SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 83
Vừng mặt
trời mùa thu chạy vòng trên khoảng trời đầy những đám mây trắng nhăn nheo như
sóng gợn, chênh chếch bên cạnh thôn Tatarsky. Trên ấy, trên khoảng không cao
tít, gió chỉ hiu hiu, đủ xua nhẹ những đám mây bập bềnh trôi về phía tây, nhưng
dưới nầy, trên làn nước sông Đông màu xanh lá cây sẫm sịt phẳng như một dải
đồng bằng, trên những khu rừng đã rụng hết lá, gió lại thổi ào ào từng trận rất
mạnh, uốn rạp những ngọn liễu và tiêu huyền, xới tung mặt sông Đông, đuổi những
đàn lá hung hung chạy dọc theo các phố. Trong sân đập lúa nhà Khristonhia có
đống rơm lúa mì trên đỉnh đánh không cẩn thận lờm xờm như cái đầu bù. Một trận
gió xoắn đến, bới một lỗ trên đỉnh đống rơm, lật đổ cái cào mảnh dẻ rồi bất
thình lình vơ lấy một ôm rơm vàng óng, như có người cầm chàng nạng xốc lên, rồi
bê rơm qua sân, cuốn ra phố, rắc một cách hào phóng xuống con đường vắng tanh
và vắng ngắt, còn lại một nắm bù xù lại quăng nốt lên mái nhà Stepan Astakhov.
Mụ vợ Khristonhia đầu tóc rũ rượi chạy bổ ra sân gia súc. Mụ kẹp hai đầu gối
giữ váy, giương mắt nhìn cơn gió hoành hành trong sân đập lúa, rồi lại đi vào
phòng ngoài.
Chiến
tranh đã kéo dài đến năm thứ ba. Điều đó đã ảnh hưởng rất nhiều đến công việc
làm ăn trong thôn. Trong các nhà không còn có đàn ông ở lại nữa, các nhà kho
đều xơ xác, trống huếch trống hoác, sân gia súc nứt nẻ tiêu điều, cảnh tang
thương để lại những dấu vết chẳng đẹp mắt chút nào. Mụ vợ Khristonhia phải quán
xuyến mọi công việc trong nhà cùng với thằng con mới lên chín. Mụ vợ của gã
Anikey thì hoàn toàn chẳng lo gì đến công ăn việc làm, và trong tình cảnh vợ
lính vắng chồng, mụ chỉ ra sức chăm nom cái mã của mình: mụ tô son trát phấn,
và thiếu bọn Cô- dắc đã trưởng thành thì mụ nhận những thằng nhãi ranh mười bốn
mười lăm. Chứng cứ hùng hồn của những chuyện như thế là hai cái cánh cổng bằng
ván ghép trước kia đã bị bôi bê bết nhựa chưng, đến nay vẫn còn giữ những vết
nâu xịt như những lời tố cáo 1. Căn nhà của Stepan Astakhov thì chẳng còn ma
nào ở. Trước khi ra đi, chủ nhà đã dùng ván bịt kín các cửa sổ. Mái nhà sụt vài
chỗ, ngưu bàng mọc đầy sân, khoá cửa đã rỉ hoen, và sau cái cổng sân nuôi gia
súc mở toang, cỏ dại và tàn lê đã lên um tùm, không còn lối nào mà đi nữa,
nhưng bất cứ lúc nào những con bò hay ngựa thả rong cũng có thể vào kiếm chỗ
tránh nắng hay mưa gió. Tường nhà Tomilin Ivan thì nghiêng ra phố, chỉ có cái
cọc có chạc chống cho nó khỏi đổ. Có lẽ định mệnh đã thay mặt những ngôi nhà ở
Đức hay ở Nga bị bắn phá huỷ, trả thù tên lính pháo binh ngang tàng điều khiển
bộ phận nhằm của pháo.
Khắp
thôn trong tất cả các phố các ngõ cũng đều như thế. Chỉ cuối phần dưới thôn mới
còn một cơ ngơi nom ra hồn là nhà ông Panteley Prokofievich: tất cả đều đầy đủ,
nguyên vẹn. Tuy vậy cũng không hoàn toàn tất cả. Trên mái nhà thóc, những con
gà trống bằng sắt tây làm quá lâu năm đã rơi đâu mất, nhà thóc cũng hơi xiêu,
một cặp mắt tinh đời vẫn có thể nhìn thấy vài chỗ còn chưa chu đáo trong công
việc làm ăn. Hai bàn tay ông già làm thế nào hết mọi việc, đến thóc gieo cũng
phải ít hơn. Còn các mặt khác thì chẳng có gì đáng nói - Nhưng chỉ có một điều
là số người trong nhà Melekhov đã không giảm bớt: thay cho Petro và Grigori
đang ruồi rong trên các mặt trận, đầu mùa thu năm ngoái.
Natalia
đã đẻ sinh đôi. Nàng đã khéo làm vừa lòng bố mẹ chồng, sinh liền một trai một
gái. Natalia đã chịu đựng thời kỳ thai nghén một cách rất đau đớn, có khi mấy
ngày liền không thể đi đâu được vì hai chân đau nhức nhối. Nàng phải lê chân đi
từng bước, nhưng vẫn chịu đựng mọi sự đau đớn một cách rất cứng cỏi, không bao
giờ để lộ chút gì trên khuôn mặt ngăm ngăm, gày gò, tràn trề hạnh phúc. Chỉ
những phút chân bị chuột rút quá đau, mới thấy hai bên thái dương nàng đổ ra
những giọt mồ hôi lóng lánh như hạt cườm, và khi nhìn thấy thế bà Ilinhitna mới
đoán ra. Bà lắc đầu, mắng con dâu:
- Có vào
nằm đi không, con bé chết tiệt nầy! Sao mày cứ tự làm khổ mình như thế hả con?
Một ngày
tháng chín đẹp trời, Natalia cảm thấy mình sắp sinh nở đến nơi, bèn ra phố.
- Mày đi
đâu thế con? - Bà mẹ chồng hỏi.
- Con ra
bãi cỏ hoang bên sông. Xem mấy con bò cái như thế nào?
Natalia
vội vã đi ra ngoài thôn, vừa đi vừa lấm lét nhìn quanh.
Nàng rền
rỉ, hai tay ôm chặt lấy phía dưới bụng, lần vào một đám mận gai rất rậm và nằm
xuống. Mãi đến lúc trời đã tối, nang mới vòng sau nhà lần về, trong tay hai đứa
trè sinh đôi bọc bằng một chiếc lạp dê vài thô.
- Con
yêu của mẹ! Con bé chết tiệt nầy! Sao con lại làm như thế? Lúc nãy mày đi đâu
thế hử? - Bà Ilinhitna nói rất to.
- Con
ngượng quá phải ra ngoài kia… Có cha ở nhà con không dám… Bây giờ con sạch rồi,
mẹ ạ con cũng tắm cho hai cháu rồi đấy. Mẹ bế lấy hai cháu nầy… - Natalia chống
chế, mặt nhợt nhạt.
Đunhiska
chạy bổ đi tìm bà mụ. Daria thì cuống quít đi lót một cái sàng. Nhưng bà
Ilinhitna vội kêu lên, mặt cười không ra cười, mếu không ra mếu.
-
Đaskca? Có quẳng cái sàng ấy đi không? Có phải con chó con mèo đâu mà cho chúng
nó nằm trong cái sàng? Lạy Chúa tôi, hai đứa như thế nầy! Chao ôi, lạy Chúa
tôi, sinh liền hai đứa một lúc! Nataliuska… Nhưng đưa nó vào giường mà nằm chứ?
Ông
Panteley Prokofievich đang ở ngoài sân nuôi gia súc nghe nói con dâu đẻ sinh
đôi, đầu tiên chỉ khoát rộng tay một cái, nhưng sau ông sướng quá, rã bù bộ
râu, oà lên khóc. Rồi ông tự nhiên vô duyên vô cớ quát rầm lên với bà mụ đang
hộc tốc chạy đến.
- Mụ chỉ
được cái nói láo, mụ thật là đồ ngu xuẩn! - Ông vung trước mũi bà già một ngón
tay móng dài nghêu - Mụ chỉ nói láo? Dòng giống nhà Melekhov nầy không tuyệt tự
ngay được đâu? Con dâu lão vừa tặng cho lão một thằng Cô- dắc và một đứa cháu
gái đấy.
Con dâu
ra con dâu, thế mới là con dâu chứ? Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi! Chà, con dâu
yêu con dâu quý của cha, tình nghĩa mày như thế cha biết lấy gì báo đáp bây
giờ?
Năm ấy
cái gì cũng sinh sôi nảy nở: con bò cái đẻ sinh đôi, trước lễ thánh Misen, mấy
con cừu cũng đẻ sinh đôi, và cả những con dê…
Ông
Panteley Prokofievich thấy thế lạ quá, bụng bảo dạ: "Năm nay quả là một
năm may mắn, một năm phát tài phát lộc! Cái gì cũng sinh đôi cả. Bây giờ thì
nhà mình đã đến lúc sinh sôi nảy nở rồi… à hà hà!".
Natalia
cho con bú đến đầy tuổi thôi. Đến tháng chín thì nàng cho chúng nó cai sữa,
nhưng đến cuối thu vẫn chưa lại người. Hai hàm rãng nàng lấp loáng mầu sữa trên
khuôn mặt gầy rộc, cặp mắt ấm áp sáng bừng có vẻ quá mênh mông đối với những
nét hốc hác trên mặt. Natalia dốc toàn bộ cuộc sống của nàng vào hai con bắt
đầu sao nhãng, khòng chăm chút cho mình nữa. Ngoài các công việc làm lụng trong
nhà hễ được lúc nào rỗi là nàng lại quẩn quanh với hai đứa: hết tắm rửa giặt
giũ lại đan lát vá may, chốc chốc lại bế hai đứa bé sinh đôi trong nôi ra, ghé
ngồi nghiêng nghiêng vào giường, thõng một chân ra ngoài, hất vai cho tuột cái
áo lót rộng thùng thình để lộ cặp vú to tướng, trắng trắng vàng vàng, căng mọng
như hai quả dưa bở, cho cả hai đứa bé cùng bú một lúc.
- Hai
đứa bú rộc người mày mất con ạ! Mày hay cho nó bú quá đấy. Bà Ilinhitna nói
xong lại phát vào đùi hai cháu, hai cặp chân bụ đến hằn ngấn lên.
- Cứ cho
chúng nó bú đi! Đừng tiếc sữa làm gì! Sữa mày thừa cũng chẳng làm phó mát được
đâu! - Ông Panteley Prokofievich chỉ nghĩ đến hai cháu cũng nói xen vào bằng
một giọng thô lỗ.
Mấy năm
ấy, cuộc sống cứ co hẹp dần như sông Đông sau mùa nước lũ. Những ngày sầu thảm
ngao ngắn thay nhau trôi qua lúc nào không biết với những sự việc chạy ngược
chạy xuôi không lúc nào ngớt, với công việc lao động, với cảnh thiếu thốn, với
những niềm vui mỏng manh và nỗi lo lắng khủng khiếp luôn luôn canh cánh bên
lòng về những người đang ruổị rong ngoài mặt trận. Năm thì mười hoạ Petro và
Grigori mới gửi từ đơn vị chiến đấu về một bức thư phong bì nhớp nhúa, dấu bưu
điện đóng nhằng nhịt. Bức thư gần đây nhất của Grigori đúng là đã qua tay một
người nào xem trước; nửa trang bị bôi kín bằng mực tím và ở bên lề tờ giấy xám
xám đánh một cái dấu bằng mực không hiểu ý nghĩa như thế nào. Petro viết thư về
nhiều hơn Grigori. Trong những bức thư gửi cho Daria, anh chàng luôn luôn đe
doạ, van xin Daria bỏ cái thói trăng hoa đĩ thoã. Xem ra lời ong tiếng ve về
lốỉ sóng tằng tịu bừa bãi của vợ đã đến tai Petro. Cùng với những bức thư,
Grigori có gửi tiền về nhà; đó là tiền lương và phụ cấp huân chương của chàng.
Chàng có hứa đến khi nào nghỉ phép sẽ về nhà nhưng mãi chẳng thấy bóng vía đâu
cả. Con đường công danh của hai anh em đã đi theo hai hướng, khác hẳn nhau.
Chiến tranh đã dúi cho Grigori còng lưng xuống, hút hết vẻ hồng hào trên mặt
chàng, nhuộm mặt chàng bằng màu mật đắng và chàng không mong chờ được đến ngày
chấm dứt chiến tranh. Còn Petro thì thăng quan tiến chức rất nhanh chóng, trơn
tru. Mùa thu năm một nghìn chín trăm mười sáu, anh chàng được đề bạt phó quản,
và nhờ liếm gót viên đại đội trưởng, đã kiếm chác được hai tấm huân chương.
Trong thư anh chàng có viết là đang cày cục đế được cử đi học trường sĩ quan.
Mùa hè năm ấy Anikey được nghỉ phép: Petro có gửi về nhà một chiếc mũ sắt của quân
Đức, một cái áo ca- pôt và một tấm ảnh. Trên miếng giấy cứng mầu xám, mặt anh
chàng nom già đi, nhưng dương dương tự đắc với bộ ria trắng trắng xoắn ngược.
Dưới cái mũi củ hành, một nụ cười quen thuộc làm nhe những cái răng giữa cặp
môi cứng rắn. Chính cuộc đời đã tạo điều kiện thuận lợi cho Petro, còn chiến
tranh đã làm Petro sung sướng vì chiến tranh đã mở ra trước mặt Petro một tiền
đồ tươi đẹp lạ lùng: một gã Cô- dắc tầm thường như anh, hồi nhỏ chuyên xoắn
đuôi bò để nghịch thì làm thế nào dám mơ ước len chân vào giới sĩ quan và sống
một cuộc đời vinh hoa phú quý khác hẳn. Cuộc đời Petro chỉ có một khía cạnh đen
tối; trong thôn đang có những lời dị nghị chẳng tốt đẹp gì về vợ anh chàng.
Mùa thu
năm ấy Stepan Astakhov được nghỉ phép. Sau khi trở về trung đoàn, anh ta đi rêu
rao với toàn đại đội rằng mình đã được hú hí thoải mái với ả "gian- méc-
ca" 2 của Petro. Khi nghe các bạn kể lại chuyện ấy, Petro không tin. Anh
chàng sầm mặt, mỉm cười và nói:
- Thằng
Stepan nói láo đấy! Nó bôi nhọ mình để trả thù về chuyện thằng Grigori đấy
thôi.
Nhưng
một hôm, Stepan chui trong một căn hầm khoét bên cạnh chiến hào ra, không biết
vô tình hay cố ý đánh rơi một chiếc khăn thêu. Petro đi sau nhặt lên chiếc khăn
đăng- ten thêu rất khéo và nhận ra trên đó là đường kim của vợ. Thế là mối thù
giữa Petro và Stepan càng thắt chặt thêm như một cái nút của dân Kalmys.
Petro
chỉ chờ có cơ hội là trả thù. Thần chết rình Stepan: chưa biết chừng Stepan sẽ
nằm lại trên bờ sông Tây Đanúp với vết một viên đại của Petro trên sọ. Nhưng
chẳng bao lâu đã xảy ra chuyện Stepan bị phái đi chộp một vọng tiêu của quân
Đức rồi không trở về nữa. Mấy gã Cô- dắc cùng đi chuyến ấy với Petro kể lại
rằng có lẽ tên lính gác của quân Đức nghe thấy tiếng cắt hàng rào dây thép gai
nên đã ném ra một trái lựu đạn. Tốp Cô- dắc đã kịp xông tới trước mặt nó,
Stepan đấm cho tên lính gác Đức một quả làm nó gục xuống, nhưng tên gác thứ hai
nổ súng, thế là Stepan cũng ngã theo. Bọn Cô- dắc đâm chết tên gác thứ hai và
lôi tên gác thứ nhất đi, thằng cha ăn một trái đấm nặng như búa tạ của Stepan
vẫn còn mê man bất tỉnh. Chúng đã xốc Stepan lên, định đưa cả về, nhưng gã Cô-
dắc nầy nặng quá, nên chúng đành bỏ lại. Stepan bị thương cố van: "Anh em
ơi? Đừng bỏ mình chết ở đây? Anh em ơi? Sao anh em lại bỏ tôi thế nầy?"
Nhưng giữa lúc ấy một luồng đạn súng máy đã tuôn ra dọc theo dây hàng rào dây
thép gai, thế là tốp Cô- dắc bò đi.
"Các
bạn cùng trấn ơi? Anh em ơi!" - Stepan cố gọi với theo, nhưng trong lúc đó
thì còn làm thế nào được nữa, anh nào cũng lo cho cái thân xác của mình trước
đã. Sau khi được biết những điều xảy ra với Stepan, Petro cảm thấy nhẹ nhõm cả
người, thật chẳng khác gì chỗ bong gân đang nhức nhối lại có mật gấu bôi vào.
Nhưng dù sao anh chàng cũng quyết dịnh. "Tao về nghỉ phép phen nầy sẽ chọc
tiết con Đaska! Tao không phải là thằng Stepan, không để cho làm như thế được
đâu…" Anh chàng đã rắp tâm giết vợ nhưng lại lập tức xua đuôi ngay ý nghl
ấy: "Giết con rắn độc ấy đi thì cũng phải, nhưng cả cuộc đời mình vì nó mà
tan nát mất. Rồi sẽ là mọt xương trong tù, bao nhiêu công lao vất vả sẽ đi đời
nhà ma hết, trơ thân cụ ra thôi…". Vì thế anh chàng chỉ quyết nện cho vợ
một trận, nhưng phải là một trận bò lê bò càng, cho kệch đến già không còn dám
ngo ngoe gì nữa. "Con rắn độc ấy mình phải móc mắt nó ra mới xong, lúc ấy
thì quỷ quái nào vời đến nó nữa". Petro đã suy tính như thế trong khi ngồi
dưới đường chiến hào đào ngay gần khoảng bờ đất sét rất dốc của sông Tây Dvina.
Tất cả
các loại cỏ cây đều bị mùa thu làm cho héo nát, đều cháy vàng vì sương muối ban
mai, mặt đất ngày càng lạnh giá, những đêm thu ngày một tối đen, ngày một dài.
Trong chiến hào, ngày ngày binh lính Cô- dắc vẫn làm các thứ cỏ vê, vẫn bắn
địch, vẫn chửi nhau với bọn quản về chuyện quần áo rét, vẫn ăn đói, nhưng chẳng
có đầu óc người nào không luôn luôn nghĩ tới vùng sông Đông xa xôi, ở cách cái
đất Ba Lan thờ ơ khắc nhiệt nầy bao nhiêu ngày đường.
Nhưng
mùa thu năm ấy, ả Daria nhà Melekhov đã bù gỡ lại cả một quãng đời sống thiếu
thốn xa chồng. Hôm đầu lễ Đức mẹ 3, như mọi ngày, ông Panteley Prokofievich
thức giấc trước cả nhà. Ông vừa bước ra sân nuôi gia súc đã đưa ngay hai tay
lên ôm đầu: không biết những bàn tay quái ác nào đã kéo cánh cổng ra khỏi bản
lề, quẳng ra giữa phố, nằm thườn thưỡn ngang đường. Thật là nhục nhã.
Ông già
lập tức lắp cánh cổng lại, rồi sau khi ăn xong bữa sáng, ông gọi Daria vào chỗ
nấu nướng mùa hè. Chẳng hiểu bố chồng đã nói với nàng dâu những gì, nhưng vài
phút sau, Dunhiaska nhìn thấy Daria chạy bổ từ trong bếp ra, khãn bịt đầu tụt
xuống vai đầu tóc rũ rượi, nước mắt nước mũi đầm đìa. Lúc đi qua trước mặt
Dunhiaska, Daria nhún nhún vai, hai hàng lông mày đen láy rung cong hẳn lên
thành hai vòng cung trên khuôn mặt tức tối, khóc sưng húp.
- Chờ
đấy mà xem đồ chết tử chết tiệt! Gái nầy sẽ cho mày nhớ đến già? - Daria rít
lên qua cặp môi sưng mọng.
Lưng áo
của Daria bị rách toạc, một con lươn xanh tím hằn lên tên làn da trắng hếu.
Daria rũ váy loạt xoạt: chạy lên thềm nhà trên lần vào phòng ngoài. Ông
Panteley Prokofievich khập khiễng bước vào trong nhà bếp, mặt hung hãn như quỷ
dữ. Ông vừa đi vừa gập tư những đoạn dây cương bằng da mới toanh.
Dunhiaska
nghe thấy cái giọng khàn khàn của bố:
- Đồ chó
cái, không phải chỉ nện cho mày như thế mà thôi đâu? Đồ bạ đâu đánh chịn đấy!
Thế là
trật tự được lập lại trong gia đình. Được vài ngày, Daria đi đứng cư xử nhũn
như con chi chi, tối tối vào giường nằm trước tất cả mọi người. Thấy Natalia
nhìn mình có vẻ thương hại, Daria chỉ cười nhạt, rung rung cả vai lẫn lông mày,
ra ý nói: "Không sao đâu, chờ đấy sẽ biết". Nhưng đến ngày thứ tư thì
xảy ra một chuyện chỉ có hai người là Daria và ông Panteley Prokofievich biết
mà thôi.
Sau đó
thấy Daria nhăn nhăn nhở nhở ra vẻ khoái trá lắm, còn ông già thì suốt một tuần
cứ ngượng ngùng, ngơ ngác như con mèo ăn vụng. Ông chẳng hé răng cho bà lão
biết chút gì về việc xảy ra, và ngay khi xưng tội, ông cũng giấu cha Visarion
giấu cả sự việc lẫn các ý nghĩ tội lỗi ám ảnh sau lần ấy.
Câu
chuyện là như thế nầy. Sau lễ Đức mẹ không được mấy ngày, ông Panteley
Prokofievich chắc mẩm rằng Daria đã hoàn toàn hối cải, bèn bảo bà Ilinhitna:
- Bà nó
đừng thương con Daria làm gì. Phải thúc cho nó làm nhiều hơn mới được. Có việc
nầy việc nọ thì nó sẽ không còn thì giờ đâu mà léng phéng lung tung. Con ngựa
cái ấy, nó cứ phây phây ra… Đầu óc nó chỉ nghĩ tới bãi chơi và ngoài phố thôi.
Với chủ
tâm như thế, ông đã ép Daria quét dọn sân đập lúa, khiêng những thanh củi cũ ra
sân gia súc sau nhà, rồi ông cùng với Daria dọn dẹp nhà trấu. Măi đến lúc trời
sắp tốỉ, ông mới nghĩ ra cái chuyện khiêng cái hòm quạt thóc vào nhà trấu, bèn
cất tiếng gọi con dâu:
- Con
Daria đâu?
Dạ, thưa
cha gì thế ạ? - Daria trả lời vọng ra từ trong nhà trấu.
- Ra đây
khiêng với tao cái quạt thóc nầy.
Daria
sửa lại khăn bịt đầu, rũ trấu vụn bám trên cổ chiếc áo ngắn mặc ngoài, bước ra
khỏi cửa nhà trấu rồi vòng qua cái cổng nhỏ chỗ sân đập lúa, đi về phía nhà
kho. Trong cái áo bông ngắn vẫn mặc ngày thường và chiếc quần đi ngựa rách
mướp, ông Panteley Prokofievich khập khiễng đi trước Daria. Trong sân nuôi gia
súc chẳng có một ai. Dunhiaska và mẹ đang kéo chỗ lông cừu cắt trong mùa thu
thành sợi. Natalia thì nhào bột. Bên ngoài thôn, ráng chiều đỏ tía đã sắp tắt,
chuông nguyện kinh chiều vang lên gióng giả. Trên bầu trời trong vát, một đám
mây tím ngắt đứng không nhúc nhích ngay giữa đỉnh đầu. Bên kia sông Đông, những
con quạ đen đã đến đậu như những đám bông cháy đen sì trên những cái cành trơ
trụi của đám tiêu huyền trắng phếch. Trong bầu không khí lặng tờ, không một
tiếng động, và tưởng như rất giòn của buổi chiều tà, mỗi âm thanh đều vang lên
rành rọt và gay gắt. Mùi phân bốc hơi và mùi rơm cỏ xông ra nặng nề từ sân nuôi
gia súc. Ông Panteley Prokofievich ì ạch cùng Daria khiêng vào trong nhà trấu
cái hòm quạt thóc hung hung đỏ đã bạc màu. Sau khi đặt cái hòm vào trong góc
nhà, ông thấy đống trấu bị vãi xuống một đám bèn cầm cái cào vun gọn lại. Cào
xông ông sắp sửa bước ra ngoài.
- Cha
nầy? - Daria gọi ông, giọng trầm trầm, thầm thì.
Ông già
chẳng nghi ngờ gì cả, bước ra từ sau cái hòm quạt thóc và hỏi.
- Có gì
thế?
Daria
đứng quay mặt vào bố chồng cái áo ngắn cởi phanh trước ngực. Ả đưa hai tay ra
sau gáy, sửa lại tóc. Một dé ánh sáng mặt trời đang lặn xuyên qua cái khe trên
tường rọi thẳng vào người ả.
- Ở chỗ
nầy cha ạ: không biết có cái gì… Cha lại gần đây mà xem.
- Daria
vừa nói vừa nghiêng nghiêng người: lấm lét nhìn qua vai bố chồng ra cái cửa mở
loang như một con ăn cắp.
Ông già
đi sát tới chỗ Daria. Bất thình lình ả vươn hai tay ôm lấy cổ bố chồng, rồi đan
mười ngón tay vào nhau giật lùi lại, kéo ông lão theo, khẽ nói:
- Ở đây
nầy cha ạ… ở chỗ nầy… êm lắm…
- Mày
giở cái trò gì thế nầy? - Ông Panteley Prokofievich sợ hết hồn hết vía vội hỏi.
Ông xoay đầu lung tung, cố tìm cách rút cổ khỏi hai cánh tay Daria, nhưng ả
càng ghì chặt đầu ông vào sát mặt mình, hơi thở của ả nóng hôi hổi phả vào chòm
râu của ông. Ả vừa cười vừa rủ rỉ không biết những gì.
- Buông
tao ra, cái con thối thây! - Ông già cố vùng ra nhưng đã cảm thấy cái bụng rất
căng của đứa con dâu đang cọ vào mình.
Daria
siết chặt người vào bố chồng, ngã ngửa ra, kéo cả ông lão lăn xuống theo.
- Đồ quỉ
cái! Mày hoá rồ rồi à? Buông tao ra!
- Ông
không muốn à? - Daria thở hổn hển hỏi rồi ả nới lỏng hai cánh tay, đẩy vào ngực
bố chồng - Không muốn à… Hay là không làm trò gì được? Có thế nầy ông mới chừa
không rời ra lời vào gì về tôi nữa? Phải, như thế đấy.
Daria
đứng chồm lên, vội vã vuốt lại váy, phủ những đám vỏ trấu bám trên lưng, rồi
quát vào mặt ông Panteley Prokofievich lúc nầy đã không còn hồn vía gì nữa.
- Làm gì
mà hôm nọ ông đánh tôi hử? Sao thế, hay là tôi đã là một con mụ già nua móm mém
rói? Hồi ông còn trẻ, ông có thua chút nào không hử? Chồng tôi, nó đã một năm
nay không vác mặt vê nhà rồi! Còn tôi, chẳng nhẽ để tôi nằm với một con chó đực
hay sao? Nầy thì cho lão, lão thọt! Nầy có ăn thì ăn đi?
Daria
làm một cử chỉ tục tĩu rồi giương cao hai hàng lông mày bước ra cửa. Ra đến
cửa, ả lại nhìn khắp người mình rất cẩn thận một lần nữa, rũ lại bụi trên váy
và trên khăn bịt đầu, rồi nói mà không nhìn bố chồng:
- Tôi
không có cái ấy, thì không chịu được đâu… Tôi cần phải có một thằng Cô- dắc ở
bên. Nếu ông không muốn thì để tôi tự kiếm lấy còn ông thì liệu mà giữ mồm giữ
miệng!
Daria
ưỡn ẹo bước nhanh ra cái cổng phía sân đập lúa, đi mất hút, không ngoái đầu lại
nữa. Ông Panteley Prokofievich vẫn nhai nhai một món râu, đứng bên cái hòm quạt
thóc hung hung đỏ, hết nhìn quanh cái nhà trấu lại nhìn xuống mũi đôi ủng vá,
ánh mắt vừa phân vân vừa hối hận. "Chẳng nhẽ nó mới là đứa nói đúng hay
sao? Chưa biết chừng mình cũng đến phải cùng với nó gánh lấy phần tội lỗi nầy
thôi?" - Việc vừa xảy ra đã làm ông choáng váng cả đầu óc nên trong chốc
lát đã có ý nghĩ hoang mang như thế.
--- ------ ------ ------ -------
1 Nhựa chưng bôi vào cửa cho biết trong nhà có
đàn bà ngoại tình (ND).
2 Tiếng Cô- dắc "vợ lính vắng chồng"
(ND).
3 Ngày mồng một tháng mười theo lịch Nga cũ
(ND).
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 84
Sang tháng mười một, ngày nào cũng
rét như kim châm. Tuyết đầu mùa đã rơi. Ở chỗ khuỷu sông ngang với đầu trên của
thôn Tatarsky nước bắt đầu đóng băng. Đôi khi đã có vài người đi bộ qua lớp
băng xanh xanh rất giòn để sang bờ bên kia. Nhưng ở đoạn sông bên dưới, mới có
dải nước ven bờ phủ một lớp băng xù xì những bọt là bọt còn giữa sông luồng
nước xiết vẫn chảy cuồn cuộn, những làn sóng bạc đầu màu xanh lá cây vẫn sôi
sục đuổi theo nhau. Trong cái hố trước mặt Vách Đen, từ lâu những con cá nheo
đã lẩn xuống qua mùa đông giữa những cây gỗ đổ chìm sâu tới mười một xa- gien.
Bên trên một chút là những con cá chép với một chất nhầy bọc quanh mình. Trên
sông Đông chỉ còn những con cá trắng lượn đi lượn lại và cá măng vẫn sục sạo
trong các khe các ngách để kiếm những con cá diếc. Những người đánh cá chi còn
chờ trời rét ngọt hơn là dùng thuốn xọc qua lớp băng đầu mùa tìm cá đỏ.
Tháng mười một, nhà Melekhov có nhận
được một bức thư của Grigori. Chàng viết từ Kubinsk, tận bên Rumani cho biết
rằng mình đã bị thương ngay trong trận đầu, một viên đạn đã bắn nát một cái
xương tay trái, vì thế chàng được cho về quân khu của mình, về trấn Kamenskaia
để dưỡng bệnh. Tiếp theo bức thư ấy nhà Melekhov lại có ngay một tai nạn khác:
trước đây một năm rưỡi, ông Panteley Prokofievich có lần cần tiền đã vay của
lão Mokhov một trăm rúp bạc đồng. Mùa hè năm nay ông già bị gọi tới cửa hiệu.
Tên Atepin "Chacha" kẹp cái kính gọng vàng vào mũi, nhìn qua phía
trên mắt kính vào chòm râu ông già Melekhov và hỏi:
- Thế nào, ông Panteley
Prokofievich, ông sẽ trả tiền chúng tôi hay thế nào?
Ông Panteley Prokofievich đưa mắt
nhìn các giá hàng trống huếch trống hoác và cái quầy hàng cũ quá đã nhẵn bóng,
ngập ngừng một lát rồi trả lời:
- Ông cho tôi khất ít lâu nữa, ông
Emelian Konstantinovich ạ, cho tôi về xoay xở ít lâu rồi sẽ đem trả.
Câu chuyện tưởng đến đấy thì thôi.
Ông già cũng chẳng còn biết xoay sở chỗ nào nữa: mùa màng chẳng ăn thua gì mà
gia súc chưa dùng đến thì chẳng có con nào mà bán. Thế rồi đùng một cái, cứ như
có nắm tuyết rơi đúng giữa đỉnh đầu, tên mõ toà về thôn, cho gọi người không
trả nợ tới và tuyên bố không một lời phi lộ:
- Ông phải trả ngay một trăm rúp.
Trong phòng của viên mõ toà ở nhà
trọ, có tờ giấy dài đặt trên bàn. Người bị gọi đến hãy đọc đi, không được nói
lại một lời.
ÁN LỆNH
Chiếu theo Đạo dụ của Đức Hoàng đế
bệ hạ ngày 27 tháng mười năm 1916: bản chức thẩm phán Toà án tạp tụng Quận 7
Quân khu Donesky đã xét vụ án dân sự giữa thương gia Sergey Mokhov và hạ sĩ
Panteley Melekhov về 100 rúp vay có văn tự và chiếu theo các trang 81, 100,
129, 133, 145 trong bộ luật dân sự, đã xử vắng mặt, và phán quyết như sau:
Bắt bên bị, hạ sĩ Panteley
Prokofievich Melekhov phải nộp để trả bên nguyên, thương gia Sergey Platonovich
Mokhov, một trăm rúp theo văn tự lập ngày 21 tháng sán năm 1915, cộng thêm ba
rúp phí tổn tố tụng. Đây chưa phải là phán quyết cuối cùng; mới chỉ là tuyến bố
sau khi xử vắng mặt.
Phán quyết nầy, chiếu theo điểm 3
trang 156 Bộ luật tố tụng dân sự, đã có giá trị pháp lý và phải lập tức chấp
lành ngay. Toà án tập trung Quận 7 Quận khu Donesky chiếtu theo đạo dụ của Đức
Hoàng đế bệ hạ, ra lệnh: tất cả các địa phuơng và các cá nhân có thể có liên
quan tới bản phán quyết nầy đều phải nghiêm chỉnh chấp hành, còn các nhà đương
cục chính quyền, cảnh sát, quân sự đều phải hiệp trợ Mõ toà chấp hành phán
quyết nầy theo luật pháp qui định, không được trì hoãn".
Ông Panteley Prokofievich nghe viên
mõ toà đọc xong bản phán quyết bèn xin phép về nhà, hứa sẽ đem tiền đến nộp
ngay. Hôm ấy ở nhà trọ ra, ông đi thẳng đến nhà ông thông gia Miron
Grigorievich. Ông gặp gã cụt tay Aleksey Samin trên bãi thôn.
- Vẫn thọt như thường chứ, ông
Prokofit? - Aleksey chào ông.
- Vẫn bình thường thôi!
- Chúa đưa ông đi có xa không?
- Tôi lại nhà ông thông gia. Có chút
việc.
- Ồ! Ông bạn ạ. Ở nhà họ đang vui
như tết ấy. Ông đã biết chưa? Thằng con trai của Miron Grigorievich ở ngoài mặt
trận về rồi đấy. Bà con nói rằng thằng Mitka nhà lão đã về rồi.
- Thật ư?
- Tôi có nghe nói thế. - Cả má lẫn
mặt Alesey đều giật lia lịa. Gã lấy túi thuốc ra rồi bước lại gần ông Panteley
Prokofievich và nói - Ta cùng hút điếu thuốc nhé, bố già. Giấy của tôi còn
thuốc thì của bố nhá.
Trong khi phì phèo điếu thuốc, ông
Panteley Prokofievich lưỡng lự không biết có nên đi hay không, nhưng cuối cùng
ông nhất quyết đi ông tạm biệt gã cụt tay rồi lại khập khiễng cất bước.
- Thằng Mitka cũng có huân chương
rồi! Nó đang cố đuổi kịp hai thằng con của ông đấy. Bây giờ trên cành có bao
nhiêu chim sẻ thì thôn ta có ngần ấy thằng được thưởng huân chương - Gã Aleksey
vẫn quang quác sau lưng ông.
Ông Panteley Prokofievich lững thững
đi về phía cuối thôn.
Ông ghé mắt qua cửa sổ nhìn vào
trong nhà Korsunov rồi bước tới cửa hàng rào. Chính lão thông gia thân chinh ra
đón ông. Niềm vui sướng tựa như đã cọ rửa bộ mặt đầy tàn hương của lão già nhà
Korsunov, nom ông ta sạch sẽ nhẵn nhụi hơn hẳn ngày thường.
- Ông đã biết tin nhà chúng tôi có
chuyện vui rồi đấy à? - Miron Grigorievich vừa bắt tay ông thông gia hỏi.
- Tôi đang đi ngoài đường thì được
gã Aleksey Samin cho biết. Nhưng ông thông gia ạ, tôi đến tìm ông có việc khác
cơ.
- Hượm đã nào, công với việc cái gì?
Chúng ta vào nhà trong đi, ông hãy gặp thầy quyền cái đã. Xin thú thực với ông
là chúng tôi vui quá nên đã có tí tỉ… Bà nhà tôi có dành được một chai loại
thật là vương giả để uống trong dịp long trọng như thế nầy.
- Chẳng cần ông nói với tôi làm gì.
- Ông Panteley Prokofievich mỉm cười, hai lỗ mũi của cái mũi quặp phập phồng. -
Từ xa tôi đã đánh hơi thấy rồi.
Miron Griôrievich mở toang cánh cửa,
nhường ông thông gia vào trước. Ông Panteley Prokofievich bước qua ngưỡng cửa
và nhìn thấy ngay Mitka ngồi ở bàn trong góc phòng để các hình thánh.
- Đây thầy quyền nhà chúng tôi đây -
Cụ Grisaka vịn vào vai Mitka lúc nầy đã đứng dậy, mếu máo kêu lên.
- Chà, mừng cậu được về thăm nhà,
cậu Cô- dắc con.
Ông Panteley Prokofievich giữ lại
một lát trong tay ông bàn tay rất dài của Mitka, lùi một bước, ngạc nhiên nhìn
khắp người nó một lượt
- Có gì mà ông nhìn thế, thưa ông
Panteley Prokofievich. - Mitka mỉm cười, hỏi bằng một giọng trầm khàn khàn.
- Tôi cứ nhìn cậu mà chẳng hiểu ra
sao nữa: hồi đưa tiễn cậu và thằng Griska vào quân ngũ thì cả hai đều còn là
trẻ con, thế mà bây giờ thì xem kìa… Cô- dắc ra Cô- dắc rồi còn gì. Tuyển vào
trung đoàn Atamansky cũng được đấy!
Hai con mắt đẫm nước mắt của bà
Lukinhitna cứ nhìn Mitka chằm chằm, bà rót rượu vào cái ly mà không nhìn thấy,
để rượu tràn cả ra ngoài.
- Mụ thổ tả nầy! Rượu quý như thế mà
rót cả ra ngoài. - Miron Grigorievich quát vợ.
- Mừng dịp vui của cả nhà ta và
riêng cậu, cậu Miseri Mironyi, mừng cậu về nhà chơi được sung sướng!
Ông Panteley Prokofievich đảo hai
cái lòng trắng con mắt xanh xanh nhìn quanh một lượt, rồi nín thở, hấp háy hai
hàng mi, nhấm nháp uống cạn ly rượu to bụng. Ông từ từ đưa tay áo lên chùi
miệng, chùi ria, rồi nhìn chằm chằm vào đáy cái ly, ngửa đầu mở hoác cái miệng
có hàm răng đen sì lắc lắc cho giọt rượu cuối cùng rơi vào.
Mãi lúc ấy ông mới hà một hơi. Ăn
một quả dưa chuột, lim dim mắt giờ lâu ra vẻ khoái trá lắm. Bà thông gia lại
đem đến mời ông ly thứ hai và ông già bắt đầu chuếnh choáng, nom đến là buồn
cười. Mitka tủm tỉm nhìn ông uống rượu. Tròng con mắt nó như tròng con mắt mèo,
lúc thì co hẹp lại chỉ còn hai cái kẽ xanh biếc màu hương bồ, lúc thì nở rộng
ra, đen lại. Mấy năm nay Mitka đã đổi khác rất nhiều, không còn nhận ra được
nữa. Nhìn gã Cô- dắc da đen lực lưỡng nầy, hầu như không còn thấy lưu lại chút
gì của thằng Mitka nhỏ nhắn, cân đối mới được người ta tiễn chân ra lính ba năm
trước đây. Mitka đã lớn thêm nhiều, vai rộng ra, lưng hơi gù, người đẫy đà
thêm, chắc hẳn cân ít nhất cũng phải năm pút 1. Vẻ mặt cũng như giọng nói của
nó đều trở nên thô lỗ, nom nó già trước tuổi. Riêng hai con mắt nó chẳng có gì
thay đổi, vẫn cứ lấm la lấm lét, đầy xao xuyến như mắt chó sói, và bà mẹ hoàn
toàn bị thu hút vào trong cặp mắt đó. Bà vừa cười vừa khóc thỉnh thoảng lại đưa
bàn tay nhăn nhúm, nhột nhạt lên vuốt bộ tóc cắt ngắn, dựng đứng và cái trán
hẹp trắng trắng của thằng con.
- Về như thế nầy là được thưởng huân
chương rồi chứ? - Ông Panteley Prokofievich hỏi với nụ cười say sưa.
- Bây giờ thì thằng Cô- dắc nào
chẳng có huân chương? - Mitka cau mày. - Đấy, người ta gắn cho thằng Kriuchev
ba cái huân chương, nó nằm thối thây trên bộ tư lệnh kia kìa.
- Ông thông gia ạ, thằng cháu nhà
tôi nó khái lắm. - Cụ Grisaka vội đỡ lời - Cái thằng chết tiệt nầy, nó giống
tôi, giống ông nó như lột ấy. Nó không thể khom lưng uốn gối được đâu.
- Có lẽ không phải vì thế mà người
ta gắn huân chương cho anh ta đâu - Hai hàng lông mày của ông Panteley
Prokofievich đã nhíu lại nhưng Miron Grigorievich đã kéo ông vào nhà trong, mời
ông ngồi lên chiếc rương và hỏi:
- Con Natalia và hai cháu ra sao hả ông?
- Khoẻ mạnh cả chứ?
- Thế ư, ơn Chúa? Ông thông gia ạ, hình như ông bảo đến
đây có việc phải không? Tình hình công việc bên nhà ta như thế nào? Ông nói
ngay đi kẻo chúng mình lại say mất, còn uống nữa cơ mà.
- Xin ông cho tôi ít tiền. Ông hãy
vì Chúa mà cho tôi đi! Ông hãy cứu tôi lần nầy nếu không cũng đến tai vạ vì món
tiền nầy mất.
Ông Panteley Prokofievich năn nỉ với
cái vẻ quá ư quị lụy của một anh chàng say rượu nhưng ông thông gia vội ngắt
lời ông:
- Thế bao nhiêu?
- Một trăm tờ.
- Loại nào cơ chứ? Giấy bạc thì cũng
năm bảy thứ.
- Một trăm rúp.
- Ông nói ngay như thế có hơn không?
Miron Grigorievich sục trong chiếc
rương, moi ra một chiếc khăn tay nhớp nhúa, cởi nút, đếm loạt soạt lấy mười tờ
"đỏ".
- Xin cám ơn, ông thông gia yêu quý…
ông thật đã giúp tôi thoát nạn.
- Thôi, có gì đáng kể. Chúng ta là người nhà mà.
° ° °
Mitka về ở nhà được năm hôm. Đêm đêm nó ngủ ở nhà vợ
Anikey. Nó thương cái cảnh thiếu thốn đau khổ của mụ, cũng thương cả bản thân
mụ, một người đàn bà đơn giản xuề xoà, chẳng từ chối ai bao giờ. Ban ngày nó
láng cháng qua các nhà bà con thân thuộc, ăn cơm khách nơi nọ nơi kia. Với một
thân hình cao lớn, nó phong phanh chiếc vét lính mỏng màu ka- ki hất lệch mũ
lưỡi trai sang một bên, và cứ thế lênh khênh, ngật ngưỡng đi khắp các phố trong
thôn để khoe cái cứng rắn, khoẻ chịu rét của mình. Rồi một hôm, lúc trời đã sâm
sẩm, nó mò đến nhà Melekhov, đem theo vào trong căn bếp đốt lửa nóng rực hơi
lạnh của băng giá cùng cái mùi lính tráng chua chua hắc hắc ngửi qua một lần
thì không bao giờ quên được. Nó ngồi lại một lát tán gẫu vài câu về chiến tranh
về những chuyện mới xảy ra trong thôn, rồi nheo cặp mắt xanh lè như màu lá lau
ra hiệu cho Daria và sửa soạn ra về. Daria không rời mắt khỏi thầy quyền nhà ta
một giây nào. Đèn khi Mitka đóng sầm cửa bước ra ngoài, Daria lảo đảo như ngọn
lừa trên đầu một cây nén, mím chặt môi, chít cái khăn lên đầu. Nhưng bà
Ilinhitna hỏi:
- Mầy đi đâu đấy, Đaska?
- Con ra ngoài kia… đi đồng.
- Chờ tao cùng đi với.
Ông Panteley Prokofievich cứ gục đầu ngồi yên như không
hề nghe thấy những lời trao đổi giữa vợ và con dâu. Daria đi qua mặt ông ra
cửa, một ánh mắt như mắt cáo lấp loáng dưới hai hàng mi hạ xuống. Bà mẹ chồng
rên ư ử, lon ton lăn theo con dâu như quả bóng.
Mitka đứng bên cái cửa xép ở hàng rào, hút thuốc trong
bàn tay khum khum. Nó húng hắng ho, đế ủng ọt ẹt trên tuyết. Nghe tiếng then
cửa lách cách, nó bước về phía thềm nhà.
- Cậu đấy à, cậu Mitka? Vào sân nhà người lạ không tìm
được lối mà đi hay sao thế? - Bà Ilinhitna chọc cho nó một câu. - Cậu ra đến
bên ngoài thì nhớ cài then cửa xép lại nhé, kẻo đêm gió cứ đập ầm ầm… Gì gì mà
khiếp thế nầy…
- Không sao đâu, tôi vẫn nhớ lối đi đấy… Vâng, tôi sẽ
đóng cửa…
Mitka nín lặng một lát rồi trả lời tức tối. Nó húng hắng ho
băng qua phố đi thẳng vào sân nhà Anikey.
Như con chim, Mitka sống một cuộc đời hoàn toàn vô tư lự.
Hôm nay còn sống, tốt lắm, còn chuyện ngày mai sẽ ra sao thì mai hẵng hay. Công
việc nhà binh, nó làm thẫn thờ được chăng hay chớ, và tuy một dòng máu của kẻ
không biết sợ là gì chảy trong tim nó, nhưng nó cũng không để tâm tìm kiếm
những dịp lập công. Hơn nữa hồ sơ lý lịch quân nhân của nó xem ra có phần chẳng
hay ho gì: hai lần bị kết án, một lần bị buộc tôi cưỡng dâm một người đàn bà Ba
Lan quốc tịch Nga và một lần vì tội cướp bóc. Trong ba năm chiến tranh nó đã bị
thi hành kỷ luật không biết đến bao nhiêu làn. Một lần toà án binh dã chiến
thiếu chút nữa thì tuyên bố đem nó ra xử bắn, nhưng nó vẫn tìm được cách thoát
nạn. Tuy bị coi là một thằng tồi tệ nhất trung đoàn, nhưng bọn Cô- dắc vẫn
thích nó vì tính nó vui nhộn, cởi mở vì những bài hát tục tĩu của nó về cái tài
nầy thì Mitka không phải là một tay hạng xoàng, vì nó tốt với bạn và có một lối
sống bộc tuệch bộc toạc. Còn các sĩ quan thì thích nó ở cái thói liều lĩnh của
một thằng cướp. Mitka cứ đi trên đường đời với nụ cười trên môi và với cặp chân
bước nhẹ nhàng như chân chó sói. Của đáng tội người ngợm nó cũng mang nhiều
điểm rất giống loài thú rừng nầy: đi đứng thì ngật ngưỡng lừng khừng, thủng thẳng
từng bước, mắt nhìn thì gườm gườm với hai tròng con mắt rất to xanh lè. Ngay
đến các cử động của đầu nó cũng thế: không bao giờ Mitka quay cái cổ cứng đờ vì
bị dập thương. Nếu nó muốn nhìn về phía sau thì chỉ còn cách quay cả người.
Người nó gân guốc, to xương, rắn thịt, nó làm gì cũng nhanh nhẹn, nhẹ nhàng
nhưng rất dè sẻn động tác. Nó toả ra cái mùi nồng nồng hăng hắc của những con
người khoẻ mạnh, thừa sức lực, hệt như mùi đất đen bị lưỡi cày rạch bửa ra dưới
những cái mương xói. Cuộc sống của Mitka thẳng đuồn đuỗn, không có chút gì phức
tạp, và cứ kéo dài như luống cày. Mitka đi trên luống cày ấy như một người chủ
có toàn bộ quyền hành. Các ý nghĩ trong đầu óc nó đều không có gì phức tạp, đều
đơn giản một cách ấu trĩ: đói thì có thể và cần phải ăn cắp, dù là ăn cắp của
bạn bè, vì thế hễ đói là nó kiếm cái gì xoáy ngay. Ủng mòn hỏng thì cách đơn
giản nhất là lột ở chân một tên tù binh. Làm lỗi ư? Làm lỗi thì phải chuộc tội,
và thế là Mitka chuộc tội: nó đi trinh sát, bắt và mang về những tên lính gác Đức
bị bóp cổ đến gần tắt thở, hoãc tình nguyện xin làm những việc mạo hiểm nhất.
Năm 1915 nó đã bị bắt làm tù binh, đã được nếm một trận đòn nhừ tử và bị thương
vì những nhát lưỡi lê, nhưng đến đêm nó đã bới mái nhà kho chuồn thẳng, một
móng tay cũng không còn nguyên vẹn nhưng vẫn mang về được một bộ đồ thắng ngựa
và xe tải làm kỷ niệm. Chính vì thế người ta đã tha thứ cho Mitka nhiều điều.
Mitka ở nhà đến ngày thứ sáu thì Miron Grigorievich đánh
xe đưa con trai ra ga Minlerovo. Ông tiễn chân Mitka lên toa xe rồi lắng nghe
tiếng cả một chuỗi những chiếc hộp màu xanh lá cây lạch xạch rời xa dần và cứ
lấy cán roi ngoáy mãi xuống đóng than xỉ đồ trên sân ga, mà chẳng buồn ngước
cặp mắt cay xè nhìn lên. Bà Lukinhitna khóc lóc về chuyện thằng con trai lại
phải ra đi. Cụ Grisaka thì luôn miệng rên rỉ chốc chốc lại hỉ mũi vào lòng bàn
tay, tiếng hỉ mũi vang lên trong nhà như tiếng kèn, hỉ xong lại chùi tay vào
vạt áo tréch- men bẩn như ma lem. Mụ "gian- méc- ca" vợ gã Anikey
cũng khóc lóc nhớ lại cái thân hình hộ pháp, nóng rực trong lúc yêu đương của
Mitka, và mụ cũng đau khổ vì cái bệnh lậu vừa bị nó đổ cho.
Thời gian đan ngày nọ với ngày kia như gió đan bờm ngựa.
Trước lễ Nô- en, trời bỗng tan băng. Mưa liền một ngày một đêm. Nước trên những
ngọn núi ven sông Đông đổ xuống điên cuồng theo các khe suối. Trên những khoảng
đất đá nhô ra đã tan hết tuyết, cỏ năm ngoái hiện ra xanh rờn cùng với những
tảng đá phấn đầy rêu. Hai bên bờ sông Đông, bọt sủi lên nham nhở từng đoạn,
băng trương lên, xám ngoét như xác người chết. Chất đất đen được bóc trần toả
ra một mùi hương ngọt lịm rất khó tả. Trên con đường của các vị ghetman, nước
sủi bong bóng trên những vết bánh xe năm ngoái.
Những đám đất sét mới lở mở hoác ra trên những đoạn vách
đứng bên ngoài thôn. Gió nồm đã đưa lới từ vùng sông Tria mùi cỏ mục thum thủm.
Đến giữa trưa, trên đường chân trời đã thấp thoáng cái bóng xanh ngát, rất dịu
mắt, cứ như trời đã sang xuân. Khắp thôn, đã có những váng nước gợn lăn tăn bên
những đống tro đổ cạnh các hàng rào. Trong các sân đập lúa, đất quanh các cây
rơm đã tan tuyết, mùi rơm ủng ngọt ngọt lờm lợm chọc vào mũi những người đi
qua.
Ban ngày trên gờ các mái nhà những que băng rủ từ lớp rơm
nhỏ xuống những giọt nước đen như nhựa chưng. Những con chim ác lại đậu trên
những dãy hàng rào kêu xé ruột xé gan. Con bò mộng của thón gửi ở sân gia súc
nhà Miron Grigorievich cho qua mùa đông rống ầm lên, mùa xuân đến quá sớm đã
làm nó xao xuyến rao rực. Nó văng sừng nát tung cả dãy hàng rào nó có mình vào
cái cày gỗ sồi mọt, lắc lắc cái yếm mượt như lụa, dẫm nát lớp tuyết lõm bõm
nước tuyết tan trong sân gia súc.
Lễ Nô- en hôm trước thì hôm sau băng nứt vỡ trên sông
Đông. Những tảng đá băng xô dồn vào nhau trôi giữa dòng với những tiếng ràn
rạt, rất to. Cũng có những tảng băng khổng lồ bị đẩy lên bờ nằm như những con
quái vật dưới nước đang ngủ thiếp. Bên kia sông, làn gió nồm xao xuyến xô những
cây tiêu huyền ngật ngưỡng mềm mại, nom cứ như đang chạy tại chỗ.
Su...u… uu... - Không biết từ đâu vẳng tới một thứ tiếng
khàn khàn trầm trầm. Nhưng tối hôm ấy, trong núi bắt đầu có những tiếng ì ầm,
nhưng con quạ trên bãi thôn kêu loạn xạ, con lợn của Khristonhia chạy qua trước
nhà Melekhov với một nắm rơm trong mõm. Ông Panteley Prokofievich nhận định:
"Mùa xuân bị kẹt lại rồi, mai lại rét ngọt cho mà xem". Đến đêm thì
gió chuyển sang hướng đông, các váng nước nát nham nhở trong mấy hôm tuyết tan
lại phủ một lớp băng mỏng trong như pha lê. Đến sáng thì gió bắt đầu thổi từ
hướng Moskva, không khí băng giá đè nặng lên thôn xóm. Mùa đông đã hồi cư. Như để
nhắc nhở rằng vừa có những ngày tuyết tan, chỉ giữa dòng sông Đông là còn vài
tảng băng nhỏ bập bềnh như những tàu lá trắng khổng lồ và trên ngọn gò, khoảng
đất bị lột trần bốc hơi lạnh ngùn ngụt.
ít lâu sau lễ Nô- en, viên thư ký gặp ông Panteley Prokofievich
tại đại hội toàn trấn, có báo cho ông biết rằng hắn đã gặp Grigori ở Kamenskaia
và chàng còn nhờ hắn tin cho gia đình biết rằng không mấy ngày nữa chàng sẽ về
nhà.
--- ------ ------ ------ -------
1 Tương
đương 85kg (ND)
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 85
Với hai bàn tay nhỏ ngăm ngăm, đầy
những sợi lông lơ thơ bóng nhoáng lão Sergey Platonovich Mokhov cố mò mẫm ba bề
bốn bên xem cuộc đời lão sẽ ra sao. Có lúc cuộc sống đã làm vừa lòng lão, nhưng
có lúc nó lại vít nặng như tảng đá buộc vào cổ người chết đuối. Trong cuộc đời
của lão, Sergey Plantonovich đã được nếm đủ mùi và đã trải qua lắm cuộc tang
thương. Trước đây đã lâu, hồi còn làm cái nghề đầu cơ ngũ cốc, có lần lão đã
mua được thóc của bà con Cô- dắc với giá rẻ mạt, nhưng sau lại phải chở ra ngoài
thôn đổ xuống đoạn bờ sông Durnoi Yar bốn nghìn pút lúa mì bị cháy.
Lão cũng còn nhớ cái đêm mùa thu năm
1905, có một kẻ nào đó trong thôn nã vào lão một phát đạn ghém. Lão Mokhov đã
làm giàu rồi lại khánh kiệt gia sản, nhưng cuối cùng vẫn vơ vét được sáu vạn
rúp, gửi cả vào nhà băng Volgo- Kamsky. Nhờ cái tài đánh hơi rất nhậy, lão cảm
thấy rằng đang sắp có một sự rung chuyển kinh thiên động địa, không thể nào
tránh khỏi. Lão ngồi chờ những ngày đen tối và lão đã không lầm lẫn: tháng
giêng năm một nghìn chín trăm mười bảy, gã giáo viên Balanda đang chết dần chết
mòn vì bệnh lao đã tới than vãn với lão:
- Cách mạng đã ập đến cửa rồi mà ông
xem, tôi lại sắp sửa toi mạng vì cái bệnh cực kỳ ngu xuẩn, cái bệnh đa sầu đa
cảm cùng cực nầy. Thật đáng giận, vì như thế là tôi sẽ không được chính mắt
nhìn thấy họ moi hết tài sản vốn liếng của ông và lôi cổ ông ra khỏi nơi giường
êm đệm ấm nầy như thế nào nữa rồi.
- Thế thì có gì đáng giận?
- Còn sao nữa? Ông cũng biết đấy
được nhìn thấy tất cả biến thành tro bụi thì dù sao cũng là chuyện thú vị.
- Thôi đi, anh bạn thân mến ạ! Anh
chết hôm nay, rồi mai mới đến lượt tôi! - Sergey Platonovich nói. Lão đã điên
tiết lắm rồi nhưng văn cố không để lộ ra nét mặt.
Đến tháng giêng thì trong các thôn
trấn đã bắt đầu nghe thấy tiếng vang của những lời xào bàn tán ở thủ đô về
Rasputin 1 và họ hàng nhà vua, rồi đến đầu tháng ba, cái tin chế độ chuyên chế
bị lật đổ bất thần chụp lên đầu xéc gây Platonovich như một cái lưỡi bẫy vịt
trời. Trước cái tin về cuộc đảo lộn ấy, dân Cô- dắc có thái độ vừa lo lắng rụt
rè vừa chờ đợi. Hôm ấy các bô lão và cả những gã Cô- dắc ít tuổi hơn tới xúm
đông xúm đỏ đến tối trước cửa hiệu Mokhov cửa đóng im ỉm. Tên ataman thôn
Kiriutka Sondatov (lên thay tên Manytkov đã chết trận) mặt mày ủ dột, hầu như
không tham dự gì vào những cuộc tranh cãi diễn ra sôi nổi bên cạnh cửa hàng.
Hắn là một gã Cô- dắc to lớn, có bộ ria đỏ như râu ngô, mắt hơi lác. Thỉnh
thoảng hắn lại hiếng hiếng mắt, nhìn khắp mặt bọn Cô- dắc và kêu lên bằng một
giọng đầy vẻ hoang mang:
- Chúng nó làm cho mọi việc đều rối
như bòng bong rồi! Trời ơi là trời? Bây giờ thì còn biết làm ăn sinh sống thế
nào đây?
Sergey Platonovich đứng trong cửa sổ
nhìn ra thấy có đám người đứng túm tụm trước cửa hiệu, bèn quyết định bước ra
chuyện trò vài câu với các cụ già. Lão khoác chiếc áo lông gấu chuột vào rồi
chống cái gậy màu nâu nạm đơn giản mấy chữ đầu tên bằng bạc, đi ra khoảng thềm
trước nhà. Những tiếng nhao nhao từ ngoài cửa hiệu vang vào.
- Nầy. Ông Platonyk ạ, ông là người
chữ nghĩa còn chúng tôi thì tối tắm dốt nát, ông thử bảo cho chúng tôi biết
tình hình bây giờ như thế nào và sau nầy sẽ ra sao đây? - Matvey Casulin hỏi
với một nụ cười đầy vẻ khiếp hãi, vô số vết nhãn chéo tụ lại quanh cái mũi lạnh
cóng của lão.
Khi Sergey Platonovich cúi chào các
cụ lễ phép ngả mũ tránh ra nhường lối cho lão bước vào trong đám.
- Chúng ta sẽ sống không có vua… -
Sergey Platonovich ngập ngừng một lát rồi trả lời.
Các cụ già nhao nhao cùng nói:
- Không có vua làm sao được?
- Ông cha cũng như tổ tiên chúng ta
đều sống có vua, chẳng nhẽ từ nay không cần có vua nữa hay sao?
- Lấy béng mất cái đầu đi rồi, còn
độc hai cẳng thì sống làm sao được?
- Thế chính quyền nào sẽ lên thay?
- Ông đừng có ngại, ông Platonyk ạ!
Thấy như thế nào cứ nói toạc móng heo với chúng tôi… Việc gì mà ông phải sợ?
- Có lẽ chính lão cũng chẳng biết
cóc gì đâu. - Lão Apdeit "Vua nói phét" mỉm cười, làm hai cái lúm
đồng tiền trên cặp má hồng hào càng lún sâu thêm.
Sergey Platonovich đờ đẫn dán mắt
xuống đôi ủng cũ bằng cao su của lão, nói dặn ra từng tiếng coi bộ rất là đau
khổ.
- Quyền cai trị sẽ thuộc về Duma
quốc gia. Chúng ta sẽ thành lập một nước cộng hoà.
- Chúng nó làm lung tung beng cả
rồi, mẹ chúng nó chứ.
- Hồi còn mồ ma đức vua Alexandr đệ
nhị, chúng tôi vào phục vụ trong quân ngũ… - Lão Apdeit vừa mở miệng thì lão
già Bogaturev đã nghiêm khăc ngắt lời lão:
- Nghe mãi rồi? Bây giờ không phải
là lúc nói chuyện ấy nữa.
- Như thế là bà con Cô- dắc sẽ đi
đến chỗ mạt vận hay sao?
- Trong lúc chúng ta đứng vô công
rồi nghề ở đây thì ngay giờ phút nầy quân Đức đã tiến tới Saint Peterburg rồi.
- Đã nói bình đẳng thì tức là muốn
chúng ta cá mè một lứa với bọn mu- gích hay sao?
- Cẩn thận đấy chưa biết chừng chúng
nó sẽ tính đến ruộng đất của chúng ta cho mà xem…
Sergey Platonovich gắng gượng mỉm
cười, lão đưa mắt nhìn những khuôn mặt đầy ưu phiền của các cụ già, trong lòng
bỗng cảm thấy bực bội, khó chịu. Vẫn với cái cử chỉ quen thuộc từ xưa, lão lách
bộ râu màu hạt dẻ ra làm hai, rồi nói bằng một giọng không hiểu tức tối với ai:
- Đấy thưa các cụ bô lão, nước Nga
đã bị đưa đến nông nỗi như thế nầy rồi đấy. Họ coi các cụ cùng một giuộc với
bọn mu- gích, họ tước mất của các cụ các quyền lợi mà riêng các cụ được hưởng,
mà sẽ còn nhắc lại các thù cũ oán xưa nữa là khác. Đã đến thời kỳ sống khổ sống
nhục rồi đây… Nhưng tất cả còn tuỳ theo chính quyền sẽ rơi vào tay ai, nếu
không chúng ta sẽ bị đưa đến chỗ chết không kịp ngáp mất thôi.
- Chúng ta còn sống thì còn được
thấy tình hình ra sao? - Lão Bogaturev lắc lắc đầu rồi cau hai hàng lông mày
rậm rì nhìn Sergey Platonovich, ánh mắt đầy vẻ nghi ngờ. - Ông Platonyk ạ, ông
nói như thế là dựa theo quyền lợi của ông, chứ chúng tôi thì biết đâu chẳng nhờ
thế mà được nhẹ xác đôi chút?
- Thế các cụ có gì được chuyện nầy
làm cho nhẹ nhàng hơn nào? - Sergey Platonovich hỏi vặn.
- Rất có thể là chính quyền mới sẽ
chấm dứt được chiến tranh…
- Có thể như thế được không? Thế
nào?
Sergey Platonovich khoát tay một cái
rồi chập chững bước về phía cái thềm nhà mầu xanh da trời trang trí rất sang
của lão. dáng đi nom già hẳn đi. Lão vừa đi, vừa nghĩ tản mạn về đủ mọi chuyện:
tiền nong, nhà máy xay, công việc buôn bán ngày càng xuống dốc, vào lão bỗng
nhớ ra rằng Lida hiện nay đang ở Moskva còn thằng Vladimir thì chẳng bao lâu
nữa sẽ ở Novocherkask về nhà. Nỗi lo lắng day dứt về con cái cũng không xua nổi
các ý nghĩa không đầu không đũa rối bời trong đầu óc. Lão cứ thế lê chân về tới
thềm nhà.
Lão cảm thấy rằng chỉ trong một ngày
hôm nay mà cuộc đời lão bỗng nhiên tối sầm hẳn lại, và ngay bản thân lão cũng
tựa như bạc mầu đi trong lòng vì những suy tư nhức nhối. Lão bỗng cảm thấy
trong miệng chua loét như có vị rỉ sắt, trào cả nước miếng ra.
Sergey Platonovich quay lại nhìn các
cụ già vẫn còn đứng trước cửa hiệu, nhổ toẹt một bãi qua hàng lan can trạm trổ
trên thềm, lệt sệt bước qua sân thượng vào trong nhà. Mụ Anna Ivanovna chờ
chồng trong phòng ăn. Mụ đưa cặp mắt không có mầu sắc thờ ơ nhìn qua mặt chồng
một cái như thường ngày rồi hỏi:
- Ông ăn qua chút gì trước khi dùng
trà chứ?
- Không, không cần? Bây giờ thì cần
ăn với uống cái gì? - Sergey Platonovich xua tay ra vẻ ghê tởm.
Trong khi cởi áo ngoài, lão vẫn còn
cảm thấy cái mũi rỉ chua loét trong miệng và cái trống rỗng chán ngán trong đầu
óc.
- Có thư của con Lida đấy!
Mụ Anna Ivanovna lật đật vào phòng ngủ (ngay từ khi mới
về nhà chồng, mụ đã bị ngay một khối công việc nội trợ rất lớn đè nặng lên
mình, nên đã bắt đầu đi lật đật như thế nầy rồi). Mụ đem ra một chiếc phong bì
đã mở.
"Con bé nầy đầu óc rỗng tuếch và xem ra chẳng có gì
thông minh đâu" - Sergey Platonovich nhăn mũi vì mùi nước hoa bốc lên từ
chiếc phong bì dầy và đây là lần đầu tiên lão có ý nghĩ như thế về con gái lão.
Lão đọc qua bức thư một cách lơ đãng- và không hiểu sao đọc đến mấy chữ
"trạng huống" thì lão dừng lại, ngăm nghĩ rất lâu cố tìm ra cái ý
nghĩa mà lão còn chưa hiểu trong đó. Cuối bức thư Lida xin cha gửi tiền cho
mình. Trong khi Sergey Platonovich đọc nốt những dòng cuối cùng, đầu óc lão vẫn
tràn ngập một cảm giác trống rỗng và nhức nhối. Bỗng nhiên lão chỉ muốn âm thầm
khóc một mình. Trong giây phút nầy cuộc sống hiện ra rõ mòn mòt trước mắt lão,
với cái nội dung càng trống rỗng hơn của nó.
"Nó thật là xa lạ đối với mình. - Lão nghĩ về con
gái - Mà cả mình cũng xa lạ đối với nó. Nó chỉ có tình cảm bố con khi nào cần
tiền mà thôi… Thật là một đứa con gái bẩn thỉu, nhân tình nhân ngãi lung tung…
nhưng hồi nó còn nhỏ, tóc nó vàng, nó đáng yêu đến thế? Lạy chúa tôi? Sao cái
gì cũng biến đổi ghê thế? Mình thật là một thằng ngu xuẩn cho đến già, mình cứ
tin vào một cái gì tốt đẹp trong cuộc sống tương lai, nhưng thật ra mình trơ
trọi chẳng khác gì toà nhà thờ giữa ngã ba đường… Mình đã làm giầu một cách bẩn
thỉu - nhưng của đáng tội, sạch sẽ thì làm giàu thế nào được? Mình đã dối trá
lừa bịp, đã bóp mồm bóp miệng, thế mà bây giờ đùng một cái nổ ra cách mạng, thế
là ngày mai bọn con đòi đầy tớ nhà mình sẽ có thể tống cổ mình ra khỏi cửa… Tất
cả đều lộn tùng phèo mẹ nó lên cả! Thế còn hai đứa chúng nó? Thằng Vladimir thì
ngớ nga ngớ ngẩn… nhưng dù sao nó cũng có thể có tích sự gì? Đằng nào cũng đến
thế thôi, muốn ra sao thì ra…".
Không hiểu do những dây mơ rễ má lung tung như thế nào mà
bỗng nhiên lão nhớ lại một chuyện xảy ra ở nhà máy xay từ ngày xửa ngày xưa:
một gã Cô- dắc đánh xe đến xay thóc, thấy mức hao bị tính quá cao bèn làm rầm
lên và không chịu trả tiền. Lúc ấy, lão, chính lão Mokhov nầy đang ở trong
phòng máy. Lão nghe thấy những tiếng ầm ĩ bên ngoài bèn ra hỏi rõ đầu đuôi, rồi
ra lệnh cho gã đứng cân và bọn thợ xay không trao trả số bột đã xay. Gã Cô- dắc
loắt choắt, xấu xí kia nắm lấy cái tai của túi bột cố lôi đi còn gã thợ xay lực
lưỡng, ngực to bè bè tên là Zava thì lôi lại. Lúc ấy gã Cô- dắc cố đẩy gã thợ
xay một cái. Gã kia quay luôn lại quai chéo gã Cô- dắc một quá vào thái dương,
nắm đấm vừa to vừa chắc. Gã Cô- dắc nhỏ bé ngã dúi xuống rồi lại lảo đảo đứng
dậy, thái dương bên trái bị toạc một miếng, máu chảy ròng ròng. Rồi bỗng nhiên
gã đi đến trước mặt Sergey Platonovich, cô tự chủ cho khỏi quát to lên: và khẽ
nói qua một tiếng thở dài:
- Bột đấy? Cướp lấy mà hốc hết đi! - Nói xong gã bỏ đi,
hai vai run run.
Sergey Platonovich nhớ lại hình như vô duyên vô cớ câu
chuyện ấy cùng hậu quả của nó: mụ vợ của gã Cô- dắc sau đó có đến xin trả lại
chỗ bột. Mụ cố hết sức nuốt nước mắt, nói với những người đến xay bột, để họ
đồng tình với mình:
- Thế nầy thì còn trời đất nào nữa, hả các bà con nhân
hậu? Còn ra luật vua phép nước gì nữa? Trả lại bột cho tôi!
- Nầy nhà bác kia, không hồn xéo đằng nào thì xéo, kẻo
tôi vặt hết tóc bây giờ! Gã Zava vừa cười vừa nói.
Anh chàng thợ cân tên là "Bồi" hom hem, lẻo
khoẻo như y gã Cô- dắc kia, đã xông tới đánh nhau với Zava. Nhìn sự việc xảy ra
như thế thật đáng bực mình. Sau khi bị Zava nện cho một trận nhừ tử,
"Bồi" đã đến đòi thanh toán tiền công. Tất cả những chuyện ấy đã hiện
lại loang loáng trong óc Sergey Platonovich lúc lão cuộn tròn bức thư đã đọc
xong, mặt đăm đăm về phía trước mà chẳng nhìn thấy gì cả.
Ngày hôm ấy đã để lại cho Sergey Platonovich một nỗi đau
đớn nhức nhối luôn luôn làm tình làm tội lão. Đến đêm, lão trằn trọc mãi mà
không sao ngủ được người như bị đè bẹp dưới những ý nghĩ mung lung chẳng có
mạch lạc gì cả và những niềm hy vọng mỏng manh. Mãi đến nửa đêm lão mới chợp
được mắt và sáng hôm sau, khi được tin Evgeni Litnhitki vừa từ mặt trận về Yagonoie
với bố, lão bèn quyết định tạt qua bên ấy để dò xem tình hình thực tế ra sao,
cố tẩy cho hết các dự cảm khủng khiếp lắng đọng trong tâm hồn lão như chát
thuốc đắng. Emelian vừa hút cái tẩu vừa thắng con ngựa nhỏ nhưng kéo rất khoẻ
vào chiếc xe trượt tuyết kiểu thành thị, đưa chủ đi Yagonoie.
Mặt trời chín nẫu bên trên thôn xóm như một quả mơ mầu da
cam. Những đám mây bên dưới bốc hơi, tan rữa dần. Không khí đại hàn rét thấu
xương nặc mùi hoa quả mọng nước. Lớp băng mỏng trên mặt đường vỡ ràn rạt dưới
vó ngựa. Hơi con ngựa thở ra bị gió tạt ngay từ hai lỗ mũi về phía sau, bám lại
trên bờm nó như sương muối. Xe chạy nhanh, trời lại lạnh, làm cho Sergey
Platonovich cảm thấy trong lòng bớt xao xuyến. Lão lắc lư ngủ gà ngủ gật, lưng
cọ đi cọ lại trên cái ghế trải đệm. Trong khi đó một đám Cô- dắc mặc áo lông
đứng đen ngòm trên bãi thôn. Bọn đàn bà khép tà những chiếc áo lông kiểu sông
Đông viền lông rái cá nâu, đứng túm tụm với nhau như đàn cừu.
Gã giáo viên Balanda đứng giữa đám người, một chiếc khăn
che cặp môi xám ngoét trên cái khuyết của chiếc áo lông ngắn có đính một dải
đỏ. Gã nói sôi nổi, hai con mắt long lanh.
- Bà con thấy đấy, thế là chấm dứt được cái chính thể
chuyên chế chết tiệt ấy rồi! Bây giờ thì con em bà con không còn bị chúng nó
sai mang roi đi trấn áp công nhân nữa, bà con không còn phải đi phục dịch nhục
nhã cho cái thằng Nga hoàng hút máu ấy nữa. Quốc hội lập hiến sẽ làm chủ nước
Nga mới, một nước Nga tự do. Quốc hội lập hiến sẽ có thể xây dựng một cuộc sống
mới, có thể nói là một cuộc sống sáng lạng?
Mụ nhân tình ăn ở với gã đứng sau lưng kéo gấu cái áo
lông ngắn của gã, khẽ van:
- Thôi đi anh Michia? Anh không nhớ là làm như thế nầy có
hại cho anh à thôi đừng nói nữa! Lại đến ho ra máu mất thôi… anh Michia!
Những người Cô- dắc đứng nghe Balanda nói rồi bối rối cúi
gầm mặt xuống, họ húng hắng ho, cố giấu nét cười. Nhưng người ta đã không để
cho gã giáo viên nói hết lời. Trong mấy hàng đầu có một giọng trầm trầm nói vẻ
thương hại:
- Chưa biết chừng cuộc đời rồi cũng sáng sủa thật đấy,
nhưng anh bạn thân mến ạ, anh sẽ không được sống tới ngày ấy đâu. Thôi tốt nhất
hãy về nhà đi kẻo ngoài nầy lạnh lắm…
Balanda lắp bắp nói không hết câu rồi rời khỏi đám đông
mặt mày ủ rũ.
Sergey Platonovich đến Yagonoie thì đã giữa trưa. Emelian
nắm dây hàm thiếc, dắt con ngựa ra chỗ những cái máng ăn đan bằng cành cây ở
gần tàu ngựa, và trong khi chủ hắn xuống xe, lật tà áo lông móc ra một chiếc
khăn tay, hắn đã kịp tháo xong đồ thắng cho con ngựa, đắp lên lưng nó cái áo.
Một con chó săn rất cao lông trắng đốm nâu thấy có người lạ bèn duỗi những cái
chân gân guốc dài nghêu, ngáp dài đứng dậy, ra đón Sergey Platonovich ở ngoài
thềm.
Những con chó khác đang nằm nối đuôi nhau thành một chuỗi
đen sì ở bên thềm, cũng lười nhác bắt chước con chó kia đứng dậy.
"Mẹ khỉ, đâu ra mà lắm thế nầy!" - Sergey
Platonovich sợ hãi đưa mắt nhìn quanh, chân cứ giật lùi trên những bậc thềm.
Phòng ngoài khô ráo và sáng sủa nhưng nặc mùi chó và mùi
dấm chua loét. Bên trên một cái rương lớn, có đóng một cái mắc áo bằng sừng
hươu với những cái gạc vươn ra rất rộng, trên mắc áo tren một chiếc mũ sĩ quan
lông cừu non, một chiếc mũ có tai dài, dây ngù bạc và chiếc áo choàng dạ kiểu
Kavkaz. Sergey Platonovich đưa mắt nhìn về phía ấy, bất giác có cảm tưởng như
một người đen sì, mình đầy lông lá, đáng đứng trên chiếc rương, và nhún vai như
thắc mắc điều gì. Từ căn phòng bên bước ra một người đàn bà mắt đen thân hình
đầy đặn. Người ấy chăm chú nhìn Sergey Platonovich cởi áo ngoài và cất tiếng
hỏi, song những nét nghiêm trang trên bộ mặt ngăm ngăm rất đẹp không có chút gì
thay đổi:
- Ông đến gặp cụ Nicolai Alexeevich phải không? Tôi sẽ
vào trình cụ lớn ngay.
Người đàn bà bước vào phòng khách mà không gõ cửa vào
xong khép chặt cánh cửa sau lưng. Nhìn người đàn bà mắt đen: đẫy đà và xinh
đẹp, Sergey Platonovich mãi mới nhận ra Acxinhia nhà Astakhov. Còn nàng thì vừa
trông thấy lão đã nhận ra ngay, rồi mím chặt cặp môi chín mọng như quả anh đào,
bước vào nhà trong: người ưỡn thẳng nom rất thiếu tự nhiên, hai khuỷu tay trần
trắng bệch hơi đưa ra đưa vào. Một phút sau chính lão già Litnhitki bước ra
theo Acxinhia. Lão mỉm cười với một vẻ hồ hởi không vồ vập lắm và nói trầm
trầm, giọng kẻ cả:
- À! Nhà thương gia. Ngọn gió nào đưa ông tới đây thế
nầy? Xin mời… - Lão đứng tránh sang bên, khoát tay mời khách vào phòng khách.
Với cái vẻ cung kính mà lão đã quen phơi bày mỗi khi đứng
trước một nhân vật quyền thế. Sergey Platonovich cúi rạp mình chào rồi bước vào
phòng khách. Evgeni Nicolaevich nheo hai con mắt sau cái kính kẹp mũi, ra đón
lão:
- Ông đến chơi thế nầy thật tốt quá, ông Sergey
Platonovich yêu quý? Xin chào ông. Nhưng tại sao hình như ông già đi như thế
nầy? Hả?
- Thôi đi, thưa ngài Evgeni Nicolaevich. Tôi còn đang
muốn sống lâu hơn cả ngài nữa đấy. Mà tình hình của ngài thì như thế nào? Ngài
vẫn nguyên vẹn không sứt mẻ gì chứ?
Evgeni cười nhe mấy cái răng bịt vành vàng rồi khoác tay
khách kéo đến chiếc ghế tựa. Hai người ngồi bên chiếc bàn nhỏ, trao đổi với
nhau những câu chẳng có ý nghĩa gì cả và chỉ cố tìm ra trên mặt nhau những nét
biến đổi từ sau cuộc gặp gỡ lần trước. Lão địa chủ bảo người nhà pha trà đãi
khách rồi cũng bước vào, cái tẩu cong to kếch xù cắn giữa hai hàm răng bốc khói
mù mịt. Lão đứng lại bên chiếc ghế bành. Sergey Platonovich ngồi, đặt một bàn
tay già nua xương xẩu, rất dài lên bàn và hỏi:
- Trong thôn ông tình hình như thế nào? Ông đã được nghe…
tin mừng chưa?
Sergey Platonovich đưa mắt từ dưới lên nhìn những vết
nhăn nheo nhợt trên cổ và trên cái cằm cạo nhẵn nhụi của viên tướng rồi thở
dài:
- Chưa nghe thấy sao được!
- Tình hình chuyển biến tới bước nầy cũng là do một sự
tiền định nghiệp báo thế nào ấy… - Viên tướng nuốt một hơi khói, chỗ lộ háu,
rung rung. - Hồi chiến tranh mới bùng nổ tôi đã dự cảm thấy chuyện nầy rồi. Bây
giờ tôi lại nhớ tới Merekovsky 2 … con còn nhớ không, Evgeni? Cuốn "Petro
và Aleksey" ấy mà 3 Trong đó, sau khi bị tra tấn, đông cung thái tử
Aleksey đã nói với bố: "Máu của tôi rồi sẽ chảy xuống đầu con cháu của
cha…".
- Ở chỗ chúng tôi chẳng được biết điều gì rành rọt -
Sergey Platonovich nói giọng xúc động, lão ngọ nguậy trên chiếc ghế bành, châm
thuốc hút rồi nói tiếp - Đã tuần nay chẳng nhận được tờ báo nào. Toàn những tin
đồn hết sức hoang đường, cả một tinh thần hoang mang ngỡ ngàng. Đúng là tai vạ
đến nơi rồi? Tôi vừa nghe tin ngài Evgeni Nicolaievich về nghỉ phép là lập tức
quyết định đến hầu cụ lớn để hỏi xem ngoài ấy hiện nay tình hình ra sao và sau
nầy sẽ có những chuyện gì xảy ra.
Evgeni bắt đầu kể, nụ cười đã biến mất trên bộ mặt trắng
bệch cạo nhẵn nhụi của hắn.
- Những biến cố thật là khủng khiếp… Binh sĩ đúng là đã
hoàn toàn mất tinh thần, chúng không muốn chiến đấu nữa vì mệt mỏi. Nếu nói hai
tiếng "binh sĩ theo nghĩa mà chúng ta đã quen hiểu thì thật ra năm nay
chúng ta đã không còn một tên binh sĩ nào nữa rồi. Binh sĩ đã biến thành những
bầy tội phạm, man rợ, không còn có kỷ luật nào kiềm chế được nữa. Nhưng cha tôi
đây chẳng hạn… cha tôi không thể nào hình dung được tình hình như thế nào đâu.
Cha tôi không thể tưởng tượng được quân đội ta đã tan rã tới mức độ như thế
nào. Tự ý bỏ vị trí chiến đấu, cướp của, giết dân chúng, giết sĩ quan… Hiện nay
không chấp hành mệnh lệnh chiến đấu là điều rất thông thường.
- Con cá nó thối từ trên đầu, - lão già Litnhitki thở ra
một câu cùng với một hơi thuốc.
- Con thì không nói thế đâu, - Evgeni cau mày, hai bên
thái dương đầy những sợi gân giật giật trong một cơn thần kinh. - Con thì không
nói như thế… Bị bọn Bolsevich làm tan rã, quân đội ta đã thối từ dưới thối lên.
Ngay các đơn vị Cô- dắc, nhất là các phân đơn vị đóng gần sát bộ binh, càng
không vững vàng về tinh thần. Chúng mệt mỏi không tả được và chỉ khao khát được
về nhà… Trong khi đó bọn Bolsevich…
- Thế chúng nó muốn gì? Sergey Platonovich không nhịn được
nữa.
- Ồ, - Evgeni cười nhạt. - Chúng nó
muốn… điều chúng nó muốn thì cả vi trùng dịch tả cũng không tai hại bằng! Tai
hại ở chỗ nó rất dễ nhiễm vào người và ăn sâu vào các đám quần chúng binh sĩ.
Tôi nói đây là về mặt tư tưởng. Trong chuyện nầy thì dùng đến phương pháp cách
ly nào cũng không có tác dụng gì cả. Tất nhiên bọn Bolsevich cũng có những đứa
có tài, tôi đã từng được tiếp xúc với những thằng như thế, chúng nó đúng là
những thằng cuồng tín, nhưng tuyệt đại đa số là những thằng bê tha bạt mạng, vô
đạo đức. Bọn chúng nó thì chẳng nghĩ gì tới nội dung của học thuyết Bolsevich
mà chỉ muốn kiếm cơ hội cướp bóc, chuồn khỏi mặt trận. Trước hết chúng nó muốn
cướp chính quyền vào tay chúng nó, chấm dứt cái mà chúng nó gọi là "chiến
tranh đế quốc" bằng bất cứ điều kiện nào, dù bằng con đường ký hoà ước
riêng, rồi trao ruộng đất cho dân cày, nhà máy cho thợ thuyền. Tất nhiên những
điều đó thì vừa không tưởng vừa ngu xuẩn, nhưng chính nhờ những chuyện ấu trĩ
như thế mà chúng nó chiếm được cảm tình của lính tráng.
Evgeni vừa nói vừa xoay xoay trong
năm đầu ngón tay cái "bót" bằng ngà voi và cố giữ không để lộ nỗi tức
tối nấu nung trong lòng. Sergey Platonovich ngả hẳn người về phía trước lắng
nghe như sắp sửa nhảy chồm lên. Lão già Litnhiki nhai nhai chòm ria trắng xanh,
loạt soạt chiếc áo choàng lông đen lồm xồm, đi đi lại lại trong phòng.
Evgeni kể lại chuyện ngay trước cuộc
chính biến, hắn đã bắt buộc phải chạy khỏi trung đoàn vì sợ bọn Cô- dắc trả
thù, về những sự kiện xảy ra ở Petrograd mà hắn đã được chứng kiến.
Câu chuyện lắng đi một phút. Lão già
Litnhitki nhìn thẳng vào chỗ tinh mũi của Sergey Platonovich và hỏi:
- Thế nào, ông có mua con ngựa xám
không? Mùa thu qua ông đã xem nó rồi đấy, con của con "Boiarunhia" ấy
mà.
- Bây giờ thì còn bụng dạ nào mà
nghĩ tới việc ấy nữa, bẩm cụ lớn Nicolai Alexeevich? - lão Mokhov nhăn nhó mặt
mày nom đến là thảm hại và vung tay một cách tuyệt vọng.
Trong khi đó, dưới nhà đầy tớ,
Emelian đã sưởi ấm, đang ngồi uống trà và lau mồ hôi trên má hây hây như củ cải
đường bằng một chiếc khăn tay đỏ, kể những chuyện mới xảy ra trong thôn.
Acxinhia cuốn quanh mình một chiếc khăn len lồm xồm, đứng tì ngực vào lưng
giường trạm trổ.
- Có lẽ nhà tôi đổ dụi mất rồi còn
gì? - Nàng hỏi.
- Làm gì đến nỗi đổ dụi vẫn còn vững
chán? Có ai động gì đến nó đâu? - Emelian trả lời tách bạch từng tiếng một cách
rất vất vả. - Nhà láng giềng chúng tôi, nhà Melekhov ấy, không hiểu họ làm ăn
sinh sống ra sao?
- Họ sinh sống cũng bình thường
thôi.
- Petro không về nghỉ phép à?
- Hình như chưa về thì phải.
- Thế còn Grigori? Griska nhà bên ấy ra sao?
- Sau lễ Nô- en, thằng Griska có về. Năm nay vợ nó đẻ
sinh đôi… mà Grisaka thì… bị thương, nên được về.
- Bị thương hả bác?
- Chứ còn sao nữa? Nó bị thương ở tay. Khắp người rách
nát như con chó dái sau trận xâu xé! Thật khó biết trên người nó bây giờ huân
chương hay những vết đâm chém nhiều hơn.
- Thế anh ta nom người ra sao, Griska ấy mà? - Acxinhia
cố nén một cơn nghẹn khổ trong họng, hỏi xong húng hắng ho để giọng đỡ thất
thanh.
- Vẫn thế thôi. Mũi thì quặp, mặt mũi thì đen sì Thổ Nhĩ
Kỳ vẫn hoàn Thổ Nhĩ Kỳ, đáng như thế nào thì đúng là như thế.
- Tôi có hỏi như thế đâu… Anh ấy có già đi hay không?
- Dịch tả dịch hạch nào biết được nó: có lẽ cũng già đi
chút ít. Vợ nó đẻ sinh đôi, thế thì nó cũng chẳng già đi nhiều lắm đâu.
- Ở đây lạnh quá… - Acxinhia run run hai vai, nói xong bỏ
ra ngoài.
Emelian rót tách trà thứ tám đưa mắt nhìn Acxinhia, rồi
nói dấm dẳn từng tiếng, giọng chập chững như bước chân người mù:
- Đồ bẩn thỉu đê tiện, đồ thối thây: đốn mạt như thế là
cùng. Hồi còn đi đôi ủng thô chạy khắp thôn đã lâu la gì đâu thế mà nay đã
thích nói chữ rồi. "Buốt" thì bảo là "lạnh". Những con đàn
bà như thế nầy chỉ gây tai hoạ. Những của thối thây ấy tôi thì… Cái loài rắn
độc! Cũng ra cái điều… "ở đây lạnh quá"… Khắm quá nước mũi ngựa! Xì!
Hắn tức quá, chưa uòng hết tách trà thứ tám đã đứng dậy,
làm dấu phép đàng hoàng nhìn quanh rồi vừa bước ra ngoài, vừa cố ý quệt ủng làm
bẩn cái mặt sàn sạch bong.
Suốt chặng đường về, cả thầy lẫn tới đều mặt mũi cau có,
chẳng ai kém ai. Cơn giận do Acxinhia gây nên, Emelian đổ cả lên đầu con ngựa.
Hắn quật đầu roi vào chỗ hiểm của nó, chửi nó nào là "đồ ườn xác chảy
thây", nào là "đồ thọt". Trái với lệ thường, cho đến khi về tới
thôn, Emelian chẳng nói với chủ một lời nào. Sergey Platonovich cũng len lét
không hé răng.
--- ------ ------ ------ -------
1 Rasputin (1871-
1915) Cố đạo trong cung Nicolai đệ nhi, có uy tín rất lớn đối với vua Nga và
hoàng hậu, can thiệp nhiều vào các công việc trong nước, cả bên đạo lẫn bên
đời. Thật ra chỉ là một kẻ đầu cơ chính trị, xuất thân làm nghề ăn cắp ngựa.
Nổi tiếng là dâm loạn và ngu dốt. Ngày 31- 12- 1916 bị một nhóm quí tộc Nga
giết chết. (ND).
2 Merekovsky
(1865 - 1941) một nhà văn phản động Nga, tác giả của nhiều tiểu sử nhân vật nổi
tiếng và nhiều tiểu thuyết lịch sử, sau Cách mạng tháng Mười bỏ trốn sang
Paris, hoạt động chống chính quyền Xô- viết (ND).
3 Aleksey
Petrovich (1690 - 1718) con cả của hoàng đế Petro đệ nhất, chống lại các chính
sách cải cách của bổ, cùng với bọn phản nghịch bên trong và bọn can thiệp bên
ngoài âm mưu làm loạn, bị bố ra lệnh truất ngôi đóng cung rồi đem xử tử (ND).
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 86
Trước khi cuộc chính biến tháng hai
bùng nổ, lữ đoàn đầu tiên của một sư đoàn bộ binh nằm trong lực lượng dự bị của
Mặt trận Tây Nam đã bị điều khỏi mặt trận cùng với Trung đoàn Cô- dắc sông Đông
số 27 phối thuộc với nó. Mục đích là chuyển tới những vùng quanh kinh đô để đàn
áp các vụ rối loạn mới chớm nở. Lữ đoàn nầy được về hậu phương, được phát quân
trang mùa đông mới, ăn uống phè phỡn một ngày một đêm, rồi ngay hôm sau đã bị
tống lên những toa xe lửa để đưa đi. Nhưng các sự kiện đã xảy ra nhanh hơn các
trung đoàn hành quân về hướng Minsk; ngay hôm lên đường đã truyền lan những tin
dồn dập nói rằng hoàng đế đã ký tuyên cáo thoái vị tại Tổng hành dinh.
Lữ đoàn tiến quân đến giữa đường thì
quay trở lại. Trung đoàn 27 được lệnh xuống tàu ở ga Razgol. Các đường ray đều
đầy những đoàn tàu. Một số lính bộ binh đi lại trên sân ga, họ đeo những băng
đạn trên áo ca- pốt, súng trường mới toanh chế tạo tinh xảo, kiểu Nga nhưng làm
ở Anh. Trong đám bộ binh đó, nhiều người có vẻ hồi hộp xao xuyến. Họ ngại ngùng
đưa mắt nhìn đơn vị Cô- dắc tập hợp thành từng đại đội.
Một ngày ảm đạm sắp trôi qua. Nước
róc rách chảy xuống từ trên mái các ngôi nhà trong ga những vũng nước trên các
tuyến đường loang lổ váng dầu phản chiếu bầu trời xám xịt với những đám mây lổm
ngổm như đàn cừu. Các đầu máy dồn toa rúc còi, tiếng còi âm thầm, nghe như kiệt
sức. Trung đoàn tập hợp sau dãy nhà kho trong đội hình trên ngựa chờ lão lữ
đoàn trưởng. Chân ngựa ướt đăm đến túm lông phía trên móng bốc hơi mù mịt.
Những con quạ chẳng sợ gì cả, đến đậu ngay phía sau đội hình, vừa bới vừa mổ
những đống phân ngựa lổn nhổn vàng vàng.
Lão lữ đoàn trưởng cưỡi một con ngựa
huyền có chiều cao tiêu chuẩn, tới gần đơn vị Cô- dắc, có viên trung đoàn
trưởng đi theo. Lão ghìm cương đưa mắt nhìn các đại đội trưởng. Lão bắt đầu
nói, bàn tay không đeo găng của lão cứ như xua ra những lời âm thầm, không chút
tin tưởng:
"Hỡi anh em đồng hương? Thuận
theo ý dân, Hoàng đế Nicolai đệ nhị trị vì đến nay thì… è- è- è… thoái vị.
Quyền bính được chuyển cho Uỷ ban lâm thời của Duma Quốc gia. Quân đội, trong
đó có anh em, phải bình tĩnh chịu đựng… è- è- è… cái tin đó… Nghĩa vụ của người
dân Cô- dắc là bảo vệ Tổ quốc chống lại những sự mưu hại của các kẻ thù… è- è-
è… có thể nói là các kẻ thù bên ngoài. Chúng ta sẽ không dính dáng vào những vụ
rối loạn đã bắt đầu nổ ra, chúng ta hãy để cho bên dân sự chọn lấy con đường tổ
chức chính phủ mới.
Chúng ta phải đứng ngoài, không can
dự vào việc đó! Đối với con nhà binh thì chiến tranh và chính trị là hai chuyện
không dung hợp với nhau… Trong những ngày mà mọi cơ sở đều… è- è- è… bị lay
chuyển ghê gớm như thế nầy… è- è- è… chúng ta phải cứng rắn như…
Lão lữ đoàn trưởng nầy vốn là một
viên tướng già bất tài, suốt đời sống với lính tráng, không quen nói ở chỗ đông
người, nên luống cuống mãi moi óc không ra một hình ảnh làm thí dụ. Trên khuôn
mặt bóng nhãy của lão, hai hàng lông mày đưa lên đưa xuống một cách đau khổ
trong cơn cấm khẩu đột ngột. Các đại đội vẫn kiên nhẫn chờ đợi.
- è- è- è… như gang thép. Là dân Cô-
dắc nhiệm vụ nhà binh của anh em kêu gọi anh em phục tùng các quan trên. Chúng
ta sẽ vẫn chiến đấu chống quân giặc một cách dũng cảm, vinh quang, cũng như
trước kia, còn trên kia… - Viên tướng uể oải đưa chéo tay về phía sau - ta cứ
để Duma Quốc gia quyết định vận mệnh của nước nhà. Chúng ta hãy chấm đứt chiến
tranh đã, rồi đến lúc ấy sẽ có thể tham dự vào đời sống trong nước, còn bây giờ
thì è- è- è… không thể được. Chúng ta không thể giao phó quân đội cho ai được
Không thể có chính trị trong quân đội!
° ° °
Vài hôm sau, cũng tại ga nầy, người
ta làm lễ tuyên thệ trung thành với chính phủ lâm thời, người ta đi dự những
cuộc mít tinh, tụ tập thành những nhóm đồng hương rất lớn, nhưng vẫn xa lánh
những người lính bộ binh đóng đầy sân ga. Sau đó người ta bàn tán rất lâu về
những bài diễn văn được nghe, cố đoán mò một cách thiếu tin tưởng những từ ngữ
người ta thấy là đáng nghi. Nhưng không biết vì sao trong tất cả mọi người đều tự
nhiên hình thành một niềm tin có được tư do thì tức là sẽ chấm dứt được chiến
tranh. Niềm tin ấy đã mọc rễ sâu trong lòng binh sĩ, đến nỗi bọn sĩ quan không
tài nào nói lại được mà chúng thì chỉ muốn nhồi vào đầu óc mọi người một điều
là nước Nga phải chiến đấu đến cùng.
Sau cuộc chính biến bùng nổi, tinh
thần hoảng loạn đã xâm chiếm các phần tử lớp trên trong quân đội, rồi sau cũng
phản ánh cả trong các tầng lớp dưới. Sư đoàn bộ tựa như quên bẵng cái chuyện
hiện có một lữ đoàn điều đến giữa đường thì bị nghẽn. Từ hôm xuống xe, lữ đoàn
đã chén sạch tám ngày lương thực được cấp, vì thế bọ lính kéo đàn kéo lũ đến
các làng lân cận, ngoài chợ bát đầu có rượu bán ở những chò nào đó, và trong
những ngày ấy chẳng ai lấy làm lạ khi thấy những tên say nhè đeo lon hạ sĩ quan
và sĩ quan.
Bị cuộc chuyển quân làm xa rời các
công việc mà họ thường phải làm hàng ngày, bọn Cô- dắc mệt mỏi chán ngán trong
các toa xe có sưởi ấm, và chỉ chờ ngày được về vùng sông Đông (có tin đồn những
tên bị gọi khoá hai sẽ được phục viên, và người ta đã tin như thế trong một
thời gian rất lâu), họ chểnh mảng không chịu chăm sóc ngựa, ngày ngày thất thểu
ngoài bãi chợ, họ bán tống bán táng những thứ thường dùng mang từ mặt trận về:
chăn Đức, lưỡi lê, cưa, áo ca- pôt, balô da, thuốc lá…
Lệnh quay trở về mặt trận đã được
đón bằng những lời kêu ca phàn nàn công khai. Đại đội hai từ chối không chịu
lên đường, lính Cô- dắc không để cho nối đầu máy vào các toa xe, nhưng viên
trung đoàn trưởng doạ tước vũ khí, vì thế tinh thần phản đối đã giảm dần, lắng
đi. Đoàn tàu nhà binh chuyển bánh ra mặt trận.
- Thế là nghĩa lý ra sao hở anh em?
Tự do chỉ là tự do, còn chiến tranh thì như thế là lại phải đổ máu à?
- Cái lối đè nén áp bức cũ lại ngóc
đầu rồi đấy!
- Vậy cho cái lão vua ấy về vườn thì
được tích sự gì?
- Đối với chúng ta thì điều gì hồi
có lão là tốt, bây giờ cũng vẫn thích hợp…
- Vẫn chỉ là một cái quần, có điều
là mặt trước xoay thành mặt sau thôi.
- Đúng thế đấy!
- Không biết đến bao giờ mới hết tội
hết nợ?
- Đã hơn hai năm khẩu súng không rời
tay rồi! - Đó là những lời bàn ra tán vào trên các toa xe.
Khi đoàn tầu chạy đến một ga đầu mối
bọn lính Cô- dắc đều nhảy hết trên các toa xe xuống như đã hẹn nhau từ trước,
rồi không kể gì đến những lời khuyên bảo và đe doạ của viên trung đoàn trưởng,
họ mở luôn một cuộc mít tinh. Viên chỉ huy và người xếp ga đã già chạy rối lên
trong biển áo ca- pôt xám xịt của binh sĩ Cô- dắc, cố dỗ họ giải tán trở về các
toa xe và để cho các tuyến đường được thông nhưng vô hiệu quả. Bọn Cô- dắc căng
thẳng tinh thần chú ý nghe từ đầu đến cuối lời phát biểu của một hạ sĩ đại đội
ba. Sau anh ta đến lượt Mangiulov, một anh chàng nhỏ bé, nhưng người rất cân
đối.
Môi Mangiulov tái nhợt, miệng méo
xệch, nom đến là hung dữ, những lời căm hờn bật ra một cách khó khăn:
- Anh em đồng hương ạ? Không thể để
như thế nầy được nữa? Một lần nữa, họ lại muốn lôi chúng ta vào cảnh sống khổ
sống nhục. Họ muốn lừa dối chúng ta! Một khi cách mạng đã bùng nổ và tự do đã
đem lại cho toàn dân, thì tức là phải chấm dứt chiến tranh, nhân dân cũng như
chúng ta nào có muốn chiến tranh làm gì? Tôi nói có đúng không hử? Có thật như
thế không hử?
- Đúng đấy!
- Chiến tranh thì kẹp mẹ nó xuống
dưới đuôi con ngựa cái ấy!
- Tất cả chúng ta đều ngấy chiến
tranh lắm rồi!
- Quần sắp bục ra đến nơi… còn chiến
tranh cái gì?!
- Chúng ta khô- ô- ông muốn chiến
tranh nữa!
- Về nhà thôi!
- Tháo đầu máy ra! Nào Fedot, lại
đây một tay!
- Anh em đồng hương ơi? Hượm đã nào!
Anh em đồng hương ơi? Anh em ơi! Ma quỉ đã ám vào mồm miệng, ruột gan, tâm hồn anh
em rồi! Anh em ơi? - Mangiulov gào lên, cố át những tiếng la thét của hàng ngàn
con người - Hượm đã nào! Đừng động đến đầu máy làm gì! Chúng ta chẳng cần gì
đến nó, còn cái chuyện có lừa dối hay không thì… cứ để quan lớn trung đoàn
trưởng tuyên đọc cho chúng ta nghe văn kiện chính thức cho biết đơn vị thật có
bị gọi ra mặt trận hay chỉ là họ tự tiện làm liều thôi.
Viên trung đoàn trưởng như điên như
cuồng, không tự chủ được nữa. Môi run bần bật lão đọc to cho mọi người nghe bức
điện điều trung đoàn trở về mặt trận mà lão đã nhận được ở sư đoàn bộ. Mãi lúc
ấy trung đoàn mới chịu lên các toa xe.
Có sáu gã Cô- dắc người thôn
Tatarsky thuộc trung đoàn 27 cùng ngồi trên một toa xe có sưởi ấm: Petro
Melekhov, Nicolai Kosevoi chú ruột của Miska Kosevoi, Anikey, Fedot Bodovskov,
Merkulov, một gã mặt mũi hao hao như dân Di- gan, có bộ râu đen xoăn tít và hai
con mắt màu nâu nhạt lúc nào cũng long xòng xọc; Maxim Grianov, láng giềng nhà
Korsunov, một gã phóng đãng, vui nhộn. Trước chiến tranh Maxim đã dành được khắp
trấn cái danh tiếng chẳng có gì vẻ vang là một thằng ăn cắp ngựa gan liều tướng
quân. "Thằng Merkulov mới trông thì cứ tưởng nó vừa dắt ngựa nhà người ta
đi, vì của đáng tội nom nó hệt như một thằng Di- gan, nhưng… nhưng nó có lấy gì
của người khác đâu. Còn cậu Maxim cậu thì thoáng thấy cái đuôi con ngựa là đã
ngứa ngáy chân tay rồi?" - Bọn Cô- dắc luôn luôn chế Grianov như thế.
Maxim đỏ mặt, nheo hai con mắt xanh
da trời như màu hoa đay, pha trò một cách thô bỉ để chống chế: "Bà cụ
thằng Merkulov đã ngủ với một gã Di- gan, có lẽ bà cụ nhà mình đã ghen, nếu
không mình làm sao mà… cầu Chúa chứng giám cho…"
Gió thổi thông thống qua toa xe.
Những con ngựa được đắp áo và buộc bên những máng ăn làm vội vã. Giữa toa có
một đống củi đốt trên đám đất giá băng. Khói bốc lên mù mịt từ củi ướt cứ bị
hút ra khe cửa. Bọn lính Cô- dắc ngồi quanh đống lửa trên những chiếc yên ngựa.
Họ hong những dải băng quấn chân ẩm ướt hôi khắm vì mồ hôi. Fedot Bodovskov hơ
lửa hai bàn chân cong cong, một nụ cười thoả mãn ẩn hiện trên bộ mặt có hai gò
má nhọn hoắt như mặt dân Kalmys, Grianov dùng chỉ sáp khâu quàng khâu quáy cái
đế ủng bị tuột chỉ. Hắn vừa lúi húi khâu vừa kể bằng một giọng khàn đặc vì
khói, không biết hắn định kể cho ai nghe:
- Hồi còn nhỏ, mùa đông mình thường
leo lên chỗ nằm trên bếp lò cho bà mình mò mẫm bới tóc bắt chấy cho mình (những
năm ấy cụ đã hơn trăm tuổi rồi!). Cụ thường nói: "Cháu yêu của bà, thằng
Maxim yêu quý của bà! Xưa kia các cụ sinh sống có khuôn phép và chẳng phải chịu
một tai ương hoạn nạn nào cả. Nhưng cháu yêu của bà ơi, cháu sẽ phải sống tới
một thời mà cháu sẽ thấy khắp mặt đất chăng đầy dây thép, thấy những con chim
mỏ sắt bay trên trời xanh, bổ nhào xuống mổ người ta như những con quạ trắng mổ
quả dưa bở ấy. Con người sẽ chết như rạ về các bệnh dịch tả, dịch hạch, sẽ phải
chịu đói kém, anh em sẽ đánh lẫn nhau, con sẽ chống lại bố… Những người còn
sống sót thì cũng chẳng khác gì những sợi cỏ sau một đám cháy". Thật chăng
là như thế, - Maxim nín lặng một lát rồi nói tiếp - Những điều cụ nói đến nay
đã sờ sờ trước mắt. Người ta đã nghĩ ra điện tín, dây thép đấy chứ còn gì nữa.
Còn những con chim sắt là máy bay. Nó đưa anh em mình về với ông bà ông vải có
phải ít đâu? Rồi sẽ còn có nạn đói. So với những năm trước, số thóc nhà mình
gieo chỉ còn một nửa, mà nhà nào cũng đều như thế. Trong các trấn chỉ còn độc
người già và trẻ con, nếu chẳng may mất mùa thì đói ngay chứ gì?
- Nhưng còn cái chuyện anh em đánh
lẫn nhau thì có lẽ là nói bậy đấy, - Petro Melekhov vừa cời lại củi trong đống
lửa vừa hỏi.
- Chờ đấy mà xem, nhân dân rồi cũng
sẽ đi đến cái cảnh ấy thôi.
- Không lập được một chính quyền sẽ
loạn cho mà xem - Fedot Bodovskov nói xen vào.
- Rồi sẽ còn phải đi trấn áp cái bọn
quỷ sứ.
Đầu tiên cậu hãy nếm cho hết những
cái khổ vì bọn Đức đã, - Miska bật cười và nói.
- Không sao, chúng ta sẽ còn choảng
nhau…
Anikey vờ làm vẻ sợ hãi, hắn nhăn bộ
mặt nhẵn thín như mặt đàn bà, kêu lên:
- Lạy Đức mẹ lắm lông chân của chúng
con, sẽ vẫn còn cái chuyện "choảng nhau" ấy đến bạo giờ nữa mới thôi?
Cho đến khi cái thằng tín đồ phái
Skopet 1như cậu mọc lông mới thôi, - Miska cho luôn Anikey một câu.
Những tên lính ngồi quanh đống lửa
cùng phá lên cười Petro sặc khói, ho một thôi một hồi, rồi nhìn Anikey bằng cặp
mắt ràn rụa nước mắt và chỉ chỉ ngón tay về phía hắn.
- Lông lá là một thứ ngu xuẩn…, -
Anikey ngượng quá, lắp bắp:
- Nó mọc cả ở những chỗ chẳng cần
mọc làm gì… Nhưng Miska ạ, cậu đã anh em như thế cũng chẳng được gì đâu.
- Thôi, như thế đủ rồi? Anh em mình
chịu đựng quá quắt lắm rồi! - Maxim bất thần phát khùng. - Chúng ta ở đây thì
chịu khổ sở, chết vì chấy rận, trong khi đó thì vợ con ở nhà túng thiếu đói
khổ, như thế thì còn nghĩa lý ra sao nữa? Cắt thịt ra cũng chẳng còn máu mà
chảy nữa đâu.
- Có gì mà cậu lên cơn phẫn nộ như
thế hử? - Petro nhai nhai một món râu vàng như màu lúa chín, hỏi giọng vẻ nhạo
báng.
- Có gì thì đã hai năm rõ mười rồi,
- Merkulov cố giấu nét cười sau bộ râu xoăn tít như râu một gã Di- gan, trả lời
thay Maxim. - Rõ ràng là những thằng Cô- dắc chúng ta đang ăn không ngồi rồi
đến chán ngấy, đang nhớ nhà… Ta hãy tưởng tượng cảnh một anh chàng chăn gia súc
xua bò ngựa ra đồng ăn cỏ. Trong khi sương mai chưa bị nắng hút khô thì bò ngựa
chẳng sao cả, vẫn ăn cỏ như thường, nhưng đến khi mặt trời lên cao bằng cây
sồi, mòng bắt đầu vo ve bay đến cắn gia súc, thế là… - Merkulov đưa mắt cho bọn
Cô- dắc một cách tinh quái, rồi quay về phía Petro nói tiếp - Đến lúc ấy thì
thưa ngài quản, cả đàn bắt đầu phát điên phát cuồng. Mà chính ngài cũng biết
đấy! Hẳn là ngài cũng chẳng xuất thân từ gia dình quan lại hay trí thức gì?
Chính ngài cũng đã từng xoắn đuôi bò để nghịch chứ gì… Thường chỉ cần có một
con bò cái tơ vắt đuôi lên lưng, rống lên một tiếng, và làm thêm cái trò gì
nữa, thế là cả đàn lồng lên chạy theo ngay. Và anh chàng chăn gia súc chỉ còn
cách chạy theo: "ái chà chà! ái chà chà…" Nhưng đến lúc ấy thì còn
làm gì được nữa? Cả đàn lao đi ào ào như nước vỡ bờ, chẳng kém gì hồi chúng ta
tràn vào địa trận của quân Đức ở gần Netvilska. Đến lúc như thế thì thử hỏi còn
có gì ngăn cản nổi?
- Cậu nói loanh quanh như thế rồi
định đi đến đâu vậy?
Merkulov không trả lời ngay. Hắn
cuốn chòm râu vào quanh một ngón tay, giật một cái thật mạnh, rồi nói bằng
giọng thiết thực, không cười nữa:
- Chúng ta đánh nhau đến nay đã là
năm thứ ba rồi… có phải thế không? Chúng ta đã bị lôi cổ vào trong các chiến
hào đã đến năm thứ ba rồi. Để làm gì và vì sao thế? - Chẳng ai có thể hiểu
được… Điều mà mình muốn nói là không bao lâu nữa sẽ có một anh chàng Grianov
hay Melekhov nào đó chuồn khỏi mặt trận, rồi toàn trung đoàn sẽ theo anh ta, và
toàn thể quân đội sẽ làm theo trung đoàn đó…
- Thế là sạch sành sanh!
- Cả cậu cũng theo…
- Theo hẳn đi chứ! Mình có mù đâu,
mình nhìn thấy rõ ràng lắm chứ: tất cả đều đang treo trên đầu sợi tóc. Trong
lúc nầy chỉ cần có một người hô lên: "xéo đi!" thế là tất cả sẽ sụp
đổ như chiếc áo choàng cũ tụt khỏi vai. Đến năm thứ ba thì đối với chúng ta mặt
trời đã cao bằng cây sồi rồi.
- Vừa vừa chứ cậu? - Bodovskov
khuyên. - Khéo không Petro… không biết Petro đã là "ngài quản" rồi à?
- Đối với anh em từ xưa mình đã động
tới ai đâu, - Petro đỏ mặt tía tai.
- Cậu chớ vội nóng! Mình nói đùa đấy
thôi. - Bodovskov luống cuống ngọ nguậy những ngón chân sần sùi trên hai bàn
chân không đi ủng, rồi đứng dậy, đi lệt sệt về phía dãy máng ngựa.
Trong một góc toa, những gã Cô- dắc
thuộc những thôn khác thì thào bàn tán với nhau bên những hòm đựng rơm nén.
Trong số đó chỉ có hai anh chàng là người thôn Karginsky: Fadeev và Kargin, còn
tám gã kia là dân những thôn, những trấn khác.
Một lát sau nhóm nầy bắt đầu hát.
Alimov, một gã vùng sông Tria cất giọng hát một điệu nhảy, nhưng một gã khác đã
vỗ ngay vào lưng gã, gầm lên, giọng như người bị cảm:
- Thôi đi!
- Nầy các cậu mồ côi mồ cút kia ơi,
lại ngồi quanh lửa cho ấm? - Miska mời.
Mọi người cho thêm củi vào đống lửa
(những thanh củi nầy là di tích của một hàng rào bị phá ở một ga xép). Quanh
đống lửa tiếng hát vang lên vui vẻ hơn:
Con ngựa chiến sẵn yên cương trang
bị
Hí cạnh giáo đường, có lẽ nó chờ ai.
Bà mẹ già dắt cháu thơ đứng khóc,
Vợ trẻ tràn trề dòng lệ chua cay.
Từ trong cửa nơi thánh đường tôn
kính
Chàng bước ra, giáp trụ hiên ngang,
Thế là từ nay chàng Cô- dắc lên
đàng.
Trong toa xe bên, một chiếc
accordeon hai dây phím kéo phù phù cái hộp da xếp, chơi bài "người đàn bà
Cô- dắc". Sàn gỗ đấy, ủng nhà binh phát đấy, tha hồ mà dận văng mạng. Có
một anh chàng gào lên, giọng đến là khó nghe:
Nói sao hết nỗi niềm cay đắng,
Vòng của nhà vua
Siết lên cổ nhân dân Cô- dắc
Chặt như vậy, thở sao cho đặng
Fugachev khắp sông Dông rong ruổi
Kêu gọi hạ du, vùng khố rách áo ôm
"Hỡi các ataman, hỡi anh em Cô-
dắc!
Một giọng thứ hai kể lể liến thoắng,
át cả giọng thứ nhất, không biết anh chàng nầy hát mà cao một cách khó tưởng
tượng.
Thờ vua ta trung thành
Để vợ nhà ta nhớ
Kiếm được nhân tình, thế là quên vợ.
Còn nhà vua… ta tráng cho lớp thiếc
Nào ta đổ! Nầy thì xèo!
Huhu Hu Hu Ha!
Ha ha- hu hô hu ha- ha.
Bọn Cô- dắc bên toa nầy đã ngừng tiếng hát một lúc lâu
rồi. Họ lắng nghe những tiếng ồn ào vui nhộn hồn nhiên từ toa bên kia vọng
sang. Họ nháy mắt với nhau, mỉm cười đồng tình. Petro Melekhov không nhịn được
nữa, cũng phá lên cười.
- Chà, chúng nó bị quỷ dữ nhập vào hay sao thế?
Hai con mắt nâu, lấm tấm những tia vàng óng của Merkulov
lấp loáng những ánh rất vui. Hắn nhảy chồm dậy, chờ đúng nhịp rồi khẽ đập rất
nhanh mũi ủng xuống sàn, nghe như tiếng trống rung và bất thình lình ngồi sụp
xuống, nhẹ nhàng xoay tròn, nhảy điệu pri- xi- at- ca" người nhún nhún
uyển chuyển. Tất cả đều luân phiên nhảy, cố vận động mạnh cho người nóng lên.
Chiếc accordeon ở toa xe kia đã câm bặt từ bao giờ, thay vào đó đã có những
giọng khàn khàn chửi nhau rất tục tằn. Nhưng bên nầy vẫn cứ nhảy chết thôi, làm
cho những con ngựa cũng có vẻ lo lắng sợ hãi. Mọi người chỉ thôi nhảy khi Anikey
hăng say đến không tự kiềm chế được nữa, muốn nhảy một bước đặc biệt phức tạp,
nên ngã phệt ngay vào đống lửa. Mọi người phá lên cười, lôi Anikey dậy, châm
mẩu nến soi mãi khoảng bị cháy dưới mông chiếc quần đi ngựa còn mới toanh và
đoạn gấu áo bông hơi bị xém.
- Cậu tụt quần ra thôi? - Merkulov thương hại khuyên
Anikey.
- Cái thằng Di- gan nầy, mày điên à? Thế thì mình mặc
bằng gì?
Merkulov bèn lục một lát trong cái túi yên rồi lấy ra một
cái áo lót đàn bà bằng vải thô. Mọi người thổi cho lửa cháy to thêm.
Merkulov cầm hai bên vai cái áo rất hẹp, ngửa người ra
sau, cười như nắc nẻ nói:
- Thì đây? Hà! Hà? Mình đã tháu được nó trong trấn, trên
một dãy hàng rào… Định làm vải bọc chân… Hà! Thôi chẳng xé nó ra nữa, cậu lấy
mà mặc.
Anikey chửi rầm lên nhưng mọi người vẫn bắt hắn mặc cho
kỳ được Bọn Cô- dắc phá lên cười, tiếng cười nghe khoái trá và to đến nỗi trong
cửa các toa bên có những gã tò mò thò đầu ra, quát lên trong đêm tối, giọng đầy
vẻ ghen tị:
- Các cậu bên ấy làm sao thế?
- Cái bọn ngựa đực chết tiết nầy!
- Có gì mà họ phởn thế nhỉ?
- Bọn nhân tình của những mụ dở người nầy, chúng mày tìm
được mẩu sắt vụn đấy à?
Tầu vừa đến ga, mọi người lôi luôn gã accordeon ở toa
trên xuống. Từ những toa khác cũng có những gã mò tới làm toa xe chật như nêm.
Họ xô đẩy nhau, làm nát cả cái máng ngựa ăn, họ dồn những con ngựa vào sát
thành xe, còn lại ở giữa toa một khoảng trống nhỏ. Anikey nghênh ngáo đứng
giữa. Chiếc áo dài lót xem ra là của một người đàn bà rất cao lớn, vì thế quá
dài đối với hắn và cứ làm vướng chân hắn. Song những tiếng hò hét và tiếng cười
rộ đã làm hắn hào hứng nhảy múa tới kiệt sức mới thôi.
Trong khi đó các tinh tú trên trời đang buồn thảm đổ nước
mắt quanh chòm sao Belorussia đẫm máu. Bầu trời đêm đen kịt, mung lung, mù mịt,
mở hoác ra như một vực thẳm. Gió thổi là là mặt đất thấm đẫm mùi lá rụng đắng
hắc, mùi đất sét ẩm chua loét như rỉ sắt, mùi tuyết tháng ba…
--- ------ ------ ------ -------
1 Một giáo
phái hồi thế kỷ thứ 18, những người theo giáo phái nầy đều bị hoạn (ND).
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 87
Tàu đã chạy được một ngày một đêm,
trung đoàn không còn cách mặt trận xa lắm nữa. Đoàn tàu nhà binh dừng lại ở một
nhà ga đầu mối. Bọn quản truyền đạt mệnh lệnh: "Xuống xe!" Bọn lính
Cô- dắc vội vã dắt ngựa qua những cái cầu xuống toa, đóng yên, rồi lại quay lên
lấy hết các đồ vật để quên trong lúc bấn tinh bấn mù. Họ cuống cuồng hất bừa
những hòm rơm ném xuống lớp cát ẩm giữa đường tầu.
Gã liên lạc của viên trung đoàn
trưởng đến gọi Petro Melekhov:
- Ngài vào trong ga, quan trung đoàn
trưởng cho gọi.
Petro khệnh khạng bước lên sân ga,
vừa đi vừa sửa dây da thắt ngoài áo ca- pôt.
- Anikey, để mắt coi hộ con ngựa của
mình nhé, Petro thấy Anikey đang luẩn quẩn bên mấy con ngựa bèn nhờ.
Anikey nhìn theo Petro bộ mặt hắn
ngày thường vốn đã nhăn nhó khổ sở, nay lại thêm một vẻ nửa lo lắng nửa chán
ngán. Petro dán mắt xuống đôi ủng bê bết những đám bùn đất sét vàng vàng, chân
vẫn bước mà bụng cứ nghĩ quẩn quanh không biết trung đoàn trưởng cần gọi mình
lên làm gì nhỉ? Petro chợt để ý tới một đám lính không đông lắm, đang đứng túm
tụm ở đầu sân ga, bên cái thùng nước sôi, bèn bước lại gần và từ xa đã lắng
nghe xem họ nói với nhau những gì. Chừng hai mươi người lính bộ binh đứng vây
quanh một gã Cô- dắc cao lớn, râu tóc hung hung đỏ, đứng quay lưng về phía
thùng nước, nom vẻ bối rối như một con thú bị săn đuổi.
Petro vươn cổ nhìn bộ mặt râu ria đỏ
như râu ngô của gã Cô- dắc trung đoàn Atamansky có con số "52" trên
cái lon hạ sĩ màu xanh lơ chợt thấy quen quen. Petro nghĩ rãng chắc chắn mình
đã có lần gặp mặt gã, nhưng không nhớ là ở đâu và hồi nào.
- Sao cậu lại giở cái trò như vậy?
Thế mà họ còn đính cho cậu cái lon nầy à? - Một tên lính tình nguyện có khuôn
mặt thông minh đầy tàn hương hỏi sói móc gã Cô- dắc râu tóc hung hug.
- Có chuyện gì thế các cậu? - Petro
vỗ vai một ga tân binh quay lưng về phía mình, tò mò hỏi.
Gã kia quay đầu lại, trả lời miễn
cưỡng:
- Vừa tóm được một thằng đào ngũ…
cũng là dân Cô- dắc như các cậu đấy!
Petro moi trong ký ức, cố nhớ xem
mình đã từng gặp tên hạ sĩ trung đoàn Atamansky có khuôn mặt rộng bè bè, râu
ria và lông mày đều đỏ lòm nầy ở đâu rồi. Gã hạ sĩ trung đoàn Atamansky chẳng
thèm trả lời những câu hỏi móc của tên lính tình nguyện cứ uống nước nóng từng
ngụm chậm rãi trong cái ca đồng làm bằng vỏ đạn đại bác và ăn lương khô đen
nhúng nước cho mềm. Hai con mắt lồi rất xa tinh mũi của gã nheo lại, trong lúc
nhai nhai nuốt nuốt, gã vẫn rung rung hai hàng lông mày, hết nhìn xuống dưới
lại nhìn khắp chung quanh. Một người lính bộ binh vạm vỡ, đã có tuổi, áp giải
tên hạ sĩ đào ngũ. Anh ta đứng ngay bên cạnh, một tay nắm lưỡi lê khẩu súng
trường chống dưới đất, đứng ngay bên cạnh. Gã hạ sĩ trung đoàn Atamansky uống
hết ca nước, ngước cặp mắt mệt mỏi nhìn khắp mặt những tên lính bộ binh đang
soi mói chằm chằm nhìn gã, rồi bỗng nhiên hai con mắt xanh lơ, ngây thơ như mắt
con nít của gã sáng bừng lên hung tợn. Gã vội vã nuốt ực một cái, liếm môi và
quát lên bằng một giọng trầm thô bạo, ngang ngạnh:
- Chúng mầy thấy lạ lắm à? Quân khốn
nạn, chẳng để yên cho người ta ăn nữa! Chúng mầy làm sao thế, chưa được trông
thấy một con người bao giờ à, hả?
Bọn lính bộ binh phá lên cười. Petro
vừa nghe thấy giọng nói của tên đào ngũ bất giác bừng nhớ ra hết sức rành rọt
rằng gã nầy người thôn Rubezyn, trấn Elanskaia, và có họ là Fomin. Trước chiến
tranh có lần Petro cùng với bố tới cuộc chợ phiên hàng năm của trấn Elanskaia
và đã mua của gã một con bò đực ba tuổi. Con người ta thường loáng cái nhớ ra
như thế.
- Fomin? Yakov! - Petro vừa gọi vừa
len đến gần tên hạ sĩ trung đoàn Atamansky.
Gã kia ngơ ngác đặt vụng về cái ca
lên thùng nước. Gã vừa tiếp tục nhai, vừa nhìn Petro bằng cặp mắt tươi cười đầy
vẻ bối rối và nól:
- Mình không nhận được ra cậu nữa
rồi, anh bạn ạ…
- Cậu ở thôn Rubezyn có phải không?
- Đúng đấy. Còn cậu cũng là dân
Elanskaia à?
- Mình ở Vosenskaia cơ, nhưng mình
còn nhớ cậu. Chừng năm năm trước hai bố con mình đã mua của cậu một con bò mộng
mà.
Fomin có vẻ cố nhớ lại, trên mặt hắn
vẫn còn nụ cười ngượng nghịu của con nít như nãy.
- Không, mình quên mất rồi,… không
còn nhớ ra cậu nữa rồi. - Gã nói rõ ràng có lấy làm tiếc.
- Cậu ở trung đoàn Năm mươi hai à?
- Phải, ở Năm mươi hai.
- Thế ra cậu đào ngũ à? Sao cậu lại làm như thế, người
anh em?
Lúc đó Fomin đã bỏ mũ lông xuống, móc trong đó ra túi đựng
thuốc lá tàng tàng. Gã còng lưng, từ từ nhét cái mũ xuống dưới nách, xé lấy một
mẩu giấy chéo góc, rồi mãi lúc nầy, gã mới nhìn Petro chằm chằm bằng hai con
mắt nghiêm khắc, ướt ướt long lanh:
- Không chịu được nữa rồi, người anh em ạ? - Gã nói thều thào.
Cái nhìn của Fomin như châm vào người Petro. Petro húng
hắng ho, nhét một món ria vàng hoe vào trong miệng.
- Thôi đi các bạn đồng hương, chấm dứt câu chuyện đi, nếu
không các bạn sẽ làm cho bao nhiêu tội nợ đổ cả lên đầu thằng nầy thôi. - Anh
lính bộ binh vạm vỡ đi áp giải thở dài, hất khẩu súng trường lên vai - Nào đi
đi, bố!
Fomin vội vã nhét cái ca vào túi dết, liếc ngang chào từ
biệt Petro, rồi đi vào ban tư lệnh, dáng đi nặng nề, chậm chạp như con gấu.
Trong căn phòng nhà ga, trước kia dùng làm buffet cho
hạng nhất, viên trung đoàn trưởng và hai đại đội trưởng đang gù lưng ngồi quanh
một chiếc bàn nhỏ.
- Gã Melekhov nầy, mày bắt người ta đợi mày lâu quá rồi
đấy. - Cặp mắt mệt mỏi và tức tối của viên trung đoàn trưởng hấp háy một thôi
một hồi.
Petro được cho biết rằng đại đội của anh ta bị điều lên
cho sư đoàn bộ sử dụng và anh ta phải hết sức theo dõi bọn Cô- dắc, hễ thấy
tinh thần của chúng hơi có chút gì biến đổi là phải báo cáo ngay cho viên đại
đội trưởng biết. Petro nhìn không chớp mắt vào viên đại tá và hết sức chú ý
lắng nghe, nhưng cặp mắt ướt long lanh cùng câu nói thều thào của Fomin:
"Không chịu được nữa rồi, người anh em ạ" vẫn cứ ám ảnh mãi trong đầu
óc anh chàng, như đã dán chặt trong đó.
Petro bước ra khỏi căn phòng nhà ga ấm áp, hơi bốc ngùn
ngụt, trở về đại đội. Đoàn xe vận tải đợt hai của trung đoàn đã tới đỗ ở ngay
đây, trong ga. Trong khi đi về phía toa xe có sưởi ấm của anh ta, Petro nhìn
thấy bọn Cô- dắc áp tải đoàn xe và gã đóng móng ngựa của đại đội, Petro vừa
thoáng thấy gã đóng móng ngựa, Fomin cũng như câu chuyện trao đổi với gã đã tựa
như bị gió thổi bay khỏi đầu óc anh, và anh rảo bước ngay tới gần định bàn về
chuyện đóng lại móng cho con ngựa của mình (trong giây phút nầy Petro đã hoàn
toàn bị chìm trong những nỗi lo lắng về công việc hàng ngày). Nhưng giữa lúc,
từ trong một góc sơn đỏ của toa xe bước ra một người đàn bà đầu trùm chiếc khăn
len xồm mầu trắng rất diện, ăn vận không giống người vùng nầy chút nào. Hình
dáng và tư thái quen thuộc một cách lạ lùng của người đàn bà làm Petro phải dán
mắt nhìn. Người đàn bà bất thình lình quay mặt về phía anh ta rồi hối hả bước
tới, hai vai đong đưa một cách rất kín đáo, thân hình mảnh mai, chẳng có vẻ gì
là một người có chồng. Petro chưa nhìn rõ mặt nhưng chỉ dáng đi nhẹ nhàng, ưỡn
ẹo ấy cũng đã làm cho anh ta nhận ra vợ. Một cảm giác lành lạnh, nhoi nhói
nhưng rất thống khoái chạy rân rân lên tới tim anh chàng. Niềm vui quá bất ngờ,
vì thế càng vui dữ. Thấy những gã trong đoàn vận tải nhìn mình chằm chằm, Petro
cố đi ngắn bước lại để họ khỏi biết rằng mình đang nở từng khúc ruột. Anh ta từ
tốn bước tới ôm lấy vợ, hôn vợ ba lần, và muốn hỏi một câu gì đó, nhưng niềm
bồi hồi sôi sục tận trong đáy lòng đã tràn cả ra ngoài, làm môi anh ta khẽ run
run, lưỡi như bị cắt đứt.
- Anh thật không ngờ… - Mãi anh ta lắp bắp được một câu.
- Con bồ câu nhỏ của em? Sao nom anh khác đi nhiều đến
thế? - Daria vỗ hai tay đánh đét. - Trông anh cứ như người lạ ấy… Anh thấy
chưa, em đến thăm anh đấy nhé… ở nhà cứ không cho đi: "Mày biết đằng nào
mà đi bây giờ?" Nhưng em lại nghĩ, không, phải đi mới được, phải đi thăm
anh yêu của em mới được. - Daria đã liến thoắng một thôi một hồi và cứ ghì chặt
lấy chồng, hai con mắt đẫm lệ nhìn thẳng vào mắt chồng.
Trong khi đó những gã Cô- dắc khác đã kéo đến đông nghịt
bên các toa xe: họ nhìn hai vợ chồng, họ hậm hậm hoẹ hoẹ, họ nháy mắt với nhau,
họ pha trò.
- Cái số của thằng Petro đỏ thật…
- Cái con sói cái nhà mình không đến đâu, nó bỏ đi với
thằng khác rồi.
- Ở nhà, ngoài thằng Nhetche ra nó còn đến chục thằng nữa
là ít - Nếu như thằng Petro chịu hi sinh cho trung đội nó mượn vợ nó một đêm
nhỉ… Cũng phải thương cái cảnh côi cút của bọn mình một chút chứ… Hư- ừm?
- Thôi đi các cậu? Ruột gan mình bời bời ra rồi đây nầy?
- Xem con bé nó cứ dính chặt lấy thằng cha có ghê không?
Trong giờ phút nầy, Petro đã quên
bẵng rằng đã có lúc anh chàng định tâm nện cho vợ một trận nhừ tử, và cứ vuốt
ve vợ ngay trước mặt mọi người những ngón tay thô to ám khói thuốc lá cứ mơn
mơn cặp lông mày tô đen, cong lên như vòng cung, trong lòng sung sướng khôn tả.
Daria cũng quên rằng mới hai đêm trước ả còn nằm trong toa xe cùng với gã y sĩ
thú y trong kỵ binh cùng đi từ Kharkov tới trung đoàn. Gã y sĩ đó có hàng ria
đen đến là rậm, nhưng đó là chuyện hai đêm trước, chứ bây giờ thì ả chỉ biết
ghì chặt lấy chồng với những giọt nước mắt sung sướng rất chân thành và nhìn
chồng bằng hai con mắt thật thà như đếm.
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 88
Sau khi hết phép trở về đơn vị, viên
đại uý Cô- dắc Evgeni Litnhitkit nhận được lệnh điều đến trung đoàn Cô- dắc
sông Đông số mười bốn. Hắn đã tới thẳng sư đoàn bộ chứ không vác mặt về trung
đoàn của hắn trước kia, trung đoàn mà hắn đã bỏ chạy một cách nhục nhã trước
cuộc chinh biến tháng Hai bùng nổ. Trưởng ban tham mưu sư đoàn là một viên tướng
trẻ thuộc một dòng họ danh tiếng lẫy lừng trong giới quý tộc Cô- dắc sông Đông.
- Đại uý ạ, - Hắn đưa Evgeni về
phòng riêng rồi bảo - tôi biết rằng ngài lại về làm việc trong hoàn cảnh cũ thì
sẽ rất khó khăn, vì bọn Cô- dắc đã có thái độ chống đối ngài chúng nó ghét cay
ghét đắng tên họ của ngài, do đó cách khôn ngoan hơn là ngài hãy về trung đoàn
Mười bốn. Ở đấy toàn là những sĩ quan được lựa chọn rất tốt, ngay đến bọn Cô-
dắc cũng vững vàng hơn, đáng tin hơn, phần lớn là dân những trấn phía Nam thuộc
quân khu Ust - Medvedisky. Ngài đến đấy thì tốt hơn. Hình như cụ thân sinh ra
ngài là ngài Nicolai Alexeevich Litnhitki có phải không? - Viên tướng nín lặng
một lát, hỏi rồi sau khi trả lời là đúng thế, bèn nói tiếp - Theo ý riêng tôi
thì tôi có thể cam đoan với ngài rằng chúng tôi rất quí những sĩ quan như ngài.
Ở thời điểm nầy thì ngay trong thành phần sĩ quan, phần lớn cũng là những kẻ lá
mặt lá trái. Chẳng có gì dễ dàng hơn là lừa thầy phản chúa, nếu không thì cũng
một lúc cầu nguyện hai vị thần cũng được… - Viên tham mưu trưởng chấm dứt câu
chuyện bằng một giọng chua chát.
Evgeni sung sướng nhận lệnh thuyên
chuyển. Ngay hôm ấy hắn đã đến Dvinsk, nơi trung đoàn Mười bốn đóng, và hai
mươi bốn giờ sau đã đến gặp viên trung đoàn trưởng, đại tá Bukadorov.
Hắn lấy làm hài lòng vì thấy viên
tham mưu trưởng sư đoàn đã nói đúng; phần lớn trong bọn sĩ quan là những kẻ bảo
hoàng, còn bọn Cô- dắc thì một phần ba là dân cựu giáo không ngoan đạo lắm
thuộc các trấn khác, tinh thần của chúng tuyệt nhiên không ngả theo cách mạng
chúng chỉ miễn cưỡng tuyên thệ trung thành với Chính phủ lâm thời, còn các sự
kiện đang nổ ra sôi sục chung quanh thì chúng không hiểu rõ, thậm chí không
muốn tìm hiểu: những tên Cô- dắc được chọn vào các Uỷ ban 1 trung đoàn và đại
đội đều là những thằng xu nịnh và mũ ni che tai… Tới được một hoàn cảnh công
tác mới như thế nầy, Evgeni thở dài khoái trá.
Trong đám sĩ quan, hắn có gặp hai
tên trước kia đã cùng phục vụ ở trung đoàn ngự lâm Atamansky, hai tên nầy đứng
tách hẳn ra, nhưng tất cả các tên khác lại rất ăn cánh với nhau, rất thống nhất
ý kiến, chúng công khai bàn tán về chuyện lập lại chế độ quân chủ.
Trung đoàn đóng lại ở Dvinsk chừng
hai tháng để nghỉ ngơi, tổ chức lại thành một đơn vị tấn công chặt chẽ, đến nay
nom vẻ đã nghiêm chỉnh đàng hoàng. Trước kia các đại đội của nó đều được phái
đi phối thuộc với các sư đoàn bộ binh, lang thang khắp các mặt trận từ Riga tới
Dvinsk, nhưng đến tháng tư thì đã có bàn tay mẫn cán của một người nào đó thâu
tóm tất cả các đại đội thành một khối Trung đoàn đã sẵn sàng làm nhiệm vụ. Dưới
sự theo dõi nghiêm ngặt của bọn sĩ quan, bọn Cô- dắc không chịu chút tác động
nào từ bên ngoài. Hàng ngày chúng ra thao trường luyện tập, chăm nom ngựa, nhịp
sống của chúng đều đặn, chậm rề rề như con sên.
Đám Cô- dắc cũng đã có dự đoán mơ hồ
về nhiệm vụ thật sự sau nầy của trung đoàn, nhưng bọn sĩ quan đã nói toạc ra,
không giấu giếm, rằng không bao lâu nữa trung đoàn sẽ được những người đáng tin
cậy đem ra sử dụng để làm chuyển động bánh xe lịch sử.
Mặt trận ở ngay gần đó. Các tập đoàn
quân đang run bần bật trong một cơn sốt rét chết người, không đủ số đạn dược dự
trữ để chiến đấu, thiếu lương ăn. Các tập đoàn quân đang vươn hàng ngàn vạn bàn
tay ra với lấy hai tiếng "hoà bình" mong manh như một ảo ảnh. Các tập
đoàn quân đã nghe tin Kerensky 2 được đưa lên làm người đứng đầu Chính phủ lâm
thời của nước cộng hoà với những thái độ khác nhau, nhưng do những lời la hét
điên cuồng rồ dại của hắn, tất cả húc đầu phải đinh trong đợt tấn công tháng
sáu. Trong các tập đoàn quân, lòng căm hờn lên tới cực điểm, đang sôi sục như
dòng nước ở chỗ có nhiều luồng ngầm chẩy xối vào nhau…
Trong khi đó bọn Cô- dắc ở Dvinsk
vẫn sống những ngày bình an, lặng lẽ. Dạ dày của những con ngựa ra sức tiêu hoá
lúa yến mạch và khô dầu. Các điều đau khổ phải chịu đựng ngoài mặt trận đã
thành chai sẹo trong trí nhớ binh sĩ Cô- dắc. Bọn sĩ quan thì đến dự rất đều
các buổi họp của sĩ quan, chúng ăn uống quá phè phỡn, và bàn tán sôi nổi về vận
mệnh của nước Nga…
Tình hình kéo dài như thế đến những
ngày đầu tháng bảy. Đến ngày mồng ba thì có lệnh: "Lập tức xuất phát,
không được chậm một phút". Các đoàn xe nhà binh của trung đoàn chạy thẳng
về phía Petrograd. Ngày mồng bảy, vó ngựa Cô- dắc đã đập chan chát trên các mặt
đường lát của kinh đô.
Trung đoàn đến đóng ở đại lộ Nepsky.
Đại đội của Evgeni được dành cho một ngôi nhà trước kia là hiệu buôn nay bỏ
không.
Đơn vị Cô- dắc được người ta mong
chờ như con mong mẹ về chợ, cuộc đón tiếp rất vui vẻ. Điều đó đã được chứng
minh hùng hồn bởi sự ân cần chu đáo của các nhà cầm quyền ở kinh đô trong việc
sửa sang dọn dẹp các chỗ ở dành trước cho bọn Cô- dắc. Các bức tường mới quét
vôi lại đều trắng bong, sàn nhà mới lau rửa bóng lộn như gương, những tấm ván
gỗ thông mới kê làm giường, còn thơm phức mùi nhựa. Gần như có thể nói rằng đời
sống sẽ ấm cúng, dễ chịu trong tầng hầm một nửa vượt lên khỏi mặt đất, sáng
sủa, tươm tất nầy. Evgeni cau mày dưới cái kính kẹp mũi, chãm chú xem xét chỗ ở
của đại đội hắn. Hắn đi đi lại lại bên những bức tường trắng loá, nghĩ thầm rằng
về mặt tiện nghi thì chẳng còn phải mong gì hơn. Thoả mãn về kết quả của buổi
xem trước nhà ở, hắn đi ra cổng ngôi nhà cùng với viên đại biểu của nhâ đô
chính được trao trách nhiệm đón tiếp đơn vị Cô- dắc, một thằng cha nhỏ bé, ăn
vận rất diện. Nhưng hai gã vừa ra tới cổng thì gặp ngay một chuyện khó chịu.
Evgeni đặt tay lên nắm đấm cửa, nhìn thấy trên tường có một hình vẽ rất khéo
vạch bằng vật nhọn: một đầu chó đang nhe nanh và một cái chổi. Có lẽ trong đám
công nhân làm công việc sửa sang, trang bị cho ngôi nhà, có người đã biết trước
nơi nầy sẽ dành cho ai…
- Cái gì thế nầy? - Evgeni hỏi tên
đại biểu cùng đi, hai hàng lông mày hắn rung rung.
Tên đại biểu đưa cặp mắt láu lỉnh,
gian như mắt chuột nhìn loáng qua hình vẽ và thở phì phì như kéo bễ. Máu dồn
lên làm mặt hắn đỏ tía, thậm chí cái cổ áo sơ mi hồ bột cũng như phớt ánh hồng
hồng…
- Thưa ngài sĩ quan, xin ngài thứ
lỗi cho… lại có bàn tay của một thằng nào đó ác tâm…
- Tôi mong rằng các ngài đã không
biết gì khi cái huy hiệu của bọn Oprinin 3 nầy được vẽ ở đây?
- Đâu có thế? Đâu có thế? Xin ngài
thứ lỗi cho! Đây là một trò bất ngờ của bọn Bolsevich… Đúng là có thằng khốn
nạn nào đó làm liều! Tôi xin lập tức bảo quét vôi lại bức tường ngay. Ma quỷ
nào học được chữ ngờ! Xin ngài thứ lỗi cho… một chuyện vô nghĩa lý như thế nầy…
tôi dám cam đoan với ngài rằng chính tôi cũng lấy làm hổ thẹn khi thấy có kẻ
khác làm việc hèn đớn nầy…
Evgeni bỗng cảm thấy thực tâm thương
hại thái độ quị luỵ của gã thường dân bối rối cuống quít nầy. Ánh mắt hắn đã có
phần dịu đi, không còn lạnh lùng, gay gắt như nãy nữa. Hắn nói giọng điềm tĩnh:
- Thằng hoạ sĩ nầy đã tính sai một
điều không phải là nhỏ: bọn Cô- dắc có thuộc lịch sử nước Nga đâu. Nhưng như
thế không có nghĩa là chúng tôi khuyến khích người ta có thái độ như thế đối
với chúng tôi.
Gã đại biểu kiễng chân trước bức
tường, dùng những ngón tay được chăm chút cẩn thận cạo cái hình vạch trên mặt
vôi, một đám bụi trắng rơi xuống lả tả, làm bẩn cả chiếc áo bành tô kiểu Anh
rất đắt tiền của hắn. Evgeni mỉm cười lau kính kẹp mũi, nhưng trong giây phút
ấy, tâm hồn hắn tràn ngập một nỗi buồn cay đắng.
"Đấy bọn mình được đón tiếp như
thế đấy và đằng sau bộ mặt phô ra ngoài là như thế đấy!… Nhưng chẳng nhẽ đối
với toàn nước Nga ở đâu bọn mình cũng bị người ta nhìn qua hình ảnh của bọn
Oprinin hay sao?" - Hắn đã nghĩ thầm như thế trong khi đi qua sân ra xem
tàu ngựa và chỉ nghe một cách dửng dưng những lời tên đại biểu chạy lon ton
theo hắn nói với hắn.
Ánh nắng dọi thẳng xuống cái giếng
rất sâu, rất rộng đào trong sân. Từ trên các khung cửa sổ của những ngôi nhà
nhiều tầng, dân chúng nhô hẳn người ra nhìn xuống đám lính Cô- dắc đứng đầy
trong sân. Đại đội dắt ngựa vào trong tàu ngựa. Sau khi được giải tán, bọn Cô-
dắc đi từng đám đến bên bức tường, trong chỗ mát, kẻ đứng, người ngồi xổm.
- Thế nào anh em, sao các cậu không
vào trong nhà đi? - Evgeni hỏi.
- Bẩm ngài đại uý, lát nữa vào cũng
kịp.
- Ngoài nầy đã chán ngất rồi: vào
trong ấy lại càng…
- Chúng tôi sắp xếp cho ngựa xong
đâu đó hẵng hay.
Evgeni xem kỹ căn nhà kho dùng làm
tàu ngựa. Hắn cố lấy lại cái ác cảm lúc nãy đối với tên đại diện vẫn đi theo
hắn và nói bằng một giọng nghiêm khắc:
- Xin ngài hãy đi thương lượng với
những người cần thiết và hãy thoả thuận cho xong việc nầy: cần phải đục thêm
cho chúng tôi một cái cửa nữa. Vì với một trăm hai mươi con ngựa, chúng tôi
không thể chỉ có một cái cửa. Cứ như thế nầy thì khi có báo động chúng tôi sẽ
phải mất đến nửa tiếng đồng hồ mới dắt được hết ngựa ra ngoài… Thật là khủng
khiếp! Chẳng nhẽ trong hoàn cảnh hiện nay không thể tính tới tình huống ấy hay
sao? Tôi sẽ bắt buộc phải báo cáo lên quan trung đoàn trưởng về chuyện nầy.
Sau khi nhận được lời cam đoan là
ngay hôm ấy sẽ đục xong không phải một, mà hai cái cửa, Evgeni chìa tay với gã
đại diện.
Hắn lạnh nhạt cám ơn gã đã bận tâm
giúp đỡ, ra lệnh cắt trực nhật rồi lên tầng thứ hai, nơi tạm thời được dọn làm
chỗ ở của các sĩ quan. Hắn leo những bậc thang tối om về phòng, vừa đi vừa cởi
cúc cái áo cổ đứng và lau mồ hôi dưới mũ lưỡi trai. Hắn sung sướng cảm thấy cái
không khí ẩm ẩm lành lạnh trong phòng. Trong đó, ngoài gã thượng uý Atasikov,
không còn một tên nào khác.
- Mọi người đầu cả rồi? - Evgeni vừa
hỏi vừa nằm vật xuống chiếc giường vải bạt và nặng nề duỗi hai chân đi đôi ủng
đầy bụi.
- Ra phố rồi. Họ muốn xem Petrograd.
- Còn cậu thì sao?
- Chà, cậu cũng biết đấy, có gì mà
đáng xem? Họ thì vừa mới chân ướt chân ráo đến nơi đã kéo nhau ra phố ngay rồi.
Mình đang đọc tin tức về những chuyện mới xảy ra ở đây mấy hôm trước. Mình đang
bận đây!
Evgeni nằm yên chẳng nói chẳng rằng.
Hắn khoái chí cảm thấy chiếc sơ mi đẫm mồ hôi dính vào lưng lành lạnh. Hắn ngại
không muốn đứng dậy lau rửa; xem ra hắn đã thấm mệt sau chặng đường dài. Nhưng
hắn vẫn cố cưỡng lại mình, đứng dậy gọi tên lính cần vụ. Sau khi thay đồ lót,
hắn lau rửa rất lâu, vừa lau rửa vừa thở phì phì ra vẻ rất thống khoái. Hắn lấy
một chiếc khăn lông lồm xồm lau cái cổ đen xạm vì rám nắng.
- Lau rửa đi Vanhia, - Hắn khuyên
Atasikov - cậu sẽ cảm thấy như trút được một quả núi trên vai… Thế nào, báo chí
viết những gì?
- Có lẽ đúng là cũng nên lau rửa một
cái. Cậu bảo thủ
lắm à? Còn trong báo chí viết những gì ấy à? Họ kể các hoạt động đấu tranh của
bọn Bolsevich, các biện pháp đối phó của chính phủ… Cậu thử đọc mà xem.
Tắm xong thấy trong lòng vui hẳn lên, Evgeni cầm lấy tờ
báo định đọc, nhưng hắn bỗng được viên trung đoàn trưởng gọi lên. Hắn miễn
cưỡng đứng dậy, mặc chiếc áo cổ đứng mới giặt còn nặc mùi xà phòng nhưng đã khá
nhàu nát trong khi đi đường, nom rất khó coi, rồi cài thanh gươm vào dây lưng,
và bước ra đại lộ. Hắn vừa đi sang hè đường bên kia, vừa ngoái nhìn ngôi nhà
đại đội hắn mới đến ở. Nhìn bề ngoài và kiểu xây dựng thì ngôi nhà nầy cũng
chẳng có gì khác với các ngôi nhà khác: năm tầng, mặt ngoài ốp đá ong xám thủng
lỗ chỗ, thẳng hàng với những ngôi nhà cũng y như thế.
Evgeni châm thuốc hút, thủng thẳng đi trên vỉa hè. Người
đông như kiến, đủ mọi thứ mũ chen chúc nhau như bọt sủi: mũ rơm, mũ quả dưa, mũ
cát- két của đàn ông, mũ phụ nữ: cái thì loè loẹt diêm dúa, cái thì giản dị
trong cái cầu kỳ của nó. Trong tất cả dòng người ấy thỉnh thoảng cũng thấp
thoáng một chiếc mũ lưỡi trai của quân nhân mầu xanh lá cây hìện lên như một
đốm dân chủ, nhưng nó lại lập tức biến ngay, chìm ngập trong cái đám nhấp
nhoáng đủ mọi mầu sặc sỡ.
Gió mát rượi rất khoẻ người thổi từ ngoài biển vào từng
đợt, nhưng mỗi đợt lại vấp ngay phải những khối kiến trúc khổng lồ đứng sừng
sững, rồi tản ra thành nhiều luồng yếu hơn lớn nhỏ không đều nhau. Những đám
mây đen trôi về phía nam trên bầu trời ảm đạm tím tím mầu thép. Đường viền của
những đám mây trắng như sữa nom nham nhở với những cái răng nhọn. Một làn hơi
nồng nực, đầy khí ẩm lúc trời sắp mưa rập rờn trên thành phố. Nồng nặc mùi nhựa
đường bị hun nóng, mùi xăng khét lẹt, mùi biển ngay gần đấy, mùi nước hoa đàn
bà ngây ngất và huyền ảo, ngoài ra còn cái mũi hỗn hợp không thể phân tách, gồm
đủ thứ mùi khác nhau, cái mùi đặc biệt của các thành phố đông dân.
Evgeni phì phèo điếu thuốc, lững thững đi bên phải hè
phố.
Thỉnh thoảng hắn lại bắt gặp những cái liếc nhìn đầy vẻ
kính trọng của những người hắn gặp. Đầu tiên hắn cũng có phần ngượng ngùng vì
áo quân phục thì nhầu nát mà mũ két thì bẩn, nhưng sau hắn lại tự nhủ: một
chiến sĩ ngoài mặt trận trở về thì chẳng có gì đáng hổ thẹn về cái mã ngoài của
mình, vả lại hắn vừa ở trên toa xe bước xuống hôm nay thì làm thế nào chải
chuốt được.
Trên hai hè phố có những cái bóng rung rinh lười nhác,
vàng vàng mầu ô- liu, in hình những tấm màn cửa làm bằng vải buồm treo trước
cửa các hiệu buôn và các quán cà phê. Gió đung đưa, đập phần phật những tấm màn
vải buồm nóng bỏng dưới nắng, những cái bóng in trên hè phố di động và bị xé
nát dưới những bước chân loạt soạt Tuy đang giờ sau bữa trưa, nhưng đại lộ vẫn
đông nghìn nghịt.
Sau mấy năm chiến tranh Evgeni đã quên lối sống thành
thị. Hắn sung sướng thu nhận tất cả các thứ tiếng động đa dạng chung quanh:
những tiếng cười quyện vào nhau, tiếng còi xe hơi bím bom, tiếng rao của trẻ
bán báo, và trong khi len lỏi giữa những con người ăn no mặc đẹp nầy, hắn cảm
thấy họ gần gũi, thân thuộc với hắn và cứ nghĩ thầm:
Trong lúc nầy tất cả các người nom sao mà thoả mãn sung
sướng, tràn trề hạnh phúc như thế? Đúng là tất cả các người: thương nhân, nhân
viên giao dịch ở thị trường chứng khoán, quan lại các cấp các chủ đất, cũng như
những con người có dòng máu màu lam! 4 Nhưng thử hỏi ba bốn hôm trước thì các
người như thế nào? Thử xem mặt mũi các người đã như thế nào khi mà bọn dân đen,
bọn lính tráng tràn vào các đại lộ, các đường phố như những dòng quặng nấu
chảy? Nói thật lòng thì nhìn thấy các người, trong lòng ta vừa vui, vừa không
vui. Còn đối với hạnh phúc của các người, ta cũng không biết nên lấy làm vui
hay không…"
Hắn cố phân tích cái tình cảm hai mặt của mình xem nguyên
nhân ở đâu mà ra, và hắn đã dễ dàng đi tới kết luận: hắn suy nghĩ như thế, cảm
thấy như thế chính vì chiến tranh cùng những điều mà hắn phải chịu đựng ngoài
mặt trận đã làm hắn có phần xa lạ với cái đám những con người ăn no béo mầm
sung sướng dư dật nầy.
"Hãy xem cái gã trẻ trai, béo tốt kia, - Evgeni bắt
gặp cặp mắt của một anh chàng phục phịch, không có râu ria, má đỏ hây hây, bèn
nghĩ thầm - Tại sao nó không ra mặt trận nhỉ? Chắc hẳn nó là con một tên chủ
xưởng hoặc thương nhân phản động 5 nào đó. Thằng đê tiện, nó trốn nhiệm vụ nhà
binh, nó mặc mẹ Tổ quốc muốn ra sao thì ra, thế mà vẫn ra cái điều "góp
phần vào công tác quốc phòng" để phát phì như con lợn, để chơi gái thả
cửa…"
"Nhưng chính mình cuối cùng sẽ đi với ai cơ
chứ?" Hắn tự đặt cho mình câu hỏi ấy rồi lại mỉm cười tự trả lời:
"Chà, tất nhiên là cùng đi với bọn nầy chứ còn với ai khác. Trong bọn nầy
có một phần của bản thân mình, và mình cũng là một phần của cái giới những con
người nầy…" Mọi cái gì của chúng, dù tốt hay xấu, cũng đều có trong người
mình tới mức nào đó. Có lẽ vì da mình chưa đến nỗi bì bì như da con lợn béo núc
kia, vì thế cho nên rnình mới phản ứng tất cả mọi thứ một cách ghê gớm như thế,
và chắc hẳn chính vì thế mình đã thật thà ra mặt trận chứ không chỉ "góp
phần vào công tác quốc phòng". Cũng chính vì thế cho nên mùa đông vừa qua,
khi còn ở Mogilov, lúc mình nhìn thấy hoàng đế vừa bị truất ngôi ngồi trong
chiếc xe hơi chạy ra khỏi Đại bản doanh, lúc mình nhìn thấy cặp môi người đầy
vẻ đau khổ, hai tay người run run, buông thõng trên đầu gối một cách bất lực
không sao tả xiết, mình đã ngã lăn xuống tuyết mà khóc nức nở như đứa con nít…
Như thế mình đã làm đúng lương tâm là không công nhận cách mạng, không thể nào
công nhận được? Trái tim cũng như khối óc mình đều chống lại việc đó… Mình sẽ
hiến dâng đời mình cho chế độ cũ, không chút dao động, không một cử chỉ huênh
hoang, một cách giản dị, như một người lính. Nhưng không biết những kẻ làm như
thế có nhiều hay không?
Evgeni tái mặt, hồi tưởng rành rọt với cả một niềm xúc
động sâu sắc buổi chiều là giàu màu sắc của cái ngày tháng hai ấy trước dinh
viên tổng đốc Mogilov, dãy hàng rào sắt đổ mồ hôi dưới bầu trời rét ngọt, và
lớp tuyết hồng hồng bên kia hàng rào ánh lên những sắc cầu vồng dưới những tia
mầu vàng của vừng mặt trời đã lặn thấp sau làn hơi lạnh mung lung như lụa mỏng.
Sau đoạn bờ sông Dnepr thoai thoải, bầu trời chỗ thì xanh lam, chỗ thì đỏ như
chu sa, chỗ thì vàng như rỉ sắt, mỗi nél trên đường chân trời đều mung lung
huyền ảo, làm con mắt nhìn vào như cảm thấy đau. Ở lối ra có đám đông những
quan chức trong Tổng hành dinh, cả văn lẫn võ. Chiếc xe hơi có mui chạy ra. Sau
cửa kính hình như có Frederix 6 và nhà vua ngồi vật ra lưng ghế. Khuôn mặt gầy
rộc của nhà vua có những ánh tím tím, Cái mũ lông đen in một hình bán nguyệt
lệch trên vừng trán trắng bệch, những bộ quân phục ngự lâm Cô- dắc của đoàn hộ
tống.
Evgeni đã gần như chạy bổ qua trước mặt những người ngạc
nhiên nhìn. Trong con mắt hắn còn in hình bàn tay nhà vua giơ lên chào rồi
thõng xuống từ mép chiếc mũ lông đen. Trong tai hắn còn vang mãi tiếng chiếc xe
hơi lặng lẽ chạy xa dán và cái nín thinh nhục nhã của đám người đưa tiễn hoàng
đế cuối cùng…
Evgeni từ từ bước lên những bậc thang trong ngôi nhà của
trung đoàn bộ. Hai má hắn run run, cặp mắt hắn khóc đến sưng húp đỏ ngầu, nước
mắt ròng ròng… Lên tới đầu cầu thang tầng thứ hai, hắn hút liền một lúc hai
điếu thuốc rồi lau mặt kính, và ba chân bốn cẳng chạy lên tầng ba.
Viên trung đoàn trưởng đánh dấu trên bản đồ khu vực đại
đội của Evgeni gánh trách nhiệm bảo vệ các cơ quan chính phủ, kể rõ các cơ quan
đó, và cho biết rất tỉ mỉ về địa điểm cùng thời gian đặt gác, thay gác. Cuối
cùng lão nói:
- Ở Cung điện Mùa Đông, chỗ Kerensky…
- Xin ngài đừng đả động gì tới Kerensky! - Evgeni khẽ
nói, nhưng tiếng vẫn vang rất to, mặt hắn nhợt đi như cái xác chết.
- Ngài Evgeni Nicolaevich, phải cố gắng tự chủ mới được…
- Thưa ngài đại tá, tôi xin ngài!
- Nhưng anh bạn thân mến ạ…
- Tôi xin ngài?
- Chà cái máu hoàng bào.
- Ngài ra lệnh phái ngay trinh sát tới nhà máy Puchilov
chứ? - Evgeni thở hổn hển hỏi.
Viên trung đoàn trưởng cắn môi mỉm cười, rồi nhún vai trả
lời:
- Lập tức đi ngay! Và nhất định phải có một sĩ quan phụ
trách trung đội cùng đi.
Evgeni bước ra khỏi trung đoàn bộ với cả một cảm giác
trống rỗng trong tâm hồn, những hồi ức cũ cùng câu chuyện trao đổi với viên
trung đoàn trưởng đè nặng lên người hắn. Hắn về đã gần đến nhà thì gặp một đội
tuần tiễu của trung đoàn Cô- dắc sông Đông số 4 đóng ở Petrograd. Vài bông hoa
héo rũ trên dây hàm thiếc con ngựa lông hồng nhạt của viên sĩ quan. Một nét
cưởi thoáng hiện trên hàng ria trăng trắng của hắn.
- Các vị cứu tinh của Tổ quốc vạn tuế… - Một thân sĩ đã
có tuổi cảm động quá bước từ trên hè đường xuống, vung mũ kêu lên.
Viên sĩ quan đưa tay lên lưỡi trai mũ, chào lại rất lịch
sự. Đội tuần tra cho ngựa chuyển sang nước kiệu. Evgeni liếc nhìn khuôn mặt cảm
động, cái cravat hoa hoét thắt rất cẩn thận và cặp môi ươn ướt của vị thân sĩ
vừa chào toán lính Cô- dắc, rồi hắn cau mày, gù gù cái lưng, lẩn rất nhanh vào
trong nhà.
--- ------ ------ ------ -------
1 Tức là các Uỷ ban
binh sĩ được bầu ra trong các đơn vị quân đội hồi bấy giờ theo sắc lệnh số 1
của Xô viết công nhân và binh sĩ Petrograd (ND).
2 Kerensky sinh
năm 1881 vốn là luật sư ở Saratov, 1914 nghị viên Công đảng rồi nghị viên Đảng
xã hội Cách mạng ở Duma Quốc gia. Sau tháng hai 1917 làm bộ trưởng tư pháp
Chính phủ lâm thời rồi bộ trưởng chiến tranh, 30- 7 được đưa lên làm thủ tướng,
10- 9 năm ấy trở thành tổng tư lệnh độc tài. Bị cách mạng tháng mười lật đổ,
hắn hoá trang làm đàn bà bỏ trốn, nương náu ở chỗ Kaledin vùng sông Đông, cuối
cùng chạy sang Pháp, rồi Mỹ, tuyên truyền chống cách mạng (ND).
3 Lực lượng cảnh
sát vũ trang dưới thời Ivan đệ tứ (1333 - 1547), đàn áp nhân dân một cách rất
tàn ác (ND)
4 Chỉ giai cấp tư
sản (ND).
5 Phản động theo
quan điểm của giai cấp quý tộc đại địa chủ. Hồi nầy giai cấp tư sản Nga đã núp
bóng giai cấp vô sản lập đổ vua Nga, chóp bu của giai cấp quý tộc đại địa chủ
(ND).
6 Frederix
V. Bá tước, một bộ trưởng trong cung của vua Nga. (Lời chú của hản tiếng Nga).
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 89
Hàng ngũ sĩ quan của trung đoàn 14
rất hoan nghênh tin tưởng Kornilov 1 được bổ nhiệm làm tổng tư lệnh mặt trận
Tây - Nam.
Họ nói về Kornilov với vẻ yêu quý và
kính trọng như về một con người có ý chí sắt thép và chắc chán có khả năng đưa đất
nước ra khỏi cái ngõ cụt mà Chính phủ lâm thời đã đưa nó vào.
Evgeni đón mừng đặc biệt sôi nổi sự
bổ nhiệm nầy. Qua những sĩ quan dưới quyền trong đại đội cùng vài tên Cô- dắc
thân cận, hắn thử dò xem thái độ của binh sĩ đối với chuyện nầy như thế nào.
Nhưng các tin tức thu lượm được chẳng làm hắn vui vẻ chút nào. Bọn Cô- dắc chỉ
ngậm tăm hoặc trả lời một cách lạnh nhạt cho xong chuyện:
- Đối với chúng tôi thì đằng nào
cũng thế thôi…
- Ông ấy là người như thế nào thì có
trời biết…
- Nếu ông ấy có những cố gắng để đi
tới hoà bình thì tất nhiên…
- Có lẽ chuyện ông ấy được thăng
quan tiến chức như thế cũng chẳng làm chúng tôi đỡ khổ chút nào!
Vài ngày sau, trong số các sĩ quan
giao thiệp nhiều với những giới quan chức dân sự và quân sự rộng rãi hơn, luôn
luôn có những tin đồn nói rằng hình như Kornilov đang gây áp lực với Chính phủ
lâm thời, đòi áp dụng lại án tử hình ngoài mặt trận và thực hiện nhiều biện
pháp kiên quyết có ảnh hưởng quyết định đối với vận mệnh của quân đội và kết
cục của chiến tranh. Người ta nói rằng Kerensky sợ Kornilov và hình như đang cố
tìm một viên tướng dễ bảo hơn để đảm nhiệm trọng trách tổng tư lệnh mặt trận
thay Kornilov. Tên của vài viên tướng nổi tiếng trong giới quân sự đã được nêu
lên.
Ngày 19 tháng bảy mọi người đều kinh
ngạc được tin Chính phủ ra thông cáo bổ nhiệm Kornilov làm tổng tư lệnh tối
cao. Viên thượng uý Atasikov vốn quen biết nhiều trong Uỷ ban trung ương Hội
liên hiệp sĩ quan. Chẳng bao lâu sau hắn đã dựa vào những nguồn tin hoàn toàn
đáng tin cậy, kể lại rằng trong một bản báo cáo chuẩn bị gửi lên Chính phủ lâm
thời, Kornilov đã nhấn mạnh sự cần thiết phải thực hiện các biện pháp chủ yếu
dưới đây: áp dụng cách xét xử như các toà án binh ngoài mặt trời đối với các
đơn vị quân đội và thường dân hậu phương khắp các nơi trong nước, có áp dụng án
tử hình; khôi phục lại quyền trừng phạt của các thủ trưởng quân sự; hạn chế
trong một phạm vi rất hẹp hoạt động của các uỷ ban quân nhân trong các đơn vị
quân đội…, vân vân…
Ngay tối hôm ấy, trong một cuộc nói
chuyện với các sĩ quan trong đại đội hắn và một số đại đội khác, Evgeni đã gay
gắt nêu toạc móng heo câu hỏi: mọi người sẽ đi với ai?
- Thưa các ngài sĩ quan! - Hắn nói
bằng một giọng cố nén vẻ xúc động. - Chúng ta sống với nhau trong một gia đình
hoà hợp. Trong chúng ta, người nào như thế nào thì tất cả đều biết rõ. Nhưng
cho tới bây giờ vẫn còn nhiều vấn đề rất quan trọng chưa được chúng ta giải
quyết dứt khoát. Nói thẳng ra là hiện nay chúng ta đã thấy hết sức rõ ràng Tổng
tư lệnh tối cao và Chính phủ có thể không đi cùng một đường Chúng ta cần phải
đặt thẳng thừng vấn đề chúng ta đi với ai và chúng ta ủng hộ ai? Nào, chúng ta
hãy nói với nhau thật cởi mở, đừng giấu lòng mình làm gì.
Viện thượng uý Atasikov trả lời
trước nhất:
- Tôi sẵn sàng đổ cả máu mình lẫn máu
người khác ra ủng hộ đại tướng Kornilov! Đại tướng là một người có tấm lòng
trung thực trong suốt như pha lê, chỉ riêng đại tướng có khả năng đưa nước Nga
ra khỏi bước đường suy vong. Các ngài hãy xem đại tướng làm những gì trong quân
đội? Chính nhờ có đại tướng mà các thủ trưởng quân sự có phần đỡ bị trói chân
trói tay. Chứ trước kia thì chỉ có các Uỷ ban quân sự hoành hành ngang dọc, anh
anh tôi tôi, cá mè một lứa, đào ngũ lung tung. Còn gì để đáng nói nữa! Bất cứ
ai là người đúng đắn cũng ủng hộ Kornilov?
Atasikov là một anh chàng chân thì
nhỏ nhưng ngực thì lại to và xúc động đến tận đáy lòng. Sau khi nói xong hắn
đưa mắt nhìn bọn sĩ quan đứng ngồi túm tụm quanh chiếc bàn, và gõ gõ cái
"bót" trên hộp thuốc lá ra vẻ chờ đợi. Mí mắt dưới con mắt bên phải
của hắn có một nốt ruồi nâu nâu, phồng lên bằng một hạt đậu Hà Lan, vì thế mí
mắt trên bị vướng không nhắm kín được, do đó thoạt nhìn Atasikov người ta có
cảm tưởng như hai con mắt hắn bao giờ cũng có một nét cười chờ đợi và kẻ cả.
Nếu phải lựa chọn giữa bọn Bolsevich, Kerensky và Kornilov thì tất nhiên chúng
ta ủng hộ Kornilov.
- Chúng ta khó lòng đoán được
Kornilov muốn gì; phải chăng ông ấy chỉ muốn lấy lại trật tự cho nước Nga thôi,
hay còn muốn phục hồi một cái gì khác nữa…
- Đó không phải là câu trả lời cho
một vấn đề có tính nguyên tãc!
- Không, đó là câu trả lời đấy?
- Nếu đó là một câu trả lời thì dù
sao nó cũng không phải là một câu trả lời thông minh.
- Nhưng ngài sợ cái gì cơ chứ, ngài
trung uý? Sợ lập lại chế độ quân chủ à?
- Điều đó thì tôi không sợ, trái lại
còn mong muốn nữa là khác.
- Thế thì vấn đề là ở chỗ nào?
- Thưa các ngài? - Dongov cất tiếng
nói bằng một giọng rắn rỏi, khàn khàn. Mới đây hắn còn là một tên chánh quản,
nhưng vì lập được chiến công nên mới được đề bạt thiếu uý. - Có gì mà các ngài
phải tranh cãi? Xin các ngài cứ đàng hoàng nói rằng chúng ta, dân Cô- dắc, thì
phải bám lấy đại tướng Kornilov như con nít bám lấy gấu váy mẹ. Cứ nói dứt
khoát thẳng thừng, không chút gì quắt quéo cả! Hễ tách rời đại tướng, là chúng ta
đi đứt! Người ta sẽ vứt bỏ chúng ta như cào một đống phân. Vấn đề đã rõ ràng
minh bạch rồi: đại tướng đi đâu, chúng ta đi đó.
- Thật là chí lý, quả là chí lý!
Atasikov vỗ vai Dongov tỏ ý thán phục, rồi quay hai con
mắt tươi cười nhìn Evgeni chằm chằm. Evgeni cảm động mỉm cười vuốt vuốt nếp
quần ở hai bên đầu gối.
- Vậy thì như thế nào bây giờ, thưa các ngài sĩ quan, các
ngài ataman? Atasikov cất cao giọng hỏi - Chúng ta ủng hộ Kornilov chứ…
- Còn sao nữa, tất nhiên rồi!
- Dongov đã giải quyết ngay được vấn đề rắc rối.
- Toàn thể giới sĩ quan chúng ta đều đi theo Kornilov?
- Chúng ta không muốn là những nhân vật ngoại lệ.
- Uống mừng Lavre Georgevich 2 người Cô- dắc và người anh
hùng yêu quý của chúng ta, hu- ra?
Bọn sĩ quan phá lên cười, chạm tách uống trà. Câu chuyện
không còn có tính chất căng thẳng như nãy nữa, bắt đầu xoay quanh những chuyện
xảy ra trong mấy ngày gần đây.
- Chúng mình thì lập tức ùa theo ngay tổng tư lệnh tối
cao, song bọn Cô- dắc còn đắn đo đấy.- Giọng Dongov nói có vẻ nghi ngại.
- "Đắn đo" là nghĩa thế nào? - Evgeni hỏi.
- Như thế đấy. Chúng nó đắn đo, có thế thôi… Cái bọn chó
đẻ ấy, chúng nó chỉ sẵn sàng chuồn về nhà với vợ… Chúng nó đã chán cuộc đời
chẳng có gì êm ấm nầy rồi…
- Nhiệm vụ của chúng ta là phải lôi cuốn bọn Cô- dắc đi
theo mình! Viên trung uý Chernokulov đấm tay xuống bàn - Phải lôi cuốn chúng
nó! Chúng ta đeo lon sĩ quan chính là để làm việc đó. Phải kiên nhẫn giải thích
cho bọn Cô- dắc hiểu rằng chúng nó cần phải theo ai.
Evgeni gõ cùi dìa vào cốc. Khi thấy bọn sĩ quan đã chú ý,
hắn nói tách bạch từng miếng:
- Thưa các ngài, tôi đề nghị các ngài nhớ cho một điều là
công tác của chúng ta hiện nay phải tập trung vào việc, giải thích cho bọn Cô-
dắc hiểu tình hình thực tế đang như thế nào, đúng như Atasikov đã nói. Phải
dành giật lấy bọn Cô- dắc, phải lôi chúng ra khỏi ảnh hưởng của các Uỷ ban quân
nhân. Muốn thế thay đổi thái độ, đại khái như sự thay đổi thái độ của phần lớn
chúng ta sau cuộc chính biến tháng hai, nhưng lần ấy chưa phải đã nhiều. Trước
kia, năm một nghìn chín trăm mười sáu chẳng hạn, tôi có thể cho một thằng Cô-
dắc một trận nhừ tử mà chỉ có thể xảy ra một điều là trong chiến hào nó có thể
nã cho tôi một viên đạn vào gáy. Nhưng sau tháng hai thì phải co mình lại, vì
nếu tôi đánh một thằng ngu xuẩn nào đó thì chúng nó có thể giết tôi ngay tại
chỗ, trong chiến đấu, không cần chờ cơ hội thuận tiện. Bây giờ tình hình đã
hoàn toàn khác trước rồi.
- Chúng ta cần phải, - Evgeni nói dằn từng tiếng, - hoà
mình với bọn Cô- dắc! Tất cả đều do việc ấy quyết định. Hẳn các ngài đã biết
rằng bên trung đoàn Một và trung đoàn Bốn hiện nay đang thế nào rồi chứ gì?
- Một cơn ác mộng!
- Đúng thế đấy, một cơn ác mộng! Evgeni nói tiếp. - Anh
em sĩ quan bên ấy vẫn tự ngăn cach mình với bọn Cô- dắc bằng bức tường trước
kia, thành thử chúng nó không có đứa nào không lọt vào ảnh hưởng của bọn
Bolsevich. Mà rõ ràng là chúng ta không thoát khỏi những sự việc khủng khiếp
đâu. Hai ngày mồng ba và mồng năm tháng bảy 3 mới chỉ là một lời cảnh cáo
nghiêm khắc đối với những kẻ nhởn nhơ vô tư lự. Một là chúng ta ủng hộ Kornilov
và sẽ phải nện nhau với những đạo quân của cách mạng dân chủ, hai là bọn
Bolsevich, sau khi tập trung thêm lực lượng và mở rộng ảnh hưởng của chúng sẽ
làm nổ ra thêm một cuộc cách mạng nữa. Chúng nó hiện đang nghỉ ngơi lấy sức,
tập trung lực lượng, còn chúng mình thì vô kỷ luật, vô tổ chức… Chẳng nhẽ có
thể cứ để như thế hay sao?! Những tên Cô- dắc đáng lin cậy cần cho chúng ta
chính là để chống lại cuộc biến động sau nầy đấy…
- Tất nhiên rồi, không có bọn Cô- dắc thì chúng ta chỉ là
những con số không - Dongov thở dài thườn thượt.
- Đúng đấy, Evgeni?
- Rất đúng nữa là khác!
- Nước Nga đã đặt một chân xuống mồ rồi…
- Cậu tưởng bọn mình không hiểu như thế đấy phỏng? Bọn
mình cũng biết như thế, nhưng đôi khi bất lực chẳng làm gì được nữa, "Mệnh
lệnh số Một" 4 và tờ "Sự thật trong chiến hào" 5 đang gieo rắc
những hạt giống của chúng nó.
- Nhưng chúng ta chỉ trầm trồ đứng ngắm những cái mầm nảy
ra chứ không dẫm nát, không đốt trụi hết đi? - Atasikov quát lên.
- Không đâu, chúng ta không trầm trồ đứng ngắm nhưng
chúng ta bất lực.
- Ngài nói bậy rồi, ngài trung uý ạ! Chúng la chỉ lơ là,
không biết lo thôi?
- Không phải thế?
- Ngài thử chứng minh xem nào
- Tờ "Sự thật" đã bị đánh bại… còn Kerensky thì
hẳn chỉ biết suy nghĩ bằng cái phao câu…
- Sao lại thế nầy… họp chợ hay sao đấy? Không thể thế nầy
được?
Những tiếng kêu thét không đầu không đũa ầm lên một lát
rồi lắng dần. Một viên đại đội trưởng từ nãy rất hết sức lắng nghe Evgeni nói,
đề nghị mọi người chú ý.
- Tôi đề nghị đại uý Litnhitki có thể nói cho hết lời.
- Xin mời!
Evgeni sát sát hai nắm tay vào đầu gối nhọn hoắc, nói
tiếp:
- Tôi nói rằng đến lúc đó, tức là trong các trận chiến
đấu sau nầy, trong nội chiến, và mãi đến bây giờ tôi mới hiểu rằng nội chiến là
điều không thể nào tránh được, thì chúng ta cần phải có những tên Cô- dắc trung
thành. Chúng ta phải vật lộn để dành giật chúng khỏi tay các Uỷ ban hiện đang
ngả theo bọn Bolsevich. Đó là một việc cần thiết, có quan hệ sống còn đối với chúng
ta? Cần phải biết rằng hễ lại xảy ra những sự biến động thì bọn Cô- dắc trung
đoàn Một và trung đoàn Bốn sẽ bắn chết hết các sĩ quan của chúng.
- Rõ ràng rồi?
- Chúng nó sẽ không ngần ngại gì đâu!
- Và chúng ta sẽ phải học tập kinh nghiệm của họ, một
kinh nghiệm phải nói là rất đau đớn. Những thằng Cô- dắc bên trung đoàn Một và
trung đoàn Bốn, bây giờ còn coi là dân Cô- dắc thế nào được nữa, và sau nầy
chúng ta sẽ phải đem treo cổ một nửa, nếu không gọn nhất là khử hết một lượt…
cỏ dại thì phải khử cho sạch đồng? Vì thế chúng ta hãy ngăn ngừa đừng để bọn
Cô- dắc chỗ chúng ta phải phạm điều sai lầm mà sau nầy chúng nó sẽ phải giơ đầu
ra hứng lấy tất cả hậu quả.
Evgeni nói xong thì đến lượt viên đại đội trưởng từ nãy
đã đặc biệt chăm chú nghe hắn nói. Là một sĩ quan chuyên nghiệp có tuổi, được
bổ đến trung đoàn đã chín năm, trong chiến tranh đã từng mang trên mình bốn vết
thương, viên đại đội trưởng nói rằng xưa kia làm sĩ quan Cô- dắc thì rất khổ.
Các sĩ quan Cô- dắc thuộc hạng bị lép vế bị đối xử tàn tệ, thăng quan tiến chức
rất chậm, và đối với phần lớn các sĩ quan Cô- dắc: quá lắm chỉ làm được đến
trung tá là cùng. Theo ý hắn thì tình hình đó giải thích vì sao bọn chóp bu
trong hàng ngũ sĩ quan Cô- dắc đã không động chân động tay khi chế độ chuyên chế
bị lật đổ. Tuy vậy, hắn vẫn nói rằng cần phải dốc toàn lực ủng hộ Kornilov, giữ
liên hệ chặt chẽ hơn với Kornilov thông qua Hội liên hiệp sĩ quan.
- Cứ để cho Kornilov trở thành một nhà độc tài, đó là con
đường sống còn của các quân khu Cô- dắc. Dưới chế độ của Kornilov có lẽ chúng
ta sẽ được sống khấm khá hơn dưới chế độ vua Nga.
Nửa đêm đã qua từ lâu. Trời đêm trắng bệch trùm lên thành
phố những món tóc rối bù của những đám mây. Qua cửa sổ có thể nhìn thấy cái kim
đen sì trên ngọn tháp toà nhà của Bộ hải quân và ánh sáng vàng ệch, tràn trề
như nước triều lên của những ngọn đèn.
Bọn sĩ quan trao đổi ý kiến vòi nhau cho tới khi trời
hửng. Chúng quyết định sẽ nói chuyện với binh sĩ Cô- dắc mỗi tuần ba lần về các
vấn đề chính trị, các cán bộ trung đội được giao nhiệm vụ hàng ngày cho đơn vị
tập thề dục và đọc lời thề để giảm bớt thời gian nhàn rỗi và cố làm cho tinh
thần bọn lính Cô- dắc thoát khỏi không khí chính trị đang gây tan rã.
Trước khi ra về, họ hát bài: "Sông Đông êm đềm, sông
Đông chính giáo, vật mình vật mẩy, sóng cuộn ào ào" uống hết samova trà
thứ mười, chạm cốc lách cách nói những lời nâng chén bông đùa.
Ngay lúc sắp tan cuộc Atasikov mới rỉ tai Dongov rồi nói
to:
- Bây giờ, để thay món tráng miệng, chúng tôi xin hiến
chư vị một bài hát Cô- dắc cổ. Nào thôi, yên lặng một chút? Và có lẽ mở cửa sổ
ra thì hơn, nếu không khói ghê quá đấy.
Dongov hát một giọng trầm, rất khoẻ, dày dạn. Giọng nam
cao của Atasikov thì dịu dàng, dễ nghe lạ lùng. Đầu tiên hai giọng hát còn chập
chững, chưa ăn khớp với nhau, mỗi giọng theo một nhịp riêng, nhưng dần dần
quyện vào nhau mạnh mẽ, rạt rào, làm bài hát có một vẻ đẹp xâm chiếm tâm hồn
người nghe:
Nhưng kiêu hãnh tay sông Đông chúng ta, sông Đông êm đềm,
sông Đông cha quý,
Không hàng phục quân Islam, sống ra sao cũng chẳng hỏi
Moskva
Và nói với đường gươm sắc ngọt, ta thường chào vào gáy
bọn Thổ Nhĩ Kỳ…
Và hàng năm, đồng cỏ sông Đông,
mẹ yêu của chúng ta kêu gọi,
Vì chính giáo, vì Đức mẹ đồng trinh,
Vì sông Đông tự do,
vì tiếng sóng ngày đêm vang dội.
Người Cô- dắc giết giặc quên mình…
Atasikov đan mười đầu ngón tay vào
nhau, đặt lên đầu gối, hát những nốt thật cao, từ đầu đến cuối không lạc giọng
một lần nào, dù trong những lúc láy tiếng hát, hắn vượt hẳn lên, làm cho cái
giọng trầm cương nghị của Dongov tụt lại rất xa. Vẻ mặt Atasikov nom hết sức
nghiêm trang, và mãi khi hát gần hết bài, Evgeni mới nhận thấy một giọt nước
mắt rất nhỏ lấp loáng một ánh lành lạnh chạy từ khoé mắt xuống cái nốt ruồi nâu
nâu.
Sau khi sĩ quan các đại đội khác đã
ra về, và các tên khác trong đại đội đã đi ngủ cả, Atasikov tới ghé ngồi vào
giường Evgeni. Hắn mân mê hai sợi dây đeo quần xanh xanh đã bạc mầu trên bộ
ngực căng phồng, khẽ nói:
- Evgeni ạ, cậu có biết không… Mình
yêu sông Đông không thể tả được, mình yêu tất cả cái nếp sống cổ xưa, lưu lại
từ bao nhiêu thế kỷ đến ngày nay. Đã là dân Cô- dắc thì đàn ông mình cũng yêu,
đàn bà mình cũng yêu, yêu tuốt? Hễ ngửi thấy mùi ngải cứu trên đồng cỏ là mình
muốn khóc rồi… Và những khi hướng dương nở hoa những khi hương thơm trong các
vườn nho vừa được tắm nước mưa toả ra nồng nạc trên sông Đông, mình cảm thấy
yêu sâu sắc, yêu đến đau lòng… Cậu có hiểu không? Thế mà bây giờ mình lại nghĩ
rằng, không biết có phải chúng ta đang lừa dối chính những người Cô- dắc ấy
không? Không biết có phải chúng ta đang dắt họ vào con đường cùng không?
- Cậu định nói gì thế? - Evgeni nói
có ý giữ miếng.
Cái cổ của Atasikov nổi bật lên nâu
nâu trên cổ chiếc áo sơ- mi trắng, nom ngây thơ, trẻ dại, đến là đáng thương.
Một vành mí mặt quầng xanh nặng nề đè lên cái nốt ruồi nâu, Evgeni nhìn nghiêng
thấy một ánh ươn ướt trong bên mắt không nhắm hẳn.
- Mình nghĩ rằng không biết những
việc như thế nầy có cần cho bọn Cô- dắc không?
- Nhưng nếu thế thì chúng nó cần gì?
- Mình cũng chẳng hiểu… Nhưng tại
sao họ cứ tự nhiên xa rời bọn mình như thế? Cách mạng tựa như đã chia chúng ta
ra làm hai, cừu một bên, dê một bên, và quyền lợi của chúng ta và của họ cũng
tựa như không còn đồng nhất nữa.
- Cậu phải biết rằng, - Evgeni bắt
đầu nói bằng một giọng dè dặt - Tình hình đó phản ánh hai trình độ nhận thức
khác nhau về các việc xảy ra. Bọn mình có trình độ văn hoá cao hơn, nên có thể
đánh giá sự kiện nầy hay sự kiện khác một cách có phê phán, còn bọn Cô- dắc thì
ở chúng nó cái gì cũng ấu trĩ, sơ lược. Bọn Bolsevich đã nhồi nhét được vào đầu
óc chúng nó ý nghĩ cần phải chấm dứt chiến tranh, nói đúng hơn là biến chiến
tranh thành nội chiến. Chúng nó xúi giục bọn Cô- dắc chống lại chúng ta. Mà bọn
Cô- dắc lại đang mỏi mệt lại là những kẻ có nhiều thú tính, không có đủ ý thức
đạo đức kiên định về nghĩa vụ và trách nhiệm đối với Tổ quốc như chúng ta, vì
thế việc bọn Bolsevich tìm được một đất gieo hạt thuận lợi là một điều hoàn
toàn dễ hiểu. Hơn nữa đối với chúng nó tổ quốc có nghĩa lý gì đâu? Dù sao đó
cũng chỉ là một khái niệm trừu tượng. "Quân khu sông Đông ở xa mặt trận
quân Đức không tiến được tới đâu" cách suy nghĩ của chúng nó là như thế
đấy. Toàn bộ tai hoạ là ở chỗ đó. Cần phải giải thích cho chúng nó hiểu đúng
đắn rằng nếu biến cuộc chiến tranh nầy thành nội chiến thì tự nhiên sẽ gây ra
những hậu quả như thế nào.
Miệng Evgeni nói thế nhưng trong
thâm tâm hắn vẫn cảm thấy rằng lời nói của hắn không đạt được mục đích gì cả và
Atasikov sẽ lập tức lẩn sâu vào cái vỏ ốc tư tưởng của mình.
Mà đúng là như thế: Atasikov chỉ lầu
bầu thêm vài câu chẳng hiểu nghĩa lý ra sao rồi ngồi lặng đi giờ lâu. Evgeni cố
tìm mọi cách nhưng chẳng làm thế nào hiểu được rằng trong lúc người đồng sự của
mình ngồi ngậm tăm như thế thì đầu óc hắn đang lang thang nơi hang cùng ngõ hẻm
nào.
"Đáng phải để nó nói hết ý mới
đúng…" - Evgeni tiếc rẻ nghĩ thầm.
Atasikov chúc hắn ngủ ngon rồi bỏ ra
ngoài, không nói thêm lời nào cả. Trong giây phút, hắn đã muốn cởi mở tấm lòng,
đã hơi vén tấm màn đen mà mỗi người đều dùng để che giấu các tâm tư thầm kín
của mình không cho người khác biết, nhưng hắn đã hạ ngay tấm màn xuống.
Không mò được ra những điều bí mật
trong lòng người khác, Evgeni cảm thấy xao xuyến, tức tối. Hắn hút điếu thuốc,
nằm lại một lát, mắt nhìn đăm đăm vào bóng tối xám xịt, dầy đặc như bông.
Và bỗng nhiên hắn nhớ tới Acxinhia,
cùng những ngày nghỉ phép tràn ngập những nàng là nàng. Rồi hắn ngủ thiếp đi,
những ý nghĩ và những mẩu hồi ức phiến đoạn về những người đàn bà trước kia đã
từng gặp hắn trên đường đời đã giúp hắn lấy lại bình tĩnh.
--- ------ ------ ------ -------
1 Kornilov
(1870 - 1918) một viên tướng trong quân đội Nga hoàng, làm tổng tư lệnh tối cao
dưới Chính phủ lâm thời, tay sai của các nước đế quốc đồng minh, cầm đầu âm mưu
phản động tháng 8- 1917. Đến 11- 1917 chạy về vùng sông Đông chỉ huy "Tập
đoàn quân tình nguyện " của bọn Bạch vệ, bị giết trong trận chiến đấu
tháng 3- 1918 ở gần Ekatirinod (nay là Krasnodar) (ND).
2 Tên của
Kornilov.
3 Hai ngày
trên đây ghi theo lịch Nga cũ (tương đương với hai ngày 16 và 18 tháng bảy trên
lịch hiện nay). Trong hai ngày nầy, công nhân và binh sĩ Peterburg đã biểu tình
thị oai phản đối Chính phủ lâm thời (ND).
4 Mệnh lệnh
số 1" (1- 3- 1917) của Uỷ ban chấp hành xô viết Petrograd ban hành do áp
lực của quần chúng cách mạng, lập những tổ chức do quần chúng bầu ra trong các
đơn vị quân đội và qui định các tổ chức đó có quyền kiểm soát hoạt động của các
cấp chỉ huy cũ của Nga hoàng. (lời chú của bản tiếng Nga).
5 "Sự
thật trong chiến hào" tờ báo đấu tranh của những người Bolsevich (lời chú
của bản tiếng Nga).
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 90
Trong đại đội của Evgeni có một gã
Cô- dắc trấn Bukanovskaia tên là Laguchin Ivan. Lần bầu cử thứ nhất Laguchin đã
được chọn làm uỷ viên Uỷ ban quân sự cách mạng trung đoàn. Trước khi trung đoàn
tới Petrograd, Laguchin không có biểu hiện gì đặc biệt, nhưng trong những ngày
cuối tháng bảy, một viên trung đội trưởng có báo cáo với Evgeni rằng Laguchin
thường lui tới bộ phận quân sự của Xô viết đại biểu công nhân binh sĩ
Petrograd, chắc hẳn có liên lạc gì với Xô viết đó, vì thấy Laguchin thường hay
nói chuyện với bọn Cô- dắc trong trung đội và có ảnh hưởng xấu tới bọn nầy.
Trong đại đội đã hai lần có hiện tượng không nhận phân công canh gác và tuần
tiễu. Viên trung đội trưởng kia đã qui cả hai trường hợp ấy cho tác động của
Laguchin đối với bọn Cô- dắc.
Evgeni nghĩ rằng thế nào hắn cũng
phải tìm hiểu sát hơn về Laguchin, để mò mẫm thêm về Laguchin. Nếu gọi anh
chàng Cô- dắc nầy lên để có một cuộc trao đổi cởi mở thì thật là ngu xuẩn và
thiếu thận trọng, vì thế Evgeni quyết định chờ cơ hội. Chảng bao lâu cơ hội ấy
đã đến. Trong những ngày cuối tháng bảy, đến lượt trung đội ba phải bảo vệ ban
đêm các dãy phố nằm sát nhà máy Puchilov.
- Tôi sẽ cùng đi với bọn Cô- dắc -
Evgeni báo trước cho viên trung đội trưởng, - Ngài bảo đóng cho tôi con ngựa
huyền.
Evgeni có hai con ngựa, "đề
phòng bất trắc", như hắn thường nói. Gã lính hầu giúp hắn mặc áo xong, hắn
đi xuống sân. Toàn trung đội đã lên ngựa. Mọi người tiến quạ vài dãy phố trong
bóng tối mờ sương với những đốm đèn như thêu trên màn đêm. Evgeni cố ý cho ngựa
đi chậm lại và gọi Laguchin ở phía sau lên. Laguchin cho ngựa tới gần, rồi quay
đầu con ngựa vừa nhỏ vừa xấu, nhìn viên đại uý ra ý chờ đợi.
- Trong Uỷ ban của các anh có gì mới
không? Evgeni hỏi.
- Chẳng có gì cả.
- Anh ở trấn nào thế, Laguchin?
- Bukanovskaia.
- Thôn nào?
- Mitiakino.
Lúc nầy hai con ngựa đã đi song
song. Nhân có ánh đèn, Evgeni liếc nhìn khuôn mặt râu ria xồm xoàm của người
lính Cô- dắc. Dưới chiếc mũ cát- két của Laguchin có thể nhìn thấy vài món tóc
mượt, chòm râu quai nón loăn xoăn chỗ rậm chỗ thưa trên cặp má phinh phính, cặp
mắt thông minh, có phần giảo quyệt nữa là khác lẩn rất sâu dưới hai hàng lông
mày vòng cung mọc nhô hẳn ra.
"Nhìn bề ngoài thì thằng cha
nầy cũng bình thường, chán ngắt, nhưng không biết ruột gan nó như thế nào? Chắc
hẳn nó cũng thù ghét mình như tất cả những cái gì có liên quan đến chế độ cũ,
đến "cái gậy của thầy cai thôi…" - Evgeni nghĩ thầm rồi không hiểu
sao tự nhiên muốn tìm hiểu về quá khứ của Laguchin.
- Đã lập gia đình chưa?
- Thưa có. Đã có vợ và hai con nhỏ.
- Còn công việc làm ăn thì sao?
- Nhà chúng tôi thì công việc làm ăn
cái gì? - Laguchin nói giọng châm biến, và có vẻ nhớ tiếc - Chúng tôi sinh sống
cũng qua quít. Không con bò cộng thêm anh chàng Cô- dắc thì lại anh chàng Cô-
dắc cộng thêm con bò, suốt đời cứ quanh quẩn quẩn quanh như thế. Đất vùng chúng
tôi lại lắm cát - Anh ta ngẫm nghĩ một lát rồi nói thêm, giọng nghiêm nghị.
Trước kia Evgeni đã có lần qua trấn
Bukanovskaia để ra ga Sebriakoto. Hắn nhớ lại một cách rất sinh động cái trấn
khỉ ho cò gáy nằm tách rời hẳn đường cái quan nầy. Phía nam trấn có một đồng cỏ
thẳng cánh cò bay, khá bằng phẳng, nằm giữa những khúc sông Khop chảy ngoằn
ngoèo. Hôm ấy, lúc còn cách địa phận trấn Elanskaia chừng mười hai véc- xta,
hắn đã nhìn thấy từ trên đường sống đồi những mảnh vườn mung lung xanh rờn dưới
khoảng đất thấp cùng với cái tháp chuông cao ngất, trắng bệch như một cái xương
cẳng bị gặm nham nhở.
- Vâng chúng tôi nhiều cát lắm, - Evgeni
thở dài.
- Có lẽ muốn về nhà lắm rồi phải
không?
- Còn sao nữa, thưa ngài đại uý. Tất
nhiên là trong lòng rối bời chỉ mong mau chóng trở về thôi. Chịu khổ chịu sở vì
chiến tranh có phải ít ỏi gì đâu…
- Khó mà được về sớm sủa đấy, người
anh em ạ…
- Rồi sẽ được về thôi.
- Nhưng chiến tranh còn chưa chấm
dứt cơ mà?
- Chẳng bao lâu sẽ chấm dứt thôi.
Chẳng bao lâu sẽ về nhà thôi, - Laguchin vẫn khăng khăng giữ ý kiến cũ.
- Chúng ta còn phải đánh lẫn nhau
nữa chứ, cậu thấy thế nào?
Laguchin không rời hai con mắt khỏi
mũi yên ngựa, nín lặng một lát rồi hỏi:
- Còn đánh nhau với ai bây giờ?
- Thiếu gì những kẻ còn phải đánh…
ít nhất cũng có bọn Bolsevich.
Laguchin lại nín lặng giờ lâu, tựa
như anh ta đang thiu thiu theo tiếng vó ngựa đập rành rọt như nhịp khiêu vũ.
Hai người lẳng lặng cho ngựa đi chừng ba phút. Cuối cùng Laguchin thủng thảng
nói tách bạch từng tiếng.
- Chúng tôi chẳng có gì dành giật
với họ…
- Thế còn ruộng đất?
- Ruộng đất đã có đủ cho tất cả mọi
người.
- Cậu cũng biết rằng bọn Bolsevich
muốn làm những gì rồi chứ?
- Cũng có được nghe đôi chút…
- Theo ý cậu thì cần phải làm gì nếu
như bọn Bolsevich kéo đến vùng chúng ta để chiếm lấy ruộng đất của chúng ta, để
biến người Cô- dắc thành tôi mọi? Cậu cũng đã từng chiến đấu chống quân Đức,
bảo vệ nước Nga cơ mà?
- Quân Đức là chuyện khác.
- Thế còn bọn Bolsevich?
- Có sao đâu, thưa ngài đại uý, - xem ra Laguchin đã
quyết định nói toạc ra. Anh ta vừa nói vừa ngước nhìn lên và cố bắt gặp hai con
mắt của Evgeni - người Bolsevich sẽ không đến cướp mất mẩu đất cuối cùng của
tôi đâu. Trong tay tôi chỉ vỏn vẹn có một phần đất để cày họ chẳng cần gì đến
ruộng đất của tôi cả… Còn thí dụ như, nói thế nầy xin ngài đừng bực mình, ông
cụ nhà ngài có tới một vạn đê- xi- a- chin…
- Không phải một vạn mà là bốn nghìn…
- Vâng được, thì cũng thế thôi, cứ cho là bốn nghìn đi,
nhưng như thế có phải là một mảnh nhỏ đâu? Có thể nói rằng như thế thì còn ra
một trật tự gì nữa? Xin ngài thử nhìn ra khắp nước Nga mà xem, những người như
ông cụ nhà ngài còn quá nhiều nữa là khác. Thế thì ngài thử ngẫm mà xem, thưa
ngài đại uý, mỗi miệng ăn đều đòi có cho nó một miếng bánh. Ngài cũng muốn được
ăn, và bất cứ người nào khác cũng đều muốn được ăn. Ngài biết chuyện gã Di- gan
dạy con ngựa của nó nhịn ăn đấy chứ? Gã bảo không ăn rồi sẽ quen đi. Con ngựa
trung thành vâng lời chủ cố tập cho quen, nhưng đến ngày thứ mười thì về với
ông bà ông vải… Các lề thói dưới thời vua Nga nó ngược đời như thế đấy, đối với
những kẻ khố rách áo ôm lại càng ác nghiệt… Chỉ một nhát, người ta cắt phăng
cho ông cụ nhà ngài bốn ngàn đê- xi- a- chin, ngon như một miếng bánh nướng.
Nhưng ông cụ nhà ngài có ăn bằng hai cổ họng đâu, cũng chỉ có một cổ họng như
bọn dân ngu cu đen chúng tôi thôi. Như thế thì tất nhiên nhân dân phải căm
phẫn? Người Bolsevich, họ chọn rất trúng đích, thế mà ngài lại bảo đánh nhau
với họ…
Nghe Laguchin nói, ruột gan Evgeni cứ rối bời bời, nhưng
hắn vẫn cố nhịn. Cuối cùng hắn hiểu rằng mình bất lực, không thể đưa ra một lý
lẽ nào nặng đồng cân để cãi lại, hắn cảm thấy rằng các ý dẫn chứng giản dị, đơn
giản một cách chết người của người lính Cô- dắc đã dồn hắn vào góc tường, và ý
thức mơ hồ về cái sai của mình trước kia bị nén xuống đến nay lại ngoi lên.
Evgeni luống cuống, rồi phát khùng lên.
- Mầy là thế nào, Bolsevich phải không?
Trong chuyện nầy, cái tên gọi không có gì quan trọng cả…
- Laguchin trả lời, giọng kéo dài, đầy vẻ châm biếm - vấn đề không phải ở tên
gọi mà ở sự thật. Nhân dân cần có sự thật nhưng trước đây người ta che giấu nó,
chôn vùi nó. Người ta còn nói rằng sự thật đã chết từ lâu rồi.
- Bọn Bolsevich tại Xô viết đại biểu công nhân binh sĩ đã
nhồi nhét cho mày những luận điệu như thế rồi đấy… Xem ra mày lui tới chỗ chúng
nó cũng không phải không có kết quả.
- Chà, thưa ngài đại uý, đầu óc của những kẻ quen chịu
đựng như chúng tôi thì đã có ngay cuộc sống nó nhồi nhét cho rồi. Còn như người
Bolsevich thì họ chỉ làm việc châm ngòi nổ…
- Thôi vứt mẹ những lời như trong chuyện cổ tích ấy đi!
Đây không phải là lúc bỡn cợt! - Giọng Evgeni đầy vẻ tức tối - Mày hãy trả lời
tao xem: mày vừa nói về đất đai của cha tao và nói chung về đất đai của giai
cấp địa chủ, nhưng đấy là quyền tư hữu. Nếu mày có hai cái áo sơ- mi mà tao
chẳng có cái nào thì theo ý mày, tao phải cướp lấy của mày phải không?
Evgeni không nhìn thấy mặt Laguchin, nhưng nghe giọng
nói, hắn cũng đoán được rằng anh ta mỉm cười.
- Tôi sẽ tự tay cho chiếc sơ- mi
thừa. Ngoài mặt trận tôi đã cho đi không phải một chiếc thừa, mà có độc một cái
cũng cho đi, và cứ trần trục trong chiếc ca- pôt. Nhưng ruộng đất chẳng có ai
dứt ruột cho đi bao giờ…
- Thế ruộng đất của mày còn chưa
thừa mứa hay sao? Mày còn chưa có đủ hay sao? - Evgeni to tiếng.
Laguchin tức điên lên, cảm thấy như
nghẹt thở. Anh ta tái mặt di, trả lời gần như quát lên.
- Thế ngài nghĩ rằng tôi chỉ đau
lòng cho cái thần xác của riêng tôi đấy phỏng. Chúng ta đã qua Ba Lan, người ta
sống ở bên ấy như thế nào hử? Ngài có nhìn thấy hay không? Còn những người mu-
gích ở chung quanh chúng ta họ sống như thế nào hử? Tôi thì đã nhìn thấy! Máu trong
tim tôi sôi lên! Sao, ngài nghĩ rằng tôi không biết thương họ đấy phải không?
Có lẽ chỉ vì nghĩ tới chuyện ấy, nghĩ tới người dân Ba Lan, tới mảnh đất đầy
đắng cay của họ, mà tôi đã ốm lên ốm xuống đấy.
Evgeni đã định nói một ý móc mói,
nhưng từ chỗ những ngôi nhà xám xịt, to lù lù của nhà máy Pchilov đã vang ra
một tiếng kêu như xé màng tai: "Bắt lấy nó!". Tiếng vó ngựa rầm rập,
một phát súng nổ ra chối tai, Evgeni vung roi cho ngựa phi tới.
Cả hắn lẫn Languchin đều phi ngựa
cùng một lúc tới chỗ trung đội xúm đông gần ngã tư. Bọn Cô- dắc xuống ngựa,
gươm đập lách cách. Ở giữa có một người vừa bị chúng bắt đang vùng vẫy lăn lộn.
- Cái gì? Cái gì thế? - Evgeni cho
ngựa lao vào giữa đám người, gầm lên.
- Thằng khốn kiếp ném đá…
- Ném một cái rồi chạy thẳng.
- Cho nó một trận, Arzanov!
- Chà, đồ khốn nạn! Mầy muốn chơi
trò ném trộm phải không?
Arzanov, gã hạ sĩ của trung đội, văn
ngồi trên yên, cúi xuống túm cổ một người mặc áo bơ- lu đen không thắt dây
lưng. Ba gã Cô- dắc xuống ngựa vặn ngoặt hai tay người ấy.
- Mầy là đứa nào? - Evgeni không tự
chủ được nữa, quát lên.
Người bị bắt ngửng đầu lên, cặp môi
mím chặt chẳng nói chẳng rằng trên khuôn mặt nhăn nhó trắng bệch.
- Mầy là đứa nào hử? - Evgeni nhắc
lại câu hỏi - Mày ném đá hử, đồ vô lại? Thế nào? Mầy câm à? Arzanov…
Arzanov nhảy phắt trên yên xuống,
buông cổ áo người bị bắt ra, và vung tay đấm vào mặt người ấy.
- Cho nó một trận? - Evgeni quay
ngoắt con ngựa lại, ra lệnh.
Ba bốn gã Cô- dắc đã xuống ngựa đẩy
người bị trói ngã dúi xuống đất, vung roi quật lấy quật để. Laguchin tụt trên
yên xuống, chạy đến trước mặt Evgeni.
- Ngài đại uý! Sao ngài lại làm như
thế? Ngài đại uý?
Laguchin nắm chặt lấy đầu gối viên
đại uý bằng những ngón tay run run, quát lên - Không thể thế được? Đây là một
con người! Ngài làm gì thế hử?
Evgeni vung dây cương đánh ngựa,
không nói gì cả.
Laguchin lại chạy lao tới chỗ bọn
Cô- dắc, ôm ngang người Arzanov, cố lôi tên nầy ra, hai chân vấp trên mặt
đường, vướng cả vào gươm. Arzanov vừa giằng ra vừa nói:
- Cậu đừng cuống cuồng lên như thế?
Đừng cuống cuồng lên? Nó ném đá vào mình mà lại để nó yên à?
- Buông ra! Mình còn nói nhẹ nhàng
thì liệu mà biết điều!
Một gã Cô- dắc lưng tháo khẩu súng
trường khỏi vai, nện báng súng vào cái thân hình mềm nhũn nằm lăn dưới đất, mỗi
lần bị đánh lại kêu ràn rạt. Một phút sau, một tiếng kêu trầm trầm, man rợ như
tiếng thú vật, vàng trên mặt đường:
- Quân chó đẻ? Một lũ phản cách
mạng! Chúng mày cứ đánh đi! Ô- ối! A- a- a- a?
Bốp! Bốp! Bốp! - tiếng báng súng vẫn
như giã giò.
Laguchin chạy về phía Evgeni, đứng
sát hẳn vào đầu gối hắn, quào móng tay vào má yên, giọng như nghẹt thở:
- Tha cho người ta?
- Xéo ngay!
- Đại uý Litnhitki! Có nghe thấy không? Mày sẽ phải đền
tội!
- Tao thì muốn nhổ vào mặt mày! - Evgeni rít lên và thúc
ngựa xô Laguchin.
- Anh em! - Laguchin chạy tới chỗ những tên Cô- dắc đứng
ngoài cuộc và kêu lên - Tôi là uỷ viên Uỷ ban cách mạng trung đoàn… Tôi ra lệnh
cho anh em: hãy cứu người nầy khỏi chết! Trách nhiệm… anh em sẽ phải chịu trách
nhiệm? Không còn là cái thời trước kia nữa rồi…
Lòng căm hờn sôi sục làm Evgeni trở nên mù quáng, không
còn có thể cân nhắc phải trái gì nữa. Hắn vung roi quật vào hai cái tai con
ngựa, xông tới sát Laguchin. Hắn chọc thẳng khẩu súng ngắn đen sì, dầu mỡ thối
hoăng, vào mặt Laguchin, rít lên:
- Câm... câm ngay, đồ phản bội! Đồ Bolsevich? Tao bắn chết mày!
Nhưng hắn vẫn đem hết nghị lực kéo
ngón tay khỏi cò súng, rồi giật mạnh cương cho con ngựa đứng chồm lên, và phóng
đi.
Vài phút sau, ba gã Cô- dắc phi ngựa
theo hắn. Một người mặc chiếc áo bơ- lu ướt đẫm dính chặt vào thân, hai chân
không động đậy gì nữa, bị kéo lê giữa hai con ngựa của Arzanov và Lapin. Bị hai
tên Cô- dắc xốc nách lôi đi, người ấy khẽ lắc lư, chân kéo lê trên đá giải
đường, cái đầu bị dập nát, máu me lênh láng, ngặt hẳn ra sau, cái cằm hất ngược
trăng trắng giữa hai bên vai nhô cao lên nhọn hoắt. Gã Cô- dắc thứ ba cho ngựa
chạy rời xa một chút. Gã nhìn thấy ở góc phố có một người đánh xe ngựa đứng
dưới ánh đèn, bèn rướn người trên bàn đạp, cho ngựa chạy nước kiệu tới gần. Gã
nói gọn lỏn không biết câu gì, rồi quật roi ngựa vào ủng một cách đầy ý nghĩa.
Người kia ngoan ngoãn hấp tấp đánh
ngay xe ra giữa phố, chỗ Arzanov và Lapin đứng lại.
Sáng hôm sau, Evgeni vừa tỉnh dậy đã
nhận thấy ngay rằng hôm qua hắn đã phạm một sai lầm rất lớn, không sao cứu vãn
được nữa. Hắn cắn môi nhớ lại cảnh người ném đá đã bị đánh nhừ tử cùng những
chuyện xảy ra sau đó giữa hắn và Laguchin. Hắn cau mày, đăm chiêu, húng hắng
ho. Rồi trong khi mặc quần áo, hắn tự bảo tạm thời không nên động tới Laguchin
vội để tránh cho quan hệ giữa mình với Uỷ ban cách mạng trung đoàn khỏi trở nên
gay gắt, và tốt nhất chờ khi nào ấn tượng về cuộc đụng độ hôm qua giữa mình với
Laguchin đã phai mờ đi trong đầu óc những tên Cô- dắc có mặt trong lúc đó, rồi
sẽ nhẹ nhàng khử hắn đi cho khỏi vướng chân.
"Như thế gọi là mình đã hoà
mình với bọn Cô- dắc đấy…" - Evgeni tự giễu mình một cách chua chát và sau
đó mấy ngày liền hắn vẫn còn bị ám ảnh bởi ấn tượng khó chịu về những việc xảy
ra.
° ° °
Sang đầu tháng tám, có lần Evgeni
cùng với Atasikov dạo chơi trong thành phố vào một ngày nắng đẹp. Sau câu
chuyện trao đổi có cuộc họp sĩ quan, giữa hai người chưa có gì giúp họ giải
quyết được sự không nhất trí xảy ra. Atasikov cứ kín như bưng, và vẫn nung nấu trong
lòng những điều suy nghĩ mà hắn chưa phơi bày ra hết. Đã mấy làn Evgeni tìm
cách khêu gợi để Atasikov nói toạc móng heo, nhưng Atasikov càng khép kín tấm
màn bí mật thường thấy ở những người không muốn cho người khác nhìn thấy rõ
chân tướng của mình. Còn Evgeni thì trong khi tiếp xúc giao du với người khác,
bao giờ hắn cũng có cảm tưởng như sau một cái vẻ phô ra bên ngoài, con người
bao giờ cũng còn có một cái gì khác đôi khi không làm thế nào lần thấy được.
Hắn tin chắc rằng bất kỳ người nào, nếu bị lột cái vỏ bọc ngoài đều lộ rõ một
cái nhân lõi chân thực, trần truồng, không nhuộm thêm một điéu giá dối gì.
Chính vì thế bao giờ hắn cũng có cái tật muốn dò dẫm xem có cái gì bị giấu sau
cái bề ngoài thô bạo, khắc khổ, gan dạ liều lĩnh, ngang tàng láo xược, sung
sướng hay vui tươi của mọi người. Lần nầy, trong khi nát óc về Atasikov, hắn
chỉ đoán ra một điều là Atasikov đang đau khổ tìm cách giải quyết mối mâu thuẫn
đang vấp phải là kết hợp cái chất Cô- dắc với cái chất Bolsevich. Giả thiết đó
đã làm hắn thôi không tìm cách gần gụi Atasikov nữa, và cứ giữ một thái độ xa
xa lánh lánh.
Hai người đi trên đại lộ Nepsky, lâu
lâu mới trao đổi vài câu vô vị.
- Ta vào ăn chút gì đi? - Evgeni đưa
mắt chỉ cái cửa một tiệm ăn và mời Atasikov.
- Ăn thì ăn. - Atasikov nhận lời.
Hai người vừa bước vào đã đứng dừng
lại, đưa mắt nhìn quanh có vẻ như đành chịu bó tay; tất cả các bàn đều đã có
người ngồi.
Atasikov quay người định bỏ đi thì
một thân sĩ béo tốt, ăn mặc đĩnh đạc bước tới kính cẩn ngả chiếc mũ quả dưa.
Ông ta vốn ngồi ở một chiếc bàn bên cạnh cửa sổ cùng với hai bà sang trọng và
từ nãy đã chăm chú nhìn hai người.
- Xin hai ngài thứ lỗi! Mời hai ngài
vào ngồi bàn chúng tôi, không biết như thế có tiện không? Chúng tôi ra ngay
đây. - Vị thân sĩ nhe hai hàm răng thưa nâu xịt vì khói thuốc, mỉm cười đưa tay
mời hai người vào. - Tôi sung sướng được có dịp giúp đỡ các ngài sĩ quan. Các
ngài là niềm kiêu hãnh của chúng tôi.
Hai bà ngồi ở bàn cùng đứng dậy. Một
người cao lớn sửa lại bộ tóc đen. Người kia trẻ hơn xoay xoay chiếc dù nhỏ đứng
chờ.
Hai viên sĩ quan cảm ơn vị thân sĩ
có lòng tốt nhường cho mình bàn ăn rồi đi tới bên cửa sổ. Nắng xuyên qua tấm
rèm cửa in lên trên khăn bàn hình những chiếc kim vàng. Những đoá hoa tươi cắm
ở các bàn toả ra một mùi hương thanh thanh, ngây ngất, át cả mùi các món ăn.
Evgeni gọi món cá om với kvas và lá
cải ướp đá. Trong khi chờ đợi hắn rút trong bình ra một đoá sen cạn nửa vàng
nửa đỏ, mơ màng dứt từng cánh hoa. Atasikov lấy khăn tay lau vùng trán đẫm mồ
hôi, hai con mắt lim dim mệt mỏi, cứ dán vào những đốm nắng nhảy múa trên con
dao đặt ở bàn bên, và chốc chốc hắn lại nháy mắt.
Hai gã ăn chưa xong đã thấy hai viên
sĩ quan bước vào tiệm ăn, mồm miệng bô bô.
Trong khi đưa mắt nhìn quanh tìm một
bàn chưa có người ngồi, tên đi đầu quay về phía Evgeni một bộ mặt rám nâu rất
đều. Hai con mắt đen xếch của hắn sáng lên sung sướng.
- Evgeni? Cậu đấy à?- Viên sĩ quan
vừa bước tới vừa kêu lên, giọng đầy tự tin, không chút gì e ngại.
Nhìn hai hàm răng trắng loá nham nhở
dưới hàng ria đen của hắn, Evgeni nhận ra tên đại uý Kalmykov còn gã đi sau hắn
là Trubov.
Bốn người bắt tay nhau rất chặt.
Evgeni giới thiệu hai bạn đồng sự của hắn với Atasikov rồi hỏi:
- Có gì run rủi hai cậu đến đây thế?
Kalmykov vê vê một món ria, hất đầu
về phía sau, đưa mắt nhìn quanh rồi nói:
- Hai chúng mình đi công vụ đây. Lát
nữa mình sẽ kể cho cậu nghe. Cậu hãy cho mình biết về cậu đã. Cậu sống ở trung
đoàn Mười bốn như thế nào hả?
Cả bốn cùng bước ra khỏi tiệm ăn.
Kalmykov và Evgeni đi chậm lại, vừa đến một cái ngõ là rẽ ngay vào. Nửa giờ sau
họ đã ra khỏi những khu phố ồn ào, vừa đi vừa thì thầm nói chuyện với nhau, mắt
lấm lét nhìn quanh…
- Quân đoàn Ba của bọn mình hiện nay
đang nằm trong lực lượng dự bị của Mặt trận Rumani, - Kalmykov kể bằng một giọng
sôi nổi.
- Mươi ngày trước đây, mình đã nhận
được lệnh của trung đoàn trưởng: bàn giao đại đội rồi cùng với trung uý Trubov
lên sư đoàn bộ nhận nhiệm vụ mới. Đại tá M. ở ban tác chiến, cậu có biết tay ấy
đấy đã nói riêng cho mình biết rằng mình phải lập tức lên gặp tướng quân
Krymov. Mình bèn cùng với Trubov lên quân đoàn bộ.
Krymov tiếp mình và sau khi biết
rằng người ta đã cử một sĩ quan như thế nào lên gặp ngài, tướng quân đã tuyên
bố toạc móng heo như thế nầy: "Trong chính quyền đang có những người cố
tình đưa nước Nga đến chỗ chết. Thế nào cũng phải thay đổi các cấp chóp bu
trong Chính phủ, thậm chí thay cả Chính phủ lâm thời bằng một nền độc tài quân
sự". Tướng quân đã nêu Kornilov như một người có thể được đề cử, rồi bảo
mình lên Petrograd nhận nhiệm vụ của Uỷ ban trung ương Hội liên hiệp sĩ quan.
Hiện nay ở đây đã tập trung được vài trăm sĩ quan đáng tin cậy. Cậu có hiểu vai
trò của chúng ta bây giờ là gì không? Uỷ ban trung ương Hội liên hiệp sĩ quan
đang tiếp xúc với Hội đồng Hội liên hiệp các quân nhân Cô- dắc chúng ta để tổ
chức những tiểu đoàn xung kích ở các ga đầu mối và các sư đoàn. Tất cả sẽ có
ích trong một tương lai không xa đâu…
- Tình hình rồi có đi tới đâu? Cậu
thấy thế nào?
- Rõ cái cậu nầy! Chẳng nhẽ cậu sống
ở đây mà không tìm hiểu được cục diện hiện nay à? Đứt đuôi con nòng nọc là thế
nào cũng sẽ có một cuộc đảo chính và Kornilov sẽ lên nắm chính quyền. Vì quân
đội hoàn toàn ủng hộ Kornilov. Ở chỗ chúng mình anh em nghĩ như thế nầy: hiện
nay có hai lực lượng ngang sức nhau là Kornilov và bọn Bolsevich. Kerensky thì
nằm bẹp giữa hai lực lượng ấy, như giữa hai tấm đá cối xay, cứ để cho hắn ngủ
ngon trên giường của mụ Alixa 1, cho hắn hưởng cái thú nhất dạ đế vương -
Kalmykov nín lặng một lát rồi đăm chiêu nghịch nghịch dây ngù của thanh gươm và
nói - Thật ra chúng mình chỉ là những quân tốt trên bàn cờ… mà những quân tốt
thì chẳng làm thế nào biết được bàn tay chơi cờ sẽ đẩy mình lới đâu… Như mình
đây chẳng hạn, mình không hình dung được tất cả những việc xảy ra trong đại bản
doanh. Mình chỉ biết rằng giữa các ông tướng: Kornilov, Lucomsky, Romanovsky,
Krymov, Denikin, Kaledin, Erdeli và nhiều ông khác đang có một mối liên hệ bí
mật, một sự thoả thuận nào đó…
- Nhưng còn quân đội… không biết
toàn thể quân đội có đi theo Kornilov cả không?- Evgeni hỏi, chân hắn bước mỗi
lúc một nhanh.
- Bọn lính tráng thì tất nhiên chúng
nó sẽ không theo đâu. Nhưng bọn mình sẽ lôi cổ chúng nó theo.
- Cậu có biết rằng dưới áp lực của
cánh tả, Kerensky đang định cách chức tổng tư lệnh tối cao không?
- Hắn chẳng dám đâu? Nếu thế thì chỉ
hôm sau người ta đã bắt hắn về quì gối chịu tội. Uỷ ban trung ương Hội liên
hiệp sĩ quan đã tuyên bố với hắn quan điểm của mình một cách khá kiên quyết
rồi.
- Hôm qua Hội đồng Uỷ ban liên hiệp
các quân nhân Cô- dắc đã cử một số đại biểu lên gặp Kerensky. - Evgeni mỉm cười
nói. - Các đại biểu đã tuyên bố rằng dân Cô- dắc không cho phép triệt hồi
Kornilov đâu, dù mới chỉ có ý nghĩ như vậy cũng không được.
- Cậu có biết hắn đã trả lời như thế
nào không? "Đó chỉ là những lời rêu rao. Chính phủ lâm thời không có ý làm
một việc gì đại loại như thế đâu". Hắn cố trấn an công luận nhưng đồng
thời lại liếc mắt đưa tình với Ban chấp hành Xô viết công nhân binh sĩ như một
con đĩ.
Kalmykov vừa đi vừa rút cuốn nhật ký
dã chiến của sĩ quan và đọc to:
- "Hội nghị các nhà hoạt động
xã hội xin gửi lời chào mừng tới Ngài, nhà lãnh đạo tối cao của quân đội Nga.
Hội nghị tuyên bố rằng tất cả các mưu đồ gây thương tổn cho uy tín của Ngài
trong quân đội và nhân dân Nga đều phải coi là những hành vi tội ác, và hội
nghị thống nhất ý kiến với các sĩ quan, các binh sĩ có huân chương và nhân dân
Cô- dắc. Trong giờ phút thử thách nghiêm trọng và nặng nề nầy toàn thể những
người biết suy nghĩ ở nước Nga đều hy vọng và tin tưởng ở Ngài. Cần Chúa giúp
đỡ Ngài trong kỳ tích vĩ đại của Ngài tổ chức lại một quân đội hùng mạnh và cứu
nước Nga! Rosdianko". Có lẽ như thế đã đủ rõ rồi chứ? Hoàn toàn không thể
nói đến chuyện triệt chức Kornilov nữa rồi… Phải, thế hôm qua Tổng tư lệnh tối
cao đến đây cậu có được nhìn thấy không?
- Không, mãi đến đêm mình mới ở làng
Traskoie về.
Kalmykov cười nhe cả hai hàm răng
đều đặn và cặp lợi hồng hồng, nom tràn trề sức khoẻ. Cặp mắt lươn của hắn nheo
lại, hàng ngàn vết nhăn li ti toả ra như mạng nhện từ hai đuôi mắt.
Một cuộc đón tiếp cổ điển! Đội bảo
vệ là một đại đội kỵ binh Turkestan. Một đoàn xe hơi mang súng máy. Tất cả đều
về Cung điện Mùa Đông. Một sự cảnh cáo kiểu như vậy thì không thể theo nghĩa
nào khác… Hà- hà- hà, nếu như cậu được nhìn thấy những bộ mặt dưới những chiếc
mũ lông lồm xồm ấy nhỉ? Ấn tượng thật là độc đáo.
Hai sĩ quan đi một vòng khu phố
Moskovsko- Nacsky rồi chia tay.
- Evgeni ạ, hai chúng mình phải giữ
liên lạc với nhau mới được - Lúc chia tay Kalmykov nói. - Đã sắp phải sống một
thời ly loạn rồi. Phải đứng cho vững, không khéo thì lộn cổ xuống ao đấy?
Evgeni đi rồi, hắn còn quay nghiêng
người, gọi với theo:
- Mình quên không nói cho cậu biết.
Cậu còn nhớ Merkulov ở chỗ chúng ta trước không? Cậu hoạ sĩ ấy mà?
- Có chuyện gì thế?
- Bị giết hồi tháng năm rồi.
- Không thể thế được!
Nhưng đúng là bị giết rồi đấy, rất
bất ngờ. Không thể nào có một cái chết ngu xuẩn hơn được. Một quả lựu đạn nổ
ngay trong tay gã trinh sát, thằng cha bị mất hai tay, từ khuỷu trở xuống,
nhưng Merkulov thì bọn mình chỉ thấy còn một phần ruột gan và cái ống nhòm
"Zeiss" nát vụn. Thần chết đã tha cho cậu ấy được ba năm.
Kalmykov còn kêu lên không biết
những gì nữa, nhưng gió chợt dậy lên ầm ầm, bụi xám cuộn lên, Evgeni chỉ nghe
thấy vài tiếng cuối cùng mất hết thanh sắc. Hắn khoác tay bỏ đi, thỉnh thoảng
lại ngoái đầu lại.
--- ------ ------ ------ -------
1 Alixa:
Alexandrdra Fedorovna, vợ của Nicolai đệ nhị (trước khi lấy chồng là công chúa
Alixa Ghétxenskaia) (Lời chú của bản tiếng Nga).
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 91
Ngày mồng sáu tháng tám, tướng
Lucomsky, tổng thatn mưu trưởng Bộ tư lệnh tối cao được tướng Romanovsky, tư
lệnh hậu cần thứ nhất của Đại bản doanh chuyển cho mệnh lệnh điều quân đoàn kỵ
binh số ba cùng với sư đoàn Tuzemnaia 1 về tập trung ở khu rừng Neven -
Sokolniki - Velikie Luki.
- Sao lại chọn đúng vào khu vực nầy?
Các đơn vị nầy đang thuộc lực lượng dự bị trên mặt trận Rumani cơ mà? -
Lucomsky thắc mắc hỏi.
- Thưa ngài Alexandr Sergeevich, tôi
không được rõ. Tôi chỉ truyền đạt lại với ngài một cách chính xác lệnh của Tổng
tư lệnh tối cao.
- Ngài đã nhận được lệnh nầy lúc
nào.
- Hôm qua. Lúc mười một giờ đêm,
Tổng tư lệnh tốt cao đã gọi tôi lên và ra lệnh báo cáo với ngài sáng hôm nay.
Romanovsky đi đi lại lại bên cửa sổ,
những bước chân của lão đều đặt mũi bàn chân xuống trước. Rồi lão đứng lại
trước tấm bản đồ chiến lược Trung Âu chiếm nửa bức tường trong phòng làm việc
của Lucomsky. Quay lưng về phía Lucomsky, lão xem bản đồ một cách quá chăm chú
và nói:
- Ngài nên tới hỏi Tổng tư lệnh tối cao
cho rõ… Tổng tư lệnh tối cao đang có nhà đấy.
Lucomsky quơ mấy tờ giấy trên bàn,
xô chiếc ghế bành sang bên, đi ra với những bước chân quá rắn rỏi thường thấy ở
những quân nhân có tuổi đang phát phì. Ra đến cửa phòng, lão nhường cho
Romanovsky ra trước và nói như tự mình trả lời các ý nghĩ của mình.
- Đúng đấy. Cũng phải thế.
Lão đến phòng Kornilov thì thấy một
tên đại tá cao lênh khênh chân cẳng rất dài, bước trong đó ra. Tên nầy Lucomsky
không quen. Hắn cung kính né ra nhường đường rồi đi dọc theo hành lang; chân rõ
ràng khập khiễng, một bên vai bị thương nhô lên nom vừa buồn cười vừa đáng sợ.
Kornilov chống hai bàn tay đặt xiên
xiên trên bàn, hơi ngả người về phía trước, nói với một sĩ quan có tuổi đứng
trước mặt hắn.
- Cần có thời cơ đã. Ngài hiểu ý tôi
chứ? Tôi đề nghị đến được Pskov thì báo tin cho tôi biết ngay. Ngài có thể ra
được rồi.
Kornilov chờ viên sĩ quan kia ra
xong, khép cửa lại rồi ngồi xuống một chiếc ghế bành, cử chỉ rắn rỏi, rất trẻ.
Hắn đẩy cho Lucomsky một chiếc ghế rồi hỏi:
- Ngài đã nhận được qua Romanovsky
mệnh lệnh của tôi về việc điều động Quân đoàn ba rồi chứ?
- Bẩm đã. Tôi cũng đến thưa với Tổng
lư lệnh tối cao về vấn đề đó. Không hiểu sao ngài lại chọn khu vực đã được chỉ
định làm nơi tập trung cho quân đoàn nầy?
Lucomsky chăm chú nhìn bộ mặt ngăm
ngăm đen của Kornilov, bộ mặt bí hiểm, gan lì theo kiểu người châu Á, với những
vết nhăn quen thuộc hằn chéo trên má và bộ ria thưa thớt chảy xễ từ mũi xuống
hai bên mép rắn rỏi. Trái ngược với cái vẻ tàn nhẫn, nghiêm khắc chung của bộ
mặt, chỉ có một món tóc nhỏ xoã xuống trán, nom có một cái gì của con nít.
Kornilov chống khuỷu tay, đưa một
bàn tay nhỏ nhắn, xương xương lên đỡ cằm. Hắn nheo hai con mắt rất sáng, xếch
như mắt người Mông cổ, sờ tay vào đầu gối Lucomsky và trả lời:
- Tôi muốn tập trung kỵ binh không
phải chỉ đặc biệt dùng cho mặt trận miền Bắc, mà là thu gọn vào một khu vực để
khi cần có thể dễ dàng ném lên mặt trận miền Bắc cũng được mà ném sang mặt trận
miền Tây cũng được. Theo ý tôi thì khu vực đã chọn có nhiều điều kiện nhất để
thoả mãn yêu cầu đó. Ngài có ý kiến khác à? Ý kiến của ngài như thế nào?
Lucomsky nhún vai không hiểu ý muốn
nói gì.
- Chúng ta không có lý do gì để phải
lo về phía mặt trận miền Tây. Tốt nhất là nên tập trung kỵ binh vào khu vực Pskov.
- Pskov à? - Kornilov ngả hẳn người
về phía trước, hỏi lại rồi cau mày, he hé cặp môi nhợt nhạt mỏng đính, lắc đầu
ra vẻ không đồng ý. - Không? Khu vực Pskov không thích hợp đâu.
Lucomsky đặt tay lên hai tay ghế
bành, cử chỉ mệt mỏi, già nua. Lão thận trọng chọn từng tiếng, nói:
- Thưa ngài Larvơ Georgevich, tôi sẽ
xin lập tức gửi ngay những mệnh lệnh cần thiết, nhưng tôi vẫn cảm thấy như ngài
còn có điều gì chưa cho biết hết… Khu vực ngài chọn để tập trung kỵ binh rất
tốt trong trường hợp cần thiết phải điều kỵ binh về Petrograd hay Moskva. Còn
đối với mặt trận miền Bắc thì cách bố trí kỵ binh như thế không đảm bảo, với lý
do duy nhất là sẽ khó vận động. Nếu tôi không nhầm và nếu thật quả ngài còn có
điều gì chưa cho biết hết thì tôi xin đề nghị, một là ngài cho tôi ra mặt trận,
hai là ngài cho tôi biết toàn bộ các giả thiết của ngài. Một người tổng tham
mưu trưởng chỉ có thể ở lại cương vị của mình một khi được tổng tư lệnh hoàn
toàn tin cậy.
Kornilov cúi đầu lắng nghe một cách
căng thẳng. Cặp mắt sắc ngọt của hắn nhận thấy rằng tuy ngoài mặt Lucomsky vẫn
lạnh như tiền, nhưng tâm trạng xao xuyến của lão vẫn còn hiện ra bằng một ánh
chỉ hơi hồng hồng, phải nhìn kỹ lắm mới thấy được. Kornilov đắn đo vài giây rồi
trả lời:
- Ngài nói đúng đấy, quả thật cũng
có vài điều cân nhắc mà tôi còn chưa nói với ngài… Xin ngài cứ gửi đi những
mệnh lệnh về việc điều động kỵ binh và hoả tốc triệu tập tướng quân Krymov, tư
lệnh Quân đoàn ba đến đây. Rồi sau khi ở Petrograd về, tôi sẽ nói tường tận để
ngài rõ. Ngài Alexandr Sergeevich ạ, ngài có thể tin rằng tôi không muốn giấu
ngài điều gì đâu, - Kornilov nhấn mạnh mấy tiếng cuối cùng rồi chợt nghe tiếng
gõ cửa, bèn quay phắt người lại.
- Cứ vào!
Phó chính uỷ Đại bản doanh 2 Phôn
Vidin bước vào cùng một viên tướng người nhỏ bé, tóc hơi bạc. Lucomsky đứng
dậy. Trong khi đi ra, lão nghe thấy Kornilov trả lời câu hỏi của Phôn Vidin
bằng giọng gay gắt:
- Bây giờ tôi không có thì giờ để
xét lại cái án của tướng Minlơ đâu. Cái gì? Phải, tôi đi ngay đây.
Sau khi ở chỗ Kornilov về, Lucomsky
ngồi giờ lâu bên cửa sổ.
Lão vuốt vuốt chòm râu hoa râm nhọn
như cái nêm, đăm chiêu suy nghĩ, mắt mơ màng nhìn làn gió liếm lên những bộ tóc
bù xù của những cây dẻ mốc trong vườn và làm gợn sóng lớp cỏ nhấp nhô lấp loáng
dưới nắng.
Một giờ sau bộ tư lệnh Quân đoàn kỵ
binh số ba đã nhận được lệnh chuyển quân do tổng tham mưu trưởng Bộ tư lệnh
thảo ra. Ngay hôm ấy, tướng Krymov cũng nhận được một bức điện mật mã triệu tập
về Đại bản doanh. Trước đây, Krymov đã theo ý Kornilov từ chối không nhận lệnh
đề bạt làm tư lệnh Tập đoàn quân số II.
Ngày mồng chín tháng tám, Kornilov
đi một chuyến xe lửa đặc biệt tới Petrograd, có một đại đội kỵ binh Turkestan
hộ vệ.
Hôm sau trong Đại bản doanh có tin
đồn Tổng tư lệnh tối cao bị cách chức, thậm chí bị bắt, nhưng sáng ngày mười
một, Kornilov lại trở về Mogilov. Vừa về tới nơi, hắn cho mời ngay Lucomsky tới
gặp hắn. Sau khi đọc qua các bức điện và thông báo, hắn sửa lại rất cẩn thận
cái cổ tay áo giả trắng bong nổi bật trên bàn tay nhỏ nhắn màu ôliu, rồi lại sờ
lên cổ áo. Những cử chỉ hấp tấp ấy để lộ cả một tâm trạng hồi hộp chưa từng
thấy ở hắn bao giờ.
- Bây giờ chúng ta đã có thể nói nốt
câu chuyện bỏ dở hôm nọ được rồi, - Kornilov khẽ nói. - Tôi muốn trình bày lại
các ý cân nhắc đã bắt tôi phải điều quân đoàn ba về Petrograd, các ý cân nhắc
nầy tôi đã không nói được với ngài. Ngài cũng biết rằng hôm mồng ba tháng tám,
khi tôi còn ở Petrograd dự cuộc họp của hội đồng Chính phủ, Kerensky và
Savilkov 3 đã báo trước cho tôi biết rằng đừng nên đả động tới những vấn đề
quốc phòng đặc biệt quan trọng vì theo lời họ trong số các Bộ trưởng có những
con người không đáng tin cậy. Tôi là Tổng tư lệnh tối cao mà trong khi báo cáo
trước Chính phủ lại không thể nói về các kế hoạch tác chiến, vì chẳng có gì đảm
bảo rằng vài ngày sau bộ Tổng tư lệnh của quân Đức sẽ không được biết về những
điều nói ra! Thế mà cũng Chính phủ đấy? Như thế chẳng nhẽ tôi dám tin rằng
Chính phủ nầy sẽ cứu nước nhà qua cơn nguy biến hay sao? - Kornilov bước những
bước rắn rỏi đi nhanh ra cửa, khoá chặt lại rồi quay vào đi đi lại lại trước
bàn, nói giọng cảm động - Để cho những con sên con ốc ấy nắm quyền điều khiển
đất nước thì thật là đau khổ, nhục nhã. Thiếu ý chí, bạc nhược, không có năng
lực, do dự, nhiều khi chỉ là đê tiện, đó chính là các "đức tính" chi
phối với các hành động của cái mà tôi xin phép cứ gọi là "chính phủ".
Với sự giúp đỡ hào hiệp của những ngài như Chernov 4 … bọn Bolsevich sẽ quét
bay Kerensky đi… Đấy, ngài Alexandr Sergeevich xem, nước Nga đang lâm vào một
tình thế như vậy đấy. Dựa theo những nguyên tắc mà chính ngài cũng biết, tôi
muốn ngăn ngừa cho Tổ quốc khỏi những cuộc biến loạn mới. Tôi đã điều động Quân
đoàn ba là để đến tháng tám kéo nó về gần Petrograd, và nếu bọn Bolsevich nổi
dậy thì chúng ta sẽ trấn áp lũ phản quốc ấy một cách xứng đáng. Tôi đã trao cho
tướng quân Krymov trách nhiệm trực tiếp chỉ huy cuộc hành binh. Tôi tin chắc
rằng trong trường hợp cần thiết ông ta sẽ không ngần ngại treo cổ tất cả những
kẻ trong Xô viết đại biểu công nhân và binh sĩ. Chính phủ lâm thời… Được, chúng
ta hãy chờ xem… Tôi không có gì mưu toan cho mình đâu. Cứu lấy nước Nga… dù sao
cũng phải cứu cho kỳ được bằng bất cứ giá nào?
Kornilov bỗng dừng lại trước mặt
Lucomsky và bất thần hỏi độp một câu:
- Ngài có tin tưởng như tôi rằng chỉ
những biện pháp như thế mới đảm bảo được tương lai cho đất nước và cho quân đội
hay không? Ngài có đi với tôi đến cùng hay không?
Lucomsky đứng dậy, lão cảm động nắm
lấy bàn tay khô gầy, nóng ran của Kornilov.
- Tôi hoàn toàn tán thành quan điểm
của ngài? Tôi sẽ đi đến cùng. Cần phải suy nghĩ cân nhắc rồi ra đòn. Xin ngài
cứ trao trách nhiệm cho tôi, ngài Lavrơ Georgievich.
- Tôi đã thảo ra kế hoạch. Đại tá
Lebedev và đại uý Rozenko đang nghiên cứu các chi tiết. Còn ngài thì ngài
Alexandr Sergeevich ạ công việc của ngài đã ngập đến tai rồi còn đâu. Ngài cứ
tin ở tôi, chúng ta sẽ còn có thì giờ bàn bạc với nhau tất cả, và nếu cần sẽ có
những chỗ uốn nắn cho thích hợp.
Mấy hôm đó, Đại bản doanh có một
nhịp sống sôi sục. Ngày nào cũng có những tên sĩ quan mặt đen xạm vì nắng gió,
trong những chiếc áo quân phục đầy bụi, từ các đơn vị ở các mặt trận đến dinh
Tổng đốc Mogilov xin góp phần giúp đỡ. Cũng có những tên đại diện của Hội liên
hiệp sĩ quan và của Hội đồng liên hiệp các quân nhân Cô- dắc quần áo bảnh bao,
những tên sĩ quan liên lạc của Kaledin từ vùng sông Đông tới, Kaledin là viên
ataman uỷ nhiệm của quân khu sông Đông. Ngoài ra còn có những kẻ không phải là
quân nhân cùng đủ mọi thứ "khách" không thiếu gì những loài diều quạ
chuyên ria thây thú chết, từ xa đã đánh hơi thấy mùi máu ngập ngụa, đã nhìn
thấy trước cái bàn tay sắt sẽ thâu tóm mọi mạch máu trong nước, bèn đổ xô đến
Mogilov với hy vọng kịp chộp được một miếng mồi nếu Kornilov chiếm được chính
quyền. Trong Đại bản doanh, người ta thường nêu tên hai người; Zavoiko và
Aladin, được coi như thân cận nhất với Tổng tư lệnh tối cao. Daivôcô là một tên
lính hầu cũ của Kornilov, một địa chủ giàu có, một tay đầu cơ lớn, còn Aladin
là một tên bảo hoàng đến chân lông kẽ tóc. Trong giới quân nhân có những tin
đồn cho rằng Kornilov đã rơi vào vòng vây của những kẻ phiêu lưu. Nhưng trong
những giới rộng rãi: sĩ quan, học sinh, quân võ bị, và các nhân vật bảo hoàng,
ý kiến chiếm ưu thế cho rằng Kornilov là lá cờ đáng tin cậy trong sự nghiệp
khôi phục nước Nga xưa, đã sụp đổ trong tháng hai. Vì thế từ khắp nơi những kẻ
thiết tha mong mỏi phục hưng chế độ quân chủ đều đổ xô đứng dưới lá cờ đó.
Ngày mười ba tháng tám. Bầu trời như
đúc bằng một chất nhôm xanh phớt. Ngay giữa đỉnh đầu có một đám mây đen lồm xồm
với những đường viền màu tím ngắt. Từ đám mây ấy, một trận mưa tốt lành chiết
xạ ánh sáng thành những sắc cầu vồng rực rỡ tạt chéo xuống đoàn tàu chạy ầm ầm
trên đường sắt, xuống cánh rừng úa vàng đẹp như trong thần thoại, xuống những
đường nét thanh thanh như tô bằng mầu nước viền quanh những cây bạch dương đằng
xa, xuống khắp một mảnh đất đang phô những sắc màu ảm đạm của một ngày sắp sang
thu.
Đoàn tầu ném loang loáng không gian
về phía sau, kéo dài một dải khói đỏ, nom như một cái đuôi áo rất dài. Một viên
tướng nhỏ nhắn, quân phục màu ka- ki, huân chương thánh Gioóc, đứng ở cửa sổ
một toa xe. Viên tướng nheo cặp mắt lá dăm đen xếch, nhô đầu qua cửa sổ. Những
giọt mưa bốc hơi rơi hào phóng xuống bộ mặt rám nắng từ lâu và bộ ria gió thổi
phần phật hất ra sau đầu món tóc xoã trước trán như tóc con nít.
--- ------ ------ ------ -------
1 Dịch
nghĩa là "sư đoàn địa phương" gồm toàn người thiểu số (ND).
2 Sau cách
mạng tháng hai trong quân đội Nga đã có chế độ chỉnh uỷ, nhưng không giống bây
giờ (ND).
3 Savilkov
(1879 - 1925) Một nhân vật đầu não của Đảng xã hội dân chủ Nga. Sau Cách mạng
tháng hai, làm Thứ trưởng chiến tranh trong Chính phủ Kerensky. Theo đề nghị
của hắn, ngoài mặt trận đã phục hồi án tử hinh. Sau Cách mạng tháng mười, trở
thành một trong những kẻ thù hung hãn nhất của Chính quyền Xô viết cấu kết với
Kaledin, Kornilov, Koltrak, Vrăngghen (ND).
4 Chernov
(sinh 1875), một nhân vật đầu não của Đảng xã hội cách mạng, mùa hè năm 1918
chủ mưu vụ bạo động của bọn Bạch vệ của Đảng xã hội cách mạng Tiệp. Mùa thu năm
1918 trốn ra nước ngoài. Năm 1921 lãnh đạo âm mưu nổi loạn ở Kronstat (ND).
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 92
Một ngày trước khi Kornilov đến
Moskva, viên đại uý Evgeni Litnhiki đã tới đó để làm một công tác đặc biệt quan
trọng do Hội đồng Hội các quân nhân Cô- dắc trao cho. Sau khi trao một bức thư
niêm phong cho trung đoàn bộ một trung đoàn Cô- dắc đóng ở Moskva, hắn được
biết rằng người ta đang chờ ngày mai Kornilov sẽ tới đây.
Từ giữa trưa, Evgeni đã có mặt ở nhà
ga Alexandrovsky.
Những đám người hết sức hỗn tạp, chủ
yếu là quân nhân, đứng chen chúc trong phòng đợi cũng như các quán ăn nguội và
giải khát hạng nhất và hạng nhì. Hàng rào danh dự gồm toàn học sinh quân trường
võ bị Alexandrovsky 1 xếp hàng trên sân ga. Bên cạnh cầu cạn còn có tiểu đoàn nữ
binh quyết tử Moskva. Khoảng ba giờ chiều tàu đến. Các tiếng lao xao lập tức
lắng bặt. Chỉ còn tiếng quân nhạc oang oang cuộn xoáy lên như gió lốc và tiếng
những bước chân rầm rập của cơ man nào là người. Làn sóng người đổ xô tới, chèn
bẹp Evgeni, nâng bổng hắn lên, ném hắn ra sân ga. Vừa ra thoát khỏi cuộc chen
lộn ghê gớm hắn nhìn thấy hai hàng kỵ binh Turkestan đứng cạnh toa xe của viên
Tổng tư lệnh tối cao. Thành xe sơn vécni bóng loáng như gợn sóng, phản chiếu
màu điều chói lọi của chiếc áo choàng. Kornilov bước trên toa xe xuống cùng với
vài quân nhân khác, bắt đầu duyệt hàng rào danh dự, đi qua trước các đại biểu
của Hội các quân nhân có huân chương thánh Gioóc, Hội liên hiệp các sĩ quan lục
quân và hải quân, Hội đồng hội liên hiệp các quân nhân Cô- dắc.
Trong số các nhân vật tự giới thiệu
với Tổng tư lệnh tối cao, Evgeni nhận ra ataman sông Đông Kaledin và tướng
Daionkovsky. Bọn sĩ quan đứng quanh hắn nói tên của các nhân vật khác:
Kitlakov, Thứ trưởng Bộ Giao thông.
Thị trưởng Rusnev - Công tước
Trubetkoi, trưởng ban đối ngoại Đại bản doanh.
- Munxin- Puskin, uỷ viên Hội đồng
Nhà nước.
- Tuỳ viên quân sự đại sứ quán Pháp,
đại tá Caiô.
- Công tước Gôlichyn.
- Công tước Mansyrov.
Bên tai Evgeni vang lên những giọng
cung kính quị lụy.
Trong khi Kornilov đi tới gần chỗ
hắn, Evgeni nhìn thấy đám phụ nữ quý phái ăn vận loè loẹt đứng chen nhau dọc
sân ga ném hoa vào người Kornilov. Một đoá hoa màu hồng hồng bám vào vành tua
của cái dây ngù trên áo quân phục của Kornilov, đài hoa thõng xuống. Kornilov
có phần bối rối, ngập ngừng đưa tay lên rũ đoá hoa xuống. Một lão già rậm râu
người Ural bắt đầu lắp bắp đọc lời chúc tụng nhân danh mười hai quân khu Cô-
dắc, Evgeni không nghe hết được vì hắn đã bị ép sát vào tường, dây đeo gươm
thiếu chút nữa thì bị giật đứt. Sau lời phát biểu của uỷ viên Duma Quốc gia
Rodichev, Kornilov lại cất bước, người chen chúc như nêm chung quanh hắn: Bọn
sĩ quan nắm tay nhau thành một hàng rào để ngăn làn sóng người, nhưng chúng vẫn
bị xô băng đi. Hàng chục bàn tay vươn về phía Kornilov. Một mụ đàn bà béo núc
chạy lon ton bên cạnh Kornilov cố áp môi vào cái tay áo quân phục mầu xanh lá
cây nhạt của hắn. Ra đến cửa ga thì Kornilov bị nhấc bổng lên, khiêng đi giữa
những tiếng chào mừng vang lên như sấm.
Evgeni hất mạnh vai, hích một thân
sĩ có vẻ quan trọng lắm bắn đi rồi thấy chiếc ủng véc- ni của Kornilov lấp
loáng trước mắt, bèn nắm luôn lấy. Hắn nhanh nhẹn ôm được một bên chân Kornilov
bèn đặt luôn bên vai, rồi với cái cảm xúc về một vật không có trọng lựợng gì
đáng kể, hắn thở hổn hển vì cảm động, và chỉ còn cố giữ thăng bằng và đi cho
đúng nhịp chân. Hắn bước từ từ, hoàn toàn bị lôi cuốn bởi dòng người, những
tiếng hò reo inh tai nhức óc và những tiếng kèn đồng vang dội của đoàn quân
nhạc. Ra khỏi cửa ga, hắn vội vã sửa lại những nếp trên chiếc áo sơ- mi bị tuột
ra ngoài thắt lưng trong khi chen chúc. Rồi hắn bước xuống những bực thèm, đi
ra quảng trường. Phía trước đám dân chúng có một hàng rào bộ binh mặc quân phục
mầu xanh lá cây và một đại đội Cô- dắc trong đội hình trên ngựa. Hắn đặt tay
lên lưỡi trai mũ cát- két, hai con mắt ướt đẫm hấp ha hấp háy, cặp môi cố mím
chặt mà không tài nào giữ cho miệng khỏi run. Hắn chỉ mơ hồ nhớ rằng có những
tiếng máy ảnh bấm lách tách, tiếng quần chúng la thét như hoá rồ, tiếng bước chân
của bọn học sinh sĩ quan đi nghiêm và hình dáng của viên tướng nhỏ bé, cân đối,
đĩnh đạc, có bộ mặt như người Mông cổ, đứng lại cho đám học sinh sĩ quan diễu
qua trước mặt.
Sau đó một ngày, Evgeni lên tầu về
Petrograd. Sau khi leo lên tầng giường trên, hắn trải áo ca- pôt để nằm, rồi
vừa hút thuốc vừa nghĩ về Kornilov: "Một con người bị bắt làm tù binh mà
vẫn liều chết bỏ trốn, tựa như đã biết rằng Tổ quốc sẽ có ngày cần đến mình như
thế nầy. Chà, thế mới là một nhân vật? Toàn thân như tạc trong một khối đá
thiên nhiên, chẳng chỗ nào thừa, chẳng chỗ nào tầm thường… Mà tính cách thì
cũng như thân hình. Có lẽ đối với ngài, mọi việc đều đã thấy rõ, đều đã có tính
toán cân nhác. Hễ có thời cơ thuận lợi là ngài sẽ lãnh đạo bọn mình. Kỳ quặc
thật, mình thậm chí cũng chẳng biết ngài là một người như thế nào: Bảo hoàng
chăng? Quân chủ lập hiến chăng? Nếu như mọi người chúng ta đều có được một sự
tự tin như Kornilov nhỉ?"
Cũng khoảng giờ phút đó, ở hành lang
Nhà hát lớn Moskva, trong giờ nghỉ của buổi họp các uỷ viên Hội đồng Chính phủ
Moskva, có hai viên tướng kéo nhau ra riêng một chỗ. Một người mảnh dẻ, mặt hao
hao như người Mông cổ, còn người kia vai u thịt bắp, có cái đầu vuông vắn đặt
rất vững vàng giữa hai vai, tóc cắt dựng đứng như lông nhím, hai bên thái dương
hơi bạc trải mượt, cho thấy hai vết bò liếm, vành tai bẹp áp sát đầu. Hai viên
tướng đi đi lại lại trên một đoạn ngắn của sàn gỗ, thầm thì bàn tán:
- Điểm nầy trong bản tuyên ngôn trù
tính giải tán các Uỷ ban cách mạng trong các đơn vị quân đội có phải không?
- Vâng - Mặt trận thống nhất, đoàn
kết nhất trí dĩ nhiên là những điều tuyệt đối cần thiết. Nếu không thực hiện
các biện pháp mà tôi đã nêu ra thì không còn khả năng chiến đấu nữa rồi. Một
quân đội như thế thì không những không thể đem lại thắng lợi lớn mà còn không
thể đương đầu với một cuộc tấn công tương đối lớn nữa là khác. Các đơn vị đều
tan rã hư hỏng do sự tuyên truyền của bọn Bolsevich. Còn tại đây, ở hậu phương
thì sao? Ngài có thấy cứ mỗi lần chúng ta định tìm ra những biện pháp chặn tay
chúng thì bọn công nhân phản ứng như thế nào không? - Bãi công và biểu tình thị
uy. Ngay đến các đại biểu dự hội nghị cũng phải đi bộ 2 … Thật là nhục nhã!
Quân sự hoá hậu phương, áp dụng những biện pháp trừng trị nghiêm khác, tiêu
diệt không thương tiếc tất cả những tên Bolsevich, những kẻ gây ra tình trạng
suy bại, đó là các nhiệm vụ bức thiết nhất đối với chúng ta. Cả sau nầy nữa,
tôi có thể có được sự ủng hộ của ngài không, thưa ngài Aleksey Maximovich?
- Tôi theo ngài vô điều kiện.
- Tôi vẫn tin như thế. Xin cám ơn
ngài. Ngài xem đấy, những lúc nầy cần phải hành động kiên quyết và cứng rắn,
Chính phủ chỉ tự hạn chế trong những biện pháp nửa vời và những từ ngữ, thật
kêu: "Chúng ta sẽ dùng thép và máu để trấn áp âm mưu của những kẻ định xúc
phạm tới chính quyền nhân dân như trong những ngày tháng bảy". Không,
chúng ta vốn có thói quen làm trước rồi mới nói. Lề thói của họ thì ngược hẳn
lại. Không sao cả… sẽ đến lúc họ phải giơ đầu ra hứng chịu các hậu quả của
chính sách chuyên dùng các biện pháp nửa vời của họ. Nhưng tôi không muốn tham
gia cái trò chơi gian dối đê tiện ấy đâu? Tôi vốn dĩ và vẫn sẽ là một người ủng
hộ lối chiến đấu công khai. Tính tôi không quen nói những lời rỗng không.
Viên tướng nhỏ bé đứng lại trước mặt
người nói chuyện với hắn, xoay xoay cái khuy bằng kim khí trên áo cổ đứng màu
cứt ngựa của viên tướng kia, nói giọng cảm động quá đâm ra lắp bắp:
- Chính họ đã tự tay tháo cái rọ mõm
cho con chó, và bây giờ chính họ lại run sợ trước cái chủ nghĩa dân chủ cách
mạng của họ. Họ đề nghị điều động từ mặt trận về kinh đô những đơn vị quân đội
đáng tin cậy, nhưng đồng thời, để chiều theo chủ nghĩa dân chủ ấy, họ sợ khổng
dám thi hành một biện pháp thực tế nào. Tiến một bước, rồi lại lùi một bước…
Chỉ khi nào hoàn toàn củng cố các lực lượng của chúng ta, chỉ với một áp lực
tinh thần thật lớn thì mới có thể bắt Chính phủ phải có nhượng bộ, mà nếu không
nhượng bộ thì lúc đó sẽ hay? Tôi sẽ không ngần ngại bỏ ngỏ mặt trận, cứ để cho
bọn Đức đến làm cho họ mở mắt ra!
- Chúng tôi đã nói chuyện với Dutov.
Thưa ngài Lavrơ Georgievich, dân Cô- dắc sẽ đem hết sức lực ra ủng hộ ngài.
Chúng ta chỉ còn phải thống nhất ý kiến về vấn đề các hành động chung sau nầy
mà thôi.
- Sau buổi họp tôi sẽ chờ ngài và
các vị khác ở chỗ tôi. Tinh thần vùng sông Đông của các ngài như thế nào nhỉ? -
Viên tướng vai u thịt bắp gục đầu làm cái cằm vuông cạo nhẵn bóng áp chặt xuống
ngực, hai con mắt âm thầm nhìn gườm gườm về phía trước. Lúc hắn trả lời, hai
bên mép hắn run run dưới hàng ria tỉa rộng:
- Tôi không còn niềm tin trước kia
vào bọn Cô- dắc nữa… Hiện nay nói chung cũng hết sức khó đánh giá tinh thần của
chúng. Cần phải nhượng bộ đôi chút mới được: dân Cô- dắc cần phải tự nguyện từ
bỏ những quyền lợi gì đó để giữ lấy bọn dân ngụ cư về phía mình. Chúng tôi sẽ
thi hành một số biện pháp theo hướng nầy, nhưng không dám đảm bảo là sẽ thành
công. Tôi chỉ sợ rằng trong sự xung đột quyền lợi giữa dân Cô- dắc và dân ngụ
cư sẽ có thể xảy ra tan vỡ… Ruộng đất… đầu óc của dân Cô- dắc cũng như dân ngụ
cư đều chỉ xoay quanh cái trục nầy thôi.
- Ngài cần nắm trong tay vài đơn vị
Cô- dắc thật chắc chắn để bảo đảm cho mình, tránh mọi chuyện bất ngờ nổ ra từ
trong nội bộ. Khi về tới Đại bản doanh, tôi sẽ bàn với Lucomsky và có lẽ chúng
tôi sẽ tìm khả năng chuyển vài trung đoàn từ mặt trận về vùng sông Đông.
- Tôi sẽ rất nhớ ơn ngài.
- Như vậy hôm nay chúng ta sẽ thoả
thuận về vấn đề các hành động hiệp đồng của chúng ta trong tương lai. Tôi hết
sức tin tưởng rằng những điều chúng ta dự tính sẽ được thực hiện một cách thuận
lợi nhưng tướng quân ạ, thời vận vốn đảo điên, bất trắc… Nếu bất kể mọi cố gắng
của chúng ta, thời vận xoay lưng lại với tôi thì không biết tôi có thể mong tìm
được một nơi nương thân ở vùng sông Đông của ngài không nhỉ?
- Không những ngài sẽ có chỗ nương
thân mà còn được bảo vệ nữa là khác. Từ đời xửa đời xưa, dân Cô- dắc vốn đã nổi
tiếng về cái tập quán đãi khách rất hậu cơ mà.
Trong suốt cuộc nói chuyện, đây là
lần đầu tiên Kaledin mỉm cười, hai con mắt nhìn gườm gườm, đầy vẻ mệt mỏi và
khó đăm đăm cũng dịu đi.
Một giờ sau, Kaledin, ataman sông
Đông, đã đọc trước một cử toạ nín thở bản "Tuyên ngôn của mười hai quân
khu Cô- dắc".
Từ hôm ấy, một lưới âm mưu rộng lớn
đã chăng dần ra trên khắp các vùng đất Cô- dắc, từ đầu nầy sang đầu kia, từ
trấn nầy sang trấn khác như một cái mạng nhện đen sì, ở vùng sông Đông, sông
Kuban, sông Cherek, cũng như ở vùng Ural, vùng Utxuri.
--- ------ ------ ------ -------
1 Một
trường quân sự dưới chế độ vua Nga, chuyên đào tạo con em giai cấp quý tộc ra
làm sĩ quan. Trong thời kỳ Nội chiến, bọn học sinh sĩ quan quý tộc đã đứng hẳn
về phía cách mạng, tiến hành một cuộc đấu tranh vũ trang tàn khốc (ND).
2 Để phản
đối cuộc họp nầy của Hội đồng Chính phủ, công nhân Moskva đã tổ chức tổng bãi
công, có hơn 40 vạn người tham gia (ND).
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 93
Những đường chiến hào ngoằn ngoèo
chữ chi chạy kỳ quặc bên cạnh một khu rừng, chỉ cách những đống hoang tàn của
một thị trấn nhỏ bị hoả lực pháo binh san bằng trong những trận chiến đấu tháng
sáu có một vec- xta. Đại đội Cô- dắc đặc biệt chiếm khu vực ở ngay mép rừng.
Phía sau là một cánh rừng liễu đỏ
xanh rờn, rậm đến không qua được và khoảng bạch dương còn non. Rồi đến một bãi
lầy nhiều than bùn, loáng nhoáng màu rỉ, hồi trước chiến tranh đã bắt đầu được
khai thác đôi chút. Tầm xuân nở hoa vui mắt như những chùm quả đỏ. Bên phải
thấy nhô ra một góc rừng, có con đường cái bị đạn pháo bắn thủng lỗ chỗ, bây
giờ nom cứ như những con đường hoang không có ai đi nữa. Ở ven rừng có những
đám cỏ dại đã cằn cỗi lại bị đạn bắn thêm xơ xác, những gốc cây cụt, cháy thui
nhô lên như những cái lưng gù, các ụ đất sét, các chiến hào chạy ra xa tít ở
hai bên trên cánh đồng trơ trụi. Ở phía sau, ngay đến bãi than bùn lầy lội khai
thác dở với những chỗ đào nham nhở, ngay đến con đường cái bị phá hoại vẫn còn
toả hơi sống, còn ghi lại sự lao động nửa chừng đứt quãng, chứ ở chỗ lề rừng
nầy, mặt đất chỉ phô ra trước mặt con người một cảnh sầu thảm đầy đắng cay.
Hôm ấy anh chàng Kotliarov trước kia
làm thợ máy ở nhà máy Mokhov, có lần cái thị trấn nhỏ ở ngay sát mặt trận, nơi
đoàn xe vận tải tuyến nhất tới đỗ. Trời sắp hoàng hôn Kotliarov mới trở về.
Trong khi len lỏi về căn hầm của mình, anh vấp phải Dakha Korolov.
Dakha vung loạn hai tay một cách ngớ
ngẩn, bước rảo gần như chạy, thanh gươm vướng cả vào các bậc bao cát. Kotliarov
né sang một bên nhường đường cho Dakha, nhưng Dakha nắm lấy một cái khuy trên
chiếc áo va- rơi của Kotliarov, trợn mắt khẽ nói, lòng trắng con mắt vàng khè
như mắt người ốm:
- Cậu đã biết tin gì chưa? Bọn bộ
binh ở bên phải đánh bài chuồn rồi đấy! Chưa biết chừng họ đang bỏ mặt trận.
Bộ râu rối như bòng bong của hắn
bỗng sững lại không động đậy nữa, nom như đúc bằng gang đen, hai con mắt nhìn
chằm chằm, đầy vẻ khao khát, mong mỏi.
- Sao, thế là chúng rời bỏ mặt trận
à?
- Chúng nó bỏ đi rồi, còn như thế
nào thì mình không biết Hay có bọn khác đến thay chãng? Chúng mình vào chỗ
thằng hạ sĩ, thử hỏi xem.
Dakha quay gót bước vào hầm của tên
hạ sĩ, hai chân cứ trượt trên mặt đất ướt rất trơn.
Một giờ sau, đại đội Cô- dắc được bộ
binh đến thay thế, đã hành quân tới thị trấn. Sáng hôm nay họ đến chỗ bọn giữ
ngựa nhận ngựa rồi tiến về hậu phương với tốc độ hành quân cấp tốc.
Mưa lất phất. Những cây bạch dương
khom lưng buồn bã. Con đường đâm thẳng vào rừng. Ngửi thấy mùi hơi ẩm và mùi lá
héo năm ngoái hắc hắc, u uất, đàn ngựa thở phì phì, chân bước nhẹ nhàng vui vẻ
hơn. Những chùm quả trong các bụi sao hoa lóng lánh như những chuỗi hạt cườm
màu hồng. Được nước mưa rửa sạch, những lá chua me lấm tấm những giọt nước
trắng bóng lên một cách lạ lùng. Gió rung cành cây làm những giọt nước vừa to
vừa nặng rơi lộp bộp xuống đoàn người ngựa. Các áo ca- pôt và mũ cát- két mang
những chấm đen lấm tấm, nom như bị đạn ghém bắn phải. Khói thuốc lá hạng tồi
chập chờn và tan dần trên đầu các hàng quân trong trung đội.
Họ xách cổ bọn mình đi rồi không
biết sẽ đem đến nơi quỷ quái nào đây.
- Nằm bẹp mãi trong chiến hào như
thế chưa đủ ngấy hay sao - Nhưng thật ra không hiểu chúng mình bị kéo đi đâu
nhỉ?
- Có lẽ có một chuyện biên chế lại
gì đó.
- Hình như không phải thế đâu.
- Chà, các bạn đồng hương ạ, ta hãy
hút điếu thuốc cho quên hết buồn phiền!
- Buồn phiền của mình thì mình đeo
nó trong ba- lô…
- Thưa ngài đại uý, ngài cho phép
hát một bài nhá?
- Được phép rồi phải không? Nào, lên
giọng đi, Arkhiv!
Trong mấy hàng đầu có một anh chàng
nào đó húng hắng vài cái rồi cất tiếng hỏi:
- Đoàn Cô- dắc giải ngũ hồi hương,
lon trên vai, đầy ngực huân chương.
Chỉ có vài giọng ống bơ rỉ uể oải
hoà theo rồi lắng bặt. Dakha Korolov đi cùng hàng với Kotliarov bèn kiễng chân
trên bàn đạp, gào lên pha trò:
- Nầy, cái bọn già nua mù loà kia!
Anh em mình có hát cái kiểu như thế bao giờ đâu hử? Như các cậu thì chỉ bị gậy
ra đứng trước cửa nhà thờ mà "Thương chúng con đui mù" cũng là những
ca sĩ đấy.
- Thế cậu thử cất giọng xem nào?
- Cổ nó ngắn chùn chùn như thế thì
làm gì có chỗ chứa hơi?
- Khoe khoang lắm vào, bây giờ tao
cho thì cụp đuôi.
Korolov đưa tay lên nắm chặt lấy
chòm râu đen chấy rận nhừ sung, dim mắt một lát rồi bất thình lình vung mạnh
dây cương, cất giọng hát câu đầu:
Vui lên đi,
Các chàng trai dũng cảm,
Các chàng trai Cô- dắc sông Đông…
Tựa như bị lời kêu gọi đó làm cho
tỉnh ngủ, toàn đại đội cùng gầm lên theo:
Hãy vui lên,
Với vinh dự, với chiến công!
Và bài hát vang lên trên cánh rừng
ẩm ướl, trên con đường mòn:
Nào, ta hãy nêu gương cho đồng đội,
Xem đây nầy, ta bắn kẻ thù chung!
Súng văn nổ, đội hình ta không loạn,
Lệnh trên truyền, ta chém, ta đâm!
Ta chỉ biết tuân theo mệnh lệnh,
Của chỉ huy, của cha ta, dù dẹp bắc hay đánh đông!
Suốt chặng đường mọi người vừa hành quân vừa ca hát,
trong lòng như mở cờ: thế là thoát khỏi "nơi tha ma của loài sói"
rồi. Đến chiều thì đại đội được đưa lên những toa xe lửa. Đoàn tầu nhà binh
chuyển bánh về phía Pskov. Mãi đến khi tầu chạy qua được ba ga, mọi người mới
biết đại đội đang cùng với các đơn vị khác của Quân đoàn kỵ binh số ba tiến về
Petrograd để trấn an các cuộc rối loạn mới chớm nở. Sau khi biết tin đó, anh
nào anh nấy đều im như thóc, không nói năng gì nữa. Bầu không khí lặng lẽ, mơ
màng như ru ngủ mọi người trong các toa xe sơn đỏ.
- Vừa ra khỏi lò than lại đâm ngang đầu vào đám cháy! -
Mãi mới thấy gã cao kều Borsev nói lên ý nghĩ chung của phần lớn anh em.
Từ tháng hai đến nay, Kotliarov vẫn liên tục được bầu làm
chủ tịch Uỷ ban binh sĩ đại đội. Tầu vừa dừng bánh ở ga, anh đến tìm ngay viên
đại đội trưởng.
- Thưa ngài đại uý, anh em Cô- dắc đang xao xuyến đấy.
Viên đại uý nhìn rất lâu vào chỗ hõm sâu ở cằm Kotliarov
rồi mỉm cười nói:
- Anh bạn thân mến ạ, chính tôi cũng đang xao xuyến đây.
- Người ta đưa chúng tôi đi đâu bây giờ?
- Đến Petrograd!
- Đi trấn áp à?
- Thế cậu nghĩ là đi góp phần vào các vụ lộn xộn đấy phải
không?
- Chúng tôi thì cả hai đằng đều không muốn.
- Thật ra người ta có hỏi ý kiến chúng ta đâu.
- Anh em Cô- dắc…
- "Anh em Cô- dắc" cái gì? - Viên đại đội
trưởng đã bắt đầu khùng lên, hắn ngắt lời Kotliarov - Chính tôi cũng đã biết
anh em Cô- dắc nghĩ thế nào rồi. Cậu tưởng tôi thích làm cái nhiệm vụ nầy phải
không? Thôi cầm lấy cái nầy mang về đại đội mà đọc. Đến ga sắp tới tôi sẽ xuống
nói chuyện với anh em.
Viên đại đội trưởng chìa cho Kotliarov một bức điện cuộn
tròn rồi nhăn mặt bắt đầu nhai những miếng thịt hộp lổn nhổn những hạt mỡ rất
to, coi bộ hắn vừa ăn vừa tởm.
Kotliarov lui về toa xe của anh, bức điện trong tay nóng
bỏng như hòn than.
- Các cậu gọi hộ anh em các toa khác lại đây.
Đoàn tầu đã chuyển bánh nhưng vẫn còn những gã Cô- dắc
nhảy lên toa xe. Tập họp được chừng ba mươi người.
- Đại đội trưởng đã nhận được một bức điện. Vừa đọc xong.
- Thế nào trong đó viết những gì? Đọc đi nghe nào?
- Đọc đi, nhưng chớ đọc dối đọc bậy đấy?
- Ký hoà ước rồi phải không?
- Im cả đi nào!
Trong không khí chết lặng như ngưng đọng, Kotliarov đọc
bản hiệu triệu của Tổng tư lệnh tối cao Kornilov. Sau đó tờ giấy với những từ
ngữ viết theo thể điện tín được truyền qua những bàn tay đẫm mồ hôi.
"Tôi, Tổng tư lệnh tối cao Kornilov, xin tuyên bố
trước toàn thể quốc dân đồng bào rằng trong giờ phút nghiêm trọng nầy của Tổ
quốc, nhiệm vụ của người quân nhân, tinh thẩn hy sinh cho nước Nga tự do của
người công dân và lòng yêu Tổ quốc không bờ bến đã bắt tôi không được tuân theo
mệnh lệnh của Chính phủ lâm thời và vẫn giữ quyền chỉ huy tối cao trong lục
quân và hải quân. Quyết tâm nầy đã được toàn thể các vị Tổng tư lệnh tối cao
mặt trận ủng hộ, tôi xin tuyên bố trước toàn thể nhân dân Nga rằng tôi thà chết
còn hơn chịu để cho mình bị cắt chức Tổng tư lệnh tối cao. Một người con chân
chính của nhân dân Nga bao giờ cũng chết trên cương vị phục vụ của mình và hiến
dâng cho Tổ quốc vật quý nhất của mình là tính mạng.
Trong giờ phút quả thật là khủng khiếp nầy đối với sự mất
còn của Tổ quốc, lúc những con đường dẫn tới hai kinh đô 1 đã gần như mở toang
cho quân thù chiến thắng tiến vào, Chính phủ lâm thời đã quên mất đại sự là sự
trường tồn độc lập của nước nhà, chỉ đem cái bóng ma phản cách mạng ra làm nhân
dân hoảng sợ, mà phong trào phản cách mạng ấy, chính họ đang giúp cho nó trở
thành sự thật một cách hết sức nhanh chóng, do thiếu năng lực quản lý quốc gia,
nhu nhược về pháp chê, do dự trong hành động.
Nhưng tôi là con đẻ của nhân dân, đã hiến dâng tất cả để
trung thành phục vụ nhân dân như tất cả mọi người đều biết, tôi không thể không
đứng ra bảo vệ các quyền tự do vĩ đại, bảo vệ tương lai vĩ đại của nhân dân
mình. Nhưng hiện nay tương lai ấy đang bị nắm trong những bàn tay yếu đuối, nhu
nhược. Kẻ thù ngạo ngược đang dùng cách mua chuộc, phản bội để hoành hành trong
nước ta như trong nhà nó, lăm le thủ tiêu không những quyền tự do mà cả sự sống
còn của nhân dân Nga. Những ai là người Nga hãy thức tỉnh, hãy nhìn kỹ cái hố
không đáy, nơi Tổ quốc chúng ta đang lao vùn vụt tới!
Để tránh mọi sự xáo lộn, để ngăn ngừa mọi cuộc đổ máu
người Nga, mọi cuộc chiến tranh nồi da nấu thịt, tôi xin quên mọi điều xúc
phạm, nhục mạ, để đứng truớc toàn thể đồng bào tuyên bó với Chính phủ lâm thời:
các ngài cứ đến với tôi ở Đại bản doanh, ở đấy tự do và an toàn của các ngài sẽ
được đảm bảo bằng lời hứa danh dự của tôi, các ngài hãy cùng với tôi đặt kế
hoạch và tổ chức một nền quốc phòng nhân dân, vừa đảm bảo tự do vừa đưa dắt
nhân dân Nga tới một tương lai rực rỡ, xứng đáng với một dân tộc tự do hùng
mạnh.
Đại tướng Kornilov."
Đoàn tàu nhà binh chạy đến ga sau đó thì bị ngăn lại.
Trong khi chờ tàu lại chuyển bánh, anh em Cô- dắc tập hợp bên những toa xe, bàn
tán về bức điện của Kornilov, cùng bức điện của Kerensky mà viên đại đội trưởng
vừa đọc cho nghe, tuyên bố Kornilov là một kẻ phản bội và phản cách mạng. Mọi
người hoang mang bàn quanh bàn quẩn. Viên đại đội trưởng và các sĩ quan phụ
trách trung đội cũng hết sức bối rối.
- Trong đầu óc mình tất cả đều rối như bòng bong, - Gã
Marchin Samin than vãn - Ma quái nào hiểu được ai ngay ai gian bây giờ.
- Họ quạng vào mõm nhau rồi lại làm khổ thêm cả quân đội.
- Các ông to đầu rửng mỡ hoá điên rồi - Anh nọ muốn ngồi
lên đầu anh kia - Trâu bò đánh nhau, ruồi muỗi chết - Tất cả sẽ nháo nhào cho
mà xem… Thật tai hoạ!
Một nhóm Cô- dắc tới tìm Kotliarov. Họ yêu cầu:
- Cậu lên gặp đại đội trưởng hỏi xem làm thế nào bây giờ.
Họ kéo nhau tới tìm đại đội trưởng. Bọn sĩ quan đã tụ tập
trong toa xe riêng của chúng, không biết chúng đang bàn bạc với nhau những gì.
Kotliarov bước vào:
- Thưa ngài đại đội trưởng, anh em Cô- dắc muốn hỏi chúng
ta làm thế nào bây giờ.
- Tôi ra ngay đây.
Đại đội đã tập họp cạnh toa xe cuối cùng và đang chờ.
Viên đại đội trưởng đi cùng với đám Cô- dắc, lách tới giữa đám rồi giơ tay nói:
- Chúng ta không phục tùng Kerensky, chúng ta phục tùng
Kornilov và thủ trưởng trực tiếp. Như thế có đúng không? Vì thế chúng ta phải
tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh của cấp trên và đi Petrograd. Cùng lắm, khi tới
ga Dno, chúng ta cũng có thể tìm sư đoàn trưởng Sư đoàn sông Đông số một để hỏi
xem tình hình thực tế như thế nào. Tôi đề nghị anh em Cô- dắc đừng nên xao
xuyến lo lắng. Nhất là giữa lúc chúng ta đang sống trong thời buổi như thế nầy.
Viên đại đội trưởng còn nói rất lâu về nghĩa vụ của nhà
binh, về Tổ quốc, cách mạng, cố dỗ ngon dỗ ngọt binh sĩ và chỉ trả lời các câu
hỏi một cách quanh co. Nhưng hắn cũng đã đạt được mục đích: trong lúc hắn nói,
đầu máy đã được mắc xong (anh em Cô- dắc biết đâu rằng có hai tên sĩ quan đại
đội họ đã chĩa súng doạ người sếp ga, bắt phải cho đoàn tàu chuyển bánh sớm) và
binh sĩ lại giải tán trở về các toa xe, Đoàn tàu nhà binh chạy thêm một ngày
một đêm, mỗi lúc một gần tới Dno. Nhưng đến đêm, nó lại phải dừng lại cho đoàn
tàu của bọn Cô- dắc Usuri và trung đoàn Dagestan chạy trước. Đoàn tàu của bọn
Cô- dắc sông Đông bị dồn sang đoạn đường dự bị. Các toa xe của trung đoàn
Dagestan chạy qua trước mặt họ trong bóng đêm bềnh bệnh như đá mắt mèo, với
những ánh đèn lung linh. Những tiếng nói khàn khàn phát ra từ trong họng, tiếng
đuốc- na 2 như than vãn, những bài hát với giai điệu xa lạ vẳng tới tai họ,
nghe mỗi lúc một xa. Mãi nửa đêm, đại đội Cô- dắc mới lên đường. Chiếc đầu máy
công suất nhỏ dừng lại rất lâu bên cạnh tháp nước, những tin lửa bắn ra tung
toé từ trong lò xuống đất. Người thợ máy phì phèo điếu thuốc, đứng ở trong cửa
sổ nhìn ra như đang chờ ai. Một gã Cô- dắc đứng trong toa xe sát đầu máy thò cổ
ra cửa sổ quát lên:
- Nầy, Gavrila, có mở máy đi không, chúng tao bắn chết
ngay cho mà xem.
Người thợ máy nhổ mẩu thuốc, nín lặng một lát, hình như
còn bận nhìn theo nó bay thành đường vòng cung trong không khí, rồi mới húng
hắng ho và nói:
- Chúng bay bắn thế nào được hết mọi người - Anh ta nói
xong bước khỏi chỗ cửa sổ.
Vài phút sau các toa xe bị đầu máy giật mạnh, các
"tăm pông" kêu lách cách, những con ngựa mất thăng bằng vì tàu giật,
lộp cộp đập vó xuống sàn tàu. Đoàn xe thẫn thờ trườn qua cái tháp nước, qua vài
khuôn cửa sổ hiếm hoi thấp thoáng ánh đèn, qua những đám bạch dương đen sì hai
bên đường. Anh em Cô- dắc lấy thức ăn cho ngựa rồi nằm xuống ngủ, nhưng thỉnh
thoảng lại có một anh chàng thao thức, ra hút thuốc ở chỗ cửa toa hé mở, nhìn
lên bầu trời uy nghiêm, nghĩ về một chuyện riêng.
Kotliarov nằm bên cạnh Korolov, mắt nhìn qua khe cửa về
phía dòng tinh tú lấm tấm chảy trên trời. Trong ngày qua, anh đã đắn đo tất cả
các mặt và đã quyết định dứt khoát sẽ dùng mọi cách chống lại việc đại đội tiến
thêm về phía Petrograd. Anh trằn trọc nặn óc, không biết nên làm thế nào để
thuyết phục anh em Cô- dắc ngả theo mình, làm thế nào tác động tới họ.
Ngay trước khi nghe lời hiệu triệu của Kornilov, anh đã
nhận thức rõ ràng người Cô- dắc không thể nào đi cùng một đường với Kornilov,
nhưng linh cảm cũng cho anh biết rằng Kerensky không phải là người mà mình cần
phải bảo vệ. Vì thế anh suy đi tính lại mãi rồi cuối cùng quyết định: không để
đại đội về tới Petrograd, và nếu cần phải xung đột với một kẻ nào đó thì cũng
không phải vì Kerensky, vì chính quyền của Kerensky, mà vì một chính quyền được
lập nên sau khi Kerensky bị lật đổ. Điều mà anh ta tin tưởng hơn hết là sau
Kerensky sẽ có chính quyền mà mình mong mỏi, một chính quyền thực sự của mình. Ngay
từ mùa hè, anh đã có dịp lên Petrograd, tới bộ phận quân sự của ban chấp hành
Xô viết công nhân binh sĩ. Đại đội đã cử anh lên đấy xin ý kiến về một vụ xung
đột nổ ra với viên đại đội trưởng. Anh đã nhìn thấy ban chấp hành làm việc thế
nào, đã được chuyện trò với vài đồng chí Bolsevich.
Anh nghĩ bụng: "Cứ lấy thịt da công nhân của chúng
ta đắp lên bộ xương ấy thì sẽ có một chính quyền thực sự! Kotliarov à, chết thì
chết, nhưng cứ bám chặt lấy chính quyền đó như đứa trẻ bám lấy nụ hoa mẹ
ấy!"
Đêm nay, nằm trên tấm áo ngựa, Kotliarov càng nhớ nhiều
hơn mọi ngày người lãnh dạo mình mò mẫm trên con đường đời gian khổ, nhớ với cả
một lòng trìu mến thắm thiết chưa từng thấy. Trong khi nặn óc nghĩ xem ngày mai
mình sẽ phải nói như thế nào với anh em Cô- dắc, anh nhớ lại những lời Stokman
đã nói về người Cô- dắc, những lời đó Stokman luôn luôn nhắc đi nhắc lại nên đã
ăn sâu vào óc anh như cái đinh đóng ngập đến mũ: Bản chất của dân Cô- dắc là
bảo thủ. Mỗi khi cậu muốn thuyết phục cho một người Cô- dắc tin vào tính chất
đứng đắn của các tư tưởng Bolsevich, cậu chớ quên điều đó, phải hành động thận
trọng, chín chắn, phải biết thích ứng với hoàn cảnh. Đầu tiên người ta sẽ đối
xử với cậu cũng dựa theo cái thành kiến mà đầu tiên cậu và Miska Kosevoi đã có
đối với mình, nhưng cậu chớ vì thế mà mất tinh thần. Kiên nhẫn bền bỉ, thắng
lợi cuối cùng sẽ về tay chúng ta".
Kotliarov trù tính rằng trong khi vận động anh em Cô- dắc
đừng đi theo Kornilov, thể nào mình cũng sẽ vấp phải một số ý kiến phản đối,
nhưng sáng hôm sau, khi trong toa xe anh nói với họ một cách thận trọng rằng
cần phải đòi quay về mặt trận chứ không đi Petrograd đánh lại chính anh em
mình, thì mọi người đều đồng ý ngay và rất sẵn sàng quyết định không tiến thêm
về phía Petrograd nữa. Dakha Korolov và anh lính Tunlin người trấn
Chernysevskaia là hai người giúp việc gần gụi nhất của Kotliarov. Suốt ngày ba
người len lỏi từ toa nọ sang toa kia nói chuyện với anh em Cô- dắc, nhưng đến
chiều khi đoàn tầu giảm dần tốc độ, chạy vào một ga xép nào đó, anh chàng hạ sĩ
trung đội ba Psenitnikov nhảy lên toa Kotliarov.
- Đến ga chính sắp tới, đại đội sẽ xuống tàu ngay? - Hắn
quát lên với Kotliarov, giọng xúc động - Cậu làm chủ tịch Uỷ ban cái kiểu gì mà
anh em Cô- dắc muốn gì cậu cũng chẳng biết! Trước kia chúng ta sống u mê như
thế đã đủ rồi! Chúng ta sẽ không đi thêm nữa! Bọn sĩ quan đang lồng dây thòng
lọng vào cổ anh em mà cậu cứ bằng chân như vại, chẳng hé răng gì cả. Chúng mình
bầu cậu lên để cậu làm thế có phải không? Thế nào, sao cậu cứ nhăn nhăn nhở nhở
như thế?
- Đáng là cậu phải nói với mình những lời như thế nầy từ
lâu rồi mới phải - Kotliarov tủm tỉm cười.
Tầu vừa dừng bánh, anh đã là người đầu tiên nhảy từ trên
toa xe xuống. Anh tới gặp sếp ga, có Turilin cùng đi.
- Bác đừng cho đoàn tầu chúng tôi đi thêm nữa. Chúng tôi
sẽ bắt đầu xuống tàu ở đây.
- Sao lại thế? - Người sếp ga ngơ ngác hỏi - Tôi đã nhận
được lệnh… có cả giấy lộ trình.
- Thôi im mồm đi! - Turilin nghiêm khắc ngắt lời người
sếp ga.
Hai người tìm đến chỗ Uỷ ban nhà ga, trình bày rõ tình
hình với chủ tịch Uỷ ban, một nhân viên điện tín vạm vỡ, tóc hung hung. Vài
phút sau người thợ máy đã vui vẻ dồn đoàn tầu vào đoạn đường cụt.
Anh em Cô- dắc hối hả bắc ván cầu, bắt đầu dắt ngựa trên
các toa xe xuống. Kotliarov dạng hai cái chân dài ngoẵng đứng cạnh đầu máy,
tươi cười lau mồ hôi trên khuôn mặt rám nắng. Viên đại đội trưởng chạy tới, mặt
cắt không còn hột máu.
- Mày làm gì thế hử? Mày có biết rằng…
- Biết rồi! - Kotliarov ngắt lời hắn - Còn ngài thì ngài
câm cái mồm đi, ngài đại uý ạ. Rồi anh tái mặt nói dằn từng tiếng, hai cánh mũi
phập phồng - Mày đã hết cái thời có thể mồm loa mép giải rồi, đồ nhãi ranh? Bây
giờ chúng ta sẽ buộc cho mày cái rọ mõm. Tình hình lúc nầy thế đấy!
- Tổng tư lệnh tối cao Kornilov. - Viên đại uý đỏ mặt tía
tai, còn định lắp bắp những gì nữa, nhưng Kotliarov vẫn dán mắt xuống đôi ủng
mòn vẹt đứng lún xuống lớp cát xốp và khoác tay một cách thoải mái, khuyên hắn:
- Mày hãy đeo nó lên cổ thay huân chương, chúng tao chẳng
cần đến nó làm gì cả.
Viên đại uý xoay gót ủng, chạy về toa xe của hắn.
Một giờ sau đại đội Cô- dắc đã rời khỏi nhà ga tiến về
hướng Tây - Nam, không còn một tên sĩ quan nào nữa, nhưng hàng ngũ chỉnh tề
quân số đầy đủ. Kotliarov lên nắm quyền chỉ huy đại đội và chỉ huy phó là anh
chàng Turilin lùn choằn choặt đi trong trung đội đầu, cùng với các khẩu đội
súng máy.
Đại đội dựa vào bức bản đồ tước được của viên đại đội
trưởng cũ, tìm hướng rất vất vả, hành quân tới thôn Goreloie và nghỉ đêm tại
đấy. Mọi người họp hội nghị toàn thể, quyết định trở lại mặt trận, và nếu bị
cản trở thì sẽ chiến đấu chống lại.
Sau khi buộc hai chân sau các con ngựa và đặt xong các
vọng gác, anh em Cô- dắc nằm xuống ngủ. Mọi người không thắp đèn. Có thể cảm
thấy rằng tinh thần phần đông là u uất, ngả lưng xuống rồi là im như thóc,
không tán chuyện và pha trò như thường ngày, ai cũng như giấu không muốn chọ
người khác biết ý nghĩ của mình.
"Nếu họ hối lại, trở về đầu thú thì làm thế nào bây
giờ?" - Kotliarov trằn trọc dưới chiếc áo ca- pôt suy nghĩ không phải
không có ý lo ngại.
Turilin như đoán được ý nghĩ của Kotliarov, bước tới:
- Cậu ngủ rồi à, Ivan?
- Chưa ngủ đâu.
Turilin ngồi xổm dưới chân Kotliarov, ánh lửa ở đầu điếu
thuốc lấp loáng. Hắn thì thầm:
- Anh em Cô- dắc đang thấp thỏm… Làm liều xong rồi lập
tức lo ngay ngáy. Chúng mình đã bắt đầu nấu món cháo… nhưng cũng không đặc lắm,
cậu thấy thế nào.
- Cứ chờ đấy rồi sẽ biết - Kotliarov bình thản trả lời -
Nhưng cậu không sợ chứ?
Turilin luồn tay xuống dưới cái mũ cát- két, gãi gáy và
mỉm một nụ cười gượng gạo:
- Nói thật ra thì mình cũng có sờ sợ… Lúc mới bẳt tay vào
làm thì không sợ đâu, nhưng sau mới thấy rờn rợn.
- Gan cậu nhỏ lắm.
- Nhưng Ivan ạ, cậu phải biết rằng lực lượng của chúng nó
lớn lắm đấy.
Hai người nín lặng giờ lâu. Trong thôn đã tắt hết đèn
lửa. Không biết từ chỗ nào vẳng tới tiếng vịt kêu quàng quạc trên bãi lầy mênh
mông mọc đầy loại liễu nhỏ của đồng cỏ.
- Vịt cái đấy! - Turilin mơ màng khẽ nói rồi lại lặng
thinh.
Bầu không khí tịch mịch của trời đêm bao trùm khắp đồng
cỏ, nhẹ nhàng, ve vuốt. Sương rơi trĩu những ngọn cỏ. Một làn gió hiu hiu đưa
tới nơi đại đội Cô- dắc đóng trại, mùi các hố giải, mùi lau mục, mùi đất bãi
lầy, mùi cỏ đậm sương đêm, tất cả trộn lẫn với nhau thành một thứ mùi hỗn hợp.
Thỉnh thoảng lại có tiếng xích chân ngựa lách cách, tiếng ngựa thở phì phò hay
rít lên và tiếng - những con ngựa lăn xuống đất. Sau đó tất cả lại lặng tờ. Mãi
xa, mãi xa, thoáng có tiếng một con vịt đực gọi khàn khàn và tiếng quàng quạc
của một con vịt cái trả lời gần hơn. Bỗng có tiếng đập phần phật rất nhanh của
một đôi cánh không thể nhìn thấy trong bóng đêm. Đêm. Không một tiếng động. Hơi
ẩm trên đồng cỏ mung lung sương mù. Phía tây, ngay sát đường chân trời có một
đám mây màu tím sẫm, nom xốp như bột bánh đang lên men. Còn ở giữa trời, trên
vùng đất cổ kính của khu Pskov sông Ngân Hà rộng mênh mông hiện rõ như một lời
nhắc nhở luôn luôn vẳng bên tai 3
Trời vừa hửng, đại đội Cô- dắc đã lên đường. Đoàn người
ngựa tiến theo qua thôn Goreloie. Những người đàn bà và trẻ chăn bò nhìn theo
họ rất lâu. Đại đội leo lên một ngọn gò bị ánh mặt trời mọc nhuộm đỏ như gạch.
Turilin quay đầu nhìn lại rồi khẽ chạm chân vào bàn đạp của Kotliarov.
- Cậu nhìn mà xem, phía sau có mấy thằng cưỡi ngựa phi
đến đấy.
Ba người cưỡi ngựa đang vòng qua thôn phóng nước đại tới
gần, bụi bốc lên chung quanh họ như một thứ vải mịn hồng hồng.
- Đại đội đứng lại! - Kotliarov ra lệnh
Theo thói quen, loáng một cái anh em Cô- dắc đã tập hợp
thành một hình vuông xám xịt. Ba người kia đến cách chừng nửa vec- xta thì cho
ngựa chuyển sang nước kiệu. Một người trong đám, một sĩ quan Cô- dắc, rút ra
một chiếc khăn tay, vẫy vẫy trên đầu. Anh em Cô- dắc không rời mắt khỏi ba gã
đang mỗi lúc một gần. Viên sĩ quan mặc áo quân phục mầu ka- ki tiến lên trước.
Hai tên kia mặc tréc- két 4 ghì ngựa tụt lại xa một chút.
- Có việc gì thế? - Kotliarov cho ngựa chạy đến trước mặt
viên sĩ quan và hỏi.
- Đàm phán - Viên sĩ quan đưa tay lên lưỡi trai trả lời -
Trong đám các anh ai nắm quyền chỉ huy đại đội?
- Tôi.
- Tôi là đại diện toàn quyền của Sư đoàn Cô- dắc sông
Đông số một, còn kia là hai đại diện của sư đoàn Tuzemnaia - Viên sĩ quan đưa
mắt về phía hai viên sĩ quan miền núi và vừa kéo dây cương vừa vuốt vuốt cái cổ
bóng nhoáng vì mồ hôi của con ngựa chạy đã sùi bọt mép - Nếu anh muốn đàm phán
thì hãy cho đại đội xuống ngựa. Tôi có nhiệm vụ truyền đạt mệnh lệnh bằng lời
của thiếu tướng Grekov, sư đoàn trưởng.
Anh em Cô- dắc xuống ngựa. Ba tên đại diện cũng xuống
ngựa và đi tới. Chúng len vào giữa đại đội. Mọi người lùi lại, dành cho chúng
một khoảng nhỏ.
Viên sĩ quan Cô- dắc nói trước:
- Hỡi anh em đồng hương? Chúng tôi đến đây là để khuyên
anh em nghĩ lại và ngăn ngừa những hậu quả tai hại mà thành động vừa qua của
anh em có thể gây ra. Hôm qua sư đoàn bộ đã được tin là không biết do sự tuyên
truyền tội lỗi của kẻ nào mà anh em đã tự ý rời bỏ các toa xe. Hôm nay sư đoàn
bộ cử chúng tôi đến truyền đạt cho anh em mệnh lệnh lập tức quay về ga Dno. Hôm
qua sư đoàn Tuzemnaia cùng những đơn vị kỵ binh khác đã chiếm được Petrograd,
hôm nay vừa nhận được điện. Tiền vệ của chúng tôi đã tiến vào kinh đô, chiếm
tất cả các cơ quan Chính phủ, nhà băng, nhà dây thép, các trạm điện thoại và
tất cả các địa điểm quan trọng. Chính phủ lâm thời đã bỏ chạy và bị coi như
giải tán. Hỡi anh em đồng hương, anh em hãy mau mau tỉnh ngộ! Phải biết rằng
anh em đang đi tới chỗ chết? Trong trường hợp anh em không phục tùng lệnh của
sư đoàn trưởng, lực lượng vũ trang sẽ được điều đến trừng trị anh em. Hành động
của anh em đã bị coi là một sự phản bội, không chấp hành nhiệm vụ chiến đấu. Để
tránh khỏi cái cảnh người mình làm đổ máu người mình, anh em chỉ còn một cách
là phục tùng vô điều kiện.
Lúc ba tên đại diện đang tới gần, Kotliarov cân nhắc về
tinh thần của anh em Cô- dắc và hiểu rằng không thể nào tránh cuộc đàm phán, vì
nếu từ chối thì sẽ gây ra những hậu quả không tốt. Anh đắn đo một lát rồi ra
lệnh cho đại đội xuống ngựa, còn mình thì kín đáo đưa mắt cho Turilin và lên
thật gần tới chỗ ba tên đại diện. Trong lúc tên sĩ quan nói, Kotliarov nhận
thấy anh em Cô- dắc cứ cúi đầu, cau có lãng nghe; một số thì thầm với nhau.
Dakha Korolov mỉm cười gượng gạo, bộ râu đen nhánh của hắn chảy xuống chiếc áo
sơ- mi, nom như một dòng nước gang đã đông lại: Borsev liếc nhìn sang bên cạnh,
tay nghịch nghịch chiếc roi ngựa; Psenitnikov há hốc miệng, nhìn thẳng vào mắt
tên sĩ quan đang nói: Marchin Samin đưa bàn tay nhớp nhúa lên xoa má, mắt nháy
lia lịa; sau lưng hắn là Bagrov với bộ mặt đần độn vàng ệch; chàng súng máy
Krasnickov nheo mắt như chờ đợi; Turilin thở như kéo bễ; gã Obnidov mặt đầy tàn
hương hất chiếc mũ lưỡi trai ra sau gáy, lắc lắc cái đầu có bờm tóc trước trán,
nom cứ như con bò mộng lúc cảm thấy cái ách cày đã đặt lên cổ; toàn trung đoàn
hai đứng gục đầu như đang nguyện kinh. Tất cả đám người đứng sát vào nhau thành
một khối, chẳng nói chẳng rằng, hơi thở nặng nề và nóng ran, các nét mặt thoáng
có vẻ hoang mang.
Kotliarov hiểu rằng tinh thần anh em Cô- dắc đang sắp
chuyển tới một bước ngoặt: chỉ vài phút nữa là tên sĩ quan mồm mép nầy sẽ có
thể lôi cuốn được đại đội theo hắn. Dù sao cũng phải phá tan cái ấn tượng mà
những lời hắn nói đã gây ra, phải làm lung lay cái quyết tâm đã thành hình
trong đầu óc anh em Cô- dắc mà chưa nói ra. Anh bèn giơ tay, mở trừng trừng hai
con mắt ra một cách rất lạ, nhìn tất cả đám người.
- Anh em! Hượm một lát đã? - Rồi anh quay sang hỏi viên
sĩ quan - Các anh có mang theo bức điện không?
- Bức điện nào cơ chứ? - Viên sĩ quan có vẻ ngạc nhiên.
- Bức điện báo tin Petrograd bị chiếm ấy.
- Bức điện ấy à? Không có. Nhưng bức điện có dính dáng gì
đến chuyện nầy?
- À hà! Không có… - Toàn đại đội thở phào nhẹ nhõm, như
từ cùng một lồng ngực.
Nhiều người đã ngẩng đầu lên, nhìn Kotliarov chằm chằm
ánh mắt đầy tin tưởng. Lúc nầy Kotliarov cất cao cái giọng khàn khàn của anh,
quát lên với một vẻ rất tự tin, vừa căm phẫn vừa châm biếm, làm mọi người đều
phải chú ý:
- Không có à, anh bảo thế phải không? Thế mà đòi chúng
tôi tin thế nào được! Anh muốn chơi xỏ chúng tôi à?
- Bịp bợm! - Toàn đại đội đều gầm lên.
- Bức điện có phải là đánh cho tôi đâu! Anh em đồng hương
hiểu cho! - Tên sĩ quan áp hai nắm tay vào ngực cố phân bua.
Nhưng chẳng ai nghe hắn nữa rồi, Kotliarov thấy cảm tình
và lòng tin tưởng của đại đội đã lại chuyển về với mình, bèn nói bằng một giọng
sắc như con dao cắt kính:
- Mà dù cho Petrograd có thất thủ chăng nữa, chúng tôi
cũng không đi cùng đường với các anh! Chúng tôi không muốn đánh nhau với chính
anh em mình. Chúng tôi không phản lại nhân dân! Các anh muốn đâm bị thóc chọc
bị gạo à? Đừng hòng? Những thằng ngu xuẩn trên đời nầy đã hết sạch rồi? Chúng
tôi không muốn lập lại chính quyền của bọn tướng tá nữa. Đúng là như thế đấy.
Các binh sĩ Cô- dắc cùng làm ầm lên một trận, đám người
rung chuyển, nhao nhao la hét:
- Như thế mới đúng!
- Dồn cho cứng lưỡi rồi nhé!
- Thật là chí lý!
- Thôi tống cổ các quan lớn ấy đi đằng nào thì đi!
- Thứ như thế mà cũng đòi làm mối làm manh.
- Ở Petrograd có ba trung đoàn Cô- dắc, các anh em ấy
không chống lại nhân dân đâu.
- Nầy, Ivan! Cho chúng nó vài gậy đi? Cho chúng nó xéo
đi!
Kotliarov nhìn ba tên đại diện. Tên sĩ quan Cô- dắc mắm
môi mắm lợi kiên nhẫn đứng chờ. Sau lưng hắn, hai tên sĩ quan người miền núi
đứng sát vai nhau. Một tên còn trẻ, người Ingus, thân hình cân đối, khoanh hai
tay trên ngực chiếc tréc- két rất đẹp, hai con mắt xếch quả trám long lanh dưới
chiếc mũ cu- han- ca 5 lông đen. Tên kia là một lão Oxelin đã có tuổi, đứng
dạng chân đầy vẻ coi thường. Hắn đặt một tay lên cán cây gươm cong cong, nhìn
khắp lượt anh em Cô- dắc như muốn nắn gân họ. Kotliarov vừa muốn cắt đứt cuộc
đàm phán thì tên sĩ quan Cô- dắc đã hành động trước. Hắn rỉ tai tên sĩ quan
Ingus rồi kêu lên sang sảng:
- Anh em sông Đông! Anh em cho phép đại diện của Sư đoàn
Man Dã 6 nói vài lời chứ?
Không chờ mọi người đồng ý, gã sĩ quan Ingus nhẹ nhàng
dậm đôi ủng không đế, bước vào giữa khoảng trống giữa đám người, sửa lạì chiếc
dây lưng nhỏ chạm trổ, cử chỉ đầy vẻ nóng nảy:
- Anh em Cô- dắc? Có gì mà làm ầm ĩ lên như thế? Nói năng
phải cho bình tĩnh mới được. Anh em không thích tướng quân Kornilov à? Anh em
muốn chiến tranh à? Được thôi? Đánh nhau thì đánh nhau? Chúng tôi không sợ!
Chẳng sợ chút nào cả! Ngay hôm nay chúng ta sẽ đè bẹp anh em. Sau lưng chúng
tôi có hai trung đoàn miền núi. Chà, làm gì mà ầm ĩ lên như thế, ầm ĩ lên như
thế làm gì? - Đầu tiên hắn nói còn có vẻ bình tĩnh một chút, nhưng cuối cùng
hắn hăng lên cất cao giọng, tuôn ra một loạt những lời hậm hực. Giọng hắn đã
khàn khàn ngọng nghịu lại xen thêm những từ ngữ của tiếng mẹ đẻ - Thằng Cô- dắc
nầy đã làm anh em lầm lẫn rồi đấy, nó là một thằng Bolsevich, mà anh em lại đi
theo nó! Chà? Tôi nhìn rõ lắm chứ. Anh em hãy bắt giữ nó! Tước vũ khí của nó.
Hắn ngang ngạnh chỉ thẳng vào Kotliarov và đi lại lồng
lộn trong khoảng trống nhỏ hẹp, hoa chân múa tay một cách sôi nổi, bộ mặt nâu
nâu tái nhợt đi. Bạn hắn, tên sĩ quan tóc hung có tuổi thì vẫn lạnh như tiền.
Tên sĩ quan Cô- dắc mân mê cái dây ngù gương rách nham nhở. Bọn lính Cô- dắc
lại im thin thít, lại xáo động bối rối, Kotliarov không rời mắt khỏi tên sĩ
quan Ingus, anh nhìn hàm răng trắng loá của hắn nhe ra như nanh thú dữ, nhìn
dòng mồ hôi xám xám chảy chéo trên thái dương bên trái của hắn, và cứ tiếc là
mình đã bỏ lỡ cơ hội chỉ nói một lời là chấm dứt cuộc đàm phán và đưa anh em
Cô- dắc đi. Nhưng Turilin đã kịp cứu vãn tình thế. Anh chàng nhảy vào giữa chỗ
trống, vung hai tay lên một cách tuyệt vọng, giật đứt cả các khuy cổ áo sơ- mi,
và gào lên khàn khàn, gân mặt giật lia lịa, bọt mép xùi cả ra:
- Thật là một đàn rắn hèn nhát! Bọn quỷ dữ nầy! Lũ đốn
mạt nầy? Chúng nó tán tỉnh dụ dỗ như những con đĩ như thế mà cứ vểnh tai lên
nghe? Bọn sĩ quan chúng nó đang muốn mang tai mang vạ đến quàng vào cổ mà chẳng
biết gì cả? Còn đứng làm gì thế nầy? Làm cái gì thế nầy hử? Không chém mẹ chúng
nó đi mà lại đứng nghe chúng nó? Phải chém đầu chúng nó, phải chọc tiết chúng
nó. Trong lúc các cậu đứng đực ra ở đây thì chúng nó đến bao vây đấy! Súng máy
chúng nó sẽ quét cho? Dưới đạn súng máy thì tha hồ mà họp mít- tinh… Chúng nó
bịp các cậu để chờ quân của chúng nó kéo đến mà không biết! Ô- ô- ôi dào, Cô-
dắc gì cái thớ các cậu! Đi mà liếm váy?
- Lên ngựa? - Giọng Kotliarov gầm lên như sấm.
Tiếng hô của anh nổ ra trên đầu mọi người như một phát
đạn ghém. Anh em Cô- dắc đổ xô ra chỗ để ngựa. Chỉ một phút sau đại đội đang
tan tác như đàn ong tập hợp thành đội hình trung đội hàng dọc.
- Hãy nghe tôi nói đã! Anh em đồng hương ơi! - Tên sĩ
quan Cô- dắc cuống lên.
Kotliarov hất khẩu súng trường trên vai xuống, kiên quyết
đặt ngón tay trỏ có những đốt sưng vù vào cò súng, kéo mạnh hàm thiếc vào mép
con ngựa đang nhảy chồm rồi quát lên:
- Không đàm phán gì nữa? Nếu bây giờ còn phải nói chuyện
với chúng mày thì đây sẽ là tiếng nói của chúng tao. - Rồi anh lắc lắc khẩu
súng trường, động tác mang rất nhiều ý nghĩa.
Các trung đội nối đuôi nhau xuống đường cái. Anh em Cô-
dắc nhìn lại còn thấy ba tên đại diện ngồi trên mình ngựa bàn tán với nhau
không biết những gì. Tên sĩ quan Ingus nheo mắt tranh cãi sôi nổi, chốc chốc
lại giơ tay lên, bên tay của chiếc áo tréc- két lật lên cho thấy lần lụa lót
trắng như tuyết.
Kotliarov ngoái nhìn lại lần cuối cùng, cũng trông thấy
mảnh lụa trắng loá đó, và không hiểu sao trước mắt anh lại hiện lên bộ ngực của
sông Đông rách nát dưới làn gió hanh, những đọt sóng bạc đầu mầu xanh lá cây và
cái cánh trắng muốt của con hải âu bói cá lượn vòng, quệt đầu cánh xuống ngọn
sóng.
--- ------ ------ ------ -------
1 Petrograd và
Moskva.
2 Một thứ kèn của
người châu Á, hay dùng ở vùng Kavkaz.
3 Dân Cô- dắc
sông Đông thường gọi sông Ngân Hà là "con đường của Hãn Batưa" người
Tarta xâm lược nước Nga trong thế kỉ 13 (ND).
4 Một thứ áo
ngoài thường mặc ở vùng Kavkaz, khít lưng, rộng tà (ND).
5 Một kiểu mũ
lông vùng Kavkaz, tròn và dẹt (ND).
6 Một sư
đoàn tổ chức dưới thời Nga hoàng, gồm toàn dân miền núi Kavkaz (ND).
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 94
Ngay từ hôm hai mươi chín tháng tám,
qua các bức điện nhận được của Krymov, Kornilov đã bắt đầu thấy rõ rằng kế
hoạch đảo chính vũ trang đã phá sản.
Đến hai giờ trưa, thì có một tên sĩ
quan liên lạc ở chỗ Krymov tới nơi. Kornilov bàn bạc với tên nầy rất lâu, rồi
cho gọi Romanovsky tới. Hắn vo tròn một mảnh giấy như lên cơn thần kinh và nói:
- Tất cả đổ sụp rồi! Quân bài của
chúng ta bị đánh bại rồi! Krymov sẽ không thể nào điều quân đoàn về Petrograd
được kịp thời và sẽ lỡ thời cơ. Những việc mà chúng ta tưởng sẽ thực hiện dễ
như trở bàn tay lại vấp phải hàng ngàn trở ngại… Kết cục đã được biết trước là
thất bại rồi… Đây… ngài xem đi… tình hình thực hiện hành quân của quân đội là
như thế nào đây! Hắn chìa cho Romanovsky xem bức bản đồ đánh dấu các chặng hành
quân gần đây nhất của quân đoàn Cô- dắc và sư đoàn Tuzemnaia. Khuôn mặt kiên
quyết của hắn hốc hác vì mất ngủ giật ngang giật dọc như chuột rút. - Tất cả
cái bọn khốn kiếp trong ngành đường sắt đã chọc gậy vào bánh xe của chúng ta.
Chúng nó không nghĩ rằng nếu thành sự tôi sẽ ra lệnh cứ mười thằng treo cổ một.
Ngài thử đọc bản báo cáo của Krymov mà xem.
Trong khi Romanovsky vừa đọc vừa đưa
bàn tay to bè lên vuốt bộ mặt hổ phù những mỡ là mỡ, Kornilov viết rất nhanh:
"Kính gửi Ngài ataman quân khu
Aleksey Maximovich Kaledin ở
Novocherkask,
Tôi đã được tường nội dung bưc điện
Ngài gửi cho Chính phủ lâm thờ. Sau khi đã nhẫn nhục đến cực độ trong cuộc đấu
tranh vô hiệu quả những kẻ lật lọng và phản bội, người Cô- dắc vinh quang nhìn
thấy cái chết mà Tổ quốc không thể nào tránh khỏi, đã cầm vũ khí trong tay bảo
vệ đời sống và tự do của quê hương, một vùng đất đã phát triển và mở rộng nhờ
sức lao động và xương máu của mình.
Trong một thời gian nào đó, quan hệ
giữa chúng ta sẽ bị hạn chế. Tôi đề nghị Ngài hành động nhất trí với tôi, như
lòng yêu nước và vinh dự của người Cô- dắc muốn như vậy.
658/29- 8- 17.
Đại tướng Kornilov".
- Xin ngài lập tức đánh cho bức điện
nầy, - Sau khi viết xong, Kornilov bảo Romanovsky.
- Ngài ra lệnh đánh bức điện thứ hai
cho công tước Bagration bảo thực hiện hành trình còn lại bằng cách hành quân đi
bộ chứ?
- Vâng, vâng.
Romanovsky nín lặng một lát rồi trầm
ngâm nói:
- Thưa ngài Lavrơ Georgievich, theo
tôi thì hiện nay chúng ta còn chưa có lý do để bi quan. Cách ngài dự đoán diễn
biến của sự việc có lẽ không sát lắm…
Kornilov đã vài lần hấp tấp giơ tay
định bắt một con bướm nhỏ xíu màu tím bay chập chờn trên đầu hắn. Những ngón
tay hắn co quắp, mặt hơi có vẻ căng thẳng, chờ đợi. Con bướm bị xô đi xô lại
theo từng đợt gió, bay thấp xuống, rồi là đôi cánh, định lượn ra khung cửa sổ
mở toang. Cuối cùng Kornilov cũng tóm được nó.
Hắn thở dài, nhẹ nhõm cả người, rồi
nằm ngửa ra lưng ghế bành.
Romanovsky chờ Kornilov trả lời ý
kiến của lão, nhưng hắn chỉ nở một nụ cười mơ màng và sầu thảm, bắt đầu kể:
- Đêm qua tôi nằm mơ, thấy như đang
chỉ huy một lữ trong một sư đoàn khinh binh và đang tấn công ở vùng núi Karpat.
Tôi đi cùng với ban tham mưu vào một cái trại. Một người Ru- xin 1 ăn vận chải
chuốt ra đón chúng tôi. Người ấy đem sữa tươi ra thết tôi rồi ngả chiếc mũ dạ
trắng và nói bằng một thứ tiếng Đức rất đúng: "Uống đi tướng quân! Thứ sữa
nầy có khả năng chữa bệnh kiến hiệu lạ thường đấy". Hình như tôi có uống
và chẳng ngạc nhiên chút nào khi thấy người Ru- xin ấy suồng sã vỗ vai tôi. Sau
đó chúng tôi lên núi, nhưng hình như không còn là núi Các pát nữa, mà là một
vùng nào đó ở Afganistan, trên một con đường mòn hiểm hóc… Phải, đúng là một
con đường mòn hiểm hóc: đi đến đâu là sỏi và đá giăm rơi loạt soạt đến đấy, nhưng
bên dưới, sau một khe núi lại hiện ra một phong cảnh miền nam đẹp tuyệt, nắng
tràn ngập trắng loá.
Làn gió lùa hiu hiu thổi qua hai
khung cửa sổ mở toang từ bên nầy sang bên kia căn phòng, làm những tờ giấy trên
bàn loạt soạt động đậy. Cặp mắt mơ màng và xa xôi của Kornilov hình như đang
lang thang ở nơi nào đó bên kia sông Dnepr, trên sườn những khe núi lốm đốm
những khoảng có màu vàng nâu như đồng Romanovsky nhìn theo cặp mắt của
Kornilov, rồi chính lão cũng bất giác khẽ thở dài, chuyển tầm mắt qua mặt sông
Dnepr không gợn một chút gió, cứ nhẵn bóng như mi- ca, trong suốt như thuỷ
tinh. Rồi lão lại nhìn sang cánh đồng sương khói mung lung hiện ra với những
đường nét hết sức dịu dàng của một ngày sắp sang thu.
--- ------ ------ ------ -------
1 Dân Ukraina
sống ở vùng núi Karpat (ND)
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 95
Các đơn vị thuộc quân đoàn kỵ binh
số ba và sư đoàn Tuzemnaia điều về Petrograd chuyển quân với những khoảng cách
rất lớn trên tám tuyến đường sắt: Rêven, Vêdenbéc, Nácva, Yamburg, Vưricha,
Dno, Pskov, Luga. Tất cả các ga xép và ga tránh xe đều đầy những đoàn tàu nhà
binh chạy chậm rề rề vì nghẽn đường. Các sĩ quan chỉ huy cấp trên không còn có
thể tác động chút gì tới tinh thần các trung đoàn, các đại đội bị phân tán mất
hết liên lạc với nhau.
Tình hình đã rắc rối lại càng rắc
rối thêm, vì ngay trên đường hành quân, quân đoàn cùng sư đoàn Tuzemnaia phối
thuộc với nó phải được biên chế lại thành một tập đoàn quân. Muốn vậy cần phải
tiến hành một đợt điều thuyên chuyển khá lớn, phải tập hợp những đơn vị đang
phân tán, phải sắp xếp lại các đoàn tàu. Tất cả những việc đó gây ra tình trạng
rối như bòng bong, trống đánh xuôi kèn thổi ngược, các mệnh lệnh nhiều khi
không ăn khớp với nhau, không khí đã căng thẳng như đầu óc người lên cơn thần
kinh lại càng bị hun nóng.
Tuyến đường nào cũng bị các công
nhân và viên chức của ngành đường sắt hoạt động chống lại, các đoàn tầu của
quân đội Kornilov cố vượt các khó khăn, từ từ bò về Petrograd có những lúc dồn
ứ lại ở các ga đầu mối nhưng rồi lại tản ra.
Trong những ngày sơn đỏ của các toa
xe, bên cạnh những con ngựa đói dở đã tháo yên cương, có những con người cũng
ăn không đủ no bị lèn như cá hộp: những binh sĩ Cô- dắc các quân khu sông Đông,
Usuri, Orelburg, Nectrisk và Amur, những người Ingus, Cherket, Kabarda, Oset,
Dagestan. Các đoàn tầu nhà binh chờ đến lượt chuyển bánh, phải nằm lại hàng giờ
ở các ga, bọn kỵ binh đổ ào ào từ các toa xe xuống, đứng lúc nhúc như châu chấu
trong các phòng đợi, kéo đàn kéo lũ đi trên các đường tàu. Chúng ăn sạch tất cả
những cái gì ăn được mà các đoàn tàu đi trước còn để lại, lấy cắp của nhân dân,
phá kho lương thực.
Những nẹp quần Cô- dắc vàng vàng đỏ
đỏ, những cái áo vét lộng lẫy của long kỵ binh, áo tréc- két- ca của các dân
tộc miền núi… Phong cảnh thiên nhiên miền Bắc vốn dè sẻn mầu sắc, chưa từng
thấy muôn mầu phối hợp phong phú như thế nầy.
Ngày hai mươi chín tháng tám, lữ
đoàn ba của sư đoàn Tuzemnaia do công tước Gagarin chỉ huy đã tiếp cận với địch
ở gần Paplovsk. Hai trung đoàn Ingusky và Cherket tiến trên đầu sư đoàn phát
hiện thấy đường sắt bị phá hoại, bèn xuống tầu và hành quân đi bộ về hướng
Traskoie Xelo. Những toán trinh sát của trung đoàn Ingusky len lỏi tới nhà ga
Somrino. Hai trung đoạn từ từ triển khai tấn công, đánh đồn Xích vệ, chờ các
đơn vị khác của sư đoàn đến đủ. Song các đơn vị đã tới ga Dno còn chờ tàu
chuyển bánh. Một số đơn vị còn chưa tới được ga nầy.
Công tước Bagraction, sư đoàn trưởng
sư đoàn Tuzemnaia đang trong trang trại riêng cách nhà ga không xa lắm để chờ
đợi các đơn vị còn lại tới tập trung đầy đủ, vì dại gì mà liều lĩnh cho binh sĩ
cưỡi ngựa hành quân tới Vuricha.
Ngày hai mươi tám, Bagration nhận
được của bộ tư lệnh Mặt trận miền Bắc bản sao bức điện sau đây:
"Đề nghị truyền đạt với quân
đoàn trưởng Quân đoàn ba và các thủ trưởng sư đoàn sông Đông số một, sư đoàn
Usuri và sư đoàn Tuzemnaia ở Kavkaz mệnh lệnh của Tổng tư lệnh tối cao là nếu
vì những hoàn cảnh bất ngờ nào đó mà gặp khó khăn trong việc hành quân bằng
đường sắt. Tổng tư lệnh tối cao ra lệnh cho các sư đoàn tiếp tục vận dộng bằng
cách hành quân trên đường cái. Ngày 27 tháng tám năm 1917. Số 6411.
Romanovsky".
Khoảng chín giờ sáng, Bagration đánh
điện báo cho Kornilov biết rằng
Tuy Bagration có nhận được quyết
định của Kornilov nói rõ ràng: "Gửi công tước Baglation. Tiếp tục chuyển
quân bằng đường sắt. Nếu không thể dùng đường sắt được nữa thì hành quân trên
đường cái tới Luga, tại đấy sẽ hoàn toàn chịu quyền chỉ huy của tướng quân
Krumov", hắn vẫn không quyết định cho các đơn vị dưới quyền hành quân trên
đường cái và cứ ra lệnh cho quân đoàn bộ lên các toa xe.
Trung đoàn trong đó Evgeni Litnhiki
đã từng phục vụ cùng các trung đoàn khác trong biên chế của sư đoàn Cô- dắc
sông Đông số một được chuyển về phía Petrograd theo tuyến đường sắt Rêven -
Vêdenbéc - Nácva. Năm giờ chiều ngày hai mươi tám, đoàn tàu chở hai đại đội của
trung đoàn nầy tới Nácva. Viên chỉ huy đoàn tàu nhà binh được biết rằng đến đêm
tàu không thể lại lên đường vì đoạn đường sắt giữa Nácva và Yamburg đã bị phá
hoại, và một bộ phận của tiểu đoàn sắt đã được phái đến đấy bằng một đoàn tàu
hoả tốc. Sáng mai, nếu kịp chữa xong đoạn đường, đoàn tầu sẽ chuyển bánh.
Dù muốn hay không, viên chỉ huy đoàn
tàu nhà binh cũng bắt buộc phải đồng ý. Hắn vặc rầm lên một trận, leo lên toa
xe của hắn, cho bọn sĩ quan biết tin rồi ngồi vào bàn uống trà.
Đêm hôm ấy trời u ám. Một làn gió
đầy hơi ẩm, lạnh thấu xương thổi từ ngoài vịnh. Trên đường sát, anh em Cô- dắc
âm thầm nói chuyện với nhau trong các toa xe. Những con ngựa lo lắng vì những
tiếng đầu máy rúc còi, chốc chốc lại đập móng xuống sàn gỗ. Ở đuôi đoàn tầu có
một gã Cô- dắc trẻ tuổi ngồi hát trong bóng tối, không biết hắn muốn kể khổ với
ai.
Thôi vĩnh biệt tỉnh thành, thị trấn
Vĩnh biệt người, thôn xóm thân yêu
Thôi vĩnh biệt cô em tươi trẻ,
Vĩnh biệt em, đoá hoa biếc nhỏ nhoi!
1
Nhớ khi trước, sớm chiều gần gụi,
Bàn tay anh nắm chặt tay em,
Nhưng em hỡi, nay sớm chiều dòi đõi,
Dựa bên anh, còn khẩu súng nầy thôi…
Từ sau ngôi nhà xám xịt, to lù lù
của kho hành lý, có một người bước ra. Người ấy đứng lại một lát, vừa lắng nghe
tiếng hát và nhìn theo đoạn đường ray in lốm đốm những ánh đèn vàng ệch rồi
mạnh dạn bước về phía đoàn tàu nhà binh. Chân anh ta bước nhẹ nhàng, khi dậm
trên các tà vẹt còn có tiếng trầm trầm, nhưng khi bước xuống lớp đất sét nện
cứng thì không còn nghe thấy gì nữa. Người ấy đi tránh toa xe cuối cùng, nhưng
gã Cô- dắc đứng ở cửa xe ngừng tiếng hát và gọi anh ta:
- Ai?
- Thế cậu đợi ai đấy? - Người kia
miễn cưỡng trả lời nhưng không dừng bước.
- Đêm hôm khuya khoắt thế nầy còn
láng cháng ở đây làm gì hử? Cái bọn đầu trộm đuôi cướp chúng mày, bọn ông thì
nện cho nhừ tử! Định nhòm ngó xem có cái gì sơ hở để xoáy có phải không?
Người kia không trả lời, cứ đi tiếp
đến giữa đoàn tàu, rồi ngó đầu vào khe cửa một toa xe và hỏi:
- Đại đội nào thế?
- Đại đội nhà pha - Trong bóng tối
có tiếng cười khà khà.
- Mình hỏi có việc đấy, đại đội nào
thế?
- Đại đội hai.
- Thế trung đội bốn đâu?
- Đếm từ đầu là toa thứ sáu.
Ba anh chàng Cô- dắc đang hút thuốc
bên cạnh toa xe thứ sáu tính từ đầu máy. Một người ngồi xổm, hai người đứng
cạnh đấy. Cả ba lặng thinh nhìn người đang đi tới gần họ.
- Chào anh em đồng hương.
- Ơn Chúa! - Một người nhìn chằm
chằm vào mặt người lạ trả lời.
- Nikita Dulgin còn sống không? Cậu
ấy có ở đây không?
- Mình đây - Người ngồi xổm trả lời
bằng một giọng nam cao véo von như hát rồi đứng dậy, lấy gót ủng di di điếu
thuốc. - Mình không nhận được ra cậu. Cậu là ai thế? ở đâu đến thế? - Anh ta
vươn bộ mặt râụ ria xồm xoàm cố nhận ra người lạ. Người nầy mặc áo ca- pôt, đầu
đội chiếc mũ cát- két binh sĩ nhầu nát. Bỗng anh lính Cô- dắc ngạc nhiên kêu
lên - Ilia! Buntruc phải không? Người anh em thân mến của mình, ma quỷ nào xách
cổ cậu về đây thế nầy?
Anh ta đưa bàn tay sần sùi ra nắm
lấy bàn tay đầy lông lá của Buntruc một lát rồi cúi xuống khẽ nói:
- Đây toàn là anh em mình, cậu đừng
sợ. Cậu từ đâu mò về đây thế nầy? Nói đi chứ, ma quỷ bắt cậu đi!
Buntruc chào hai anh chàng Cô- dắc
kia rồi trả lời bằng một giọng yếu ớt, trầm trầm như tiếng gang:
- Mình ở Petrograd về, mất bao nhiêu
công sức mới tìm thấy các cậu. Có việc phải làm đấy. Cần phải bàn với các cậu.
- Người anh em ạ, mình thấy cậu còn
sống, còn khoẻ mạnh là mình mừng lắm.
Buntruc mỉm cười. Trên khuôn mặt rất
to có vầng trán mênh mông, răng của anh hiện ra trắng loá, cặp mắt long lanh,
ấm áp, vui vẻ, nhưng trầm tĩnh.
- Có việc bàn với nhau à? - Anh
chàng râu xồm lại nói véo von với cái giọng nam cao. - Cậu là sĩ quan mà cũng
đi lại chơi bời với bọn mình. Cám ơn cậu, và ơn Chúa, nếu không chúng mình đây
đừng hòng được nghe một lời thân mật âu yếm… - Trong giọng nói của Dulgin
thoáng có ý trêu chọc, nhưng hồ hởi, không có gì ác ý.
Buntruc cũng thân mật pha trò:
- Được thôi, rồi sẽ có đủ chuyện cho
cậu phá quấy! Cậu vẫn chẳng bỏ cái tính nghịch ngợm một chút nào! Nhưng cứ pha
trò nữa đi râu cậu dài quá rốn rồi đấy.
- Râu ria thì bọn mình có thể cạo
bất cứ lúc nào cũng được. Nhưng cậu hãy cho biết tình hình ở Petrograd như thế
nào đã? Bắt đầu có bạo động rồi à?
- Ta vào trong toa đã, - Buntruc đề
nghị, giọng đầy hứa hẹn.
Bốn người leo lên toa xe, Dulgin đưa
chân lay một anh chàng nào đó, khẽ gọi:
- Dậy đi các cậu! Có một nhân vật
đến thăm bọn mình giữa lúc đang cần đây. Nào, mau lên các thầy quyền, quàng
quàng lên!
Đám Cô- dắc è è trong họng, lổm ngổm
đứng dậy. Có hai bàn tay không biết của ai, hai bàn tay rất to, nặc mùi thuốc
lá và mùi mồ hôi ngựa, nhẹ nhàng sờ soạng trong bóng tối trên mặt Buntruc lúc
nầy đang ngồi trên một cái yên ngựa. Một giọng trầm đặc sệt như dầu ma- dút
hỏi:
- Buntruc đấy à?
- Mình đây. Còn cậu, Trikamasev đấy phải không?
- Mình đây, mình đây. Chào cậu, anh bạn thân mến!
- Chào cậu - Mình chạy ngay đi gọi anh em trung đội ba
nhá?
- Phải, phải! Quàng lên đi!
Trung đội ba đến gần đủ, chỉ để lại hai anh chàng coi
ngựa. Anh em Cô- dắc lại gần Buntruc, họ nhìn những bàn tay sần sùi to như lát
bánh mì gối bắt tay anh, họ khom người dưới ánh đèn bão, nhìn vào khuôn mặt
rộng bè bè và hơi âm thầm của anh, họ gọi anh, khi là Buntruk, khi là Ilia
Mitơrit, khi là Ilinsa, nhưng trong tất cả các giọng nói đều chỉ có thể cảm
thấy một vẻ vồn vã thân mật, ấm áp.
Trong toa xe bắt đầu thấy ngột ngạt. Ánh đèn nhảy múa
trên những thành xe làm bằng ván ghép, những cái bóng không ra hình thù gì cả
đung đưa và to ra, ngọn đèn bốc khói mù mịt, ánh đèn vàng khè nhớp nhúa.
Mọi người niềm nở kéo Buntruc tới gần ngồi ở chỗ sáng.
Những người phía trước thì ngồi xổm, còn lại bao nhiêu đều đứng vây quanh, chen
chúc như nêm. Dulgin húng hắng ho, rồi cất cái giọng nam cao nói:
- Ilia Mitơrit ạ, hôm nọ chúng mình có nhận được thư của
cậu, nhưng vẫn muốn được nghe cậu nói, để được cậu bảo cho biết sau nầy bọn
mình sẽ phải làm như thế nào. Chúng nó đang lôi bọn mình đi Petrograd, thế thì
làm thế nào bây giờ?
- Mitơrit ạ, cậu thử xem trời đất bây giờ như thế nào? -
Gã Cô- dắc đứng ở ngay cửa toa xe nói, một chiếc vòng lủng lẳng dưới cái dái
tai nhăn nhúm. Chính gã đã từng bị Evgeni Litnhiki làm nhục không cho nấu nước
trà bên lá chắn súng máy trong chiến hào - Đã có những thằng tuyên truyền đủ
loại đến đây khuyên can bọn mình, nào là các cậu đừng đi Petrograd, nào chúng
ta không đánh lẫn nhau làm gì. Chúng nó còn nói nhiều ý khác, nhưng đại loại
đều như thế cả. Bọn mình nghe thì cứ nghe, nhưng chẳng tin gì chúng nó. Chúng
nó không phải là anh em mình. Chưa biết chừng chúng nó muốn đưa bọn mình đến
chỗ chết cũng nên, ai biết đâu mà ăn cỗ? Nếu từ chối không đi thì Kornilov sẽ
kéo bọn Cherket đến đây và lại đổ máu. Còn cậu là anh em nhà, là dân Cô- dắc,
bọn mình rất tin cậu và thậm chí rất cám ơn cậu đã viết thư từ Petrograd về cho
bọn mình, lại gửi cả báo nữa… Bọn mình thú thực là ở đây đang thiếu giấy cuộn
thuốc ghê gớm, vừa may nhận được báo…
- Cậu nói tầm bậy tầm bạ những gì thế hả, đầu óc gì mà
ngu khổ ngu sở? - Một gã khác bực mình ngắt lời gã đeo vòng tai. - Cậu là một
thằng mù chữ nên cứ tưởng mọi người đều tối tăm như cậu phải không? Cậu nói như
bọn mình đem báo ra cuộn thuốc hút ấy?
- Cậu Ilia Mitơrit ạ, những tờ báo ấy bọn mình thường là
cứ đọc từ đầu đến cuối đấy.
- Nó nói láo đấy, đồ quỷ, đồ sâu thuốc!
- "Đem cuộn thuốc hút", thế mà cũng mở mồm ra
nói!
- Nói với thằng ngu thì chẳng khác gì vạch đầu gối ra mà
nói!
- Các cậu ạ, có phải là mình muốn nói như thế đâu, - Gã
Cô- dắc đeo vòng tai chống chế. - Tất nhiên là đầu tiên đem báo ra đọc đã…
- Chính ngài đọc ấy à?
- Mình thì chữ nghĩa chẳng có… mình chỉ muốn nói rằng đầu
tiên mọi người đọc đã, rồi sau mới đem ra hút thuốc…
Buntruc tủm tỉm cười, ngồi xuống một yên ngựa rồi đưa mắt
nhìn anh em Cô- dắc một lượt. Anh cảm thấy ngồi mà nói thì không tiện, bèn đứng
dậy xoay lưng về ánh đèn rồi bắt đầu nói, giọng chậm rãi, gần như miễn cưỡng:
- Các cậu chẳng phải đến Petrograd làm gì. Trên ấy chẳng
có bạo động bạo điếc gì đâu. Các cậu có biết chúng nó định xách cổ các cậu lên
trên ấy làm gì không? Để lật đổ Chính phủ lâm thời đấy… Đúng thế đấy! Đứa nào
bắt các cậu đi? - Thằng Kornilov, tướng của vua Nga. Thế nó cần phải hất cẳng
Kerensky để làm gì? Để chính nó ngồi vào chỗ của Kerensky. Các cậu cẩn thận
đấy, anh em đồng hương ạ? Chúng nó định tháo khỏi cổ các cậu một cái ách bằng
gỗ, và nếu chúng nó lồng được một cái ách khác vào thì lần nầy sẽ là bằng thép
đấy! Nếu bắt buộc phải chịu một trong hai tai hoạ thì hãy chọn tai hoạ nào đỡ
khổ hơn. Có phải thế không nào? Đấy các cậu tự ngẫm mà xem: dưới chế độ vua
Nga, chúng nó quạng gãy răng các cậu. Rồi dưới chế độ Kerensky, chúng nó cũng
không để cho mình được yên, nhưng không đánh gãy răng mình. Sau Kerensky, khi
nào chính quyền chuyền sang tay người Bolsevich, tình hình sẽ hoàn toàn khác
hẳn. Người Bolsevich không muốn chiến tranh. Nếu họ nắm được chính quyền thì
lập tức sẽ hoà bình ngay. Mình không ủng hộ Kerensky, quỷ dữ là anh em của nó,
tất cả chúng nó đều một duộc cả thôi - Buntruc mỉm cười đưa tay áo lên lau mồ
hôi trán rồi nói tiếp - Nhưng mình kêu gọi các cậu không nên làm đồ máu anh em
công nhân. Nếu là chính quyền của Kornilov thì nước Nga sẽ ngập đến đầu gối
trong máu của thợ thuyền, dưới chính quyền của nó sẽ càng khó dành được chính
quyền để đặt nó vào tay nhân dân lao động.
- Hượm một chút đã, Ilia Mitơrit! - Một gã Cô- dắc đứng ở
một hàng sau bước lên. Người gã nhỏ bé, béo lùn cũng như Buntruc. Gã húng hắng
ho, xoa hai tay dài ngoẵng, sần sùi như hai đoạn rễ sồi già cỗi chìm dưới nước,
và nhìn Buntruc bằng cặp mắt tươi cười màu xanh lá cây nhạt, lấp lánh như hai
cái lá non - Cậu vừa nói đến chuyện cái ách… Thế người Bolsevich đoạt được
chính quyền rồi thì họ sẽ lọng vào cổ chúng ta cái ách bằng gì?
- Cậu làm sao thế? Tự mình lại đem ách quàng vào cổ mình
hay sao?
- Tự mình là nghĩa thế nào?
- Dễ hiểu lắm. Dưới chế độ Bolsevich ai sẽ nắm chính
quyền? Cậu sẽ nắm, nếu người ta bầu cậu lên, hoặc là Dulgin, hoặc là nhà bác
kia cũng được. Chính quyền do nhân dân bầu ra. Hội đồng Xô viết. Cậu hiểu chưa?
- Thế mãi tít trên kia là ai?
- Cũng là người nào được bầu ra. Người ta mà bầu cậu thì
cậu sẽ lên ngồi "mãi từ trên kia".
- Thật thế ư? Cậu không nói bậy đấy chứ, Mitơrit?
Anh em Cô- dắc phá lên cười, mọi người nhao nhao cùng nói
một lúc. Cả đến chàng lính gác đứng ngoài cửa cũng tạt vào một phút, nói xen
vào câu chuyện.
- Thế còn vấn đề ruộng đất thì họ định sao?
Họ có chiếm mất của chúng ta không?
- Còn chiến tranh thì họ sẽ chấm dứt chứ? Hay chưa biết
chừng bây giờ hứa hão để người ta giơ tay bầu cho họ.
- Cậu cứ lấy lương tâm ra mà nói cho bọn mình biết với?
- Bọn mình ở đây tối như bưng, chẳng được biết gì cả.
Tin những kẻ không phải là anh em mình thì thật là nguy
hiểm. Có lắm kẻ nói láo quá…
- Hôm qua có một thằng thuỷ binh nhóc con nào đó đến khóc
lóc kêu gọi ủng hộ Kerensky, bọn mình bèn nắm tóc lôi cổ nó luôn ra khỏi toa
xe.
- Nó lại còn làm rầm lên: "Chúng mày là đồ
phản!".
- Cái thằng đến là kỳ quặc!
- Bọn mình chẳng hiểu các lởi lẽ như thế nghĩa lý ra sao,
không biết nên đem ăn với món gì được.
Buntruc xoay đầu khắp xung quanh, vừa chờ mọi người đỡ ồn
ào, vừa dùng mắt dò xem tinh thần anh em Cô- dắc như thế nào. Đầu tiên anh cũng
chưa tin chắc vào kết quả của công việc mình làm, nhưng bây giờ mọi điều nghi
ngờ đã tan ra mây khói. Sau khi nắm vững được tinh thần của mọi người, anh biết
rõ rằng dù là hoàn cảnh thế nào cũng phải giữ đoàn tàu nhà binh ở lại Nácva.
Một ngày trước đó, khi tới ban chấp hành đảng bộ khu Petrograd đề nghị cho mình
đảm nhiệm công tác tuyên truyền trong các đơn vị sư đoàn sông Đông số một đang
tiến về phía Petrograd, anh đã tin vào kết quả, nhưng sau khi tới Nácva sự tin
tưởng đó đã có phần lung lay. Anh hiểu rằng muốn nói với anh em Cô- dắc thì
phải dùng những lời lẽ riêng, nhưng anh lo lắng cảm thấy rằng chưa biết chừng
mình sẽ không tìm ra được tiếng nói chung với họ. Trước đây, sau chín tháng trở
lại đi sâu vào quần chúng thợ thuyền, anh đã hoàn toàn hoà mình với họ, đã quen
chỉ nói nửa lời đã làm cho họ cảm thông với mình, hiểu mình ngay. Nhưng bây giờ
về với anh em đồng hương, tình hình lại đòi hỏi phải có một thứ tiếng nói khác,
thứ tiếng cục mịch của địa phương mà mình đã quên mất một nửa, phải xoay xở
nhanh nhẹn khéo léo như một con thằn lằn, phải có cả một năng lực thuyết phục
rất lớn, không những chỉ để nhen ngọn lửa mà còn làm cho mọi người cháy bùng
lên, sao cho có thể xoá bỏ được cái tâm lý sợ không dám cưỡng lệnh trên đã tích
luỹ bao nhiêu thế kỷ như những lớp phù sa, đánh bạt cái thói thủ cựu hủ lậu,
khêu gợi cho mọi người cảm thấy chân lý của mình, lôi cuốn mọi người theo mình.
Đầu tiên, lúc mới bắt đầu nói, chính tai Buntruc lại bắt
gặp trong lời nói của mình những chỗ vấp váp chập chững, gượng gạo, cứ như anh
là một người khác đứng bên nghe những lời khô khan của anh.
Anh lo lắng thấy cái lý lẽ mình đưa ra hình như chưa đủ
sức thuyết phục, anh đau khổ moi móc trong óc, cố kiếm với những khối từ ngữ
thật to, thật nặng để đem ra dùng vào việc đập phá của mình…
Nhưng với một cảm giác chua chát không giải thích nổi,
anh vẫn cảm thấy rằng những lời không có trọng lượng mình nói ra nổ vỡ ngay
trên môi như bọt xà phòng và đầu óc mình cứ rối bời với những ý nghĩ nhạt nhẽo,
không có nơi bám chắc. Anh thở hổn hển đứng dậy, mồ hôi đổ ra nóng bỏng. Anh
vẫn nói, nhưng một ý nghĩ cứ khoan khoáy vào đầu anh: "mình được tin cậy,
được trao cho một công tác quan trọng như thế và lại tự tay làm hỏng bét… Nói
năng chẳng ra đầu ra đũa gì cả… Nhưng không hiểu sao mình lại như thế nầy nhỉ?
Trong trường hợp mình thì có lẽ một cậu khác đã trình bày, đã thuyết phục tốt
hơn gấp trăm gấp ngàn lần. Chà, mẹ khỉ, sao mình lại vụng về đến thế nầy nhỉ?
Anh chàng Cô- dắc có cặp mắt xanh lá cây nhìn dính như
keo hỏi về chuyện cái ách đã lôi được Buntruc ra khỏi cái trạng thái nửa tỉnh
nửa mê tệ hại đó. Các ý kiến trao đổi sau đó đã giúp anh rũ bỏ hết hoang mang,
lấy lại tinh thần. Và sau đó chính anh lại ngạc nhiên thấy dồi dào sức lực khác
thường và có được cả một loạt những lời hết sức phong phú, sáng sủa, sắc bén,
đánh rất trúng. Buntruc hăng lên nhưng vẫn cố giấu sự xúc động đột ngột của
mình dưới một vẻ ngoài bình thản. Lúc nầy anh đã trả lời rất xác đáng, rất cay
độc tất cả các câu hỏi móc mói, anh điều khiển cuộc trao đổi ý kiến như một
người trị một con ngựa bất kham, đang chạy hăng sùi bọt mép.
- Cũng được, nhưng cậu hãy bảo Quốc hội lập hiến có gì
không tốt nào?
- Ông Lenin của các cậu có phải do bọn Đức đưa về không
hử? Không à? Thế thì ông ấy từ chỗ nào mò ra bây giờ? Nứt mây rơi xuống phải
không?
- Mittơri à, cậu đến là cậu tự ý đến hay được người ta cử
đến thế?
- Các ruộng đất của quân khu rồi đây sẽ lọt vào tay ai?
- Dưới chế độ vua Nga, đời sống của chúng ta đã tồi tệ ở
chỗ nào?
- Cánh Melsevich cũng vì nhân dân cơ mà?
- Ở vùng chúng ta cũng đã từng có "cơ- rúc" 2
quân khu, cũng là chính quyền nhân dân. Vậy thì chúng ta còn cần có Xô viết làm
gì?
Trên đây là một số câu hỏi của anh em Cô- dắc.
Quá nửa đêm mọi người mới kéo nhau ra về. Nhưng trước đó
họ đã quyết sáng maỉ sẽ họp một cuộc mít tinh chung của cả hai đại đội Buntruc
ở lại nghỉ đêm trong toa xe. Trikamasev mời anh em cùng nằm với hắn. Hắn làm
dấu phép trước khi đi ngủ, thu xếp chỗ nằm rồi báo trước.
- Ilia Mitơrit ạ, cậu có thể nằm yên ngủ kỹ mà chẳng cần
phải lo gì cả, nhưng cậu cũng thứ lỗi cho bọn mình… Anh bạn thân mến ạ, ở chỗ
bọn mình chấy rận như sung ấy. Nếu chúng nó kéo đến với cậu thì chớ bực mình.
Cứ phải nuôi những con rận to lù lù như thế nầy thì thật là tai vạ! Con nào con
nấy cứ như một con bò non vùng đồi núi ấy - Hắn nín lặng một lát rồi khẽ hỏi -
Ilia Mitơrit nầy, Lenin là người dân tộc nào thế nhỉ? Mình muốn hỏi ông ấy sinh
ở đâu, lớn lên ở đâu?
- Lenin ấy à? Người Nga đấy.
- Thật ư?
- Thật đấy người Nga mà.
- Đâu có thế, người anh em thân mến ơi! Mình thấy cậu có
vẻ ít hiểu về Lenin lắm, - Giọng Trikamasev trầm hẳn xuống, nghe có phần kẻ cả.
Cậu có biết máu của Lenin là máu người ở đâu không? Máu người vùng chúng ta
đấy. Ông ấy chính là dân Cô- dắc sông Đông, sinh ở tỉnh Sansky, trấn
Velikonazeskaia, cậu đã hiểu chưa? Nghe nói đã từng đi lính pháo thủ. Cứ nhìn
nét mặt cũng nhận được ra ngay một tay Cô- dắc vùng sông Đông Hạ: gò má thì
cao, cả cặp mắt nữa chứ!
- Cậu nghe nói như thế ở đâu đấy?
- Anh em Cô- dắc bàn tán với nhau như thế, mình nghe lỏm
được.
- Không phải thế đâu, cậu Trikamasev ơi? Lenin là người
Nga, sinh ở tỉnh Simbirk đấy.
- Không, mình tin sao được. Thậm chí
có lý do rất đơn giản để không thể tin được! Pugachev có phải là dân Cô- dắc
không? Còn Stepan Radin? Còn Ermark Timofeevich nữa? Đấy đấy, cậu đã thấy chưa?
Tất cả những người lãnh đạo dân khố rách áo ôm dấy lên chống lại vua Nga, tất
cả đều là dân Cô- dắc tuốt. Thế mà cậu lại bảo: là người tỉnh Simbirk: Cậu
Mitơrit ạ, chỉ nghe nói thế cũng đủ bực mình rồi…
Buntruc mỉm cười hỏi:
- Thế anh em bảo là Cô- dắc à?
- Cô- dắc hẳn đi chứ lỵ, chỉ có điều
bây giờ còn chưa nói rõ thôi. Mình chỉ cần nhìn qua tướng mạo một cái là lập
tức nhận ra ngay - Trikamasev châm thuốc hút rồi vừa húng hắng ho vừa phả vào
mặt Buntruc một hơi thuốc lá hạng tồi nồng nặc. - Mình cũng ngạc nhiên và bọn
mình ở đây đã tranh cãi gần như đánh nhau đến nơi: Nếu Vladimaya Inghit là dân
Cô- dắc chúng ta, là một người lính pháo binh, thì ông ấy kiếm ở đâu ra cái tài
thông kim bác cổ như thế được? Nghe nói hình như hồi chiến tranh mới bùng nổ,
ông ấy có bị bọn Đức bắt làm tù binh, nên đã học tập ở bên ấy, đã mò mẫm nắm
được tất cả các môn khoa học, rồi bắt đầu dấy bọn thợ thuyền nước chúng nó nổi
lên bạo động, và còn đeo lại kính cho bọn bác học của chúng nó nữa làm chúng nó
sợ chết đi được. Chúng nó bèn bảo ông ấy: "Nầy cái anh trán dô kia, anh
hãy về nước anh mà sinh sống, cầu Chúa che chở cho anh, nếu không anh cứ gây
cho chúng tôi những chuyện như thế nầy thì đến già chúng tôi cũng không gỡ được
hết đâu?, Thế là chúng nó đưa ông ấy về bên Nga, chỉ sợ ông ấy lôi thợ thuyền
nước chúng nó nổi dậy. Đã thấy chưa? Chà, người anh em ạ.
- Lenin quả là một tay ghê gớm! -
Trikamasev nói câu cuối cùng không khỏi có vẻ huênh hoang rồi sung sướng bật
cười trong bóng tối. Còn cậu, Mitơrit ạ, cậu đã được gặp Lenin lần nào chưa?
Chưa à? Thật đáng tiếc. Nghe nói ông ấy có cái đầu to lắm thì phải - Hắn húng
hắng ho, thở ra đằng mũi một hơi khói, hút nốt điếu thuốc rồi lại nói tiếp -
Bọn đàn bà phải đẻ cho nhiều những con người như thế mới được. Quả là một tay
lợi hại, thật đấy! Mà Lenin đâu phải chỉ lật đổ một lão vua Nga nầy! - Nói đến
đây hắn thở dài - Không, Mitơrit ạ, cậu cãi lại mình cũng vô ích thôi: Inghit
chính là dân Cô- dắc đấy… Trong chuyện nầy thì có gì mà phải che đậy? Ở tỉnh
Simbirk không thể mọc ra những tay như thế đâu Buntruc lặng thinh mỉm cười nằm
im giờ lâu, hai con mắt ráo hoảnh.
Mãi chẳng làm thế nào chợp được mắt.
Của đáng tội, khắp người anh đã đầy rệp, chúng bò khắp mọi chỗ dưới áo sơ- mi,
gây một cảm giác nóng rát, ngứa ngáy khó chịu. Trikamasev nằm bên cạnh hết thở
dài lại gãi sồn sột. Hắn đang mơ mơ màng màng thì một con ngựa không biết của
ai bỗng nhiên nổi nóng thở phì phì. Rồi đến lúc hắn chưa thiếp đi hẳn, mấy con
ngựa không chịu ở yên với nhau lại đá lộn lung tung, chân dẫm lộp cộp, kèm theo
những tiếng hí đầy bực bội.
- Có yên đi không, đồ quỷ dữ! Đồ
chết tiệt! - Dulgin chồm dậy, quát giọng nam cao ngái ngủ rồi đánh con ngựa
buộc gần hắn nhất bằng một cái gì có lẽ nặng lắm.
Buntruc khổ vì rệp, cứ trằn trọc
mãi. Anh quay lưng nằm nghiêng sang bên kia và bực mình biết trước rằng còn
chán mình mới ngủ được. Vì thế anh bắt đầu nghĩ đến buổi mít tinh sáng mai. Anh
cố tưởng tượng xem bọn sĩ quan sẽ có thể có những phản ứng như thế nào rồi cười
nhạt: "Anh em Cô- dắc mà nhất loạt phản đối thì có lẽ chúng nó sẽ đánh bài
chuồn nhưng mẹ khỉ, làm thế quái nào biết được chúng nó! Để tránh mọi điều bất
trắc, mình sẽ bàn trước với Uỷ ban của đơn vị đóng ở đây mới được. Rồi không
hiểu sao Buntruc bất giác nhớ lại một tình tiết trong chiến tranh, trận tấn
công tháng mười năm 1915, và sau đó trí nhớ của anh tựa như sung sướng vì được
đưa vào những con đường quen thuộc, đã qua nhiều lần, cứ ngoan cố và quái ác
bới móc, moi ra những mẩu hồi ức: những bộ mặt, dáng nằm khủng khiếp của những
người lính Nga và Đức bị giết, những lời nói đủ các giọng, những mảnh phong
cảnh nhợt nhạt, không có màu sắc mà xưa kia anh đã từng được thấy, những ý nghĩ
chưa nói ra nhưng không hiểu sao vẫn còn lưu lại trong óc, hồi âm của những
loạt pháo kích chỉ cảm thấy rất loáng thoáng trong nội tâm, tiếng súng máy tằng
tằng quen thuộc và tiếng băng đạn chạy lạch xạch nghe như một giai điệu hùng
tráng, những đường nét lờ mờ của cặp môi người đàn bà mà anh đã từng yêu, những
đường nét đẹp đến đau nhói trong lòng mỗi khi nhớ tới, rồi lại là những mẩu
hình ảnh chiến tranh những xác chết, những nấm mồ lún xiêu vẹo chôn chung không
biết dến bao nhiêu người chết.
Buntruc cảm thấy rạo rực bồi hồi,
anh chống tay ngồi dậy, không hiểu mình nói ra hay mới nghĩ trong đầu óc:
"Mình sẽ ghi nhớ đến chết các hồi ức đó. Nhưng đâu phải chỉ có mình, tất
cả những ai còn sống sót đều không thể nào quên được. Chúng nó đã làm cho sự
sống trở nên đui què tàn tật, chúng nó đã bôi nhọ cuộc sống! Cả một lũ đáng
nguyền rủa! Cả một lũ khốn kiếp. Cái chết cũng không xoá được tội chúng mày
đâu?"
Rồi anh nhớ tới Lusa, một đứa con
gái mười hai tuổi, con gái một người thợ luyện kim Petrograd đã chết ngoài mặt
trận. Người nầy là bạn thân của anh, trước đó làm việc cùng một chỗ với anh ở
Tula.
Một buổi tối, Buntruc đang đi trên
một con đường trồng cây thì thấy Lusa ngồi ở đầu một chiếc ghế dài, hai cái
chân lèo khoèo dạng rộng với một vẻ rất càn, điếu thuốc lá lắt lẻo trên môi,
nhưng vẫn còn giữ cái dáng mảnh khảnh, ngượng nghịu của một cô bé chưa thành
niên.
Trên khuôn mặt héo hon của Lusa, hai
con mắt hiện lên mệt mỏi, một nét chua chát hằn rõ trên mép cặp môi tô đỏ chót,
đánh sang hai bên, mọng lên quá sớm. "Chú không nhận ra cháu nữa à?"
- Lusa mỉm cười một nụ cười giả tạo của một tay hành nghề đã thạo, hỏi giọng
khàn khàn, rồi đứng dậy, cong hẳn lưng xuống, úp mặt vào khuỷu tay Buntruc khóc
nức nở một cách bất lực và đau đớn, hoàn toàn như một đứa con nít.
Buntruc gần như tắc thở vì lòng căm
hờn trào lên trong lòng làm anh ngột ngạt như trúng hơi độc. Anh tái mặt, rên
rỉ, nghiến răng ken két, môi run bần bật, và cứ phải đưa tay lên vuốt mãi bộ
ngực lông lá. Anh có cảm tưởng lòng căm hờn ấy cháy bừng bừng trong ngực mình
như một hòn than hồng, rồi cứ thế âm ỉ, không cho anh thở nữa và làm cho bên
ngực trái, chỗ bên dưới tim đau nhoi nhói.
Cho đến sáng Buntruc cũng không chợp
mắt được phút nào.
Nhưng trời vừa rạng anh đã đi ngay
tới Uỷ ban cách mạng của công nhân viên đường sắt, mặt vàng hẳn ra, nom cau có
bực bội hơn bao giờ hết. Bàn bạc xong về việc không cho đoàn xe chở lính Cô-
dắc chuyển bánh khỏi Nácva, một giờ sau anh ta tìm các uỷ viên của uỷ ban đơn
vị đóng quân trong thành phố.
Đến tám giờ Buntruc lại quay về đoàn
tàu. Anh cảm thấy cái ấm ấm mát mát của khí trời buổi sáng ngấm khắp người
mình, anh sung sướng nghĩ rằng chuyến công tác của mình rất có khả năng thành
công, vì vầng mặt trời đang ngoi lên khỏi cái mái hoen rỉ nham nhở của kho hành
lý, và một giọng nói phụ nữ véo von như hát vẳng tới không biết từ chỗ nào. Lúc
trời sắp hửng đã mưa thốc tháo một trận rất to nhưng cũng rất ngắn. Mặt đường
toàn đất cát bị nước xói còn ngoằn ngoèo dấu vết những con suối tí hon, mùi
nước mưa xông lên nhạt thếch. Ở những chỗ bị những giọt mưa rơi nặng ăn sâu,
mặt cát còn hằn vô số những cái lỗ nhỏ mới se se, nom rỗ nhằng rỗ nhịt như mặt
một người bị bệnh đậu mùa.
Một viên sĩ quan đi vòng đoàn tàu
tới trước mặt Buntruc. Hắn mặc áo ca- pôt, đi đôi ủng cao ống bê bết những bùn.
Buntruc nhận ra tên đại uý Kalmykov, bèn hơi chậm bước, cho hắn tới. Hai người
đi đến sát nhau. Kalmykov đứng lại, long lanh hai con mắt đen xếch lạnh như
tiền.
- Thiếu uý Buntruc à? Anh được tự do
à, không bị ngồi tù hay sao? Xin lỗi, tôi không chìa tay cho anh bắt đâu…
Hắn mím chặt môi, thọc hai tay vào
túi áo ca- pôt.
- Tôi có định chìa tay cho anh bắt
đâu… chớ vội tưởng, - Buntruc trả lời, giọng chế nhạo.
- Thế nào, anh về đây để cứu lấy cái
mạng của anh à? Hay
là… ở Petrograd về đây. Từ chỗ anh chàng đẹp trai Kerensky đến đây phải không?
- Sao vậy, hỏi cung à?
- Đây chỉ là sự tò mò rất hợp lý muốn biết về số phận của
một tên đào ngũ trong đám đồng sự cũ.
Buntruc ghìm một nụ cười chế nhạo, nhún vai.
- Tôi có thể nói cho anh yên tâm: tôi đến đây không phải
do Kerensky phái đến đâu.
- Nhưng bây giờ đứng trước một mối nguy cơ đang ập tới
trước mặt, các anh cũng phải hợp nhất với nhau, một sự gần gụi quả là cảm động.
Nhưng dù sao tôi cũng muốn hỏi hiện nay anh là một con người như thế nào? Lon
chẳng có, ca- pôt là ca- pôt của lính… - Kalmykov phập phồng cánh mũi, nhìn cái
thân hình gù gù của Buntruc với một vẻ vừa khinh bỉ vừa thương hại - Là một tay
đi chào hàng chính trị à? Có đúng thế không? - Rồi hắn không chờ Buntruc trả
lời, quay ngoắt đi, bước những bước rất dài.
Về đến toa xe của anh, Buntruc gặp Dulgin:
- Cậu còn định làm gì thế? Cuộc mít tinh bắt đầu rồi đấy.
- Sao lại bắt đầu rồi?
- Chỉ biết là bắt đầu rồi thôi. Thằng đại uý Kalmykov đại
đội trưởng đại đội nầy vừa rồi không có mặt ở đại đội, hôm nay nó ngồi trên một
chiếc đầu máy mò từ Petrograd về đây, và cho gọi luôn anh em Cô- dắc tới. Nó
lại sắp sửa hô hào dụ dỗ chúng nó đấy.
Buntruc nán lại, hỏi xem Kalmykov được phái đi công tác ở
Petrograd từ bao giờ. Qua lời Dulgin, anh được biết rằng thằng cha đã đi vắng
gần một tháng nay.
"Nó là một trong những thằng muốn bóp chết cách mạng
mà Kornilov đã đi Petrograd dưới danh nghĩa nghiên cứu về vấn đề ném bom. Như
thế là một thằng cốt cán của bọn Kornilov đây. Nhưng được, rồi xem!" -
Buntruc đã có những ý nghĩ rời rạc như thế trong khi đi với Dulgin tới chỗ họp
mít tinh.
Sau nhà kho hành lý, những binh sĩ mặc va- rơi Cô- dắc và
áo ca- pôt đã đứng chen chúc thành một hàng rào xanh xanh xám xám.
Kalmykov đứng ngay giữa đám trên một cái thùng ton- nô
lật sấp. Bọn sĩ quan vây quanh hắn. Hắn nói gay gắt, tách bạch từng tiếng.
- Tiến hành cho tới thắng lợi cuối cùng! Chúng ta được
cấp trên tin cậy và chúng ta sẽ tỏ ra xứng đáng với lòng tin đó! Bây giờ tôi sẽ
đọc bức điện của đại tướng Kornilov gửi các quân nhân Cô- dắc.
Rồi với một vẻ hấp tấp thật ra chẳng có gì cần thiết, hắn
rút trong túi bên của chiếc ấo quân phục cổ rút ra một mảnh giấy nhầu nát và
thì thầm với tên chỉ huy đoàn tàu nhà binh.
Buntruc và Dugin len tới gần, lẫn trong đám binh sĩ Cô-
dắc.
Kalmykov đọc bằng một giọng truyền cảm và không thiu vẻ
hùng hồn:
"Hỡi anh em Cô- dắc, anh em đồng hương thân mến! -
Chẳng phải nhờ có xương máu của tổ tiên anh em mà biên cương quốc gia Nga đã
được mở rộng, được đẩy xa thêm hay sao? Chẳng phải nhờ có tinh thần dũng cảm
đầy sức mạnh của anh em, nhờ các kỳ tích hi sinh và khí phách anh hùng của anh
em mà nước Nga vĩ đại đã trở nên hùng mạnh hay sao? Anh em là những người con
tự do, không chịu kiềm toả của sông Đông êm đềm, sông Kuban kiều diễm, sông
Cherek ngang tàng, là những con đại bàng quả cảm ngoan cường của các đồng cỏ và
núi non ở Ural, Orelburg, Astrakhan, Semiretrensk và Sibiri, cũng như của các
vùng xa xôi Zabaikan, Amur và Usuri, bao giờ anh em cũng đã từng đứng lên bảo
vệ danh dự và vinh quang cho lá cờ của mình và đất nước Nga đã ghi biết bao
nhiêu huyền thoại về công huân của cha ông anh em.
Bây giờ đã đến giờ phút anh em phải góp phần bảo vệ Tổ
quốc. Tôi tố cáo Chính phủ lâm thời về tội thiếu quyết tâm trong hành động, bất
tài và vô năng trong việc quản lý quốc gia, về tội để cho quân Đức hoàn toàn
làm mưa làm gió trong nước, chưng cớ rành rành là vụ để nổ gần một triệu trái
đạn pháo và một vạn hai ngàn khẩu súng máy bị phá huỷ ở Kazan. Nhưng không phải
chỉ có thế mà thôi. Tôi tố cáo một số thành viên Chính phủ về tội trực tiếp
phản bội Tổ quốc và xin nêu duới đây chưng cớ về tội đó: hôm tôi đến dư cuộc
họp của Chính phủ lâm thời ở Cung điện Mùa Đông ngày mồng 3 tháng tám, Bộ trưởng
Kerensky và Savilkov có báo cho tôi biết rằng đừng nói hết mọi điều vì trong số
các bộ trưởng có những kẻ không trung thành. Rõ ràng là một Chính phủ như thế
chỉ có thể đưa nước nhà đến chỗ diệt vong, rõ ràng là không thể nào tín nhiệm
đưọc một Chính phủ như thế và với một Chính phủ như thế thì không thể nào cứu
vớt nước Nga đang đau khổ… Vì thế, khi hôm qua Chính phủ lâm thời, chiều theo ý
muốn của kẻ thù, đòi tôi phải từ bỏ chưc Tổng tư lệnh tối cao, thì với tư cách
là một người Cô- dắc chỉ nghe theo tiếng gọi của lương tâm và danh dự, tôi đã
bắt buộc phải từ chối không chấp hành yêu cầu dó, thà chết trên chiến trường
còn hơn chịu nhục và phản bội Tổ quốc. Hỡi anh em Cô- dắc, hỡi các dũng sĩ của
đất nước Nga! Anh em đã hứa sẽ đứng bên cạnh tôi để cứu Tổ quốc khi tôi thấy
việc đó là cần thiêt. Giờ phút ấy đã điểm: Tổ quốc đang sắp bị diệt vong! Tôi
không phục vùng mệnh lệnh của Chính phủ lâm thời và với mục đích cứu nước Nga
tự do, tôi chống lại Chính phủ lâm thời và chống lại những tên cố vấn vô trách
nhiệm của Chính phủ ấy đang bán rẻ Tổ quốc. Hỡi anh em Cô- dắc, anh em hãy gìn
giữ danh dự và vinh quang của người Cô- dắc anh dũng vô song, và chính làm như
thế anh em sẽ cứu được Tổ quốc cùng quyền tự do mà cách mạng đã dành được. Anh
em hãy tuân theo, hãy chấp hành các mệnh lệnh của tôi! Anh em hãy đi theo tôi!
Ngày 28 tháng tám năm 1917.
Tổng tư lệnh tối cao,
Đại tướng Kornilov.
Kalmykov nín lặng một lát rồi gấp tư tờ giấy, kêu lên:
- Những tên tay sai của bọn Bolsevich và của Kerensky
đang cản trở cuộc tiến quân bằng đường sắt của chúng ta. Chúng ta đã nhận được
mệnh lệnh của Tổng tư lệnh tối cao là trong trường hợp không có điều kiện thực
hiện việc tiến quân bằng đường sắt, chúng ta sẽ đi ngựa tiến về Petrograd.
Chúng ta sẽ lên đường ngay hôm nay. Anh em mau sửa soạn xuống xe?
Buntruc dùng hai khuỷu tay một cách thô bạo, len thẳng
vào giữa đám người. Chưa lên tới chỗ bọn sĩ quan, anh đã sang sảng nói to bằng
một giọng quen dùng trong các cuộc mít tinh:
- Các đồng chí Cô- dắc? Tôi là người được công nhân và
binh sĩ Petrograd cử đến đây với các đồng chí. Chúng nó đang đưa anh em vào một
cuộc chiến tranh nồi da nấu thịt, đang dùng anh em để đàn áp cách mạng. Nếu các
đồng chí muốn chống lại nhân dân, muốn lập lại chế độ vua quan thì các đồng chí
hãy đi! Nhưng công nhân và binh sĩ Petrograd mong rằng các đồng chí không phải
là những tên Cain 3. Công nhân và binh sĩ gửi tới các đồng chí lời chào anh em
nồng nhiệt và muốn nhìn thấy ở các đồng chí không phải là những kẻ thù, mà là
những người bạn đồng minh…
Nhưng mọi người đã không để cho Buntruc nói hết lời. Nơi
họp mít tinh bỗng nhao nhao như vỡ chợ. Những tiếng la thét vang lên ghê gớm
tựa như lôi Kalmykov từ trên cái thùng ton- nô xuống. Hắn khom người bước rất
nhanh về phía Buntruc, nhưng khi còn cách vài bước thì hắn xoay gót ủng lại:
- Anh em Cô- dắc! Năm ngoái thiếu uý Buntruc đã đào ngũ,
bỏ mặt trận, chuyện ấy anh em đã biết cả. Thế nào, chẳng nhẽ chúng ta có thể
nghe lời một kẻ hèn nhát, một tên phản bội hay sao?
Cái giọng trầm ồm ồm như sấm của tên trung tá Sukin đại
đội trưởng đại đội sáu át cả tiếng Kalmykov:
- Hãy bắt giữ lấy nó, cái thằng đê tiện! Trong lúc chúng
ta đang phải đổ máu thì nó chuồn về hậu phương! Bắt lấy nó!
- Hượm đã, đừng bă- ă- ắt!
- Cứ để cho Buntruc nói đã!
- Đừng có cái kiểu nhét khăn vào miệng người ta như thế.
Cứ để cho Buntruc nói rõ ý kiến của cậu ấy.
- Bắt ngay nó lại!
- Chúng ta không cần đến bọn đào ngũ?
- Cứ nói đi, Buntruc - Mitơrit, chặt cụt đuôi chúng nó
đi!
- Đả đa- a- ảo?
- Câm đi, đồ chó đẻ?
- Nói cho chúng nó câm mồm đi? Buntruc, nói cho chúng nó
tắc họng đi! Cậu hãy đánh gục chúng nó đi! Đánh gục chúng nó đi!
Một anh chàng Cô- dắc cao lớn, uỷ viên Uỷ ban cách mạng
trung đoàn, không đội mũ, đầu cạo nhẵn thín, nhảy lên chiếc thùng ton- nô. Bằng
một giọng sôi nổi, anh kêu gọi anh em Cô- dắc đừng phục tùng tên tướng
Kornilov, tên đao phủ giết các đồng chí cách mạng, anh nói về hậu quả tai hại
sẽ dẫn tới nếu nổ ra chiến tranh chống lại nhân dân, rồi trước khi ngắt lời,
anh quay lại nói với Buntruc:
- Nhưng đồng chí ạ, đồng chí đừng tưởng rằng anh em chúng
tôi cũng khinh đồng chí như khinh các ngài sĩ quan đây. Chúng tôi sung sướng
được gặp đồng chí, chúng tôi kính trọng đồng chí như kính trọng một đại biểu
của nhân dân. Chúng tôi càng kính trọng đồng chí hơn vì hồi làm sĩ quan, đồng
chí không đè nén anh em Cô- dắc mà lại đối xử với chúng tôi như anh em một nhà.
Chúng tôi chưa từng thấy đồng chí nói nặng lời với anh em bao giờ. Đồng chí
đừng nghĩ rằng anh em chúng tôi, những con người không có chữ nghĩa, không hiểu
cách cư xử thế nào cho phải. Lời ăn tiếng nói nhẹ nhàng thì con bò con ngựa
cũng hiểu, nói chi con người. Anh em chúng tôi cung kính cúi chào đồng chí và
đề nghị đồng chí chuyển lời của chúng tôi tới anh em công nhân và binh sĩ
Petrograd rằng chúng tôi không chống lại anh em đâu!
Những tiếng ầm ầm lại dội lên như tiếng trống: Các binh
sĩ Cô- dắc la lớn tỏ ý tán thành, những tiếng gào thét vang lên tới mức cao
nhất, lắng dần rồi tắt hẳn.
Rồi lại thấy Kalmykov ngật ngưỡng trên cái thùng ton- nô.
Hắn cúi gập cái thân hình đầy đặn, nói về vinh quang và danh dự của sông Đông
với những làn sóng bạc đầu, về sứ mệnh lịch sử của người Cô- dắc, về việc các
sĩ quan và binh sĩ Cô- dắc đã cùng đổ máu. Hắn vừa nói vừa thở hổn hển, mặt
nhợt nhạt như một xác chết.
Một gã Cô- dắc vai u thịt bắp, râu tóc trắng phếch đứng
lên tiếp lời Kalmykov. Nhưng anh em binh sĩ đã không để cho hắn nói hết những
lời căm hờn công kích Buntruc và nhà hùng biện đã bị lôi tay kéo xuống.
Trikamasev nhảy lên chiếc thùng ton- nô. Anh ta chém hai bàn tay xuống như bổ
củi, gào lên:
- Chúng ta không đi! Chúng ta sẽ không xuống tàu! Trong
bức điện có viết là anh em Cô- dắc đã hứa ủng hộ Kornilov, nhưng đã có ai hỏi
gì anh em đâu? Chúng ta chẳng hứa hẹn gì với hắn cả. Chỉ có bọn sĩ quan trong Hội
đồng Hội liên hiệp quân nhân Cô- dắc hứa thôi! Grekov đã vẫy đuôi thì để cho
hắn đi mà ủng hộ!
Những người thay nhau lên phát biểu mỗi lúc một nhiều.
Buntruc vẫn cúi cái đầu có vừng trán dô đứng đấy, máu dồn lên làm da mặt anh
đen lại như mầu đất, những mạch máu trên cổ và hai bên thái dương phồng lên,
giật giật rất nhanh theo nhịp mạch. Không khí như bị truyền điện, trở nên đặc
quánh. Có thể cảm thấy rằng chỉ thêm chút nữa, nếu có một hành động thiếu cân
nhắc là tình hình căng thẳng có thể nổ ra thành một cuộc đổ máu.
Giữa lúc ấy, binh sĩ trong trại quân của thành phố lũ
lượt từ nhà ga kéo đến, bọn sĩ quan bèn rời khỏi cuộc mít tinh.
Nửa giờ sau Dulgin thở hổn hển chạy đến tìm Buntruc:
- Mitơrit à, làm thế nào bây giờ? Thằng Kalmykov đang mưu
mô giở trò gì đây. Chúng nó vừa hạ súng máy trên tầu xuống và phái một thằng
liên lạc cưỡi ngựa đi đâu không biết.
- Ta lại đằng ấy đi. Cậu tập hợp cho mình chừng hai mươi
anh em! Mau lên!
Bên cạnh toa xe của tên chỉ huy đoàn tầu nhà mình,
Kalmykov cùng tên sĩ quan đang thồ những khẩu súng máy lên ngựa. Buntruc xông
tới trước tiên, anh quay lại đưa mắt cho anh em Cô- dắc rồi thọc tay vào túi áo
ca- pôt rút ra một khẩu súng ngắn của sĩ quan mới toanh lau chùi cẩn thận.
- Kalmykov mày đã bị bắt! Giơ tay lên!
Kalmykov nhảy ra khỏi chỗ mấy con ngựa, né nghiêng người
chộp tay xuống bao súng, nhưng hắn không kịp rút khẩu súng ngắn ra: một viên
đạn đã rít lên phía trên đầu hắn, và trước tiếng súng nổ ra, Buntruc đã quát
lên bằng một giọng trầm trầm không báo trước điều gì tốt lành:
- Giơ tay lên!
Con chỏ của khẩu súng ngắn từ từ giương lên đến nửa, cho
thấy đầu kim hoả. Kalmykov nheo mắt nhìn mũi kim hoả, rồi bật ngón tay đánh đét
một cái và từ từ giơ tay lên.
Bọn sĩ quan trao vũ khí một cách miễn cưỡng.
- Thưa có phải tháo gươm ra không ạ? - Viên trung uý súng
máy còn trẻ lễ phép hỏi.
- Có.
Anh em Cô- dắc tháo những khẩu súng máy trên lưng ngựa
xuống, khiêng lên toa xe.
- Đặt thêm vọng gác ở chỗ nầy, - Buntruc bảo Dulgin -
Trikamasev, bắt nốt những tên còn lại rồi giải đến đây. Có nghe rõ không,
Trikamasev? Còn Kalmykov thì mình với cậu sẽ giải lên uỷ ban cách mạng của trại
quân thành phố. Đại uý Kalmykov, anh bước lên trước đi cho.
- Cừ thật! Cừ thật - Một tên sĩ quan vừa tấm tắc khen vừa
nhảy lên toa xe và đưa mắt nhìn theo Buntruc, Dulgin và Kalmykov đi xa dần.
- Các ngài ơi? Nhục quá các ngài ơi! Chúng ta hành động
thật như một bầy con nít? Chẳng có ai nghĩ tới chuyện kịp thời cho thằng khốn
kiếp ấy một phát. Lúc nó chĩa khẩu súng ngắn vào Kalmykov mà chúng ta hạ thủ
luôn thì có phải xong xuôi rồi không? - Tên trung tá Sukin phẫn nộ nhìn bọn sĩ
quan một lượt, những ngón tay của hắn run bắn lên, mãi không lấy được một điếu
thuốc trong hộp thuốc lá ra.
- Nhưng chúng nó có cả một trung đội… chúng nó sẽ bắn
chết hết, - Tên trung uý súng máy nhận xét, giọng như tự thấy mình có lỗi. Bọn
sĩ quan lặng lẽ hút thuốc, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn nhau. Mọi việc xảy ra
nhanh như chớp làm chúng chưng hửng.
Kalmykov nhai nhai đầu hàng ria đen, đi một lát chẳng nói
chẳng rằng. Cái má bên trái của hắn, với gò má gồ nhọn, đỏ ửng lên như vừa ăn
một cái tát. Những người dân mà ba người gặp trên đường nhìn họ một cách ngạc
nhiên và đứng lại thì thầm với nhau. Trên thành phố Nácva, bầu trời ảm đạm
trước lúc hoàng hôn bạc mầu dần. Lá bạch dương rụng đầy các nẻo đường, nom như
những thỏi vàng ròng; tháng tám sắp trôi qua. Vài con quạ nhỏ bay qua cái nóc
tròn mầu xanh lá cây của nhà thờ. Ở nơi nào đó phía sau nhà ga, sau những cánh
đồng nằm lịm dưới ánh hoàng hôn, màn đêm mang theo khí lạnh đã phủ xuống mặt
đất, nhưng từ Nácva tới Pskov, những đám mây rách mướp được quét lớp son chì
trắng bệch của buổi chiều tà vẫn lang thang không đường không lối trên nền trời
chưa từng có ai động tới từ từ trôi về phía Luga. Màn đêm vượt qua một đường
ranh giới vô hình đang đánh lui ráng chiều.
Khi tới bên cạnh nhà ga, bất thình lình, Kalmykov quay
phắt lại nhổ vào mặt Buntruc:
- Đồ đê tiện!
Buntruc né người tránh được bãi nước bọt. Anh giương cao
hai hàng lông mày, đưa tay trái sang giữ chặt rất lâu bàn tay phải vừa thọc rất
nhanh vào túi.
- Đi! - Buntruc phải cố gắng lắm mới nói được.
Kalmykov vừa đi vừa chửi rất tục tĩu và thở ra những lời
hết sức bẩn thỉu.
- Mầy là một thằng bán nước! Một thằng phản bội. Rồi mầy
sẽ phải đền tội! - Chốc chốc hắn đứng lại, xông tới trước mặt Buntruc, quát
lên.
- Đi đi! Tôi khuyên anh đi đi… - Lần nào Buntruc cũng chỉ
bảo hắn thế.
Và Kalmykov lại nắm chặt hai tay, vùng vằng đi một đoạn,
nom cứ như con ngựa chạy đã kiệt sức. Ba người đi gần tới cái tháp nước.
Kalmykov nghiến răng gầm lên:
- Chúng mầy không phải là một chính đảng, mà là một bầy
những cặn bã xã hội, nhơ nhớp bẩn thỉu! Kẻ lãnh đạo của chúng mày là đứa nào?
Là bộ tổng tư lệnh quân Đức? Bolsevich h- h- hà Một lũ quái thai! Đảng của
chúng mày, một bọn lưu manh, chúng nó thả tiền ra mua được như một lũ bán trôn…
Những thằng đểu cáng? Những thằng đểu cáng! Chúng mày đã bán rẻ Tổ quốc… Tao
thì treo cổ tất cả chúng mày lên cùng một cái giá. Ô- ô- ô- ô! Rồi sẽ đến lúc
thôi! Tên Lenin của chúng mày đâu chỉ đem nước Nga đi bán lấy ba mươi đồng Mác
Đức! Nó đã đút túi hàng triệu đồng rồi chuồn thẳng… cái thằng đã tù mọt gông
ấy!
- Đứng sát vào tường! - Buntruc quát lên, giọng anh lắp
bắp, kéo dài.
Dulgin cuống lên, hốt hoảng nói:
- Ilia Mitơrit, hượm đã! Cậu định làm gì thế? Hượm đã
nào?
Cơn giận điên cuồng làm mặt Buntruc đen xạm, nom không
còn ra hình thù gì nữa. Anh nhảy xổ tới bên Kalmykov, đánh cho hắn một cái rất
mạnh vào thái dương. Anh dẫm lên cái mũ cát- két lăn từ trên đầu hắn xuống, rồi
lôi hắn xềnh xệch tới bức tường gạch tối đen của tháp nước.
- Đứng vào kia!
- Mày làm gì hử? Mày! Mày không được! Mày không được
đánh! - Kalmykov vừa chống cự, vừa gầm lên.
Lưng hắn đập đánh bịch vào tường tháp nước. Rồi hắn vỡ
lẽ, bèn dướn thẳng lên:
- Mày muốn giết tao à?
Buntruc khom người, hấp tấp kéo khẩu súng ngắn ra vì con
chỏ bị vướng vào lần lót túi.
Kalmykov vừa bước tới vừa cài rất nhanh tất cả các khuy
áo ca- pôt:
- Mày bắn đi, đồ chó đẻ! Cứ bắn đi! Giương mắt lên mà xem
những người sĩ quan Nga biết chết như thế nào… Ngay trước khi chết ta- a- ao…
Viên đạn cắm phập vào mồm hắn. Tiếng vọng khàn khàn của
phát súng vang dần mỗi lúc một cao phía sau tháp nước. Kalmykov bước thêm được
một bước thì vấp chân. Hắn đưa tay trái ôm đầu, ngã lăn kềnh. Hắn gập đôi
người, nhổ xuống ngực mấy cái răng đen sì những máu, lưỡi đánh chặc chặc như
đang nuốt một cái gì ngọt.
Lưng hắn duỗi thẳng ra vừa sát lớp đá dăm ẩm sì thì
Buntruc bồi thêm cho hắn phát nữa. Kalmykov giãy mạnh một cái, oặt người sang
bên, nấc lên một tiếng ngắn ngủi, đầu ngoặt xuống vai như con chim đang ngủ.
Đi đến ngã tư thứ nhất, Dulgin đuổi kịp Buntruc.
- Mitơrit… Cậu vừa làm gì vậy, Mitơrit? - Sao cậu lại
giết nó?
Buntruc nắm chặt lấy hai vai Dulgin, hai con mắt đanh
thép rất kiên định xuyên thẳng vào mắt Dulgin, rồi nói bằng một giọng mất tiếng
nhưng bình thản lạ lùng:
- Một là chúng nó giết chúng mình, hai là chúng mình giết
chúng nó? Không có con đường nào ở giữa. Nợ máu phải trả bằng máu. Vấn đề là ai
diệt ai 4 … Hiểu chưa? Những đứa như thằng Kalmykov thì phải tiêu diệt, phải
dẫm chết chúng nó, như loài rắn độc. Cả những kẻ giỏ rớt nước rãi thương tiếc
chúng nó thì cũng phải cho ăn đạn… cậu hiểu chưa? Tại sao cậu lại chảy rớt chảy
rãi ra như thế? Phải cứng rắn lại! Phải dữ tợn lên? Thằng Kalmykov nầy, nếu nó
nắm được quyền hành thì nó sẽ bắn anh em mình mà chẳng cần nhả điếu thuốc lá
khỏi miệng đâu, thế mà cậu… Chà, chỉ được cái mau nước mắt?
Đầu Dulgin lắc một thôi một hồi, hai hàm răng đập vào
nhau lập cập cặp chân to đần đẫn đi đôi ủng đã chuyển thành màu hung hung không
hiểu sao đi cứ vướng vào nhau một cách rất vô lý.
Hai người lặng lẽ đi theo một dãy phố hẹp không một bóng
người. Chốc chốc Buntruc lại ngoái nhìn về phía sau. Trên đầu hai người, những
đám mây đen lồm xồm như sủi bọt bay rất thấp về phía trời đông. Trong một mảng
trong nhỏ xíu của bầu trời tháng tám, vành trăng lưỡi liềm vừa được trận mưa
hôm qua rửa sạch, ghé nhòm xuống đất như một con mắt lác xanh lá cây. Ở ngã tư
gần nhất có một gã bộ binh và một người đàn bà choàng trên vai một chiếc khăn
màu trắng đứng sát vào nhau. Gã bộ binh ôm lấy người đàn bà, ghì chặt vào mình
và rỉ tai ả những gì không biết. Chỉ thấy ả kia đưa hai tay đẩy vào ngực gã,
ngửa đầu ra sau, hổn hển trả lời "Em không tin! Em không tin đâu!". -
Nói xong rúc rích cười, tiếng cười nghe rất trẻ.
--- ------ ------ ------ -------
1 Người vùng sông
Đông gọi loài uất kim hương trên đồng cỏ là hoa biếc (ND).
2 Hội đồng các
đại biểu nhân dân được dân Cô- dắc bầu ra dưới chế độ vua Nga (ND).
3 Cain là con của
Adams và Eva, vì giết em là Aben nên bị rủa sả, phải lang thang khắp nơi, đến
đâu cũng bị lòng hối hận dãn vặt. (ND).
4 Một luận
điểm nổi tiếng của Lenin trong thời kỳ cách mạng và nội chiến (ND).
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 96
Tên tướng Krymov bị Kerensky gọi về
Petrograd đã tự cho mình ăn một phát đạn ngày ba mươi mốt tháng tám ở kinh đô.
Những đoàn đại biểu và những viên
chỉ huy các đơn vị thuộc tập đoàn quân Krymov lũ lượt kéo nhau tới Cung điện
Mùa Đông tỏ dấu qui phục. Những kẻ mới đây còn định đối thoại với Kerensky bằng
tiếng nói của súng đạn, thì nay đã ngoan ngoãn đến cúi đầu trước mặt Kerensky,
cam đoan tuyệt đối trung thành với hắn.
Tinh thần hoàn toàn tan rã. Tập đoàn
Krymov mới đang hấp hối chứ chưa chết hẳn: theo đà cũ, các đơn vị của nó vẫn
tiếp tục bò về phía Petrograd, nhưng cuộc tiến quân của nó đã mất hết ý nghĩa,
vì âm mưu đảo chính của Kornilov đã đi tới bước đường cùng, ngọn lửa phản động
bùng lên như một quả pháo bông rồi lại tắt ngấm. Kể ra trong mấy ngày đó, kẻ
chấp chính lâm thời của nước cộng hoà cũng có cặp má bánh dầy, nhưng bây giờ
hắn đã có thể bắt chước Napoleon đưa đi đưa lại hai cái bắp chân đi ghệt cao,
tuyên bố trước cuộc họp của Hội đồng Chính phủ ngay sau âm mưu đảo chính thất
bại rằng "Tình hình chính trị đã hoàn toàn ổn định".
Một ngày trước khi Krymov tự tử,
tướng Aleseyev nhận được quyết định bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh tối cao. Aleseyev
vốn là một con người đúng mực và hết sức thận trọng, lão không thể không thấy
rõ tính chất nửa dơi nửa chuột và chẳng có gì đẹp đẽ của cương vị mình, vì thế
lúc đầu đã dứt khoát từ chối, nhưng sau lão đã nhận lệnh bổ nhiệm, với động cơ
duy nhất là lão muốn giảm nhẹ phần nào số phận bi đát của Kornilov cùng những
kẻ bằng cách nầy hay cách khác đã dính dáng với tổ chức nổi loạn chống Chính
phủ.
Trên đường đi, lão đã dùng đường dây
điện thoại trực tiếp liên lạc với Đại bản doanh để thử dò xem Kornilov có thái
độ như thế nào đối với việc lão được bổ nhiệm và đến nhận chức. Cuộc thương
lượng chán ngấy kéo dài tới đêm khuya với những đoạn ngắt quãng.
Ngay hôm ấy ở chỗ Kornilov đã có
cuộc hội nghị của các cấp lãnh đạo trong Đại bản doanh và các nhân vật thân cận
với Kornilov. Khi hắn nêu vấn đề tiếp tục đấu tranh với Chính phủ lâm thời có
phải là hợp lý hay không, đa số những kẻ đến dự cuộc họp đều phát biểu tán
thành tiếp tục chiến đấu.
- Ngài Alexandr Sergeevich, mời ngài
phát biểu ý kiến của ngài.
Kornilov nói với Lucomsky từ đầu đến
cuối buổi họp cứ im như thóc. Lucomsky tỏ ý phản đối việc tiếp tục chiến tranh
nồi da nấu thịt bằng những lời dè dặt, nhưng rất kiên quyết.
- Thế là đầu hàng à? - Kornilov ngắt
phứt lời Lucomsky và hỏi.
Lucomsky nhún vai.
- Các kết luận được rút ra một cách
tự nhiên thôi.
Cuộc bàn bạc còn kéo dài thêm nửa
giờ. Kornilov không nói gì thêm, có lẽ hắn đã phải đem hết nghị lực giữ bình
tĩnh. Chẳng mấy chốc, cuộc họp giải tán, nhưng chỉ một giờ sau Kornilov đã cho
mời Lucomsky tới:
- Ngài Alexandr Sergeevich, ngài nói
đúng đấy! - Kornilov bẻ ngón tay răng rắc, đưa cặp mắt mờ đục, xám như rắc tro
nhìn sang bên cạnh và nói giọng mệt mỏi - Tiếp tục chống cự là ngu xuẩn và tội
lỗi.
Rồi hắn gõ gõ ngón tay xuống bàn,
lắng nghe không biết cái gì, có lẽ hắn đang theo dõi những ý nghĩ rối bời chạy
loạn trong đầu óc hắn như đám chuột. Hắn nín lặng một lát rồi hỏi:
- Bao giờ ngài Mikhail Vasilievich
sẽ tới?
- Ngày mai.
Aleseyev đến nơi ngày mồng một tháng
chín. Ngay chiều hôm ấy theo lệnh Chính phủ lâm thời, lão đã bắt giữ Kornilov,
Lucomsky và Romanovsky. Trước khi giải những kẻ bị bắt tới khách sạn
"Metropol" là nơi chúng sẽ bị canh giữ, Aleseyev đã mặt giáp mặt,
trao đổi với Kornilov trong hai mươi phút không biết về vấn đề gì. Lão bước
trong phòng Kornilov ra, nom vẻ hết sức xúc động, gần như không tự chủ được
nữa. Romanovsky cố tìm cách vào gặp Kornilov, nhưng vợ Kornilov ngăn lão lại.
- Xin ngài thứ lỗi cho, ông Lavrơ
Georgievich nhà tôi đề nghị không để ai vào.
Romanovsky đưa mắt nhìn rất nhanh
khuôn mặt khổ não của mụ rồi bỏ đi, mắt nháy lia lịa vì xúc động, hai gò má đen
xạm lại.
Ở Berdichev, ngay hôm sau đã bắt giữ
tướng Doniki, tổng tư lệnh Mặt trận Tây Nam và tham mưu trưởng của hắn là tướng
Markov, tướng Vannovsky và viên tư lệnh Tập đoàn quân đặc biệt là tướng Erdeli.
Ở Bykhov, phong trào Kornilov đã bị
lịch sử bóp chết một cách nhục nhã trong trường trung học con gái. Phong trào
nầy đã chấm dứt, nhưng nó lại làm nảy sinh một phong trào mới: mầm mống các kế
hoạch của cuộc nội chiến sau nầy và của những cuộc tấn công vào cách mạng triển
khai trên khắp các mặt trận không được khai sinh ở đây thì còn ở đâu?
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 97
Những que băng màu rơm vàng vàng từ
trên mái xuống, vỡ ra với những tiếng như thuỷ tinh. Trời trở ấm làm khắp thôn
như nở hoa với những váng nước và những khoảng đất tan tuyết. Vài con bò chưa
thay hết lông lang thang trong các phố, mũi luôn luôn hít hít.
Những con chim sẻ ríu rít bới lung
tung trong các đống cành cây chất trong các sân gia súc, cứ như trời đã sang
xuân. Ngoài bãi thôn, Marchin Samin đuổi theo con ngựa hồng béo căng chạy trong
sân nhà hắn ra. Con ngựa vươn thẳng cái đuôi có những sợi lông rất thô của
giống ngựa sông Đông, vừa chạy vừa đá hậu, lông bờm rối như bòng bong phấp phới
trước gió, bốn vó hất tung ra xa những đám tuyết tan dở. Nó chạy vài vòng bãi,
rồi đứng lại bên dãy tường bao nhà thờ, hít hít những viên gạch. Nó để cho chủ
lại gần một chút, đưa cặp mắt tim tím liếc nhìn đoạn dây hàm thiếc trong tay
chủ rồi lại vươn thẳng lưng phi như điên.
Tháng giêng cho mặt đất được hưởng
những ngày u ám nhưng ấm áp. Nhìn ra sông Đông, bà con Cô- dắc đoán rằng mùa nước
lũ sẽ sớm hơn mọi năm. Hôm ấy, Miron Grigorievich đứng rất lâu trên cái sân sau
nhà, nhìn bãi cỏ, tuyết và mặt băng xanh xanh xám xám trên sông Đông, bụng bảo
dạ: "Rồi mà xem, năm nay nước lại to như năm ngoái thôi. Toàn tuyết là
tuyết, đổ xuống cơ man nào tuyết! Đất bị đè nặng như thế kia, đến không thở
được mất!"
Mitka đang dọn sân nuôi bò, trên
mình mặc độc một cái áo quân phục cổ chui màu cứt ngựa. Cái mũ lông cừu trắng
nó đội hất ra sau gáy không rơi như nhờ phép mầu. Vài món tóc mượt đăm mồ hôi xoã
xuống trán. Mitka đưa mu bàn tay bẩn thỉu, nặc mùi phân bò gạt lên. Một con dê
đực lông xồm dẫm lên những thỏi phân gia súc đóng băng quét lại thành đống bên
cạnh cổng sân gia súc. Những con cừu đứng chen chúc bên cạnh hàng rào. Một con
cừu non đã cao hơn mẹ mà còn đòi bú, con cừu mẹ húc đuổi nó đi. Cách đấy một
chút, một con cừu đực lông đen có bộ sừng uốn vòng, cọ mình vào cái cày gãi
ngứa.
Một con chó vàng nằm sưởi nắng bên
căn nhà kho có cái cửa bôi đất sét vàng. Bên ngoài nhà kho, trên những mảng tường
dưới mái hiên có treo những thứ dùng để đánh bắt cá. Cụ Grisaka chống nạng đứng
nhìn, có lẽ cụ đang nghĩ tới mùa xuân sắp ập tới đến nơi và việc sửa chữa lưới
đánh cá.
Miron Grigorievich bước vào sân đập
lúa. Bằng cặp mắt quen làm ăn, ông ước lượng mấy đống rơm. Ông vừa bắt đầu cầm
cào vơ gọn chỗ rơm kê bị mấy con dê bới tung thì vãng nghe thấy tiếng người lạ
ông bèn ném cái cào bên đống rơm, bước ra sân gia súc. Mitka đưa một chân sang
bên cuốn điếu thuốc, cái túi thuốc rất đẹp được nhân tình thêu tặng kẹp giữa
hai ngón tay.
Khristonhia lấy ra một mẩu giấy cuốn
thuốc lá nhớp nhúa từ bên trong cái mũ cát két xanh da trời của trung đoàn
Atamansky. Kotliarov phanh tà áo ca- pôt, đứng dựa lưng vào cái cửa đan bằng
cành cây của sân gia súc. Anh tìm loạn trong các túi chiếc quần bông của bộ
binh, một vẻ bực bội thoáng hiện lên trên bộ mặt cạo nhẵn nhụi có một chỗ hõm
sâu đen đen dưới cằm: có lẽ anh đã để quên một cái gì.
- Ông ngủ ngon chứ, ông Miron
Grigorievich? - Khristonhia chào.
- Ơn Chúa, chào hai thầy quyền!
- Mời ông lại cùng hút cho vui.
- Chúa miễn cho. Tôi vừa hút xong.
Miron Grigorievich bắt tay hai chàng
Cô- dắc, bỏ chiếc mũ đỉnh đỏ có tai và mảng che gáy xuống, vuốt những món tóc
hoa râm dựng đứng trên đầu, mỉm cười.
- Anh em trung đoàn ngự lâm lại chơi
có việc gì thế?
Khristonhia nhìn chủ nhà một lượt từ
đầu đến chân, không trả lời ngay, mà cứ thè cái lưỡi to tướng, ráp như lưỡi bò
ra liếm tờ giấy cho đẫm nước bọt, cuốn xong điếu thuốc anh chàng mới trả lời ồm
ồm:
- Chúng tôi đến tìm Mitka, có chút
việc.
Cụ Grisaka lệt sệt bước qua, tay giơ
ra mang những vòng gỗ của cái lưới Kotliarov và Khristonhia ngả mũ chào cụ. Cụ
mang các thứ lên thềm rồi lại bước ra.
- Các anh làm sao thế, lính với
tráng gì mà cứ ru rú xó nhà như vậy? Chỉ hú hí với vợ cho ấm có phải không? -
Ông cụ hỏi các chàng Cô- dắc.
- Nhưng có chuyện gì thế cụ? -
Khristonhia hỏi.
- Thối anh câm cái mồm đi,
Khristonhia? Chẳng nhẽ anh cũng không biết hay sao?
- Thật đấy, cháu có biết gì đâu? -
Khristonhia thề sống thề chết - Có cây thánh giá đây, cháu chẳng biết gì đâu cụ
ạ.
- Hôm nọ có một gã từ Voronez tới
đây, là lái buôn, người quen của thằng Mokhov hay họ hàng thân thích với nó,
lão cũng chẳng biết. Nó đến đây nói rằng có một đạo quân không phải của người
mình đến đóng ở Trekova: chính là bọn Bolsevich đấy. Quân Nga đến gây chiến
tranh với chúng ta mà các anh cứ nằm lì ở nhà hay sao? Cả mày nữa, cái thằng bỏ
đi nầy. Mày có nghe thấy không, Mitka? Sao mày cứ câm như hến thế hử? Các anh
nghĩ ngợi những gì hử?
- Nhưng chúng cháu chẳng nghĩ ngợi
gì đâu cụ ạ. - Kotliarov mlm cười.
- Các anh chẳng nghĩ gì cả, tai hoạ
chính là ở chỗ ấy đấy! - Cụ Grisaka khùng lên. - Các anh sẽ bị chúng nó quơ vào
lưới như người ta bắt gà gô cho mà xem! Bọn mu- gích sẽ kéo đến, các anh sẽ bị
tràn ngập, sẽ bị quạng vào mõm cho mà xem.
Miron Grigorievich mỉm cười, vẻ dè
dặt. Khristonhia đưa tay lên xoa má làm những sợi râu cứng như rễ tre, đã lâu
không cạo, kêu ràn rạt. Kotliarov vừa hút thuốc vừa đưa mắt nhìn Mitka. Trong
cặp mắt xanh lè của nó, hai cái đồng tử hẹp và đứng như của loài mèo loé lên
những tia bừng bừng: không thể biết được hai con mắt ấy cười hay đang để lộ một
nỗi căm hờn chưa nguôi.
Kotliarov và Khristonhia nói thêm
vài câu, chào như sắp sửa ra về rồi gọi Mitka ra cửa hàng rào:
- Tại sao tối qua cậu không đến họp?
- Kotliarov hỏi giọng nghiêm khắc.
- Không có thì giờ.
- Nhưng lại vẫn có thì giờ đến nhà
Melekhov?
Mitka hất đầu, cho chiếc mũ lông cừu
chạy ra trước trán và cố giấu vẻ tức tối nói:
- Không đến là không đến, có thế
thôi. Có chuyện gì để chúng ta nói với nhau thế?
- Trong thôn tất cả các anh em ở
ngoài mặt trận về đều đã đến. Thằng Petro nhà Melekhov không có mặt. Cậu có
biết không… mọi người đã quyết định cử đại biểu của thôn ta lên Kamenskaia.
Trên ấy đến mồng mười tháng Giêng sẽ họp đại hội đại biểu các binh sĩ ở mặt
trận về. Mọi người đã gắp thăm, ba chúng mình đã được cử đi: mình, Khristonhia
và cậu.
- Mình không đi. - Mitka tuyên bố
dứt khoát.
- Cậu làm sao thế? - Khristonhia cau
mày nắm lấy một cái khuy trên chiếc áo quân phục cổ chui của Mitka. - Cậu bỏ
anh em à? Không ăn cánh với anh em à?
- Nó đi theo thằng Petro nhà
Melekhov. - Kotliarov kéo tay áo ca- pôt của Khristonhia, mặt anh rõ ràng tái
đi - Thôi, ta đi đi. Xem ra chẳng còn ở đây làm gì nữa. Cậu không đi phải
không, Mitka?
- Không… Đã nói không là không.
- Thôi chào cậu! - Khristonhia
nghiêng đầu chào.
- Chúc mọi sự tốt lành?
Mitka đưa mắt ra chỗ khác, chìa cho
Khristonhia một bàn tay nóng hổi rồi bước vào trong nhà.
- Thằng chó đẻ! - Kotliarov khẽ nói,
cánh mũi run run. - Cái thằng chó đẻ! - Anh nhắc lại to hơn và nhìn theo cái
lưng cánh phản của Mitka lúc nầy đã đi xa.
Trên đường về, hai người báo cho một
gã cựu chiến binh biết rằng Mitka từ chối không đi họp và ngày mai hai người sẽ
cùng lên đường đi dự đại hội.
Rạng ngày mồng tám tháng Giêng
Khristonhia và Kotliarov ra khỏi thôn. Gã Yakov "Móng lừa" tự nguyện
đánh xe đưa hai người đi. Cặp ngựa rất tốt thắng hai bên cái càng giữa rảo bước
chạy ra ngoài thôn rồi leo lên gò. Trời trở ấm làm con đường bị bóc trần. Ở
những chỗ tuyết tróc ra, đòn trượt dính xuống đất, chiếc xe tiến được một đoạn
lại dừng lại, hai con ngựa phải vươn mình kéo dây thắng.
Ba chàng Cô- dắc đi sau chiếc xe
trượt tuyết. Không khí ban mai hơi băng giá làm mặt "Móng lừa" đỏ rực
lên, đôi ủng của hắn nghiến ràn rạt trên lớp băng dội tiếng. Trên khuôn mặt đỏ
bừng của hắn, chỉ riêng vết sẹo hình bầu dục là xám ngoét như thây người chết.
Khristonhia đi bên cạnh đường leo
lên dốc, chân dẫm trên những đám tuyết to hạt đã lún. Phổi anh chàng hít không
khí và cứ kêu phù phù như tiếng kéo bễ, vì năm 1916 có lần Khristonhia đã trúng
hơi ngạt của quân Đức ở gần Davno.
Gió hoành hành thoả thích trên ngọn
gò. Lên đến đây thì lạnh hơn. Ba chàng Cô- dắc vẫn ngậm tăm, Kotliarov giấu kín
mặt trong cổ áo lông. Cánh rừng nhỏ ở đằng xa mỗi lúc một gần. Con đường xuyên
qua cánh rừng ấy, leo lên đến đường sống đồi. Trên ấy có nhiều nấm kurgan. Gió
trong rừng rì rào như gạc hươu, những tảng vẩy của vỏ cây với những đường nét
rắc rối, chỗ vàng chỗ xanh, nom cứ như rỉ. Xa xa không biết chỗ nào có con chim
ác là kêu ríu rít. Nó bay vút qua đường, cái đuôi ngoắt chéo sang bên. Bị cuốn
theo chiều gió, nó nghiêng mình bay vun vút, chỉ loáng thấy đám lông lốm đốm.
Từ lúc ở trong thôn ra, "Móng
lừa" cứ im như thóc. Mãi sau hắn mới quay nhìn Kotliarov, nói tách bạch
từng tiếng (có lẽ hắn đã nhẩm sẵn trong óc câu nói lâu lắm rồi):
- Lên tới đại đội, các cậu phải cố
làm thế nào cho đừng có chiến tranh. Sẽ chẳng có thằng nào muốn đánh nhau đâu.
- Tất nhiên là thế rồi - Khristonhia
đồng ý. Anh chàng vừa nói vừa nhìn con ác là tự do bay lượn bằng cặp mắt ghen
tị, và cứ thầm so sánh cuộc đời hạnh phúc không vẩn chút lo âu của con chim với
cuộc sống đời con người.
Ba người đến Kamenskaia ngày mồng
mười tháng Giêng lúc trời sắp tối.
Từng toán Cô- dắc đi theo các phố
vào trung tâm cái trấn lớn. Quang cảnh có vẻ náo nhiệt hẳn lên. Kotliarov và
Khristonhia tìm thấy chỗ Grigori Melekhov ở, nhưng được biết rằng chàng không
có nhà. Chủ nhà, một người đàn bà béo núng nính, lông mày trắng phếch, cho biết
người khách thuê phòng đã đi dự đại hội.
- Nhưng đại hội ở chỗ nào chứ? -
Khristonhia hỏi.
- Có lẽ ở nhà hội đồng Khu hay là
nhà dây thép gì đó. - Chủ nhà vừa trả lời vừa thản nhiên đóng sập cửa trước mũi
Khristonhia.
Đại hội đang họp tới lúc sôi nổi
nhất. Căn phòng rộng thênh thang có rất nhiều cửa sổ vẫn không chứa nổi số đại
biểu. Một số Cô- dắc đứng tụm túm trên thang gác, trong các phòng bên cạnh.
- Bám sát mình nhá, - Khristonhia
nói è è trong họng, đưa hai khuỷu tay hích mọi người để len lên.
Kotliarov xông vào cái khe nhỏ mà
Khristonhia để lại sau lưng.
Khi đã gần đến cửa căn phòng dùng
làm phòng họp, Khristonhia bị một gã Cô- dắc ngăn lại. Nghe giọng nói, anh
chàng nầy đúng là dân vùng dưới.
- Xô đẩy vừa vừa chứ, cái con cá
diếc nầy 1 - Hắn nói giọng châm chọc.
- Buông tay ra, có buông ra không?
- Đứng lại ở đây thôi? Giương mắt ra
mà xem, có còn chỗ nào nữa đâu!
- Lánh ra ngay, đồ muỗi nhắt, nếu
không đây chỉ cho một cái móng tay là đủ biết thân. Đây sẽ dẫm bẹp dí cho mà
xem? - Khristonhia doạ như thế rồi hơi kiễng chân, đẩy gã Cô- dắc nhỏ bé ra,
tiến lên trước.
- Chà con gấu khổng lồ.
- Thằng lính trung đoàn Atamansky
nầy khoẻ khiếp!
- Lấy nó làm cái xe thồ thì tốt lắm!
Chở được một khẩu pháo bốn điu- im 2 đấy!
Bọn Cô- dắc đứng chen chúc như đàn
cừu mỉm cười nhìn Khristonhia với một vẻ kính nể bất đắc dĩ, vì Khristonhia cao
hơn họ hẳn một đầu.
Hai người len đến bức tường cuối
phòng thì tìm thấy Grigori.
Chàng ngồi xổm hút thuốc và đang nói
chuyện với anh chàng Cô- dắc nào đó, đại biểu của trung đoàn 35. Grigori nhìn
thấy hai ông bạn cùng thôn, hai chòm ria chảy xễ đen như lông quạ rung rung
trong nét cười.
- Chà… làn gió nào đưa hai bạn đến
đây thế nầy? Chào anh, anh Kotliarov! Có khoẻ không, bác Khristonhia nhà tôi!
- Khoẻ lắm, nhưng xem ra không hơn
được con bò giống đâu, - Khristonhia cười đưa bàn tay rộng đến nửa ác- sin ra
nắm gọn lỏn cả bàn tay của Grigori:
- Gia đình nhà tôi ở quê ta như thế
nào?
- Ơn chúa cũng khá. Có gửi lời hỏi
thăm đấy. Ông cụ nhà cậu có nhắn cậu về thăm nhà đấy.
- Anh Petro mình như thế nào?
- Petro ấy à… - Kotliarov mỉm nụ
cười ngượng nghịu. - Petro không đi lại với anh em chúng mình nữa rồi.
- Mình có bìết. Thế còn Natalia? Và
hai đứa con của mình nữa. Các bạn có trông thấy chúng nó không?
- Tất cả đều khoẻ mạnh, đều gửi lời
hỏi thăm cậu. Còn ông cụ nhà cậu thì giận…
Khristonhia ngoái cổ nhìn đoàn chủ
tịch ngồi ở một cái bàn. Dù đứng ở phía sau, anh chàng vẫn nhìn được rõ hơn tất
cả mọi người.
Grigori lợi dụng những phút nghỉ họp
ngắn ngủi để hỏi han thêm.
Trong khi kể cho chàng nghe về thôn
xóm, về những việc xảy ra trong thôn, Kotliarov thuật lại ngắn gọn cuộc họp của
các anh em ở ngoài mặt trận về đã cử anh và Khristonhia đến đây. Anh đã bắt đầu
hỏi xem ở Kamenskaia có những việc gì xảy ra và tình hình như thế nào, nhưng
giữa lúc đó có người ngồi ở bàn tuyên bố:
- Thưa anh em đồng hương, bây giờ vị
đại biểu của anh em công nhân hầm mỏ sẽ lên phát biểu ý kiến. Đề nghị mọi người
chú ý lắng nghe và giữ trật tự.
Một người tầm thước vuốt lại bộ tóc
đỏ lòm chải ngược ra sau, bắt đầu nói. Những tiếng nhao nhao như ong vỡ tổ lập
tức lắng đi, như bị cắt đứt.
Anh ta nói sôi nổi, bừng bừng nhiệt
tình, và mới nghe mấy câu đầu Grigori cũng như tất cả những người khác đều cảm
thấy ngay sức mạnh trong niềm tin tưởng của arih ta. Anh ta nói về chính sách
phản bội của Kaledin, một chính sách xúi giục dân Cô- dắc chống lại giai cấp
công nhân và nông dân Nga, về thống nhất lợi ích giữa dân Cô- dắc và giai cấp
công nhân, về các mục đích mà người Bolsevich theo đuổi trong khi tiến hành
cuộc đấu tranh chống các lực lượng phản cách mạng trong dân Cô- dắc.
- Chúng tôi chìa bàn tay anh em bắt
tay người lao động Cô- dắc và mong rằng trong cuộc chiến đấu chống bè lũ Bạch
vệ, chúng tôi sẽ tìm thấy những đồng minh đáng tin cậy trong anh em Cô- dắc ở
mặt trận về. Trên các mặt trận trong cuộc chiến tranh của vua Nga, những người
công nhân và Cô- dắc đã cùng phải đổ máu, và trong cuộc chiến tranh chống bọn
trọc phú tư sản, được Kaledin nuôi dưỡng, chúng ta phải cùng sát cánh với nhau
và sẽ sát cánh bên nhau! Tay nắm chặt tay, chúng ta sẽ cùng chiến đấu chống
những kẻ đã nô dịch nhân dân lao động bao nhiêu thế kỷ nay! - Anh ta gầm lên
như tiếng kèn đồng.
- Quân cho- o- ó đẻ! Diệt hết nòi
chúng nó đi! - Khristonhia cao hứng khẽ nói và nắm lấy khuỷu tay Grigori mạnh
quá làm chàng nhăn mặt.
Kotliarov he hé miệng lắng nghe.
Tinh thần anh quá căng thẳng nên hai con mắt cứ nháy liên hồi. Anh lẩm bẩm:
- Đúng lắm. Đúng là như thế đấy!
Sau khi người đại biểu ấy nói xong,
một anh chàng thợ mỏ cao lêu đêu vừa nói vừa ngật ngưỡng như cây tần bì trước
gió. Anh ta đứng lên, dướn thẳng lưng như người có thể gập lại mở ra, nhìn khắp
hàng trăm cạp mắt của đám người, và chờ rất lâu cho những tiếng ồn ào lắng đi.
Chàng thợ mỏ nầy y như một đoạn chão buộc thuyền, người những đốt là đốt, chắc
nịch, khô đét, lại có một ánh xanh lá cây như rắc sulfat đồng. Các lỗ chân lông
trên mặt anh ta bị những bụi than nhỏ li ti két vào đen sì, không thể nào rửa
sạch. Hai con mắt màu vàng nhạt, mất sắc vì bao năm sống trong bóng tối dưới
những lớp đất đen ngòm, nom cũng ảm đạm như ánh than đá.
Anh ta vung hai cánh tay đầy lông
ngắn như để bổ những nhát cuốc, hai nắm tay nắm chắc lại.
- Đứa nào đem án tử hình áp dụng đối
với anh em binh sĩ ngoài mặt trận? Kornilov! Đứa nào cùng với Kaledin đè nén,
áp bức chúng ta? Cũng nó? - Anh nói mỗi lúc một nhanh, không phải là nói mà là
gào lên - Thưa bà con Cô- dắc! Các anh em! Các anh em! Vậy thì anh em sẽ sát
cánh với ai? Thằng Kaledin đang muốn chúng ta uống máu những người anh em của
mình? Không được! Không được? Nó sẽ không làm nổi cái trò ấy đâu! Chúng ta sẽ
dẫm chết nó, cho nó về chầu Chúa, cho nó xuống âm ti địa ngục! Cái loại hút máu
ấy chúng ta sẽ quăng tuốt xuống biển!
- Quân cho- o- ó đẻ! Khristonhia vỗ
hai tay vào nhau đánh đét, miệng há hốc. Đầu tiên anh chàng chỉ mỉm cười, nhưng
sau không nhịn được nữa, phá lên cười khồ khồ - Đu- ú- úng lắm! Đánh hộc máu
chúng nó ra?
- Có im cái mồm đi không?
Khristonhia, cậu làm sao thế? Họ tống cổ cậu ra bây giờ! - Kotliarov hoảng lên.
Laguchin càng làm cho tinh thần các
binh sĩ Cô- dắc cháy bừng bừng với những lời tâm huyết, không mạch lạc lắm,
nhưng sống động, rất trúng đích. Anh chàng Cô- dắc trấn Bukanovskaia nầy làm
chủ tịch thứ nhất ban quản lý Cô- dắc trong Ban chấp hành Xô viết trung ương
toàn Nga khoá thứ hai. Rồi Pochenkov, người chủ toạ cuộc họp lên phát biểu,
tiếp theo là Sadelko, một anh chàng đẹp trai, ria tỉa theo kiểu ăng lê.
Anh chàng nào thế? Khristonhia giơ
cánh tay dài như cán cào ra hỏi Grigori.
Sadelko, tay chỉ huy của bọn
Bolsevich.
- Còn cậu kia.
- Manđenstam.
- Dân ở đâu thế?
- Moskva.
- Còn kia là những ai? - Khristonhia
chỉ nhóm đại biểu của đại hội vùng Voronez.
- Cậu hãy ngơi cái miệng một chút,
Khristonhia.
- Lạy chúa tôi, không hiểu sao mình
muốn biết quá! Cậu hãy bảo cho mình biết, cái anh chàng ngồi bên cạnh
Pochenkov, người dài ngoẵng ấy, hắn là ai thế?
- Krivoslykov người trấn Elanskaia
thôn Gorbatov. Mấy cậu ngồi đằng sau Krivoslykov là anh em vùng ta đấy:
Gudinov, Doneskkov Cho mình hỏi thêm nhé… Thế cậu kia… không phải đâu! Ngồi cái
cuối cùng, có cái bờm tóc xoã ấy?
- Eliseeev mình không biết là dân
trấn nào.
Khristonhia hỏi đã thoả bèn ngồi im
không nói gì nữa để lắng nghe một người khác lên phát biểu rồi lại là người đầu
tiên át tiếng hàng trăm người khác bằng cái giọng trầm hạng thấp nhất của anh
ta "Đúng lă- ă- ắm!"
Sau Stekhin, một anh chàng Cô- dắc
Bolsevich, thì đến lượt đại biểu của trung đoàn 44. Anh chàng nầy nói cứ ngắc
ra với những câu không trơn tru, suy nghĩ cực nhọc. Nói được một lời, như đóng
một cái dấu nung vào không khí, rồi lại ngừng lời, hỉ mũi. Nhưng các đại biểu
Cô- dắc đều lắng nghe anh ta với một thái độ rất đồng tình, chỉ lâu lâu mới
ngắt lời bằng những tiếng hô tán thành. Rõ ràng những lời anh ta nói đã gây một
tiếng vang sống động trong lòng họ.
- Thưa anh em! Đại hội đại biểu của
chúng ta phải đi vào giải quyết một vấn đề quan trọng là làm thế nào cho nhân
dân khỏi bị xúc phạm và mọi việc đều chấm dứt bình an vô sự? - Anh ta è è như
người nói lắp. - Tôi muốn nói rằng đã có chiến tranh đẫm máu. Chúng ta đã sống
dở chết dở trong chiến hào ba năm rưỡi trời, và nếu còn phải đánh nhau lần nữa
dân Cô- dắc sẽ chết hết…
- Đúng đá- â- ấy?
- Chí lý lắm!
- Chúng ta không muốn chiến tranh?
- Cần phải đàm phán với cánh
Bolsevich cũng như với Cơ- rúc quân khu?
- Chúng ta cần đi theo con đường hoà
bình, chứ không dùng phương pháp nào khác cả? Chẳng có gì phải bàn cãi quẩn
quanh?
Pochenkov đấm mạnh nắm tay xuống bàn
làm những tiếng la thét lắng cả xuống. Đại biểu trung đoàn 44 lại vuốt chòm râu
để như người Sibiri, kéo dài giọng:
- Chúng ta cần phải cử một số anh em
mình trong đại hội đại biểu đi Novocherkask yêu cầu quân tình nguyện cùng mọi
thứ quân du kích ra khỏi nơi đây. Còn người Bolsevich thì họ cũng chẳng có việc
gì phải làm trong vùng chúng ta. Tự chúng ta sẽ giải qụyết với các kẻ thù của
nhân dân lao động. Hiện nay chúng ta không cần đến sự giúp đỡ của người khác.
Bao giờ cần đến chúng ta sẽ tới yêu cầu họ giúp đỡ sau.
- Nói như thế không xong đâu!
- Đúng lă- ă- ắm!
- Hượm đã nào? Hượm đã nào! Thế nào
là "đúng mới được chứ? Trong lúc mình còn đứng chưa vững chân, chúng nó
xiết chặt vòng vây quanh chúng ta, rồi đến lúc ấy mới đi cầu cứu phải không?
Không được đâu, chờ được mạ thì má đã sưng 3.
- Phải lập nên chính quyền của mình
mới được!
- Gà mẹ đã vào ổ rồi mà trứng còn
chưa biết để đâu… Lạy chúa tôi! Người đâu mà ngu khổ ngu sở!
Đại biểu trung đoàn 44 nói xong,
Laguchin đưa ra những lời kêu gọi sôi nổi. Có những tiếng kêu cắt đứt lời anh.
Có người đề nghị chỉ mười phút, nhưng vừa lấy lại được yên lặng thì Pochenkov
tung những lời dưới đây vào giữa đám người đang sôỉ sục:
- Anh em Cô- dắc! Trong lúc chúng ta
hội họp ở đây, những kẻ thù của nhân dân lao động không ngủ đâu. Chúng ta cứ
muốn sói cũng no mà cừu cũng toàn vẹn, nhưng Kaledin hắn lại không nghĩ như
thế. Chúng ta đã có được bản mệnh lệnh của hắn, sai bắt giữ tất cả các đại biểu
tới dự đại hội nầy. Bản mệnh lệnh nầy sẽ được đọc ngay cho mọi người nghe.
Sau khi văn bản mệnh lệnh của
Kaledin về việc bắt giữ các đại biểu dự đại hội được đọc xong, tinh thần xao
xuyến lập tức truyền lan qua từng toán đại biểu như một làn sóng. Những tiếng
ầm ầm dội lên to gấp trăm lần bất kỳ cuộc họp nào của trấn.
- Phải có hành động cụ thể mới được,
không thể chỉ nói suông?
- Yên lă- ă- ặng! Suỵt!
Bây giờ thì "yên lặng" cái
gì? Phải tiêu diệt chúng nó đi!
- Lobob? Lobob? Cậu nói với anh em
vài lời đi?
- Chúng ta hãy chờ một lát!
- Kaledin, nó không phải là một
thằng ngốc đâu!
Grigori chẳng nói chẳng rằng, chỉ
vểnh tai lắng nghe. Chàng nhìn dám đại biểu, nhìn những cái đầu ngả nghiêng và
những cánh tay vung lên loạn xạ, rồi cuối cùng không nhịn được nữa, phải kiễng
chân gào lên:
- Có im đi không nào, bọn quỷ dữ!
Các anh đến đây họp chợ hay sao thế nầy? Để cho Pochenkov nói đã?
Kotliarov cứ bám lấy một gã đại biểu
của trung đoàn 8 để tranh cãi. Khristonhia bị một anh chàng cùng đơn vị công
kích bèn gầm lên cãi lại:
- Trong chuyện nầy thì phải tỉnh táo
đề phòng mới được? Cậu nói nhăng nói cuội với mình cái gì thế hả? Đồ ngốc? Thôi
nầy, anh bạn thân mến ơi! Thuốc lá chúng ta trồng lấy hút tốt chán, việc chúng
ta, chúng ta lo!
Bỗng nhiên những tiếng gào thét inh
tai nhức óc lắng hẳn đi, cứ như có cơn gió thổi rạp làn sóng lúa lao xao. Tiếng
hô the thé như tiếng con gái của Krivoslykov xuyên như một mũi khoan qua bầu
không khí ngay từ lúc chưa hoàn toàn yên lặng.
- Đả đảo Kaledin? Uỷ ban quân sự
cách mạng Cô- dắc muôn năm!
Đám người cũng gầm lên. Những tiếng
hô đồng tình vang rền như sấm, xoắn lại với nhau, nặng nề quất vun vút vào tai
như những ngọn roi. Krivoslykov vẫn đứng yên với một bàn tay giơ cao, những
ngón tay anh khẽ rung rung như những cái lá đầu cành. Những tiếng la thét ầm ĩ
vừa lắng hết, Krivoslykov kêu lớn, vẫn cái giọng the thé, rất to, như con sói
bị vây bắt:
- Tôi đề nghị bầu lấy trong số chúng
ta một Uỷ ban quân sự cách mạng Cô- dắc? Trao cho Uỷ ban đó nhiệm vụ tiến hành
cuộc đấu tranh với Kaledin và tổ…
- Ha- a- a- a- a! - Những tiếng hô
nổ ra như những trái đạn pháo. Thạch cao trát trên trần rơi xuống lả tả như
những mảnh đạn.
Mọi người bắt đầu bầu các uỷ viên
của Uỷ ban quân sự cách mạng. Một số không đáng kể, đứng đầu là gã đại biểu
trung đoàn 14 vừa phát biểu cùng vài người khác, tiếp tục đòi kiên trì dùng con
đường hoà bình để giải quyết cuộc xung đột với chính quyền quân khu, nhưng đa
số những người có mặt trong đại hội không còn ủng hộ họ nữa. Sau khi đọc bản
mệnh lệnh chứng thực Kaledin muốn bắt giữ mình, các đại biểu Cô- dắc đã nổi
nóng, khăng khăng đòi phải tích cực chống lại chính quyền Novocherkask.
Grigori bị gọi cấp tốc lên trung
đoàn bộ, không nán lại được tới khi bầu cử xong. Lúc rời khỏi đại hội, chàng
dặn Khristonhia và Kotliarov:
- Các việc xong xuôi thì hai bạn lại
nhà mình nhé? Mình rất muốn biết có những ai được bầu làm uỷ viên.
Đến đêm Kotliarov mới quay về. Vừa
bước tới ngưỡng cửa, anh đã cho biết:
- Pochenkov chủ tịch, Krivoslykov
thư ký!
- Còn các uỷ viên?
- Tham gia Uỷ ban có cả Laguchin,
Ivan và Golovatrep, Minaev, Kudinov ngoài ra còn vài người khác nữa.
- Thế Khristonhia đâu rồi? - Grigori
hỏi.
- Cậu ấy cùng một số anh em Cô- dắc
đi bắt bọn cầm quyền ở Kamenskaia. Cô- dắc gì mà nóng như lửa, nước bọt nhổ vào
cậu ấy là cháy xèo xèo. Của nợ!
Trời rạng Khristonhia mới về. Anh
chàng thở như kéo bễ giờ lâu rồi vừa cởi ủng cởi tất, vừa lầu bầu không biết
những gì. Grigori châm đèn, thấy khuôn mặt đỏ tía của Khristonhia vấy máu, và
phía trên trán có vết đạn sướt.
- Đứa nào bắn cậu thế? Băng lại nhá!
Mình sẽ băng ngay cho cậu cậu chờ một lát, mình tìm thấy băng ngay đây! -
Grigori nhảy phắt trên giường xuống, tìm vải ga và băng.
- Sẽ khỏi ngay thôi, cũng như vết
thương trên một con chó ấy mà, Khristonhia làu bàu - Thằng chỉ huy quân sự làm
mình toạc da với khẩu Nagan của nó đấy. Người ta đi cửa tiền vào nhà nó như
những vị khách mà nó lại chống cự. Nó còn bắn bị thương một cậu nữa. Mình đã
muốn moi linh hồn nó ra xem cái linh hồn của bọn sĩ quan nó như thế nào, nhưng
anh em đã không để cho mình làm như thế, nếu không mình đã nắn thử nó… sờ nắn
nó đến nơi đến chốn rồi!
--- ------ ------ ------ -------
1 Biệt hiệu
của dân Đông Thượng (ND).
2 80 ly.
3 Nguyên
văn: "Chờ được bánh chín thì bà lão đã chết ngỏm rồi"
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 98
Đại hội đại biểu những người Cô- dắc
ở mặt trận trở về họp ở trấn Kamenskaia tuyên bố chuyển chính quyền sang tay Uỷ
ban quân sự cách mạng. Sau khi nhận được tin nầy, Lenin đã nói trên đài phát
thanh: ở vùng sông Đông bốn mươi sáu trung đoàn Cô- dắc đã tuyên bố thành lập
chính quyền mới và chiến đấu chống lại Kaledin.
Anh em Cô- dắc ở mặt trận về đã cử
đại biểu lên Petrograd dự Đại hội đại biểu các Xô viết toàn nước Nga. Lenin đã
tiếp họ tại điện Smolnyi.
"Các đồng chí hãy quét khỏi mặt
đất kẻ thù của nhân dân, các đồng chí hãy tống cổ Kaledin khỏi
Novocherkask". - Đại hội đại biểu các Xô viết toàn nước Nga đã kêu gọi dân
Cô- dắc.
Đại hội đại biểu vừa họp ở trấn
Kamenskaia hôm trước thì hôm sau, theo lệnh Kaledin, trung đoàn Cô- dắc sông
Đông số 10 kéo đến trấn nầy để bắt giữ tất cả các đại biểu tham gia đại hội và
tước vũ khí các đơn vị Cô- dắc có tinh thần cách mạng nhất.
Lúc ấy ngoài ga đang có một cuộc mít
tinh. Những người Cô- dắc kéo đến đông như kiến, tinh thần sôi sục, với những
thái độ phản ứng khác nhau trước lời phát biểu của diễn giả.
Pochenkov bước lên diễn đàn và nói:
- Kính thưa các cụ bô lão, thưa anh
em, tôi chưa từng ghi tên vào một đảng phái nào nên không là một người
Bolsevich. Tôi chỉ nhằm một mục đích là công bằng và hạnh phúc, là sự liên hiệp
trong tình anh em giữa tất cả những người lao động để không có một sự áp bức
nào nữa, để tuyệt nòi những tên kulak 1 tư sản và tài chủ, để tất cả mọi người
đều được sống tự do, không có gì trói buộc… Những người Bolsevich cũng nhằm mục
đích ấy và đang đấu tranh để đạt tới mục đích ấy. Người Bolsevich là công nhân,
tức là những người lao động, cũng như bà con Cô- dắc chúng ta. Chỉ có điều là
người công nhân Bolsevich giác ngộ hơn chúng ta: chúng ta bị giam giữ trong
cảnh tối tăm dốt nát, còn họ thì ở thành phố nên được hiểu biết nhiều hơn về
cuộc đời. Vì thế tôi cũng là một người Bolsevich, tuy chưa ghi tên vào đảng
Bolsevich.
Trung đoàn vừa xuống tầu cũng tới dự
mít tinh. Nửa số binh sĩ trung đoàn nầy là quân nhân cũ của trung đoàn
Gundorov, họ đứng xen với binh sĩ Cô- dắc thuộc các trung đoàn khác. Vốn được
tuyển trong số những người đặc biệt to lớn, họ đều ăn vận chải chuốt, và tinh
thần của họ lập tức chuyển biến hẳn. Khi tên trung đoàn trưởng ra lệnh chấp
hành chỉ thị của Kaledin, binh sĩ Cô- dắc từ chối không tuân theo. Họ bắt đầu có
tư tưởng bất mãn do sự tuyên truyền vận động tích cực của những người ủng hộ
Bolsevich.
Trong khi đó thị trấn Kamenskaia như
lên cơn sốt rét với cái không khí xao xuyến sôi sục thường thấy ở những nơi nằm
sát mặt trận. Những chi đội Cô- dắc tổ chức vội vã được điều đi chiếm giữ các
nhà ga và bám trụ ở những nơi đã chiếm được. Thỉnh thoảng lại có đoàn tàu nhà
binh chuyển bánh về hướng Zrorevo- Likhaya.
Trong các đơn vị đang tiến hành việc
bầu lại các cán bộ chỉ huy. Những người Cô- dắc không muốn tham gia chiến tranh
thì lén lút rời khỏi Kamenskaia. Đại biểu của các thôn trấn đến họp muộn vẫn
tiếp tục kéo đến. Trên các đường phố có sự di lại nhộn nhịp khác thường.
Ngày mười ba tháng Giêng, đoàn đại
biểu của chính quyền Trắng vùng sông Đông đến Kamenskaia để đàm phán, thành
phần gồm có chủ tịch Cơ- rúc quân khu Agieev, các uỷ viên Cơ- rúc: Svetozarov,
Ulanov, Kariev, Bezelov và tên trung tá Kusnarev.
Một đám người đông nghịt đón đoàn
đại biểu ở nhà ga. Một đội bảo vệ gồm những anh chàng Cô- dắc trước kia thuộc
trung đoàn ngự lâm Atamansky hộ tống bọn người mới đến tới toà nhà của sở bưu
điện. Suốt đêm hôm ấy Uỷ ban quân sự cách mạng họp cùng với đoàn đại biểu chính
quyền vừa tới.
Uỷ ban quân sự cách mạng có mười bảy
người đến dự. Agieev phát biểu ý kiến, kết tội Uỷ ban quân sự cách mạng là phản
bội vùng sông Đông và thoả hiệp với người Bolsevich, Pochenkov và người đầu
tiên trả lời hắn với những ý kiến vặn lại rất gay gắt. Sau đó Krivoslykov là
Laguchin cũng đứng lên nói. Lời phát biểu của tên trung tá Cô- dắc Kusnarev
nhiều lần bị cắt đứt bởi những tiếng hô của những binh sĩ đứng chật trong hành
lang. Một xạ thủ súng máy nhân danh các binh sĩ Cô- dắc theo cách mạng yêu cầu
bắt giữ đoàn đại biểu.
Cuộc đàm phán không đem lại kết quả
gì cả. Mãi gần hai giờ đêm, khi bắt đầu thấy rõ là hai bên không thể nào đi tới
thoả hiệp, mọi người đã chấp thuận kiến nghị của tên uỷ viên Cơ- rúc quân khu
Kariev là một đoàn đại biểu của Uỷ ban quân sự cách mạng sẽ tới Novocherkask để
giải quyết dứt đoạn vấn đề chính quyền.
Sau khi đoàn đại biểu của chính
quyền sông Đông đi rồi, một đoàn đại biểu của Uỷ ban quân sự cách mạng do
Pochenkov dẫn đầu cũng lên đường đi Novocherkask. Qua bỏ phiếu chung, đoàn đại
biểu gồm có: Pochenkov, Kudinov, Krivoslykov, Laguchin, Scatkov, Golovachev và
Minaev. Giữ làm con tin đã có một số sĩ quan trung đoàn Atamansky bị bắt ở
Kamenskaia.
--- ------ ------ ------ -------
1 Phú nông
(có nơi lại gọi là địa chủ).
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 99
Bão tuyết hoành hành bên ngoài cửa
sổ toa xe. Nhìn qua phía trên những tấm bảng tín hiệu chôn xiên xẹo thành một
dãy hàng rào. Mặt trên các đống tuyết nhấp nhô nham nhở, in đầy những vết chân
chim nom đến là kỳ dị.
Những nhà ga xép, những cột dây thép
lui dần về phía bắc cũng như toàn bộ cánh đồng cỏ vô biên vô tận, nom rờn rợn
trong cái vẻ đơn điệu bốn bề tuyết phủ.
Pochenkov ngồi ngay bên cửa sổ, anh
mặc một chiếc áo da mới tinh, Krivoslykov chống khuỷu tay trên chiếc bàn nhỏ,
ngồi trước mặt Pochenkov, đăm đăm nhìn ra cửa sổ. Anh hẹp vai, người mảnh khảnh
như một cậu thiếu nỉên, cặp mắt trong sáng như mắt con nít lúc nào cũng có vẻ
lo lắng chờ đợi. Laguchin cầm một cái lược nhỏ chải mượt bộ râu ngô thưa thớt.
Chàng Cô- dắc khổng lồ Mỉnaev hơ hai bàn tay trên cái ống dẫn hơi nước của
thiết bị sưởi ấm, chốc chốc lại ngọ nguậy trên ghế dài. Golovachev và Scatkov
nằm tầng giường trên thì thầm với nhau không biết chuyện gì.
Toa xe lành lạnh, hơi mù khói. Mọi
người trong đoàn đại biểu đều không cảm thấy mình hoàn toàn vững tâm trong
chuyến đi Novocherkask lần nầy. Những câu chuyện cứ rời rạc không ăn khớp với
nhau. Không khí chết lặng đến là khó chịu. Tầu đã chạy qua ga Likhaya,
Pochenkov nói lên ý nghĩ chung của mọi người.
- Sẽ chẳng được việc gì đâu. Ý kiến
hai bên thống nhất làm sao được?
- Đi lần nầy cũng đến công toi -
Laguchin đồng ý.
Rồi mọi người lại lặng đi giờ lâu,
Pochenkov ngoáy ngoáy bàn tay rất đều, nom cứ như người luồn cái thoi qua những
mắt lưới. Thỉnh thoảng anh lại đưa mắt nhìn xuống, ngắm nghía cái ánh bềnh bệch
của chiếc áo da anh mặc.
Tầu chạy đã đến gần Novocherkask.
Minaev nhìn trên bản đồ con đường sông Đông chạy ra khỏi thành phố, rồi khẽ kể:
- Trước kia, anh em Cô- dắc đi lính
ở trung đoàn Atamansky, đến khi mãn hạn thì được đưa về nhà bằng xe lửa. Anh em
đưa lên tầu hòm xiểng các đồ tư và ngựa. Đoàn tầu nhà binh chuyển bánh và đến
khi chạy gần đến Voroubez, chỗ sắp vượt qua sông Đông lần đầu thì các tay lái
tầu bao giờ cũng cho tầu chạy chậm lại, hết sức chậm… vì họ đã biết có chuyện
gì sắp xảy ra. Tàu vừa bắt đầu leo lên cầu thì cha mẹ ơi, các cậu có biết
không? Đúng là anh chàng nào cũng như hoá điên hoá ngộ. "Sông Đông? Sông
Đông của chúng ta! Người nuôi sống anh em ta! Hur- r- ra- a- a- a- a!".
Thế là mũ cát két, áo capôt cũ, quần đi ngựa, ra cửa sổ xuống sông qua dãy hành
lang hai bên cầu. Mãn hạn lính trở về thì cũng phải có quà tặng sông Đông chứ?
Nhìn xuống nước thì cứ thấy toàn là những chiếc mũ cát- két của lính Atamansky
trôi bập bềnh như những con thiên nga hay những đoá hoa… tập quán ấy đã được
truyền lại từ lâu lắm rồi.
Đoàn tầu chạy chậm dán rồi dừng
bánh. Các đại biểu Cô- dắc đứng dậy, Krivoslykov vừa thắt dây lưng ra ngoài áo
ca- pôt vừa cười gằn:
- Bây giờ bọn mình cũng về nhà đây?
- Không hiểu tại sao họ không mang bánh mì và muối ra đón! 1 - Scatkov thử pha
trò.
Một tên đại uý Cô- dắc cao lớn không
gõ cửa, hùng hổ bước vào ngăn toa xe. Hắn toát nhìn khắp lượt các đoàn viên của
đoàn đại biểu bằng cặp mắt soi móc đầy căm hờn rồi cố ý nói giọng thật thô bạo:
- Tôi được trao nhiệm vụ hộ tống các
ngài. Các ngài Bolsevich, các ngài làm ơn mau ra khỏi toa xe đi. Tôi không đảm
bảo về phía dân chúng và… về sự an toàn của các ngài đâu.
Hai con mắt hắn dừng lại lâu nhất
trên người Pochenkov trên chiếc áo sĩ quan của anh thì đúng hơn. Rồi hắn ra
lệnh bằng một giọng cố nhấn mạnh tính chất thù địch:
- Ra khỏi toa xe, nhanh lên!
- Chúng nó đây rồi, cái lũ đê tiện,
những lên phản bội dân Cô- dắc - Một tên sĩ quan có hàng ria rất dài kêu lên từ
chỗ sân ga người đông nghịt.
Pochenkov tái mặt liếc nhìn
Krivoslykov, cặp mắt liêng liếng của anh hơi có ánh hốt hoảng. Krivoslykov
xuống xe theo sau Pochenkov, mỉm cười khẽ nói:
- Chúng ta nghe thấy những âm thanh
của sự đồng tình ủng hộ không phải trong những lời tán tụng ngọt ngào dậy sấm,
mà trong những tiếng kêu gào căm hờn man rợ… Cậu có nghe thấy không, Fedor?
Pochenkov không nghe rõ mấy tiếng
cuối cùng, nhưng anh vẫn mỉm cười.
Một đội hộ tống mạnh, toàn sĩ quan,
đi theo đoàn đại biểu. Đám người như hoá rồ cùng ùa theo đến nhà hội đồng quân
khu. Tất cả đều chỉ muốn tự ý đem các đại biểu ra hành tội. Không riêng sĩ quan
và học sinh sĩ quan, mà cả một số đàn ông Cô- dắc, một số người đàn bà ăn vận
đứng đắn và học sinh cũng ngang ngược làm nhục đoàn đại biểu.
- Tại sao các ngài lại để cho họ bậy
bạ như thế? - Laguchin phẫn nộ nói với tên sĩ quan hộ tống.
Tên kia toát nhìn khắp người
Laguchin, cặp mắt đầy vẻ căm thù, rồi hắn lầu bầu:
- Mày hãy cảm ơn Chúa là còn giữ
được cái thân xác… Nếu tao có quyền hành trong tay thì tao sẽ cho mày… đồ bẩn
thỉu, đồ… đồ chó chết.
Ánh mắt có ý chê trách của một tên
khác, trẻ hơn, đã ngăn hắn lại.
- Thôi, thế là mắc bẫy rồi nhá! -
Scatkov chờ đúng lúc có thể nói bèn khẽ bảo Golovachev.
- Cứ như bị chúng nó giải đi hành
quyết ấy.
Gian phòng lớn của nhà hội đồng quân
khu không chứa hết số người kéo đến. Theo sự hướng dẫn của một tên trung uý phụ
trách việc sắp xếp các đại biểu vừa tới đến ngồi vào một bên của một chiếc bàn,
trong khi đó bọn uỷ viên của chính quyền cũng vừa tới.
Kaledin bước vào với cái lưng hơi gù
gù. Chân hắn bước rắn rỏi, như chân chó sói, khi đi cả bàn chân cùng đặt bẹp
xuống đất. Đi kèm với hắn có Bogaevsky. Kaledin kéo ghế ngồi xuống rồi thản
nhiên đặt lên bàn cái mũ cát- két màu cứt ngựa trên đó hiện lên trăng trắng cái
phù hiệu của sĩ quan. Hắn vuốt tóc rồi vừa đưa tay trái lên cài khuy cái túi
bên rất to của chiếc áo quân phục cổ đứng, vừa ngả người về phía Bogaevsky,
nghe thằng cha nầy nói không biết những gì Mỗi cử động của Kaledin đều chậm
rãi, bệ vệ, đầy tự tin, biểu lộ cả một sức mạnh đang lúc sung sức nhất. Phong
độ của những kẻ đã từng nắm quyền lực thường là như thế. Qua bao nhiêu năm họ
đã hình thành được cho mình một tư thái, một cách ngửng đầu, một dáng đi đặc
biệt, khác hẳn người thường. Giữa hắn và Pochenkov có nhiều điểm giống nhau.
Nhưng ngồi cạnh một kẻ oai phong lầm lẫm như Kaledin, Bogaevsky kém nước hẳn
đi. Nom lão rất thảm hại và như đang xao xuyến trước cuộc đàm phán sắp phải
tiến hành.
Bogaevsky vẫn nói không biết những
gì, môi lão lắp bắp rất khẽ dưới hàng ria sùm sụp mái hiên, chải xễ và đỏ như
râu ngô. Cặp mắt xếch sắc ngọt của lão long lanh sau cái kính kẹp mùi. Thần
kinh lão đang hoảng loạn. Điều đó biểu hiện rõ trong mọi cử chỉ lúc lão sửa lại
cổ áo hoặc xoa cái cằm cương nghị với bàn tay đưa lươn lướt, chập chững, lúc
hắn rung rung hai hàng lông mày như hai cánh chim vươn rộng trên hai cái hố con
mắt rất to.
Kaledin ngồi chính giữa, những tên
uỷ viên khác trong chính quyền khu ngồi hai bên. Trong số đó có vài tên đã tới
Kamenskaia: Kariev, Svetozarov. Ulanov, Agieev, Elatonchev, Melnikov, Boseê,
Sotnikov, Poliakov ngồi xa một chút.
Pochenkov nghe thấy Bogaevsky thì
thầm nói gì không biết với Kaledin.
Tên nầy nheo mắt loáng nhìn
Pochenkov ngồi trước mặt rồi nói:
- Tôi thấy bắt đầu được rồi đấy.
Pochenkov mỉm cười, dõng dạc trình
bày mục đích chuyến đi của đoàn đại biểu. Krivoslykov vươn tay qua bàn đưa ra
bức tối hậu thư như Uỷ ban quân sự cách mạng đã soạn trước. Nhưng Kaledin đưa
bàn tay trắng bệch gạn tờ giấy và nói giọng rắn rỏi:
- Không cần để từng uỷ viên Chính
phủ xem riêng tài liệu nầy. Mất thì giờ như thế chẳng có ý nghĩa gì cả. Ngài
làm ơn đọc to tối hậu thư của các ngài. Sau đó chúng ta sẽ bàn.
- Cậu đọc đi, - Pochenkov ra lệnh.
Pochenkov ăn nói đứng ngồi rất oai
vệ, nhưng cũng như tất cả các uỷ viên khác trong đoàn đại biểu, rõ ràng anh không
hoàn toàn tự tin. Krivoslykov đứng dậy. Cái giọng vang vang the thé như giọng
con gái nhưng không rành rọt của anh bắt đầu chập chờn trong căn phòng đông
nghịt.
"Từ ngày mồng 10 tháng Giêng
năm 1918, toàn bộ quyền chỉ huy các đơn vị quân đội và quyền tiến lành các hoạt
động chiến đấu trong Tỉnh quân khu sông Đông được chuyển từ tay ataman quân khu
sang Uỷ ban quân sự cách mạng Cô- dắc sông Đông.
Tất cả các chi đội đang hoạt động
chống lại các đơn vị cách mạng đều phải triệt hồi từ ngày 15 tháng Giêng năm
nay và sẽ bị tước vũ khí cũng như các chi đội tình nguyện, các trường Yunke và
trường sĩ quan cấp uỷ. Tất cả những người tham gia các tổ chức đó, nếu trước
kia không sống ở vùng sông Đông, đều bị trục xuất ra khỏi địa hạt Quân khu sông
Đông và cho về nguyên quán.
Chú thích: Các vũ khí, trang bị và
quân trang phải trao cho một uỷ viên của Uỷ ban quân sự cách mạng. Giấy phép ra
khỏi Novocherkask do nội uỷ viên Uỷ ban quân sự cách mạng cấp.
Thành phố Novocherkask phải do những
trung đoàn Cô- dắc được Uỷ ban quân sự cách mạng chỉ định đóng giữ.
Các uỷ viên trong Cơ- rúc Quân khu
không còn có quyền hành nữa kể từ ngày 15 tháng Giêng năm nay.
Triệt hồi tất cả các lực lượng cảnh
sát do chính quyền quân khu phái tới các vùng mỏ và các nhà máy trong khu vực sông
Đông.
Công bố trong toàn Quân khu sông
Đông cho các trấn và các thôn biết về việc chính quyền quân khu tự nguyện từ bỏ
quyền lực của mình vì mục đích tránh đổ máu và về việc lập tức chuyển giao
chính quyền của Uỷ ban quân sự cách mạng Cô- dắc quân khu, trước khi thành lập
trong quân khu chính quyền lao động chính thực của toàn thể nhân dân".
Krivoslykov vừa dứt lời, Kaledin đã
lớn tiếng hỏi:
- Có những đơn vị nào uỷ quyền cho
các ngài?
Pochenkov đưa mắt cho Krivoslykov
rồi bắt đầu kể như tự mình tính lại cho mình nghe:
- Trung đoàn Ngự lâm Atamansky,
trung đoàn Ngự lâm Kadatri, đại đội pháo số sáu, trung đoàn Bốn mươi tư, đại
đội pháo Ba mươi hai, hai đội độc lập Mười bốn… - Anh vừa đếm vừa ấn những ngói
tay xuống bàn tay trái. Trong phòng có tiếng xì xào và tiếng cười mỉa mai.
Pochenkov cau mày đặt hai bàn tay đầy lông đỏ lên bàn, cất cao giọng:
- Trung đoàn Hai mươi tám, đại đội
pháo Mười hai, trung đoàn Mười hai…
- Trung đoàn Hai mươi chín, -
Laguchin khẽ nhắc.
- Trung đoàn Hai mươi chín, - Pochenkov
kể tiếp, giọng lúc nầy đã vững vàng hơn và to hơn. - Đại đội pháo Mười ba, đội
cảnh bị địa phương Kamenskaia, trung đoàn Mười, trung đoàn Hai mươi bảy, tiểu
đoàn khinh binh số hai, trung đoàn dự bị số hai, trung đoàn Tám, trung đoàn
Mười bốn.
Sau vài câu hỏi chẳng có nghĩa lý và
vài ý kiến trao đổi ngắn ngủi. Kaledin tì ngực lên cạnh bàn, nhìn chằm chằm vào
Pochenkov và hỏi:
- Các ngài có công nhận chính quyền
của Xô viết các uỷ viên nhân dân không?
Pochenkov uống cạn cốc nước, đặt lại
bình nước lên khay, đưa tay áo lên chùi ria rồi tránh trả lời thẳng:
- Chỉ toàn thể nhân dân mới có thể
nói điều đó.
Krivoslykov sợ Pochenkov thực thà
quá nói lỡ lời bèn phát biểu:
- Người Cô- dắc không thể chịu đựng
một tổ chức trong đó có những đại biểu của "Đảng tự do nhân dân" 2
Chúng tôi là người Cô- dắc, nên chính quyền vùng chúng tôi phải là của chúng
tôi, của người Cô- dắc.
- Làm thế nào hiểu được các ngài một
khi đứng đầu Xô viết lại có bọn Bolsevich cùng những kẻ tương tự như họ?
- Nước Nga đã tín nhiệm họ thì chúng
tôi cũng tín nhiệm họ?
- Sau nầy các ngài có đặt quan hệ
với họ không?
- Có.
Pochenkov "Hừm" một tiếng
ra vẻ đồng ý rồi ủng hộ Krivoslykov:
- Chúng tôi không nhìn vào những cá
nhân, chúng tôi nhìn vào tư tưởng.
Một tên uỷ viên chính quyền quân khu
hỏi một câu ngây ngô:
- Xô viết các uỷ viên nhân dân có
làm việc vì lợi ích của nhân dân hay không?
Pochenkov đưa mắt nhìn hắn có vẻ
thăm dò. Anh mỉm cười, với lấy cái bình, rót nước và uống cạn cốc nước một cách
thèm khát. Anh đang khát khổ khát sở, nên có vẻ như muốn đổ chất nước trong vắt
lên ngọn lửa rất to cháy bỏng trong lòng mình.
Kaledin khẽ gõ những ngón tay lên
bàn, dò hỏi:
- Các ngài có những điểm gì chung
giống với người Bolsevich.
- Chúng tôi muốn lập nên ở quê nhà,
ở quân khu sông Động một chính quyền tự trị của người Cô- dắc.
- Phải, nhưng có lẽ các ngài cũng
biết rằng ngày mồng bốn tháng Hai nầy sẽ triệu tập Cơ- rúc quân khu. Các uỷ
viên Cơ- rúc sẽ được bầu lại. Các ngài có tán thành hai bên kiểm soát lẫn nhau
không?
- Không! - Pochenkov đang cúi nhìn
xuống, chợt ngước mắt lên trả lời kiên quyết - Vì các ngài là thiểu số cho nên
chúng tôi bắt các ngài phải phục tùng ý muốn của chúng tôi.
- Nhưng như thế là cưỡng bức!
- Phải!
Bogaevsky chuyển tầm mắt từ chỗ
Pochenkov sang Krivoslykov, hỏi:
- Các ngài có công nhận Cơ- rúc quân
khu không?
- Còn chờ xem tình hình ra sao đã? -
Pochenkov nhún cặp vai rất rộng. - Uỷ ban quân sự cách mạng quân khu sẽ triệu
tập đại hội đại biểu nhân dân. Đại hội sẽ làm việc dưới sự kiểm soát của tất cả
các đơn vị quân đội. Nếu đại hội không làm chúng tôi thoả mãn, chúng tôi sẽ
không công nhận đại hội.
- Vậy thì ai sẽ là trọng tài? -
Kaledin giương cao hai hàng lông mày.
- Nhân dân! - Pochenkov kiêu hãnh
ngửng đầu ra sau, cái áo da sát vào chỗ ghế trạm trổ kêu loạt soạt.
Cuộc đàm phán tạm nghỉ vài phút, sau
đó Kaledin bắt đầu nói.
Mọi tiếng động trong phòng đều lắng
đi, và cái giọng trầm đục như bầu trời mùa thu của tên ataman vang lên rành rọt
trong bầu không khí lặng lờ.
- Chính phủ không thể chiều theo yêu
cầu của Uỷ ban quân sự cách mạng mà từ chức được. Một Chính phủ chân chính đã
được toàn thể nhân dân vùng sông Đông bầu ra và chỉ Chính phủ đó, chứ không
phải một số đơn vị riêng lẻ, có thể yêu cầu tôi từ bỏ chức quyền. Các ngài chịu
ảnh hưởng của sự tuyên truyền tội ác của bọn Bolsevich, những kẻ muốn quân khu
phục tùng trật tự của chúng, nên các ngài chỉ là công cụ mù quáng trong tay bọn
Bolsevich. Các ngài đang thực hiện ý muốn của những kẻ làm đầy tớ cho quân Đức
mà không nhận thấy trách nhiệm tày đình mà mình phải gánh trước toàn thể đồng
bào Cô- dắc. Tôi khuyên các ngài nên nghĩ cho kỹ vì các ngài đang đem lại một
tai hoạ chưa từng thấy cho quê hương thân yêu sau khi đi theo con đường xa rời
Chính phủ, một Chính phủ phản ánh ý chí của toàn thể nhân dân. Tôi cũng chẳng
tham quyền cố vị làm gì. Cơ- rúc lớn của quân khu sắp được triệu tập, Cơ- rúc
sẽ quyết định vận mệnh của biên khu. Nhưng cho tới khi Cơ- rúc được triệu tập
tôi vẫn phải ở lại cương vị mình. Lần cuối cùng tôi khuyên các ngài hãy tỉnh
ngộ.
Sau Kaledin đến lượt vài tên uỷ viên
Chính phủ thuộc những đơn vị Cô- dắc và đơn vị ở nơi khác đến lên phát biểu ý
kiến. Tên Đảng viên Đảng xã hội cách mạng Bose dội lên đầu các uỷ viên Uỷ ban
quân sự cách mạng một bài phát biểu tràng giang đại hải trong đó xen lẫn những
lời kêu gọi đường mật.
Laguchin quát lên ngắt lời hắn:
- Yêu sách của chúng tôi là các ngài
hãy chuyển giao chính quyền cho Uỷ ban quân sự cách mạng. Nếu Chính phủ quân
khu chủ trương giải quyết vấn đề một cách hoà bình thì chẳng cần phải chờ đợi
làm gì nữa.
Bogaevsky mỉm cười:
- Như vậy nghĩa là làm sao?
- Phải công bố cho toàn thể nhân dân
biết rằng chính quyền đã được chuyển giao cho Uỷ ban quân sự cách mạng. Chờ hai
tuần lễ nữa, đến khi cái Cơ- rúc của các ngài được triệu tập thì không thể
được! Nhân dân đã phẫn nộ lên đến cổ rồi.
Kariev lúng búng mãi một chuỗi những
lời không đâu, Svetozarov thì cố tìm ra một phương án thoả hiệp không sao thực
hiện được.
Nghe chúng nói, Pochenkov tức sôi
lên. Anh đưa nhanh mắt nhìn anh em một lượt. Thấy Laguchin nhăn nhó, mặt tái
đi, Krivoslyukov thì dán mắt xuống mặt bàn, còn Golovachev thì như nóng lòng
muốn nói câu gì. Krivoslykov chờ đúng lúc bèn khẽ bảo: "Cậu nói đi".
Pochenkov tựa như chỉ chờ câu nói
đó. Anh đẩy chiếc ghế dựa ra sau, nói bằng một giọng gắng gượng, cảm động quá
đâm ra lắp bắp, vừa nói vừa cố tìm những lời thuyết phục thật nặng đồng cân,
đập tan được luận điệu của đối phương.
- Các ngài nói không đúng chút nào
cả? Nếu chính quyền quân khu được tín nhiệm thì tôi sẽ vui lòng rút lui các yêu
sách của tôi ngay… nhưng nhân dân có tín nhiệm đâu! Kẻ gây ra nội chiến không
phải là chúng tôi, mà là các ngài! Tại sao các ngài lại cho những tên lưu vong
đủ mọi kiểu đến nương náu trên đất Cô- dắc? Chính vì thế người Bolsevich mới
đến chiến đấu trên sông Đông êm đềm của chúng ta. Tôi không chịu khuất phục các
ngài đâu? Tôi không cho phép làm như thế đâu! Người ta sẽ phải dẫm qua xác tôi!
Chúng tôi đem những sự thật ra cho các ngài thấy đấy? Những biện pháp gì đang
được áp dụng đối với các đơn vị muốn phục tùng các ngà? À, tình hình là như thế
đấy! Các ngài tung những tên quân tình nguyện của các ngài đi trấn áp những
người thợ mỏ làm gì? Làm như thế các ngài chỉ đem điều ác đi reo rắc khắp các
nơi? Các ngài hãy nói cho tôi hay: ai đảm bảo được rằng Chính phủ quân khu sẽ
đứng ngoài nội chiến? Các ngài không thể nào giấu được đâu. Còn nhân dân và anh
em Cô- dắc ở mặt trận về thì đều đứng về phía chúng tôi!
Tiếng cười lan ra trong phòng như
tiến gió xào xạc. Vẳng có những tiếng hô phản đối Pochenkov. Pochenkov quay
khuôn mặt đổ bừng về phía đó quát lên, không cần che giấu niềm phẫn nộ và chua
xót của mình nữa.
- Bây giờ các người cứ cười đi,
nhưng rồi sau sẽ được khóc! - Anh nói xong quay lại nhìn Kaledin ánh mắt tóe ra
như đạn ghém - Chúng tôi yêu cầu chuyển giao chính quyền cho chúng tôi là những
người đại biểu của nhân dân lao động, và tống cổ hết bọn tư sản cùng quân đội
tình nguyện đi! Cả cái Chính phủ của ngài cũng phải cút đi!
Kaledin cúi đầu xuống, cứ chỉ đầy vẻ
mệt mỏi.
- Tôi không có ý định rời khỏi
Novocherkask và sẽ không bỏ đi đâu.
Sau một thời gian nghỉ ngắn ngủi,
buổi họp lại tiếp tục với lời phát biểu sôi nổi của Melnikov:
- Các chi đội Xích vệ đang đột nhập
vào vùng sông Đông để tiêu diệt người Cô- dắc! Chúng đang làm cho nước Nga bị
diệt vong với cái thể chế điên cuồng rồ dại của chúng và nay đang muốn đưa quân
khu chúng ta đến chỗ diệt vong nốt. Lịch sử chưa từng thấy có trường hợp nào
một nhóm lưu manh mạo hiểm mạo danh có thể quản lý đất nước một cách sáng suốt
và đem lại lợi ích cho nhân dân. Nước Nga sẽ mở mắt ra và sẽ tống cổ cái bọn
khố rách áo ôm ấy đi! Thế mà các ngài lại mù quáng trước sự cuồng ngộ của chúng
nó, lại muốn đoạt lấy chính quyền trong tay chúng tôi để mở rộng cửa rước lấy
bọn Bolsevich vào nhà? Không thể được?
- Các ngài hãy chuyển giao chính
quyền cho Uỷ ban quân sự cách mạng, Xích vệ sẽ đình chỉ ngay cuộc tấn công… -
Pochenkov nói xen vào.
Được Kaledin cho phép, tên thượng uý
Sein từ trong đám công chúng bước ra. Hắn vốn là một tên lính trơn leo lên đế
cấp thượng uý và đã được thưởng tất cả bốn hạng huân chương thánh Gioóc. Hắn
sửa lại các nếp áo quân phục như sắp sửa tham gia duyệt binh, rồi lập tức tuôn
ra một tràng:
- Các ngài đồng hương, các ngài nghe
bọn nầy làm gì? - Hắn kêu lên, giọng cao như ra lệnh, bàn tay chém xuống như
lưỡi gươm. - Chúng ta không đi cùng được với bọn Bolsevich? Chỉ những kẻ phản
bội sông Đông, phản bội đồng bào Cô- dắc mới có thể mở miệng đòi trao chính
quyền cho Xô viết và kêu gọi người Cô- dắc đi theo Bolsevich? - Rồi hắn ngả hẳn
người về phía trước, chỉ thẳng vào Pochenkov và quát lên với anh - Pochenkov,
chẳng nhẽ ngài nghĩ rằng sông Đông sẽ đi theo ngài, đi theo một thằng Cô- dắc
ngu dốt vô học hay sao? Nếu có kẻ nào đi theo thì cũng chỉ là một nhóm Cô- dắc
vô liêm sỉ, mất gốc! Nhưng anh bạn ơi, rồi chúng nó cũng sẽ tỉnh ngộ và treo cổ
anh lên thôi.
Đám đầu người trong phòng bắt đầu
ngật ngưỡng như những đoá hướng dương dưới gió. Rào rào có những tiếng hô đồng
tình. Sein ngồi xuống, một tên sĩ quan cao lớn đeo lon trưng tá, mặc chiếc áo
lông ngắn xếp nếp, từ phía sau vỗ vai hắn tỏ ý tán thành. Một nhóm sĩ quan đứng
chen chúc gần đấy. Một giọng đàn bà như điên như ngộ gào lên quàng quạc với một
vẻ hết sức cảm động.
- Cám ơn, Sein! Cám ơn!
- Hoan hô đại uý Sein! Hết sức hoan hô! - một gã đi xem
hát chuyên ngồi "chuồng gà" tự nhiên phong thêm cho tên thượng uý
Sein một cấp, giọng gã trầm nhưng non choẹt như tiếng con gà giò, nghe cứ như
giọng một học sinh trung học.
Giờ lâu vài tên hùng biện liếm gót chính quyền sông Đông
còn cố làm mê muội đầu óc mấy ngài Cô- dắc uỷ viên Uỷ ban quân sự cách mạng mới
được bầu ra ở Kamenskaia. Không khí trong phòng xanh xanh xám xám, mù mịt những
khói, ngột ngạt. Bên ngoài mấy khung cửa sổ, mặt trời đã đi hết chặng đường ngày
hôm đó. Những cành tùng đẫm sương muối vươn sát tới những vuông kính cửa sổ.
Những người ngồi trên các bậu cửa sổ đã nghe thấy tiếng
chuông nhà thờ báo giờ nguyện kinh chiều và qua tiếng gió rít có những tiếng
còi xe lửa rúc khàn khàn.
Laguchin không nhịn được nữa. Anh ngắt lời một diễn giả
của chính quyền quân khu và nói với Kaledin:
- Ngài giải quyết vấn đề đi thôi, đã đến lúc kết thúc rồi
đây!
Bogaevsky nói khe khẽ, trêu tức Laguchin:
- Ngài đừng nên quá xúc động, ngài Laguchin! Có nước đây
nầy. Đối với một người làm chủ gia đình mà thể trạng dễ mắc chứng bại liệt thì
xúc động là điều tai hại lắm đấy. Hơn nữa dù sao ngài cũng không nên ngắt lời
một người đang phát biểu, mà đây có phải là một Xô viết đại biểu công nhân binh
sĩ nào đó đâu.
Laguchin cũng đập lại lão vài câu nhưng sự chú ý của mọi
người đã tập trung vào Kaledin. Tên nầy vẫn vững vàng chơi ván cờ chính trị như
từ đầu, nhưng vẫn cứ húc đầu phải những câu trả lời giản dị nhưng kín mít như
áo giáp của Pochenkov.
- Ngài nói rằng, nếu chúng tôi chuyển giao chính quyền
cho các ngài thì người Bolsevich sẽ đình chỉ cuộc tấn công của họ vào vùng sông
Đông. Nhưng đó chỉ là các ngài tưởng thế thôi. Còn chuyện quân Bolsevich tiến
tới sông Đông sẽ hành động như thế nào thì chúng tôi đâu có biết.
- Uỷ ban tin tưởng rằng người Bolsevich sẽ chứng thực lời
tôi nói. Ngài cứ thử mà xem, hãy trao chính quyền cho chúng tôi, hãy tống cổ
những tên quân tình nguyện ra khỏi vùng sông Đông, rồi ngài sẽ thấy người
Bolsevich chấm dứt chiến tranh ngay.
Một lúc sau, Kaledin đứng dậy. Câu trả lời của hắn đã
được chuẩn bị từ trước: Chernechev đã nhận được lệnh tập trung một chi đội để
tấn công vào nhà Likhaya. Nhưng Kaledin đã dùng kế hoãn binh và kết thúc cuộc
họp như sau để dành thêm thời gian:
- Chính phủ sông Đông sẽ thảo luận về kiến nghị của Uỷ
ban quân sự cách mạng và mười giờ sáng mai sẽ trả lời bằng giấy tờ.
--- ------ ------ ------ -------
1 Theo phong tục
người Nga, nếu có khách qúí đến thì đem bánh mì và muối ra đón (ND).
2
"Đảng tự do nhân dân " là tên gọi chính đảng phản cách mạng của bọn
dân chỗ lập hiến (Lời chú của bản tiếng Nga).
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 100
Sáng hôm sau Chính phủ sông Đông
trao cho đoàn đại biểu Uỷ ban quân sự cách mạng bản phúc đáp với nội dung sau:
"Sau khi thảo luận các yêu sách
của Uỷ ban quân sự cách mạng Cô- dắc mà đoàn đại biểu của Uỷ ban đã đưa ra nhân
danh các trung đoàn Atamansky, Ngự lâm Kazan, 44, 28, 29, các phân đội 10, 27,
23, 8, các trung đoàn dự bị số 2 và 43, đại đội độc lập 14, các đại đội pháo
Ngự lâm số 6, 32, 28, 12 và 13, tiểu đoàn khinh binh số 2 và đội cảnh bị địa
phương Kamenskaia, Chính phủ quân khu của quân khu sông Đông tuyên bố rằng
Chính phủ là đại diện của toàn thể nhân dân Cô- dắc trong Quân khu được toàn
thể nhân dân bầu ra nên Chính phủ không có quyền từ bỏ quyền năng của mình
trước khi triệu tập Cơ- rúc quân khu mới.
Chính phủ quân khu của Quân khu sông
Đông thừa nhận rằng cần phải giải tán thành phần trước kia của Cơ- rúc và tiến
hành bầu lại các đại biểu của các trấn cũng như của các đơn vị quân đội. Cơ-
rúc mới được toàn thể nhân dân Cô- dắc bầu ra một cách tự do (có toàn quyền tự
do cổ động) trên nguyên tắc trực tiếp, bình đẳng và bỏ phiếu kín, sẽ họp hội
nghị ở thành phố Novocherkask ngày mồng bốn tháng Hai (lịch cũ) năm nay, đồng
thời với đại hội đại biểu toàn thể dân chúng không phải là dân Cô- dắc. Chỉ có
Cơ- rúc, cơ quan hợp pháp được cách mạng lập lại, đại diện cho nhân dân Cô- dắc
trong khu mới có quyền giải tán Chính phủ Quân khu và bầu ra một Chính phủỉ
mới. Đồng thời, Cơ- rúc mới sẽ thảo luận vấn đề quản lý các đơn vị quân đội và
vấn đề sự tồn tại hay không tồn tại của các phân đội và các chi đội tình nguyện
đang bảo vệ chính quyền. Còn vấn đề sự thành lập và hoạt động của Tập đoàn quân
tình nguyện thì trước kia Chính phủ liên hiệp đã có quyết định đặt nó dưới sự
kiểm soát của Chính phủ với sự tham gia của Uỷ ban quân sự quân khu.
Về vấn đề triệu hồi các lực lượng
cảnh sát mà Chính phủ quân khu tựa hồ đã phái đến khu mỏ, Chính phủ tuyên bố
rằng vấn đề lực lượng cảnh sát sẽ được đề ra cho Cơ- rúc giải quyết ngày mồng
bốn tháng Hai.
Chính phủ tuyên bố rằng chỉ có dân
chúng địa phương mới có quyền tham gia tổ chức đời sống của địa phương, vì thế
Chính phủ cho rằng để thuc hiện ý nguyện của Cơ- rúc, cần phải dùng mọi phương
sách để đấu tranh chống lại sự xâm nhập vào quân khu của các chi đội vũ trang
Bolsevich, các chi đội nầy đang cố đem trật tự của chúng áp đặt vào quân khu.
Chính nhân dân phải sắp xếp lấy đời sống của mình, và chỉ tự tay mình thôi.
Chính phủ không muốn có nội chiến và
đang dùng mọi biện pháp để chấm dứt vấn đề bằng đường lối hoà bình, vì thế đề
nghị Uỷ ban quân sự cách mạng tham gia đoàn đại biểu đi đàm phán với các chi
đội Bolsevich.
Chính phủ cho rằng nếu quân đội ở
các noí khác không xâm nhập vào địa giới Quân khu thì sẽ không có nội chiến, vì
Chính phủ chỉ bảo vệ lãnh thổ Quân khu, không có một hành động tấn công nào,
không bắt các vùng khác của nước Nga phải tuân theo ý muốn của mình, vì thế
cũng không muốn có kẻ nào bên ngoài cưỡng bức vùng sông Đông phải thân theo ý
muốn của họ.
Chính phủ đảm bảo quyền tự do hoàn
toàn cho các cuộc tuyển cử tại các trấn và các đơn vị quân đội. Mọi công dân
đều có quyền cổ động rộng rãi và bảo vệ quan điểm của mình trong các cuộc tuyển
cử nói trên vào Cơ- rúc Quân khu.
Để điều tra về ý nguyện của binh sĩ
Cô- dắc, trong tất cả các sư đoàn phải chỉ định ngay những Uỷ ban gồm có đại
biểu của các đơn vị.
Chính phủ quân khu của Quân khu sông
Đông đề nghị tất cả các đơn vị đã cử đại diện tới Uỷ ban quân sự cách mạng quay
trở về công tác bình thường để bảo vệ lãnh thổ vùng sông Đông.
Chính phủ sông Đông quyết không cho
phép các đơn vị sông Đông của mình chống lại Chính phủ và gây cuộc chiến tranh
nồi da nấu thịt trên sông Đông êm đềm.
Các đơn vị đã bầu ra Uỷ ban quân sự
cách mạng phải tuyên bố giải tán nó đi. Thay vào đó, các đơn vị phải cử các đại
diện của mình tới Uỷ ban quân sự quân khu là tổ chức sẵn có để đoàn kết tất cả
các đơn vị quân đội trong quân khu.
Chính phủ Quân khu yêu cần phải trả
lại ngay tự do cho tất cả những người đã bị Uỷ ban quân sự cách mạng bắt giữr,
và với mục đích lập lại đời sống bình thường trong Quân khu, các cơ quan hành
Chính phủ được khôi phục lại để chấp hành chức quyền của mình.
Vì chỉ đại diện cho một số không
đáng kể những đơn vị Cô- dắc cho nên Uỷ ban quân sự cách mạng không có quyền
đưa ra những yêu sách nhân danh tất cả các đơn vị, càng không thể nhân danh
toàn thể nhân dân Cô- dắc.
Chính phủ Quân khu cho rằng hoàn
toàn không thể cho phép Uỷ ban có quan hệ với Xô viết các uỷ viên nhân dân và
sử dụng tiền viện trợ của Xô viết, vì như thế có nghĩa là mở rộng ảnh hưởng của
Xô viết các uỷ viên nhân dân trong Quân khu sông Đông, trong khi Cơ- rúc Cô-
dắc và đại hội đại biểu dân chúng không phải là dân Cô- dắc toàn Quân khu đã
coi chính quyền Xô viết là không thể nào tiếp nhận được, cũng như các vùng
Ukraina, Sibir, Kavkaz cùng tất cả các quân khu Cô- dắc không trừ một quân khu
nào.
Chủ tịch Chính phủ Quân khu
Phó ataman Quân khu
M. Bogaevsky.
Các thủ tướng Quân khu sông Đông
Elatonchev, Poliakov, Melnikov.
Trong đoàn đại biểu mà Chính phủ
sông Đông cử đi Taranroc để đàm phán với các đại biểu của chính quyền Xô viết,
có cả hai uỷ viên của Uỷ ban quân sự cách mạng Kamenskaia là Laguchin và
Scatkov. Pochenkov và những người khác phải ở lại Novocherkask một thời gian.
Trong khi đó Chernekov đem một chi đội gồm vài trăm tay súng, có một đại đội
pháo hạng nặng bắn trên bệ và hai khẩu pháo nhẹ phối hợp, đã cố sống cố chết
tập kích chiếm hai nhà ga Zverovo và Likhaya. Sau đó hắn để lại đấy một đại đội
và hai khẩu pháo để bảo vệ sườn, còn chủ lực thì kéo cả đi tấn công Kamenskaia.
Sau khi bẻ gãy sức chống cự của các đơn vị Cô- dắc cách mạng ở gần nhà ga xép
Bắc Done, ngày mười bảy tháng Giêng hắn chiếm được Kamenskaia. Nhưng chỉ vài
giờ sau đã có tin các chi đội Xích vệ của Sablin đánh bật được lực lượng yểm hộ
mà Chernekov để lại ở Zverovo, ở Likhaya. Chernekov vội lao về hai nơi đó. Bằng
một đòn tấn công chính diện chớp nhoáng, hắn đánh bật được chi đội Moskva số 3,
làm cho chi đội Khakov tan nát tơi bời trong chiến đấu, và dồn các đơn vị Xích
vệ rút lui tán loạn về căn cứ xuất phát.
Sau khi ổn định được tình thế về
hướng Likhaya, Chernekov lấy lại được quyền chủ động lại quay về Kamenskaia.
Ngày mười chín tháng Giêng hắn nhận được tăng viện do Novocherkask phái đến.
Ngay hôm sau Chernechev hạ quyết tâm tấn công Glubokaia ngay.
Theo kiến nghị của tên trung uý
Linkov, hội nghị quân sự quyết định dùng chiến thuật vận động vu hồi để đánh
chiếm Glubokaia.
Chernekov không dám tấn công dọc
theo đường sắt vì sợ đi hướng đó sẽ vấp phải sức chống cự kiên cường của các
đơn vị thuộc Uỷ ban quân sự cách mạng Kamenskaia cùng các chi đội Xích vệ đang
tiến tới từ Cherkov.
Đến đêm thì cuộc vận động vu hồi
thọc sâu bắt đầu mở màn. Đội hình được sắp xếp lại thật rõ ràng, binh sĩ dàn
thành tuyến, tản khai.
Sau khi đã ra nốt những mệnh lệnh
cuối cùng Chernechev tụt trên ngựa xuống, vừa xoa bóp cặp giò tê dại, vừa khàn
khàn ra lệnh cho một tên đại đội trưởng.
- Nầy đại uý, không cần lịch sự
khách sáo gì nhé. Ngài hiểu ý tôi chứ?
Hắn dẫm loạt soạt đôi ủng trên lớp
tuyết đã đông cứng thành băng rồi hất lệch chiếc mũ lông cừu non màu trắng sang
bên, đưa găng tay lên sát cái tai hồng hồng. Mấy đêm mất ngủ đã in những đám
thâm quầng dưới hai con mắt sáng đầy vẻ liều lĩnh. Môi hắn nhăn nhúm vì lạnh.
Một đám sương muối long lanh trên hàng ria tỉa ngắn.
Sau khi đã làm cho nóng người, hắn
nhảy lên ngựa, sửa lại những nếp trên chiếc áo lông ngắn mầu cứt ngựa của sĩ
quan, rồi vừa gỡ dây cương trên mũi yên, vừa thúc con ngựa hồng xén bờm giống
Done, một nụ cười kiên quyết đầy tự tin nở trên môi:
- Nào thì bắt đầu!
Xem tiếp:
Xem tiếp:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét