Tên Ebook: Hỏa Ngục
Tác Giả: Dan Brown
Thể Loại: Trinh Thám, Kinh Dị, Phiêu Lưu
Dịch Giả: Xuân Hồng
Công ty phát hành: Bách Việt
Nhà xuất bản: NXB Thời Đại
Ngày xuất bản: 03/2014
Chụp pic: Hamy, nguyenkienphuc
Type: Candy Lai, TMT, Trần Lê, Tiểu Quỷ, ppdoan, Dịch Tuyết, AngelMoon, nguyenkhanhly4895, thuyduong.thuyy, phamsam98
Soát chính tả: Hàn Yến Phương, Linh Nguyễn Thuỳ, Hai Nguyen, Tran Hue, Dzung Pham, Pham Anh, Sebastian Narvault
Nguồn: e-thuvienonline.blogspot.com
Hỏa Ngục - Dan Brown |
Những vết khâu trên da đầu Langdon lại giật nhoi
nhói khi anh và Sienna chen nhau vào phòng điều khiển video cùng với Marta và
hai nhân viên bảo vệ. Không gian chật chội này tương đương một cái buồng thay
lễ phục được cải tạo lại cùng với cả dãy ổ cứng đang chạy ro ro và các màn hình
máy tính. Không khí bên trong nóng đến ngột ngạt và sặc mùi khói thuốc lá hôi
rình.
Langdon lập tức cảm thấy những bức tường đang
đóng sập lại xung quanh mình.
Marta ngồi xuống trước màn hình video đang ở chế
độ chạy lại và hiển thị một hình ảnh đen trắng rất nhiễu của khu vực hành lang,
góc quay từ phía trên cửa. Thời gian hiển thị trên màn hình cho biết đoạn phim
được truyền tín hiệu từ giữa buổi sáng hôm qua – chính xác là hai mươi tư giờ
trước – rõ ràng là trước khi bảo tàng mở cửa và rất lâu trước khi Langdon cùng
vị Tiểu Mái vòm bí ẩn xuất hiện vào tối hôm đó.
Anh chàng bảo vệ tua nhanh đoạn video, và Langdon
nhìn thấy cả đoàn du khách ào ào kéo vào hành lang, di chuyển giật cục rất
nhanh. Từ góc nhìn này, không thể thấy được chiếc mặt nạ, nhưng rõ ràng nó vẫn
nằm trong tủ trưng bày vì du khách liên tục dừng lại để nhìn vào trong hoặc
chụp ảnh trước khi di chuyển tiếp.
Làm ơn nhanh lên nào, Langdon nghĩ thầm, vì biết
rõ cảnh sát đang trên đường tới. Anh băn khoăn không rõ anh và Sienna có nên
cáo lỗi và rút lui không, nhưng họ cần xem đoạn video này bởi bất kỳ điều gì
trên đoạn ghi hình này cũng sẽ trả lời cho rất nhiều câu hỏi liên quan đến
chuyện quái quỷ đang diễn ra lúc này.
Đoạn video vẫn tiếp tục chạy, giờ nhanh hơn, và
bóng chiều tà bắt đầu di chuyển ngang qua gian phòng. Khách du lịch ra vào cho
tới khi đám đông bắt đầu thưa dần, và rồi đột ngột biến mất hoàn toàn. Khi thời
gian ghi trên hình vượt qua 17 giờ, đèn đóm của bảo tàng đều tắt, và tất cả
chìm vào im lặng.
5 giờ chiều. Giờ đóng cửa.
“Cho chạy nhanh lên đi”, Marta yêu cầu, nhổm
người về phía trước và chăm chú nhìn lên màn hình.
Anh chàng bảo vệ cho đoạn video chạy tiếp, mốc
thời gian trôi rất nhanh, đột ngột cho tới lúc 10 giờ tối, đèn trong bảo tàng
nhấp nháy sáng lên.
Anh chàng bảo vệ vội cho đoạn băng chậm lại tốc
độ bình thường.
Một lúc sau, cái dáng bụng bầu quen thuộc của
Marta Alvarez xuất hiện trong hình. Theo sát cô ấy là Langdon, bước vào trong
chiếc áo khoác hiệu Harris Tweed Camberley, quần khaki, và đôi giày da lười
quen thuộc. Anh thậm chí còn nhìn rõ chiếc đồng hồ Chuột Mickey của mình lấp ló
bên dưới ống tay áo trong lúc di chuyển.
Mình ở đó… trước khi bị bắn.
Langdon cảm thấy cực kỳ lo ngại khi nhìn chính
mình đang làm mọi việc mà anh hoàn toàn không nhớ tí gì. Mình đã ở đây tối qua…
quan sát cái mặt nạ người chết ư? Bằng cách nào đó, trong khoảng thời gian từ
lúc đó đến giờ, anh lại để mất quần áo, chiếc đồng hồ Chuột Mickey và hai ngày
trong đời mình.
Khi đoạn video tiếp tục chạy, anh và Sienna chen
nhau lại gần sát phía sau Marta và những nhân viên bảo vệ để nhìn cho rõ hơn.
Đoạn phim không tiếng tiếp tục, cho thấy Langdon và Marta đến bên tủ trưng bày
và ngắm chiếc mặt nạ. Trong lúc đó, một cái bóng to lớn hiện ra tối sầm cả ô
cửa đằng sau anh, và một người đàn ông to béo xuất hiện trong khuôn hình. Ông
ta mặc bộ đồ màu nâu nhạt, tay xách cặp, và chật vật lắm mới lách được qua cửa.
Cái bụng to phưỡn của ông ta thậm chí làm cho bà bầu Marta cũng trở nên thon
thả.
Langdon nhận ra người đàn ông này ngay lập tức.
Ignazio thì phải?!
“Đó là ông Ignazio Busoni”, Langdon thì thào vào
tai Sienna. “Giám đốc của Museo dell’Opera del Duomo. Một người quen của tôi đã
vài năm rồi. Chỉ có điều tôi chưa từng nghe nói ông ấy được gọi là Tiểu Mái
vòm.”
“Cái tên quá hợp”, Sienna khẽ đáp.
Vài năm qua, Langdon đã tư vấn cho Ignazio về các
hiện vật và lịch sử liên quan đến II Duomo – Vương cung Thánh đường do ông ấy
chịu trách nhiệm – nhưng tham quan Cung điện Vecchio có vẻ nằm ngoài lĩnh vực
của Ignazio. Dẫu sao, Ignazio Busoni, ngoài việc là một nhân vật có ảnh hưởng
trong giới nghệ thuật Florence,
còn là một học giả rất mê Dante.
Một nguồn thông tin đáng tin cậy về cái mặt nạ
người chết của Dante.
Khi tập trung trở lại với đoạn video, Langdon
nhìn thấy Marta đang kiên trì đợi ở bức tường hậu của hành lang trong khi anh
và Ignazio nghiêng người phía trên rào chắn để có thể nhìn gần chiếc mặt nạ
nhất. Trong khi hai người đàn ông tiếp tục xem xét và thảo luận kéo dài vài
phút, có thể nhìn rõ Marta sốt ruột xem đồng hồ đeo tay ở phía sau lưng họ.
Langdon ước gì đoạn video an ninh có cả âm thanh.
Không biết mình và Ignazio nói những gì? Mình và ông ấy tìm kiếm cái gì?
Vừa lúc ấy, trên màn hình, Langdon bước qua rào
chắn và cúi sát xuống chiếc tủ, mặt anh chỉ cách lớp kính vài phân. Marta lập
tức can thiệp, rõ ràng nhắc nhở và Langdon lùi lại với thái độ biết lỗi.
“Xin lỗi vì tôi khắt khe như vậy”, Marta lên
tiếng, liếc mắt qua vai nhìn lại anh. “Nhưng như tôi đã nói với các vị, cái tủ
trưng bày là đồ cổ và cực kỳ mỏng manh. Chủ nhân của chiếc mặt nạ kiên quyết
yêu cầu chúng tôi bắt mọi người phải đứng sau rào chắn. Ông ấy thậm chí còn
không cho nhân viên của chúng tôi mở tủ khi ông ấy vắng mặt.”
Phải mất một lúc những lời nói của cô ấy mới được
lĩnh hội. Chủ nhân của chiếc mặt nạ ư? Langdon cứ đinh ninh chiếc mặt nạ là tài
sản của bảo tàng.
Sienna cũng ngạc nhiên không kém và lập tức xen
vào. “Hóa ra bảo tàng không sở hữu chiếc mặt nạ à?”
Marta lắc đầu, đưa mắt trở lại màn hình. “Một nhà
tài trợ giàu có đã đặt mua chiếc mặt nạ người chết của Dante từ bộ sưu tập của
chúng tôi nhưng để nó trưng bày vĩnh viễn ở đây. Ông ấy ra giá cho mượn rất
thấp, và chúng tôi vui vẻ chấp thuận.”
“Khoan đã”, Sienna lên tiếng. “Ông ấy trả tiền
mua mặt nạ… và để các vị giữ nó?”
“Thỏa thuận như vậy rất phổ biến”, Langdon nói.
“Kết hợp từ thiện mà – một cách cho các nhà tài trợ đem những khoản trợ cấp cho
bảo tàng mà không cần nêu rõ món quà là đồ từ thiện.”
“Nhà tài trợ đó là một người khác thường”, Marta
nói. “Một học giả thiên tài về Dante, nhưng hơi… nói thế nào nhỉ… cuồng?”
“Ông ấy là ai?”, Sienna hỏi, giọng điệu hờ hững
của cô vẫn không giấu được vẻ khẩn trương.
“Ai à?”, Marta cau mày, vẫn đăm đăm nhìn màn
hình. “Chà, có lẽ cô đã đọc về ông ấy trong các bản tin gần đây – tỉ phú người
Thụy Sĩ Bertrand Zobrist?”
Với Langdon, các tên chỉ láng máng quen, nhưng
Sienna túm vội lấy cánh tay Langdon và bóp mạnh, trông như thể cô vừa nhìn thấy
ma.
“Ồ, vâng…”, Sienna ngắc ngứ, mặt xám ngoét. “Bertrand Zobrist. Nhà sinh
hóa nổi tiếng. Kiếm bộn tiền nhờ các bằng sáng chế sinh học khi tuổi đời còn
rất trẻ.” Cô ngừng lại, nuốt khan. Cô nghiêng người và thì thầm với Langdon.
“Về cơ bản Zobrist đã sáng chế ra lĩnh vực điều khiển chuỗi phôi.”
Langdon không hiểu điều
khiển chuỗi phôi nghĩa là gì, nhưng nó có vẻ rất đáng ngại, đặc biệt là gần đây
lại xuất hiện những hình ảnh liên quan đến dịch hạch và chết chóc. Anh tự hỏi liệu
Sienna có biết nhiều về Zobrist không bởi vì cô đọc rất nhiều về lĩnh vực y
học… hoặc có lẽ vì cả hai đều là những người tuổi trẻ tài cao. Các nhà bác học có
theo dõi công việc của nhau không nhỉ?
“Lần đầu tiên tôi nghe nói
về Zobrist là vài năm trước”, Sienna giải thích, “khi ông ấy có một số tuyên bố
cực kỳ khiêu khích trên truyền thông về tăng trưởng dân số”. Cô ngừng lại,
gương mặt tối sầm. “Zobrist là người đề xướng Phương trình Khải huyền Dân số.”
“Sao cơ?”
“Về cơ bản thì đó là một sự
ghi nhận bằng toán học rằng dân số trên trái đất đang gia tăng, con người sống
thọ hơn, và các nguồn tài nguyên thiên nhiên của chúng ta đang cạn dần. Phương
trình dự đoán rằng xu hướng hiện tại không thể dẫn đến kết quả nào khác hơn là
sự sụp đổ tất yếu của xã hội. Zobrist công khai tiên liệu rằng loài người sẽ
không tồn tại thêm được một thế kỷ nữa… trừ phi chúng ta trải qua một sự kiện
tuyệt chủng quy mô lớn nào đó”, Sienna thở dài não nề và nhìn thẳng vào mắt
Langdon. “Thực tế, Zobrist từng được trích lời nói rằng ‘điều tốt đẹp nhất từng
xảy ra ở châu Âu chính là Cái chết Đen’.”
Langdon sữmg sờ nhìn cô. Anh
cảm thấy sởn tóc gáy, hệt như lúc hình ảnh chiếc mặt nạ dịch hạch vụt đến trong
tâm trí. Cả buổi sánh anh đã cố gắng chống chọi với ý niệm rằng tình trạng tiến
thoái lưỡng nan của anh hiện thời có liên quan đến một đại dịch chết người…
nhưng cái ý niệm ấy càng lúc càng khó đẩy lui.
Việc Bertrand Zobrist mô tả
Cái chết Đen như là điều tốt đẹp nhất từng đến với châu Âu hẳn là khá bất ngờ,
nhưng Langdon biết rằng nhiều sử gia cũng đã ghi chép lại những lợi ích kinh tế
xã hội lâu dài mà thảm kịch vào thế kỷ XIV này mang lại cho châu Âu. Trước khi
xảy ra đại dịch, đặc điểm của thời Trung cổ chính là tình trạng quá tải dân số,
nạn đói, và khó khăn về kinh tế. Cái chết Đen bất ngờ ập đến, dù rất kinh
khủng, đã giúp “làm vãn bầy người” một cách hiệu quả, tạo ra sự dư thừa thức ăn
và cơ hội, điều mà theo nhiều sử gia, chính là một tác nhân then chốt giúp mang
đến thời kỳ Phục Hưng.
Khi nghĩ đến biểu tượng nguy
hiểm sinh học trên ống nghiệm có chứa tấm bản đồ địa ngục đã được chỉnh sửa của
Dante, một ý nghĩ đáng sợ bám riết lấy anh: Cái máy chiếu nhỏ xíu kỳ lạ do một
ai đó tạo ra… Bertrand Zobrist – một nhà hóa sinh và cực kỳ mê cuồng Dante –
giờ đây có lẽ là một ứng cử viên rất hợp lý.
Cha đẻ của giải pháp điều
khiển chuỗi phôi di truyền. Langdon cảm thấy các mảnh ghép lúc này đang ráp
đúng vị trí. Nhưng tiếc thay bức tranh đang định hình lại càng lúc càng đáng sợ.
“Tua nhanh phần này đi”,
Marta ra lệnh cho anh chàng bảo vệ, giọng đầy sốt ruột, muốn bỏ qua đoạn ghi hình
Langdon và Ignazio Busoni nghiên cứu cái mặt nạ để có thể tìm ra ai là người đã
đột nhập vào bảo tàng và đánh cắp nó.
Anh chàng bảo vệ nhấn nút
tua nhanh, và mốc thời gian tăng lên.
Ba phút… sáu phút… tám phút.
Trên màn hình, có thể nhìn
thấy Marta đứng phía sau hai người, liên tục phải thay đổi tư thế và nhìn đồng
hồ.
“Tôi rất xin lỗi vì chúng
tôi nói chuyện lâu như vậy!”, Langdon nói. “Trông chị không được thoải mái.”
“Là lỗi của tôi”, Marta đáp.
“Cả hai vị đều nhắc tôi nên về nhà và bộ phận bảo vệ sẽ cho các vị ra nhưng tôi
cảm thấy như thế là khiếm nhã.”
Đột nhiên, trên màn hình,
Marta biến mất. Anh chàng bảo vệ cho đoạn video trở lại tốc độ bình thường.
“Không sao”, Marta nói. “Tôi
nhớ có đi vào nhà vệ sinh.”
Anh chàng bảo vệ gật đầu và
lại bấm nút tua nhanh, nhưng anh ta chưa kịp bấm thì Marta đã túm lấy tay anh
ta. “Khoan đã!”
Cô ấy nghiên đầu và đăm đăm
nhìn màn hình vẻ không hiểu.
Langdon cũng đã nhìn thấy.
Sao lại như vậy?!
Trên màn hình, Langdon vừa
thò tay vào túi chiếc áo khoác vài tweed của mình, lôi ra một đôi găng tay phẫu
thuật và lồng vào hai tay.
Cùng lúc đó, Tiểu Mái vòm
chuyển ra vị trí phía sau Langdon, mắt chăm chú nhìn ra hành lang nơi Marta mới
đi khỏi một lúc trước để vào nhà vệ sinh. Một lúc sau, người đàn ông to béo gât
đầu với Langdon theo nghĩa dường như là hiện trường không còn ai.
Bọn mình làm quái gì thế
nhỉ?!
Langdon nhìn chính mình trên
màn hình trong khi đôi tay đeo găng của anh vươn ra chạm vào mép cửa tủ… sau
đó, rất nhẹ nhàng, kéo về phía sau cho tới khi cái bản lề cổ xưa xê dịch và
cánh cửa từ từ mở ra… để lộ ra chiếc mặt nạ người chết của Dante.
Marta Alvarez há hốc miệng
kêu thành tiếng đầy kinh hãi và đưa tay lên che mặt.
Cùng chung nỗi hãi hùng với
Marta, Langdon không tin vào mắt mình khi nhìn thấy chính anh thò tay vào tủ,
nhẹ nhàng dùng cả hai tay nắm lấy chiếc mặt nạ người chết của Dante và nhấc nó
ra.
“Lạy Chúa lòng lành!”, Marta
bật kêu, đứng phắt dậy và xoay lại đối diện với Langdon. “Chính anh làm việc đó
ư? Tại sao?”
Langdon chưa kịp trả lời thì
một nhân viên bảo vệ đã rút ra một khẩu Beretta đen xì và chĩa thẳng vào ngực
anh.
Lạy Chúa!
Robert Langdon nhìn trân
trân họng súng của người bảo vệ và cảm thấy căn phòng nhỏ xíu này đang đóng kín
lại quanh anh. Marta Alvarez đã đứng hẳn dậy, trợn trừng nhìn anh, mặt toát lên
nổi hoài nghi và bị phản bội. Trên màn hình an ninh phía sau lưng cô ấy, lúc
này Langdon đang giơ chiếc mặt nạ ra phía ánh sáng xem xét nó.
“Tôi chỉ lấy nó ra một lát thôi”,
Langdon thanh minh, lòng thầm mong điều đó là sự thật. “Ignazio khẳng định với
tôi chị sẽ không phiền lòng!”
Marta không trả lời. Cô ấy
như hóa đá, rõ ràng đang cố nghĩ xem tại sao Langdon lại nói dối mình… và thực
tế làm sao Langdon lại có thể bình tĩnh đứng bên cạnh và xem đoạn băng khi anh
biết nó sẽ tiết lộ những gì.
Mình không hiểu tại sao
chính mình lại mở cái tủ!
“Robert”, Sienna thì thào. “Nhìn xem! Anh tìm
thấy gì đó!” Sienna vẫn chăm chú xem đoạn băng, tập trung tìm cho ra câu trả
lời bất kể tình thế khó khăn của họ lúc này.
Trên màn hình, giờ đây Langdon đang giơ cao chiếc
mặt nạ và nghiêng nó về phía ánh sáng, sự chú ý của anh rõ ràng tập trung vào
một thứ gì đó rất đáng quan tâm ở phía sau món đồ.
Từ góc máy quay này, tiếng tích tắc, chiếc mặt nạ
che khuất một phần gương mặt Langdon ở vị trí làm cho đôi mắt của Dante trùng
khớp với của Langdon. Anh lại nhớ lời tuyên bố - chỉ có thể nắm bắt được chân
lý qua cặp mắt chết chóc - và cảm thấy lạnh toát.
Langdon không rõ mình đang kiểm tra cái gì ở phía
sau chiếc mặt nạ nhưng ở thời khắc đó trong đoạn video, khi anh chia sẻ phát
hiện của mình với Ignazio, người đàn ông béo ị ấy giật lùi lại, lập tức lần tìm
cặp kính và quan sát lần nữa… rồi lần nữa. Ông ấy bắt đầu lắc đầu loa lịa và đi
tới đi lui trong hành lang đầy kích động.
Đột nhiên, cả hai người ngẩng lên, rõ ràng đã
nghe thấy tiếng gì đó trong hành lang – chắc chắn là Marta đang từ nhà vệ sinh
quay lại. Langdon vội vàng lôi từ trong túi áo mình ra một chiếc túi Ziploc
lớn, nhét chiếc mặt nạ người chết vào và nhẹ nhàng trao nó cho Ignazio. Ông này
lại cất nó vào cặp của mình, với vẻ hơi do dự. Langdon nhanh nhẹn đóng ô cửa
kính trên chiếc tủ trưng bày lúc này trống trơn, và hai người nhanh chóng sải
bước ra sảnh để đón đầu Marta trước khi cô ấy phát hiện ra vụ trộm cắp của họ.
Cả hai người bảo vệ lúc này đều đã chĩa súng vào
Langdon.
Marta như đứng không vững, phải vịn vào bàn làm
điểm tựa. “Tôi không hiểu!”, cô ấy kêu lên. “Anh và Ignazio Busoni đã đánh cắp
chiếc mặt nạ người chết của Dante ư?!”
“Không!”, Langdon khăng khăng, cố hết sức chống
chế. “Chúng tôi đã được chủ nhân của nó cho phép mang chiếc mặt nạ ra khỏi tòa
nhà.”
“Được phép của chủ nhân ư?”, cô ấy hỏi vặn. “Từ Bertrand Zobrist sao!?”
“Phải! Ông Zobrist đồng ý để
chúng tôi kiểm tra một số dấu vết ở phía sau! Chúng tôi gặp ông ấy chiều hôm
qua!”
Ánh mắt Marta bắn ra những
tia lửa. “Giáo sư, tôi chắc chắn rằng anh không hề gặp Bertrand Zobrist chiều
hôm qua.”
“Chắc chắn chúng tôi đã…”
Sienna đặt một tay lên cánh tay Langdon.
“Robert…”, cô thở dài ủ rũ. “Cách đây sáu ngày, Bertrand Zobrist đã lao xuống
từ đỉnh tháp Badia, cách đây chỉ vài tòa nhà thôi.”
Vayentha bỏ lại chiếc mô tô của mình ngay phía
bắc Cung điện Vecchio và đi bộ men theo đường bao của Quảng trường Signoria.
Trong lúc len lỏi qua điện thờ ngoài trời của khu Longia dei Lanzi, ả không thể
không chú ý thấy rằng tất cả bức tượng dường như đều đang thể hiện các sắc thái
của một chủ đề duy nhất: Những biểu hiện đầy bạo lực của việc nam giới áp chế phụ
nữ.
Bắt cóc đám phụ nữ Sabine.
Chiếm đoạt Polyxena.
Perseus cầm thủ cấp Medusa.
Hay đấy, Vayentha nghĩ thầm, kéo mũ trùm xuống
mắt và len lỏi qua đám đông để tiến về lối vào cung điện, nơi đang đón những du
khách đầu tiên trong ngày. Theo tất cả dấu hiệu ở đây thì mọi việc vẫn hết sức
bình thường tại Cung điện Vecchio này.
Không có cảnh sát, Vayentha nghĩ. Ít nhất là chưa có.
Ả kéo cao áo khóa áo khoác
lên tới cổ để bảo đảm không làm lộ vũ khí của mình và bước thẳng qua cổng vào.
Theo những tấm biển chỉ dẫn tới II Museo di Palazzo, ả băng qua hai tiền sảnh
lộng lẫy và theo một cầu thang đồ sộ leo lên tầng hai.
Trong lúc lên tầng0, ả nhớ
lại nội dung trao đổi của cảnh sát.
Bảo tàng Cung điện Vecchio…
Dante Alighieri.
Chắc chắn Langdon ở đó.
Những tấm biển của bảo tàng
dẫn Vayentha vào một khu trưng bày rộng lớn được trang hoàng vô cùng ấn tượng –
Sảnh Năm trăm – nơi nhiều nhóm du khách chen lẫn vào nhau, chiêm ngưỡng những
bức bích họa đồ sộ trên tường. Vayentha chẳng thèm bận tâm đến chuyện chiêm
ngưỡng nghệ thuật ở đây nên nhanh chóng xác định một tấm biển khác ở góc bên
phải căn phòng, chỉ thẳng lên một lối cầu thang.
Trong khi băng qua gian
sảnh, ả chú ý thấy một nhóm sinh viên đại học tụ tập quanh một tác phẩm điêu
khắc duy nhất, cười nói và chụp ảnh.
Tấm biển đề: Hercules và
Diomedes.
Vayentha nhìn những bức
tượng và lầm bầm.
Bức điêu khắc mô tả hai nhân
vật anh hùng trong thần thoại Hy Lạp – cả hai đều hoàn toàn khỏa thân – đang
quấn lấy nhau trong một keo đấu vật. Hercules đang kẹp Diomedes cắm đầu xuống
đất, chuẩn bị quẳng anh ta đi, trong khi Diomedes đang tóm chặt cơ quan sinh
dục của Hercules, như thể muốn nói “Ngươi có chắc ngươi muốn quẳng ta đi không?”
Vayentha nhăn mặt. Câu
chuyện về việc nắm được cà của người khác.
Ả rời mắt khỏi bức tượng
quái lạ và nhanh chóng leo lên cầu thang về phía khu vực bảo tàng.
Ả lên đến một ban công rất
cao nhìn xuống sảnh. Hơn chục du khách đang đợi bên ngoài lối vào bảo tàng.
“Tạm lùi giờ mở cửa”, một du
khách nhanh nhảu thông báo, ló mặt ra từ phía sau chiếc máy quay cá nhân của
mình.
“Có biết tại sao không?”, ả
hỏi.
“Không, nhưng nghe trong lúc
đợi chúng ta lại thấy quang cảnh rất tuyệt!”. Người đàn ông vung tay lướt qua
toàn bộ Sảnh Năm trăm bên dưới.
Vayentha bước lại mép lan
can và nhìn xuống gian phòng rộng thênh thang phía dưới. Dưới tầng, một sĩ quan
cảnh sát duy nhất đang tiến đến, chẳng có vẻ gì gấp gáp, cũng không mấy người
chú ý thấy anh ta đang băng qua phòng tới phía cầu thang.
Anh ta đến để lấy lời khai,
Vayentha nghĩ thầm. Tác phong uể oải của nhân viên công lực lúc lên cầu thang
cho thấy đây là một công việc rất bình thường – chẳng có vẻ gì giống như tình
trạng nháo nhào tìm kiếm Langdon ở cổng Porta Romana.
Nếu Langdon ở đây thì tại
sao người ta lại không vây kín tòa nhà nhỉ?
Hoặc Vayentha đã phỏng đoán
sai rằng Langdon ở đây, hoặc cảnh sát địa phương và Brũder chưa nhận ra và hợp
tác với nhau.
Lúc viên sĩ quan lên đến
đỉnh cầu thang và len lỏi về phía lối vào bảo tàng, Vayentha thản nhiên quay đi
và vờ đang chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ. Nghĩ đến lệnh từ chối cùng tầm ảnh
hưởng rộng rãi của Thị trưởng, ả không dại gì để bị nhận ra.
“Chú ý!”, một giọng nói vang
lên đâu đó.
Tim Vayentha như hụt một
nhịp khi viên sĩ quan dừng lại ngay sát sau lưng ả. Ả nhận ra giọng nói kia
phát ra từ bộ đàm của anh ta.
“Chờ lực lượng tiếp viện!”
giọng nói lại vang lên.
“Chờ lực lượng tiếp viện ư!”
Vayentha cảm thấy có gì đó vừa thay đổi.
Vừa lúc ấy, bên ngoài cửa
sổ, Vayentha nhận ra một vật màu đen đang lớn dần ở chân trời phía xa. Nó đang
từ hướng vườn Boboli bay về phía Cung điện Vecchio.
Cái máy bay, Vayentha nhận
ra ngay. Brũder biết rồi. Và anh ta đang tới lối này.
Điều phối viên của Consortium
Laurence Knowlton vẫn đang dằn vặt bản thân về chuyện gọi cho Thị trưởng. Anh
ta biết rõ hơn hết là nên đề nghị Thị trưởng xem trước đoạn video của ông khách
trước khi nó được đăng tải cho giới truyền thông vào ngày mai.
Nội dung quá không phù hợp.
Quy trình là nhất.
Knowlton vẫn còn nhớ y
nguyên “câu thần chú” mà các điều phối viên trẻ được học khi bắt đầu giải quyết
nhiệm vụ cho tổ chức. Không hỏi. Chỉ việc thực thi.
Đầy do dự, anh đặt chiếc thẻ
nhớ màu đỏ vào dãy công việc thực hiện trong sáng mai, lòng vẫn băn khoăn không
biết giới truyền thông sẽ phản ứng sao với thông điệp quái dị này. Liệu họ có
dám công bố nó không?
Dĩ nhiên họ sẽ làm. Nó do
Bertrand Zobrist gửi tới mà.
Zobrist không chỉ là một
nhân vật thành công đến kinh ngạc trong lĩnh vực hóa sinh, ông ta còn đang là
chủ đề thời sự gây xôn xao sau vụ tự sát vào tuần trước. Đoạn video dài chín
phút này sẽ giống một lời nhắn từ dưới mồ, và nội dung kinh khủng của nó sẽ làm
cho người ta gần như không thể tắt nó đi.
Đoạn video này sẽ lan đi chỉ
trong vài phút sau khi được tung ra.
Marta Alvarez đầy kích động lúc
bước ra khỏi phòng video chật hẹp, bỏ lại Langdon cùng cô em gái thô lỗ của anh
trước họng súng của những nhân viên bảo vệ. Marta bước tới một ô cửa sổ và nhìn
xuống Quảng trường Signoria, cảm thấy nhẹ nhõm khi nhận ra một chiếc xe cảnh
sát đỗ ở phía trước.
Đến lúc rồi!
Marta vẫn không thể nào hình
dung tại sao một người được kính nể trong lĩnh vực chuyên môn của mình như
Robert Langdon lại ngang nhiên lừaa dối cô như vậy, lợi dụng sự đặc cách trong
chuyên môn mà cô dành cho anh, và còn đánh cắp một hiện vật vô giá.
Ignazio Busoni còn hỗ trợ
anh ta nữa ư!? Thật không thể tưởng tượng nổi!
Với ý định nói vài suy nghĩ
của mình với Ignazio, Marta rút điện thoại di động và bấm số văn phòng của Tiểu
Mái vòm, nằm cách đó chỉ vài dãy nhà, tại bảo tàng Museo dell’Opera del Duomo.
Đường dây chỉ đổ chuông đúng
một lần.
“Văn phòng ông Ignazio
Busoni đây”, một giọng nữ quen thuộc vang lên.
Marta vốn thân thiện với thư
ký của Ignazio nhưng lúc này không có tâm trạng để buôn chuyện. “Eugenia, Marta
đây. Tôi cần nói chuyện với Ignazio.”
Đường dây ngừng bặt rồi đột
nhiên cô thư ký bật khóc nức nở.
“Có chuyện gì vậy?”, Marta
hỏi.
Eugenia thổn thức báo cho
Marta biết rằng cô ấy vừa đến văn phòng và biết tin Ignazio bị một cơn trụy tim
nặng đêm qua trong một con hẻm gần Duomo. Lúc khoảng nửa đêm ông ấy cố gọi cho
cấp cứu nhưng các nhân viên y tế đến không kịp. Busoni đã qua đời.
Hai chân Marta gần như khuỵu
xuống. Sáng nay cô đã nghe thời sự thông báo một quan chức không rõ danh tính
của thành phố qua đời đêm trước, nhưng cô không bao giờ nghĩ đó lại là Ignazio.
“Eugenia, nghe này”, Marta
vội nói, cố gắng giữ bình tĩnh trong lúc giải thích nhanh mọi việc cô vừa chứng
kiến trên các máy quay video của Cung điện – chiếc mặt nạ người chết của Dante
đã bị Ignazio và Robert Langdon đánh cắp và Langdon hiện đã bị bắt giữ.
Marta không biết mình trông
đợi phản ứng thế nào từ Eugenia, nhưng chắc chắn những gì cô nghe được nằm
ngoài dự kiến.
“Robert Langdon à!?”,
Eugenia hỏi. “Chị có ở cùng Langdon
không?!”
Eugenia dường như không chú ý tới điểm mấu chốt
của câu chuyện. Có, nhưng cái mặt nạ…
“Tôi cần nói chuyện ngay với anh ấy!”, Eugenia
gần như hét lên.
Bên trong phòng an ninh, đầu Langdon tiếp tục ong
ong trong khi những nhân viên bảo vệ chĩa vũ khí vào anh. Đột ngột, cánh cửa
bật mở và Marta Alvarez xuất hiện.
Qua cánh cửa để ngỏ, Langdon nghe rõ tiếng rít từ
xa của chiếc máy bay không người lái đâu đó bên ngoài, tiếng động cơ rền rĩ của
nọ đi kèm với tiếng còi hú đang đến gần. Họ đã tìm ra vị trí của bọn mình.
“Cảnh sát đang đến đấy”, Marta nói với mấy nhân
viên bảo vệ, rồi cử một người trong số họ ra hướng dẫn nhân viên công lực vào
bảo tàng. Người còn lại vẫn ở phía sau, họng súng chĩa vào Langdon.
Trước vẻ nngạc nhiên của Langdon, Marta đưa chiếc
điện thoại di động cho cho anh. “Có người muốn nói chuyện với anh”, cô nói,
giọng đầy bí ẩn. “Anh cần mang máy ra khỏi đây thì mới có sóng.”
Cả nhóm rời khỏi phòng điều khiển chật chội để ra
khu vực trưng bày ngay bên ngoài, nơi ánh nắng tràn vào qua những cửa sổ thật
lớn nhìn xuống khung cảnh ấn tượng của Quảng trường Signoria. Mặc dù vẫn đứng
trước họng súng nhưng Langdon cảm thấy nhẹ nhõm hơn hẳn khi thoát ra khỏi không
gian tù túng.
Marta ra hiệu anh lại gần cửa sổ và trao điện
thoại cho anh.
Langdon cầm lấy, vẻ ngơ ngác và đưa máy lên tai.
“Vâng? Tôi Robert Langdon đây.”
“Chào anh”, người phụ nữ nói bằng thứ tiếng Anh
nhát gừng, nặng trịch. “Tôi là Eugenia Antonucci, thư ký của Ignazio Busoni.
Anh và tôi, chúng ta gặp nhau tối qua khi anh đến văn phòng ông ấy.”
Langdon chẳng nhớ được gì. “Vâng?”
“Tôi rất lấy làm tiếc phải nói với anh chuyện
này, nhưng Ignazio, ông ấy đã chết vì đau tim tối qua rồi.”
Langdon bóp chặt chiếc điện thoại. Ignazio Busoni
đã chết rồi ư?!
Giờ người phụ nữ kia thổn thức khóc, giọng cô ấy
đượm buồn. “Ignazio gọi cho tôi trước khi chết. Ông ấy để lại cho tôi một tin
nhắn và bảo tôi dứt khoát phải để anh nghe. Tôi sẽ bật cho anh.”
Langdon nghe thấy mấy tiếng sột soạt, và một lúc
sau, đoạn ghi âm giọng Ignazio Busoni không ra hơi vang đến tai anh.
“Eugenia”, ông ấy thở hổn hển, rõ ràng đang trong
đau đớn. “Hãy bảo đảm rằng Robert Langdon nghe được tin nhắn này. Tôi đang gặp
chuyện. Tôi không nghĩ mình sẽ quay về đến văn phòng.” Ignazio rên rỉ và có một
quãng im lặng kéo dài. Khi bắt đầu nói tiếp, giọng ông ấy yếu hẳn. “Robert, tôi
hy vọng anh thoát. Chúng vẫn bám sau tôi… và tôi… tôi không được khỏe. Tôi đang
cố gắng gọi cho một bác sĩ, nhưng…” Lại một đoạn im lặng kéo dài, như thể Tiểu
Mái vòm đang cố tập trung chút sinh lực cuối cùng và sau đó… “Robert, nghe kỹ
này. Những gì anh tìm thấy đã được cất giấu an toàn. Cổng đã mở cho anh, nhưng
anh phải nhanh lên. Thiên đường Hai mươi lăm.” Ông ấy dừng lại một lúc lâu và
sau đó thì thào, “Chúc may mắn”.
Đến đó lời nhắn kết thúc.
Tim Langdon đập nhanh, và anh biết mình vừa chứng
kiến những lời cuối cùng của một người đang hấp hối. Việc những lời ấy được gửi
riêng tới anh chẳng giúp anh bớt lo lắng. Thiên đường Hai mươi lăm ư? Cổng đã
mở cho mình ư? Langdon suy nghĩ. Ý ông ấy là cánh cổng nào chứ?! Điều duy nhất
có chút ý nghĩa là Ignazio nói rằng chiếc mặt nạ đã được cất giấu an toàn.
Eugenia trở lại đầu dây. “Giáo sư, anh có hiểu
lời nhắn này không?”
“Có, nhưng chỉ một chút thôi.”
“Tôi có thể làm được gì không?”
Langdon suy nghĩ câu hỏi này một lúc lâu. “Hãy
bảo đảm không có ai khác nghe được tin nhắn này.”
“Kể cả cảnh sát à? Một thám
tử sắp đến để lấy lời khai của tôi.”
Langdon cứng người. Anh nhìn
người bảo vệ vẫn đang chĩa súng vào mình. Rất nhanh, Langdon xoay người về phía
cửa sổ và hạ giọng, thì thào thật nhanh, “Eugenia… chuyện này nghe có vẻ lạ
lùng, nhưng vì Ignazio, tôi cần cô xóa lời nhắn đó và đừng nói với cảnh sát rằng
cô vừa nói chuyện với tôi. Rõ chưa? Tình hình rất phức tạp và…”
Langdon cảm thấy họng súng
ấn vào sườn anh nên quay lại nhìn người bảo vệ, chỉ cách vài phân, đang chìa
bàn tay còn lại ra để đòi lại chiếc điện thoại của Marta.
Trên máy, có một khoảng im
lặng dài, và cuối cùng Eugenia nói, “Anh Langdon, sếp của tôi tin tưởng anh…
cho nên tôi cũng vậy.”
Rồi cô ấy tắt máy.
Langdon đưa điện thoại lại
cho người bảo vệ. “Ignazio Busoni chết rồi”, anh nói với Sienna. “Ông ấy chết
vì trụy tim đêm qua sau khi rời khỏi bảo tàng này”, Langdon ngừng lại. “Chiếc
mặt nạ vẫn an toàn. Ignazio đã giấu nó trước khi chết. Và tôi nghĩ ông ấy để
lại cho tôi một manh mối để tìm nó.” Thiên đường hai mươi lăm.
Hy vọng lóe lên trong mắt
Sienna, nhưng khi Langdon quay lại phía Marta, trông cô ấy đầy vẻ nghi ngờ.
“Chị Marta”, Langdon nói.
“Tôi có thể lấy lại chiếc mặt nạ của Dante cho chị, nhưng chị cần để chúng tôi
đi. Ngay lập tức.”
Marta cười to. “Tôi sẽ không
làm chuyện đó đâu. Anh là người đã đánh cắp chiếc mặt nạ! Cảnh sát đang đến…”
“Chị Alvarez”, Sienna nói
xen vào. “Tôi xin lỗi, nhưng chúng tôi đã không thành thật với chị.”
Langdon vờ kinh ngạc. Sienna
đang làm gì thế?! Anh hiểu hết câu nói bằng tiếng Ý đó.
Marta cùng ngỡ ngàng không
kém trước những lời của Sienna, mặc dù vẻ bất ngờ của cô dường như là do sự
thật rằng Sienna đột nhiên nói bằng thứ tiếng Ý trôi chảy và không lẫn vào đâu.
“Trước hết, tôi không phải
là em gái của anh Robert Langdon”, Sienna nói bằng giọng đầy hối lỗi.
Marta Alvarez lùi lại một
bước và khoanh tay nhìn kỹ người phụ nữ trẻ tóc vàng đứng trước mặt mình.
“Tôi xin lỗi”, Sienna tiếp
tục, vẫn nói bằng thứ tiếng Ý trôi chảy. “Chúng tôi đã nói dối chị nhiều
chuyện.”
Người bảo vệ cũng lúng túng
không kém Marta, mặc dù anh ta vẫn giữ nguyên vị trí.
Giờ Sienna nói thật nhanh,
vẫn bằng thứ tiếng Ý, kể với Marta rằng cô làm việc tại một bệnh viện ở
Florence, nơi Langdon đã đến vào tối hôm trước cùng với một vết thương do đạn bắn
vào đầu. Cô giải thích rằng Langdon chẳng nhớ được gì về các sự kiện đã khiến anh
phải vào bệnh viện, và rằng anh rất ngạc nhiên trước đoạn video an ninh chẳng
kém gì Marta.
“Cho chị ấy xem vết thương
của anh”, Sienna ra lệnh cho Langdon.
Khi nhìn thấy những vết khâu
bên dưới mái tóc rối bù của Langdon, Marta ngồi xuống bậu cửa sổ và đưa hai tay
ôm lấy mặt vài giây.
Suốt mười phút qua, Marta
không chỉ biết rằng chiếc mặt nạ người chết của Dante đã bị đánh cắp trong ca
trực của cô, mà còn biết rằng hai tên kẻ trộm lại chính là một vị giáo sư người
Mỹ được kính nể ở Florence mà cô tin tưởng, người vừa qua đời. Hơn nữa, cô nàng
Sienna Brooks, người Marta cứ đinh ninh là cô em gái người Mỹ mắt to của Robert
Langdon, hóa ra lại là một bác sĩ, đang thừa nhận đã nói dối và nói được tiếng
Ý trôi chảy.
“Chị Marta”, Langdon lên
tiếng, giọng trầm xuống và đầy thấu hiểu. “Tôi biết mọi việc thật khó tin,
nhưng tôi thật sự không nhớ gì đêm qua. Tôi không biết tại sao Ignazio và tôi
lại lấy chiếc mặt nạ.”
Marta cảm nhận được từ ánh
mắt anh rằng anh đang nói sự thật.
“Tôi sẽ trả lại chiếc mặt nạ
cho chị”, Langdon nói. “Tôi hứa với chị. Nhưng tôi không thể tìm lại nó trừ khi
chị để chúng tôi đi. Tình hình rất phức tạp. Chị cần để chúng tôi đi, ngay bây
giờ.”
Mặc dù rất muốn chiếc mặt nạ
vô giá sẽ trở về, nhưng Marta không hề có ý định để ai đi cả. Cảnh sát đâu
rồi?! Cô ấy nhìn xuống chiếc xe cảnh sát duy nhất trên Quảng trường Signoria.
Rất lạ là những nhân viên công lực vẫn chưa đến được bảo tàng. Marta cũng nghe
thấy âm thanh rì rì rất lạ tai ở phía xa, giống như tiếng ai đó đang sử dụng
cưa máy. Và nó càng lúc càng to hơn.
Cái gì thế nhỉ?
Giọng Langdon giờ đầy cầu khẩn. “Chị Marta, chị biết Ignazio
mà. Ông ấy không bao giờ lấy chiếc mặt nạ mà không có lý do chính đáng. Ở đây
có một bức tranh lớn hơn nhiều. Chủ nhân của chiếc mặt nạ, Bertrand Zobrist, là
một người rất phức tạp. Chúng tôi nghĩ có lẽ ông ta liên quan đến việc gì đó
rất kinh khủng. Tôi không có thời gian để giải thích tất cả, nhưng tôi xin chị
hãy tin chúng tôi.”
Marta chỉ đăm đăm nhìn.
Chẳng có chi tiết nào trong những lời này có ý nghĩa cả.
“Chị Alvarez”, Sienna nói,
nhìn thẳng vào Marta với ánh mắt lạnh lùng. “Nếu chị lo lắng cho tương lai nếu
mình, và của con chị, thì chị cần để chúng tôi đi, ngay bây giờ.”
Marta khoanh tay che chắn
trước bụng, cực kỳ không vui trước lời đe dọa thấy rõ nhằm vào đứa con chưa
chào đời của mình.
Tiếng rền rĩ điếc tai bên
ngoài nghe to hơn, và khi Marta ngó ra ngoài cửa sổ, cô không nhìn thấy nguồn
phát ra âm thanh đó, nhưng cô nhìn thấy một thứ khác.
Người bảo vệ cũng nhìn thấy
nó, mắt anh ta mở to.
Bên dưới Quảng trường
Signoria, đám đông đang rẽ ra để lấy lối cho một đoàn xe cảnh sát tiến vào mà
không hề hụ còi, đi đầu là hai chiếc xe thùng màu đen, lúc này phanh két lại
bên ngoài cửa cung điện. Những người lính mặc đồng phục đen nhảy ra, mang theo
súng lớn và chạy vào trong cung điện.
Marta cảm giác sợ hãi. Họ là
những kẻ nào vậy?!
Người bảo vệ cũng cảnh giác
không kém.
Âm thanh rền rĩ điếc tai đột
nhiên rít lên, và Marta lùi vội lại khi nhìn thấy một chiếc trực thăng nhỏ hiện
ra bên ngoài cửa sổ.
Chiếc máy bay bay vè vè cách
không đầy mười thước, gần như thể nó đang soi mói những người trong phòng. Đó
là một chiếc máy bay nhỏ, có lẽ chỉ dài một thước, với một ống màu đen dài gắn
phía trước. Cái ống đó chĩa thẳng về phía họ.
“Nó sắp bắn đâý!”. Sienna
hét lên. “Mọi người nằm xuống!” Cô ngồi thụp xuống bên dưới bậu cửa sổ, còn
Marta cứng người vì sợ hãi nhưng vẫn làm theo mọi người một cách bản năng. Anh
chàng bảo vệ cũng thụp xuống, chĩa khẩu súng vào chiếc máy bay nhỏ bé.
Trong tư thế lom khom của
mình bên dưới bậu cửa, Marta có thể nhìn rõ Langdon vẫn đứng im, nhìn sững
Sienna với vẻ khó hiểu, rõ ràng anh không tin rằng đang có mối nguy hiểm. Sienna
chỉ thụp xuống sàn một chớp mắt rồi bật dậy, nắm lấy cổ tay Langdon và bắt đầu
kéo anh về phía hành lang. Chỉ một khắc sau, họ đã cùng nhau tới lối vào chính
của tòa nhà.
Anh chàng bảo vệ bật nhổm
dậy và phủ phục như một tay súng bắn tỉa, nâng vũ khí của mình nhắm về phía
hành lang nơi hai người đang chạy đi.
“Đừng bắn!”, Marta hạ lệnh.
“Họ không thể thoát được đâu!”
Langdon và Sienna biến mất ở
góc nhà, và Marta biết chỉ vài giây nữa là hai người sẽ đâm sầm vào những nhân
viên công lực đang tiến vào từ hướng kia.
“Nhanh lên!”, Sienna giục,
vội vã cùng Langdon chạy ngược trở lại lối họ đi vào. Cô hy vọng họ có thể ra
đến cửa chính trước khi lao vào đám cảnh sát, nhưng giờ cô nhận ra cơ hội làm
việc này gần như bằng không.
Langdon cũng nhận thấy như
vậy. Không cần thông báo, anh dừng phắt lại tại một chỗ hành lang giao nhau khá
rộng. “Chúng ta sẽ không thể ra khỏi lối này đâu.”
“Đi nào!”, Sienna vội vã ra
hiệu cho anh chạy theo. “Robert, chúng ta không thể cứ đứng đực ở đây!”
Langdon có vẻ rối trí, ngó
sang bên trái, về phía hành lang ngắn dẫn tới một gian phòng nhỏ lờ mờ ánh
sáng. Tường của gian phòng treo đầy những tấm bản đồ cổ, và ở chính giữa phòng
là một quả cầu sắt khổng lồ. Langdon nhìn quả cầu kim loại và bắt đầu chậm rãi
gật gù, sau đó gật lia lịa.
“Lối này”, Langdon nói, lao
thẳng về phía quả cầu sắt.
Robert! Sienna chạy theo
nhưng có phán đoán ngược lại. Hành lang đó rõ ràng dẫn sâu hơn vào bảo tàng,
cách xa lối thoát.
“Anh Robert?”, cô hổn hển và
cuối cùng cũng bắt kip anh. “Anh đang đưa chúng ta đi đâu?!”
“Qua Armenia”, anh đáp.
“Cái gì?!”
“Armenia”,
Langdon nhắc lại, mắt anh sán chặt về phía trước. “Tin anh đi!”
Phía dưới một tầng nhà, lẫn trong đám du khách
khiếp sợ trên ban công Sảnh Năm trăm, Vayentha cúi đầu xuống khi đội SRS của
Brũder vượt qua ả vào trong bảo tàng. Dưới nhà, tiếng những cánh cửa đóng sầm
vang vọng khắp sảnh khi đám cảnh sát bịt kín khu vực.
Nếu Langdon thực sự ở đây, anh ta đã bị mắc kẹt.
Thật không may, chính Vayentha cũng vậy.
Với lớp ván ốp bằng gỗ sồi và phần trần gỗ ấm áp,
Sảnh Bản đồ thế giới giống như một thế giới tách biệt hẳn với nội thất bằng
thạch cao và đá ốp khô cứng của Cung điện Vecchio. Ban đầu là gian phòng cất
giữ mũ áo của tòa nhà, không gian rộng rãi này gồm hàng chục buồng nhỏ và tủ
từng được sử dụng để cất giữ hành trang của Đại Công tước. Ngày nay, các bức
tường được trang trí toàn bản đồ - năm mươi ba bức vẽ bằng tay trên da thuộc –
mô tả thế giới theo nhận thức vào những năm 1550.
Bộ sưu tập bản đồ vô cùng ấn tượng của sảnh này
còn nổi bật với sự hiện diện của một quả cầu khổng lồ ở chính giữa phòng. Vẫn
được biết đến với tên gọi Mappa Mundi, trái cầu cao một mét tám này từng là quả
cầu có thể quay được to nhất ở thời đại của nó. Người ta đồn rằng có thể xoay
tròn nó dễ dàng chỉ bằng một ngón tay. Ngày nay, quả cầu là trạm dừng chân cuối
cùng cho du khách sau khi đã đi hết chặng đường dài dằng dặc qua các phòng
trưng bày và tới một lối cụt, nơi họ vây quanh quả cầu và ra về theo đúng lối
họ đã vào.
Langdon và Sienna hổn hển chạy đến Sảnh Bản đồ.
Trước mặt họ, Mappa Mundi đứng sừng sững, nhưng Langdon thậm chí không liếc mắt
nhìn nó, anh hướng mắt tới những bức tường bên ngoài của gian phòng.
“Chúng ta cần tìm Armenia!”,
Langdon nói. “Tấm bản đồ Armenia!”
Lúng túng thấy rõ trước yêu
cầu của anh, Sienna lao bổ tới bức tường bên phải của gian phòng để tìm kiếm
tấm bản đồ Armenia.
Langdon lập tức bắt tay vào
việc tìm kiếm dọc bức tường bên trái, lần bước theo chu vi của gian phòng.
Ả Rập, Tây Ban Nha, Hy Lạp…
Mỗi quốc gia được khắc họa rất chi tiết, nếu như
ta nhớ rằng các bức vẽ này được làm ra từ hơn năm trăm năm trước, ở một thời kỳ
nhiều nơi trên thế giới còn chưa được vẽ trên bản đồ hoặc khám phá.
Armenia đâu nhỉ?
So với trí nhớ vô cùng chính xác của mình thì
những gì Langdon còn nhớ được về “chuyến tham quan các lối đi bí mật” tại nơi
này vài năm về trước rất mờ mịt, một phần do ly rượu Gaja Nebbiolo thứ hai mà
anh uống trong bữa trưa ngay trước chuyến tham quan. Thật khéo thay, từ
nebbiolo lại có nghĩa là “mờ sương”. Mặc dù vậy, lúc này Langdon vẫn nhớ đã
được từng xem một tấm bản đồ duy nhất trong gian phòng này - Armenia – tấm
bản đồ nắm giữ một đặc tính vô song.
Mình biết nó ở trong này, Langdon nghĩ, tiếp tục
lướt nhìn dãy bản đồ dường như bất tận.
“Armenia!”,
Sienna reo lên. “Đằng này!”
Langdon xoay lại và thấy cô đang đứng trong góc
sâu bên phải của gian phòng. Khi anh chạy đến, Sienna chỉ vào tấm bản đồ Armenia với vẻ mặt như nói, “Chúng ta tìm thấy Armenia rồi,
giờ làm sao?”
Langdon biết họ không có đủ thời gian để giải
thích. Thay vào đó, anh chỉ vươn tay, nắm lấy phần khung gỗ rất lớn của tấm bản
đồ, và kéo mạnh nó về phía mình. Toàn bộ tấm bản đồ trội tuột vào phòng, cùng
với một phần bức tường và ván ốp, để lộ ra một lối đi bí mật.
“Được rồi”, Sienna nói, giọng đầy ấn tượng. “Armenia là đây.”
Không chút do dự, Sienna vội vã bước qua lối vào,
chẳng chút e dè tiến vào không gian tối om phía trước. Langdon theo sau cô và
nhanh chóng kéo bức tường đóng lại phía sau họ.
Mặc dù nhớ không rõ lắm về chuyến tham quan các
lối đi bí mật, Langdon vẫn rất ấn tượng với lối đi này. Anh và Sienna vừa đi
qua, đúng như vậy, lớp kính trong suốt để bước vào Cung điện Vô hình – cái thế
giới bí mật tồn tại phía sau những bức tường của Cung điện Vecchio – một lãnh
địa tối mật mà chỉ duy nhất vị công tước đương trị vì thời đó cùng những người
thân cận nhất với ông ấy mới có thể tiếp cận được.
Langdon dừng lại một lúc bên trong khuôn cửa và
làm quen với không gian xung quanh họ - một hành lang bằng đá lờ mờ nhờ ánh
sáng tự nhiên yếu ớt lọt vào qua một loạt cửa sổ gắn chì. Lối đi này dẫn xuống
dưới năm mươi thước tới một cánh cửa gỗ.
Anh xoay sang bên trái, nơi có cầu thang nhỏ đi
lên nhưng bị chặn bằng một sợi xích. Tấm biển phía trên cầu thang để rõ:
USCITA VIETATA
Langdon leo thẳng lên cầu thang.
“Đừng anh!”, Sienna cảnh báo. “Nó nói ‘KHÔNG CÓ
LỐI RA’ đấy.”
“Cảm ơn”, Langdon nói kèm theo một nụ cười chế
giễu. “Anh đọc được tiếng Ý mà.”
Anh tháo sợi xích, mang trở lại cánh cửa bí mật
và nhanh nhẹn dùng nó để buộc chặt bức tường xoay. Anh luồn sợi xích qua tay
nắm cửa và quấn quanh một cái mấu cố định gần đó để cánh cửa không thể kéo mở
ra từ phía bên kia được nữa.
“Ồ”, Sienna bẽn lẽn nói. “Ý tưởng hay đấy.”
“Nó không giữ chân bọn họ được lâu đâu”, Langdon
nói. “Nhưng chúng ta sẽ không cần nhiều thời gian. Theo anh.”
Cuối cùng khi tấm bản đồ Armenia bị giật
tung, đặc vụ Brũder cùng lính của gã tràn vào hành lang hẹp để đuổi theo, nhắm
thẳng tới cánh cửa gỗ đầu bên kia. Khi cả bọn tràn ra ngoài, Brũder cảm thấy
một luồng khí lạnh quất thẳng vào mặt, đồng thời lóa mắt vì ánh nắng chói chang.
Gã bước lên lối đi bên ngoài, len lỏi theo phần mái
của cung điện. Mắt gã lần theo con đường dẫn thẳng tới một cánh cửa nữa, cách
đó khoảng năm mươi thước, và lại chui vào trong tòa nhà.
Brũder đánh mắt về bên trái lối đi, nơi phần mái
vòm cao ngất của Sảnh Năm trăm vươn lên như một trái núi. Không thể vượt qua.
Giờ Brũder nhìn sang bên phải, nơi lối đi bám sát một vách tường dựng đứng
chiếu thẳng xuống một giếng trời sâu hoắm. Chết ngay lập tức.
Mắt gã lại nhìn thẳng về phía trước. “Lối này!”
Brũder và người của gã tiến vội theo lối đi về
phía cánh cửa thứ hai trong khi chiếc máy bay thám thính lượn vòng tròn như một
con kền kền trên đầu.
Khi Brũder cùng người của gã xông qua cửa, tất cả
dừng phắt lại, gần như xô thẳng vào nhau.
Họ đang đứng trong một gian phòng bằng đá nhỏ xíu
không còn lối thoát nào khác ngoài cánh cửa mà cả bọn vừa bước qua. Chỉ có duy
nhất một cái bàn gỗ dựa vào tường. Phía trên đầu, những hình người kỳ quái được
mô tả trong các bức tranh vẽ trên trần như trợn mắt nhìn họ, vẻ giễu cợt.
Đây là một lối cụt.
Một người lính của Brũder
tiến vội lên và đọc lướt bảng thông tin trên tường. “Khoan đã”, anh ta nói. “Nó
nói có một finestra ở đây – một kiểu cửa sổ bí mật chăng?”
Brũder nhìn quanh nhưng
chẳng thấy ô cửa sổ bí mật nào cả. Gã bước lại và tự mình đọc tấm bảng.
Rõ ràng nơi này từng là
phòng làm việc riêng của Công nương Bianca Cappello và có một cửa sổ bí mật –
una finestra segrata – để Bianca có thể ngầm quan sát chồng bà phát biểu bên
dưới Sảnh Năm trăm.
Brũder đưa mắt tìm kiếm gian
buồng một lần nữa, và nhận ra một lỗ hổng gắn lưới mắt cáo rất nhỏ được giấu
kín ở bức tường bên. Chẳng lẽ bọn họ thoát qua lối đó?
Gã hùng hổ tiến lại và kiểm
tra lỗ hổng, có vẻ quá nhỏ cho một người bằng cỡ Langdon chui qua. Brũder áp
mặt vào tấm lưới và nhìn qua, để khẳng định chắc chắn rằng không có ai thoát
qua đường này. Ở phía bên kia tấm lưới là một khoảng trống chạy thẳng qua vài
tầng nhà, xuống sàn Sảnh Năm trăm.
Vậy thì bọn chúng biến đi
đằng quái nào?!
Lúc quay lại gian buồng đá
nhỏ xíu, Brũder cảm thấy toàn bộ tâm trạng chán chường của ngày hôm nay đang
trào dâng trong lòng. Trong một khoảnh khắc hiếm hoi không tiết chế được cảm
xúc, đặc vụ Brũder ngửa cổ và gầm lên một tiếng giận dữ.
Tiếng gầm làm inh tai trong không gian chật hẹp.
Từ phía dưới, trong Sảnh Năm trăm, đám du khách
cùng sĩ quan cảnh sát đều ngoái nhìn lên lỗ hổng gắn lưới mắt cáo trên tường
cao. Căn cứ vào những tiếng vọng lại, gian phòng làm việc riêng của Công nương
giờ đang được dùng làm chuồng nhốt một con thú hoang.
Sienna Brooks và Robert Langdon đứng khuất trong
bóng tối đặc quánh.
Mấy phút trước, Sienna nhìn thấy Langdon khôn
ngoan dùng sợi xích để giữ chặt tấm bản đồ Armenia có thể di chuyển được, rồi
mới chạy tiếp. Tuy nhiên, trước vẻ ngạc nhiên của cô, thay vì tiếp tục tiến vào
hành lang, Langdon lại leo lên cầu thang dốc đứng đề biển:
KHÔNG CÓ LỐI RA
“Anh Robert!”, cô thì thào vẻ bối rối. “Tấm biển
đó nói ‘Không có lối ra’ mà! Thêm nữa, em nghĩ chúng ta cần đi xuống!”
“Đúng thế”, Langdon nói, ngoái nhìn lại. “Nhưng
đôi khi chúng ta cần đi lên… để đi xuống.” Anh nháy mắt khích lệ cô. “Em còn
nhớ cái rốn của Satan không?”
Anh ấy đang nói chuyện gì nhỉ? Sienna bước lên
theo anh, cảm thấy mất phương hướng.
“Em đã từng đọc Hỏa Ngục chưa?”, Langdon hỏi.
Rồi… nhưng em nghĩ lúc em bảy tuổi.
Một lúc sau, cô sực nhớ ra. “Ồ, cái rốn của
Satan!”, cô nói. “Giờ em nhớ rồi.”
Phải mất một lúc lâu, nhưng giờ Sienna đã nhận ra
Langdon đang nói đến đoạn kết trong Hỏa Ngục của Dante. Trong mấy khổ thơ này,
để thoát ra khỏi địa ngục, Dante phải leo xuống cái bụng đầy lông lá của quỷ
Satan, và khi tới được rốn của Satan – được xem la trung tâm của trái đất – thì
lực hấp dẫn của trái đất đột ngột đổi hướng, và để tiếp tục leo xuống luyện
ngục, Dante lại phải tìm cách leo lên.
Sienna chẳng nhớ gì mấy về Hỏa Ngục ngoài nỗi
thất vọng khi chứng kiến những biến động đột ngột của lực hấp dẫn ở trung tâm
trái đất, vì rõ ràng tài năng của Dante không bao gồm việc am hiểu về tính chất
vật lý của các lực vector.
Họ lên đến đỉnh cầu thang, Langdon mở cánh cửa
duy nhất họ thấy ở đó, trên cửa có ghi:
SALA DEI MODELLI DI ARCHITECTTURA 21.
21 Sảnh Mô hình kiến trúc.
Langdon giục cô vào bên trong, đóng và chốt chặt
cửa lại phía sau.
Gian phòng nhỏ hẹp và trống trơn, chỉ có vài cái
hòm trưng bày các bản mẫu bằng gỗ những thiết kế kiến trúc của Vasari dành cho
phần nội thất của cung điện. Sienna không hề để tâm lắm đến các bản mẫu này.
Tuy nhiên, cô lại để ý thấy rằng gian phòng không hề có cửa lớn, cửa sổ và đúng
như thông báo… không có lối thoát.
“Vào giữa thế kỷ XIV”, Langdon thì thào, “Công
tước vùng Athens
lên nắm quyền lực tại cung điện và cho xây lối thoát bí mật này phòng trường
hợp bị tấn công. Nó được gọi là Cầu thang Công tước Athens, và dẫn xuống một cửa hầm nhỏ ở con
phố bên cạnh. Nếu chúng ta đi được tới đó, sẽ không ai nhìn thấy chúng ta thoát
ra”. Anh chỉ tay vào một bản mẫu. “Nhìn xem. Có nhìn thấy gì ở bên cạnh không?”
Anh ấy đưa mình lên đây để cho mình xem các bản
mẫu sao?
Sienna ném một cái nhìn lo lắng vào mô hình thu
nhỏ và thấy một cầu thang bí mật dẫn thẳng từ nóc cung điện xuống tận phố, được
giấu kín giữa các bức tường bên trong và bên ngoài của tòa nhà.
“Em nhìn thấy cầu thang rồi, Robert”, Sienna gắt,
“nhưng chúng hoàn toàn ở phía đối diện của cung điện. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ
tới được đó!”.
“Biết tin tưởng một chút đi em”, anh nói kèm theo
một nụ cười méo xệch.
Có tiếng đổ vỡ đột ngột vọng lại từ bên dưới cho
họ biết rằng tấm bản đồ Armenia
vừa bị giật tung. Họ đứng như trời trồng trong khi lắng nghe tiếng bước chân
của đám lính bước vào hành lang, không ai trong số đó nghĩ rằng con mồi của họ
sẽ còn leo lên cao hơn nữa… đặc biệt lại theo một cầu thang nhỏ xíu có gắn biển:
KHÔNG CÓ LỐI RA
Khi những tiếng động phía dưới lắng đi, Langdon
tự tin sải bước qua phòng trưng bày, lách qua các hiện vật, tiến thẳng đến thứ
trông như một cái tủ lớn ở bức tường đằng kia. Cái tủ khoảng một mét vuông và ở
vị trí cách sàn khoảng một mét. Không chút do dự, Langdon nắm lấy tay tủ và kéo
mạnh cánh cửa ra.
Sienna sửng sốt.
Không gian bên trong có vẻ như một khoảng trống
sâu, như thể cánh cửa tủ là một cánh cổng dẫn vào thế giới khác. Phía sau là
một vùng tối đen.
“Theo anh”, Langdon nói.
Anh cầm lấy chiếc đèn pin duy nhất treo trên bức
tường bên cạnh khung cửa. Sau đó, bằng sự nhanh nhẹn và mạnh mẽ đến ngạc nhiên,
vị giáo sư nhấc mình chui qua lỗ hổng và biến mất trong cái hang thỏ ấy.
Tầng áp mái, Langdon nghĩ thầm. Tầng áp mái ấn
tượng nhất trên trái đất.
Không khí bên trong khoảng trống tỏa ra toàn mùi
bụi và cũ kỹ, như thể hàng thế kỷ bụi thạch cao giờ đây trở nên mịn và nhẹ đến
mức không chịu nằm yên mà cứ lơ lửng trong không khí. Không gian rộng rãi ấy
phát ra những tiếng cọt kẹt và rền rĩ, khiến Langdon có cảm giác mình vừa chui
vào bụng một con thú đang còn sống.
Khi lấy được thăng bằng trên thanh vì kèo rộng
bản, anh giơ đèn pin lên, để cho quầng sáng xuyên qua bóng tối.
Trải dài trước mắt anh là một đường hầm dường như
bất tận chằng chịt một mạng lưới bằng gỗ gồm những hình tam giác và tứ giác
hình thành từ vị trí giao cắt của những trụ, xà, vì kèo cùng nhiều thành phần
kết cấu khác tạo thành bộ xương vô hình của Sảnh Năm trăm.
Phần không gian áp mái đồ sộ này là nơi Langdon
từng xem xét trong chuyến tham quan các lối đi bí mật mà anh còn nhớ mang máng
cách đây vài năm. Khuôn cửa sổ quan sát trông như chạn bát được khoét trong
tường của một gian phòng trưng bày mô hình kiến trúc nên khách khứa có thể xem
xét các mô hình vì kèo, sau đó soi đèn pin qua lỗ hổng và xem kết cấu thật.
Lúc này, Langdon đã ở bên trong phần xép áp mái,
anh ngạc nhiên khi thấy cấu trúc vì kèo này rất giống cấu trúc một kho thóc cũ
ở New England - một tập hợp trụ và vì kèo truyền thống với các mối nối kiểu
“mũi tên của thần Jupiter”.
Sienna cũng đã trèo qua lỗ hổng và đứng thăng
bằng trên một thanh rầm bên cạnh anh, thấy rõ là mất phương hướng. Langdon vung
vẫy đèn pin ra trước và sau để cho cô thấy cảnh tượng hết sức đặc biệt.
Từ đầu bên này, nhìn xuyên suốt chiều dài của
tầng áp mái chẳng khác gì nhìn qua một cái ống dài gồm những tam giác cân đang
chĩa thẳng, hướng về một điểm mất hút xa vời nào đó. Dưới chân họ, tầng áp mái
không hề có chỗ đặt chân, và các rầm đỡ nằm ngang của nó hoàn toàn lộ thiên,
trông giống như cả loạt thanh tà vẹt đường sắt khổng lồ.
Langdon chỉ thẳng xuống đường ống hun hút chạy
dài, nói bằng giọng cổ ghìm âm lại. “Không gian này nằm ngay phía trên Sảnh Năm
trăm. Nếu chúng ta tới được đầu bên kia, anh biết cách tới được Cầu thang Công
tước Athens.”
Sienna phóng ánh mắt đầy hoài nghi vào cái mê
cung rầm và vì kèo trải rộng trước mặt họ. Lối đi duy nhất họ thấy rõ để vượt
qua tầng áp mái chính là nhảy giữa các thanh giằng giống như bọn trẻ con vẫn
làm trên các đường tàu hỏa. Các thanh giằng rộng bản, mỗi thanh đều gồm vài xà
rầm bó lại với nhau bằng đai sắt lớn tạo thành một cụm chắc chắn, đủ rộng để
đứng thăng bằng bên trên. Tuy nhiên, thử thách là ở chỗ khoảng cách giữa các
thanh xà quá lớn khó có thể nhảy qua một cách an toàn.
“Em không thể nhảy giữa những thanh xà này được
đâu”, Sienna thì thào.
Langdon cũng ngờ rằng chính anh khó lòng làm
được, và một khi ngã xuống là cầm chắc cái chết. Anh soi cây đèn pin xuống
khoảng trống giữa các thanh rầm chống.
Phía dưới họ hơn hai mét, treo lên các thanh sắt
là một bề mặt nằm ngang phủ bụi dày – một kiểu sàn gì đó – mở rộng hút tầm mắt
họ. Mặc dù trông nó có vẻ rất chắc chắn nhưng Langdon biết mặt sàn đó cơ bản
gồm những giàn khung phủ bụi. Đây chính là “mặt sau” của phần trần treo trong
Sảnh Năm trăm – một bề mặt gồm những nẹp gỗ làm khuôn cho ba mươi chín bức
tranh của Vasari, tất cả được treo nằm ngang thành một dạng kết cấu giống như
nhiều mảnh vải may ghép lại.
Sienna chỉ xuống bề mặt phủ bụi bên dưới hai
người. “Chúng ta có thể leo xuống dưới kia và đi trên đó không?”
Không thể trừ khi cô muốn rơi qua một bức tranh
của Vasari để lọt xuống Sảnh Năm trăm.
“Thực tế có một cách hay hơn”, Langdon bình tĩnh
nói, không muốn làm cô sợ hãi. Anh bắt đầu di chuyển theo trụ chống về phía
xương sống trung tâm của tầng áp mái.
Trong lần tham quan trước, ngoài việc ngó qua cái
cửa sổ quan sát trong căn phòng mô hình kiến trúc, Langdon còn khám phá phần áp
mái bằng chân, chui vào đây qua một khuôn cửa ở đầu bên kia của tầng áp mái.
Nếu không bị rượu vang làm lu mờ trí nhớ thì Langdon chắc chắn có một lối đi
vững chãi chạy dọc theo xương sống trung tâm của tầng áp mái, giúp du khách
tiếp cận được một sàn quan sát rộng rãi ở chính giữa khu vực này.
Tuy nhiên, khi đến được trung tâm của trụ chống,
Langdon tìm thấy một lối đi chẳng giống gì với lối anh còn nhớ được trong lần
tham quan của mình.
Ngày hôm đó mình uống bao nhiêu Nebbiolo không
biết?
Thay vì một kết cấu vững chắc phục vụ du khách,
anh chỉ nhìn thấy một đống ván lỏng lẻo được đặt vuông góc ngang qua các thanh
xà để tạo thành lối đi tạm bợ - giống sợi dây làm xiếc hơn là cây cầu.
Rõ ràng, lối đi vững chắc dành cho du khách, bắt
nguồn từ đầu bên kia, chỉ dài tới sàn quan sát trung tâm mà thôi. Từ chỗ đó, du
khách lại theo đúng dấu chân của mình quay lại. Còn cái xà thăng bằng trước mặt
Langdon cùng Sienna lúc này chắc chắn được lắp để những người thợ có thể làm
việc tại khu vực áp mái còn lại ở đầu bên này.
“Giống như chúng ta đang đi trên ván vậy”,
Langdon nói, mắt nhìn những tấm ván hẹp với vẻ không lấy gì làm chắc chắn.
Sienna nhún vai, không hề lúng túng. “Cũng đâu có
tệ hơn Venice
vào mùa lụt.”
Langdon nhận ra cô có lý.
Trong chuyến đi nghiên cứu gần đây nhất của anh tới Venice, Quảng trường St.
Mark ngập sâu đến ba mươi centimet nước, và anh đã đi bộ từ khách sạn Danieli
tới Vương cung Thánh đường trên những tấm ván gỗ kê trên các khối xỉ than và
những cái xô úp ngược. Dĩ nhiên, khả năng làm ướt giày đế mềm rất khác với khả
năng ngã xuyên qua một kiệt tác thời Phục Hưng rồi tử vong.
Langdon gạt mọi ý nghĩ ra
khỏi tâm trí, bước lên tấm ván hẹp, cố tỏ ra quả quyết với hy vọng sẽ giúp trấn
an cảm giác lo lắng mà Sienna đang cố giấu. Tuy nhiên, bất chấp bề ngoài tự
tin, tim anh vẫn đập thình thịch khi di chuyển qua tấm ván đầu tiên. Lúc anh ra
đến gần giữa, tấm ván oằn xuống dưới sức nặng của anh, kêu răng rắc. Anh bước
nhanh chân hơn, và cuối cùng cũng tới được đầu kia tương đối an toàn trên trụ
giằng thứ hai.
Langdon thở ra một hơi rồi
quay lại để soi đèn sáng cho Sienna, định đưa ra mấy lời động viên cô. Nhưng rõ
ràng cô không cần đến. Quầng sáng của anh vừa soi tỏ tấm ván, cô đã vượt qua
hết chiều dài của nó với sự khéo léo tuyệt vời. Tấm ván gần như không oằn dưới
thân hình mảnh mai của cô, và chỉ trong mấy giây cô đã có mặt bên anh ở đầu kia.
Như được khuyến khích,
Langdon quay lại và tiếp tục tiến lên tấm ván tiếp theo. Sienna đợi cho tới khi
anh đã qua hẳn và có thể quay lại chiếu sáng đèn cho mình rồi mới đi theo, bám
sát anh. Bằng nhịp độ đều đặn, họ cứ đi tới. Hai bóng người lần lượt di chuyển
dưới ánh sáng của cây đèn pin duy nhất. Đâu đó bên dưới họ, tiếng bộ đàm cảnh
sát lạo xạo vọng lên qua lớp trần mỏng. Langdon thoáng mỉm cười. Chúng ta đang
lượn lờ ngay bên trên Sảnh Năm trăm, không trọng lượng và vô hình.
“Anh Robert?”, Sienna thì thào. “Anh nói Ignazio
bảo anh tìm chiếc mặt nạ ở đâu?”
“Ông ấy có dặn… nhưng dưới dạng một loại mật mã.”
Langdon nhanh chóng giải thích rằng Ignazio rõ ràng không muốn hé lộ về vị trí
của chiếc mặt nạ trong máy trả lời, và vì thế ông ấy chia sẻ thông tin theo một
hình thức khó hiểu hơn. “Ông ấy nói đến thiên đường, anh cho rằng là một cách
ám chỉ tới phần cuối của Thần khúc. Chính xác lời ông ấy là ‘Thiên đường Hai
mươi lăm’.”
Sienna ngước nhìn lên. “Chắc chắn ý ông ấy là Khổ
XXV.”
“Anh đồng
ý”, Langdon nói. Một khổ thơ cơ bản tương tự với một Chương sách, từ này gợi
nhớ lại truyền thống “hát” bằng miệng các thiên sử thi. Thần khúc chính xác gồm
một trăm khổ thơ, được chia làm ba phần.
Hỏa Ngục có từ khổ I đến XXXIV
Luyện ngục có từ khổ I đến XXXIII
Thiên đường có từ khổ I đến XXXIII
Thiên đường Hai mươi lăm, Langdon thầm nghĩ, rất
mong trí nhớ rành mạch của mình đủ mạnh để nhớ được toàn bộ phần nội dung. Mặc
dù không giúp tìm ra chính xác, chúng ta vẫn phải tìm một bản sách.
“Còn nữa”, Langdon tiếp tục. “Điều cuối cùng
Ignazio dặn anh là: ‘Cổng đã mở cho anh, nhưng anh phải nhanh lên’”. Anh ngừng
lại, quay lại nhìn Sienna. “Khổ XXV có lẽ gợi ý cho một địa điểm cụ thể ở Florence này. Rõ ràng là
một nơi nào đó có cổng.”
Sienna cau mày. “Nhưng thành phố này có đến hàng
chục cổng.”
“Phải, đó là lý do tại sao chúng ta phải đọc Khổ
XXV của Thiên đường.” Anh nhoẻn miệng cười đầy hy vọng với cô. “Nói gì thì nói,
em cũng không thuộc toàn bộ Thần khúc có phải không?”
Cô lặng thinh nhìn anh. “Mười bốn nghìn dòng chữ
Ý cổ mà em đọc khi còn là một đứa trẻ sao?” Cô lắc đầu. “Anh là một người có
trí nhớ kỳ dị, giáo sư ạ. Còn em chỉ là một bác sĩ.”
Trong khi họ tiếp tục đi tới, Langdon cảm thấy
hơi buồn vì sau tất cả những gì họ đã trải qua cùng nhau, Sienna rõ ràng vẫn
muốn giữ kín sự thật về trí thông minh tuyệt vời của mình. Cô ấy chỉ là một bác
sĩ thôi ư? Langdon bật cười khan. Cô nàng bác sĩ khiêm tốn nhất trên đời, anh
nghĩ thầm, nhớ lại tập báo cáo mình đã đọc về những tài năng đặc biệt của cô.
Tuy nhiên, dù rất tiếc nhưng không lấy gì làm lạ, tài năng ấy không bao gồm
việc nhớ trọn vẹn một trong những trường ca dài nhất trong lịch sử.
Họ im lặng đi tiếp, vượt qua vài xà rầm nữa. Cuối
cùng, Langdon nhìn thấy trong khoảng tối phía trước một hình khối khiến anh
phấn chấn. Sàn quan sát! Tấm ván không lấy gì làm chắc chắn mà họ đang bước bên
trên dẫn thẳng tới một kết cấu vững chãi hơn nhiều và có hẳn thành lan can. Nếu
trèo lên cái sàn đó, họ có thể tiếp tục đi cho tới khi thoát khỏi tầng áp mái,
qua cánh cửa, mà theo trí nhớ của Langdon, là rất gần Cầu thang Công tước Athens.
Đến gần sàn hơn, Langdon liếc nhìn xuống phần
trần treo hơn hai mét bên dưới. Cho đến lúc này, các ô trần nhà phía dưới đều
giống nhau. Tuy nhiên, ô trần phía trước rất lớn, lớn hơn nhiều so với những ô
khác.
Bức lễ phong thánh của Cosimo I đây mà, Langdon
đăm chiêu.
Ô trần hình tròn rất lớn này là bức vẽ quý giá
nhất của Vasari – ô trần trung tâm của Sảnh Năm trăm. Langdon thường trình
chiếu những hình ảnh của tác phẩm này cho sinh viên của mình, chỉ ra các chi
tiết giống với bức Lễ phong thánh của Washington trong điện Capitol ở Hoa Kỳ -
một tác phẩm khiêm nhường gợi nhắc rằng nước Mỹ non trẻ đã tiếp nhận nhiều thứ
từ Ý chứ không chỉ khái nhiệm về một nền Cộng hòa.
Nhưng hôm nay, Langdon quan tâm đến việc vượt
nhanh qua bức Lễ phong thánh hơn là nghiên cứu nó. Trong lúc tăng tốc độ di
chuyển, anh hơi ngoái đầu lại để nói khẽ với Sienna rằng họ đã gần đến đó.
Vừa làm như vậy, bàn chân phải của anh lỡ đà nên
không đặt đúng chính giữa tấm ván, chiếc giày đế mềm đi mượn của anh lệch ra
ngoài mép một nửa. Anh bị lệch khớp mắt cá chân và chúi về phía trước, nửa ngã,
nửa xô tới, cố gắng bước nhanh thêm một bước nữa để lấy lại thăng bằng.
Nhưng đã quá muộn.
Đầu gối anh va mạnh vào tấm ván, còn hai tay anh
vươn hết cỡ một cách tuyệt vọng về phía trước, cố gắng bíu lấy thanh giằng.
Chiếc đèn pin rơi lạch cạch xuống một khoảng trống tối om bên dưới, đập thẳng
vào lớp vải toan, mắc vào đó như một tấm lưới. Chân Langdon lắc mạnh, vừa hay
đẩy anh bám an toàn vào thanh giằng tiếp theo trong khi tấm ván trượt luôn
xuống dưới, rơi mạnh lên phần khung gỗ bao quanh tấm toan bức Lễ phong thánh
của Vasari sâu hơn hai mét phía dưới.
Tiếng động vang vọng khắp tầng áp mái.
Kinh hãi, Langdon lồm cồm bò dậy và quay lại phía
Sienna.
Trong ánh sáng lờ mờ của chiếc đèn pin bị rớt
đang nằm trên lớp toan phía dưới, Langdon có thể nhìn thấy Sienna đang đứng
trên thanh giằng phía sau mình, giờ đây bị mắc kẹt hẳn vì không còn cách nào
vượt qua. Mắt cô nói rõ những gì Langdon đã biết. Tiếng động của tấm ván rơi
chắc chắn đã tố giác bon họ.
Mắt Vayentha hướng thẳng lên phần trần nhà lộng
lẫy.
“Chuột trên tầng áp mái chăng?”, người đàn ông
cầm máy quay bông đùa khi nghe tiếng động dội xuống.
Những con chuột rất to, Vayentha nghĩ bụng, ngước
mắt nhìn bức tranh hình tròn ở chính giữa trần sảnh. Lúc này, một đám bụi nhỏ
đang trút xuống từ giữa các khung tranh, và Vayentha có thể nhìn rõ một chỗ
phình lên chút ít trên lớp toan, gần như thể có ai đó đang ấn nó xuống từ phía
trên.
“Có lẽ một sĩ quan cảnh sát nào đó đánh rơi khẩu
súng của anh ta từ sàn quan sát rồi”, người đàn ông nói, đưa mắt nhìn chỗ lồi
trên bức vẽ. “Chị nghĩ họ đang tìm cái gì? Chuyện này xem ra rất thú vị.”thì
“Một sàn quan sát à?”, Vayentha hỏi lại. “Thực tế
mọi người có thể lên trên đó à?”
“Chắc chắn rồi.” Anh ta làm hiệu về phía lối vào
bảo tàng. “Ngay phía trong cánh cửa kia là một cái cửa dẫn thẳng lên lối đi
trên tầng áp mái. Chị có thể nhìn thấy công trình vì kèo của Vasari. Thật phi
thường.”
Tiếng Brũder đột ngột lại ầm vang khắp Sảnh Năm
trăm. “Vậy thì họ biến đi đằng quái nào?”
Những lời nói của gã, cũng giống như tiếng gầm
thống thiết của gã lúc trước, phát ra từ sau tấm lưới ở tít trên bức tường cao
bên trái Vayentha. Rõ ràng Brũder đang ở trong một gian phòng sau tấm lưới cách
đúng một tầng nhà bên dưới phần trần trang trí của gian phòng.
Mắt Vayentha lại hướng chỗ phình ra ở tấm toan
trên đầu.
Đám chuột trên tầng áp mái, ả nghĩ thầm. Đang tìm
kiếm một lối thoát.
Ả cảm ơn người đàn ông cầm máy quay và nhanh chóng
tiếp cận vào bảo tàng. Cách cửa đã đóng, nhưng hiện giờ có rất nhiều cảnh sát
ra vào, ả đoán rằng nó không hề khóa.
Quả thật, trực giác của ả đã đúng.
Bên ngoài quảng trường, trong đám cảnh sát đang
hỗn loạn đổ tới có một người đàn ông trung niên đứng trong bóng râm của Loggia
dei Lanzi. Ông ta đang quan sát mọi việc với vẻ rất chăm chú. Người đàn ông đeo
một cặp kính hiệu Plume Paris, cà vạt họa tiết cánh hoa, và một bên tai có
chiếc khuyên vàng nhỏ xíu.
Vừa đứng quan sát cảnh náo loạn, ông ta vừa gãi
gãi cổ. Người đàn ông này bị mẫn ngứa suốt đêm, và có vẻ càng lúc càng nặng,
biểu hiện là những nốt nhỏ trên cằm, cổ, má và cả trên mắt.
Lúc mắt xuống móng tay mình, ông ta thấy rướm
máu. Ông ta rút một chiếc khăn ra và lau móng tay, đồng thời thấm cả những nốt
mụn rướm máu trên cổ và má.
Khi đã lau sạch, ông ta lại hướng ánh mắt về hai
chiếc xe thùng màu đen đỗ bên ngoài cung điện. Chiếc xe gần nhất có hai người
ngồi ở băng ghế sau.
Một trong số đó là gã lính có vũ trang mặc đồ đen.
Người kia là một phụ nữ tóc bạc đã đứng tuổi
nhưng rất xinh đẹp, đeo một chiếc bùa màu lam.
Người lính trông như thể đang chuẩn bị một ống
tiêm dưới da.
Bên trong chiếc xe thùng, tiến sĩ Elizabeth
Sinskey thẫn thờ nhìn ra ngoài về phía cung điện, tự hỏi không biết cuộc khủng
hoảng này đã tồi tệ đến mức độ nào rồi.
“Thưa bà”, một giọng nói trầm trầm vang lên bên
cạnh bà.
Bà lảo đảo quay lại phía người lính kèm bên mình.
Anh ta đang nắm lấy cánh tay bà và cầm một ống tiêm. “Xin hãy ngồi yên!”
Mũi kim tiêm nhọn hoắt xuyên vào da thịt bà.
Người lính đã hoàn thành mũi tiêm. “Giờ xin hãy
ngủ lại đi!”
Khi nhắm mắt lại, bà vẫn kịp nhận ra có một người
đàn ông đang nhìn bà từ trong bóng râm. Ông ta đeo một cặp kính thời trang và
chiếc cà vạt sành điệu. Khuôn mặt ông ta nổi mẫn và đỏ ửng. Bà nhất thời nghĩ
mình biết ông ta, nhưng khi mở mắt nhìn lại thì người đàn ông đã biến mất.
Trong bóng tối của tầng áp mái, Langdon và Sienna
giờ đã bị chia tách bởi một khoảng trống rộng tới sáu mét. Phía dưới họ hơn hai
mét, tấm ván bị rớt đã nằm yên trên phần khung gỗ căng tấm toan vẽ bức Lễ phong
thánh của Vasari. Cái đèn pin, lúc này vẫn sáng, nằm trên tấm toan, tạo thành
một vết lõm nhỏ, giống như một hòn đá nằm trên tấm bạt lò xo.
“Tấm ván sau lưng em”, Langdon thì thào. “Em có
thể bắc nó tới thanh giằng này không?”
Sienna nhìn tấm ván. “Không thể làm được mà không
khiến đầu kia rớt xuống tấm toan.”
Langdon rất e ngại rằng việc cuối cùng họ cần lúc
này là gây ra một cú va chạm nữa xuyên thủng tấm toan của Vasari.
“Em có ý này”, Sienna nói, di chuyển nghiêng dọc
theo thanh giằng, tiến tới bức tường bên. Langdon bám theo cây xà rầm của mình,
mỗi bước chân càng lúc càng trở nên nguy hiểm khi họ đánh liều rời xa khỏi
quầng sáng đèn pin. Lúc tới được bức tường bên, họ gần như đã chìm trong bóng
tối.
“Dưới đó”, Sienna thì thào, chỉ tay vào khoảng
tối phía dưới họ. “Gờ khung tranh. Nó được cố định vào bức tường bên. Nó sẽ đỡ được
em.”
Langdon chưa kịp phản đối thì Sienna đã tụt khỏi
thanh giằng, tận dụng các xà rầm đỡ làm cầu thang. Cô dễ dàng xuống được đến gờ
của phần khuôn gỗ. Nó kêu ken két, nhưng vẫn giữ nguyên. Sau đó, Sienna nhích
từng chút men theo tường, bắt đầu tiến về phía Langdon như thể đang nhích dần
ngang qua mép của một tòa nhà cao. Khuôn gỗ lại kêu ken két lần nữa.
Khác gì băng mỏng, Langdon thầm nghĩ. Cần ở gần
bờ.
Khi Sienna đi được một nửa đường, và đang tiếp
cận thanh giằng nơi anh đứng bên trên trong bóng tối, Langdon chợt thấy le lói
chút hy vọng rằng họ có thể thoát ra khỏi đây kịp lúc.
Đột nhiên, đâu đó trong bóng tối phía trước,
Langdon nghe thấy tiếng một cánh cửa đóng mạnh lại và những bước chân di chuyển
nhanh đang tiến lại theo lối đi. Quầng sáng của một ngọn đèn pin xuất hiện,
quét khắp tầng áp mái, càng lúc càng gần. Langdon cảm thấy niềm hy vọng của
mình vụt tắt. Có ai đó đang tiến tới, di chuyển dọc lối đi chính và chặn luôn
lối thoát của họ.
“Sienna, cứ đi đi”, anh thì thào, phản ứng theo
bản năng. “Cứ tiếp tục đi hết chiều dài bức tường. Có một lối thoát ở đầu kia.
Anh sẽ chạy cản đầu.”
“Đừng!”, Sienna thì thào gấp gáp. “Anh Robert,
quay lại đi!”
Nhưng Langdon đã di chuyển, quay ngược lại, men
theo thanh giằng về phía xương sống trung tâm của tầng áp mái, bỏ mặc Sienna
trong bóng tối, đang nhích dần qua bức tường bên, phía dưới anh hơn hai mét.
Khi Langdon đến được trung tâm tầng áp mái, một
cái bóng không rõ mặt cùng với cây đèn pin cũng vừa đến được sàn quan sát được
nâng cao lên. Bóng người đó dừng lại chỗ tay vịn thấp và chĩa quầng sáng đèn
thẳng vào mắt Langdon.
Quầng sáng chói mắt, Langdon lập tức giơ tay đầu
hàng. Anh cảm thấy tình thế hiện giờ không thể nguy hiểm hơn được nữa – đứng
chênh vênh tít cao phía trên Sảnh Năm trăm, bị một quầng sáng rất mạnh làm chói
mắt.
Langdon đợi một tiếng súng hoặc một mệnh lệnh,
nhưng chỉ có sự im lặng. Một lúc sau, quầng sáng rời khỏi mặt anh và bắt đầu
vung vẩy trong phần bóng tối phía sau lưng anh, rõ ràng đang tìm kiếm gì đó…
hoặc ai đó. Khi quầng sáng rời khỏi mắt, Langdon vừa kịp nhận ra bóng của người
đang chặn đường thoát của mình. Đó là một phụ nữ, thon thả và mặc toàn đồ đen.
Anh tin chắc rằng bên dưới cái mũ bóng chày của ả là mái tóc đầu đinh.
Các cơ của Langdon cứng lại khi trí nhớ của anh
toàn hình ảnh của bác sĩ Marconi nằm chết trên sàn bệnh viện.
Ả đã tìm ra mình. Ả ở đây để kết thúc công việc.
Langdon vụt nhớ tới cảnh những người thợ lặn tự
do người Hy Lạp đang bơi sâu vào trong một đường hầm, vượt qua cả điểm có thể
quay lại, và rồi đâm sầm vào một lối cụt lạnh lẽo.
Sát thủ lại vung quầng sáng đèn rọi vào mắt
Langdon.
“Ông Langdon”, ả thì thào. “Bạn của ông đâu rồi?”
Langdon cảm thấy lạnh toát. Ả sát thủ này ở đây
để giết cả hai chúng ta.
Langdon đánh mắt rời khỏi phía Sienna, liếc lại
khoảng tối họ đến khi nãy. “Cô ấy không liên quan gì đến việc này. Cô cần tôi
mà.”
Langdon cầu mong lúc này Sienna đã men dọc theo
bức tường. Nếu vòng được qua sàn quan sát, thì cô có thể lặng lẽ leo trở lại
lối đi trung tâm, ngay phía sau lưng ả đàn bà đầu đinh, và di chuyển về phía
cửa.
Ả sát thủ lại nhấc đèn lên và quét vào khoảng
không gian tầng áp mái trống vắng phía sau lưng anh. Khi quầng ánh sáng tạm
thời rời khỏi mắt, Langdon vẫn kịp thoáng thấy một dáng người trong bóng tối phía
sau ả.
Ôi, lạy Chúa, không.
Thực tế, Sienna đang lần qua một thanh giằng về
phía lối đi trung tâm, nhưng rủi thay, cô lại chỉ ở phía sau kẻ tấn công có
mười thước.
Sienna, không! Em ở quá gần! Ả sẽ nghe thấy em
mất!
Quầng sáng lia trở lại mắt Langdon.
“Nghe kỹ đây, thưa giáo sư, ả sát thủ thì thào.
“Nếu ông muốn sống, tôi khuyên ông nên tin tôi. Nhiệm vụ của tôi đã thất bại.
Tôi không có lý do gì để hại ông. Ông và tôi giờ cùng một phe, và tôi biết cách
giúp ông.”
Langdon không nghe rõ mấy vì ý nghĩ của anh đang
tập trung vào Sienna. Ở góc nhìn nghiêng, anh thấp thoáng thấy cô đang thầm leo
lên lối đi phía sau sàn quan sát, quá gần với ả đàn bà cầm súng.
Chạy đi! Anh thầm mong. Tìm cách chuồn ngay khỏi
đây!
Thế nhưng trước sự thảng thốt của Langdon, Sienna
lại bám sát mặt đất, cúi thật thấp trong bóng tối và im lặng quan sát.
Mắt Vayentha săm soi khoảng tối phía sau Langdon.
Cô ả biến đi đằng quái nào nhỉ? Bọn họ tách khỏi nhau chăng?
Vayentha phải tìm cách không để cặp đôi đang trốn
chạy này lọt vào tay Brũder. Đó là hy vọng duy nhất của ta.
“Sienna?!”, Vayentha đánh liều gọi thầm trong cổ
họng. “Nếu cô nghe được tiếng tôi thì hãy nghe cho kỹ. Cô không nên để đám
người dưới kia tóm được. Họ sẽ không hiền lành đâu. Tôi biết một lối thoát. Tôi
có thể giúp cô. Tin tôi đi.”
“Tin cô ư?”, Langdon vặn hỏi, giọng anh đột ngột
đủ lớn để bất kỳ ai ở gần đó cũng có thể nghe được. “Cô là một kẻ giết người!”
Sienna ở gần đây, Vayentha nhận ra ngay. Langdon
đang nói cho ả nghe… cố gắng cảnh báo ả đây mà.
Vayentha thử lại lần nữa. “Sienna, tình hình rất
phức tạp, nhưng tôi có thể đưa hai người ra khỏi đây. Hãy cân nhắc lựa chọn của
cô. Cô bị mắc kẹt rồi. Cô không còn lựa chọn nào khác.”
“Cô ấy còn một lựa chọn”, Langdon nói to. “Và cô
ấy đủ thông minh để chạy càng xa càng tốt.”
“Mọi chuyện đều đang thay đổi rồi”, Vayentha kiên
trì. “Tôi không còn lý do gì để làm hại hai người.”
“Cô đã giết bác sĩ Marconi! Và tôi đoán cô cũng
là người đã bắn vào đầu tôi!”
Vayentha biết rằng người đàn ông này sẽ không bao
giờ tin ả không có ý định giết anh ta.
Thời gian trò chuyện đã hết. Mình chẳng còn gì
nói để thuyết phục anh ta.
Không chút do dự, ả thò tay vào áo khoác da và
rút khẩu súng giảm thanh ra.
Không động đậy trong bóng tối, Sienna vẫn bò rạp
trên lối đi cách chưa đầy mười thước phía sau ả đàn bà đứng đối diện Langdon.
Ngay cả trong bóng tối, cái dáng của ả đàn bà vẫn không thể lẫn vào đâu được.
Trước vẻ hãi hùng của Sienna, ả đang vung vẫy chính khẩu súng mà ả đã dùng để
giết bác sĩ Marconi.
Ả sắp bắn, Sienna biết như vậy, cảm nhận rõ ngôn
ngữ cơ thể của ả đàn bà.
Rất quả quyết, ả bước thêm hai bước đầy hăm dọa
về phía Langdon, dừng lại ở phần tay vịn bao quanh sàn quan sát phía trên bức
Lễ phong thánh của Vasari. Ả sát thủ lúc này tới gần Langdon hết mức. Ả giơ
súng lên và chĩa thẳng vào ngực Langdon.
“Thứ này chỉ gây đau đớn trong tích tắc thôi”, ả
nói, “nhưng đó là lựa chọn duy nhất của tôi”.
Sienna phản ứng theo bản năng.
Nhịp rung bất ngờ trên những tấm ván dưới chân
Vayentha vừa đủ khiến ả hơi xoay đi lúc bóp cò. Lúc khẩu súng của ả nhả đạn, ả
biết nó không còn chĩa vào Langdon nữa.
Có gì đó đang tiến lại phía sau lưng ả.
Tiến lại rất nhanh.
Vayentha xoay lại tại chỗ, chuyển khẩu súng của
mình đúng một trăm tám mươi độ về phía kẻ tấn công mình, và một mái tóc vàng
óng ánh lên trong bóng tối khi có ai đó lao sầm hết tốc lực vào Vayentha. Khẩu
súng lại nhả đạn, nhưng người ấy cúi thấp dưới cả thắt lưng để xông cả cơ thể
lên thật mạnh. Hai chân Vayentha rời khỏi sàn gỗ và nửa người ả đập mạnh vào
phần tay vịn rất thấp của sàn quan sát. Khi cơ thể ả văng ra ngoài rào chắn, ả
vung mạnh hai tay, cố gắng níu lấy bất cứ thứ gì ngăn không cho mình rơi xuống,
nhưng đã quá muộn. Ả bổ nhào qua rào chắn.
Vayentha rơi qua bóng tối, cố gắng hết sức để
tránh cú va đập xuống phần sàn bụi bặm cách sàn quan sát hơn hai mét phía dưới.
Nhưng lạ thay, cú tiếp đất của ả mềm hơn ả tưởng, như thể ả vừa rơi trúng một
chiếc võng vải, lúc này trĩu xuống dưới sức nặng của ả.
Mất phương hướng, Vayentha nằm ngửa và trợn trừng
nhìn lên kẻ tấn công mình. Sienna Brooks đang ngó qua lan can nhìn ả. Choáng
váng, Vayentha mở mồm định nói, nhưng đột nhiên, ngay bên dưới ả, có một tiếng
rách toạc rất to.
Lớp vải đang đỡ sức nặng của ả rách toang.
Vayentha lại rơi xuống.
Lần này, ả rơi chỉ đúng ba giây, đủ để ả thấy
mình vẫn trợn trừng nhìn lên phần trần nhà được phủ kín bằng những bức tranh
rực rỡ. Bức vẽ ngay bên trên ả - một tấm toan tròn rất lớn mô tả Công tước
Cosimo I có các thiên sứ vây quanh trên một đám mây thiên đường – giờ để lộ ra
một khoảng đen ngòm cắt qua phần chính giữa.
Rồi, sau một tiếng va chạm đột ngột, toàn bộ thế
giới của Vayentha chìm vào bóng tối.
Tít trên cao, như hóa đá vì không tin vào mắt
mình, Robert Langdon đăm đăm nhìn qua bức Lễ phong thánh đã bị xé rách xuống
khoảng không gian sâu hoắm phía dưới. Trên sàn đá của Sảnh Năm trăm, ả đàn bà
đầu đinh nằm bất động, một vũng máu thẫm đang loang nhanh từ đầu ả. Ả vẫn nắm
chặt khẩu súng trong tay.
Langdon ngước mắt nhìn Sienna, cũng đang đăm đăm
nhìn xuống, sững sờ vì cảnh tượng thê thảm phía dưới. Nét mặt Sienna sốc nặng.
“Em không có ý định…”
“Em chỉ phản ứng theo bản năng thôi”, Langdon thì
thào. “Ả định giết anh.”
Từ phía dưới, những tiếng hét hoảng hốt vọng lên
qua tấm toan đã bị xé rách.
Rất nhẹ nhàng, Langdon hướng dẫn Sienna rời khỏi
rào chắn. “Chúng ta cần tiếp tục di chuyển.”
Trong phòng làm việc bí mật của Công nương Bianca
Cappello, đặc vụ Brũder nghe rõ một tiếng thịch kinh người kéo theo những tiếng
la thất thanh càng lúc càng rõ trong Sảnh Năm trăm. Gã nhảy bổ tới tấm tưới
trên tường và nhìn qua đó. Cảnh tượng trên nền đá trang nhã phía dưới khiến gã
mất vài giây để suy xét.
Cô nhân viên quản lý bảo tàng bụng mang dạ chửa
đã đến bên cạnh gã chỗ tấm lưới, lập tức bụm miệng, đứng chết trân vì kinh
hoảng trước cảnh tượng phía dưới – một xác người rũ rượi nằm giữa vòng vây của
các du khách đang hoảng loạn. Ánh mắt của cô nhân viên quản lý từ từ ngước lên
trần Sảnh Năm trăm rồi thốt lên một tiếng rên đau đớn. Brũder nhìn theo ánh mắt
của cô ta lên một ô trần hình tròn – một tấm toan tranh vẽ với vết rách lớn cắt
ngang phần chính giữa.
Gã quay lại phía cô nhân viên quản lý. “Làm cách
nào lên đó!?”
Ở đầu bên kia tòa nhà, Langdon và Sienna hổn hển
leo từ tầng áp mái xuống và lao qua cửa. Chỉ trong vài giây, Langdon đã tìm
thấy cái hốc phòng nhỏ, ẩn kín phía sau một tấm rèm đỏ thẫm. Anh vẫn nhớ rõ nó
nhờ chuyến tham quan các lối đi bí mật của mình.
Cầu thang Công tước Athens.
Tiếng những bước chân chạy vội vã và tiếng hò hét
lúc này như đang vọng đến từ mọi hướng, và Langdon biết thời gian của họ không
còn nhiều. Anh kéo tấm rèm sang bên, và cùng Sienna chui qua để sang một chiếu
nghỉ nhỏ.
Không nói một lời, họ bắt đầu lần xuống cầu thang
đá. Lối đi được thiết kế ngoắt ngoéo và hẹp một cách đáng sợ. Càng xuống sâu,
lối đi dường như càng chật hẹp. Langdon cảm thấy như thể những bức tường đang
nhích vào để nghiền nát anh, nhưng thật may, họ không phải đi xa thêm nữa.
Đã đến mặt đất.
Không gian ở dưới chân cầu thang là một buồng đá
nhỏ xíu, và mặc dù lối ra của nó chắc chắn là một trong những cánh cửa nhỏ nhất
trên đời nhưng đó vẫn là một hình ảnh tươi đẹp chào đón họ. Chỉ cao khoảng một
mét hai, cánh cửa được làm bằng gỗ nặng trịch với những đinh sắt tán và một
chốt trong rất to để ngăn không cho mọi người lọt vào.
“Em nghe thấy những âm thanh đường phố phía sau
cửa”, Sienna thì thào, vẻ mặt vẫn còn kinh hãi. “Bên kia là đâu nhỉ?”
“Via della Ninna”, Langdon đáp, hình dung ra một
con hẻm dành cho người đi bộ rất đông đúc. “Nhưng có thể có cảnh sát.”
“Họ sẽ không nhận ra chúng ta đâu. Họ sẽ tìm kiếm
một cô gái tóc vàng và một anh chàng tóc sẫm màu.”
Langdon nhìn cô vẻ lạ lùng. “Vậy chính xác thì
chúng ta là…”
Sienna lắc đầu, một vẻ kiên nghị u uẩn thoáng
lướt qua trên mặt cô. “Em không muốn anh nhìn thấy em như thế này, Robert ạ,
nhưng rất tiếc đây chính là hình ảnh thực sự của em.” Rất bất ngờ, Sienna giơ
tay và tóm lấy mái tóc vàng óng của mình. Rồi cô kéo mạnh, toàn bộ mái tóc tuột
xuống.
Langdon bật ngược lại, giật mình trước sự thật
rằng Sienna đội tóc giả cũng như diện mào hoàn toàn thay đổi của cô khi không
còn tóc nữa. Thực tế đầu Sienna Brooks hoàn toàn trọc lóc, lớp da đầu nhẵn nhụi
của cô trơn láng và xanh xao, giống như một bệnh nhân ung thư phải trị liệu
bằng hóa chất. Hóa ra cô ấy bị bệnh sao?
“Em biết”, cô nói. “Chuyện rất dài. Giờ cúi
xuống.” Cô giơ mái tóc giả lên, rõ ràng có ý muốn đội lên đầu Langdon.
Cô ấy nghiêm túc thật sao? Langdon miễn cưỡng cúi
xuống, và Sienna trùm mái tóc vàng lên đầu anh. Mái tóc vừa khít, nhưng cô cố
gắng chỉnh trang nó cho thật ổn. Sau đó cô lùi lại và ngắm nghía anh. Không hài
lòng, cô đưa tay nới cà vạt của anh, và kéo phần vòng cổ lên trên trán anh,
thắt lại thành một chiếc băng đô giữ chặt lấy mái tóc giả trên đầu anh.
Giờ Sienna bắt đầu chỉnh trang bản thân, xắn cao
ống quần và kéo tất xuống đến mắt cá. Khi đứng lên, cô nhếch môi cười. Nàng
Sienna Brooks đáng yêu giờ đây đã là một gã đầu trọc mê nhạc rook. Tài cải
trang của cựu nữ diễn viên kịch Shakespeare thật đáng kinh ngạc.
“Hãy nhớ”, cô nói, “chín mươi phần trăm nhận dạng
cá nhân là ngôn ngữ cơ thể, cho nên khi anh di chuyển, hãy giống như một tay
chơi nhạc rook có tuổi.
Có tuổi, anh có thể làm được, Langdon nghĩ bụng.
Còn tay chơi nhạc rook thì anh không chắc lắm.
Langdon chưa kịp có ý kiến gì, Sienna đã tháo
chốt cánh cửa nhỏ rồi mở ra. Cô khom người và chui ra đường phố rải sỏi đông
đúc. Langdon theo sau, gần như bò trên cả bốn chân khi anh đứng trong ánh sáng
ban ngày.
Ngoài một vài ánh mắt thảng thốt nhìn “đôi đũa
lệch” chui ra từ một ô cửa nhỏ ở tầng hầm của cung điện Vecchio, không ai buồn
nhìn họ lần thứ hai. Chỉ vài giây sau, Langdon và Sienna đã di chuyển về phía
đông, lẫn vào đám đông.
Người đàn ông đeo kính Plume Paris lau vội da
thịt đang lấm tấm máu của mình trong lúc len lỏi qua đám đông, cố giữ khoảng
cách an toàn phía sau Robert Langdon và Sienna Brooks. Bất chấp cách cải trang
khôn khéo của họ, ông ta vẫn nhận ra họ chui ra từ một cánh cửa nhỏ trên hẻm
Via della Ninna và lập tức biết ngay họ là ai.
Ông ta bám theo họ được vài dãy nhà thì mệt đứt
hơi, ngực đau dữ dội, buộc ông ta phải thở hổn hển. Ông ta cảm thấy như bị nện
mạnh vào ức.
Nghiến chặt răng để nhịn đau, ông ta gắng chú ý
đến Langdon và Sienna trong lúc tiếp tục theo họ qua các đường phố ở Florence.
Mặt trời buổi sáng giờ đã lên cao, tạo thành
những cái bóng đổ dài trên những con hẻm hẹp len lỏi qua các toà nhà của Florence cổ kính. Các chủ
cửa hàng đã bắt đầu kéo mở lưới sắt bảo vệ cửa hàng và quầy rượu của mình,
không khí đã đẫm mùi thơm của cà phê espresso buổi sáng cùng món bánh sừng bò
mới nướng.
Mặc dù đói cồn cào, Langdon vẫn tiếp tục đi. Mình
phải tìm ra cái chiếc mặt nạ và xem đằng sau giấu cái gì.
Khi Langdon dẫn Sienna lên phía bắc dọc theo phố
Via dei Leoni, anh vẫn cảm thấy không dễ quen với hình ảnh chiếc đầu trọc lóc
của cô. Diện mạo thay đổi hoàn toàn của cô nhắc nhở rằng anh chỉ biết qua loa
về cô. Giờ họ đang di chuyển về phía Quảng trường Duomo – khu quảng trường nơi
người ta thấy xác của Ignazio Busoni sau khi thực hiện cuộc điện đàm cuối cùng.
Robert, Ignazio đã cố gắng nói, dù không thở
được. Những gì anh tìm thấy đã được cất giấu an toàn. Cổng đã mở cho anh, nhưng
anh phải nhanh lên. Thiên đường Hai mươi lăm. Chúc may mắn.
Thiên đường Hai mươi lăm, Langdon nhắc lại, vẫn
cảm thấy khó hiểu vì trong lúc vội vàng không kịp suy nghĩ, Ignazio Busoni vẫn
nhớ ra tác phẩm của Dante để nhắc đến một khổ thơ cụ thể. Rõ ràng khổ thơ đó có
điều gì đó khiến Busoni nhớ. Cho dù là gì, Langdon biết mình sẽ phải tìm ra
thật nhanh, ngay khi có trong tay một bản trường ca, việc anh có thể dễ dàng
làm được ở rất nhiều địa điểm phía trước.
Mái tóc giả dài đến vai của anh giờ bắt đầu gây
ngứa ngáy, và mặc dù cảm thấy có gì đó kỳ cục trong cách hóa trang của mình,
nhưng anh phải thừa nhận rằng khả năng hóa trang ngẫu hứng của Sienna quả là
một cách đánh lừa hiệu quả. Không ai nhìn họ lần thứ hai, ngay cả lực lượng
cảnh sát tăng cường vừa hối hả đi qua họ về phía Cung điện Vecchio.
Sienna vẫn hoàn toàn im lặng đi bên cạnh anh mấy
phút liền, Langdon phải liếc mắt nhìn lại để bảo đảm rằng cô vẫn ổn. Dường như
cô ở cách xa mấy dặm, có lẽ đang cố chấp nhận thực tế rằng cô vừa giết người
phụ nữ truy đuổi họ.
“Em nói gì đi chứ!”, anh đánh bạo, hy vọng kéo
tâm trí cô thoát khỏi hình ảnh ả đàn bà đầu đinh nằm chết trên sàn cung điện.
Sienna từ từ ra khỏi trạng thái trầm tư. “Em đang
nghĩ đến Zobrist”, cô chậm rãi nói. “Cố gắng nhớ lại bất kỳ điều gì khác mà em
biết về ông ta.”
“Và?”
Cô nhún vai. “Hầu hết những gì em biết đều đến từ
một bài viết gây tranh cãi mà ông ta viết cách đây vài năm. Nó thật sự khiến em
ấn tượng. Trong cộng đồng y khoa, bài viết đó lập tức lan nhanh như virus.” Cô
cau mày. “Xin lỗi, em không nên dùng từ đó.”
Langdon cười khan. “Em cứ nói tiếp đi.”
“Bài viết của ông ta cơ bản nói rằng loài người
đang trên bờ vực tuyệt chủng, và trừ phi trải qua một thảm họa làm giảm mạnh
tăng trưởng dân số toàn cầu, nếu không loài người chúng ta sẽ không thể sống
nổi một trăm năm nữa.”
Langdon ngoảnh lại và nhìn sững cô. “Chỉ một thế
kỷ thôi sao?”
“Đó là một luận điểm khá nghiệt ngã. Khung thời
gian được dự báo ngắn hơn rất nhiều so với những dự báo trước đó, nhưng nó lại
được củng cố bằng một số dữ liệu khoa học rất thuyết phục. Ông ta có thêm nhiều
kẻ thù do tuyên bố rằng tất cả bác sĩ cần ngừng công việc chuyên môn, bởi vì
việc làm tăng tuổi thọ của loài người chỉ càng làm vấn đề dân số trầm trọng
thêm.”
Giờ Langdon đã hiểu tại sao bài viết lại lan
truyền nhanh trong cộng đồng y học.
“Không có gì lạ”, Sienna tiếp tục. “Zobrist lập
tức bị tấn công từ mọi phía – các chính trị gia, giới tăng lữ, Tổ chức Y tế Thế
giới – tất cả đều xem ông ta là một gã điên tiên liệu về ngày tận thế và đang
cố tìm cách gây hoảng loạn. Họ rất phật ý trước tuyên bố của ông ta rằng giới
trẻ ngày nay, nếu họ lựa chọn việc sinh đẻ, sẽ khiến con cái mình chứng kiến sự
cáo chung của loài người. Zobrist chứng minh quan điểm của mình bằng một ‘Đồng
hồ Ngày tận thế,’ thể hiện rằng nếu toàn bộ thời gian tồn tại của loài người
trên trái đất này được nén lại thành một giờ… thì giờ đây chúng ta đang ở những
giây cuối cùng.”
“Thực tế anh đã nhìn thấy đồng hồ đó trên mạng”,
Langdon nói.
“Vâng, chính là của ông ta, và nó cũng gây phẫn
nộ. Tuy nhiên, phản ứng mạnh mẽ nhất chống lại Zobrist lại nảy sinh khi ông ta
tuyên bố rằng những tiến triển của ông ta trong lĩnh vực điều khiển gene sẽ rất
hữu dụng cho nhân loại nếu chúng được sử dụng không phải để chữa bệnh mà để tạo
ra bệnh tật.”
“Cái gì cơ?”
“Vâng, ông ta cho rằng công nghệ của mình cần
được sử dụng để hạn chế tăng trưởng dân số bằng cách tạo ra những loại bệnh lai
tạo mà nền y học hiện đại chúng ta không thể cứu chữa được.”
Langdon cảm thấy càng lúc càng kinh hãi khi hình
dung ra hình ảnh “các loại virus tự tạo” lai ghép lạ lùng mà một khi được tung
ra, sẽ hoàn toàn không thể ngăn chặn được.
“Chỉ trong vài năm ngắn ngủi”, Sienna nói,
“Zobrist đã từ chỗ là niềm tự hào của thế giới y học biến thành một kẻ bị xã
hội ruồng bỏ. Một kẻ bị nguyền rủa”. Cô dừng lại, nét mặt thoáng chút thương
cảm. “Thật sự không có gì lạ khi ông ta phản ứng và tự sát. Thậm chí còn buồn
hơn nữa vì luận điểm của ông ta có thể lại đúng.”
Langdon suýt ngã. “Xin lỗi!
Em nghĩ ông ấy đúng ư?!”
Sienna trịnh trọng nhún vai.
“Robert, nếu nói từ góc độ khoa học thuần túy – hoàn toàn logic, không hề cảm
tính – em có thể nói với anh không chút nghi ngại rằng nếu không có một sự thay
đổi mạnh mẽ nào đó, loài người chúng ta sẽ diệt vong. Và kết cục đó sẽ đến rất
nhanh. Đó sẽ không phải là lửa, lưu huỳnh, khải huyền, hay chiến tranh hạt
nhân… mà là sự sụp đổ hoàn toàn do hành tinh này quá tải dân số. Số liệu toán
học là không thể tranh cãi.”
Langdon cứng người.
“Em đã nghiên cứu nhiều về
sinh học”, cô nói, “và một giống loài đi đến tuyệt chủng chỉ đơn giản là do
tình trạng quá đông đúc trong môi trường của nó là điều hoàn toàn bình thường.
Anh hãy hình dung một quần thể tảo mặt nước sống trong một cái hồ nhỏ trong
rừng, tận hưởng sự cân bằng dưỡng chất hoàn hảo của hồ nước. Nếu không được kiểm
soát, chúng sinh sản tràn lan và sẽ nhanh chóng chiếm lĩnh toàn bộ mặt hồ, che
kín mặt trời và ngăn cản quá trình gia tăng dưỡng chất trong hồ. Khi tiêu diệt
sạch mọi thứ trong môi trường của mình, tảo nhanh chóng chết và biến mất không
để lại dấu vết”. Cô thở dài não nề. “Loài người cũng rất dễ gặp số phận tương
tự. Sẽ sớm hơn và nhanh hơn bất kỳ ai trong chúng ta có thể hình dung.”
Langdon cảm thấy vô cùng bồn
chồn. “Nhưng… dường như điều đó là không thể.”
“Không có gì là không thể,
Robert, chỉ là không tưởng tượng nổi. Tâm trí con người có một cơ chế phòng vệ
bản ngã nguyên thủy phủ nhận tất cả những thực tế tạo ra quá nhiều áp lực mà
não phải xử lý. Cơ chế đó gọi là phủ nhận.”
“Anh đã nghe nói đến ‘phủ
nhận’”, Langdon chua chát, “nhưng anh không nghĩ nó tồn tại”.
Sienna đảo mắt. “Nghe thì
hay ho, nhưng tin em đi, điều đó rất thật. Phủ nhận là một phần quan trọng
trong cơ chế ứng phó của con người. Không có nó, mỗi buổi sáng tất cả chúng ta
đều tỉnh giấc trong tâm trạng hoảng hốt về cách chúng ta từ giã cõi đời. Có nó,
tâm trí của chúng ta ngăn chặn những nổi sợ hãi hiện sinh bằng cách tập trung
vào những căng thẳng mà chúng ta có thể giải quyết, chẳng hạn đi làm đúng giờ
hoặc đóng tiền thuế. Nếu có những nỗi lo sợ hiện sinh lớn hơn, chúng ta vứt bỏ
chúng rất nhanh, tập trung trở lại các nhiệm vụ đơn giản và những điều tầm thường
hằng ngày.”
Langdon nhớ lại một nghiên
cứu về dấu vết trên mạng gần đây của sinh viên một số trường đại học trong nhóm
Ivy League 22 cho thấy ngay cả những người có hiểu biết cao cũng thể hiện
khuynh hướng phủ nhận mang tính bản năng. Theo nghiên cứu ấy, đa phần sinh viên
đại học, sau khi bấm chọn một bản tin ảm đạm về tình trạng băng vùng cực tan
hay tuyệt chủng giống loài, sẽ nhanh chóng thoát khỏi trang tin đó để chọn tin
gì đó giúp tâm trí họ thoát khỏi nổi sợ hãi. Những đề tài thường được lựa chọn
gồm những tin thể thao nổi bật, video hài, và tin đồn thổi về những người nổi
tiếng.
22 Ivy League là nhóm tám
trường đại học danh tiếng tại Hoa Kỳ, gồm Đại học Brown, Đại học Columbia, Đại
học Cornell, Cao đẳng Dartmouth, Đại học Harvard, Đại học Princeton, Đại học
Pennsylvania và Đại học Yale.
“Theo thần thoại cổ”,
Langdon nói, “một người anh hùng mang sự phủ nhận chính là biểu hiện cao nhất
của thái độ ngạo mạn và tự phụ. Không người nào tự phụ hơn kẻ tin rằng bản thân
mình hoàn toàn vô hại trước những hiểm nguy của thế giới. Rõ ràng Dante cũng
đồng ý như vậy, xem thói tự phụ là tội lỗi xấu xa nhất trong số bảy trọng tội…
và trừng phạt những kẻ tự phụ ở tầng sâu nhất của địa ngục”.
Sienna ngẫm nghĩ một lúc rồi
tiếp tục. “Bài viết của Zobrist kết tội nhiều nhà lãnh đạo của thế giới đang có
thái độ cực kỳ phủ nhận… chỉ biết rúc đầu vào cát. Ông ta đặc biệt lên án Tổ
chức Y tế Thế giới.”
“Anh cá rằng chuyện đó cũng
không tệ.”
“Họ phản ứng bằng việc xem
ông ta như một kẻ cuồng tín tôn giáo đứng ở góc phố giơ cao tấm biển ghi rằng
“Tận thế đang đến gần.”
“Quảng trường Harvard có một
vài kẻ như vậy.”
“Vâng, và tất cả chúng ta
đều chẳng để tâm đến họ bởi vì không ai trong chúng ta có thể hình dung ra điều
đó sẽ đến. Nhưng hãy tin em, chỉ vì tâm trí con người không thể hình dung ra
điều gì đó đang xảy đến… như thế không có nghĩa là nó sẽ không đến.”
“Em nói như thể mình là một
người hâm mộ Zobrist.”
“Em là người hâm mộ chân
lý”, cô quyết liệt đáp lại, “ngay cả khi phải chấp nhận chân lý đau lòng”.
Langdon im lặng, một lần nữa
cảm thấy có khoảng cách rất kỳ lạ với Sienna vào lúc này, và cố gắng hiểu sự
kết hợp rất lạ thường giữa niềm say mê với suy xét độc lập của cô.
Sienna ngước nhìn anh, nét
mặt cô dịu lại. “Robert, nhìn này, em không nói rằng Zobrist đúng khi cho rằng đại
dịch giết chết một nửa dân số chính là câu trả lời cho vấn đề quá tải dân số.
Em cũng không nói rằng chúng ta cần ngừng chạy chữa cho người ốm. Những gì em
đang nói là con đường hiện tại của chúng ta là một lộ trình đi tới sự hủy diệt.
Tăng trưởng dân số là cấp số mũ xảy ra ngay trong một hệ thống không gian hữu
hạn với những nguồn tài nguyên hạn chế. Kết cục sẽ đến rất đột ngột. Trải
nghiệm của chúng ta sẽ không phải là việc từ từ cạn kiệt khí đốt… mà nó giống
như lao mình xuống từ một vách đá.”
Langdon thở hắt ra, cố gắng
xử lý tất cả những điều anh vừa nghe thấy.
“Nói đến vách đá”, cô tiếp
lời, thẫn thờ chỉ lên bầu trời phía bên phải, “em tin chắc rằng đó chính là nơi
Zobrist đã nhảy xuống”.
Langdon ngước mắt và nhìn
thấy họ vừa đi qua mặt tiền bằng đá mộc mạc của Bảo tàng Bargello nằm bên tay
phải họ. Phía sau bảo tàng, đỉnh nhọn của tòa tháp Badia vươn cao vượt lên các
kết cấu xung quanh. Anh đăm đăm nhìn đỉnh tòa tháp, tự hỏi tại sao Zobrist lại
nhảy xuống, hy vọng đó không phải vì ông ta đã làm điều gì kinh khủng và không
muốn đối diện với những gì đang xảy đến.
“Những người phê phán
Zobrist”, Sienna nói, “muốn chỉ ra điểm nghịch lý ở chỗ nhiều công nghệ gene mà
ông ta phát triển hiện lại giúp làm tăng đáng kể tuổi thọ”.
“Điều đó chỉ càng làm phức tạp
thêm vấn đề dân số.”
“Chính xác. Zobrist từng
công khai nói rằng ông ta ao ước có thể làm lại mọi việc và loại bỏ một số đóng
góp của mình đối với tuổi thọ nhân loại. Em cho rằng điều đó hoàn toàn có ý
nghĩa về mặt lý luận. Chúng ta càng sống lâu, càng phải dành nhiều nguồn tài
nguyên của mình cho người già và người bệnh.”
Langdon gật đầu. “Anh đọc
được rằng ở Hoa Kỳ, khoảng sáu mươi phần trăm chi phí chăm sóc sức khỏe dành
cho những bệnh nhân trong sáu tháng cuối cùng của họ.”
“Đúng vậy, và trong khi lý
trí chúng ta nói rằng ‘Điều này thật điên rồ,’ thì tim chúng ta lại nói ‘Phải
giúp bà nội sống càng lâu càng tốt’.”
Langdon gật đầu. “Đó là mâu
thuẫn giữa thần Apollo và Dionysus23 – một song đề nổi tiếng trong thần thoại –
cuộc chiến từ xa xưa giữa lý trí và trái tim, vốn hiếm khi cùng muốn một thứ.”
23 Trong thần thoại Hy Lạp,
Apollo và Dionysus đều là con trai của thần Zeus. Apollo là thần Mặt trời, đại
diện cho ước mơ và thể hiện sự sáng tạo của con người thông qua lý trí và tư
duy logic. Ngược lại, Dionysus là thần rượu vang, thiên về tình cảm và bản năng.
Langdon từng nghe nói rằng
các hội nghị của Hội người cai rượu cũng viện dẫn thần thoại này để mô tả những
người nghiện rượu cứ đăm đăm nhìn ly rượu, lý trí họ biết rằng thứ đó sẽ làm
hại mình, nhưng trái tim họ lại thèm thuồng cái cảm giác dễ chịu mà nó mang
lại. Thông điệp rõ ràng là: Đừng bao giờ cảm thấy cô độc vì ngay cả thần thánh
cũng mâu thuẫn.
“Ai cần đến hành động quyên
sinh cao cả?24”, Sienna chợt thì thào.
24 Nguyên văn: ‘Who Needs Agathusia?’.
“Em nói sao cơ?”
Sienna ngước lên. “Cuối cùng em cũng nhớ ra tên
bài viết của Zobrist. Bài viết đó là: ‘Ai cần đến hành động quyên sinh cao
cả?’.”
Langdon chưa bao giờ nghe nói đến cụm từ quyên
sinh cao cả, nhưng anh đoán được căn cứ vào gốc từ tiếng Hy Lạp – agathos và
thusia. “Quyên sinh cao cả… chắc là ‘sự hy sinh tốt đẹp’ phải không?”
“Gần như vậy. Nghĩa thực tế của nó là ‘một hành
động tự hy sinh vì lợi ích chung’”, cô ngừng lại. “Nó còn được biết đến như là
hành động tự sát cao cả.”
Thực tế Langdon đã từng nghe nói đến thuật ngữ
này, lần thứ nhất liên quan đến một người cha bị phá sản tự sát để gia đình
mình có thể nhận tiền bảo hiểm sinh mạng, và lần thứ hai mô tả một kẻ giết
người hàng loạt cảm thấy ân hận nên đã tự kết liễu sinh mạng vì sợ rằng hắn
không thể kiểm soát được động lực giết người của mình.
Thế nhưng, ví dụ rùng rợn nhất Langdon còn nhớ là
trong cuốn tiểu thuyết năm 1967 nhan đề Cuộc đào tẩu của Logan, mô tả một xã
hội tương lai trong đó mọi người đều hoan nghênh hành động tự sát ở tuổi hai
mươi mốt – như thế sẽ tận hưởng trọn vẹn tuổi thanh xuân mà không để tuổi già
hoặc số đông dân số tạo áp lực cho các nguồn tài nguyên hữu hạn của hành tinh.
Nếu Langdon nhớ đúng thì phiên bản điện ảnh Cuộc đào tẩu của Logan đã tăng “tuổi tận số” từ hai mươi mối
lên ba mươi, rõ ràng nhằm cố gắng làm cho bộ phim dễ chấp nhận hơn với nhóm
khán giả từ mười tám đến hai mươi lăm tuổi.
“Như vậy, bài luận giải của Zobrist…”, Langdon
nói. “Anh không chắc mình hiểu được nhan đề. ‘Ai cần đến hành động quyên sinh
cao cả?’ Liệu ông ta có nói vậy để châm biếm không? Giống như ai cần đến những
vụ tự sát cao cả mà… tất cả chúng ta đều thực hiện?”
“Thực tế không hề, nhan đề đó là cách chơi chữ.”
Langdon lắc đầu, không hiểu.
“Ai cần tự sát – giống như trong W-H-O25 – Tổ
chức Y tế Thế giới. Trong bài viết của mình, Zobrist sỉ vả giám đốc WHO – tiến
sĩ Elizabeth Sinskey – người giữ cương vị đó lâu năm và theo Zobrist, bà ấy
kiểm soát dân số một cách nghiêm túc. Bài viết của ông ta nói rằng WHO sẽ tốt
đẹp hơn nếu giám đốc Sinskey tự sát.”
25 Trong bản gốc tiếng Anh, từ “who” vừa mang
nghĩa “ai”, vừa là viết tắt của WHO - Tổ chức Y tế Thế giới.
“Một gã đáng thương.”
“Những hiểm nguy của việc là một thiên tài, em
đoán vậy. Thông thường, những bộ óc đặc biệt, vốn có khả năng tập trung cao hơn
những người khác, hay làm vậy để trả giá cho sự chín muồi về mặt cảm xúc.”
Langdon nhớ lại những bài viết của anh đã xem về
cô bé Sienna, một thần đồng có chỉ số IQ 208 và chức năng trí tuệ ngoại hạng.
Langdon tự hỏi phải chăng khi nói về Zobrist, cô
đang nói về chính mình ở một mức độ nào đó. Anh cũng thắc mắc không biết cô còn
giữ bí mật của mình bao lâu nữa.
Phía trước mặt, Langdon nhận ra địa điểm mình
đang tìm kiếm. Sau khi băng qua Via dei Leoni, Langdon dẫn cô tới một giao lộ
rất hẹp – không hơn một con hẻm. Tấm biển đầu phố ghi VIA DANTE ALIGHIERI.
“Nghe như em biết rất nhiều về bộ não con người”,
Langdon nói. “Có phải đó là lĩnh vực nghiên cứu chính của em trong trường y
không?”
“Không, nhưng khi còn nhỏ, em đọc rất nhiều. Em
quan tâm đến khoa học não bộ bởi vì em có một số … vấn đề sức khỏe.”
Langdon nhìn cô vẻ tò mò, hy vọng cô sẽ nói tiếp.
“Bộ não của em…”, Sienna nói khẽ. “Nó phát triển
khác hẳn hầu hết trẻ em, và nó gây ra một số… vấn đề. Em bỏ nhiều thời gian cố
gắng hiểu xem có chuyện gì không ổn với mình, và trong quá trình đó, em học
được nhiều điều về khoa học thần kinh.” Cô nhìn vào mắt Langdon. “Và đúng, tình
trạng hói đầu của em có liên quan đến vấn đề sức khỏe.”
Langdon lảng mắt, bối rối vì đã hỏi chuyện đó.
“Đừng lo”, cô nói. “Em đã học cách sống chung với
nó.”
Khi họ di chuyển vào khoảng không khí lạnh lẽo
của ngõ phố bị phủ bóng, Langdon ngẫm lại tất cả những điều anh vừa biết về
Zobrist và những quan điểm triết lý đáng ngại của ông ta.
Một câu hỏi cứ lởn vởn trong đầu anh. “Đám lính
này”, Langdon bắt đầu nói. “Những kẻ đang cố giết chúng ta. Chúng là ai? Thật
vô nghĩa. Nếu Zobrist đã tung ra một loại dịch bệnh tiềm tàng thì tất cả mọi
người phải cùng một phe, hợp tác để ngăn chặn lại chứ?”
“Không nhất thiết, Zobrist có thể là một kẻ bị
ruồng bỏ trong cộng đồng y học, nhưng có lẽ lại có một đội quân những kẻ hâm mộ
tư tưởng của mình - những người tán đồng rằng loại bỏ bớt đồng loại là một tội
ác cần thiết để cứu lấy hành tinh. Với tất cả những gì chúng ta biết thì đám
lính này đang cố gắng bảo đảm cho việc thực hiện kịch bản của Zobrist.”
Đội quân môn đồ riêng của Zobrist ư? Langdon ngẫm
nghĩ về khả năng đó. Phải thừa nhận rằng lịch sử có rất nhiều kẻ quá khích và
tín đồ sẵn sàng tự sát vì đủ thứ quan niệm điên khùng – niềm tin cho rằng thủ
lĩnh của họ là Đấng Cứu thế, niềm tin cho rằng một con tàu vũ trụ đang đợi họ
đằng sau Mặt trăng, niềm tin cho rằng Ngày Phán xét đã cận kề. Nghiên cứu về
kiểm soát dân số ít nhất cũng có nền tảng khoa học, nhưng Langdon vẫn cảm thấy
có gì đó không ổn với đám lính này.
“Anh không thể tin được cả một đội lính tinh nhuệ
lại chủ tâm tán thành việc sát hại những người vô tội… trong khi lo sợ rằng
chính họ cũng có thể bị bệnh và chết.”
Sienna nhìn anh bối rối. “Robert, anh nghĩ những
người lính làm gì khi họ lâm trận? Họ giết người dân vô tội và mạo hiểm với
tính mạng mình. Bất kỳ điều gì cũng có thể xảy ra một khi người ta tin vào một
lý do.”
“Một lý do? Lây lan một bệnh dịch ư?”
Sienna nhìn anh, đôi mắt nâu của cô như thăm dò.
“Robert, lý do này không phải là lây lan một bệnh dịch… nó là cứu lấy thế
giới.” Cô ngừng lại. “Một đoạn trong bài viết của Bertrand Zobrist được rất
nhiều người nói đến là câu hỏi mang tính giả thuyết rất sắc bén. Em muốn anh
trả lời câu hỏi đó.”
“Câu hỏi gì?”
“Zobrist đã hỏi thế này: Nếu anh có thể gạt một
công tắc và ngẫu nhiên giết chết một nửa số dân trên trái đất thì anh có làm
việc đó không?”
“Dĩ nhiên là không.”
“Được rồi. Nhưng sẽ ra sao khi nói rằng nếu anh
không thay đổi ý kiến ngay thì loài người sẽ diệt vong trong vòng một trăm năm
tới?”, cô ngừng lại. “Anh có thay đổi không? Thậm chí nếu điều có nghĩa là anh
có thể phải giết chết bạn bè, gia đình và thậm chí có lẽ chính anh nữa?”
“Sienna, có lẽ anh không thể…”
“Đó là một câu hỏi mang tính giả thuyết”, cô nói.
“Anh có giết một nửa dân số ngày nay để cứu loài người khỏi bị diệt vong không?”
Langdon cảm thấy quá bối rối trước chủ đề kinh
khủng mà họ đang thảo luận, nên anh thở phào khi nhìn thấy lá cờ đỏ quen thuộc
treo bên hông một tòa nhà bằng đá phía trước.
“Nhìn kìa”, anh nói, và chỉ tay. “Chúng ta đến
đây rồi.”
Sienna lắc đầu. “Như em đã nói. Phủ nhận.”
Nhà lưu niệm Casa di Dante nằm trên phố Via Santa
Margherita và dễ nhận ra nhờ lá cờ lớn được treo trên mặt tiền bằng đá trong
hẻm:
MUSEO CASA DI DANTE
Sienna nhìn lá cờ với vẻ không lấy gì làm chắc chắn:
Chúng ta sẽ tới nhà Dante ư?”
“Không hẳn”, Langdon nói. “Dante sống ở góc phố
kia. Đây đúng hơn là bảo tàng… Dante.” Langdon đã từng tham quan địa điểm này,
rất háo hức với bộ sưu tập nghệ thuật mà hóa ra chỉ gồm những phiên bản tái tạo
lại các tác phẩm nổi tiếng có liên quan đến Dante trên khắp thế giới, nhưng rất
đáng xem khi tất cả những thứ ấy được gom lại dưới cùng một mái nhà.
Đột nhiên trông Sienna đầy vẻ hy vọng. “Anh nghĩ
họ có trưng bày một bản Thần khúc cổ à?”
Langdon cười khan. “Không, nhưng anh biết họ có
một cửa hàng quà tặng bán những bưu thiếp cỡ lớn đăng nguyên vẹn nội dung Thần
khúc của Dante với cỡ chữ rất nhỏ.”
Cô liếc nhìn anh hơi có phần kinh hãi.
“Anh biết. Nhưng thế còn hơn không. Vấn đề duy
nhất là mắt anh đang kém cho nên em sẽ phải đọc bản in đó.”
“Đóng cửa”, một ông già gọi to khi nhìn thấy họ
tiến đến cửa. “Nghỉ ngày lễ.”
Đóng cửa nghỉ ngày Sabbath ư? Langdon bỗng lại
cảm thấy mất phương hướng. Anh nhìn Sienna. “Hôm nay không phải là… thứ Hai
sao?”
Cô gật đầu. “Dân Florence chọn ngày Sabbath vào
thứ Hai.”
Langdon làu bàu, chợt nhớ ra lịch tuần khác hẳn
của thành phố này. Vì lợi nhuận du lịch tăng nhanh vào ngày cuối tuần nên nhiều
thương gia ở Florence
chọn chuyển “ngày nghỉ ngơi” theo Thiên Chúa giáo từ Chủ nhật sang thứ Hai để
tránh nghỉ lễ Sabbath làm ảnh hưởng quá nhiều đến thu nhập của mình.
Thật không may, Langdon nhận ra, điều này cũng có
thể làm tiêu tan lựa chọn khác của anh: Cửa hàng trao đổi sách bìa mềm – một
trong những cửa hàng sách ở Florence
mà Langdon ưa chuộng – nơi chắc chắn có sẵn các bản Thần khúc.
“Anh còn ý tưởng nào khác không?”, Sienna nói.
Langdon nghĩ một lúc lâu và cuối cùng gật đầu.
“Có một chỗ ở ngay góc phố nơi những người mến mộ Dante thường tụ họp. Anh cá
là ở đó có người có bản sách để chúng ta mượn.”
“Có thể cũng đóng cửa đấy”, Sienna dè chừng. “Gần
như mọi chỗ trong thành phố đều chuyển ngày Sabbath sang ngày khác Chủ nhật.”
“Nơi này thì không hề nghĩ đến việc đó đâu”,
Langdon mỉm cười đáp. “Đó là nhà thờ.”
Phía sau họ năm mươi thước, ẩn mình trong đám
đông, người đàn ông bị phát ban trên da và đeo khuyên tai vàng đứng dựa vào một
bức tường, tranh thủ cơ hội này để lấy lại nhịp thở. Nhưng tình trạng của ông
ta không khá hơn được, và triệu chứng phát ban trên mặt gần như không thể xem
thường, đặc biệt là phần da nhạy cảm ngay bên trên mắt. Ông ta tháo bỏ cặp kính
Plume Paris và khẽ lấy tay áo lau qua hốc mắt, cố gắng không làm mụn vỡ bung.
Lúc đeo lại kính, ông ta thấy “con mồi” của mình lại tiếp tục di chuyển. Ông ta
gượng bám theo, tiếp tục đi sau họ, cố gắng thở nhẹ nhàng hết mức.
Cách phía sau Langdon và Sienna vài dãy nhà, bên
trong Sảnh Năm trăm, đặc vụ Brũder đứng phía trên thân thể mềm oặt của người
đàn bà đầu đinh đã quá quen thuộc, lúc này đang nằm rũ trên nền nhà. Gã quỳ
xuống và gỡ lấy khẩu súng ngắn của ả, thận trọn khóa chốt an toàn trước khi
trao cho một người của mình.
Cô quản lý bảo tàng bụng mang dạ chửa Marta
Alvarez đứng cách xa một bên. Cô vừa kể vắn tắt lại cho Brũder nghe mọi chuyện
diễn ra với Robert Langdon kể từ đêm hôm trước, kể cả chi tiết Brũder vẫn đang
cố gắng xử lý.
Langdon cho biết đang bị chứng quên tạm thời.
Brũder rút điện thoại và bấm số. Đầu dây bên kia
đổ chuông ba lần thì có tiếng sếp của gã trả lời, nghe xa xăm và không lấy gì
làm quyết đoán.
“Ừ, đặc vụ Brũder hả? Nói đi.”
Brũder nói thật chậm rãi để bảo đảm rằng mọi lời
của gã đều được hiểu rõ. “Chúng tôi vẫn đang cố gắng xác định vị trí của
Langdon và cô gái, nhưng có một tình tiết khác.” Gã ngừng lại. “Và nếu như điều
đó đúng thì… nó làm thay đổi mọi chuyện.”
Thị trưởng đi tới đi lui trong văn phòng của
mình, cố kìm cơn thôi thúc muốn rót thêm một ly Scotch nữa, và cố ép mình phải
đối diện với cuộc khủng hoảng vẫn tiếp diễn này.
Trong sự nghiệp, chưa bao giờ ông ta phản bội
khách hàng hoặc không giữ đúng thỏa ước, và chắc chắn ông ta không có ý định
như vậy vào lúc này. Đồng thời ông ta cũng ngờ rằng có thể mình đang bị vướng
vào một kịch bản có mục đích, lôi kéo ông ta rời xa những gì đã hình dung ban
đầu.
Một năm trước, nhà di truyền học nổi tiếng
Bertrand Zobrist xuất hiện trên tàu The Mendadium và đề nghị có một nơi ẩn náu
an toàn để làm việc. Lúc đó, Thị trưởng cho rằng Zobrist đang lên kế hoạch phát
triển một sản phẩm y học bí mật mà quyền sáng chế sẽ làm tăng khối tài sản
khổng lồ cho Zobrist. Đó không phải là lần đầu Consortium được các nhà khoa học
và kỹ sư hoang tưởng thích làm việc biệt lập thuê để tránh việc những ý tưởng
giá trị của họ bị đánh cắp.
Với suy nghĩ đó, Thị trưởng chấp nhận vị khách và
không lấy gì làm ngạc nhiên khi biết rằng những người ở Tổ chức Y tế Thế giới
săn lùng Zobrist. Thị trưởng cũng không suy nghĩ gì thêm khi đích thân Giám đốc
WHO- tiến sĩ Elizabeth Sinskey – có vẻ xem việc tìm ra vị khách của họ là nhiệm
vụ riêng của bà.
Consortium vẫn luôn phải đối mặt với những đối
thủ quyền lực.
Như đã thỏa thuận, Consortium thực hiện hợp đồng
của mình với Zobrist, không hề đặt câu hỏi gì, ngăn cản mọi nỗ lực của Sinskey
nhằm tìm ra ông ta trong suốt thời gian bản hợp đồng đã ký với nhà khoa học có
hiệu lực.
Gần như trọn thời gian.
Còn chưa đầy một tuần trước khi bản hợp đồng hết
hạn, không hiểu bằng cách nào mà Sinskey tìm ra Zobrist ở Florence và ập đến,
liên tục quấy nhiễu và truy đuổi ông ta cho tới khi ông ta tự sát. Lần đầu tiên
trong sự nghiệp, Thị trưởng thất bại trong việc cung cấp dịch vụ bảo vệ mà mình
đã thỏa thuận, và điều đó ám ảnh ông ta, cùng với cái chết kỳ quái của Zobrist.
Ông ta tự sát chứ nhất định không chịu để bị bắt
ư?
Zobrist đang cố bảo vệ cái quái gì nhỉ?
Sau cái chết của Zobrist, Sinskey đã tịch thu một
thứ lấy được từ két an toàn của Zobrist, và giờ đây, Consortium lao vào một
cuộc chiến trực tiếp với Sinskey tại Florence – tìm kiếm một kho báu đáng giá…
Tìm kiếm cái gì?
Theo bản năng, Thị trưởng liếc nhìn về phía giá
sách và tập sách nặng trịch được tay Zobrist có cặp mắt man dại trao cho ông ta
hai tuần trước.
Thần khúc.
Thị trưởng vớ lấy cuốn sách và mang nó trở lại
bàn làm việc của mình, rồi nặng nề vứt nó xuống. Bằng mấy ngón tay đầy do dự,
ông ta lật giở bìa sách tới trang đầu tiên và đọc lại câu đề tặng.
“Bạn thân mến của tôi, cảm ơn bạn vì đã giúp tôi
tìm ra đường đi
Thế giới cũng cảm ơn bạn.”
Trước hết, Thị trưởng nghĩ thầm, ông và ta chưa
bao giờ là bạn bè.
Ông ta đọc câu đề tặng thêm ba lần nữa. Rồi ông
ta đưa mắt nhìn cái vòng tròn đỏ tươi mà vị khách đã khoanh nguệch ngoạc trên
cuốn lịch, chỉ rõ ngày đến hẹn – ngày mai.
Thế giới cảm ơn bạn ư?
Ông ta quay đầu nhìn ra đường chân trời một lúc
lâu.
Ông im lặng nghĩ về đoạn video và như vẫn nghe rõ
tiếng điều phối viên Knowlton trong cuộc điện đàm trước đó. Tôi nghĩ có lẽ ngài
cần xem trước khi đưa lên… Nội dung khá phiền phức.
Cuộc gọi vẫn còn khiến Thị trưởng khó xử.
Knowlton là một trong những điều phối viên giỏi nhất của ông ta, và việc đề
nghị như vậy hoàn toàn không phải là tích cách của anh ta. Anh ta biết tốt hơn
hết là nên trình lên cấp cao hơn trong quy trình nhiều cấp.
Đặt cuốn Thần khúc lên giá, Thị trưởng bước lại
chỗ chai Scotch và rót cho mình nửa ly.
Ông ta đưa ra một quyết định rất khó khăn.
Vẫn được xem như Nhà thờ Dante, thánh đường Santa
Margherita dei Cerchi giống một nhà nguyện hơn là một nhà thờ. Căn nhà thờ cúng
nhỏ xíu chỉ có một gian này là địa điểm quen thuộc với những người hâm mộ
Dante, họ thành kính coi đó như một thánh địa, nơi diễn ra hai thời khắc then
chốt trong cuộc đời của đại thi hào.
Theo lời kể, chính tại nhà thờ này, năm lên chín
tuổi, lần đầu tiên Dante để mắt đến Beatrice Portinari – người phụ nữ mà ông
phải lòng ngay từ cái nhìn đầu tiên, và là người ông đau đáu dành trọn trái tim
suốt cả đời. Trước nỗi đau khổ tột cùng của Dante, Beatrice kết hôn với một
người đàn ông khác, và sau đó qua đời khi tuổi đời còn rất trẻ, mới chỉ hai
mươi tư.
Cũng chính tại nhà thờ này, vài năm sau, Dante
kết hôn với Gemma Donati – một phụ nữ theo mô tả của đại văn hào và cũng là thi
sĩ Boccaccio, là người vợ mà Dante đã chọn lầm. Mặc dù có con chung nhưng hai
vợ chồng họ không có nhiều tình cảm dành cho nhau, và sau khi Dante bị trục
xuất, cũng chẳng ai trong số họ sốt sắng muốn gặp lại nhau.
Tình yêu trọn đời của Dante đã và sẽ luôn là nàng
Beatrice Portinari đã đi xa. Dante biết rất ít về Beatrice, nhưng ký ức về nàng
trong ông lại mãnh liệt đến mức bóng ma của nàng đã trở thành cảm hứng cho
những tác phẩm vĩ đại nhất của ông.
La Vita Nuova, tập thờ được ca tụng của Dante,
tràn ngập những dòng thơ tôn vinh “nàng Beatrice thần thánh”. Còn sùng kính hơn
thế nữa, Thần khúc xem Beatrice, chứ không phải ai khác, chính là vị cứu tinh
đã chỉ dẫn Dante đi qua thiên đường. Trong cả hai tác phẩm, Dante đều ao ước
được gặp người phụ nữ mình không thể với tới ấy.
Ngày nay, Nhà thờ Dante trở thành địa điểm linh
thiêng cho những trái tim tan vỡ, đau khổ vì tình yêu của họ không được đền
đáp. Phần mộ của nàng Beatrice nằm ngay bên trong nhà thờ, và ngôi mộ giản dị
đó trở thành một địa điểm hành hương cho cả những người hâm mộ Dante cũng như
những kẻ thất tình.
Sáng hôm nay, Langdon và Sienna tìm đường vượt
qua Florence cổ
kính để tới nhà thờ. Đường phố tiếp tục thu hẹp lại cho tới khi chỉ còn toàn
những lối đi cho khách bộ hành. Một chiếc xe hơi biển đia phương hiếm hoi xuất
hiện, nhích từng phân qua mê cung và buộc khách bộ hành phải nép sát vào những
tòa nhà khi nó đi qua.
“Nhà thờ ngay góc phố kia thôi”, Langdon bảo
Sienna, hy vọng rằng du khách bên trong sẽ có thể giúp đỡ họ. Anh biết cơ hội
tìm ra một hội viên Hội Bác ái tốt bụng lúc này cao hơn. Sienna lấy lại mái tóc
giả của cô và trả Langdon chiếc áo khoác, và cả hai trở lại như bình thường, từ
một tay mê nhạc rock và cô ả đầu trọc biến thành vị giáo sư đại học và một phụ
nữ trẻ đầu tóc gọn gàng.
Langdon thấy nhẹ nhõm hẳn khi lại được là chính
mình.
Khi họ rảo bước vào một ngõ phố còn chật chội hơn
nữa – Via del Presto – Langdon đưa mắt nhìn các khuôn cửa. Lối vào nhà thờ lúc
nào cũng khó xác định vì bản thân căn nhà quá nhỏ, không được trang hoàng gì,
và bị ép chặt giữa hai tòa nhà khác. Người ta có thể đi qua nó mà không hề chú
ý. Có điều lạ là tìm ra nhà thờ này không phải bằng mắt mà bằng tai thường lại
dễ dàng hơn.
Một trong những đặc điểm riêng của Nhà thờ Santa
Margherita dei Cerchi là nơi này thường xuyên diễn ra các buổi hòa nhạc. Những
khi không có lịch hòa nhạc, nhà thờ thường chơi lại bản thu các buổi hòa nhạc
trước đó để khách tham quan có thể thưởng thức âm nhạc bất kỳ lúc nào.
Đúng như dự tính, khi cả hai dọc theo ngõ phố,
Langdon bắt đầu nghe thấy giai điệu nhẹ nhàng của các bản thu âm, càng lúc càng
rõ hơn, cho tới khi anh và Sienna đứng trước lối vào kín đáo. Dấu hiệu duy nhất
cho thấy đây là địa điểm cần tìm chỉ là một tấm biển nhỏ - một thứ hoàn toàn
tương phản với lá cờ đỏ rực ở Museo Casa di Dante – cho biết đây là nhà thờ của
Dante và Beatrice.
Khi Langdon và Sienna rời khỏi phố để bước vào
khoảng tối của nhà thờ, không khí mát dịu hẳn và tiếng nhạc nghe rõ hơn. Không
gian bên trong mộc mạc và giản dị, nhỏ hơn những gì Langdon còn nhớ. Chỉ có một
vài khách du lịch, hòa vào nhau, người ghi sổ tay, người ngồi lặng lẽ trên
những dãy ghế dài thưởng thức âm nhạc, hoặc chiêm ngưỡng bộ sưu tập tác phẩm
nghệ thuật.
Ngoại trừ phần bàn thờ do Neri di Bicci vẽ mang
đề tài Đức mẹ Maria, gần như tất cả các tác phẩm nghệ thuật nguyên gốc trong
nhà thờ này đều được thay thế bằng những tác phẩm đương đại nói về hai nhân vật
nổi tiếng – Dante và Beatrice – vốn là lý do để đa phần du khách tìm tới nhà
thờ nhỏ bé này. Hầu hết các tranh vẽ đều mô tả ánh mắt khát khao của Dante
trong lần hội ngộ đầu tiên với Beatrice, mà theo chính lời kể của thi hào, ngay
lập tức ông đã phải lòng nàng. Chất lượng các bức vẽ rất khác biệt và đa phần,
theo cảm nhận của Langdon, có vẻ hào nhoáng và đặt không đúng chỗ. Trong cách
bài trí như thế, chiếc mũ đỏ với hai vạt che tai nổi tiếng của Dante trông như
thứ gì đó đánh cắp của ông già Noel. Tuy nhiên, chủ đề lặp đi lặp lại nhiều là
ánh mắt khao khát của thi hào dành cho nàng thơ của ông, Beatrice, cho thấy rõ
ràng đây là một nhà thờ của tình yêu đau khổ - không được viên mãn, không được
đền đáp, và không thể với tới.
Theo bản năng, Langdon ngó sang bên trái, chăm
chú nhìn ngôi mộ khiêm nhường của Beatrice Portinari. Đây là lý do chính để
người ta tới thăm nhà thờ này, mặc dù chẳng có gì nhiều để xem ngoài ngôi mộ và
món đồ nổi tiếng đặt bên cạnh nó.
Một chiếc giỏ bằng liễu gai.
Sáng nay, như mọi khi, chiếc giỏ liễu gai giản dị
được đặt cạnh mộ Beatrice. Và sáng nay, như mọi khi, nó đựng đầy những mảnh
giấy gấp lại, mỗi mảnh là một lá thư viết tay của một vị khách gửi cho nàng
Beatrice.
Beatrice Portinari tựa hồ đã trở thành vị thánh
bảo trợ của những người tình không may mắn, và theo truyền thống đã có từ lâu,
người ta có thể đặt những lời nguyện cầu viết tay gửi cho Beatrice vào trong
giỏ với hy vọng rằng nàng sẽ can thiệp nhân danh người viết. Có lẽ nàng sẽ run
rủi cho ai đó yêu họ hơn nữa, hoặc giúp họ tìm thấy tình yêu đích thực của
mình, hoặc thậm chí cho họ sức mạnh quên đi mối tình đã mất.
Từ nhiều năm trước, khi khổ sở lùng tìm một cuốn
sách về lịch sử nghệ thuật, Langdon đã dừng lại nhà thờ này để đặt một mảnh
giấy vào giỏ, khẩn cầu nàng thơ của Dante đừng ban cho anh tình yêu đích thực,
mà tặng cho anh một phần cảm hứng đã giúp Dante viết ra cuốn sách đồ sộ của
ông.
Hãy cất tiếng hát trong ta, hỡi Nàng thơ, và qua
ta kể lại câu chuyện…
Dòng mở đầu trong trường ca Odyssey của Homer
dường như chính là lời khẩn cầu rất thích hợp, và Langdon thầm tin bức thư của
anh đã đánh thức nguồn cảm hứng thiêng liêng của Beatrice, vì ngay khi trở về
nhà, anh đã bất ngờ viết ra cuốn sách một cách dễ dàng.
“Xin lỗi!”, giọng Sienna đột ngột vang lên. “Mọi
người vui lòng cho tôi hỏi chút được không?” Tất cả mọi người sao?
Langdon xoay lại nhìn Sienna đang lớn tiếng nói
với số du khách tản mát, khiến tất cả đều nhìn về phía cô, có vẻ gì đó cảnh
giác..
Sienna mỉm cười thân thiện với mọi người và hỏi
bằng tiếng Ý xem có ai tình cờ có bản Thần khúc của Dante không. Sau vài ánh
mắt lạ lùng và những cái lắc đầu, cô cố gắng hỏi lại bằng tiếng Anh, nhưng cũng
chẳng hơn gì.
Một phụ nữ đứng tuổi hơn đang quét bàn thờ suỵt
rất to với Sienna và giơ một ngón tay lên môi ra hiệu im lặng.
Sienna quay lại phía Langdon và cau mày, như thể
muốn nói “Giờ thì làm sao?”
Lời hỏi han của Sienna hoàn toàn không phải là
điều Langdon hình dung trong đầu, nhưng anh phải thừa nhận rằng anh dự liệu cô
nhận được phản ứng tốt đẹp hơn so với những gì vừa rồi. Trong những lần tới
thăm trước, Langdon thấy không ít du khách đang đọc Thần khúc trong không gian
thiêng liêng này, rõ ràng vì muốn hoàn toàn chìm trong trải nghiệm của Dante.
Hôm nay thì không hề như vậy.
Langdon đưa mắt nhìn một cặp vợ chồng già đang
ngồi gần phía trước nhà thờ. Cái đầu hói của ông cụ cúi gập về phía trước, cằm
chạm hẳn vào ngực, rõ ràng ông đang ngủ gật. Bà cụ ngồi bên cạnh ông, với hai
sợi cáp tai nghe màu trắng lủng lẳng bên dưới mái đầu bạc, dường như rất tỉnh
táo.
Có chút hy vọng đây, Langdon nghĩ bụng, len theo
lối đi cho tới khi ở vị trí song song với cặp vợ chồng già. Đúng như Langdon hy
vọng, đôi tai nghe màu trắng của bà cụ chạy xuống một chiếc iPhone đặt trên
đùi. Cảm giác đang bị người khác nhìn, bà ngước lên và rút tai nghe ra.
Langdon không rõ bà cụ nói ngôn ngữ gì, nhưng
thành công toàn cầu của iPhone, iPad và iPod khiến những tên gọi này trở thành
những từ vựng hiểu được trên khắp thế giới giống như biểu tượng nam/nữ ở các
nhà vệ sinh trên toàn cầu.
“iphone?”, Langdon hỏi, mắt nhìn chiếc máy của
bà.
Bà cụ lập tức tươi nét mặt, gật đầu đầy tự hào.
“Một thứ đồ chơi thông minh”, bà thì thào bằng giọng Anh. “Con trai tôi tặng
cho tôi đấy. Tôi đang nghe email của mình. Anh có tin không – nghe email của
tôi nhé! Báu vật nhỏ xinh này đọc thư cho tôi nghe. Với đôi mắt kèm nhèm của
tôi thì điều đó đúng là tuyệt vời.”
“Cháu cũng có một cái”, Langdon mỉm cười nói
trong lúc ngồi xuống cạnh bà, cẩn thận không làm ông chồng đang say ngủ của bà
tỉnh giấc. Nhưng chẳng hiểu sao cháu lại để mất nó tối qua.”
“Ôi, tệ quá! Cậu đã thử tính năng ‘tìm kiếm iPhone”
chưa? Con trai tôi nói…”
“Cháu dốt quá, cháu chưa kích hoạt tính năng ấy.”
Langdon nhìn bà bẽn lẽn và ngập ngừng đánh bạo, “Nếu không quá phiền, bác làm
ơn cho cháu mượn máy của bác chỉ một lát thôi được không? Cháu cần tra cứu một
thứ trên mạng. Việc đó giúp cháu rất nhiều.”
“Được thôi!” Bà cụ tháo tai nghe và nhét điện
thoại vào tay anh. “Không có gì đâu! Tội nghiệp cậu.”
Langdon cảm ơn bà và cầm lấy điện thoại. Trong
khi bà cụ bên cạnh anh kể lể về việc bà sẽ cảm thấy kinh khủng như thế nào nếu
đánh mất chiếc iPhone, Langdon mở cửa sổ tìm kiếm của Google và nhấn nút
microphone. Khi điện thoại phát ra một tiếng kêu, Langdon đọc thật rõ ràng
chuỗi tìm kiếm của mình.
“Dante, Thần khúc, Thiên đường, Khổ XXV.”
Bà cụ tỏ ra kinh ngạc, rõ ràng vẫn chưa hề biết
về tính năng này. Khi các kết quả tìm kiếm bắt đầu xuất hiện trên màn hình bé
xíu, Langdon liếc nhanh về phía Sienna, lúc này đang lật giở một tài liệu in gì
đó gần cái giỏ thư gửi cho Beatrice.
Không xa chỗ Sienna đứng, một người đàn ông đeo
cà vạt đang quỳ trong bóng tối, thành tâm cầu nguyện, đầu cúi thấp. Langdon
không thể nhìn rõ mặt ông ta, nhưng anh cảm thấy buồn thay cho người đàn ông cô
độc có lẽ vừa đánh mất người mình yêu thương và đến đây để tìm chút an ủi.
Langdon tập trung trở lại chiếc Iphone, và chỉ
sau vài giây đã có thể chọn đường dẫn tới một địa chỉ cung cấp bản Thần khúc số
hóa truy cập miễn phí, vì tác phẩm thuộc sở hữu công cộng rồi. Khi trang màn
hình mở ra đúng Khổ XXV, anh phải thừa nhận rằng công nghệ anh vừa sử dụng rất
ấn tượng. Mình đến phải chấm dứt việc làm một gã khờ quá coi trọng những cuốn
sách bọc da, anh tự nhủ. Sách điện tử thực sự có ưu thế riêng.
Trong khi bà cụ nhìn lên, mặt có phần lo lắng và
nói gì đó về chuyện giá cước dữ liệu cao khi lướt mạng Internet ở nước ngoài,
Langdon cảm thấy cánh cửa cơ hội của mình rất hẹp, và anh chăm chú tập trung
vào trong web trước mặt.
Văn bản rất nhỏ, nhưng ánh sáng lờ mờ trong nhà
nguyện khiến cho màn hình được chiếu sáng dễ nhìn hơn. Langdon rất hài lòng khi
tình cờ vào đúng bản dịch của Mandelbaum – một bản dịch hiện đại rất thịnh hành
do giáo sư quá cố người Mỹ Allen Mandelbaum thực hiện. Vì bản dịch xuất sắc
này, Mandelbaum đã nhận được vinh dự cao nhất của nước Ý, Huân Chương Ngôi sao
Đoàn kết Italia. Mặc dù phải thừa nhận bản dịch của ông ít tính thi ca hơn bản
của Longfellow nhưng nó lại có vẻ dễ lĩnh hội hơn.
Hôm nay mình cần ý nghĩa sáng sủa hơn là thi
pháp, Langdon nghĩ thầm, hy vọng nhanh chóng tìm ra trong nội dung văn bản chi
tiết ám chỉ đến một địa điểm cụ thể ở Florence
– nơi Ignazio giấu chiếc mặt nạ người chết của Dante.
Màn hình bé xíu của chiếc iPhone chỉ hiển thị
được sáu dòng văn tự một lúc, và khi bắt đầu đọc, Langdon nhớ lại cả đoạn.
Trong phần mở đầu của Khổ XXV, Dante nhắc đến chính Thần khúc, nỗi mất mát vật chất
mà ông phải chấp nhận khi viết tác phẩm, và niềm hy vọng trong đau đớn rằng có
lẽ trường ca tuyệt vời của ông có thể chiến thắng được bản án trục xuất nghiệt
ngã đến tàn bạo, đẩy ông rời xa khỏi Florence yêu thương.
KHỔ XXV
“Nếu điều đó xảy ra… nếu bài thơ thiêng liêng này
–
tác phẩm được cả thiên đường và mặt đất chia sẻ
làm cho ta hao gầy qua những năm mặt đằng đẵng –
có thể vượt qua sự bạo tàn
đã ngăn cản ta với quê hương yêu dấu nơi ta nằm
ngủ,
một chú cừu chống lại cả đàn sói hằm hè…”
Dù đoạn thơ này là chi tiết gợi nhớ rằng Florence
chính là quê hương mà Dante nhung nhớ khi viết Thần khúc, nhưng Langdon chẳng
thấy chỗ nào nói đến một địa điểm cụ thể trong thành phố.
“Cậu biết gì về mức cước phí dữ liệu không?”, bà
cụ xen vào, mắt nhìn chiếc iPhone của mình với vẻ sốt ruột thấy rõ. “Tôi vừa
nhớ ra con trai tôi dặn hãy cẩn thận khi lướt web ở nước ngoài.”
Langdon trấn an bà rằng anh sẽ chỉ dùng một phút
nữa và đề nghị thanh toán tiền cho bà, nhưng cho dù như vậy, anh vẫn cảm thấy
bà cụ sẽ chẳng bao giờ để anh đọc hết cả một trăm dòng của Khổ XXV.
Anh nhanh chóng chuyển xuống sáu dòng tiếp theo
và tiếp tục đọc.
“Khi đó cùng với giọng nói khác, mái tóc khác,
Ta sẽ trở về như một thi sĩ và đội lên,
ngay bồn nước rửa tội của ta, chiếc vương miện
nguyệt quế;
vì ở đó lần đầu tiên ta thấy lối vào đức tin
thứ giúp cho các linh hồn được Chúa đón chào, và
khi đó,
với đức tin ấy, thánh Peter đặt vòng hoa lên trán
ta.”
Langdon cũng chỉ nhớ láng máng đoạn này – một
cách ám chỉ vòng vo đến thỏa thuận chính trị mà các kẻ thù của Dante đưa ra cho
ông. Theo lịch sử, “đàn sói” xua đuổi Dante khỏi Florence đã tuyên bố ông có
thể quay về thành phố chỉ khi nào ông đồng ý chập nhận sỉ nhục công khai - tức
là đứng trước toàn thể giáo đoàn, một mình chỗ bồn nước rửa tội và chỉ được
khoác áo vải bố, như một cách thừa nhận lỗi lầm của mình.
Trong đoạn thơ Langdon vừa đọc, Dante, sau khi
khước từ thỏa thuận ấy, đã tuyên bố rằng nếu ông trở về bồn nước rửa tội của
mình, ông sẽ không mặc áo vải bố của một kẻ có tội mà là vương miện nguyệt quế
của một thi sĩ.
Langdon đưa ngón dướidướitay trỏ kéo xuống tiếp,
nhưng bà cụ bất ngờ phản đối, chìa tay về phía chiếc iPhone, rõ ràng đã nghĩ
lại việc cho mượn máy.
Langdon không nghe thấy gì. Trong tích tắc trước
khi anh chạm được vào màn hình, mắt anh lướt qua một dòng văn bản mà anh đã
nhìn thấy lần thứ hai.
“Ta sẽ trở về như một thi sĩ và đội lên,
ngay bồn nước rửa tội của ta, chiếc vương miện
nguyệt quế…”
Langdon đăm đăm nhìn những con chữ, thấy rõ trong
tâm trạng nôn nóng tìm kiếm chi tiết nhắc đến một địa điểm cụ thể, anh gần như
đã bỏ qua một khả năng ngay trong những dòng mở đầu.
“ngay bồn nước rửa tội”
Florence là quê hương của những bồn nước rửa tội
được tôn vinh nhiều nhất trên thế giới, nơi đã được sử dụng trong suốt hơn bảy
trăm năm để thanh tẩy và rửa tội cho những công dân Florence trẻ tuổi – trong
số đó có cả Dante Alighieri.
Langdon lập tức nhớ tới hình ảnh công trình có
bồn nước đó. Đó là một dinh thự bát giác rất đẹp, còn tuyệt vời hơn cả Duomo ở
nhiều khía cạnh. Giờ anh tự hỏi có phải mình đã đọc được tất cả những gì cần
đọc hay không.
Phải chăng tòa nhà ấy là địa điểm Ignazio nói
đến?
Một tia sáng lóe lên trong tâm trí Langdon khi
một hình ảnh diễm lệ hiện ra – dãy cánh cửa đồng ấn tượng – lấp lánh tỏa sáng
trong ánh mặt trời buổi sớm.
Mình biết Ignazio đang cố gắng nói gì với mình
rồi!
Mọi ngờ vực còn sót lại đều tan biến ngay sau đó
khi anh nhớ ra rằng Ignazio Busoni là một trong những người hiếm hoi ở Florence
có thể mở được những cánh cửa đó.
Robert, cổng đã mở cho anh, nhưng anh phải nhanh
lên.
Langdon trao chiếc iPhone lại cho bà cụ và hết
lời cảm ơn bà.
Anh chạy lại chỗ Sienna và nói nhỏ đầy phấn khởi,
“ Anh biết Ignazio nói về cánh cổng nào rồi! Cổng Thiên đường!”
Sienna tỏ vẻ hồ nghi. “Cổng Thiên đường à? Chúng
không nằm…trên thiên đường chứ?”
“Thực ra”, Langdon nói, cười chế nhạo và tiến
thẳng ra cửa, “nếu em biết nơi nào cần thăm thì Florence chính là thiên đường”.
“Ta sẽ trở về như một thi sĩ… ngay bồn nước rửa
tội của ta.”
Những lời Dante liên tục dội lên trong tâm trí
Langdon khi anh dẫn Sienna đi về phía bắc, men theo một lối đi hẹp mang tên Via
dello Studio. Đích đến của họ nằm ở phía trước, và cứ mỗi bước đi, Langdon lại
thêm tự tin rằng họ đang đi đúng đường và bỏ lại những kẻ đeo bám phía sau.
Cổng đã mở cho anh, nhưng anh phải nhanh lên.
Khi họ đến gần cuối ngõ phố sâu như một vực thẳm,
Langdon nghe thấy âm thanh nhộn nhạo của hoạt động phía trước. Đột ngột, đầu
kia ngõ phố kết thúc, và họ thoát ra một không gian rộng rãi.
Quảng trường Duomo.
Khu quảng trường mênh mông cùng với hệ thống các
kiến trúc phức tạp này là trung tâm du lịch, quảng trường nhộn nhịp toàn xe bus
chở du khách cùng từng đoàn tham quan nhà thờ lớn danh tiếng của Florence.
Đi đến mé phía nam của quảng trường, lúc này
Langdon và Sienna đứng đối diện hông nhà thờ với phần bên ngoài ốp cẩm thạch
xanh lục, hồng và trắng lộng lẫy. Với quy mô cũng như kiến trúc nghệ thuật
khiến người ta phải nín thở, tất cả các chiều của nhà thờ đều vươn dài đến mức
gần như phi thường, tổng chiều dài của nó gần ngang bằng với Đài tưởng niệm
Washington nếu nằm cạnh nhau.
Mặc dù đã từ bỏ kiểu chạm khắc đá cầu kỳ đơn sắc
truyền thống để tiếp nhận kiểu pha trộn nhiều màu sắc, công trình này vẫn thuần
túy theo phong cách Gothic – cổ kính, đồ sộ, và bền vững. Phải thừa nhận, ngay
từ lần đầu tiên đến Florence, Langdon đã thấy công trình này vô cùng hoàn mỹ.
Tuy nhiên, trong những chuyến tiếp theo, anh đều phải bỏ ra hàng giờ nghiên cứu
công trình, bị cuốn hút bởi những hiệu ứng mỹ thuật khác thường, và thán phục
vẻ đẹp ngoạn mục của nó.
Nhà thờ II Duomo – hay gọi một cách trịnh trọng
hơn là Vương cung Thánh đường Santa Maria del Fiore – ngoài việc cho Ignazio
một biệt danh, thì từ lâu cũng đem lại cho Florence không chỉ một trái tim tinh
thần mà còn cả hàng thế kỷ kịch nghệ và tình tiết. Quá khứ không mấy bình yên
của tòa nhà này xuất phát từ những cuộc tranh luận kéo dài và căng thẳng về bức
bích họa bị phỉ báng Phán quyết cuối cùng của Vasari bên trong mái vòm tới cuộc
thi quyết liệt nhằm lựa chọn kiến trúc sư để hoàn tất phần mái vòm.
Cuối cùng Filippo Brunelleschi giành được hợp
đồng và hoàn thiện mái vòm – hạng mục lớn nhất thời đó. Hiện nay có thể thấy
tượng của chính Brunelleschi ngồi bên ngoài Cung điện Canonici đang mãn nguyện
nhìn lên kiệt tác của mình.
Sáng hôm nay, khi ngước mắt nhìn lên trời về phía
mái vòm lợp ngói đỏ nổi tiếng, từng là một kỳ công kiến trúc ở thời đại của nó,
Langdon nhớ lại thời khắc ngu ngốc khi anh quyết định leo lên mái vòm để rồi
phát hiện ra rằng những cầu thang chật hẹp đông nghịt khách du lịch của công
trình cũng kinh khủng chẳng kém gì những không gian khép kín mà anh từng gặp
phải. Cho dù như vậy, Langdon vẫn rất biết ơn thử thách mà anh đã chịu đựng khi
leo lên “Mái vòm Brunelleschi”, vì nó khuyến khích anh đọc một cuốn sách thú vị
cùng tên của Ross King.
“Anh Robert?”, Sienna lên tiếng. “Anh đi tiếp
chứ?”
Langdon rời ánh mắt khỏi mái vòm, nhận ra rằng
mình đang đứng giữa đường để chiêm ngưỡng công trình. “Anh xin lỗi.”
Họ tiếp tục di chuyển, men theo mép ngoài của
quảng trường. Thánh đường lúc này ở bên phải họ, và Langdon nhìn thấy du khách
đang túa ra từ các lối thoát bên sườn, gạch bỏ địa điểm này khỏi danh sách
những nơi nhất thiết phải tới tham quan.
Phía đằng trước là hình dáng không thể nhầm lẫn
của một gác chuông – hạng mục thứ hai trong ba công trình nằm trong quần thể
Thánh đường. Vẫn được nhiều người biết đến như là tháp chuông Giotto, gác
chuông này hiển nhiên thuộc về Vương cung Thánh đường kề bên. Được trang điểm
bằng đá ốp màu hồng, xanh lục và trắng giống hệt Thánh đường, tòa tháp vuông
vức vươn lên trời, tới một độ cao chóng mặt, gần một trăm mét. Langdon luôn
kinh ngạc là công trình mảnh mai này lại có thể đứng vững suốt nhiều thế kỷ,
trải qua những trận động đất và thời tiết khắc nghiệt, đặc biệt nếu biết được
đỉnh của nó nặng như thế nào khi phần tháp nhọn trên đỉnh còn đỡ hơn chín tấn
chuông.
Sienna bước nhanh bên cạnh anh, lo lắng lướt mắt
nhìn bầu trời phía sau tòa tháp chuông, rõ ràng đang tìm kiếm chiếc máy bay do
thám, nhưng không thấy nó ở đâu cả. Có khá đông người, dù bây giờ vẫn còn rất
sớm, và Langdon thấy rất nên ẩn mình trong đám đông.
Khi tới gần gác chuông, họ đi qua một dãy họa sĩ
biếm họa đứng bên giá vẽ, phác thảo những hình vẽ trào phúng sặc sỡ của các du
khách – một cậu nhóc mắm môi mắm lợi trên chiếc ván trượt, một cô gái có hàm
răng như ngựa đang cầm cây gậy đánh bóng, một cặp vợ chồng đi hưởng tuần trăng
mật đang hôn nhau trên lưng một con kỳ lân. Langdon thấy rất thú vị là hoạt
động này được phép diễn ra trên chính những viên sỏi thiêng liêng nơi
Michelangelo từng đặt giá vẽ của mình khi còn nhỏ.
Langdon và Sienna tiếp tục đi nhanh quanh chân
tháp chuông Giotto, rẽ sang phải, băng qua quảng trường rộng rãi thẳng tới
trước Vương cung Thánh đường. Ở đây có rất đông du khách từ khắp thế giới đang
chĩa những chiếc điện thoại có máy ảnh và cả những máy quay video về phía mặt
tiền chính sặc sỡ.
Langdon không buồn ngước lên vì anh đã chú ý tới
một công trình nhỏ hơn nhiều vừa xuất hiện trong tầm mắt. Nằm đối diện lối vào
phía trước của Thánh đường là hạng mục thứ ba, cũng là cuối cùng, của quần thể
Vương cung Thánh đường.
Đó cũng là địa điểm ưa chuộng của Langdon.
Nhà rửa tội San Giovanni.
Được trang trí bằng đá ốp cùng loại nhưng nhiều
màu sắc và các trụ bổ tường giống như Thánh đường, Nhà rửa tội khác biệt với
tòa nhà lớn nhờ hình dạng ấn tượng của nó – một hình bát giác hoàn hảo. Giống
như một chiếc bánh ngọt nhiều lớp, theo mô tả của một số người, tòa kiến trúc
tám cạnh này gồm ba tầng rõ rệt vươn cao dần đến phần mái màu trắng.
Langdon biết hình bát giác chẳng liên quan gì đến
thẩm mỹ mà hoàn toàn chỉ mang tính biểu tượng. Trong Thiên Chúa giáo, con số
tám tượng trưng cho sự tái sinh và tái tạo. Hình bát giác còn là hình ảnh gợi
nhớ sáu ngày Chúa sáng tạo ra bầu trời và trái đất, ngày nghỉ Sabbath – Chủ
nhật, và ngày thứ tám khi những người Thiên Chúa giáo được “tái sinh” và “tái
tạo” nhờ lễ rửa tội. Bát giác đã trở thành một hình phổ biến của các nhà rửa
tội trên khắp thế giới.
Mặc dù Langdon coi Nhà rửa tội này là một trong
những tòa nhà ấn tượng nhất Florence nhưng anh vẫn luôn thấy việc lựa chọn địa
điểm này có phần không được bình thường. Nhà rửa tội này, gần như không giống
nơi nào khác trên trái đất, là trung tâm thu hút sự chú ý nếu nằm đơn lẻ. Tuy
nhiên, ở đây, trong cái bóng của hai hạng mục “anh em” kia, Nhà rửa tội tạo ra
ấn tượng về một thứ quá ư tầm thường.
Cho tới khi các vị bước vào bên trong, Langdon
nhủ thầm, hình dung ra phần nội thất chạm khảm tuyệt mỹ đến mức những người
chiêm ngưỡng trước kia đã phải thốt lên rằng trần nhà của Nhà rửa tội chẳng
khác gì thiên đường. Nếu em biết nơi nào cần thăm, Langdon đã nói với Sienna,
thì Florence chính là thiên đường.
Trong nhiều thế kỷ, điện thờ tám cạnh này là nơi
diễn ra lễ rửa tội của vô số nhân vật quyền quý – trong đó có Dante.
Ta sẽ trở về như một thi sĩ… ngay bồn nước rửa
tội của ta.
Do bị trục xuất, Dante chẳng bao giờ được phép
trở về nơi linh thiêng này – nơi ông chịu lễ rửa tội – mặc dù Langdon càng lúc
càng thấy hy vọng rằng chiếc mặt nạ người chết của Dante, trải qua một chuỗi
những sự kiện diễn ra đêm qua, cuối cùng cũng đã thay mặt cho thi hào tìm được
đường trở về.
Nhà rửa tội, Langdon nghĩ.
Đây chắc là nơi Ignazio giấu chiếc mặt nạ trước khi chết. Anh nhớ lại lời nhắn
tuyệt vọng của Ignazio trên điện thoại, và trong một khắc rợn mình, Langdon
hình dung ra người đàn ông béo tốt ôm chặt lấy ngực, lảo đảo băng qua quảng
trường để chui vào một ngõ hẹp, và gọi cuộc điện thoại cuối cùng sau khi cất
chiếc mặt nạ an toàn trong Nhà rửa tội này.
Cổng đã mở cho anh.
Mắt Langdon vẫn dánh chặt vào Nhà rửa tội lúc anh
và Sienna lách qua đám đông. Lúc này Sienna di chuyển với vẻ phấn khích đến mức
Langdon gần như phải rảo chân mới theo kịp. Thậm chí còn cách một quãng nhưng
anh đã có thể nhìn rõ những cánh cửa chính đồ sộ của Nhà rửa tội lấp loáng
trong ánh nắng.
Những cánh cửa cao hơn bốn mét rưỡi chế tác bằng
đồng mạ đã khiến Lorenzo Ghiberti mất hơn hai mươi năm mới hoàn thành. Chúng
đều được trang trí bằng mười ô dày đặc hình ảnh trong Kinh Thánh trang nhã và
tuyệt vời đến mức Giorgio Vasari đã phải tả những cánh cửa này “hoàn hảo không
thể chê ở mọi phương diện và… là kiệt tác tuyệt vời nhất từng được tạo ra”.
Tuy nhiên, chính Michelangelo mới là người đưa ra
lời chứng thực khiến cho những cánh cửa này có biệt danh còn mãi đến tận hôm
nay. Michelangelo đã nhận xét chúng đẹp đến mức rất phù hợp để sử dụng làm…
Cổng Thiên đường.
Linh Thánh bằng đồng, Langdon thầm nghĩ trong lúc
chiêm ngưỡng những cánh cửa tuyệt đẹp trước mắt họ. Cánh cổng Thiên đường lấp
lánh của Ghiberti gồm mười ô vuông, mỗi ô mô tả một cảnh quan trọng rút ra từ
Kinh Cựu ước. Từ vườn Địa đàng tới Moses và đền thờ vua Solomon, câu chuyện kể
bằng hình thức điêu khắc của Ghiberti mở ra qua hai cột dọc, mỗi bên năm ô.
Chuỗi cảnh trí độc đáo tuyệt vời này theo thời
gian đã khởi nguồn cho một hình thức thi tài trong giới nghệ sĩ và sử gia nghệ
thuật, với tất cả mọi người, từ Botticelli tới những nhà phê bình hiện đại, đều
khẳng định sở thích của họ dành cho "ô đẹp nhất". Qua nhiều thế kỷ,
người ta nhất trí chung rằng "quán quân" vẫn là cảnh Jacob và Esau -
ô chính giữ của cột bên trái - được lực chọn vì số lượng phương pháp nghệ thuật
rất ấn tượng cần vận dụng để chế tác nó. Tuy nhiên, Langdon ngờ rằng lý do đích
thực khiến ô này thắng thế là vì Ghiberti đã chọn nó để ký tên mình.
Vài năm trước, Ignazio Busoni đã tự hào cho
Langdon xem những cánh cửa này, ngượng ngùng thừa nhận rằng sau nửa thiên niên
kỷ phơi mình trước lũ lụt, phá hoại và ô nhiễm không khí, những cánh cửa mạ
vàng đã được đổi bằng những bản mô phỏng chính xác, còn bản gốc hiện được cất
giữ an toàn bên trong Bảo tàng Opera del Duomo để tu bổ. Langdon đã lịch sự kìm
nén không nói với Busoni rằng anh biết rất rõ họ đang chiêm ngưỡng đồ giả, và
rằng trên thực tế, những bản sao này là bộ cánh cửa Ghiberti "giả
mạo" thứ hai mà Langdon từng gặp - bộ thứ nhất là khi anh nghiên cứu những
mê cung tại Thánh đường Grace ở San Francisco và tình cờ phát hiện ra rằng bản sao
Cổng Thiên đường của Ghiberti đã được dùng làm cửa trước của Thánh đường này từ
giữa thế kỷ XX.
Khi đứng trước kiệt tác của Ghiberti, mắt anh bị
thu hút bởi tấm biển thông tin ngắn gọn lắp gần đó, bên trên đề một cụm từ đơn
giản bằng tiếng Ý khiến anh chú ý và giật mình.
La peste nera. Cụm từ này có
nghĩa là "Cái chết Đen". Chúa ơi, Langdon nghĩ bụng, nó xuất hiện
khắp mọi nơi mình đến! Theo tấm biển đó, những cánh cửa này được đặt làm
"lễ vật" dâng lên Chúa trời - một biểu hiện tỏ lòng biết ơn vì Người
đã giúp Florence sống sót qua đại dịch.
Langdon cố nhìn lại Cổng
thiên đường trong khi những lời của Ignazio vang lên trong tâm trí anh. Cổng đã
mở cho anh, nhưng anh phải nhanh lên.
Mặc dù Ignazio đã hứa hẹn,
nhưng Cổng thiên đường vẫn đóng chặt như mọi khi, ngoại trừ vào những kỳ nghỉ
lễ tôn giáo hiếm hoi. Bình thường, khách du lịch đi vào Nhà rửa tội từ một bên
khác, qua cửa phía bắc.
Sienna đã nhón chân tới bên
cạnh anh, cố gắng quan sát đám đông. "Không hề có tay nắm cửa”, cô nói.
"Không có lỗ khóa. Chẳng có gì cả."
Đúng, Langdon nghĩ, biết
rằng Ghiberti không có ý định phá hủy kiệt tác của mình bằng một thứ gì đó trần
tục như là tay nắm cửa. "Cánh cửa mở vào trong. Người ta khóa từ bên
trong."
Sienna ngẫm nghĩ một lúc,
rồi mím môi. “Vậy từ ngoài này… không ai biết liệu những cánh cửa này có khóa
hay không.”
Langdon gật đầu. “Anh hy
vọng đó chính là điều Ignazio nghĩ.”
Anh bước vài bước sang bên
phải và nhìn về một cánh cửa ít trang hoàng hơn ở bên sườn phía bắc của tòa nhà
– lối vào dành cho dukhách. Một thuyết trình viên trông có vẻ chán nản đang hút
thuốc ở đó và từ chối trả lời du khách bằng cách chỉ vào tấm biển ở lối vào:
__________________________________________
APERTURA 26 13:00 – 17:00
___________________________________________
Vài giờ nữa mới mở cửa, Langdon
nghĩ và cảm thấy hài lòng. Và chưa có ai ở bên trong.
Theo thói quen, anh nhìn
đồng hồ đeo tay và lại nhớ ra rằng chiếc đồng hồ Chuột Mickey đã biến mất.
Khi anh quay lại chỗ Sienna,
cô đã nhập vào một nhóm du khách đang chụp ảnh qua hàng rào sắt đưọc dựng cách
vài mét phía trước Cổng Thiên đường để ngăn du khách tiếp xúc quá gần kiệt tác
của Ghiberti
Cánh cổng bảo vệ này làm
băng gang đúc maù đen, trên đỉnh gắn những mũi nhọn sơn vàng, và trông chẳng
khác gì những tường rào tư gia đơn giản bao quanh các ngôi nhà vùng ngoai ô.
Buồn cười là tấm biển cung cấp thông tin về Cổng Thiên đường lai không được gắn
trên những cánh cổng đẹp đẽ bằng đồng, mà trên cánh cổng bảo vệ tầm thường.
Langdon đã nghe nói về việc
bố trí tấm biển thong tin đôi khi gây nhầm lẫn cho khách du lịch, và vừa hay có
một phụ nữ mập lùn mặc bộ đồ len hiêu Juicy Couture len qua đám đông, đọc tấm
biển, cau mày nhìn cách cổng gang và chế diễu, “ Cổng thiên đường cơ à? Của
khỉ, trông như hàng rào ngăn chó ở nhà tôi!”. Rồi cô ta lạch bạch bỏ đi khi
chưa ai kịp giải thích điều gì.
Sienna nhích tới và vịn vào
cánh cổng bảo vệ, hờ hững nhòm qua các lan sắt để quan sát kết cấu khóa ở phía
sau.
“Nhìn kìa”, cô thì thào, mở
to mắt, ngoảnh về phia Langdon, “Cái khóa ở phía sau không khóa.”
Langdon cũng nhìn qua rào
sắt và thấy cô nói đúng. Chiếc khóa đặt ở vị trí như thể đã khóa chặt, nhưng
khi nhìn gần hơn, anh có thể thấy nó hoàn toàn không khóa.
Cổng đã mở cho anh, nhưng
anh phải nhanh lên.
Langdon ngước mắt nhìn Cổng
Thiên đường phía sau hàng rào. Nếu đúng là Ignazio để ngỏ những cánh cửa đồ sộ
của Nhà rửa tội thì chỉ việc đẩy là chúng mở ra. Tuy nhiên, lọt được vào trong
mà không gây chú ý cho tất cả mọi người trên quảng trường, đương nhiên bao gồm
cả cảnh sát và bảo vệ của Duomo, mới là việc khó khăn.
“Nhìn kìa!”, một phụ nữ đột
nhiên kêu ré lên ở gần đó. “Anh ta sắp nhảy!” Giọng cô ấy đầy kinh hãi. “Tháp
chuồn đằng kia kìa!”
Langdon rời mắt khỏi những
cánh cửa, và nhìn thấy người phụ nữ đang hét lên…chính là Sienna. Cô đứng cách
đó năm thước, tay chỉ về phía tháp chuông Giotto và kêu to, “Ở trên đỉnh ấy!
Anh ta sắp nhảy!”.
Mọi cặp mắt đều ngước lên
trời, tìm kiếm trên đỉnh tháp chuông. Gần đó, những người khác bắt đầu chỉ trỏ,
nheo mắt, hỏi nhau.
“Có ai đó định nhảy xuống
à?!”
“Đâu cơ?!”
“Tôi không nhìn thấy anh
ta!”
“Trên kia, ở bên trái phải
không?!”
Chỉ mất vài giây, mọi người
trên khắp quảng trường đều cảm thấy hoảng loạn và có chung hành động – cùng
ngước nhìn lên đỉnh tháp chuông. Với tốc độ của đám cháy đang thiêu rụi một
cánh dồng cỏ khô, tâm lý sợ hãi lan khắp quảng trường cho tới khi toàn bộ đám
đông đều ngóng cổ, nhìn lên, và chỉ trỏ.
Tiếp thị kiểu lây lan,
Langdon nghĩ, biết rằng anh chỉ có một khắc để hành động. Lập tức, anh nắm lấy
hàng rào gang đúc rồi đẩy nó mở ra vừa lúc Sienna trở lại bên cạnh anh và cùng
anh lách vào không gian chật chội phía sau. Khi đã đóng lại cổng phía sau, họ
quay lại đối diện với những cánh cửa bằng đồng cao bốn mét rưỡi. Hy vọng đã
hiểu đúng lời Ignazio, Langdon tì vai vào một bên cánh cửa đồ sộ và đạp mạnh
chân.
Chẳng có gì xảy ra, và rồi,
rất từ từ, cánh cửa nặng nề bắt đầu nhúc nhích. Cánh cửa đã mở! Cổng Thiên
đường mở khoảng ba mươi phân, và Sienna không bỏ phí thời gian nghiêng người
lách qua. Langdon cũng theo sát, nghiêng mình lách qua khe hở rất hẹp để tiến
vào không gian tối om của Nhà rửa tội.
Họ cùng quay đầu và đảy cánh
cửa theo hướng ngược lại, nhanh chóng khép cánh cổng đồ sộ lại bằng một lực dứt
khoát. Lập tức, tiếng ồn ào hỗn loạn bên ngoài im bặt, chỉ còn sự im lặng.
Sienna chỉ thanh xà gỗ dài
trên sàn dưới chân họ, rõ ràng vẫn được đặt vào các hốc tường hai bên cửa để
làm then. “Chắc Ignazio đã tháo nó cho anh”, cô nói.
Họ cùng nâng thanh xà và đặt
trở lại hốc, khóa chặt Cổng Thiên đường và nhốt họ anh toàn bên trong.
Langdon và Sienna im lặng
đứng lúc lâu, dựa vào cửa và lấy lại nhịp thở. SO với những tiếng ồn ào của
quảng trường bên ngoài, bên trong Nhà rửa tội là cảm giác bình yên như thể ở
trên thiên đường.
Bên ngoài Nhà rửa tội San
Giovanni, người đàn ông đeo kính Plume Paris và chiếc cà vạt in hoa lách qua
đám đông, mặc kệ những ánh mắt lo lắng nhận ra tình trạng phát ban rướm máu của
ông ta.
Ông ta tới chỗ những cánh
cửa bằng đồng mà Robert Langdon cùng người bạn đồng hành tóc vàng của anh vừa
biến mất. Thậm chí đứng ở bên ngoài, ông ta vẫn nghe rõ tiếng chèn cửa nặng nề
từ bên trong.
Không thể vào bằng đường này
rồi.
Không khí trên quảng trường
từ từ trở lại bình thường. Những du khách đang chăm chú nhìn lên vẻ đề phòng
giờ không còn quan tâm nữa. Không có ai nhảy xuống cả. Tất cả mọi người tiếp
tục việc của mình.
Người đàn ông lại thấy ngứa
ngáy, tình trạng phát ban của ông ta thêm nặng. Giờ đầu ngón tay của ông ta
đang sưng vù và nứt nẻ. Ông ta đút tay vào túi để cố không gãi. Tim ông ta tiếp
tục đập mạnh khi đi vòng quanh tòa nhà bát giác để tìm lối vào khác.
Ông ta vừa kịp vòng qua góc
tường khác thì cảm thấy một cơn đau nhói ở cổ và nhận thấy mình lại đang gãi
lấy gãi để.
Người ta đồn rằng, một khi
bước vào Nhà rửa tội San Giovanni, sẽ không thể không ngẩng đầu nhìn lên phía
trên. Mặc dù dã vào trong gian phòng này nhiều lần, nhưng lúc này Langdon vẫn
cảm nhận được ảnh hưởng huyền bí của nơi đây, anh ngước mắt nhìn lên trần nhà.
Cao tít phía trên đầu, bề
mặt mái vòm bát giác của Nhà rửa tội rộng hơn hai mươi tư mét từ một cạnh bất
kì tới cạnh đối diện. Nó phát ra ánh sáng lấp lánh như thể được làm bằng than
đá đang cháy âm ỉ. Bề mặt màu vàng hổ phách láng bóng phản chiếu ánh sáng xung
quanh không đều nhau hắt lên từ hơn một triệu viên gạch ốp men- những mảnh gốm
khảm không dùng vữa nhỏ xíu được cắt bằng tay từ một loại gốm men thạch anh
thủy tinh. Chúng được sắp xếp thành sáu vòng tròn đồng tâm mô tả những quang
cảnh lấy ra từ Kinh Thánh.
Thêm vào vẻ ảm đạm của phần
phía trên gian phòng, ánh sáng tự nhien xuyên vào không gian tối tăm qua một ô
mắt trần ở chính giữa – giống điện Patheon ở Rome – được tăng cường bằng một
dãy ô cửa sổ cao và hẹp., khoét sâu vào tường, nơi từng cột ánh sáng lọt qua,
tập trung đến mức trông như đặc quánh, giống những xà rầm kết cấu chống đỡ ở
những góc thay đổi.
Khi cùng Sienna bước sâu hơn
vào phía bên trong, Langdon để ý quan sát phần trần nhà khảm gốm huyền thoại –
một cách thể hiện thiên đường và địa ngục nhiều tầng, giống như mô tả trong
Thần khúc.
Dante Alighieri đã tới thăm
nơi này khi còn bé, Langdon nghĩ thầm. Cảm hứng từ phía trên.
Lúc này ánh mắt Langdon dừng
hẳn lại ở trung tâm của phần khảm gốm. Ngay phía trên bàn thờ chính là một bức
tượng Chúa Jesus cao hơn bảy mét, ngồi phán xét những kẻ được cứu rồi và những
kẻ bị nguyền rủa.
Bên tay phải của Jesus,
những người ngay thẳng nhận phần thương là sự trường sinh. Tuy nhiên, bên tay
trái của Người, những kẻ tội lỗi lại bị ném đá, nung trên cọc nhọn, và bị tất
cả các loại sinh vật ăn thịt.
Quan sát cảnh hành hạ là quỷ
Satan bằng gốm khảm rât lớn,được khắc họa như một con thú địa ngục ăn thịt
người. Langdon luôn cảm thấy kinh hãi khi nhìn thấy hình ảnh này, thứ hơn bảy
trăm năm trước đã trừng mắt nhìn xuống cậu bé Dante Alighieri, dọa nạt và cuối
cùng truyền cảm hứng cho phần khắc họa sinh động của cậu về những gì ẩn náu ở
tầng địa ngục cuối cùng.
Bức tranh gốm khảm đầy hăm
dọa phía trên đầu mô tả con quỷ có sừng đang ngấu nghiến một người. Đôi chân
nạn nhân lủng lẳng thõng xuống từ miệng Satan chẳng khác gì đôi chân của những
kẻ tội đồ bị chôn vùi một nửa trong rãnh Malebodge của Dante.
Lo ‘mperador del doloroso
regno, Langdon nghĩ bụng, nhớ lại lời văn nguyên tác tiếng Ý của Dante. Vị
hoàng đế của vương quốc kinh khủng.
Hai con rắn lớn uốn mình trườn
từ tai của Satan cũng đang ăn thịt những kẻ tội đồ, cảm giác rằng Satan có ba
đầu, chính xác như Dante đã mô tả về nhân vật này trong Khổ cuối cùng của Hỏa
ngục. Langdon lọc lại trí nhớ và nhớ lại những phân mảng trong trí tưởng tượng
của Dante.
Trên đầu quỷ có ba bộ mặt…ba
cái cằm ròng ròng máu tươi…ba cái miệng như máy nghiền…nghiến ngấu một lúc ba
kẻ tội đồ.
Langdon biết rằng quỷ Satan
với ba phần mang ý nghĩa biểu tượng: Đặt Satan trong thế cân bằng hoàn hảo với
Chúa ba ngôi.
Lúc ngước nhìn lên cảnh
tượng hãi hùng này, Langdon cố gắng hình dung ra hiệu quả mà bức tranh gốm khảm
tạo ra với cậu bé Dante, người đến dự các buổi lễ tại nhà thờ này trong nhiều
năm liền, và nhìn Satan trừng mắt với mình mỗi lần cậu cầu nguyện. Tuy nhiên,
sáng nay, Langdo có cảm giác bất an rằng vua quỷ đang trừng mắt với chính anh.
Anh vội cụp mắt nhìn xuống
ban côcng tầng hai và hành lang đứng của Nhà rửa tội – khu vực duy nhât phụ nữ
được phép đứng để xem lễ rửa tội, rồi nhìn đến ngôi mộ treo của Giáo hoàng đối
cử John XXIII. Xác ông nằm yên nghỉ ở bức tường tít trên cao giống như một
người hang hay chủ thể trong trò thăng thiên của một nhà ảo thuật.
Cuối cùng, mắt anh mới hướng
tới phần nền ốp gạch men trang trí, nơi nhiều người tin có ám chỉ đến thiên văn
học thời Trung cổ. Anh đưa mắt lướt qua những hoa văn đen trắng phức tạp tới
chính giữ phòng.
Nó kia rồi, anh nghĩ thầm,
biết rõ mình đang nhìn đúng vị trí nơi Dante Alighieri được rửa tội trong giai
đoạn nửa sau thế kỉ XIII. “Ta trở về như một thi sĩ…ngay bồn nước rửa tội của
ta”, Langdon nói, giọng anh vang vọng qua không gian trống vắng. “Nó đây rồi.”
Sienna trông có vẻ lo lắng
khi mắt cô nhìn đến khu vực chính giữa sàn nhà, nơi lúc này Langdon đang chỉ
tay. “Nhưng…ở đó chẳng có gì cả.”
“Không còn thấy nữa”,
Langdon trả lời.
Tất cả những gì còn lại là
một bề mặt tám cạnh màu nâu đỏ rất lớn. Khu vực tám cạnh bằng phẳng một cách
khác thường này đã phá vỡ hoa văn của sàn nhà được trang trí kỹ càng, trông
khác gì một hố lớn vá víu qua loa, mà thực tế đúng là như vậy.
Langdon giải thích nhanh
rằng cái bổn rửa tội nguyên gốc của nơi này từng là một cái bể bát giác lớn đặt
ở chính giữa gian phòng. Trong khi các bồn hiện đại thường là những bể được
nâng cao lên thì những bổn thòi xưa lại đúng với nghĩa đen của từ bồn -
"suối nguổn" hoặc "đài phun" - và trong trường hợp này là
một bể nước sâu để những người làm lễ có thể dầm mình trong đó. Langdon thắc
mắc gian phòng đá này sẽ vang như thế nào khi trẻ con hét lên vì sợ hãi lúc bị
dìm xuống bể nước lạnh như đá từng tọa lạc ờ giữa phòng.
"Lễ rửa tội ở đây rất
lạnh lẽo và đáng sợ", Langdon nói. "Nghi lễ khai tâm đích thực. Thậm
chí còn nguy hiểm. Người ta cho rằng Dante từng nhảy vào bổn để cứu một đứa trẻ
chết đuối. Nhưng dù thế nào thì cái bổn nguyên thủy cũng đã bị lấp lại vào một
thời điểm nào đó trong thế kỷ XVI".
Sienna bắt đẩu quét mắt khắp
tòa nhà với vẻ lo lắng thấy rõ. "Nhưng nếu bồn rửa tội của Dante đã không
còn thì... Ignazio giấu chiêc mật nạ ỏ đâu chứ?"
Langdon hiểu nối lo lắng của
cô. Không thiếu gì chỗ giấu trong gian buổng mênh mông này - phía sau những cây
cột, tượng, mộ phấn, bên trong các hốc tường, trên bàn thờ, thậm chí trên gác.
Tuy nhiên, Langdon cảm thấy
rất tự tin khi anh xoay người nhìn về cánh cửa nơi họ vừa bước vào. "Chúng
ta nên bắt đầu từ chỗ đó", anh nói, tay chi một khu vực sát tường ngay bên
phải cổng Thiên đường.
Trên một nền cao, phía sau
cánh cửa có trang trí, là một bệ lục giác cao bằng đá cẩm thạch có chạm khắc,
trông giống một bàn thờ nhỏ hoặc bàn hành lễ. Mặt ngoài được chạm trổ cẩu kỳ
đến mức trông nó giống như một mặt đá ngọc trai. Trên nóc bệ cẩm thạch ấy là
phần mặt gỗ nhẵn thín vói đường kính khoảng một mét.
Sienna cỏ vẻ không chắc chẳn
lắm khi theo Langdon lại gần đó. Lúc họ bước lên các bậc cấp và tiền vào bên
trong cánh cổng bảo vệ, Sienna nhìn rõ hơn và thảng thốt giật mình, nhận ra thứ
minh đang nhìn thấy.
Langdon mỉm cười. Chinh xác,
nó không phải là bàn thờ hay bàn. Phẩn mặt gỗ nhẵn thín bên trên thực ra là cái
nắp đậy – nắp của một cấu trúc rỗng.
"Bồn rửa tội phải
không?", cô hỏi.
Langdon gật đầu. "Nếu
Dante được rửa tội ngày hôm nay, nhất định phải là cái bể ở chỗ này."
Không bỏ phí thời gian, anh quả quyết hít một hơi thật sâu và đặt tay lên cái
nắp gỗ, thoáng chút để phòng khi chuẩn bị di chuyển nó.
Langdon nắm chặt mép của cái
nắp và đẩy sang một bên, thận trọng cho nắp trượt khỏi bệ cẩm thạch và đặt lên
sàn bên cạnh bồn. Sau đó anh ngó vào bên trong không gian trống rỗng, tối om
rộng ngót sáu mươi phân.
Cảnh tượng kỳ lạ khiến
Langdon phải nuốt khan.
Từ trong bóng tối, cái mặt
nạ người chết của Dante Alighieri đang nhìn lại anh.
Hãy tìm và anh sẽ thấy.
Langđon đứng bên mép bổn rửa
tộí và đâm đăm nhìn xuống cái mặt nạ người chết nhợt nhạt, nhăn nhúm đang nhìn
thẳng lên trên. Cái mũi khoằm và cái cẳm chia ra khống lẫn đi đâu được.
Dante Alighieri.
Gương mặt vô hổn trông đã đủ
kinh dị, nhưng vị trí của nó trong bổn có gi đó dường như siêu nhiên. Mất một
lúc, Langdon vẫn không dám chắc minh đang nhìn thấy gì.
Không lẽ cái mặt nạ.. lơ lửng?
Langdon cúi xuống thấp, nhìn
kỹ hơn quang cánh trước mắt, Bồn nước sâu vài thưóc – giống một cái giếng hơn
là bể nông - thành bồn dựng đứng chạy thẳng xuống phẩn đáy lục giác đổ đầy
nước. Rất lạ là cái mặt nạ dường như treo lửng lơ trong bổn, ngay phía trén mặt
nưóc như thế có phép lạ.
Phải mất một lúc Langdon mói
nhận ra điểu gì gây nên ảo giác đó. Bồn nước có một trụ dựng đứng ở chính giữa
chỉ cao phân nửa bồn và đẩu mút có một đĩa kim loại nhỏ vượt lên khỏi mặt nước.
Cái đĩa đó có vẻ là một vòi phun trang trí và có lẽ là chỗ để đặt một đứa trẻ
ngồi lên, nhưng lúc này nó là bệ đỡ cho cái mặt nạ của Dante được nhấc cao lên
khỏi mặt nưóc một cách an toàn.
Cả Langdon và Sienna đều
không nói một lời nào khi họ đứng bên nhau nhìn xuống khuôn mặt nhăn nhúm của
Dante Alighieri, vẫn được bọc kín trong chiếc túi Ziploc của anh, như thể ông
đã bị chết ngạt. Mất một lúc, hình ảnh gương mặt đăm đăm nhìn lên từ một bể
nước gợi lên trong Langdon cái trải nghiệm hãi hùng của chính anh khi còn là
một cậu bé, bị kẹt dưới đáy giếng, tuyệt vọng nhìn lên trên.
Cố xua ý nghĩ đỏ khỏi tâm
trí, anh thận trọng cúi xuống và cầm lấy một bên mép mặt nạ, vị trí lẽ ra là
tai của Dante. Mặc dù khuôn mặt rất nhỏ so với tiêu chuẩn hiện đại, nhưng cái
đĩa cổ lại nặng hơn anh tưởng. Anh từ từ nhấc mặt nạ ra khỏi bồn và giơ nó lên
đế cả anh và Sienna đều cỏ thể kiểm tra nó gần hơn.
CHO dù nhìn qua lớp túi
nhựa, cái mặt nạ trông vẫn giống như người thật. Từng nếp nhăn và dị tật trên
gương mặt của thi sĩ đều được khắc họa lại trong lóp thạch cao ướt. Trừ một vết
nứt cũ chính giữa mặt nạ, còn lại hiện vật này ở trong điều kiện hoàn hảo.
"Lật ngược lạỉ
xem", Sienna thì thào. "Xem phía sau nào."
Langđon cũng đang định làm
việc đó. Máy quay an ninh tại Cung điện Vecchio cho thấy rõ ràng Langdon và
Ignazio phát hiện được gì đó ở mặt sau của chiếc mặt nạ - thứ đáng quan tâm đến
mức hai người đàn ông này phải mang cả hiện vật ra khỏi Cung điện.
Hết sức cẩn thận để không
làm rơi cái mặt nạ thạch cao dễ vỡ, Langdon lật ngược mặt nạ và đặt úp xuống
trên lòng bàn tay phải của mình để họ có thể xem xét mặt sau. Không như phần
gương mặt nhăn nhúm dãi dầu mưa nắng của Dante, phía trong mặt nạ nhẵn thín và
trống trơn. Vì không dùng đế đội nên mặt sau của chiếc mặt nạ được đổ thạch cao
nhằm tăng thêm độ cứng cáp, tạo thành một bề mặt lõm không tì vết, giống như
một bát súp nông.
Langdon không biết mình hy
vọng tìm thấy gì ở mặt sau chiếc mặt nạ, nhưng chắc chắn là không phải như thế
này.
Chẳng có gì cả.
Hoàn toàn chẳng có gì.
Chỉ là một bề mặt trống
trơn, nhẵn nhụi.
Sienna có vẻ cũng bối rối
không kém. “ Chỉ là thạch cao trơn thôi mà”, cô thì thào. "Nếu thế thì anh
và Ignazio đã nhìn thấy gì chứ?"
Anh không biết, Langdon
nghĩ, tay kéo căng túi nhựa để nhìn cho rõ hơn. Ở đây chẳng có gì cả. Với tâm
trạng càng lúc càng chán ngán, Langdon đưa chiếc mặt nạ vào một quầng sáng và
xem xét thật kỹ. Khi anh lật ngược món đồ để nhìn cho rõ hơn, trong thoáng chốc
anh nảy ra ý nghĩ rằng có thể mình đã nhìn thấy một mảng bọt màu nhẹ gần trên
đỉnh - một chuỗi dâu vết chạy theo chiều ngang ở mặt trong phần trán của Dante.
Khiếm khuyêí tự nhiên chăng?
Hay có lẽ… là thứ gì khác. Langdon lập tức xoay người và chi tay về phía một ô
đá cẩm thạch có lắp bản lề trên bức tường phía sau họ. "Tìm trong đó
xem", anh bảo Sienna. "Xem có khăn lau không?”
Sienna tỏ vẻ hoài nghi,
nhưng vẫn làm theo, mở toang cánh tủ kín đáo, nơi chứa ba thứ - van điều khiển
mức nước trong bổn, công tắc điều khiển ngọn đèn rọi trong bổn, và một chồng
khăn vải lanh.
Sienna ngạc nhiên nhìn
Langdon, nhưng Langdon đã từng tới thăm nhiều nhà thờ trên toàn thế giới nên
biết rõ các bồn rửa tội gần như lúc nào cũng có sẵn tã lót trẻ em cho các vị
cha xứ sừ dụng trong trường hợp khẩn cap - tình huống trẻ sơ sinh đi tiểu bất
ngờ trong lúc được ban tên thánh khá phổ biến.
"Tốt quá", anh
nói, mắt nhìn chổng khăn. "Giữ cái mặt nạ giây giúp anh nhé?" Anh nhẹ
nhàng chuyền chiếc mặt nạ vào tay Sienna và bắt đầu làm việc.
Trước hết, Langdon đặt cái
nắp hình lục giác lên bổn để phục hổi lại chiếc bàn nhỏ trông như bàn thờ mà họ
nhìn thấy lúc đầu. Rồi anh vớ lấy vài chiếc khăn lanh trong tủ và trải rộng ra
như khăn bàn. Cuối cùng, anh bật công tắc đèn, ngọn đèn trên đầu sáng lên,
chiếu rõ khu vực rửa tội và bề mặt nắp bể.
Sienna nhẹ nhàng đặt chiếc
mặt nạ lên trên bể trong khi Langdon lấy thêm khăn và dùng găng bếp lò để thả
chiếc mặt nạ trong túi Ziploc ra, cẩn thận không chạm vào nó bằng tay trần. Một
lúc sau, chiếc mặt nạ người chết của Dante đã nằm ngửa lên dưới ánh đèn sáng
rực, giống như đầu của một bệnh nhân đã được gây mê trên bàn phẫu thuật.
Các đường nét đầy biểu cảm
của chiếc mặt nạ hiện ra dưới ánh đèn càng gớm ghiếc hơn, những nếp nhăn của
tuổi già nổi bật nhờ lớp thạch cao phai màu. Langdon không bỏ phí thời gian
dùng những găng lót tay tạm bợ của mình lật chiếc mặt nạ lại và nó úp xuống.
Mặt sau của mặt nạ trông đỡ
cũ kỹ hơn hẳn mặt trước - sạch sẽ và trắng trẻo chứ không xám xịt và vàng ệch.
Sienna nghiêng đầu, trông có
vẻ ngơ ngác. "Anh có thấy mặt bên này trông mới hơn không?"
Phải thừa nhận, sự khác biệt
màu sắc rõ ràng hơn so với những gì Langdon hình dung, nhưng mặt này chắc chắn
cùng niên đại với mặt trước. "Độ già hóa không đổng đều", anh nói
"Mặt sau của mặt nạ bị phần đế trưng bày che nên không bị hiệu ứng già hóa
do ánh mặt trời." Langdon ghi nhớ cần tăng gâp đôi độ SPF27 kính râm của
mình.
__________________________________________________________
27 SPF (Sun Protection Factor): Tác nhân bảo vệ
chổng nẳng. Đây là số đo mức độ bảo vệ trước tia tử ngoại và có phạm vi từ một
đến bốn mươi lăm hoặc cao hơn. Một chiếc kính râm có SPF 15 sẽ lọc được chín
mươi hai phần trăm tia tử ngoại. Nói cách khác, nó sẽ làm chậm quá trình cháy
náng trên da người sau một trãm năm mươi phút thay vì mười phút, tức là người
đó có thể ở ngoài nắng lâu hơn mười lần
"Khoan đã", Sienna nói, cúi sát xuống
nhìn chiếc mặt nạ. "Xem này! Trên trán ây! Chắc chắn đó là thứ anh và
Ignazio nhìn thấy."
Mắt Langdon lướt nhanh trên bể mặt trắng nhẵn tới
đúng chỗ bợt màu mà anh nhận thấy lúc trước qua lớp nhựa - một dấu vết mờ chạy
ngang phía bên trong phần trán của Dante. Tuy nhiên, lúc này, dưới ánh sáng
mạnh, Langdon nhìn thấy rõ những vết này không phải là khiếm khuyết tự nhiên.
Chúng do con người tạo ra.
"Đó là... chữ viết", Sienna thì thào,
lời nói như nghẹn lại trong họng cô. “Nhưng…”
Langdon săm soi dòng chữ khắc trên lớp thạch cao.
Đó là một dòng chữ cái được viết tay bằng thứ chữ bay bướm màu vàng nâu nhạt.
"Tát cả chỉ có vậy thôi sao?", Sienna
nói, giọng đầy giận dữ.
Langdon gần như không nghe thấy tiếng cô. Ai viết
dòng chữ này? Anh tự hỏi. Ai đó thời Dante chăng? Có vẻ không chắc lắm. Nêú như
vậy, một sử gia nghệ thuật nào đó đã nhận ra nó từ rất lâu trong quá trình vệ
sinh hay phục chế thường xuyên rồi, và dòng chữ này đã trở thành một phẩn trong
câu chuyện về chiẽc mặt nạ. Langdon chưa bao giờ nghe nói về nó cả.
Một khả năng khác chắc chắn hơn vụt đến trong tâm
trí anh.
Bertrand Zobrist.
Zobrist là chủ nhân của chiếc mặt nạ và vì thế có
thể dễ dàng tiếp cận nó bất cứ khi nào ông ta muốn. Ông ta có thể viết dòng chữ
lên phía sau chiẽc mặt nạ cách đây không lâu và sau đổ đặt nó vào tù cổ mà
không để ai biết. Chủ nhân chiếc mặt nạ, Marta đã nói với họ, thậm chí còn
không cho nhân viên của chúng tôi mờ tủ khi ông ấy vắng mặt.
Langdon nhanh chóng giải thích luận điểm của
mình.
Có vẻ Sienna chấp nhận suy luận của anh, nhưng rõ
ràng điểu đó khiến cô lo lắng. "Chẳng có nghĩa gì cả", cô nói, vẻ bồn
chôn "Nếu chúng ta tin Zobrist đã bí mật viết gì đó đằng sau chiếc mặt nạ
người chết cùa Dante, và còn kỳ công tạo ra cái máy chiếu tí hon đó để chi dẫn
đến chiếc mặt nạ... thì tại sao ông ta lại không viết gì đó có nghĩa hom? Ý em
là, nos rất vô nghĩa! Anh và em đã tìm kiềm chiếc mặt nạ trọn một ngày, và đây
là tất cả những gì chúng ta tìm được sao?"
Langdon tập trung trở lại dòng chữ ở phía sau mặt
nạ. Thông điệp viết tay rất ngắn - chi dài đúng bảy chữ cái - và phải thừa nhận
là trông hoàn toàn không rõ mục đích.
Sienna thất vọng cũng là điều dễ hiểu.
Tuy nhiên, Langdon lại cảm thây ớn lạnh về những
khám phá sắp tới, gần như ngay lập tức nhận ra rằng bảy chữ cái này sẽ cho anh
biết mọi điều anh cần về những gì sắp phải làm tiếp theo.
Hơn nữa, anh phát hiện ra một mùi hương thoang
thoảng từ chiêc mặt nạ - thứ mùi tiết lộ lý do tại sao lớp thạch cao ỏ mặt sau
lại trắng hơn hẳn mặt trước - và sự khác biệt này chằng liên quan gì đến quá
trình già hóa hay ánh mặt trời cả.
"Em không hiểu", Sienna nói. "Các
chữ cái đều giống nhau."
Langdon bình tĩnh gật đầu trong lúc nghiên cứu
dòng văn tự - bảy chữ cái giống hệt nhau được viết cẩn thận bằng kiểu chữ hoa
mỹ phía trong phần trán của Dante.
"Bảy chữ P", Sienna nói. "Chúng ta
biết làm gì với thứ này?'
Langdon bình tĩnh mỉm cười và ngước mắt nhìn cô.
"Anh gợi ý chúng ta làm đúng những gì lợi nhắn này bảo chúng ta làm.”
Sienna trợn mắt nhin. "Bảy chữ p là... lời
nhắn sao?”
"Đúng vậy", anh cười nói. "Và nếu
em đã từng tim hiểu về Dante, thì nó rất rõ ràng,"
***
Bên ngoài Nhà rửa tội San Giovanni, ngưòi đàn ông
đeo cà vạt quệt móng tay vào khăn tay và chấm nhẹ những nốt mụn trên cố. Ông ta
cố gắng không để ý đến cảm giác bỏng rát trong mắt lúc đánh mắt nhìn về phía
đích đến của mình.
Lốì vào dành cho khách du lịch.
Ngoài cửa, một thuyết trình viên dáng vẻ mệt mỏi
mặc áo cộc đang hút thuốc và chỉ cho những du khách còn bỡ ngỡ thấy lịch làm
việc của khu di tích, được viết theo thời gian quốc tế.
GIỜ MỞ CỬA 13:00 - 17:00
Người đàn ông bị phát ban nhìn đổng hổ đeo tay.
Mới có 10 giờ 02 phút sáng. Nhà rửa tội còn đóng cửa thêm mấy tiêng nữa. Ông ta
nhìn tay thuyết trình viên một lúc rồi quyết định hành động. Ông ta tháo chiếc
khuyên vàng đeo trên tai và đút vào túi. Sau đó, ông ta móc ví ra và kiểm tra
bên trong. Ngoài mấy chiêc thẻ tín dụng đủ loại và một mớ tiền eu ro, ông ta
còn mang theo hơn 3000 đô la Mỹ tiền mặt
Thật may, thói tham lam là một tội lỗi mang tính
quôc tể.
Peccatum... Peccatum... Peccatum...
Bày chữ P viết ờ phía sau chiêc mặt nạ người chết
của Dante lập tức kéo suy nghĩ của Langdon trở về với nội dung tác phẩm Thần
khúc. Trong thoáng chốc, anh nhớ lại sân khấu ở Vienna, nơi anh trình bày bài
giảng "Dante Thần thánh: Những biểu tượng của địa ngục".
"Giờ chúng ta đi xuống", giọng anh vang
vọng qua loa, "băng qua chín tầng địa ngục tới trung tâm trái đất, mặt đối
mặt với quỷ Satan".
Langdon chuyển hình chiếu qua một loạt hình ảnh
quỷ Satan ba đẩu từ những tác phẩm nghệ thuật khác nhau - Vực Địa ngục của
Botticelli, hình gốm khảm trong nhà rửa tội Florence, và con quỷ đen đúa khủng
khiêp của Andrea dỉ Cione, ỉông của nỏ bết máu đỏ của các nạn nhân.
"Chúng ta", Langdon tiêp tục,
"cùng nhau leo xuống bộ ngực xù xi của Satan, đảo ngược hướng vì lực hấp
dẫn thay đổi, và chui lên từ thế giới tối tăm... để lại nhìn thây những vì sao
một lần nữa".
Langdon cho chạy hình chiếu tới hình ảnh mà anh
vừa trình chiếu lúc trước - bức vẽ mang tính biểu tượng của Domenico di
Michelino từ bên trong thánh đường, mô tả Dante mặc áo choàng đỏ đứng bên ngoài
tường thành Florence. "Và nếu quan sát thật kỹ…các vị sẽ thấy những ngôi
sao ấy."
Langdon chi lên bẩu trời đẩy sao trên đẩu Dante.
"Như các vị thấy, bầu tròi được cấu tạo thành chín quả cầu đồng tâm bao
quanh trái đất. Cấu trúc thiên đường chín tầng này tương ứng và cân bằng với
chín tầng địa ngục. Như các vị có thể đã biết, con số Chín là một đề tài quen
thuộc của Dante.”
Langdon ngừng lại, nhấp một ngụm nước và đế cho
đám đông lấy lại nhịp thở sau hành trình đáng sợ đi xuống rổi thoát ra khỏi địa
ngục.
"Cho nên, sau khi đã kinh qua những điều hãi
hùng của hỏa ngục, hẳn các vị đều rất hào hứng tiến về phía thiên đường. Nhưng
rất tiếc, trong thế giới của Dante, chẳng có gì dễ dàng cả." Anh bật ra
một tiêng thở dài nhằm gây ấn tượng. "Để lên được thiên đường tất cả chúng
ta đều phải - cả theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng - leo lên một ngọn núi."
Langdon chỉ tay vào bức
tranh của Michelino. Ở chân trời, phía sau Dante, cử tọa có thể thây một quả
núi duy nhất hình nón vươn lên bầu trời. Xoáy trôn ốc bên trên quả núi là một
con đường lượn tròn liên tục hình nón - chín lần - vươn lên thành nhiều bậc cao
dần về phía đinh. Dọc theo con đưòng ây là những hình người trần truồng khổ sở
lê bước đi tới, chịu đựng rất nhiều cực hình trên đường đi.
"Tôi đang cho quý vị
xem Núi Luyện ngục", Langdon tuyên bố. "Và buổn thay, con đường đi
lên gồm chín vòng mệt mỏi này là lộ trình duy nhất từ vực sâu của hỏa ngục đi
tới hào quang của thiên đưòng. Trên con đường này, các vị có thể thấy những
linh hổn năn hối hận đang đi lên... từng người phải trà một cái giá thích hợp
cho một tội lỗi nhất định. Những kẻ đố kỵ phải leo lên với hai mắt bị khâu lạỉ
để họ không thể thèm khát được nữa, những kẻ tự phụ phải vác theo đá nặng trên
lưng khiến họ phải cúi rạp trong tư thế khúm núm, những ké tham ăn phải leo lên
mà không có thức ăn hoặc nước uống, do đổ phái chịu cơn đói kỉnh khủng, và
những kẻ đầy dục vợng phái vượt qua lừa nóng đế thanh lọc bản thân khỏi sức
nóng cùa dục vọng." Anh ngừng ỉại. "Nhưng trước khỉ các vị được huòng
đặc quyểh leo lêm ngọn núi này và gột bỏ tội lỗi của mình các vi phái nói
chuyện với nhân vật này,"
Langđon chuyến màn hình tớí
hình cận cảnh một bức vẽ của Micholino, trong đó một thỉên thẩn có cánh ngổí
trên ngai đặt dưới chân Núi Luyện ngục. Duới chân thiên thẩn đó là một hàng dài
những kẻ tội lỗi biết sám hối đợi được phép đi vào con đường leo lên cao. Rất
là là thiên thẩn âý cẩm một thanh kiêm dài, dường như đang đâm mũi kiêm vào mặt
của người đầu tiên trong hàng.
"Có ai biết",
Langdon hỏi to, "thiên thần này đang làm gì không?".
“Đâm vào đầu ai đó phải
không?", một giọng nói đánh bạo.
"Không phải."
Một giọng khác. "Đâm
vào mắt ai đó?"
Langdon lắc đầu. "Ai có
ý kiên khác không?"
Một giọng tít phía sau vang
lên đầy chắc chắn. "Viết lên trán anh ta."
Langdon mỉm cười. "Có
vẻ ai đó ở phía sau biết rõ Dante của mình." Anh lại ra hiệu về phía bức
tranh. 'Tôi nhận ra nhân vật trông như thiên thần này đang đầm vào trán kẻ xâu
số kia, nhưng không phải vậy. Theo văn bản của Dante, thiên thần canh gác luyện
ngục dùng mũi kiêm của mình viết gì đó lên trán các vị khách trước khi họ bước
vào. “Vậy thiên thẩnviết gì?” - các vị hẳn sẽ đặt câu hỏi như vậy."
Langdon ngừng lại để tăng
hiệu quả. "Thật lạ, ông ấy viết một chữ cái duy nhất... được lặp lại bảy
lần. Có ai biết thiên thần viết bảy lần chữ cái gì trên trán Dante không?"
“P!”, một giọng nói rất to
từ đám đông.
Langdon mỉm cười.
"Đúng, Chữ P. Chữ P này mang nghĩa peccatum - từ trong tiếng Latin chi
'tội lỗỉ”. Và thực tế nó được viết bảy lẩn, tượng trưng cho Septem Peccata
Mortalia, còn được gọì là…”
"Bảy Trọng tội!",
aỉ đó nói to.
"Tuyệt vời. Và vì thế,
chỉ bằng cách leo lên qua từng cấp luyện ngục các vị mới cổ thể chuộc lại tội
iỗỉ của mình. Với mỗi câp các vị leo qua, một thiên thần sẽ xóa bót một chữ P
trên trán các vị cho tới khi các vị lên tới đinh, trán được xóa sạch cả bảy chữ
P và linh hồn cảc vị được gột sạch mọi tội lỗi." Anh nháy mắt. "Nơi này
được gọí là luyện ngục vì một lý do."
Langdon giật mình thoát khỏi
suy tưởng và nhìn thấy Sienna đang đăm đăm nhìn anh từ bên kia bổn rửa tội.
"Bảy chữ P à?", cô nói, kéo anh trở về với thực tại và ra hiệu về
phía chiếc mặt nạ người chết của Dante. "Anh nói đó là một thông điệp phải
không? Cho chúng ta biết cần phải làm gì à?"
Langdon giải thích nhanh
tưởng tượng của Dante về Núi Luyện ngục, những chữ p đại diện cho Bảy Trọng
tội, và quy trình làm sạch chúng trên trán.
"Rõ ràng", Langdon
kết luận, "Bertrand Zobrist, vốn là người mê Dante, rất quen với bảy chữ P
và hiểu quá trình tẩy sạch chúng khỏi trán như là một cách thức để tiến tới
thiên đường".
Sienna có vẻ nghi ngờ.
"Anh nghĩ Bertrand Zobrist viết những chữ P này lên chiếc mặt nạ vì ông ta
muốn chúng ta... theo đúng nghĩa đen sẽ tẩy sạch chúng trên chiêc mặt nạ người
chết ư? Đó là việc mà anh nghĩ chúng ta cần làm à?"
"Anh nhận ra..."
"Robert, kể cả chúng ta
tẩy sạch mây chữ cái này, liệu điều đó giúp gì cho chúng ta chứ?! Chúng ta sẽ
chỉ có được một chiếc mặt nạ hòan toàn trống trơn."
"Có thế có."
Langdon nở một nụ cười đầỵ hy vọng.”Cũng có thể không. Anh nghĩ có nhỉếu thử
không thể chi nhìn bằng mắt.” Anh di chuyển vế phía chiêc mặt nạ. "Em còn
nhó anh đã nói với em rằng phía sau chiếc mặt nạ nhạt màu hơn vì quá trinh già
hóa không đều không?”
"Vâng.”
“Có thế anh sai", anh
nóí. "Sự khác biệt về màu quá rõ nên không thế do già hóa được, và kết cấu
bể ngoài của mặt sau rất gai”.
"Gai là sao?"
Langđon chỉ cho cô thây kết
câu bề ngoài ở mặt sau thô hơn mặt trước và cũng nhám hơn, giống như giấy ráp.
"Trong thế giới nghệ thuật kết cấu bề mặt thô ráp thế này được gọi là gai,
và họ thích vẽ lên một bề mặt gai sần bởi vì sơn bám lên đó tốt hơn "
"Em không hiểu.”
Langdon mim cười. "Em có biết thạch cao là
gì không?"
"Có chứ, họa sĩ dùng nó để phủ lót toan
và..." Cô đột ngột ngừng lại, ý của anh thể hiện rất rõ.
"Chính xác", Langdon nói. "Họ dùng
thạch cao để tạo ra một bề mặt trắng sạch và gai, và đôi khi để phủ lên những
bức vẽ không muốn có nếu họ định dùng lại tấm toan đã vẽ."
Giờ trông Sienna đẩy phân kích. "Và anh nghĩ
có lẽ Zobrist che đi thứ gì đó phía sau chiếc mặt nạ ngưòi chết bằng thạch cao
phải không?"
"Điểu đó lý giải cho lóp gai sần và màu sáng
hơn. Nó cũng thể giải thích lý do tại sao ông ta lại muốn chúng ta xóa sạch bảy
chữ P"
Sienna có vẻ bối rối trước ý cuối anh vừa nói.
"Ngửi thử xem", Langdon nói, nhấc chiếc
mặt nạ đưa lên sát mặt cô giống như một cha cố đang làm lễ Ban thánh thể.
Sienna rúm lạỉ.”Thạch cao cổ mùi nhu một con cún
lông ướt nhẹp vậy."
"Không phải tất cà thạch cao đểu vậy. Thạch
cao thường có mùi như phâấ viêt. Mùi chó lông ướt là thạch cao acrylic,"
"Nghĩa là…?"
"Nghĩa là nước có thể hòa tan."
Sienna nghiêng đầu, và Langdon có thể cảm nhận
được bánh xe đang chuyển động. Cô từ từ đưa mắt nhìn chiếc mặt nạ và sau đó đột
nhiên quay lại Langdon, mắt mở to. "Anh nghĩ có gì đó bên dưới lớp thạch
cao à?"
"Điều đó giúp lý giải rất nhiều."
Sienna lập tức nắm lấy nắp bồn rửa tội hình lục
giác và kéo nó sang bên, để lộ mặt nước phía dưới. Cô nhặt lấy một chiếc khăn
lanh mới và nhúng vào nước rửa tội. Sau đó cô chìa chiếc khăn đang rỏ nước tong
tong cho Langdon. "Anh làm đi."
Langdon úp chiếc mặt nạ xuống lòng bàn tay trái
và cầm lấy chiếc khăn ướt. Anh vẩy bớt nước thừa rồi bắt đầu thấm khăn ướt vào
mặt trong phần trán của Dante, làm ướt toàn bộ chỗ có bảy chữ P mỹ miều. Sau
vài lần thấm bằng ngón tay trỏ, anh lại nhúng khăn xuống bổn và tiếp tục. Lớp
mực đen bắt đầu lờ mờ hiện ra.
"Thạch cao đang tan dần", anh hào hứng
nói, "Lớp mực cũng đang bong ra."
Khi thực hiện quy trình đến lần thứ ba, Langdon
bắt đầu nói bằng giọng đều đều ủ ê và thành kính, vang vọng khắp nhà rửa tội.
“Bằng phép rửa tội, Chúa Jesus giải thoát con khỏi tội lỗi và đưa con lên với
cuộc đời mới nhờ nước và Chúa Thánh thần."
Sienna đăm đăm nhìn Langdon như thể anh bị mât
trí, Anh nhún vai. "Có vẻ hợp đấy chứ."
Cô đảo tròn mắt và nhìn lại chiếc mặt nạ. Khi
Langdon tiêp tu thấm nước, lớp thạch cao nguyên thủy bên dưới lớp thạch cao mới
hiện ra rõ hơn, sắc vàng của nó hợp hơn với những gì Langdon kỳ vọng nhìn thấy
trên một hiện vật lâu đời như thế này. Khi chữ P cuối cùng biến mất, anh lau
khô chỗ đó bằng một chiếc khăn sạch và giơ cái mặt nạ lên cho Sienna quan sát.
Cô bật kêu to một tiếng.
Đúng như Langdon dự liệu, thực tế có gì đó ẩn giâu
bên dưới lớp thạch cao mới - một lớp văn tự thứ hai - những chữ cái được viết
trực tiếp lên bề mặt màu vàng nhạt của lớp thạch cao nguyên thủy.
Tuy nhiên, lần này, các chữ cái lại tạo thành một
từ.
“ Ám 28 ư?". Sienna hỏi. "Em không
hiểu.”
Anh cũng không chắc. Langdon nghiên cứu dòng chữ
hiện ra bên dưới bảy chữ P – một từ duy nhất được viết rõ bên trong phần trán
của Dante.
Ám
"Như trong... quỷ ám phải không?",
Sienna hỏi.
Có lẽ. Langdon ngước mắt nhìn lên chỗ bức gốm
khảm hình quỷ Satan đang ăn thịt những linh hổn khốn khổ chẳng bao giờ có thể
gột rửa sạch tội lỗi của minh. Dante... bị ám ư? Có vẻ không có nghĩa cho lắm.
“Có thể còn nữa", Sienna quả quyết, cầm lấy
chiêc mặt nạ trên tay Langdon và săm soi nó gần hơn. Một ỉúc sau, cô bắt đầu
gật gù. "Đúng, nhìn phía cuối của từ này xem... mé bên kia vẫn còn chữ
nữa."
Langđon nhìn lại, giờ nhìn thấy bóng lờ mò của
phần chữ nữa hiện lên qua lớp thạch cao mới đã thấm ướt ở cả hai mé của từ ám.
Rất hào hứng, Sienna vớ lấy khăn và tiếp tục thấm
quanh từ đó cho tới khi lại có thêm chữ xuất hiện, được viêt thành một vòng
cung.
28Nguyên bản: possessed.
Ôi các người bị ám ảnh về tri thức vững vàng.
Langđon khẽ huýt sáo. “Ôi, các người bị ám ảnh vì
tri thức vững vàng... hảy làm theo lời dạy giấu ở đây... bên dưới lớp màn thơ
phú khó hiểu…”
Sienna trố mắt nhìn anh. "Sao cơ?"
"Nội dung đó được rút ra từ một trong những
khổ thơ nổi tiếng nhất trong Hỏa ngục của Dante", Langdon nói đầy phấn
chấn. "Chính Dante thúc giục những độc giả thông thái nhất của mình hãy
tìm kiêm tri thức được giấu bên dưới những vần thơ khó hiểu của ông."
Langdon thường trích dẫn đúng dòng thơ này khi
dạy về biểu tượng văn chương. Chẳng khác gì một tác giả đang vẫy tay rối rít và
gọi to: "Này, các độc giả! Ở đây cỏ một biểu tượng hai nghĩa!".
Sienna bắt đầu chà phía sau chiếc mặt nạ, mạnh
tay hơn hẳn.
"Cẩn thận đấy!", Langdon nhắc.
"Anh nói đúng", Sienna nói, tay càng
hăng hái tây lớp thạch cao. "Phần còn lại câu trích của Dante nằm ở đây -
đúng như anh nhớ." Cô ngừng lại để nhúng khăn vào bổn và vắt bớt nước.
Langdon thừ người đứng nhìn trong khi nước trong
bon rửa tội chuyền sang màu đùng đục đo thạch cao tan ra. Chúng con xin thứ lỗi
với San Giovanrti, anh nghĩ thầm, cảm thấy không thoải mái vì cái bổn thiêng
liêng đang bị sử dụng như một cái chậu rửa.
Khi Sienna nhâc khăn ra khỏi nước, nó vẫn đang
nhỏ tong tong. Cô gần như không vắt trước khi áp chiếc khăn sũng nước vào chính
giữa mặt nạ và kỳ soàn soạt như thể đang rửa một bát súp vậy.
“Sienna!", Langđon nhắc
nhớ. “Đó là một đồ cổ…”
“Toàn bộ mặt sau đều có
chữ!”, cô nói trong lúc chà xát mạnh mẽ lên chiếc mặt nạ. “Và nó được viết
bằng…” Cô ngững nói, nghiêng đầu sang trái và xoay chiếc mặt nạ sang phải, như
thể đang cố đọc một bên.
“Viết bằng gì cơ?”, Langdon
hỏi, vì không thế nhìn rõ.
Sienna ngừng kỳ cọ mặt nạ và
dùng một chiếc khăn mói lau khô nó. Sau đó cô ngõi xuống trước mặt anh đế cả
hai cùng xem xét kểt quả.
Khi nhìn thấy mặt trong
chiếc mặt nạ, Langdon vô cùng kinh ngạc. Toàn bộ bề mặt lõm phủ kín văn tự, có
lẽ phải đến cả trăm chỗ. Bắt đầu từ trên đinh với dòng chữ Ôi các người bị ám
ảnh vê tri thức vững vàng, phần chữ viết tiếp tục chạy theo một dòng liền mạch
duy nhất, xoay tròn sang bên phải chiếc mặt nạ để chạy xuống dưới đáy, nơi nó
lại xoay ngược lên và tiếp tục chạy xuống đáy, rổi lại xoay lên ở phía bên trái
tới vị trí ban đầu, cứ tiếp tục đường đi tương tự như thế theo một vòng tròn
thu hẹp hơn một chút.
Đường đi của các con chữ gợi
nhớ đến con đường xoáy trôn ốc của Núi Luyện ngục dẫn lên thiên đường. Chuyên
gia biểu tượng học Langdon lập tức nhận ra ngay đường xoắn ôc chinh xác này.
Đường Archimedes đăng đôi thuận chiểu kim đổng hồ. Anh còn nhận thây số vòng
xoay từ chữ đầu tiên, Ôi, tới đoạn cuối cùng ờ trung tâm là một con số quen
thuộc.
Chín.
Gần như nín thở, Langdon
chầm chậm xoay chiêc mặt nạ thành từng vòng tròn, đọc nội dung văn tự cuộn dần
vào phía trong của mặt lõm, xoáy về phía trung tâm.
Ôi những người bị ám ảnh về
tri thức vững vàng, hãy làm theo lời dạy giấu ở đây…bên dưới lớp màn thơ phú
khó hiểu. Hãy tìm gã tổng trấn bội bạn của Venice, kẻ cắt rời đầu ngựa…và moi
xương cả người mù lòa. Hãy quỳ gối bên trong bảo quản mạ vàng của tri thức
thánh thiêng,và áp tai xuống mặt đất, lắng nghe tiếng nước nhỏ giọt. Hãy lần
sâu vào tòa cung điện bị chìn…vì ở đây, trong bóng tối, con quái vật chốn địa
phủ chờ đợi, lặn ngụp trong thứ nước đỏ như máu…của cái đầm không hề phản chiếu
ánh sao.
“Gần như đúng nguyên văn khổ
thơ đầu của Dante”, Langdon nói. “Ôi những người bị ám ảnh về tri thức vững
vàng, hãy làm theo lời dạy giấu ở đây…bên dưới lớp màn thơ phú khó hiểu.”
"Thế những gì còn lại
thì sao?", Sienna hối thúc.
Langdon lắc đầu. "Anh
không nghĩ vậy. Nó được viết bằn giọng thơ tương tự, nhưng anh biết nội dung
này không phài của Dante. Giống như là có người bắt chước văn phong của ông ây
thôi."
"Zobrist", Sienna
thì thào. "Chắc chắn là ông ta."
Langdon gật đầu. Một phỏng
đoán khả dĩ. Xét cho cùng, Zobrist bằng cách thay đổi bức Vực Địa ngục của
Botticelli, đã cho thấy ông ta có khả năng hợp tác với những bậc thầy và thay
đổi những tác phẩm nghệ thuật vĩ đại cho phù hợp với nhu cầu của minh.
"Phần nội dung còn lại
rất lạ", Langdon nói, lại xoay chiêc mặt nạ và đọc dẩn vào phía trong.
"Nó nói đến việc... chặt đầu ngựa... moi xương cả người mù." Anh bỏ
qua một đoạn để đọc tới dòng cuối cùng, được viết thành một vòng tròn rất khít
ở chính giữa chiếc mặt nạ. Anh thở ra thảng thốt. "Nó còn nói đêh 'nước đỏ
như máu'."
Sienna nhưóng màyệ
"Giống như ảo giác của anh về người phụ nữ tóc bạc à?"
Langdon gật đẩu, vẻ bối rối
trước nội dung văn tự. Nước đỏ như máu…của cái đầm không hề phản chiếu ánh sao
ư?
”Nhìn này”, cô thì thào, đọc
qua vai anh và chỉ tay vào một từ ở nửa chừng đường xoáy ốc. “Một vị trí cụ
thể.”
Mắt Langdon đi tìm ra cái từ
mà anh bỏ qua trong lần đọc đầu tiên. Đó chính là tên của một trong những thành
phố độc đáo và ấn tượng nhất thế giới, Langdon cảm thây một con ớn lạnh, vì
biết rằng đó cùng chính là thành phố nơi Dante Alighieri bị nhiễm thứ bệrth
dịch chết ngưòi đã cướp đi sinh mạng của ông.
Venice.
Langdon và Sienna im lặng
nghiên cứu những dòng thơ khố hiểu một lúc lâu. Bài thơ này thật rùng rợn và
đáng ngại, lại khó giải mã. Việc sử dụng các từ tổng trấn và đầm khẳng định
chắc chắn với Langdon rằng bài thơ đích thực nhắc đến Venice - một thành phố
ngập nước độc đáo ở Ý, bao gồm hàng trăm đầm nước được nối thông với nhau, do
một người đứng đầu nhà nước Venice gọi là Tổng trấn cai quản trong nhiều thập
kỷ.
Lúc mới xem, Langdon không
thể nhận ra chính xác bài thơ này chỉ nơi nào ở Venice, nhưng có vẻ chắc chắn
nó thúc giục người đọc theo những chi dẫn của nó.
Áp tai xuống mặt đất, lắng
nghe tiếng nước nhỏ giọt.
"Nó ám chi dưới lòng
đất", Sienna nói, đọc cùng với anh.
Langdon gật đầu một cách khó
nhọc trong lúc đọc dòng tiếp theo.
Hãy lần sâu vào tòa cung
điện bị chìm...vì ở đây, trong bóng tôị con quái vật chon địa phủ chờ đợi.
"Robert?", Sienna
hỏi vẻ bồn chồn. "Loại quái vật nào chứ?"
"Địa phủ", Langdon
đáp, "Cỏ nghĩa là 'sống bên dưới mặt đất"1
Langdon chưa kịp nói tiếp thì
có tiêng then cửa rất to vang khắp nhà rửa tội. Lốì vào dành cho du khách rõ
ràng vừa được mở từ bên ngoài.
“Cảm ơn rất nhiều",
người đàn ông bị phát ban trên mặt nói bằng tiếng Ý.
Tay thuyết trình viên của
nhà rửa tội lo lắng gật khi đút túi 500 đô la tiền mặt và liếc quanh để đảm bảo
không có ai đang theo dôi.
“Năm phút thôi đấy",
thuyết trinh viên nhắc nhò thận trọng hé cánh cừa vừa được tháo chốt đủ rộng
cho người đàn ông bị phát ban lách vào trong. Thuyết trình viên đóng cửa lại,
nhốt ngưòi đó ờ bên trong và chặn kín mọi âm thanh từ bên ngoài.
Lúc đầu tay thuyết trình
viên từ chối cảm thông với người đả ông than vãn đã phải đi tít từ Mỹ tới để
cầu nguyện tại Nhà rửa tội San Giovanni, với hy vọng chữa khỏi căn bệnh ngoài
da quái ác của mình. Nhưng cuối cùng, anh ta tỏ ra cảm thông, dĩ nhiên có sự
hâu thuẫn của món quà lót tay trị giá 500 đô la để đổi lấy năm phút ở môt mình
trong nhà rửa tội, kèm theo tâm lý càng lúc càng lo ngại rằng người đàn ông
trông dễ lây bệnh này sẽ đứng bên cạnh mình suốt ba tiếng nữa cho tới khi nhà
rửa tội mở cửa.
Giờ đây, khi đã rón rén đi
vào nhà rửa tội hình bát giác, người đàn ông cảm thấy tầm mắt mình bị thu hút
lên trên. Quái quỷ. Trần nhà chẳng giống thứ gì ông ta đã từng nhìn thấy. Một
con quỳ ba đầu trợn mắt nhìn thẳng xuống ông ta, và ông ta vội đưa mắt nhìn
xuống nền nhà.
Chỗ này có vẻ vắng người.
Họ đi đằng quái nào rồi?
Nhìn khắp gian phòng một
lượt, mắt ông ta chạm tới bàn thờ chính. Đó là một khối cẩm thạch đồ sộ hình
chữ nhật được bố trí trong một hốc tường, phía sau một rào chắn bằng cột trụ và
dây vải để ngăn khách tham quan.
Bàn thờ có vẻ là nơi ẩn nấp
duy nhất trong toàn bộ gian phòng này. Hơn nữa, một đoạn dây vải lại đang phất
phơ nhẹ, như thể nó vừa bị chạm vào.
***
Phía sau bàn thờ, Langdon và
Sienna khom người im lặng. Họ chỉ kịp thời gian thu dọn những chiếc khăn bẩn và
đặt lại nắp bồn nước trước khi nhào vào trốn phía sau bàn thờ chính, nhưng vẫn
cẩn thận mang theo chiếc mặt nạ người chết. Kế hoạch sẽ là ẩn náu lại đây cho
tới khi gian phòng toàn khách du lịch, khi đó họ sẽ lẻn ra ngoài cùng đám đông.
Cánh cửa phía bắc nhà rửa
tội đã mở hoàn toàn – ít nhất là một lúc – bởi vì Langdon nghe thấy những âm
thanh vọng lại từ quảng trường, nhưng sau đó cánh cửa được đóng lại rất đột
ngột trường, và tất cả lại chìm vào im ắng.
Giờ đây, khi đa un ăng trở
lại, Langdon nghe thây những tiêng bước chân di chuyên trên sàn đá.
Một thuyết trình viên chăng?
Kiểm tra phòng trước khi mở cửa đón du khách chăng?
Anh không còn đủ thời gian
để tắt ngọn đèn rọi phía trên bổn rửa tội và tự hỏi liệu vị thuyết trình viên
này có nhận ra không.
cccRõ ràng là không. Tiếng
bước chân di chuyên mạnh mẽ về hướng họ, dừng lại trước bàn thờ chỗ đoạn đây
Langdon và Sienna vừa nhảy qua.
Im lặng kéo dài.
"Robert, là tôi
đây", một giọng đàn ông đầy giận dữ vang lên.
‘Tôi biết anh đã trở lại đó.
Chui ngay ra đây và giải thích xem.”
Chẳng việc gì phải giả vờ
như mình không hề có mặt ở đây.
Langdon ra hiệu cho Sienna
vẫn khom người an toàn để không bị nhìn thây, tay cầm chiếc mặt nạ người chết
của Dante mà anh đã bỏ trở lại cái túi Ziploc.
Sau đó, rất chậm rãi,
Langdon đứng lên. Anh đứng sững như một vị linh mục phía sau bàn thờ của nhà
rửa tội, đưa mắt nhìn giáo đoàn chỉ có một người của mình. Người lạ mặt đối
diện với anh có mái tóc nâu nhuốm bạc, đeo kính hàng hiệu, và những nốt phát
ban rất kinh khủng trên mặt và cổ. Ông ta gãi cổ sồn sột, cặp mắt sưng mọng của
ông ta ném ra những tia nhìn khó hiểu và giận dữ.
"Anh cần cho tôi biết
anh đang làm cái quái gì ở đây, Robert?!'', ông ta căn vặn, chân bước qua đoạn
dây và tiến về phía Langdon. Giọng ông ta đặc âm Mỹ.
"Chắc chắn tôi sẽ
nói", Langdon lịch thiệp trả lòi. "Nhưng trước hết, hãy cho tôi biết
ông là ai."
Người đàn ông đừng sững lại,
vẻ mặt đầy ngò vực. "Anh nói sao cơ?!"
Langdon cảm thấy có gì đó
hơi quen quen trong ảnh mắt của người đàn ông, giọng nói ông ta cũng vậy. Mình
đã gặp ông ấy... bằng cách nào đó, ở nơi nào đó. Langdon bình tĩnh nhắc lại dể
nghị của anh. “Xỉn hãy cho tôi biết ông là ai và làm sao ông biết tôi."
Người đàn ông vung tay lên
vẻ không tin nổi. "Jonathan
Ferris? Tổ chức Y tế Thế giới? Người đã bay tới Đại học Harvard và đón anh!?”
Langdon cố gắng phân tích những gì mình đang nghe
thấy.
"Tại sao anh không gọi lại?!", người
đàn ông vặn hòi, vẫn gãi lấy gãi để cổ và má, lúc này nhìn đỏ tấy và phổng rộp.
"Và cô ả mà tôi nhìn thấy vào đây cùng anh là ai vậy? Có phải cô ta là
người bây giờ anh đang hợp tác phải không?"
Sienna vẫn bò lom khom bên cạnh Langdon và lập
tức lên tiếng "Bác sĩ Ferris phải không? Tôi là Sienna Brooks. Tôi
cũng là một bác sĩ. Tôi làm việc tại Florence này. Giáo sư Langdon bịbắn vào
đầu đêm qua. Anh ây bị mắc chứng rối loạn trí nhớ, và anh ấy không biết ông là
ai hay chuyện gì đã xảy ra với anh ây hai ngày qua. Tôi ỏ đây bởi vì muốn giúp
anh ấy."
Nghe những lòi nói của
Sienna vang vọng khắp nhà rửa tội vắng vẻ, người đàn ông nghiêng đầu, vẻ ngơ
ngác, như thể ý của cô không lấy gì làm bảo đảm. Sau một lúc kinh ngạc, ông ta
lùi lại một bưóc, cố đứng dựa vào một trụ chống cho vững.
"Ôi.. Chúa ơi",
ông ta lắp bắp. "Thế là rõ mọi chuyện rồi."
Langdon nhìn vẻ giận dữ tan
biến trên gương mặt người đàn ông.
"Robert", người
mới đến thì thào, "chúng tôi nghĩ anh đã.. ", ông ây lắc đẩu như thể
cố gắng sắp xếp mọi tình tiết cho phù hợp. "Chúng tôi nghĩ anh đã trở
mặt... rằng cổ lẽ họ trả nhiều tiền cho anh.. hoặc đe dọa anh... Chúng tôi
không nắm được!"
"Tôi là người duy nhất
anh ấy nói chuyện", Sienna nói. "Tất cả những gì anh ấy biết là đêm
qua anh ấy tinh dậy trong bệnh viện của tôi và có người tìm cách giết anh ấy.
Thêm nữa, anh ây cũng có những ảo giác kinh khủng - những xác chết, các nạn
nhân bệnh dịch và một người phụ nữ nào đó có mái tóc bạc và một cái bùa rắn cứ
nói với anh ây..."
"Elizabeth!",
ngươi đàn ông nói. "Đó
là tiến sĩ Elizabeth Sinskey! Robert, bà ấy là người đã mời anh tới giúp chúng
tôi!"
"Chà, nếu đúng là bà ấy", Sienna nói.
"Tôi hy vọng anh biết rằng bà ấy đã gặp rắc rối. Chúng tôi nhìn thấy bà ấy
bị kẹt ở ghế sau một chiếc xe thùng đẩy lính tráng, và bà ây trông như say
thuốc hay gì đó"
Người đàn ông chậm rãi gật đẩu, nhắm mắt lại. Mi
mắt ông ây trông sưng mọng và đỏ.
"Mặt anh bị sao vậy?", Sienna hỏi.
Ông ấy mở mắt ra. "Sao cơ?"
"Da của anh? Trông như anh đã nhiễm phải thứ
gì đó. Anh có mệt không?"
Người đàn ông trông đầy vẻ sửng sốt, và cho dù
chắc chắn câu hỏi của Sienna thẳng thừng đến mức có phần hơi lỗ mãng nhưng
Langdon cũng không khỏi thắc mắc về điều đó. Nghĩ tới số lượng những thứ ám chỉ
tới dịch bệnh mà anh đã gặp ngày hôm nay, hình ảnh da tây đỏ quả thật rất đáng
ngại..
"Tôi ổn thôi", người đàn ông nói.
"Đó là do thứ xà phòng khốn kiếp ở khách sạn. Tôi dị ứng nặng với đậu
nành, và hầu hết các loại xà phòng thơm của Ý đều có đậu nành. Tôi đã dại dột
không kiểm tra kỹ."
Sienna thở phào nhẹ nhõm, giờ vai cô trùng xuống
hẳn. "Ơn Chúa anh không ăn thứ đó. Chứng viêm da tiếp xúc là do sốc mẫn
cảm."
Họ cùng cười ngượng nghịu.
Sienna đánh bạo, "Xin cho tôi biết cái tên
Bertrand Zobrist có ý nghĩa gì với anh không?".
Người đàn ông sững sờ, trông như thể ông ấy vừa
mặt đối mặt với quỷ sứ ba đẩu.
“Chúng tôi tin mình vừa tìm được một thông điệp
từ ông ta", Sienna nói. "Nó chỉ tới một nơi nào đó ở Venice. Đỉều đó
có ý nghĩa gì với anh không?"
Giờ mắt người đàn ông trở nên dữ tợn. "Lạy
Chúa, có đấy.Rất nhiều! Nó chỉ tới chỗ nào!?"
Sienna hít một hơi, rõ ràng đã sẵn sàng kể cho
người đàn ông mọi chuyện về bài thơ xoáy trôn ốc mà cô và Langdon vừa phát hiện
trên chiếc mặt nạ, nhưng theo bản năng, Langdon đã kín đáo đặt một bàn tay lên
tay cô. Có vẻ người đàn ông là một đổng minh, nhưng sau tất cả sự việc hôm nay,
tâm trí Langdon mách bảo anh đừng vội tin ai cả. Hơn nữa, cà vạt của người đàn
ông có đeo một quả chuông, và anh có cảm giác người đàn ông này rất có thể
chính là người đang cầu nguyện trong nhà thờ Dante lúc trước. Ồng ta đã bám
theo bọn mình chăng?
"Làm sao anh tìm được chúng tôi ở
đây?", Langdon hỏi.
Người đàn ông vẫn còn bối rối khi biết rằng
Langdon không nhớ được mọi việc. "Robert, anh gọi cho tôi đêm qua nói rằng
anh đã dàn xếp cuộc gặp mặt với một giám đốc bảo tàng tên là Ignazio Busoni.
Sau đó anh biến mất. Anh không hề gọi lại. Khi nghe tin Ignazio Busoni chết,
tôi rất lo. Tôi đến đây tìm anh suốt buổi sáng. Tôi nhìn thây cảnh sát ở bên
ngoài Cung điện Vecchio và trong khi đợi tìm hiểu xem chuyện gì xảy ra, tình cờ
tôi nhìn thấy anh chui ra khỏi một ô cửa nhỏ cùng với..." Ông ta liếc nhìn
về phía Sienna, rõ ràng không nhớ được tên cô.
“Sienna", cô nhắc. "Brooks."
“Tôi xin lỗi... cùng với bác sĩ Brooks. Tôi bám
theo hai người hy vọng bỉết được anh đang làm chuyện quái gì.”
“Tôi nhìn thấy anh trong Nhà thờ Cerchi, đang cầu
nguyện, tôỉ có nhầm không?"
"Đúng đấy! Tôi cố gắng phán đoán xem anh
đang làm gì nhưng không có tác dụng! Dường như anh rời khỏi nhà thờ chẳng khác
gì một người đang thi hành nhiệm vụ, cho nên tôi bám theo anh. Khi thấy hai
người lẻn vào nhà rửa tội, tôi quyết định đã đến lúc phải trực diện gặp anh.
Tôi chi tiền cho tay thuyết trình viên chi để có mấy phút được một mình ở trong
này”
"Hơi hấp tấp”Langdon nhận xét, "nếu anh
nghĩ tôi phản anh".
Người đàn ông lắc đầu. "Có gì đó mách bảo
tôi rằng anh sẽ không bao giờ làm vậy. Giáo sư Robert Langdon ư? Tôi biết nhất
định có lời giải thích khác. Nhưng bị mất trí nhớ sao? Thật không tin nổi. Tôi
chưa bao giờ đoán ra được."
Người đàn ông với những nốt tây đỏ lại bắt đầu
gãi sồn sột "Nghe này, tôi chỉ có năm phút thôi. Chứng ta cần ra khỏi đây
ngay. Nếu tôi tìm được hai người thì những kẻ đang tìm cách giết anh cũng có
thể tìm ra anh. Có rất nhiều chuyện xảy ra mà tôi không hiểu. Chúng ta cần tới
Venice. Ngay lập tức. Cần ròi khỏi Florence mà không để ai nhìn thấy. Những kẻ
đang giữ tiến sĩ Sinskey... những kẻ truy đuổi anh... chúng có tai mắt ở khắp
mọi nơi." Ông ta ra hiệu về phía cửa.
Cuối cùng Langdon cũng cảm thấy như thể mình sắp
có được câu trả lời nào đó. "Đám lính mặc đổng phục đen là ai? Tại sao họ
lại cố tìm cách giết tôi?"
"Chuyện dài iắm", người đàn ông nói.
"Trên đường đi tôi sẽ giải thích."
Langdon cau mày, hoàn toàn không thích câu trả
lời thế này.
Anh ra hiệu cho Sỉenna và kéo cô ra một bên, nói
thật nhanh với cô.
"Em có tin anh ta không? Em nghĩ sao
nào?"
Sienna nhìn Langdon như thể anh đang hóa dại vì
hòi vậyệ "Em nghĩ gì ư? Em nghĩ anh ta là người của Tổ chức Y tế Thế giới!
Em nghĩ anh ta là ván cược tốt nhất cho chúng ta để cố câu trả lời!"
"Thế còn tình trạng phát ban?".
Sienna nhún vai. "Đúng như những gì anh ta
nói - viêm da tiếp xúc nặng."
"Và nếu không phải như những gì anh ta nói
thì saoV, Langdon thì thào. "Nếu... là gì đó khácT'
"Gì khác chứ?" Cô nhìn anh vẻ hoài
nghi. "Robert, không phải là dịch hạch, nếu đó là những gì anh đang nghĩ.
May thay, anh ta là một bác sĩ. Nếu anh ta bị một căn bệnh chết người và biết
mình lây nhiễm, anh ta sẽ không khinh suất ra ngoài để lây nhiễm cho cả thế
giới đâu."
"Thế nếu anh ta không nhận ra mình bị dịch
hạch thì sao?"
Sienna mím môi, nghĩ ngợi một lúc. "Thế thì
em sợ rằng anh và em đã nhiễm cả rổi... cùng với tất cả mọi người trong khu
vực."
"Em biết đây, cách cư xử với bệnh nhân của
em có thể hữu dụng."
"Cứ thẳng thắn thôi." Sienna đưa cho
Langdon túi Ziploc có chiếc mặt nạ người chết. "Anh mang người bạn nhỏ của
chúng ta theo nhé."
Khi trở lạỉ chỗ bác sĩ Ferris, hai người nhận ra
ông ta vừa kết thúc một cuộc điện đàm.
"Tôi vừa gọi cho lái xe của tôi”, người đàn
ông nói. "Anh ấy sẽ đón chúng ta ở bên ngoài..” Bác sĩ Ferris dừng lại đột
ngột, đăm đăm nhìn vào tay Langdon là lần đầu tiên thấy khuôn mặt lúc chết của
Dante Alighieri.
“Lạy Chúa!”, Ferris nói, co rúm lại. “Thứ quái gì
vậy?”
“Chuyện dài lắm”, Langdon đáp. “Tôi sẽ giải thích
trên đường đi.”
Biên tập viên New York Jonas Faukman tỉnh giấc vì
tiếng điện thoại nối từ nhà tới văn phòng của minh
réo vang. Anh lật người và nhìn đổng hổ: 4 giờ 28
phút sáng.
Trong giới xuất bản sách, những cuộc gọi khẩn cấp
lúc đêm muộn hiếm gặp chẳng kém gì chuyện thành công chi sau một đêm. Bực bội,
Faukman chuồi ra khỏi giường và đi vội tới phòng làm việc.
"Xin chào?", giọng nói trên máy là một
giọng nam trung quen thuộc. "Jonas, thật may cậu có ở nhà. Robert đây. Tôi
hy vọng không khua cậu dậy."
"Đương nhiên cậu khua tôi dậy rổi! Mới có
bốn giò sáng thôi!"
"Xin lỗi, tôi đang ở nước ngoài."
Ở Harvard họ không dạy về các múi giờ à?
“Tôi đang gặp rắc rối chút, Jonas, và tôi cần
giúp đỡ." Giọng Langdon nghe rất căng thẳng. "Nó liên quan đến thẻ
Netjets hạng doanh nghiệp của cậu."
Netjets à?", Faukman
bật cười. "Robert, chúng tôi ở trong ngành xuất bản sách. Chúng tôi không
có quyển tiếp cận các máy bay tư."
“Cả hai chúng ta đều biết
cậu đang nói dối mà, anh bạn."
Faukman thở dài. "Được
rồi, để tôi nói lại. Chúng tôi không có quyền tiếp cận các máy bay tư cho các
tác giả sách vể lịch sử tôn giáo. Nếu cậu muốn viết cuốn Năm mươi sắc thái của
thánh tượng học thì chúng ta có thể nói chuyện tiếp."
"Jonas, dù chuyến bay
tôn kém bao nhiêu, tôi cũng sẽ thanh toán cho cậu. Tôi hứa đây. Tôi đã bao giờ
thất hứa với cậu chưa?"
Còn hơn là cậu lỡ hạn chót
lần cuôĩ của cậu những ba năm cơ đấy. Tuy nhiên, Faukman cảm thây giọng Langdon
có vẻ khẩn trương. "Cho tôi biết đang có chuyện gì. Tôi sẽ cố gắng
giúp."
"Tôi không có thời gian
giải thích, nhưng tôi thật sự cần cậu làm việc này cho tôi. Đó là vấn đề sinh
tử đấy."
Faukman đã làm việc với
Langdon đủ lâu để quen với khiếu hài hước của anh, nhưng anh ta không hề nghe
thấy vẻ đùa cợt trong giọng nói lo lắng của Langdon lúc này. Anh chàng hết sức
nghiêm túc. Faukman thở hắt ra và gắng trân tĩnh. Giám đốc tài chính của mình
sè câu đầu rút ruột mình mất. Ba mươi giây sau, Faukman đã viết ra các chi tiết
yêu cẩu chuyến bay đặc biệt của Langdon.
"Mọi thứ ổn chứ?",
Langdon hỏi, rõ ràng cảm thấy vẻ do dự và ngạc nhiên của anh chàng biên tập
viên trước những chi tiết đặt chuyến bay.
***
Trung tâm điều hành tại Hoa
Kỳ cùa NetJets đặt tại Gohimbus, bang Ohio, với một đội hỗ trợ bay trên điện
thoại toàn thời gian.
Đại diện mảng dịch vụ chủ số
hữu, Deb Kìer vừa nhận được cuộc gọi từ một chủ doanh nghiệp ở New York.
"Chờ chút thưa ngài", cô nói, chinh lại tai nghe và gỗ thiết bị nhập
thông tin của mình. "Về mặt kỹ thuật thì đây là một chuyến bay của Netjets
châu Âu, nhưng tôi có thể giúp ngài được." Cô nhanh chóng truy cập hệ
thống Netjets châu Âu, có trung tâm đặt tại Paço de Arcos, Bổ Đào Nha, sau đó
kiểm tra vị trí hiện tại của các máy bay ở Ý và xung quanh đó.
"Được rồi, thưa ngài",
cô nói, "chúng tôi có một chiếc Citation Excel tại Monaco, chúng tôi có
thể điều sang Florence trong vòng chưa đầy một tiếng. Như thế có tiện cho ngài
Langdon không ạ?".
"Hy vọng như vậy",
người đàn ông từ công ty xuất bản trả lòi, nghe như đã kiệt sức và hơi khó
chịu. "Chúng tôi rất biết ơn."
"Đó là hân hạnh của
chúng tôi", Deb nói. "Và
ngài Langdon muốn bay tới Geneva phải không?"
"Đúng vậy!"
Deb tiêp tục gõ máy. "Tất cả đã xong",
cuối cùng cô nói. "Ngài Langdon được xác nhận ở Trạm điều hành cơ sở cố
định Tassỉgnao tại Lucca, khoảng năm mươi dặm về phía tây Florence. Ông ấy sẽ
khởi hành lúc 11 giờ 20 phút sáng theo giờ địa phương. Ông Langdon cẩn có mặt
tại Trạm mười phút trước khi khởi hành. Ngài sẽ không có dịch vụ di chuyển trên
bộ, không có phục vụ ăn, và ngài cần cung câp thông tín hộ chiếu, để chúng tôi
hoàn tất mọi việc. Ngài còn yêu cầu gì nữa không ạ?"
"Một công việc mới chăng?", anh ấy cười
nói. "Cảm ơn cô. Cô giúp được nhiều lắm."
“Rất hân hạnh. Chúc ngủ ngon." Deb kết thúc
cuộc gọi và quay trở lại màn hình của mình để hoàn tất việc đặt chỗ. Cô nhập
thông tin hộ chiếu của Robert Langdon và định tiếp tục thì thấy màn hình hiện
ra một hộp thoại cảnh báo màu đỏ. Deb đọc thông báo, mắt cô mở to.
Chắc là nhầm lẫn thôi.
Cô cố gắng nhập lại hộ chiếu của Langdon. Lời
cảnh báo lại xuất hiện lẩn nữa. Lời cảnh báo này sẽ xuất hiện trên bất kỳ máy
tính hàng không nào trên thếgiới mà Langdon tìm cách đặt chuyến bay.
Deb Kỉer đăm đăm nhìn một lúc lâu với vẻ không
tin nổi. Cô biết NetJets giữ thông tin riêng của khách hàng rất kỹ càng, nhưng
lời cảnh báo này phá bỏ mọi quy tắc bảo mật quyền riêng tư của cồng ty họ.
Deb Kier lập tức gọi cho bộ phận chức năng.
***
Đặc vụ Brüder tắt điện thoại di động và bắt đầu
dẫn ngưòi của mình quay lại những chiếc xe thùng.
"Langdon di chuyển
rồi", gã nói. "Anh
ta đi một máy bay riêng tới Geneva. Khởi hành chưa đầy một giò nữa từ Trạm điều
hành Lucca, năm mươi dặm về phía tây. Nêu đi ngay, chúng ta có thể tới đó trước
khi anh ta cất cánh."
***
Cũng lúc đó, một chiếc ô tô mui kín hiệu Fiat
thuê riêng đang lao lên phía bắc dọc theo Đại lộ Panzani, bỏ lại Quảng trường
Duoĩĩio phía sau và nhắm thẳng tới nhà ga xe lừa Santa Maria cùa Florence.
Ở ghế sau, Langdon và Sienna cúi thật thấp trong
khi bác sĩ Ferris ngổi ở phía trước cùng vỏi tài xế. Việc đặt chỗ vởi Netjets
là ý tưởng của Sienna. Nếu may mắn, nó sẽ đủ để đánh lạc hướng và cho phép ba
người bọn họ an toàn vượt qua nhà ga Florence, nơi chắc chắn sẽ dày đặc cảnh
sát nếu không làm vậy. Thật may, tới Venice chi rnất hai giờ đi bằng tàu hỏa,
và đỉ lại bằng xe lửa trong phạm ví nội địa thì không cần đến hộ chiếu.
Langdon nhìn Sienna, lúc này dường như đang săm
soi bác sĩ Ferris với vẻ lo lắng. Người đàn ông này đang đau đớn thấy rõ, hơi
thở của ông ta nặng nề, như thể mỗi lần hít vào cũng làm ông ta đau đớn.
Mình hy vọng cô ây nói đúng về tình trạng bệnh,
Langdon nghĩ thầm, mắt nhìn những chỗ phát ban của người đàn ông và tưởng tượng
ra những mầm bệnh đang lững lờ trong không khí bên trong chiếc xe nhỏ xíu, tù
túng. Ngay cả đầu ngón tay của ông ta trông cũng sưng vù và đỏ tấy. Langdon cố
xua nỗi lo lắng ra khỏi tâm trí mình và nhìn ra ngoài cửa sổ.
Khi đến nhà ga, họ đi ngang qua Đại Khách sạn
Baglioni, nơi vẫn thường tổ chức các sự kiện của một hội nghị nghệ thuật mà
Langdon tham dự hằng năm. Nhìn thấy tòa nhà, Langdon nhận ra mình sắp làm một
việc mà anh chưa từng làm trong đời.
Mình rời khỏi Florence mà chưa kịp tới thăm chàng
David.
Với lời xin lỗi thầm gửi tới Michelangelo,
Langdon đưa mắt un về nhà ga phía trước... và hướng dòng ý nghĩ tới Venice.
Langdon sẽ tới Geneva à?
Tiến sĩ Elizabeth Sinskey cảm thấy càng lúc càng
mệt khi bà ngổi nghiêng ngả như đảo đồng ở băng ghế sau chiếc xe thùng, lúc này
đang phóng như bay ra khỏi Florence, nhắm thẳng hưóng tây về phía sân bay tư
nhân bên ngoài thành phố.
Geneva không có nghĩa gì rồi, Sinskey tự nhủ.
Mối liên hệ tương thích duy nhất đến Geneva là:
Đây chính là địa điểm đặt tổng hành dinh của WHO. Langdon đang tìm mình ở đó chăng?
Dường như chuyện đó không hợp lý tí nào bởi lẽ Langdon biết bà đang ở Florence
này.
Giờ một ý nghĩ khác vụt đến với bà.
Chúa ơi... hay Zobrist đang nhắm vào Geneva?
Zobrist là người mê các biểu tượng, và phải thừa
nhận rằng việc tạo ra một "điểm không bề mặt"29 tại tổng hành dinh Tổ
chức Y tế Thế giới là khá hợp lý, nếu xét đến cuộc chiến kéo dài giữa hắn
¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬____________________________________________________________
29 Nguyên văn: “ground zero”: Điểm trên mặt đất
gần với một vụ nồ nhất. Thuật ngữ này thường gắn với các vụ nồ hạt nhân hay nồ
bom lớn, nhưng nó cũng được dùng trong các trận động đất, đại dịch và những
thảm họa khác để đánh dấu thiệt hại nặng nhất.
¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬¬____________________________________________________________
với Sinskey. Thế nhưng, nếu Zobrift tìm kiếm một
điểm bùng phát dễ dàng cho một đạỉ dịch thì Geneva không phái là lựa chọn hay.
So với các đô thị khác, thành phố này cách biệt về mặt địa ỉý và khá lạnh vào
thời điếm này trong năm. Hầu hết các đại dịch đểu bắt rễ trong những môi trường
ầm áp và đông dân cư hơn. Geneva ớ trên mực nước biển hơn ba trăm mét, và khó
có thế là một địa điểm thích hợp để bắt đầu một đại dịch. Cho dù Zobrist cố
khinh thường ta đến đâu chăng nữa.
Cho nên câu hỏi vẫn còn đó - tại sao Langdon lại
đến đó? Đích đến kỳ lạ của vị giáo sư người Mỹ lại là một điếm khác nữa trong
bản danh sách càng lúc càng dài liệt kê những hành vi không thế lý giải được
của anh ta bắt đầu từ tối qua, và bất chấp những nỗ lực hết công suất, Sinskey
thấy rất khó đi đến một lời giải thích thỏa đáng nào cho những việc làm ấy.
Anh ta đứng về phe ai?
Phải thừa nhận, Sinskey mới
chỉ biết Langdon có vài ngày, nhưng bà thường đánh giá nhân cách rất chính xác,
và bà không tin một người như Robert Langdon lại có thể bị tiền bạc mua chuộc.
Thế mà anh ta lại phá vỡ hợp đồng với chúng ta tối qua. Bây giờ có vẻ như anh
ta đang chạy quanh như một gã ma cà bông lên cơn. Hay anh ta bị thuyết phục
bằng cách nào đó nên tin rằng những hành động của Zobrist có ý nghĩa kép?
Ý nghĩ ấy khiến bà rùng mình
ớn lạnh.
Không, bà tự trấn an mình. Ta biết tiếng tăm của
anh ta quá rõ, anh ta hơn thế nhiều.
Lần đầu Sinskey gặp Robert Langdon là bốn đêm
trước trong khoang một chiếc máy bay vận tải C-130 được trưng dụng làm trung
tâm điều phối di động của Tổ chức Y tế Thế giới,
Mới chỉ hơn 7 giò lúc máy bay đáp xuống Hanscom
Field, chưa đầy mười lăm dặm từ Cambridge, bang Massachusetts. Sinskey không
chắc mình trông đợi gì ờ vị học giả lừng danh mà bà đã liên lạc qua đỉện thoại,
nhưng bà vui sướng đến ngạc nhiên khi anh bưởc tự tin lên ván cẩu để chui vào
khoang sau máy bay và chào bà bằng một nụ cười vô tư.
"Tiến sĩ Sỉnskey phải không ạ?",
Langdon bắt tay bà khá chặt
"Chào giáo sư, rất vinh dự được gặp
anh."
"Tôi cũng rất hân hạnh. Cảm ơn vì tất cả
những gì bà đã làm "
Langdon là một người đàn ông khá cao, có diện mạo
tươi tắn của cư dân thành phố và giọng nói trầm. Sinskey bất ngờ khi thấy quần
áo anh mặc lúc đó lại chính là trang phục lên lớp - áo khoác vài tuýt, quần
ka-ki, và giày lười đế mềm - dễ khiến người khác có ấn tượng rằng anh đã nhiều
lần phải rời khỏi trường mà không được báo trước. Trông anh cũng trẻ và có dáng
gọn hơn so với bà tưỏng tượng, điều đó chỉ càng khiến Elizabeth nhớ tới tuổi
tác của chính mình.
Mình gần bằng tuổỉ mẹ anh ta.
Bà mỉm cười mỏi mệt nhìn anh. "Cảm ơn vì anh
đã tới, giáo sư."
Langdon ra hiệu về phía người cộng sự chẳng lấy
gì làm hài hước mà Sinskey đã phái đi đón mình. "Người bạn của bà đây chưa
cho tôi nhiều cơ hội cân nhắc mọi việc."
"Không sao. Tôi trả tiền cho anh ta làm việc
đó mà."
"Cái bùa đẹp quá", Langdon nói, mắt
nhìn chiếc vòng cổ của bà. "Lam ngọc thạch thì phải?"
Sỉnskey gật đầu và cúi nhìn cái bùa bằng chất đá
màu da trời của mình, được tạo tác thành biểu tượng con rắn quấn quanh cây gậy
dựng đứng. "Biểu tượng hiện đại cho ngành y khoa. Và tôi tin chắc anh có
biết nó được gọi là 'y hiệu' - 'thương thần trượng'30.”
Langdon đột ngột ngước lên, như thế cổ gì đó muốn
nói.
30 biểu tượng của ngành y
______________________________________________________
Bà chờ đợi. Vâng?
Rõ ràng nhận ra minh cổ óphẩn bốc đổng, anh mỉm
cười nhã nhặn và đổi chủ đề. "Vậy tại sao tôi lại có mặt ớ đây?"
Elizabeth ra hiệu về phía khu vực thảo luận tạm
thời chỗ một chiếc bàn thép không gi. "Mời anh ngổi. Tôi có việc cẩn anh
xem xét."
Langdon thong thả đi tới chỗ bàn, và Elizabeth
nhận thây mặc dù vị giáo sư có vẻ tò mò với cuộc gặp bí mật này nhưng anh không
hề bốì rối. Đây là một người luôn thấy thoải mái với chính mình. Bà tự hỏi liệu
anh có còn thấy thảnh thơi một khi anh biết lý do được mời tới đấy.
Elizabeth mời Langdon ngồi ổn định rồi không cần
mào đầu, lấy ra cái vật mà bà cùng nhóm của mình đã tịch thu được từ một hộc tủ
an toàn ở Florence chưa đầy mười hai tiếng trước.
Chờ Langdon nghiên cứu cái ống hình trụ có chạm
khắc nhỏ xíu một lúc lâu, Elizabeth mới nói vắn tắt những gì bà đã biết. Vật
này là một trụ triện cổ có thể dùng để in. Nó mang theo một hình ảnh đặc biệt
kinh khủng - một gã quỷ Satan ba đầu cùng với một chữ duy nhất: Saligia.
"Saligia", Langdon nói, "là cách
nói tiếng Latin để nhắc ta nhớ tới...".
"Bảy Trọng tội", Elizabeth nói.
"Vâng, chúng tôi đã tìm hiểu về nó."
"Vâng..." Giọng Langdon có vẻ lúng
túng. "Có lý do gì bà muốn tôi xem xét thứ này không?"
"Thực tế là có." Sinskey lấy lại cái
ống trụ và bắt đầu lắc mạnh, làm viên bi chạy lạo xạo.
Langdon ngơ ngác trước hành động của bà, nhưng
anh chưa kịp hỏi bà đang làm gì thì đầu mút cái ống trụ bắt đầu sáng lên, về bà
chĩa nó vào một tấm cách nhiệt trên vách chiếc máy bay đã được dọn sạch nội
thất.
Ungdkm huýt »áo nhẹ và tiến ỉại phía hình ảnh
được chiẽu
“Bức Vực Địa ngục của Bottỉcelli", Langđon
nói. "Dựa theo Hỏa ngục cùa Dante. Mặc dù tôi đoán có lẽ bà cũng đã biết
rổi."
Elizabeth gật đầu. Bà và đổng nghiệp đã xác định
danh tính bức vẽ qua Internet, và rất ngạc nhiên khi biết đó là tác phẩm cúa
Botticelli, một họa sĩ nổi danh với những kiệt tác sáng tạo, lý tưởng hóa như
Thần Vệ nữ chào đời và Câu chuyện mùa xuân. Sinskey yêu cả hai tác phẩm mặc dù
chúng đều mô tả sự sinh sôi nảy nở và sức sáng tạo của cuộc sông - điều chi
càng khiến bà nhớ đến bi kịch không thể mang thai của mình - tâm sự hối tiếc
duy nhất trong cuộc đời đầy ý nghĩa của bà.
"Tôi hy vọng", Sinskey nói, "rằng
anh có thể nói cho tôi biết vẽ những biểu tượng ẩn giấu trong bức vẽ này".
Lần đầu tiên trong buổi tối hôm nay, trông
Langdon tỏ ra bổn chổn "Có phải đó là lý do bà gọi tôi đên đây không? Tôi
nghĩ bà đà nói đó là một chuyện khẩn cấp."
"Xin làm ơn!"
Langdon thở dài kiên nhẫn. "Tiến sĩ Sinskey,
nói chung, nếu bà muốn biết về một bức tranh cụ thể thì bà nên liên hệ với bảo
tàng nơi lưu giữ tác phẩm gốc. Trong trường hợp này, đó phải là Thư viện Tông
đồ của Vatican. Tòa thánh có rất nhiều chuyên gia siêu hạng ngành thánh tượng
có khả năng..."
"Tòa thánh rất ghét tôi."
Langđon nhìn bà thảng thốt: "Ghét bà ư? Tôi
cứ nghĩ mình là người duy nhất."
Bà mỉm cười buồn bã. "WHO thấy rõ rằng việc
có sẵn các biện pháp tránh thai là một trong những chìa khóa giải quyết vấn đề
sức khỏe toàn cầu - vừa để ngăn chặn các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục như
AỈDS và cũng để kiểm soát dân số tổng thể."
"Nhưng Tòa thánh lại cảm thấy hoàn toàn
khác/'
"Đúng vậy. Họ bỏ ra rất nhiều công sức và
tiền bạc truyền bá cho các nước thế giói thứ ba tin rằng phòng tránh thai là
xẩu xa."
"À, vâng", Langdon nói kèm theo một nụ
cười ranh mãnh.
'”Còn ai nói vớì thế gỉới về chuyện quan hệ tình
dục tốt hơn một đám những cụ ông độc thân tuổi bát tuân nữa chứ?"
Sinskey càng lúc càng thấy thích vị giáo sư này.
Bà lắc lắc cái ống trụ để nạp lại năng lượng cho
nó và sau đó chiếu hình ảnh lên tường lần nữa. "Giáo sư, hãy nhìn kỹ hơn
xem."
Langdon bưóc lại phía hình ảnh, chăm chú xem xét
nó, trong lúc vẫn tiến lại càng lúc càng gần hơn. Đột nhiên, anh dừng phắt lại.
"Thật lạ lùng. Nó đã bị thay đổi."
Không làm anh ta mất nhiều thời gian, "Phải,
và tôi muốn anh cho tôi biết những chỗ thay đổi mang ý nghĩa gì."
Langđon im lặng, nhìn khắp toàn bộ hình ảnh, dừng
lại để ghi ra mười chữ cái đọc thành catrovacer, sau đó là chiếc mặt nạ dịch
hạch, rồi cả câu trích dẫn lạ lùng ở quanh rìa nói về "đôi mắt chết
chóc".
"Ai đã làm việc này?", Langdon hỏi.
"Nó từ đâu mà ra?"
"Nói thật, lúc này anh biết càng ít càng
tốt. Điều tôi hy vọng là anh có thể phân tích những thay đổi này và cho chúng
tôi biết chúng mang ý nghĩa gì." Bà ra hiệu về phía chiềc bàn ở gỏc.
"Ở đây ư? Ngay bây giờ ư?"
Bà gật đầu. "Tôi biết đó là một đòi hỏi có
phần quá đáng, nhưng tôi không biết giải thích làm sao cho hết tầm quan trọng
của chuyện này đối với chúng tôi," bà ngừng lại. "Nó chính là vấn đề
sinh tử."
Langdon lo lắng nhìn bà. "Giải mẵ thứ này có
thể phải mất một lúc, nhưng tôi cho rằng nếu nó quan trọng với bà đến thế.
"Cảm ơn anh”, Sinskey nói trước khi anh kịp
thay đổi suy nghi “Anh có cần phải gọi ai khác không?"
Langdon lắc đầu và bảo bà anh đang có kế hoạch về
một kỳ nghỉ cuối tuần yên tĩnh một minh,
Quá tốt, Sinskey để anh ở lại bàn làm việc cùng
với cái máy chiếu, giây, bút chì và một chiếc máy tính xách tay có kết nối vệ
tinh bảo mật. Dù cực kỳ băn khoăn về lý do tại sao WHO lại quan tâm đên một bức
vẽ đã bị cải biên của Botticelli, nhung Langdon vẫn nghiêm túc bắt tay vào
việc.
Tiến sĩ Sinskey đinh ninh anh có thể kết thúc
việc tìm hiểu hình ảnh kia chi trong vài tiếng mà không cần nghi, cho nên bà
cũng tập trung giải quyết một số công việc của riêng mình. Thỉnh thoảng bà lại
nghe thấy anh lắc lắc cái máy chiếu và viết loạt xoạt lên giây. Gần mười phút
trôi qua, Langdon buông bút và tuyên bố, “Cerca trova”.
Sinskey ngước nhìn lên. "Cái gì cơ?"
"Cerca trova", anh nhắc lại. "Hãy
tìm và sẽ thấy. Đó là những gì mật mã này muốn nói."
Sinskey vội đi lại và ngổi xuống sát cạnh anh,
lắng nghe một cách say sưa trong lúc Langdon giải thích xem các tầng địa ngục
của Dante đã được thay đổi như thế nào, và rằng khi được đặt lại đúng thứ tự
thì chúng sẽ tạo thành cụm từ tiêng Ý cerca trova.
Tim kiêm và sẽ thấy ư? Sinskey tự hòi. Đó là
thông điệp mà gă điên ấy gửi tới mình sao? Cụm từ nghe giống như một lòi thách
thức trực tiếp. Ký ức đang nhiễu loạn của bà về những lời cuối cùng của kẻ điên
kia trong cuộc gặp gỡ của họ tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại lại trở lại trong
tâm trí: Vậy có vẻ như màn khiêu vũ của chúng ta đã bắt đầu.
"Trông bà tái nhợt kìa", Langdon nói và
chăm chú nhìn bà. "Tôi đoán đây không phải là thông điệp bà mong đợi phải
không?
Sinskey cố trấn tĩnh, vuốt vuốt chiếc bùa trên cổ
mình. "Không hẳn. Cho tôi biết.. anh có tin tấm bán đổ địa ngục này đang
gợi ý tôi tìm kiếm thứ gì đó không?"
"Có, Cerca trova."
"Và nó gợi ý tôi tìm ở chồ nào?"
Langdon xoa xoa cằm minh trong khi các nhân viên
WHO khác bắt đầu quây lại xung quanh, vẻ háo hức chờ nghe thông tín.
"Không nói gì nhiều... không hề, mặc dù tôi có ý tưởng về chỗ bà nên bắt
đầu."
"Nói cho tôi biết đi", Sinskey yêu cầu,
có vẻ ép buộc hơn mức Langdon nghĩ.
"Chà, bà cảm thấy Florence, ở Ý, thế
nào?"
Sinskey đờ người, phải cố hết sức không thể hiện
phản ứng gì. Nhưng các nhân viên của bà thì khả năng kiềm chế không bằng. Tất
cả bọn họ cùng nhìn nhau thảng thốt. Một người vớ lấy điện thoại và bấm số. Một
người khác vội vàng bước qua cửa tới phía trước máy bay.
Langdon ngơ ngác. "Tôi đã nói gì à?"
Chắc chắn rồi, Sinskey nghĩ. "Điều gì khiến
anh nói đó là Florence?"
"Cerca trova", anh đáp lại, nhanh nhẹn
kể lại bí mật đã có từ lâu liên quan đến bức tranh tường của Vasari tại Cung
điện Vecchio.
Đích thị là Florence, Sinskey nghĩ, cảm thấy đã
nghe đủ. Rõ ràng, không thể là trùng hợp ngẫu nhiên khi kẻ thù của bà lại nhảy
lầu tự sát cách Cung điện Vecchio ở Florence chưa đầy ba dãy nhà.
"Giáo sư", bà nói, "khi tôi cho
anh thấy lá bùa của tôi lúc trước và gọi đó là một thương thần trượng, anh sững
lại, như thể anh muốn nói gì đó, nhưng khi đó anh do dự và dường như đã thay
đổi suy nghĩ. Anh định nói điều gì?".
Langdon lắc đầu. "Không có gì cả. Chuyện vớ
vẩn thôi. Thỉnh thoảng thói quen nghề nghiệp làm tôi có chút độc đoán.
Sỉnskey nhin xoáy vào mắt anh. "Tôi hỏi bởi
vì tôi cần biết tôi có thể tín được anh không. Anh định nói gì nào?"
Langdon nuốt khan và hắng giọng. "Không liên
quan lắm nhưng bà nói lá bùa của bà là một biểủ tượng y học cổ, đúng là vậy.
Nhưng khỉ bà gọi nó là thương thần trượng, bà đã mắc phải một nhầm lẫn rất phổ
biến. Thương thẩn trượng có hai con rắn trên một cây gậy và có cánh ở trên
đỉnh. Chỉếc bùa của bà chi có một con rắn và không cổ cánh. Biếu tượng của bà
gọi là.. “
"Cây gậy Asclepius."
Langđon nghiêng đầu ngạc nhiên. "Vâng. Rất
chính xác." "Tỏi biết. Tôi chi kiếm tra mức độ thành thực của anh
thôi."
"Sao cơ?”
"Tôi tò mò muốn biết liệu anh có nói cho tôi
biết sự thật hay không, cho đù điều đó có thể khiên tôi khó chịu đến đâu."
"Nghe có vẻ như tôi không qua được bài kiêm
tra."
"Đừng làm như vậy lần nữa. Hoàn toàn trung
thực là cách duy nhâí anh và tôi có thể làm việc với nhau trong vụ này."
"Làm việc với nhau ư? Chúng ta vẫn chưa kết
thúc ở đây à?”
"Chưa, thưa giáo sư, chúng ta chưa kết thúc.
Tôi cần anh đến Florence đế giúp tôi tìm một thứ."
Langdon nhìn sững mà không tín nổi. "Tối nay
sao?"
"Tôi e là như vậy. Tôi chưa nói với anh về
bản chất nghiêm trọng thật sự của tình huống này."
Langdon lắc đẩu. "Bà nói gì với tôi không
thành vấn đê. Tôi không muốn bay đến Florence."
"Tôi cũng vậy", bà đanh giọng.
"Nhưng rất tiếc, thời gian của chúng ta đang cạn dần,"
Mặt trời giữa trưa chiêu lên phần nóc khá trang
nhã của đoàn tàu Frecciargento cao tốc ở Ý khi nó lao về phía bắc, cắt thành
một đường cong yêu kiều qua vùng nông thôn Tuscan. Mặc dù đang rời khỏi
Florence với vận tổc một trăm bảy mươi tư dặm mỗi giờ, nhưng đoàn tàu "mũi
tên bạc" gần như không hề tạo ra tiếng ồn, những tiếng lanh canh nhè nhẹ
lặp đi lặp lại cùng chuyển động lắc lư khe khẽ của nó đem lại cảm giác khá dễ
chịu cho hành khách.
Với Robert Langdon, một tiếng đồng hồ vừa qua là
khoảng thời gian mờ mịt.
Lúc này, trên đoàn tàu cao tốc Frecciargento,
Langdon, Sienna và bác sĩ Ferris ngồi ở một trong những salottini riêng - loại
buổng nhỏ hạng nhất có bốn ghế dạ và một bàn gấp. Ferris đã dùng thẻ tín dụng
của mình mua toàn bộ buồng, cùng với bánh mỳ kẹp và nước khoáng, những thứ
Langdon và Sienna ngấu nghiên hết sạch sau khi đã rửa ráy trong phòng vệ sinh
cạnh buồng riêng của họ.
Khi cả ba người ổn định chỗ để thực hiện chuyến
đi bằng tàu hỏa dài hai tiếng tới Venice, bác sĩ Ferris lập tức nhìn đăm đăm
chiếc mặt nạ người chết của Dante nằm trên mặt bàn ở giữa họ, trong cái túi
Zîploc. "Chúng ta cần biết chính xác chiếc mặt nạ này chỉ dẫn chúng ta tới
nơi nào ờ Venice
“Và phái thật nhanh", Sienna nói thêm, giọng
cô đẩy khẩn trương. "Có lẽ đó là hy vọng duy nhất của chúng ta nhầm ngăn
chặn đại dịch của Zobrist.”
"Khoan đã", Langđon nói, chặn một tay
lên chiếc mặt nạ, “Anh đã hứa một khi chúng ta an toàn lên được đoàn tàu này,
sẽ cho tôi một số câu trả lời về mấy ngày qua. Cho tới giờ, tất cả những gì tôi
biết là WHO đã tuyển mộ tôỉ tại Cambridge đế giúp giải mã bức Vực Địa ngục của
Zobrist. Ngoài ra, anh chưa nói gì với tôi cả."
Bác sĩ Ferris trở mình vẻ không thoải mái và lại
bắt đẩu gãi những chỗ mẩn ngứa trên mặt và cổ. "Tôi có thể nhận tháy anh
đang thất vọng", ông ta nói. "Tôi biết chắc rất khó chịu khi không
nhớ được những gì đã xảy ra, nhưng nói theo y khoa..." Ông ta liếc nhìn I
Sienna để xác nhận và sau đó nói tiếp. "Tôi đề nghị anh đừng tiêu tốn năng
lượng cố nhớ lại những tình tiết mà anh không thể nhớ. Với các nạn nhân bị
chứng mất trí nhớ, tôt nhất là để những điều đã quên chìm vào quên lãng luôn.”
"Vậy à?" Langdon cảm thấy bực bội.
"Chả ra làm sao cả! Tôi cần một vài câu trả lời! Tổ chức của anh đưa tôi
tới Ý, nơi tôi bị bắn và đánh mất vài ngày của đời mình! Tôi muốn biết việc đó
xảy ra như thế nào!"
"Robert", Sienne dịu dàng nói xen vào,
cô" trail an anh. "Bác sĩ I Ferris nói đúng. Hoàn toàn không tốt cho
anh khi thông tin dổn dập đến cùng một lúc. Hãy nghĩ đến những tình tiết nhỏ mà
anh thực sự nhớ được - người phụ nữ tóc bạc,”tìm và sẽ thây”, những cái xác
quằn quại trong bức Vực Địa ngục - các hình ảnh đan xen trong tâm trí anh thành
một chuỗi hổi tưởng lộn xộn không thể kiểm soát nổi khiến cho anh gần như mất
hết năng lực. Nếu bác sĩ Ferris kể lại mấy ngày qua, gần như chắc chắn ông ây
sẽ khơi gợi được những ký ức
khác và các ảo giác của anh có thể bắt đẩu trở
lại, Chứng mất trí nhớ cũ là một trạng thái đáng sợ. Kích thích những ký ức
nhầm chỗ có thể cực kỳ nguy hiểm cho tâm thẩn."
Ý nghĩ đó không hề có trong Langdon.
"Chắc chắn anh cảm thấy mất phương
hướng", Ferris nói thêm, "nhưng lúc này anh cần giữ tâm lý ổn định đế
tiếp tục hành động. Việc đoán ra được thông điệp của mặt nạ này là điều rất
quan trọng."
Sienna gật đầu.
Langdon thầm nhận ra các bác sĩ có vẻ đều thống
nhất ý kiến.
Langdon ngồi im lặng, cố gắng chế ngự những cảm
giác bất an của mình. Gặp một người hoàn toàn xa lạ và nhận ra thực tế bạn đã
biết người đó vài ngày rồi là một cảm giác rất lạ Lại nữa, Langđon nghĩ có gì
đó hơi quen quen trong đôi mắt của anh ta.
"Giáo sư", Ferris nói đầy cảm thông.
"Tôi có thể thấy anh không tín tưởng tôi, và điều này hoàn toàn dễ hiểu
nếu xét đến tất cả những gì anh đã trải qua. Một trong những hiệu ứng phụ phổ
biến của chứng mất trí nhớ là đa nghi nhẹ và ngờ vực."
Có lý đấy, Langdon nghĩ, bởi lẽ tôi thậm chí còn
không thể tin vào trí não của mình.
"Nói đến đa nghi", Sienna đùa, rõ ràng
cố gắng làm dịu không khí, "anh Robert đã nhìn thây tình trạng phát ban
cùa anh và nghĩ anh bị nhiễm dịch hạch. “ Chỗ phát ban này á? Tỉn tôi đi, giáo
sư, nếu tôi bị dịch hạch, tôi sẽ không điều trị bằng kháng sinh histamine bày
bán tự do đâu." ông ta móc một tuýp thuốc nhỏ trong túi và đưa cho
Langdon. Quả nhiên, đó là một tuýp kem chống ngứa chuyên trị các phản ứng dị
ứng còn một nửa.
‘Tôi xin lỗi về chuyện đó", Langdon nói, cảm
thấy I ngớ ngẩn. "Ngày dài quá mà."
"Không sao cả”, Ferris nói.
Langđon xoay ngườỉ vể phía cửa sổ, nhìn những gam
trầm củ« vùng thôn quê nước Ý kết hợp trong một bức tranh thái bình, Những vườn
nho và trang trại giờ trở nên thưa thớt hơn khi bình nguyén nhường chỗ cho
những quả đổi thấp vùng Apennines. Chi lát nữa, đoàn tàu sẽ chạy vào con đèo
ngoằn ngoèo và sau đó lại xuống thấp, tiến về phía đông, tới biển Adriatic.
Mình đang tới Venice, anh thầm nhủ. Để tìm một
kiếm một đại dịch.
Cái ngày lạ lùng hôm nay khiến Langdon cảm giác
như thể mình đang di chuyển qua một khung cảnh chẳng có gì khác ngoài những
hình thù mơ hồ không có chi tiết cụ thể. Như một giấc mơ.
Mỉa mai thay, những cơn ác mộng lại thường khiến
người ta tỉnh giấc, nhưng Langdon cảm thây như thể mình vừa choàng tỉnh trong
một cơn ác mộng.
"Anh nghĩ gì vậy?", Sienna thì thầm bên
cạnh anh
Langdon ngước lên, mỉm cưòi mỏi mệt. "Anh
đang nghĩ anh sẽ tỉnh giâc ở nhà và nhận ra tất cả chuyện này chi là một cơn ác
mộng."
Sienna nghiêng đầu, vẻ bẽn lẽn. "Anh sẽ
không nhớ em nếu anh tính dậy và thấy rằng em không hề có thật à?"
Langdon đành cưòi. "Có chứ, anh sẽ nhớ em
chút chút."
Cô đập nhẹ lên đùi anh. "Đừng có nằm mơ giữa
ban ngày nữa đi, giáo sư, và làm việc nào."
Langdon miễn cưỡng đưa mắt trò lại khuôn mặt nhăn
nhúm của Dante Alighieri trên chiếc bàn trưóc mặt đang trân trân nhìn mông lung
lên trần. Anh nhẹ nhàng nhấc chiếc mặt nạ thạch cao lên và lật ngược nó trên
tay mình, chăm chú nhìn phẩn mặt sau lõm,ngay dòng đầu tiên của thông điệp xoáy
trôn ốc:
Ôi, các người bị ám ảnh bởi tri thức vững vàng...
Langdon e rằng lúc này mình không thể hiểu nổi.
Thế nhưng anh vẫn bắt tay vào việc.
***
Hai trăm dặm phía trước đoàn tàu đang lao vùn
vụt, con tàu The Mendacium vẫn buông neo trên biển Adriactic. Ở boong dưới,
điều phối viên Laurence Knowlton nghe thấy những tiếng gõ khe khẽ lên buồng
kính của mình và thò tay bấm một cái nút bên dưới bàn làm việc, biến vách tường
mờ đục thành trong suốt. Bên ngoài, một dáng người thấp nhỏ, rám nắng hiện ra.
Thị trưởng.
Trông ông ta rất cau có.
Không nói một lời, ông ta bước vào, khỏa trái cừa
buồng, và bật công tắc để biến buồng kính trở thành mờ đục như cũ. Người ông ta
nổng nặc mùi rượu.
"Đoạn video Zobrist để lại cho chúng
ta", Thị trưởng lên tiếng.
"Vâng, thưa ngài?"
"Tôi muốn xem. Ngay bây giờ."
Lúc này Robert Langdon vừa hoàn thành việc ghi
lại đoạn thông điệp xoáy trôn ốc từ chiếc mặt nạ người chết ra giấy để có thể
phân tích nó kỹ hơn. Sienna và bác sĩ Ferris tụm lại hỗ trợ, và Langdon phải cố
hết sức để không chý ý đến việc Ferris cứ liên tục gãi và thở dốc.
Anh ta không sao, Langdon nhủ thầm, cố tập trung
vào những dỏng thơ trước mặt mình.
“Ồi cắc người bị ám ảnh về tri thức vững vàng,
hãy làm theo lời dạy giấu ờ đây...
bên dưới lớp màn thơ phú khó hiếu."
"Như tôi đã nói lúc trước", Langdon bắt
đẩu, "Khổ mở đẩu trong bài thơ của Zobrist lấy nguyên văn từ Hỏa ngục của
Dante một lời cảnh báo với độc giả rằng những câu chữ ây mang một ý nghĩa sâu
xa hơn".
Tác phẩm đẩy ngụ ý của Dante có vô vàn những luận
giải được giấu kỹ về tôn giáo, chính trị và triết học đến mức Langdon thường
gợi ý sinh viên cúa minh rằng thi hào người Ý này cần được nghiên cứu nhiều như
Kinh Thánh – đọc thật kỹ các dòng để cố gắng hiểu ý nghĩa sâu xa hơn.
"Các học gỉả về phúng dụ thời Trung
cố", Langđon nói tiếp, “nhìn chung chia những phân tích của họ thành hai
hạng mục – “văn bản” và 'hình ảnh”… Văn bản là nội dung đúng nghĩa đen của tác
phẩm, còn hình ảnh là thông điệp mang tính biếu tượng".
“Được rổi”,Ferris hào hửng nói. "Vậy thực tế
rằng nhà thơ bắt đầu với dòng thơ này..
“Tức là", Sienna xen vào, "việc đọc qua
cùa chủng ta chi lật mờ một phần câu chuyện. Nghĩa thực có thể ẩn giấu".
“Đúng, đại loại như thế đây." Langdon đưa
mắt trở lại văn bản và tiềp tục đọc to.
"Hãy tìm gă tổng trấn bội bạc của Venice,
kẻ cắt rời những đầu ngựa...
và moi xương cà người mù lòa,”
"Chà", Langdon nói, "tôi không
chắc về những con ngựa không đẩu và xương của kẻ mù lòa, nhưng nghe như thể
chúng ta cần phải tìm một vị tổng trấn cụ thề".
"Em cho rằng... ngôi mộ của một tổng trấn
chăng?", Sienna hỏi.
"Hay một bức tượng hoặc chân dung?",
Langdon đáp lại. "Đã nhiều thế kỷ không còn các tổng trấn."
Tổng trấn của Venice cũng tương đương với công
tước cùa các thành bang nước Ý khác, và hơn một trăm vị đã từng cai trị Venice
trong suốt cả một nghìn năm, bắt đầu từ năm 697 sau Cống nguyên. Dòng dõi của
họ kết thúc cuối thế kỷ XVIII với cuộc chinh phạt của Napoleon, nhưng vinh
quang và quyền lực cùa họ vẫn là chủ đề mà nhiều sử gia vô cùng say mê.
"Như hai người có thể đã biết”, Langđon nói,
"hai điểm du lịch phổ biến nhất ở Venice - Dinh Tổng trấn và Thánh đường
St.Mark - đều được các tổng trân xây dựng cho chính minh. Nhiều người trong số
họ được an táng ngay trong đó".
"Và anh có biết", Sienna hỏi, mắt nhìn
bài thơ, "liệu có vị tổng trấn nào được coi là đặc biệt nguy hiểm
không?".
Langdon cúi nhìn dòng thơ đang được nghiên cứu.
Hãy ìim gã tổng trấn bội bạc của Venice. "Anh không biết ai cả, nhưng bài
thơ không dùng từ 'nguy hiểm', mà dùng từ 'bội bạc'. Có một sự khác biệt, ít
nhất trong thế giới của Dante. Bội bạc là một trong Bảy Trọng tội - thực tế là
tội nặng nhất - bị trừng phạt tại tầng địa ngục thứ Chín và cũng là cuối
cùng."
Bội bạc, theo định nghĩa của Dante, là hành vi
phản bội một người yêu thương. Ví dụ khét tiếng nhất trong lịch sử về tội này
chính là Judas phản bội Jesus đáng kính, một hành động Dante khinh bi đến mức
tống Judas xuống khu vực trong cùng của hỏa ngục - một khu vực được đặt tên
Judecca, theo tên của gã cư dân nhục nhã nhất.
"Hiểu rổi", Ferris nói, "như vậy
chúng ta đang tìm một vị tổng trấn phạm tội bội bạc".
Sienna gật đầu tán thành. "Điều đổ sẽ giúp
chúng ta hạn chế được danh sách khả năng", cô ngừng lại, mắt nhìn văn bản.
"Nhưng dòng tiếp theo này... một vị tổng trấn 'cắt rời những đầu ngựa'
à?" Cô ngước mắt nhìn Langdon. "Có vị tổng trấn nào cắt đầu ngựa
không?"
Hình ảnh Sienna nhắc đến khiên Langdon nhớ tới
cảnh tượng khủng khiếp trong truyện Bố già. "Thôi đừng nhắc đến nữa. Nhưng
theo câu này, ông ta còn 'moi xương cả ngưòi mù lòa' nữa." Anh đưa mắt
nhìn Ferris. "Điện thoại của anh có Internet không?"
Ferris nhanh nhẹn lấy điện thoại và chìa ra những
ngón tay phát ban sưng múp. "Các phím có thể hơi khó bấm với tôi.”
"Để tôi", Sienna nói, nhận lấy chiếc
điện thoại của ông ta. "Tôi sẽ tìm kiếm các vị tổng trấn Venice, liên quan
đến những con ngựa mất đẩu và xương của người mù lòa.' Cô bắỉ đầu bấm rất nhanh
trên bàn phím nhỏ xíu.
Langdon đọc lại bài thơ lẩn nữa, và sau đó tiếp
tục đọc to.
“Hãy quỳ gối bên trong bảo quán mạ vàng của tri
thức thánh thiêng..
và áp tai xuống mặt đất,
lắng nghe tiếng nước nhỏ giọt.”
'Tôi chưa bao giờ nghe nói đến một bảo
quán", Ferris nói
"Đó là một từ cổ mang nghĩa 'đền thờ được
các nàng thơ bảo vệ'", Langdon đáp. "Thời kỳ của người Hy Lạp cổ, một
bảo quán là nơi những người được khai sáng tụ họp để chia sẻ các ý tưởng và
thảo luận về văn chương, âm nhạc và nghệ thuật. Bảo quán đẩu tiên do Ptolemy
xây dựng tại Thư viện Alexandria nhiều thế kỷ trước Công nguyên, và sau đó hàng
trăm bảo quán mọc lên khắp thế giới-"
"Bác sĩ Brooks", Ferris nói, nhìn về
phía Sienna đầy hy vọng. "Cô có thể tra xem có bảo quán nào ở Venice
không?"
"Thực tế có hàng trăm nơi", Langdon nói
kèm một nụ cười khôi hài. "Giờ đây chúng được gọi là báo tàng/'
"Á à...", Ferris đáp lại. "Tôi
đoán chúng ta sẽ phải quét qua một mạng lưới rộng hơn đây."
Sienna vẫn bấm vào điện thoại, không hể cảm thấy
phiền phức vì có quá nhiều nhiệm vụ mà rất bình tĩnh xem danh sách liệt kê.
"Được rồi, vậy là chúng ta tìm một bảo tàng nơi có thế lần ra một vị tống
trâh chặt đẩu ngựa và moi xương người mù lòa. Robert, có bảo tàng đặc biệt nào
có thể là nơi đáng tới xem không?"
Langdan đã nghĩ đến tất cả các bảo tàng nối tiếng
nhất của Venice – Gallerie dell’ Academia, Ca' Rezzonico, Cung điện Grassí, Bộ
sưu tệp Peggy Guggenheim, Bảo tảng Correr - nhưng không nơi nào phù hợp với mô
tả cả.
Anh nhìn lại văn bản.
Hãy quỳ gối bên trong bảo quán mạ vàng của tri
thức thánh thiêng
Langdan nhăn nhó mỉm cười. "Venice không có
một bảo tàng nào phù hợp hoàn toàn với khái niệm 'bảo quán mạ vàng cùa tri thức
thánh thiêng' cả."
Cả Ferris và Sienna đều nhìn anh đầy trông đợi.
"Thảnh đường St. Mark", anh tuyên bố.
"Nhà thờ lớn nhất tại Venice."
Ferris có vẻ không chắc chắn lắm. "Nhà thờ
đó là một bảo tàng à?”
Langdon gật đầu. "Giông như Bảo tàng
Vatican. Và thêm nữa, nội thất của St. Mark nổi tiếng vì được trang trí toàn bộ
bằng gạch ôp làm từ vàng đặc.
"Một bảo quản mạ vàng", Sienna nói,
nghe phấn khích thấy rõ.
Langdon gật đầu, tin chắc rằng St. Mark chính là
đền thò mạ vàng được nhắc đến trong bài thơ. Trong nhiều thế kỷ, người dân
Venice gọi St. Mark là Nhà thờ Vàng, và Langdon xem nội thất của nơi này là
tráng lệ nhất so với bất kỳ nhà thờ nào trên thế giói.
"Bài thơ nói 'quỳ' ở đó", Ferris nói.
"Và nhà thò chính là nơi rất hợp lý để quỳ."
Sienna lại bấm nhoay nhoáy. "Tôi sẽ thêm St.
Mark vào lệnh tìm kiếm. Đó nhất định phải là nơi chúng ta cần tìm kiếm vị tổng
trấn."
Langdon biết họ sẽ tìm ra không thiếu các vị tổng
trấn tại St.Mark - nơi, theo đúng nghĩa đen, chính là thánh đường của các tổng
trấn. Anh cám thấy thêm phấn chấn khi đưa mắt trở lại bài thơ.
“Hãy quỳ gối bên trong bảo quán mạ vàng của tri
thức thánh thiêng..
và áp tai xuống mặt đất,
lắng nghe tiếng nước nhỏ giọt.”
Tiếng giọt nước nhỏ giọt à? Langdon thắc mắc. Có
nước bên duwois St.Mark không nhỉ? Anh nhận ra câu hỏi này thật ngó ngẩn. Toàn
bộ thành phố này có nước bên dưới. Mọi tòa nhả ở Venice đểu đang chìm dần và
thấm nước. Langdon hình dung ra tòa thánh đường và cố gắng nghĩ xem chỗ nào bên
trong có thể quỳ đế nghe được tiếng nước nhỏ giọt. Và một khi nghe thấy nó...
chúng ta cần làm gì chứ?
Langdon nhìn lại bài thơ và đọc nốt thật to.
"Hãy lần sâu vào tòa cung điện bị chìm...
vì ờ đây, trong bóng tối, con quái vật chốn địa
phủ chờ đợi,
lặn ngụp trong thứ nước đỏ như máu...
của cái đầm không hề phản chiếu ánh sao."
"Được rồi”, Langdon nói, cảm thấy lo âu
trước hình ảnh ấy, "rõ ràng, chứng ta lần theo tiếng nước nhỏ giọt... tới
một cung điện bị chìm nào đó".
Ferris gãi mặt, trông rất lo lắng. "Con quái
vật chốn địa phủ là sao?"
"Ở bên dưới mặt đất?” Sienna nói, các ngón
tay cô vẫn thao tác trên điện thoại. "'Địa phủ' có nghĩa là 'bên dưới mặt
đất'.*
"Phần nào đó đúng", Langdon nói.
"Mặc dù từ này cỏ hàm nghĩa lịch sử khác - thường gắn với truyền thuyết về
quái vật. Địa phủ là một hạng mục gồm các vị thẩn và quái vật trong thẩn thoại
- Erinyes, Hecate và Medusa chẳng hạn. Chúng được gọi là địa phủ bởi vì chúng
sống bên dưới lòng đất và gắn với địa ngục", Langdon nhừng lại. “Xa xưa,
chúng trồi lên từ lòng đất và xuất hiện trên mặt đất để trả thù thế giới loài
người.”
Im lặng kéo dài và Langdon cảm thấy tất cả bọn họ
đều nghĩ đến cùng một thứ. Con quát vật địa phủ nấy... chỉ có thể là đại dịch
của Zobrist
“..vì ở đâỵ, trong bóng tối, con quái vật chốn
địa phủ chờ đợi,
lặn ngụp trong thứ nước đỏ như máu...
cùa cái đầm không hề phản chiếu ánh sao. "
"Nhân tiện", Langđon nói, cố gắng tập
trung vào vấn đề, "rõ ràng chúng ta đang tìm kiếm một địa điểm dưới lòng
đất, nơi ít nhất cũng giải thích cho dòng thơ cuối cùng nói đến cái đầm không
hề phản chiều ánh sao’."
"Hay lắm", Sienna nói, giờ đã rời mắt
khỏi chiếc điện thoại của Ferris. "Nếu một cái đẩm ở dưới lòng đất thì nó
không thể phản chiêu bầu trời. Nhưng Venice này có các đẩm nước ngầm dưới lòng
đất không nhỉ?"
"Anh không biết cái nào cả", Langdon
đáp lời. "Nhưng một thành phố được xây dựng trên nước thì có lẽ có vô khối
khả năng.”
"Nếu đẩm nước trong nhà thì sao?",
Sienna bất ngờ hòi, mắt nhìn cả hai. "Bài thơ nói đến 'bóng tối' của 'cung
điện bị chìm'. Lủc trước anh nói rằng Dinh Tổng trân được nối thông với thánh
đường, phải không nào? Điều đó có nghĩa là các công trình ấy có rất nhiều điểm
mà bài thơ nhắc đến - một bảo quán của tri thức thảnh thiêng, một cung điện,
liên quan đến các vị tổng trấn - và tất cả đều tọa lạc ngay tại đây trên đầm
nước lớn của Venice, ở mực nước biển."
Langdon suy nghĩ phân tích này. "Em nghĩ
'cung điện bị chìm' trang bài thơ chính ỉà Dinh Tổng trấn à?"
"Tại sao lại không chứ? Bài thơ bảo chúng ta
trước hết quỳ ở Thánh đường St. Mark, sau đó theo tiếng nước nhò giọt. Có lẽ
tiếng nước dẫn tới cánh cửa tiếp theo đến Dinh lỏng trấn. Nó có thể có phần nền
chìm dưới lòng đải hay gì đó.
Langdon đã tới tham quan Dinh Tổng trấn
nhiều lần và biết rằng nỏ rất rộng. Là một quần thể nhiều tòa nhả, cung điện
này chứa một bảo tàng quy mô lớn, một mê cung thực sự gồm nhiều gian phòng,
buồng, và sân, và cả một mạng lưới nhà tù rộng đến mức phải bố trí trong nhỉều
tòa nhà.
"Có thế em nói đúng", Langdon nói,
"nhưng mò mẫm tìm kiếm một cung điện như thế sẽ mất vài ngày. Anh gợi ý
chúng ta làm đúng như bài thơ bảo. Trước tiên, chúng ta tớí Thánh đường St Mark
và tìm mộ hoặc tượng của vị tổng trấn bộí bạc, sau đó chúng ta quỳ xuống".
"Còn sau đó?", Sỉenna hỏi.
"Còn sau đó", Langdon thở dài nói,
"chúng ta cầu nguyện để nghe được tiếng nước nhỏ giọt.. và dẫn chúng ta
tới đâu đó".
Trong khoảnh khắc im lặng tiếp theo, Langdon hình
đung ra bộ mặt đầy lo âu của Elizabeth Sinskey như anh nhìn thấy trong ảo giác,
kêu gọi anh từ bên kia dòng nước. Thời gian rất gấp. Hãy tìm và sẽ thấy. Anh tự
hỏi giờ Sỉnskey ở đâu… và liệu bà ấy có ổn không. Những tên lính mặc đổ đen rõ
ràng lúc này nhận ra rằng Langdon và Sienna đã trốn thoát. Còn bao lâu nữa cho
tới khi chúng đuổi theo sau bọn mình?
Khi đưa mắt nhìn lại bài thơ, Langdon cố chống
lại trạng thái kiệt sức. Anh nhìn dòng thơ cuối cùng, và một ý nghĩ khác vụt
đến vói anh. Anh tự hỏi có nên nêu ra không. Cái đầm không hề phản chiếu ánh
sao. Có lẽ không thích hợp với cuộc tìm kiếm của họ, nhưng anh quyết định vẫn
nói ra. "Tôi cẩn nói đến một điểm khác."
Sienna ngước mắt khỏi điện thoại di động.
"Ba phần bộ Thần khúc của Dante",
Langdon nói. “Hòa ngục, Luyện ngục và Thiên dường. Tất cả đều kết thúc vói cùng
một từ."
Sienna tỏ ra ngạc nhiên.
"Đó là từ gì vậy?”,
Ferris hỏi.
Langđon chi xuống cuối văn
bản mà anh đã viết lại. "Cũng chỉnh là từ kết thức bài thơ nàỵ -
'sao'". Anh nhấc chiếc mặt nạ ngưòí chết của Dante lên và chi vào chính
giữa xoáy trôn ốc.
Cái đầm không hề phản chiếu
ánh sao.
"Thêm nữa",
Langdon tiếp tục, "trong đoạn kết của Hỏa ngục, chúng ta thấy Dante nghe
tiếng nước nhỏ giọt bên trong một vực thầm và theo âm thanh đó đi qua một lối
mở... dẫn ông ra khỏi địa ngục".
Ferris hơi tái mặt. "Lạy Chúa."
Vừa lúc đó, một luồng không khí ong tai ùa vào
khoang tàu khi đoàn tàu Frecciargento lao mình vào đường hầm xuyên núi
Trong bóng tối, Langdon nhắm mắt lại và cố để cho
tâm trí minh thư giãn. Zobrist có lẽ là một gã cuồng, anh nghĩ bụng, nhưng chắc
chắn hắn hiểu rất rõ về Dante.
Laurence Knowlton cảm thấy nhẹ cả người.
Thị trường đã thay đổi suy nghĩ về việc xem đoạn
video của Zobrist.
Knowlton thọc tay vào túi lấy chiếc thẻ nhớ đỏ
thẫm rổi cắm vào máy tính của mình để cho ông chủ xem. Sức nặng từ thông điệp
quái đản dài chín phút của Zobrist vẫn đang ám ảnh Knowlton, và anh ta rất nôn
nóng muôn có thêm người khác cùng xem thứ đó.
Việc này sẽ không còn là trách nhiệm của mình
nữa.
Knowlton nín thở khi bắt đầu cho chạy đoạn video.
Màn hình tối sầm, và tiếng nước vỗ nhè nhẹ tràn
ngập trong gian phòng. Máy quay di chuyển qua màn sương đỏ của cái hang ngầm,
và mặc dù Thị trưởng không lộ ra phản ứng rõ rệt nào, Knowlton vẫn cảm thấy ông
ta hoảng hốt và sững sờ.
Máy quay tạm ngừng di chuyển về phía trước, xoay
xuống đầm, rổi lao thẳng xuống nước, chìm sâu vài mét cho tới khi ra tấm biển
titan nhẵn bóng bắt vít chặt xuống nền.
________________________________
TẠI NƠI NÀY, VÀO NGÀY NÀY,
THẾ GIỚI THAY ĐỔI MÃI MÃI.
________________________________
Thị trưởng hơi nao núng. "Ngày mai",
ông ta thì thào, mắt nhìn vào ngày giờ trên đoạn video. "Và chúng ta có
biết nơi này là chỗ nào không?"
Knowlton lắc đầu.
Giờ máy quay lia sang trái, để lộ ra cái túi nhựa
chứa thứ chất lỏng sền sệt màu vàng nâu.
"Trời đất quỷ thần ơi?!" Thị trưởng kéo
một chiếc ghế lại và gồi xuống, mắt đăm đăm nhìn cái bong bóng lập lờ, giống
như một quả bóng bay được cột lại dưới nước.
Cả gian phòng chìm trong bầu im lặng ngột ngạt
khi đoạn video tiếp tục chạy. Một lát sau, màn hình tối om, và sau đó một bóng
đen mũi hình mỏ chim quái lạ xuấthiện trên vách hang và bắt đẩu nói bằng thứ
ngôn ngữ bí ẩn.
"Ta là Vong linh.
Nếu ngươi đang xem đoạn phim này, tức là cuổi
cùng linh hổn ta đã yên nghỉ.
Bị xua đuổi xuống dưới mặt đất, ta đành phải nói
chuyện với lế giới từ sâu thẳm trong lòng đất, lẩn trôn đến lòng hang tăm tối
này, nơi thứ nước đỏ như máu tích tụ trong cái đầm không một ánh sao phản
chiếu.
Nhưng đây là thiên đường của ta... nơi nuôi dưỡng
hoàn hảo đứa con yêu ớt của ta.
Hỏa ngục."
Thị trưởng ngước lên. "Hỏa ngục à?"
Knowlton nhún vai. "Như
tôi đã nói, rất đáng ngại."
Thị trưởng đưa mắt nhìn lại
màn hình, chăm chú theo dõi.
Cái bóng đen mũi hình mỏ
chim tiêp tục nói vài phút liền, diễn giải vế đại dịch, về nhu cầu sàng lọc dân
số, vế vai trò vẻ vang của
hắn trong tương lai, về cuộc
chiến của hắn chống lại những kẻ ngu dốt đang tìm cách ngăn cản hắn, và vế một
vàỉ đối tượng trung thành nhận ra rằng hành động quyết liệt là cách duy nhất đế
cứu lấy cả hành tinh.
Cho dù cuộc chiến tranh có
về cái gì thì cả buổi sáng nay Knowlton vẫn đang tự hỏi liệu Consortium có đang
chiến đâu nhầm phe.
Giọng nói tiếp tục.
"Ta đã tạo ra một kiệt
tác cứu rỗi, nhưng những nỗ lực của ta không được tưởng thưởng bằng các hồi kèn
chào mừng và vòng hoa chiến thắng... mà bằng những lời đe dọa của thần chết.
Ta đâu có sợ chết... vì cái
chết biến những người nhìn xa trông rộng thành thánh tử vì đạo... biến những ý
tưởng cao quý thành hành động mạnh mẽ.
Jesus. Socrates. Martin
Luther King.
Một ngày không xa ta sẽ gia
nhập vói họ.
Kiệt tác ta tạo ra chính là
tác phẩm của Chúa trời… một món quà từ Đấng tối cao, người đã ban cho ta trí
tuệ, công cụ và lòng can đảm cần có để thực hiện sự sáng tạo như vậy.
Giờ đây, cái ngày đó đang
đến gần.
Hỏa ngục ngủ yên dưới chân
ta, chuẩn bị phun trào... dưới con mắt giám sát của con quái vật địa phủ và tất
cả cơn Cuổng nộ của nó.
Mặc dù kỳ công của ta cao
quý, nhưng cũng như các người, ta không phải là kẻ xa lạ với Tội lỗi. Thậm chí
ta còn phạm phải tội lỗi xâu xa nhất trong Bảy Trọng tội - sự cám dỗ cô độc nơi
rất ít kẻ có thể tránh khỏi.
Thói kiêu hãnh.
Bằng cách ghi hình lại
thông điệp này, ta đã gục ngã trước cám dỗ ghê gớm của long Kiêu hãnh…vì háo
hức bảo đảm rằng cả thế giới sẽ bìết đến công trình của ta.
Và tại sao lại không chứ?
Loài người cần biết rỗ nguồn
gốc sự cứu rỗi của chính mình..
Tên tuổi cùa người đã đóng
chặt mãi mãi những cánh cổng toang hoác của địa ngục!
Cứ mỗi giò qua đi, kết quả
càng thêm chắc chắn. Những phép toán – vốn nghiêm khắc như quy luật hấp dẫn -
là điều không thể bàn cãi. Chính việc sự sống sinh sôi theo câp số mũ từng suýt
tiêu diệt loài người sẽ cứu nguy cho loài người, vẻ đẹp của một sinh vật sống -
dù nó tốt hay xấu - là ở chỗ nó tuân theo quy luật của Chúa với tầm nhìn duy
nhất.
Hãy sinh sản thêm nhiều31.
Và thế là ta dĩ độc... trị
độc."
"Đủ rồi.” Thị trưởng
nói xen vào khẽ đến mức Knowlton gần như không nghe thấy.
"Thưa ngài?"
"Dừng đoạn Video
lại."
Knowlton cho dừng
lại,"Thưa ngài, đoạn kết thực tế lại là phẩn đáng sợ nhất."
"Tôi xem đủ rổi."
Thị trưởng trông mệt mỏi. Ông ta rảo bưóc trong gian buổng một lúc và sau đó
đột ngột quay lại. "Chúng ta cần liên hệ với FS-2080."
Knowlton ngẫm nghĩ về động
thái này.
FS-2080 là bí số của một
trong những đầu mối liên hệ đáng tín cậy của Thị trưởng - cũng chính đầu mối
liên hệ này đã giới thiệu
Zobrist làm khách hàng cùa Consortium. Rõ ràng vào lúc này 'Thị trưởns đang
trách chính minh vì đã tin đánh giá của FS-2080, sự xuất hiện của Bertrand
Zobrist đã làm cho thế giới quy cú cúa Consortium hỗn loạn.
FS-2080 là lý do của vụ
khủng hoảng này.
Chuỗi tai ương vây quanh
Zobrist dường như chi càng tệ hơn, không chì với Consortium, mà có lẽ cả thế
giới.
"Chúng ta cần phát hiện
ra ý định thật của Zobrist", Thị trưởng tuyên bố. "Tôi muôn biết đích
xác ông ta tạo ra cái gì, và liệu đây có phải là một hiểm họa thật sự
khôngẻ"
Knowlton biết rằng nêu có ai
đó biết câu trả lời cho những câu hỏi này thì đó sẽ là FS-2080. Còn ai biết rõ
Bertrand Zobrist hơn nữa. Đã đên lúc Consortium phải phá bỏ quy trình và đánh
giá xem tổ chức đã vô tình hậu thuẫn cho âm mưu điên rổ gì trong năm qua.
Knowlton ngẫm nghĩ những khả
năng có thể khi đốì diện trực tiếp với FS-2080. Chỉ riêng việc bắt liên lạc đã
kéo theo những rủi ro nhất định.
"Thưa ngài",
Knowlton nói, "rõ ràng nếu ngài tiếp cận với FS- 2080, ngài cần phải làm
việc đó rất tế nhị".
Mắt Thị trưởng lóe lên giận
dữ lúc ông ta rút điện thoại di động ra. "Chúng ta đã bước qua sự tế nhị
từ lâu rồi."
***
Ngổi cùng với hai bạn đổng
hành trong khoang riêng của đoàn tàu Frecciargento, người đàn ông đeo cà vạt
hoa và cặp kính Plume Paris phải cố hết sức không gãi những chỗ mẩn ngứa càng
lúc càng tệ. Cơn đau ở ngực ông ta dường như cũng tăng lên.
Cuối cùng, khi đoàn tàu chui
ra khỏi đường hầm, người đàn ông nhìn Langdon, lúc này từ từ mở mắt, rõ ràng
vừa thoát ra khỏi những ý nghĩ xa xăm. Bên cạnh anh, Sienna lạỉ bắt đầu cúi
xuống điện thoại di động của ông ta, nhưng lúc đoàn tàu lao qua hầm, cô đành
phải bỏ xuống vì không có tín hiệu.
Sienna có vẻ nôn nóng tiếp
tục tìm kiếm trên Internet, nhưng cô chưa kịp cầm lấy điện thoại thì nó đột
ngột rung lên, phát ra cả chuỗi những tiếng píp giật cục.
Nghe thây chuông, người đàn
ông bị dị ứng lập tức vớ lấy điện thoại và nhìn màn hình, cố giấu đi vẻ ngạc
nhiên.
'Xin lỗi”, ông ta nói và
đứng lên. "Bà cụ đang ốm nhà tôi. Tôi phải nghe máy."
Sienna và Langdon gật đầu
cảm thông khi người đàn ông xin phép và ra khỏi buồng, đi nhanh ra hành lang
đến phòng vệ sinh gần đó.
Người đàn ông bị dị ứng khóa
trái buồng vệ sinh khi nhận cuộc gọi. 'Tôi nghe?"
Giọng nói trên máy nghiêm
nghị. "Thị trưởng đây."
Nhà vệ sinh trên tàu
Frecciargento không lớn hơn nhà vệ sinh trên một chiếc máy bay thương mại, chỉ
vừa đủ không gian để xoay người. Người đàn ông bị phát ban kết thúc cuộc điện
đàm với Thị trưởng và đút điện thoại vào túi.
Tình hình đã thay đổi, ông
ta nhận ra như vậy. Toàn bộ cảnh tượng đột nhiên đảo lộn, và ông ta cần một lúc
để trấn tĩnh.
Bạn bè của ta giờ trở thành
kẻ thù của ta mãi rồi.
Người đàn ông nới chiếc cà
vạt hoa và nhìn sững vào gương mặt nổi mẩn của minh trong gương. Trông ông ta
còn tệ hơn so với ông ta tưởng. Song, gương mặt ông ta không đáng lo lắng bằng
cơn đau trong ngực.
Hơi do dự, ông ta mở vài
khuy áo và phanh áo sơ mi ra.
Ông ta gượng nhìn vào gương
và xem kỹ bộ ngực trần của mình.
Chúa ơi.
Vết đen đang loang rộng.
Phần da ò chính giữa ngực là
một mảng màu tím đen. Đêm qua chỗ này chỉ bằng một quả bóng golf, nhưng giò đây
nó đã to bằng quà cam. Ông ta chạm khẽ vào phần thịt mềm và cau mày.
Ông ta vội vã cài lại khuy
áo sơ mi, hy vọng mình sẽ có để thực hiện những gi cần làm.
Một tiếng đồng hồ tới sẽ vô
cùng quan trọng, ông ta nghĩ bụng. Một loạt nhiệm vụ vô cùng tinh vi.
Ông ta nhắm mắt và gắng lấy
lại tinh thần, nhẩm lại những việc cần phải diễn ra. Bạn bè của ta giờ trở
thành kẻ thù của ta mất rồi, ông ta lại nghĩ thầm.
Ông ta hít vài hơi thật sâu,
đau nhói, hy vọng việc đó giúp trấn tĩnh tính thầnẳ Ông ta biết mình cần bình
tĩnh nễu định giữ kín những ý định của mình.
Sự bình tĩnh trong lòng rất
quan trọng để có những hành động thuyết phục.
Người đàn ông không xa lạ gì
chuyện dối trá, nhưng lúc này tim ông ta vẫn đập thình thịch. Ông ta hít một
hơi thật sâu nữa, đau nhói. Mày đã lừa ảối mọi người suôĩ nhiều năm, ông ta tự
nhủ. Đó chính là công việc mày đảm nhận.
Sau khi định thần lại, ông
ta chuẩn bị quay trở về chỗ Langdon và Siennaế
Màn trình diễn cuối cùng của
ta, ông ta nghĩ.
Như một hành động thận trọng
cuối cùng trưóc khi ra khòi nhà vệ sinh, ông ta tháo pin điện thoại di động, để
bảo đảm rằng chiếc điện thoại lúc này không còn hoạt động được nữa,
***
Trông ông ta tái nhợt,
Sienna nghĩ khi ngưòi đàn ông bị dị ứng trở lại buổng và ngổi xuống ghế kèm một
tiếng thở dài đau khổ.
"Mọi việc ồn
chứ?", Sienna hỏi, vé quan tâm thấy rõ.
Ống ta gật đẩu. "Vâng,
cảm ơn. Mọi thứ vẵn ổn."
Rõ ràng đã linh hội được tất
cả thông tin người đàn ông định chia sẻ, Sienna chuyển sang chuyện khác.
"Tôi ỉạỉ cần điện thoại của anh", cô nói. "Nếu anh không phiền,
tôi muốn tiếp tục tìm kiếm thêm thông tin về tổng trân. Có lẽ chúng ta có thể có
câu trả lòi trước khi tới thăm St. Markế"
"Không sao", ông
ta nói, móc chiếc điện thoại từ trong túi và lciểm tra lại màn hình. "Ôi,
chán thật. Pin của tôi tắt sau cuộc gọi vừa rồi. Có vẻ như giờ nó tắt hẳn
rổi." Ông ta liếc nhìn đổng hổ đeo tay. "Chỉ lát nữa chúng ta sẽ vào
Venice. Chúng ta chỉ việc đợi thôi."
***
Năm dặm ngoài khơi nước Ý,
trên boong tàu The Mendacium, điều phối viên Knowlton im lặng nhìn Thị trưởng
đi vòng quanh gian buổng như một con thú bị nhốt trong chuồng. Sau cuộc điện
thoại, rõ ràng Thị trưởng đang cố vận hành cỗ máy tư duy, và Knowlton biết tốt
hơn là không nên gây ồn ào trong lúc này.
Cuối cùng, người đàn ông
nước da sạm nắng lên tiếng, giọng ông ta nghiêm nghị đúng như Knowlton vẫn nhớ.
"Chúng ta không có lựa chọn nào khác. Chúng ta cần đưa đoạn video này cho
tiến sĩ Elizabeth Sinskey."
Knovvlton ngồi chết sững,
không muốn bộc lộ vẻ ngạc nhiên của mình. Con quỷ tốc bạc ư? Người chúng ta đã
giúp Zobrist lẩn tránh suốt cả năm ư? "Vâng, thưa ngài. Tôi sẽ tìm cách
gửi thư điện tử đoạn video này cho bà ta phải không?"
"Chúa ơi, không! Khác
gì mạo hiểm làm lộ đoạn video sao? này cho PSI chúng chứ? Sẽ là cả một cơn
cuổng loạn. Tôi muốn tiến sĩ Sinskey có mặt trên boong tàu ngay khi các anh đưa
được bà ấy tới đây.”
Knowlton trợn mắt nhìn
mà không sao tin nổi. Ông ấy muốn giám đốc WHO lên tàu The Mendacium "Thưa
ngài việc phá bỏ quy trình bí mật của chúng ta rõ ràng có nguy cơ…"
"Hãy làm đi, Knowlton!
NGAY BÂY GIỜ!'
FS-2080 đưa mắt nhìn ra
ngoài cửa sổ con tàu Frecciargento đang lao vùn vụt, trông vào bóng của Robert
Langdon phản chiếu trong lớp kính. Vị giáo sư vẫn đang suy nghĩ về những đáp án
có thể trả lời câu đố về chiếc mặt nạ người chết mà Bertrand Zobrist đã tạo ra.
Bertrand, FS-2080 nghĩ thầm.
Lạy Chúa, mình nhớ anh ấy.
Nỗi đau mất mát nhói lên.
Cái đêm hai người gặp gở vẫn giống như một giấc mơ kỳ lạ.
Chicago. Trận bão tuyết.
Tháng Giêng, sáu năm về
trước... nhưng vẫn có cảm giác như mới hôm qua. Mình đang lê bước trên những
đống tuyết trắng dọc Đại lộ Magnificent Mile hút gió, cổ áo dựng đứng lên trong
cơn nhòa trắng32 chói mắt. Dù lạnh, mình vẫn tự nhủ rằng chẳng cổ gì ngàn nơi
mình đi tới đích đến. Tối nay là cơ hội mình được nghe Bertrand vĩ đại nói
chuyện... riêng.
Mình đã đọc mọi thứ mà người
đàn ông này viết ra, và mình biết mình rất may mắn có được một trong năm trăm
tấm vé của sụ kiện nàỵ.
______________________________
32Nguyên văn: whiteout. Đây
là hiện tượng thời tiết thường xảy ra ờ nơi tuyết rơi vớỉ mật độ dày. Khi một
đám mây lớn kéo qua bầu trời, ánh sảng bị khuếch tán đi khăp nơi làm cho khung
cảnh xung quanh biến thành toàn màu trắng.
______________________
Khi mình đến hội trường, gần
như tê cóng vì gió lạnh, mình phát hoảng khi biết rằng gian phòng gần như trống
trơn. Buổi nói chyện bị hoãn chăng?! Thành phố gần như ngưng hoạt động do thời
tiết…nên Zobrist không đến được tối nay chăng?!
Nhưng anh ấy vẫn đến đó.
Một dáng người cao ráo,lịch
lãm bước lên sân khấu.
Anh ấy cao..rất cao…với đôi
mắt màu lục lanh lợi sâu thẳm như nắm bắt toàn bộ bí mật của thế giới. Anh ấy
nhìn khắp hội trường vắng hoe - chỉ có khoảng một chúc người hâm mộ - và mình
cảm thấy xấu hổ vì hội trường gần như trống trơn.
.
Đây chính là Bertrand
Zobrist!
Một sự im lặng đáng sợ khi
anh ấy đăm đăm nhìn mọi người, nét mặt rắn đanh.
Sau đó, rất đột ngột, anh ấy
phá lên cười, đôi mắt màu lục của anh ấy lóe sáng. "Vứt cha cái khán phòng
trống trơn này đi thôi”, anh ấy nói "Khách sạn của tôi ở ngay bên cạnh.
Chúng ta tới quán rượu nào!"
Mọi người reo hò, và một
nhóm nhỏ củng di chuyển sang quán rượu của khách sạn kế bên, nơi bọn mình cùng
quây quần trong một quấn lớn và gọi đồ uống. Zobrist khiến bọn mình thích thú
với những câu chuyện về sự nghiệp nghiên cứu của anh ẩy, quá trình thành danh
và những suy nghĩ của anh ấy về tương lai của ngành điều khiển gen. Rượu vào,
chủ để chuyển sang niềm say mê mới của Zobrist đổi với triết lý Siêu nhân
học33”
"Tôi tin rằng Siêu nhân
học là hy vọng duy nhất cho sự tồn tại lâu dài của nhân loại ", Zobrist
giảng giải, vạch áo sơ mi và cho tất cả nhìn thấy hình xăm "H+" trên
bả vai. "Các bạn thấy đấy, tôi cam kết hoàn toàn."
Mình cảm thấy như thể mình
đang được gặp gỡ riêng một ngôi sao nhạc rock vậy. Mình chưa bao giờ hình dung
đến việc một "thiên tài di truyền học” được tôn vinh lại có sức lôi cuốn
hoặc hấp dẫn riêng đến vậy. Mỗi lần Zobrist liếc nhìn mình, đôi mắt xanh lục
cuả anh ấy lại làm dấy lên trong mình một cảm giác hoàn toàn khác lạ - một ham
muốn nhục dục sâu thẳm.
33 Nguyên văn: Transhumanism
(viết tắt H+) là một phong trào tri thức về văn hóa với mục tiêu cuối cùng là
cơ bản cài biến con người bằng công nghệ để tăng cường các năng lực trí tuệ,
thể chất và tâm lý.
Đêm trôi đi, cả nhóm
thưa dần khỉ các vị khách lần lượt cáo lỗi rút lui. Đến nửa đêm, chỉ còn mỗi
mình ngồi với Bertrand Zobrist.
"Cảm ơn anh vì buổi tối
nay ", mình nói với anh ấy, hơi ngà ngà vì quá chén. "Anh đúng là một
giáo viên tuyệt vời. "
"Lại tâng bốc phải
không? " Zobrist mỉm cười và ghé lại gần hơn, giờ chân bọn mình chạm nhau.
"Điều đó sẽ đưa em đi tới mọi nơi đấy,”
Chuyện tán tỉnh rõ ràng
không thích hợp tí nào nhưng đó là một đêm gió tuyết tại một khách sạn vẳng vẻ
ở Chicago và có cảm giác như thể cả thế giới ngừng lại.
“Vậy em nghĩ gì nào?",
Zobrist nói. "Uống với anh vài ly tại phòng anh nhé?"
Mình như đông cứng lại, biết
rõ chắc chắn trông mình giống như một con hươu trước ánh đèn pha.
Đôi mắt của Zobrist hấp háy
ân cần. "Để anh đoán nhé", anh ấy thì thào. "Em chưa bao giờ ờ
cùng với một người đàn ông nổi tiếng. "
Mình cảm thấy máu dồn lên
mặt, cố gắng giấu đi những cảm xúc dâng trào - xấu hổ, phấn khích, sợ hãi.
"Thực ra, nói rất thật", mình nói với anh ấy, "em chưa bao giờ ở
cùng bất kỳ người đàn ông nào",
Zobrist mỉm cười và nhích
lại sát hơn. “Anh không biết chắc em đang chờ đợi điều gì, nhưng hãy để anh là
người đầu tiên của em. "
Khoảnh khắc ấy, mọi nỗi sợ
hãi và thất vọng nhục dục quái lạ từ thời niên thiếu của mình biến mất, như bốc
hơi vào màn đêm gió tuyêĩ.
Lần đầu tiên trong đời, mình
cảm thấy một nỗi khao khát được giải phóng khỏi tâm lý xấu hổ.
Mình muổn anh ấy,
Mười phút sau, bọn mình đã ở
trong phòng khách sạn của Zobrist trần truồng trong vỏng tay nhau. Zobrist
không vội vàng, bàn tay kiên nhẫn của anh ấy mơn trớn những cảm xúc từ cơ thể
ngây dại của mình mà mình chưa bao giờ cảm nhận được trước đó,
Đây là lựa chọn của chính
mình. Anh ấy không hề ép buộc mình.
Trong vòng tay ôm ấp của
Zobrist, mình cảm thấy như thể mọi thứ trên thế giới đều đâu vào đấy. Mình nằm
dài ờ đó, đăm đăm nhìn qua cửa sổ ra màn đêm gió tuyết, mình biết mình sẽ theo
người đàn ông này tới bất kỳ đâu.
Đoàn tàu Frecciargento đột
ngột chậm lại, FS-2080 bừng tỉnh khỏi ký ức hạnh phúc và trở lại với hiện tại
buồn rầu.
Bertrand... anh đã đi rồi.
Đêm đầu tiên bên nhau của họ
là bước khởi đẩu cùa một hành trình kỳ lạ.
Mình còn hơn là người tình
của anh ấy. Mình là tín đồ của anh ấy.
"Cầu Liberta",
Langdon nói, "Chúng ta sắp đến nơi rồi."
FS-2080 gật đầu buồn bã, mắt
nhìn ra vùng nước trong vựử\ Veneta, nhớ lại đã từng có lần dong buổm ở đây
cùng Bertrand. Một hình ảnh yên bình giờ đây tan biên thành ký ức hãi hùng cách
đây một tuần.
Mình có mặt ở đó khi anh ấy
nhảy khỏi tháp Badia.
Đôi mắt mình là đôi mắt cuối
cùng anh ấy nhìn thấy.
Chỉếc Netjets Citation Excel
xóc nảy qua tầng không khí nhiễu mạnh khi nó lao vút lên trên từ sân bay
Tassignato và chao về phía Venice. Trên máy bay, tiến sĩ Elizabeth Sinskey
không chú ý mấy đến chuyến khởi hành chẳng mấy êm ả trong lúc bà lơ đễnh mân mê
cái bùa của mình và nhìn ra khoảng không trống rỗng bên ngoài cửa sổ.
Cuối cùng họ đã thôi tiêm
thuốc cho bà, và đầu óc Sinskey đã tỉnh táo hơn. Trên ghế bên cạnh bà, đặc vụ
Brüder vẫn im lặng, có lẽ lang thắc mắc về sự thay đổi kỳ lạ của các sự kiện
vừa mới diễn ra.
Mọi thứ đều đảo ngược,
Sinskey nghĩ bụng, vẫn đang phải cố gắng tín vào những gi bà vừa chứng kiến.
Ba mươi phút trước, họ ào
tới cái sân bay nhỏ xíu để chặn đầu Langđon khi anh lên một chiếc máy bay tư
nhân mà anh thuê. Thay tìm thấy vị giáo sư, họ chỉ thấy một chiếc Citation
Excel rảnh rỗi cùng hai phi công của hãng Netjets đang rảo bước trên lối đi
trải đá và kiểm tra đổng hổ đeo tay.
Chẳng thấy Robert Langdon đâu cả.
Rồi có một cuộc điện thoại gọi tới.
Khi điện thoại réo, Sinskey vẫn ở vị trí bà
đã ngổi cả ngày băng ghế sau của chiếc xe thùng đen. Đặc vụ Brüder chui vào xe
với vẻ ngơ ngác trên mặt khi trao điện thoại của mình cho bà.
"Một cuộc gọi khẩn cho bà, thưa bà."
"Ai vậy?", bà hỏi.
"Ông ấy đề nghị tôi chi nói với bà rằng ông
ấy có thông tin khẩn cấp muốn cho bà biết về Bertrand Zobrist."
Sinskey vồ lấy điện thoại. 'Tiến sĩ Elizabeth
Sinskey đây."
"Tiến sĩ Sinskey, bà và tôi chưa bao giò gặp
nhau, nhưng tổ chức của tôì chịu trách nhiệm về việc che giấu Bertrand Zobrist
trước bà suốt năm qua."
Sinskey ngồi thẳng dậy. "Cho dù các ông là
lũ quái nào thì các ông cũng đang che giấu một kẻ tội phạm!"
"Chúng tôi chẳng làm gì phạm pháp, nhưng
điều đỏ không..."
"Thật lố bịch!"
Ngưòi đàn ông ờ đầu dây bên kia hít một hơi dài,
kiên nhẫn, nói rất mềm mòng. "Bà và tôi sẽ có đù thòi gian để tranh luận
về vấn đề đạo đức trong những hành động của tôi. Tôi biết bà không biết tôi,
nhưng tôi biết khá nhiều về bà. Ồng Zobrist đã trả tôi hậu hĩnh để ngăn bà và
những ngưòi khác lại gần ông ấy trong năm vừa qua. Giờ tôi đang phá bỏ quy
trình nghiêm ngặt của chính mình bằng việc liên lạc với bà. Nhưng, tôi tin rằng
chủng ta không cỏ lựa chọn nào khác ngoài việc hợp tác với nhau. Tôi e rằng
Bertrand Zobrist có thể đã làm một chuyện gì đó khủng khiếp.”
Sinskey không thể đoán nổi ngưòi đàn ông này là
ai, "Ồng vừa mới phát hiện điều này phải không? “
"Đúng như vậy. Vừa mới đây.” Giọng ông ta
nghiêm chỉnh.
Sinskey cố gẳng gạt bỏ hết lớp mạng nhện.
"Ông là ai?”
“Người muốn giúp bà trước khỉ quá muộn. Tôi
có trong tay thông điệp video do Bertrand Zobrist tạo ra. Ông ta đề nghị tôi
công bố cho thế giới vào... ngày mai. Tôi nghĩ bà cần xem nó ngay lập tức.”
“Nó nói gì?”
"Không nói được qua điện thoại. Chúng ta cẩn gặp nhau.”
“Sao tôi biết có thể tin
turởng ông?"
"Bởi vi tôi sắp nói cho
bà biết Robert Langdon đang ở đâu... và tại sao anh ta lại hành động lạ lùng
như vậy."
Sìnskey thấy choáng váng khi
nhắc đến tên Langdơn, và bà kinh ngạc nghe lời giải thích lạ lùng. Người đàn
ông này dường như đã đổng lõa với kẻ thù của bà suốt năm qua, nhưng khỉ nghe
thấy các tình tiết, lòng bà mách bảo bà cần tín những gì ông ta đang nói.
Mình không có lựa chọn nào
khác ngoài việc đồng ý.
Sự hợp tác của họ dẫn tới
việc trưng dụng chiếc Netjets Citation Excel 'bị bỏ rơi'. Sinskey và những
người lính giờ đang đuổi về phía Venice, nơi mà theo thông tin của người đàn
ông này, Langdon và hai bạn đổng hành hiện đang tới bằng tàu hỏa. Đã quá trễ để
gọi cho giới chức địa phương, nhưng người đàn ông trên điện thoại nói đã biết
chỗ Langdon đang tới.
Quảng trưởng St. Mark à? Sỉnskey cảm thấy một cơn
ớn lạnh bà hình dung ra đám đông ở khu vực sẩm uất nhất của Venice.
Sao ông biết chỗ này?"
"Không nói trên điện thoại được", ngưòi
đàn ông nói. "Nhưng biết rằng Robert Langđon vô tinh đang đí cùng với một
nhân vật rất nguy hiểm.”
“Kẻ nào?”
“Một trong những ké tâm phúc thân cận nhất của
Zobrist” Nguờỉ đàn ông thở đàì não nề, "Một ké tôi tín tưởng. Thật ngu
ngốc, rõ ràng như vậy. Giờ đây tôi tin kẻ đó có thề là một hiểm họa ghê
gớm."
Khi chiếcmáy bay tư nhân lao tới sân bay Marco
Polo của Venice mang theo Sinskey và sáu người lính, suy nghĩ của Sínskey trở
lại với Robert Langdon. Cậu ấy bị mất tri nhớ ư? Cậu ây không nhớ đưọc gì sao?
Tin lạ lùng này, mặc dù giải thích được vài việc, nhưng lại khiến Sinskey càng
cảm thấy lo lắng hơn so với chuyện đã kéo vị học già xuất chúng vào cuộc khủng
hoảng này.
Mình khiến cho cậu âý chẳng còn lựa chọn nào cả.
Gẩn hai ngày trước, khi Sinskey tuyển mộ Langdon,
bà thậm chí còn không để anh quay vể nhà lấy hộ chiếu. Thay vào đó, bà thu xếp
để anh thuận lợi đi qua sân bay Florence với tư cách liên lạc viên đặc biệt cho
Tổ chức Y tế Thế giới..
Khi chíềc C-130 lao ẩm ầm lên không và nhắm về
phía đông vượt Đại Tầy Dương, Sinskey liếc nhìn Langdon ngổi bên cạnh và nhận
thấy trông anh không được ổn. Anh đang nhìn chăm chú vào vách của phẩn thân máy
bay không hề có cửa sổ.
"Giáo sư, anh nhận ra chiếc máy bay này
không có cửa sổ phải không? Cho tới gần đây, nó vẫn được sừ dụng như một phương
tiện quân sự."
Langdon quay lại, mặt tái
mét. "Vâng, tôi nhận ra điều đó ngay từ lúc bưóc chân lên khoang. Tôi
không được khỏe khi ở trong những không gian kín mít."
"Cho nên anh đang vờ
như nhìn ra một cửa sổ tưởng tượng à?"
Anh mỉm cưòri bẽn lẽn.
"Đại loạỉ như vậy.”
"Chà, hãy xem thứ này
đi", Bà rút ra một bức ảnh chụp gã kẻ thù mắt xanh lục cao lêu đêu và đêể
nó trưóc mặt anh. "Đây chính là Bertrand Zobrist.”
Sinskey đã nói cho Langdon
biết về cuộc đối đầu của bà với Zobrist tại Hội đổng Quan hệ Đổi ngoại, niềm
say mê của hắn với phương trình Khải huyền Dân số, những nhận xét được loan
truyền rộng rãi của hắn về những lợi ích mang tinh toàn cấu cùa Cái chết Đen và
đáng sợ nhất là sự biến mất hoàn toàn của hắn trong năm vừa qua.”
"Làm thếnào một nhân
vật nổi bật nhường ấy lại ẩn nấp được lâu vậy?", Langđon hỏi.
"Ồng ta có rất nhiều
trợ giúp. Sự trợ giúp chuyên nghiệp. Thậm chí có lẽ của một chính phủ nước
ngoài"
"Chính phủ nào lại chấp
nhận việc tạo ra một đại địch chứ?"
"Chính là những chính
phủ tìm mọi cách có được các đầu đạn hạt nhân ờ chợ đen. Đừng quên rằng một đại
dịch hiệu quả cũng chính là một vũ khí sinh hóa tối thượng, và nó rất đáng
tìền. Zobrist có thể dễ dàng nói dối các đối tác của mình và trấn an họ rằng sự
sáng tạo của hắn có phạm vi hạn chế. Zobrist sẽ là người duy nhất hiểu rõ sáng
tạo của hắn thực sự có tác động như thế nào."
Langdon im lặng.
"Trong bất kỳ trường
hợp nào", Sinskey nỏi, "nếu không phải vì quyền lực hoặc tiền bạc thì
những kẻ giủp Zobrist có thể vì chung hệ tư tưởng. Zobrist không thiếu những
môn đệ làm bất kỳ việc gì vì hắn. Hắn là một nhân vật tiếng tăm. Thực tế hắn
từng có bài phát kiểu tại trường đại học của anh cách đây không lâu".
"Ở Harvard sao?"
Sinskeỵ rút ra một cây bủt
và viết lèn mép tấm ảnh của Zobrist –chữ H kèm theo một dấu cộng. "Anh rất
quen với các biểu tượng", bà nói, “Anh cỏ nhận ra thứ này không?”
“H cộng", Langdon
thì thào, gật đầu. "Chắc chắn rồi, cách đây mấy mùa hè, nó được trưng ở
khắp trương. Tôi cứ đinh ninh của một hội thảo hóa học gì đó."
Sinskey bật cười.
"Không, đó là những dấu hiệu của Hội nghị thượng đinh 'Nhân văn cộng' 2010
- một trong những cuộc gặp lớn nhất về Siêu nhân học. H cộng là biểu tượng của
phong trào Sỉêu nhân học."
Langdon nghiêng đầu, như thể
cố lĩnh hội thuật ngữ.
'Siêu nhân học",
Sinskey nói, "là một phong trào trí thức, một dạng triết thuyết, và nó
nhanh chóng bén rễ trong cộng đổng khoa học. Cơ bản nó nói rằng con người cần
sử dụng công nghệ để vượt lên những nhược điểm cố hữu trong cơ thể mình. Nói
cách khác bước tiếp theo trong quá trình tiến hóa của con người là chúng ta bắt
đầu kiến tạo bản thân mình về mặt sinh học".
"Nghe đáng ngại
quá", Langdon nói.
"Như tất cả mọi thay
đổi, chi là vấn đề mức độ. Về mặt kỹ thuật, chúng ta kiến tạo bản thân đã nhiều
năm - phát triển các loại vắc xin giúp trẻ em miễn dịch trước một số bệnh tật
nhất định... bại liệt, đậu mùa, thương hàn. Sự khác biệt là ở chỗ giờ đây, với
những đột phá của Zobrist trong lĩnh vực điều khiển di truyền chuỗi phôi, chúng
ta đang học cách tạo ra những kiểu miễn dịch có thể thừa kế được, những thứ sẽ
tác động đến người nhận ở cấp độ chuỗi phôi lõi - làm cho tất cả thếhệ kế tiếp
miễn dịch trước bệnh đó."
Langdon trông thảng thốt.
"Vậy loài người cơ bản sẽ trải qua một bước tiến hóa làm cho mình miễn
dịch với thương hàn chẳng phải không?"
"Đúng hơn là một bước
tiên hóa có sự hỗ trợ", Sinskey đính chính. "Bình thường, quá trình
tiến hóa - cho dù đó là loài cá thở bằng phổi phát triển đôi chân hay loài vượn
phát triển ngón cái biết riêng rẽ - đều phải mất hàng nghìn năm. Giờ đây chúng
ta có thể tạo ra những thích nghi di truyển triệt để chỉ trong một thế hệ.
Những người đề xướng công nghệ này coi nó là biểu hiện cao nhất cúa ‘sự tổn tại
loài tương thích nhất' theo thuyết Darwin – con người trở thành loài học được
cách cảỉ tiến quá trình tiến hóa cúa chính mình.'
“Nghe giống như đang
thay vai trò của Chúa vậy", Langdon đáp.
"Tôi hoàn toàn đổng
ý", Sinskey nói. "Tuy nhiên, Zobrist cùng như nhiều nhân vật Siêu
nhân học khác, lớn tiếng cho rằng chinh nghĩa vụ tiến hóa của loài người là có
toàn quyền sử dụng tất cả sức mạnh của mình - chẳng hạn, đột biến di truyền
chuỗi phôi - đế cải thiện với tư cách một giống loài. Vấn đề là cấu tạo di
trnvển của chúng ta giống như một ngôi nhà dựng bằng những lá bài, mỗi lá gắn
kết và được hỗ trợ bởi rất nhiều lá khác, thường theo những cách thức chúng ta
không hiểu được. Nếu chúng ta tìm cách loại bỏ chi một đặc điểm của con người
thôi, chúng ta có thế khiến cho hàng trăm đặc điểm khác thay đổi theo, có lẽ
tạo ra những hậu quà tai hại."
Langdon gật đẩu. *Cho nên
tiến hóa mới là một quá trình dẩn dẩn."
"Chính xác!",
Sinskey nói, cảm thấy mỗi khắc trôi qua bà càng thán phục vị giáo sư này.
"Chúng ta đang chắp vá một quả trình phải mất rất lâu để tạo đựng. Đây là
những quãng thời gian nguy nan. Giờ đây đúng là chúng ta có khả năng kích hoạt
các chuỗi gene nhất định để làm cho con cháu chúng ta thêm khéo léo, cỏ khả
năng chịu đựng, sức mạnh và thậm chí tri thông minh - cơ bàn là một chủng loài
siêu hạng. Nhưng cá nhân 'được cùng cố’ theo gìả thuyết này được nhóm Siêu nhân
học gọi là hậu nhân loại, một số người trong bọn họ còn tin rằng đó sẽ là tương
lai giống loài chủng ta.”
“Nghe lạ tai như thuyết Ưu
sinh vậy, Langdon đáp lời.
Câu nói đó khiến cho Sinskey
sởn gai ốc.
Vào những nấm 1940, các nhà
khoa học Quốc xã nghĩ ra một công nghệ mà họ gọi bằng thuật ngữ "thuỵểt Ưu
sinh" – cố gắng sử dụng phương pháp điểu khiển gene sơ khai để tăng tỷ lệ
những ngườì có các đặc điểm di truyền "mong muốn" nhất định, trong
khi giảm tỷ lệ sinh của những người có các đặc đíểm 'không mong muốn bằng".
Thanh lọc sắc tộc ở cấp độ
di truyền.
"Có những điểm tương
đổng", Sinskey thừa nhận, "và dù khó hình dung người ta sẽ tạo tác
một chủng người mói như thế nào, có nhiều người thông minh tin rằng điểu quan
trọng với sự tồn vong là chúng ta phải bắt đầu quá trình đó. Một trong những
cộng tác viên của tạp chí Siêu nhân học H+ đã mô tả phương pháp khiển di truyền
chuỗi phôi như là 'bước rõ ràng kế tiếp’ và cho rằng nó 'có đặc tiềm năng đích
thực cùa giống loài chúng ta'." Sinskey tạm nghi. "Thêm nữa, để bảo
vệ cho tạp chí ấy, họ còn đăng lên bài viết trên tạp chí Discover nhan đề 'Ý
tưởng nguy hiểm nhất trên thế giới."
"Tôi nghĩ tôi đứng về
nhóm thứ hai", Langđon Rỏi “ít nhất cũng từ quan điềm văn hóa xã
hội."
Tại sao?"
"Chà, tôi cho rằng
những hình thức thúc đẩy di truyền -!« giống phẫu thuật thẩm mỹ - khá tốn kém,
phải không nào?"
"Dĩ nhiên. Không phải
ai cũng đủ khả năng cải thiện bàn thân hoặc con cái mình."
"Có nghĩa là những hình
thức thúc đẩy di truyền hợp pháp lập tức tạo ra một thế giói của những người cỏ
và không cỏ. Chúng ta đã có một hố sâu ngày càng lớn giữa người giàu và người
nghèo nhưng phưong pháp điếu khiển di truyền sẽ tạo ra một chủng tộc siêu nhân
và…những người bị xem là cận nhân. Bà cỏ nghĩ người ta lo ngại vẽ một phán tràm
ngưòi siêu giàu đang điểu khiể thế giới không? Hãy hình đung nếu một phần trâm
đó cũng ehính là giống loài siêu việt - thông minh hơn, khỏe lơn, lành mạnh
hơn. Đó sẽ là động cơ chin muồi chế độ nô lệ hoặc thanh lọc sắc tộc.
Sinskey mỉm cười với
vị học giả điền trai bèn cạnh. "Giáo sư, anh nắm bắt rất nhanh những gì
tôi tin là cạm bẫy nghiêm trọng nhất của phương pháp điểu khiển di truyền.”
"Chà, có thể tôi nám
bắt được điểu đó, nhưng tôi vẫn chưa hiểu Zobrist. Toàn bộ tư tường Siêu nhân
học này dường như nhằm cải thiện nhân loại, làm cho chúng ta khỏe hơn, cứu chữa
các bệnh chết người, làm tăng tuổi thọ của chúng ta. Nhưng quan điểm của
Zobrist về tình trạng quá tải dân số dường như lại tán thành việc giiết bớt
người. Những ý tưởng của ông ta về Siêu nhân học và quá tải dân số có vẻ mâu
thuẫn nhau, phải không?"
Sinskey thở dài não nể. Đó là một câu hỏi thú vị,
và rủi thay, nó lại có câu trả lời rất rõ ràng và đáng ngại. "Zobrist hoàn
toàn tin vào Siêu nhân học, ở chỗ làm cho giống loài tốt hơn thông qua công
nghệ, tuy nhiên, hắn cũng tin loài người sẽ tuyệt chủng trước khi có cơ hội làm
được việc đó. Thực tế, nếu không có ai hành động, dân số quá đông sẽ giết chết
loài người trước khi chúng ta có cơ hội nhận ra triển vọng của phương pháp điểu
khiển di truyền.”
Mắt Langdon mở to. "Vậy là Zobrist muốn giảm
bót loài người... để có thêm thời gian?"
Sinskey gật đẩu. "Hắn từng mô tả mình giống
như kẻ mắc kẹt trên một cơn tàu nơi hành khách tăng gấp đôi sau mỗi giờ, trong
khi hắn đang cố hết sức dùng một chiềc thuyển cứu sinh trước khi con tàu chìm
do chính sức nặng của nó.” Bà ngừng lại, "Hắn chủ trương đẩy bớt một nửa
số người trên tàu xuống biến."
Langđon nheo mắt "Một suy nghi đáng
sợ."
"Chắc chắn. Đừng nhẩm lẫn về nó“, bà nói.
"Zobrist tin chắc rằng việc quyết liệt kiềm chế dân số loài người một ngày
nào sẽ được ghi nhận như là hành động tối thượng của chủ nghĩa anh hung…thời
khắc loài người chọn cách tồn tại.”
“Như tôi đã nói, thật đáng sợ.”
“Còn hơn thế vì Zobrist không hề là kẻ duy nhất
mang suy nghĩ ấy. Khi Zobrist chết, hắn trở thành một kẻ tử vì đạo đối với rất
nhiều người. Tôi không biết chúng ta sẽ đối phó với những ai khi đến
Florence,nhưng chúng ta sẽ cần rất cẩn trọng. Chúng tôi sẽ không phải là người
duy nhất cố gắng truy tìm cho ra dịch bệnh này, và vì sự an toàn cùa anh, chúng
tôi không thế để cho kẻ nào biết anh cỏ mặt ở Ý để truy tìm nó."
Langđon kể cho bà nghe về ngườì bạn của anh là
Ignazio Busoni, một chuyên gia về Dante, người Langdon tin cỏ thế giúp anh vào
Cung điện Vecchio sau giờ mở cửa để xem xét bức tranh có chữ cerca trova, như
trong máy chiếu của Zobrist. Busoni có thế cũng giúp Langdcn hiểu câu trích dẫn
kỳ lạ về cặp mắt chết chóc
Sinskey vuốt mái tóc bạc dài của mình ra sau và
chăm chủ nhìn Langdon. “Hãy tìm và sẽ thấy, giảo sư ạ. Thòi gian đang cạn dần.”
Sinskey bước lại một phòng chứa trên mảy bay và
lấy chiếc õng bảo quản chất nguy hiểm loại bảo mật nhất của WHO-loại có khả
nảng khóa bằng sinh trắc học.
"Đưa ngón tay cải của anh đây", bà nói
và đặt ống trước mặt Langdon.
Langđon cỏ vẻ ngơ ngác nhưng làm theo.
Sinskey cài đặt Chương trình cho cái ống để
Langdon là người duy nhă có thể mở đưọc. Sau đó bà cầm lấy cải máy chiếu nhỏ
xíu vả đút nó vào bên trong ống.
“Hãy nghĩ nó như một hộp khóa có thể mang theo
người”, bà mỉm cười nói.
"Với một biếu tượng nguy hiểm sinh học
ư?" Langdon có vẻ không thoải mái.
“Đó là tât cả những gì chúng tôi có. Nói một cách
lạc quan, sẽ không aỉ dùng nó gây rối,"
Langdon xỉn phép duỗỉ chân và sử dụng nhà vệ
sinh. Trong khi anh rời đỉ, Slnskey cố gắng nhét cái ống đã niêm kin vào túì áo
khoác của anh. Rất tiếc nó lạỉ không vừa.
Cậu ấy không thể công nhiên mang cái máy chiểu
này trước bao cặp mắt được. Bà ngẫm nghĩ một lúc và sau đó quay trở lại phòng
chửa đế lấy một con dao mổ và một túi chỉ khấu. Với độ chinh xác chuyên nghiệp,
bà rạch một đường trên lớp lỏt áo khóac của Langdon rồi cẩn thận khâu một chíếc
tủi bí mật bằng đủng kích cỡ cần để giấu cái ống nghiệm.
Khi Langđon trở lại, bà vừa hoàn thành xong đường
khâu cuối cùng.
Vị giáo sư sững lại và trợn mắt nhìn như thể bà
vừa làm hỏng bức Mona Lisa vậy. “Bà nhét vào lớp lót chiếc áo Harris Tweed của
tôi à?”
“Yên tâm đi, giáo sư”, bà nói. “Tôi là một bác sĩ
phẫu thuật được đào tạo. Các mũi khâu đều rất chuyên nghiệp.”
Nhà ga Santa Lucia của Venice là một công trình
thấp và trang nhã làm từ đá xám và bê tông. Nó được thiết kế theo phong cách
tối giản hiện đại, với mặt tiền để trống không có ký hiệu nào ngoại trừ một
biểu tượng - hai chữ cái FS có cánh - biểu tượng của hệ thống đường sắt bang, Ferrovie
đello Stato.
Vì nhà ga nằm ở cực tây con kênh Đại Vận Hà34 nên
hành khách đến Venice chỉ cần bước một bước ra khỏi nhà ga là thấy minh hoàn
toàn ngập chìm trong cảnh quan, mùi vị và âm thanh đặc trưng của Venice.
Với Langdon, mùi mặn mòi của một làn gió đại
dương trong lành đẫm vị món pizza trắng của những ngưòi bán hàng rong trên phố
bên ngoài nhà ga luôn là thứ đến vớì anh trước tiên. Hôm nay, gió từ phía đông
thối vào không khí cả mùi dầu diesel từ hàng dài taxi nước trống không đang đỗ
gần đổ, phía trên mặt kênh. Hàng chục chủ thuyền vẫy tay và hét mời du khách,
hy vọng kéo được một vị khách lên taxỉ, thuyền đáy bằng, phà, hay xuổng cao tốc
cá nhân.
34 Đại Vận Hà (Grand Canal) ở Venice, Ý, là dòng
kênh lớn tạo thành hành lang giao thông đường thủy chính tại thành phố này.
Kênh ăn thông vào đầm nưởc gần Santa Lucỉa, đầu kia dần vào quảng trường St.
Mark, Phần giữa kênh tạo thành một hinh chữ S ngược lớn chạy qua cấc quận trung
tâm của Venice.
Cảnh nhộn nhạo trên măt nước, Langdon thầm nghĩ,
mắt nhìn cảnh “kẹt xe nổi”. Ít nhiều, cảnh tắc nghẽn hẳn sẽ khiến nời ta phát
điên ở Boston nhưng lại rất thú vị tại Venice.
Bên kỉa kênh một tầm ném đá, mái vòm mâu xanh
đổng đồng mang tính biểu tượng của nhà thờ San Simeone Piccolo vươn cao trên
bâu trời về chiều. Nhà thờ này là một trong những công trình có kiến trúc pha
trộn nhiều nhất ờ châu Ảu. Mái vòm dốc một cách khác thường cùng thánh đuòng
hỉnh tròn theo phong cách Byzantine, trong khi cổng vào điện thờ bằng đá cẩm
thạch có cột đỡ rõ ràng lại theo khuôn mẫu lối vảo kiểu Hy Lạp cố điển của đển
Patheon tại Rome. Trên đinh lối vảo chính là phẩn trán tường ngoạn mục bằng đá
cẩm thạch đẽo nối tính tế, mô tả nhiều vị thánh tử đạo.
Venice là một bảo tàng ngoài trời,Langdon nghĩ,
ánh mắt anh nhìn xuống dòng nước kênh vỗ ì oạp vào bậc cấp nhà thờ. Mật bảo
tàng đang tử từ chìm xuống. Mặc dù vậy, khả năng ngập lụt dường như khống đáng
kế so với mối đe dọa mà Langdon sợ rằng lúc này vẫn đang ẩn nấp bên dưới thành
phố này.
Và không ai có ý tưởng gì...
Bài thơ ở mặt sau chiếc mặt nạ người chết của
Dante vẫn còn trong tâm trí Langđon, và anh thắc mắc liệu nhũng dòng thơ sẽ dẫn
họ tới đâu. Anh vẫn giữ bản chép lại bài thơ trong túi áo, nhưng còn chiếc mặt
nạ thạch cao - theo gợi ý của Sienna - Langdon đã bọc vào giấy táo và bí mật
cất bên trong một tủ khóa tự phục vụ ở ga tàu. Mặc dù đó là chỗ cất giữ rất
không hợp lý đối vói một hiện vật quý giá, nhưng hộc tủ chắc chắn vẫn an toàn
hơn so với việc cứ mang theo chiếc mặt nạ thạch cao vô giá đi khắp thành phố
toàn nước là nước này.
"Robert?", Sienna vượt lên trước cùng
vói Ferris, ra hiệu về chiếc taxi nước, "Chúng ta không có nhiều thời
gian"
Langdon vội đi nhanh về phía họ, mặc dù là người
say mê kiến trúc, anh gần như vẫn khỏng thế tin đuợc khi phải trải qua một
chuyến đi vội vàng dọc theo Đại Vận Hà. Có lẽ không trải nghiệm nào tại Venice
thú vị hơn việc ngồi trên phà vaporetto tuyến số 1- loại xe buýt nước không mái
che chính của thành phố - nhất là buổi tối và ngổỉ ờ phía trước khi những thánh
đưòng và cung điện tràn ngập ánh sáng trôi về phía sau.
Hôm nay không có phà rồi, Langdon nghĩ. Những xe
buýt dưới nưóc này có tiếng là chậm, và taxi nước sẽ là lựa chọn nhanh honwn.
Nhưng thật không may, vào thời điểm này, đoàn nguời đứng xếp hàng chò taxi bên
ngoàỉ nhà ga có vẻ như dài vô tận.
Ferris, thấy rõ là không có lòng dạ nào chờ đợi,
nhanh chóng đứng ra giải quyết ván đề. Với một tập tiền mặt hậu hĩnh ông ta
nhanh chóng gọi được một chiếc limousine nước - chiếc Veneziano Convertible
bằng gỗ gụ Nam Phi hào nhoáng. Mặc dù chiếc thuyền trang nhã này sang quá mức
cẩn thiết nhưng chuyến đi sẽ nhanh chóng và bảo đảm riêng tư - chi mất mười lăm
phút chạy dọc Đại Vận Hà tới Quảng trường St. Mark.
Người lái thuyền của họ là một anh chàng điển
trai mặc bộ đổ hiệu Armani may đo. Trông anh ta giống một tài tử điện ảnh hơn
là lái tàu, nhưng nói cho cùng, đây là Venice, mảnh đất của nét thanh lịch Ý.
"Maurizio Pimponi", anh chàng giới
thiệu, nháy mắt với Sienna trong khi chào đón cả nhóm lên thuyên. "Vang
trắng Prosecco? Rượu chanh Limoncello? Hay sâm panh?"
"Không, cảm ơn", Sienna đáp và nói
nhanh như bắn liên thanh bằng tiêng Ý để hưóng dẫn anh ta đưa họ tới Quảng
trường St. Mark càng nhanh càng tốt.
"Chắc chắn roi!” Maurizio nháy mắt lần nữa.
"Thuyền của tôi ỉà chiếc nhanh nhất ở Venezia..”
Khi Langdon và hai người kia ngổi xuống những
chiếc hế bọc vải nhung ỏ phần khoang không mải che, Maurizio cho động cơ Volvo
Penta của thuyền chạy ngược, đưa nó lùi xa bờ một cách thành thục. Sau đó anh
ta đánh tay lái sang phải và rồ máy lao tới,lách chiếc thuyền lớn của mình qua
cả đám thuyền đáy bằng, khiến cho rất nhiều chủ thuyền mặc sơ mỉ ké vung tay
bựe bội khi những chiếc thuyền đen bóng bảnh bao của họ nhấp nho chao đảo do
đợt song anh ta tạo ra.
“Xin lỗi nhé”, Maurizio lên tỉếng cáo lỗi.
'"Khách VIP."
Chi trong vài giây, Maurizio đã thoát ra
khỏi đám đông tắc nghẽn ở ga Santa Lucia và lao băng băng về phía đông, dọc
theo Đại Vận Hà. Khi họ tăng tốc bên dưới vòm cầu Ponte degli Scalzi35, Langdon
ngửi thấy hương vị ngọt ngào đặc trưng của món mì xào mực ống seppie al nero -
loại mì giữ nguyên sắc đen của chính con mực tuyệt hảo của địa phương - đang
ngào ngạt bay ra từ các nhà hàng có mái vòm dọc bờ kênh. Khi họ vòng theo một
khúc quành của con kênh, nhà thờ mái vòm đổ sộ San Geremia hiện ra trước mắt.
"Saint Lucia", Langdon thì thẩm, đọc rõ
tên vị thánh còn khắc bên hông nhà thờ. "Xương của những người mù lòa.”
"Anh nói sao cơ?", Sienna ngó lại, hy
vọng Langdon cỏ thể đoán ra thêm điểu gì đó về bài thơ bí ẩn.
"Không có gì", Langdon nói. "Ý
nghĩ lạ lùng, cỏ lẽ không có gì.' Anh chi về phía nhà thở. "Hãy nhìn dòng
chữ khắc? Thánh Lucia được chôn cất ở đó. Thỉnh thoảng tôi có giảng về nghệ
thuật viết thánh truyện - nghệ thuật khắc họa các vị thánh Thiên Chúa giảo, và
tôi vừa chọt nghĩ ra Thánh Lucia là thánh bảo trợ cùa người mù."
“Thánh Lucia", Maurizio xen vào, vẻ háo hức
muốn góp truyện,"Vị thánh của ngươi mù! Các vị có biết chuyện không?” ông
chủ thuyền ngoảnh nhìn lại họ và hét to át cả tiếng động cơ. “Lucia đẹp đến mức
tất cả đàn ông đều thèm khát nàng. Cho nên, để giữ mình thanh khiết vì Chúa và
bảo vệ trinh bạch, Lucia đã tự móc mắt mình.”
35 Ponte degli Scalzi: ( nghĩa đen là cầu Tu sĩ
chân trần) là một trong bốn cây cầu bắc qua Đại Vận Hà ở Venice. Cầu nối quận
Santa Croce ở phía nam với Cannaregio ở phía bắc. Cầu do Eugenio Miozzi thiết
kế,xây bằng đá, hoàn thành năm 1934, thay thế cho một cây cầu sắt.
Sỉenna xuýt xoa, "Đó là hết lòng."
“Để thưởng cho sự hy sinh của nàng",
Maurizio nỏỉ them,”Chúa ban cho nàng một đôi mắt còn đẹp hơn nữa!".
Sienna nhìn Langdon. "Anh ta biết rõ chuyện
đó vô lý đúng không?"
"Chúa khiến ngưòì ta tin bằng những cách
thức huyềh bí.” Langdon nhận xét, hình dung ra hai mươi bức vẽ theo trường phải
Thợ Cả36 nổì tiếng mô tà Thánh Lucỉa bưng cặp nhẵn cầu của mình trên một chiếc
đĩa phẳng.
Có rất nhiều khảo dị về câu chuyện Thánh Lucia,
nhưng tất cà đều nhắc đẽh việc Lucia tự móc đôi mắt khiến ngưòi ta thèm khát
của mình và đặt lên một chiếc đĩa phằng để đưa cho người theo đuổi nàng một
cách cuổng si và khảng khái tuyên bố: "Đây, anh đã có thứ anh thèm muốn«,
và giờ tôi cầu xin anh để cho tỏi được yên!1", Điểu kỳ lạ là chỉnh Kinh
Thánh đã khơi nguồn cảm hửng cho hành động tự hủy hoại mình của Lucia, mãi mãi
gắn kết nàng với lời răn nổi tiếng của Chúa Jesus: "Nếu mẳt con lầm dịp
tội37 con, hãy moi đôi mắt đó và vứt đi".
Moi, Langdon ngỉm nghĩ, nhận ra cũng chinh từ này
được dùng trong bài thơ. Hãy tìm gã tổng trấn bội bạc của Venice, kẻ …moi xương
cả người mù lòa.
Cảm thấy khó hiểu với sự trùng hợp này, anh băn
khoăn không biết liệu cỏ phảiđây là một ẩn ý rằng Thánh Lucỉa chính là người mù
lòa được nhắc đến trong bài thơ không.
___________________________________________
36Nguyên văn: “Old Master", chỉ một họa sĩ
châu Ảu truớc năm 1800. được dào lạo bài bản, là người đừng đầu một phường của
các họa sĩ địa phương và cỏ thể làm việc độc lập.
37 Theo Kinh Phức Ảm: Mc 9 40-49 (HI 41-50),
“Maurizio", Langdon gọi to, tay chỉ nhà thờ
San Geremia. “Hài cốt của thánh Lucia ở trong nhà thở đó phải không?"
"Đúng rổi, một ít thôỉ", Mauricio nói
trong khi điều khiển thuyồn bằng một tay rất điệu nghệ và ngoái lại nhỉn các vị
khách của mình, chẳng cần để tâm đến thuyền bè đi lại phía trước. “Nhưng hầu
như là không còn. Thánh Lucia rất được yêu kinh nên di cốt của bà phân tán ở
nhiều nhà thờ trên khắp thế giới. Ngươi dân Venice yêu kính Thánh Lucia nhất,
dĩ nhiên rổi, và vì thế chúng tôi tưởng niệm..."'
"Maurizio", Ferris gọi to. "Thánh
Lucia bị mù, anh thi không. Nhìn đằng trước kìa!"
Maurizio cười rât thoải mái và đánh tay lái vừa
kịp để khéo léo tránh đâm phải một chiếc thuyền vừa sáp tới.
Sienna chăm chú nhìn Langdon. "Anh đã hiểu
được gì rồi? Gã tổng trân moi xương cả người mùa lòa à?"
Langdon mím môi. "Anh không dám chắc."
Anh nhanh chóng kể cho Sienna và Ferris câu
chuyện vể thánh tích của Thánh Lucia - di cốt của bà - được xem là câu chuyên
lạ lùng nhất trong số truyện về các vị thánh. Ngươi ta cho rằng, khi nàng Luda
xinh đẹp khước từ những lời tán tinh của một kẻ quyển thế theo đuổi, gã này đã
tố giác nàng và nàng bị thiêu sổng, nhưng theo truyền thuyết, thân xác nàng
không cháy. Vì da thịt nàng không bắt lừa nên ngưòi ta tín rằng di hài của nàng
có quyền năng đặc biệt và bất kỳ ai sở hữu được chúng đều có một tuổi thọ kéo
dài.
"Hài cốt có phép thần thông ư?", Sienna
hỏi
"Phải, người ta tin như vậy, và đỏ là lý đo
di hài của bà phân tán khắp thế giới. Trong suốt hai thiên niên kỷ, những nhà
lãnh đạo uy quyển đểu tìm cách né tránh tuổi già và cái chết bằng việc sở hữu
hài cốt của đã qua thánh Lucia. Xương cùa bà bị đánh cắp, rổì lạì bi nẫng tay
trên, được hoàn trả về chỗ cũ, và bị chia nhỏ nhiểu lẩn hơn bất kỳ vị thánh nào
khác. Xương của bà đã qua tay ít nhất cả tá những nhân vật uy quyền nhất trong
lịch sử.
“Bao gồm cả một gã tổng trấn bội bạc à?”, Sienna
hỏi.
Hãy tìm gã tổng trấn bội bạc của Venice, kẻ cắt
rời những chiếc đầu ngựa…và moi xương cả người mù lòa.
“Rất có thể”, Langdon nói, lúc này đã nhận ra
rằng Hỏa ngục của Dante có nhắc đến Thánh Lucia rất rõ. Lucia là một trong ba
người phụ nữ được ban phước đã giúp gọi Virgil tới giúp Dant thoát khỏi địa
ngục. Hai nguời phụ nữ kia là Đức mẹ Đông trinh Mary và nàng Beatric yêu dấu
cuat Dante, nhưng Dante đặt Thánh Lucia ở vị trí cao nhất trong số họ.
“Nếu anh đúng trong chi tiết này”, Sienna nói,
giọng đầy phấn khích, “thì cũng chính gã tổng trấn bội bạc đã cắt rời những đầu
ngựa…”
“Và còn đánh cắp xương của Thánh Lucia nữa”,
Langdon kết luận.
Sienna gật đầu. “Điều đó sẽ thu hẹp bản danh sách
của chúng ta đáng kể đấy.” Cô đưa mắt nhìn Ferris. “Anh có chắc điện thoại của
anh không hoạt động không? Chúng ta có thể tìm hiếm trên mạng về…”
“Chết ngắc rồi”, Ferris nói. “Tôi vừa kiểm tra.
Rất tiếc.”
“Chúng ta sắp đến đó bây giờ.” Langdon nói. “Tôi
tin chắc chúng ta có thể tìm được câu trả lời gì đó tại Thánh đường St.Mark”
St.Mark là mảnh ghép duy nhất mà Langdon thấy
chắc chắn trong câu đố. Bảo quán mạ vàng của tri thức thánh thiêng. Langdon hy
vọng thánh đường sẽ hé lộ nhân dạng của vị tổng trấn bí ẩn…và từ đó, nếu may
mắn, sẽ là tòa cung điện cụ thể mà Zobrist đã lựa chọn để tung ra đại dịch của
hắn. Vì ở đây, con quái vật của địa phủ chờ đợi.
Langdon cố gắng gạt khỏi tâm trí mình bất kỳ hình
ảnh nào về đại dịch, nhưng chẳng có tác dụng gì. Anh hay tự hỏi thành phố lạ
thường này trông như thế nào vào thời kì hoàng kim của nó lúc là trung tâm thương
mại của châu Âu, trước khi trận đại dịch hạch làm thành phố suy yếu đến mức nó
bị người Ottoman chinh phục, rồi đến Napoleon.Theo những thông tín thu thập
được, không con thành phố nảo trên thế gỉới đẹp hơn thế, sự giàu có và văn hóa
của dân cư nơi đây lả không thể so sánh được.
Nhưng thật mia mai, chính thị hiếu sính những thứ
xa xi nước ngoài của người dân ở đây đã đưa tai họa đến - bệnh dịch hạch chết
ngơời từ Trung Quốc tràn đến Venice trên lưng những con chuột bám theo các
thương thuyền. Đại địch từng tiêu diệt hai phẩn ba dân số Trung Quốc đã tràn
đến châu Âu và nhanh chóng tàn sát một phần ba dân số ở đây - trẻ cũng như già,
giàu cũng như nghèo.
Langdon đã đọc những mô tả về cuộc sống ở Venice
trong thời kỳ dịch hạch bùng phát. Không có nhiều đất khô để an táng người
chết, những xác người sưng tẩy trôi nổi trên các dòng kênh, một số khu vực tắc
nghẽn xác chết đến mức các công nhân phải làm việc như những phu kéo gỗ và đẩy
các xác chết ra biển. Dường như những lòi cẩu nguyện không thể xoa dịu cơn cuồng
nộ cùa đại dịch. Đến khi các quan chức của thành phố nhận ra chỉnh lũ chuột gây
ra bệnh dịch thì đã quá muộn, nhưng Venice vẫn ban hành một sắc lệnh, theo đó
mọi con tàu đều phải buông neo ngoài khơi đủ bốn mươi ngày trước khi được phép
bốc dỡ hàng hóa. Đến hôm nay, con số bốn mươi - quaranta trong tiếng Ý vẫn như
là một lời nhắc hài hùng về nguổn gốc của từ quarantine38.
Khi thuyền của họ tăng tổc vượt qua một khúc
quành nữa trên có một tấm vải bạt đỏ thường thấy trong dịp lễ hội phất phơ làn
gió nhẹ, kéo sự chú ý của Langdon khỏi những ý nghĩ u ám về cái chết đế hướng
đến một tòa nhà ba tầng trang nhã bên trái anh.
38 tiếng Anh có nghĩa: Cách ly để kiểm dịch.
SÒNG BẠC VENEZIA: XÚC CẢM VÔ HẠN.
Langđon chưa bao giờ hiểu hết các ngôn từ trên
băng rôn sòng bạc, nhưng tòa nhà theo phong cách Phục Hưng ấn tượng chính là
một phần trong cảnh quan Venice kể từ thế kỷ XVI. Từng nổi tiếng là một biệt
thự tư nhân, giờ đây nó chính là sòng bạc sang trọng. Vào năm 1883, đây còn là
nơi chứng kiến cái chết vì đột quỵ của nhà soạn nhạc Richard Wagner ngay sau
khi ông soạn xong vở opera Parsifal.
Kế bên phải sòng bạc là một mặt tiền trát vữa
nhám theo phong cách Baroque có treo một băng rôn còn lớn hơn, màu xanh dương
thẫm, ghi rõ CA' PESARO: PHÒNG TRIỂN LÃM QUỐC TẾ NGHỆ THUẬT HIỆN ĐẠI. Nhiều năm
trước, Langdon đã từng vào trong này và xem kiệt tác Nụ hôn của Gustav Klimt
khi tác phẩm được mượn từ Vienna. Tác phẩm diễn dịch bằng vàng lá chói lọi của
Kỉimt mô tả cặp tinh nhân quấn lấy nhau đã khơi gợi trong anh một cảm xúc mãnh
liệt, và cho tới hôm nay, Langdon vẫn biết ơn Phòng triển lãm Ca' Pesaro của
Venice vì đã đánh thức niềm say mê suốt đời của anh dành cho nghệ thuật hiện
đại.
Maurizio cho thuyền chạy tới, giờ lao nhanh hơn
vào dòng kênh rộng.
Phía trước, cây cẩu Rỉaỉto nổi tiếng đứng sừng
sững ở vị trí nửa quãng đường tới Quảng trường St. Mark. Khi họ tới gần, chuẩn
bị vọt qua dưới gẩm cẩu, Langdon nhìn lên và thấy một bóng người đơn độc đứng
bất động bên lan can, nhìn chòng chọc xuống họ với gương mặt u ám.
Bộ mặt đó vừa quen thuộc vừa đáng sợ.
Theo bản năng, Langdon lùi lại.
Bộ mặt đó xám xịt và dài thuỗn, có đôi mắt lạnh
lẽo chết chóc với một cái mũi mỏ chim dài.
Chiếc thuyền vừa lưót qua phía dưởi bóng người
hắc ám thì Langdon nhận ra đó chi là một du khách đang khoe món đổ mới mua được
- một trong hàng trăm chiếc mặt nạ dịch hạch được bán ra mỗi ngày tại chợ
Rialto gần đó.
Tuy nhiên, ngày hôm nay, thứ phục sức kia dường
như rất ma quái.
Quảng trường St Mark nằm ở đẩu mút phía nam Đại
Vận Hà của Venice, nơi thủy lộ này nhập vào biển khơi. Nhìn xuống chỗ giao thoa
nguy hiểm này là pháo đài hình tam giác mộc mạc mang tên Dogana da Mar - Văn
phòng Thuế quan Hàng hải - với tòa tháp canh từng trấn giữ cho Venice trước sự
xâm lăng của ngoại bang. Ngày nay, tòa tháp được thay thế bằng một quả cẩu vàng
rất lớn và một cái chong chóng thòi tiết có hình nữ thẩn may mắn, mỗi khi thay
đổi hướng theo chiều gió đểu nhắc cho các thủy thủ gắn bó với đại dương nhớ đến
sự khó lường của số phận.
Khi Maurizio cho chiếc thuyền bóng bẩy lướt về
cuối con kênh, biển khơi sóng vỗ hiện ra trước mặt họ đầy hăm dọa. Robert
Langdon đã đi theo tuyến đường này nhiều lần trước đỏ, mặc dù luôn bằng một
chiếc phà lớn hơn nhiểu, và anh cảm thấy không thoải mái khi chiếc limousine
cùa họ nhao lèn những ngọn sóng cơn đang cuộn lên từng đợt.
Để tới được cẩu cảng của Quảng trường St Mark,
thuyền của họ cần vượt qua một vùng đầm tắc nghẽn với hàng trăm phương tiện
thủy, từ những du thuyễn sang trọng đến tàu chở dầu, các thuyền buồm tư nhân,
vá cả những tàu lớn đồ sộ. Có cảm giác như thể họ đang ra khỏi một con đường
thôn quê và hòa vào một siêu xa lộ tám làn xe vậy.
Sienna có vẻ bối rối không kém khi nhìn thấy con
tàu chở khách cao mười tầng lừng lững đang lướt qua trước họ, chỉ cách có ba
trăm thước. Các sàn tàu lố nhố hảnh khách, tất cả đều bu lấy lan can chụp ảnh
Quảng trường St Mark tử phía biển. Trong vệt nước cồn lên của con tàu, ba chiếc
tàu khác xếp hàng chờ đến lượt lướt qua danh thắng nổi tiếng nhất của Venice.
Langdon từng nghe nói rằng trong những năm gẩn đầy, số tàu thuyển đã tăng lên
nhanh đến mức có cả chuỗi tàu biển bất tận qua lại suốt ngày đêm,
Ở ví trí cầm lái, Maurizio nhìn dãy tàu chở khách
đang lướt qua và nhìn sang trái nơi có một cầu cảng có mái che nằm cách đó
không xa. "Tôi đỗ ở quán rượu Harry's nhé?" Anh ta ra hiệu về phía
nhà hàng nổi tiếng vì đã sáng chế ra món đổ uống Bellini39. “Đi bộ đến Quàng
trường St Mark không xa lắm đâu."
"Không được, đưa chủng tôi đi hết đường đi”
Ferris yêu cầu, chỉ tay qua đầm nước vể phía nhũng cẩu cảng của Quàng trường St
Mark.
Maurizio nhún vai hiền lành.
"Sẽ được như ý các vị thôi. Đi nào.”
Tiếng động cơ rồ lên và
chiếc limousine bắt đầu cắt qua mặt nước gợn sóng, lao vảo một trong những
luổng lạch cỏ phao tiêu dánh dấu. Những con tàu lớn chở khách đang lướt qua
trông chẳng khác gì các tòa nhà nổi, lằn sóng của chúng xô những chiếc thuyền
tựa như những cái phao bẩn.
Trước sự ngạc nhiên của
Langđon, hàng chục chiếc thuyền đáy bằng cũng đang băng băng vượt đẩm nước như
họ. Những thân thuyền thanh mảnh - dải gần một trăm hai mươi mét và nặng hơn
sáu trăm cân - có vé rất vững vàng trong vùng nước sóng gió. Mỗi thuyền do một
người chèo vững chân điểu khiển. Họ đứng trên bên mạn trái thân thuyền, mặc áo sơ
mi kẻ sọc đen trắng truyền thống và điều khiển một mái chèo duy nhất gắn vảo
mép thuyền bên phải. Mặc dù sóng lớn nhưng thấy rõ chiếc thuyền đáy bằng nào
cũng nghiêng nghiêng sang trái đẩy bí ẩn, một điều kỳ quái mà Langđon biết là
do kết cấu phi đốỉ xứng của thuyền. Tất cả thân thuyền đáy bằng đều uốn cong về
bên phải, ngược với phía lái thuyền, để khắc phục xu hướng thuyền cứ xoay sang
trái do chèo thuyền bên phảỉ.
Maurizio tự hào chi
vào một trong những chiếc thuyền đáy bằng khi họ chạy qua nó. "Các vị thấy
thiết kế kim loại ờ đằng trước không?", anh ta gọi với lại qua vai, làm
hiệu về phía món đổ trang trí trang nhã nhô ra từ mũi thuyền. "Đó là bộ
phận kim loại duy nhất trên thuyền đáy bằng - gọi là aferró di prua - lưỡi hái
sắt mũi thuyền. Đó chính là hình ảnh của Venice!"
Maurizio giải thích rằng bộ
phận trang trí hình lưỡi hái nhô lên từ mũi thuyền đáy bằng ờ Venice có một ý
nghĩa biểu trưng. Hình dạng uốn cong của ferro đại diện cho Đại Vận Hà, sáu
răng của nó thể hiện cho sáu quận hay sestieri của Venice, và phần lưỡi thuôn
là mũ sắt cách điệu của quan tổng trân Venice.
Quan tổng trân, Langđon nghĩ
thầm, ý nghĩ của anh quay trở lại với nhiệm vụ trước mắt. Hãy tìm gã tổng trấn
bội bạc của Venice, kẻ cắt rời những đầu ngựa... và moi xương cả người mù lòa.
Langdon đưa mắt ngước nhìn
dải đất ven bờ phía trước, nơi một công viên nhỏ có trổng cây tiếp giáp với mép
nước. Vượt lên trên những ngọn cây in bóng lên bầu trờ i không gợn mây là tòa
tháp bằng gạch đỏ của tháp chuông St. Mark, trên đinh có Tổng lãnh thiên thẩn
Gabriel bằng vàng dõi mắt nhìn xuống từ độ cao chóng mặt, gần một trăm mét.
Trong một thành phố mà mọi
vật dù cao lớn đến đâu cũng đều cò xu hướng dễ chìm nghỉm, thì tòa tháp sừng
sững Campanile di San Marco cũng chỉ giống như một ngọn đèn tín hiệu cho tất cả
những ai mạo hiểm tiến vào cái mê cung kênh rạch và ngõ hẹp của Venice.
Khi một du khách bị lạc
đường, chỉ cần nhìn lên bầu trời, sẽ nhận ra đương trở lại Quảng trường St.
Mark. Langdon, vẫn thấy khó tin rẳng tòa tháp đồ sộ này từng sụp đổ vào năm
1902, để lại một đống gạch vụn khổng lồ ngay Quảng trường St Mark. Điểu kỳ lạ
là chi có duy nhất một chú mèo bị thương vong trong thảm họa đó.
Du khách tới Venice sẽ đưọc
trải nghiệm cảm giác độc đáo khi đến thăm những cảnh quan đẹp đến ngỡ ngàng của
nơi này, nhưng địa điểm ưa thích của Langđon luôn là Ríva đegli Schiavoni. Khu
vực đi đạo lát đá rộng rãí này ngay kề mép nưóc vả được xây dựng từ thế kỷ IX
bằng phù sa nạo vét. Nó chạy dài từ xưởng tàu cũ đến tận Quảng trường St Mark.
Dọc theo nó là các quán cà
phê xinh xắn, những khách sạn trang nhã, và thậm chí cả nhà thờ của gia đình
Antonio Vivaldi40. Điểm khởi đẩu của Riva là tại xưởng đóng tàu cổ của Venice -
noi mùi hương nồng nổng của chất nhựa cây đun sôi từng tràn ngập không khí khi
những người thợ đóng tàu quét nhựa nóng lên những con tàu chưa hoàn thiện để
bít kín các lỗ thủng. Người ta đổn rằng chính một lẩn tới thăm các xường đóng
tàu này mà Dante Alighieri có cảm hứng đưa những dòng sông nhựa sôi sùng sục
vào Hỏa ngục của mình như một công cụ trừng phạt
Langdon đưa mắt sang phải
bám theo Riva chạy dọc bên nước, và dừng lại ờ đoạn cuối rất ấn tượng của khu
vực đi dạo này. Ở đây, trên rìa tận cùng phía nam của Quảng trường St Mark,
không gian lát đá rộng rãi này tiếp xúc trực tiếp với biển. Vào thời hoàng kim
của Venice, chỗ vách bò dựng đứng này được tự hào đặt tên là “rìa của tất cà
nền văn minh".
40 Antonio Vivaldi (sinh
namw1678 tại Venice, mất năm 1741 tại Vienna) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ vĩ
cầm,nhà sư phạm, chỉ huy dàn nhạc người Ý, cũng là linh mục chỉ huy dàn nhạc và
dàn đồng ca “della Picta” của Venice
Hôm nay, khoảng không gian
dài ba trăm thưóc nơi Quảng trường St. Mark gặp gỡ bỉển cả, vẫn như mọi khi có
không dưới trăm chiếc thuyền đáy bằng sơn đen bập bênh va vào bờ neo, mũi thuyền
hình lưỡi hái nhô lên ngụp xuống trên nền những tòa nhà bằng đá cấm thạch trắng
của quảng trường.
Langđon vẫn không hiểu vì lý
do gì mà cái thành phố nhỏ bé – chỉ rộng gấp đôi công viên Central Park ở New
Yofk - vươn lên từ biển khơi này lạỉ có thể trờ thành đế chế rộng lớn và giàu
có nhất phương Tây.
Khi Maurizio cho thuyền chạy
lại gần hơn, Langdon có nhận ra quảng trường chính đông nghịt người. Napoleon
từng gạĩ Quảng trường St. Mark là "phòng khách của châu Âu", và theo
cảnh tượng nhìn thấy, "gian phòng" này đang chủ trì một đại tiệc đông
nghịt khách khứa. Toàn bộ quảng trường trông như thể bị chìm dưới sức nặng của
các vị khách tới chiêm ngưỡng.
"Chúa ơi", Sienna
thì thào, mắt nhìn đám đông khách tham quan.
Langdon không rõ có phải cô
nói như vậy vì sợ rằng Zobrist có thể đã lựa chọn một địa điểm đông đúc như thế
này để tung ra đại dịch của hắn, hay bởi vì cô cảm thấy rằng trên thực tế
Zobrist có thế có lý khi cảnh báo về những hiểm họa của tình trạng quá tải dân
số.
Mỗi năm Venice đón tiếp một
số lượng du khách đông kinh khủng - ước tính chiếm đến một phần ba dân số thế
giới - khoảng hai mươi triệu khách trong năm 2000. Với con số một ti người được
bổ sung vào dân số thế giới kể từ thời gian đó, giờ đây hàng năm, thành phố này
đang phải rên ri dưới sức nặng của thêm ba triệu du khách nữa. Venice, giống
như chính hành tinh này, chi có một không gian nhất định, và đến một lúc nào đó
sẽ không còn khả năng nhập đủ lương thực, xử lý đủ lượng chất thải, hay tìm đủ
giường ngủ cho tất cả những người muốn tới thăm nó.
Ferris đứng gần đó, nhưng
mắt không nhìn vể phia đất liển rmà lại nhìn ra biến, quan sát tất cả những con
tàu đang tiến vào.
"Anh ổn chứ?, Sienna
hỏi, mắt nhìn ông ta vẻ tò mò.
Ferris quay phắt lại.
"Ơ, tốt thôi,., chi đang suy nghĩ." Ông ta hướng lên phía trước và
gọì Maurizio: "Đậu càng gần St. Mark càng tốt nhé”.
"Không thành vấn
để!" Anh chàng lái thuyền vẫy tay. "Hai phút thôi.”
Chiếc limousine nước giờ đã
đến ngang tầm Quầng trường St Mark, và Dinh Tổng trấn đứng uy nghiêm bên tay
phải nổi bật trên bờ biển.
Là một ví dụ hoàn hảo cho
kiến trúc Venetian Gothic, tòa cung điện này chẳng khác gì một bài tập vể cách
tiết chế sự tao nhã. Không hề có những tháp pháo hay tháp canh vẫn gắn liền với
cung điện của Pháp hay Anh, công trình này được tạo hình như một lăng trụ vuông
vức rất lớn, đem lại không gian vô cùng rộng rải phía bên trong, là nơi lưu trú
của chính phủ trọng yếu cùng bộ máy hỗ trợ của tổng trấn.
Nhìn từ đại dương, tòa cung
điện đổ sộ bằng đả vôi trắng trông có vé ngạo nghễ nếu không tiết chế một cách
thận trọng hiệu ứng ấy bằng cách bổ sung thêm những mái cổng, cột trụ, hàng
lang ngoải và những lỗ răng cưa hình lá bốn thùy. Những hoa văn kỳ lạ bằng đá
vôi hồng xuất hiện khẳp mặt ngoài, gợì cho Langđon nhớ đến pháo đài Alhambra41
ờ Tây Ban Nha.
Khi thuyền ảp sát bờ neo
hơn, Ferris có vẻ lo lắng trước đám đông phía trước cung điện. Một đâm đông
khác tụ tập trên cầu, và mọi thành viên đều đang chi tay xuống một dòng kênh
hẹp cắt giữa hai khu rộng lớn của Dinh Tổng trấn.
________________________________________________________________________
41Alhambra (tên đầy đủ Calat
Alhambra) là một quần thể cung điện và pháo đài nằm ở Granada, Andalusia, Tây
Ban Nha. Nguyên thỷ, đây là một pháo đài được xây dựng năm 889 và sau đó bị bỏ
quên cho tới khi được vua người Moor Mohammed ben Al-Ahmar xây dựng lại vào
giữa thế kỉ XI và được quốc vương Yusuf I biến thành hoàng cung năm 1333.
“Họ đang nhìn gì thế?",
Ferris thắc mắc,giọng đầy lo lắng.
“Il Ponte del Sospiri",
Sienna đáp. "Một cây cầu nổi tiếng của Venice.”
Langđon nhìn xuống con kênh
chật hẹp về phía một đường hầm kín mít cỏ chạm trổ rất đẹp uốn vòng giữa hai
tòa nhà. Cầu thở dài, anh nghĩ thầm, nhớ lại một bộ phim mình rất thích khi còn
bé là A Little Romance, được xây dựng dựa trên cầu chuyện rằng nếu lúc hoàng
hôn, hai người trẻ tuổi hôn nhau dưới cây cẩu này trong khi Nhà thò St. Mark đổ
chuông, thì tình yêu của họ sẽ mãi mãi bềnvững. Cái ý niệm vô cùng lãng mạn ấy
đọng lại trong Langdon suốt cả đời anh. Dĩ nhiên, còn có lý do nữa là bộ phim
có diễn viên chính là một thiếu nữ mười bốn tuổi đáng yêu có tên Diane Lane,
khiến cho Langdon lập tức mê mẩn. Đó là thứ tình cảm thời niên thiêu mà Langdon
chưa bao giờ muốn lãng quên.
Nhiều năm sau, Langdon thấy
sợ khi biết rằng cầu Thở dài có tên gọi như vậy không phải từ những tiếng thở
hổn hển đầy đam mê, mà từ những tiêng thở dài đau khổ. Hóa ra, cái lối đi kin
mít ấy có chức năng nối giữa dinh của tổng trân và nhà tù của ông ta, nơi những
người tù héo hon và qua đời, tiếng rên ri đau khổ của họ vọng qua những ô cửa
sổ chặn lưới sắt trổ dọc theo con kênh hẹp.
Langdon từng tới thăm nhà tù
một lần, và rất ngạc nhiên khi biết rằng những buổng giam đáng sợ nhất không
phải là những buồng ngang mực nước, vốn thường xuyên bị ngập, mà là những buổng
ở sàn trên cùng của cung điện đích thực - gọi là piombi do có phần mái ốp chì
khiến cho những gian buổng ấy nóng khủng khiếp vào mùa hè và lạnh cóng vào mùa
đông, Người tình vĩ dại Casanova42 đã từng là một người tù trong piombi vì bị
tòa án dị giáo buộc tội thông dâm và làm gián điệp, anh ta sống sót qua mười
lăm tháng bị giam cầm và trốn thoát bằng cách lừa giám ngục.
42 Giacomo Casanova
(1725-1798) là một nhà thám hiểm và tác gia Venice. Tự truyện của ông, Câu
chuyện đời tôi được xem như một trong những nguồn đáng tin cậy về phong tục và
tiêu chuẩn xã hội Châu Âu trong thế kỷ XVIII, ông nổi tiếng là tay quyến rũ phụ
nữ, và kể nhiều chuyện phiêu lưu tình ái trong tự truyện của mình.
“Chú ý vào!“Maurizio
quát to với một người điều khiển thuyền đáy bằng khi chiếc limousine của họ
lướt vào vi trí buông neo mà chiếc thuyền kia vừa bò trống. Anh ta tìm thầy một
nơi ở phía trước khách sạn Danielli, chi cách Quàng trường St. Mark và Dính
Tổng trấn một trăm thước.
Marizio quăng một sợi dây
quanh cọc neo và nhảy lên bờ, như thể đang thử vai cho bộ phim phiêu lưu lục
lâm thảo khấu. Khi đã buộc chắc thuyền, anh ta quay lại và chìa một tay xuống
thuyền như muốn giủp các vị khảch lên bờ.
‘”Cảm ơn anh", Langdon
nỏỉ lúc anh chàng Ỷ vạm vỡ kéo anh lên bờ.
Ferrit theo sau, trông hơi
thiếu tập trung và lại liếc nhìn ra ngoài biển.
Sienna là người cuối cùng
lên bờ. Khi nhấc bổng cô lên bờ, anh chang Marizio điển trai nhìn xoáy vào cô
như hàm ý rằng cô sẽ có một quãng thời gian tuyệt vời hơn nữa nếu hất cẳng hai
gã đồng hành và ở lạỉ trên thuyền với anh ta. Sienna dường như không chú ý.
“Cảm ơn, Marizio”, cô lơ
đễnh nói, ánh mắt tập trung vào Dinh Tổng trấn gần đó.
Sau đó, không bỏ lỡ một
bước, cô cùng Langdon và Ferris hòa vào đám đông.
Được đặt theo tên một trong
những nhà du hành lừng danh một lịch sử, sân bay quốc tế Marco Polo nằm cách
Quảng trường St. Mark bốn dặm về phía bắc trên vùng nước của phá Veneta.
Nhờ dịch vụ bay riêng xa xỉ,
Elizabeth Sinskey vừa rời máy bay chỉ mới mười phút thì đã băng băng lướt sóng
vượt qua phá trên chiếc xuồng chở khách màu đen, kiểu viễn tưởng – một chiếc
Dubois SR52 Blackbird – do chính người lạ mặt nói chuyện trên điện thoại lúc
trước gửi tới.
Thị trưởng.
Với Sinskey, sau khi bị giữ
ở phía sau chiếc xe thùng suốt cả ngày, không khí của đại dương như tiếp thêm
sinh lực cho bà. Bà ngoảnh mặt về phía làn gió mằn mặn và để cho mái tóc bạc
của mình xổ tung về phía sau. Gần hai tiếng đã trôi qua kể từ khi bị tiêm mũi
cuối cùng, rốt cuộc bà đã thấy tỉnh táo. Lần đầu tiên kể từ tối qua, Elizabeth
Sinskey được là chính mình.
Đặc vụ Bruder ngồi bên cạnh
bà cùng với đội của anh ta. Không ai trong số họ nói một lời. Nếu họ lo lắng về
cuộc hẹn hò bất thường này, thì họ đều lập tức biết rõ suy nghĩ ấy không phù
hợp ở đây, bởi quyết định không phải do họ đưa ra.
Chiếc xuồng phăm phăm lao về
phía trước cho tới khi một hòn đảo lớn hiện dần ra ở bên phải, bờ đảo điểm
những tòa nhà gạch thấp cùng những ống khói, Murano, Elizabeth nhận ra đó là
những nhà máy thổi thủy tinh nổi tiếng.
Mình không tin được là mình
trở lại đây, bà thầm nghĩ, lòng ngập tràn một nỗi buồn tê tái. Một vòng tròng
trọn vẹn.
Nhiều năm trước, khi còn học
ở trường y, bà đã tới Venice cùng với vị hôn phu của mình và tới thăm Bảo tàng
Thủy tinh Murano. Ở đó, vị hôn phu của bà chú ý đến một vật xoay tròn thủy tinh
thổi bằng tay rất đẹp và vô tình nói rằng ông muốn có vật giống như thế để một
ngày nào đó đem treo trong phòng con nhỏ của họ. Cảm thấy có lỗi vì đã giữ kín
bí mật đau lòng quá lâu, cuối cùng Elizabeth đã bộc bạch với ông về chứng hen
suyễn lúc còn nhỏ à những buổi điều trị bằng glucocorticoid tai hại đã hủy hoại
cơ quan sinh sản của bà.
Elizabeth không bao giờ biết
được liệu sự thiếu trung thực hay chuyện vô sinh của bà đã biến trái tim người
đàn ông trẻ thành sắt đá. Nhưng một tuần sau, bà rời Venice mà không còn chiếc
nhẫn đính hôn.
Vật kỷ niệm duy nhất về
chuyến đi đau khổ đó chính là chiếc bùa lam ngọc. Cây gậy Asclepius là một biểu
tượng thích hợp cho y học – một liều thuốc đắng trong trường hợp này – nhưng bà
đã luôn đeo nó kể từ khi đó.
Chiếc bùa quý giá của mình,
bà thầm nghĩ. Món quà chia tay từ một người đàn ông muốn mình sinh con cho anh
ấy.
Ngày nay, đối với bà, các
đảo Venice không còn lãng mạn, nh ngôi làng biệt lập của chúng gợi lên ý nghĩ
không phải về tình yêu mà về những khu vực kiểm dịch từng được thiết lập trên
đó để kiểm soát Cái chết Đen.
Khi chiếc tàu Blackbird lao
qua đảo San Pietro, Elizabeth nhận ra họ đang hướng đến một du thuyền màu xám
rất lớn, hình như buông neo ở một luồng nước sâu, chờ họ đến.
Con tàu
màu xám kim khí trông như một hạng mục trong Chương trình lá chắn của quân đội
Hoa Kỳ. Cái tên ghi rõ ở phía sau không cho biết điều gì về thể loại tàu cả.
The Mendacium?
Con tàu hiện ra càng lúc
càng lớn hơn, chỉ chốc lát Sinskey đã có thể nhìn rõ nhất bóng người đơn đọc
đúng trên boong sau – nhất người đàn ông cô độc, nhỏ bé, nước da rám nắng, đang
quan sát họ qua ống nhòm. Khi chiế Blackbird tiến lại khoang neo đậu ở phía sau
tàu The Mendacium, người đàn ông bước xuống thang để đón họ.
“Tiến sĩ Sinskey, chào mừng
bà lên tàu.” Người đàn ông sạm nắng lịch thiệp bắt tay bà, bàn tay ông ta mềm
và nhẵn, không thể là tay của một thủy thủ. “Tôi rất mừng vì bà đến. Xin hãy
theo tôi.”
Khi cả nhóm leo lên vài
tầng, Sinskey mới chú ý đến cách bài trí giống như các buồng ngăn ô nhộn nhịp.
Con tàu kỳ lạ này thực tế chứa nhiều người, nhưng không có ai nghỉ ngơi cả -
tất cả bọn họ đều đang làm việc.
Làm việc gì chứ?
Khi họ leo tiếp lên cao,
Sinskey có thể nghe rõ tiếng động cơ rất mạnh của con tàu chạy ầm ầm, tao ra
một lằn nước sâu khi con tàu bắt đầu chuyển động.
Chúng ta đi đâu đây nhỉ? Bà
cảnh giác thắc mắc.
“Tôi muốn nói chuyện riêng
với tiến sĩ Sinskey”, người đàn ông nói với mấy người lính, hơi ngừng lại để
nhìn Sinskey. “ Nếu bà thấy tiện?”
Elizabeth gật đầu.
“Thưa ngài”, Bruder miễn
cưỡng nói, “Tôi đề nghị một bác sĩ trên tàu kiểm tra cho tiến sĩ Sinskey. Bà ấy
có một số …”
“Tôi không sao”, Sinskey xen
vào. “Thực sự. Nhưng cũng cảm ơn anh”
Thị trưởng nhìn Bruder một
lúc lâu và sau đó ra hiệu về phía một bàn thức ăn đồ uống đã được bố trí trên
boong. “Nghỉ ngơi đi. Các anh cần như vậy. Chỉ lát nữa là các anh phải quay vào
bờ rồi”
Không bận tâm thêm nữa, thị
trưởng quay lưng lại gã đặc vụ và dẫn Sinskey vào một phòng khách tiếp cũng là
phòng làm việc trang nhã, đóng cửa lại phía sau.
“Bà uống một chút chứ?”, ông
ta hỏi, ra hiệu về phía quầy rượu.
Bà lắc đầu, vẫn đang cố tìm
hiểu không gian kỳ lạ xung quanh mình. Người đàn ông này là ai? Ông ta làm gì ở
đây?
Lúc này vị chủ nhà đang quan
sát bà, những ngón tay của ông ta đỡ bên dưới cằm. “Chắc bà biết ông khách
Bertrand Zobrist của tôi gọi bà là ‘con quỷ tóc bạc’ phải không?”
“Tôi cũng có một số tên gọi
dành cho hắn.”
Người đàn ông không để lộ
cảm xúc gì trong lúc đi về phía bàn làm việc và chỉ tay xuống một cuốn sách to.
“Tôi rất muốn bà xem thứ này.”
Sinskey bước lại và nhìn
trang bìa. Hỏa ngục của Dante à? Bà nhớ lại những hình ảnh chết chóc rùng rợn
mà Zobrist đã cho bà xem trong cuộc gặp gỡ của họ tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại.
“Zobrist cũng cho tôi xem
thứ này hai tuần trước. Còn có một dòng chữ nữa.”
Sinskey chăm chú nhìn dòng
chữ viết tay trên trang bìa. Nó có chữ ký của Zobrist.
Bạn thân mến của tôi, cảm ơn
bạn vì đã giúp tôi tìm ra đường đi.Thế giới cũng cảm ơn bạn.
Sinskey cũng cảm thấy rùng
mình. “Ông đã giúp hắn tìm ra con đường nào?”
“Tôi không hề biết. Hay đúng
hơn, cho tới vài tiếng trước thì tôi vẫn chưa biết.”
“Còn bây giờ?”
“Giờ tôi đã pải tạo ra một
ngoại lệ hiếm hoi trong quy trình của minh…và tôi mời bà đến.”
Sinskey đã đi cả một chặng
đường dài và không có tâm trí đâu cho một cộc trò chuyện khó hiểu. “Thưa ông,
tôi không biết ông là ai, hay ông đang làm việc quái gì trên con tàu này, nhưng
ông nợ tôi một lời giải thích. Hãy cho tôi biết tại sao ông lại che giấu một kẻ
đang bị Tổ chức Y tế Thế giới tích cực truy lùng.”
Bất chấp giọng nói nóng nảy
của Sinskey, người đàn ông vẫn trả lời rất khẽ như thì thào. “Tôi nhận ra bà và
tôi đang làm việc vì những mục tiêu xung đột với nhau, nhưng tôi mong rằng
chúng ta nên quên đi quá khứ. Tương lai, như tôi cảm nhận được, chính là những
gì đòi hỏi chúng ta phải chú tâm ngay lập tức.”
Nói xong, người đàn ông rút
ra mọt thẻ nhớ nhỏ màu đỏ và cắm vào máy tính của mình, ra hiệu cho bà ngồi
xuống. “Bertrand Zobrist tạo ra đoạn video này, Ông ta muốn tôi phát tán nó cho
ông ta vào sáng mai.”
Sinskey chưa kịp đáp lại thì
màn hình máy tính đã chuyển sang lờ mờ và à nghe thấy những âm thanh nhè nhẹ
của nước. Một khung cảnh bắt đầu hiện rõ trong bóng tối của lòng hang ngập
nước, giống như một cái hồ chìm dưới lòng đất. Điều lạ lùng là có vẻ như nước
đã được chiếu sáng từ bên trong, phát ra thứ ánh sáng đỏ đòng đọc rất kỳ quái.
Tiếng nước róc rách vẫn tiếp
tục, máy quay lia xuống dưới và chìm hẳn vào làn nước, định vị trên nền hang phủ
đầy bùn. Bắt vít xuống nền hang là tấm biển hình chữ nhật sáng loáng khắc ngày
tháng và một cái tên bên trên.
“TẠI NƠI NÀY, VÀO NGÀY NÀY,
THẾ GIỚI THAY ĐỔI MÃI MÃI.”
Ngày tháng chính là ngày
mai. Còn cái tên là Bertrand Zobrist. ES thấy rùng mình. “Chỗ này là đâu
vậy?!”, bà hỏi. “Chỗ này là nơi nào?!”
Để đáp lại, Thị trưởng biểu
lộ chút cảm đầu tiên của ông ta – một tiếng thở dài thất vọng và lo lắng. “Tiến
sĩ Sinskey”, ông ta đáp, “tôi hy vọng bà có thể biết được câu trả lời cho thắc
mắc ấy”.
Cách đó một dặm, trên lối
tản bộ bên bờ nước của Riva degli Schiavoni, cảnh tượng nhìn ra phía biển có
chút thay đổi. Nếu có ai đó quan sát kỹ, ắt sẽ nhận ra một du thuyền màu xám
rất lớn vừa xuất hiện chỗ mũi đất phía đông. Giờ nó đang hướng về phía quảng
trường St.Mark.
Tàu The Mendacium fs-2080
nhân ra ngay cùng với chút sợ hãi.
Phần thân tàu màu xám không
thể lẫn đi đâu được.
Thị trưởng đang đến…và thời
gian đang cạn dần.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét