XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Năm, 23 tháng 5, 2024

THÀNH NHÀ HỒ, ĐỌC BÀI THƠ TRÊN VÁCH THÀNH CỔNG TÂY

Thành Nhà Hồ do Hồ Quý Ly chủ trương xây dựng và đích thân chỉ huy công trình vào năm 1397. Ba năm sau đó, Hồ Quý Ly đoạt ngôi nhà Trần lúc ấy đã suy tàn đáng phải thay thế, lập ra triều đại nhà Hồ, đặt tên nước là Đại Ngu. Chữ "Ngu" () trong quốc hiệu "Đại Ngu" (大虞) của nhà Hồ có nghĩa là "sự yên vui, hòa bình", không phải chữ "Ngu" () mang nghĩa là "ngu ngốc". "Đại Ngu" có thể hiểu là ước vọng về một sự bình yên rộng lớn trên khắp cõi giang sơn.

Đây là tòa thành kiên cố với kiến trúc độc đáo bằng đá có quy mô lớn hiếm hoi ở Việt Nam, có giá trị và độc đáo nhất, duy nhất còn lại ở tại Đông Nam Á và là một trong rất ít những thành lũy bằng đá còn lại trên thế giới. Có tài liệu chép thành được xây dựng trong thời gian chỉ khoảng 3 tháng (từ tháng Giêng đến tháng 3 năm 1397). Trải hơn 6 thế kỷ, một số đoạn của tòa thành này còn lại tương đối nguyên vẹn.

Thành Nhà Hồ được xây trong thời gian ngắn, nhân công được huy động rất đông, lao động không kể ngày đêm, nhiều người đã bị ốm đau, thương tật hoặc chết ở chân thành. Chuyện kể rằng vào cuối mỗi ngày, người ta thu gom được vài rổ (giành, sọt) những đầu ngón tay bị đứt rời của những người thợ ở đây trong quá trình lao động xây thành.

Có một điều, tuy thành Nhà Hồ kỳ vĩ và kiên cố như vậy, mà không một mũi tên nào được bắn ra từ mặt thành và không một tên giặc Minh nào bỏ mạng dưới chân thành.

Trải 600 năm qua, nhiều nho sỹ, thi nhân đã đến thăm thành, cảm tác thơ văn, phần lớn đều lên án Hồ Quý Ly tàn bạo, xây thành vắt kiệt sức dân. Có hai bài thơ được khắc trực tiếp vào thành ở cổng Tây, đến nay vẫn còn.

Có một điều băn khoăn: Đoàn đến cổng Tây của Thành Nhà Hồ, thấy bài thơ khắc trên đá của cổng. Khi hỏi sao không giới thiệu, thì hướng dẫn viên xin phép không giới thiệu, vì trên nói nội dung này không hay nên không được giới thiệu.

Dưới đây, xin giới thiệu bài 1:

Bài thơ thứ nhất


胡城古跡

興亡陳跡古今來

石砌胡城此舊堆

愁築樓臺多少力

弓山石路誌蒼苔

HỒ THÀNH CỔ TÍCH

Hưng vong Trần tích cổ kim lai

Thạch thiết Hồ thành thử cựu đôi

Sầu trúc lâu đài đa thiểu lực

Cung sơn thạch lộ chí thương đài.

(Bảo Đại ngũ niên Hạ.

Hồng lô tự khanh lĩnh Thủ Quảng Hóa phủ Trần Đình Khuyến đề).

Dịch nghĩa:

DẤU CŨ THÀNH NHÀ HỒ

Dấu tích thịnh suy của nhà Trần xưa kia còn để lại đến nay.

Bây giờ còn lại là những đống đá ghép của Thành Nhà Hồ

Buồn thấy bỏ ra bao công sức của nhân dân để xây cất lâu đài

Nay chỉ còn lại dấu rêu xanh trên núi hình cung (*) và con đường đá (**).

(Mùa hạ niên hiệu Bảo Đại thứ 5 (1930)

Hồng lô tự khanh, chịu trách nhiệm giữ phủ Quảng Hóa Trần Đình Khuyến đề).

(*) Núi Đốn hay Cung Sơn (núi hình cung), cách cổng Tiền Thành Nhà Hồ khoảng 2 km. (**) Con đường lát đá hoa từ cổng Tiền đến núi Đốn có tên Hoa Nhai.

Dịch thơ:

Dấu Trần hưng thịnh vẫn còn đây

Mấy bức thành hoang đá ghép xây

Buồn dựng lâu đài hao kiệt sức

Hoa Nhai, núi Đốn phủ rêu dày.

Bản phiên âm, dịch nghĩa và chú thích bài thơ được trích từ sách “Những Bút tích Hán Nôm hiện còn ở các hang động vách núi Xứ Thanh”, Võ Hồng Phi – Hương Nao, Nxb. Thanh Hóa, 2018, trang 278-280.

Nguồn Tễu Blog

Bài thơ thứ 2

Tại cửa tây thành nhà Hồ, có khắc bài thơ của tác giả Nguyễn Dao người xã Dũng Quyết huyện Ý Yên tỉnh Nam Định, đỗ cử nhân khoa Quý Mão đời Thành Thái( 1903).Nội dung bài thơ như sau:

 

 西

 

 

 

 

 

 

 

 

Phiên âm

Bảo Đại Quí Dậu xuân

 Tây Đô doanh trúc kiệt dân chi

Hà sự Bồ Hoàng tiếm thiết vi

Thất lý đồi thành phong sắt sắt

Sổ đôi cố chỉ thử li li

Trung thần tuy tử lưu hoa lộ

Liệt nữ như sinh lẫm thạch bi

Nhất thế gian hùng kim án tại

Hữu linh ứng tự nhận tiền phi.

Nguyễn Dao cung chí.

Dịch nghĩa:

Xây đắp doanh trại thành Tây Đô kiệt hết sức lực dân

Cớ gì áo vàng lại làm việc chiếm ngôi

Bảy dặm ngoài thành chỉ còn thấy gió hiu hắt

Trong nội nay hai bên lúa vàng lô nhô

Người trung thần tuy mất vẫn còn thờ ở đền Cái Hoa

Người liệt nữ vẫn còn in dấu sống động nơi tảng đá

Một kiếp gian hùng nay ở đâu?

Có khôn thiêng thì về mà nhận lỗi lầm khi trước.

Bảo Đại xuân Quí Dậu (1933)

Nguyễn Dao kính ghi lại

  (chưa có bản dịch thơ .Tôi mạo dịch, mời huynh hữu tham gia nhuận sắc cho vui)

Dịch thơ: THÀNH TÂY ĐÔ

Tây Đô kiến tạo của người thưa

Hà cớ Bồ Hoàng nỡ truất vua

Bảy dặm  thành hư nồm buốt buốt

Hai gò nội nát lúa lua tua

Trung thần tuy mất đường Hoa nhớ

Liệt nữ vẫn còn tảng đá đưa

Một kiếp gian hùng nay khuất nẻo

Hồn thiêng hãy nhận lỗi lầm xưa.

     Vĩnh Lộc

Huy Mien Nguyen

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét