Là kết quả từ quá trình kiến tạo tự
nhiên lâu dài, có thể nói, sự tồn tại của các dãy núi như một nét phác họa đầy
kỳ công và độc đáo của tạo hóa. Cũng nhờ đó mà thiên nhiên mới có được sự hùng
vĩ, tươi đẹp, kỳ bí và có sức cuốn hút đặc biệt. Có vô số danh thắng nhờ núi
non mà thành và cũng có những ngọn núi mà sự tồn tại của nó đã gắn liền với một
“miền tâm linh”, hay là nơi mà trí tưởng tượng của con người mặc sức bay bổng.
Dãy núi Xuân Đài (xưa kia thuộc địa phận xã Vĩnh Ninh, nay là xã Ninh Khang,
huyện Vĩnh Lộc), là một địa danh như thế.
Nói về
ngọn núi này, sách “Vĩnh Lộc huyện chí” có đoạn miêu tả: “Núi ấy có nham thạch
chồng chất, tầng lớp cao vọt như một ngọn lâu đài ôm lấy nhau tựa như chiếc
thuyền, cho nên gọi là Xuân Đài”.
Núi Xuân Đài trông xa không khác
nhiều so với hình dáng các ngọn núi thường thấy. Nhưng khi quan sát ở cự ly gần
mới thấy được nét riêng có và độc đáo của nó. Núi Xuân Đài có kết cấu địa chất
khá lạ, có màu xám đen đặc trưng của đá. Đặc biệt, các phiến đá có độ dày mỏng
khác nhau, tưởng như được bàn tay người thợ tài hoa đục đẽo, cắt gọt cho vuông
vắn, rồi được xếp chồng lên nhau, hết tầng này đến lớp khác mà thành dáng núi
“Trập trùng nẻo đá lượn quanh co”. Bao quanh ngọn núi là một vùng cảnh quan
thiên nhiên và làng mạc bình yên, tươi đẹp. Đặc biệt, núi Xuân Đài còn gắn liền
với Quần thể Di tích danh thắng cấp Quốc gia động Hồ Công - chùa Du Anh.
Chùa Du
Anh nằm dưới chân núi, được dân gian quen gọi là chùa Thông. Tương truyền, chùa
được xây dựng vào thời nhà Lý, trải qua thời gian và không ít biến cố lịch sử,
đến thời Lê Trung hưng (khoảng năm 1601-1619), chùa mới được tôn tạo lại. Chùa
được dựng trên một khu đất bằng phẳng, lấy núi Xuân Đài làm hậu chẩm và núi
Trác Phong làm tiền án. Xưa kia, bên tả chùa có gác Ngọc Hoàng, bên hữu chùa có
am Công chúa. Hai bên nách chùa lại có hai hồ nước Nhật - Nguyệt do thiên nhiên
tạo thành, cảnh trí vô cùng tĩnh tại và đậm màu thiện tịnh. Từ chùa Du Anh, có
một lối mòn khá dốc, nơi các bậc đá tự nhiên bám vào thân núi và dẫn thẳng lên
động Hồ Công.
Người xưa hình như đã dựa vào thế núi
và những câu chuyện huyền bí về động Hồ Công, mà tạc vào vách đá trên cửa động
4 chữ Hán lớn “Sơn Bất Tại Cao” (tương
truyền do Hồng Anh cư sĩ Nguyễn Nghiễm đề bút). Nghĩa đầy đủ của 4 chữ Hán
này là dựa vào câu “Sơn bất tại cao, hữu tiên tất linh/ Giang bất tại thâm, hữu long tất
ứng” (núi không cao mà có tiên tất linh thiêng/ sông không sâu mà có rồng tất
ứng nghiệm). Núi Xuân Đài - dưới có chùa Du Anh, trên đỉnh có động Hồ
Công - vừa là cõi phật ngự vừa là chốn tiên về, thật chẳng khác nào chốn bồng
lai tiên cảnh giữa trần gian?!
Tuy
nhiên, bấy nhiêu vẫn là chưa đủ khi nói về giá trị tồn tại của núi Xuân Đài.
Bởi lẽ, ngọn núi này còn có mối liên hệ vô cùng đặc biệt với Thành Nhà Hồ. Khi
di sản này vừa được UNESCO vinh danh, thì xung quanh nó vẫn còn không ít bí ẩn
và nhiều vấn đề chưa thể lý giải. Một trong số đó là câu hỏi đá xây dựng thành
được khai thác ở đâu và khai thác, vận chuyển như thế nào? Một thời gian ngắn
sau, Trung tâm bảo tồn Di sản Thành Nhà Hồ và các nhà khoa học đã tiến hành
khảo sát vị trí các mỏ đá. Với những đặc điểm nhận dạng và so sánh bước đầu,
căn cứ vào các dấu vết bóc tách và chế tác thủ công còn rất rõ trên các mặt của
phiến đá; đồng thời, qua việc phân tích, đối sánh với các phiến đá tại tường
Thành Nhà Hồ, các nhà nghiên cứu đã thống nhất xác định, núi An Tôn và núi Xuân
Đài, nằm cách Thành Nhà Hồ chừng 3 - 4 km, chính là các công trường khai thác
đá cổ, từng được vương triều Hồ sử dụng để khai thác đá xây thành kinh thành
Tây Đô.
Cùng với việc xác định vị trí các mỏ đá, việc
gia công, vận chuyển cũng được lý giải.
Theo đó, việc gia công đá được người xưa tính toán sao cho vừa tiết kiệm, vừa
hợp lý, lại đạt hiệu quả kỹ thuật cao. Các loại đá xây vòm cuốn được làm nhẵn
nhiều mặt, còn những loại xây tường thì được gia công nhẵn ở phần bề mặt đá
được ráp với nhau. Việc vận chuyển và nhất là kỹ thuật xây, xếp các khối đá
khổng lồ càng cần sự kỳ công gấp bội. Các nguồn tư liệu dân gian và kết quả
điều tra thực địa của các nhà khoa học, đã đưa đến một giả thiết về quy trình
vận chuyển các khối đá khổng lồ, từ công trường khai thác về nơi xây dựng. Đó
là một quy trình được tổ chức hết sức hợp lý và đầy sáng tạo. Trước hết, người
ta xây dựng một con đường lát đá tương đối phẳng và nhẵn trên nền đất được đầm
kỹ. Dấu vết con đường này hiện được phát lộ một phần ở thôn Tây Giai (cửa Tây
của Thành Nhà Hồ); còn phần nằm ở phía công trường khai thác đá (núi Xuân Đài),
thì chưa có điều kiện để khai quật, nghiên cứu và phát lộ. Trên con đường này,
người thợ dựng một băng chuyền thủ công bằng các trục lăn (con lăn) và bi đá.
Khi các khối đá nặng từ 10 tấn trở lên, được đưa từ mỏ đá lên băng chuyền, các
bi đá và con lăn sẽ xoay tròn tại chỗ. Đồng thời, dựa trên sức kéo của người và
vật nuôi (trâu, voi) ở hai bên băng chuyền, các khối đá sẽ được vận chuyển đến
nơi xây dựng thành.
Có thể nói, vùng đất động An Tôn xưa, nơi được
nhà Hồ lựa chọn là đất dựng kinh đô mới, so với kinh thành Thăng Long thời
Trần, không được thuận lợi về mặt bằng và giao thông. Song, ưu điểm lớn hơn cả
của vùng đất này chính là thuận cho việc khai thác và sử dụng vật liệu đá. Ngoài ra, việc lựa chọn vị trí đặt kinh đô cũng chứng tỏ sự
hiểu biết sâu sắc của người xưa về vùng đất được chọn; cũng như việc vận dụng
khéo léo các yếu tố cảnh quan thiên nhiên theo quan niệm dịch lý và phong thủy
Phương Đông. Đặc biệt, việc sử dụng các khối đá lớn tại Thành Nhà Hồ là một
minh chứng sống động, chứng tỏ sức mạnh tổ chức của một nhà nước Tân Nho Giáo.
Đồng thời, cho thấy sự giao lưu kỹ thuật xây dựng trong khu vực Đông Nam Á thời
bấy giờ. Bằng sức lực và trí tuệ, người dân Đại Việt đã khai thác, vận chuyển
và xây dựng nên tòa thành, từng khiến các chuyên gia Nhật Bản phải thốt lên,
đây là di tích kinh thành được kiến tạo bằng đá hùng vĩ nhất.
Chừng ấy nguyên do mới thấy, để có thể làm nên
một hiện tượng đột khởi “vô tiền khoáng hậu” trong lịch sử kiến trúc Việt Nam
mang tên Thành Nhà Hồ; thì vai trò, ý nghĩa hay giá trị của các công trình khai
thác đá cổ, mà trực tiếp là núi Xuân Đài, là vô cùng đặc biệt.
Bài và
ảnh: Hoàng Xuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét