Tích Trí
Trong
Đạo Phật có 84 nghìn pháp uẩn, hoặc 84 nghìn pháp môn. Theo văn điển Pali, Pháp
uẩn là những lời giảng của Đức Phật và chư thánh tăng thời giáo đoàn nguyên
thuỷ, được kết tập lại trong Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng. Sau này chúng
ta quen gọi là 84 nghìn pháp môn là do ảnh hưởng từ cách dịch của Phật giáo
Trung Hoa (dịch pháp uẩn thành pháp môn). Kỳ thực, Đức Phật chỉ giảng về một
con đường pháp duy nhất là Tứ Thánh Đế, tức là khổ - tập – diệt – đạo, để đưa
chúng sinh ra khỏi bể khổ. Những chủ đề pháp thoại mà ngài giảng suốt 45 năm
đều không nằm ngoài việc đưa ra các phương pháp tu tập để từng bước nhận thức
được chân lý và thấu triệt Tứ Thánh Đế. Nói như vậy, nghĩa là mục tiêu cuối
cùng của mọi phương pháp Phật dạy là nhằm giải thoát khỏi khổ đau luân hồi.
Đức Phật
dạy dỗ đệ tử, không dùng đến biện pháp la mắng đánh đập, cũng chẳng dùng đến
thần thông như ngoại đạo, Ngài đều dùng phương thức cử thí (nêu ra ví dụ) hoặc
khích lệ, để đệ tử biết được đời người tốt lành, từ đó mà không làm tổn thương
đến danh dự của họ. Khả năng đặc biệt nhất của Đức Phật là biết quan sát căn cơ
của từng đối tượng mà dạy bảo. Với người già cả thì nói pháp người già, với trẻ
em thì nói pháp cho trẻ em, với thương nhân thì nói pháp thương nhân, với quân
nhân thì nói Pháp quân nhân. Đức Phật “ứng cơ thí giáo, đối chứng hạ dược”, lối
thuyết giảng ấy không chỉ khế hợp chân lý “Pháp nhĩ như thị” (Pháp vốn như
vậy), đồng thời còn khơi gợi “tự ngã giáo dục” (tự giáo dục), như thiên kinh
vạn luận đều hướng dẫn đại chúng cách phát hiện tự tính, tự yêu cầu, tự giải
thoát.
Quả
thật, từ kim khẩu của Như Lai, không có phương pháp nào là kém hơn phương pháp
nào, chỉ có phương pháp tu tập phù hợp với căn tánh từng người mới là hay nhất.
“Phật nói tất cả pháp, để trị tất cả tâm”.
Thời Đức
Phật còn trụ thế, ngài không cấm thực hành hạnh đầu đà. Đầu-đà (Dhuta), là hạnh
tu khắc khổ để dứt bỏ các tham dục. Có 13 hạnh đầu-đà:
Hạnh y phấn tảo
Hạnh tam y
Hạnh khất thực
Hạnh khất thực từng nhà
Hạnh nhất tọa thực
Hạnh ăn bằng bát
Hạnh không nhận tàn thực, tức là không dùng
thực phẩm dư thừa
Hạnh ở rừng
Hạnh ở gốc cây
Hạnh ở ngoài trời
Hạnh ở nghĩa trang
Hạnh ở chỗ nào cũng được
Hạnh ngồi (không nằm).
Hạnh Đầu
đà và lối tu Khổ hạnh của ngoại đạo có duy nhất một sự tương đồng: cả hai đều
áp dụng kỷ luật nghiêm khắc, nhưng lại khác nhau như giữa nguồn nước tinh khiết
và vũng nước dơ bẩn vậy. Hạnh Đầu đà do Đức Phật chế định để cho các tu sĩ theo
đó mà giữ giới được thanh tịnh; còn đằng kia là Khổ hạnh do các phái ngoại đạo
đề xướng với mục đích ép xác, lầm tưởng rằng càng hành hạ thân thể càng nhiều
bao nhiêu thì phần tâm linh càng được sớm giải thoát bấy nhiêu. Đầu đà là
phương tiện quý báu trợ duyên cho sự thoát ly khỏi tham dục. Tu hạnh đầu đà để
thành tựu Giới, tăng trưởng Định, và viên thành Tuệ. Thế Tôn đã xác quyết,
“hạnh đầu-đà này được ở đời thì pháp của Ta cũng sẽ được lâu dài ở đời, thiên
đạo tăng thêm, ba đường ác liền giảm, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm đều còn ở
đời”.
Tuy vậy,
việc thọ trì hạnh đầu đà chỉ áp dụng cho bậc xuất gia, tức là những vị đã thọ
cụ túc giới, có giới thể trong sạch, phát tâm thọ trì hạnh đầu đà để viên thành
công đức. Theo Giải Thoát Đạo Luận của ngài A-la-hán Upatissa, hàng cư sĩ tại
gia chỉ có thể thọ trì tinh thần của hạnh đầu đà, ví dụ:
- Về
hạnh phấn tảo y và tam y: học tập việt diệt trừ sự tích trữ y phục, dẹp bỏ sự
ham chuộng trang sức cho đẹp bề ngoài;
- Về các
hạnh khất thực, chỉ ngồi ăn một lần, quá giờ chẳng ăn: học tập việc diệt trừ
mối tham ái về ăn uống, bỏ lối chạy đôn đáo đi tìm thức ăn ngon, ăn uống có
tiết độ, đúng giờ, chẳng ăn quà vặt;
- Về các
hạnh liên quan đến nơi cư trú: học tập việc dẹp bỏ sự quyến luyến vào nhà cửa,
trừ bỏ sự đòi hỏi cho đầy đủ mọi tiện nghi, tập tánh ít muốn và biết đủ;
- Về
hạnh luôn ngồi chẳng nằm: học tập việc dứt bỏ sự lười biếng.
Việc tự
tập lấy các hạnh đầu đà mà không kinh qua giới đàn, không thọ cụ túc giới,
không nhận giới thể trang nghiêm thanh tịnh của Phật chế, không tụng giới luật,
không xin tu tập hạnh đầu đà từ các bậc tôn túc, sẽ không tác thành nên hạnh
đầu đà của Phật giáo mà chỉ trở thành sự khổ hạnh của ngoại đạo.
Hiện
nay, lại có luồng ý kiến cho rằng người tu sĩ phải tập theo hạnh đầu đà mới là
đúng tinh thần của Đức Phật. Nhưng ý kiến đó không xác đáng. Vì sao? Trong các
vị đại đệ tử của Phật, chỉ có ngài Ca Diếp là hành hạnh đầu đà. Các vị còn lại,
ví dụ như ngài Ananda, ngài Upali, ngài Sariputra đều không hành hạnh đầu đà.
Vậy các ngài có phải là chư Thánh tăng hay không? Chư vị Tổ sư của chúng ta đâu
phải ai cũng hành hạnh đầu đà? Các Tổ thuộc dòng thiền Tỳ ni đa lưu chi, Thảo
Đường, Vô Ngôn Thông, Trúc Lâm Yên Tử, Lâm Tế, Tào Động, Liễu Quán… ít nhiều
đều có trú xứ, trụ trì một hoặc một số ngôi tự viện. Vậy mà các ngài vẫn là
những bậc giác ngộ đáng kính, pháp các ngài giảng vẫn là chân Phật pháp.
Thật ra,
lịch sử Phật giáo cho hậu thế chúng ta biết Đạo Phật cần phải khế lý khế cơ.
Khi đến Đông Á, Phật giáo ít nhiều thay đổi để phát triển phù hợp căn tính của
người dân nơi đây. Hình thức nhập thất mà trong đó hành giả dựng một
cốc/phòng/lều, trong đó chỉ có vật dụng tối thiểu nhất (như mùng tránh muỗi,
chăn, bát, nước uống), cắt đứt mọi liên hệ với xã hội, chuyên tâm thiền định,
trì niệm danh hiệu Phật, đó là ví dụ điển hình về một trong những phương pháp
tu tập của chư Tổ tại quốc độ phương Đông.
Ngày
nay, Phật giáo đã có mặt ở khắp nơi trên thế giới, trong đó có các quốc gia
vùng ôn đới như các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Liệu chư tăng có thể thực tập hạnh
tam y, hạnh ở rừng trong điều kiện mùa đông lạnh giá ở đó không? Chúng ta phải
thích nghi với thời tiết. Đức Phật sống ở Ấn Độ và mùa đông ở Ấn Độ không giá
băng như Alaska hay Anh quốc.
Cũng
vậy, việc phê phán chư tăng ngày nay trụ tại trú xứ là không có cơ sở. Ngay từ
thời Đức Phật, ngài đã thọ nhận và cho phép Tăng đoàn sử dụng các ngôi tinh xá,
kỳ viên. Các tinh xá là nơi chư thánh tăng giảng pháp, tiếp nhận đồ chúng và tu
tập. Theo dòng thời gian, đoàn du tăng phát triển cùng với những ngôi tự viện.
Nếu không có tự viện, tăng chúng ngày càng đông đảo không thể tu học, đặc biệt
là ở những nơi ít rừng rậm như tại các đô thị phương Đông cổ trung đại. Không
có tăng chúng, không có giảng đường, không có cơ sở vật chất, Phật tử sẽ không
nhận được pháp nhũ từ Tăng bảo. Như vậy có thể thấy ngoài mối quan hệ song hiệp
giữa bốn chúng như cỗ xe tứ mã, các điều kiện vật chất của thế gian cần được sử
dụng để hỗ trợ Tam Bảo.
Vì vậy
chúng ta hiểu rằng hạnh đầu đà là một trong nhiều phương pháp tu tập, ai thích
hợp với phương pháp tu tập nào thì tu theo phương pháp ấy mà tu tập phải phù
hợp hoàn cảnh thời đại. Cái gốc của đạo là tâm bồ đề, đích đến của đạo là thoát
khổ, đường đi đến đạo nhanh hay chậm do công phu trì giới, tu định, chứng tuệ.
Còn chấp lấy một phương pháp cho rằng đó là phương pháp duy nhất đạt đến quả vô
sanh. Như vậy là lìa khỏi trung đạo và sa vào cực đoan.
Đức
Phật, khi còn là vị Bồ tát, đã từng tu khổ hạnh suốt 6 năm đến mức sức khỏe lụi
tàn như ngọn đèn cạn dầu mong manh trước gió và suýt chết. Sau đó ngài nhận ra
sự khổ hạnh chẳng phải con đường đưa
giải thoát khỏi khổ đau. Và ngài tìm thấy một lối đi tránh cả hai cực
đoan của thế gian: không chạy theo ngũ dục và cũng không hành hạ bản thân. Con
đường Trung đạo mà Phật dạy dựa trên sự cân bằng của thân và tâm, không triệt
tiêu khoái lạc và khổ hạnh mà kiềm hãm, hạn chế tối đa sự thèm khát hoặc ép
xác. Đó là con đường của kinh nghiệm. Ngài lại dạy rằng cần dùng tinh thần
Trung đạo ấy để nhận thức về thế giới: lìa bỏ sự chấp thủ cho rằng thế giới là
tất cả đều có (thường), hay thế giới này tất cả đều không (đoạn).
“Này
Kaccāyana, ‘tất cả có’ (sabbaṃ atthi) là một cực đoan. ‘Tất cả không có’
(sabbaṃ n’tatthi) là cực đoan thứ hai. Xa lìa hai cực đoan ấy, này Kaccāyana,
Như Lai thuyết pháp theo trung đạo.”
(Kinh
Chánh kiến)
Và để đi
theo lối Trung đạo mà Ngài dạy, chúng ta là những người con Phật, cần đi theo
Thánh đạo Tám ngành tức là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định và chánh tuệ. Sự tu tập viên
mãn theo con đường này sẽ giúp hành giả khám phá ra cái khổ, nguồn gốc cái khổ
và khi khổ diệt, Niết bàn hiện tiền.
Còn
những hý luận của thế gian nhằm phủ nhận, hạ bệ giá trị của Đạo Phật, của Tăng
đoàn, thực sự không đưa lại lợi lạc trên con đường tu tập của chúng ta. Đối với
các hý luận ấy, chúng ta nhận rõ đó là do vọng tưởng của con người: chấp pháp
còn khổ, huống hồ là chấp vào điều phi pháp. Người Phật tử kiên định trên con
đường tu tập của mình, bỏ qua những hý luận ấy.
Chánh Kiến
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét