Bạch Vân quốc
ngữ thi tập - Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
Phần
I. Bạch Vân quốc ngữ thi tập
1.Khuyên đời
Mảng chê người ngắn, cậy ta dài;
Hơn kém dù ai cũng mặc ai.
Mùi nọ có bùi không có ngọt;
Màu kia chày thấm lại chày phai.
Đã hay phận định đành an phận;
Dẫu có tài hơn chớ cậy tài.
Quân tử ngẫm xem cơ xuất xứ;
Ắt là khôn hết cả hoà hai.
2.Mặc ai tài trí
Mặc ai rằng tài, mặc ai rằng trí,
Ngay mặt đã hay đống củ khoai.
Cáo đội oai hùm mà hết giống,
Ruồi nương đuôi ký luống khoe ngươi.
Nhân tình cho biết,
Ba bát đầy, nầy cũng sáu vơi.
3.Lòng thư thái
Vinh nhục bao phen hẳn đã từng,
Lòng người sự thế dửng dưng.
Khen thì nên tốt, chê nên dại,
Mất ắt chẳng âu, được chẳng mừng.
Có ai biết được lòng tri kỷ,
Vòi vọi non cao nguyệt một vừng.
4.An phận
Giàu cơm thịt, khó cơm rau,
An phận là tiên, lọ phải cầu.
Sớm uống chè thung, hơi ngút ngút.
Hôm kề hiên nguyệt, tỏ làu làu.
Vun thông tưới cúc ba thằng nhỏ,
Ðỏ lửa hâm trà một mụ hầu.
5.Ðường đời hiểm hóc 6.Đạo thường
Áng công danh sá cắp tay
Nhiều phen đã khỏi tiếng tai bay
Hoa mai bạc, vì trăng tỏ
Bóng trúc thưa, bởi gío lay
Ưu ái chẳng quên niềm trước
Thị phi biếng nói sự nay.
Ðã từng trải sơn hà hết,
Ðường thế nhiều nơi hiểm hóc thay!
Chợ họp thì người đến dở dang,
Xa yêu vì có mùi hương.
Ưa ngọt thì hơn nhiều người trọng,
Quá chua ra ủng có ai màng.
Ở có đức lành hơn ở dữ,
Yêu nhau chẳng đã một đạo thường.
7.Điền viên thú bài 1
Lọ là thành thị với lâm tuyền,
Được thú thì hơn miễn phận bàn.
Bởi vụng bất tài nên kém bạn,
Âu giả vô sự cũng là tiên.
Đồ thư một quyển, nhà làm của;
Phong nguyệt năm hồ, khách nổi thuyền.
Dù nhẫn chê khen, dù miệng thế;
Cơ mầu Tạo Hoá mặc tự nhiên.
8.Điền viên thú bài 2
Tóc đã thưa, răng đã mòn,
Việc nhà đã phó mặc dâu con.
Bàn cờ cuộc rượu vầy hoa trúc,
Bó củi cần câu trốn nước non.
Nhàn được thú vui hay nấn ná,
Bữa nhiều muối bể chứa tươi ngon.
Chín mươi thì kể xuân đã muộn,
Xuân ấy qua thì xuân khác còn.
9.Điền viên thú bài 3
Trải nguy nan, đã mấy phen,
Thân nhàn, phúc lại được về nhàn.
Niềm xưa trung ái thề chẳng phụ,
Cảnh cũ điền viên thú đã quen.
Ba quyển đồ thư thư nặng túi,
Một thuyền phong nguyệt chở đầy then,
Trời cũng biết nơi lành dữ,
Hoạ phúc chẳng dùng cái tóc chen.
10. (Chưa rõ tên 1)
Dửng dưng mọi sự gác bên ngoài,
Dầu được, dầu thua, ai mặc ai.
Mùi thế gian nhiều mặn lạt,
Đường danh lợi có chông gai.
Mấy người phú quý hay yên phận?(1)
Hễ kẻ anh hùng những cậy tài(2).
Dầu thấy hậu sinh thì dễ sợ(3),
Sừng kia chẳng mọc, mọc hơn tai.
………………………….
- (1) Câu 5 đặt theo cách nghi vấn: Nguyễn Bỉnh
Khiêm nói mỉa rằng dễ có mấy kẻ giàu sang chịu yên phận mình, không chen chân
vào vòng đua tranh?
- (2) Tin ở tài mình, chắc rằng mình có tài tất
có được dùng. Nhưng cũng vì lẽ quá tin này, mà có thể mắc tai vạ
- (3) Chú thích: Dầu thấy hậu sinh thì dễ
sợ.Câu này lấy ý "hậu sinh khả uý", lời của Khổng Tử, chép trong
thiên Tử Hãn, sách Luận ngữ. Câu 7,8 ý nói: phải biết rằng người sinh sau là
giỏi và
đáng sợ hơn khác nào như cái sừng tuy mọc sau
cái tai, nhưng sẽ mọc dài hơn cái tai vậy.
11. (Chưa rõ tên 2)
Nối nghiệp nhà xưa học một kinh(1),
Chẳng ngờ lạc đến áng công danh.
Thân xưa đã có duyên hương lửa(2),
Lộc nặng ơn nhờ đức thánh minh.
Lỗi bước, già nên chịu dại,
Hay cơ, trẻ khá làm thinh?
Phúc nho hoạ trong đời trị,
No ấm cũng nhờ phúc thái bình.
……………………….
- (1) Đây chỉ là một cách nói khiêm tốn. Cũng
có thể một kinh ở đây là Kinh Dịch mà Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dày công nghiên cứu.
- (2) Đã đạt được công danh.
12. (Chưa rõ tên 3)
Nói nên hoang (1) lại nói rằng thì,
Giàu: trọng, sang: yêu, khó: chẳng vì.
Nhị kết, hoa thơm, ong đến đỗ(2),
Mỡ bùi, mật ngọt, kiến nào đi?(3)
Thanh tao của có, thanh tao bấy,
Náo nức tay không, náo nức gì?
Mặc rủi, mặc may khi gặp gỡ,
Khen chi, khen miệng, cợt mà chi?
………………………….
- (1) Tiếng cổ, nghĩa: nói ba hoa, không hợp
lẽ. Ta nay còn nói: huênh hoang. Cả câu ý nói: nói
đúng thực sự thì e thiên hạ cho là liều lĩnh,
bừa bãi, lại nói này, nói nọ, không hay (sự thực được nêu lên ở câu sau).
- (2) Chú thích: Nhị kết, hoa thơm, ong đến đỗ
Câu 3 ý nói: người có tài đức tất được người đời quy phục, tin theo
- (3) Câu 4 ý nói: có của cho người, thì khi
nào kẻ xu nịnh lại bỏ đi?
13. (Chưa rõ tên 4)
Rất nhân sinh bẩy tám mươi(1),
Làm chi lảo đảo nhọc lòng người.
Bạch Vân am vắng chim kêu muộn,
Kim Tuyến(2) dòng thanh cá mát tươi.
Ưu ái một niềm hằng nhớ chúa,
Công danh hai chữ đã nhường người.
Giầu lẫn khó, yên đòi phận(3),
Rất nhân sinh bẩy tám mươi.
Thanh nhàn dưỡng được tính tự nhiên,
Non nước cùng ta đã có duyên.
Dắng dỏi(4) bên tai cầm suối,
Dập dìu trước mặt tán sen(5).
Xuân về, hoa nở mùi hương nức,
Khách đến, chim mừng dáng mặt quen.
Chốn ấy thanh nhàn được thú,
Lọ là Bồng đảo(6) mới tiên
……………….
- (1) Câu này ý nói: tác giả đã đến tuần bảy
tám mươi tuổi là vào loại hiếm thấy trong đời.
- (2) Tức là con sông Tuyết (sông Hàn) chảy qua
làng tác giả. Chưa rõ chữ "Kim" ngụ ý gì.
- (3) Chú thích: Giầu lẫn khó, yên đòi phận.Câu
này ý nói: dù giàu có hay nghèo khó cũng yên
phận mình mà thôi.
- (4) Tiếng cổ, nghĩa: vang động. Cầm suối:
nước suối chảy, tiếng thánh thót nghe như tiếng gảy đàn.
- (5) Lá sen tròn, xoè ra như cái tán.
- (6) Đảo Bồng Lai ở bể Bột Hải, tương truyền
nơi ở của tiên.
14. Của nặng hơn người
Ðời này nhân nghĩa tựa vàng mười(1),
Có của thì hơn hết mọi lời.
Trước đến tay không, nào thốt(2) hỏi,
Sau vào gánh nặng(3), lại vui cười.
Anh anh, chú chú, mừng hơn hớn,
Rượu rượu, chè chè(4), thế tả tơi.
Người của, lấy cân ta thử nhắc,
Mới hay rằng của nặng hơn người.
……………….
- (1) Chú thích: vàng mười.Thứ vàng mười tuổi.
Chữ Hán gọi là "thập thành kim", một thứ vàng
quý nhất. Câu thơ có nghĩa đen rất mỉa mai:
nhân nghĩa tựa vàng, vàng là nhân nghĩa (ý này chuyển xuống câu 2).
- (2) Chú thích: thốt. Tiếng cổ, nghĩa: nói
năng. Thốt hỏi: ở đây có nghĩa là chào hỏi
- (3) Ý chỉ của cải nhiều.
- (4) Rượu chè
15. Có phúc có phần
Trời sinh, trời ắt đã dành phần,
Tu hãy cho hiền, dạ có nhân.
Khó chớ oán thân, thân mới nhẹ
Giàu mà yêu chúng, chúng càng gần.
Bạo hung chỉn đã gươm mài đá,
Phúc đức rành hay cỏ đượm xuân.
Chớ có hại nhân mà ích kỷ,
Giấu người, khôn giấu được linh thần.
16. Cương thường tổng quát
Trời phú tính ở mình ta,
Đạo cả cương thường (1) năm mấy ba.
Tôi hết ngay(2), chầu chức chúa,
Con hằng thảo(3), kính thờ cha.
Anh em mựa nỡ(4) điều hơn thiệt,
Bầu bạn cho hay nết thực nhà.
Nghĩa vợ chồng xem rất trọng.
Ở đầu phong hoá(5) phép chưng nhà.
……………………………..
- (1) Cương: là cái giường lưới tức cái dây
chính của lưới, từ đó móc các sợi la, mắt lưới, nhà Nho dùng chữ
"cương" để chỉ những quan hệ lớn nhất của xã hội phong kiến. Tam
cương: vua (là giường của) tôi; cha (là giường của) con; chồng (là giường của) vợ.
Ngũ thường: năm đức tính mà người ta hằng phải có: nhân (thương người), lễ
(phép tắc trong sự ăn ở), nghĩa (lẽ phải), trí (sự sáng suốt), tín (giữ đúng lời
nói).
- (2) Dịch chữ "trung"
- (3) Dịch chữ "hiếu".
- (4) Tiếng cổ, nghĩa: chẳng nên
- (5) Nhà nho xưa coi tình nghĩa vợ chồng là
mối đầu của phong hoá, là cơ sở của xã hội. Truyện
Hoa Tiên nói về tình vợ chồng có câu:
"Khuê môn cho rệt mối đầu chỉnh phong".
17. Chớ cậy rằng hơn
Làm người hay một, hoá hay hai,
Chớ cậy rằng khôn, chớ cậy tài.
Trực tiết cho bền bằng sắt đá,
Ði đường ngẫm hết chốn chông gai.
Ở thế khá yêu là của khá,
Ra đường ai dễ kém gì ai.
18. Dại khôn
Làm người có dại mới nên khôn,
Chớ dại ngây si, chớ quá khôn.
Khôn được ích mình, đừng rẽ dại,
Dại thì giữ phận chớ tranh khôn.
Khôn mà hiểm độc là khôn dại,
Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.
Miệng đời tựa mật mùi càng ngọt,
Ðạo thánh bằng tơ mới hãy dài.
Chớ cậy rằng khôn khinh kẻ dại,
Gặp thời, dại cũng hoá nên khôn.
19. Dĩ hoà vi quý
Ở thế, đừng tranh tiếng trượng phu(1),
Làm chi cho có sự đôi co(2).
Đây cậy đây khôn, đây chẳng chịu,
Đấy rằng đấy phải, đấy không thua.
Duật nọ mựa còn đua với bạng(3),
Lươn kia hầu dễ kém chi cò(4)?
Chữ rằng: "Nhân dĩ hoà vi quý(5)",
Vô sự thì hơn, kẻo phải lo.
………………………..
- (1) Người đàn ông tài giỏi. Ý câu thơ răn
người ta ở đời đừng có tranh hơn thua, tranh lấy cái tiếng tài giỏi.
- (2) Tranh cãi giằng co nhau về một việc gì
- (3) Chú thích: Duật nọ mựa còn đua với bạng.
Duật: một loài chim nước. Bạng: con trai. Câu này dẫn điển "bạng duật
tương tri, ngư ông đắc lợi" trong Chiếu quốc sách: Một hôm, con trai lên
bãi cát mở miệng phơi nắng, con cò (duật) đến mổ vào thịt con trai, con trai
liền khép vỏ lại, cặp chặt lấy mỏ con cò. Hai con giành nhau mãi, sau bị người
chài bắt được cả đôi.
- (4)Chú thích: Lươn kia hầu dễ kém chi cò.
Lươn: thân dài, có thể quấn chặt được thân cò. Cò: mỏ dài, có thể mổ vào thịt
lươn. Ý nói mỗi bên đều có sở trường để đối địch với nhau.
- (5)Chú thích: Nhân dĩ hoà vi quý. Người ta ở
đời nên lấy sự hoà hảo với nhau làm điều cốt yếu
20. Giới dĩ phú lăng bần (Răn người cậy giàu mà
coi thường người nghèo)
Kẻ khó thường làm ích kẻ giàu,
Ở thì phải ngẫm, biết nhường nhau,
Bán kia, chẳng nỡ mua cho rẻ,
Vay nọ, xin đừng lấy lãi đau.
Bớt nỗi sai đời làm độc khổ(1),
Thôi thì đã trả hãy cơ cầu(2).
Nặng lòng nhân nghĩa hay thương khó,
Giàu ấy hầu toan mới được lâu(3).
…………………………..
- (1)Chú thích: Bớt nỗi sai đời làm độc khổ,
Ngày trước, những nhà giàu chuyên môn làm nghề cho vay lấy lãi, gọi là
"chủ nợ", người nghèo khó đi vay, gọi
là "con nợ". Nếu đến hẹn mà con nợ chưa trả, thì chủ nợ có quyền cho
bọn tay sai đến nhà con nợ thúc giục trả nợ, thì chúng giở đủ mánh khoé độc ác,
nào giết gà, đánh chó để ăn, lên giường thờ ông bà ông vải của người ta để ngủ,
v.v... Khi chúng ra về, con nợ còn phải có tiền hoặc phẩm vật gì tiễn chúng thì
mới xong xuôi.
- (2)Hãy cơ cầu: hãy còn cơ cầu (ác nghiệt). Ý
nói khi con nợ đã trả đủ gốc và lãi rồi, chủ nợ hãy còn yêu sách phải tạ ơn nải
chuối, buồng cau, hoặc con gà, quả gạo nếp, thủ lợn.
- (3)Chú thích: Nặng lòng nhân nghĩa hay thương
khó, Giàu ấy hầu toan mới được lâu. Câu 7, 8 ý tác giả khuyên
người đời khi đã giàu có rồi, muốn được bền thì
phải có lòng nhân nghĩa đối xử với mọi người, đặc biệt là phải thương kẻ nghèo
hèn đói khổ. Rõ ràng lời khuyên vẫn bao hàm cái ý chấp nhận trật tự phong kiến,
có kẻ giàu người nghèo, vì tác giả không vượt nổi ra ngoài ý thức hệ phong
kiến.
21. Giới sắc (Răn người ham sắc đẹp)
Cẩn(1) cho hay, chẳng phải chơi,
Sắc xem dường sóng, dễ xiêu người(2).
Lửa rơm nếu chửa ngăn lòng tục,
Giường mối đâu còn biết lẽ trời(3).
Có chồng con bao xiết nỗi,
Hay bùa thuốc ấy thói đời(4).
Kham hiền(5), luận ác "dâm vi
thủ(6)",
Cẩn cho hay, chẳng phải chơi.
……………………………..
- (1)Giữ gìn, đề phòng cho chu đáo, không sơ
suất.
- (2) Người xưa thường hay dùng hình ảnh này.
Một câu thơ cổ: "Sắc bất ba đào, dị nịch nhân" (Sắc chẳng có sóng, mà
dễ khiến làm đắm người). Lý Diên -Niên (Đường) cũng có câu: "Nhất tiếu
khuynh nhân thành, tái tiếu khuynh nhân quốc" (Người đẹp cười lần thứ nhất
làm nghiêng thành người, cười lần thứ hai làm nghiêng nước người).
- (3) Câu 3, 4 ý nói: khi gần sắc đẹp, nếu
chẳng giữ mình, để cho lòng tục lôi kéo đến chỗ "lửa gần rơm lâu ngày cũng
bén" và lúc đó, sẽ quên hết lẽ trời và đạo đức con người.
- (4) Người xưa tin rằng để làm cho người khác
say mê, người ta có thể dùng "bùa thuốc".
- (5) Đáng khen là hiền.
- (6) Theo quan điểm Nho giáo luận về mọi tội
ác, định rõ dâm ô là đứng đầu. Người xưa có câu: "Bách ác, dâm vi thủ; vạn
thiện, hiếu vi tiên" (Trăm điều ác, dâm là đầu; vạn điều lành, hiếu đứng
trước).
22. Giới sùng Phật vô ích (Răn người sùng bái
Phật vô ích)
Suy lý cho cùng Phật ấy ta,
Lọ là chung bóng đạo Di Đà?
Hiền lành, hãy giữ bề tu kỷ(1),
Dối trá, đừng nghe đứa xuất gia(2).
Dễ chúng đúc chuông(3) nhân đã lạ,
Đặt điều phá ngục(4) thói ru mà.
Chẳng tin, Lương Vũ(5) còn bia cũ,
Tra(6), mà lại biết thực chẳng ngoa.
………………
- (1) Sửa mình.
- (2) Bỏ nhà đi tu
- (3) Chú thích: đúc chuông. Nhà tu hành đạo
Phật thường đem tờ phả khuyến đi khuyên giáo thập phương, lấy tiền của để đúc
chuông, hoặc tô tượng Phật. Họ cho đấy là việc "công đức".
- (4) Theo thuyết của nhà tu hành đạo Phật, thì
dưới âm phủ có 18 địa ngục, ở địa ngục có quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa hành tội
chúng sinh, vì thế nên phải lập đàn làm chay nhằm phá ngục để siêu độ chúng
sinh.
- (5) Tức Vũ Đế (502-540) Nhà Lương, thời Nam
Bắc Triều. Vũ Đế rất ham mê Phật giáo. Về sau bị Hầu Cảnh vây đánh, 7 ngày
không có gì ăn, phải chết đói.
- (6) Tức tìm tòi, tra cứu. Câu này ý nói:
nghiên cứu đến nơi đến chốn, thì biết chuyện Vũ Đế sùng Phật mà bị chết đói
không phải sai ngoa, từ đó đủ biết mộ đạo Phật nào có ích gì?
23. Dưỡng thân
Mới hay phú quý bởi thời vần(1),
Chữ "vị" là biếng nói năng,
Há rằng chẳng biết sự nên chăng.
Tu niệm ngang tàng thú dưỡng thân(2).
Hứng ý, miệng ngâm câu quốc ngữ,
Giải phiền, tay chuốc chén quỳnh xuân(3).
Đường hoa chào khách, mặt nhìn mặt,
Ngõ hạnh(4) đưa người chân ngại chân.
Dẫu có ai than, thì sẽ nhủ(5),
"Thái bình thiên tử, thái bình
dân(6)".
Nhá rau lại tiếc mùi canh ngọt,
Nếm ếch còn thèm có giống măng.
Vuốt mặt còn chừa qua mũi nọ,
Rút dây lại nệ(7) động rừng chăng?
Dầu ai nghị luận điều lành dữ,
Chữ "vị" là vì biếng nói năng.
………………
- (1) Câu này ý nói: do số mệnh xoay vần mà
được phú quý hay không, chứ cố gắng tìm kiếm cũng chẳng được. Bản
in trong "Việt thi" của Trần Trọng
Kim k -- (2) Chú thích: Tu niệm ngang tàng thú dưỡng thân. Câu này ý nói: nên
tự mình nhắc nhở mình luôn luôn giữ cho bền vững, không để cho nhụt kém cái thú
dưỡng thân. Dưỡng thân: theo nghĩa triết học, là giữ cho bền khí chất không để cho
khí chất thay đổi theo ngoại cảnh mà sinh ra dục vọng.
- (3) Chén rượu ngon. Quỳnh tên một thứ ngọc
quý. Xuân: ở đây là danh từ dùng trang sức cho lời nói (mỹ từ pháp).
- (4) Chú thích: Ngõ hạnh. Cũng như "ngõ
mận", "cửa mận", danh từ chỉ nơi quyền quý, xem thêm chú thích
bài 22 trên
- (5) tiếng cổ, nghĩa: bảo cho...
- (6) Chú thích: "Thái bình thiên tử, thái
bình dân". Câu này ý nói: mong ước được sống trong cảnh thái bình, cả vua
và dân đều chung hưởng hạnh phúc.
- (7) Sợ. Câu này tác giả nói thoát ý câu tục
ngữ "Rút dây lại sợ động rừng".
24. Giới tham (Răn người có lòng tham)
Tượng trời(1) âu đã quá đồng cân,
Định cho ai, ắt có phần.
Muốn vô nhai(2), khôn lẽ được,
Ơn phi phận(3), khá đều phân.
Đủ no hay vậy, xin thong thả,
Sạo sục(4) làm chi, luống nhọc nhằn!
Nếu tham hơn thì phải thiệt,
Hãy ghi lời ấy để mà răn.
……………………….
- (1) Chỉ đồng tiền (được đúc tròn theo tượng
trời). Câu này ý nói: đồng tiền được đúc theo tượng trời, ắt cũng cân bằng,
không thiên lệnh.
- (2) Ý nói trong bụng quá tham, không biết thế
nào là bờ bến
- (3) Ơn huệ vốn không phải phần mình đáng được
hưởng
- (4) Tiếng cổ, nghĩa: nôn nóng, bồn chồn
25. Khuyến đãi bằng hữu (Khuyên đối xử với bạn)
Làm người dầu dã bạn cùng ai,
Chữ "tín" tua thìn chẳng chút sai(1).
Đừng có nồng chi rồi lại lạt,
Nếu mà thắm lắm ắt liền phai(2).
Chợ hàng, miễn nhớ tuồng chơi họp(3),
Rượu bạc, xin thôi sức ép nài.
Sắc ắt sơ(4) hằng cần đấy,
Yêu nhau nghĩa ấy mới bền dai.
…………………..
- (1) Câu 2 ý nói: chơi với bạn nên giữ chữ
"tín" cho trọn vẹn, chớ đơn sai. Tín là giữ đúng lời hứa, lời hẹn với
bạn, khiến bạn có thể tin cậy.
- (2) Trong quan hệ bè bạn, người xưa thường
nhắc câu: "Quân tử chi giao đạm nhược thuỷ" (tình bạn bè của người
quân tử thanh đạm như nước). Ca dao cổ cũng có
câu: "Xin ai đừng thắm, chớ phai, thoang thoảng hoa nhài mà lại thơm
lâu".
- (3) Câu 5 ý nói: làm bạn với nhau, đừng rủ rê
nhau ăn uống nay chợ mai hàng, bê tha, mất tư cách.
- (4) Viết thoát ý lời của Khổng Tử: "Bằng
hữu, sắc tư sơ hi" ý nói đối với bầu bạn, nếu mình can ngăn luôn luôn
(sắc) tất sẽ bị bạn xa lánh (sơ) - (Luận ngữ).
26. Khuyến đãi tông tộc (Khuyên đối xử với họ
hàng)
Dòng dõi suy ra cũng một nhà,
Xem ai hơn nữa họ hàng ta?
Đỡ đần đành cậy vây cánh,
Gửi thác(1) càng tin ruột rà.
Chẳng bỏ được nào, sao chẳng biết?
Nên gần cho lắm, há nên xa?
Cùng nhau bầu bí yêu thương lấy(2),
Chớ nỡ xem bằng khách tới qua(3).
………………………
- (1) Dịch chữ "ký thác". Câu thơ ý
nói: gửi gắm cái gì thì phải tin vào người thân thích ruột rà là hơn cả.
- (2) Câu này ý nói: anh em họ hàng thương yêu
lẫn nhau như tình bầu bí. Ca dao có câu "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy
rằng khác giống nhưng chung một giàn".
- (3)Tình họ hàng là phải thương yêu đùm bọc
nhau, cưu mang giúp đỡ nhau trong lúc hoạn nạn, chớ nên coi nhau như khách vãng
lai và đối xử với nhau gặp chăng hay chớ.
27. Khuyến huynh đệ vật cạnh tranh (Khuyên anh
em chớ tranh nhau)
Cùng đội sinh thành một cửa ra,
Anh em trời đã thực cho ta
Giúp nàn(1), chống rẻ cùng nương cậy,
Biết kính, hay yêu miễn thuận hoà.
Xui giục chớ tin lời vợ.
Yêu thương sá thấy lòng cha(2).
Chân tay(3) gẫm lại ai hơn nữa,
Tranh cạnh làm chi, lỗi phép nhà?
…………….
- (1) Giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn. Chống rẻ:
chống kẻ khinh thường anh em mình. Câu này ý nói: anh em phải giúp đỡ nhau
trong lúc hoạn nạn, và nương cậy nhau việc chống lại kẻ khinh rẻ ức hiếp mình.
- (2) Yêu thương sá thấy lòng cha: khi anh em
có chuyện xích mích nên nghĩ đến tấm lòng cha yêu thương tất cả, mà tìm cách
thuận hoà với nhau.
- (3) Người xưa thường nói: "Anh em như
tay chân".
28. Khuyên đời
Mảng chê người ngắn, cậy ta dài;
Hơn kém dù ai cũng mặc ai.
Mùi nọ có bùi không có ngọt;
Màu kia chày thấm lại chày phai.
Đã hay phận định đành an phận;
Dẫu có tài hơn chớ cậy tài.
Quân tử ngẫm xem cơ xuất xứ;
Ắt là khôn hết cả hoà hai.
29. Thú tiêu dao
Xóm tự nhiên, lều một căn,
Quét không thảy thả bụi hồng trần.
Nhìn hàng cam quất, con đòi cũ,
Mấy đứa ngư tiều, bô bạn thân.
Thấy nguyệt tròn thì kế tháng,
Nhìn hoa nở mới hay xuân.
30. Nhẫn thì qua
Chưa dể ai là bụt Thích Ca,
Mọi niềm nhân ngã nhẩn thì qua.
Lòng vô sự trăng in nước,
Của thảng lai gió thổi hoa.
Kìa khách xuân xanh khi trẻ,
Mấy người đầu bạc tuổi già,
Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách,
Ðược thú ta đà có thú ta.
31. Tiêu sái tự nhiên
Tiêu sái tự nhiên ắt nhẹ mình,
Nài bao quyền cả áng công danh.
Vô tâm ước có gương soi bạc.
Ðặc thú kho đầy gió mát thanh.
Trẻ dẩu biết cơ tạo hoá,
Già lo phục thuốc trường sinh.
32. Mùa thu đi chơi thuyền
Nước xuôi, nước ngược, sóng dâng triều,
Thuyền khách chơi thu, nọ phải dìu.
Chèo vượt bóng trăng nhân lúc hứng.
Buồm giong ngọn gió mặc cơn siêu.
Phơ phơ đầu bạc ông câu cá,
Leo lẻo giòng xanh con mát mèo.
Le vịt cùng ta như có ý,
Ðến đâu thời cũng thấy đi theo.
33. Nhân tình thế thái bài (?) (Thế gian biến
cải)
Thế gian biến cải vũng nên doi(1),
Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi.
Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử(2),
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi.
Xưa nay đều trọng người chân thực,
Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi(3).
Ở thế(4) mới hay người bạc ác,
Giàu thì tìm đến, khó tìm đi.
..........................
- (1)Ý nói ở nhân gian thường có sự thay đổi
ghê gớm cũng ví như sông sẽ thành núi, vũng sẽ thành doi cát. Có bản
chép là "đồi".
- (2)Chú thích: đệ tử Chỉ học trò, đầy tớ
- (3) Hoặc đãi buôi, có nghĩa: nói tử tế ở cửa
miệng, không thành thực
- (4) Ở đời
34. Nhân tình thếthái bài 04
Thấy dặm thanh vân bước ngại chen
Được nhàn ta sá dưỡng thân nhàn
Ba gian am quán lòng hằng mến
Đôi chốn sơn hà mặt đã quen
Thanh vắng thú quê giàu bao nả
Dữ lành miệng thế mặc chê khen
Mai kia chửa dễ thu nên muộn
Xuân nọ tin hoa cũng mấy phen.
35. Nhân tình thếthái
bài 07 (Nhẹ đường danh lợi)
Ðược thua thấy đã ít nhiều phen,
Ðể rẻ công danh đổi lấy nhàn.
Am Bạch Vân rồi nhàn hứng,
Dặm hồng trần vắng ngại chen.
Ngày chầy(1) họp mặt hoa là khách,
Ðêm vắng hay lòng, nguyệt ấy đèn.
Chớ chớ thờ ơ nhìn mới biết,
Ðỏ thì son đỏ mực thì đen.
................
- (1) Ngày muộn, ý nói suốt ngày.
36.Nhân tình thế thái bài 16
Chửa dễ ai là bụt Thích Ca
Mọi niềm nhân ngã nhẫn thì qua
Lòng vô sự trăng in nước
Của thảng lai gió thổi hoa
Kìa khách xuân xanh khi trẻ
Mấy người đầu bạc tuổi già
Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách
Được thú ta đà có thú ta.
37.Nhân tình thế thái bài 28
Nép mình qua trước chốn xôn xao
Mấy sự bên tai gió thoảng ào
Cửa trúc vỗ tay cười khúc khích
Hiên mai tréo cẳng hát nghêu ngao
Lo le đã vậy thời dầu vậy
Vặt vãnh màng bao sá quản bao
Chẳng hết trung cần hai chữ ấy
Nhờ ơn đất rộng cậy trời cao.
38. Nhân tình thế thái bài 36
Một bầu một bát vũng sơn tăng
Thế sự ngoài tai biếng nói năng
Hoa nở luống hay tin gió
Đầm thanh còn thấy dáng trăng
Già ai ủ thông làm củi
Trẻ người yêu trúc mọc măng
Nếu có công danh thì có lụy
Cho hay dù có chẳng bằng chăng.
39. Nhân tình thế thái bài 38 (Cảnh nhàn)
Một mai một cuốc một cần câu
Thơ thẩn dù ai(1) vui thú nào
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao(2)
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao(3)
………………..
- (1) Mặc cho ai, mặc cho ta. Tiếng ai là tiếng
tác giả tự nói mình.
- (2) Bao hàm ý hơi mỉa mai. Nói
"dại" nhưng thực ra tự cho là "khôn", và ngược lại. Giá:
thứ rau bằng mầm của hột đậu xanh ngâm ủ, mọc lên. Thơ ca dân gian có câu:
"Đậu ngâm nên giá, đãi đằng nhau chi".
- (3) Tác giả ý dẫn điển Thuần Vu Phần uống
rượu say nằm ngủ dưới gốc cây hoè, rồi mơ thấy mình ở nước Hoè An, được công
danh phú quý rất mực vinh hiển... Sau bừng mắt tỉnh dậy thì hoá ra đó là một
giấc mộng, thấy dưới cành hoè phía Nam chỉ có một tổ kiến mà thôi. Câu chuyện
nói lên quan niệm của người xưa cho cuộc đời toàn là chuyện hư ảo, hão huyền.
Phú quý chỉ là một giấc chiêm bao.
40. Nhân tình thế thái bài 40
Vòi vọi xuân xanh nửa tiền
Già càng khoẻ khó càng bền
Đòi phen lẩn luốt vì thơ dại
41. Nhân tình thế thái bài 46 (Mặc chê khen)
Thị phi chẳng quản, mặc chê khen,
Ngu dại chan chan tính đã quen.
Cảnh cũ điền viên tìm chốn cũ,
Mọi sự lờ đờ bởi rượu quen
Ngày vãn giải phiền cờ một cuộc
Đêm thanh làm bạn sách hai bên
Xưa nay xuất xử đâu là phải
Ở cũng nên về ắt cũng nên.
Khách nhàn sơn dã dưỡng thân quèn.
Nhà thông đường trúc lòng hằng mến,
Cửa mận tường đào bước ngại chen.
Thế sự tuần hoàn hay đắp đổi.
Từng xem thua được một hai phen.
42. Tử sự phụ mẫu (Con thờ cha mẹ)
Ngẫm đạo làm con ở rất nan(1),
Ở cho lọn đạo mới là ngoan.
Hay khi "ôn sảnh(2)" bề cung
dưỡng(3),
Siêng thủa "thần hôn(4)" việc hỏi
han.
Dầu giận hờn, càng kính thuận,
Vâng sai khiến, dám phàn nàn?
Chữ rằng: "Chưa dễ đền ơn nặng",
Lọ nỗi riêng tây theo thế gian?
………………
- (1) Khó khăn.
- (2) Do chữ: "đông ôn, hạ sảnh", nói
về bổn phận kẻ làm con chăm sóc cha mẹ. Khi đông về giá rét thì con lo cho cha
mẹ được ấm áp và khi hè đến nóng bức thì con lo cho cha mẹ được mát mẻ. Văn học
cổ dịch "ôn sảnh" là: quạt nồng, ấp lạnh.
- (3)Tìm thức ăn nuôi cha mẹ (cung cấp, phụng
dưỡng).
- (4) Do chữ "hôn định, thần tỉnh",
cũng nói về bổn phận kẻ làm con chăm sóc cha mẹ. Hằng ngày, cứ tối đến thì con
phải hầu cha mẹ cho yên giấc ngủ, và lúc buổi sớm ngủ dậy thì con phải thăm hỏi
xem cha mẹ có được yên giấc ban
đêm không.
43. Tự thán
Gần son thì đỏ, mực thì đen,
Sáng, biết nhờ ơn thuở bóng đèn.
Ăn uống miễn theo nơi phép tắc,
Tới lui cho biết lẽ kinh quyền(1).
Nên chăng, mặc thế(2) người lành dữ,
Tráo trở, khôn ai thói bạc đen(3).
Ở thế có khôn thì có khó(4),
Chữ rằng: "Vô sự tiểu thần tiên(5)".
………………………..
- (1) Kinh là đi theo đường thẳng, làm theo lễ
thường: quyền là quả cân, cân nhắc theo quả cân, linh hoạt tuỳ điều kiện.
- (2) Mặc đời.
- (3) Câu 6 ý nói: ăn ở tráo trở, bạc đen như
ai há có phải là khôn ngoan?
- (4) Dẫu khôn ngoan, cũng chẳng tránh khỏi có
lúc gặp khó khăn
- (5) Nghĩa chung của toàn bài là khuyên người
đời nên lánh xa những chốn xấu xa, xử sự đúng đạo đức, hợp lẽ kinh quyền để giữ
lấy cuộc sống yên ổn.
44. Tự thuật
Tuổi già ngoài tám mươi già,
Thấm thoát xem bằng bóng ngựa qua,
Mai bạc lạnh quen nhiều tháng tuyết,
45. Thế sự
Non Đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu;
Có một đàn xà đánh lộn nhau.
Vượn nọ leo cành cho sĩ bóng;
Cúc vàng thêm đổi mấy phen hoa.
Dẩu có phận là ơn chúa,
Ðược làm người bởi đức cha.
Am quán ngày nhàn rồi mọi việc,
Dầu ta tự tại mặc dầu ta.
Lợn kia làm quái phải sai đâu.
Chuột nọ lăm le mong cắn tổ;
Ngựa kia đủng đỉnh buớc về tàu.
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy,
Tìm về quê cũ khúc ngựa Tần.
46. Thế tục
Khôn dại nào ai chẳng có nghề,
Khó khăn phải luỵ đến thê nhi.
Được thì thân thích chen chân đến,
Thất thế hương lư ngảnh mặt đi.
Thớt có tanh hôi ruồi mới đến,
Sành không mật mở kiến bò chi ?
Đời nay những trọng người nhiều cuả,
Bằng đến tay không mấy kẻ vì!
47. Thói đời
Thế gian biến đổi vũng nên đồi
Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi
Còn bạc, còn tiền còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu hết ông tôi
Xưa nay đều trọng người chân thực
Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi
Ở thế mới hay người bạc ác
Giàu thì tìm đến khó tìm lui.
48. Thú ẩn dật
Một cơ yêu nhọc đổi lại đều,
Yêu bao nhiêu thì nhọc bấy nhiêu.
Tham phải án công danh luỵ,
Muốn cho con tạo trêu.
Vui vầy lạc xã năm ba khách,
Lánh chốn Nam Dương ở một lều.
49. Thú dưỡng thân
Mới phú quý bởi thời vận,
Tu luyện lâu bền thú dưỡng thân.
Hứng ý miệng ngâm câu quốc ngữ,
Giải phiền tay chuốt chén quỳnh xuân.
Ðường hoa chào khách mặt nhìn mặt,
Ngõ hạnh đưa người chân ngại chân.
Dầu có ai than thì sẽ nhủ:
"Thái bình Thiên tử, thái bình dân".
50. Thú thanh nhàn
Giàu mặc phận, khó dầu bì.
Ðọ thanh nhàn khá nhất bì.
Vếu váo câu thơ cũ rích.
Khề khà chén rượu hăng xì,
Trăng thanh gió mát là tương thức,
Nước biết non xanh ấy cố tri.
51. Vô sự là hơn
Hễ kẻ trêu người, kẻ phải lo,
Chẳng bằng vô sự ngáy o o.
Tay kia khéo nắm, còn hơn mở
Miệng nọ hay cười, có lúc ho
Có thuở được thời mèo đuổi chuột
Ðến khi thất thế kiến tha bò
Ðược thua sau mới ăn năn lại,
Vô sự thường hơn có sự ru.
52. Thú nhàn
Lẩn thẩn ngày qua lại tháng qua,
Một năm xuân tới một phen già.
Ái ưu(1) vằng vặc trăng in nước,
Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa(2).
Án(3) sách vẫn còn án sách cũ,
Nước non bạn với nước non nhà.
Cuộc cờ đua chí dù cao thấp,
Ta muốn thanh nhàn thú vị ta.
……………………….
- (1)Do chữ "ưu dân ái quốc", nghĩa
là lòng yêu nước thương dân bao giờ cũng trong sáng như vầng trăng in đáy nước.
Và đây cũng là một tư tưởng quán triệt trong nhiều bài thơ của tác giả sau này.
- (2) Chú thích: Danh lợi lâng lâng gió thổi
hoa. Coi danh lợi nhẹ thoảng (như gió thổi vào hoa), không đáng kể
- (3) Cái bàn dài. Có bản chép sai chữ Án ở câu
này là Yên, thứ gối dựa làm bằng gỗ, ở dưới có chỗ để sách; chép như vậy cũng
có nghĩa, mà âm điệu câu thơ lại êm hơn. Thật ra, hai chữ án và yên gần giống
nhau.
Phần II. Bạch Vân gia huấn
1.Bài mở đầu
Lượng Đức Thánh(1) rộng như biển cả,
Truyền dậy cho thiên hạ điều hay.
Làm điều thiện hưởng phúc dầy,
Bất nhân thất đức có ngày tiêu vong.
Mềm dẻo tốt hơn cương cường,
Lưỡi mềm còn mãi, răng thường gẫy đi.
Chớ cậy ta dài mà chê người ngắn,
Đừng dối lòng đừng oán đất trời.
Lặng im mà ngẫm sự đời,
Tình người thoang thoảng, vơi vơi thì bền(2).
Đừng quên bạn nghèo hèn xưa cũ,
Vợ cháo rau xin chớ phụ tình(3).
Vật ngon, ăn quá bệnh sinh,
Vui chơi quá mức, ắt thành tai ương.
Giàu sang lắm nhiều đường bổng lộc,
Cây tái trồng hẳn gốc bị thương.
Buổi sáng còn quốc ruộng nương
Biết đâu chiều đã công đường có khi(4).
Làm tướng đâu phải vì dòng dõi,
Thân nam nhi trí phải tự cường.
...........................
- (1)Khổng Tử được tôn là Đức Thánh
- (2)Tục ngữ có câu: Chóng thắm thì chóng phai
,Thoang thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu
- (3)Nguyên câu chữ Hán là: Tao khang chi thê
bất khả hạ đường ,Bần tiện chi giao bất khả
vong.
- (4)Công đường có khi: Nghĩa cũ là học giỏi đỗ
đạt cao thì được ra làm quan..
2.Hiếu hạnh
Đức hiếu hạnh là chương thứ nhất
Hãy suy xem sự thật ra sao
Trăm hay lấy hiếu làm đầu,
Vạn điều ác cũng khơi mào từ dâm(1)
Người siêng năng thêm nhiều tuổi thọ,
Kẻ chơi bời đa số chết non.
Sự đời chậm chắc thì hơn,
Tình người thoang thoảng thì hơn quá nồng.
Sự sang giầu nếu không đáng hưởng,
Cố hưởng, rồi cũng chẳng ra sao.
Dành sách cho con cháu là quý
Nhưng dễ đâu họ đã đọc cho.
Dành vàng cho họ đầy kho,
Chắc đâu họ đã giữ cho lâu bền.
Chi bằng tích đức liền liền,
Mới là cái kế lâu bền về sau
Hoạ hay phúc biết đâu là cửa
Do con người định cả đấy thôi.
Ngẫm xem quy luật đất trời,
Trồng đậu được đậu, dưa thời được dưa
Lưới trời rộng thưa, mà không lọt,
Không bao giờ bỏ sót chính tà.
Biết xấu thời tránh cho xa,
Biết lỗi sửa lỗi ấy là điều hay.
Trước khoan nhượng, sau dày quả phúc,
Trước mở mang, sau được phúc lành
Chớ chơi với kẻ bất minh
Của phi nghĩa chớ chiếm thành của ta.
Lòng chớ nghĩ gian tà, hiểm độc,
Chân đi không bước bậy, giẫm càn.
Nghe lời nói thẳng rõ ràng,
Thấy nơi chình nghĩa đường hoàng thì theo.
Chưa già đã hưởng lộc cao,
Hẳn rằng sau cũng mau mau hết đời.
Kẻ mưu mô hại người người hại
Nuôi hận thù thì mãi không thôi
Người quân tử chẳng hoài hơi,
Chẳng cần lý sự tránh lời hơn thua.
Có bệnh, biết phòng ngừa bệnh tật,
Thì con người chắc hẳn sống lâu.
Có việc, biết bảo ban nhau,
Cửa nhà yên ấm, bền lâu tình người.
Lấy vợ đâu kén đẹp người.
Được người hiền đức thì đời mới vui.
Mối quan hệ với người thân quyến,
Dù xa gần năng đến thăm nhau,
Quan chức chẳng cứ thấp cao,
Thanh liêm, cần mẫn, dân nào chẳng yêu.
Tình bạn bè giúp nhau mới đẹp,
Chớ có vì nhau nhẹt thân chơi.
Ngọc là vật quý ở đời
Cháu con hiếu thảo sáng ngời là phong.
...............................
- (1)Chú thích: dâm. Dâm không chỉ có nghĩa là
dâm dục, dâm ô, dâm đãng, dâm loạn... mà còn có nghĩa phàm những cái gì quá lắm
đều gọi là dâm như ăn chơi xa hoa quá đáng.
3.Chức phận làm con
Phận làm con phải thông đạo hiếu,
Phận làm dân phải hiểu chữ trung.
Trên ra lệnh, dưới phục tùng,
Cha làm việc tốt, con cùng làm theo.
Của cải nhiều dùng lâu cũng hết,
Chữ hiếu trung hưởng mãi vô cùng.
Bàn mưu tư lợi thì đừng,
Bàn điều chânchính,nên cùng tham gia.
Làm tốt chớ ba hoa kể lể,
Dạy điều thiện, đừng nên tham quá,
Để người học có khả năng theo
Khoan hòa sẽ được tin yêu,
Siêng năng cần mẫn ắt nhiều thành công.
Nói thận trọng thì không sợ lỗi,
Làm thận trọng đỡ hối về sau.
Thế lực dù mạnh đến đâu,
Nếu đem dùng hết, ắt sau hại mình.
Hoặc cậy thế tạo thành phúc lộc,
Hẳn rằng sau cũng chẳng ra gì.
Cứ đường chính đạo mà đi,
Hiếu,Trung,Nhân,Nghĩa nghĩ suy mà làm.
Hoa sớm nở, thì hoa dễ sớm tàn.
Cẩn thận đáng giá ngàn vàng,
Phải suy nghĩ kỹ hãy làm mới hay.
Người tốt hay xắn tay làm phúc,
Giúp ai không lợi dụng người ta.
Người biết lỗi, sửa thì tha,
Trị người có tội, chớ mà quá nghiêm.
4.Nói về giàu sang
Bài thứ ba bàn sự giàu sang
Giàu với sang ai chả ước mong,
Nhưng giàu sang chẳng chính công,
Là phi đạo đức, hẳn không lâu bền.
Ai sống kẻ nghèo hèn cũng chán,
Nhưng bất lương đuổi hẳn chẳng đi.
No cơm hẩm thiết gì thịt cá,
Vui cảnh nghèo, quên cả giàu sang.
Người quyền quý, lắm bạc vàng,
Lấy gương xử với họ hàng mà soi.
Ở phải đạo, nhiều người giúp đỡ,
Sống bất lương, ít chỗ thân tình.
Thà nghèo giữ được thơm danh,
Hơn giàu lắm chuyện phẩm bình, cười chê.
Bọ ngựa rình con ve định bắt,
Chim sẻ rình bọ sát phía sau…
Tiếng tăm lừng lẫy càng nhiều,
Tránh xa kẻ xấu sinh điều ghét ghen.
Nhiều tài cũng lắm phen khốn khổ,
Nhiều công là cái hố suy bì.
Nhớ rằng đừng cậy, chẳng khoe (1),
Phải luôn thận trọng chớ hề phô trương.
Nói với bạn việc ngay ý thẳng,
Phải người tham họ chẳng nghe đâu.
Nói với quan chuyện thanh cao,
Phải quan tham nhũng hẳn sau nó trù.
...................................
- (1)Truyện Kiều có câu: "Có tài mà cậy
chi tài ,Chữ tài liền với chữ tai một vần".
5. Đại nghĩa
Bài thứ tư nêu câu Đại nghĩa
Dạy cho người ta biết để khuyên nhau.
Trung với nước đặt lên hàng đầu,
Đạo cha con được xếp vào đại luân.(1)
Trai tài biết thương dân, thủ tiết,
Gái kiên trinh phải biết giữ mình.(2)
Con dânthường chăm ngoan học giỏi,
Cũng có ngày tiến tới làm quan,(4)
Con quan chẳng chịu học hành,
Suốt đời cũng chỉ làm anh dânthường.
Làm quan chức, thấm ơn chế độ,
Có nuôi con, mới nhớ được công cha.
Muốn lòng ngay thẳng thật thà,
Rèn luyện ý trí phải là đầu tiên.
Người tài nước được thơm danh,
Vợ giỏi như được ngọc lành trời cho.(3)
Gái bất chính thì cho chẳng lấy,
Trai có tài mắc bẫy thì ngu.
Bất trung dễ mắc mưu thù,
Minh quân như mù mới lấy làm quan.
..........................
- (1) Hai câu này nguyên chữ Hán là: "Quân
thần thiên địa đại nghĩa, Phụ thử nhân đạo đại luân."
- (2) Hai câu này nguyên chữ Hán là: "Sĩ
phu thủ tiết, nữ tử thủ thân"
- (3) Hai câu này nguyên chữ Hán là:
"Thiệp nhân quốc chi bảo, hiệu phụ gia chi trân"
- (4) Nhân sinh quan cũ ngày xưa là chăm ngoan
học giỏi để thi đỗ ra làm quan. Vận dụng ngày
nay là chăm ngoan học giỏi để trở thành quan
chức lãnh đạo hoặc chuyên gia giỏi ở các nghành
các cấp phục vụ Tổ Quốc và nhân dân"
6. Chí thiện
Bài thứ năm: Tâm linh chí thiện
Mong tốt lành mọi chuyện công tư.
Rất vui là đọc thi thư,
Việc đời mệt nhất ấy là dậy con.
Cha nghiêm phụ răn con hiếu thảo,
Mẹ nhân từ dạy bảo gái ngoan.
Nhà lành hương toả chi lan,
Ở lâu chẳng thấy mùi thơm ngạt ngào.
Gần kẻ ác như vào chợ cá,
Buộc người ta quen cả mùi tanh.
Có nết tốt chẳng kiêu căng,
Đức dày thêm mãi tạo thành thói quen.
Giàu chớ kiêu chớ nên ích kỷ,
Sang cũng đừng xa sỉ, hợm đời.
Việc làm muốn tốt tuyệt vời,
Ba lần căn nhắc hẳn hoi mới làm.
Suy tính kỹ bao hàm hai ý:
Việc chung riêng thấu lý đạt tình.
Từ xưa vẫn sợ, vẫn kinh,
Lòngngười nham hiểm nảysinh khó lường
Kẻ tiểu nhân mưu đồ xảo quyệt,
Sinh sự thì bận tâm mệt sức,
Nên nhún nhường tạo Đức thì hơn.
Việc chuẩn bị kỹ hãy làm,
Việc không chuẩn bị chớ tham làm bừa.
Bao kinh nghiệm từ xưa đã thấy,
Sai một ly đi mấy dặm đường.
Quả quyết được việc lẽ thường,
Đắn đo hỏng việc, ấy gương ở đời.
Sắc chẳng mê người, chính người mê sắc,
Rượu chẳng say người, chỉ tại người say.
Đừng nên vui quá nói chầy,
Chớ vì sướng quá vung tay làm liều.
Quý chim phượng bởi yêu lông cánh,
Trọng người hiền ở cách nói năng.
Gặp khi hoạn nạn khó khăn,
Hành vi tế nhị, nói năng lựa lời.
Mười mắt rồng và mười tay trỏ
Thật công minh sáng tỏ sâu xa
Quả đào người quý tặng ta,
Ta lấy quả mận đem ra biếu người.
Cung nỏ lạ chớ cầm mà khốn,
Thích mưu đồ tiêu diệt người ngay.
Cho dù hiểm độc, quắt quay,
Không qua lẽ phải, chẳng xoay đạo trời.
Kẻ bất nhân nhất thời nổi tiếng,
Không người thì trời diệt chẳng tha
Tự nhiên được của đầy nhà,
Một là lộc lớn, hai là họa to
Có lúc bại, trời cho thắng cuộc,
Hoặc đang nghèo bỗng được giầu sang.
Thế gian yêu lắm ghét nhiều,
Khen nhiều chê lắm, bao điều bất an.
Mừng nhiều lo lắm chẳng oan,
Vinh nhiều nhục lắm,thế gian thường tình.
Đừng cậy thế mà sinh kiêu ngạo,
Chớ cậy quyền để tạo lợi riêng.
Làm một điều thiện cũng nên,
Trừ một việc ác quả nhiên rất cần.
Ngựa chẳng quen, chớ cưỡi mà ngã.
Qua ruộng dưa chớ sửa giầy,
Dưới gốc mận chớ giơ tay sửa đầu.
Coi chừng chốn cửa cao nhà rộng,
Đừng cậy rằng tông tộc mình to.
Họ to lắm chuyện tò mò,
Cửa cao thường giở những trò kiêu căng.
Người tốt, chơi nói năng chân thật,
Kẻ xấu, chơi như mật chết ruồi.
Người tốt bền chí thức thời,
Khó khăn thuận lợi vẫn nuôi chí bền.
Kẻ xấu thường van xin lúc khó,
Được việc rồi thì nó quên luôn.
Mới hay muôn sự vui buồn
Những điều chí thiện phải luôn ghi lòng.
7. Thiện ác
Bài thứ sáu: Hai dòng Thiện–Ác
Là hai điều thật khác nhau xa
Trăm năm trong cõi người ta,
Dở, hay báo ứng, thật là công minh.
Báo ứng có khi nhanh, khi chậm,
Nhà tối, nghèo nào dám coi khinh.
Việc làm phúc nếu vô tình,
Như tuồng lánh nạn, đáng khinh khỏi bàn.
Kẻ bạo ngược mưu toan việc xấu,
Bịp được người sao giấu được trời
Vầng dương mọc lặn luân hồi,
Mặt trăng tròn khuyết, đầy rồi lại cong.
Tình người cũng tụ, xong lại tán,
Buồn lại vui, vui chán lại buồn.
Cỏ hoa sớm nở tối tàn,
Cây tùng cây bách muôn ngàn sức xuân.
Mỗi ngày xét bản thân ba lượt(1)
Đêm nhiều người sẽ biết cho ta.
Số trời vốn sẵn định ra,
Giàu sang có mệnh, vinh hoa có ngày.
Hoa nở muộn do cây cằn cỗi,
Đời chưa vui, bởi nỗi khổ nghèo.
Cháy nhà có nước liền dễ chữa,
Láng giềng cần giúp đỡ lẫn nhau.
Tình đời lắm chuyện thương đau,
Anh em để mẩt lòng nhau thật buồn.
Người xưa bảo: thói quen thường vẫn vậy,
Đàn bà thì khó dạy khó chiều.
Quân tử phép chẳng cần theo,
Tiểu nhân chẳng chấp những điều lễ nghi.
Thấy ai có vật gì quý giá,
Chớ lân la tán gạ, nài xin.
Công việc nào quá khó khăn,
Đừng buộc người khác phải lăn vào làm.
Muốn trách người, phải xem mình trước.
Nếu tha mình, tha được người ta.
Đứa bất chính, kẻ gian tà,
Kết thân với chúng dễ mà tàn thân.
Không minh bạch miếng ăn lời nói,
Là nguyên nhân cái tội hại mình.
Lúc trẻ lao động nhiệt tình,
Khi già cuộc sống gia đình thảnh thơi.
Trẻ mà lêu lổng chơi bời,
Về già chắc hẳn cuộc đời gian truân.
Của cho con đâu cần vàng ngọc
Mà cho con được học được hành.
Giàu sang, khách đến thăm nhiều,
Nghèo hèn, thân thích ra chiều cách ly.
Lúc dư dật, phòng khi túng thiếu,
Khi sướng vui, phải liệu khi buồn.
Một nhà nề nếp cương thường,
Cha từ, con thảo, đẹp gương vợ chồng.
Tình anh em: thuận lòng nhân ái,
Nghĩa bạn bè qua lại giúp nhau.
Người con phòng lúc ốm đau.
Chứa thóc phòng đói là câu chí tình.
Giúp người gặp cảnh tình nguy cấp,
Hoặc cứu người trong lúc gian nguy.
Có mới đừng nới cũ đi,
Tiếng nói một nẻo, bụng suy một đằng.(2)
Chớ có lành bắt vành ra méo,
Đừng làm cho bé xé ra to.
Một chút tà tất quanh co,
Người ta sẽ tỏ các trò quắt quay.
Lời không cánh mà bay khắp ngả,
Đạo đức cao thì gốc cả, rễ sâu.(3)
Ngọc vết mài chẳng khó đâu,
Nói sai, biết sửa bao lâu mới lành.
Lời đã nói bay nhanh hơn gió,
Bốn ngựa phi cũng khó đuổi theo.(4)
Khinh người là thói tự kiêu,
Người ta khinh lại, đời nào chịu thua.
Tự khen mình mà chê người hỏng,
Thì người ta có trọng gì mình.
Hãy suy Thiện–Ác, Nhục–Vinh
Ở sao có nghĩa có tình thì hơn.
Việc gia thất muốn yên mọi sự
Mỗi người nên biết xử phận mình
Đừng mưu lấy của bất minh
Chớ ghen ghét với người mình còn thua.
Vợ người ta chớ đùa cợt nhả,
Đừng gièm pha quấy phá hôn nhân.
Một năm có một mùa xuân,
Mỗi ngày chỉ một giờ dần đầu tiên.(5)
Cho muôn khoảnh ruộng tốt xanh,
Chẳng bằng cho chúng nghề lành trong tay.
Mộng làm giầu thường hay thất đức,
Làm điều nhân khó được giầu sang.
Thuốc hay khó chữa bệnh oan,
Của nhặt được khó mở mang giầu bền.
Bất nghĩa mà trở nên phú quý,
Như mây bay bọt khí nổi trôi.
Phúc do trong sạch lòng người,
Đức từ kiên nhẫn sống đời yêu thương.
Tham lam lắm tất vương tai họa,
Sống bất nhân tội chả thoát đâu.
Tiểu nhân chẳng giúp ai đâu,
Bởi trong lòng họ, như đầu mũi kim.
Chỉ gai góc rắp tìm mưu kế,
Cốt hại người để mong lợi mình.
Người quân tử có bất bình,
Liệu mà xa lánh, kẻo sinh hận thù.
Tình người khác chi tờ giấy trắng,
Như cuộc cờ vốn chẳng giống nhau.(6)
Khéo mà ứng xử với nhau,
Đừng làm ai đó phải chau đôi mày,
Chớ mạt sát day tay mắm miệng,
Để người ta phải nghiến hàm răng.
Ngựa gầy nên kém chạy hăng,
Người không hồ hởi phải chăng vì nghèo.
Sẵn tiền, rượu thì nhiều bạn đấy,
Lúc lâm nguy nào thấy một ai.
Luật trời báo ứng chẳng sai,
Không trước mắt, cung lâu dài chứng minh.
- (1) Câu này nguyên chữ Hán là: "Ngô nhật
tam tỉnh ngô thân"
- (2) Nguyên chữ Hán là: "Vật đắc tồn nhi
vong cổ ,Vật khẩu thị nhi tâm phi"
- (3) Nguyên chữ Hán là: "Đạo hữu căn viễn
cổ, Ngôn vô dực trường phi"
- (4) Nguyên chữ Hán là: "Nhất ngôn ký
xuất, tứ mã nan truy"
- (5) Nguyên chữ Hán là: "Nhất niên tri kế
tại ư xuân ,Nhất nhật ư kế tại ư dần", Ý nghĩa răn dạy
phải có kế hoạch tốt ngay tại thời điểm khởi
đầu của một năm một ngày
- (6) Nguyên chữ Hán là: "Nhân tình tự
chỉ, trương trương bạch ,Thế sự như kỳ, cục cục tân"
8.Tích thiện
Bài thứ bẩy khuyên luôn tích thiện,
Chứa điều lành như mặt trời lên.
Rất vô tư, rất tự nhiên,
Sáng soi muôn nẻo chẳng phiền đến ai.
Chứa điều ác là tai họa đấy,
Lửa trên đầu nào thấy mà lo.
Chuyện ác dù chẳng nói to,
Trên trời rung động tự hồ sấm vang.
Việc mờ ám tưởng không ai biết,
Nhưng mắt thần như điện sáng soi. (1)
Giầu sang đúng phận thì thôi,
Nghèo hèn xử sự đúng môi trường nghèo.(2)
Suy từ ta ra nhiều người khác,
Khoe điều lành, điều ác giấu đi.
Thấy ai làm ác điều gì,
Khéo can ngăn, hoặc nghoảnh đi chớ nhìn.
Chuyện người khác không đem đàm tiếu,
Mặc người ta, mạnh, yếu, giở, hay.
Nói nhiều nghe cũng chán chầy,
Khuyên nhiều sinh oán, bấy nay lẽ thường
Khi yêu cũng nên lường lúc ghét,
Lúc ghét nên nhớ đến khi yêu.
Việc làm, lời nói, ít nhiều,
Phải nên hướng thiện, phải theo phận mình.
………………………………..
- (1) Nguyên chữ Hán là: "Nhân gian tục
ngữ,Thiên văn nhược lôi;ám thất khi tâm thần mục như điện"
- (2) Nguyên chữ Hán là: "Tố phú quý hành
hồ phú quý. Tố bần tiện hành hồ bần tiện"
9.An phận
Giữ yên phận là bài thứ tám
Đừng để người đụng chạm đến ta
Biết lo tính, biết phòng xa,
Khoan dung ngay thẳng hẳn là sống lâu.
Nước chân chính, lòng trời cũng thuận,
Quan thanh liêm dân hẳn yên lòng
Vợ hiền là phúc nhà chồng,
Các con hiếu thảo thì lòng cha yên.
Dẫu có tài giỏi chớ nên khoe khoác,
Nhiễu sự sao bằng được an nhàn.
Bốn mùa ấm lạnh xuềnh xoàng,
Nói năng thận trọng rõ ràng được yên.
Của dễ được tất nhiên dễ mất,
Được vất vả thì mất khó khăn.
Làm thong thả việc chắc ăn
Việc đời muôn sự khó khăn ban đầu.
Người xưa nói những câu triết lý:
Vào núi bắt hổ dễ như chơi,
Còn khi mở miệng dạy người,
Khó khăn nhiều lắm, liệu lời đắn đo.
Quân tử cần ăn no uống đủ,
Không cầu kỳ cốt giữ bình yên.
Trò tìm thầy học dễ tìm,
Thầy tìm trò tựa mò kim đáy hồ.
Việc chia chác chẳng lo ít ỏi,
Chỉ đáng lo cái tội không đều.(1)
Không lo hoàn cảnh túng nghèo,
Chỉ lo xã hội nhiều điều bất công.
Quá nham hiểm bởi lòng tham lắm.
Quá nhẫn tâm lòng hẳn quá tàn.
.................................
- (1) Nguyên chữ Hán là: "Bất hoạn quả nhi
hoạn bất quân ,Bất hoạn bần, nhi hoạn bất an"
10. Đại đạo
Giữ đại đạo là bài thứ chín,
Lấy chữ “Trung” chữ “Tín” làm đầu.
Người quân tử đạo đức cao,
Không kiêu thái, giữ trước sau chan hòa.
Khi cần giúp người ta việc gấp,
Chẳng chọn ngày, đừng bấm ngón tay.
Người được ta cũng mừng thay,
Người đau, thông cảm đắng cay cho người.
Nói thao thao ngàn lời tươm tất,
Cũng không bằng việc thật đã làm.
Kiếm lời chê trách nhân gian,
Chính là chuốc lấy mối oan hại mình.
Ta giúp người chân tình độ lượng,
Là góp điều làm phước đáng tin.
Trăm nghe không bằng một nhìn,
Một việc thực tế hơn nghìn lời suông.
Việc trời đất cũng thường thay đổi,
Sáng gió mưa, chiều đã đẹp trời.
Giống như cuộc sống một con người
Sáng chiều, may rủi đầy vơi chuyển vần.
Có việc đối với ta như thế
Nhưng với người đâu rễ giống ta
Khi lời nói trái phát ra,
Tất nhiên cái họa cũng sà vào theo.
Của phi nghĩa đưa vào cửa trước,
Nó cũng tìm đường bước lối sau.
Đừng làm những chuyện không đâu
Chớ tham của lạ để sau bận lòng
Việc đừng quá lao tậm cật lực,
Nên đắn đo vừa sức thì làm,
Không lười biếng chẳng tham lam
Học điều Đại đạo – để làm thực tâm.
11.Độc thư
Bài thứ mười khuyên cần đọc sách,
Sách là thầy dạy mách cho ta.
Bao điều đạo lý sâu xa,
Văn minh khoa học bao la đất trời.
Ham đọc sách thì trời chẳng phụ.
Có chí bền ắt sẽ làm nên. (1)
Mẹ cha vui bởi con hiền,
Gia đình hòa thuận đẹp yên mọi phần
Đạo đức cao, quỷ thần nể sợ,
Được mọi người giúp đỡ tin yêu.
Thấy việc thiện hãy làm theo,
Biết lỗi sửa lỗi là điều đáng khen
Cách đối xử phải nên suy xét,
Đừng cạn tình trái nết – mất lòng.
Muốn nhanh vội việc khó xong,
Ham lợi nhỏ việc lớn không hoàn thành.(2)
Tre uốn mạnh chẳng vênh cũng gẫy,
Chó cắn càn bởi thấy cùng đường.
Đánh chuông chuông tất kêu vang,
Người quá uất ức sẵn sàng đấu tranh.
Chớ nên hám lợi hám danh,
Ít ham muốn mới yên lành bền lâu.
.......................
- (1) Chú thích: Có chí bền ắt sẽ làm nên.
Nguyên chữ Hán là: "Độc thư thiên bất phụ ,Hữu chí sự cảnh thành"
- (2) Nguyên chữ Hán là:
"Dục tất bất đạt,
Kiến tiểu lợi tắc đại sự bất thành"
12.Do mệnh
Bài mười một dạy câu số mệnh
Mọi điều đều do tiền định cả rồi.
Giầu sang cũng bởi tại trời,
Công danh có mệnh, có thời dở hay.
Đồ ăn uống xưa nay sản xuất.
Cũng đều do trời đất khởi sinh.
Người khôn làm đúng phận mình,
Tiểu nhân mạo hiểm hiếu danh, khoe tài.
Nói thẳng thường trái tai chẳng thích,
Hãy xét suy, có ích hãy làm.
Ở đời lắm thói đa đoan,
Thuốc đắng giã tật, thế gian tỏ tường.
Thấy người tốt chớ nên xem thường,
Hãy nghiêm suy ngẫm tìm đường mà theo.
13.Thành sự
Bài mười hai lo toan sự nghiệp
Muốn thành công phải biết lo xa.
Mưu sự là ở người ta,
Thành công tốt đẹp suy ra tại trời.
Có trường hợp ở nơi nguy bại,
Được trời phù nên lại thắng to.
Hoặc khi tai nạn gay go,
Gặp may lại được trời cho an toàn.
Có đức mà nghèo hèn cơ cực,
Hẳn là do nghiệp chướng từ lâu.
Bất lương mà được giầu sang,
Chắc là kiếp trước bắc cầu thiên duyên.
Không thuốc nào chữa bệnh khanh tướng thọ,
Có tiền đâu mua được con hiền.
Vợ ngoan chồng chẳng ưu phiền,
Có con hiểu thảo cha yên cõi lòng.
Bởi uống say, nói không tử tế,
Vì tiền tài, huyunh đệ từ nhau.
Nên xuống ngựa lúc qua cầu,
Có đường bộ chớ rủ nhau đi thuyền.
Áo trắng thì bụi đen dễ dính,
Khó an toàn bởi tính kiêu căng.
Lòng người hiểm hơn núi rừng,
Hãy suy luận, để coi chừng đó nghe.
Nếu phận nghèo thì nên nghèo trước,
Chớ dã tâm, bạo ngược khởi đầu.
Biết mệnh là bởi hiểu sâu,
Sống yên vô sự khác nào thần tiên.
Muốn sống lâu phải rèn luyện tốt,
Từ lao động ăn uống thuốc men…
Giữ gìn chừng mực cho quen,..
Một ngày vui khoẻ là tiên một ngày.
“Bọ ngựa bắt con ve tưởng bở
Sẻ lại rình bọ ngựa kề bên;
Người săn tặng sẻ mũi tên;
Hổ lang rình sẵn xông lên vồ người.
Hổ đắc ý lên rồi định biến,
Ngờ đâu xa xuống giếng mạng toi!
Mới hay mạnh yếu ở đời,
Nhãn tiền báo ứng rạch ròi phân minh”
14.Trí giả
Bài mười ba dạy điều trí giả.
Bậc trí giả trọng mình hơn hết,
Bởi học nhiều hiểu biết càng sâu.
Chẳng cần đấu lý với nhau,
Chẳng cần đấu lực, đối đầu với ai.
Giữ danh dự trong ngoài kính nể,
Bảo vệ cho thân thể an toàn
Biết tự kiềm chế thì yên.
Không bị nhục cũng chẳng phiền đến thân.
Có những chuyện người trần khó biết,
Mà trời cao nghe thấy mọi điều.
Bảo rằng lỗi nhỏ chẳng sao,
Nhiều lỗi góp lại lớn lao khó lường.
Một mình chớ đi đường nguy hiểm,
Thuyền chở tham sinh chuyện đắm đò.
Chuyện người ta chớ tò mò,
Có trách thì trách lỗi to của người.
Thù oán cũ thì thôi quên tuột
Trước khoan hòa sau được điều hay.
Yêu đừng yêu quá đắm say.
Ghét đừng ghét đắng ghét cay sinh thù.
Có người chẳng được như ý muốn,
Nên bảo ban đại lượng thì hơn.
Trọng danh tiết như Thái sơn,
Người không thì chẳng giản đơn việc nào.
Giàu sang chẳng tự cao cậy thế,
Nghèo hèn không luồn lụy cúi đầu.
Kẻ vụng chẳng thấy việc đâu.
Người khéo thì việc bù đầu, luôn tay.
Bậc trí giả trước đây đúc kết
Ta nên tìm học biết mà theo
Luật ông Tiêu Hà dạy sáu điều
Lễ, ông Phu Tử cũng nêu ba phần.
15. Minh châu
Ngọc Minh châu là thiên mười bốn
Ngợi ca đức khiêm tốn sáng trong.
Ngọc là vật quý vô cùng,
Minh châu nổi sáng trong vùng tối tăm.
Ngọc muốn đẹp phải năng mài giũa,
Cố nâng niu gìn giữ kẻo hoài.
Trời cho ta tấm hình hài,
Phải lo tự giác mà bồi bổ thêm.
Con hay, cha chớ nên khen,
Cha mắc lỗi, con chớ nên nói nhiều.
Thành công chẳng được tự kiêu,
Hưởng phúc, càng phải biết điều đừng tham.(1)
…………………
- (1) Nguyên chữ Hán là: "Thành công bất
dĩ tự căng, Thụ phúc khả thái hoá"
16.Học vấn
Bài mười lăm răn đường học hỏi.
Có tư duy mạnh giỏi hơn người.
Trước là đẹp đạo đất trời,
Sau là xây dựng tình người đẹp hơn.
Hiếu với cha thời con hiếu lại,
Kính trọng người người lại trọng ta.
Chớ tin những thuyết tà ma,
Nó làm chìm đắm xấu xa lòng người.
Người xưa bảo tiền tài – phấn đất,
Nghĩa nhân kia mới thật là ngàn vàng.
Đường dài thử sức gian nan,
Sống lâu mới biết ruột gan tình người.
Biết giữ phận thì đời nhàn hạ,
Không gian tham tai họa khó vào.
Vận đen vàng hóa ra thau,
Vận đỏ sắt cũng ra màu vàng tươi.
Rượu trắng nhuốn đỏ mặt người
Bạc vàng dễ nhuộm lòng người tối đen.(1)
Nghèo giữa chợ ai thèm thăm hỏi,
Giàu trên rừng có khối người thương.
Vẽ hổ khó vẽ bộ xương,
Biết người biết mặt khó lường lòng ai.
Không đáng sợ sức hai con hổ,
Chỉ sợ người ăn ở hai mang
Sống đại lượng phúc huy hoàng.
Mưu sâu tai họa ắt càng thêm sâu.
Vợ chồng hiệp sức nhau bàn bạc,
Có tiền mua nhiều lạng vàng dòng.
Vợ chồng ăn ở khác lòng
Có tiền đâu dễ sắm cùng cái kim
Trị nhà như cầm cương ngựa dữ,
Trị nước như dạo thử cung đàn.
Cho nên học hiểu và làm,
Lẽ trời với lẽ dân gian hài hòa,
Muốn xây phú quý vinh hoa,
Cái nền học vấn phải là đâu tiên.
.......................
- (1) Nguyên chữ Hán là: "Bạch tửu hồng
nhân diện, Hoàng kim hắc thế tâm"
17.Tu đức
Bài mười sáu thường xuyên tu đức,
Phải chuyên tâm nỗ lực hàng ngày.
Học rồi thực tế làm ngay,
Rút ra kinh nghiệm dở hay sự tình.
Tu đức tốt tướng sinh ra tướng,
Con thảo hiền sinh được cháu ngoan.
Nhà nghèo nhờ vợ đảm đang,
Nước loạn cầu tướng giỏi giang, trung thành.
Âm dương hòa không sinh lụt bão,
Vợ chồng hòa thì đạo nhà nên.
Tránh điều nghi kỵ hờn ghen,
Bốn đức tính Công, Dung, Ngôn, Hạnh,
Người đàn bà gánh nặng lo toan.
Đừng kiêu sa, chớ lăng loàn,
Đừng ghen ghét chớ giận hờn với ai.
Gái yêu chồng đẹp vui mọi vẻ,
Giúp chồng nuôi con khỏe con ngoan.
Dựng xây tôn thống họ hàng,
Sáng trong như ngọc, nết càng đẹp ra.
Khi lòng dục dâm tà đã mở,
Quên yêu thương bỏ cả lễ nghi.
Nết hư dù chỉ một ly,
Tiếng tăm đồn đại bay đi khắp vùng.
Đàn bà tiếp khách phải nên nhớ rằng:
Cử chỉ đẹp, nói nhẹ nhàng,
Khi đưa tiễn khách xin đừng quá chân.
18.Cát nhân
Rèn người tốt là chương mười bẩy,
Sống nhân từ ai nấy mến thương.
Trời cho Phúc, Lộc, Thọ trường,
Sống vui thanh thản đời thường gặp may.
Cha dạy con từ khi còn nhỏ,
Chồng khuyên vợ từ khi mới về.
Không quá vui đến đam mê.
Bài bạc, nghiện hút, rượu chè, gian dâm.
Tình dục chớ tham lam buông thả,
Sức suy tàn rệu rã, ai thương.
Của quý chớ có phô trương,
Bạc vàng phải khóa trong dương trong hòm.
Buồng the chớ để ai nhòm
Của còn nguyên vẹn, tình còn dài lâu.
19.Lương tài
Bài mười tám răn chữ lương tài
Lương là đạo cao đức trọng
Có lương tài chết sống thơm danh.
Người tài lành có bạn lành,
Người ác bạn ác kết thành tai ương.
Người lương tài nên thường nói thẳng,
Kẻ xấu xảo nịnh chẳng thương yêu.
Người lành nói ít làm nhiều,
Tiểu nhân múa mép, lắm điều ba hoa.
Người lành không gian tà uẩn khúc,
Hành động luôn chính trực, phân minh.
Kiệm cần có lý có tình,
Để không mang tiếng rằng mình kiêu sa.
Vụng may áo gấm cũng hỏng,
Làm bậy thì phá hỏng cơ ngơi.
Biết ít thì sống thảnh thơi,
Biết nhiều lắm chốn, lắm điều thị phi.
Người giúp việc cần chi đẹp xấu,
Cần chọn người trung hậu, chăm ngoan.
Lòng người, nọc rắn khó phân,
Mặt trời ai biết chuyển vần như xe.
Của xóm Đông lấy về hôm trước,
Đến hôm sau nó ngược xóm Đoài
Việc hôm nay, việc ngày mai.
Hãy đem hai chữ Lương Tài mà xem.
20.Lập thân
Bài mười chín dạy đạo lập thân.
Đạo lập thân muốn bền muốn vững,
Phải khôn ngoan trong cứng ngoài mềm,
Phúc nhà thuận dưới kính trên,
Kiệm cần kiên nhẫn là nền trị gia,
Làm quan phải giỏi và liêm khiết,
Cẩn trọng luôn và biết thương dân.
Mới hay bí quyết lập thân,
Kiên trì: Liêm chính kiệm cần thì nên.
21. Thịnh đức
Bài hai mươi là thiên thịnh đức
Một số điều đã được rút ra.
Người thực tài chẳng ba hoa,
Thường khi dung mạo cứ là như ngây.
Có ruộng không cấy cày thì đói,
Có sách không học hỏi thì ngu.
Trai không dạy, khác chi lừa,
Gái ngu thì cũng giống như lợn sề.
Trai sợ vợ bởi vì nhu nhược,
Gái kính chồng vì được nết ngoan.
Phải dè xẻn bởi thiếu ăn,
Sống xa xỉ bởi nguyên nhân của thừa.
Vừa lười nhác, lại vừa ngu xuẩn,
Thì giầu sang đâu đến mà mơ.
Hay đến thân cũng thành sơ,
Ngồi dai chủ chẳng bao giờ thích đâu.
Uống rượu đấu khẩu nhau ít chứ,
Mới là người quân tử phòng thân.
Thóc tiền sòng phẳng đồng cân,
Mới là đức độ, tinh thần trượng phu.
Con cá bị giật lên bờ
Có hối cũng chẳng bao giờ được tha.
Làm việc xấu đã sa pháp luật,
Hối ba lần cũng thật muộn mằn.
Nước loạn chớ đến dung thân
Nơi nguy hiểm chớ bước chân lần vào.
Phép quyền biến làm sao biết trước,
Phải đắn đo mong được an toàn,
Lò lửa ví như phép quan,
Lòng người như sắt như gang trong lò
Người yếu phải nương nhờ người mạnh,
Giúp được người là hạnh phúc thay,
Không thù dai chẳng hại ai,
Tuy nhiên vẫn phải nhớ bài phòng thân.
Trên lượng cả, chẳng cần phạt dưới,
Kẻ trịch thượng từ chối đừng chơi.
Nước trong ít cá lội bơi,
Sống nhiều khe khắt, ít người mến thân.
22.Hiếu hoàn
Bài hai mươi mốt hai chữ hiếu hoàn.
Hiếu hoàn luật xoay vần vay trả,
Báo ứng nhanh gương đã nhiều rồi.
Nhạt nồng khéo ở lòng người,
Dở hay đã có đạo trời phân minh.
Trời mưa gió thình lình bất chắc,
Người có khi dồn dập tai ương.
Có đức dễ được thọ trường,
Tu nhân tích đức, phúc thường dầy thêm.
Lừa dối người là mầm tai họa,
Phúc dầy nhờ lượng cả bao dung.
Cẩn thận chẳng sợ khốn cùng,
Nhẫn thì chẳng nhục, vạ không đến mình.(1)
Dạy con cháu bằng điều từ thiện,
Lấy khoan dung điều khiển người theo.
Một năm kế hoạch ăn tiêu,
Không gì bằng cấy trồng nhiều lúa khoai(3)
Kế mười năm dài hơn một chút,
Không gì bằng trồng được nhiều cây.
Còn như kế hoạch lâu dài,
Là trồng cây đức dẻo dai liền liền.
Dù lắm tiền thuốc men tẩm bổ,
Chẳng bằng đêm nằm ngủ riêng giường.
Dạy con lần mở văn chương,
Ở trong vùng bạc kim cương có thừa.
Một con được ơn vua lộc nước,
Để cả nhà cũng được thơm lây.
Siêng năng học tập đêm ngày,
Sống bình tĩnh được yên lành mãi
Biết kiệm cần đỡ phải reo neo.
Trên sông tùy khúc bơi chèo,
Vào nhà tùy lúc liệu chiều tuân theo.(2)
Để mà chiêm nghiệm lời này khuyên răn.
Việc đúng cứ tiến hành đừng sợ,
Trời sẽ cho phúc ở tầm tay
Lấy điều đạo lý xưa nay,
Truyền cho con cháu đời này đời sau.
....................................
- (1) Nguyên chữ Hán là: "Khi nhân thị
hoạ, Nhiêu nhân thị phúc, Cẩn tắc vô ưu, Nhẫn tắc vô nhục"
- (2) Nguyên chữ Hán là: "Bình tĩnh thường
an, nhã kiệm thường túc ,Nhập giang tuỳ khúc, nhập gia tuỳ tục"
- (3) Nguyên chữ Hán đoạn sáu câu này là:
"Nhất niên kế mạc như chủng cốc. Thập niên chi kế mạc như chủng mộc
,Của viễn chi kế mạc như chủng đức"
23.Năng tĩnh
Bài hai mươi hai dạy người điều năng tĩnh.
Biết đắn đo sống hẳn yên lành.
Biết suy nghĩ việc dễ thành,
Cầu đâu được đấy vui lành biết bao.
Khi sống biết lo sau tính trước.
Lúc lâm chung hẳn được yên lành.
Tuổi già lắm bệnh phát sinh,
Đều do lúc trẻ tự mình làm ra.
Lúc thịnh đạt gian tà trái đạo,
Khi tuổi già quả báo coi chừng!
Sợ thay “Đốm lửa thiêu rừng”,
Nửa câu nói trái, sau đừng khoe khôn.(1)
Biết điều thiện ôn tồn nhắc bạn,
Chỉ nơi nguy cho người khách lánh xa.
Khi lòng hiểm độc gian tà,
Niệm kinh gõ mõ quả là vô duyên.
Đem bố thí bằng tiền bất chính,
Cũng chỉ là vô ích mà thôi.
Chỉ một hành động xấu chơi,
Nói khôn nói khéo, ai người còn tin.
Sống thừa mứa bạc tiền nhung lụa,
Chắc đâu bằng sống đủ mà vui.
Gần mực thì ắt phải đen thui
Gần son thì đỏ sự đời chẳng sai.
Gần người ngu biến hay thành dốt,
Gần người hiền càng tốt thêm ra.
Người quân tử đức nở hoa,
Tiểu nhân tìm cách xấu xa học đòi.
Ngẫm xem muôn sự ở đời,
Ác thì gặp ác, nhân thời gặp nhân.
Con ngựa cùng, vung chân đập phá,
Chim cùng đường, liều mổ đòi bay,
Thú cũng muốn xổng chạy dài,
Bản năng tự vệ muôn loài bẩm sinh.
Người giả dối thì đừng bắt chuyện,
Gái lẳng lơ thì biến cho xa.
Những người ngay thẳng hiền hoà,
Kiên tâm gần gũi để mà học theo.
Kẻ nghiện ngập lêu têu, hợm hĩnh.
Hãy coi chừng! Cố tránh đừng chơi.
Mới hay hậu bạc ở đời
Trắng, đen cũng bởi lòng người mà ra.
..........................
-(1) Nguyên chữ Hán là:
"Nhất tinh chi hoả năng thiêu vạn lý chi
sơn.
Bán cũ chi ngôn ngộ Tổn bình sinh chi đức"
24.Thư tất
Bài hai mươi ba là bài thư tất
Sách Bạch Vân kết luận dạy rằng:
Muôn việc khởi tự cái Tâm,
Nếu lòng buông thả, lỗi lầm đến ngay.
Học điều hay tỏ bài chân lý
Bảo tồn Chân-Thiện-Mỹ sáng trong
Thánh nhân trợ giúp bao dung,
Tiến–lui, còn-mất mới mong tinh tường.
Không để mất kỷ cương chính đạo,
Lời thánh hiền dạy bảo thiêng liêng:
Hiếu-Trung-Cần-Kiệm-Chính-Liêm
Xa gần kính trọng, dưới trên thuận hòa.
Sự kính nhường coi là cái gốc,
Lấy học hành tri thức nâng lên.
Chân thành học hỏi thường xuyên,
Muốn tu cái đức phải nghiêm với mình.
Những điều giáo huấn anh minh,
Thành tâm bái phục, ân tình chẳng quên.
Phần III. Bạch Vân am thi tập
1. Cư ngao đới sơn
Bích tẩm tiên sơn triệt để thanh,
Cự ngao đới đắc ngọc hồ sinh.
Đáo đầu thạch hữu bổ thiên lực(1),
Trước cước trào vô quyển địa thanh.
Vạn lý Đông minh quy bả ác,
Ức niên Nam cực điện long bình.
Ngã kim dục triển phù nguy lực,
Vãn khước quan hà cựu đế thành.
Con ngao lớn đội núi (Người dịch: Đinh
Gia Khánh)
Non tiên ngâm tẩm nước trong xanh,
Bầu ngọc đội nên, ngao lớn sinh.
Đầu ngóc, vá trời còn sức đá,
Chân đưa, lặng sóng chẳng âm thanh.
Biển Đông, vạn dặm quơ tay nắm,
Nam cực, muôn năm vững trị bình.
Ta muốn phù nguy ra sức giúp,
Quan hà thu lại cựu kinh thành.
Dịch nghĩa
Nước biếc ngấm núi tiên trong đến đáy,
Như con ngao lớn đội được bầu ngọc mà sinh ra.
Ngoi đầu lên, đá có sức vá trời,
Đặt chân xuống, sóng không có tiếng cuốn đất.
Vạn dặm biển Đông quơ vào tay nắm,
Ức năm cõi Nam đặt vững cảnh trị bình.
Ta nay muốn thi thố sức phò nguy,
Cứu vãn lại quan hà, thành cũ của nhà vua
Sách Liệt tử, trong thiên Thang vấn có chép
rằng ở biển Bột Hải có năm ngọn núi, chân núi không dính vào đâu cả, núi cứ
theo nước thủy triều mà lên và xuống lênh đênh trên mặt biển. Thượng đế sợ các
ngọn núi ấy trôi về Tây cực bèn sai con ngao thần rất lớn lấy đầu đội và từ đó
năm ngọn núi ấy mới đứng vững ở một chỗ.
......................
- (1) Chú thích: Đáo đầu thạch hữu bổ thiên lực
Theo Sử ký bổ (Tam hoàng bán kỷ) thì thời
Thượng cổ, hai vị thần là Cung Công và Chúc Dung
đánh nhau. Đánh mãi không thắng nổi thần Chúc
Dung cho nên thần Cung Công nổi giận, lấy đầu húc núi Bất Chu, làm đổ núi ấy
khiến cho cột chống trời bị gãy. Nữ thần Nữ Oa, chặt bốn chân con ngao thần làm
bốn cực chống cho trời khỏi sụt xuống.
2. Du Phổ Minh tự
Loạn hậu trùng tầm đáo Phổ Minh,
Viên hoa dã thảo cựu nham quynh.
Bi văn lạc hoà yên bích,
Phật nhãn thê lương chiếu dạ thanh.
Pháp giới(1) ưng đồng thiên quảng đại,
Hương nhân do thuyết địa anh linh.
Liêu liêu cổ đỉnh kim hà tại (2),
Thức đắc vô hình thắng hữu hình(3).
Chơi chùa Phổ Minh (Người dịch: Hữu
Thế)
Sau loạn lại tìm đến Phổ Minh,
Chùa xưa đá cũ cỏ hoa xanh.
Văn bia tàn hỏng mờ trong khói,
Mắt phật lạnh lùng rõi thấu canh.
Giới pháp phải ngang trời rộng lớn,
Người làng vẫn nói đất anh linh.
Vắng không, cổ đỉnh, rày đâu tá!
Mới biết vô hình thắng hữu hình.
Dịch nghĩa
Sau khi loạn lạc lại tìm đến chùa Phổ Minh,
Vẫn hoa vườn cỏ nội với cửa đá cũ.
Văn bia mờ nhạt hoà trong làn khói biếc,
Mắt Phật lạnh lùng soi thấu đêm thanh.
Pháp giới phải ngang với tầm rộng lớn của trời,
Người làng vẫn nói đến sự anh linh của đất.
Vắng vẻ lặng lẽ, vạc xưa nay còn đâu?
Thế mới biết vô hình vẫn thắng hữu hình.
Chùa Phổ Minh ở xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, phủ
Thiên Trường, nay thuộc xã Lộc Vượng, huyện Mỹ Lộc, Nam Định. Chùa được xây
dựng từ thời Trần, trong đó có vạc Phổ Minh nổi tiếng. Vạc đã bị quân xâm lược Minh
phá làm súng đạn năm 1426, khi bị nghĩa quân Lam Sơn bao vây.
..............................
- (1)Là thế giới tinh thần, có lý pháp giới
(bản thể) và sự pháp giới (hiện tượng) hai cái pháp giới
này có quan hệ mật thiết với nhau: "Lý sự
vô ngoại", theo tông Hoa nghiêm trong Phật giáo.
- (2)Vạc xưa nay còn đâu? Chỉ vạc Phổ Minh bị
giặc Minh phá hoại
- (3)Cái không có hình tượng cụ thể thì thắng
cái có hình tượng cụ thể. Nhân vẫn cảnh chùa xưa, suy nghĩ về giáo lý đức Phật,
rồi lại liên hệ với vạc xưa, một vật hữu hình nay không còn, mà tác
giả đã đề cập tới quan niệm lý Phật giáo.
3. Hạ cảnh
Nhật trường Tân quán tiểu song minh,
Phong nạp hà hương viễn ích thanh.
Vô hạn ngâm tình thuỳ hội đắc,
Tịch dương lâu thượng vãn thiền thanh.
Cảnh mùa hè (Người dịch: Đinh Gia Khánh)
Trung Tân,cửa nhỏ,sáng ngày trường,
Gió đượm mùi sen, xa ngát hương.
Vô hạn tình thơ, ai kẻ hiểu,
Lầu cao, chiều xế, tiếng ve vang
Dịch nghĩa
Ngày dài ở quán Trung Tân cửa sổ nhỏ sáng sủa,
Gió đượm hương sen, càng xa càng mát.
Tình thơ vô hạn, ai là người hiểu được,
Chiều tà, trên lầu, tiếng ve muộn màng vang
lên.
4.Khuê tình
Ngâm lạc Tây phong trận trận xuy,
Thâm khuê nhi nữ độc miên thì.
Hốt văn hàn khí xâm liêm mạc,
Thuỷ giác nhân tình hữu biệt ly.
Khứ mộng bất từ sa tái viễn,
U hoài hoạt động cổ bề ti.
Vô đoan điểm trích giai tiền vũ,
Nỗi lòng ở chốn phòng khuê
(Người dịch: Đinh Gia Khánh)
Buông tiếng ngâm theo gió Tây,
Phòng khuê thiếu phụ ngủ đang say.
Chợt nghe rèm màn thấm hơi lạnh,
Mới hiểu biệt ly là thế đây.
Sa tái mộng bay lòng chẳng ngại,
Cổ bề tiếng dội dạ tràn đầy.
Tí tách trước thềm mưa chợt gõ,
Tự hữu u nhân ngữ dạ trì.
Như ai thủ thỉ buồn canh chầy.
Dịch nghĩa
Tiếng ngâm buông xuống theo gió Tây thổi từng
trận,
Ở chốn thâm khuê khi người thiếu phụ ngủ một
mình.
Bỗng nghe hơi lạnh thấm vào rèm màn,
Mới biết tình người có nỗi biệt ly.
Mơ mộng ra đi, chẳng nề nơi quan ải sa trường
diệu vợi,
U uất trong lòng dấy lên tiếng trống ở ngoài
trận.
Bỗng đâu tí tách giọt mưa ở trước thềm,
Như có người mang niềm u uất thủ thỉ trong đêm
dài.
5. Nguyên Đán thuật ho ài
Kim ngã hành niên lục thập chi,
Lão lai khước dữ bệnh tương kỳ.
Tích xuân cưỡng khuyến sổ bôi tửu,
Ưu quốc hưu ngôn lưỡng mấn ti.
Chức nhẫm bất cần ta lãn phụ,
Gia đình vô giáo tiếu si nhi.
Nhàn trung liêu ngụ nhàn trung thú,
Khởi vị phùng nhân thuyết lãng thi.
Tỏ nỗi lòng trong dịp Nguyên Đán
(Người dịch: Hữu Thế)
Tuổi đời ta đã sáu mươi niên,
Tật bệnh theo già hẹn đến bên.
Lo nước chớ than đầu đã bạc,
Tiếc xuân gượng chuốc rượu vài phen.
Nếp nhà chẳng dạy, cười con dại,
Canh cửi, không siêng, hổ vợ hèn.
Hãy gửi thú nhàn vào cảnh rỗi,
Gặp người, thơ há lạm chê khen.
Dịch nghĩa
Tuổi đời của ta nay đã sáu mươi,
Già đến, lại cùng bệnh tật hẹn hò nhau.
Tiếc xuân, gượng khuyên mời vài chén rượu,
Lo nước, đừng nói hai mái tóc đã bạc như tơ.
Canh cửi chẳng siêng năng, than thở về người
đàn bà lười nhác,
Gia đình không dạy dỗ, đáng cười cho đứa con
ngây dại.
Trong lúc thảnh thơi hãy gửi cái thú thanh
nhàn,
Há đâu nói về thơ một cách phóng túng với những
người gặp mặt.
6. Nhân thôn
Tổng tổng lâm lâm sinh chí phồn,
Sở cư xứ xứ hữu hương thôn.
Hào hoa hấp nhĩ tỉ lân hội,
Nhân hậu y nhiên mỹ tục tồn.
Tác tức tư đào Nghiêu nhật nguyệt(1),
Âu ca cộng lạc Thuấn kiền khôn.
Thái bình tể tướng ư tư hiển,
Xóm làng (Người dịch: Đinh Gia Khánh)
Nườm nượp sum suê khắp sản sinh,
Thành làng, mọi chốn có dân đinh.
Hào hoa tụ hội, nhà liền vách,
Nhân hậu theo lề, tục tốt lành.
Thoải mái làm ăn thời thịnh trị,
Chung vui ca ngợi cảnh thăng bình.
Giữ coi việc nước vinh vì thế,
Quan cái tinh xu diệu lý môn.
Mũ lọng qua làng, sao lướt nhanh.
Dịch nghĩa
Nườm nượp sum suê sinh sản ra rất đông đúc,
Nơi nơi có người ở là có xóm làng.
Hào hoa tập hợp, xóm giềng kề bên nhau,
Nhân hậu vẫn thế, phong tục tốt đẹp còn nguyên.
Làm và nghỉ cùng thoải mái trong ngày tháng đời
Nghiêu,
Hò và hát cùng vui vẻ trong trời đất đời Thuấn.
Quan tể tướng đời thái bình mở mày mở mặt ở đó.
Mũ lọng đi nhanh như sao, rực sáng cổng làng
....................
- (1)Theo sách Mạnh Tử, dân đời vua Nghiêu sống
an lạc, hát rằng: "Nhật xuất nghi tác, nhập nhập nhi tức, tạc tính nhi ẩm,
canh điền nhi thực, đế lực hà hữu ư ngã tai", nghĩa là: Mặt trời mọc thì
dậy đi làm, mặt trời lặn thì đi nghỉ, đào giếng mà uống, cày ruộng mà ăn, sức
nhà vua có làm gì cho ta đây. Ý nói đức vua Nghiêu lớn quá, bao trùm tất cả,
dân hưởng cảnh thái bình mà không cần biết là do công ơn của vua Nghiêu.
7. Thu thanh
Tiêu điều thu dạ trích hàn canh,
Ngọc luật hồi âm ám thổ thanh(1).
Đãn giác thụ gian minh tích tích,
Hốt kinh nguyệt hạ hưởng tranh tranh.
Sơ văn thú phụ sầu vô mị,
Tự xúc hàn tương nhạ bất bình.
Nghĩ tác Dĩnh Xuyên Âu Tử(2) phú,
Khủng hoảng mô phỏng bị thời khinh.
Tiếng thu (Người dịch: Đinh Gia Khánh)
Đêm thu buồn lạnh, nước cầm canh,
Ngọc luật âm thầm phát thổ thanh.
Những thấy trong cây kêu sột soạt,
Chợt vang dưới nguyệt tiếng lanh canh.
Mới nghe, vợ lính buồn không ngủ,
Như gợi, dế mèn kêu bất bình.
Phú, định làm như ai đất Dĩnh,
Lại e bắt chước, bị đời khinh.
Dịch nghĩa
Đêm thu tiêu điều, giọt nước nhỏ điểm canh lạnh
lùng,
Ống ngọc luật đồng vọng, âm thầm mà phát ra
thành tiếng.
Chỉ nghe thấy trong cây tiếng kêu sột soạt,
Bỗng giật mình dưới trăng tiếng vang lanh canh.
Mới nghe, người vợ lính thú buồn rầu không ngủ,
Như xui con dế gợi nỗi bất bình.
Toan làm bài phú như Âu Tử đất Dĩnh Xuyên,
E rằng lại chỉ làm việc bắt chước bị người đời khinh
bỉ.
...........................
- (1)Chú thích: Ngọc luật hồi âm ám thổ thanh.
Ngọc luật, ám thổ thanh: ngọc là cái ống bằng ngọc người xưa đốt tro
của màng cây sậy bỏ vào trong, đến các tiết hậu
như đông chí, lập xuân, v.v... thì chất tro trong ống luật được khí trời thổi
bay lên, người ta dựa vào đó để xem thời tiết; ám thổ thanh là ngầm có tiếng
thổ, theo Thái cực đồ thì ngũ hành (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ) ứng với tứ thời,
kim ứng với mùa thu, mộc ứng với mùa xuân, thuỷ và thổ ứng với mùa đông, hoả
ứng với mùa hè. Ở đây ý nói rằng tuy là đang trong mùa thu mà trong ống ngọc
luật đã ngầm có tiếng thổ, tức là báo trước sắp tới mùa đông.
- (2)Chú thích: Dĩnh Xuyên Âu Tử. Âu Tử tức là
Âu Dương Tu, người đất Dĩnh Xuyên, sống vào đời Tống ở Trung
Quốc, là một danh sĩ có làm bài phú "Thu
thanh" (Tiếng thu) nổi tiếng.
8. Thuỷ hành phó doanh cảm tác
Chỉ kỳ thệ phục cựu sơn hà,
Khảng khái đăng chu phát hạo ca.
Trạo bãi thuỷ văn đôi bạch tuyết,
Phàm di nguyệt ảnh lộng hàn ba.
Cô trung đối việt càn khôn lão,
Tứ cố vi mang thảo thụ đa.
Ký thủ tặc nô bình đình hậu,
Trùng tầm Tân quán lữ ngư hà.
Cảm tác khi đi thuyền tới doanh trại
(Người dịch: Hữu Thế)
Định kỳ khôi phục núi sông xưa,
Khảng khái lên thuyền cất tiếng ca.
Buồm chuyển ánh trăng vờn sóng lạnh,
Chèo khua gợn nước tuyết ngời hoa.
Niềm trung trời đất già dầu dãi,
Đoái khắp rừng cây rậm mịt mờ.
Ghi đợi sau ngày yên giặc dữ,
Lại về Tân quán bạn tôm cua.
Dịch nghĩa
Đi đường thuỷ đến doanh trại cảm hứng làm thơ
Định kỳ hạn thề khôi phục giang san cũ,
Khảng khái lên thuyền cất cao giọng hát.
Mái chèo khua gợn nước, chập chồng những đống
tuyết trắng.
Cánh buồm theo bóng trăng, giỡn nhởn trong làn
sóng lạnh.
Tấm lòng cô trung dầu dãi, trời đất già nua,
Đoái trông bốn phía lờ mờ, cỏ cây nhiều lắm.
Ghi nhớ sau ngày dẹp xong bọn giặc hèn,
9.Trừ tịch tức sự
Tân tuế tài lân cựu tuế trừ,
Lão lai tiếu ngã thái dung sơ.
Kiền khôn bất tận yên hoa cảnh,
Môn quán vô tư thuỷ trúc cư.
Lưỡng độ thủ tằng phù nhật cốc(1),
Nhất phong thư khẳng thướng công xư(2) (xa),
Đêm cuối năm tức sự
(Người dịch: Đinh Gia Khánh)
Năm cũ vừa qua, năm mới tới,
Tự cười già lão lại lười khờ.
Khói hoa nọ khắp trong trời đất,
Tre nước đâu riêng của một nhà.
Việc lớn, hai phen từng gắng sức,
Xe công, một lá chẳng dâng thơ.
Niên niên quản đắc xuân quang hảo,
Tri thị thiên tâm độc hậu dư.
Năm năm làm chủ ba xuân đẹp,
Biết rõ: ơn trời riêng được nhờ.
Dịch nghĩa
Năm mới vừa đến năm cũ hết,
Về già tự cười mình lười nhác sơ xuất.
Cảnh khói hoa là bất tận trong trời đất,
Nơi có nước có tre, không giữ riêng cho nhà cửa
mình.
Hai phen đã ra tay phò xe vua,
Một phong thư đâu có chịu dâng lên xe công.
Năm năm được làm chủ ánh sáng đẹp mùa xuân,
Biết đó là lòng trời riêng hậu với ta.
.....................
- (1) Bánh xe mặt trời... Chỉ xe vua, nghĩa
rộng là ngôi vua.
10. Vũ
Âm dương hoà hợp vận huyền ky (cơ),
Giải tác cam lâm hỷ cập thì.
Bái tự cửu thiên ân ký ốc,
Nhuận triêm thứ thổ vật hàm nghi.
Dân tô nghê(1) vọng vương sư chí,
Sĩ hấp phong thành thánh giáo thi.
Vũ thuận cố đăng kim thượng thuỵ,
Thái Bình hựu nhất thử hưu kỳ.
Mưa (Người dịch: Đinh Gia Khánh)
Hoà hợp âm dương, máy chuyển vần,
Mừng cơn mưa ngọt, tưới vừa tuần.
Chín trời đày rẫy, ơn tràn khắp,
Muôn vật xênh xang, đất thấm nhuần.
Gặp hạn, chờ mưa, dân đợi cứu,
Nên phong, thành giáo, sĩ chung phần.
Điềm lành mùa tốt, nhờ mưa thuận,
Cảnh thái bình, đây lại một lần.
Dịch nghĩa
Máy huyền diệu chuyển vận, âm dương hoà hợp,
Mừng được kịp thời vụ, phát ra trận mưa ngọt.
Rào rạt tự chín tầng trời, ơn đã đầy rẫy,
Thấm nhuần mọi khoảng đất, mọi vật thoải mái.
Để được sống, dân mong quân nhà vua đến như đợi
mống,
Kẻ sĩ hợp nên phong hoá thi hành được giáo hoá
của thánh nhan.
Mưa thuận hoà, lúc được mùa, đó là điềm lành
của nhà vua,
Thái bình đây lại là một thời kỳ tốt đẹp
.............................
-(1)Tô là sống lại, nghê là cầu vồng, mống là
ráng mây. Vua Thành Thang đánh vua Hạ Kiệt tàn bạo, dân ngóng trông quân vua Thành Thang đến, có lời rằng:
"Hề ngã hậu, hậu lai kỳ tô", nghĩa là: Đợi vua ta đến, vua ta đến thì dân ta được sống lại. Sách Mạnh Tử viết rằng:
"Dân vọng chi nhược đại hạn chi vọng vân nghè", nghĩa là: Dân mong đợi như khi đại hạn mà mong có mây, có
mống.
11. Xuân đán cảm tác
Hành niên thất thập tứ niên dư,
Hỷ đắc đầu nhàn phỏng cựu cư.
Đầu năm cảm xúc làm thơ
(Người dịch: Đinh Gia Khánh)
Tuổi đời đã quá bảy mươi tư,
Mừng được về nhàn, thăm chốn xưa.
Tuế thuỷ bàng quan tân vũ trụ,
Gia bần duy phú cựu thi thư.
Tú hoa dã trúc tam xuân hảo,
Tịnh nguyệt minh song nhất thất hư.
Thuỳ thị thuỳ phi hưu thuyết trước,
Lão cuồng tự tiếu thái dung sơ
Năm mới, khắp xem tân vũ trụ,
Nhà nghèo, riêng sẵn cựu thi thư.
Tre hoang, hoa đẹp, ba xuân tốt,
Cửa sáng, trăng trong, nhà trống trơ.
Ai phải, ai sai, thôi chẳng nói,
Tự cười già nhác lại cuồng khờ.
Dịch nghĩa
Tuổi đời đã ngoài bảy mươi tư,
Mừng được cảnh nhàn về thăm chỗ ở cũ.
Đầu năm nhìn quanh vũ trụ mới,
Nhà nghèo, chỉ giàu sách vở cũ.
Hoa đẹp tre hoang ba xuân tươi tốt,
Trăng trong cửa sổ sáng, một căn nhà trống.
Ai phải ai trái, thôi không nói làm gì,
Già ngông, tự cười mình lười nhác quá
12. Xuân hàn
Thập nhị thiều quang(1) xuân nhất đoàn,
Nhất thiên liệu tiễu tống dư hàn.
Khinh âm tá vũ xâm hoa dị,
Tàn tuyết nhân phong truỵ liễu nan.
Tú thát giai nhân đê ngọc trướng,
Hương nhai tuý khách xúc kim an(2).
Toàn kiền tự hữu thần công tại,
Dĩ bá dương hoà mãn tế bàn(3)
Rét mùa xuân (Người dịch: Lô Công)
Xuân quang chín chục trải mười hai,
Đưa tiễn hơi dư lạnh một trời.
Ngày rợp mưa phùn hoa dễ thấm,
Tuyết tan gió phất liễu khôn rơi.
Nhàvàng ngườiđẹp thầm buông trướng.
Phố vắng làng say vội giục roi,
Mầu nhiệm cơ thần xoay chuyển lại,
Dương hoà chan chứa khắp nơi nơi
Dịch nghĩa
Mười hai thiều quang, một vừng xuân sắc,
Một ngày lành lạnh tiễn đưa cái rét còn lại.
Trời râm mát nhờ mưa dễ thấm vào bông hoa,
Tuyết tàn bị gió rơi xuống cành liễu.
Giai nhân trong phòng gấm rủ thấp màn ngọc,
Ngoài đường sực nức hoa thơm, khách say giục
giã yên vàng.
Xoay chuyển càn khôn, tự có công phu thần diệu,
Đã gieo rắc khí dương hoà khắp cả trời đất.
................................
- (1)Chú thích: thiều quang. Ánh sáng đẹp của
mùa xuân. Cũng có nghĩa là ngày xuân "Thiều quang chín chục" là chín
mươi ngày xuân. Ở đây "Mười hai thiều quang" tức là đã mười hai ngày
xuân. Tác giả làm bài thơ này vào đầu xuân, tức ngày mười hai tháng Giêng, lúc
còn rét nhưng đã sang xuân.
- (2)Chú thích: Hương nhai tuý khách xúc kim
an. Vì rét, khách làng say ở phố thơm (phố có giai nhân) cũng phải giục ngựa đi
lanh, không thể khề khà thưởng thức được.
-(3)Trang Tử có câu: "Thượng tế ư thiên,
hạ bàn ư địa", nghĩa là: Trên rộng đến trời, dưới khắp cả đất. Sau người
ta dùng gọn bốn từ "Tế thiên bàn địa" như là một thành ngữ. Ở đây,
tác giả lại lược đi hai từ, chỉ còn hai từ "tế bàn" nhưng cần hiểu như
nghĩa của cả câu "tế thiên bàn địa".
Bạch Vân ca
1. Bạch Vân ca
Nước Nam thường có thánh tài.
Sơn hà vững đặt ai hay tỏ tường.
Kìa Nhị Thuỷ, nọ Dao Sơn,
Bài ngọc dát nổi, âu vàng Trời cho.
Học cách vật mới dò tới chốn,
Chép ghi làm một bổn xem chơi.
Muôn việc cũng bởi tại người,
Suy ra mới biết sự đời dường bao.
Dẫu ai có vàng trau nghìn hột,
Châu bái hơn chữ một nghĩa mười.
Tiên Hoàng từ trước mở ngôi,
Cờ lau tập trận thay Trời trị dân.
Mới đươc mười hai dư xuân,
Lê Hành kế vị, xa gần âu ca.
Ba mươi năm ngôi nhà được lẻ,
Đến Ngoạ Triều nào kẻ tài hay.
Ngôi Trời dể Lý vào thay,
Tám cành hoa nở dến ngày dực phân.
Chiêu Hoàng là Á Nữ Quân,
Thấp bề nhan sắc trao Trần Thái Tôn.
Thập nhị thế, tiếng đồn nhân hậu;
Trăm bảy mươi ghi dấu thất niên.
Đông A chốn ấy còn bề,
Quý Ly tiếm thiết thay quyền đã cam.
Đại Ngu được mười bốn năm;
Hậu Trần Nhị Đế lại chăm phục hồi.
Suy ra mới biết sự Trời;
Lam Sơn khởi nghĩa là đời Lê Gia
Tây Sơn sừng sực kéo ra,
Ngẫm xem thế tục gọi là phương ngôn.
Đến Phụ Nguyên đòi còn chinh chiến,
Trả bao thu dâu biển cát lầm
Rừng xa vực thẩm nguồn thâm,
Nào ai biết sẽ nhân tâm lúc nầy.
Ấy những quân đời này thế ấy,
Lòng Trời xui ai nấy biết đâu.
Chớ đừng tham của làm giàu,
Tìm nơi tam hiểm, ngỏ hầu bảo thân.
Đà Giang chốn ấy cũng gần,
Kim Ngư chốn ấy cũng phần thuở nơi.
Ba Thục riêng một góc trời,
Thái Nguyên một dải là nơi trú đình.
Tư bề núi đá xanh xanh,
Có đường tiểu mạch nương mình ai hay.
Bốn bụt xuất thế dã chầy,
Chưa chọn được ngày ra của nhân dân.
Ấy là điềm xuất thánh quân,
Hễ ai biết được thì thân mới toàn.
Chữ rằng hữu xạ tức tự nhiên hương,
Có phải tầm thường thuốc đấu bán sao?
Nắng lâu phải có mưa rào,
Vội chi tát nuớc xôn xao cày bừa.
Hạn rồi thì phải có mưa,
Buồm giương gặp gió, cày bừa gặp cơn.
Tuần này thánh xuất Khâm phương,
Sự thực đã tường, chẳng phải lo suy.
Quần hùng binh dậy sơn khê,
Kẻ khoe cứu nước, người khoe trợ thời.
Xem thấy những sương rơi tuyết lạnh,
Loài bất bình tranh cạnh hung hăng.
Một cơn sấm dậy đất bằng,
Thánh nhân ra mới cứu hàng sinh linh.
Lược thao văn vũ tài tình,
Mới hay phú quý hiển vinh lạ lùng.
Tam công gặp hội vui mừng,
Bỏ khi cá nước vẫy vùng biển sông.
Bỏ khi chém rắn vẽ rồng,
Bỏ khi non Bắc ải Đông mịt mù.
Chó mừng chúa, gà bày cục tác,
Lợn ăn no thả rác nằm chơi.
Đó mới kể là đời thịnh thế,
Mà thiên hạ sau sẻ làm hai.
Người Đoài cũng thực ấy tài,
Mà cho người Sở toan bài lập công.
Bởi Trần Vương ngu không kể siết,
Mới phen nầy dê lại giết dê.
Đến khi thức tận binh bì,
Âm binh ở giữa, dễ thì biết sao.
Trời cho ta mang dao chém quỷ,
Khắp dưới Trời bình trị quỷ thư.
Ai từng cứu con thơ xa giếng,
Chớ một lòng chinh chiến phá nhau.
Muôn dân chịu những âu sầu,
Kể dư nhị ngũ mới hầu biết cho.
Chốn Đông Nam lò dò khổ ải,
Lánh cho xa kẻo phải đao binh.
Bắc phương chín thực đế kinh,
Náu mình chưa dể náo danh được nào.
Vả người là đúng anh hào,
Đánh làm sao được ước ao đêm ngày.
Bỏ khi kẻ Việt người Hồ,
Bỏ khi kẻ Sở người Ngô xa đường
Càn khôn phủ tái vô lương,
Đào viên đỉnh phát, quần dương tranh hùng.
Cơ nhị ngũ thư hùng vi quyết,
Đảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.
Ta hồ vô phụ vô quân,
Đào viên tản lạc, ngô dân thủ thành.
Càn khôn phù tái vô lường,
Đào Viên đỉnh phát, quần dương tranh hùng.
Cơ nhị ngũ thư anh hùng vị quyết,
Đảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân.
Ta hồ vô phụ vô quân,
Đà Giang phúc địa giáng linh,
Cửu trùng thụy ứng lòng thành ngũ vân.
Phá điền thiên tử giáng trần,
Dũng sĩ nhuợc hải, mưu thần như lâm.
Trần Công nãi thị phúc tâm,
Giang hồ sử sĩ đào tiềm xuất du.
Tương thần hệ xuất Y, Chu,
Thử kỳ phục kiến Đường, Ngu thị thành.
Hiện xung thiện hạ thái bình.
2. Cảm hứng
Thái hoà vũ trụ bất Ngu, Chu,
Hổ chiến giao tranh tiến lưỡng thù.
Xuyên huyết sơn hà tuỳ xứ hữu.
Uyên ngư tùng tước vị thuỳ khu.
Trùng hưng dĩ bốc độ giang mã,
Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu,
Thế sự đáo đầu lưu thuyết trước,
Tuý ngâm trạch bạn nhậm nhàn du.
Cảm hứng (Người dịch: Ngô Lập Chi)
Non sông nào phải buổi binh thời,
Thù đánh nhau chi khéo nực cười.
Cá vực, chim rừng, ai khiến đuổi ?
Núi xương, sông huyết, thảm đầy vơi.
Ngựa phi ắt có hồi quay cổ,
Thú dữ nên phòng lúc cắn người.
Ngán ngẩm việc đời chi nói nữa,
Bên đầm say hát nhởn nhơ chơi.
……………………….
Trương truyền bài thơ này làm ra để tiên đoán
việc nhà Lê sẽ trung hưng và nói đến việc họ Trịnh chuyên quyền lấn áp vua lê.
Và những việc của ông tiên đoán điều không sai một mảy.
3. Hữu cảm kỳ 1
Nghịch tặc xương cuồng phạm đế kinh,
Chủ ưu thần nhục trọng thương tình.
Hề tô cửu uất thương sinh vọng,
Ðiếu phạt thuỳ hưng thời vũ binh.
Có cảm xúc kỳ 1 (Người dịch: Ngô
Lập Chi)
Giặc giã tung hoành lấn đế kinh,
Vua tôi lo lắng xiết bao tình.
Mong mưa, chan chứa lòng dân vọng,
Trừ bạo, tưng bừng đạo nghĩa binh.
Bốn bể vui theo người đạo đức,
Khắp nơi lại thấy cảnh thanh bình.
Tứ hải y quy dân đới cựu,
Cửu thiên chiêu yết nhật trùng minh.
Cổ lai, nhân giả tư vô địch,
Hà tất khu khu sự chiến tranh.
Xưa nay nhân giả là vô địch,
Lọ phải khư khư thích chiến tranh.
4. Hữu cảm kỳ 2
Lạc lạc can qua hận mãn tiền,
Nhân dân bồn thoáng dục cầu tiền.
Điên liên huề bạo ta vô địa,
Ái hộ căn liên hạnh hữu thiên.
Chỉ định vị văn quy mã nhật,
Khai minh cấp tưởng thuộc trư niên.
Nhất chu khí vận chung nhi thuỷ,
Bác, phục đô tòng thái cực tiên.
Có cảm xúc kỳ 2 (Người dịch: Ngô
Lập Chi)
Ngán nỗi can qua mãi thế ư
Nhân dân mong được chốn an cư
Kéo nhau lũ lượt tìm nơi ẩn
Cứu kẻ phiêu lưu có chỗ nhờ
Bình định còn chờ ngày nghỉ ngựa
Thái bình những đợi buổi năm trư
Tuần hoàn một lẽ cùng chung thuỷ
Bác phục nguyên từ thái cực xưa.
Sấm Trạng Trình (*) Nguyễn Bỉnh Khiêm tiên đoán
Lịch sử khoa cử Việt Nam có hàng chục trạng
nguyên, nhưng ít có ông trạng nào mà tên tuổi lại được nhắc tới với nhiều giai
thoại kỳ bí như Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585). Là một nhà thơ lớn của dân
tộc, Nguyễn Bỉnh Khiêm đề cao tư tưởng nhân nghĩa, hòa bình. Chính ông là người
đầu tiên nhắc tới hai chữ Việt Nam trong các tác phẩm của mình. Là một người
thầy lớn, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước. Học trò của
ông, người theo nhà Mạc, người theo nhà Lê. Ngoài triều Mạc, cả họ Trịnh, họ
Nguyễn, những người thuộc các phe đối lập, cũng đều tôn kính ông, thường xin ý
kiến ông về nhiều vấn đề hệ trọng. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chỉ cho tất cả. Họ đều
thấy sự chỉ dẫn của ông là đúng, nên ông được xem như bậc đại hiền, một ông
trạng tiên tri...
Những lời khuyên làm nên sự nghiệp
- Năm 1568, khi Nguyễn Hoàng thấy anh ruột là
Nguyễn Uông bị Trịnh Kiểm (anh rể) giết, bèn sai người đến xin ý kiến Nguyễn
Bỉnh Khiêm, lúc này đã 77 tuổi, đang sống ẩn dật ở Am Bạch Vân. Không trả lời
trực tiếp, ông dẫn sứ giả ra hòn non bộ, chỉ vào đàn kiến đang bò và nói:
"Hoành sơn nhất đái, khả dĩ dung
thân"
(Một dải Hoành Sơn có thể dung thân được)
Hiểu được ý ấy, Nguyễn Hoàng nhờ chị gái xin
với anh rể Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ đất Thuận Hóa từ đèo Ngang trở vào, từ
đó lập ra nhà Nguyễn ở phương nam. Về sau sử nhà Nguyễn sửa thành "vạn đại
dung thân", hy vọng sẽ giữ được cơ nghiệp mãi mãi.
- Ở Thăng Long, Trịnh Kiểm cũng muốn bỏ Vua Lê
để tự xưng vương. Khi cho người đến hỏi ý kiến của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông không
trả lời mà dẫn sứ giả ra chùa, thắp hương mà nói: "Mấy năm nay mất mùa,
nên tìm thóc giống cũ mà gieo". Rồi lại bảo chú tiểu quét dọn chùa sạch sẽ
và nói: "Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản". Hiểu ý, Trịnh Kiểm không dám
phế bỏ nhà Lê mà phò Vua Lê để lập nghiệp Chúa.
- Phùng Khắc Khoan đến gặp Nguyễn Bỉnh Khiêm,
với ý muốn nhờ thầy cho một lời khuyên: Có nên bỏ nhà Mạc để vào Thanh Hóa với
triều đình Lê - Trịnh? Cả buổi chiều trò chuyện, Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ hỏi tình
hình, nói chuyện văn chương chứ không trả lời. Đêm ấy Phùng Khắc Khoan ngủ lại
tại nhà thầy. Sang canh tư, Nguyễn Bỉnh Khiêm đến phòng ngủ của học trò, đứng ngoài
gõ cửa và nói vọng vào:
"Gà đã gáy rồi, trời đã sáng, sao không
dậy, ngủ mãi ử"
Phùng Khắc Khoan nghe xong, suy nghĩ, và đoán
rằng thầy gián tiếp bảo thời cơ đã đến, có thể vào giúp nhà Lê. Ông vội vàng
thu xếp hành lý, đợi đến lúc mặt trời mọc thì vào giã từ thầy. Nguyễn Bỉnh
Khiêm vẫn không nói gì, chỉ cuốn một chiếc chiếu ngắn ném theo. Phùng Khắc
Khoan nhặt lấy chiếu, vừa đi vừa nghĩ:
"Phải chăng đây là ý dặn mình cần hành
động gấp và dứt điểm như cuốn chiếu"
- Khi Nguyễn Bỉnh Khiêm gần mất, nhà Mạc cho
người đến hỏi ông về kế lâu dài. Ông đáp: "Cao Bằng tuy tiểu, khả diên sổ
thế" (Đất Cao Bằng tuy nhỏ nhưng dựa vào đó có thể kéo dài được vài đời).
Sau quả đúng như vậy. Những lời sấm cho nhiều đời sau. Dân gian lưu truyền
nhiều bản Sấm ký được cho là của ông. Hiện nay ở kho sách Viện nghiên cứu Hán -
Nôm còn giữ được bốn bản. Tuy nhiên các bản này đều không có tên người chép,
chép từ bao giờ và chép ở đâu? Do vậy, chúng ta cần phải làm rõ vấn đề đâu là
khả năng dự báo xã hội của Nguyễn Bỉnh Khiêm do kiến thức và kinh nghiệm đã đem
lại, đâu là những điều mà người đời đã gán ghép cho ông? Mặc dù là "tồn nghi"
nhưng chúng tôi cũng xin trích ra để bạn đọc cùng khảo cứu.
- Truyện kể lại rằng, trước khi qua đời, Nguyễn
Bỉnh Khiêm để lại một phong thư, đặt trong một ống quyển gắn kín, dặn con cháu
sau này nếu làm ăn sa sút, mang thư ấy đến gặp quan sở tại thì sẽ được cứu
giúp. Đến đời thứ bảy, người cháu thứ bảy là Thời Đương nghèo khốn quá, nhớ lời
truyền lại, đem phong thư đến gặp quan sở tại. Quan lúc này đang nằm võng đọc
sách, nghe gia nhân báo có thư của cụ Trạng Trình thì lấy làm lạ, lật đật chạy
ra đón thư. Vừa ra khỏi nhà thì cái xà rơi xuống đúng chỗ võng đang nằm. Quan
sợ hãi vội mở thư ra xem thì chỉ có mấy chữ:
"Ngã cứu nhĩ thượng lương chi ách
Nhĩ cứu ngã thất thế chi tôn
(Ta cứu ngươi thoát khỏi ách xà rơi
Ngươi nên cứu cháu bảy đời của ta)
Quan vừa kinh ngạc, vừa cảm phục, bèn giúp đỡ
cháu bảy đời của Trạng hết sức tử tế.
- Đến đời Vua Minh Mệnh (1820 - 1840) trong dân
gian lưu truyền một câu sấm: "Gia Long nhị đại, Vĩnh Lại vi Vương"
(đời thứ hai Gia Long, người ở Vĩnh Lại làm vua). Vua Minh Mệnh vốn tính đa
nghi. Biết được mấy câu sấm ấy, nhà vua vừa có ý đề phòng, vừa căm giận Trạng
Trình. Tổng đốc Hải Dương lúc bấy giờ là Nguyễn Công Trứ được lệnh đến phá đền
thờ Trạng Trình. Nguyễn Công Trứ cho lính đến, cứ y lệnh triều đình cho đập
tường, dỡ nóc. Nhưng khi tháo cây thượng lương ra thì một cái hộp nhỏ đã để sẵn
trong tấm gỗ, rơi xuống. Quân lính nhặt đưa trình chủ tướng, Nguyễn Công Trứ mở
xem, trong đó có một mảnh giấy đề chữ:
"Minh Mệnh thập tứ
Thằng Trứ phá đền
Phá đền thì lại làm đền
Nào ai cướp nước tranh quyền gì ai".
Nguyễn Công Trứ vội ra lệnh dừng ngay việc phá
đền, khẩn cấp tâu về triều đình, xin làm lại đền thờ Trạng Trình.
Ở một tập sấm mở đầu có các câu:
"Nước Nam thường có thánh tài
Sơn hà vững đạt mấy ai rõ ràng
Bãi ngọc đất nổi, âu vàng trời cho
Học cách vật mới dò tới chốn..."
Có người cho rằng những lời thơ ấy đã khẳng
định đất nước có nhiều người tài giỏi, cùng với nhân dân giữ vững đất nước qua biết bao nguy biến. Đất nước cũng có
nhiều tài nguyên phong phú cần được khai thác. Đảo Sơn phải chăng là Vũng Tàu - Côn Đảo? Nơi có tiềm năng
về dầu khí và có vị trí kinh tế chiến lược? Những lời sấm ấy cũng khẳng định phải có khoa học - kỹ thuật (học
cách vật) mới có thể khai thác tốt và sử dụng tốt những tài nguyên đó, những âu
vàng trời cho.
Tập sấm còn đề cập tới một bậc Thánh giúp đời:
"Một đời có một tôi ngoan,
Giúp chung nhà nước dân an thái bình
Ấy điềm sinh Thánh rành rành chẳng nghi"
……
Trong tập sấm cũng ghi một lời rất đặc biệt:
"Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ
Hưng tộ diên trường ức vạn xuân"
(Đất nước Hồng Lam này sau ta 500 năm sẽ là một thời kỳ hưng thịnh vạn mùa xuân)
Nguyễn Bỉnh Khiêm mất năm 1585, thọ 94 tuổi. Ba
trăm năm sau, trong bộ sách lớn "Lịch triều hiến chương loại chí", nhà văn hóa Phan Huy Chú đã coi Nguyễn Bỉnh
Khiêm là "Một bậc kỳ tài, hiển danh muôn thuở".
...........................................................
(*) Xưa nay có rất nhiều bản khác nhau vì nhiều
người sửa đổi. Không biết bản nào là bản chính, nên trước khi san định, nghiên cứu, chúng ta phải sưu tập tài
liệu. Tại các thư viện Việt Nam nhất là tại Hà Nội có nhiều bản Sấm Trạng Trình
chữ Nôm và các bản này cũng khác nhau. Sấm ký ở bản A có 262 câu, gồm 14 câu
“cảm đề” và 248 câu “sấm ký” là gốc của bản Quốc ngư Hoàng Xuân và Thời Tập.
Bản AB.444 Viện Hán Nôm gốc của bản quốc ngữ Mai Lĩnh.` Ngoài bản A còn có ít nhất
ba dị bản về sấm Trạng Trình. Tài liệu liên quan hiện có 20 văn bản, trong đó 7
bản là tiếng Hán Nôm lưu tại Thư viện Khoa học Xã hội (trước đây là Viện Viễn
Đông Bác Cổ) và Thư viện Quốc gia Hà Nội. Trước 1975, tại miền Nam đã có khoảng
20 bản quốc ngữ, nay Hà Nội cũng in thêm vài bản. Bản tiếng quốc ngữ phát hiện
sớm nhất có lẽ là Bạch Vân Am thi văn tập in trong Quốc Học Tùng Thư năm 1930
mà hiện nay vẫn chưa tìm được.
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
Sấm ký (I)
Khỉ hú trời Nam cá hoá rồng,
Gà kêu Nam Bắc hội Hoa Long,
Lần tay đếm lại Năm Ba Chín,
Mới thấy điềm may giống Lạc Hồng.
Chăm chỉ chờ ngày sang Mậu Ngũ,
Ước ao đặng thấy buổi Canh Thân,
Cho hay bốn bể ba đào dậy,
Cù rống kêu vang giống Lạc Hồng.
………………..
Sấm ký của Trạng Trình đối với nước Việt.
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
Sấm ký (II)
1. Vận lành mừng gặp tiết lành
Thấy trong quốc ngữ lập tành nên câu
Một câu là một nhiệm màu
Anh hùng gẫm được mới hầu giá cao
5. Trải vì sao mây che Thái Ất
Thủa cung tay xe nhật phù lên
Việt Nam khởi tổ gây nên
Lạc Long ra trị đương quyền một phương
Thịnh suy bĩ thái chẳng thường
10. Một thời lại một nhiễu nhương nên lề.
Ðến Ðinh Hoàng là ngôi cửu ngủ
Mở bản đồ rủ áo chắp tay
Ngự đao phút chốc đổi thay (1)
Thập bát tử (giầy) rày quyền đã nổi lên (2)
15. Ðông A âm vị nhi truyền (3)
Nam phương kỳ mộc bỗng liền lại sinh (4)
Chấn cung hiện nhật quang minh (5)
Sóng lay khôn chống trường thành bền cho
Ðoài cung vẻ rạng trăng thu
20.Ra tay mở lấy đế đô vạn toàn
Sáng cửu thiên ám vừng hồng nhật (6).
Dưới lẩn trên ăn vẫn uống quen
Sửa sang muôn vật cầm quyền
Ngồi không ai dễ chẳng nhìn giúp cho
25.Kìa liệt vương khí hủ (7) đồ ủng
Mặc cường hầu ông ổng tranh khôn.
Trời sinh ra những kẻ gian
Mặc khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài
Áo vàng ấm áp đà hay
30.Khi sai đắp núi khi sai xây thành
Lấy đạc điền làm công thiên hạ
Ðược mấy năm đất lở riếng (8) mòn
Con yết ạch ạch tranh khôn
Vô già mở hội mộng tôn làm chùa
35.Cơ trời xem đã mê đồ
Ðã đô lại muốn mở đô cho người
Ấy lòng trời xui lòng bất nhẫn
Suốt vạn dân cưu giận nhạn (9) than
Dưới trên dốc trí lo toan
40.Những đua bán tước bán quan làm giàu
Thống ru nhau làm mồi phú quí
Mấy trung thần có ý an dân
Ðua nhau làm sự bất nhân
Ðã tuần rốn bể lại tuần đầu non
45.Dư đồ chia rẽ càn khôn (10)
Mối giường ( 11) man mác khiếp mòn lòng nhau.
Vội sang giàu giết người lấy của
Sự có chăng mặc nọ ai đôi (12)
Việc làm bất chính tơi bời
50.Mình ra bỗng lại thấy thôi bấy giờ
Xem tượng trời đã gia (13) ra trước
Còn hung hăng bạc ngược quá xưa
Cuồng phong cả sớm liền trưa
Ðã đờn cửu khúc còn thơ thi đề
55. Ấy Tần Vương ngu mê chẳng biết
Ðể vạn dân dê lại giết dê
Luôn năm chật vật đi về
Âm binh ở giữa nào hề biết đâu
Thấy thành đô tiếng kêu ong ỏng
60. Cũng một lòng trời chống khác nào
Xem người dường vững chiêm bao
Nào đâu còn muốn ước ao thái bình
Một góc thành làm tám chúng quỷ
Ðua một lòng ích kỷ hại nhân
65. Bốn phương rỡ rỡ hồng trần
Làng khua mỏ cá , làng phân điếm tuần (14)
Tiếc là những xuất dân làm bạo
Dục khua loài thỏ cáo tranh nhau
Nhân danh trọn hết đâu đâu
70. Bấy giờ thiên hạ âu sầu càng ghê
Hùm già lạc dấu khôn về
Mèo non chi chí tìm về cố hương
Chân dê móng khởi tiêu tường
Nghi nhau ai dễ sửa sang một mình
75.Nội thành hoảng hốt hư kinh (15)
Ðầu khỉ tin sứ chèo thành lại sang
Bở mồ hôi Bắc giang tái mã
Giữa hai xuân bỗng phá tổ long
Quốc trung kinh dụng cáo không
80.Giữa năm vả lại khiếm hung mùa màng
Gà đâu sớm gáy bên tường
Chẳng yêu thì cũng bất tường chẳng không
Thủy binh cờ phất vầng hồng
Bộ binh tấp nập như ong kéo hàng
85. Ðứng hiên ngang đố ai biết trước
Ấy Bắc binh sang việc gì chăng ?
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ, tưng bừng đôi nơi
Chưa từng thấy đời nào sự lạ
90. Bỗng khiến người giá họa cho dân
Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao chẳng dục dân ruộng cày
Ðã nên si Hoàn Linh đời Hán (16)
Ðúc tiền ra bán tước cho dân
95.Xun xoe những rắp cậy quân
Chẳng ngờ thiên xoay vần đã công
Máy hoá công nắm tay dễ ngỏ
Lòng báo thù ai dễ đã nguôi (17)
Thung thăng tưởng thấy đạo trời
100. Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân ra (18)
Cát lầm bốn bể can qua
Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về (19)
Quân hùng binh nhuệ đầy khe
Kẻ xưng cứu nước kẻ khoe trị đời
105. Bấy giờ càng khốn ai ôi
Quỉ ma chật vật biết trời là đâu ?
Thương những kẻ ăn rau ăn rới (20),
Gặp nước bung (21) con cái ẩn đâu
Báo thù ấy chẳng sai đâu
110.Tìm non có rẫy chưng sau mới toàn
Xin những kẻ hai lòng sự chúa
Thấy đâu hơn thì phụ thửa ân
Cho nên phải báo trầm luân
Ai khôn mới được bảo thân đời này.
*****
115. Nói cho hay khảm cung rồng dấy
Chí anh hùng xem lấy mới ngoan
Chữ rằng lục thất nguyệt gian
Ai mà nghĩ được mới gan anh tài
Hễ nhân kiến (22) đã dời đất cũ
120. Thì phụ nguyên mới chổ (trổ) (23) binh ra
Bốn phương chẳng động can qua
Quần hùng các xứ điều hoà làm tôi
Bấy giờ mở rộng qui khôi
Thần châu thu cả mọi nơi vạn toàn
*****
125. Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Hoàng phúc xưa đã định tây phong
Làu làu thế giới sáng trong
Lồ lộ mặt rồng đầu có chữ vương
Rõ sinh tài lạ khác thường
130.Thuấn Nghiêu là trí Cao Quang là tài
Xem ý trời có lòng khải thánh
Dốc sinh hiền điều đỉnh hộ mai
Chọn Đẩu, Thai (24) những vì sao cả
Dùng ở tay phụ tá vương gia
135. Bắc phương chính khí sinh ra
Có ông Bạch sĩ điều hoà hôm mai
Song thiên nhật rạng sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì coi cho tường
Ðời này thánh kế vi vương
140.Ðủ no đạo đức văn chương trong mình
Uy nghi trạng mạo khác hình
Thác cư một gốc kim tinh phương đoài
Cùng nhau khuya sớm dưỡng nuôi
Chờ cơ sẽ mới ra tài cứu dân
145. Binh thơ mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý nhân luân càng mầu
Ở đâu đó anh hùng hẳn biết
Xem sắc mây đã biết thánh long
Thánh nhân cư có thụy cung
150. Quân thần đã định gìn lòng chớ tham
Lại dặn đấng tú nam chí cả
Chớ vội vàng tất tả chạy rông
Học cho biết lý kiết hung
Biết phương hướng hội có dùng lầm chi.
155. Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ chi ngộ màng gì tưởng trông
Kìa những kẻ vội lòng phú quí
Xem trong mình một tí (25) đều không
Ví dù có gặp ngư ông
160.Lưới chài đâu sẵn nên công mà hòng
Xin khuyên đấng thời trung quân tử
Lòng trung nghì ai nhớ cho tinh.
Âm dương cơ ngẫu ngô sinh
Thái nhâm thái ất trong mình cho hay
165. Văn thì luyện nghiên bài quyết thắng
Khen Tử Phòng cũng đấng Khổng Minh
Võ thông yên thủy, thần kinh
Ðược vào trận chiến mới rành biến cơ
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
170. Biết ray tay miệng biến? nói không
Ngõ hay gặp hội mây rồng
Công danh choi chói chép trong vân đài
Bấy giờ phỉ sức chí trai
Lọ là cho phải ngược xuôi nhọc mình
175.Nặng lòng thật có vĩ kinh
Cao tay mới gẩm biết tình năm nao
Trên trời có mấy vì sao
Ðủ no hiền tướng anh hào đôi nơi
Nước Nam thường có thánh tài
180.Ai khôn xem lấy hôm mai mới tường
So mấy lời để tàng kim quỉ
Chờ hậu mai có chí sẽ cho
Trước là biết nẻo tôn phò
Sau là cao chí biết lo mặc lòng
*****
185.Xem đoài cung đến thời bất tạo
Thấy vĩ tinh liệu rạo (rảo, tháo?) cho mau
Nguôi lòng tham tước tham giàu
Tìm nơi tham ( tam ?) hiểm mới hầu bảo thân
Trẻ con mang mệnh tướng quân
190.Ngỡ oai đã dậy, ngỡ nhân đã nhường
Ai lấy gương vua U thủa trước
Loạn ru vì tham ngược bất nhân.
Ðòi phương ong khởi lần lần
Muôn sinh ba cốc cầm binh dấy loàn
195.Man mác một đỉnh Hoành Sơn (26)
Thừa cơ liền mới nổi cơn phục thù
Ấy là những binh thù thái thái
Lòng trời xui ai nấy biết ru ?
Phá điền đầu khỉ cuối thu (27)
200.Tái binh mới động thập thò liền sang
Lọ chẳng thường trong năm khôn xiết
Vẻ lại thêm hung hiệt mất mùa
Lưu tinh hiện trước đôi thu
Bấy giờ thiên hạ mây mù đủ năm
205. Coi thấy những sương xâm tuyết lạnh
Loài bất bình tranh mạnh hung hăng
Thành câu cá, lửa tưng bừng
Kẻ ngàn Ðông Hải người rừng Bắc Lâm
Chiến trường chốn chốn cát lầm
210. Kẻ nằm đầy đất kẻ trầm đầy sông
Sang thu chín huyết hồng tứ giả
Noi đàn dê tranh phá đôi nơi
Ðua nhau đồ thán quần lê
Bấy giờ thiên hạ không bề tựa nương
215.Kẻ thì phải thửa hung hoang
Kẻ thì binh hỏa chiến trường chết oan
Kẻ thì mắc thửa hung tàn
Kẻ thì bận của bỗng toan khốn mình
Muông vương dựng tổ cắn tranh
220.Ðiều thì làm chước xuất binh thủ thành
Bời bời đua mạnh tranh giành
Ra đâu đánh đấy đem binh sớm ngày
Bể thanh cá phải ẩn cây
Ðất bằng nổi sấm cát bay mịt mù
225. Nào ai đã dễ nhìn u
Thủy chiến bộ chiến mặc dù đòi cơn
Cây bay lá lửa đôi ngàn
Một làng còn mấy chim đàn bay ra
Bốn phương cùng có can qua
230. Làm sao cho biết nơi hòa bảo thân
Ðoài phương thực có chân nhân
Quần tiên khởi nghĩa chẳng phân hại người
Tìm cho được chốn được nơi
Thái nguyên một giải lần chơi trú đình (28)
235.Bốn bề núi đá riễu quanh
Một đường tiểu mạch nương mình đấy an
Hễ Ðông Nam nhiều phen tàn tặc
Lánh cho xa kẻo mắc đao binh
Bắc kinh mới thật đế kinh
240. Giấu thân chưa dễ giấu danh được nào
Chim hồng vỗ cánh bay cao
Tìm cho được chốn mới vào thần kinh.
Ai dễ cứu con thơ sa giếng
Ðua một lòng tranh tiếng giục nhau.
245. Vạn dân chịu thửa âu sầu
Kể dư đôi ngũ mới hầu khoan cho
Cấy cày thu đãi thời mùa
Bấy giờ phá ruộng lọ chờ mượn ai
Nhân ra cận duyệt viễn lai
250.Chẳng phiềnbinh nhọcchẳng nài lương thêm
Xem tượng trời biết đường đời trị
Gẫm về sau họ Lý xưa nên
Giòng nhà để thấy dấu truyền
Gẫm xem bốn báu còn in đời đời
255.Thần qui cơ nổ ở trời
Ðể làm thần khí thửa nơi trị trường
Lại nói sự Hoàng Giang sinh thánh
Sông Bảo Giang thiên định ai hay
Lục thất cho biết ngày dầy (rày)
260.Phụ nguyên ấy thực ở giầy (rày)Tào khê(29)
Có thầy Nhân thập (30) đi về
Tả phụ hữu trì cây cỏ làm binh
Giốc hết sức sửa sang vương nghiệp
Giúp vạn dân cho đẹp lòng trời
265.Ra tay điều đỉnh hộ mai
Bấy giờ mới biết rằng tài yên dân
Lọ là phải nhọc kéo quân
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về
Năm giáp tý vẽ khuê đã rạng
270.Lộ Ngũ tinh trinh tượng thái hanh
Ân trên vũ thí vân hành
Kẻ thơ ký tuý kẻ canh xuân đài
Bản đồ chảng sót cho ai
Nghìn năm lại lấy hội nơi vẹn toàn
275.Vững nền vương cha truyền con nối
Dõi muôn đời một mối xa thư
Bể kình tăm lặng bằng tờ
Trăng thanh ai chẳng ơn nhờ gió xuân
Âu vàng khỏe đặt vững chân
280.Càng bền thế nước vạn xuân lâu dài
*****
281. Vừa năm nhâm tý xuân đầu
Thanh nhàn ngồi tựa hương câu nghĩ đời
Quyển vàng mở thấy sấm trời
Từ Ðinh đổi đời chí lục thất gian (31)
285.Một thời có một tôi ngoan
Giúp trong việc nước gặp an thái bình
Luận chung một tập kim thời
Tướng quyền tử sĩ nam nhi học đòi
Trượng phu có chí thời coi
290.Những câu nhiệm nhặt đáng đôi nhành vàng
Tài nầy nên đấng vẻ vang
Biết chừng đời trị biết đường đời suy
Kể từ nhân doãn mà đi (32)
Số chưa gặp thì biết hoà (mà) chép ra
295.Tiếc thay hiền sĩ bao già
Ước bằng Bành Tổ ắt là Thái Công
Thử cho tay giúp ra dùng
Tài này so cùng tài trước xem sao
Trên trời kể chín tầng cao
300. Tai nghe bằng một ti hào biết hay (33)
Hiềm vì sinh phải thời này
Rấp phù mở nước tiếc thay chưng đời.
Hợp đà thay thánh nghìn tài
Dáng sinh rủi kiếp quỉ ma nhà trời
305.Nói ra thì lậu sự đời
Trái tai phải lụy tài trai khôn luần
Nói ra ám chúa bội quân
Ðương thời đời trị xoay vần đặng đâu.
Chờ cho nhân doãn hết sau ,
310.Ðến chừng đời ấy thấy âu nhiều nàn
Trời xui những kẻ ắt (34) gian
Kiếp đời đạo thiết làm loàn có hay
Vua nào tôi ấy đã bày
Trên đầu bất chính dưới nay dấy loàn
315. Ðua nhau bội bạn nghịch vi
Ích gia phi kỷ dân thì khốn thay
Tiếc tài gẫm được thời hay
Ðã sao như vậy ra tay sẽ dùng
Tài trai có chí anh hùng
320.Muốn làm tướng súy lập công chưng đời
Khá xem nhiệm nhặt tộ trời
Cơ mưu nhiệm nhặt mấy trai anh hùng
Ði tìm cho đến đế cung
Rấp phù xuất lực đế cung được toàn.
325. Bảo nhau cương kỷ cho tường
Bốn phương cũng được cho yên trong ngoài
Chờ cho động đất chuyển trời
Bấy giờ thánh sẽ nên trai anh hùng
Còn bên thì náu chưa xong
330. Nhân lực cướp lấy thiên công những là
Ðời ấy những quỉ cùng ma
Chẳng còn ở thật người ta đâu mà
Trời cao đất rộng bao xa
Làm sao cho biết cửa nhà đế vương
335.Dù trai ai chửa biết tường
Nhất thổ thời sĩ Khảm Phương thuở này
Ý ra lục thất gian nay,
Thời vận đã định thời nầy hưng vương
Trí xem nhiệm nhặt cho tường
340.Bảo Giang thánh xuất trung ương thuở nầy
Vua ngự thạch bàn xa thay
Ðại ngàn vắng vẻ những cây cùng rừng
Gà kêu vượn hót vang lừng
Ðường đi thỏ thẻ dặm chưn khôn dò
345.Nhân dân vắng mạt bằng tờ
Sơn lâm vào ở đổ nhờ khôn thay
Vua còn cuốc nguyệt cày mây
Phong điều vũ thuận thú rày an dân
Phong đăng hoà cốc chứa chang
350.Vua ở trên ngàn có ngũ sắc mây
Chính cung phương khảm vần mây
Thực thay thiên tử là nay trị đời
Anh hùng trí lượng thời coi
Công danh chẳng ngại tìm đòi ra đi
355.Tìm lên đến thạch bàn khê
Có đất sinh thánh bên kia cuối làng
Nhìn đi nhìn lại cho tường
Dường như chửa có sinh vương đâu là
Chảng tìm thì đến bình gia
360.Thánh chưa sinh thánh báo ca địa bình
Nhìn xem phong cảnh cũng xinh
Tả long triều lại có thành đợt vây
Hửu hổ uấn khúc giang này
Minh Ðường thất diệu trước bày mặt ta.
365.Ở xa thấy một con voi
Cúi đầu quen bụi trông (35) hồ sau
Ấy điềm thiên tử về chầu
Tượng trưng đế thánh tộ lâu trị đời
Song thiên nhật nguyệt sáng soi
370.Sinh đặng chùa ấy là ngôi chẳng cầu
Ðến thời thịnh vượng còn lâu
Ðành đến tam hợp chia nhau sẽ làm
Khuyên cho Ðông Bắc Tây Nam
Muốn làm tướng súy thì xem trông này
*****
375.Thiên sinh thiên tử ư hỏa thôn
Một nhà họ Nguyễn phúc sinh tôn
Tiền sinh cha mẹ đà cách trở
Hậu sinh thiên tử Bảo Giang môn
*****
Kìa cơn gió thổi lá rung cây (36)
380. Rung Bắc sang Nam Ðông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây
Sơn lâm nổi sóng mù thao cát
Hưng địa tràng giang hóa nước đầy
385.Một gió một yên ai sùng bái
Cha con người Vĩnh Bảo cho hay
*****
Con mừng búng tít con quay
Vù vù chong chóng gió bay trên đài
Nhà cha cửa đóng then cài
390. Ầm ầm sấm động hỏi người đông lân
Tiếc tám lạng thương nửa cân
Biết rằng ai có dù phần như ai
Vắt tay nằm nghỉ dông dài
Thương người có một lo hai phận mình.
*****
395.Canh niên tàn phá
Tuất hợi phục sinh
Nhị ngũ dư bình
*****
Long hổ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua tứ xứ khởi đao binh
400. Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình.(37)
*****
Non đoài vắng vẻ bấy nhiêu lâu
Có một đàn xà đánh lộn nhau
Vượn nọ leo cành cho sỉ bóng
405.Lợn kia làm quái phải sai đầu
Chuột nọ lăm le mong cắn tổ
Ngựa kia đủng đỉnh bước về tầu
Hùm ở trên rừng gầm mới dậy
Tìm về quê cũ bắt ngựa tầu.
*****
410.Cửu cửu kiền khôn dĩ định (38)
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập trường an.
*****
Bảo Giang thiên tử xuất
415. Bất chiến tự nhiên thành
Lê dân đào bão noãn
Tứ hải lạc âu ca
Dục thức thánh nhân hương
Qua kiều cư Bắc phương
420. Danh vi Nguyễn gia tử
Kim tịch sinh ngưu lang
*****
Thượng đại nhân bất nhân
Thánh ất dĩ vong ân
Bạch hổ kim đai ấn
425.Thất thập cổ lai xuân
*****
Bắc hữu kim thành tráng
Nam tạc ngọc bích thành (39).
Hỏa thôn đa khuyển phệ
Mục giả dục nhân canh
*****
430.Phú quí hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
Anh hùng vương kiếm kích
Man cổ đổ thái bình
Nam Việt hửu Ngưu tinh
435. Quá thất thân thủy sinh
Ðiạ giới sĩ vị bạch
Thủy trâm nhi bắc kinh
Ký mã xu dương tẩu
Phù kê thăng đại minh
440.Chư thử giai phong khởi
Thìn mão xuất thái bình
*****
Phân phân tùng Bắc khởi
Nhiểu nhiểu xuất Ðông chinh
Bảo sơn thiên tử xuất
445. Bất chiến tự nhiên thành
*****
Thủy trung tàng bảo cái
Hứa cập thánh nhân hương
Mộc hạ châm châm khẩu
Danh thế xuất nan lường
*****
450. Danh vi Nguyễn gia tử
Tinh bản tại Ngưu lang
Mại dữ lê viện dưỡng
Khởi nguyệt bộ đại giang
Hoặc kiều tam lộng ngạn
455. Hoặc ngụ kim lăng cương
Thiên dữ thần thực thụy
Thụy trình ngũ sắc quang
Kim kê khai lựu điệp
Hoàng cái xuất quí phương
460. Nhân nghĩa thùy vi địch.
Ðạo đức thùy dữ đương
Tộ truyền nhị thập ngũ
Vận khải ngũ viên trường
Vận đáo dương hầu ách
465. Chấn đoài cương bất trường
Quần gian đạo danh tự
Bách tính khổ tai ương
Can qua tranh đấu khởi
Phạm địch thán hung hoang.
470.Ma vương sát đại quỉ
Hoàng thiên tru ma vương
Kiền khôn phú tái vô lường
Ðào viên đỉnh phát quần dương tranh hùng (40)
Cơ nhị ngũ thư hùng vị quyết
475.Ðảo Hoành Sơn tam liệt ngũ phân
Ta hồ vô phụ vô quân
Ðào viên tán lạc ngô dân thủ hành.
Ðoài phương phúc điạ giáng linh
Cửu trùng thụy ứng long thành ngũ vân.
480. Phá điền thiên tử giáng trần
Dũng sĩ nhược hải mưu thần như lâm.
Trần công nãi thị phúc tâm
Giang hồ xử sĩ Đào Tiềm xuất du
Tướng thần hệ xuất y chu
Thứ ky phục kiến Ðường ngu thi thành
Hiệu xưng thiên hạ thái bình
487.Ðông Tây vô sự Nam thành quốc gia .
............................
(1). Đao: chỉ họ Lê có chữ đao .Họ Lê lên thay
họ Đinh.
(2). Thập bát tử: họ Lý nối ngôi
(3). Đông A là nhà Trần . Âm vị là con gái.
Trần Cảnh lấy Chiêu hoàng là nữ, là vợ truyền
ngôi cho chồng.
(4). Kỳ mộc: cây lạ, chỉ họ Lê. Lê Lợi lên
ngôi.
(5).Chấn cung nhật hiện: chỉ họ Mạc, vì trong
chữ Mạc có chữ nhật.
(6).Cửu thiên hồng nhật: họ Trịnh chữ Trịnh có
chữ nhật.
Kìa liệt vương khí hủ đồ ủng
Mặc cường hầu ông ổng tranh khôn
Trời sinh ra những kẻ gian
Mặc khôn đổi phép, mặc ngoan tham tài.
Họ Trịnh là cường hầu, lấn áp vua Lê, thay đổi
mọi khuôn phép.
(7). Khí hủ: hủ là hư nát trong nghĩa hủ bại.
Các bản khác ghi là hư.
(8). riếng: chữ giếng viết sai chính tả. Người
Bắc viết sai d,g,r như tự ro, rân chủ, Khánh Giư .
(9).Cưu, nhạn là chim cưu và chim nhạn, nói
nhân dân.
(10).Dư đồ chia xẻ: Trịnh Nguyễn phân tranh.
(11). Mối giường: mối giềng.
(12).Đôi: đôi chối, đôi co: nghĩa là cãi cọ,
tranh luận.
(13): Gia: giơ
(14). Mõ cá: cái mõ băng gỗ, hình con cá, thôn
quê ngày xưa dùng báo hiệu. Điếm tuần: điếm là nơi canh gác, thường là cái chòi
tranh để tuần phu ngồi rtrong lúc canh phòng. Tuần là đi rảo xung quanh để xem
xét kẻ gian phi.
(15). Từ câu 75-86 nói năm mậu thân 1788, vua
Lê và hoàng thái hậu chạy sang Trung Quốc cầu viện, rồi quân nhà Thanh sang Thăng Long.
Năm kỷ dậu 1789, Nguyễn Huệ đánh tan quân Thanh.
(16). Câu 89-99: Nhà Trịnh mua quan bán tước,
làm khổ dân như hai vua Hoàn Đế (146-168), và Linh Đế 156 – 189) tin dùng hoạn
quan, giết hại trung thần, khiến chế độ suy tàn.
(17). Báo thù: Lê Chiêu Thống theo Tôn Sĩ Nghị
về, báo ơn báo oán, gây nhiều việc thất đức. Xem Hoàng Lê Nhất Thống Chi và
Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim.
(18). Câu 100: Phù Lê diệt Mạc nghỉ dời quân
ra . Cát lầm bốn bể can qua . . .Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về .
Nói việc Nguyễn Huệ ra Bắc lấy cớ phù Lê diệt
Trịnh xong lại vào Nam, sau đem quân ra Bắc đánh tan quân Tôn Sĩ Nghị.
(19). Nguyễn thì chẳng được sẽ ra lại về:
Nguyễn Huệ ra Băc lại về Thuận Hóa..
(20).Ăn rau ăn rới: có bản ghi “giới”. Giới là
rau, là đồ hèn hạ (rác rới, rác rưới, rác rưởi)
(21). Bung: phát ra, nổ ra, tràn ra.
(22). Nhân kiến : Chỉ Lê Chiêu Thống , 1765 –
1793), tên thật là Lê Duy Khiêm tên là. Duy Khiêm. Chữ Khiêm trong có chữ Kiến
. Khi Lê Chiêu Thống theo quân Thanh chạy sang Trung Quốc, bỏ Thăng Long, sau
đó một thời gian thì Nguyễn Ánh đem binh ra đánh tan Tây Sơn, thống nhất đất
nước.
(23). Chổ viết sai, ch/tr, trổ là lộ ra, nở ra
(trổ bông, trổ mã), nghĩa là kéo binh ra.
(24).Đẩu, Thai: tên hai ngôi sao. Nói về triều
Nguyễn quần thần tốt đẹp.
(25). Có bản ghi một thí. Một tí, hay một thí:
là một chút (ngôn ngữ miền Trung).
(26). Đỉnh Hoành sơn: nói về chiến tranh giữa
Trịnh, Nguyễn và Tây Sơn tại miền Trung.
(27). Câu 199-200: Phá điền đầu khỉ cuối thu /
Tái binh mới động thập thò liền sang. Phá điền là quốc phá, là nước mất bởi vì
chữ điền giống chữ Quốc , cả hai chữ thuộc bộ vi .
Tái binh là binh ngoài biên cương, binh ngoại
quốc Nói việc quân Pháp xâm chiếm Việt Nam, đánh Gia Định, Đà Nẵng trong năm
canh thân (1860).
(28). Câu 231-240: ” Quần tiên khởi nghĩa
chẳng phân hại người /Tìm cho được chốn được nơi Thái nguyên một giãi lần chơi
trú đình / . ,. . . . . . ,. .Bắc kinh mới thật đế kinh / Dấu thân chưa
dễ dấu danh được nào . Thái Nguyên là nơi núi rừng ở biên giới, đời Mạc,
anh em Vũ Văn Mật đã xây dựng thành một vùng trù phú. Sau Hoàng Hoa Thám trong khoảng
1900 đã lập chiến khu tại đây, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng muốn giúp sức
Hoàng Hoa Thám. Việt Nam Quang Phục hội sau khi Hoàng Hoa thám thảm bại vẫn
hoạt động cho đến 1913. Năm 1917, Trịnh Văn Cấn và Lương NGọc Quyến khởi binh
chống Pháp...
(29). Giầy, dầy: Rầy, rày
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
Sấm ký (III)
Thái hoà vũ trụ bất Ngu Chu,
Hỗ chiến giao tranh tiếu lưỡng thù.
Xuyên huyết sơn hài tuỳ xứ hữu,
Uyên ngư tùng trước vị thuỳ khu.
Trùng hưng dĩ bốc độ giang mã,
Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu.
Thế sự đáo đầu hưu thuyết trước,
Tuý ngâm trạch bạn nhậm nhàn du.
(Người dịch: (Không rõ))
Thái hoà chẳng thấy cảnh Ngu Chu,
Hai phái thù hằn chém giết nhau.
Nhuộm máu phơi xương đà khắp chốn,
Xua chà đuổi sẻ vị ai đâu ?
Trùng hưng duỗi ngựa qua sông trước,
Hậu hoạn phòng beo tiến cửa sau.
Ngán nỗi việc đời thôi phó mặc,
Say rồi dạo suối hát vài câu.
....................
Những năm Quang Thiệu (1516-1526), gặp lúc loạn
lạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm về ẩn cư để dạy học trò, lấy Đạo làm vui, chẳng cầu danh tiếng, nhưng sang đến thời
đầu niên hiệu Thống Nguyên (tức Lê Hoàng Đệ Thung) thì Trịnh Tuy và Mạc Đăng Dung cũng đều có ý hiếp chế Thiên
tử để sai khiến chư hầu, hai bên gây cuộc nội chiến, khiến trong nước chịu cảnh lầm than, lúc ấy ông có cảm hứng
bài thơ này.
Sở dĩ có bài thơ trên vì ông biết rõ nhà Lê sẽ
được trung hưng, dẫu rằng ngày nay tạm phải tìm kế an thân, nhưng rồi sau đây tất nhiên sẽ lại khôi phục được
nước, mà câu: Beo tiến cửa sau, chỉ là nói kín đó thôi. Quả nhiên về sau, nhà Lê trung hưng, bốn phương trở lại yên tịnh,
bấy giờ bạn hữu đều khuyên ông ra làm quan, đến năm 44 tuổi ông mới chịu ra ứng thí, khoa hương thi ấy, ông
được đỗ đầu, rồi năm sau, tức là năm thứ 6 đời nhà Mạc (1535), lại ra tỉnh thì được đỗ thứ nhất, khi vào đình đối,
lại đỗ Tấn Sĩ đệ nhứt danh, được bổ chức Đông Các Hiệu Thư, trong thời Thái Tông nhà Mạc, ông có làm 2 bài thơ
"Xuân thiên ngự tửu", đều được hạng ưu, rồi thăng chức Hữu Thị Lang Hình Bộ, sau thời gian ngắn lại thăng chức Tả
Thị Lang, kiêm chức Đông Các Đại Học Sĩ.
Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
Sấm ký (IV) (*)
1. Cảm đề
1- Thanh nhàn vô sự là tiên
Năm hồ phong nguyệt ruổi thuyền buông chơi
Cơ tạo hoá
Phép đổi dời
Đầu non mây khói tỏa
Mặt nước cánh buồm trôi
Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi
Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh trời
Tuổi già thua kém bạn
10-Văn chương gửi lại đời
Dở hay nên tự lòng người cả
Nghiên bút soi hoa chép mấy lời
Bí truyền cho con cháu
Dành hậu thế xem chơi
2. Sấm ký
15- Nước Nam từ họ Hồng Bàng
Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi dời
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần thuở trước
Đã bao lần ngôi nước đổi thay
Núi sông thiên định đặt bày
Đồ thư một quyển xem nay mới rành
21- Hoà đao mộc lạc,
Thập bát tử thành.
Đông A xuất nhập
Dị mộc tái sinh.
25- Chấn cung xuất nhật
Đoài cung vẫn tinh.
Phụ nguyên trì thống,
Phế đế vi đinh.
29- Thập niên dư chiến,
Thiên hạ cửu bình.
Lời thần trước đã ứng linh,
Hậu lai phải đoán cho minh mới tường.
33- Hoà đao mộc hồi dương sống lại
Bắc Nam thời thế đại nhiễu nhương.
Hà thời biện lại vi vương,
Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn.
37- Lê tồn, Trịnh tại,
Lê bại, Trịnh vong.
Bao giờ ngựa đá sang sông,
Thì dân Vĩnh Lại quận công cả làng.
Hà thời thạch mã độ giang.
Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu.
43- Chim bằng cất cánh về đâu?
Chết tại trên đầu hai chữ quận công.
Bao giờ trúc mọc qua sông,
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây.
47- Đoài cung một sớm đổi thay,
Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn.
Đầu cha lộn xuống chân con,
Mười bốn năm tròn hết số thời thôi.
51- Phụ nguyên chính thống hẳn hoi,
Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê.
Dục lòng chim chích u mê,
Thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm.
55- Để loại quỷ bạch Nam xâm,
Làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly
Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy
Gia đình một ở ba đi dần dần.
Cho hay những gã công hầu,
Giầu sang biết gửi nơi đâu chuyến này.
61- Kìa kìa gió thổi lá rung cây
Rung Bắc, rung Nam, Đông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây.
65- Lâm giang nổi sóng mù thao cát,
Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy.
Một ngựa một yên ai sùng bái?
Nhắn con nhà vĩnh bảo cho hay.
69- Tiền ma bạc quỷ trao tay
Đồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua,
Giữa năm hai bẩy mười ba,
Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây.
73- Rồng nằm bể cạn dễ ai hay,
Rắn mới hai đầu khó chịu thay,
Ngựa đã gác yên không người cưỡi
Dê không ăn lộc ngoảnh về Tây.
77- Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu
Gà kia vỗ cánh chập chùng bay
Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày.
81- Nói cho hay khảm cung ong dậy,
Chí anh hùng biết đấy mới ngoan.
Chữ rằng lục, thất nguyệt gian
Ai mà giữ được mới nên anh tài.
85- Ra tay điều độ hộ mai
Bấy giờ mới rõ là người an dân
Lọ là phải nhọc kéo quân,
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về.
89- Phá điền than đến đàn dê
Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng
Dê đi dê lại tuồn luồn
Đàn đi nó cũng một môn phù trì
93- Thương những kẻ nam nhi chí cả
Chớ vội sang tất tả chạy rong
Học cho biết chữ cát hung
Biết phương hướng đứng chớ đừng lầm chi
Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ nhi ngộ tưởng gì đợi mong.
99- Kìa những kẻ vội lòng phú quý
Xem trong mình một tí đều không
Ví dù có gặp ngư ông
Lưới dăng đâu dễ nên công mà hòng.
103- Khuyên những đấng thời trung quân tử
Lòng trung nghi nên giữ cho mình
Âm dương cơ ngẫu hộ sinh
Thái Nhâm, Thái Ất trong mình cho hay.
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
Hư vô bàn miệng tiếng nói không.
109- Ô hô thế sự tự bình bồng
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch
Kình ngư hải ngoại huyết lưu hồng.
113- Kê minh ngọc thụ thiên khuynh bắc
Ngưu xuất lam điền nhật chính đông
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng
Tứ phương thiên hạ thái bình phong.
117- Ngỡ may gặp hội mây rồng
Công danh rạng rỡ chép trong vân đài
Nước Nam thường có thánh tài
Sơn hà đặt vững ai hay tỏ tường?
121- So mấy lề để tàng kim quỹ
Kể sau này ngu bỉ được coi
Đôi phen đất lở, cát bồi
Đó đây ong kiến, dậy trời quỷ ma
125- Ba con đổi lấy một cha
Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền
Mão Thìn Tí Ngọ bất yên
Đợi tam tứ ngũ lai niên cùng gần.
129- Hoành Sơn nhất đái
Vạn đại dung thân
Đến thời thiên hạ vô quân
Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành.
133- Gà kêu cho khỉ dậy nhanh
Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung
Thiên sinh hữu nhất anh hùng
Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà.
137- Thái Nguyên cận Bắc đường xa
Ai mà tìm thấy mới là thần minh
Uy nghi dung mạo khác hình
Thác cư một góc kim tinh non đoài
141- Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi
Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân
Binh thư mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý, nhân dân phép màu
145- Xem ý trời ngõ hầu khải thánh
Dốc sinh ra điều đỉnh hộ mai
Song thiên nhật nguyệt sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì coi như tường
149- Thông minh kim cổ khác thường
Thuấn Nghiêu là trí, Cao Quang là tài
Đấng hiên ngang nào ai biết trước
Tài lược thao uyên bác vũ văn
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ hung hăng với người.
155- Chưa từng thấy nay đời sự lạ
Chốc lại mòng gá vạ cho dân
Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình?
159- Đã ngu dại Hoàn, Linh đời Hán
Lại đua nhau quần thán đồ lê
Chức này quyền nọ say mê
Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương
Kẻ thì phải thuở hung hoang
Kẻ thì bận của bổng toan, khốn mình
165- Cửu cửu càn khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An
169- Nực cười những kẻ bàng quang
Cờ tam lại muốn toan đường chống xe
Lại còn áo mũ xun xoe
Còn ra xe ngựa màu mè khoe khoang.
173- Ghê thay thau lẫn với vàng
Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng
Thánh ra tuyết tán mây tan
Bây giờ mới sáng rõ ràng nơi nơi.
177- Can qua, việc nước bời bời
Trên thuận ý trời, dưới đẹp lòng dân
Oai phong khấp quỷ kinh thần
Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca
181- Rừng xanh, núi đỏ bao la
Đông tàn, Tây bại sang gà mới yên
Sửu Dần thiên hạ đảo điên
Ngày nay thiên số vận niên rành rành.
185- Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình
189- Sự đời tính đã phân minh
Thanh nhàn mới kểchyện mình trước sau
Đầu thu gà gáy xôn xao
Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long.
193- Chó kêu ầm ỉ mùa đông
Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi
Lợn kêu tình thế lâm nguy
Quỷ vương chết giữa đường đi trên giời
197- Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra
Hùm gầm khắp nẽo gần xa
Mèo kêu rợn tiếng, quỷ ma tơi bời.
201- Rồng bay năm vẻ sáng ngời
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng
Ngựa hồng quỷ mới nhăn răng
Cha con dòng họ thầy tăng hết thời
205- Chín con rồng lộn khắp nơi
Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu
Lời truyền để lại bấy nhiêu
Phương đoài giặc đã đến chiều bại vong
Hậu sinh thuộc lấy làm lòng
Đến khi ngộ biến đường trong giữ mình.
211- Đầu can Võ tướng ra binh
Ắt là trăm họ thái bình âu ca
Thần Kinh Thái Ất suy ra
Để dành con cháu đem ra nghiệm bàn
215- Ngày thường xem thấy quyển vàng
Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi
Bởi Thái Ất thấy lạ đời
Ấy thuở sấm trời vô giá thập phân
219- Kể từ đời Lạc Long Quân
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian
Mỗi đời có một tôi ngoan
Giúp chung nhà nước dân an thái bình
223- Phú quý hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
Hoa thôn đa khuyển phệ
Mục giã giục nhân canh
Bắc hữu Kim thành tráng
Nam hữu Ngọc bích thành
Phân phân tùng bách khởi
Nhiễu nhiễu xuất đông chinh
Bảo giang thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành
233- Rồi ra mới biết thánh minh
Mừng đời được lúc hiển vinh reo hò
Nhị Hà một dải quanh co
Chính thực chốn ấy đế đô hoàng bào
Khắp hoà thiên hạ nao nao
Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng?
239- Nói đến độ thầy tăng mở nước
Đám quỷ kia xuôi ngược đến đâu
Bấy lâu những cậy phép màu
Bây giờ phép ấy để lâu không hào
243- Cũng có kẻ non trèo biển lội
Lánh mình vào ở nội Ngô Tề
Có thầy Nhân Thập đi về
Tả hữu phù trì, cây cỏ thành binh
247- Những người phụ giúp thánh minh
Quân tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai
Phùng thời nay hội thái lai
Can qua chiến trận để người thưởng công
251- Trẻ già được biết sự lòng
Ghi làm một bản để hòng giở xem
Đời này những thánh cùng tiên
Sinh những người hiền trị nước an dân
255- Này những lúc thánh nhân chưa lại
Chó còn nằm đầu khải cuối thu
Khuyên ai sớm biết khuông phù
Giúp cho thiên hạ Đường, Ngu ngỏ hầu.
259- Cơ tạo hoá phép mầu khôn tỏ,
Cuộc tàn rồi mới tỏ thấp cao.
Thấy sấm từ đây chép vào
Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa
...................................
(*) Sấm ký ở bản A có 262 câu, gồm 14 câu “cảm
đề” và 248 câu “sấm ký” là gốc của bản Quốc ngư Hoàng Xuân và
Thời Tập. Bản AB.444 Viện Hán Nôm gốc của bản
quốc ngữ Mai Lĩnh.
2. Nghệ thuật thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm
NGUYỄN HUỆ CHI
Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là một tác gia
lớn mà sự nghiệp bao trùm gần hết thế kỷ XVI. Với tư cách nhà thơ, ông sáng tác
cả thơ chữ Hán và thơ Nôm. Nhưng nếu thơ Nôm của ông có khá nhiều bài lẫn lộn
với thơ Nôm Nguyễn Trãi (1380-1442), đến nay vẫn chưa thể tách bạch, thì thơ
chữ Hán của ông lại mang những đặc điểm khác với thơ chữ Hán Nguyễn Trãi và
cũng khó trùng lẫn với thơ chữ Hán của bất kỳ ai. Nét riêng khu biệt thơ chữ
Hán Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được giới học giả bàn nhiều, nhất là từ hướng tiếp cận
nội dung tư tưởng. Lần này, xin thử góp thêm một đôi điều về hình thức nghệ
thuật.
Với số lượng 1.000 bài thơ như chính Nguyễn
Bỉnh Khiêm viết trong lời Tựa Bạch Vân am thi tập, có thể nói ngay rằng ông là
người sở trường về thơ chữ Hán, và ông gửi gắm tâm sự “cứu thế” cũng như tinh lực sáng
tạo trước hết vào thơ chữ Hán chữ không phải thơ Nôm. Có điều, trong tiến trình
phát triển của thơ ca dân tộc, do sớm chịu ảnh hưởng của ngôn ngữ và văn học Trung
Quốc, lại được đào luyện chu đáo ở các trường học chữ Hán, nên dòng thơ Hán - Việt
đã xuất hiện từ rất sớm và cũng thành thục từ khá lâu trước Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Là người làm thơ chứ Hán, Nguyễn Bỉnh Khiêm chỉ kế thừa truyền thống tốt đẹp đó
và phát triển lên chứ không có gì phải khổ công mò mẫm, tìm tòi như trong phần thơ
tiếng Việt. Tất nhiên, mọi thành tựu rực rỡ của quá khứ không phải bao giờ cũng có
tác động thuận lợi đối với tâm lý sáng tạo của nghệ sĩ. Thông thường mới bước chân vào
làng thơ, nhìn vào bề dày của lịch sử, người ta dễ cảm thấy ngợp và nếu không phải
là người có bản lĩnh, ít ai dám thách thức với những đỉnh cao sừng sững che rợp tầm
mắt mình. Giỏi lắm, người ta cũng chỉ làm theo người trước một cách thụ động là
cùng. Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm có những mặt quả đúng như vậy, nhưng cũng có mặt
không hoàn toàn như vậy. Có hứng thú làm đến 1.000 bài, một số lượng mà cho đến
thời của ông hình như vẫn chưa ai đạt đến (1), người nghệ sĩ trong Nguyễn Bỉnh
Khiêm chắc hẳn từ rất sớm đã được bồi dưỡng một năng khiếu và một cảm hứng sáng tạo
mạnh mẽ. Mặt khác, chắc hẳn ông cũng đã tắm gội trong ngọn nguồn của các dòng
thơ quá khứ, tiếp xúc với các phong cách tiêu biểu, trên cơ sở đó lựa chọn con
đường đi riêng cho mình. Ta sẽ thấy Nguyễn Bỉnh Khiêm tuy rất gần Nguyễn Trãi trong
phong cách thơ Nôm nhưng trong thơ chữ Hán của ông, ông đã không lựa chọn hình
thức biểu đạt kỳ vĩ để nói lên vẻ đẹp hùng tráng của thiên nhiên, cũng không bộc
bạch trực diện thân phận riêng của mình như trong thơ chữ Hán Nguyễn Trãi. Ông có
phần gần gũi với phong thái hồn hậu trong thơ Lý - Trần, mặc dầu chưa bao giờ
thơ ông đạt được vẻ tự nhiên tươi tắn của thơ Lý - Trần, và cũng không lắng đọng lại
trong thơ cái mầu sắc “sắc không” uyển chuyển của nhà Phật vốn là chiều sâu triết
lý của thơ Lý - Trần. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng có những mặt tiếp thu phong cách
trường thơ Nguyễn Bảo (1452-?), Thái Thuận (1441-?) ở thế kỷ XV với những nét
khắc họa bình đạm, giản dị khung cảnh sông núi, đồng ruộng, làng quê...
Nếu xét về đề tài thì thơ chữ Hán Nguyễn Bỉnh
Khiêm nói chung bao quát ba loại đề tài lớn: ngôn chí, tả cảnh, vịnh vật. Đó cũng
là những đề tài truyền thống của nhà nho chứ không có gì mới mẻ. Thêm nữa, trong thơ
ông, ba loại đề tài này cũng không tách bạch mà có xu hướng hòa trộn vào nhau, trong đó
đề tài “ngôn chí” hầu như len lỏi vào mọi hình thức khác. Điều này cũng là dễ
hiểu, bởi Nguyễn Bỉnh Khiêm vốn xuất thân từ cửa trường Khổng Mạnh, mà đối với lớp
người này, hoạt động thi ca bao giờ cũng là phương thức cao quý để người quân tử tỏ
bày chính kiến của mình. “Thi khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần... cận chi sự
phụ mẫu, viễn chi sự quân...”. Cho nên không thể cẩu thả hay tùy hứng trong nghệ thuật
làm thơ. Sự quy định chặt chẽ của một quan niệm như trên khiến cho Nguyễn Bỉnh
Khiêm dù cố gắng đến đâu cũng không thể thoát khỏi tính tượng trưng, ước lệ
trong quá trình sáng tác. Hình thức “ý tại ngôn ngoại” trong thơ ông vẫn là phổ biến.
Ông tả cảnh hay vịnh vật đấy mà thực chất là để nói lên một hoài bão, gửi gắm một
suy nghĩ, tâm tình không liên quan gì đến đối tượng mà ông miêu tả. Ông không quan
tâm đến tính chân thực cần có của sự tái hiện thẩm mỹ, vì ông không thấy có nhu cầu
phải mô tả vẻ đẹp tự nó của đối tượng như là một mục đích trọn vẹn của thi ca.
Về điểm này, thơ vịnh vật của Nguyễn Bỉnh Khiêm có phần gắn với trường phái Tao
đàn Hồng Đức dưới thời Lê Thánh Tông, và những đề tài “quả dừa”, “cây đa”, “con
ve”, “cây khoai”... của ông thật ra chẳng hề đem lại cho ta một cảm hứng khách
quan đúng đắn nào về những sự vật được ông nhắc tới. Chúng giữ vai trò của
những biểu tượng thuần túy. Mà cốt lõi trung tâm của loạt biểu tượng này trước
sau cũng vẫn quy tụ vào một hình ảnh: bậc đại nhân, người ẩn dật, kẻ sĩ quân
tử.
Nói về thể tài, thơ chữ Hán Nguyễn Bỉnh Khiêm
chủ yếu chia thành hai loại: thơ Đường luật và thơ cổ phong. Trong thơ Đường
luật, ông sáng tác cả thất luật và ngũ luật, nhưng thơ thất luật chiếm số lượng trội
hơn. Còn trong thơ cổ phong, hầu như ông chỉ dùng ngũ ngôn là chính.
Nguyễn Bỉnh Khiêm là người làm thơ Đường thành
thạo. Nhiều bài thơ Đường luật của ông giàu kỹ xảo điệp từ và đối thanh, đối ý
rất chỉnh, mà lại không hề có chút gò gẫm, chứng tỏ ông nhập vào môi trường thơ Đường
một cách thân thuộc như cá sống
trong nước, chứ không phải là một thợ thơ. Ông rất hay dùng từ điệp ở câu đầu và câu thứ
hai của bài thơ, làm cho người đọc vừa đọc vào thơ ông đã phải chú ý đến một sự khác
thường về nhạc điệu. Cách dùng từ điệp của ông cũng khá giản dị, tưởng chỉ là
thuận miệng mà nói ra như vậy, kỳ thực là cái giản dị của một bậc đại bút. Mỗi
chữ lặp đều mở ra một trường liên tưởng rộng rãi, vừa đăng đối, trùng điệp về hình
ảnh:
Bán thôn y thị, bán nhân hương
(Ngụ hứng, bài 1)
Bạch Vân am bạng bạch vân hương
(Tự thuật, bài 3)
vừa có âm thanh lanh lảnh của khe suối:
Vân am, am cận tiểu khê tuyền
(Ngụ hứng, bài 10)
lại vừa là cái khoái ý ngân lên trong tâm hồn:
Mịch đắc thôn khê, địa nhất triền,
Nhàn lai ngô diệc lạc ngô thiên.
(Ngụ hứng, bài 4)
Thùy gia huyền quản túy phong lưu,
Tranh tự du nhàn mịch thắng du.
(Trung tân quán ngụ hứng, bài 5)
Thiều quang thục úc cáp giai thần,
Tối ái kim xuân thắng tích xuân.
(Ất Sửu tân xuân hý tác)
Có khi từ điệp được Nguyễn Bỉnh Khiêm dùng tả
trong những cặp câu đối, không chỉ
có tác dụng lặp lại từ ngữ mà còn gây tương
phản về âm hưởng, như những tiếng vọng xa gần của đời sống dội lại, tăng thêm
sức động của từng cặp sóng đối giữa cảnh với người:
Ngư chu vãn hướng ngư khê bạc,
Dã tốc hương tòng dã khách lai.
(Thuyền cá chiều về khe cá đậu,
Rau quê hương tiễn khách quê chơi.) (*)
(Trung Tân quán ngụ hứng, bài 1)
Cũng có khi từ điệp được tác giả đặt liên tiếp
thành chuỗi trong gần suốt một bài, gợi cái ý triền miên bất tận và sự xoắn quyện của
dòng tư tưởng:
Nhân thôn quán tây nam,
Giang thủy quán tây bắc.
Trung hữu bán mẫu viên,
Viên hữu Vân am trắc.
Luân chuyển trần bất đáo,
Hoa trúc thủ tự thực.
Trượng lý tập hoa hương,
Trản lạc xâm hoa sắc.
Điểu thổ phanh trà yên,
Ngư thôn tẩy nghiễn mặc.
Khiển hướng nhậm thi cuồng,
Phù suy đa tửu thực.
Nhân xảo ngã độc chuyết,
Thùy tri chuyết thị đức.
Ngã chuyết nhân giai xảo,
Thùy tri xảo thị tặc.
Kiền thôn tĩnh lý suy,
Kim cổ nhàn trung đắc
Hiểm, mạc hiểm thế đồ,
Bất tiễn, tiện kinh cức.
Nguy, mạc nguy nhân tâm,
Nhất phóng tiện quỷ quắc.
Quân tử cầu sở chi,
Chí thiện tư vi cực
(Trung Tân ngụ hứng)
Bên cạnh nghệ thuật điệp từ, việc xây dựng các
cặp câu đối cũng là một sở trường của Nguyễn Bỉnh Khiêm, và hình như tiêu điểm
của các cặp câu đối này là nhắm vào một hình tượng đột xuất – “ông nhàn”:
Cao khiết thùy vi thiên hạ sĩ?
An nhàn ngã thị địa trung tiên.
(Trong sạch trên đời ai kẻ sĩ?
An nhàn giữa cõi ấy ta tiên.)(*)
Ngụ hứng, bài 10)
“Ông nhàn” ấy, đặt trong thế chiếu ứng qua lại
của gió trăng hoa cỏ, càng tôn thêm
phong độ tiên cốt:
Hiểu lâm thái phố sương niêm lý
Dạ phiếm ngư ky nguyệt mãn thuyền.
(*) Hữu Thế dịch.
(1) Trong bài Trung Tân quán ngụ hứng, số 8,
Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có một câu:
“Thi tá oanh hoa thiên thủ hữu” nghĩa là: “Thơ
mượn được cảnh chim oanh và hoa,
nghìn bài cũng có”, ngữ khí câu này cho thấy
lòng tự tin của ông đối với bút lực mình.
(Vườn rau sáng dạo sương đầy dép,
Bến cá đêm trăng bóng lọt thuyền.) (*)
(Ngụ hứng, bài 4)
Ngay cả mầu sắc cũng được vận dụng đối chọi,
nhằm mở rộng không gian vũ trụ của
người ở ẩn:
Sơn đới thu dung thanh chuyển sấu,
Giang hàm nguyệt ảnh bạch tương sai.
(Núi nhuộm sắc thu xanh nhạt vẻ,
Sông in bóng nguyệt trắng lồng đôi.) (*)
(Ngụ hứng, bài 8)
Trong các cặp câu đối Nguyễn Bỉnh Khiêm còn chú
ý đến biện pháp đảo trang, gây
cho ngữ điệu câu thơ một ấn tượng mạnh. Cả hai
cặp câu đối trong Ngụ hứng, bài 10
(đã dẫn hai câu ở phần trên) đều dùng biện pháp
đảo trang đó. Có thể phân cách các từ đảo trang ở mỗi câu bằng hai chấm để thấy
rõ dụng ý nghệ thuật của tác giả:
Cao khiết: thùy vi thiên hạ sĩ?
An nhàn: ngã thị địa trung tiên.
Vãn hương tam kính: Đào Bành Trạch,
Phá ốc sổ gian: Lư Ngọc Xuyên.
(Trong sạch: trên đời ai kẻ sĩ?
An nhàn: giữa cõi ấy ta tiên.
Cúc thơm ba khóm: Đào Bành Trạch,
Nhà nát vài gian: Lư Ngọc Xuyên.) (*)
Hữu Thế dịch
Rõ ràng, không thể không thừa nhận trong khuôn
khổ một thể thơ niêm luật chặt chẽ như thơ Đường, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã biết cách
phát huy cá tính sáng tạo của mình để có được những tìm tòi nhất định. Nhưng điều
đáng nói ở đây là nếu từ một góc nhìn sâu hơn, nhìn vào đặc trưng thi pháp, nó
mới là linh hồn của thi ca, thì thơ Đường của Nguyễn Bỉnh Khiêm lại không mang
phong vị thơ Đường bao nhiêu. Nếu thơ Đường số lớn là thơ tâm trạng, trong đó chủ
thể thẩm mỹ thông qua cảnh vật để tự bộc lộ mình, thì thơ ông nói chung là thơ
ngôn chí, mà chí ở đây là chí của người quân tử trong mọi trường hợp hành,
tàng, xuất, xử. Nếu thơ Đường là thơ tương phản động - tĩnh thì thơ ông là thơ
trung hòa động - tĩnh:
Công danh bất hệ nhất ngư chu,
Liêu hướng điền viên mịch thắng du.
Tài cúc đình tiền vô tục khách,
Cán y khê ngoại hữu thanh lưu.
(Công danh hờ hững chiếc thuyền không,
Cảnh thắng tìm về thú ruộng đồng.
Sân cúc lại qua không khách tục,
Khe liêm tắm giặt sẵn dòng trong.)
(Nguyễn Văn Bách dịch)
(Ngụ hứng, bài 3)
Nếu trong thơ Đường luôn luôn có hai điểm nhìn
đối sánh: điểm nhìn hướng ngoại là
sự xạ ảnh của điểm nhìn hướng nội, thì trong
thơ ông, chiều hướng khách thể hóa tâm
trạng lại dẫn đến sự hợp nhất của hai điểm
nhìn. Và nếu thơ Đường thu hút người đọc
ở một kết cấu "khép", một nhân vật mở
ra ở đầu bài thơ và mất hút trong cô đơn,
không gian và thời gian đều là những ám ảnh tâm
linh của cá thể cô đơn đó, thì thơ
ông lại là một kết cấu "khép - mở",
gợi lên hình ảnh một con người ung dung tự tại,
trong sự hài hòa của một không - thời gian hiện
hữu.
Tế nịch phủ nguy quý bất tài,
Cố hương hữu ước trụng quy lai.
Khiết thân chỉ khủng thanh danh đại,
Kịch túy na tri lão bệnh thôi.
Sơn đới thu dung thanh chuyển sấu,
Giang hàm nguyệt ảnh bạch tương sai.
Cơ quan liễu khước đô vô sự,
Tân quán sài môn tận nhật khai.
(Tài mọn khôn lo liệu việc đời,
Hẹn hò vườn cũ hãy về thôi.
Sạch mình luống sợ thanh danh lớn,
Say khướt nào hay lão bệnh rồi.
Núi nhuộm sắc thu xanh nhạt vẻ,
Sông in bóng nguyệt trắng lồng đôi.
Thản nhiên vô sự lòng không vướng,
Tân quán ngày đêm mở cửa hoài.)
(Hữu Thế dịch)
(Ngụ hứng, bài 8)
Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm là tiếng nói của
"cái ta" đạo lý chứ chưa bao giờ đạt đến "cái tôi" cá thể. Ông không giành
được cho mình một nghệ thuật say người như thơ Đường. Tuy vậy, những phản mã thơ Đường do ông
sáng tạo cũng chứng tỏ một sự vật lộn bền bỉ của nghệ thuật thơ ca cổ điển
dân tộc để không rơi vào chỗ mô phỏng. Điều này càng cho thấy vận mệnh của dòng thơ
Hán - Việt trong hàng trăm năm trước đã không bị lệ thuộc hoàn toàn vào những
ảnh hưởng to lớn mà nó tiếp thu ở dòng thơ chữ Hán nước ngoài, mà luôn luôn tùy
thuộc vào sức sống của chính nó, là điều kiện để chuyển hóa và thanh lọc những
gì mà nó tiếp thu, và để cách tân, sáng tạo theo đúng quy luật vận động nội
tại.
Nhưng ngoài những bài thơ Đường luật, còn phải
nói đến phần thơ ngũ ngôn cổ phong của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sáng tác theo thể
cổ phong thì nhiều nhà thơ trước Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng thể nghiệm. Thời Lý -
Trần có Trần Tung (1230-1291), Trần Minh Tông (1300-1357)… Thời Lê sơ có
Nguyễn Trãi, Nguyễn Bảo… Họ viết những bài thơ theo thể này nhằm biểu đạt cảm
hứng phóng khoáng về những đề tài khó lòng dung nạp hết trong một bài Đường luật.
Cảm hứng Thiền của Trần Tung là một bằng chứng khá rõ: những giờ phút ngộ đạo
của vị cư sĩ họ Trần đã gây nên trong ông một niềm phấn hứng mạnh mẽ, buộc ông
phải mở rộng dung lượng cảm xúc, và kết quả là một loạt bài thơ trường thiên, trường
đoản cú, niêm luật không câu thúc ra đời. Nguyễn Bỉnh Khiêm có lẽ cũng ở vào
trường hợp này.
Như vậy, nói đến nghệ thuật trong thơ chữ Hán
Nguyễn Bỉnh Khiêm, việc xem xét vị trí của thể thơ có một ý nghĩa quan trọng tương
đối. Nhà thơ sáng tác thể thơ này hay thể thơ kia chủ yếu là do yêu cầu chuyển tải
cảm hứng. Hình thức nào chuyển tải đạt nhất mạch cảm hứng của tác giả là hình thức tối
ưu trong sáng tạo. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống trong môi trường thơ Đường luật
như cá sống trong nước, đã cùng lúc biểu hiện trong thơ Đường luật cả hai con người
xuất thế và nhập thế, nhưng cái lõi cốt yếu thì vẫn là kiểu ngưùơi ung dung tự tại,
vượt lên trên mọi thế thái nhân tình. Dĩ nhiên, thời cuộc rối ren phức tạp
không cho phép ông dừng ở đấy. Khuôn khổ chật hẹp của thơ Đường luật ràng buộc tầm suy nghĩ
của ông. Ông đành phải "phá rào", tìm đến thể ngũ ngôn trường thiên thay cho thể
thơ Đường luật để mở rộng dung lượng phản ánh của tác phẩm, trong đó ông đối
diện trực tiếp với thế sự và trở thành nhà phẩm bình thế sự.
Chính vì thế, trở lại với thể thơ Đường luật
của Nguyễn Bỉnh Khiêm để soi nhìn từ một góc độ khác, ta dường như lại khám phá thêm
một điểm mới: ngay ở phần thơ này, tính thuần nhất về tư tưởng đã bị vi phạm
ở một số khá nhiều bài. Nguyễn Bỉnh Khiêm là con người luôn luôn băn khoăn trăn trở
giữa xuất thế và nhập thế. Hai con người ấy đều tồn tại mọi nơi mọi lúc ở trong
ông, chúng cứ chuyển hóa lẫn nhau một cách không tự giác, và đi vào cảm hứng sáng tạo
đã đưa ông đến trạng huống lúc nào cũng như bị giằng níu, phân đôi, tự phản
tỉnh đối với mình. "Xuất thế" mà lại "nhập thế", "nhập thế" nhưng trong
chiều sâu tâm tưởng vẫn có một khoảnh trời "xuất thế" -đó là kết cấu "nghịch đảo", là sự đan
cài của hai lớp nghĩa trái ngược thường thấy trong nghệ thuật thơ chữ Hán của ông. Hãy thử đọc một bài thơ Ngụ hứng số 2. Đây là
tâm thế an nhàn, tìm lãng quên mình
trong cảnh vật của tác giả. Tác giả hiện ra
trong tư cách một ông già, ngồi ngắm cảnh chiều trước chén rượu chếnh choáng, và tưởng
chừng ngoài trời chiều, dòng sông, tiếng hát thuyền chài, gió, cây, hoa, cỏ ra thì
không còn biết đến gì nữa:
Giang quán đăng lâm nhật hướng tà,
Thừa hàn bả tửu thính ngư ca.
Bán thiên lương đệ thanh phong hảo,
Lưỡng ngạn tình thiên lục thụ đa.
Hứng kịch dã tình thiên ái cúc,
Túy nùng lão nhãn dị sinh hoa.
(Giang quán tiêu dao bóng xế tài,
Thừa nhàn chuốc rượu, lắng ngư ca.
Một cơn gió thoảng trời man mát,
Hai rặng cây xanh lá rượm rà.
Lúc hứng, hứng xui lòng mến cúc,
Chén say, say khướt mắt nhòe hoa.) (*)
Ngô Lập Chi dịch
Nhưng đột nhiên, đến hai câu kết, người làm thơ
bỗng như chợt tỉnh khỏi cơn say sưa vô thức đó. Cả một câu hỏi nghiêm túc đặt ra
đưa Nguyễn Bỉnh Khiêm trở lại đối mình với hiện thực:
Hà thời tái đổ Đường Ngu trị?
Y cựu kiền khôn nhất thái hòa
(Bao giờ lại thấy đời Nghiêu Thuấn
Xoay lại kiền khôn buổi thái hòa?) (*)
Ngô Lập Chi dịch
Thì ra ông có say đâu. Ông đang rất tỉnh trong
cơn say. Không ít bài thơ khác của ông
đều được cấu tạo theo hình thức "lật ngược
tình thế" như trên. Nghệ thuật xây dựng
hai câu kết ở đây đóng vai trò quan trọng. Hai
câu kết bao giờ cũng là một mệnh đề
chuyển chiết. Bài Ngụ hứng số 1:
Bán y thôn thị, bán nhân hương,
Trung hữu trì viên nhất mẫu cường.
Am quán trường nhàn xuân bất lão,
Giang sơn nhập họa bút sinh hương.
Thanh lưu tá hưởng cầm thanh nhuận,
Cổ mộc lưu âm khách mộng lương.
(Một bên quê chợ một bên làng,
Hơn mẫu vườn ao cũng rảnh rang.
Am quán thư nhàn xuân mãi thắm,
Giang sơn như họa bút sinh hương.
Dòng tuôn vang vọng cung cầm đượm,
Bóng cả che râm mộng khách vương.)
(Hữu Thế dịch)
Mạch cảm hứng của bài thơ tưởng chừng sẽ đưa
nhà thơ đắm sâu vào cõi mộng, ai mà chẳng phải tin như vậy. Nhưng không, ông
chỉ vờ ngủ đấy thôi, bởi hai câu kết tiếp liền theo cho thấy ông rất tự ý thức
về vị trí "tư văn" của mình: có một tiếng cười tự đắc ngầm đang muốn
bật ra, ẩn sau đôi mắt nhìn đời lạc quan của tác giả:
Thặng hỷ tư văn thiên vị táng,
Chí kim hạnh đắc bộc thu dương.
(Mừng thấy "tư văn" trời chẳng bỏ,
Đến nay vẫn tắm ánh dương vàng. (*)
Và nếu trình tự "say - tỉnh" đã hầu
thành quy luật, tạo nên các đột biến nghệ thuật trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm như
ta vừa dẫn, thì cũng một dạng đột biến, như thế nhưng theo trình tự ngược lại,
lại diễn ra một cách lý thú ở những bài thơ mang cảm hứng nhập thế của ông. Ở
những bài loại này, người đọc dễ dàng nhận ra cái bồng bột, hăng say của nhà
thơ khi ông xuất phát từ chỗ đứng của một con người dấn mình vào thời cuộc. Ông
được vua Mạc mấy lần mời tham gia tòng chinh dẹp loạn, và nỗi phẫn uất trước tình
cảnh "Đảo huyền dân cửu ly hung ngược" (Bị treo ngược, lâu nay dân sa
vào tay bọn hung tàn) biến ông thành con người xông xáo, không từ nan bất cứ
việc gì:
Lão lai tương dữ cưỡng tòng nhung,
Diệt tặc do hoài báo quốc trung.
Mạo tuyết na từ thiên lý viễn,
Ưu thời ưng ký nhất tâm đồng.
(Tuổi già gắng gỏi việc binh nhung,
Giết giặc mong vì nước dốc trung.
Gội tuyết dám từ nghìn dặm thẳm,
Lo thời ghi tạc một lòng chung.)
(Lỗ Công dịch)
(Giản đồng sai Nghĩa Trai bá, Hoành Trung hầu)
Có lúc con người già nua ấy còn quên cả tuổi
già, nghĩ đến trách nhiệm lớn lao, hồn nhiên cất lên tiếng hát để tỏ bày tráng
chí:
Chỉ kỳ thệ phục cựu sơn hà,
Khẳng khái đăng chu phát hạo ca.
(Định kỳ khôi phục núi sông xưa,
Khẳng khái lên thuyền cất tiếng ca)
(Hữu Thế dịch)
(Thủy hành phó doanh cảm tác)
Nhưng sau tất cả những lời lẽ và cử chỉ rất mực
hăng hái đó, bình tâm lại, dường như
ở một nơi nào trong chỗ sâu kín của tiềm thức
ông vẫn cứ âm thầm vang lên một lời
nhắc nhở, rằng thật ra thì ông đã già rồi. Cái
việc ông đóng vai con người xả thân
hành động chỉ là vì tình thế bắt buộc mà thôi,
chứ ông không phải là người còn hợp
với "tạng" này. Và thế là, cũng như ở
những bài thơ xuất thế, một tâm thế cưỡng lại
cái mạch hưng phấn tư tưởng đang có sẵn lại
xuất hiện ở đây, và được biểu hiện cũng
chính trong hai câu kết, nó gói trọn tâm sự
thực của tác giả:
Ký thủ tặc nô bình định hậu,
Trùng tầm Tân quán lữ ngư hà.
(Ghi đợi sau ngày yên giặc dữ,
Lại về Tân quán bạn tôm cua.)
(Hữu Thế dịch)
(Thủy hành phó doanh cảm tác)
Ký thủ vương sư hoàn khải nhật,
Luân cân bố hạt nhậm nhàn tình.
(Ngày nào quân lính khải hoàn,
Khăn thô áo vải an nhàn thảnh thơi.)
(Tòng Tây chinh, bài 1)
Đứng về cấu trúc nghệ thuật, thơ xuất thế và
thơ nhập thế của Nguyễn Bỉnh Khiêm quả thực đều có chỗ giống nhau. Hơn ai hết,
hiện tượng phản tỉnh, lật đi lật lại trong tư duy nghệ thuật của Nguyễn Bỉnh
Khiêm phản ánh một sự giằng co không dứt giữa hai mặt xuất và xử trong chiều
sâu tư tưởng của con người tác giả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét