Căn cứ vào các nguồn tư liệu thành văn như: sách Thanh Hoá chư thần lục; văn bia; Thần tích hiện còn và truyền thuyết cho biết: Đình làng Kênh được xây dựng từ năm 1534, thời Lê Trang Tông. Đình làng Kênh mang chức năng là đình làng - là nơi sinh hoạt văn hoá, hội họp của nhân dân trong làng ; đồng thời, đình còn thờ những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước làm Thành Hoàng làng là Quản gia Đô Bác Đại Vương, Nguyệt Nga công chúa; phối thờ Tả Tư mã ; Thái phó Nguyên Quận Công Trịnh Tướng Công, tên thụy là Tuyên Hoà và bà Quận phu nhân Trịnh Thị Ngọc Kiến.
Về nhân vật Quản Gia Đô Bác: Thần tích hiện đang được lưu giữ tại đình
Làng Kênh, Định Tiến, Yên Định, Thanh Hoá có nội dung như sau:
Tôn thần
Đương giang Quản gia Đô bác đại vương Trịnh Tuấn Lương, triều Nguyễn gia phong
Trác Vĩ Thượng đẳng tôn thần.
Thần
nguyên quán người xã Thiên Vực (Thọ Vực ngày nay), lộ Vĩnh Ninh (nay đổi thành
huyện Vĩnh Lộc), họ Trịnh tên là Ra. Người thông minh, mẫn tiệp, trung tín,
hình trạng khác người. Vào thời gian vua Đường ý Tông, niên hiệu Hàm Thông và
Hàm Bình (Trung Quốc). Thời gian đó vua sai Cao Biền giữ chức Đô Hộ sứ trấn giữ
nước Nam ta. Cao Biền mệnh danh là Cao Vương đi kinh lý xem xét những vùng sơn
kỳ thuỷ tú qua đất lộ Vĩnh Ninh, Tôn thần (Trịnh Ra) theo ông. Cao Biền nhất
mực yêu quý và giao cho đảm nhiệm công việc gia đình. Tôn thần (Trịnh Ra) không
quản mệt nhọc, một lòng theo hầu và chuyên tâm lo chu tất mọi việc. Cao Vương
nhất mực tin tưởng mới giao cho ông đảm nhiệm chức Gia phủ nội ngoại chư quân,
cần lao lo toan công việc được mệnh danh là Khố (kho), sau này cáo xin trở về
được Cao Vương tặng cho tiền 500 quan. Tôn thần nhân đó mà được giầu có. Khi
trở về quê hương ông đem cứu tế cho những gia đình nghèo túng, nhờ vậy mà mọi
người trong huyện ai nấy đều được ngài ban phát mang nhiều ơn huệ.
Đời cha của Tôn thần (Trịnh Ra) vốn
có thù oán với người làng Thuỷ Thanh lâu năm mà chưa phân giải được, nên họ
ngầm có âm mưu sinh lòng báo thù và sinh ra kế đến gia đình ông chơi, đồng thời
có nhã ý xin cầu hôn và xin cưới Thị Ba (em gái thần). Vì không nghi ngờ gì nên
ông đã đồng ý gã em gái mình, thế là mưu kế của người làng Thuỷ Thanh bước đầu
đã được thự hiện, vợ chồng em gái Thần cầm sắc được không lâu thì bất hoà, Thị
Ba bị đuổi về nhà mẹ đẻ; trong đêm, Thị Ba một mình trở về, khi đến bến sông thì lúc ấy trời tối không có
thuyền để vượt sông, Thị Ba bèn trầm
mình xuống sông la lớn cho hai anh em đến cứu. Tôn thần (Trịnh Ra) nghe tiếng
la thất thanh khẩn thiết của em gái mình bèn cùng em trai là Tú dùng thuyền đi
ra cứu em mà không biết mưu kế của người làng Thuỷ Thanh đang chứa chấp binh
khí mai phục bên bờ để đợi anh em Tôn thần (Trịnh Ra).
Khi về
gần bờ, cả ba anh em đều bị hại (hôm ấy là ngày 14 tháng 11), thời gian đó là
mùa đông thời tiết rét đậm, trời lại quá sớm nên không người nào biết. Do vậy
xác cứ từ bến sông trôi đi. Thi thể của Tôn thần (Trịnh Ra) trôi từ ngã ba sông
đến bến Chiêu Đức (nay là xã Nhật Chiêu) thì không trôi nữa. Xác trôi đi, trôi
lại ở đó 5 ngày, người nhà hoảng hốt báo tin cho Cao Biền, Cao Biền thương tiếc
cho mai táng ở núi Chiêu Đức theo kiểu thượng sàng hạ mộ, nhân đó lập miếu ở
trên mộ tặng phong là: Quản Gia Đô Bác Thần Vương, mãi mãi sùng bái hương hoả.
Nhân việc đó, nhân dân các vùng ven sông lập đền thờ cúng, mỗi khi cầu đảo lại
thấy có linh thiêng ứng nghiệm.
Đến cuối
triều Trần, Hồ Quý Ly xây thành Tây Đô (nay là thành Tây Đô, huyện Vĩnh Lộc)
khi đang xây bỗng gặp một người hình mạo khôi ngô, mình mặc áo lụa mỏng, đầu
đội mũ đen đứng trước mặt vua Hồ nói rằng: Nay thiên hạ đã đại định, triều nhà
Trần vua uy đức không đủ toả sáng để cứu vớt sinh dân lầm than khổ cực. Nói
xong thì không thấy đâu nữa. Vua Hồ sợ hãi liền chiêu gọi dân trong thôn bản
hỏi rõ sự việc. Vua Hồ ban lệnh cho sửa chữa đền thờ, gia phong cho mỹ tự. Đến
triều Lê mở vận, thảo bình giặc Ngô, diệt trừ giặc Mạc lập nên triều Lê Trung
Hưng, thần đều âm phù trợ giúp rất nhiều, công tích nổi khắp trần gian, được
gia phong mỹ tự.
Sắc
phong cho dương thần (Trịnh Ra) có 12 đạo được ban hành vào các năm (nay đã bị
thất lạc), đó là:
Ngày 02 tháng
10 năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741);
Ngày 08 tháng
8 năm Cảnh Hưng thứ 28 (1767);
Ngày 24 tháng
3 năm Cảnh Hưng thứ 32 (1771);
Ngày 16 tháng
5 năm Cảnh Hưng thứ 44 (1783);
Ngày 16 tháng 6 năm Cảnh Hưng
thứ 44 (1783);
Ngày 26 tháng
7 năm Cảnh Hưng thứ 44 (1783);
Ngày 22 tháng
3 niên hiệu Chiêu Thống thứ 1 (1787);
Ngày 11 tháng giêng niên hiệu Tự Đức thứ 6
(1653);
Ngày 24 tháng
11 niên hiệu Tự Đức thứ 33 (1880);
Ngày 11 tháng
7 niên hiệu Đồng Khánh thứ 2 (1887);
Ngày 18 tháng
8 niên hiệu Duy Tân thứ 3 (1908);
Ngày 25 tháng 7 niên hiệu Khải Định thứ 9 (1924).
Nguồn: Trang thông tin điện tử xã Định Tân – Yên Định – Thanh Hoá
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét