Làng Phi
Bình khi mới hình thành có tên là Bất Một; Theo truyền lại lúc đầu làng đã có
khoảng bốn năm chục nọc nhà nằm ở Ngõ Đá dưới chân núi đất hiện nay; Do sông Mã
đổi dòng chảy đã cắt đôi làng Bất Một (tức là làng mất một nửa); Theo sách Đồng
Khánh Địa Dư chí viết thời vua Đồng Khánh (1886 – 1888) tên làng Bất Một vẫn
còn;
Theo
Hưong Ước xã Phi Bình viết năm 1901 (niên hiệu Thành Thái thứ 13) đã đề là Phi
Bình; Như vậy tên của làng Phi Bình ra đời vào những năm cuối thế kỷ thứ XIX
(tức từ 1889 – 1900). Dân làng Phi Bình
còn lưu truyền câu ca:
Bất Một làng cũ quê tôi
Ở Vùng Ngõ đá, sườn đồi tựa lưng
Làng Phi
Bình xưa có đủ: Đình, chùa, Nghè, Đền, Văn Chỉ, Võ chỉ…Nhưng hiện nay chỉ còn
ngôi đình 5 gian 2 dãy thuộc loại đình cổ đang bị xuống cấp nghiêm trọng rất
càn phải bảo vệ.
Hiện tại
trong làng có 10 dòng họ. Dòng họ đến trước, dòng họ đến sau đang cùng nhau xây
dựng làng xóm ấm no, đó là các dòng họ: Vũ, Lê, Mai, Trịnh, Nguyễn, Bùi,
Dương….Trong đó họ Lê có tới 7 dòng, họ Trịnh 2 dòng, họ Nguyễn 2 dòng. Hầu hết
các dòng họ lớn đều có gia phả để lại nhưng cũng có một số gia phả chép sau
này;
Theo truyền lại làng Phi Bình được hình
thành cách đây gần 400 năm. Dòng Họ Lê, họ Vũ, họ Trịnh là những dòng họ
đến đây sinh cơ, lập nghiệp sớm hơn. Căn cứ vào gia phả các đời truyền lại thì
họ Lê của ông Lê Văn Quang là trưởng tộc đã có mặt ở làng Phi Bình cách ngày
nay ít nhất là 375 năm. Họ Lê ông Lê Văn Vĩnh trưởng tộc là họ lớn trong làng
hiện có trên 200 hộ. Họ có nhà thờ riêng được xây dựng từ lâu đời.
Ngoài ra các dòng họ Lê như họ Lê ông
Lê Văn Hiên là trưởng tộc. Họ Lê ông Lê Văn Tưởng là trưởng tộc; Họ Lê ông Lê
Văn Nhiệm là trưởng tộc, họ Lê ông Lê Văn Dũng là trưởng tộc, họ Lê ông Lê Văn
Nhai trưởng tộc có khoảng vài chục hộ.
Dòng họ Vũ của ông Vũ Văn Tong là trưởng
tộc gốc từ làng Mộ Trạch, huyện Đường An tỉnh Hải Dương; Từ cuối thế kỷ thứ
XVII rồi sang thế kỷ thứ XVIII tỉnh Hải Dương là trung tâm của phong trào nông
dân khởi nghĩa chống lại những quan lại, cường hào gian ác và chính quyền phong
kiến ở địa phương. Nhiều người phải chạy loạn và tìm nơi an toàn để cư trú và
sinh sống. Cụ tổ dòng họ Vũ ở làng Phi Bình này tên tự là Phúc Thiên đã từ Hải
Dương bước đầu vào Thanh Hoá ở làng Bàn Thạch (huyện Thọ Xuân) làm nghề buôn
bán và làm ăn cũng rất phát đạt, nhưng lại vất vả về đường con cái. Vào năm
1760 cụ tổ đã chuyển từ Bàn Thạch đến làng Bất Một và lấy ở đây rồi sinh được
hai người con trai có tên là Phúc Thiện và Phúc Đức, từ đó họ Vũ này đã truyền
đến nay được 10 đời.
Họ Trịnh của ông Trịnh Văn Chương là
trưởng tộc (vốn họ Trịnh không có chữ lót) gốc từ làng Biện Thượng nay thuộc xã
Vĩnh Hùng (quê hương của chúa Trịnh Kiểm), cụ tổ họ này là Trịnh Tôn vào năm
1784 cụ đã chuyển vợ, con từ Biện thượng có đem theo nếp nhà bếp 2 gian đến
sinh cơ, lập nghiệp ở đất Phi Bình này, hiện nay dòng họ này có ba chi và sáu,
bảy chục đinh.
Dòng họ Trịnh của ông Trịnh Hùng
Chính làm tộc trưởng (ông Chính đi công tác xa), ông Trịnh Xuân Thục đại tá về
hưu nay đã 69 tuổi cho biết cụ tổ của dòng họ này từ Lưu Khê (nay thuộc Yên
Trường – Yên Định) là con út của gia đình có 4 anh em trai, cụ sang đất Phi
Bình lấy vợ và sinh con đẻ cái lập nên dòng họ Trịnh này cách ngày nay khoảng
150 năm.
Rồi Họ Mai của ông Mai Văn Dỹ là
trưởng tộc có cụ tổ là ông Mai Hữu Dực cùng vợ từ Thọ Xuân sang Phi Bình sinh
cơ, lập nghiệp và truyền cho đến nay khoảng 175 năm. Từ đất Phi Bình cụ tổ Mai
Hữu Dực đã chăm chỉ học tập và thi đậu cử nhân, cụ được bổ đi làm đốc học ở tỉnh
Phú Yên;
Ở làng Phi Bình có trường hợp dòng họ
Lê của ông Lê Văn Vĩnh là trưởng tộc gốc lại là Họ Nguyễn từ Hải Dương vào.
Theo ông Lê Văn Thơ năm nay 75 tuổi, người trong họ cho biết, bấy giờ có hai mẹ
con từ Hải Dương dắt nhau vào đất Phi Bình và đi ở cho một gia đình họ Lê (Dòng
họ Lê của ông Lê Văn Quang làm trưởng tộc); Người con trai tên là Khoa được gia
đình Họ Lê nhận làm con nuôi nên đã đổi từ họ Nguyễn sang họ Lê. Khi Lê Văn
Khoa trưởng thành đã xây dựng gia đình riêng và lập nên dòng họ Lê của ông Lê
Văn Vĩnh là trưởng tộc đến nay đã truyền được trên 8 đời (khoảng 200 năm).
Làng Phi Binh sống bằng nghề nông,
cây trồng chính là lúa, bông, lạc, đậu, vừng; Chăn nuôi thì có con lợn, con bò,
con gà; Ngoài ra ở đây còn có nghề trồng dâu nuôi tằm, một số gia đình có nghề
làm áo tơi bằng lá cây móc (có nơi gọi là cây núc nác, cây đùng đình) loại áo
khoác mặc để che mưa;
Làng Phi bình có diện tích tự nhiên
164,08ha, trong đó đất canh tác là 62,74ha, đất thổ cư 13,5 ha
Địa giới Hành chính:
+ Phía
Bắc giáp làng Kỳ Ngãi
+ Phía
Đông giáp làng Hồ Nam (Vĩnh Khang)
+ Phía
Nam giáp sông Mã (bên kia sông là Yên Trường – Yên Định)
+ Phía
Tây cũng giáp sông Mã (bên kia sông là xã Yên Thọ - Yên Định)
Theo điều
tra dân số và nhà ở ngày 1/4/2009 làng Phi Bình có 1.645 khẩu. Trong đó có tới
10 xóm. Thực hiện Quyết định của chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá, tháng 4 năm 2009
làng Phi Bình chia ra làng Phi Bình 1 và Làng Phi Bình 2
+Phi
Bình 1 ông Lê Văn Trung làm trưởng thôn (làng)
+Phi
Bình 2 ông Nguyễn Văn Bình làm trưởng thôn (làng)
Cả hai
thôn cùng chung một chi bộ lãnh đạo, hiện đồng chí Vũ Thanh Bình là bí thư Chi
bộ kiêm trưởng Thôn (làng) Phi Bình Lớn
Nguồn:
Lịch sử xã Vĩnh Ninh năm 2010 và sử liệu tổng hợp từ nhiều nguồn
Thông tin
bài viết đã cách nay 15 năm, độc giả nếu thấy cần bổ sung sai lệch thì cho ý
kiến để chỉnh sửa phù hợp
TỔ CHỨC CAI TRỊ XƯA
Về tổ chức cai trị ở cấp làng “cấp
chính quyền cơ sở” dưới chế độ thực dân phong kiến trước tháng 8/1945 có các
chức danh: Lý trưởng, phó Lý, Hương bạ, Hương kiểm, Hương bản, Hương mục và
Hương dịch làm nhiệm vụ thay mặt chính quyền các cấp Phủ, huyện, tỉnh cai trị
địa phương (gọi là hội đồng Lý Dịch)
Lý trưởng: Chịu trách nhiệm mọi mặt “nội
gia cư” “ngoại đồng điền” và giữ đồng triện; (Làng lớn có Phó lý giúp việc lưới
trưởng)
+Hương mục: giữ các công việc công cộng
+Hương bản: giữ quỹ tiền nong, lúa gạo
+Hương bạ: giữ sổ sách, giấy tờ +Hương kiểm: giữ đồng điền, trật tự, trị an.
+Hương dịch: phụ trách lễ nghi cúng bái.
Ngoài hội đồng Lý Dịch (từ Lý đến
Dịch) trong làng còn có Hội đồng Kỳ mục Hội đồng kỳ mục không trực tiếp điều
hành công việc trong làng nó tồn tại như một Hội đồng tư vấn nhưng trong thực
tế Hội đồng kỳ mục quyết định thì Lý trưởng, Phó lý và các chức dịch phải thực
hiện;
Hội đồng Kỳ mục có nhiệm vụ góp ý
kiến với chính quyền về các công việc có tính chất kinh tế, xã hội ở trong làng.
Về kết cấu làng xã lúc bấy giờ còn có “phe”,
“giáp”, như làng Thọ Vực có phe Phú, phe Thọ; làng Kỳ Ngãi có giáp Đông giáp
Đoài… Phe, Giáp chủ yếu là trong quan hệ thờ cúng Thành Hoàng và công việc tế
lễ trong làng. Có làng Văn, làng Võ làng Nhiêu….
Các làng đều có Hương ước là luật
trong làng do mọi người trong làng đề ra có quan viên, trùm lão, Lý trưởng ký
và áp triện (Đóng dâu).
Hương ước của các làng xưa giống như
1 tín ngưỡng nằm trong hệ thống tín ngưỡng Thành Hoàng được cả làng kính sợ và
chấp hành. Hầu hết các bản Hương ước của các làng đã bị thất lạc, hiện nay
chúng tôi chỉ sưu tầm được bản hướng ước của xã (làng) Phi Bình lập năm Thành
Thái thứ 13 (tức là vào năm 1901), mà người thừa sao là Cửu phẩm Lý trưởng Lê
Huy. Bản Hương ước bằng chữ Hán đã được dịch ra chữ Quốc ngữ. Bản Hương ước xã
Phi Bình có lời nói đầu, có 6 điều; Lời nói đầu ghi rõ: “các bậc chức sắc, kỳ
lão, Lý dịch cùng toàn thể trên dưới xã (làng) Phi Bình, tổng Hồ Nam, huyện
Vĩnh Lộc lại họp bàn định ra các điều lệ, khoán ước; Bản xã ước trước đây cũng
có định ra các điều lệ từ đó đến năm nay đã lâu đời, kim cổ khác biệt, nghi lễ
có những điều không thể hòa hợp .. Nay tham cứu trong các điển tích cũ, phối
hợp với nhau các tục mà đời ưa chuộng, định ra làm 6 điều để ngày nay và mai
sau có cái thống nhất, hợp thành quy phạm cho nhân tâm mà lại làm đẹp cho phong
tục”;
Cụ thể các điều trong Hương ước như
sau:
- Điều
thứ nhất: Phép các thờ cúng. Điều này có 21 khoản;
- Điều
thứ 2: Về các biện chức. Điều này cũng
19 khoản;
- Điều
thứ 3: Định về dân trí. Điều này có 1 khoản;
- Điều
thứ tư: Trọng danh khí. Điều này có 10 khoản;
- Điều
thứ 5: Thánh lễ tục. Điều này có 21 khoản;
- Điều
thứ 6: Phòng nhân dân. Điều này có 31 khoản;
Hương ước của xã Phi Bình ra đời cách
đây trên 100 năm mà nhiều điều khoản hiện nay vẫn còn áp dụng được.
Thí dụ điều 6 nói về phòng nhân dân (phòng
ngừa những việc xấu xảy ra trong làng xã) như các khoản:
- Phàm
người nào họp uống rượu đến thất lễ phạt 1 quan 1 mạch;
- Ban
ngày mà ăn trộm sản vật, hoa lợi trên đồng ruộng, đồ vật trong gia đình, súc
vật nuôi bị bắt được quả tang, kẻ đó bị phạt 3 quan; Ban đêm đi ăn trộm các thứ
trên đồng ruộng và sản vật ở trong nhà người khác mà bắt được quả tang kẻ đó bị
phạt 3 quan truất xuống 1 bản. Ban đêm khoét tường, đục vách, lấy cắp trâu, bò
các vật trong vườn mà bắt được quả tang, kẻ đó bị phạt 6 quan, truất xuống 3
bản; - Người nào cho bọn trộm cắp gửi các đồ vật phạt 6 quan;
- Đánh
cờ bạc chỉ trong những người lễ tiết (từ nay về sau đều cấm) có kẻ nào làm trái
lại lời đoan ước, người có đất chứa chấp cờ bạc phạt 6 quan, con bạc phạt đều 3
quan, số tiền tháng bạc đem sung công, văn khế bị thua đem đốt cháy.
Các làng ở Vĩnh Ninh xưa đều có đình
là nơi làm việc của chức sắc trong làng, nơi hội họp, mở hội tế, lễ của dân
làng…. Ở đình thường có hậu cung làm nơi thờ Thành Hoàng làng, Ngoài ra còn có
chùa thờ phật, có các đền thờ thần các Văn chỉ thờ đức Khổng Tử….
Nguồn Lịch sử xã Vĩnh Ninh và tư liêu sử liên
quan
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét