CHƯƠNG X: SƯ MẪU KASHI MONI
Tấm
lòng ngưỡng mộ của tôi đối với đức thầy Lahiri Mahsaya ở Bénarès đã
khiến cho tôi vô cùng khao khát được tìm biết thêm về ngài. Tôi biết là
một bậc tôn sư chân chính thường rất hạn chế ít khi phô trương những
kinh nghiệm tâm linh mầu nhiệm của mình, trừ khi có những lý do chính
đáng. Vì thế, cách tốt nhất để tìm biết về thầy là phải tìm gặp được
những người đã từng thân cận gần gũi với thầy lúc sinh tiền.
Với ý tưởng ấy, một ngày kia tôi đi Bénarès và tìm đến sư mẫu Kashi Moni, bậc hiền phụ của đức thầy Lahiri Mahsaya trước đây.
Mặc
dù đã rất lớn tuổi nhưng sư mẫu Kashi Moni vẫn giữ được một phong thái
rất ung dung, dịu dàng. Khuôn mặt bà hồng hào tươi tỉnh, có vẻ như luôn
ẩn giấu tiềm tàng một nụ cười tươi mà bà sẵn sàng nở ra bất cứ lúc nào.
Đôi mắt to và trong sáng, không có vẻ gì là đã mệt mỏi với thời gian. Bà
đón tôi nơi cổng và nói thật dịu dàng:
– Chúc mọi điều tốt lành cho con. Con hãy vào nhà đi.
Khi
tôi đã tự giới thiệu mình và mối quan hệ với đức thầy Lahiri Mahsaya,
sư mẫu vui vẻ đưa tôi vào phòng khách và tiếp tôi rất thân mật.
Sau
một lúc chuyện trò cởi mở, sư mẫu đưa tôi đi thăm viếng gian tịnh thất
mà đức thầy Lahiri Mahsaya đã sử dụng khi còn sinh tiền. Đây là một gian
nhà nhỏ nhưng thoáng mát, được bài trí rất đơn sơ nhưng có đủ những
điều kiện lý tưởng cho việc ngồi thiền, vì nằm sâu trong hoa viên rộng
rãi nên rất yên vắng và mát mẻ.
Bà
cũng kể cho tôi nghe rất nhiều về cuộc đời đức thầy và mối quan hệ với
một số các vị cao đồ mà bà được biết. Qua đó tôi được biết trước khi trở
thành một bậc tôn sư đạo hạnh cao thâm, người cũng đã từng là một người
chồng mẫu mực, một người cha đáng kính với hai con trai mà ngày nay
cũng đang nối tiếp bước chân người.
Sư mẫu nói với tôi:
–
Ông ấy sống rất giản dị. Những ai mới gặp ông lần đầu tiên không thể
nào ngờ được ông là người đỡ đầu và dẫn dắt về mặt tâm linh cho cả hàng
ngàn đệ tử.
Qua
sư mẫu, tôi được biết thêm là cho dù các đệ tử của thầy Lahiri Mahsaya
có nhiều người giữ những cương vị rất quan trọng trong xã hội cũng như
nhiều người rất giàu có, nhưng tự thân người sống một cuộc sống rất
thanh bần mà không chấp nhận bất cứ một sự hỗ trợ vật chất nào từ các đệ
tử.
Hôm
sau, tôi trở lại thăm sư mẫu và được dịp tiếp xúc với hai người con
trai của người và đức thầy Lahiri Mahsaya là Tincuri và Ducuri. Tôi phải
thành thật thừa nhận là cả hai đều có kiến thức uyên bác và một sự
khiêm tốn lạ thường.
Sư mẫu bảo tôi:
–
Thật ra quan hệ vợ chồng của chúng tôi đã chấm dứt từ sau khi tôi sinh
đứa con trai thứ hai. Từ đó về sau ông ấy là một bậc tôn sư hướng dẫn
tôi tu học chứ không còn là một người chồng theo nghĩa thông thường nữa.
Tôi
có thể hiểu được điều này. Việc lập gia đình của một vị tôn sư không hề
nhắm đến những mục đích phàm tục như kẻ khác. Đối với họ thì đó cũng là
một trong các nhiệm vụ phải làm ở thế gian này, và bao giờ họ cũng biết
dừng lại đúng lúc.
Với
một quan điểm cởi mở trong việc thu nhận đệ tử, thầy Lahiri Mahsaya đã
tiếp nhận rất đông môn đồ, không phân biệt giới tính hay đẳng cấp xã
hội. Chính mẹ tôi cũng là một trong số những nữ đồ đệ của người.
Một
nữ đệ tử của thầy Lahiri Mahsaya tên là Kussa, hiện vẫn thường xuyên
đến thăm sư mẫu Kashi Moni và đã tình cờ gặp tôi trong dịp này. Bà kể:
–
Thầy Lahiri Mahsaya có cho tôi một bức chân dung khi tôi thỉnh cầu
ngài. Thầy nói: “Tấm ảnh này chỉ có giá trị đối với những ai thật sự có
lòng sùng tín.” Hai năm sau khi được thầy ban cho bức chân dung ấy, tôi
mới có dịp chứng kiến sự linh diệu của nó. Đó là lần một cơn bão tràn
qua làng tôi ở vào một đêm kia cùng với mưa to và giông sét. Nhà chỉ có
tôi và một cháu gái nhỏ. Tôi không nghĩ đến gì khác hơn ngoài bức chân
dung của thầy, thế là tôi ôm chầm lấy bức chân dung vì sợ mưa bão sẽ làm
hư hại đi mất. Không ngờ đến sáng ra mới biết, cả làng đều bị thiệt hại
nặng nề, nhà cửa sụp đổ, cây cối ngả nghiêng... nhưng căn nhà nhỏ bé
của tôi vẫn nguyên vẹn không một chút tổn hại.
Câu
chuyện của bà làm tôi nhớ lại bức chân dung của thầy Lahiri Mahsaya ban
cho mẹ tôi đã có lần cứu tôi thoát chết khỏi căn bệnh hiểm nghèo một
cách vô cùng mầu nhiệm. Bà Kussa cũng kể cho tôi nghe câu chuyện của bà
Abhoya, một bạn thân của bà và cũng là đệ tử của thầy Lahiri Mahsaya, đã
được thầy cứu giúp như thế nào.
Bà
Abhoya vốn đã lớn tuổi mà chưa có con. Bà là một trong những trường hợp
khá kỳ lạ: bà đã sinh đến 8 người con nhưng tất cả đều chết sau khi
sinh ra. Bà đã thành tâm cầu nguyện và khẩn cầu thầy Lahiri Mahsaya chú
nguyện giúp bà. Khi bà sắp hạ sinh đứa con thứ chín, thầy dặn:
–
Con sẽ sinh một đứa con gái, vào khoảng đầu hôm. Bằng mọi cách con phải
giữ cho cây đèn dầu trong phòng con không được tắt trước khi trời sáng.
Như thế, đứa bé sẽ được sống sót.
Quả
thật, ít lâu sau thì bà Abhoya sinh một đứa con gái. Bà đã dặn kỹ người
giúp việc của mình và suốt đêm ấy cây đèn dầu được canh chừng cho đến
gần sáng... Bỗng nhiên bà Abhoya nghe có một tiếng động lạ khiến bà giật
mình mở mắt ra. Bà nhìn thấy thầy Lahiri Mahsaya đang đứng ở giữa căn
phòng, tay chỉ về cây đèn dầu đang leo lét sắp tắt vì cạn dầu. Hốt
hoảng, bà gọi người giúp việc, lúc đó vừa thiếp ngủ sau một đêm thức
trắng. Như thế là cây đèn được châm dầu vừa đúng lúc và đã cháy được cho
đến sáng. Khi bà nhìn lại cánh cửa phòng thì vẫn còn khóa chặt và không
còn thấy bóng dáng của thầy Lahiri Mahsaya đâu nữa cả.
Đứa
con thứ chín của bà thật sự đã sống được cho đến trưởng thành. Vào năm
1935 tôi có dịp tình cờ gặp người con gái này trong một chuyến đi thuyết
pháp.
° ° °
Theo
lời giới thiệu của sư mẫu Kashi Moni, hôm sau tôi tìm đến viếng thăm
một môn đồ khác của thầy Lahiri Mahsaya là Kli Kumar Roy, một người đã
có may mắn được sống bên thầy rất lâu.
Sau một lúc trò chuyện, hiểu được mục đích chuyến viếng thăm của tôi, Roy tỏ ra rất vui vẻ:
–
Vâng, tôi rất sẵn lòng. Hơn nữa, những gì tôi biết về tôn sư chính là
những gì đã xảy ra cho chính tôi nên cũng chẳng có gì khó khăn để nhớ
lại.
Dừng một chút để mời tôi chén trà, rồi ông tiếp:
–
Nếu không có thầy Lahiri Mahsaya thì tôi chẳng bao giờ dám nghĩ rằng
mình cũng có thể có được cuộc sống phúc lạc như bao nhiêu người khác.
Trầm ngâm giây lát, ông nói tiếp:
–
Thật vậy, hồi đó tôi chỉ là một kẻ làm thuê mạt hạng. Khi tôi được biết
thầy Lahiri Mahsaya, tôi thường đến nghe thầy thuyết pháp. Người chủ
thuê tôi vốn là một người không có đức tin. Ông ta lấy làm tức giận khi
nghe biết việc tôi đến với thầy Lahiri Mahsaya. Ông đe dọa sẽ đuổi việc
nếu tôi còn tiếp tục. Tuy vậy, trong lòng ông cũng lấy làm thắc mắc
không hiểu vì sao tôn sư lại có sức cuốn hút đối với quá nhiều người như
vậy. Một hôm, ông bí mật đi theo tôi để tìm đến lúc thầy Lahiri Mahsaya
đang thuyết pháp. Mặc dù lúc đó người nghe thuyết pháp rất đông, nhưng
thầy biết ngay sự hiện diện của ông.
Dừng một chút như để nhớ lại, rồi ông kể tiếp:
–
Thầy Lahiri Mahsaya nhìn quanh khắp cử tọa và hỏi: “Các vị có muốn xem
một bức tranh chăng?” Tất cả đều yên lặng tán đồng. Tôn sư liền nói:
“Nếu vậy, xin các vị hãy nhắm mắt lại và đặt hai tay lên đỉnh đầu, tôi
sẽ giúp các vị được nhìn thấy một bức tranh.” Cử tọa đều làm theo và ai
nấy đều thấy hiện ra trước mắt mình một người đàn bà mặc áo lụa thêu chỉ
vàng rất đẹp. Sau đó, tôn sư tiếp tục buổi thuyết pháp như bình thường.
Hầu hết mọi người đều thừa nhận đó là một phép lạ nhưng không ai hiểu
được vì sao người hiển thị phép lạ này. Cuối cùng, sau khi cử tọa đã ra
về, tôi mới ngạc nhiên nhận ra ông chủ của tôi vẫn còn ngồi lại, dáng vẻ
vô cùng lúng túng.
Ông mỉm cười như vẫn còn chưa quên được cảm giác lúc ấy. Sau khi uống một hớp trà, ông tiếp tục:
–
Ông chủ tôi từ từ đứng dậy và tiến đến trước mặt tôn sư. Tôi thật kinh
ngạc khi thấy ông quỳ xuống lạy người một cách chí thành. Sau đó, ông
mới nói: “Bạch thầy, quả thật thầy đã thấu suốt lòng con. Con không còn
có ý dám khinh mạn với thầy nữa.” Hóa ra người đàn bà mà ai nấy đều nhìn
thấy đó là cô đào mà ông chủ tôi đang theo đuổi và đã hao tốn rất nhiều
tiền của. Vì thế, chỉ mỗi một mình ông là nhận ra và hiểu được vì sao
thầy Lahiri Mahsaya hiển hiện hình ảnh cô ta trong buổi ấy. Kinh ngạc
trước phép lạ này, ông thành khẩn xin với tôn sư thu nhận ông làm đệ tử.
Thầy Lahiri Mahsaya nói: “Nếu trong vòng sáu tháng nữa ông giữ được một
cuộc sống ngay thẳng không phạm vào tội lỗi gì, ta sẽ bằng lòng. Bằng
không thì ta dù muốn cũng không thể thu nhận ông.”
Đôi mắt ông Roy bỗng như dõi về một cõi xa xăm khi ông nhớ lại những điều bi thảm của quá khứ:
–
Trong ba tháng sau đó ông chủ tôi đã cố gắng chống lại sự cám dỗ để
không đến với người đàn bà tội lỗi kia. Nhưng cuối cùng ông đã thất bại
vào tháng thứ tư. Và sau đó chỉ khoảng một tháng nữa thì ông qua đời vì
một căn bệnh rất kỳ lạ. Chỉ đến lúc đó tôi mới hiểu được câu nói cuối
cùng của thầy Lahiri Mahsaya với ông ta.
Ông Roy kể tiếp:
–
Quyền năng của thầy Lahiri Mahsaya tuy rất kín đáo nhưng quả thật tinh
vi mầu nhiệm không ai có thể hiểu hết. Ngài chịu sự ghen ghét của nhiều
tà sư nhỏ nhen, đã từng thuê người mang thuốc độc lén bỏ vào thức ăn để
hại người. Chính tôi đã từng thấy người ngăn cản các đệ tử không ai được
dùng thức ăn đó, nhưng bản thân người vẫn thản nhiên ăn uống và không
sao cả. Quá khiếp sợ vì tận mắt chứng kiến phép lạ ấy, kẻ đầu độc thầy
đã ra tự thú và trở thành môn đệ của thầy.
Trưa
hôm đó, ông Roy mời tôi ở lại dùng cơm chay với ông và đi thăm viếng
một đạo viện gần đó do ông bỏ tiền để giúp đỡ xây dựng, hiện do một môn
đệ khác của thầy Lahiri Mahsaya cai quản. Trên đường đi, ông kể:
–
Người đệ tử hiện đang cai quản đạo viện này đã đến với tôn sư trong một
trường hợp khá hài hước. Ông ta vốn là một kẻ ngang ngược, không có đức
tin và thường phỉ báng các vị tu sĩ. Một hôm, ông nói với bạn bè rằng
sẽ có cách chỉ rõ cho họ thấy rằng thầy Lahiri Mahsaya chỉ là một tên
đại bịp. Thế rồi ông dùng một cái bình rất đẹp đựng nước vôi bên trong,
mang đến trước thầy Lahiri Mahsaya và giả vờ kính cẩn thưa: “Bạch tôn
sư, con xin cúng dường ngài một bình sữa tươi.” Mọi người không ai biết
chuyện gì đang xảy ra.
Kể đến đây, ông Roy bỗng bật cười thành tiếng như nhớ lại cảnh tượng hôm ấy:
–
Thầy Lahiri Mahsaya thản nhiên chấp nhận và bưng bình nước vôi lên uống
cạn. Ngay sau đó, tên ngỗ nghịch kêu thét lên đau đớn và ôm bụng nằm
lăn ra đất. Ông ta cảm thấy gan ruột như cháy bỏng vì thứ nước vôi kia.
Quả là một sự trừng phạt kỳ lạ nhưng hoàn toàn đích đáng. Quá đau đớn,
ông ta bò đến trước mặt tôn sư để thú tội và xin tha thứ. Thầy Lahiri
Mahsaya dịu dàng nói: “Con nên biết, khi làm hại bất cứ một sinh linh
nào cũng là làm hại đến chính mình.” Sau đó, thầy đặt tay lên trán kẻ
tội đồ và cơn đau của ông ta liền biến mất. Từ đó về sau, ông từ bỏ tất
cả để theo làm một đệ tử sùng tín luôn kề cận bên cạnh thầy Lahiri
Mahsaya.
Chiều hôm đó, khi tôi từ giã ông Roy để ra về, ông nói với tôi:
–
Đức thầy Lahiri Mahsaya quả là một bậc tôn sư vĩ đại mà không phải thời
nào cũng có được. Tôi đã từng tiếp xúc với rất nhiều tu sĩ khả kính, có
những vị đã đi tu từ khi còn bé và đạo hạnh rất cao thâm, nhưng vẫn
chưa thấy ai có được phong thái giản dị mà siêu việt như thầy Lahiri
Mahsaya.
Sau những gì đã biết về đức thầy Lahiri Mahsaya, tôi cũng tin rằng lời nhận xét của ông Kli Kumar Roy là hoàn toàn chính xác.
CHƯƠNG XI: NHỮNG TRƯỜNG HỢP PHỤC SINH
Một
hôm, sư phụ Śrỵ Yukteswar và một nhóm đệ tử đang ngồi bàn luận về đạo
lý. Tôi từ Ranchi vừa về thăm thầy, có dẫn theo một nhóm học sinh ở
Thiếu Sinh Học Đường.
Trong
khi sư phụ và chúng tôi đang nói chuyện, nhóm học sinh của tôi bắt đầu
tranh cãi ngày càng lớn tiếng về một đề tài khá lý thú: có hay không có
việc phục sinh của chúa Giê-su.
Vì
các em nói lớn tiếng nên tất cả chúng tôi đều nghe thấy. Sư phụ Śrỵ
Yukteswar liền bảo tôi gọi các em vào giảng đường. Sau khi sắp xếp cho
các em ngồi quây quần chung quanh, thầy mới vui vẻ nói:
–
Ta không đứng về phía nào trong các con cả, nhưng ta muốn kể cho các
con nghe một chuyện mà chính ta đã chứng kiến, cũng có thể xem là một
trường hợp phục sinh.
Lời
nói của thầy có tác dụng rất lớn. Ngay lập tức các em im phăng phắc,
không còn một tiếng xì xào bàn tán nào nữa cả. Tất cả đều hết sức chú ý
lắng nghe. Thầy bắt đầu kể:
–
Ngày ấy, ta còn đang tu tập bên cạnh đức thầy Lahiri Mahsaya. Ta có một
người bạn tu rất thân thiết tên là Rma. Tính tình anh ta rất nhút nhát,
ít giao tiếp vì thích sống cô độc. Ngay cả khi có thắc mắc cần đến sự
giải thích của đức thầy Lahiri Mahsaya, anh cũng chỉ đến gặp thầy vào
những lúc đêm khuya hoặc sáng sớm, khi có ít các đệ tử khác quy tụ bên
cạnh đức thầy. Mặc dù vậy, Rma có một kinh nghiệm tâm linh khá vững chãi
và rất tinh tấn trong việc tu học.
Sư phụ Śrỵ Yukteswar dừng lại, khuôn mặt lộ vẻ xúc cảm khi nhớ lại chuyện cũ:
–
Ngày kia, Rma bất ngờ đau nặng. Các bác sĩ giỏi đều được mời đến, nhưng
bệnh tình không có vẻ gì là khả quan lắm. Rma ngày càng suy yếu một
cách nhanh chóng. Khi ấy, ta liền đến tìm đức thầy Lahiri Mahsaya và
khẩn cầu người cứu lấy tính mạng của Rma. Thầy yên lặng một lát rồi nói:
“Các bác sĩ đang tận tình cứu chữa. Con cứ yên tâm, Rma rồi sẽ khỏi
bệnh.” Nhưng khi ta trở lại chỗ giường bệnh của Rma thì một trong hai vị
bác sĩ thất vọng thông báo: “Vị tu sĩ này chỉ còn sống được khoảng vài
giờ nữa thôi.” Quá hốt hoảng, ta trở lại với đức thầy Lahiri Mahsaya để
chuyển đạt tin dữ này, nhưng thầy có vẻ như không quan tâm. Thầy nói:
“Rma rồi sẽ khỏi bệnh.”
Sư phụ Śrỵ Yukteswar lặng yên một lúc rồi mới kể tiếp:
–
Khi ta quay lại phòng của Rma thì các bác sĩ đã bỏ về. Họ để lại một
mảnh giấy ghi mấy dòng vắn tắt: “Chúng tôi đã cố gắng hết sức. Nhưng rất
tiếc là trường hợp này không thể nào cứu chữa được nữa.” Khi ấy, Rma
đang hấp hối. Nhưng ngay trong lúc ấy anh mở mắt nhìn ta và nói:
“Yukteswar, anh hãy nhớ nói với sư phụ cầu phúc cho tôi trước khi hỏa
táng.” Nói xong lời trăn trối này rồi, Rma liền trút hơi thở cuối cùng.
Một đệ tử từ bên ngoài vào mang cho sư phụ một tách trà nóng. Người dừng lại để nhấp một ngụm trà rồi tiếp tục:
–
Ta liền đến chỗ đức thầy Lahiri Mahsaya để báo tin về cái chết của Rma.
Thầy vẫn lặng thinh không tỏ vẻ lo lắng gì. Một lát, thầy bảo ta:
“Yukteswar, con hãy giữ bình tĩnh. Mọi việc rồi sẽ qua đi.” Vẫn không
hiểu được ẩn ý trong câu nói của thầy, ta òa lên khóc vì sự đau đớn đã
kiềm chế quá lâu. Rma dù sao cũng là người bạn thân nhất của ta trong
đạo viện.
Cả
giảng đường không còn một tiếng động nào khác ngoài tiếng kể chuyện
trầm trầm của sư phụ. Tất cả mọi người dường như đều nín thở lắng nghe:
–
Đức thầy Lahiri Mahsaya lặng lẽ để yên cho ta bộc lộ cảm xúc. Một lát
sau, khi ta đã nguôi bớt cơn xúc động, thầy nói: “Śrỵ Yukteswar, ta rất
buồn mà thấy con đã không có đủ đức tin.” Ta vô cùng kinh ngạc, ngẩng
lên nhìn thầy. Thầy Lahiri Mahsaya nói tiếp: “Chẳng phải là ta đã bảo
với con Rma sẽ khỏi bệnh hay sao?” Rồi thầy nhìn quanh, chỉ tay vào một
cái đèn dầu phộng đang đặt trên mặt bàn: “Giờ thì con hãy lấy dầu trong
đèn này, nhỏ vào miệng Rma đúng 7 giọt.” Ta càng thêm quá sức ngạc
nhiên, buột miệng kêu lên: “Bạch thầy, nhưng Rma đã chết lâu rồi!” Thầy
Lahiri Mahsaya nhìn ta và nói: “Ta thấy là con vẫn còn chưa có đủ đức
tin.”
Sư phụ trầm ngâm một lát, rồi quay sang nhìn tôi. Tôi thầm hiểu được ý nghĩa cái nhìn của người.
–
Ta tự biết lỗi ngay lúc ấy, liền quỳ xuống xin sám hối. Thầy Lahiri
Mahsaya cười hoan hỷ rồi bảo: “Thôi con đi đi.” Ngay lập tức, ta đến chỗ
Rma và làm đúng như lời thầy dặn. Khi ấy, thân thể Rma đã cứng đờ vì
tắt hơi quá lâu rồi. Thật không thể nào ngờ được, ngay sau đó Rma co
giật mấy cái rồi từ từ mở mắt ra. Trong khi ta còn chưa thể tin hẳn vào
mắt mình, thì Rma đã từ từ ngồi dậy và nói: “Anh Yukteswar, tôi phải đi
đến chỗ sư phụ ngay bây giờ.”
Tôi
nghe rõ tiếng thở ra thật mạnh của các em thiếu sinh khi nghe sư phụ kể
đến đoạn này. Quả thật, nếu không phải chính miệng sư phụ nói ra thì
thật khó lòng tin được một câu chuyện như thế. Sư phụ Śrỵ Yukteswar lại
tiếp tục:
–
Khi ta và Rma đến chỗ thầy Lahiri Mahsaya, cả hai đều quỳ lạy. Rma muốn
tạ ơn cứu mạng, còn ta thật hết sức ân hận vì thấy mình quả thật đã
chưa có đủ đức tin. Thầy Lahiri Mahsaya nói: “Śrỵ Yukteswar! Lẽ ra Rma
đã không phải chết. Nhưng cái chết của bạn con là một bài học về đức tin
cho con đó.” Ta cúi đầu ghi nhớ lời dạy ấy. Và từ đó về sau, ta chẳng
bao giờ nghi ngờ bất cứ điều gì thầy Lahiri Mahsaya nói ra.
Một em thiếu sinh lúc đó liền đứng lên thưa hỏi:
– Bạch tôn sư, có phải việc phục sinh đã nhờ đến 7 giọt dầu phộng?
Sư phụ Śrỵ Yukteswar bật cười:
–
Không phải là dầu phộng, mà thật ra là có thể dùng bất cứ món gì. Vấn
đề là thầy Lahiri Mahsaya muốn tạo ra một điểm tựa cho kẻ còn kém đức
tin mà thôi. Nếu không thế, chỉ cần một lời nói hoặc ý nghĩ của thầy là
mọi việc sẽ diễn ra, chứ không phải phụ thuộc vào dầu phộng hay một món
thuốc men nào khác cả!
Sau khi các em thiếu sinh đã được cho ra ngoài, sư phụ Śrỵ Yukteswar gọi tôi lại và nói:
–
Ta biết con đang thu thập rất nhiều chuyện kể về đức thầy Lahiri
Mahsaya. Điều đó sau này có thể trở thành một trong những phương tiện
rất tốt để giúp con truyền pháp. Ta muốn rằng con hãy viết lại một tiểu
sử của đức thầy Lahiri Mahsaya để phổ biến cho mọi người đều được biết.
Tôi
cúi đầu vâng lời thầy dạy. Tự trong thâm tâm, tôi cũng đã cảm thấy cần
phải ghi lại một cách chi tiết và cụ thể về cuộc đời của bậc tôn sư siêu
việt này. Bởi vì ngài đã từ trần từ năm 1895, và có nguy cơ thời gian
sẽ làm phai mờ đi tất cả những gì linh diệu và mầu nhiệm mà ngài đã thực
hiện ở thế gian này. Tôi tự nhủ sau này sẽ viết lại tất cả những gì tôi
đã được biết về thầy Lahiri Mahsaya. Và đó cũng là một trong những động
cơ thúc đẩy tôi thực hiện tập hồi ký này.
Đức
thầy Lahiri Mahsaya ra đời vào ngày 30 tháng 9 năm 1828, tại làng
Ghurni, huyện Nadia, gần Krishnagar, thuộc tỉnh Bengale. Gia đình thuộc
dòng tộc Bà-la-môn, ngài là con út của ông Gaur Mohan Lahiri và người vợ
kế là Muktakashi, được cha mẹ đặt cho tên gọi là Shyama Charan Lahiri.
Ngay khi ngài còn thơ ấu thì người mẹ đã sớm rời bỏ cõi đời. Những năm
đầu đời ngài sống tại huyện Nadia và đã biết ngồi thiền từ khi mới được
ba tuổi.
Năm
năm sau khi ngài ra đời, tức là vào năm 1833, một trận lụt lớn đã xảy
ra và nước sông Jalangi cuốn trôi làng mạc của cải đổ về sông Hằng. Tài
sản của gia đình Lahiri và một ngôi đền thờ do họ xây dựng đã sụp đổ
hoàn toàn.
Ông
Gaur Mohan Lahiri khi ấy liền đưa gia đình rời khỏi Nadia và đến định
cư tại Bénarès. Về sau, ông cũng xây dựng ở đây một ngôi đền thờ khác.
Ông giáo dục con cái theo đạo lý và đặc biệt chú ý thực hành hạnh bố
thí. Điều đặc biệt là ông có một kiến thức rất bao quát và thông thạo cả
những tri thức thời hiện đại vừa mới du nhập vào xứ Ấn.
Shyama
Charan Lahiri là một cậu bé rất thông minh, được cha cho theo học hầu
hết các môn triết lý cổ và cả kinh Phệ-đà theo truyền thống Bà-la-môn.
Cậu thường biện bác thắng được cả những người rất uyên bác về các môn
học này. Lớn lên, trở thành một thanh niên tốt bụng, Shyama Charan
Lahiri phát triển thể lực rất mạnh mẽ, giỏi bơi lội và các môn thể thao
khác nữa.
Năm
1846, việc hôn nhân được gia đình sắp xếp giữa chàng trai Lahiri và cô
Kashi Moni, con gái của một gia đình danh tiếng trong vùng. Gia đình
sống rất hạnh phúc vì bà Kashi Moni đã trở thành một người vợ mẫu mực
chu toàn mọi trách nhiệm trong gia đình. Họ sinh được hai người con trai
là Tincuri và Ducuri.
Năm
1851, Shyama Charan Lahiri nhận công việc kế toán cho một bộ phận quản
trị hành chánh của quân đội Anh. Ông liên tục được thăng chức rất nhiều
lần trong thời gian phục vụ, và cũng do đó mà đã lần lượt thuyên chuyển
qua rất nhiều nơi như Gazipur, Mirijapur, Danapur, Naini Tal, Bénarès...
Khi gia đình đến sống ở Garudeswar Mohulla thì ông Gaur Mohan Lahiri
qua đời. Shyama Charan Lahiri phải đảm trách tất cả mọi công việc gia
đình.
Năm
33 tuổi, Shyama Charan Lahiri gặp được tôn sư Babji ở gần Ranikhet,
trên dãy Hy Mã Lạp Sơn. Từ đó ngài được truyền thụ pháp môn thiền định.
Là một người có căn cơ siêu phàm xuất chúng, không bao lâu ngài đã tiếp
thu được hoàn toàn những điều chỉ dạy của tôn sư và được chân truyền để
nối tiếp việc truyền thừa pháp môn thiền định, trở thành đức thầy Lahiri
Mahsaya.
Bằng
vào kinh nghiệm thực chứng của bản thân, đức thầy Lahiri Mahsaya đã
tiếp nhận và dắt dẫn hàng ngàn môn đệ, khiến cho pháp môn thiền định
được truyền rộng ra khắp nơi. Ngài có rất nhiều đệ tử tu tập thành công
mà trong số đó thì sư phụ Śrỵ Yukteswar là một điển hình.
CHƯƠNG XII: CUỘC GẶP GỠ TRÊN HY MÃ LẠP SƠN
Mùa
thu năm 1861, Shyama Charan Lahiri vừa được 33 tuổi và đang làm nhân
viên kế toán phục vụ trong quân đội Anh. Một hôm, hết sức bất ngờ, người
nhận được lệnh điều động lên Ranikhet, nơi có một tiền đồn quân sự vừa
được thành lập.
Chuyến
đi đến nhiệm sở mới dài năm trăm dặm, khá vất vả vì phải đi nhiều
chặng, có lúc đi ngựa, có lúc đi xe... Và sau khoảng một tháng thì người
đến nơi, một vùng núi non hiểm trở đã nằm hẳn dưới chân dãy Hy Mã Lạp
Sơn.
Công
việc quả thật vô cùng nhàn tản, hầu như chẳng có gì. Vì thế, phần lớn
thời gian trong ngày được người dùng để dạo chơi, thăm thú những vùng
phụ cận. Người ta cho biết đây là một trong những vùng thường xuất hiện
các vị đạo sĩ, tu sĩ ẩn tu đã chứng ngộ.
Một
buổi chiều kia, khi người đang đi dạo ven một khu rừng gần đó thì bỗng
nghe có tiếng gọi tên mình. Theo hướng đó, người leo lên một vách núi
cheo leo của ngọn Drongiri mà tìm đến, trong lòng lo ngại sẽ không kịp
quay lại để về nhà trước khi trời tối. Tuy vậy, có một sức hấp dẫn lạ kỳ
trong tiếng gọi khiến cho người không sao cưỡng lại được mà phải náo
nức đi theo.
Vượt
qua khỏi vách núi, người băng qua một khoảng trống nhỏ và đến trước một
hang động. Hai bên đều là vách núi dựng đứng, rõ ràng không còn một lối
đi thứ hai nào có thể dẫn đến đây ngoài lối đi mà người vừa vượt qua.
Trong
ánh nắng chiều đã sắp tắt, Shyama Charan Lahiri nhìn thấy một thanh
niên lực lưỡng khoảng chừng hơn hai mươi tuổi đang ngồi trong tư thế
thiền định. Kỳ lạ thay, thanh niên này có hình dáng giống hệt như chàng,
chỉ khác một điều là có mái tóc màu đỏ hung.
Người thanh niên mở mắt nhìn thầy, đưa tay làm một cử chỉ đón tiếp và cất giọng nói trìu mến bằng tiếng Bắc Ấn:
– Con đã đến rồi, Lahiri.
Ngạc
nhiên vì cách xưng hô này cũng như vì sự gặp gỡ quá bất ngờ, Shyama
Charan Lahiri tiến đến thật gần để nhìn cho kỹ. Bất ngờ, người cảm thấy
như có những nét quen thuộc mơ hồ nào đó trong hình dáng người thanh
niên và khung cảnh động núi nơi đây, nhưng trong một lúc không sao nhớ
ngay ra được.
Người
thanh niên đứng dậy, đưa tay nắm lấy tay Shyama Charan Lahiri. Một sức
mạnh kỳ lạ khiến cho người không hề ngần ngại mà đưa tay cho anh ta
ngay, và sau đó đi theo anh ta vào động núi.
Hóa
ra hang động nhìn từ bên ngoài vào thật ra chỉ là một cửa động. Sau khi
bước vào, một con đường hẹp bên trong đưa hai người đi quanh co một lát
và dẫn đến một khoảng sân rộng, có những tảng đá nằm rải rác đều đặn có
vẻ như được bố trí để làm ghế ngồi. Phía cuối khoảng sân có một gò đá
tự nhiên cao hơn, bên trên là một tảng đá lớn bằng phẳng. Người thanh
niên lạ mặt đưa Shyama Charan Lahiri lên tảng đá ấy. Từ đây có thể phóng
tầm mắt nhìn ra bao quát hết cả khoảng sân rộng, như một khán đài lý
tưởng. Quả thật, các ghế đá trong sân được sắp xếp theo hàng lối nghiêm
chỉnh. Rõ ràng đây là một nơi được dùng vào mục đích thuyết giảng cho
đám đông.
Khi
cả hai đã lên đến tảng đá bằng phẳng nằm trên cao nhất, người thanh
niên đưa tay chỉ vào một tảng đá nhỏ hơn bên cạnh, ra hiệu cho Shyama
Charan Lahiri ngồi xuống. Sau đó, anh ta bắt đầu nói bằng một giọng đều
đều:
–
Lahiri Mahsaya! Ngay tại đây, trên bục giảng này, con đã từng trợ lực
với ta rất nhiều năm trong việc thuyết pháp. Ngày hôm nay nhiệm vụ của
con đã đổi khác, nhưng ta muốn con hãy nhớ lại quá khứ của mình để có
thể thuận tiện hơn cho việc tu tập.
Cùng
với lời nói này, người thanh niên đưa tay đặt lên đỉnh đầu Shyama
Charan Lahiri và ấn nhẹ xuống. Một sức mạnh lạ lùng khiến người ngay lập
tức phải ngồi xuống tảng đá. Một luồng hơi nóng dễ chịu bắt đầu tỏa ra
từ người thanh niên, và khung cảnh chung quanh bất chợt sáng lên trong
một thứ ánh sáng huyền ảo, bất chấp lúc bấy giờ mặt trời đã tắt hẳn.
Trong một lát thì Shyama Charan Lahiri nhớ lại quá khứ của mình.
Chính
ngay tại đây, trong động đá này, người đã từng là môn đệ thân cận nhất
của đức Babji trong rất nhiều tiền kiếp. Và đức Babji chính là người
thanh niên đã đưa thầy vào đây. Mặc dù là một vị tu sĩ ẩn cư đã vào Hy
Mã Lạp Sơn này không biết tự bao giờ, nhưng đức Babji không hề chịu sự
chi phối của tuổi già. Ngài luôn luôn giữ vóc dáng của một thanh niên
hai mươi lăm tuổi, bất chấp ngày tháng trôi qua và nhiều thế hệ đệ tử đã
qua bàn tay dìu dắt, đào tạo của ngài.
Sau
khi nhớ ra được quá khứ, Shyama Charan Lahiri liền quỳ xuống lễ bái đức
Babji với tấm lòng thành kính và một sự xúc động vô hạn. Và cùng lúc
đó, những kinh nghiệm tâm linh trong việc tu tập thiền định lập tức trở
lại cùng với người. Shyama Charan Lahiri ngồi xuống tảng đá quen thuộc
của mình và bắt đầu nhập vào thiền định.
Hai
người cùng ngồi yên trong bầu không khí tịch lặng qua nhiều giờ đồng
hồ. Cuối cùng, đức Babji ra khỏi thiền định và gọi Shyama Charan Lahiri:
–
Lahiri Mahsaya! Chúng ta không có nhiều thời gian lắm. Con còn phải trở
về với nhiệm vụ của mình ở chốn thế tục. Hôm nay ta cho gọi con đến đây
là để giúp con rút ngắn thời gian tu tập trong kiếp này bằng cách nhớ
lại những kinh nghiệm quá khứ đã đạt được. Ngoài ra, ta cũng muốn dặn dò
con đôi điều.
– Bạch sư phụ, xin người cứ dạy bảo.
–
Từ trước đến nay, pháp môn thiền định của ta không truyền dạy cho những
đệ tử có căn cơ thấp. Tuy nhiên, những năm sắp tới đây sẽ có rất nhiều
biến động trong thế cuộc, đòi hỏi con người cũng phải có những chỗ dựa
tinh thần chắc chắn để giữ vững được thiện căn. Vì vậy, ta cho phép con
truyền rộng pháp môn này cho tất cả mọi người, như một vũ khí để giúp
người ta chống lại sự suy thoái tinh thần quá nhanh chóng trong thời đại
mới.
– Bạch sư phụ, như vậy có phải là làm giảm thấp giá trị của pháp môn thiền định hay chăng?
–
Giá trị của một pháp môn được xác định thật sự bởi những hành giả đạt
đến chứng ngộ tuyệt đối nhờ vào pháp môn ấy. Không phải vì có nhiều
người tu tập không đạt đến chứng ngộ hoàn toàn mà có thể làm suy giảm
giá trị của một pháp môn. Mặt khác, cho dù không đạt đến sự giải thoát
tuyệt đối, nhưng người ta có thể giảm nhẹ sự đau khổ trước mắt bằng vào
việc tu tập thiền định. Và đó là một nguồn lợi lạc rất lớn mà chúng ta
không thể không mang đến cho tất cả mọi người.
Cuộc
trao đổi đến đây thì bắt đầu chuyển hướng, xoay quanh một số vấn đề về
việc tu tập thiền định mà đức Babji muốn chàng thanh niên Shyama Charan
Lahiri, tức thầy Lahiri Mahsaya, cần phải chú trọng nhiều hơn khi truyền
dạy pháp môn thiền định một cách phổ cập. Chính những lời chỉ dạy quý
báu này về sau đã trở thành kim chỉ nam cho nhiều thế hệ truyền nối nhau
trong việc tu tập pháp môn thiền định.
Đến
gần sáng thì hai thầy trò chia tay nhau. Thầy Lahiri Mahsaya có cảm
giác như mình đã trở nên một con người mới. Bao nhiêu những ham muốn,
dục vọng của đời sống thế tục bỗng nhiên tiêu tan không còn chút hấp
dẫn, quyến rũ nào đối với người. Người nhận ra lý vô thường của vạn vật
mà chỉ những bậc chân sư đã chứng ngộ mới có thể trải nghiệm được một
cách hoàn toàn. Hơn thế nữa, người thấy tinh thần trở nên minh mẫn, sáng
suốt và có thể nhớ lại tất cả những chi tiết dù là vụn vặt nhất trong
các đời sống quá khứ.
Sau
đó ít lâu liền có lệnh của đơn vị thuyên chuyển thầy trở về Danapur.
Tại đây, thầy bắt đầu công cuộc truyền bá pháp môn thiền định mà không
bao lâu đã được mọi người khắp nơi biết đến. Số môn đệ đến thọ giáo với
thầy ngày càng đông đảo, có lúc lên đến mấy ngàn người.
Trong số đó, có cả hoàng tử của vua Isvari Narain Sinha Bahadur cùng với Quốc vương Yotindra Mohan Thakhur.
Năm
1886, thầy Lahiri Mahsaya chính thức hưu trí, từ bỏ công việc của một
người thế tục và dành trọn thời gian cho việc truyền bá đạo pháp, dắt
dẫn môn đệ. Tuy vậy, thầy luôn giảng pháp tại tịnh thất của mình mà rất
ít khi dời gót đến bất cứ nơi đâu.
Mùa
đông năm 1895, thầy Lahiri Mahsaya rời bỏ thân xác phàm tục sau một
quãng thời gian thuyết giáo không mệt mỏi, để lại sự thương tiếc cho
hàng ngàn tín đồ và các bậc tu sĩ đạo hạnh khác.
CHƯƠNG XIII: ĐỨC TIN VÀ PHÉP LẠ
Việc
những phép lạ đôi khi được các bậc chân sư chứng đạo thực hiện ở thế
gian này đã trở thành một phần nổi bật khi người đời truyền tụng về các
ngài. Nhưng thật ra đó là một sự sai lệch không nằm trong dụng ý của các
ngài.
Trong
kinh nghiệm thực tế trải qua của bản thân mình, tôi đã thấy rõ là một
vị chân sư không bao giờ sử dụng bừa bãi các quyền năng siêu nhiên đã
đạt được, trừ khi các vị đang nhắm đến một mục tiêu cụ thể nào đó, mà
thường là nhằm mục đích giáo hóa. Rất nhiều khi, tai họa ập đến với các
ngài do nghiệp quả đã gây ra từ trước, nhưng các ngài vẫn vui vẻ chấp
nhận thay vì dùng đến những năng lực huyền bí đã có được của mình.
Chúng
ta sẽ trở lại vấn đề này ở một phần sau nữa, nhưng trước hết, liệu có
hay không vấn đề phép lạ, và vì sao có thể có những hiện tượng mà khoa
học tưởng chừng như không sao giải thích được?
Việc
xuất hiện các phép lạ trong lịch sử nhân loại đã không còn là vấn đề để
bàn cãi nữa. Những tài liệu từ rất xa xưa đều có ghi nhận nhiều trường
hợp phép lạ được thực hiện, và cho đến hiện nay cũng không ít những
trường hợp tương tự đôi khi được tường thuật rộng rãi trên báo chí. Tuy
nhiên, một số lớn các nhà trí thức không muốn xem đó là những “phép lạ”
hoặc “thần thông”, mà cho rằng chỉ là những hiện tượng mà khoa học chưa
giải thích được.
Trong
một chừng mực nào đó, quan điểm này là hoàn toàn hợp lý. Bởi vì, cùng
với sự tiến hóa của khoa học, rất nhiều hiện tượng trước đây được xem là
phép lạ thì giờ đây đã được giải thích rõ và trở nên quen thuộc trong
nhận thức của con người.
Tuy
nhiên, vấn đề vẫn tồn tại ở điểm là, vì sao người ta có thể thực hiện
được những điều đó bất chấp cả những kiến thức khoa học còn giới hạn vào
thời điểm ấy? Hay nói cách khác, khoa học chỉ làm công việc chạy theo
sau để giải thích những gì đã xảy ra trong thực tiễn, thay vì là thực
hiện được một cái gì đó khả dĩ có thể gọi là phép lạ.
Hơn
thế nữa, còn có nhiều trường hợp mà khoa học chỉ có thể thừa nhận là
đúng nhưng không sao giải thích được làm thế nào một bậc giác ngộ có thể
đạt được khả năng ấy.
Nếu
ai đã từng trao đổi về giới không sát sinh với các vị tu sĩ Phật giáo,
hẳn đều đã được nghe các vị nhắc đến một câu kệ đã xuất hiện từ thuở xa
xưa.
Kệ rằng:
Phật quan sát thấy trong mỗi một bát nước,
Có tám vạn bốn ngàn sinh vật.[3]
Người
xuất gia theo giới luật phải trì tụng một câu thần chú để chú nguyện
cho chúng sanh trước khi uống nước, vì Phật dạy rằng trong nước có các
loài sinh vật, cho dù vào thời ấy kính hiển vi chưa hề có trong kiến
thức khoa học, và dùng mắt thường thì không ai có thể nhìn thấy được bất
cứ loài sinh vật nào trong một bát nước sạch.
Ngày
nay, khoa học đã có thể thấy rõ lời Phật dạy như trên là đúng, vì trong
nước quả có rất nhiều loài vi khuẩn sinh sống. Nhưng bằng cách nào mà
đức Phật có thể thấy được điều đó từ cách đây hơn 25 thế kỷ thì người ta
không sao giải thích được!
Một ví dụ khác có thể được tìm thấy trong kinh A-di-đà, một bản kinh được người Phật tử trì tụng rất thường xuyên.
Trong
bản kinh này, khi dẫn chứng đến việc chư Phật ở các thế giới khác đều
chứng minh cho tính xác thực của kinh A-di-đà, đức Phật Thích-ca đã có
một đoạn nhắc đến “các thế giới ở phương dưới”.[4] Điều này hoàn toàn
vượt ngoài kiến thức của khoa học vào thời ấy, vì không ai có thể ngờ
rằng quả đất chúng ta lại “treo lơ lửng” giữa hư không mà không tựa vào
đâu cả. Ngay cả đến việc quả đất hình tròn cũng rất lâu về sau người ta
mới biết được, vì từ thời cổ người ta vẫn tưởng là quả đất hình vuông!
Trong kinh Kim Cang, chúng ta cũng tìm thấy một đoạn khác cụ thể hơn. Phật nói với trưởng lão Tu-bồ-đề rằng:
“Tu-bồ-đề!
Hư không về phương nam, phương tây, phương bắc,[5] bốn phương phụ,
phương trên, phương dưới có thể suy lường được chăng?”[6]
Ở
đây Phật đã nhắc đến hư không về phương dưới. Một thực tế ngày nay
chúng ta đều biết, nhưng hoàn toàn vượt ngoài hiểu biết của khoa học vào
thời điểm cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm.
Như
vậy, chúng ta có thể thấy rõ rằng những năng lực của con người được đạt
đến bằng vào sự tu tập giác ngộ đã vượt rất xa so với những kiến thức
đạt được bằng vào sự suy diễn và chứng minh. Cả hai phương thức này xét
cho cùng nếu đã chính xác thì không hề dẫn đến sự mâu thuẫn nhau, nhưng
khoảng cách giữa cả hai thì có vẻ như chưa bao giờ bị triệt tiêu cả.
Mặc
dù năng lực thần thông là một trong những kết quả của việc tu tập đạt
đến giác ngộ, nhưng đó không phải là điều mà người tu tập chân chính
nhắm đến. Bởi vì, xét cho cùng thì hết thảy mọi phép lạ cũng không giúp
ích được gì cho sự giải thoát khỏi những hệ lụy của cuộc đời.
Chính
đức Phật đã nhiều lần cảnh báo các đệ tử của ngài không được lạm dụng
khả năng thần thông đã đạt được, mà cần phải tập trung nỗ lực, hết sức
tinh tấn trong việc tu tập để đạt đến sự chứng ngộ hoàn toàn.
Câu chuyện sau đây có thể được hiểu như một ví dụ minh họa rất rõ cho quan điểm này.
Một
vị thiền sư có việc phải đi qua sông. Ông đang ngồi chờ đò thì có một
đạo sĩ ngoại đạo cũng vừa đến. Ông này nhìn vị thiền sư với ánh mắt
khinh thường, rồi lấy chiếc nón đang đội trên đầu xuống, ông thả lên mặt
sông, đứng trên đó và lướt đi qua đến bờ bên kia chỉ trong nháy mắt.
Lát
sau, vị thiền sư qua sông trên một chuyến đò. Trong khi ông vừa lên
khỏi bến sông để tiếp tục hành trình thì vị đạo sĩ liền xuất hiện trước
mặt ông. Đạo sĩ xấc xược hỏi:
– Này ông kia, ông tu hành như thế nào mà không đạt được thần thông, để đến nỗi phải ngồi chờ đò một cách tội nghiệp như thế?
Thiền sư ngước nhìn và từ tốn hỏi:
– Đạo trưởng tu luyện bao lâu để đi được trên mặt sông như thế?
Đạo sĩ đáp:
– Ta tu luyện đã hơn hai mươi năm rồi.
Vị thiền sư lẩm bẩm như chỉ nói cho chính mình nghe:
– Ôi, đắt quá, đắt quá!
Đạo sĩ ngạc nhiên, liền gạn hỏi:
– Ông nói đắt quá là nghĩa gì thế?
Thiền sư đáp:
–
Bần tăng vừa rồi chỉ trả có một đồng xu cho người lái đò để được chở
qua sông. Còn đạo trưởng để làm được việc ấy phải mất hơn hai mươi năm,
như vậy không phải là một giá quá đắt hay sao?
Qua câu chuyện này, chúng ta có thể thấy rõ việc đạt đến thần thông không hề là mục đích của một người tu hành chân chính.
Điều
này cũng có thể được thấy rõ ở điểm là, sự an lạc của một người tu tập
không đến từ những phép lạ, mà từ trình độ nhận thức và sở đắc về tâm
linh đạt được qua công phu hành trì pháp môn mình đã chọn.
Tuy
nhiên, thần thông hay phép lạ vẫn là một hiện tượng có thật khiến cho
con người luôn luôn thắc mắc và không sao hiểu được. Dựa trên những
nguyên tắc nào để phát sinh những điều huyền bí mầu nhiệm vượt ngoài các
quy luật vật chất thông thường?
Một
trong những điểm chung thường thấy ở hầu hết các trường hợp xuất hiện
của phép lạ là sự có mặt đồng thời của đức tin. Hay nói một cách khác,
khi không có đức tin, hoặc đức tin không đủ sâu vững thì không thể có
phép lạ.
Một
kiểu phép lạ thường được nhiều người biết đến nhất là sự linh ứng của
các lời cầu nguyện. Khi một lời cầu nguyện được thực hiện với niềm tin
tưởng sâu xa, sự linh ứng hầu như chắc chắn sẽ xảy ra. Việc thoát khỏi
những căn bệnh bất trị, những trường hợp tai qua nạn khỏi hoặc rất nhiều
sự linh nghiệm khác... đã thường xuyên được biết đến mà không ai nghi
ngơ gì.
Điều
cần nói ở đây là đức tin sâu xa lại không xuất phát từ kiến thức khoa
học. Khi người ta đặt niềm tin vào một lời cầu nguyện, đó không phải là
kiểu niềm tin như hai với hai là bốn... Hay nói một cách khác, tiền đề
để một sự linh ứng mầu nhiệm xảy ra là người cầu nguyện vốn đã chấp nhận
sự linh ứng, mầu nhiệm ấy ngay từ khi nó chưa xảy ra mà không đòi hỏi
phải có một sự giải thích hợp lý nào.
Mối
quan hệ giữa đức tin và phép lạ cũng cần được hiểu rõ thêm ở điểm nữa
là, rất nhiều khi phép lạ được thực hiện để mang lại niềm tin, nhưng đó
chỉ là một kiểu niềm tin để bắt đầu. Kiểu niềm tin này không đủ sức để
tự nó mang đến một phép lạ khác, nhưng đó lại là điểm khởi đầu rất tốt
để đạt đến một niềm tin sâu vững về sau.
Sự
mầu nhiệm không đạt đến khi người hành giả vì bất cứ một lý do nào đó
còn có sự nghi ngờ trong lòng. Ngày kia, có vị tăng đi ngang qua một
thôn vắng vào lúc trời sắp tối. Trên nền trời đã tắt nắng, ông nhìn thấy
một vùng hào quang tỏa sáng từ một căn nhà tranh nhỏ ở cuối làng. Lấy
làm lạ, ông liền tìm đến căn nhà ấy. Thì ra, trong nhà có một bà già
đang trì chú Cát tường.[7] Lấy cớ xin nghỉ đêm lại, ông dò hỏi xem bà
già này đang tu tập pháp môn gì. Nhưng thật ra bà không có hiểu biết gì
khác ngoài bài thần chú Cát tường được một vị du tăng dạy cho bà cách đó
3 năm. Từ khi học được, ngày nào bà lão cũng trì tụng một cách rất chí
thành. Quả thật, gia đình bà và cả ngôi làng nhỏ này đã ba năm qua sống
bình yên, mưa thuận gió hòa và không hề xảy ra một tai họa nào.
Vị
tăng liền bảo bà lão đọc câu chú cho ông nghe và nhận thấy bà lão đã
đọc sai một chữ. Ông liền đọc lại cho bà nghe và chỉ ra chỗ sai để đề
nghị bà sửa lại.
Hôm
sau ông từ biệt ra đi. Và phải mất một thời gian sau ông mới lại có dịp
trở lại ngôi làng. Điều thay đổi đầu tiên ông nhận thấy là cũng vào giờ
giấc như lần trước, nhưng ông không còn nhìn thấy vùng hào quang tỏa
lên từ căn nhà tranh kia. Trên đường vào làng, ông nhìn thấy một khu đất
trống với dấu vết của một trận hỏa hoạn vẫn còn rất rõ. Hỏi ra mới biết
đã có một người chết và ba căn nhà kế nhau bị thiêu rụi.
Rất kinh ngạc, ông tìm đến nhà bà lão hôm trước. Sau khi chào hỏi, ông nói:
– Thưa lão bà, phải chăng người đã không còn trì tụng thần chú Cát tường như trước kia nữa?
Bà lão đáp với vẻ ngạc nhiên:
–
Tôi vẫn trì tụng bình thường như trước đấy chứ. Hơn nữa, tôi đã nhớ sửa
lại chỗ sai như ngài chỉ dạy. Mặc dù điều đó thật khó khăn và tôi vẫn
rất hay lầm lộn qua lại giữa chữ đúng và chữ sai ấy.
Vị
tăng liền hiểu ra mọi việc. Chính sự thay đổi do ông yêu cầu đã đánh
mất đi hiệu lực của việc trì tụng thần chú. Vì cho rằng trong câu chú có
chỗ sai, nên bà lão đã sinh tâm nghi ngờ, không còn tin tưởng tuyệt đối
vào việc trì tụng của mình nữa. Mặt khác, do ý niệm sửa sai trong khi
trì tụng, bà đã bị phân tán tư tưởng mà không còn tập trung được như
trước kia!
Và
việc tập trung tư tưởng, hay định tâm, cũng là một yếu tố quyết định
khác được tìm thấy trong những trường hợp phép lạ được thực hiện. Khi
người ta phân tán tư tưởng vào nhiều việc, ý chí sẽ không đủ sức mạnh để
làm nên những điều vượt khỏi các giới hạn thông thường, hay nói khác đi
là không thể có phép lạ.
Mặt
khác, định tâm và đức tin là hai điều hỗ tương cho nhau và rất thường
phải đi đôi với nhau. Khi có một đức tin vững chắc người ta mới có thể
định tâm, và chính việc định tâm làm củng cố thêm niềm tin sâu vững.
Sự
thể hiện thần thông có thể là đề tài lôi cuốn sự quan tâm của rất nhiều
người, nhưng ngay từ xưa, các bậc chân sư chứng ngộ đã rất dè dặt trong
việc thực hiện phép thần thông. Trong những trường hợp nghiệp quả đã
chín muồi, một vị chân sư thà rằng thọ nhận tai nạn hay tật bệnh chứ
không dùng đến năng lực thần thông của mình để tránh né.
Một
trong các đại đệ tử của đức Phật là ngài Mục-kiền-liên, đã nổi tiếng
với việc nhìn thấu địa ngục để thấy mẹ mình là bà Thanh-đề đang chịu tội
khổ và khẩn cầu với Phật chế tác ra phép Vu-lan-bồn để cứu độ cho mẹ,
vẫn còn được áp dụng cho đến tận ngày nay. Thế nhưng Đại đức
Mục-kiền-liên đã mặc nhiên chấp nhận cho các tà sư ngoại đạo hành hung
mình đến chết tại xứ Magadha mà không hề sử dụng đến năng lực thần thông
đã chứng đắc.[8] Bản thân đức Phật cũng rất nhiều lần từ chối không sử
dụng đến thần thông, và luôn khuyến cáo các đệ tử rằng đó không phải là
mục đích của việc tu tập.
Cho
dù vẫn còn có rất nhiều sự hoài nghi và những hiện tượng thực tế đã xảy
ra thách thức kiến thức khoa học của con người, nhưng đức tin và phép
lạ luôn là một trong những vốn quý trong lịch sử tồn tại của loài người
mà những ai mong muốn có một cuộc sống hoàn thiện về tinh thần không thể
không quan tâm tìm hiểu.
CHƯƠNG XIV: CHÂN SƯ
Những
trường hợp về các vị chân sư đã chứng ngộ và thực hiện các phép thần
thông được ghi nhận lại trong lịch sử rất nhiều, nhưng thường không phải
là đề tài được các bậc thầy đời sau nhắc đến. Các ngài vẫn sợ rằng
những người mới học đạo nếu không đủ hiểu biết có thể sẽ rất dễ bị cuốn
hút bởi các phép lạ thay vì là những đạo lý chân chính đưa đến sự giải
thoát.
Khi
một vị chân sư đã thực sự chứng ngộ, người tự nhiên có được những năng
lực mầu nhiệm như biết được quá khứ, nhìn thấy trước tương lai, chữa
khỏi bệnh tật cho người khác, hoặc có thể thực hiện những điều mà người
đời tưởng như không thể nào làm được.
Một
vị chân sư cũng có thể biết trước được những gì sắp xảy đến cho mình,
kể cả việc mình sẽ chết lúc nào. Hơn thế nữa, nếu vì một lý do cần thiết
chính đáng nào đó, một vị chân sư có thể tùy ý thay đổi ngày giờ ra đi
của mình một cách dễ dàng.
Tuy
nhiên, biểu hiện quan trọng hơn cả việc chủ động về ngày giờ chết của
một vị chân sư là việc vị ấy không hề có sự lo lắng hay buồn khổ về việc
phải chấm dứt mạng sống ở thế gian. Điều đó cho thấy các ngài đã cảm
nhận trước một cảnh giới tốt đẹp hơn sau khi từ bỏ cõi trần tục này.
Một
vị chân sư cũng vui lòng nhận lấy những bệnh khổ, sự đau đớn hay bất
hạnh, mặc dù vị ấy đã biết trước và có thể tránh né. Sở dĩ các vị làm
như vậy, là vì các vị đã hiểu thấu luật nhân quả và không muốn tạo tác
ra những nghiệp mới bằng vào những năng lực siêu nhiên mà mình có được.
Ngay
cả việc sử dụng thần thông hay phép lạ để cứu giúp người khác cũng được
một vị chân sư cân nhắc rất kỹ lưỡng trước khi thực hiện. Vì các vị
biết rằng, cách cứu giúp một người tốt nhất là phải chuyển hóa con người
họ trở nên hiền thiện, thay vì là giúp họ thoát khỏi những khổ đau bất
hạnh do chính họ đã gây ra bằng những hành vi bất thiện trong quá khứ.
Tuy
nhiên, hành trạng của một vị chân sư đã chứng ngộ không dễ dàng có thể
hiểu thấu bằng những nguyên tắc này hay nguyên tắc khác, theo cách mà
người thế tục vẫn thường suy diễn. Điều đó là do nơi sự hiểu biết bao
quát của các ngài. Trong một sự việc mà người thường cho là không nên
làm, các ngài lại nhận thấy có một khía cạnh nào đó cần thực hiện. Ngược
lại, trong những sự việc mà người thường cho là tốt đẹp, các ngài lại
có thể nhìn ra yếu tố không nên làm. Nói chung, hành động của các ngài
xuất phát từ tấm lòng từ bi muốn đem lại lợi lạc cho tất cả chúng sanh
với một trí tuệ hiểu biết sâu xa bao trùm cả quá khứ, hiện tại và tương
lai. Những yếu tố ấy làm cho người thế gian không thể nào đủ sức hiểu
thấu hoặc đánh giá đúng về hành trạng của các ngài.
Một
số vị đã thị hiện trong những hình tướng xấu xí, bẩn thỉu. Các vị làm
như vậy để phá tan đi những định kiến của người đời luôn phán đoán con
người theo dáng vẻ bên ngoài. Bởi vì, hình tướng bên ngoài không thể nói
lên giá trị chân thật hay sự giác ngộ về tâm linh của một con người.
Lại
có những vị xuất hiện trong cuộc sống phàm tục của thế gian. Các vị
cũng có vợ con, làm những công việc rất bình thường như người thế tục,
thậm chí đôi khi còn chịu đựng những khổ đau, hoạn nạn không khác gì với
một người phàm tục. Các vị làm như vậy là để giáo hóa những người thế
gian được dễ dàng hơn, bởi các vị đã tạo cho họ một sự gần gũi không
ngăn cách trong cuộc sống. Từ cuộc sống thế tục, một vị chân sư vươn lên
và thể hiện sự giải thoát của mình, như một tấm gương sáng để những
người khác noi theo. Thầy Lahiri Mahsaya là một trong những tấm gương
như thế.
Ngoài
ra, một vị chân sư cũng có thể viên tịch khi còn rất trẻ, hoặc có thể
sống lâu đến 100, thậm chí 200 tuổi nếu cần thiết. Các vị làm như vậy
không theo một nguyên tắc bó buộc nào, mà hoàn toàn dựa vào tâm niệm hóa
độ chúng sanh.
° ° °
Một
trong các vị chân sư Ấn Độ được biết đến nhiều nhất là tổ Bồ-đề
Đạt-Ma.[9] Tổ Bồ-đề Đạt-ma sinh vào thế kỷ 5, là hoàng tử thứ ba của vua
Hương Chí nước Ca-xí,[10] một vị vua ở miền Nam Ấn Độ. Ngài đã bỏ ngôi
vua mà đi theo con đường tu tập để đạt được sự giải thoát khỏi những hệ
lụy của thế gian.
Ngài
là đệ tử của Tổ sư Bát-nhã Đa-la, là vị tổ thứ 27 được truyền thừa kể
từ đức Phật Thích-ca. Theo lời dạy của thầy, ngài đã rời khỏi Ấn Độ và
đem pháp môn thiền định truyền sang Trung Hoa, trở thành vị Tổ sư thiền
đầu tiên ở xứ này.
Tổ
Đạt-ma giáo hóa tại Ấn Độ trong vòng sáu mươi năm, truyền bá pháp môn
thiền định cho rất nhiều người. Đến khoảng năm 520 thì ngài sang Trung
Hoa.
Khi
đến Trung Hoa, ngài đã gặp vua Lương Vũ Đế là một vị vua lúc ấy đang
rất sùng mộ đạo Phật. Nhưng sau khi trao đổi thấy vua không đủ sức hiểu
được đạo lý sâu xa mà ngài muốn truyền dạy, ngài liền qua sông mà tìm
đến vùng núi Tung Sơn. Tương truyền rằng khoảng sông rộng không có đò
ngang, ngài đã thả chiếc nón xuống làm thuyền vượt qua sông.
Đến
Tung Sơn, ngài vào một hang động hoang vắng ngồi thiền tọa trong suốt
chín năm trời, quay mặt vào vách không giao tiếp với ai cả.
Sau
ngài gặp được đại sư Thần Quang là người hết lòng cầu đạo, đã dám tự
chặt đứt cánh tay trái của mình để tỏ rõ quyết tâm, ngài liền đem những
yếu chỉ của pháp môn thiền định mà truyền dạy cho. Thần Quang được đổi
tên là Huệ Khả, trở thành Tổ sư thiền thứ hai, nối tiếp pháp môn này tại
Trung Hoa.
Tổ
Đạt-ma bị nhiều người ghen ghét vì không hiểu được đạo lý sâu xa của
ngài, nên dùng thuốc độc lén bỏ vào thức ăn để đầu độc ngài. Tuy nhiều
lần như vậy nhưng Tổ sư vẫn không hề hấn gì.
Sau
khi ngài đã viên tịch, vua truyền dựng tháp thờ. Được ba năm sau, một
viên quan tên là Châu Vân vâng lệnh triều đình đi sứ về, bỗng gặp tổ
Đạt-ma đi trên đường núi, trên vai quảy một cây gậy, nơi đầu gậy treo
đong đưa một chiếc dép. Châu Vân liền hỏi: “Bạch thầy, thầy đang đi về
nơi đâu?” Tổ sư đáp: “Ta về Tây Thiên.”[11]
Châu
Vân lấy làm lạ lắm, liền trình sự việc lên vua Ngụy Đế. Vua ra lệnh
khai quật quan tài của Tổ sư lên để xem, thì thấy trong quan tài trống
trơn chỉ còn lại một chiếc dép mà thôi. Vua truyền mang chiếc dép ấy đặt
ở chùa Thiếu Lâm mà thờ phụng.
Vì thế, người đời sau thường vẽ tranh Tổ Đạt-ma quảy một cây gậy, trên đầu gậy chỉ có một chiếc dép.
Pháp
môn thiền định do Tổ Đạt-ma truyền sang Trung Hoa, tiếp tục truyền nối
đến tổ thứ sáu là Huệ Năng, tương truyền là người cũng đã nhiều lần hiển
thị thần thông để nhằm mục đích hoằng dương chánh pháp.
CHƯƠNG XV: MỘT VỊ THÁNH SỐNG
Lòng
ngưỡng mộ đã nung nấu trong tôi một ước mơ đến thăm viếng ngài Gandhi,
người được hàng trăm triệu dân Ấn Độ thành kính suy tôn là bậc thánh
ngay trong khi ngài vẫn còn đang sống.
Năm
1925, thánh Gandhi có đến thăm Thiếu Sinh Học Đường của tôi ở Ranchi,
và có ghi mấy dòng cảm nhận trong quyển sổ lưu niệm của nhà trường dành
cho khách tham quan. Tuy nhiên, chúng tôi đã không có mấy thời gian để
trao đổi vào lúc đó.
Chuyến
viếng thăm thánh Gandhi lần này của tôi được thực hiện khá bất ngờ bằng
đường xe lửa vào một ngày tháng 8 năm 1935. Tuy được thông báo rất trễ,
nhưng thánh Gandhi cũng đã kịp bố trí người đến đón tôi tại nhà ga
Wardha từ sáng sớm. Đó là ông Mahadev Desai, thư ký riêng của ngài. Cùng
đi với ông còn có ba người khác nữa. Họ đưa chúng tôi về đạo viện
Maganvadi, nơi cư trú của thánh Gandhi, bằng một chiếc xe hơi không mui
chẳng lấy gì làm sang trọng lắm.
Xe chạy qua những con đường ngoằn ngoèo lầy lội của vùng quê, qua một lúc lâu thì chúng tôi đến nơi.
Ông
Mahadev Desai đưa chúng tôi vào văn phòng. Hôm đó là thứ Hai trong
tuần, và thánh Gandhi đang thực hiện ngày tịnh khẩu hằng tuần. Điều này
có nghĩa là chúng tôi sẽ không được nghe giọng nói của ngài.
Khi
chúng tôi bước vào phòng, thánh Gandhi đang ngồi trên một chiếc chiếu
rất đơn sơ được trải trực tiếp trên nền đất. Tay trái ngài cầm một tập
giấy và tay kia cầm cây bút. Nhìn thấy chúng tôi, ngài viết trên tập
giấy hai chữ “Kính chào” bằng tiếng Hindi, rồi đứng dậy đưa cho chúng
tôi với một nụ cười tươi trên môi.
Nhìn
dáng vẻ ngài hơi gầy nhưng thật rắn chắc. Đôi mắt sáng tinh anh với
những cử chỉ rất linh hoạt, nhanh nhẹn, làm bộc lộ rõ một tinh thần tích
cực, mạnh mẽ và một sức khỏe tiềm tàng. Mắt ngài màu nâu, nhìn vào có
cảm giác như tỏa ra từ đó một sự dịu dàng mà quả quyết, cùng với sự
thông minh và chân thật.
Chưa
có một nhà lãnh đạo nào đã từng thu phục được trái tim của hàng triệu
người dân Ấn Độ như thánh Gandhi đã làm được. Danh xưng “Mahatma” mà họ
dành cho ngài, với ý nghĩa là một bậc “đại thánh, đại hiền giả”, là một
sự tự nguyện chân thành, không hề xuất phát từ một sự tô vẻ chính trị
như nhiều nhà lãnh đạo khác vẫn thường làm. Chính trang phục của ngài
cũng nói lên sự quan tâm chân thật đến quảng đại quần chúng, những người
nghèo khổ: quanh năm ngài chỉ mặc có mỗi một cái khố ngắn trên người.
Sau
một vài lễ nghi chào hỏi và trao đổi hạn chế qua giấy viết, thánh
Gandhi đưa cho chúng tôi một mẩu giấy, trên đó ngài viết: “Những nhân
viên của chúng tôi sẽ hết lòng phục vụ Đại đức, xin ngài hãy tự nhiên
trong thời gian lưu lại đây.” Và chúng tôi theo ông Desai rời khỏi văn
phòng đơn sơ này để đến nhà khách, cũng trong khuôn viên đạo viện.
Đường
đi băng qua mấy khu vườn cây trái và cả những đồng ruộng xanh tốt. Nhà
khách dùng để tiếp đón chúng tôi là một ngôi nhà thoáng mát lợp ngói đỏ.
Trước sân thấy có một giếng nước, gần đó đặt một cối đá loại dùng để
xay lúa. Trong nhà được ngăn ra thành nhiều phòng ngủ với diện tích tối
thiểu cho mỗi phòng, chỉ vừa đủ đặt một chiếc giường vải bố dệt bằng
tay, vừa đủ một người nằm. Phía sau là một nhà bếp quét vôi trắng. Nói
là nhà bếp, nhưng đó chỉ là một căn phòng rất đơn sơ, với một bếp lò
thiết kế theo kiểu đào sâu xuống đất dùng để nấu nướng, ngoài ra chẳng
còn có tiện nghi gì khác ngoài một vòi nước máy ở góc đối diện với bếp
lò.
Từ
phía sau nhà, chúng tôi có thể nghe được tiếng chim hót trong khu vườn
bao quanh, tiếng bò rống trên đồng ruộng, và nhiều thứ âm thanh thôn dã
khác.
Ông
Desai dành thêm mấy phút lưu lại để trò chuyện với chúng tôi. Và cũng
nhân dịp trò chuyện ngắn ngủi này, ông liền tranh thủ trình bày với
chúng tôi về 11 nguyên tắc của phong trào bất bạo động mà thánh Gandhi
đã đề ra và được hàng triệu người Ấn Độ hưởng ứng làm theo. Các nguyên
tắc ấy là:
1. Tự nguyện không sử dụng đến bạo lực, dù trong bất cứ hoàn cảnh, tình huống nào.
2. Tự nguyện sống chân thật, ngay thẳng không dối trá.
3. Không lấy bất cứ vật gì của người khác khi không được họ tự nguyện đưa cho.
4. Tự nguyện sống cuộc sống thuần khiết, xa lánh mọi tội lỗi.
5. Tự nguyện sống cuộc sống nghèo túng nhưng trong sạch.
6. Tự nguyện hết sức chuyên cần, tích cực trong lao động, sản xuất.
7. Tự nguyện sống cuộc sống tiết chế, có điều độ trong mọi sinh hoạt cũng như sự thọ dụng.
8. Không khiếp sợ trước bất cứ tình huống nào.
9. Tự nguyện tha thứ cho những lỗi lầm, sai phạm của người khác đã thực hiện đối với mình.
10. Tự nguyện tiêu dùng hàng hóa được sản xuất trong nước.
11. Chống phân biệt giai cấp.
Ngày
hôm sau, đích thân thánh Gandhi đã ghi vào cuốn sổ lưu niệm của chúng
tôi những điều này và ký tên vào, đề ngày 27 tháng 8 năm 1935.
Chúng
tôi được mời dùng cơm trưa khoảng hai tiếng đồng hồ sau khi đặt chân
đến đạo viện. Buổi cơm thân mật có mặt thánh Gandhi và 25 người khác,
đều là các tín hữu của ông.
Chúng
tôi dùng cơm trong một căn phòng trống, không bàn ghế. Mỗi người có một
tấm chiếu vuông nhỏ trải trên sàn để ngồi xếp bằng trên đó. Thức ăn
được đựng trong những chén đĩa bằng thau sạch bóng, bày ngay trước mặt
mỗi người. Chúng tôi cùng tham gia những giây phút cầu nguyện tập thể
trước khi bắt đầu bữa ăn. Thức ăn rất đơn giản nhưng không kém phần ngon
miệng và giàu dinh dưỡng: có bánh nướng chapati làm bằng bột mì có phết
bơ, các món rau đậu xào, cùng với mứt trái cây và cam.
Khẩu
phần của thánh Gandhi còn có thêm một món rau luộc được quết nhuyễn
thành cục. Không phải là một sự ưu tiên hơn những người khác, nhưng mục
đích ngài dùng món rau này với tác dụng như một loại thuốc lọc máu, và
nó có vị đắng cực kỳ đến nỗi chẳng ai muốn dùng kèm theo trong khẩu phần
của mình. Thật tế nhị, ngài dùng muỗng sớt một ít món rau đắng này vào
đĩa của tôi. Tôi đã không thể kiềm chế được mà phải nhăn mặt cố gắng mới
nuốt trôi được phần chia ấy. Nhưng thánh Gandhi thản nhiên ăn từng ít
một không biểu lộ sự khó chịu gì.
Chỉ
một chi tiết nhỏ này cũng đủ để tôi thấy được năng lực khống chế các
giác quan của vị thánh. Tôi còn nhớ cách đây mấy năm có đọc bài tường
thuật trên báo về việc mổ ruột thừa của ngài. Thánh Gandhi đã từ chối
không cho các bác sĩ dùng đến thuốc mê, và ngài vẫn thản nhiên trò
chuyện với những người đến viếng thăm trong suốt thời gian phẫu thuật,
như thể không hề bị tác động chút nào bởi sự đau đớn!
Sau
bữa ăn trưa, tôi có dịp tiếp xúc với một nữ đệ tử người Anh của thánh
Gandhi. Cô tên là Madeleine Slade, con gái của một vị Đô đốc hải quân
Hoàng gia Anh. Hiện nay cô lấy tên Ấn Độ là Mirabai. Cô nói chuyện với
tôi bằng tiếng Hindi rất thông thạo. Trong buổi trò chuyện, cô đã kể cho
tôi nghe về những công việc hằng ngày của cô với một khuôn mặt rạng rỡ
nhiệt tình, và cũng thể hiện những nét điềm tĩnh, cương nghị của một
người rất chín chắn. Cô nói:
–
Công việc của chúng tôi gắn bó chặt chẽ với đời sống nông thôn. Mỗi
ngày, chúng tôi thức dậy từ lúc 5 giờ sáng và đi đến các làng mạc phụ
cận quanh đây để dạy cho người dân quê ý thức được về những kiến thức vệ
sinh thường thức trong cuộc sống hằng ngày. Chúng tôi không chỉ giảng
giải, mà thường phải bắt tay vào làm việc nữa. Chúng tôi giúp họ dọn dẹp
nhà cửa theo cách để cho họ biết thế nào là hợp vệ sinh. Thậm chí, có
khi chúng tôi còn lau dọn nhà vệ sinh cho họ nữa. Chỉ như vậy mới có thể
làm thay đổi được nhận thức của những người vốn xưa nay chưa từng được
học hành gì cả.
Nói xong, cô cất tiếng cười thật giòn giã để bày tỏ sự hài lòng với công việc của mình.
Quả
thật, tôi không giấu nổi sự thán phục khi được biết về người phụ nữ Anh
quốc xuất thân quyền quý này. Với một đức khiêm tốn ít ai có được, cô
đã hạ mình làm cả những công việc được xem là chỉ dành cho những kẻ cùng
đinh hạ tiện ở xứ này, và điều đó được cô thực hiện chỉ vì đã xác định
được một lý tưởng theo đuổi cho cuộc đời mình. Cô nói rõ hơn về điều
này:
–
Tôi đến Ấn Độ năm 1925. Với lý tưởng phụng sự, tôi đã xem nơi đây là
quê hương mình và không còn muốn trở về với cuộc sống trước kia ở Anh
quốc nữa.
Sau
mấy phút trò chuyện với tôi, cô Mirabai lại quay về ngay với công việc
của mình. Cô ngồi xuống trước các bánh xe quay chỉ và bắt đầu làm việc
thật bận rộn. Những bánh xe quay chỉ này đã được khôi phục lại ở khắp
nơi trên toàn cõi Ấn Độ nhờ vào những cố gắng kêu gọi của thánh Gandhi.
Thánh
Gandhi không chủ trương tẩy chay nền công nghiệp mới với những phát
minh tối tân, hiện đại, nhưng ngài có những lý do chính đáng để kêu gọi
việc phục hồi trên xứ sở mình các ngành thủ công và tiểu thủ công nghệ.
Dù vậy, những tiến bộ kỹ thuật mới, máy móc cơ khí... cũng đều được ngài
tận dụng trong công cuộc phục vụ đất nước.
Cuộc
đời hoạt động kéo dài hơn nửa thế kỷ, trải qua những giai đoạn tù đày
và va chạm thường xuyên trên trường chính trị đã mang lại cho ngài một
cái nhìn sắc bén và thiết thực trong việc đưa ra các chủ trương đúng đắn
để lèo lái đất nước.
Đến
8 giờ tối thì thánh Gandhi chấm dứt thời gian tịnh khẩu. Chúng tôi được
biết là ngài sử dụng thời gian hầu như tuyệt đối chính xác đến từng
phút từng giây theo thời biểu.
Khi chúng tôi vào phòng làm việc của ngài, thánh Gandhi vui vẻ đứng dậy tiếp chúng tôi với lời chào trân trọng:
– Kính chào Đại đức!
Căn
phòng rất đơn sơ, chỉ có một cái bàn thấp chất đầy giấy tờ và sách vở,
với hai cây bút mực loại thường và một cái đồng hồ treo trên vách. Ngoài
ra không còn một tiện nghi nào khác. Ngài tiếp khách ngay trên nền nhà
với những tấm chiếu vuông nhỏ trải ra thay cho ghế ngồi. Sau khi mời
chúng tôi ngồi xuống, ngài nói thay cho một lời giải thích:
–
Cách đây mấy năm, tôi bắt đầu tịnh khẩu mỗi tuần một ngày, chỉ là nhằm
để có thời gian cho việc trả lời thư tín và giải quyết công việc. Nhưng
giờ đây thì việc tịnh khẩu đã trở thành một nhu cầu thiết yếu không thể
thiếu được trong đời sống tâm linh của tôi. Điều đó không còn là một kỷ
luật khắt khe phải tuân theo, mà là một ân huệ được cuộc sống ban cho.
Sau
buổi chuyện trò thân mật, khi từ biệt để về nhà khách, tôi chúc ngài
ngủ ngon. Thánh Gandhi thân mật trao cho tôi một chai dầu xả chống muỗi
và cười nói:
– Xin Đại đức cẩn thận cho, loài muỗi ở đây không hưởng ứng phong trào bất bạo động của chúng tôi.
Cuộc
thăm viếng đã làm cho tôi phải hết sức ngạc nhiên vì sự đơn sơ giản dị
của một cơ quan đầu não lãnh đạo hàng triệu người dân Ấn Độ. Thánh
Gandhi đã để dấu ấn của ngài ở khắp mọi nơi bằng việc tự mình thực hiện
một cuộc sống thanh bần. Ngài đã từ bỏ nghề luật sư với mức thu nhập hơn
20.000 đô-la mỗi năm, mặc dù đã được đào tạo và tốt nghiệp chính quy
tại Anh quốc và cũng đã được chính thức gia nhập Luật sư đoàn, một tiền
đồ vô cùng rực rỡ cho sự nghiệp bản thân.
Nói
về sự hy sinh hoặc từ bỏ một đời sống thế tục, chúng ta không thể không
nghiêng mình kính phục gương sáng của thánh Gandhi. Một số người thất
bại trong sự nghiệp, hoặc hạnh phúc gia đình bị sụp đổ... Họ buồn chán
và tuyên bố từ bỏ tất cả để đi theo đời sống xuất gia. Thật ra họ chẳng
có gì để từ bỏ! Chính là của cải vật chất và hạnh phúc tình yêu đã từ bỏ
họ ra đi, và họ đang trốn chạy bản thân mình bằng cách tìm đến với tôn
giáo. Nhưng những trường hợp như thánh Gandhi là trái lại. Ngài không
chỉ từ bỏ tiền đồ xán lạn, mà còn mang tất cả những của cải tài sản hiện
có của mình ra để phân phát hết cho dân nghèo!
Người
vợ của ngài, bà Kasturabai, cũng là một người vợ hiền đáng kính. Bà vui
vẻ tán trợ chồng mà không một biểu hiện phản đối nào lúc ngài mang tất
cả tài sản của gia đình ra phân phát bố thí. Thậm chí, ngài đã không
dành lại một phần nào cho chính gia đình, vợ con của mình.
Sau khi sinh được 4 người con, cả hai vợ chồng đã đồng ý sẽ sống cuộc sống thuần khiết và chấm dứt quan hệ tình dục thể xác.
Bà
Gandhi được thừa nhận là một bậc nữ lưu hào kiệt khi bà âm thầm chia sẻ
gánh nặng với chồng ở mọi lúc, mọi nơi. Bà đã theo chồng vào tù ngục,
cùng tham gia những cuộc tuyệt thực kéo dài đến cả ba tuần lễ, và cùng
chia sẻ trách nhiệm lớn lao với chồng trong mọi hoàn cảnh.
Trong
nhiều năm dài, bà Kasturabai đảm nhận chức vụ thủ quỹ, quản lý tốt một
ngân khoản lên đến nhiều triệu đồng được quyên góp để dùng vào các hoạt
động xã hội. Người ta vẫn truyền miệng với nhau rằng các ông chồng trong
những gia đình giàu có ở Ấn Độ rất lấy làm lo sợ mỗi khi quý bà đi dự
các buổi nói chuyện của thánh Gandhi. Bởi vì tài hùng biện của ngài như
có ma thuật khiến cho quý bà vui vẻ đóng góp vào các quỹ từ thiện xã hội
do ngài kêu gọi bằng ngay cả những món nữ trang đắt giá mang theo trên
mình.
Người
ta kể với tôi rằng, có một lần, bà Kasturabai kết toán sổ sách và thấy
chênh lệch 4 đồng ru-bi, bà không thể nhớ ra là đã chi tiêu vào chuyện
gì. Sau đó, thánh Gandhi liền vô tư công bố trước tập thể là bà
Kasturabai đã sơ sót khi chi tiêu mất 4 ru-bi mà không ghi vào sổ sách.
Về sau, tôi thường kể lại chuyện này cho các học trò người Mỹ của tôi nghe. Một nữ đệ tử đứng tuổi đã phát biểu rằng:
–
Con thật không hiểu nổi vì sao chỉ một khoản tiền vụn vặt như thế mà
thánh Gandhi có thể đưa ra để làm xấu vợ mình trước tập thể. Có lẽ bản
thân con sẽ không thể nào chịu đựng được cách đối xử của một người chồng
như vậy.
Tôi đã cười và giải thích:
–
Vấn đề không phải là 4 ru-bi, mà là sự tin cậy của tập thể giao phó cho
một người. Nếu người ấy có sơ sót, dù là sơ sót rất nhỏ, vẫn phải nhận
lỗi trước tập thể. Hơn thế nữa, thánh Gandhi đã không tuyên bố điều đó
với tư cách một người chồng, mà là một người lãnh đạo, một bậc thầy dẫn
dắt đời sống cho hàng triệu người, trong đó có bà ta. Chính vì thế, bà
đã vui vẻ nhận lỗi mà không hề phản đối.
Chỉ
ít lâu sau lần ấy, thánh Gandhi phải vào tù vì một bản án chính trị. Bà
Kasturabai đã tự nguyện vào sống trong tù để chăm sóc cho chồng. Bà đã
qua đời trong nhà tù tại Poona vào năm 1944. Đây là một trong những lần
rất hiếm hoi mà thánh Gandhi đã bật khóc thành tiếng, mặc dù thường ngày
ngài bao giờ cũng giữ được sự bình thản trước mọi biến cố. Cái chết của
người vợ hiền cao cả này có ý nghĩa hơn tất cả mọi biến cố khác đối với
ngài, ngay cả đối với hàng triệu người dân Ấn. Một cuộc quyên góp đã tự
động phát sinh và được hưởng ứng nhiệt liệt trên toàn xứ Ấn, mang lại
12,5 triệu ru-bi nhằm mục đích xây một đài tưởng niệm cho bà. Nhưng
thánh Gandhi bác bỏ mục đích này và quyết định dùng tiền ấy vào những
chương trình tài trợ cho nông thôn, nhằm nâng cao mức sống cho phụ nữ và
trẻ con.
Trong dịp viếng thăm ấy, tôi có đặt một câu hỏi với thánh Gandhi rằng:
– Ngài nghĩ sao về ý nghĩa của đức tính “bất hại”.[12]
Ngài trả lời một cách giản dị:
–
Đó chính là nền tảng của chủ trương “bất bạo động”. Người theo chủ
trương này sẽ không làm tổn hại đến bất cứ một sinh vật nào, cho dù là
bằng tư tưởng hay hành động.
Tôi hỏi tiếp:
– Nhưng trong trường hợp để tự vệ, hoặc để bảo vệ một người khác? Chẳng hạn khi tôi gặp phải một con rắn độc.
Thánh Gandhi nở một nụ cười:
–
Nếu tôi giết con rắn, tôi sẽ phạm vào hai điều chứ không phải một. Một
là phạm vào việc sát hại, và hai là sự sợ hãi. Vì nếu không xuất phát từ
sự sợ hãi thì tôi sẽ không nghĩ đến việc giết con rắn.
Tôi kinh ngạc xiết bao vì sự tương đồng giữa ý tưởng này với lời dạy của sư phụ Śrỵ Yukteswar.
Thánh Gandhi ôn tồn giải thích tiếp:
–
Trong trường hợp đó, tôi sẽ cố gắng cảm hóa bằng tình thương. Mọi sinh
vật đều có bản năng cảm nhận được tình thương. Vấn đề là tôi có thể thực
hành ở mức độ đủ để cảm hóa hay chưa. Hơn thế nữa, trong bất cứ tình
huống nào, tôi cũng không thể từ bỏ lý tưởng tâm linh đang theo đuổi chỉ
vì để bảo vệ cho lợi ích của riêng mình.
Và ngài pha trò với một nụ cười hóm hỉnh:
–
Tuy nhiên, tôi cũng thú thật với ngài là nếu ngay bây giờ xuất hiện
trước mặt chúng ta một con rắn hổ mang, chắc tôi sẽ không thể bình tĩnh
tiếp tục cuộc nói chuyện này được nữa.
Chúng tôi cùng bật cười vui vẻ với câu pha trò ấy.
Buổi
sáng hôm sau, tôi thức dậy vào khoảng 5 giờ. Trời vẫn còn tối đen như
mực, nhưng cuộc sống thôn quê đã bắt đầu trỗi dậy nhộn nhịp. Tôi nghe
thấy tiếng xe bò lăn bánh trên đường đi ngang qua đạo viện. Rồi tiếng
bước chân nặng nề của những người nông dân gánh hàng đi qua.
Người ta nói là thánh Gandhi đã thức dậy từ lúc 4 giờ sáng. Tôi đến chào ngài để ra về. Thánh Gandhi nói:
– Xin kính chào Đại đức. Chúng tôi rất buồn phải từ biệt ngài.
Tôi quỳ xuống và cúi đầu trước chân ngài để biểu hiện sự tôn kính. Tôi nói với lòng chân thành:
– Cả đất nước Ấn Độ này thật may mắn có được sự dắt dẫn của ngài. Chúng ta sẽ đạt đến mọi sự tốt lành.
Và chúng tôi chia tay nhau.
° ° °
Nhiều
năm trôi qua sau cuộc viếng thăm thánh Gandhi của tôi tại Wardha. Rồi
thế chiến thứ II bùng nổ. Người chết ở khắp nơi, trên không trung, mặt
đất và cả trên mặt biển. Thánh Gandhi là nhà lãnh đạo duy nhất trên thế
giới đã trung thành theo đuổi đường lối bất bạo động để chống lại những
thế lực cường bạo trang bị vũ khí tối tân. Ngài giải thích:
–
Tôi luôn nhận thấy sự sống vẫn tồn tại ngay cả trong những sự tàn phá
khủng khiếp nhất. Bởi vậy, tôi tin là sự sống có giá trị cao cả hơn
nhiều so với những tham vọng tầm thường đã dẫn người ta đến chỗ giết
chóc và phá hoại. Chỉ khi nào giá trị cao cả đó được tất cả mọi người
công nhận và tôn trọng thì nhân loại mới có được những xã hội trật tự,
và cuộc đời này mới thật sự có ý nghĩa.
Ngài còn nói thêm:
–
Không chỉ trong những cuộc chiến tranh, đối đầu hoặc xung đột lớn, mà
ngay trong đời sống hằng ngày chúng ta cũng cần phải hiểu rõ chủ thuyết
bất bạo động có giá trị như thế nào. Khi chúng ta buộc lòng phải đối đầu
với một địch thủ, hãy chinh phục kẻ ấy bằng tình thương chân thật. Rồi
chúng ta sẽ thấy sức mạnh của tình thương có thể làm nên những điều kỳ
diệu mà sự phá hoại không thể nào làm được. Bạo lực chỉ có thể làm người
ta khiếp sợ khi thất thế, nhưng tình thương làm người ta khuất phục
trong mọi tình huống.
Lịch
sử đã chứng minh là thánh Gandhi hoàn toàn đúng, khi Anh quốc buộc phải
công nhận nền độc lập của Ấn Độ trong hòa bình vào năm 1947. Lý tưởng
mà ngài theo đuổi suốt cuộc đời đã đạt đến một cách hoàn mãn và ghi nên
một trang sử vàng chói lọi trong lịch sử nhân loại. Với những thành tựu
được mang lại bằng chính cuộc đời ngài, một trong các nhà phê bình của
phương Tây, Agnes Hooper Gottlieb, đã xếp ngài vào một trong 10 nhân vật
quan trọng nhất đã làm thay đổi lịch sử nhân loại trong thiên niên kỷ
thứ hai.
Nhưng
có một điều quan trọng cần nêu rõ là, thánh Gandhi không xem chủ thuyết
bất bạo động như một phương tiện chính trị để giúp ngài đạt đến mục
tiêu đề ra, chẳng hạn như nền độc lập cho Ấn Độ. Trong thực tế, ngài
truyền dạy chủ thuyết này cho hàng trăm triệu người dân Ấn như là một lý
tưởng sống và cần phải được thực hành ngay trong đời sống hằng ngày.
Cho dù thực tế là không phải cả 400 triệu dân Ấn Độ đều tin theo chủ
thuyết của ngài, nhưng quả đúng là chưa từng có một chủ thuyết nào được
lan truyền rộng rãi và được đông đảo quần chúng ủng hộ đến như vậy.
Những
người trung thành với chủ thuyết bất bạo động đã chấp nhận chỉ phản đối
bằng sự bất hợp tác, và sẵn sàng chịu mọi sự ngược đãi, tù đày, hoặc
ngay cả đến cái chết, mà không bao giờ cầm vũ khí kháng cự. Thành quả mà
cách phản kháng này mang lại cho Ấn Độ, trong thực tế đã lớn lao hơn cả
những thành quả mà nhiều quốc gia khác phải đạt đươc bằng vũ lực.
Thánh
Gandhi cũng kêu gọi việc hòa giải tôn giáo trên nền tảng bất bạo động.
Hàng triệu người Ấn giáo và Hồi giáo – trừ ra những kẻ cực đoan – đã
hưởng ứng lời kêu gọi của ngài và chấm dứt xung đột. Ngài cũng đấu tranh
bất bạo động cả cho việc trừ bỏ sự phân biệt giai cấp vốn đã tồn tại từ
ngàn đời trên đất Ấn Độ. Bản thân ngài đã từng tuyên bố sẵn sàng tái
sinh trong giai cấp hạ tiện để có thể phục vụ con người trong giai cấp
này tốt hơn nữa.
Người
dân Ấn Độ đã tự nguyện suy tôn ngài danh hiệu Mahatma,[13] là một danh
từ tiếng Phạn có nghĩa là “một linh hồn vĩ đại”, và sự suy tôn đó là
hoàn toàn xứng đáng.[14] Mọi người dân đều kính trọng ngài như một vị
cha lành đã thực sự hết lòng thương yêu, chăm lo cho họ.
Một
trong những điểm nổi bật của thánh Gandhi so với các nhà lãnh đạo chính
trị khác là ngài luôn luôn vững tin vào bản chất tốt đẹp nơi mỗi con
người, và hoàn toàn cảm thông với những sai lầm, khuyết điểm của bất cứ
ai. Ngài cho rằng sự sai lầm là không thể tránh khỏi đối với bất cứ ai,
nhưng điều đó không thể làm mất đi bản chất tốt đẹp tự nhiên của mỗi
người. Xuất phát từ niềm tin mãnh liệt này, thánh Gandhi đã từng nói:
–
Nếu đối phương lừa dối chúng tôi đến 20 lần, chúng tôi vẫn sẵn lòng tin
cậy vào họ ở lần thứ 21. Bởi vì nếu đánh mất đi niềm tin vào con người,
chúng ta sẽ chẳng còn mục đích gì để đấu tranh nữa cả.
Và
ngài xem đây là một trong những phương châm của một Satyagrahi, tức là
người vững tin và hành động theo chủ thuyết bất bạo động của ngài. Phong
trào này được gọi theo tên Ấn Độ là Satyagraha.
Người
phương Tây thường gọi kiểu tranh đấu này là “passive resistance”, tạm
dịch là “phản kháng thụ động”. Tuy nhiên, rõ ràng là thuật ngữ này đã
không hoàn toàn chính xác!
Chính
thánh Gandhi đã gọi tên chủ trương của mình theo tiếng Sankrit là
satyagraha, có nghĩa là “chân lý và sự quyết tâm”. Nhưng người ta thường
được nghe nói nhiều hơn với tên gọi dễ hiểu hơn là “bất bạo động”.
Trong
tôn giáo, quan điểm bất bạo động không phải là một ý tưởng mới mẻ. Hầu
hết các tôn giáo đều có đề cập đến ý tưởng này. Và thật ra thì thánh
Gandhi đã xây dựng chủ thuyết của mình phần lớn dựa trên nền tảng thuyết
ahiṃs
của Phật giáo, có nghĩa là “không làm tổn hại”.[15] Nhưng vận dụng chủ
thuyết này để tranh đấu thì thánh Gandhi quả là người đầu tiên.
Trước
hết, để thực hiện việc bất bạo động, người tín hữu của thánh Gandhi[16]
phải đặt nền tảng trên việc tin vào bản chất tốt đẹp của con người.[17]
Hơn thế nữa, họ còn tin rằng bản chất đó không bao giờ bị diệt mất, cho
dù là ở nơi một con người tàn bạo, nhẫn tâm nhất. Một người đối xử tàn
bạo với người khác, trước hết cần có một lý do để biện minh cho hành
động của mình. Điều này là vì anh ta cần phải xoa dịu chính lương tâm
của mình để không bị dằn vặt vì sự tàn bạo ấy.
Con
người khi thực hiện một việc sai trái, sẽ có hai điều làm họ xấu hổ:
một là xấu hổ vì mọi người chung quanh biết được việc làm sai trái của
mình, và hai là xấu hổ với chính bản thân mình vì tự ý thức được đó là
một hành vi sai trái.
Quá
trình tồn tại của sự ác độc trong một con người là quá trình liên tục
phải chống lại với hai điều xấu hổ ấy. Đối với mọi người, anh ta phải
ngụy tạo những lý do này khác để biện minh cho hành động của mình, ngay
cả dựng lên những điều không có thật. Đối với bản thân, anh ta phải tìm
kiếm những lý do tối thiểu nào đó để tự dối gạt mình, để tin rằng hành
vi của mình là cần thiết hoặc không thể tránh được.
Khi
quá trình chống đối diễn ra trong tự thân đó bị thất bại, con người
buộc phải quay về con đường hiền thiện, bởi anh ta không thể vượt qua
được sự phán xử của chính bản thân mình.
Niềm
tin vào bản chất hiền thiện của con người là một niềm tin có cơ sở và
có thể được chứng minh rõ ràng trong thực tế. Và chính vì có sự tồn tại
của những phẩm chất tốt đẹp trong tất cả mọi con người, nên giá trị cao
quý nhất của cuộc sống phải được xem là những phẩm chất ấy, chứ không
phải là những dục vọng thấp hèn hay những động cơ ích kỷ, nhỏ mọn. Khi
hiểu ra điều này, người ta không bao giờ xem bất cứ con người nào là kẻ
thù của mình nữa, và có thể sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm cho kẻ khác một
khi họ đã thật sự cải hối. Đây chính là điều mà các tín hữu Satyagrahi
đã đạt đến trong cuộc đấu tranh của mình.
Về
mặt tâm lý, khi một người phản ứng bằng bạo lực với người khác, điều đó
xuất phát từ hai lý do. Thứ nhất là bản năng tự vệ. Bản năng này có ở
mọi loài sinh vật chứ không riêng con người. Bất cứ con vật nào cũng sẽ
trở nên hung dữ và phản kháng khi cảm thấy bị tấn công. Như vậy, đây
không phải là một phẩm chất tiêu biểu cho con người mà chỉ là một điều
tự nhiên đối với mọi sinh vật. Thứ hai, xuất phát từ sự sợ hãi. Sợ hãi
vì cảm thấy cuộc sống hoặc những quyền lợi của cá nhân mình đang bị đe
dọa. Khi người ta nhìn thấy một con rắn độc, người ta khởi nên ý tưởng
muốn giết nó chính là vì sự sợ hãi. Người ta lo sợ rằng nó sẽ làm hại
đến mình vào một lúc nào đó trong tương lai, và sự lo sợ đó làm cho họ
không có đủ dũng khí để đứng nhìn con rắn bò đi nơi khác mà không tìm
cách giết chết nó.
Như
vậy, người thực hiện bất bạo động thật ra không hề thụ động, mà ngược
lại là vô cùng tích cực, dũng mãnh. Người ấy đã vượt qua cả bản năng
động vật để ứng xử theo một phẩm chất tiêu biểu của con người là thương
yêu và tha thứ. Người ấy cũng vượt qua sự sợ hãi đối thủ của mình để có
thể không làm bất cứ điều gì gây tổn hại đến đối phương. Thực hiện được
những điều này không phải là chuyện dễ dàng đối với những ai chưa từng
được tôi luyện về mặt tín ngưỡng tâm linh.
Bản
thân thánh Gandhi đã nêu rất rõ ý nghĩa này khi gọi tên chủ thuyết của
mình là satyagraha, với ý nghĩa là “chân lý và sự quyết tâm”. Chân lý ở
đây chỉ cho niềm tin vào bản chất tốt đẹp của con người và sự tồn tại
không thể nào bị đánh mất của những phẩm chất ấy ở tất cả mọi người, cho
dù là những con người tàn bạo nhất. Sự quyết tâm ở đây chỉ cho ý chí
kiên cường theo đuổi một đường lối duy nhất đã vạch ra – đường lối bất
bạo động. Với sự quyết tâm này, một satyagrahi sẽ sẵn lòng chấp nhận mọi
sự ngược đãi, đàn áp, giam cầm hoặc thậm chí giết hại... mà không bao
giờ đánh mất niềm tin của mình.
Chính
vì những ý nghĩa này, việc thực hiện bất bạo động đã trở thành một lý
tưởng sống, một phương châm cần được vận dụng trong cuộc sống hằng ngày.
Việc
vận dụng thuyết bất bạo động vào cuộc sống hằng ngày có một ý nghĩa vô
cùng to lớn. Bởi vì chỉ có như vậy thì những phẩm chất tốt đẹp, hiền
thiện của cuộc sống mới thật sự được thừa nhận và trân trọng.
Khi
tất cả mọi sự xung đột, tranh chấp trong cuộc sống con người đều được
giải quyết thông qua phương thức bất bạo động, con người mới thật sự
biểu lộ sự cảm thông và tôn trọng lẫn nhau. Một nền hòa bình thế giới
lúc ấy không còn phải phụ thuộc vào những hiệp ước trên giấy tờ, mà sẽ
được thực hiện ngay từ nơi mỗi một con người.
Tuy
nhiên, điều đó rõ ràng là đòi hỏi một sự dũng mãnh và quyết tâm thực
hiện của mỗi người. Chúng ta phải vượt qua được những nếp suy nghĩ từ
trước đến nay về được và mất, thắng và bại... Và phải biết đặt hạnh phúc
chân thật của con người lên trên tất cả những điều khác.
Khi được hỏi về chính bản thân mình, thánh Gandhi trả lời một cách thành thật:
–
Tôi cũng chỉ là một con người đầy những khiếm khuyết như tất cả mọi con
người khác. Nhưng tôi có đủ sự khiêm tốn để tự nhận những sai trái của
mình và sửa chữa. Điều đó được tôi thực hiện trên cơ sở đức tin và lòng
thương yêu chân thật. Và tôi tin rằng những đức tính ấy bao giờ cũng
tiềm tàng, sẵn có nơi mỗi con người.
Và ngài nói thêm:
–
Tôi không hiểu vì sao con người có thể có rất nhiều tiến bộ văn minh
trên lãnh vực vật chất mà lại không chịu quay về khám phá và tu dưỡng
ngay chính nội tâm của mình. Tại sao họ lại bắt buộc cứ phải là thú
trước khi là người?
Về mục đích, lý tưởng của ngài, thánh Gandhi nói:
–
Mục đích tranh đấu của chúng tôi không chỉ là cho Ấn Độ, mà là cho cả
một nền hòa bình thế giới. Nếu Ấn Độ thành công bằng vào sự đấu tranh
bất bạo động, điều đó có ý nghĩa rất to lớn đối với mọi quốc gia khác.
Chúng ta sẽ nhận ra một ý nghĩa mới trong lòng yêu nước, và tôi cũng có
thể nói với tất cả sự khiêm tốn của mình là, trong cuộc sống tốt đẹp của
con người.
Ngày
30 tháng 1 năm 1948, 5 tháng sau khi nền độc lập của Ấn Độ được Anh
quốc thừa nhận, thánh Gandhi bị bắn chết bởi 3 phát đạn từ một kẻ cực
đoan tên là Nathuram Godse – mà người Ấn gọi là “một thằng điên”.
Thủ tướng Jawaharlal Nehru nói trước toàn dân Ấn Độ:
–
Ngài là người cha lành của cả dân tộc. Một thằng điên đã giết chết
ngài. Hàng triệu người dân Ấn Độ thương khóc ngài vì ngọn đuốc sáng soi
đường cho chúng ta đã tắt. Ánh sáng mà ngài mang đến cho đất nước chúng
ta đã chói sáng không chỉ ở Ấn Độ, mà là trên toàn thế giới.
Khi
thánh Gandhi từ từ quỵ ngã vì ba phát đạn bắn vào người, ngài vẫn bình
thản chắp hai tay lại để vái chào theo phong tục Ấn Độ, và cử chỉ đó của
ngài biểu lộ sự yêu thương tha thứ cho tên sát nhân.
Cuộc
đời vĩ đại của ngài đã kết thúc bằng một cử chỉ vĩ đại. Ngài đã biểu lộ
tình thương và sự tha thứ hoàn toàn đối với chính tên điên cuồng đã nã
đạn vào người mình.
Nhà bác học Albert Einstein đã xúc động viết về ngài:
–
Những thế hệ trong tương lai sẽ không thể ngờ nổi rằng có một con người
vĩ đại như thánh Gandhi đã từng xuất hiện bằng xương bằng thịt và bước
chân đi trên mặt đất này.
Tòa thánh La-mã đã gửi điện phân ưu với nội dung như sau:
–
Việc ám sát thánh Gandhi đã gây nên sự xúc động sâu xa tại Tòa thánh.
Ngài được tưởng niệm như một bậc sứ đồ đã nêu cao được tinh thần và đức
hạnh của Chúa.
Cái
chết của thánh Gandhi là một mất mát to lớn cho nhân dân Ấn Độ, và cũng
là nỗi buồn chung cho toàn thế giới. Chủ nghĩa bất bạo động mà ngài
khởi xướng đã làm giảm đi đáng kể những đau thương mất mát mà nhân loại
phải gánh chịu vì những tham vọng và sự ích kỷ. Cuộc đời thánh thiện và
vĩ đại của ngài là bài học chói sáng cho những ai yêu chuộng và mong
muốn xây dựng một nền hòa bình thật sự cho nhân loại.
CHƯƠNG XVI: TRUYỀN PHÁP SANG HOA KỲ
Năm 1920.
Một
ngày nọ, tôi đang nhập định trong phòng của tôi tại Thiếu Sinh Học
Đường, ở Ranchi. Bỗng nhiên tôi cảm thấy mình rơi vào một trạng thái dự
cảm lạ thường. Trong trạng thái ấy, tôi cảm nhận một sự thôi thúc như đã
có từ rất lâu xa trong quá khứ, rằng đã đến lúc tôi phải lên đường sang
Hoa Kỳ. Tôi cũng mơ hồ nhận biết là có rất nhiều người đang chờ đợi tôi
nơi vùng đất xa xôi ấy để được hướng dẫn việc tu tập theo pháp môn
thiền định.
Trong
khi tôi vẫn còn đang trong trạng thái xuất thần kỳ lạ ấy thì bất chợt
cửa phòng mở ra. Một em thiếu sinh đã tìm được nơi tôi ở và vui mừng đẩy
cửa chạy bay vào:
– A, thầy đây rồi! Thầy đây rồi!
Tôi từ từ mở mắt nhìn em và gọi:
– Bimal, em lại đây. Thầy đang có chuyện muốn nói với em.
Bimal
dừng lại từ xa, rồi rón rén đi lại gần tôi. Em có vẻ hơi sợ vì vừa nhận
ra là tôi đang ngồi thiền. Các em đều biết là khi tôi đang ngồi thiền
thì không ai được phép quấy rầy, kể cả các thầy cô trong trường.
Tôi cười để trấn an em:
– Không sao đâu, Bimal. Thầy đang muốn cho em biết một tin này. Thầy sắp lên đường sang Hoa Kỳ.
Bimal mở to mắt nhìn tôi như vừa nghe thấy một chuyện động trời:
– Thầy đi sang Hoa Kỳ? Nhưng em nghe nói đất nước ấy ở xa, xa lắm kia mà?
– Đúng vậy. Nhưng dù xa đến đâu thì thầy cũng phải đi, vì những người ở đó đang cần đến thầy.
Chỉ
nửa giờ sau đó, cả trường đã biết tin tôi dự định sang Hoa Kỳ, vì Bimal
đã như một con sóc con chạy đi khắp nơi để thông báo.
Không
để cho mọi người phải xôn xao và hoang mang quá lâu, ngay chiều hôm đó
tôi triệu tập một phiên họp toàn thể và chính thức công bố dự định của
mình. Tôi nói:
–
Tôi hy vọng là tất cả các vị sẽ đồng tâm hiệp lực cùng nhau duy trì và
phát triển cơ sở giáo dục này, theo đúng như nguyện vọng của đức thầy
Lahiri Mahsaya mong mỏi. Từ Hoa Kỳ, tôi sẽ giữ liên lạc thường xuyên
cùng quý vị, và sẽ trở về thăm quý vị khi nào có dịp.
Mọi
người đều sửng sốt trước tuyên bố chính thức này, đến nỗi không ai nói
được lời nào. Nhưng sau đó thì họ hiểu được quyết tâm của tôi khi tôi
đưa ra một kế hoạch phân công cụ thể, ủy nhiệm người thay thế cương vị
của tôi, và dặn dò tất cả những gì cần thiết khi tôi không còn có mặt ở
nơi đây nữa.
Hôm
sau, tôi từ biệt Ranchi và ngôi trường thân yêu với những con người đã
từng gắn bó với tôi từ những ngày đầu gian khổ. Ai nấy đều rưng rưng
nước mắt trước cuộc chia ly hoàn toàn bất ngờ này. Bằng đường xe lửa,
tôi về đến Calcutta ngay trong ngày hôm ấy để khởi sự chuẩn bị cho việc
lên đường.
Trong
khi tôi còn chưa xác định việc mình sẽ ra đi như thế nào thì buổi chiều
ngày sau đó tôi bất ngờ nhận được thư mời dự Đại hội Tôn giáo Toàn cầu
tại Boston – Hoa Kỳ, với tư cách là đại biểu của Ấn Độ.
Tôi
hết sức phân vân vì sự việc diễn ra như một sự sắp xếp kỳ diệu đến nỗi
tôi khó lòng tin được đó là sự thật. Tôi liền đến Serampore để báo tin
và đồng thời xin ý kiến của sư phụ Śrỵ Yukteswar.
Sư phụ đáp không suy nghĩ, có vẻ như người đã biết trước sự việc từ lâu:
– Con hãy đi. Đó là một dịp may hiếm có đấy.
–
Bạch thầy! Con vẫn còn lo lắng vì con không giỏi tiếng Anh lắm, nhất là
kỹ năng giao tiếp bằng Anh ngữ. Hơn nữa, con chưa từng phát biểu trước
những hội nghị có đông người.
Sư phụ mỉm cười và trả lời bằng một câu tối nghĩa:
– Con đừng lo. Mọi người sẽ thích thú lắng nghe con.
Tối
hôm đó, tôi đem sự việc trình bày với cha tôi. Ông hoàn toàn kinh ngạc
vì không thể nào ngờ được! Hoa Kỳ là một xứ sở có vẻ như quá xa xôi đối
với những người thuộc thế hệ lớn tuổi như ông. Ông lo sợ rằng sẽ không
còn được nhìn thấy tôi lần nữa nếu để tôi ra đi. Ông nói:
– Con sẽ đi như thế nào? Ai sẽ lo phí tổn cho chuyến đi?
Hình như cha tôi nghĩ là những khó khăn ấy có thể sẽ ngăn cản được sự ra đi của tôi. Tôi liền cười đáp lời người:
– Nếu việc ra đi của con là cần thiết, con tin là mọi việc tự nó sẽ được giải quyết bằng cách này hay cách khác thôi.
Và tôi nói thêm:
–
Biết đâu rằng vì thấy được tầm quan trọng của việc truyền bá đạo pháp
sang Hoa Kỳ mà cha sẽ lo lắng phí tổn cho con đi cũng nên.
Tôi
xem đó như một câu nói đùa chỉ để làm dịu bớt tầm quan trọng của sự
việc. Chẳng ngờ là ngay hôm sau, cha tôi gọi tôi đến và đưa cho tôi một
tấm ngân phiếu. Người nói:
–
Cha hy vọng số tiền này sẽ đủ để trang trải chi phí cho chuyến đi sắp
tới của con. Ngoài ra, cha muốn con hiểu rằng việc cha đưa cho con số
tiền này không phải với tư cách một người cha cho con, mà với tư cách
một đệ tử của đức thầy Lahiri Mahsaya muốn góp sức làm tròn ý nguyện của
thầy. Cha cầu chúc con thành công trong việc truyền bá pháp môn thiền
định sang phương Tây, và trước hết là sang Hoa Kỳ.
Tôi
vô cùng xúc động trước những lời của cha tôi. Quả thật, khi hiểu rõ về
mục đích chuyến đi của tôi, người đã có đủ dũng khí vượt qua được những
tình cảm quyến luyến thường tình để thúc giục, động viên tôi lên đường.
Tuy vậy, cha tôi vẫn không tránh khỏi xúc động nghẹn ngào trước sự ra đi của tôi. Người nói:
– Có lẽ cha con ta sẽ không còn có dịp để gặp lại nhau trong kiếp này.
Cha tôi năm ấy đã 67 tuổi, và người lo sợ là sẽ qua đời sau khi tôi đi xa.
Bằng một linh cảm rất chắc chắn, tôi quả quyết nói với cha tôi:
– Cha đừng lo. Con sẽ còn có dịp trở về thăm cha.
Và như vậy là mọi điều kiện đều đã sẵn sàng cho chuyến đi Hoa Kỳ của tôi.
Nhưng
trong lòng tôi vẫn chưa thực sự yên tâm về trọng trách mà mình sắp phải
gánh vác. Tôi nghĩ đến xã hội văn minh phương Tây với tất cả những máy
móc, tiện nghi đời sống vật chất quá dư thừa và những nền tảng tâm linh
còn thiếu vắng. Trong những điều kiện ấy, thật không dễ dàng để truyền
bá một pháp môn hoàn toàn không dựa vào vật chất. Điều đó giống như một
cuộc cách mạng tâm linh mà vũ khí duy nhất của tôi là trình độ chứng ngộ
của chính bản thân mình. Tôi tập trung mọi năng lực tinh thần của mình
để củng cố niềm tin và quyết tâm thực hiện thành công nhiệm vụ trọng đại
mà sư phụ đã giao phó.
Và niềm tin của tôi đã được củng cố đến mức sắt đá chỉ sau một buổi thiền định mà tôi nhớ mãi suốt đời mình.
Hôm
ấy, sau những giờ thiền định vào buổi sáng sớm, ngay khi tôi đã sắp sửa
chấm dứt và đứng dậy, tôi bỗng có một cảm giác vô cùng kỳ lạ. Chung
quanh tôi mọi vật dường như sáng dần lên mặc dù trời vẫn còn quá sớm,
chưa có ánh sáng mặt trời. Thứ ánh sáng kỳ lạ ấy dần dần không chỉ bao
phủ quanh tôi mà còn soi rõ cả khung cảnh chung quanh. Tôi còn cảm nhận
được một mùi hương trầm ngây ngất lan tỏa đầy không khí giống như trong
một cuộc đại lễ tôn giáo mà người ta sử dụng rất nhiều loại hương liệu
này.
Trong
cảm giác ngất ngây vì khung cảnh lạ thường ấy, tôi như nhìn thấy một
làn khói dày đặc từ từ quyện lại thành một cột khói nhỏ ngay trước mặt
tôi. Trong giây lát, tôi nhìn thấy một khuôn mặt, và rồi là cả thân hình
của một vị tu sĩ trẻ, giống hệt chân dung đức thầy Lahiri Mahsaya mà
tôi đã từng chiêm ngưỡng từ thuở bé.
Tôi
bất chợt nhớ lại câu chuyện gặp gỡ kỳ diệu giữa đức thầy Lahiri Mahsaya
và Tổ sư Babji. Một trực giác rất mạnh mẽ mách bảo ngay cho tôi biết
người đang hiện thân trước mặt tôi là ai. Tôi liền từ chỗ ngồi đứng dậy,
quỳ xuống dưới chân ngài và gọi lớn:
– Đức Tổ sư Babji!
Đức Babji – vâng, chính là ngài – nở nụ cười từ hòa, đưa tay xoa đầu tôi và nói bằng thổ ngữ miền Bắc Ấn:
–
Phải, chính ta là Babji. Ta biết tâm trạng của con hiện nay như thế
nào, và ta muốn con hãy vững tâm lên đường sang Hoa Kỳ. Tuy nhiệm vụ của
con là cực kỳ khó khăn, nhưng cơ duyên đã đến thì mọi việc sẽ tự nó
chuyển biến theo cách tốt đẹp nhất mà con không cần phải lo lắng nhiều.
Dừng một chút, rồi ngài nói tiếp:
–
Ta rất vui là con đã ý thức được tầm quan trọng của vấn đề và vai trò
trách nhiệm của mình. Quả thật, Lahiri Mahsaya và Śrỵ Yukteswar chỉ là
những người khơi mở, và chính con mới là người thực hiện nguyện vọng
truyền bá đạo pháp của ta. Đó là lý do vì sao ta hiện thân đến đây hôm
nay để trò chuyện với con.
Đức Babji đưa tay làm một cử chỉ ban ân huệ, rồi nói:
– Giờ thì ta tin là con đã có đủ niềm tin để lên đường. Ta chúc con gặp được mọi điều may mắn.
Ngài
khoát tay ra hiệu từ biệt. Và chỉ trong thoáng chốc, nơi ngài đứng chỉ
còn là một làn khói mỏng đang dần dần tan biến vào khoảng không.
Tôi
vẫn còn chưa hết bàng hoàng kinh ngạc và pha lẫn một niềm vui sướng đến
cùng cực. Giờ đây tôi không còn lo lắng gì về vùng đất xa lạ sắp đến và
những nhiệm vụ khó khăn đang chờ đón. Tôi biết là mọi việc đều sẽ diễn
tiến một cách tốt đẹp nếu chúng ta khởi sự bằng một tâm nguyện tốt đẹp.
Trước ngày tôi chính thức lên đường, sư phụ Śrỵ Yukteswar có lời dặn dò:
–
Trong môi trường mới, con nên hết sức thận trọng. Đừng quá bảo thủ với
những tập tục và tư tưởng của xứ Ấn, cũng không được chạy theo quá trớn
nền văn minh vật chất của xã hội mới. Điều quan trọng nhất là con phải
biết dung hòa những điểm tốt đẹp của cả hai vùng. Và phải ứng xử một
cách khách quan như một nhà truyền giáo, không phải như đại diện của một
dân tộc.
Và sư phụ nói thêm để tạo niềm tin cho tôi:
–
Nếu con tiếp tục giữ vững được công phu tu tập hành trì, đạo hạnh của
con sẽ là thứ vũ khí sắc bén giúp con thu phục được tất cả những ai cần
đến một đời sống tinh thần tốt đẹp hơn. Những lời chỉ dạy của con sẽ làm
thay đổi cuộc đơi của họ, không chỉ trong hiện tại mà còn là trong cả
những kiếp sống vị lai. Và ta tin chắc rằng dù con có đi đến bất kỳ xứ
sở xa xôi hẻo lánh nào, quanh con cũng sẽ luôn có nhiều người bạn tốt để
hỗ trợ.
Những
lời nói của sư phụ Śrỵ Yukteswar về sau đều ứng nghiệm với thực tế. Tôi
đã có vô số những người bạn tốt trên đất Mỹ, những người sẵn sàng giúp
đỡ tôi trong công cuộc hoằng dương đạo pháp.
° ° °
Tháng 8 năm 1920.
Tôi
chính thức lên đường sang Hoa Kỳ trên chiếc tàu City of Sparta. Kể từ
sau khi cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất chấm dứt, đây là chuyến
tàu đầu tiên từ Ấn Độ vượt biển sang Hoa Kỳ. Việc mua vé tàu cực kỳ khó
khăn, đến nỗi tôi cũng không thể hiểu nổi là nhờ đâu mà cuối cùng mình
cũng đã mua được một vé!
Trong
thời gian lênh đênh trên biển, một trong những hành khách tình cờ biết
được tôi là đại biểu của Ấn Độ đi dự Đại hội Tôn giáo tại Boston. Ông ta
liền nói với tôi:
–
Bạch Đại đức! Thời gian đi tàu hãy còn dài. Có thể nào nhân đây đại đức
cho chúng tôi nghe một buổi thuyết pháp vào tối thứ Năm sắp tới đây
được chăng?
Tôi
thấy mình không có lý do gì để từ chối, nhất là khi tôi đã xác định
việc hoằng pháp như là mục tiêu chính cho chuyến đi của tôi. Tuy nhiên,
sau đó tôi bắt đầu thấy lo lắng về khả năng nói tiếng Anh còn kém cỏi
của mình. Bởi vì đa số hành khách trên tàu đều là người phương Tây, nên
tôi buộc phải trình bày bằng tiếng Anh nếu muốn cho mọi người hiểu được.
Và buổi tối thứ Năm rồi cũng đến.
Trong
khoảng 10 phút đồng hồ, tôi đứng lặng trước cử tọa mà không nói được
lời nào. Những ý tưởng của tôi trở nên rối rắm và tản mác khi tôi muốn
diễn đạt chúng bằng Anh ngữ. Tôi nhắm mắt lại, nhớ đến sư phụ Śrỵ
Yukteswar và cố gắng tập trung tư tưởng. Trong một lúc, tôi bắt đầu cảm
thấy điềm tĩnh như trong một trạng thái thiền định, và đầu óc dần sáng
suốt, minh mẫn hơn lên. Tôi bắt đầu nói, khởi sự từ những vấn đề đơn
giản và dễ hiểu nhất.
Trong
khoảng hơn 45 phút sau đó, tôi đã nói một cách trôi chảy, như thể không
còn gặp chút khó khăn nào về vấn đề ngôn ngữ. Đề tài tôi trình bày được
tiếp nhận một cách nồng nhiệt bởi tôi nhận thấy tất cả cử tọa đều say
sưa chú ý lắng nghe. Và khi tôi chấm dứt buổi thuyết pháp, một số người
không ngần ngại đã bày tỏ sự quan tâm của mình bằng cách đặt ra nhiều
câu hỏi để tìm hiểu sâu hơn vào vấn đề. Tôi đã giải đáp trọn vẹn tất cả
những câu hỏi được nêu ra, với những ví dụ minh họa rất sống động khiến
cho mọi người đều cảm thấy hứng thú và lôi cuốn.
Ngay
sáng hôm sau, một nhóm người trên tàu đến tìm gặp tôi. Họ là những Phật
tử thuần thành hiện đang tài trợ cho một số các chương trình giáo dục
Phật giáo tại Hoa Kỳ. Và họ chính thức mời tôi tham gia với tư cách
giảng viên tại một số giảng đường Phật giáo của họ. Tôi nhận lời vì nghĩ
rằng đây là cơ hội tốt để tôi truyền bá pháp môn thiền định.
Từ
hôm đó, tôi tự tin hơn với khả năng nói tiếng Anh của mình. Tôi tranh
thủ thời gian trên tàu để trò chuyện, trao đổi với mọi người nhằm rèn
luyện thêm kỹ năng giao tiếp. Điều đó quả thật rất có lợi cho tôi trong
những ngày đầu đặt chân lên đất Mỹ. Hơn thế nữa, tôi còn nhận được rất
nhiều lời mời thăm viếng từ các hành khách ở những tiểu bang khác nhau.
Tôi vui vẻ ghi nhận địa chỉ của từng người và hứa sẽ đến thăm sau khi đã
tham gia Đại hội. Về sau tôi mới biết họ đều là những nhân vật quan
trọng mà tiếng nói rất có ảnh hưởng trong cộng đồng. Chính nhờ đó mà
công cuộc truyền bá đạo pháp của tôi được thuận lợi ngay từ những tháng
đầu tiên.
Chuyến
tàu City of Sparta đến Boston, Hoa Kỳ vào cuối tháng 9. Ngày 6 tháng
10, tôi chính thức tham gia Đại hội Tôn giáo và phát biểu với tư cách
đại biểu của Ấn Độ. Phần trình bày của tôi đã được các đại biểu tham gia
hoan nghênh nhiệt liệt. Sau Đại hội, ông Tổng thư ký của Hiệp hội Tôn
giáo Thống nhất Hoa Kỳ có viết một bài đăng trên báo, trong đó ông giới
thiệu và bình luận về phần trình bày của tôi tại Đại hội Tôn giáo. Nhờ
sự khen ngợi của ông, chỉ trong một thời gian ngắn sau đó tôi đã được
rất nhiều người Mỹ biết đến và tìm cách liên lạc, thăm viếng nơi tôi ở.
Sau
thời gian Đại hội, tôi quyết định lưu lại Boston để thực hiện những
buổi thuyết pháp tại nhiều nơi. Tôi đã ở lại Hoa Kỳ được 4 năm và mở ra
nhiều lớp dạy thiền định. Tôi cũng có cho xuất bản một tập thơ đạo lý
với nhan đề là “Nhạc khúc tâm linh”.
Với
những thành quả đã đạt được, tôi có được sự ủng hộ mạnh mẽ từ rất nhiều
người Mỹ và cả những đệ tử mới thu nhận. Vì thế, mùa hè năm 1924 tôi
quyết định thực hiện một chuyến đi thuyết pháp vòng quanh đất Mỹ.
Chuyến
đi đã thành công vượt ngoài sự mong đợi của tôi. Tại mỗi thành phố lớn
đều có hàng nghìn người đến nghe tôi thuyết pháp. Và tên tuổi tôi lan
rộng một cách nhanh chóng đến nỗi người ta náo nức chờ đón ngay từ khi
tôi còn chưa đến. Kết quả là tôi đã thu nhận rất nhiều đệ tử và mở thêm
nhiều lớp học ở khắp nơi.
Năm
1925, mọi việc vẫn tiếp tục diễn tiến thuận lợi và tôi thành lập một
đạo viện lớn ở Los Angeles, nằm trên một sườn đồi. Sau khi xây dựng hoàn
chỉnh, tôi có viết thư cho sư phụ Śrỵ Yukteswar để kể rõ với người về
mọi diễn tiến. Tôi cũng gửi cho người một tập hình ảnh, trong đó có cảnh
đạo viện ở đây và quang cảnh một số buổi thuyết pháp rất đông người
tham dự của tôi.
Sư
phụ đã viết thư trả lời tôi bày tỏ sự vui mừng của thầy trước những
thành tựu to lớn mà tôi đã đạt được. Thầy cũng cho tôi biết là mọi
chuyện ở quê nhà đều vẫn tốt đẹp.
Trong
những năm sau đó, tôi tiếp tục mở rộng thêm hoạt động bằng cách tham
gia các buổi nói chuyện tại các câu lạc bộ tôn giáo, các trường học,
giảng đường... ở rất nhiều nơi. Tôi cũng tham gia hỗ trợ cho một số các
tổ chức tinh thần hoặc tổ chức từ thiện, thường là với vai trò cố vấn
hoặc hướng dẫn cho những hoạt động của họ. Sự kêu gọi của tôi được rất
nhiều người hưởng ứng, nên tôi có thể làm được rất nhiều điều cho các tổ
chức từ thiện.
Thỉnh
thoảng, tôi cảm thấy nhớ quê nhà với những khung cảnh núi rừng trầm mặc
mà ở đây không sao có được. Tôi cũng nhớ những sinh hoạt quen thuộc
trong xã hội Ấn Độ mà từ ngày sang Hoa Kỳ tôi đã phải từ bỏ một phần
nào. Tuy nhiên, tôi hài lòng mà nhận thấy mục đích đề ra của chuyến đi
đã được thành công mỹ mãn, và tôi nghĩ rằng sư phụ tôi cũng sẽ lấy làm
vui sướng về điều đó.
CHƯƠNG XVII: TRỞ VỀ ẤN ĐỘ
Năm 1935.
Tôi
đã trải qua đúng 15 năm trên đất Mỹ. Công cuộc hoằng pháp đã tiến hành
đúng như dự tính, và với những hoạt động không ngừng nghỉ của tôi trong
suốt 15 năm đó, những việc cần làm hầu như đều đã được làm xong.
Tôi
đã thành lập thêm một đạo viện nữa ở California. Những đạo viện của tôi
đều được hợp pháp hóa, được chính thức công nhận như những tổ chức giáo
dục phi thương mại và được phép nhận tiền đóng góp của công chúng.
Ngoài ra tôi cũng đã hình thành được một mạng lưới phát hành những sách
vở, tạp chí do chúng tôi thực hiện, với nguồn lợi tức hàng năm khá lớn
được đóng góp vào cho những hoạt động giáo dục của các đạo viện.
Tôi cảm thấy đã đến lúc quay về Ấn Độ.
Khi
tôi công bố tin này, hầu hết các đệ tử của tôi đều thấy bất ngờ và
không vui. Họ vẫn còn quyến luyến và không nghĩ là có thể tự lực tu tập
tốt khi thiếu đi sự hướng dẫn của tôi. Nhưng đối với tôi thì đó lại
chính là lý do mà tôi cần phải rời khỏi họ một thời gian. Người đệ tử tu
tập không thể dựa mãi vào sự dắt dẫn của thầy mà cần phải biết tự mình
vươn tới giải thoát. Vì thế, bất chấp những sự luyến lưu bịn rịn, tôi
vẫn giữ nguyên quyết định của mình.
Trước khi lên đường trở về Ấn Độ, tôi nói với các đệ tử của mình:
– Các con hãy yên tâm, thầy sẽ trở lại với các con một ngày gần đây.
Tôi
rời New York vào ngày 9 tháng 6 năm 1935, trên chuyến tàu Europa. Cùng
đi với tôi trong chuyến hồi hương này còn có hai đệ tử đã lớn tuổi là
ông Richard Wright và bà Ettie Bletch.
° ° °
Khi
tàu đến Luân Đôn, tôi nhận được lời mời thuyết pháp tại giảng đường
Caxton Hall. Một vị nhân sĩ người Anh là ông Francis Younghusband giới
thiệu tôi với các thính giả Luân Đôn. Sau buổi thuyết pháp, tôi đi tham
quan một số nơi rồi tiếp tục hành trình.
Tôi
rời Luân Đôn trên chuyến tàu Rajputana. Tàu về đến cảng Bombay của Ấn
Độ vào ngày 22 tháng 8 năm 1935. Sau bao nhiêu năm xa cách, giờ đây tôi
cảm thấy thật thoải mái khi có thể ngửa mặt lên trời và hít một hơi dài
đầy căng buồng phổi thứ không khí trong lành quen thuộc của quê nhà.
Mặc
dù vậy, tôi cũng đã dự đoán trước những ngày tháng bận rộn sẽ bắt đầu
ngay từ khi đặt chân lên mảnh đất quê hương mình. Bạn bè và thân quyến
chờ đón tôi ngay trên bến cảng với những tràng hoa tươi và những cái ôm
choàng siết chặt đầy tình thân ái. Chúng tôi đến khách sạn Taj Mahal để
đăng ký phòng. Ngay lập tức, chúng tôi bị vây quanh tại đó bởi các phóng
viên báo chí và các nhiếp ảnh viên. Phải vất vả lắm chúng tôi mới có
thể thỏa mãn được một phần những yêu cầu của họ.
Chúng tôi ký gửi chiếc xe Ford mang theo từ Hoa Kỳ cho Sở hỏa xa, rồi lên tàu đi Calcutta.
Đến
ga Howrah, chúng tôi được tiếp đón bởi một số người đông đảo ngoài sức
tưởng tượng của tôi. Việc tiếp đón không chỉ là đông đảo mà còn có tổ
chức hẳn hoi. Vị Tiểu vương Kasimbazar và em trai tôi là Bishnu cùng phụ
trách Ủy ban tổ chức. Tôi không thể nào ngờ được rằng việc tiếp đón
chúng tôi lại long trọng và nồng nhiệt đến thế.
Cha
tôi đã ôm chặt lấy tôi như thể ông sẽ không bao giờ buông tôi ra nữa.
Những năm xa cách đã làm cho tình cảm của ông không thể kiềm chế trong
lòng như xưa. Rồi ông khóc nức nở như trẻ con vì vui sướng. Tất cả những
người thân, bạn bè, ai ai cũng đều rưng rưng những giọt lệ vui mừng.
° ° °
Hôm
sau, tôi đi Serampore để viếng thăm sư phụ Śrỵ Yukteswar. Chúng tôi đi
bằng xe hơi, do ông Wright lái. Xe chạy ngang qua những hàng quán đơn sơ
cất dọc hai bên đường mà đã lâu tôi không nhìn thấy. Một trong những
quán cơm bên đường này là nơi tôi đã từng dùng bữa trưa trong suốt những
năm học đại học. Khi gần đến nơi, xe rẽ vào một con đường hẹp chạy giữa
hai bên là những bức tường. Đi hết đoạn đường này, rẽ trái là chúng tôi
sẽ trông thấy được đạo viện.
Sau
nhiều năm sống trên đất Mỹ, hôm nay được nhìn thấy lại khung cảnh thân
thương này, lòng tôi bồi hồi xúc động. Chỉ có điều, ngôi nhà hai tầng
này ngày xưa đối với tôi là to lớn, đồ sộ biết bao, thì giờ đây tôi có
cảm giác như nó thật nhỏ nhoi và đơn sơ quá. So với những cơ sở mà tôi
đã xây dựng trên đất Mỹ thì ngôi đạo viện này quả thật chẳng thấm vào
đâu. Tuy vậy, tôi cảm thấy một bầu không khí ấm áp và yên tĩnh vô cùng
quen thuộc mà đã quá lâu tôi phải xa rời.
Chúng
tôi đậu xe bên ngoài và đi bộ vào, băng qua khoảng sân nhỏ của đạo
viện. Càng lúc, tâm trạng của tôi càng thêm hồi hộp. Khi đếm bước trên
những bậc thềm bằng đá, tôi cảm thấy quả tim nhỏ bé của tôi rộn lên như
muốn nhảy vọt ra bên ngoài. Và kìa, sư phụ Śrỵ Yukteswar đã bất ngờ xuất
hiện ngay bên trên cầu thang, trong dáng điệu cao quý của một nhà hiền
triết.
Tôi
bước đến quỳ mọp dưới chân sư phụ với tất cả sự thành kính. Khi tôi
đứng dậy, sư phụ ôm chầm lấy tôi trong một cử chỉ vô cùng thân thiết.
Tất
cả chúng tôi đều im lặng, không ai nói ra lời nào. Nhưng trong im lặng,
chúng tôi hoàn toàn hiểu thấu được lòng nhau, hiểu thấu được những tình
cảm sâu xa mà trong thời gian xa cách chúng tôi đều đã phải giấu kín
tận đáy lòng. Đôi mắt sáng long lanh của sư phụ Śrỵ Yukteswar biểu lộ
một niềm hạnh phúc vô biên khi gặp lại được người học trò mà người yêu
mến.
Rồi
hai vị đệ tử của tôi cũng đến trước mặt sư phụ và quỳ xuống kính lễ
người. Tôi giới thiệu họ với sư phụ, và người cúi xuống xoa đầu tỏ ý ban
phước lành.
Sau
đó chúng tôi cùng vào phòng khách. Nơi đây vẫn bài trí như xưa không có
gì thay đổi. Sư phụ vẫn ngồi trên tấm nệm trải trên sàn gạch. Chúng tôi
ngồi trên những chiếc chiếu bằng rơm trải quanh đó và tựa người vào
những cái gối gòn lớn màu vàng sậm.
Sư
phụ Śrỵ Yukteswar và tôi trao đổi nhau bằng tiếng Bengale, mặc dù sư
phụ có thể nói được tiếng Anh. Có lẽ người muốn nhắc nhở tôi về cội
nguồn mà từ đó tôi đã ra đi. Tôi trình bày sơ qua với sư phụ về một số
những việc đã làm. Người lắng nghe và thỉnh thoảng đưa ra một vài nhận
xét, vẫn chính xác và sắc bén như xưa, mặc dù năm ấy thầy đã 81 tuổi!
Căn
phòng cũ kỹ có vẻ như đã lâu không được tu sửa gì. Màu vôi trên các bức
vách tường đã loang lổ nhiều nơi vì thời gian. Tôi vô cùng xúc động khi
nhìn thấy bức ảnh của tôi chụp chung với các vị đại biểu quốc tế hồi dự
Đại hội tôn giáo ở Boston, được treo ngay bên cạnh bức chân dung của
đức thầy Lahiri Mahsaya. Và đó là những vật trang trí hầu như duy nhất
trong căn phòng đơn sơ này.
Sau
đó, tôi dâng lên sư phụ những món quà mà tôi đã mang về cho người từ
nước Mỹ. Và chúng tôi cùng dùng cơm trưa thân mật trong nhà ăn của đạo
viện. Lúc này tôi mới có thời gian chào hỏi và thăm lại các huynh đệ cũ ở
nơi đây. Ai nấy đều lộ rõ vẻ vui mừng ra mặt vì sự trở về của tôi.
Chúng
tôi còn lưu lại đạo viện suốt buổi chiều hôm ấy để hàn huyên tâm sự, và
ra về khi mặt trời đã xế bóng. Niềm vui hội ngộ vẫn còn lâng lâng trong
lòng tôi trên suốt chặng đường trở lại Calcutta.
° ° °
Trong
thời gian sau đó, tôi thường xuyên đến đạo viện để thăm viếng sư phụ.
Sinh hoạt thường ngày của người vẫn đều đặn như xưa. Và tôi vô cùng sung
sướng được sống trở lại những giây phút bên cạnh thầy như ngày nào, khi
mà tôi không phải lo nghĩ bất cứ chuyện gì vì mọi việc đều có sư phụ
đứng ra lo liệu.
Một
hôm, tôi nhận lời thuyết pháp tại giảng đường Albert Hall ở Calcutta.
Nhân dịp này, sư phụ đồng ý đến tham dự. Người ngồi trên hàng ghế danh
dự cùng với vị Quốc vương Santosh và viên thị trưởng thành phố Calcutta.
Sau buổi thuyết pháp rất đông người nghe này, sư phụ không bình phẩm gì
nhưng tôi nhìn thấy sự hài lòng trong ánh mắt người.
Hôm sau, người gọi tôi đến trước mặt và nói:
–
Yognanda! Thầy đã lớn tuổi rồi nên sẽ không còn sống được bao lâu nữa.
Kể từ nay thầy muốn giao lại tất cả mọi việc cho con. Trước hết, con hãy
chọn cho thầy một người phụ trách đạo viện ở Puri. Và sau đó, thầy muốn
con xem xét việc tiếp quản và thay thầy điều hành mọi việc.
Tôi
rưng rưng nước mắt. Quả thật tôi đã biết thế nào cũng phải đến ngày hôm
nay, nhưng vẫn không sao tránh được xúc động. Sư phụ đã quá già. Đó là
sự thật. Tôi không ngại việc thay thế thầy trong lúc này vì tôi biết
mình đã có đủ năng lực, nhưng tôi cảm thấy một nỗi buồn vô hạn khi linh
cảm thấy sự ra đi vĩnh viễn sắp đến của người thầy kính yêu.
Ngay ngày hôm sau, tôi cho gọi đến một người đệ tử ở Ranchi là Swami Sebnanda và giao phó việc điều hành đạo viện Puri.
Khi
sắp đến ngày thánh lễ Kumbha Mela được cử hành tại Allahabad. Tôi nói
với sư phụ là tôi muốn tham dự thánh lễ này. Sư phụ có vẻ ngần ngại,
nhưng rồi người cũng không ngăn cản tôi.
Hôm
đó là ngày 23 tháng 1 năm 1936. Chúng tôi đến nơi cử hành thánh lễ. Số
người tham dự lên đến gần hai triệu người, từ khắp mọi nơi đổ về, làm
cho thành phố trở nên huyên náo và tấp nập lạ thường. Chỉ trong những
dịp như thế này người ta mới có thể dễ dàng nhận thấy được sức sống tâm
linh vẫn luôn tiềm tàng trên đất nước Ấn Độ từ nhiều ngàn năm qua, và
các tu sĩ bao giờ cũng được dành cho một sự kính trọng từ mọi tầng lớp
xã hội. Người ta vẫn luôn tin rằng chính nhờ giới tu sĩ mà tất cả mọi
người đều có thể được hưởng những sự may mắn, phúc lạc và bình an.
Ngày
đầu tiên, chúng tôi đi tham quan cảnh vật chung quanh thành phố. Bờ
sông Hằng đông ngẹt cả người. Người ta đến đây tắm gội trong dịp này
theo một niềm tin đã có từ xa xưa là sẽ rửa sạch được mọi tội lỗi. Dọc
theo bờ sông, các tu sĩ ngồi xếp bằng rải rác khắp đây đó và các tín đồ
sùng kính dâng lễ vật cúng dường cho họ. Còn có cả những đoàn voi, ngựa
và lạc đà diễu hành ngang qua trước mặt công chúng, được trang hoàng với
nhiều màu sắc rực rỡ khác nhau. Chúng tôi còn chứng kiến cả một cuộc
rước lễ của những tu sĩ khỏa thân, những người chủ trương sống hoàn toàn
theo tự nhiên.
Chúng
tôi được dịp tiếp xúc với rất nhiều tu sĩ thuộc các dòng tu khác nhau.
Họ cũng đều quy tụ về đây với mục đích tham dự thánh lễ và gặp gỡ những
người đồng đạo. Một cách rất tự nhiên, họ tụ tập thành từng nhóm nhỏ
ngay bên lề đường hoặc trên những bãi đất trống. Mỗi người một trang
phục khác nhau nhưng tất cả đều biểu lộ nét trầm tĩnh và an lạc của
những người đã xuất gia tìm đạo.
Các
nhà tu khổ hạnh hình thù kỳ quái cũng xuất hiện khắp nơi. Có người để
mình trần và bôi đất bùn trộn với tro lên khắp người. Lại có những người
khác để tóc dài đến hơn một mét! Họ quấn thành lọn rồi cột lại thành
búi trên đỉnh đầu.
Những
thuật sĩ làm trò uốn lượn hoặc các trò ảo thuật khác cũng tìm về đây
rất đông. Họ biểu diễn ngay bên đường để giúp vui cho cuộc lễ mà không
đòi hỏi một khoản thù lao nào.
Trong khung cảnh náo nhiệt ồn ào đó, thỉnh thoảng lại ngân vang tiếng chuông chùa, lấn át tất cả những âm thanh khác.
Ngày
tiếp theo, chúng tôi đến thăm một số các đạo viện trong vùng. Người ta
cũng đã dựng lên những túp lều tạm để làm chỗ trú ngụ cho một số tu sĩ
đạo cao đức trọng.
Vị
sư trưởng của một trong các đạo viện mà chúng tôi đến viếng là người đã
thực hành tịnh khẩu trong chín năm qua, và ngài chỉ dùng toàn trái cây
mà không động đến bất cứ loại thức ăn nào khác. Chúng tôi cũng gặp một
tu sĩ mù tên là Pragla Chaksu, người nổi tiếng là tinh thông tất cả kinh
điển và được mọi người rất kính trọng.
Tôi
cũng thực hiện một buổi thuyết pháp ngắn ngủi, và sau đó đến thăm một
đạo viện khác. Tại đây, tôi gặp gỡ tu sĩ Krishnan, người có vóc dáng lực
lưỡng và khuôn mặt rất khôi ngô tuấn tú. Ông này đã thuần phục được một
con sư tử, lúc nào cũng nằm cạnh ông khi ông ngồi thiền. Điều đặc biệt
là con sư tử không còn ăn thịt như đồng loại của nó mà chỉ ăn cơm với
sữa. Con vật cũng biết sùng kính người chủ nhân đức độ của nó.
Sau
đó, chúng tôi đến viếng một vị tu sĩ trẻ nhưng là một học giả nổi
tiếng. Vị này tên là Kara Patri, đã có học vị tiến sĩ của Đại học
Bénarès và còn được tôn xưng danh hiệu Shasti, một danh hiệu chỉ dành
cho những vị bác học đã tinh thông tất cả thánh kinh của các tôn giáo.
Chúng tôi được biết vị tu sĩ này đã chọn cuộc sống lang thang không nhà từ khi còn rất trẻ. Tôi hỏi ông ta:
– Khi trời rét, ngài có mặc thêm chiếc áo nào khác hay không?
Tu sĩ nhoẻn miệng cười:
– Tất nhiên là không, bởi vì tôi chỉ sở hữu duy nhất có một chiếc áo. Và tôi cho như thế là quá đủ.
Sau
đó, ông vui vẻ kể cho tôi nghe về cuộc sống phiêu dạt không hề định cư ở
bất cứ nơi đâu, với sự thanh thản vì không bao giờ bận tâm lo nghĩ bất
cứ điều gì... Tôi bỗng thấy hối tiếc vì từ trước mình đã không chọn lấy
một cuộc sống như ông.
Tôi lại hỏi ông:
– Thế ngài có mang theo kinh sách gì không?
– Không. Khi tôi thuyết pháp, tôi chỉ dùng trí nhớ. Những kinh điển tôi học được đều nằm trong trí nhớ của tôi.
– Thế ngài có thường bận rộn vì một công việc gì khác nữa không?
– À, thỉnh thoảng tôi có nhu cầu phải đi dạo trên bờ sông Hằng.
Tôi
biết mình còn quá nhiều những nhiệm vụ đang chờ đón, không thể nghĩ đến
việc thong thả dạo chơi trên bờ sông Hằng như ông, nhưng khi nghe ông
nói tôi cũng chợt thấy thèm thuồng một đời sống vô tư không bận bịu.
Chúng
tôi còn tiếp tục trao đổi rất nhiều về những kinh nghiệm tâm linh trên
đường tu tập. Tôi lấy làm kinh ngạc xiết bao khi thấy vị tu sĩ trẻ này
đã có được những trình độ tu chứng không hề thua kém những vị tu sĩ đã
khổ tu lâu năm.
Khi nghe tôi kể sơ qua về công cuộc hoằng pháp ở Hoa Kỳ, ông tỏ vẻ khâm phục và nói:
–
Thật ra những người như tôi dù có muốn cũng không có khả năng làm được
những việc như thế. Đại đức quả là đã đóng góp to lớn vào việc truyền bá
đạo pháp.
Khi chúng tôi chia tay ra về, tôi nói với ông Wright:
– Người ấy là một ông vua không cần ngai vàng.
Buổi
chiều, chúng tôi dùng cơm trên một chiếc chiếu trải trên mặt đất, dưới
bầu trời trong xanh với những vì sao mọc sớm lung linh sáng ở phương xa.
Chúng
tôi tiếp tục lưu lại nơi hành lễ trong hai ngày nữa rồi mới lên đường
đi Agra, dọc theo con sông Jumma. Sau đó tôi đến viếng lăng mộ cổ Taj
Mahal, và cuối cùng ghé đến thăm tu sĩ Keshab ở đạo viện Brindaban.
CHƯƠNG XVIII: SƯ PHỤ TỪ TRẦN
Tu
sĩ Keshab là một trong các đệ tử của đức thầy Lahiri Mahsaya. Việc đến
viếng thăm ngài cũng là một phần trong kế hoạch thu thập tư liệu về thầy
Lahiri Mahsaya.
Tôi
đã tận dụng mọi cơ hội có thể được để chuẩn bị việc cho ra đời một cuốn
tiểu sử của thầy Lahiri Mahsaya. Cho đến nay tôi đã có được trong tay
những tập hồ sơ rất dày, kèm theo với những hình ảnh, thư từ và các văn
kiện có liên quan. Tuy nhiên, tôi chưa dám bắt tay vào công việc biên
soạn vì muốn dành thêm thời gian để kiểm chứng các tư liệu. Tôi hoàn
toàn ý thức được tầm quan trọng của một cuốn tiểu sử như thế. Nếu không
thận trọng, nó có thể sẽ phác họa không chính xác, đầy đủ về con người
và hành trạng của đức thầy. Và điều đó sẽ rất tai hại, vì có thể khiến
cho người ta hiểu sai về đức tôn sư. Hơn thế nữa, các đệ tử của ngài
hiện nay còn sống rải rác ở khắp nơi chắc chắn sẽ có những phản ứng mạnh
mẽ nếu điều đó xảy ra.
Một vài người trong số các đệ tử của tôn sư Lahiri Mahsaya khi biết được ý định của tôi đã không tán đồng và nói:
– Ngôn ngữ thế gian không thể diễn tả hết được hành trạng của một bậc thánh nhân.
Và
như vậy, một số đệ tử của tôn sư chỉ muốn giữ gìn hình ảnh tôn quý của
người trong tâm tưởng họ, và không muốn hình ảnh ấy được miêu tả lại cho
những người khác, vì họ e rằng sẽ không đạt được sự trung thực, chính
xác.
Cho
dù vậy, theo như chính ước nguyện của tôn sư Lahiri Mahsaya, ngài biết
rằng một bản tiểu sử của ngài, nếu được biên soạn một cách trung thực và
chính xác, sẽ giúp ích rất nhiều cho việc xác lập niềm tin nơi những
người học đạo. Và tôi cũng tự biết là mình có trách nhiệm thực hiện ước
nguyện đó của ngài. Bất cứ nơi nào tôi đi đến, tôi tận dụng mọi cơ hội
để thu thập những tư liệu, những chuyện kể... có liên quan đến ngài.
Và
hiện nay, với một số lượng rất nhiều tư liệu trong tay, khó khăn lớn
nhất của tôi là cần phải gạn lọc và kiểm chứng lại mức độ chính xác của
từng mẩu tư liệu, trước khi sắp xếp chúng một cách hệ thống để có thể
hình thành một bản tiểu sử rõ ràng và chính xác.
° ° °
Khi
đến Brindaban, chúng tôi được đón tiếp một cách nồng nhiệt và có vẻ như
nơi đây đã biết trước chuyến viếng thăm này. Điều đó có làm cho tôi hơi
ngạc nhiên nhưng không tiện nói ra.
Đạo
viện Brindaban là một tòa kiến trúc đồ sộ nằm trong một vườn hoa rộng
rãi và xinh đẹp bao quanh. Ra đón chúng tôi từ ngoài cổng, tu sĩ Keshab
đã tạo một ấn tượng mạnh mẽ ngay từ đầu với vóc dáng khỏe mạnh, nhanh
nhẹn, cho dù ông đã 90 tuổi. Ông để râu tóc dài và đã bạc trắng như
tuyết, với đôi mắt sáng tinh anh và nụ cười vui vẻ, cởi mở. Trông ông có
vẻ giống như một vị tộc trưởng đạo mạo và đáng kính.
Sau
khi chào hỏi và chuyện trò được một lúc, tôi trình bày việc viết tiểu
sử của tôn sư Lahiri Mahsaya, và dự định sẽ nhắc đến tu sĩ như một trong
những cao đồ của tôn sư. Tôi nói:
– Vì thế, tôi hy vọng sẽ được nghe qua về cuộc đời của ngài.
Tu sĩ cười và nói một cách khiêm tốn:
–
Cuộc đời tôi thật ra cũng chẳng có gì đáng nói đến. Phần lớn những năm
tháng đã qua, tôi sống trên dãy Hy Mã Lạp Sơn xa xôi hẻo lánh, và cũng
chẳng ở yên một nơi nào trên đó. Tôi thường xuyên đi bộ từ hang động này
đến hang động khác như một cách để rèn luyện tâm ý. Về sau, tôi về sống
ở một đạo viện nhỏ gần Hardwar, nằm giữa một rừng cây lớn. Đó là một
nơi rất lý tưởng, yên tĩnh và rất ít khách viếng thăm, vì nổi tiếng là
có rất nhiều rắn hổ mang.
Ông bật cười sau khi nêu ra lý do ấy. Rồi tiếp:
–
Rồi có một trận lụt lớn đã xảy ra, làm sụp lở và cuốn trôi nguyên một
phần vùng đất ấy, cả đạo viện và các ổ rắn hổ mang nữa. Vì thế, các đệ
tử của tôi mới tự nguyện xây dựng đạo viện Brindaban này cho tôi.
Tôi hỏi ông về thời gian sống trên dãy Hy Mã Lạp Sơn:
– Khi ngài đi lang thang khắp nơi trên vùng núi ấy, lẽ nào ngài không sợ bị cọp dữ ăn thịt?
Tu sĩ lại cười:
–
Tất nhiên là điều đó cũng có thể xảy ra. Nhưng tôi cũng đã chấp nhận sự
thật là cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Dù là chết vì cọp hay chết ở
một xó bếp trong nhà, chung quy thì cũng vậy thôi. Có điều tôi đã may
mắn không phải gặp cọp nhiều lần lắm.
Tôi hỏi một cách tò mò:
– Nói thế có nghĩa là ngài cũng đã có gặp cọp?
–
Vâng, một đôi lần thôi. Khi tôi bất ngờ nhìn thấy chúng từ xa, chúng
thường đứng sững lại. Khi tôi thản nhiên đi tới thì chúng quay đầu phóng
chạy mất. Vì thế, tôi không nghĩ là chúng có ý muốn làm hại tôi.
Tu sĩ lại cười lớn sau khi kể lại kinh nghiệm rợn người ấy. Ông nói tiếp:
–
Thỉnh thoảng tôi cũng xuống núi để viếng thăm sư phụ ở Bénarès. Người
cũng hài lòng về cuộc sống tu tập của tôi. Vì thế, đôi khi ngài đến thăm
tôi. Cho dù tôi không ở nơi nào cố định nhưng sư phụ bao giờ cũng biết
được tôi đang ở đâu.
Trầm ngâm một lúc, ông tiếp tục:
– Thậm chí ngay cả sau khi sư phụ đã từ trần, thỉnh thoảng tôi vẫn còn được gặp ngài.
Tuy
tôi chưa từng trải qua kinh nghiệm đó, nhưng tôi hoàn toàn không nghi
ngờ gì. Chính sư phụ Śrỵ Yukteswar cũng đã kể cho tôi nghe nhiều trường
hợp mầu nhiệm tương tự, khi những bậc tôn sư đã từ trần vẫn có thể hiện
thân tiếp xúc với người đời khi có lý do quan trọng cần thiết.
Và tu sĩ lại mỉm cười một cách bí mật:
–
Chính việc Đại đức đến đây viếng thăm cũng đã được tôn sư nói trước với
tôi từ lúc Đại đức còn đang lênh đênh trên mặt biển. Ngài bảo rằng tôi
có trách nhiệm phải hỗ trợ bất cứ điều gì Đại đức cần đến.
Bây
giờ thì tôi hiểu được lý do sự tiếp đón rất thân tình và cởi mở của vị
tu sĩ cao niên này. Thông thường, một vị tu sĩ như vậy thường không
thích tiếp xúc nhiều và càng không thích nói về chính mình.
Khoảng
hai giờ sau đó, chúng tôi được mời vào phòng ăn và một bữa tiệc chay
thịnh soạn đã được dọn sẵn. Buổi chiều chúng tôi dạo chơi trong khuôn
viên vườn hoa của đạo viện.
Chúng tôi nghỉ đêm tại đạo viện Brindaban và sáng hôm sau lên đường về thẳng Calcutta.
° ° °
Khi
về đến Calcutta, tôi rất buồn khi biết là sư phụ Śrỵ Yukteswar đã rời
Serampore để đến Puri, cách đó khoảng 300 dặm về phía nam.
Ngày
8 tháng 3, một đệ tử của sư phụ ở Puri gửi một bức điện khẩn cho một
bạn đồng môn ở Calcutta, nội dung viết: “Hãy đến Puri ngay lập tức.”
Khi
người bạn đồng môn này thông báo với tôi về bức điện anh ta nhận được,
tôi liền linh cảm ngay một chuyện chẳng lành. Tôi hối hả thu xếp để đi
Puri ngay.
Tuy
vậy, tôi có dự cảm là mình sẽ đến muộn. Và điều đó quả thật đã xảy ra.
Khi tôi đến nơi, sư phụ đã tắt hơi từ trước đó hai giờ đồng hồ. Di thể
người được đặt trong một căn phòng rộng và thần sắc vẫn bình thường như
lúc sống. Một nụ cười làm rạng rỡ khuôn mặt người trong sự an lạc tuyệt
đối. Tôi biết sư phụ đã từ trần trong tâm trạng hoàn toàn tự chủ.
Tôi kêu lên một cách thất vọng khi phủ phục trước di thể của người:
– Than ôi! Vị thánh sư của thế gian đã không còn nữa!
Sư
phụ từ trần vào lúc 19 giờ ngày 9 tháng 3 năm 1936. Sang ngày 10 tháng
3, tôi đứng ra điều hành tang lễ của người. Di thể được an táng tại đạo
viện ở Puri theo nghi thức truyền thống của dòng tu Swmi. Các đệ tử từ
khắp nơi được tin đã kéo về tham dự tang lễ rất đông. Ai nấy đều lộ vẻ
đau buồn vì đã mất đi một bậc chân sư dắt dẫn trên đường tu học.
Sau
khi tang lễ sư phụ đã hoàn tất, tôi trở về Calcutta và trở lại với sự
bận rộn thường xuyên trước đây. Tôi phải tổ chức nhiều buổi thuyết pháp
cho công chúng, mở các lớp dạy thiền định cho nhiều lứa tuổi khác nhau,
và dành một phần thời gian để tiếp những vị khách từ xa tìm đến. Tuy
vậy, sự bận rộn cũng không thể làm tôi vơi bớt được phần nào nỗi đau đớn
vì sự ra đi của sư phụ. Trong lòng tôi cứ mãi ray rức về việc đã đi dự
thánh lễ Kumbha Mela để đến nỗi không được kề cận bên người vào giờ
cuối.
Nỗi
đau buồn nhiều khi xâm chiếm tôi cả trong những buổi tọa thiền, và tôi
rất khó tập trung tư tưởng. Khi tôi nhắm mắt lại, hình bóng sư phụ từ
những ngày xa xưa khi tôi lần đầu tiên gặp người lại trở về trong trí
tôi, và tôi không sao chịu đựng được ý nghĩ là từ nay vĩnh viễn sẽ không
bao giờ còn được gặp lại người lần nữa.
Chỉ
trong vòng 3 tháng, trông tôi đã gầy đi rõ rệt. Cha tôi lấy làm lo lắng
và người đề nghị tôi tổ chức một chuyến đi xa để vơi bớt nỗi đau buồn.
Nhưng tôi tự biết đó không phải là cách giải quyết vấn đề. Thay vì vậy,
tôi dành nhiều thời gian hơn cho các buổi thiền định và cố nhớ lại những
lời chỉ dạy của sư phụ lúc ngài còn sinh tiền.
Cho đến ngày 19 tháng 6 năm ấy, tức là năm 1936, một sự kiện đáng ghi nhớ trong đời tôi đã xảy ra.
Trong
buổi tọa thiền vào sáng sớm theo thông lệ mỗi ngày, tôi bỗng có một dự
cảm rất kỳ lạ. Vào lúc đó, tuy tôi không hề nghĩ đến sư phụ, nhưng bất
chợt tư tưởng tôi như bắt đầu bị lôi cuốn quay về với những hình ảnh của
người. Và đột nhiên tôi có một cảm giác rất mạnh mẽ rằng sư phụ đang ở
rất gần bên tôi. Cảm giác ấy chắc chắn đến nỗi tôi mở bừng mắt ra và
nhìn quanh để tìm kiếm người.
Nhưng
không khí của buổi sáng sớm hoàn toàn yên tĩnh. Ngoài trời vẫn còn tối
đen như mực, và thậm chí không có một tiếng động nào ngoài mấy tiếng gà
eo óc vọng lại từ rất xa.
Tôi
nhắm mắt lại và tiếp tục buổi thiền định. Nhưng cảm giác cũ vẫn ngày
càng mạnh hơn. Trong một lúc, tôi có cảm tưởng như sư phụ đã bước đến
bên cạnh tôi và người đang sắp sửa đưa tay xoa đầu tôi như những khi sư
phụ hài lòng về một điều gì đó. Tôi lại mở bừng mắt ra để rồi thất vọng
vì chung quanh vẫn vắng vẻ và yên lặng vô cùng.
Đến
lần thứ ba, tôi quyết định không mở mắt ra nữa mà tiếp tục cố gắng tập
trung tư tưởng. Một lúc sau, tôi bắt đầu nhận ra một thứ ánh sáng dìu
dịu bắt đầu xuất hiện quanh tôi, rồi ngày càng sáng lên. Trong vùng ánh
sáng kỳ lạ đó, tôi dần dần nhìn thấy sư phụ Śrỵ Yukteswar hiện ra trước
mặt tôi trong tư thế ngồi thiền. Tuy nhiên, đôi mắt người không nhắm lại
mà nhìn vào tôi với vẻ từ hòa giống hệt như những lần người sắp giải
thích cho tôi nghe một điều gì đó.
Tôi buột miệng muốn kêu lên:
– Sư phụ! Sư phụ!
Nhưng
tiếng kêu dường như chỉ nằm lại trong cổ họng tôi. Không gian vẫn vắng
lặng, yên tĩnh. Sư phụ từ từ đưa một bàn tay lên, ra hiệu cho tôi im
lặng. Và tôi nghe rõ giọng nói của người vang lên trong tâm thức tôi,
vẫn những âm hưởng như từ lâu tôi đã quen thuộc:
–
Yognanda! Thầy có thể hiểu được tâm trạng của con trong những ngày qua.
Nhưng như vậy là không tốt! Thầy đã dặn dò giao phó tất cả cho con. Nếu
con yếu đuối trước tình cảm như thế, làm sao có thể tiếp bước của thầy?
Con nên biết là còn rất nhiều điều quan trọng đang chờ đợi con trong
tương lai, và cách tốt nhất để con biểu lộ sự tôn kính thầy là phải làm
thật tốt những gì thầy mong đợi.
Dừng một chút, sư phụ lại nói tiếp:
–
Hơn ai hết, con phải hiểu rõ rằng sống hay chết chỉ là những khái niệm
trừu tượng do con người tự buộc vào trong ý thức của mình. Bậc giải
thoát vượt qua khỏi giới hạn của sự sống chết, lấy việc cứu độ quần sanh
làm lý tưởng để nâng cao tinh thần, cho dù hiện thân dưới bất cứ hình
thức nào cũng đều tự tại, vô ngại. Con hãy cố gắng lên, nếu con giữ vững
được Chánh pháp thì dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, thầy cũng luôn ở
cạnh bên con.
Nói
đến đây, sư phụ nở một nụ cười rạng rỡ và khoát tay ra hiệu từ giã.
Vùng ánh sáng chung quanh tôi dần dần tan biến và hình ảnh sư phụ cũng
mờ dần đi rồi tan biến như một làn sương mỏng.
Tôi
vẫn còn ngồi lặng trong hơn một giờ đồng hồ sau đó, và tự trách mình đã
không làm được đúng lời thầy dạy, để trở nên một kẻ yếu đuối tầm
thường, không xứng đáng là cao đồ của một bậc chân sư chứng ngộ.
Kể
từ sau lần hiện thân của sư phụ, tôi xác lập được niềm tin vững chắc về
vấn đề sống chết. Không chỉ tôi xua tan được nỗi đau buồn vì sự ra đi
của sư phụ, mà giờ đây tôi còn ý thức được rõ hơn về tính chất tạm bợ
của cuộc sống hư ảo chốn thế gian, và điều đó càng làm nổi bật thêm
những giá trị chân thật của một cuộc đời tu học.
Hơn
thế nữa, tôi cũng ý thức rõ hơn những nỗ lực của mình trong việc hoằng
pháp độ sinh. Tôi biết rằng tâm nguyện ấy của đức thầy Lahiri Mahsaya,
rồi đến sư phụ Śrỵ Yukteswar của tôi, không phải chỉ là việc cứu vớt cho
những chúng sanh đau khổ vốn là vô biên vô tận trong thế giới này, mà
còn chính là một pháp môn tu tập để nâng cao sự chứng ngộ của tự thân.
Khi
hiểu được điều này, tôi cảm thấy như trút bỏ được một gánh nặng áp lực
tâm lý. Trước đây, tôi vẫn thường ưu tư dằn vặt khi thấy những điều mình
làm được còn quá nhỏ nhoi, ít ỏi, so với những nỗi khổ bất tận của cuộc
đời, và dường như sẽ không bao giờ có thể đạt được ý nguyện chấm dứt
mọi khổ đau trên thế gian này. Giờ đây, tôi hiểu rằng ngay cả việc hoằng
pháp độ sinh cũng là một phần trong việc tu tập, đúng với ý nghĩa “tự
giác, giác tha, giác hạnh viên mãn”.[18]
Nhiều
năm sau, tôi vẫn kiên trì tiếp tục sự nghiệp hoằng pháp mà sư phụ tôi
giao phó. Và tinh thần giác ngộ tự tại vô ngại của người tiếp tục được
tôi truyền lại cho nhiều môn đệ ở khắp nơi trên thế giới.
Tuy đã qua đời, nhưng quả thật sư phụ Śrỵ Yukteswar vẫn còn mãi mãi hiện hữu trong lòng tôi cũng như trong cõi thế giới này!
Chú thích
[1]
Tôi lấy làm kinh ngạc khi chuyển dịch những dòng này, vì điện thoại
truyền hình hiện nay đã không còn xa lạ với con người, đúng như dự báo
của tác giả. (Người dịch)
[2]
Đây là một tập tục vẫn được duy trì cho đến những ngày gần đây trong
một số gia đình giàu có: cha mẹ thu xếp chuyện hôn nhân và con cái không
được tham gia chọn lựa, thậm chí cô dâu chú rể không được biết mặt nhau
trước ngày cưới.
[3]
Nguyên văn chữ Hán: Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng.
Con số tám vạn bốn ngàn ở đây chỉ mang tính biểu trưng, với ý nghĩa là
rất nhiều.
[4] Nguyên văn chữ Hán: Hạ phương thế giới.
[5] Trong một đoạn trước, Phật đã có nhắc đến hư không về phương Đông rồi.
[6] Nguyên văn chữ Hán: “Tu-bồ-đề! Nam, tây, bắc phương, tứ duy, thượng hạ hư không khả tư lương phủ?”.
[7]
Tức là Tiêu tai cát tường thần chú, một bài thần chú của nhà Phật được
trì tụng để cầu nguyện sự bình an đến cho người trì chú và khu vực mình
cư trú.
[8] Ngài Mục-kiền-liên được Phật khen là thần thông đệ nhất trong các đệ tử của Phật.
[9] Phiên âm từ tiếng Phạn là Bodhidharma
[10] Phiên âm từ chữ Kaci.
[11] Tây Thiên: tức là chỉ Ấn Độ.
[12] Nguyên văn Phạn ngữ là Ahims, Hán dịch là Bất hại, nghĩa là không làm tổn hại đến bất cứ đối tượng nào.
[13] Bản Anh ngữ dịch là “great soul”.
[14] Tên thật của ngài là Mohandas Karamchand Gandhi (1869 – 1948), nhưng người Ấn Độ luôn tôn kính gọi là Mahatma Gandhi.
[15] Hán dịch nghĩa là Bất hại.
[16] Tức là những người tin và làm theo lời dạy của thánh Gandhi.
[17]
Tư tưởng này được Nho gia thể hiện qua câu: “Nhân chi sơ tính bản
thiện.”. Trong quảng đại quần chúng, bản chất hướng thiện này được hiểu
là lương tâm hay lương tri.
[18]
Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn: Tự mình giác ngộ, làm cho người
khác giác ngộ, nhờ đó mà đạt đến công hạnh giác ngộ trọn vẹn, hoàn toàn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét