Thành Nhà Hồ do Hồ Quý Ly chủ trương xây dựng và đích thân chỉ huy công trình vào năm 1397. Ba năm sau đó, Hồ Quý Ly đoạt ngôi nhà Trần lúc ấy đã suy tàn đáng phải thay thế, lập ra triều đại nhà Hồ, đặt tên nước là Đại Ngu. Chữ "Ngu" (虞) trong quốc hiệu "Đại Ngu" (大虞) của nhà Hồ có nghĩa là "sự yên vui, hòa bình", không phải chữ "Ngu" (愚) mang nghĩa là "ngu ngốc". "Đại Ngu" có thể hiểu là ước vọng về một sự bình yên rộng lớn trên khắp cõi giang sơn.
Đây là tòa thành kiên cố với kiến trúc độc đáo bằng đá có quy mô lớn hiếm hoi ở Việt Nam, có giá trị và độc đáo nhất, duy nhất còn lại ở tại Đông Nam Á và là một trong rất ít những thành lũy bằng đá còn lại trên thế giới. Có tài liệu chép thành được xây dựng trong thời gian chỉ khoảng 3 tháng (từ tháng Giêng đến tháng 3 năm 1397). Trải hơn 6 thế kỷ, một số đoạn của tòa thành này còn lại tương đối nguyên vẹn.
Thành Nhà Hồ được xây trong thời gian ngắn, nhân công được huy động rất đông, lao động không kể ngày đêm, nhiều người đã bị ốm đau, thương tật hoặc chết ở chân thành. Chuyện kể rằng vào cuối mỗi ngày, người ta thu gom được vài rổ (giành, sọt) những đầu ngón tay bị đứt rời của những người thợ ở đây trong quá trình lao động xây thành.
Có một điều, tuy thành Nhà Hồ kỳ vĩ và kiên cố như vậy, mà không một mũi tên nào được bắn ra từ mặt thành và không một tên giặc Minh nào bỏ mạng dưới chân thành.
Trải 600 năm qua, nhiều nho sỹ, thi nhân đã đến thăm thành, cảm tác thơ văn, phần lớn đều lên án Hồ Quý Ly tàn bạo, xây thành vắt kiệt sức dân. Có hai bài thơ được khắc trực tiếp vào thành ở cổng Tây, đến nay vẫn còn.
Có một điều băn khoăn: Đoàn đến cổng Tây của Thành Nhà Hồ, thấy bài thơ khắc trên đá của cổng. Khi hỏi sao không giới thiệu, thì hướng dẫn viên xin phép không giới thiệu, vì trên nói nội dung này không hay nên không được giới thiệu.
Dưới đây, xin giới thiệu bài 1:
Bài thơ thứ nhất
胡城古跡
興亡陳跡古今來
石砌胡城此舊堆
愁築樓臺多少力
弓山石路誌蒼苔
HỒ THÀNH CỔ TÍCH
Hưng vong Trần tích cổ kim lai
Thạch thiết Hồ thành thử cựu đôi
Sầu trúc lâu đài đa thiểu lực
Cung sơn thạch lộ chí thương đài.
(Bảo Đại ngũ niên Hạ.
Hồng lô tự khanh lĩnh Thủ Quảng Hóa phủ Trần Đình Khuyến đề).
Dịch nghĩa:
DẤU CŨ THÀNH NHÀ HỒ
Dấu tích thịnh suy của nhà Trần xưa kia còn để lại đến nay.
Bây giờ còn lại là những đống đá ghép của Thành Nhà Hồ
Buồn thấy bỏ ra bao công sức của nhân dân để xây cất lâu đài
Nay chỉ còn lại dấu rêu xanh trên núi hình cung (*) và con đường đá (**).
(Mùa hạ niên hiệu Bảo Đại thứ 5 (1930)
Hồng lô tự khanh, chịu trách nhiệm giữ phủ Quảng Hóa Trần Đình Khuyến đề).
(*) Núi Đốn hay Cung Sơn (núi hình cung), cách cổng Tiền Thành Nhà Hồ khoảng 2 km. (**) Con đường lát đá hoa từ cổng Tiền đến núi Đốn có tên Hoa Nhai.
Dịch thơ:
Dấu Trần hưng thịnh vẫn còn đây
Mấy bức thành hoang đá ghép xây
Buồn dựng lâu đài hao kiệt sức
Hoa Nhai, núi Đốn phủ rêu dày.
Bản phiên âm, dịch nghĩa và chú thích bài thơ được trích từ sách “Những Bút tích Hán Nôm hiện còn ở các hang động vách núi Xứ Thanh”, Võ Hồng Phi – Hương Nao, Nxb. Thanh Hóa, 2018, trang 278-280.
Nguồn Tễu Blog
Bài thơ thứ 2
Tại cửa tây thành nhà Hồ, có khắc bài thơ của tác giả Nguyễn Dao người xã Dũng Quyết huyện Ý Yên tỉnh Nam Định, đỗ cử nhân khoa Quý Mão đời Thành Thái( 1903).Nội dung bài thơ như sau:
保 大 癸 酉 春
西 都 营 築 竭 民 脂
何 事 蒲 黄 僭 設 爲
七 里 頹 城 風 瑟 瑟
數 堆 故 趾 黍 蓠 蓠
忠 臣 雖 死 留 花 路
烈 女 如 生 凜 石 碑
一 世 奸 雄 今 安 在
有 灵 应 自 認 前 非
阮 瑤 恭 誌
Phiên âm
Bảo Đại Quí Dậu xuân
Tây Đô doanh trúc kiệt dân chi
Hà sự Bồ Hoàng tiếm thiết vi
Thất lý đồi thành phong sắt sắt
Sổ đôi cố chỉ thử li li
Trung thần tuy tử lưu hoa lộ
Liệt nữ như sinh lẫm thạch bi
Nhất thế gian hùng kim án tại
Hữu linh ứng tự nhận tiền phi.
Nguyễn Dao cung chí.
Dịch nghĩa:
Xây đắp doanh trại thành Tây Đô kiệt hết sức lực dân
Cớ gì áo vàng lại làm việc chiếm ngôi
Bảy dặm ngoài thành chỉ còn thấy gió hiu hắt
Trong nội nay hai bên lúa vàng lô nhô
Người trung thần tuy mất vẫn còn thờ ở đền Cái Hoa
Người liệt nữ vẫn còn in dấu sống động nơi tảng đá
Một kiếp gian hùng nay ở đâu?
Có khôn thiêng thì về mà nhận lỗi lầm khi trước.
Bảo Đại xuân Quí Dậu (1933)
Nguyễn Dao kính ghi lại
(chưa có bản dịch thơ .Tôi mạo dịch, mời huynh hữu tham gia nhuận sắc cho vui)
Dịch thơ: THÀNH TÂY
ĐÔ
Tây Đô kiến tạo của người thưa
Hà cớ Bồ Hoàng nỡ truất vua
Bảy dặm thành hư nồm buốt buốt
Hai gò nội nát lúa lua tua
Trung thần tuy mất đường Hoa nhớ
Liệt nữ vẫn còn tảng đá đưa
Một kiếp gian hùng nay khuất nẻo
Hồn thiêng hãy nhận lỗi lầm xưa.
Vĩnh Lộc
Huy Mien Nguyen
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét