổi. Rất nhiều loại vi rút có tên oncovirus gây ra bệnh ung thư. Còn vi rút HIV tấn công hệ miễn dịch, gây ra bệnh AIDS. Trong cộng đồng y học, người ta đều biết nếu vi rút HIV biến thành loại lây lan trong không khí thì đó có thể là một thảm họa tuyệt chủng.
Cho nên loại vi rút của Zobrist gây nên chuyện quái quỷ gì?
Cho dù nó gây ra gì thì cũng phải có thời gian mới thấy được những hậu quả, và các bệnh viện gần đây đều chưa thông báo trường hợp bệnh nhân nào có những triệu chứng bất bình thường.
Nôn nóng muốn biết câu trả lời, Sinskey tiến lại phía phòng thí nghiệm. Bà nhìn thấy Brüder đứng gần cầu thang vì tín hiệu trên điện thoại di động rất yếu. Anh đang nói với ai đó bằng giọng khẩn trương.
Bà tiến vội lại, đến nơi vừa lúc anh kết thúc cuộc trò chuyện.
“Được, đã hiểu”, Brüder nói, vẻ mặt anh thể hiện một cảm xúc pha trộn giữa kinh hãi và không dám tin. “Một lần nữa, tôi không biết nói sao để nhấn mạnh mức độ tuyệt mật của thông tin này. Đến lúc này chỉ còn trông vào anh thôi. Gọi lại cho tôi khi anh có thêm thông tin. Cảm ơn.” Anh tắt máy.
“Có chuyện gì vậy?”, Sinskey hỏi.
Brüder từ từ thở hắt ra. “Tôi vừa nói chuyện với một người bạn cũ là chuyên gia vi rút hàng đầu tại CDC ở Atlanta.”
Sinskey nhảy dựng lên. “Anh thông báo cho CDC mà chưa được phép của tôi à?”
“Tôi thực hiện cuộc gọi trên tư cách cá nhân”, anh đáp. “Người bạn tôi sẽ rất kín tiếng, và chúng ta cần thêm nhiều dữ liệu khác chứ không phải chỉ trông vào cái phòng thí nghiệm tạm thời này.”
Sinskey liếc nhìn mấy đặc vụ SRS đang lấy mẫu nước và lúi húi bên các thiết bị điện tử cầm tay. Anh ấy nói đúng.
“Người bạn tôi ở CDC”, Brüder tiếp tục, “đang có mặt trong một phòng thí nghiệm vi sinh có đầy đủ trang thiết bị và đã xác nhận sự tồn tại của một mầm bệnh do vi rút có khả năng lây lan cực mạnh và chưa bao giờ được biết đến”.
“Khoan đã!” Sinskey xen vào. “Làm sao anh cung cấp mẫu cho anh ta nhanh như vậy được?”
“Tôi không cung cấp”, Brüder cay đắng nói. “Anh ta kiểm tra máu của chính mình.”
Chỉ trong khoảnh khắc Sinskey đã hiểu ra tất cả.
Nó đã lan ra khắp toàn cầu.


Langdon đi chầm chậm, cảm thấy mất phương hướng một cách lạ lùng, như thể đang đi qua một cơn ác mộng cực kỳ sống động. Còn thứ gì nguy hiểm hơn cả một đại dịch chứ?
Sienna không nói gì thêm kể từ lúc leo lên khỏi chiếc xuồng và ra hiệu cho Langdon theo mình rời khỏi cầu cảng, đi dọc một lối đi rải sỏi vắng vẻ, tránh xa bờ nước và đám đông.
Mặc dù Sienna đã thôi khóc, nhưng Langdon vẫn cảm thấy cả một cơn bão lòng đang hình thành trong cô. Anh nghe thấy những tiếng còi rít lên lanh lảnh phía xa, nhưng Sienna có vẻ không chú ý. Cô trân trân nhìn xuống đất, dường như đang bị thôi miên bởi tiếng sỏi lạo xạo nhịp nhàng dưới chân họ.
Họ tiến vào một công viên nhỏ, và Sienna dẫn anh tới một lùm cây rậm, nơi họ có thể lánh xa thế giới. Đến đây, họ ngồi lên một băng ghế nhìn xuống nước. Ở bờ bên kia, tháp Galata cổ kính sáng lấp lánh phía trên những khu nhà im ắng trên triền đồi. Từ đây, thế giới bình yên đến kỳ lạ, Langdon hình dung nó khác xa với những gì có lẽ đang diễn ra ở bể chứa nước. Anh cho rằng đến giờ này, hẳn nhóm SRS cũng đã nhận ra họ đến quá muộn và không thể ngăn chặn được dịch bệnh nữa.
Bên cạnh anh, Sienna đăm đăm nhìn ra biển. “Em không có nhiều thời gian, Robert”, cô nói. “Cuối cùng thì chính quyền cũng sẽ đoán ra em đã đi đâu. Nhưng trước khi họ làm được như vậy, em cần anh nghe toàn bộ sự thật….”
Langdon im lặng gật đầu.
Sienna gạt nước mắt và đổi tư thế để có thể đối diện hoàn toàn với anh. “Bertrand Zobrist…”, cô bắt đầu nói. “Anh ấy là tình yêu đầu của em. Anh ấy trở thành người dẫn dắt em.”
“Tôi đã được nghe kể rồi, Sienna”, Langdon nói.
Cô giật mình nhìn anh nhưng vẫn tiếp tục nói, như thể sợ sẽ đánh mất động lực của mình. “Em gặp anh ấy ở cái tuổi dễ rung động, và những ý tưởng cùng tri thức của anh ấy làm em mê mẩn. Giống như em, Bertrand tin rằng loài người chúng ta đang đứng trên bờ vực diệt vong… rằng chúng ta đang đối mặt với một kết cục đáng sợ, cái kết cục đang lao tới chúng ta còn nhanh hơn những gì bất kỳ ai trong chúng ta dám chấp nhận.”
Langdon không trả lời.
“Toàn bộ tuổi thơ của em”, Sienna nói, “em muốn cứu lấy thế giới. Và tất cả những gì người ta nói với em là: ‘Cô không thể cứu thế giới, cho nên đừng hy sinh hạnh phúc của mình để làm việc đó’”. Cô ngừng lại, mặt đầy căng thẳng, cố kìm nước mắt. “Rồi em gặp Bertrand - một con người xuất chúng, điển trai, anh ấy không chỉ nói với em rằng việc cứu thế giới là khả thi… mà còn nói rằng thực hiện việc đó là nhu cầu đạo đức. Anh ấy giới thiệu với em cả một cộng đồng những con người có cùng chính kiến - những con người với tri thức và năng lực phi thường… những con người thực sự có thể thay đổi tương lai. Lần đầu tiên trong đời mình, em không còn cảm thấy cô độc nữa, Robert ạ.”
Langdon khẽ mỉm cười, cảm nhận được nỗi đau trong những lời của cô.
“Trong đời mình, em đã phải gánh chịu một số việc kinh khủng”, Sienna tiếp tục, giọng cô càng lúc càng run rẩy. “Những điều em gặp phải làm xáo trộn quá khứ…” Cô dứt khỏi ánh mắt của anh và đưa bàn tay lóng ngóng xoa lớp da đầu nhẵn nhụi trước khi định thần và ngoảnh lại nhìn anh. “Và có lẽ đó là lý do tại sao điều duy nhất giúp em đi tới chính là tin rằng chúng ta có thể làm được tốt hơn hiện tại… có thể hành động để tránh một tương lai thảm khốc.”
“Và Bertrand cũng tin như vậy phải không?”, Langdon hỏi.
“Đúng vậy. Bertrand có niềm tin vô hạn dành cho nhân loại. Anh ấy là một người theo phong trào Siêu nhân học có niềm tin rằng chúng ta đang sống ở ngưỡng cửa của một kỷ nguyên ‘hậu nhân loại’ tươi sáng - một kỷ nguyên của biến đổi thật sự. Anh ấy có tư duy của một nhà vị lai, có đôi mắt nhìn ra con đường mà rất ít người có thể hình dung nổi. Anh ấy hiểu sức mạnh ghê gớm của công nghệ và tin rằng chỉ vài thế hệ nữa, loài người chúng ta sẽ trở thành một loài động vật hoàn toàn khác - được tăng cường về mặt di truyền để khỏe hơn, thông minh hơn, mạnh mẽ hơn, và thậm chí nhân ái hơn.” Cô ngừng lại. “Ngoại trừ một vấn đề. Anh ấy không nghĩ rằng chúng ta sống được đủ lâu với tư cách một giống loài để thực hiện được khả năng đó.”
“Do tình trạng quá tải dân số…”, Langdon nói.
Cô gật đầu. “Thảm họa theo thuyết Malthus. Bertrand thường nói với em là anh ấy cảm thấy giống như Thánh George cố gắng hạ gục con quái vật địa phủ.”
Langdon không hiểu kịp ý cô. “Medusa phải không?”
“Nói một cách ẩn dụ thì đúng vậy. Medusa và toàn bộ các thần linh địa phủ sống dưới lòng đất bởi vì họ có liên hệ trực tiếp với Mẹ trái đất. Về mặt phúng dụ, địa phủ luôn là biểu tượng của…”
“Sự sinh sôi”, Langdon nói, giật mình vì đã không nghĩ ra phép so sánh này sớm hơn. Sự sinh sôi. Dân số.
“Vâng, sự sinh sôi”, Sienna đáp. “Bertrand dùng thuật ngữ ‘quái vật địa phủ’ để thể hiện cho hiểm họa đáng sợ là tình trạng sinh bừa bãi của chính chúng ta. Anh ấy mô tả việc sinh sản quá nhiều con cháu giống như một con quái vật đang hiện dần ra ở đường chân trời… Một con quái vật chúng ta cần ngăn chặn ngay lập tức, trước khi nó làm thịt tất cả chúng ta.
Khả năng sinh sản của chúng ta làm hại chính chúng ta, Langdon nhận ra như vậy. Con quái vật địa phủ. “Và Bertrand chiến đấu với con quái vật ấy… bằng cách nào?”
“Xin hãy hiểu cho”, cô lên tiếng bênh vực, “có những vấn đề không dễ giải quyết. Việc lựa chọn thứ tự giải quyết luôn là một quá trình rối beng. Một người cắt rời chân của đứa bé ba tuổi là một tội ác khủng khiếp… trừ phi người đó là một bác sĩ muốn cứu đứa trẻ khỏi bị hoại tử. Đôi khi, lựa chọn duy nhất lại là chọn thứ ít tội lỗi hơn trong hai tội”. Cô lại bắt đầu ứa nước mắt. “Em tin Bertrand có một mục đích cao quý… nhưng phương pháp của anh ấy…” Cô nhìn đi chỗ khác, dường như sắp vỡ òa đến nơi.
“Sienna”, Langdon dịu dàng thì thầm. “Anh cần hiểu tất cả chuyện này. Anh cần em giải thích cho anh những gì Bertrand đã làm. Anh ta đã tung ra thế giới thứ gì?”
Sienna lại ngoảnh lại nhìn anh, đôi mắt nâu dịu dàng của cô toát ra một nỗi sợ hãi u ám hơn. “Anh ấy tung ra một loại vi rút”, cô thì thầm. “Một loại vi rút rất đặc biệt.”
Langdon như nín thở. “Kể cho anh đi.”
“Bertrand tạo ra thứ gì đó gọi là vi rút định hướng. Đó là một loại vi rút được tạo ra một cách chủ định nhằm chèn những thông tin di truyền vào tế bào mà nó tấn công.” Sienna ngừng lại để anh nắm được ý tưởng. “Một loại vi rút như thế… thay vì giết chết tế bào chủ… lại chèn một đoạn DNA đã được quyết định trước vào tế bào đó, cơ bản là thay đổi gene của tế bào.”
Langdon cố gắng hiểu ý nghĩa của cô. Loại vi rút này thay đổi DNA của chúng ta sao?
“Bản chất ngầm của loại vi rút này”, Sienna nói tiếp, “là không ai trong chúng ta biết nó đã nhiễm vào mình. Không ai bị bệnh. Nó không hề gây ra những triệu chứng cho thấy nó đang thay đổi chúng ta về mặt di truyền.”
Langdon cảm thấy mạch máu đập rộn lên mất một lúc. “Và nó tạo ra những thay đổi gì?”
Sienna nhắm mắt lại một lúc. “Robert”, cô thì thào, “ngay khi loại vi rút được giải phóng trong đâm nước ở bể chứa, một phản ứng dây chuyền bắt đầu. Tất cả những người xuống dưới cái hang đó và hít thở không khí đều bị nhiễm. Họ trở thanh vật chủ… những đồng phạm vô thức lây truyền vi rút cho người khác, làm cho bệnh lây lan nhanh kinh khủng để đến giờ này đã loang khắp hành tinh như một đám cháy rừng. Đến giờ, vi rút đó sẽ xâm nhập vào dân số toàn cầu. “Anh, em… tất cả mọi người.”
Langdon đứng lên khỏi ghế và bắt đầu đi tới đi lui trước mặt cô. “Và nó gây ra điều gì với chúng ta?”, anh nhắc lại.
Sienna im lặng một lúc lâu. “Vi rút ấy có khả năng làm cho cơ thể người… thành vô sinh.” Cô thay đổi tư thế vẻ bứt rứt. “Bertrand tạo ra một loại dịch bệnh gây vô sinh.”
Những lời của cô tác động mạnh đến Langdon. Một loại vi rút làm cho chúng ta vô sinh sao? Langdon biết có tồn tại những loại vi rút có thể gây vô sinh, nhưng một loại bệnh dịch lây lan nhanh trong không khí có thể làm như vậy, bằng cách thay đổi chúng ta về mặt di truyền, dường như chỉ có ở thế giới khác… Một xã hội đọa đầy giả tưởng kiểu Orwell [60].
Bertrand thường đưa ra lý thuyết về một loại vi rút như thế này”, Sienna nói khẽ, “nhưng em chưa bao giờ nghĩ anh ấy sẽ tìm cách tạo ra nó… lại càng không thể thành công. Khi em nhận được lá thư của anh ấy và biết được những gì anh ấy đã làm, em rất sốc. Em ra sức tìm anh ấy, van nài anh ấy hủy bỏ công trình của mình. Nhưng em đã đến quá trễ”.
“Khoan đã”, Langdon xen ngang. “Nếu loại vi rút làm cho tất cả mọi người trên trái đất trở thành vô sinh, thì sẽ không thể có thế hệ mới, và loài người sẽ bắt đầu chết dần… ngay tức thì.”
“Đúng vậy”, cô đáp lời, giọng cô nghe rất nhỏ. “Trừ phi tuyệt chủng không phải là mục tiêu của Bertrand - mà ngược lại, thực tế là vậy - và đó là lý do tại sao anh ấy tạo ra một loại vi rút hoạt động ngẫu nhiên - vi rút Hỏa ngục. Mặc dù lúc này vi rút đã lây nhiễm vào toàn bộ DNA của loài người và sẽ truyền cho tất cả chúng ta từ thế hệ này trở đi, nhưng nó sẽ chỉ ‘hoạt động’ ở một tỷ lệ người rất nhỏ. Nói cách khác, loại vi rút này hiện có trong tất cả mọi người trên trái đất, nhưng nó sẽ chỉ gây vô sinh ở một bộ phận dân số được lựa chọn ngẫu nhiên mà thôi.”
“Bộ phận… nào?”, Langdon nghe rõ chính mình thốt lên, đầy vẻ hoài nghi khi đặt ra một câu hỏi như vậy.
“Chà, như anh đã biết, Bertrand rất lưu tâm đến Cái chết Đen - đại dịch đã giết chết một phần ba dân số châu Âu, không phân biệt ai cả. Anh ấy tin rằng tự nhiên biết cách tự chọn lọc. Khi tính toán tỷ lệ vô sinh, anh ấy đã rất phấn khởi khi phát hiện ra rằng tỷ lệ tử vong một phần ba do bệnh dịch hạch dường như là tỷ lệ chính xác cần thiết để bắt đầu sàn lọc dân số loài người theo một tốc độ có thể điều khiển được.
Đúng là quái đản, Langdon thầm nghĩ.
“Cái chết Đen làm vơi dân số và mở đường cho thời Phục Hưng”, cô nói, “và Bertrand tạo ra vi rút Hỏa ngục như một dạng chất xúc tác hiện đại cho quá trình phục hồi toàn cầu - một Cái chết Đen theo thuyết Siêu nhân học. Điểm khác biệt nằm ở chỗ những người bị mắc bệnh, thay vì tử vong, sẽ chỉ bị vô sinh. Giả định rằng vi rút của Bertrand phát huy tác dụng thì giờ đây một phần ba dân số thế giới không còn khả năng sinh sản… và luôn luôn có một phần ba dân số sẽ tiếp tục vô sinh. Ảnh hưởng cũng sẽ giống như tác động của một gene lặn, tức là di truyền cho tất cả con cháu, nhưng chỉ gây ảnh hưởng đến một tỷ lệ nhỏ trong số họ mà thôi”.
Tay Sienna run rẩy trong lúc tiếp tục nói, “Trong lá thư gửi cho em, Bertrand đầy tự hào nói rằng anh ấy coi vi rút Hỏa ngục là một giải pháp rất nhân văn cho vấn đề quá tải dân số”. Mắt cô lại ngân ngấn lệ, và cô vội gạt đi. “So với mức độ nguy hiểm của Cái chết Đen thì em phải thừa nhận cách tiếp cận này ít nhiều nhân hậu. Sẽ không có chuyện các bệnh viện quá tải người bệnh và người hấp hối, không có những xác chết thối rữa trên đường phố, và không có những người sống sót nhưng đau đớn trước cái chết của người thân yêu. Chỉ đơn giản là con người sẽ không có nhiều con cái. Hành tinh của chúng ta sẽ trải qua một giai đoạn suy giảm liên tục tỷ lệ sinh cho tới khi đường cong dân số thay đổi, và tổng số dân của chúng ta bắt đầu giảm xuống.”
Cô ngừng lại. “Kết quả sẽ hiệu nghiệm hơn hẳn dịch hạch, chỉ là khống chế số lượng của con người, tạo ra xu hướng đi xuống tạm thời trên đồ thị tăng dân số. Với Hỏa ngục, Bertrand tạo ra một giải pháp lâu dài, một giải pháp vĩnh viễn… một giải pháp Siêu nhân học. Anh ấy là một chuyên gia di truyền chuỗi phôi. Anh ấy giải quyết các vấn đề ở cấp độ căn nguyên gốc rễ.”
“Như thế là khủng bố di truyền…”, Langdon nói khẽ. “Nó làm thay đổi con người chúng ta lúc này, con người chúng ta vẫn luôn như vậy, ở cấp độ cơ bản nhất.”
“Bertrand không nhìn nhận mọi việc như thế. Anh ấy ao ước có thể giải quyết được khiếm khuyết cốt tử trong quá trình tiến hóa của nhân loại… Sự thật là loài người chúng ta sinh sản quá nhiều. Chúng ta là một sinh vật, mặc dù có trí tuệ vượt trội, song dường như lại không thể kiểm soát được số lượng của chính mình. Không có biện pháp tránh thai tự do, giáo dục hay lời vận động nào của chính phủ có tác dụng cả. Chúng ta cứ có con… cho dù muốn hay không. Anh có biết CDC vừa tuyên bố rằng gần một nửa ca mang thai ở Hoa Kỳ là do vỡ kế hoạch không? Và, ở những quốc gia kém phát triển, con số đó là hơn bảy mươi phần trăm!”
Langdon đã nhìn thấy những số liệu thống kê này trước đó nhưng chỉ đến lúc này anh mới bắt đầu hiểu ý nghĩa của chúng. Là một giống loài, con người cũng giống như giống thỏ rừng được đưa tới một số chuỗi đảo ở Thái Bình Dương, có thể sinh sản thoải mái tới mức tự phá hủy hệ sinh thái của chính mình và cuối cùng tự tuyệt chủng.
Bertrand Zobrist đã thiết kế lại giống loài chúng ta… nhằm cố gắng cứu lấy chúng ta… biến cải chúng ta thành loài có tỷ lệ sinh sản thấp.
Langdon hít một hơi thật sâu và đăm đăm nhìn ra eo biển Bosporus, cảm thấy lâng lâng, giống như những con tàu đang trôi nổi phía xa. Những tiếng còi hụ vẫn càng lúc càng to, đang vọng lại từ phía cầu cảng, và Langdon cảm thấy thời gian đang cạn dần.
“Điều khủng khiếp nhất”, Sienna nói, “không phải là vi rút Hỏa ngục gây ra tình trạng vô sinh, mà là nó có khả năng làm điều đó. Một vi rút định hướng tồn tại trong không khí là một bước tiến vượt bậc - vượt xa thời đại nhiều năm. Bertrand bỗng chốc đưa chúng ta thoát ra khỏi thời kỳ tăm tối của điều khiển di truyền và đẩy chúng ta tiến nhanh vào tương lai. Anh ấy đã mở khóa quá trình tiến hóa và cho nhân loại khả năng định nghĩa lại giống loài của mình bằng những hành động có quy mô và ảnh hưởng sâu rộng. Pandora đã thoát ra khỏi hộp chứa, và không thể nhốt nó trở lại được nữa. Bertrand đã tạo ra chìa khóa để thay đổi loài người… và nếu các chìa khóa đó rơi vào những bàn tay không xứng đáng thì khi đó xin Chúa phù hộ chúng ta. Công nghệ này đáng lẽ không bao giờ được tạo ra. Ngay khi em đọc bức thư của Bertrand giải thích cách anh ấy đạt được mục tiêu của mình, em đã đốt nó đi. Sau đó em thề tìm cho ra vi rút của anh ấy và phá hủy mọi vết tích của nó”.
“Anh không hiểu”, Langdon nói, giọng đầy giận dữ. “Nếu em muốn tiêu diệt loại vi rút đó, tại sao em lại không hợp tác với tiến sĩ Sinskey và WHO? Lẽ ra em nên gọi cho CDC hay ai đó.”
Anh nghĩ một cách nghiêm túc xem! Các cơ quan chính phủ là những chủ thể cuối cùng trên trái đất nên được trao quyền tiếp cận với công nghệ này! Hãy nghĩ về điều đó, anh Robert. Trong suốt lịch sử loài người, mọi công nghệ mang tính đột phát từng được giới khoa học nghĩ ra đều bị biến thành vũ khí - từ hỏa khí đơn giản tới năng lượng nguyên tử - và gần như luôn nằm trong tay các chính phủ mạnh. Anh nghĩ các vũ khí sinh học của chúng ta từ đâu mà ra? Chúng khởi nguồn từ những nghiên cứu được thực hiện tại các địa điểm như WHO và CDC đấy. Công nghệ của Bertrand - một loại vi rút dịch bệnh được sử dụng như một phần tử mang thông tin di truyền - là thứ vũ khí hùng mạnh nhất từng được tạo ra. Nó mở đường cho những điều kinh khủng mà chúng ta thậm chí không thể hình dung nổi, kể cả những vũ khí sinh học có mục tiêu. Hãy thử hình dung ra một loại dịch bệnh chỉ tấn công những người mà mã di truyền có chứa những tín hiệu chủng tộc nhất định. Điều đó có thể giúp thực hiện việc loại trừ chủng tộc quy mô lớn ở cấp độ di truyền!”
“Anh hiểu những lo lắng của em, Sienna, anh hiểu, nhưng công nghệ này cũng có thể sử dụng cho những điều tốt đẹp, phải không? Lẽ nào phát hiện này không phải là một may mắn bất ngờ cho lĩnh vực y học di truyền? Một con đường mới để thực hiện tiêm chủng toàn cầu chẳng hạn?”
“Có lẽ như vậy, nhưng rất tiếc, em đã đủ kinh nghiệm để nhận ra những điều tệ hại nhất từ những con người nắm giữ quyền lực.
Phía xa, Langdon nghe thấy tiếng rền vang của một chiếc trực thăng đang phá tan bầu không khí. Anh dõi mắt qua những tán cây về phía chợ Gia vị và thấy những ánh đèn của một chiếc máy bay đang lượn phía trên khu đồi, bay nhanh về phía cầu cảng.
Sienna tỏ ra bồn chồn. “Em cần phải đi”, cô nói, đứng lên và ngó về cầu Atatürk ở phía tây. “Em nghĩ em có thể đi bộ qua cầu, và từ đó tới…”
“Em không đi được, Sienna”, anh nói rất kiên quyết.
“Robert, em quay lại bởi vì em cảm thấy em nợ anh một lời giải thích. Giờ anh đã có rồi.”
“Không, Sienna”, Langdon nói. “Em quay lại bởi vì em đã trốn chạy cả đời mình rồi, và cuối cùng em nhận ra em không thể chạy thêm được nữa.”
Dường như Sienna co rúm lại trước mặt anh. “Em còn lựa chọn nào đây?”, cô hỏi, mắt nhìn chiếc trực thăng đang dõi khắp vùng nước. “Họ sẽ tống em vào tù ngay khi họ tìm thấy em.”
“Em chẳng làm gì sai trái cả, Sienna. Em không hề tạo ra loại vi rút này… cũng không hề giải phóng nó.”
“Đúng, nhưng em đã đi quá xa trong việc ngăn cản Tổ chức Y tế Thế giới tìm ra nó. Nếu không kết thúc mọi chuyện trong một nhà tù Thổ Nhĩ Kỳ thì em cũng sẽ đối mặt với một tòa án quốc tế nào đó với tội danh khủng bố sinh học.”
Khi tiếng động cơ trực thăng nghe to hơn, Langdon nhìn về cầu cảng phía xa. Chiếc máy bay đang lơ lửng tại chỗ, cánh quạt khuấy tung nước trong khi ánh đèn pha của nó quét qua những chiếc thuyền.
Trông Sienna như sẵn sàng lao đi bất cứ lúc nào.
“Nghe anh này”, Langdon nói, giọng dịu hẳn. “Anh biết em đã trải qua quá nhiều việc, và anh biết em sợ, nhưng em cần nghĩ đến một bức tranh lớn hơn. Bertrand tạo ra loại vi rút này. Còn em cố gắng ngăn chặn nó.”
“Nhưng em đã thất bại.”
“Đúng, giờ loại vi rút đó đã thoát ra, cộng đồng khoa học và y học sẽ cần phải hiểu nó một cách đầy đủ. Em là người duy nhất biết rõ về nó. Có lẽ có cách để vô hiệu hóa nó… hoặc làm gì đó để chuẩn bị.” Ánh mắt của Langdon nhìn như xoáy vào cô. “Sienna, thế giới cần biết những gì em biết. Em không thể biến mất được.”
Giờ thân hình mảnh dẻ của Sienna run lên bần bật, như thể toàn bộ nỗi đau khổ và tâm trạng không chắc chắn vỡ òa. “Robert, em… em không biết phải làm gì. Em thậm chí không biết mình là ai nữa. Hãy nhìn em đi.” Cô đưa một tay lên cái đầu trọc lóc của mình. “Em đã biến thành một con quái vật. Làm sao em có thể đối diện với…”
Langdon bước tới và vòng tay quanh người cô. Anh cảm nhận được cơ thể của cô run lên, cảm nhận được sự mỏng manh của cô truyền qua ngực mình. Anh khẽ thì thầm vào tai cô.
“Sienna, anh biết em muốn bỏ đi, nhưng anh sẽ không để em đi. Sớm muộn em cũng cần học cách tin tưởng ai đó.”
“Em không thể...”, cô thổn thức. “Em không chắc phải làm như thế nào.”
Langdon ôm chặt cô hơn. “Em hãy bắt đầu từ điều nhỏ thôi. Một bước đầu tiên đơn giản. Hãy tin tưởng anh.”
[60] nguyên văn: Orwellian dystopia, chỉ một dạng xã hội đối lập với chủ nghĩa xã hội không tưởng (utopia). Bởi vậy, xã hội “dystopia” có thể hiểu là cuộc sống như từ đáy địa ngục. Một tác phẩm tiêu biểu mô tả về xã hội này là 1984 của George Orwell. Ông là tiểu thuyết gia, nhà báo người Anh, nổi tiếng với những tác phẩm phê phán bất công xã hội, chế độ chuyến chế.

Tiếng va chạm chói tai của kim loại vang rền khắp khoang chiếc máy bay vận tải C-130 không có cửa sổ, khiến Thị trưởng bật dậy. Bên ngoài, ai đó đang đập báng súng vào cửa máy bay và đòi vào trong.
“Tất cả mọi người ngồi yên”, phi công chiếc C-130 ra lệnh, và tiến về phía cửa. “Họ là cảnh sát Thổ Nhĩ Kỳ. Họ vừa tiếp cận máy bay.”
Thị trưởng và Ferris nhìn nhau thật nhanh.
Căn cứ vào những cuộc gọi hoảng hốt của những nhân viên WHO trên khoang máy bay, Thị trưởng linh cảm rằng nhiệm vụ ngăn chặn của họ đã thất bại. Zobrist đã thực hiện được kế hoạch của hắn, ông ta nghĩ thầm. Và có sự góp phần của mình.
Bên ngoài cửa máy bay, những tiếng nói đầy quyền lực bắt đầu vang lên bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ.
Thị trưởng đứng bật dậy. “Đừng mở cửa!”, ông ta yêu cầu phi công.
Anh chàng phi công dừng sững lại, nhìn Thị trưởng. “Tại sao lại không chứ?”
“WHO là một tổ chức quốc tế”, Thị trưởng nói, “và chiếc máy bay này là một lãnh thổ có chủ quyền!”
Người phi công lắc đầu. “Thưa ông, chiếc máy bay này đang đỗ tại một sân bay Thổ Nhĩ Kỳ, và trừ khi nó rời khỏi không phận Thổ Nhĩ Kỳ, còn không nó vẫn chịu sự điều khiển của luật pháp nước này.” Người phi công tiến tới lối thoát và mở toang cửa ra.
Hai người đàn ông mặc đồng phục đăm đăm nhìn vào. Ánh mắt nghiêm nghị của họ không có một chút gì khoan nhượng. “Ai là cơ trưởng máy bay này?”, một người hỏi bằng giọng nặng trịch.
“Tôi đây”, người phi công nói.
Một viên sĩ quan đưa cho phi công hai tờ giấy. “Lệnh bắt giữ. Hai hành khách này phải đi cùng chúng tôi.”
Người phi công lướt qua tờ giấy và nhìn Thị trưởng cùng Ferris.
“Gọi cho tiến sĩ Sinskey đi”, Thị trưởng yêu cầu viên phi công WHO. “Chúng ta đang thực hiện một nhiệm vụ khẩn cấp quốc tế kia mà.”
Một trong hai viên sĩ quan nhìn Thị trưởng với nụ cười khinh khỉnh. “Tiến sĩ Elizabeth Sinskey phải không? Giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới chứ gì? Bà ấy là người ra lệnh bắt ông đấy.”
“Không thể như vậy được”, Thị trưởng đáp. “Anh Ferris và tôi có mặt ở Thổ Nhĩ Kỳ này để giúp đỡ tiến sĩ Sinskey.”
“Vậy thì ông làm việc chưa được tốt rồi”, viên sĩ quan thứ hai đáp lời. “Tiến sĩ Sinskey đã liên hệ với chúng tôi và nói rõ cả hai vị là những kẻ âm mưu trong một kế hoạch khủng bố sinh học trên lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ.” Anh ta lôi ra còng tay. “Cả hai vị sẽ đến trụ sở để thẩm vấn.”
“Tôi đề nghị gọi luật sư!”, Thị trưởng hét to.
Ba mươi giây sau, ông ta và Ferris đã bị còng tay, lôi qua hai hàng ghế và bị ấn vào khoang sau của một chiếc ô tô mui kín màu đen. Chiếc xe lao vụt đi, lướt qua đường băng tới một góc khuất của sân bay, nó dừng lại bên một dãy hàng rào lưới thép mỏng đã bị cắt thủng và kéo rộng ra cho xe đi qua. Khi ra khỏi hàng rào bao ngoài, chiếc xe băng qua một vùng đất trống bụi bặm chứa máy móc của máy bay hỏng và đỗ lại gần một tòa nhà dịch vụ đã cũ.
Hai người đàn ông mặc đồng phục nhảy ra khỏi xe và nhìn toàn khu vực. Thấy hài lòng vì không bị theo đuôi, họ lột bỏ đồng phục cảnh sát và ném sang một bên. Sau đó họ giúp Ferris và Thị trưởng ra khỏi xe và tháo còng tay cho hai người.
Thi trưởng xoa xoa cổ tay, nhận ra mình cũng chẳng thể làm gì khi bị bắt giam.
“Chìa khóa xe ở dưới đệm”, một trong hai đặc vụ nói, giơ tay ra hiệu về phía một chiếc xe tải trắng đỗ gần đó. “Có một túi vải ở ghế sau với đầy đủ các thứ ngài yêu cầu - giấy tờ đi lại, tiền mặt, điện thoại trả trước, quần áo, cùng một vài thứ khác mà chúng tôi nghĩ có thể ngài cần.
“Cảm ơn”, Thị trưởng nói. “Các anh cừ lắm.”
“Được đào tạo đâu ra đấy thôi, thưa ngài.”
Nói xong, hai người đàn ông Thổ Nhĩ Kỳ lại leo lên chiếc xe mui kín màu đen và phóng đi.
Sinskey sẽ không bao giờ để mình đi thoát, Thị trưởng tự nhủ. Cảm nhận rõ điều đó khi bay tới Istanbul, Thị trưởng đã gửi thư điện tử cầu cứu cho chi nhánh địa phương của Consortium, nói rõ rằng ông ta và Ferris cần thoái lui.
“Ngài có nghĩ bà ta sẽ truy đuổi chúng ta không?”, Ferris hỏi.
“Sinskey hả?”, Thị trưởng gật đầu. “Chắc chắn rồi. Mặc dù tôi cho rằng lúc này bà ấy còn những mối bận tâm khác.”
Hai người leo lên chiếc xe tải trắng, và Thị trưởng lục kỹ tất cả những thứ bên trong túi vải, sắp xếp mọi giấy tờ theo trật tự. Ông ta lôi ra một cái mũ bóng chày và đội lên đầu. Phía trong mũ, ông ta tìm thấy một chai rượu Highland Park nhỏ.
Mấy tay này rất được.
Thị trưởng nhìn thứ chất lỏng màu hổ phách, tự nhủ mình rằng cần phải đợi cho tới ngày mai. Thế rồi, ông ta lại nhớ đến cái túi Solublon của Zobrist và tự hỏi ngày mai sẽ như thế nào.
Mình đã phá bỏ nguyên tắc cốt tử của mình, ông ta nghĩ thầm. Mình đã phản bội khách hàng của mình.
Thị trưởng cảm thấy mông lung một cách kỳ lạ, biết rõ rằng những ngày tới sẽ tràn ngập tin tức về một thảm họa mà trong đó, ông ta đóng một vai trò rất quan trọng. Chuyện này sẽ không xảy ra nếu không có mình.
Lần đầu tiên trong đời, ông ta thấy rằng việc tỏ ra không biết gì không còn là nền tảng đạo đức nữa. Những ngón tay ông ta bóc lớp niêm phong trên chai Scotch.
Tận hưởng thôi, ông ta tự nhủ. Đằng nào chẳng vậy, những ngày tháng của mày đã được đánh số rồi.
Thị trưởng uống một hơi dài, thưởng thức vị cay nóng trong cổ họng.
Đột nhiên, màn đêm sáng bừng lên những ánh đèn pha và những ngọn đèn xanh nhấp nháy của xe cảnh sát, lúc này bao vây họ từ mọi phía.
Thị trưởng cuống cuồng nhìn tứ phía… và sau đó ngồi yên như tượng đá.
Chẳng còn lối thoát nào.
Khi những sĩ quan cảnh sát Thổ Nhĩ Kỳ có vũ trang tiến đến gần chiếc xe tải, súng giương sẵn sàng, Thị trưởng uống nốt ngụm Highland Park cuối cùng và im lặng giơ tay lên đầu.
Lần này, ông ta biết, những sĩ quan đó không đứng về phía mình.

Chương 101
Lãnh sự quán Thụy Sĩ ở Istanbul nằm tại tòa nhà One Levent Plaza trong một tòa cao ốc siêu hiện đại. Phần mặt tiền lắp kính xanh lõm của tòa nhà trông như một tảng đá nguyên khối đến từ thời tương lai nằm trong đại đô thị cổ kính.
Gần một tiếng đồng hồ đã trôi qua kể từ lúc Sinskey rời khỏi bể chứa để thiết lập một sở chỉ huy tạm thời tại văn phòng lãnh sự. Các cơ quan tin tức địa phương tràn ngập bản tin về vụ giẫm đạp kinh hoàng trong đêm diễn cuối cùng bản Giao hưởng Dante của Liszt tại bể chứa. Chưa có chi tiết đặc biệt nào được đăng tải, nhưng sự hiện diện của một nhóm y tế quốc tế mặc đồ phòng độc đã làm dấy lên rất nhiều đồn đoán.
Sinskey đăm đăm nhìn ra ngoài cửa sổ, ngắm những ánh đèn thành phố và cảm thấy vô cùng đơn độc. Như một thói quen, bà đưa tay lên tìm chiếc vòng cổ có gắn bùa, nhưng trống không. Chiếc bùa gãy thành hai nửa đang nằm trên mặt bàn làm việc của bà.
Giám đốc WHO vừa kết thúc việc điều phối một loạt cuộc họp khẩn cấp sẽ được tổ chức tại Geneva trong vài giờ nữa. Các chuyên gia từ các cơ quan khác nhau đã lên đường, và bản thân Sinskey cũng có kế hoạch bay tới đó sớm để thông báo sơ lược tình hình cho họ biết. Thật may, ai đó trong nhóm nhân viên làm đêm đã mang tới cho Sinskey một cốc cà phê Thổ Nhĩ Kỳ thứ thiệt còn nóng hổi. Và bà đã uống hết veo.
Một người đàn ông trẻ tuổi trong số nhân viên lãnh sự quán ngó vào qua cánh cửa phòng để ngỏ của bà. “Thưa bà? Robert Langdon tìm đến đây xin gặp bà.”
“Cảm ơn anh”, bà đáp. “Nhờ anh dẫn ông ấy vào.”
Hai mươi phút trước, Langdon liên hệ với Sinskey bằng điện thoại và giải thích rằng Sienna Brooks đã lẩn tránh anh, đánh cắp một chiếc xuồng và bỏ trốn ra biển. Sinskey đã nghe được thông tin này từ giới chức, lúc này vẫn đang tìm kiếm khắp khu vực nhưng cho đến giờ vẫn tay trắng.
Bây giờ, khi cái dáng cao lớn của Langdon hiện ra ở ngưỡng cửa, bà gần như không nhận ra anh. Bộ đồ trên người anh bẩn thỉu, mái tóc đen rối bù, đôi mắt đầy mệt mỏi và trũng sâu.
“Giáo sư, anh ổn chứ?”, Sinskey đứng lên.
Langdon mỉm cười mỏi mệt. “Tôi đã có những buổi tối thư thái hơn.”
“Xin mời”, bà nói, tay chỉ một chiếc ghế. “Mời anh ngồi.”
“Bệnh dịch của Zobrist”, Langdon bắt đầu mà không cần mào đầu trong khi ngồi xuống ghế. “Tôi nghĩ có lẽ nó đã được giải phóng từ một tuần trước rồi.”
Sinskey gật đầu nhẫn nại. “Đúng vậy, chúng tôi cũng có cùng kết luận đó. Chưa có triệu chứng gì được báo lại, nhưng chúng tôi đã tách các mẫu và đang đẩy nhanh quá trình kiểm nghiệm tập trung. Rất tiếc, có thể mất vài ngày hoặc hàng tuần mới thực sự hiểu được loại vi rút này là gì… và nó có thể gây ra chuyện gì.”
“Nó là một loại vi rút định hướng”, Langdon nói.
Sinskey nghiêng đầu vẻ ngạc nhiên, hơi giật mình khi nghe thấy rằng thậm chí anh cũng biết thuật ngữ đó. “Anh nói sao cơ?”
“Zobrist đã tạo ra một loại vi rút định hướng tồn tại trong không khí có khả năng làm thay đổi DNA của con người.”
Sinskey bật dây, xô văng cả ghế. Không thể như thế được! “Điều gì khiến anh khẳng định chuyện như vậy?”
“Sienna”, Langdon đáp nhanh. “Cô ấy nói với tôi. Nửa giờ trước.”
Sinskey chống tay xuống bàn và trân trối nhìn Langdon với vẻ không tin nổi. “Cô ta không bỏ trốn sao?”
“Chắc chắn là có”, anh đáp. “Cô ấy thoát rồi, trên một chiếc xuồng phóng ra biển, và cô ấy có thể dễ dàng biến mất mãi mãi. Nhưng cô ấy đã suy nghĩ kỹ càng hơn mọi việc. Cô ấy tự nguyện quay lại. Sienna muốn giúp giải quyết cuộc khủng hoảng này.”
Môi Sinskey bật lên một tiếng cười khan. “Xin thứ lỗi cho tôi nếu tôi nếu tôi không chịu tin tưởng quý cô Brooks, đặc biệt khi cô ta đưa ra một tuyên bố cường điệu như vậy.”
“Tôi tin cô ấy”, Langdon nói, giọng anh không hề nao núng. “Và nếu cô ấy tuyên bố rằng đó là một loại vi rút định hướng thì tôi nghĩ tốt hơn cả bà nên xem xét lời nói của cô ấy một cách nghiêm túc.”
Sinskey bỗng cảm thấy kiệt sức, đầu óc bà cố gắng phân tích những lời của Langdon. Bà đi tới bên cửa và đăm đăm nhìn ra. Một loại vi rút định hướng làm thay đổi DNA ư? Cái viễn cảnh ấy nghe đáng sợ và không mấy xác thực nhưng bà phải thừa nhận rằng ở nó có sự logic rất lạ. Nói cho cùng, Zobrist là một chuyên gia di truyền và biết rất rõ rằng chỉ một biến đổi nho nhỏ trong một gene duy nhất cũng có thể gây ra những hậu quả tai hại cho cơ thể - ung thư, rối loạn chức năng các cơ quan, và rối loạn máu. Thậm chí một căn bệnh đáng ghét như xơ nang - thứ bệnh khiến nạn nhân chết ngộp trong nước nhầy - cũng do một trục trặc rất nhỏ trong một gene điều tiết ở nhiễm sắc thể thứ bảy.
Ngày nay các chuyên gia đã bắt đầu điều trị những tình trạng di truyền này bằng các loại vi rút định hướng sơ đẳng, được bơm trực tiếp vào bệnh nhân. Những vi rút không gây bệnh này được lập trình để di chuyển khắp cơ thể bệnh nhân và lập ra DNA thay thế, giúp sửa chữa những phần đã bị tổn thương. Tuy nhiên, ngành khoa học mới mẻ này, cũng như tất cả những ngành khoa học khác, có mặt trái của nó. Những ảnh hưởng của một vi rút định hướng có thể tốt hoặc rất có hại, tùy thuộc vào ý định của người tạo ra nó. Nếu một vi rút được lập trình một cách ác ý để đưa DNA hư hại vào các tế bào khỏe mạnh thì hậu quả thật kinh khủng. Hơn nữa, nếu vi rút có hại đó lại được tạo ra với khả năng lây lan cao và tồn tại trong không khí thì…
Viễn cảnh đó làm Sinskey rùng mình. Zobrist nghĩ đến thảm họa di truyền gì không biết? Hắn âm mưu làm giảm dân số như thế nào đây?
Sinskey biết rằng việc tìm ra câu trả lời có thể mất hàng tuần. Mã di truyền của con người có chứa cả một mê cung bất tận những khả năng hoán vị hóa học. Khả năng tìm kiếm toàn bộ mê cung đó với hy vọng tìm cho ra một biến đổi cụ thể của Zobrist chẳng khác gì mò kim đáy bể, thậm chí còn không biết được cái đáy bể ấy nằm ở hành tinh nào.
“Bà Elizabeth?” Giọng nói thâm trầm của Langdon kéo bà trở lại.
Sinskey rời mắt khỏi cửa sổ và nhìn anh.
“Bà có nghe tôi nói không?”, anh hỏi, vẫn bình tĩnh ngồi nguyên. “Sienna muốn tiêu diệt loại vi rút đó giống như bà vậy.”
“Tôi thực sự nghi ngờ điều đó.”
Langdon thở hắt ra, giờ mới đứng lên. “Tôi nghĩ bà nên lắng nghe tôi. Không lâu trước khi chết, Zobrist viết một lá thư cho Sienna, nói cho cô ấy biết những gì anh ta làm. Anh ta nêu đích xác những gì vi rút này sẽ thực hiện… cách nó tấn công chúng ta… cách nó đạt được mục tiêu của anh ta.”
Sinskey cứng đờ người. Có một bức thư sao?!
“Khi đọc những mô tả của Zobrist về những gì anh ta tạo ra, Sienna vô cùng kinh hãi. Cô ấy muốn ngăn anh ta. Cô ấy xem thứ vi rút của anh ta nguy hiểm đến mức không muốn bất kỳ ai tiếp cận được với nó, kể cả Tổ chức Y tế Thế giới. Bà không thấy sao? Sienna đã cố gắng tiêu diệt vi rút đó… chứ không phải giải phóng nó.”
“Có một bức thư à?”, Sinskey hỏi lại, giờ chỉ quan tâm đến điểm mấu chốt. “Với mọi chi tiết phải không?”
“Đó là những gì Sienna nói với tôi, vâng.”
“Chúng tôi cần bức thư đó! Có được các chi tiết có thể tiết kiệm cho chúng tôi hàng tháng trời để hiểu được cái thứ này là gì và biết các xử lý nó.”
Langdon lắc đầu. “Bà không hiểu rồi. Khi đọc thư của Zobrist, Sienna rất kinh sợ. Cô ấy đã đốt bỏ nó ngay lập tức. Cô ấy muốn bảo đảm không có ai…”
Sinskey đập mạnh tay xuống bàn. “Cô ta hủy một thứ có thể giúp chúng tôi chuẩn bị cho cuộc khủng hoảng này sao? Và anh muốn tôi tin cô ta à?”
“Tôi biết điều đó rất có vấn đề, nhất là căn cứ vào những hành động của cô ấy, nhưng thay vì trừng phạt cô ấy, sẽ hữu ích nếu bà nhớ cho rằng Sienna có một trí thông mình tuyệt vời và khả năng ghi nhớ đến kinh ngạc.” Langdon ngừng lại. “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu cô ấy có thể tái tạo đầy đủ bức thư của Zobrist để giúp bà?”
Sinskey nheo mắt, hơi gật đầu. “Chà, giáo sư, trong trường hợp đó, anh khuyên tôi nên làm gì?”
Langdon ra hiệu về phía cốc cà phê đã cạn sạch của bà. “Tôi gợi ý bà gọi thêm cà phê… và nghe một điều kiện mà Sienna đề nghị.”
Mạch của Sinskey đập nhanh hơn, và bà liếc nhìn điện thoại. “Anh biết cách liên lạc với cô ta phải không?”
“Đúng vậy.”
“Cho tôi biết cô ta đề nghị gì.”
Langdon nới với bà, và Sinskey im lặng, suy ngẫm lời đề nghị.
“Tôi nghĩ đó là một việc rất đúng đắn”, Langdon nói thêm. “Và bà phải mất gì nào?”
“Nếu mọi thứ anh nói là sự thật, thì tôi xin hứa với anh.” Sinskey đẩy điện thoại về phía anh. “Xin gọi điện đi.”
Trước vẻ ngạc nhiên của Sinskey, Langdon không ngó tới điện thoại. Thay vào đó, anh đứng dậy và tiến thẳng ra cửa, nói rằng anh sẽ quay lại sau một phút. Ngơ ngác, Sinskey bước ra sảnh và nhìn anh sải bước qua khu phòng chờ của lãnh sự quán, mở cánh cửa kính, và đi vào buồng thang máy phía trước. Nhất thời, bà nghĩ anh đang bỏ đi, nhưng sau đó, thay vì gọi thang máy, anh lặng lẽ lách vào phòng vệ sinh nữ.
Một lúc sau, anh xuất hiện cùng một người phụ nữ chỉ mới ngoài ba mươi. Sinskey phải mất một lúc lâu mới nhận ra rằng đây đúng là Sienna Brooks. Người phụ nữ tóc đuôi ngựa xinh đẹp mà bà gặp lúc trước trong ngày hôm nay đã thay đổi hoàn toàn. Đầu cô ấy trọc lóc, như thể đã được cạo nhẵn nhụi.
Khi vào văn phòng của bà, họ im lặng ngồi xuống ghế đối diện với bàn làm việc.
“Xin thứ lỗi cho tôi”, Sienna nói nhanh. “Tôi biết chúng ta có rất nhiều chuyện để thảo luận, nhưng trước tiên, tôi hy vọng bà sẽ cho phép tôi nói điều tôi thực sự phải nói.”
Sinskey nhận ra giọng nói của Sienna đượm vẻ u uất. “Dĩ nhiên rồi.”
“Thưa bà”, cô bắt đầu, giọng cô run run, “bà là giám đốc của Tổ chức Y tế Thế giới. Bà biết rõ hơn ai hết rằng chúng ta là giống loài trên bờ vực diệt vong… một cộng đồng vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Suốt nhiều năm, Bertrand Zobrist đã cố gắng liên hệ với những nhân vật có ảnh hưởng như bà để thảo luận về cuộc khủng hoảng đang đến gần. Anh ấy đã tới rất nhiều tổ chức mà anh ấy tin có thể tác động đến sự thay đổi - Viện Theo dõi Môi trường Thế giới, Câu lạc bộ Rome, Tổ chức các vấn đề Dân số, Hội đồng Quan hệ Đối ngoại - nhưng anh ấy chẳng tìm được ai dám tham gia vào cuộc thảo luận có ý nghĩa về một giải pháp thật sự. Tất cả các vị đều đáp lại bằng những kế hoạch như giáo dục phòng tránh thai tốt hơn, khuyến khích thuế cho những gia đình quy mô nhỏ, và thậm chí bàn cả đến việc chinh phục mặt trăng! Không có gì lạ khi Bertrand mất niềm tin.”
Sinskey chăm chú nhìn cô, không tỏ ra phản ứng gì.
Sienna hít một hơi thật sâu. “Tiến sĩ Sinskey, Bertrand đã tới gặp riêng bà. Anh ấy nài nỉ bà thừa nhận rằng chúng ta đang trên bờ vực… nài nỉ bà tham gia vào cuộc thảo luận. Nhưng thay vì lắng nghe những ý kiến đó, bà gọi anh ấy là một gã điên rồ, đưa anh ấy vào danh sách theo dõi, và xua đuổi anh ấy xuống lòng đất.” Giọng Sienna càng lúc càng nặng trĩu cảm xúc. “Bertrand chết vì những người như bà từ chối mở mang đầu óc để chấp nhận rằng tình cảnh bi thảm của chúng ta phải cần đến một giải pháp không lấy gì làm dễ chịu. Tất cả những gì Bertrand cố làm là nói lên sự thật… và vì điều đó, anh ấy bị tẩy chay.” Sienna gạt nước mắt và nhìn xoáy vào Sinskey bên kia bàn. “Hãy tin tôi, tôi biết cảm giác cô độc là như thế nào… Sự cô độc tệ hại nhất trên đời chính là bị cô lập do hiểu nhầm. Điều đó có thể khiến người ta đánh mất niềm tin vào thực tại.”
Sienna ngừng nói, để lại một không gian im lặng, căng thẳng.
“Đó là tất cả những gì tôi muốn nói”, cô thì thầm.
Sinskey nhìn cô một lúc lâu và sau đó ngồi xuống. “Cô Brooks”, bà nói, cố gắng bình tĩnh hết mức, “cô nói đúng. Có thể trước kia tôi đã không chịu lắng nghe…”. Bà khoanh tay trên bàn và nhìn thẳng vào Sienna. “Nhưng giờ thì tôi đang nghe đây.”

Chương 102
Đồng hồ trong đại lãnh sự quán Thụy Sỹ điểm 1 giờ sáng đã lâu.
Tập giấy ghi chép trên bàn Sinskey giờ là một mớ những dòng viết tay, câu hỏi bà biểu đồ. Bà giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới chẳng hề nhúc nhích cũng không nói gì đã hơn năm phút rồi. Bà đứng bên cửa sổ, đăm đăm nhìn ra trời đêm.
Phía sau bà, Langdon và Sienna đang chờ đợi, ngồi im lặng, cố nhấp nốt những giọt cà phê Thổ Nhĩ Kỳ cuối cùng, mùi đất nghiền cùng hạt hồ trăn đậm đặc tràn ngập trong phòng.
Thứ âm thanh duy nhất là tiếng rè rè của những ngọn đèn huỳnh quang trên đầu.
Sienna cảm thấy tim mình đang đập thình thịch, và tự hỏi Sinskey đang nghĩ gì, sau khi đã nghe toàn bộ sự thật với thực tế trần trụi. Vi rút của Bertrand là một loại dịch bệnh vô sinh. Một phần ba dân số thế giới sẽ không có khả năng sinh sản.
Trong suốt quá trình giải thích, Sienna đã chứng kiến đủ mọi sắc thái cảm xúc của Sinskey, thể hiện rất rõ dù đã cố kiềm chế. Trước tiên, đó là thái độ sững sờ chấp nhận sự thật rằng Zobrist đã tạo ra một loại vi rút định hướng tồn tại trong không khí. Tiếp đến, bà thể hiện niềm hy vọng khi nghe nói vi rút ấy không được tạo ra để giết người. Rồi… rất từ từ, và hãi hùng tăng dần khi sự thật được tiết lộ, và bà nhận ra rằng một bộ phận rất lớn dân số trên trái đất sẽ trở thành vô sinh. Việc biết được loại vi rút đó tấn công khả năng sinh sản của con người đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến cá nhân Sinskey.
“Bà Elizabeth?”, Langdon đánh bạo lên tiếng.
Sinskey từ từ thoát ra khỏi luồng suy nghĩ, Khi đưa mắt nhìn lại chỗ họ, gương mặt bà vô cùng u uất. “Sienna”, bà bắt đầu nói bằng một giọng buồn bã, “thông tin cô cung cấp sẽ rất hữu ích trong việc chuẩn bị một chiến lược để giải quyết cuộc khủng hoảng này. Tôi đánh giá cao sự thẳng thắn của cô. Cô biết đấy, các loại vi rút định hướng gây dịch bệnh đã được thảo luận trên lý thuyết như là một cách khả dĩ để miễn dịch cho đông đảo dân cư, nhưng tất cả mọi người đều tin rằng công nghệ này còn ở phía trước nhiều năm nữa.”
Sinskey trở lại bên bàn làm việc, và ngồi xuống.
“Xin thứ lỗi cho tôi”, bà nói, lắc đầu. “Ở thời điểm này, với tôi, toàn bộ chuyện này giống như một câu chuyện khoa học viễn tưởng.”
Không có gì lạ, Sienna nghĩ. Mọi bước nhảy vọt về y học đều luôn như thế - penicillin, thuốc gây tê, tia X, lần đầu tiên con người nhìn qua kính hiển vi và thấy một tế bào phân chia.
Tiến sĩ Sinskey chăm chú nhìn xuống tập giấy ghi chép của mình. “Trong vài giờ nữa, tôi sẽ đến Geneva để nghe cả loạt câu hỏi. Tôi tin chắc rằng câu hỏi đầu tiên sẽ là liệu có cách nào để ứng phó với vi rút này không.”
Sienna đoán rằng bà nói đúng.
“Và”, Sinskey tiếp tục, “tôi hình dung ra giải pháp đầu tiên được đề xuất sẽ là phân tích vi rút của Bertrand, hiểu rõ về nó hết mức có thể, và sau đó tìm cách tạo ra dòng thứ hai của nó - một dòng chúng ta lập trình lại để thay đổi DNA trở về dạng ban đầu”. Sinskey trông không mấy lạc quan khi đưa mắt nhìn Sienna. “Liệu có nên tạo ra một loại vi rút phản kháng hay không vẫn cần phải xem xét, nhưng về mặt giả thuyết, tôi muốn được nghe suy nghĩ của cô về hướng tiếp cận đó.”
Suy nghĩ của tôi ư? Sienna thấy chính mình lại vô thức đưa mắt nhìn về Langdon. Vị giáo sư nhìn cô gật đầu, gửi đi một thông điệp rất rõ ràng: Em đã đi đến nước này rồi. Hãy nói ra suy nghĩ của mình. Hãy nói sự thật đúng như em nhìn nhận nó.
Sienna hắng giọng, ngoảnh lại nhìn Sinskey, và nói thât mạnh mẽ, rõ ràng. “Thưa bà, giới điều khiển di truyền là nơi tôi cùng Bertrand làm việc đã nhiều năm… Bà biết đấy, bộ gene của con người là một kết cấu cực kỳ vi tế… một ngôi nhà bằng các lá bài. Chúng ta càng điều chỉnh, khả năng chúng ta thay đổi nhầm lá bài và khiến mọi thứ đổ sụp càng lớn. Cá nhân tôi tin rằng cố làm lại những gì đã làm là hiểm họa rất lớn. Bertrand là một chuyên gia di truyền với trình độ và tầm nhìn siêu hạng. Anh ấy đi trước các đồng nghiệp nhiều năm. Đến thời điểm này, tôi không dám chắc có ai đó khác dám tiến vào bộ gene người, hy vọng làm cho nó luôn đúng người. Thậm chí nếu bà tạo ra một thứ gì đó mà bà nghĩ có thể phát huy tác dụng thì việc thử nó cũng sẽ cần lây nhiễm lần nữa cho toàn bộ dân số.”
“Rất đúng”, Sinskey nói, dường như không mấy ngạc nhiên trước những gì bà vừa nghe thấy. “Nhưng dĩ nhiên, có vấn đề lớn lao hơn. Chúng ta thậm chí có thể không muốn phản kháng lại.”
Những lời nói của bà khiến Sienna ngơ ngác. “Tôi xin lỗi?”
“Cô Brooks, có thể tôi không tán thành phương pháp của Bertrand, nhưng cách đánh giá của anh ta về tình hình thế giới hoàn toàn chính xác. Hành trình này đang đối mặt với vấn đề quá tải dân số trầm trọng. Nếu chúng ta tìm cách vô hiệu hóa vi rút của Bertrand mà không có một kế hoạch dự phòng vững vàng… thì chúng ta sẽ chỉ lại trở về vị trí ban đầu mà thôi.”
Chắc chắn thái độ sửng sốt của Sienna thể hiện rất rõ, bởi vì Sinskey cười nhẹ với cô và nói thêm, “Không phải là một quan điểm mà cô nghĩ sẽ nghe được từ tôi phải không?”.
Sienna lắc đầu. “Giờ tôi không dám chắc sẽ trông đợi gì nữa.”
“Vậy thì có lẽ tôi lại làm cô ngạc nhiên lần nữa”, Sinskey tiếp tục. “Như tôi đã nói lúc trước, các nhà lãnh đạo những cơ quan y tế hàng đầu trên khắp thế giới sẽ tụ tập về Geneva chỉ trong vài tiếng nữa để thảo luận về cuộc khủng hoảng này và chuẩn bị một kế hoạch hành động. Tôi không nhớ trong suốt nhiều năm làm việc tại WHO đã từng có một cuộc họp nào lại mang tầm quan trọng lớn lao hơn thế hay chưa.” Bà đưa mắt nhìn cô bác sĩ trẻ. “Sienna, tôi muốn cô có mặt bên bàn nghị sự đó.”
“Tôi sao?”, Sienna bật dậy. “Tôi không phải một chuyên gia di truyền. Tôi đã nói với bà mọi điều tôi biết.” Cô chỉ tập giấy ghi chép của Sinskey. “Mọi thứ tôi phải nói đã nằm trên tập giấy của bà đấy.”
“Chưa đủ đâu”, Langdon xen vào. “Sienna, bất kỳ cuộc thảo luận có ý nghĩa nào về loại vi rút này đều sẽ cần đến bối cảnh. Tiến sĩ Sinskey và nhóm của bà ấy sẽ cần phát triển một khuôn khổ đạo đức để đánh giá phản ứng của họ trước cuộc khủng hoảng này. Rõ ràng bà ấy tin rằng em là người bổ sung duy nhất có thể giúp ích cho cuộc thảo luận đó.”
“Em e rằng khuôn khổ đạo đức của em sẽ không làm hài lòng WHO đâu.”
“Có thể không”, Langdon đáp, “đó chính là một lý do nữa để em có mặt ở đó. Em là thành viên của một thế hệ những nhà tư tưởng mới. Em đưa ra phản đề. Em có thể giúp họ hiểu suy nghĩ của những người có tầm nhìn như Bertrand - những cá nhân xuất chúng có niềm tin mạnh mẽ đến mức họ tự mình giải quyết vấn đề”.
“Bertrand không phải người đầu tiên đâu.”
“Không”, Sinskey xen vào, “và anh ta cũng sẽ không phải là người cuối cùng. Mỗi tháng, WHO lại phát hiện ra những phòng thí nghiệm nơi các nhà khoa học đang thâm nhập vào những mảng khuất của khoa học - tất cả mọi thứ, từ điều khiển tế bào gốc của con người tới lai tạo những giống lạ… những giống lai ghép không hề tồn tại trong tự nhiên. Thật rất phiền toái. Khoa học tiến bộ nhanh đến mức không ai biết mọi ranh giới được vạch ra ở chỗ nào nữa.”
Sienna phải thừa nhận như vậy. Chỉ mới gần đây, hai nhà vi rút học rất được kính nể - Fouchier và Kawaoka - đã tạo ra một vi rút H5N1 biến dị độc lực cao. Bất chấp ý định thuần túy học thuật của các nhà nghiên cứu, công trình sáng tạo mới mẻ của họ có khả năng khiến các chuyên gia an ninh sinh học phải cảnh giác và đã gây ra cả một làn sóng tranh cãi gây gắt trên mạng.
“Tôi sợ rằng nó sẽ chỉ càng ngày càng tệ”, Sinskey nói. “Chúng ta đang ở ranh giới của những công nghệ mới mẻ đến mức không thể hình dung nổi.”
“Và những triết lý mới nữa”, Sienna tiếp lời. “Phong trào Siêu nhân học sẽ phát triển từ bí mật thành dòng chính thống. Một trong những nguyên lý cơ bản của nó là con người chúng ta có nghĩa vụ đạo đức phải tham gia vào quá trình tiến hóa của mình… sử dụng công nghệ của mình để củng cố giống loài, tạo ra những con người tốt hơn - khỏe mạnh hơn, mạnh mẽ hơn, với bộ não hoạt động siêu việt hơn. Mọi thứ rồi sẽ trở thành hiện thực không xa nữa.”
“Và cô không nghĩ rằng những niềm tin như vậy xung đột với quá trình tiến hóa sao?”
“Không”, Sienna đáp lại không chút do dự. “Con người đã tiến hóa dần dần qua nhiều thiên niên kỷ, sáng tạo ra những công nghệ mới trong suốt chặng đường đó - xoay khúc cây để tạo lửa, phát triển nông nghiệp để nuôi sống bản thân, chế ra vắc xin để chống bệnh tật, và giờ đây, tạo ra những công cụ di truyền giúp điều khiển cơ thể, để chúng ta có thể sống sót trong một thế giới đang thay đổi.” Cô ngừng lại. “Tôi tin ngành điều khiển di truyền chỉ là bước đi tiếp theo trong chuỗi dài những tiến bộ của con người.”
Sinskey im lặng, chìm trong suy nghĩ. “Cho nên cô tin chúng ta cần dang rộng vòng tay đón nhận những công cụ này.”
“Nếu chúng ta không đón nhận chúng”, Sienna đáp, “thì chúng ta không xứng đáng với cuộc sống, chẳng khác gì những người ăn lông ở lỗ chịu rét đến chết vì sợ lửa”.
Những lời của cô dường như đọng lại trong phòng một lúc lâu trước khi có bất kỳ ai lên tiếng.
Chính Langdon là người phá tan không khí yên ắng. “Không phải lỗi thời”, anh bắt đầu nói, “nhưng dựa trên lý thuyết của Darwin, anh không thể không đặt câu hỏi về mức độ sáng suốt của hành động tăng tốc quá trình tiến hóa tự nhiên.”
“Robert”, Sienna nhấn mạnh, “ngành điều khiển di truyền không phải tăng tốc quá trình tiến hóa. Nó là một chuỗi sự kiện tự nhiên. Cái anh quên mất chính là quá trình tiến hóa đã tạo ra Bertrand Zobrist. Trí tuệ vượt trội của anh ấy là sản phẩm của quá trình mà Darwin đã mô tả… quá trình tiến hóa theo thời gian. Tầm hiểu biết hiếm có của Bertrand đối với di truyền học không phải là một cảm hứng thần thánh vụt đến… đó là sản phẩm của nhiều năm tiến hóa về mặt tri thức của con người”.
Langdon im lặng, rõ ràng đang suy ngẫm về quan điểm đó.
“Và là một người tin vào thuyết Darwin”, cô nói tiếp, “anh biết rằng tự nhiên luôn tìm ra cách kiểm soát dân số loài người bằng dịch bệnh, nạn đói, lũ lụt. Nhưng để em hỏi anh điều này - lần này lẽ nào tự nhiên lại không thể tìm được một cách khác sao? Thay vì giáng xuống chúng ta những thảm họa và thống khổ kinh hoàng… có lẽ tự nhiên, thông qua quá trình tiến hóa, đã tạo ra một nhà khoa học phát minh ra một phương pháp khác hẳn nhằm giảm bớt dân số chúng ta theo thời gian. Không phải những dịch bệnh. Không phải chết chóc. Chỉ là một giống loài hài hòa với môi trường của mình…”
“Sienna”, Sinskey ngắt lời. “Đã muộn rồi. Chúng ta cần phải đi. Nhưng trước khi lên đường, tôi cần nói rõ thêm một điều. Tối nay cô nói đi nói lại với tôi rằng Bertrand không phải một kẻ xấu… rằng anh ta yêu nhân loại, và anh ta chỉ tha thiết muốn cứu loài người chúng ta đến mức dám thực hiện những biện pháp táo bạo như vậy.”
Sienna gật đầu. “Mục đích biện minh cho phương tiện”, cô nói, trích dẫn lại câu nói của nhà lý thuyết chính trị người Florence khét tiếng Machiavelli (61).
(61) Niccolò Machiavelli (1469-1527) là một nhà ngoại giao, nhà triết học chính trị, nhạc sĩ, nhà thơ, nhà soạn kịch, một trong những người sáng lập nền khoa học chính trị hiện đại. Ông được biết đến với các luận thuyết về chủ nghĩa hiện thực chính trị và chủ nghĩa cộng hòa. Ông còn là một nhân vật nổi bật của thời Phục Hưng Ý với vai trò đại pháp quan thứ hai của Cộng hòa Florence từ tháng Sáu năm 1498.
“Vậy hãy cho tôi biết”, Sinskey nói, “cô có tin rằng mục đích biện minh cho phương tiện không? Cô có tin rằng mục tiêu cứu thế giới của Bertrand đủ cao quý để bảo đảm cho việc giải phóng loại vi rút này không?”.
Không khí im lặng căng thẳng bao trùm căn phòng.
Sienna khom người sát lại bàn, nét mặt đầy thuyết phục. “Tiến sĩ Sinskey, như tôi đã nói, tôi tin hành động của Bertrand là rất khinh suất và cực kỳ nguy hiểm. Nếu có thể ngăn chặn được anh ấy, tôi đã làm vậy ngay lập tức. Tôi cần bà tin tôi.”
Elizabeth Sinskey đứng dậy và dịu dàng nắm lấy cả hai tay Sienna. “Tôi tin cô, Sienna. Tôi tin tất cả mọi điều cô nói với tôi.”

Chương 103
Không khí trước buổi bình minh tại sân bay tại sân bay Statürk khá lạnh và đẫm sương. Một màn sương mỏng phủ xuống, bao kín đường nhựa quanh nhà ga riêng này.
Langdon, Sienna, và Sinskey đến đây bằng xe hơi và được một nhân viên WHO đón sẵn bên ngoài, giúp họ ra khỏi xe.
“Chúng tôi đã sẵn sàng, thưa bà”, người đàn ông nói, dẫn cả ba người vào một tòa nhà khiêm nhường.
“Thế còn chuyện thu xếp cho ông Langdon sao rồi?”, Sinskey hỏi.
“Máy bay riêng tới Florence. Giấy tờ đi lại tạm thời của ông ấy đã để sẵn trên khoang.”
Sinskey gật đầu hài lòng. “Còn vấn đề khác mà chúng ta đã thảo luận?”
“Đã triển khai. Hành lý sẽ được chuyển đi sớm nhất có thể.”
Sinskey cảm ơn người nhân viên, lúc này đã băng qua sân nhựa đi về phía máy bay. Bà quay sang Langdon. “Anh có chắc không muốn đi cùng chúng tôi không?” Bà mỉm cười mệt mỏi, vuốt mái tóc bạc dài rồi vén ra sau tai.
“Xét tình hình”, Langdon dí dỏm đáp, “tôi không chắc một giáo sư nghệ thuật giúp được gì nhiều.”
“Anh đã giúp rất nhiều”, Sinskey nói. “Còn nhiều hơn anh biết đấy. Không kể ít nhất cũng là…” Bà ra hiệu về phía Sienna đi bên cạnh, nhưng cô gái trẻ đã không còn ở bên họ. Sienna tụt lại ra sau hai mươi thước, dừng lại bên một ô cửa sổ lớn và đăm đăm nhìn ra chiếc C-130 đang đợi sẵn, rõ ràng đang chìm trong suy tưởng.
“Cảm ơn đã tin tưởng cô ấy”, Langdon khẽ nói. “Tôi cảm thấy cô ấy không thường xuyên được nhận điều đó trong đời mình.”
“Tôi e rằng Sienna Brooks và tôi sẽ tìm thấy nhiều điều để học hỏi từ nhau.” Sinskey chìa tay ra. “Chúa ban phước cho anh, giáo sư.”
“Bà cũng vậy”, Langdon nói khi họ bắt tay. “Chúc may mắn ở Geneva.”
“Chúng tôi rất cần điều đó”, bà nói, và sau đó gật đầu về phía Sienna. “Tôi sẽ cho hai người vài phút. Chỉ để cô ấy đi khi anh thấy sẵn sàng thôi nhé.”
Khi băng qua nhà ga, Sinskey bất ngờ đút tay vào túi và móc ra hai nửa chiếc bùi vỡ, nắm chặt ở một bên tay.
“Xin đừng vứt bỏ cây gậy Asclepius đó”, Langdon gọi với theo sau bà. “Nó có thể sửa lại được mà.”
“Cảm ơn”, Sinskey vẫy tay đáp lại. “Tôi hy vọng mọi thứ đều như vậy.”
Sienna Brooks đứng một mình bên cửa sổ, nhìn ra những ngọn đèn dọc đường băng, trông như những bóng ma trong màn sương xuống thấp và những đám mây đang tích tụ. Trên đỉnh tháp điều khiển ở phía xa, lá cờ Thổ Nhĩ Kỳ bay phần phật đầy kiêu hãnh - lá cờ nền đỏ có hai biểu tượng cổ xưa là trăng lưỡi liềm và ngôi sao - những vết tích còn lại của đế chế Ottoman vẫn kiêu hãnh tung bay trong thế giới hiện đại này.
“Cược một lira Thổ Nhĩ Kỳ cho những gì em đang nghĩ nhé?”, một giọng nói trầm ấm vang lên sau cô.
Sienna không quay lại. “Bão đang đến.”
“Anh biết”, Langdon đáp khẽ.
Một lúc lâu sau, Sienna ngoảnh lại phía anh. “Em ước gì anh sẽ đi Geneva.”
“Rất vui khi nghe em nói như vậy”, anh đáp. “Nhưng em sẽ bận nói chuyện về tương lai. Điều cuối cùng em cần là một vị giáo sư đại học lỗi thời làm vướng chân em mà thôi.”
Cô nhìn anh khó hiểu. “Anh nghĩ anh quá già với em à?”
Langdon cười to. “Sienna, thực sự anh quá già với em còn gì!”
Cô có vẻ không thoải mái, cảm thấy xấu hổ. “Được rồi… nhưng ít nhất anh cũng biết tìm em ở đâu.” Cô cố gắng nhún vai rất dịu dàng. “ Ý em là… nếu anh muốn gặp lại em.”
Anh mỉm cười với cô. “Anh rất muốn điều đó.”
Cô cảm thấy tinh thần mình phấn chấn hơn một chút, nhưng giữa họ lại là một khoảng im lặng kéo dài, không ai trong số họ biết chắc cần phải nói tạm biệt như thế nào.
Lúc ngước nhìn Langdon, Sienna cảm thấy lòng trào dâng một cảm xúc kỳ lạ. Không báo trước, cô kiễng chân và đặt một nụ hôn lên môi anh. Khi lùi lại, đôi mắt cô đã rơm rớm lệ. “Em sẽ rất nhớ anh”, cô thì thầm.
Langdon mỉm cười âu yếm và vòng tay qua người cô. “Anh cũng sẽ nhớ em.”
Họ đứng một lúc lâu trong vòng tay nhau, cả hai đều không đành lòng dứt ra. Cuối cùng, Langdon lên tiếng. “Có một câu nói xưa… thường được cho là của Dante…” Anh ngừng lại. “Hãy nhớ tối nay… vì nó là khởi đầu của mãi mãi.”
“Cảm ơn anh, Robert”, cô nói, nước mắt bắt đầu trào ra. “Cuối cùng thì em cũng tìm ra mục tiêu của cuộc đời mình.”
Langdon kéo cô lại sát hơn. “Em luôn nói em muốn cứu thế giới, Sienna. Có lẽ đây là cơ hội cho em đấy.”
Sienna khẽ mỉm cười và quay đi. Khi một mình bước về phía chiếc C-103 đang đợi, Sienna ngẫm lại mọi việc đã xảy ra… mọi thứ có thể vẫn xảy ra… và toàn bộ tương lai phía trước.
Hãy nhớ tối nay, cô nhắc lại, vì nó là khởi đầu của mãi mãi.
Khi leo lên máy bay, Sienna cầu mong Dante nói đúng.
Chương 104
Vầng mặt trời vàng vọt buổi chiều đã lặn xuống phía trên Cung điện Duomo, phản chiếu lên lớp gạch men trắng của tháp chuông Giotto và đổ những cái bóng dài ngang qua Thánh đường Santa Maria del Fiore tráng lệ của Florence.
Đám tang của Ignazio Busoni vừa mới bắt đầu lúc Robert Langdon vào thánh đường và tìm được một chỗ ngồi, lòng cảm thấy vui vì Ignazio được tưởng niệm tại đây, trong nhà thờ không nhuốm màu thời gian mà ông ấy đã trông coi suốt nhiều năm trời.
Mặc dù bên ngoài tráng lệ, nhưng bên trong nhà thờ lớn của Florence lại bình dị, trống trải và chân phương. Tuy nhiên điện thờ có phần khổ hạnh dường như lại tỏa ra một không khí ca tụng trong ngày hôm nay. Từ khắp nơi trên toàn nước Ý, các quan chức chính phủ, bạn bè, và đồng nghiệp trong giới nghệ thuật đều đổ về nhà thờ này để tưởng nhớ một con người vui vẻ được họ gọi bằng cái tên trìu mến Tiểu Mái vòm.
Giới truyền thông đưa tin rằng Busoni qua đời trong khi đang làm công việc mình yêu thích nhất - đi dạo quanh Duomo lúc đêm khuya.
Không khí đám tang vui vẻ đến ngạc nhiên trong những lời nhận xét hài hước từ bạn bè và gia đình. Một đồng nghiệp cho biết chính Busoni đã tuyên bố rằng tình yêu của ông dành cho nghệ thuật Phục Hưng, chỉ có thể so sánh với tình yêu của ông dành cho món mì ông Bolognese và món caramen budino.
Sau lễ truy điệu, trong khi những người dự tang lễ gặp gỡ nhau và trìu mến nhớ lại những sự kiện trong cuộc đời của Ignazio thì Langdon đi vẩn vơ bên trong Duomo, chiêm ngưỡng công trình nghệ thuật mà Ignazio vô cùng yêu mến - bức Phán xét cuối cùng của Vasari - ngay bên dưới mái vòm, những ô cửa sổ kính hoa Donatello và Ghiberti, chiếc đồng hồ của Uccello, và những lối đi khảm gốm thường hay bị bỏ qua tô điểm cho sàn nhà.
Một lúc, Langdon mới nhận ra mình đang đứng trước một gương mặt quen thuộc - gương mặt của Dante Aleghieri. Bức tranh tường huyền thoại của Michelino khắc họa cảnh đại thi hào đứng trước núi Luyện ngục, tay cầm kiệt tác Thần khúc của mình xoay ra ngoài, như thể đang kính cẩn dâng lên.
Langdon không thể không tự hỏi Dante nghĩ gì nếu ông ấy biết được tác động mà thiên trường ca của mình tạo ra cho thế giới, nhiều thế kỷ sau này, trong một tương lai ngay cả chính thi hào của Florence cũng không bao giờ hình dung được.
Ông ấy đã tìm thấy một cuộc sống vĩnh hằng, Langdon nghĩ, nhớ lại những quan điểm của các triết gia Hy Lạp cổ đại về danh tiếng. Chừng nào người ta còn nhắc đến tên ngươi, ngươi sẽ chẳng bao giờ chết.
Lúc chập tối, Langdon băng qua Quảng trường Sant’Elisabetta và trở lại khách sạn Brunelleschi trang nhã của Florence. Trong căn phòng trên gác, anh có cảm giác thư thái hơn khi tìm thấy một gói đồ khá lớn đang đợi sẵn.
Cuối cùng, hàng ký gửi cũng đã đến nơi.
Gói đồ mình yêu cầu từ Sinskey.
Langdon vội vã cắt băng keo niêm phong và nhấc những thứ quý giá bên trong ra, cảm thấy an tâm khi thấy nó đã được gói ghém cẩn thận và có đệm kỹ bằng giấy bọc bọt khí.
Tuy nhiên, Langdon hết sức ngạc nhiên khi thấy gói đồ còn có thêm một số thức khác. Dường như Elizabeth Sinskey đã sử dụng uy lực rất lớn của mình để bù đắp cho anh nhiều hơn một chút so với yêu cầu. Gói đồ còn có cả quần áo của Langdon - chiếc áo sơ mi cài cúc, quần khaki, và chiếc áo khoác Harris Tweed tả tơi - tất cả được giặt giũ và là cẩn thận. Ngay cả đôi giày da thuộc đế mềm của anh cũng ở đây, được đánh bóng lại. Bên trong gói đồ, anh còn rất vui khi thấy chiếc ví của mình.
Tuy nhiên, khi phát hiện ra món đồ cuối cùng, Langdon đã bật cười. Phản ứng của anh lúc này có một nửa là tâm trạng nhẹ nhõm khi món đồ trở về, nửa còn lại là thái độ bẽn lẽn vì mình đã quá ư coi trọng nó.
Chiếc đồng hồ Chuột Mickey của mình.
Langdon lập tức đeo ngay chiếc đồng hồ cổ lỗ sỉ vào cổ tay. Cái cảm giác quai da ấm áp chạm vào da thịt khiến anh thấy bình yên một cách lạ lùng. Lúc mặc xong quần áo và xỏ hai chân vào đôi giày lười, Robert Langdon cảm thấy gần như lại được là chính mình.
Langdon ra khỏi khách sạn Brunelleschi, mang theo gói đồ trong một túi xách của khách sạn mà anh xin được từ nhân viên khuân vác đồ đạc. Buổi tối ấm áp khác thường, càng làm tăng thêm tính chất thi vị cho chặng đi bộ của anh dọc Đại lộ Calzaiuoli tới ngọn tháp duy nhất của Cung điện Vecchio.
Khi đến nơi, Langdon ký sổ tại bộ phận an ninh, nơi có tên của anh trong danh sách gặp Marta Alvarez. Anh được hướng dẫn tới Sảnh Năm trăm, lúc này vẫn rất đông du khách. Langdon đến vừa đúng giờ, cứ ngỡ sẽ gặp Marta tại lối vào, nhưng không nhìn thấy cô ấy đâu cả.
Anh chặn một thuyết trình viên đi ngang qua lại.
“Xin lỗi?”, Langdon hỏi bằng tiếng Ý. “Tôi có thể tìm Marta Alvarez ở đâu?”
Nhân viên thuyết trình cười tươi. “Bà Alvarez à?! Bà ấy không ở đây! Bà ấy sinh con rồi! Catalina! Xinh lắm!”
Langdon rất mừng khi nghe tin vui của Marta. “À… hay quá”, anh đáp. “Thật tuyệt vời!”
Khi nhân viên thuyết trình vội vã rời đi, Langdon tự hỏi sẽ phải làm gì với cái gói mình đang mang theo.
Anh nhanh chóng quyết định rồi băng qua Sảnh Năm trăm đông đúc, đi bên dưới bức tranh tường của Vasari và tiến thẳng vào khu bảo tàng trong cung điện, cố gắng không để bất kỳ nhân viên an ninh nào nhìn thấy.
Cuối cùng, anh cũng tới bên ngoài hành lang hẹp của bảo tàng. Khu vực này tối om, được chặn lại bằng cọc rào, một sợi dây chăng ngang, và tấm biển: CHIUSO/ ĐÓNG CỬA.
Langdon cẩn thận nhìn quanh, sau đó luồn mình dưới sợi dây để lọt vào không gian tối om ấy. Anh thò tay vào chiếc túi và cẩn thận lấy gói đồ ra, tháo lớp giấy bọt.
Khi lớp nhựa rơi ra, chiếc mặt nạ người chết của Dante lại trừng trừng nhìn anh. Lớp thạch cao dễ vỡ vẫn còn nguyên trong chiếc túi Ziploc, được lấy lại từ ngăn két tại nhà ga tàu hỏa Venice đúng như Langdon yêu cầu. Chiếc mặt nạ vẫn trong tình trạng nguyên vẹn, không hề hư hại trừ một chí tiết nhỏ: Có thêm một bài thơ, được khắc thành hình xoáy trôn ốc trang nhã ở mặt trái của nó.
Langdon nhìn chiếc tủ trưng bày cổ. Mặt nạ người chết của Dante được trưng mặt phải ra đằng trước… sẽ không ai chú ý cả.
Anh cẩn thận lấy chiếc mặt nạ từ trong túi Ziploc. Sau đó, rất nhẹ nhàng, anh đặt nó trở lại chiếc đế bên trong tủ trưng bày. Chiếc mặt nạ lại nằm vào vị trí, yên ổn trong lớp nhung đỏ quen thuộc.
Langdon đóng đủ và đứng một lúc, chăm chú nhìn bộ mặt nhợt nhạt của Dante, một sự hiện diện ma quái trong căn phòng tối om. Cuối cùng cũng trở về nhà.
Trước khi ra khỏi phòng, Langdon còn thận trọng tháo bỏ hết rào cọc, dây và tấm biển ở lối vào. Khi đi qua phòng trưng bày, anh dừng lại để nói với một thuyết trình viên nữa còn trẻ.
“Thưa cô?”, Langdon nói. “Đèn phía trên cái mặt nạ người chết của Dante cần phải được bật lên. Xem trong bóng tối khó quá.”
“Tôi xin lỗi”, người phụ nữ trẻ nói, “nhưng khu trưng bày đó đóng cửa. Mặt nạ người chết của Dante không còn ở đây nữa”.
“Kỳ cục nhỉ.” Langdon cố tạo vẻ mặt ngạc nhiên. “Tôi vừa xem nó mà.”
Gương mặt của cô gái tỏ ra hết sức bối rối.
Khi cô ấy chạy về phía hành lang, Langdon lặng lẽ rời khỏi bảo tàng.
Chương 105
Bên trên khoảng không mờ tối của vịnh Biscay mười hai nghìn mét, chiếc máy bay hãng Alitalia bay tới Boston đang nhắm về phía tây trong một đêm trăng sáng.
Trên khoang, Robert Langdon ngồi đọc mải mê một bản Thần khúc bìa mềm. Nhịp điệu du dương của trường ca, cùng với tiếng ầm ĩ của động cơ phản lực cuốn anh vào trạng thái thôi miên. Những lời văn của Dante dường như chảy tràn trên trang giấy, ngân nga trong tim anh, như thể chúng được viết ra cho riêng anh vào đúng thời khắc này.
Giờ đây Langdon biết rằng, trường ca của Dante không nói nhiều về nỗi thống khổ chốn địa ngục bằng nói về sức mạnh của tinh thần con người khi chịu đựng thử thách, cho dù có gian nan đến đâu.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]
Bên ngoài cửa sổ, vầng trăng tròn đã nhô lên cao, sáng rõ vằng vặc, làm mờ hết những thực thể khác trên bầu trời. Langdon nhìn ra không trung, đắm mình trong suy nghĩ về tất cả những gì đã diễn ra trong mấy ngày qua.
Những nơi tối tăm nhất của địa ngục dành riêng cho những kẻ giữ thái độ trung dung trong những thời kỳ khủng hoảng đạo đức. Với Langdon, ý nghĩa của lời này chưa bao giờ rõ ràng hơn thế: Trong những thời khắc nguy hiểm, không có tội lỗi nào lớn hơn sự chây ì.
Langdon biết rằng bản thân mình, cũng như hàng triệu người khác, cũng mặc tội lỗi này. Khi thế giới xảy ra những hoàn cảnh khó khăn, thái độ từ chối đã trở thành một đại dịch toàn cầu. Langdon tự hứa sẽ không bao giờ quên điều đó.
Khi chiếc máy bay lao vùn vụt về phía Tây, Langdon nghĩ đến hai người phụ nữ dũng cảm giờ này đang ở Geneva, đương đầu với tương lai và chèo chống qua những điều phức tạp của một thế giới đã thay đổi.
Bên ngoài cửa sổ, một dải mây xuất hiện phía chân trời, chầm chậm nhích qua bầu trời. cuối cùng lướt qua mặt trăng và che khuất ánh sáng của nó.
Robert Langdon thả người trên ghế, cảm thấy đã đến lúc chợp mắt.
Khi tắt ngọn đèn phía trên đầu, anh đưa mắt nhìn ra bầu trời lần cuối cùng. Bên ngoài, trong màn đêm tối đen vừa mới hình thành, thế giới đã biến đổi. Bầu trời trở thành một thảm tinh tú sáng lấp lánh.
Hết-END.

Xem tiếp:



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét