“Núi Thạch Bi ở phường Mỹ Quan, thuộc huyện Tống Sơn (nay là phần đất xã Nga Thiện, huyện Nga Sơn - PV). Non liền bến nước, móng đá thuyền chui. Trên vách đá có một chữ “Thần” viết bằng nét son tươi thắm, tương truyền vua Lê Thánh Tông ngự đề chữ đó”.
Tác giả bài viết: Tiến sĩ LÊ NGỌC TẠO1
TÓM TẮT
Hệ thống đền thờ thần ở Thanh Hóa vốn là
chủ đề hấp dẫn không chỉ đối với giới nghiên cứu nghệ thuật mà còn đối với các
nhà sử học. Mỗi đền thờ, thông qua quá trình hình thành, tồn tại và phát triển,
đều có những “câu chuyện lịch sử”. Giá trị của hệ thống di tích đền thờ được
nhìn nhận dưới nhiều chiều khác nhau, nổi bật là giá trị văn hóa – nghệ thuật,
giá trị tâm linh và giá trị lịch sử. Trong công tác nghiên cứu lịch sử, nếu
biết đào sâu khai thác các thông tin gắn với di tích thì đây cũng là một nguồn
tài liệu đáng quý cho sử học.
Đặt vấn
đề
Trong tâm thức người Việt, nói đến đền thờ
là nói tới tín ngưỡng thờ một vị thần mang tính tâm linh thông qua một kiến
trúc vật chất có tên là ngôi đền được lưu truyền từ xưa và còn hiện diện trong
đời sống hôm nay. Trên thực tế tại Thanh Hóa, trong khi rất nhiều loại hình di
tích khác ít được hưng công tôn tạo, thậm chí bị xóa sổ theo thời gian và nhận
thức hạn chế của con người qua nhiều biến động thăng trầm của lịch sử, thì ngôi
đền vẫn được người dân chú trọng tôn tạo, gửi gắm, cầu mong những điều tốt
lành. Theo nguồn tài liệu hiện lưu trữ tại Trung tâm Bảo tồn di sản tỉnh Thanh
Hóa, tính đến tháng 7 năm 2017, cả tỉnh Thanh Hóa có 822 di tích đã được xếp
hạng, trong đó có 01 di sản thế giới, 03 di tích quốc gia đặc biệt, 141 di tích
quốc gia và 677 di tích cấp tỉnh. Trong tổng số 822 di tích đã nói có 245 ngôi
đền (không kể miếu, nghè, phủ… cũng có chức năng thờ thần) trong đó có 01 di
tích quốc gia đặc biệt và 30 di tích quốc gia. Như vậy, số lượng đền thờ được
nhân dân tôn vinh, Nhà nước công nhận đã chiếm gần 1/3 số lượng di tích lịch sử
và danh lam thắng cảnh trên địa bàn toàn tỉnh. Điều đó nói lên giá trị nhiều
mặt của đền thờ, đặc biệt là giá trị về tư liệu lịch sử.
Cùng với kết quả xếp loại đã được Nhà nước
công nhận, kết hợp với nhiều nguồn tư liệu khác nữa, chúng ta có một bức tranh
phác thảo rằng: Đền thờ ở Thanh Hóa được phân bố khắp nơi từ miền biển, đồng
bằng, trung du đến miền núi. Tuy nhiên, đậm đặc nhất là vùng đồng bằng ven biển
được chi phối bởi đặc trưng về cơ cấu kinh tế truyền thống, với nông nghiệp lúa
nước là trọng tâm. Bước đầu nghiên cứu hệ thống đền thờ ở Thanh Hóa chúng ta
nhận thức giá trị về tư liệu lịch sử của đền thờ biểu hiện như sau:
1.
Nơi nhận diện những vị thần được thờ tự
Khác với tôn giáo, tục thờ thần là tín
ngưỡng bản địa của người Việt đã có mặt từ lâu đời trước khi các tôn giáo du
nhập vào. Cùng với sự phát triển của xã hội, ban đầu ngôi đền chỉ là một địa
điểm cầu cúng giản đơn sau dần cần phải có một kiến trúc được hoàn chỉnh cho
phù hợp với một chỗ thờ cúng mang tính linh thiêng được dân gian gọi là nghè,
miếu, đền… Tùy theo tên gọi của mỗi địa phương, song phổ biến là đền thờ. Tín
ngưỡng thờ thần là một trạng thái tâm lý quan hệ đến các hiện tượng tự nhiên,
xã hội mà con người cảm thụ nhưng chưa được nhận thức đầy đủ. Đó là một dạng
tín ngưỡng nguyên thủy, thể hiện sự sợ hãi và kính trọng nhằm cầu mong cho cuộc
sống yên vui ở một xã hội phụ thuộc nhiều vào thế giới tự nhiên.
Các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng,
tín ngưỡng thờ thần gắn với ngôi đền của người Việt cũng như người Thanh Hóa là
đã có trước khi tục thờ thành hoàng cũng như kiến trúc đình làng ra đời. Theo
sách Trung Quốc thần bí văn hóa2 của Chu Lập Phương giải thích: Thành hoàng tức
Thành hào, hào có nước gọi là trì, không có nước gọi là hoàng, là vị thần bảo
vệ thành trì cho quốc gia, phủ, châu, huyện, xã trong một thành trì. Phan Kế
Bính trong sách Việt Nam phong tục cũng nói về tục thờ thành hoàng có nguồn gốc
từ bản địa kết hợp với việc du nhập từ Trung Hoa như sau: “Xét về cái tục thờ
thần hoàng này từ đời Tam quốc trở về đã có, nhưng ngày xưa thì nhà vua nhân có
việc cầu đảo gì mới thiết đàn cúng tế mà thôi… Nước ta thuở bấy giờ đang lúc
nội thuộc, tục Tàu truyền sang đến bên này, kể đến Đinh, Lê thì việc thờ quỷ
thần đã thịnh hành rồi. Nhưng xét cái chủ ý lúc trước, thì mỗi phương có danh
sơn, đại xuyên, triều đình lập miếu thờ thần sơn xuyên ấy để làm chủ tế cho
việc ấm tý một phương mà thôi. Kế sau triều đình tính biểu những bậc trung thần
nghĩa sĩ và những người có công lao cũng lập đền cho dân xã ở gần đâu thờ đấy…
tổng chi là dân ta tin rằng: đất có thổ công, sông có hà bá, cảnh thổ nào phải
có thành hoàng ấy, vậy phải thờ phục để thần ủng hộ cho dân, vì thế mỗi ngày
việc thần một tịnh”3. Cũng ở sách này, Phan Kế Bính căn cứ vào vị trí các thần
được ban sắc phân thành 3 loại:
Thượng đẳng thần là những thần danh sơn
đại xuyên và những bậc thiên thần như: Đổng Thiên Vương, Sóc Thiên Vương, Chữ
Đồng Tử, Liễu Hạnh công chúa, các vị ấy có sự tích linh dị mà không rõ tung
tích ẩn hiện thế nào cho nên gọi là Thiên thần. Hai là các vị nhân thần như Lý
Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo… các bậc ấy đều có sự tích, công trạng hiển hách và
họ tên rõ ràng, lịch triều có mỹ tự bao phong là Thượng đẳng thần.
Trung đẳng thần là những vị dân làng thờ
đã lâu, có họ tên mà không rõ ràng công trạng, hoặc có quan tước mà không rõ họ
tên, hoặc những thần có chút linh dị, tới khi nhà vua sai kỳ tinh đảo võ, cũng
có ứng nghiệm thì triều đình liệt vào tự điển mà phong làm Trung đẳng thần.
Hạ đẳng thần là những vị thần dân xã thờ
phụng mà không rõ sự tích ra sao, nhưng cũng thuộc về bực chính thần, thì triều
đình cũng theo lòng dân mà phong cho làm Hạ đẳng thần.
Sự xếp loại mang tính quy định ấy của
triều đình phong kiến được Phan Kế Bính chỉ ra, không ngoài tình hình chung của
Thanh Hóa khi chúng ta nghiên cứu về hệ thống đền thờ được bao bọc bên trong là
những vị thần vốn là linh hồn của một ngôi đền.
Với tư cách là những sử liệu, sự có mặt
của các vị thần được thờ ở Thanh Hóa giúp chúng ta hiểu khái quát về xã hội
Thanh Hóa qua các thời kỳ lịch sử. Ngoài những ngôi đền được Nhà nước công
nhận, một nguồn tư liệu hết sức quý giá được ghi chép về các vị thần thờ ở
Thanh Hóa phải kể đến cuốn Thanh Hóa chư
thần lục. Đây là cuốn sách được công bố vào ngày 15 tháng 10 năm Thành Thái thứ
15 (1903), được “phụng biên” tức biên soạn theo lệnh vua, một văn bản
nghiêm túc trong hệ thống “quan bản” của triều đình Huế, có lượng thông tin cao
và đáng tin cậy. Trong một nghiên cứu của mình, nhà nghiên cứu Lê Huy Trâm4 căn
cứ vào văn bản của Thanh Hóa chư thần lục đã phân chia các thần được thờ ở
Thanh Hóa thành hai loại:
– Nhất tính hạt phụng tự dương thần liệt
vị thần hiệu (tức nam thần) với 770 vị thần.
– Nhất tính hạt phụng tự âm vị liệt vị
thần vị (tức nữ thần) với 173 vị thần.
Căn cứ vào sách Thanh Hóa chư thần lục
(Bản dịch và phụ chú hiện lưu trữ tại Trung tâm Bảo tồn Di sản Thanh Hóa) chúng
ta biết cho đến khoảng đầu thế kỷ XX, toàn
tỉnh có 3.561 phủ, nghè, đền, miếu là cơ sở thờ tự 804 thần nam và 171 thần nữ.
Thông thường mỗi cơ sở thờ một vị thần nhưng cũng có nơi thờ nhiều thần. Việc
phân bậc nam thần hay nữ thần là mang tính tương đối vì có những loại thần
không thể phân biệt như: thần sấm, thần sông do đó đây là hạn chế của sách
Thanh Hóa chư thần lục trong cách phân loại. Theo chúng tôi, các đền thờ ở
Thanh Hóa chỉ thờ hai loại thần: nhiên thần và nhân thần, tiêu biểu là:
Nhiên thần gồm:
Thần
núi: Thờ Cao sơn tôn thần, Thái sơn tôn thần;
Thần
sông: Long vương tôn thần, Long uyên tôn thân,…
thần
sấm: Thiên hóa lôi công, Thiên lôi linh ứng;
Thần
biển: Đông hải tôn thần, Áp lãng chân nhân tôn thần;
Thần
mây: Đông phương linh ứng tôn thần;
Thiên
thần: Đại càn quốc gia Nam Hải, Thượng ngàn sơn tinh công chúa tôn thần,…
Nhân
thần chiếm số lượng chủ yếu trong các vị thần được thờ ở hệ thống đền thờ ở
Thanh Hóa. Đó là các bộ tướng của Hùng Vương như Phan Tây Nhạc tôn thần,
Hưng Đạo Vương tôn thần, Mục uyển vũ dũng tôn thần (Lý Thường Kiệt), Kim ngô
long hổ thượng tướng quân (Trần Khát Chân), Khương Công Phụ tôn thần,… các thần
là Hoàng đế như Lê Đại Hành hoàng đế, Đinh Tiên Hoàng đế miếu, Lê Thái Tổ Hoàng
đế,… Thần là các nghệ nhân như Thanh Xà trợ thuận tôn thần (Lê Phong – ca hát),
Khổng Minh Không tôn thần (tổ sư nghề đúc đồng), tổ sư nghề dệt săm xúc (Bà
Triều),… Một số đền thờ thần ở Thanh Hóa còn thờ cả những thần nước ngoài như:
Chiêm quốc hoàng phi tôn thần (vợ vua Chiêm Thành), Mãn Đường hoa công chúa tôn
thần (con gái Hán vũ đế)…
Như vậy, qua các đền thờ ở Thanh Hóa, về
mặt sử liệu, ta có thể hiểu được một cách khái quát diện mạo của các vị thần ở
Thanh Hóa. Đó là bức tranh về xã hội Việt Nam nói chung, Thanh Hóa nói riêng
trong thời phong kiến. Từ những hiện tượng tự nhiên đến các nhân vật truyền
thuyết, huyền thoại, dã sử, đến các nhân vật lịch sử có công với đất nước, mang
lại sự bình yên cho con người đều được tôn vinh, thờ phụng qua nhiều thế hệ,
được nhà nước thừa nhận, nhân dân ghi nhớ.
2.
Nơi lưu giữ những thần tích, thần phả, những nguồn sử liệu quý giá
Thần tích ở Thanh Hóa chủ yếu được viết
dưới thời Lê Trung Hưng, vào mùa xuân niên hiệu Hồng Phúc thứ 1 (1572) đời vua
Lê Anh Tông. Người soạn là Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính. Đến
mùa đông niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 3 (1737) đời vua Lê Ý Tông, Quản giám Bách thần
Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh Nguyễn Hiền tuân sao theo nguyên bản chính. Cũng
có những bản được đời sau căn cứ vào bản gốc sao lại như Thần tích thần Bảo Hựu
(Đồng Cổ) ở Mỹ Đà, xã Hoằng Minh được sao lại đời vua Duy Tân. Thần tích Khuông
quốc Đô thống Lê Phụng Hiểu ở xã Hoằng Sơn, huyện Hoằng Hóa, ngoài việc ghi
chép ban phong mỹ tự theo bản gốc, người sao chép còn ghi bổ sung thêm các mỹ
tự được ban dưới triều Nguyễn và tổng hợp những nơi thờ thần,… Nội dung thần
tích ghi chép lại sự tích, lịch sử, công lao hành trạng các nhân vật ở địa
phương, vùng miền. Đôi khi là những giai thoại, chuyện kể, lời đồn có liên quan
đến địa phương qua những hình ảnh, hành vi đã được mọi người truyền tụng mang
tính cách siêu nhiên, thần bí, tô điểm cho sự siêu phàm của nhân vật được nhắc
tới.
Chúng ta biết, hơn 900 vị thần được thờ ở
Thanh Hóa ghi chép trong Thanh Hóa chư
thần lục chỉ có 229 vị được ghi thần
tích. Số còn lại chưa cung cấp cho chúng ta đầy đủ những thông tin cần
biết. Nhiều vị thần không có thần tích, lý lịch cụ thể về công trạng của thần
khiến cho các nhà nghiên cứu phải lần mò tìm kiếm. Điều này cũng dễ hiểu, lẽ
đương nhiên mỗi vị thần đều có thần tích riêng về hành trạng, công tích, song
triều đình chỉ quan tâm đến các vị thần có tầm bao quát, có tầm ảnh hưởng sâu
sắc trong đời sống tâm linh của nhân dân, được các chức sắc trong làng xã tấu
trình. Song, nhân dân có cách giải thích riêng, đều khoác lên thần những mỹ tự
cao quý theo ước vọng của mình. Ngoại trừ những sắc phong do triều đình ban
tặng, nhiều ngôi đền được dân tôn vinh là Thượng đẳng thần hoặc Thượng thượng
đẳng thần nhằm đề cao vị thần mà cộng đồng mình đang thờ tự.
Trong các thần tích hiện còn lưu giữ tại
các ngôi đền ở Thanh Hóa, chủ yếu mang nội dung: giúp dân yên vui, giúp vua
đánh giặc quán xuyến toàn bộ công trạng của thần ở bất cứ góc độ nào. Qua thần
tích, chúng ta thấy được vai trò của các thần trong một giai đoạn lịch sử nhất
định. Ví dụ, trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở đầu Công nguyên, có sự tham
gia đông đảo của nhân dân nhiều vùng đất nước, có nữ tướng Lê Thị Hoa (Từ Thiện
phu nhân) công trạng của Bà được lập đền thờ ở Nga Sơn. Quản gia Đô Bác Đại
Vương Trịnh Gia, biết thương người nghèo đói đem lại của cải cho nhân dân trong
vùng được 72 nơi thờ. Thần tích về Cao sơn tôn thần có tới 441 nơi thờ. Theo
các tác giả sách Các vị thờ thần ở xứ Thanh, thì đây là một trường hợp khá đặc
biệt mà người ta dễ nhầm lẫn. Có rất nhiều thần Cao sơn như Cao Sơn là một thầy
thuốc, Cao Sơn là con của Lạc Long Quân, Cao Sơn Đại Vương (Dương Tự Minh) được
tiên trao cho áo tàng hình giúp vua đánh Tống5. Lại có Cao Sơn tôn thần là Cao
Hiển tự Vân Trường, quận Quảng Nam nước Đại Minh, thi đậu Tiến sĩ, làm quan đến
chức Thừa tướng, có công tuần tiễn ở Nam Man, khi mất được lập đền thờ;
Đến thời kỳ xây dựng nhà nước phong kiến
độc lập, các thần cả nhiên thần và nhân thần, số lượng thần tích khá nhiều.
Tiêu biểu phải kể đến thần tích Đồng cổ Đại Vương ở Yên Thọ (Yên Định), Bảo
hiệu tôn thần (Thần Đồng cổ ở Hoằng Minh, Hoằng Hóa), Độc cước siêu dũng (thần
Độc Cước ở Hoằng Kim, Hoằng Hóa). Hàng loạt các thần tích nhân thần khác như
Nguyễn Tuyên ở Hoằng Lộc, Lê Phụng Hiểu ở Hoằng Sơn, Chu Minh-Chu Tuấn ở Hoằng
Hóa, Hoàng Tá Thốn ở Yên Định, Đỗ Tương ở Tĩnh Gia,…
Nhìn chung, nguồn tư liệu thần tích hiện
còn ở các đền thờ Thanh Hóa phản ánh khá đa dạng đời sống tâm linh của người
dân qua các triều đại. Thần tích ở đây đều có cốt lõi của lịch sử là nguồn tư
liệu quý giá bổ sung cho chính sử.
So với thần tích, thần sắc ở các đền thờ
Thanh Hóa phong phú vì đây là những sắc chỉ của triều đình ban phong, có sự lựa
chọn chặt chẽ. Thực chất đây là những văn bản của Nhà nước khen thưởng cho những
nhân vật có đóng góp cho địa phương đất nước. Ở các đền thờ thần tại Thanh Hóa
các sắc phong đều được lưu giữ cẩn thận, bảo quản như một tài sản vô giá của
địa phương, dòng họ, là niềm tự hào chân chính mà mọi người phải có trách nhiệm
giữ gìn. Theo nghiên cứu của các tác giả Thần tích – Thần sắc Thanh Hóa (tập 1)
thì đạo sắc cổ nhất hiện còn là đạo sắc của vua Lê Thánh Tông niên hiệu Hồng
Đức (1460 – 1497) ban cho con cháu dòng họ Lê Lai được lưu giữ tại đền thờ Lê
Lai ở Hoằng Hải, Hoằng Hóa. Sắc phong thời Lê Trung Hưng xuất hiện nhiều nhất
vào niên hiệu Cảnh Hưng thứ 44 (1783) đời vua Hiển Tông. Đặc biệt, dưới triều
Nguyễn, số lượng sắc phong tại các đền thờ hết sức phong phú đa đạng gắn với
kiến trúc đền thờ ở thời kỳ này. Có vị thần được ban rất nhiều đạo sắc có tới 7
đạo như Đông Hải Đại Vương ở Bái Nại, Nga Sơn…
Như vậy, nếu như thần tích là những tư
liệu lịch sử ghi chép về lai lịch các vị thần được thờ thì sắc phong là những
văn bản hành chính của Nhà nước công nhận vị trí của thần đối với dân, với
nước, có ý nghĩa sâu sắc bổ sung chính sử khi biên soạn về một nhân vật lịch
sử.
3.
Nơi gìn giữ những tấm bia, nguồn sử liệu quan trọng bậc nhất
Bia ký là một thể loại ghi văn tự dưới
dạng một biểu tượng văn hóa, nhiều dân tộc trên thế giới sử dụng bia ký khắc
ghi văn tự, hình vẽ trên chất liệu đá, kim loại, đất nung… Bia ký ở Thanh Hóa
có số lượng lớn, tập trung ở thế kỷ XV – XVIII. Nhiều bia ký to lớn về kích
thước, đa dạng về hình thức bố cục, trang trí và phong phú về nội dung. Cũng như
đình, chùa, các đền thờ đều được dựng bia tuy số lượng không nhiều nhưng hàm
chứa nguồn sử liệu vô cùng quý giá, giúp cho chúng ta hiểu biết rõ hơn nhân vật
và xã hội đã qua.
Thông qua bia ký ở Thanh Hóa cho chúng ta
biết một khuynh hướng khích lệ phát triển kinh tế thương mại, phát triển giao
thông, làm đường, làm cầu, làm chợ diễn ra khá nhộn nhịp, những điều này đã
được tư liệu hóa thông qua thông tin trên bia ký. Các bia như Tướng Công thọ bi
dựng năm Vĩnh Tộ thứ 4 (1626) ở đền thờ Tạ Tôn Đài huyện Hậu Lộc là một ví dụ.
Ngoài việc phản ánh một cách sinh động
lịch sử, kinh tế, xã hội xứ Thanh, còn có các bia ghi công đức khai sáng dựng
nghiệp của các vua chúa cho đến quan lại, công thần, tướng lĩnh: bia Vĩnh Lăng
ghi công nghiệp Lê Lợi ở Xuân Lam, Thọ Xuân; 02 bia Lê Đại Hành hoàng đế điện
miếu bi và Lê Đại Hành hoàng đế điền điện chí ở đền thờ Lê Hoàn (Xuân Lập, Thọ
Xuân); bia ghi chép về tướng tá, công thần như Nguyễn Chích (bia Quốc triều tá
mệnh công thần chi bi ở Đông Lĩnh, Đông Sơn), Lê Lệnh công sự nghiệp bi ở Thọ
Phú, Triệu Sơn; Sinh từ bi ký ở đền thờ Mãn Quận Công (Đông Tân, Đông Sơn); bia
đền thờ Nguyễn Văn Nghi (Đông Thanh, Đông Sơn),…
Cũng thông qua các thông tin trên bia ký,
người ta còn biết đến việc các vua, chúa thường lấy đất công ban tặng làm lộc
điền và đất thờ tự cho các công thần.
Trong hệ thống đền thờ Thanh Hóa còn lưu
giữ tấm bia Đại Tùy Cửu Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn6 dựng năm 618 tại
đền thờ Lê Ngọc xã Đông Ninh huyện Đông Sơn hiện lưu giữ ở Bảo tàng Lịch sử
Quốc gia giúp chúng ta nhiều tư liệu quý giá. Sự tích về Lê Cốc (tức Lê Ngọc)
không được chép trong chính sử nhưng căn cứ vào ghi chép ở văn bia, nhà sử học
Đào Duy Anh khẳng định đây là nhân vật lịch sử gắn liền với một thời kỳ lịch sử
có quá nhiều biến động ở thời Tùy Đường. Văn bia cho biết Lê Cốc tự là Ngọc,
thời Tùy được bổ làm Tuyên Úy tướng quân Thái Thú Nhật Nam sang thời Tùy Đại
Nghiệp được bổ làm Thái Thú Cửu Chân đã cùng các hào trưởng địa phương nổi lên
hùng cứ một phương. ng đã cùng các con tham gia chống nhà Đường trong đó có
Tham Xung tá quốc hy sinh trong chiến đấu được nhân dân tôn vinh là đức Thánh
Lưỡng, lập đền thờ nhiều nơi ở Đông Sơn, Triệu Sơn, Nông Công. Lê Cốc được xem
là người có công đánh giặc và là Phúc thần của nhiều làng.
Đối với Lý Thường Kiệt, một vị anh hùng
dân tộc đã được nhiều công trình biên khảo của các sử gia phong kiến cũng như
hiện đại đánh giá, ngợi ca. Nhưng qua văn bia do Nhữ Bá Sĩ biên soạn cho dựng
vào năm Tự Đức thứ 13 (1860) tại đền thờ Lý Thường Kiệt ở xã Hà Ngọc, huyện Hà
Trung chúng ta biết rõ hơn đóng góp của ông với quê hương Thanh Hóa. Sau khi
tổng kết đóng góp của người anh hùng dân tộc, văn bia có đoạn: “Trộm nghĩ nói
sự tích Thái úy có thể so với tài cao của Tử Trường, công lớn của Tôn Vũ Bộ,
Liên Hoàng Thát là những bậc khác thường người đời cũng không ngoa lắm”.
Tại đền thờ Lê Hoàn xã Xuân Lập huyện Thọ
Xuân có bia Sáng lập Lê Đại Hành hoàng đế đại miếu bi minh tự dựng năm 1926 do
Thượng thư Nguyễn Thực soạn văn bia. Nội dung cho biết bà Đặng Thị mộng hoa sen
sinh ra Lê Hoàn, biên giải việc lên ngôi vua cũng như những chiến công của ông
trong sự nghiệp kháng Tống bình Chiêm. Cũng tại đền thờ này còn có tấm bia dựng
vào triều Lê Kính Tông (1600 – 1619). Nội dung văn bia nêu rõ những người hưng
công xây đền có đến hàng trăm. Đây là tấm bia hậu điển hình về vị trí ngôi đền
trong đời sống người dân và sự ngưỡng mộ của nhiều thế hệ đối với người anh
hùng cứu nước,…
Như vậy, cùng với sự hiện diện của các vị
thần linh, thần tích, thần sắc, bi ký mà trong bài viết này chưa thể chuyển tải
hết được, đã cho thấy hệ thống đền thờ ở Thanh Hóa thực sự là kho tàng tư liệu
quý giá đối với lịch sử dân tộc luôn cần tìm biết, khai thác. __________
Chú thích:
1. Phó Chủ tịch Thường trực Hội Khoa học Lịch sử Thanh Hóa;
2. Dẫn theo Nguyễn Văn Hải, Thần tích thần sắc Thanh Hóa, tập
I, Nxb Thanh Hóa, 2015, tr.10.
3. Phan Kế Bính (2003), Việt Nam phong tục, Nxb Văn hóa Thông
tin, tr.110.
4. Lê Huy Trâm (2003), Nhìn lại cuốn Thanh Hóa chư thần lục,
trong Thanh Hóa thời kỳ 1802 – 1930 (Kỷ yếu Hội thảo khoa học), Nxb Thanh Hóa,
tr.347.
5. Lê Xuân Kỳ, Hoàng Hùng, Thích Tâm Minh (2008), Các vị thần
ở xứ Thanh, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.9.
6. Đào Duy Anh, Cái bia cổ ở Trường Xuân với vấn đề nhà Tiền
Lý, Nghiên cứu Lịch sử số 50 (5/1963, tr. 22 – 28)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Thanh Hóa chư thần lục, Thư viện Khoa
học Tổng hợp Thanh Hóa.
[2]. Quốc Chấn (2007), Những thắng tích
của xứ Thanh, Nxb Thanh Hóa.
[3]. Vũ Tam Lang (2008), Kiến trúc cổ Việt
Nam, Nxb Xây dựng.
[4]. Trần Lâm Biền (2008), Diễn biến kiến
trúc truyền thống Việt vùng đồng bằng sông Hồng, Nxb Văn hóa Thông tin.
[5]. Nguyễn Sỹ Quế, Nguyễn Văn Đỉnh,
Nguyễn Hồng Hương (2010), Lịch sử kiến trúc truyền thống Việt Nam, Nxb Khoa học
và Kỹ thuật.
Nguồn:
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Văn hóa,
Thể thao
và Du lịch Thanh Hóa, ISSN 2588 – 1264, Số 01 (02), T1/2018
Ban Tu
Thư (thanhdiavietnamhoc.com)
Download
file (PDF): Đền thờ thần ở Thanh Hóa nơi lưu giữ những giá trị về tư liệu lịch
sử
(Tác
giả: TS. Lê Ngọc Tạo)
Thực chất và rất có thể là Cao Sơn tôn thần là
Cao Biền được vua Đường sai sang Vùng Tả ngạn sông Mã dẹp giặc Nam Chiếu..nhưng
chưa được ghi trong thần tích Chư Thần Lục; Còn tích Cao Hiển tự Vân Trường,
quận Quảng Nam nước Đại Minh, thi đậu Tiến sĩ, làm quan đến chức Thừa tướng, có
công tuần tiễn ở Nam Man, khi mất được lập đền thờ có vẻ như không trùng khớp
với lịch sử Việt Nam…. các sử gia nên xem lại thần tích này;
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét