Chương 53
GIẢI THOÁT VÀ TAI HỌA.
Thế là ông bạn Rawdon của chúng ta ngồi xe ngựa
về thẳng tòa nhà của ông Moss ở phố Cursitor; anh chàng bị mời ở lại chơi tại
một nơi không lấy gì làm lịch sự lắp. Trời đã tang tảng sáng lúc chiếc xe ngựa
lăn bánh kêu lọc cọc về đến cửa. Một thằng bé Do thái mắt toét, tóc đỏ quạnh
như râu ngô dẫn mọi người vào trong nhà. Ông Moss, người bạn đồng hành đồng
thời là ông chủ nhà mời Rawdon ngồi chơi ở tầng dưới, đoạn hỏi anh ta có muốn
uống chút gì cho ấm bụng không. Những kẻ khác phải rời bỏ toà nhà đồ sộ và cô
vợ xinh xắn của mình để đến nằm tại nhà giam như thế này, đố sao tránh khỏi sầu
não, nhưng viên trung tá thì cứ điềm nhiên như thường vì hình như anh ta đã có
dịp làm khách quý của ông Moss một đôi lần rồi thì phải. Trong những chương
trên, chúng tôi thấy cũng không cần phải nói tới những chuyện vặt ấy, nhưng xin
các bạn cứ yên trí rằng cuộc đời mỗi người sống không đồng xu lợi tức nào nhất
định phải gặp những chuyện tương tự.
Lần đầu tiên được làm quen với ông Moss, viên
trung tá còn chưa vợ; bà cô rộng rãi đã cứu anh ta ra khỏi nhà giam. Lần thứ
hai, thì Becky đã vận dụng tài ngoại giao khôn khéo vay được của bá tước
Southdown một món tiền, rồi tán tỉnh lão chủ nợ của chồng (tức là người đã bán
chịu cho anh ta khăn san, áo nhung, khăn tay rua, đồ trang sức v.v... ) khiến
lão này bằng lòng nhận tạm một phần tiền, còn phần nữa Rawdon làm văn tự xin
khất. Cả hai lần, Crawley được đối đãi tử tế lúc bị bắt cũng như lúc được thả
về, cho nên Moss với anh ta, hai bên trông thấy nhau vẫn vui vẻ lắm.
Ông Moss nói:
- Trung tá sẽ ngủ trong căn phòng ngày trước,
mọi sự sẽ xin chu đáo. Chỗ ấy thoáng sạch lắm, chỉ toàn những người lịch sự đến
ở. Đêm hôm kia, ngài đại uý Famish thuộc trung đoàn Ngự lâm thứ năm mươi cũng
ngủ ở đây. Bà nhân tình bắt ông ta nằm đây đúng nửa tháng mới đến chuộc, bảo
rằng muốn trừng trị ông ta cho bớt thói chơi bời. Nhưng mà lạy chúa, chính ông
ta đã trừng trị kho rượu sâm-banh của tôi mới chết chứ; đêm nào cũng tụ họp chè
chén thoả thích với những ông bạn từ khu West End đến thăm... đại uý Ragg này,
Deuceace tiên sinh này, cả mấy ông tướng khác nữa, tay nào cũng trạng rượu cả.
Hiện giờ tôi đang có một vị khách quý trên gác, là một vị tiến sĩ khoa thần
học; còn năm vị khác thì đang trong nhòng điểm tâm. Bà Moss nhà tôi vẫn thết
cơm khách vào hồi năm giờ rưỡi như mọi khi, sau đó có đánh bài, hoặc nghe chút
ít âm nhạc. Chúng tôi rất hận hạnh được trung tá xuống tham dự.
Rawdon đáp:
- Cần gì tôi sẽ rung chuông gọi.
Đoạn anh ta thản nhiên đi về phòng ngủ của mình.
Chúng ta đã biết Rawdon là một quân nhân lão luyện; những chuyện bực mình lặt
vặt ấy không đáng kể. Phải tay non ắt viết ngay thư gửi về cho vợ rồi, nhưng
Rawdon nghĩ: “Phá mất giấc ngủ ngon của Beccky làm quái gì vô ích. Becky có bao
giờ cần biết mình đi vắng hay ngủ ở nhà đâu. Cứ chờ cô ấy ngủ dậy, rồi viết thư
gửi về cũng không muộn; bây giờ hãy đánh một giấc cái đã. Chỉ có một trăm bảy
mươi đồng, xoay sở đâu chẳng ra mà lo”. Lúc ngả lưng xuống chiếc giường của đại
uý Famish, anh ta nhớ đến con trai rồi thiếp đi, (hẳn thằng bé không ngờ bố nó
lại ngủ ở một nơi kỳ quái thế này).
Mười giờ trưa Rawdon tỉnh dậy. Thằng bé tóc đỏ
mang lên cho anh ta một bộ đồ cạo mặt bằng bạc. Ngôi nhà của ông Moss tuy hơi
bẩn nhưng cũng khá lịch sự. Trong tủ búp-phê, thấy bày những chiếc khay bẩn và
những bình rượu ướp lạnh; trên tường nhiều chỗ đắp nổi quét vôi kim nhũ đầy bụi
bặm, có treo những tấm màn sa tanh vàng nhem nhuốc để che những ô cửa sổ có
chấn song sắt trông ra phố Cursitor; lại có nhiều bức tranh lồng khung, nước
thếp vàng đã tróc, vẽ cảnh săn bắn hoặc cầu nguyện; toàn là tác phẩm của các
hoạ sĩ nổi tiếng, đã bị mua đi bán lại nhiều lần trong những cuộc phát mại công
cộng giá đắt như vàng. Người ta dọn ăn cho viên trung tá trong những chiếc đĩa
rất đẹp mà cũng rất bẩn.
Cô Moss, một cô gái mắt đen láy, đính cặp uốn
tóc trên đầu, mang nước trà lên, mỉm cười hỏi thăm anh ta có ngủ ngon không. Cô
ta đưa cho Rawdon tờ “Tin tức buổi sáng”, có đăng tên đủ các vị tai mặt đến dự
buổi dạ hội do hầu tước Steyne tổ chức đêm vừa qua. Tờ báo có đăng một bài
phóng sự thật hay về chương trình buổi dạ hội, lại không ngớt tán dương sắc đẹp
của bà Rawdon Crawley tài hoa.
Cô Moss ghé ngồi ngay lên mép bàn ăn, dáng điệu
rất tự nhiên, vén váy để lộ cả bít tất và đôi giày sa tanh trắng cũ vẹt gót.
Rawdon tán chuyện với cô ta một lúc, rồi bảo
mang giấy bút lại.
Cô Moss đem giấy lên, hỏi anh ta cần mấy tờ rồi
cầm mấy tờ giữa ngón tay cái và ngón trỏ đưa cho anh ta. Cô gái mắt đen láy này
đã từng đưa vô số giấy cho người ta viết; vô số anh chàng đáng thương đã nguệch
ngoạc gạch những dòng chữ đầy những lời lẽ van lơn trên mặt giấy, và trong lúc
chờ đợi thư trả lời đã sốt ruột đi bách bộ trong gian phòng gớm ghiếc này.
Những người túng thiếu lại hay dùng người đưa thư mà không nhờ nhà bưu điện.
Nào ai là người chưa từng nhận những phong thư dấu xi còn dính chưa kịp khô,
vừa được biết rằng có người đang chờ dưới phòng khách?
Lúc này Rawdon đang bận viết thư, anh ta không
kịp nhớ đến những chuyện ngờ vực cũ.
Becky thân yêu,
Mong rằng đêm qua mình ngủ ngon giấc. Sáng nay
đừng thấy tôi không mang cà phê lên cho mình được mà lo ngại. Đêm qua, tôi đang
đi bộ về nhà vừa đi vừa hút thuốc lá thì gặp chuyện không may. Lão Moss ở phố
Cursitor tóm được tôi rồi. Tôi viết thư này cho mình trong căn phòng lộng lẫy
quét vôi kim nhũ của lão...lại vẫn câu chuyện cũ đã xảy ra hai năm về trước. Cô
Moss mang nước chà vào cho tôi... cô ta giạo này béo tợn, và vẫn đi dầy vẹt gót
như mọi khi. Tôi bị tóm vì truyện nợ tiền lão Nathan... một trăm năm mươi đồng...
thêm tiền phí tổn, tất cả là một trăm bảy mươi đồng. Gửi cho tôi cái ví và ít
quần áo để thay. Tôi vẫn còn đi dầy khiêu vũ nhẹ (giống như cô Moss)... Tôi có
bảy mươi đồng trong ví. Mình đánh xe lại chỗ lão Nathan, trả lão bảy mươi lăm
đồng, và xin ký văn tự khất thêm một hạn. Bảo lão bán thêm cho một tí rượu để
dùng trong bữa ăn... đừng có mua chanh làm gì đắt lắm. Nếu lão không chịu thì
mang chiếc đồng hồ của tôi và những thứ gì trong nhà không dùng đến bán lại cho
hiệu Balls.... thế nào tối nay cũng phải xoay bằng được tiền. Tôi không muốn ở
đây lâu đâu;. mai lại là chủ nhật rồi. Dường đệm ở đây bẩn lắm; mình ở đây lâu,
bọn chủ nợ khác cũng làm rầy rà thì nguy. May quá lại không đúng vào thứ bảy,
ngày Rawdy nghỉ học về thăm nhà. Cầu chúa che trở cho mình.
RAWDON CRAWLEY
T.B. Mình thu xếp mau mau lên và đến với tôi.
Thư viết xong, gắn xi, rồi nhờ một người đưa
tin lúc nào cũng sẵn sàng túc trực trong nhà ông Moss đưa đi hộ. Đoạn Rawdon ra
sân hút thuốc lá, tạm gọi là yên tâm một chút... tuy rằng trên đầu vẫn có chấn
song sắt; trong nhà ông Moss có chấn song sắt bao quanh bốn mặt và cả phía
trên, như một cái chuồng nhốt thú, có lẽ vì ông sợ các vị quý khách có ý định
chuồn mất chăng.
Rawdon tính rằng nhiều lắm là ba tiếng đồng hồ,
thế nào Becky cũng đến mở cửa nhà lao cho mình. Trong thời gian ấy, anh ta vui
vẻ hút thuốc lá, đọc báo, ngồi chơi trong phòng ăn với một ông bạn là đại uý
Walker cũng cùng cảnh với anh; hai người đánh bài cò con với nhau, nhì nhằng
không được không thua.
Ngày giờ cứ trôi qua, mà bằn bặt không thấy tin
tức gì...chẳng thấy mặt Becky đâu. Đúng năm giờ rưỡi chiều, bữa cơm thết khách
của nhà ông Moss dọn ra; quý khách nào có thể trả tiền cơm đều được mời dự. Bữa
ăn dọn trong gian phòng khách lộng lẫy đã tả ở trên, ăn thông với gian phòng
ngủ của Crawley. Cô Moss (ông bố gọi là cô Hem) cũng có mặt, nhưng không đính
cặp uốn tóc như ban sáng. Bà Moss mời khách dùng món thịt cừu nấu củ cải, viên
trung tá ăn rất ngon miệng. Mọi người hỏi Rawdon có bằng lòng “thả” một chai
sâm banh không, anh ta đồng ý; hai mẹ con bà Moss uống rượu mừng sức khoẻ của
anh ta; cô Moss lại liếc anh chàng một cái rất tình.
Đang ăn dở dang, thì có tiếng chuông gọi cửa...
thằng bé tóc đỏ con ông Moss vội cầm chìa khoá đứng dậy ra mở cửa; lát sau nó
trở vào báo rằng người đưa tin đã về, đem theo một cái ví, một cái bọc và một
lá thư. Bà Moss vẫy vẫy tay nói: “Xin mời trung tá cứ tự nhiên cho”. Rawdon bóc
vội thư hồi hộp đọc... lá thư thật đẹp, sức nước hoa thơm lừng, giấy màu hồng,
trên có đóng một con dấu màu xanh nhạt.
Mình thân yêu tội nghiệp của em ()
Suốt đêm qua, em không sao chợp được mắt lấy
một cái, vì không biết “ông tướng phải gió” gặp chuyện không may gì mà không về
nhà. Mãi sáng nay, cho đi gọi ông Blench đến thăm bệnh xong, em mới thiếp đi
gọi là được một tý. Em đang bị sốt. Bác sĩ cho em uống thuốc và dặn Finette
không được đánh thức em dậy bất cứ vì lý do gì. Thành ra cái thằng đưa tin mặt
mũi gớm ghiếc, sặc sụa hơi rượu - theo lời Finette kể lại - đành phải chờ đến
mấy tiếng đồng hồ. Mình thử tưởng tượng đọc lá thư viết sai chính tả của mình,
em lo lắng đến thế nào.
Em đang mệt bã người mà phải gọi sửa soạn xe
ngựa ngay. Em chẳng uống lấy được một giọt súc-cù-là nào gọi là có, vì không có
anh tự tay mang lên, em không sao nuốt trôi. Mặc áo xong, là em đánh xe chạy
như bay đến lão Nathan. Gặp lão, em khóc... em kêu…em quỳ xuống van xin. Thằng
cha quỷ quái lòng dạ như đá. Lão một mực bảo rằng nếu không trả đủ tiền thì
mình phải ngồi tù. Em trở về nhà định bụng thu xếp ít đồ vật mang đến hiệu cầm
đồ (tuy cũng chỉ được độ trăm đồng bảng là cùng, vì mình cũng biết đấy, em đã
phải bán đi ít nhiều rồi) thì gặp ngay hầu tước đưa lão quỷ mặt cừu người
Bungari lại chơi. Họ khen rối rít đêm qua em đóng kịch giỏi. Rồi đến
Paddington; hắn vừa chuyện trò ề à, vừa vuốt mãi bộ tóc mượt của hắn. Tiếp theo
là Champignac và viên đại sứ, toàn những khen lao với chúc tụng... khổ thân em
quá, muốn tống khứ họ đi mà không xong, lòng dạ còn rối như tơ vò vì việc mình
bị giam giữ.
Khách khứa về cả rồi, em mới quỳ xuống cầu xin
hầu tước giúp đỡ. Em bảo rằng chúng mình sắp phải cầm bán sạch mọi thứ, xin
ngài giúp cho hai trăm đồng. Ngài gắt ầm lên... bảo rằng đừng có dại mà cầm bán
đồ vật... ngài hứa nếu có thể sẽ cho em vay tiền.
Rồi ngài ra về, bảo sáng mai sẽ cho đem tiền lại.
Sáng mai có tiền em sẽ đến đón mình với một cái hôn thật âu yếm.
Becky.
Em viết thư ngay trên giường.
Em đang nhức đầu quá mà cũng đau lòng quá!
Rawdon đọc xong lá thư đỏ tía mặt lên trông đến
dữ tợn, những người cùng ngồi ăn đoán ngay có tin chẳng lành. Bao nhiêu điều
nghi ngờ anh ta vẫn cố xua đuổi khỏi tâm trí đột nhiên quay lại ám ảnh. “Đến
nỗi không đem được ít đồ trang sức đi cầm để chuộc cho mình à? Mình đang ngồi
tù, mà nó thản nhiên ngồi nghe thiên hạ tán tụng! Đứa nào bắt mình bỏ tù? Wenham
mời mình cùng về. Hay là...” Rawdon không dám nghĩ tiếp lập tức rời phòng ăn,
anh ta chạy về buồng mở ví, lấy giấy viết vội mấy dòng chữ gửi cho vợ chồng
Pitt, giao cho người đưa tin, bảo mang ngay đến phố Gaunt. Anh ta bảo hắn thuê
xe ngựa đi cho nhanh, lại hứa nếu về sớm trong khoảng một tiếng đồng hồ, sẽ
thưởng cho đồng bạc.
Trong thư, Rawdon cầu khẩn vợ chồng anh trai
hãy vì kính chúa, hãy vì thương đứa cháu trai, vì danh dự của mình, hãy giúp
mình qua cơn hoạn nạn. Anh ta đang ngồi tù... cần có ngay một trăm đồng bảng
thì mới được trả tự do...
Gửi thư đi rồi, Rawdon quay lại phòng ăn, gọi
lấy thêm rượu.
Anh ta cười thật to, nói chuyện thật ồn ào một
cách kỳ lạ. Thỉnh thoảng, nghĩ đến những nỗi ngờ vực đang vò xé tâm trí, Rawdon
lại phá ra cười, rồi tiếp tục nốc thêm rượu suốt một tiếng đồng hồ...nhưng vẫn
chú ý lắng nghe xem có tiếng xe ngựa quyết định số phận của mình hay không.
Một tiếng đồng hồ trôi qua; có tiếng xe ngựa
lượn vòng đỗ ngoài cổng, thằng bé tóc đỏ cầm chìa khoá bước ra. Nó dẫn một người
đàn bà đi vào. Người này run run nói:
- Tôi muốn gặp trung tá Crawley.
Thằng bé láu lỉnh đưa mắt nhìn, khoá chặt cửa
ngoài lại rồi mới mở khoá cửa trong, đoạn thò cổ vào gọi:
- Trung tá Crawley, có người hỏi.
Người đàn bà được nó dẫn vào phòng khách bên
trong.
Rawdon rời gian phòng ăn ồn ào tiếng cười nói
bước vào, một ánh sáng đục ngầu chiếu hắt theo; anh ta thấy người đàn bà vẫn
đứng chờ, có vẻ rất bối rối. Người này lên tiếng rụt rè nói, cố làm ra bộ vui
vẻ.
- Chú Rawdon, tôi đây mà, Jane đây.
Rawdon nghe thấy tiếng nói dịu dàng của người
chị dâu tốt bụng cảm động quá... anh ta chạy lại giang hai tay ôm lấy chị
dâu... miệng lắp bắp mấy tiếng cảm ơn nghe không rõ, rồi gục vào vai công nương
Jane mà khóc nức nở. Người đàn bà không hiểu vì sao em chồng xúc động đến thế.
Ông Moss lập tức được thanh toán tiền nong đầy
đủ. Ông ta hơi thất vọng, vì đang chắc mẩm ít nhất cũng giữ được Rawdon đến thứ
hai. Công nương Jane nét mặt rạng rỡ tươi tỉnh dắt Rawdon ra xe đưa về nhà. Cô
ta bảo:
- Lúc nhận được thư chú, anh Pitt đã đi dự tiệc
ở Quốc hội rồi...Thành ra tôi...tôi phải đến vậy.
Đoạn Jane đặt bàn tay mình vào bàn tay em
chồng. Không biết chừng Pitt đi ăn tiệc vắng lại là may cho Rawdon. Anh ta cảm
ơn chị dâu mãi, giọng cảm động chân thành làm cho người đàn bà dễ xúc động này
gần như phải bàng hoàng, Rawdon vẫn cái giọng thực thà thô kệch nói:
- Chị không biết chứ...từ hồi gặp chị, em thay
đổi nhiều lắm.. từ hồi có thằng Rawdy nữa. Em cũng muốn tu tỉnh lại chút ít…Chị
ạ, em muốn... em muốn thành...
Anh ta không nói hết câu, nhưng người chị dâu
hiểu. Đêm hôm ấy, sau lúc em chồng đã ra về, công nương Jane ngồi nhìn đứa con
nằm ngủ trên chiếc giường nhỏ, thì thầm cầu nguyện mãi cho con người tội lỗi đã
biết hối cải...
Rawdon từ biệt chị dâu, đi thật nhanh về nhà.
Lúc ấy đúng chín giờ tối. Anh ta chạy băng qua các phố và các công viên trong
Hội chợ phù hoa, và cuối cùng đến trước cửa nhà, mệt quá tưởng đến đứt hơi.
Nhìn lên gác Rawdon giật nảy mình lùi lại, run run đứng không vững phải dựa vào
hàng rào. Trong phòng khách đèn thắp sáng trưng, thế mà vợ anh ta viết thư nói
rằng đang ốm, phải nằm nghỉ. Anh ta đứng đờ ra một lúc, ánh sáng trong nhà hắt
ra in lên bộ mặt tái nhợt của anh.
Rawdon rút chìa khóa riêng mở cổng, bước vào
nhà. Trên gác có tiếng cười đùa vẳng xuống rõ mồn một. Anh ta vẫn mặc bộ quần
áo dạ hội tối hôm trước, lúc bị bắt. Rawdon lặng lẽ trèo lên gác, đứng dựa vào
lan can chỗ đầu cầu thang nghe ngóng... Đầy tớ bị sai đi vắng hết... trong nhà
tịnh không có một ai. Nghe rõ tiếng cười trong phòng... tiếng cười xen lẫn
tiếng hát. Becky đang hát lại một đoạn bài hát tối hôm qua. Có tiếng khàn khàn
reo lên: “Hoan hô! Hoan hô!”... tiếng hầu tước Steyne.
Rawdon mở toang cửa bước vào. Giữa phòng kê một
cái bàn ăn nhỏ...đủ cả rượu và các món ăn. Becky ngồi trên ghế xô-fa. Steyne
đang chống tay vào thành ghế cúi xuống. Người đàn bà khốn nạn trang sức thật
lộng lẫy, cánh tay đeo vòng xuyến, các ngón tay đeo nhẫn lóng lánh; trên ngực,
sợi dây chuyền kim cương của hầu tước Steyne tặng sáng quắc. Lão vừa cầm tay
Becky cúi xuống định hôn, thì Becky nhìn thấy bộ mặt trắng bệch của Rawdon hiện
ra; cô ta giật nảy mình, rú lên một tiếng khẽ, rồi cố làm ra vẻ tươi tỉnh mỉm
cười ra ý mừng chồng về... Nhưng nụ cười mới gớm ghiếc làm sao! Steyne thì tái
mặt đứng dậy, nghiến răng lại, tức như điên. Tuy vậy, lão cũng cố cười một
tiếng... bước lên chìa tay ra và nói:
- Thế nào, về rồi à? Bình yên chứ, ông Crawley?
Lão cố cười gượng với anh chồng phá bĩnh, hai má nổi gân lên.
Vẻ mặt Rawdon có một cái gì khiến cho Becky vội chạy tới trước mặt chồng,
nói:
- Rawdon, em vô tội, mình ạ! Thề có Chúa trời, quả thật em vô tội. Cô ta
bấu chặt lấy áo chồng, xiết lấy tay chồng. Tay cô ta đầy những vòng và nhẫn.
Becky quay sang hầu tước Steyne:
- Em vô tội... Ngài nói hộ rằng em vô tội đi.
Cho là hai vợ chồng bày mưu cho mình vào bẫy, lão tức cả vợ lẫn chồng tưởng
phát điên lên được. Lão gầm lên:
- Vô tội à? Đồ khốn nạn! Chị mà vô tội? Thế những đồ trang sức chị đeo trên
mình kia, ai bỏ tiền ra mua? Tôi đã cho chị hàng nghìn đồng đem về cho chồng
tiêu, như thế là hắn đã bán chị lấy tiền. Còn mở mồm nói là vô tội!? Chị cũng
vô tội như mẹ chị xưa kia làm nghề vũ nữ, vô tội như thằng chồng mạt hạng của
chị ấy. Đừng tưởng doạ được tôi như doạ người khác. Đứng tránh ra thưa ngài,
cho tôi đi.
Nói đoạn hầu tước Steyne cầm lấy mũ, đôi mắt dữ tợn như toé ra những tia
lửa nhìn trừng trừng vào mặt địch thủ; lão tiến thẳng về phía Rawdon, đinh ninh
rằng thế nào anh cũng phải nhượng bộ.
Nhưng Rawdon nhảy xổ lại, tóm chặt lấy cổ áo của lão; hầu tước Steyne suýt
nghẹt thở cố giẫy giụa và ngã khuỵu xuống dưới cánh tay anh ta.
Rawdon quát:
- Mày nói láo, đồ con chó! Mày nói láo, mày là đồ hèn nhát, đồ khốn nạn!
Anh ta tát hai cái liền thật mạnh vào mặt lão hầu tước, rồi hất lão ngã
kềnh ngồi xuống sàn nhà, mép ứa máu tươi. Việc xảy ra nhanh quá, Becky không
kịp can thiệp. Cô ta run bần bật cả chân tay; tuy sợ, nhưng cô ta cũng phục
chồng là khoẻ và can đảm đã thắng được kẻ tình địch. Rawdon ra lệnh:
- Lại đây, Becky lại ngay. Lột hết những thứ này ra.
Becky run lẩy bẩy bắt đầu tháo hết cả vòng xuyến nhẫn, thành một vốc, bưng
lên tay đứng nhìn chồng chờ lệnh.
Anh chồng quát:
- Vứt xuống đất.
Cô vợ vứt xuống đất. Rawdon giật đứt tung sợi dây chuyền kim cương trên
ngực vợ ném về phía hầu tước Steyne. Viên kim cương văng mạnh trúng cái trán
hói của lão làm chảy máu tươi.
Cho đến chết lão vẫn còn đeo trên trán cái sẹo ấy. Rawdon quát vợ:
- Đi lên gác.
Becky nói:
- Xin mình đừng giết em.
Anh chồng cười dữ tợn:
- Tôi cần xem chuyện tiền nong thằng kia nói đúng hay sai. Nó có cho cô
tiền bao giờ không?
Rebecca đáp:
- Không nghĩa là...
- Đưa chìa khoá đây.
Hai vợ chồng cùng lên gác. Rebecca đưa hết chìa khoá cho chồng, nhưng giữ
lại một cái, hy vọng rằng chồng không kịp nhận ra cái chìa khoá còn thiếu. Đó
là chìa khóa dùng để mở một cái két nhỏ của Amelia tặng hồi trước; cô ta vẫn
giấu kín một chỗ. Nhưng Rawdon lục tung tất cả hòm xiểng, tủ áo, vứt tung quần
áo và đồ vật đựng ở trong ra, cuối cùng anh ta vớ được cái két. Chị vợ đành phải
lôi chìa khoá ra mở. Trong két đựng nhiều giấy má, những bức thư tình hàng chục
năm về trước cùng đủ mọi thứ đồ lặt vặt của đàn bà. Lại có cả một cái ví đựng
toàn ngân phiếu; nhiều tờ đề ngày cách đã mười năm; nhưng có một tờ mới
nguyên... đó là tờ ngân phiếu một nghìn đồng của hầu tước Steyne vừa cho cô ta.
Rawdon nói:
- Của nó cho cô đây?
Rebecca đáp:
- Vâng.
Rawdon lại nói:
- Tôi sẽ gửi trả nó hôm nay (Lúc này trời vừa tang tảng sáng; cuộc lục soát
đã kéo dài mấy tiếng đồng hồ liền); tôi sẽ trả tiền công bà Briggs, bà ấy vẫn
săn sóc thằng bé chu đáo, và trả vài món nợ. Số còn lại, cô sẽ cho tôi biết gửi
về đâu để trả lại cô. Becky, ngần này tiền mà không bớt ra được một trăm đồng
cho tôi à?...Xưa nay tôi kiếm được tiền cô vẫn tiêu chung.
Becky vẫn một mực:
- Mình ơi, em vô tội.
Rawdon không nói gì, bỏ đi.
Không biết chồng đi rồi Becky nghĩ gì? Cô ta ngồi lặng yên mấy tiếng đồng
hồ liền; ánh nắng đã toả vào căn phòng. Becky vẫn ngồi ở mép giường. Ngăn kéo
tủ còn để ngỏ, đồ vật vứt ngổn ngang... nào quần áo, nào khăn quàng, nào đồ
trang sức, một đống các thứ chất bề bộn. Mớ tóc rối tung buông xoã xuống hai
vai; ngực áo bị Rawdon xé toang lúc giật sợi dây chuyền kim cương. Vài phút sau
khi Rawdon ra khỏi phòng. Becky nghe tiếng chồng xuống thang gác, rồi có tiếng
đóng sầm một cái. Cô ta hiểu rằng không bao giờ chồng trở lại nữa. Thế là hết
hẳn tình nghĩa rồi, Becky nghĩ thầm: “Hay là anh ấy đi tự tử?... Nhưng chưa gặp
lại hầu tước Steyne thì chưa chịu chết đâu. Cô ta nhớ lại quá khứ dài dằng dặc
của mình, bao nhiêu chuyện ghê gớm đã xảy ra. Ôi? Một cuộc đời mới buồn tẻ, trơ
trọi làm sao! Rút cục thế là công toi. Hay là uống phăng một liều thuốc độc mà
từ giã cõi đời cho rảnh... Bao nhiêu hy vọng, bao nhiêu cơ mưu, bao nhiêu phen
lên voi xuống chó, bây giờ còn gì nữa đâu? Chị hầu gái người Pháp bước vào
phòng vẫn thấy chủ ngồi lặng lẽ giữa đống đồ vật ngổn ngang, mắt ráo hoảnh, hai
tay chắp lại, chị ta được hầu tước Steyne cho tiền, vẫn a tòng với chủ, bây giờ
mới lên tiếng:
- Trời đất ơi! Thưa bà, có chuyện gì vậy?
Lại còn chuyện gì nữa? Becky có tội hay không? Cô ta nói rằng không, nhưng cái mồm ấy quen nói
xoen xoét biết là nói thật hay nói dối. Hoặc giả, riêng trong trường hợp này,
con người xấu xa ấy quả là vô tội chăng? Chỉ biết rằng bao nhiêu cơ mưu trí
tuệ, bao nhiêu công lao vơ vét ích kỷ, rút cục xôi hỏng bỏng không. Chị hầu gái
kéo rèm cửa, lấy giọng ngọt ngào khẩn khoản xin bà chủ đi nằm nghỉ một chút.
Đoạn chị ta xuống nhà nhặt nhạnh tất cả các vật trang sức vẫn còn tung toé trên
mặt sàn - theo lệnh chồng, Rebecca vứt lại đó nhưng hầu tước Steyne bỏ về không
thèm lấy lại.
Chương 54
NGÀY CHỦ NHẬT SAU CUỘC XÔ XÁT
Trong toà lâu đài của tôn ông Pitt Crawley ở
phố Greet Gaunt, người ta vừa sửa soạn đón chào ngày chủ nhật thì thấy Rawdon
mò đến; trên người vẫn đeo bộ áo dạ hội đã hai ngày, anh ta lững thững đi qua
mặt mấy người đầy tớ gái nhút nhát đang lau cầu thang rồi trèo thẳng lên phòng
làm việc của anh trai. Công nương Jane đã dậy rồi, đang bận bảo người nhà tắm
rửa mặc áo cho các con, và cầu kinh buổi sáng với mấy đứa trẻ. Sáng nào công
nương Jane cũng cầu nguyện riêng với các con trong phòng trước khi dự buổi lễ
kính chúa chính thức cùng toàn thể gia nhân trong nhà, do Pitt chủ toạ. Rawdon
ngồi vào bàn làm việc của anh trai; mặt bàn toàn những sách và thư từ xếp ngăn
nắp, cùng những hoá đơn, những bài xã thuyết, những sổ kế toán, những gói tài
liệu sắp gửi đi tất cả hãy sẵn sàng, như chỉ chờ ông chủ đến kiểm tra lại. Trên
bàn còn để sẵn một cuốn kinh của gia đình tức là cuốn sách ngày chủ nhật nào
Pitt cũng dùng để giảng đạo cho mọi người trong gia đình nghe. Cạnh cuốn sách
đạo, là tờ báo “Người quan sát, gấp cẩn thận, tờ báo này dành riêng cho tôn ông
Pitt đọc”. Bác hầu phòng lúc vắng chủ đã lợi dụng cơ hội liếc qua tờ báo một
lượt, trước khi mang vào đặt trên bàn giấy; sáng nay bác sẽ thấy báo đăng bài
“Dạ hội tại lâu đài Gaunt”, với tên đủ các vị tai mắt được hầu tước Steyne mời
tham dự cùng Hoàng tử. Trong lúc cùng ngồi uống trà và ăn bánh phết bơ buổi
sáng sớm trong phòng ngủ của Crawley phu nhân đã quá cố, bác đã lên tiếng bình
luận về cuộc dạ hội này với bà quản gia và cô cháu gái của bà này. Họ lấy làm
lạ không biết làm thế nào mà vợ chồng Crawley len lỏi vào tận nơi ấy được; đoạn
bác hầu phòng gấp trả tờ báo thật cẩn thận trông như mới, rồi đem vào cho chủ.
Anh chàng Rawdon đáng thương cầm tờ báo đọc cho
qua thì giờ trong khi chờ anh trai, nhưng thấy những dòng chữ cứ như múa lên
trước mặt. Tuy nhiên vẫn đọc mà anh ta chẳng hiểu gì cả. Báo đăng đủ các thứ
tin tức: những việc tuyển bổ của chính phủ (tôn ông Pitt là một chính khách cần
đọc những tin tức loại này, nếu không thì những tờ báo xuất bản ngày chủ nhật
đừng hòng lọt vào nhà anh ta), những bài phê bình sân khấu, cuộc đấu quyền anh
hạng nặng giữa võ sĩ Barking Butcher và Tutbury Pet, bài phóng sự về cuộc dạ
hội tại lâu đài Gaunt trong đó người viết nhiệt liệt ca tụng mấy màn kịch đố
chữ mà Becky là diễn viên xuất sắc nhất... Song Rawdon như bị một màn sương phủ
kín mắt chẳng nhìn thấy gì trong suốt thời gian ngồi chờ anh trai đến.
Chiếc đồng hồ bằng đá đen treo trong phòng làm
việc ngân nga đúng chín tiếng thì Pitt bước vào, mày râu nhẵn nhụi, y phục
chỉnh tề, cổ áo là cứng, mớ tóc thưa thớt trên đầu bôi dầu chải mượt; anh ta
bận một tấm áo ngủ bằng len màu xám, và thắt một chiếc cà vạt hồ cứng, bệ vệ
bước xuống thang gác... tóm lại trông ra ra là một ông quý tộc dòng dõi con
nhà...có thể nói là một điển hình của sự ăn vận chỉnh tề chải chuốt. Thấy em
trai ngồi trong phòng, quần áo xộc xệch, mắt đỏ ngầu, tóc rối bù xoã xuống mặt,
Pitt giật nảy mình. Anh ta tưởng em trai say rượu, chắc suốt đêm qua lại trác
táng ở đâu. Pitt lạnh lùng hỏi:
- Trời ạ, Rawdon, mới sáng bảnh mắt ra chú đã
mò đến có việc gì thế? Sao không về nhà.
Rawdon cười gằn, đáp:
- Về nhà!... Pitt, anh đừng sợ, tôi không say
rượu đâu. Đóng cửa lại, tôi muốn nói với anh một câu chuyện.
Pitt khép cửa lại, rồi đến cạnh bàn giấy ngồi
xuống một chiếc ghế bành... chiếc ghế kê sẵn đành riêng cho quản lý, thầy kiện
hoặc khách khứa đặc biệt có việc giao thiệp riêng với nam tước... anh ta lại
tiếp tục ra sức mà giũa móng tay.
Ông em trung tá yên lặng một lúc rồi lên tiếng:
- Anh Pitt, tôi gặp chuyện không hay, thế là
hỏng hết mọi sự.
Pitt bực mình đáp, vừa gõ gõ mấy ngón tay vừa
giũa sạch lên mặt bàn:
- Tôi đã bảo chú hàng nghìn lần, là thế nào rồi
cũng đến cơ sự này mà. Tôi không giúp được chú nữa đâu. Tiền tôi dùng vào việc
cả rồi. Số tiền một trăm đồng Jane đứa chú hôm qua, sáng hôm nay tôi phải trả
cho thầy kiện, đang lo không biết đào đâu ra bây giờ đây. Không phải là tôi
không muốn giúp chú trong cơn hoạn nạn, nhưng trả hết nợ cho chú thì chịu, chả
khác gì muốn trả hết nợ cho Nhà nước vậy. Có hoạ là điên cuồng rồ dại thì mới
tính đến chuyện ấy. Bây giờ chú phải điều đình với họ đi, cũng xấu hổ cho gia
đình nhà ta thật đấy... nhưng thiên hạ thế cả. Tuần lễ trước, George Kitely là
con trai bá tước Ragland cũng bị ra toà, nhưng được điều đình với chủ nợ, thế
cũng chả mang tiếng mang tăm gì. Bá tước Ragland chẳng phải trả một đồng xu nào
cho con hết, mà....
Rawdon ngắt lời:
- Không phải là tôi cần tiền. Tôi không đến xin
anh giúp tôi tiền. Anh không cần quan tâm đến chuyển tôi...
Pitt hơi yên tâm hỏi:
- Vậy thì có việc gì?
Rawdon nghẹn ngào đáp:
- Về việc thằng cháu; xin anh hứa với tôi rằng
khi tôi đi rồi thì anh sẽ trông nom cháu cẩn thận giúp. Chị ấy tốt lắm, vẫn
thương cháu như con; mà nó cũng quý bác gái nó hơn... Mẹ kiếp...Đây này, anh
Pitt... anh cũng biết đáng lẽ tôi được hưởng gia tài của bà Crawley. Từ nhỏ tôi
không được tập sống thiếu thốn như người con thứ không có quyền hưởng gia tài;
trái lại, người ta khuyến khích tôi lười biếng và phá của. Nếu không vì thế thì
tôi cũng thành được người đứng đắn. Nhưng tôi làm nhiệm vụ trong quân đội cũng
không đến nỗi tồi quá. Anh đã rõ vì sao tôi mất phần gia tài, mà nó rơi vào tay
ai chứ?
Pitt đáp:
- Tôi đã hy sinh cho chú rất nhiều, và tôi đã
cư xử với chú, nâng đỡ chú ra sao, thiết tưởng chú chẳng nên trách móc tôi mới
phải. Việc vợ con là tự chú, đâu phải tại tôi.
Rawdon vừa rên rỉ vừa đáp:
- Vợ con gì nữa, thế là hết rồi.
Ông anh trai giật nảy mình:
- Trời đất ơi! Thím ấy mất rồi ư? Giọng nói của
Pitt có vẻ hoảng hốt và thương cảm thật sự.
Rawdon đáp:
- Chính tôi đang muốn chết đây. Nếu không vướng
thằng Rawdy thì sáng nay tôi cứa cổ chết quách và cắt đứt họng cả cái thằng
khốn nạn kia nữa rồi. Pitt đoán ra ngay sự thể: ý hẳn ông em muốn giết chết lão
Steyne đây.
Rawdon kể lại vắn tắt câu chuyện cho anh nghe,
giọng nói đứt quãng vì xúc động. Anh ta thêm:
- Thì ra hai đứa nó bày mưu tính kế với nhau
anh ạ. Chúng nó cho bọn công sai bắt tôi; tôi vừa ra khỏi nhà thằng kia là bị
tóm ngay. Tôi viết thư cho con kia, nó bảo đang bị sốt, không đi được, hẹn đến
hôm khác. Thế là tôi về nhà thấy nó đeo vàng ngọc đầy người ngồi tình tự với
thằng khốn nạn.
Đoạn anh chàng kể tóm tắt cuộc xô xát với hầu
tước Steyne, nói thêm rằng đối với vấn đề này chỉ còn có một cách giải quyết.
Sau khi gặp Pitt, anh ta sẽ đi lo thu xếp cuộc gặp gỡ với kẻ tình địch.
Rawdon nghẹn ngào tiếp: “Rất có thể kết quả là
tôi sẽ bị hại, cháu nó có mẹ cũng như không, tôi đành nhờ anh và chị Jane trông
nom hộ. Pitt... nếu được anh hứa săn sóc cháu chu đáo, tôi không còn ân hận gì
nữa.
Ông anh cảm động quá bắt tay em trai một cách
thân mật ít thấy. Rawdon đưa tay lên chùi nước mắt, nói:
- Cảm ơn anh, tôi biết có thể tin lời anh hứa
được.
Pitt đáp:
- Xin lấy danh dự mà thề với chú, tôi sẽ giữ
lời hứa.
Thế là hai anh em thoả thuận với nhau xong
xuôi. Bấy giờ Rawdon mới rút trong túi ra chiếc ví tìm thấy trong cái két của
Becky; anh ta rút ra một xếp giấy bạc, nói:
- Chỗ này là sáu trăm đồng... chắc anh không
ngờ tôi giầu thế nhỉ... Nhờ anh trả lại cho bà Briggs số tiền tôi vay từ
lâu...bà ấy trông nom thằng cháu cẩn thận lắm... bắt buộc phải tiêu tiền của
người đàn bà khốn khổ ấy, tôi vẫn lấy làm ngượng. Còn chỗ này để trả lại cho
Becky, có lẽ nó cũng cần ít nhiều... tôi chỉ giữ vài đồng thôi.
Vừa nói Rawdon vừa cầm nốt chỗ tiền còn lại
trao cho anh, nhưng bàn tay anh ta run lẩy bẩy, đánh rơi cả cái ví xuống đất;
tờ ngân phiếu một nghìn đồng là món tiền bất hạnh cuối cùng của Becky kiếm được
bỗng rơi ra...
Pitt cúi xuống nhặt, ngạc nhiên thấy em có lắm
tiền quá.
Rawdon bảo:
- Không phải tờ ấy, tôi đang muốn bắn vỡ sọ cái
thằng có tờ ngân phiếu ấy đây.
Anh ta định tâm lấy tờ ngân phiếu bọc viên đạn để
bắn chết lão Steyne.
Chuyện trò xong, hai anh em lại bắt tay nhau
một lần rồi cùng nhau từ biệt. Công nương Jane được tin em chồng đến chơi đã
đứng chờ chồng trong gian phòng ăn bên cạnh; linh tính sáng suốt của đàn bà báo
cho cô ta biết rằng có chuyện gì không hay đây. Cửa phòng ăn ngẫu nhiên vẫn mở,
nên lúc hai anh em từ trong phòng làm việc bước ra thì cũng vừa gặp công nương
Jane. Cô ta chìa tay cho Rawdon bắt, tỏ ý muốn mời Rawdon ở lại ăn sáng; nhưng
nhìn bộ mặt bơ phờ, râu ria không cạo của em chồng và vẻ mặt rầu rầu của chồng,
cô ta cũng hiểu rằng lúc này họ không lòng nào nghĩ đến chuyện ăn uống với
nhau, Rawdon lúng búng kiếm cớ có việc bận để từ chối rồi nắm thật chặt bàn tay
của người chị dâu rụt rè đưa ra. Đôi mắt đầy khẩn cầu của công nương Jane không
nhận thấy gì trên nét mặt Rawdon ngoài sự đau khổ tột độ: anh ta không nói thêm
điều gì, ra đi. Pitt cũng không giải thích cho vợ biết thêm điều gì.
Hai đứa con đến chào bố, Pitt cúi xuống lạnh
lùng hôn chúng như thường lệ. Người mẹ kéo sát hai con vào lòng, nắm chặt lấy
tay chúng, hai đứa nhỏ quỳ xuống nghe Pitt đọc kinh: bọn gia nhân bận chế phục
ngày chủ nhật ngồi sắp hàng trên dãy ghế bên kia bình, nước trà đang sôi réo
lên. Vì câu chuyện vừa rồi, nên hôm ấy ăn sáng muộn hơn mọi ngày; mọi người mới
ngồi vào bàn mà đã nghe tiếng chuông nhà thờ đổ hồi. Công nương Jane bảo rằng
mình khó ở, không đi lễ nhà thờ được; ngay lúc cả nhà đang cầu kinh, tâm trí cô
ta vẫn vất vưởng đâu đây.
Trong khi đó Rawdon Crawley rảo bước khỏi phố
Greet Gaunt, đến thẳng cổng lâu đài Gaunt, cầm cái cán bằng đồng đen hình đầu
Medusa (), nện một tiếng chuông thật mạnh. Lão Silenus () mũi cà chua bận bộ
chế phục màu đỏ ánh bạc, giữ nhiệm vụ gác cổng vội chạy ra. Thấy bộ dạng xốc
xếch của anh chàng trung tá, lão hoảng quá vội đứng chắn ngang cổng, sợ anh ta
cố tình len vào trong nhà.
Nhưng Crawley chỉ móc trong túi ra một tấm danh
thiếp bảo lão đưa tận tay cho hầu tước Steyne, và bảo chủ nhớ kỹ địa chỉ viết
trong giấy, lại nói thêm rằng từ một giờ trưa lúc nào trung tá Crawley cũng có
mặt tại quán rượu Nhiếp chính, phố St. James, chứ không ở nhà. Đoạn anh ta rảo
bước đi; lão gác cổng bép phị đứng đờ người ngó theo; khách qua đường “lên
khung” ngày chủ nhật đi chơi sớm, nhìn anh ai cũng lấy làm lạ, cả mấy thằng bé
ăn mày mặt nhớp nháp mồ hôi, bác chủ tiệm hoa quả đang đứng chơi trước cửa và
lão chủ quán đang hạ rèm cửa che ánh nắng để sửa soạn tiếp khách.
Họ ra vẻ giễu cợt cách ăn mặc của Rawdon, nhưng
anh ta mặc kệ, gọi một cái xe ngựa bảo đánh thẳng đến trại lính ở Knightsbridge.
Vừa đến trại lính thì nghe thấy tiếng chuông lễ
đổ hồi. Giá lúc ngồi xe anh ta nhìn ra đường thì đã gặp người quen là Amelia,
cô đi từ Brompton đến khu phố Russell. Từng đoàn học trò sắp hàng đi lễ nhà
thờ; hè phố sạch bóng đầy những người đi chơi ngày chủ nhật; họ chen chúc nhau
trên xe ngựa đi về phía ngoại ô thành phố.
Nhưng nào viên trung tá có dịp để ý đến những
chuyện ấy; đến Knightsbridge, anh ta vội vã vào thẳng phòng riêng của người bạn
đại uý Macmurdo; thấy bạn có nhà, Crawley mừng quá. Macmurdo là một sĩ quan kỳ
cựu, đã từng chiến đấu ở Waterloo, được anh em trong trung đoàn rất mến; chỉ vì
không có tiền nên không có cách nào leo lên chức cao hơn; anh ta đang bình tĩnh
nằm ngủ trưa trên giường. Đêm trước Mac vừa dự buổi đại tiệc do đại uý George
Cinqbars thết tại nhà riêng ở công viên Brompton; bữa tiệc có cả một số sĩ quan
trẻ tuổi trong trung đoàn đến dự cùng mấy cô trong đội vũ Ba-lê. Mac quen đi
lại thân mật với đủ mọi hạng người thuộc đủ mọi lứa tuổi, từ các vị tướng tá
đến các ông lái chó, các chị vũ nữ cũng như các võ sĩ quyền Anh và các loại
người linh tinh khác; sau một đêm vất vả, lại không bận công vụ, anh ta bèn lên
giường nằm khểnh.
Quanh phòng của Mac treo toàn những tranh vẽ
cảnh đấu quyền Anh, cảnh đi săn nhảy múa; đó là tặng vật của các bạn đã giải
ngũ về cưới vợ để sống thột cuộc đời bình lặng. Năm nay Mac gần năm mươi tuổi
đã từng sống hai mươi bốn năm trời trong quân đội, cho nên anh ta có một bộ
tranh khá lý thú. Mac là một tay súng vào bậc cừ nhất nước Anh; tuy vóc người
phục phịch nhưng cũng là một tay kỵ mã có tài. Hồi Crawley chưa giải ngũ, hai
người vẫn cưỡi ngựa thi với nhau. Macmurdo đang nằm dài trên giường đọc một bài
báo đăng tin cuộc tỉ thí giữa hai võ sĩ Tutbury Pet và Barking Butcher; trông
anh ta rõ ra là một chiến sĩ hiên ngang, với bộ tóc cắt ngắn điểm hoa râm lộ ra
dưới chiếc mũ ngủ bằng lụa, với bộ mặt và cái mũi đỏ ửng, điểm hàng ria mép rậm
rịt nhuộm đen. Nghe Rawdon nói cần một người bạn, anh chàng đại uý hiểu ngay
anh này đang cần mình giúp việc gì, bởi vì anh đã có dịp giúp bạn bè công việc
tương tự hàng chục lần một cách hết sức chu đáo. Cái hồi ngài Hoàng tử còn chỉ
huy trung đoàn, ngài đã có dịp khâm phục tài năng của Macmurdo trong một trường
hợp giống như thế, bè bạn gặp chuyện gay go cần giải quyết đều tìm đến anh ta
nhờ lo hộ.
Nhà chiến sĩ lão luyện hỏi han:
- Thế nào Crawley, cu cậu lại có vấn đề gì thế.
Không phải vì chuyện đánh bạc, như hồi chúng mình bắn chết đại uý Marker chứ?
Crawley đỏ mặt nhìn xuống đáp:
- Lần này là chuyện... chuyện con vợ mình.
Chàng kia huýt một tiếng sáo, nói:
- Tớ đã bảo thế nào rồi cũng có ngày rắc rối, y
như rằng.
Thật ra trong trung đoàn và trong câu lạc bộ,
đã nhiều người đánh cuộc với nhau thế nào Rawdon Crawley cũng bị mọc sừng, vì
bè bạn của anh ta cũng như tất cả mọi người đều cho Rebecca là người không đứng
đắn. Nhưng mới nói thế đã thấy Rawdon đưa đôi mắt dữ tợn nhìn mình, Mac không
dám đi sâu thêm vào câu chuyện.
Lấy giọng đứng đắn, anh chàng đại uý hỏi tiếp:
- Thế không còn cách nào giải quyết nữa à? Cậu
mới nghi ngờ thôi chứ gì?... hay là... thế nào? Có bắt được thư từ gì không?
Liệu có ỉm đi cho xong được không ? Về những chuyện ấy, tốt nhất là đừng “vạch
áo cho người xem lưng”, cậu ạ.
Macmurdo nghĩ thầm: “Đến tận bây giờ thằng cha
mới biết sự thực... Anh ta nhớ lại những chuyện bè bạn bàn tán hàng trăm lần
quanh bàn ăn về tư cách không ra gì của vợ Crawley.
Rawdon đáp:
- Chỉ có mỗi một cách giải quyết... Đối với
những người như bọn mình, đó là cách duy nhất. Mac... anh hiểu chứ? Chúng nó cho
bắt giam mình lại để tự do với nhau; thế rồi mình tóm được quả tang hai đứa
ngồi tình tự. Mình mắng vào mặt thằng kia là đồ dối trá, đồ hèn nhát, và quai
cho một trận cẩn thận.
Macmurdo nói:
- Đánh bỏ mẹ nó đi! Đứa nào thế?
Rawdon đáp là hầu tước Steyne.
- Chết cha? Một ông hầu tước ? Họ đồn rằng
lão... nghĩa là họ đồn rằng chính cậu...
Rawdon gầm lên:
- Cậu nói cái quỷ gì đấy? Cậu nghe thấy có đứa
đồn rằng vợ tớ ngoại tình mà cậu lờ đi không bảo tớ phải không, Mac?
Ông bạn đáp:
- Thiên hạ chúng nó thối mồm lắm. Những chuyện
bọn vô công rồi nghề tán láo, nói lại với cậu làm gì?
- Mac, cậu thật không tốt tí nào.
Rawdon giận quá. Anh ta đưa hai tay lên ôm mặt
trông cực kỳ thê thảm, khiến cho ông bạn quân nhân lòng dạ sát đá ngồi trước
mặt cũng phải mủi lòng. Mac nói.
- Can đảm lên cậu. Phen này lão có là giời con
cũng phải xơi một viên đạn vào đầu. Còn cái bọn đàn bà, chúng nó đứa nào chả
thế.
Rawdon gần như nghẹn ngào đáp:
- Cậu không biết, mình yêu nó đến thế nào; mình
theo nó ngoan ngoãn như một thằng hầu; mình có gì cũng cho nó hết. Chỉ vì lấy
nó mà mình bị nghèo khó như thằng ăn mày. Thật đấy, mình đã bán cả đồng hồ đi
để sắm sửa cho vừa lòng nó. Thế mà nó... lúc nào cũng chỉ lo gây vốn riêng;
mình bị tù mà nó không chịu bỏ ra lấy một trăm đồng để cứu mình.
Rawdon kể lại đầu đuôi câu chuyện cho bạn nghe,
giọng nói giận dữ, đứt quãng; chưa bao giờ Mac thấy bạn xúc động dữ dội đến
thế. Anh ta lựa lời khuyên giải bạn:
- Dẫu sao đi nữa, vợ cậu có thể vẫn là vô tội.
Chị ấy nói thế cơ mà; xưa nay Steyne vẫn ngồi chơi một mình với vợ cậu hàng bao
nhiêu bận, có sao đâu.
Rawdon buồn rầu đáp:
- Cũng có thể; nhưng có cái này thì còn vô tội
làm sao được...
Anh ta đưa cho bạn xem tờ ngân phiếu một nghìn
đồng tìm thấy trong ví của Becky.
- Mac ạ, của thằng kia cho nó đấy. Thế mà nó
giấu không cho mình biết. Có ngần này tiền trong túi mà không chịu cứu mình
khỏi bị ở tù.
Anh chàng đại uý đành công nhận rằng cái việc
giấu giếm tiền nong này xem ra cũng có vẻ khả nghi lắm.
Trong khi hai người nói chuyện với nhau, Rawdon
sai người hầu của đại uý Macmurdo lại phố Curzon, bảo người nhà trao cho chiếc
va-ly đựng quần áo của mình để lấy đồ thay ngay. Trong lúc ngồi chờ, Rawdon và
bạn hì hục tra cuốn từ điển Johnson để thảo một bức thư gửi cho hầu tước Steyne:
“Đại uý Macmurdo, đại diện cho trung tá Crawley, có hân hạnh được hầu tiếp hầu
tước Steyne, xin báo cùng ngài rằng đại uý đã được trung tá giao cho toàn quyền
sắp đặt cuộc gặp gỡ mà chắc hầu tước cũng đòi hỏi phải có, đồng thời cũng không
thể không có được vì câu chuyện xảy ra đêm qua”.
Một cách hết sức lễ độ, đại uý Macmurdo yêu cầu
hầu tước Steyne chỉ định một người để tiếp xúc với mình, lại ngỏ ý hy vọng cuộc
gặp gỡ sẽ được ấn định sớm chừng nào hay chừng ấy.
Trong giai đoạn tái bút, viên đại uý viết rằng
mình “Hiện đang giữ một tờ ngân phiếu có ghi một số tiền rất lớn, mà trung tá
Crawley có nhiều lý do để đoán rằng thuộc về hầu tước Steyne”. Anh ta rất mong
được thay mặt trung tá Crawley trao tờ ngân phiếu lại cho người có của.
Đang khi bận thảo nốt lá thư thì thằng hầu được
Crawley sai sang phố Curzon trở về, nhưng không mang theo va-ly hoặc áo sống gì
hết; coi bộ nó bối rối lúng túng quá. Nó nói:
- Họ không chịu giao cho cháu. Nhà cửa trông
tan hoang cả, cứ lộn bậy cả lên. Ông chủ nhà đến ngồi đấy, nhất định đòi giữ
hết đồ vật lại. Bọn người làm đang nốc rượu với nhau trong phòng khách. Họ bảo
rằng... Thưa trung tá, họ bảo rằng ngài đã mang bộ đồ ăn bằng bạc chuồn đi
rồi...
Ngừng một lát, nó nói tiếp:
- Một người làm đã bỏ đi mất. Bác Simpson nốc
rượu say tuý luý hò hét ầm lên, bảo rằng hễ không trả tiền công cho bác ta thì
đừng có hòng mang cái gì ra khỏi nhà.
Cuộc nổi loạn ở May Fair làm cho Rawdon ngạc
nhiên, nhưng cũng khiến cho không khí bớt buồn bã vì câu chuyện trao đổi vừa
rồi. Hai viên sĩ quan cùng buồn cười vì nỗi Rawdon bị cụt hứng.
Rawdon cắn móng tay nói:
- May quá, thằng bé lại không có nhà. Mac, Anh
còn nhớ nó không, cái hồi ở Trường huấn luyện kỵ mã ấy mà? Nó cưỡi ngựa khéo
đấy chứ?
Viên đại uý vui tính đáp:
- Phải, khéo lắm.
Lúc ấy thằng Rawdy đang ngồi giữa đám năm mươi
mấy đứa học trò trong thánh đường của Trường thầy dòng áo trắng. Nó không để
tai nghe giảng đạo, vì nó đang bận tâm nghĩ đến chuyện về thăm nhà chiều thứ
bảy sắp tới; chắc thế nào bố nó cũng cho tiền tiêu, có khi lại cho đi xem hát
nữa.
Ông bố vẫn mơ màng đến con trai, lại nói:
- Thằng bé ngoan ngoãn quá. Này Mac, nếu vạn
nhất có chuyện không may... nếu tôi bị... thì nhờ anh...nhờ anh đến tìm cháu hộ
nhé. Anh bảo rằng tôi quý nó lắm và... Đây này... anh đưa hộ tôi cho nó hai cái
khuy áo bằng vàng; tôi chỉ còn có thế thôi.
Anh ta đưa hai bàn tay đen bẩn lên ôm lấy mặt,
những giọt nước mắt chảy xuống từng vệt trắng, Macmurdo cũng có dịp kéo chiếc
mũ ngủ bằng lụa chùi mắt. Rồi anh to tiếng vui vẻ gọi người hầu.
- Xuống bảo làm cái gì ăn. Ăn gì nào Crawley,
bồ dục và cá thu nhé.. Clay, soạn một bộ quần áo đưa ngài trung tá thay; hai
thằng chúng mình cùng to béo nhỉ; thế mà trong quân đội ít người ăn đứt được
cánh mình về khoa cưỡi ngựa đấy.
Đoạn anh ta quay mặt vào tường đọc nốt tờ báo
bỏ dở để Rawdon thay quần áo cho tự nhiên; chờ bạn mặc áo xong, anh ta mới dậy
thay quần áo của mình.
Vì sắp sửa giáp mặt vị hầu tước nên đại uý
Macmurdo ăn bận chải chuốt lắm. Anh ta lấy sáp vuốt bộ râu cho bóng, thắt một
chiếc “nơ” hồ cứng và khoác một tấm áo da thật đẹp. Trông Mac bảnh bao quá đến
nỗi bọn sĩ quan trẻ tuổi trong quán ăn nhà binh thấy anh ta cùng Crawley xuống
ăn sáng hỏi đùa có phải hôm nay chủ nhật, anh ta định đi cưới vợ hay không?
Chương 55
VẪN CÂU CHUYỆN CŨ
Becky tuy gan góc, thế mà những việc xảy ra đêm
hôm trước cũng làm cho cô ta bàng hoàng bối rối không tĩnh trí lại được; mãi
tới lúc chuông nhà thờ ở phố Curzon điểm giờ cầu nguyện buổi trưa, cô ta mới
ngồi dậy kéo chuông gọi chị hầu gái người Pháp; chị này đi biệt đâu mất đã mấy
tiếng đồng hồ rồi.
Kéo chuông mãi cũng chẳng thấy ai trả lời, lần
cuối cùng Becky giật mạnh quá làm đứt cả dây chuông, mà cũng chẳng thấy mặt cô
Fifine đâu... Bà chủ bực mình quá, cứ để nguyên mớ tóc rối bung xoã xuống vai,
tay vẫn còn nắm cái dây chuông, chạy ra đầu cầu thang gọi ầm lên mấy bận, cũng
vô hiệu.
Có gì đâu, thì ra cô Fifine đã đánh bài chuồn
từ mấy giờ trước, nghĩa là “từ biệt kiểu Pháp” như người ta thường nói (). Sau
khi đã nhặt nhạnh mớ đồ trang sức rơi tung vãi trong phòng khách, cô nương
Fifine bèn lên phòng mình thu xếp quần áo buộc lại cẩn thận, đoạn không phiền
đến các bạn đồng nghiệp trong nhà phải giúp đỡ, mà nếu có nhờ, chưa chắc họ đã
mang giúp, vì đối với cô nương họ vẫn bằng mặt mà chẳng bằng lòng, và cũng
không chào hỏi ai, cô nương từ biệt phố Curzon biến thẳng.
Theo ý cô, canh bạc trong nhà này thế là tàn
rồi. Fifine lên xe ngựa tếch thẳng một mạch, y như ta đã từng biết vô khối các
vị tai mắt người Pháp cũng hành động tương tự như thế. Có điều nhờ khôn ngoan
và may mắn hơn, cho nên không những cô mang theo hành lý của mình mà còn nẫng
được ít đồ vật của bà chủ (nếu có thể nói rằng bà chủ còn có đồ vật trong
nhà)...ngoài món đồ trang sức chúng ta đã biết, cô còn vớ được một mớ quần áo
đáng tiền mà cô vẫn để mắt từ lâu, bốn cây đèn kiểu Louis mười bốn mạ vàng rất
đẹp, sáu tập sách bìa mạ vàng, mấy tập lưu niệm, một cuốn “Bí quyết giữ sắc
đẹp”, một chiếc hộp đựng thuốc lá nạm vàng trước kia là của du Barri phu nhân,
một lọ mực rất xinh có nạm ngọc trai mọi khi Becky vẫn dùng để viết những phong
thư tình màu hồng.
Tất cả những thứ ấy cùng biến đi một lúc với cô
nương Fifine, đồng thời với bộ đồ ăn bằng bạc dọn trong bữa tiệc () đêm qua bị
Rawdon phá bĩnh. Công nương chỉ để lại một ít bát đĩa thường dùng, có lẽ vì quá
cồng kềnh, cũng vì lý do ấy, cô không mang theo que cời lửa bằng sắt, mấy tấm
kính trên lò sưởi và cây dương cầm bằng gỗ hồng.
Ít lâu sau ở phố Helder, Paris, người ta thấy
có một người giống hệt cô Fifine đứng chủ một cửa hiệu trang sức. Cửa hàng rất
được tín nhiệm, bà chủ hiệu được hầu tước Steyne nâng đỡ rất nhiều. Hễ nhắc đến
nước Anh, y như người đàn bà này than thở rằng dân nước ấy xảo quyệt nhất thế
giới; bà này kể chuyện với mấy cô học việc rằng mình đã bị người Anh lừa cho
một vố tàn hại (). Có lẽ vì thương bà ta gặp phải cảnh không may nên hầu tước
Steyne mới đặc biệt có cảm tình với bà de Saint-Amaranthe chăng.
Thôi thì chúc bà làm ăn phát đạt cho xứng với
bà... chúng ta cũng chẳng còn gặp lại bà trong chốn Hội chợ phù hoa này nữa.
Thấy dưới nhà có tiếng ầm ầm mà bọn đầy tớ láo
xược không đứa nào thèm lên tiếng trả lời, Becky giận quá, bèn khoác tạm tấm áo
tắm vào người, đường hoàng xuống thang gác bước vào phòng khách xem có chuyện
gì mà ồn ào thế, thì thấy chị bếp mặt đen nhẻm, ngồi vắt vẻo trên chiếc ghế
xô-fa kiểu Ba-tư rất đẹp, đang chuốc rượu cho bác Raggles gái ngồi bên cạnh.
Chú hầu việc bận bộ chế phục có hàng khuy trắng bong như những viên đường, mọi
ngày vẫn chạy đưa những phong thư màu hồng cho chủ và vẫn nhanh nhẹn nhảy lên
đứng hầu sau xe ngựa của Becky, cũng đang cắm cúi thò tay khoét đĩa bánh kem.
Chú vừa ăn vừa tán chuyện với bác Raggles trai; bác này mặt mũi bơ phờ, bối
rối..., thành ra tuy cửa vẫn mở toang, và Becky chỉ đứng cách vài bước đã hết
hơi gọi sáu bảy bận, mà họ vẫn cứ lờ tít đi. Becky bước vào phòng khách, chiếc
áo tắm bằng lụa casơmia trắng loà xoà dưới chân, nghe thấy chị bếp đang nói:
“Này bà Raggles, uống thêm một hớp nữa cho vui”.
Bà chủ nhà giận quá, quát ầm lên:
- Simpson! Trotter! Sao nghe thấy tôi gọi mà
các người cứ mọc rễ cả ra ở đây? Trước mặt tôi mà các người dám ngồi ỳ ra đây
à? Chị hầu phòng đâu?
Chú hầu việc hơi hoảng vội rút mấy ngón tay đầy
kem trong mồm ra; nhưng chị bếp điềm nhiên nốc nốt chỗ rượu bác Raggles gái từ
chối không uống, mắt trừng trừng nhìn trả Becky qua chiếc cốc thuỷ tinh viền
vàng. Hình như men rượu làm cho người đày tớ nổi loạn thêm can đảm. Thế rồi bà
đầu bếp mới lên tiếng:
- Ghế xô-fa của bà! ấy chết! Chúng tôi đang
ngồi trên ghế xô- fa của ông bà Raggles đây ạ! - Bà Raggles, việc **** gì mà sợ
kia chứ? Ông bà ấy làm đổ mồ hôi sôi nước mắt mới có tiền mua, mà mua với giá
đắt kia đấy. Này bà Raggles, tôi đang nghĩ rằng giả sử tôi cứ ngồi đây đợi tới
khi được trả tiền công, mà có lẽ còn phải chờ lâu lắm nhỉ! Tôi sẽ ngồi đợi đến
cùng... ha!ha!ha!.
Đoạn chị bếp lại rót thêm cốc rượu nữa, phá ra
cười mỉa mai một cách rất thô bỉ, và nốc cạn.
Bà chủ nhà thét lên:
- Simpson! Trotter! Tống cổ con mẹ say rượu này
đi cho tao.
Chú hầu việc Trotter đáp:
- Tôi chịu, mời bà tống cổ lấy. Xin bà trả tôi tiền công, rồi tống cổ nốt
cả tôi đi cũng được. Chúng tôi xin đi ngay lập tức.
Becky phát điên lên:
- Chúng mày đứng đây chửi tao phải không? Để trung tá Crawley về, tao sẽ...
Nghe dọa thế, bọn đày tớ cười rầm lên; riêng bác Raggles không cười, mặt
vẫn buồn thiu. Trotter nói:
- Ông ấy không trở về đâu; ông ấy cho người lại đây lấy quần áo, bác
Raggles định đưa, nhưng đời nào tôi bằng lòng. Bây giờ ông ấy có là trung tá
nữa đâu, khác cóc gì tôi. Ông ấy tếch đi rồi; chắc bà cũng đang muốn theo gót
hẳn? Hai vợ chồng nhà bà là đồ lừa đảo, có thế thôi. Đừng có bắt nạt thằng này
nhé. Nó không chịu đâu. Trả tiền công đây. Đã bảo là trả tiền công đây.
Nom bộ mặt đỏ tía và nghe cái giọng lè nhè của Trotter, cũng biết anh ta
vừa được ma men kích thích.
Becky ngượng quá, nói:
- Bác Raggles, bác nỡ để cho cái thằng say rượu kia nó chửi lại tôi thế à?
Chú hầu việc Simpson thấy chủ thế cũng thương hại, bảo bạn:
- Thôi, im mồm đi, Trotter.
Trotter bị gọi là thằng say rượu định sửng cồ gây sự, nhưng Simpson can
được. Bác Raggles nói:
- Bà ơi, tôi không thể ngờ có ngày lại ra cơ sự thế này. Tôi biết gia đình
Crawley từ thủa lọt lòng mẹ. Suốt ba mươi năm trời giữ chân quản lý cho bà
Crawley... tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình lại bị một người trong gia đình ấy
làm cho khánh kiệt!
Bác vừa nói vừa rơm rớm nước mắt:
- Thế bà có định trả tôi tiền nhà không? Bà ở nhà tôi đã bốn năm nay rồi;
bà lại mua chịu cả thức ăn, bát đĩa, vải vóc. Bà còn nợ tôi tiền sữa, tiền bơ,
cả thảy là hai trăm đồng bảng. Cũng phải trả tôi trứng vẫn tráng cho bà ăn, và
tiền kem mua cho chó của bà chứ.
Chị bếp xen vào:
- Bà ấy thì cần cóc gì chó; đến con đẻ rứt ruột bà ấy còn coi không ra gì
nữa là. Nhiều bận không có tôi cho ăn thì thằng bé chết đói.
Trotter mới kêu ầm lên đặc giọng say:
- Bây giờ thằng bé thành con nhà mồ côi rồi.
Ha! ha!
Bác Raggles chất phác vẫn tiếp tục kể khổ bằng
cái giọng não nuột đến thương. Những điều bác nói toàn đúng cả. Vợ chồng Becky
đã làm cho bác khánh kiệt thật. Chỉ vì tin vào gia đình Crawley mà phen này
không những bác bị truy tố, bị mất cả cửa hàng và toà nhà riêng cũng nên. Nghe
bác khóc mếu than thở, Becky càng thêm bực mình. Cô ta chua chát nói:
- Ra các người âm mưu với nhau hại tôi đây. Các
người muốn gì nào? Ngày chủ nhật, tôi không thể trả tiền công được. Ngày mai
tôi sẽ trả hết. Tôi tưởng rằng trung tá Crawley đã thanh toán xong xuôi với các
người rồi. Ngày mai, ông ấy sẽ trả sòng phẳng. Tôi lấy danh dự mà cam đoan với
các người rằng sớm nay ông ấy đi còn mang theo một nghìn năm trăm đồng trong
ví, và chẳng còn để lại cho tôi đồng nào. Đi mà hỏi ông ấy. Đưa tôi cái mũ và
chiếc khăn san, tôi đi tìm xem ông ấy ở đâu. Sáng nay, tôi với ông ấy có chuyện
xích mích, các người cũng biết đấy. Tôi lấy danh dự mà hứa rằng sẽ trả tiền công
mọi người đầy đủ. Ông ấy vừa được gọi đi làm, có khối tiền. Để tôi đi tìm ông
ấy.
Nghe lời tuyên bố táo bạo ấy, bác Raggles và
mấy vị kia đờ người ra mà nhìn nhau; Rebecca thừa dịp chuồn thẳng. Cô ta lên
gác mặc áo, lần này không cần có chị hầu gái người Pháp giúp đỡ. Rồi cô ta đi
vào phòng của Rawdon, thấy một bọc áo và cái va-ly để sẵn, kèm theo mảnh giấy
viết bút chì dặn rằng có ai hỏi thì người nhà giao hộ. Becky lại sang phòng ngủ
của chị hầu gái người Pháp, thấy ngăn kéo rỗng tuếch, đồ đạc bị vét sạch sành
sanh. Nhớ lại món đồ trang sức ném trên sàn phòng khách đêm qua, cô ta yên trí
chị hầu gái trốn biệt mất rồi. Becky than thở một mình:
- Trời đất ơi! Có ai gặp cảnh không may như tôi
thế này không? Leo cây gần đến ngọn mà phút chốc xôi hỏng bỏng không! Nhưng có
phải thế là hoàn toàn tuyệt vọng rồi không? Không, hãy còn lối thoát.
Mặc áo xong Becky ra cửa; lần này không ai làm
rầy rà, nhưng cũng không ai theo hầu. Lúc ấy là bốn giờ chiều. Cô ta rảo bước
đi một mạch qua các phố (vì tiền đâu mà đi xe?) tới cửa nhà Pitt Crawley ở phố
Greet Gaunt mới dừng lại. Lúc này liệu công nương Jane có nhà không? Chắc đi lễ
nhà thờ, Becky không có điều gì lo ngại. Tôn ông Pitt đang ở trong phòng làm
việc, đã ra lệnh cho người nhà không được quấy rầy... Nhưng thế nào Becky cũng
phải gặp mặt bằng được... cô ta lách qua người nhà bận chế phục đứng gác cửa
chạy tọt vào phòng của Pitt... Vị nam tước tay vẫn còn cầm tờ báo đờ người ra
vì ngạc nhiên. Pitt đỏ bừng mặt, lùi lại, có vẻ hoảng hốt; Becky nói:
- Xin bác đừng nhìn em thế. Bác ơi, xưa nay bác
vẫn thương em. Thề có đức Chúa, quả thực em vô tội. Nhìn bề ngoài thì tưởng
thế, mọi sự đều như muốn kết tội em. Trời đất ơi! Việc xảy ra đúng lúc em sắp
thực hiện được nguyện vọng khao khát xưa nay, đúng lúc em chỉ với tay là nắm
được hạnh phúc.
- Thế là cái tin tôi vừa đọc trong báo là đúng à?
Pitt hỏi lại, có ý ám chỉ đến đoạn tin trong báo khiến anh ta vô cùng ngạc
nhiên.
- Đúng thế. Đêm hôm thứ sáu, cái đêm có cuộc dạ hội tai hại ấy, hầu tước
Steyne đã báo tin cho em rõ. Đã sáu tháng nay, ngài hứa có dịp sẽ bổ dụng nhà
em. Mãi đến hôm kia, ông Martyr Bộ trưởng Bộ thuộc địa mới báo cho ngài hay
rằng đã ký giấy bổ nhiệm nhà em. thì xảy ra việc bắt bớ tai hại và câu chuyện
chạm trán khốn khổ kia. Em chỉ có mỗi một tội là quá săn đón hạnh phúc Rawdon.
Xưa nay, em vẫn tiếp hầu tước Steyne một mình trong nhà có hàng trăm lần. Em
thú nhận rằng có cầm tiền của hầu tước mà giấu không cho Rawdon biết. Nhưng bác
rõ đấy. Anh ấy coi tiền bạc như rác, đưa cho anh ấy thì hết sạch ngay.
Cứ thế, cô ta dựng lên một chuyện đủ cả đầu đuôi, nói như rót vào tai ông
anh chồng, làm cho Pitt bỗng trở nên bối rối.
Nghe câu chuyện người ta nghĩ thế này: Becky thành khẩn thú nhận và tỏ ra
rất hối hận vì không tỏ thái độ dứt khoát khi thấy hầu tước Steyne đặc biệt săn
sóc mình (nghe đến đây Pitt bỗng đỏ mặt), nhưng cô ta tin vào đức hạnh của
mình, bèn lợi dụng ngay cái bệnh si tình của lão để mưu lợi cho bản thân và gia
đình; cô ta bảo:
- Bác Pitt ạ, em đang tính chạy cho bác một chân thượng nghị sĩ (Pitt lại
đỏ mặt); hầu tước và em đã bàn về chuyện ấy. Cứ tài năng của bác, lại được hầu
tước Steyne nâng đỡ thì việc ấy không đến nỗi khó khăn lắm nếu không có cái
chuyện rắc rối kia xảy ra làm tan vỡ hết mọi hy vọng. Nhưng trước tiên em thú
nhận rằng phải tìm cách nào cứu ngay nhà em đã... mặc dầu anh ấy nghi oan cho
em và đối xử với em không ra gì, em vẫn yêu quý như thường...Phải tìm cách cứu
anh ấy ra khỏi cảnh phá sản và túng đói đang đe doạ chúng em. Em biết rằng hầu
tước Steyne đối với em có bụng mến (đến đây cô ta nhìn xuống đất); em cũng thú
thực rằng em tìm mọi cách khiến cho ngài được hài lòng, nghĩa là những cách mà
một người đàn bà đứng đắn có thể dùng, để giữ được... cảm tình của ngài. Mãi
đến sáng hôm thứ sáu vừa rồi mới được tin viên Thống đốc bảo Coventry đã chết;
ngài hầu tước lập tức vận động cho nhà em thế chân ngay. Chúng em dự định làm
chuyện thật bất ngờ cho anh ấy ngạc nhiên... để cho anh ấy đọc báo hôm nay mới
biết. Lúc việc bắt bớ tai hại kia xảy ra rồi, ngài còn cười với em mà bảo rằng
chắc anh Rawdon đọc báo thấy tin ấy thì tuy ngồi trong nhà giam nhưng cũng được
an ủi... hầu tước rất rộng lượng, định sẽ bỏ tiền trả nợ cho Rawdon, cho nên em
không cần đến tìm anh ấy ở nhà giam làm gì. Thế rồi... Thế rồi bỗng nhiên nhà
em trở về; rồi nghi oan cho em; rồi hai người xô xát với nhau... Trời ơi Không
biết sẽ còn xảy ra những chuyện gì nữa đây? Bác Pitt ơi, bác Pitt quý mến ơi!
xin bác hãy thương chúng em, xin bác hãy hoà giải cho vợ chồng chúng em.
Vừa nói, Becky vừa quỳ xuống khóc lóc thảm thiết, và nắm chặt lấy tay Pitt
mà hôn lấy hôn để.
Vừa lúc ấy công nương Jane đi lễ nhà thờ về; nghe tin có bà Rawdon Crawley
đến, công nương vội chạy vào phòng làm việc của chồng, thấy ngay vị nam tước
với cô em dâu đang trò chuyện với nhau.
Lúc ăn sáng xong, công nương Jane đã sai ngay người hầu gái đến tìm bác
Raggles và bọn đầy tớ trong nhà Rawdon hỏi chuyện; họ kể lại hết cho chị này
nghe câu chuyện vừa xảy ra và nhiều chuyện khác, lại thêm mắm thêm muối đầy đủ.
Lúc này công nương Jane mặt tái nhợt đi, chân tay run bắn lên nói:
- Lạ thật, cô kia còn dám cả gan vào nhà tôi làm gì thế? Cô còn dám vác mặt
đến một gia đình.. một gia đình lương thiện à?
- Bác bảo bác gái hộ, đó…bác gái chưa biết hết sự thực đâu. Bác nói rằng em
vô tội đi, bác.
Pitt bảo vợ:
- Mình yêu quý ạ, tôi chắc rằng mình đã ngờ oan cho thím Crawley (Rêbeca
nghe mà nhẹ cả người), tôi tin rằng thím ấy...
Giọng nói thanh thanh của công nương Jane bỗng run lên, miệng nói tim đập
thình thịch vì xúc động:
- Tin rằng thím ấy làm sao? Là một người đàn bà
xảo quyệt...một người mẹ tán tận lương tâm, một người vợ bất chính phải không?
Cô ta có bao giờ yêu con đâu; thằng bé vẫn trốn mẹ đến tìm tôi kể chuyện bị mẹ
hành hạ thế nào. Con người ấy đặt chân vào nhà nào là chỉ cốt làm cho gia đình
người ta tàn hại mới thôi, chỉ cốt đem cái miệng lưỡi bẻo lẻo điêu ngoa ra mà
phá hoại những tình cảm thiêng liêng nhất mới chịu. Cô ta đã lừa dối chồng như
đã từng lừa dối tất cả mọi người. Lòng dạ con người ấy bị đầu độc vì bả trác
táng phù hoa và bao thứ tội ác khác rồi. Chạm vào người ấy mà tôi run sợ, tôi
phải giữ con tôi cho chúng khỏi nhìn thấy người ấy… tôi…
Pitt đứng bật dậy, kêu lên:
- Kìa Jane, sao mình lại ăn nói như thế...
Công nương Jane không hề sợ hãi, vẫn tiếp :
- Tôn ông Pitt, tôi vẫn là người vợ trung thành
của ngài; tôi vẫn hằng giữ lời nguyền trước mặt Chúa trời khi làm lễ cưới; tôi
vẫn là một người vợ ngoan ngoãn phục tùng. Nhưng sự phục tùng cũng phải có một
giới hạn, tôi xin nói rằng không thể chịu nổi...không thể chịu nổi lại phải
nhìn mặt con người ấy trong nhà này, nếu để cho cô ta bước vào nhà này, thì tôi
dắt con tôi đi nơi khác. Cô ta không đáng cùng ngồi với những người biết kính
Chúa. Ngài... ngài phải chọn, hoặc là tôi, hoặc là người đàn bà kia.
Nói đoạn, công nương Jane bước ra khỏi phòng,
trong lòng bồi hồi vì cảm thấy mình cũng quá táo bạo. Rebecca và Pitt cũng ngác
nhiên không kém.
Về phần Becky, cô ta không lấy thế làm mếch
lòng... trái lại, hơi lấy làm thú vị nữa. Cô ta buông bàn tay Pitt ra, nói:
- Chỉ tại chiếc cặp kim cương bác cho em đấy.
Trước khi Becky ra về (chắc thế nào công nương
Jane cũng đứng trên gác nhìn qua cửa sổ phòng rửa mặt lúc Becky bước ra), vị
nam tước đã hứa sẽ đi tìm em trai và cố gắng hoà giải cho hai vợ chồng.
*
Rawdon gặp mấy người bạn trẻ trong trung đoàn
ngồi ăn sáng trong quán ăn nhà binh; họ mời anh ta cùng ngồi điểm tâm, anh ta
chỉ từ chối gọi là, rồi nhận lời ngay; thực đơn có đùi gà và nước xô-đa. Ăn
xong họ ngồi tán chuyện vặt, toàn những chuyện thích hợp với lứa tuổi của họ:
chuyện thi bắn chim bồ cầu ở Battersea, có đánh cuộc xem Ross và Osbaldiston ai
ăn giải; chuyện cô Ariane ở rạp ca vũ Pháp, cô ta bị anh nhân tình nào bỏ rơi,
bây giờ đang nhờ Panther Carr an ủi ra sao; chuyện cuộc so găng giữa Butcher và
Pet. Anh chàng Tandyman mới mười bảy tuổi ranh đã nhất định để bằng được một bộ
ria mép; lấy tư cách là người đã dự xem trận đấu, anh ta lên mặt sành sỏi phân
tích đấu pháp và thể lực của hai võ sĩ; chính anh ta đã cùng ngồi xe ngựa với
Butcher đến chỗ tỷ thí, và suốt đêm trước hôm tổ chức trận đấu đã ở liền bên
cạnh võ sĩ này. Nếu địch thủ không chơi xấu, nhất định Butcher thắng trận.
Những tay sành quyền Anh đều thống nhất ý kiến như vậy, Tandyman không trả tiền
thua cuộc. Không, không bao giờ! Thực ra mới cách đây một năm thôi, nhà bình
luận thể thao trẻ tuổi này, hiện là một tay sành sỏi trong phòng khách của
Cribb, còn thích mút kẹo, và vẫn bị xơi roi vào đít trong trường trung học
Eton.
Họ khác nhau những chuyện vũ nữ, chuyện đấu
quyền, chuyện rượu chè, chuyện đàn bà lẳng lơ cho tới lúc Macmurdo xuống cùng
tham dự. Anh ta không hề nghĩ rằng mình cần dè dặt đôi chút trước mặt đám thanh
niên còn thơ ngây này. Mac tuôn ra một tràng toàn những chuyện trác táng vào
loại giai thoại của những tay ăn chơi bừa bãi nhất, không chút ngần ngại vì
trên đầu có hai thứ tóc, và người nghe toàn là bọn thanh niên mặt bấm ra sữa.
Bác Mac già xưa nay vốn nổi danh là một kho chuyện sống. Anh ta không hẳn là
người lịch thiệp, vì bè bạn thường chỉ dám mời anh ta dự tiệc tại nhà nhân tình,
chứ không dám đưa anh ta ra mắt “bà mẹ” tại nhà mình. Anh ta sinh hoạt cực kỳ
giản dị, nhưng hoàn toàn bằng lòng với cuộc sống của mình, lúc nào cũng tỏ ra
thoải mái, vui vẻ như không.
Lúc Mac ăn xong bữa sáng ê hề của mình thì đa
số bạn hữu cũng đã đứng dậy. Anh chàng bá tước trẻ tuổi Varinas ngậm một chiếc
tẩu bọt bể to tướng, còn đại uý Hugues thì đang loay hoay cuốn điếu thuốc lá;
cậu thanh niên Tandyman khí huyết cương cường đang vừa cặp một con chó săn giữa
hai đùi, vừa ra sức mà tung hoành mấy đồng tiền chơi sấp ngửa với đại uý
Deuceace (không lúc nào thấy Tandyman chịu ngồi yên mà không đánh bạc hoặc chơi
trò gì đấy). Mac và Rawdon bỏ phòng ăn bước ra, không ai hé răng nói nửa lời về
cái việc đang choán lấy tâm trí họ. Trái lại, lúc này cả hai cùng vui vẻ tham
gia câu chuyện của các bạn; vả chăng, việc gì mà phải làm phiền họ? Trong Hội
chợ phù hoa, những “cuộc vui suốt tháng, trận cười thâu đêm” chẳng vẫn diễn ra
song song với bao sự đau khổ đó sao? Lúc Rawdon và bạn đi dọc theo phố St.
James để vào câu lạc bộ, họ thấy từ trong nhà thờ người đi lễ về đổ ra đông như
kiến.
Những tay quen thuộc của câu lạc bộ hay đứng há
hốc mồm nhòm qua cửa sổ nhấm nháy các cô qua đường vẫn chưa thấy đến chiếm lĩnh
vị trí quan sát của mình... Phòng để báo chí vắng tanh.
Rawdon chỉ mới thấy có một người lạ mặt, và một
người khác còn cho anh ta chịu một món nợ vì thua bạc; dĩ nhiên anh ta không
muốn nhìn mặt người này. Một người thứ ba đang ngồi đọc tờ tuần báo “Người bảo
hoàng” ở bàn (một tờ báo nổi danh vì hết sức trung thành với Nhà vua và Nhà
thờ, và vì lắm chuyện rắc rối nữa); người này ngẩng mặt lên chăm chú nhìn
Rawdon rồi bảo:
- Crawley, tôi có lời mừng anh.
Rawdon hỏi:
- Anh định nói gì vậy?
- Báo “Người quan sát” và cả báo “Người bảo
hoàng” nữa cũng đăng tin đây này.
- Đăng cái gì?
Rawdon đỏ tía mặt. Anh ta tưởng chuyện xô xát
với hầu tước Steyne đã bị đưa lên báo. Thấy viên trung tá run run cầm lấy tờ
báo, Smith mỉm cười hơi lấy làm lạ.
Lúc Rawdon bước vào câu lạc bộ thì ông Smith và
ông Brown (tức là người còn cho Rawdon nợ món tiền thua bạc) vừa nói chuyện với
nhau xong về anh chàng.
Smith hỏi:
- Tin mừng đến đúng lúc thật. Tôi chắc Crawley
đang không có lấy một xu dính túi.
Brown đáp:
- Âu cũng là tin vui chung cho nhiều người. Hắn
mà không trả tôi hai mươi lăm đồng thì đừng hòng đi thoát với tôi.
Smith:
- Lương được bao nhiêu?
- Độ hai ba nghìn. Nhưng khí hậu thì kinh
khủng, không thọ lâu được đâu Liverseege được mười tám tháng thì tử; nghe nói
người trước nữa mới đến có sáu tuần đã đi đứt.
Smith:
- Nhiều người vẫn khen thằng anh trai nó khôn
ngoan. Tôi thấy thằng cha ấy thật khó tiêu không thể tưởng tượng được; nhưng
hắn là tay có thế lực. Chắc hắn chạy cho em trai chân này chứ gì.
Brown nhếch mép cười:
- “Hắn”, nào! Xì, hầu tước Steyne lo cho đấy.
- Anh nói cái gì vậy?
- Có cô vợ đức hạnh dĩ nhiên đức ông chồng cũng
được thơm lây. Brown trả lời, giọng bí mật, rồi lại tiếp tục đọc báo. Lát sau
Rawdon cũng đọc thấy đoạn tin kỳ lạ sau đây đăng trên tờ “Người bảo hoàng”:
CHỨC VỤ TỔNG TRẤN ĐẢO COVENTRY
Chiếc tàu sốt rét rừng, do đại uý Jaunders làm
thuyền trưởng, vừa đem tin tức từ Đảo Covenry về. Ngài Thomas Liverseege vừa tạ
thế ở “Thị trấn Đồng lầy” vì mắc bệnh sốt rét. Khắp thuộc địa ai cũng lấy làm
vô cùng thương tiếc. Chúng tôi được tin chức vụ Tống trấn hiện vừa trao cho
trung tá Rawdon Crawley, tước Tuỳ giá hiệp sĩ, một sĩ quan xuất sắc đã tham dự
trận Waterloo. Hiện nay không những chúng ta đang cần những người can đảm, mà
còn cần cả những người có tài năng về chính trị để đảm đương công việc tại các
thuộc địa. Chúng tôi tin chắc rằng nhân vật đã được Bộ thuộc địa lựa chọn để
đảm nhiệm chức vụ hiện nay còn để trông tại Đảo Coventry sẽ hoàn toàn xứng đáng
với trọng trách.
Đại uý Macmurdo vừa cười vừa nói:
- Đảo Coventry! Nó ở đâu nhỉ? Ai chạy cho cậu
chân tổng trấn này? Này cậu, phải cho tớ đi theo giữ chức bí thư chứ?
Crawley và bạn ngồi nhìn nhau ngạc nhiên trước
cái tin đột ngột. Bỗng thấy người hầu bàn đưa vào cho Rawdon một tấm danh thiếp
trên đề tên ông Wenham, và có ghi yêu cầu được tiếp ngay.
Viên trung tá và người bạn phụ tá bước ra đón,
yên trí ông này là phái viên của hầu tước Steyne; Wenham cười cười, hết sức
thân mật nắm chặt lấy tay Rawdon, nói:
- Mạnh khoẻ chứ, Crawley? Rất hận hành được gặp
anh.
- Có lẽ ông đến về việc của...
Wenham đáp:
- Rất đúng.
- Vậy thì xin giới thiệu ông bạn tôi, đại uý
Macmurdo thuộc Đội ngự lâm quân.
- Rất hân hạnh được biết đại uý Macmurdo.
Wenham lại mỉm cười và bắt tay viên đại uý, cử
chỉ cũng thân mật như đối với Rawdon. Mac giơ ra một ngón tay đeo găng da, và
lạnh lùng chào lại. Có lẽ anh ta đang bực mình vì phải tiếp một người dân
thường; anh ta cứ yên trí ít nhất hầu tước Steyne cũng phái một viên đại tá đến
nói chuyện.
Crawley nói:
- Macmurdo thay mặt tôi; anh ấy đã hiểu rõ ý muốn
của tôi. Vậy xin cáo lui để hai người được tự nhiên thì hơn.
Macmurdo cũng nói:
- Đúng lắm.
Nhưng Wenham đáp:
- Ấy không được, thưa trung tá. Tôi có hân hạnh
mong được tiếp xúc với chính ông. Tuy rằng đại uý Macmurdo đây cũng là người
rất dễ chịu. Vả lại, thưa đại uý, tôi hy vọng rằng câu chuyện của chúng ta sẽ
dẫn đến một kết quả hoàn toàn tốt đẹp, trái hẳn với sự dự đoán của trung tá
Crawley.
Đại uý Macmurdo thốt ra những tiếng “Hừ!” đầy
bực bội. Anh ta nghĩ thầm: “Cái bọn dân thường chết tiệt, lúc nào cũng chỉ
những dàn xếp với thảo luận”.
Wenham kéo một chiếc ghế ngồi xuống, tuy không
ai mời. Hắn rút trong túi ra một tờ báo, nói tiếp:
- Trung tá đã đọc tin bổ nhiệm đăng báo sáng
nay chưa? Chính phủ đã biết chọn mặt gửi vàng, và nếu ông chịu lãnh trách nhiệm
ấy thì cũng là một công việc rất tốt; riêng tôi nghĩ rằng rất nên. Lương ba
nghìn đồng một năm, khí hậu dễ chịu, dinh thự riêng đẹp tuyệt, là ông vua con
trong thuộc địa, lại có nhiều hy vọng được thăng chức. Xin thành thực có lời
mừng ông. Chắc hai ông cũng rõ ai đã đứng ra lo giúp việc này chứ?
Viên đại uý đáp:
- Tôi mà có biết thì tôi chết.
Rawdon đỏ bừng mặt lên.
- Một người rộng lượng, tốt bụng nhất đời và
cũng là một bậc cực kỳ danh giá... tức là ông bạn quý của tôi, hầu tước Steyne.
Rawdon gầm lên:
- Để tôi cho hắn xuống âm phủ rồi hãy hay.
Wenham thản nhiên tiếp:
- Ông quá giận người bạn quý của tôi đấy; nhưng
hãy xin ông bình tĩnh và công bằng mà cho biết tại sao nào?
Rawdon ngạc nhiên kêu lên:
- Tại sao à?
Viên đại uý cũng gõ chiếc ba-toong cọc cọc
xuống mặt sàn noi:
- Vì lý do gì nữa Mẹ kiếp!
Wenham vẫn mỉm cười, một nụ cười tươi tắn, nói
tiếp:
- Đúng thế đấy. Xin ông hãy suy xét về vấn đề
này như mọi người... nghĩa là như những người đứng đắn khác, xem ông có lầm hay
không. Ông đi vắng về và thấy...thấy gì?... thấy hầu tước Steyne cùng bà
Crawley dùng bữa tối trong nhà ông tại phố Curzon. Đâu phải là một chuyện kỳ lạ
hay mới mẻ? Ngài hầu tước vẫn đến chơi nhà như vậy đã hàng trăm lần, có sao?
Tôi xin lấy danh dự của một con người thượng lưu (đến đây, Wenham đặt một tay
lên ngực áo choàng điệu bộ như đang nói trước quốc hội), tôi xin tuyên bố rằng
sự ngờ vực của ông hết sức quái gở, và hoàn toàn vô căn cứ; sự ngờ vực ấy đã
bôi nhọ danh dự của một nhà quý tộc đáng kính đã từng tỏ rõ thiện chí đối với
ông hàng nghìn lần... đồng thời cũng bôi nhọ danh dự của một người đàn bà trong
trắng, vô tội nhất đời.
Macmurdo hỏi:
- Ông không định bảo rằng... rằng Crawley nhầm
đấy chứ?
Wenham hăng hái đáp:
- Tôi tin rằng bà Crawley trong trắng như tôi
tin vợ tôi là bà Wenham vậy. Tôi tin rằng sự ghen tuông mù quáng đã khiến ông
ấy làm hại thanh danh một bậc tuổi tác yếu đuối có địa vị trong xã hội, xưa nay
vẫn là người bạn trung thành và ân nhân của gia đình, đồng thời cũng làm hại đến
thanh danh của bà ấy, làm hại đến thanh danh của chính ông ấy, làm hại đến
thanh danh của con trai ông ấy sau này lớn lên, và phá đổ mọi hy vọng trong
cuộc đời của ông ta.
Wenham lại trịnh trọng nói tiếp đầu đuôi câu
chuyện: “Sáng nay, hầu tước Steyne cho tìm tôi; tôi đến nhà thấy dáng điệu ngài
thật thiểu não; không cần nói chắc trung tá Crawley cũng rõ, sau một cuộc xô
xát với người sức lực như ông thì người nào già nua yếu đuối mà chẳng thiểu não
như thế. Tôi xin nói thẳng cho ông biết rằng cậy sức khoẻ như vậy là tàn ác,
trung tá Crawley ạ. Không phải người bạn quý của tôi chỉ đau đớn về thể xác...
mà thưa ông, tâm hồn ngài cũng đang bị vò xé. Bởi lẽ ngài đã bị một người xưa
nay mình vẫn thương yêu, vẫn ra sức giúp đỡ, đột nhiên vu cho một việc tồi tệ
nhất đời. Thử hỏi nếu ngài không ăn ở tốt với ông thì tại sao lại có việc bổ
nhiệm đăng trên các báo ngày hôm nay? Tôi đến thăm hầu tước, thấy ngài thật
đáng thương; ngài cũng như ông đang khao khát lấy máu rửa sạch mối nhục này.
Trung tá Crawley, hẳn ông cũng đã từng rõ những chiến tích của ngài hầu tước?
Viên Trung tá đáp:
- Hắn can đảm lắm; xưa nay nào ai bảo hắn là
hèn nhát?
- Thoạt tiên, ngài bảo tôi thảo một lá thư
thách thức mang trao cho trung tá Crawley. Ngài nói: “Trong hai chúng tôi, phải
có một kẻ chết vì việc xúc phạm danh dự đêm qua”.
Crawley gật đầu nói:
- Ông đã đi vào vấn đề đấy, ông Wenham ạ.
- Tôi bèn hết sức can ngăn hầu tước Steyne. Tôi
bảo: “Trời đất ơi! Thật không may quá; đêm qua bà Crawley mời tôi và nhà tôi
đến dùng bữa đêm, chúng tôi lại từ chối”.
Đại uý Macmurdo hỏi:
- Bà ấy mời ông cùng đến dùng bữa đêm?
- Sau khi ở rạp Opera về, giấy mời còn đây...
khoan đã...không phải, đây là giấy khác... tôi nhớ vẫn còn giữ, nhưng điều ấy
không quan trọng lắm; tôi xin lấy danh dự mà cam đoan là có mời thực. Chỉ vì bà
Wenham nhà tôi đêm qua bị nhức đầu... cái bệnh quỷ, cứ đến mùa xuân là đau như
búa bổ vào óc... Nếu chúng tôi đến dự thì đâu đến nỗi xảy ra chuyện rắc rối, xô
xát, ngờ vực thế này...Thành ra rõ ràng chỉ tại bà vợ tôi nhức đầu, nên có hai
người biết trọng danh dự hiện đang bị cái chết đe doạ, và hai gia đình thuộc
dòng dõi lâu đời nhất nước hiện đang sầu não vì việc này.
Macmurdo quay lại nhìn bạn, có vẻ hết sức khó
xử. Rawdon tức tưởng muốn phát điên như thú dữ bị mất mồi. Anh ta nghe chuyện
không sao tin được lấy một câu, nhưng chứng minh bằng cách nào bây giờ?
Wenham vẫn nói thao thao bất tuyệt như vẫn quen
diễn thuyết trong quốc hội:
- Tôi ngồi cạnh giường hầu tước Steyne có đến
hơn một tiếng đồng hồ; tôi cầu khẩn, tôi van xin hầu tước hãy bỏ dự định đòi
gặp gỡ đi. Tôi vạch cho ngài thấy rằng, dầu sao đi nữa thì nom bề ngoài câu
chuyện cũng có vẻ khả nghi... cả hai người đều để bị ngờ vực. Tôi công nhận
rằng người ta ai cũng có thể lâm vào trường hợp éo le như thế... Tôi bảo rằng
một người đang giận dữ vì ghen tuông thì suy nghĩ hành động không khác gì người
điên. Vậy cũng chỉ coi là một người điên không hơn không kém... nếu bây giờ đấu
súng với nhau thì tai hại cho cả hai bên... nhất là thời buổi này; đang khi
những tư tưởng cách mạng quái gở và những thứ chủ nghĩa bình đẳng cực kỳ nguy
hiểm đang được reo rắc trong đám quần chúng bình dân, một người có địa vị cao
như hầu tước càng không có quyền để vỡ lở ra những chuyện tai tiếng! Vả chăng,
dẫu rằng hầu tước trong sạch, đám quần chúng bình dân kia sẽ vẫn đinh ninh rằng
lỗi về phần ngài. Tóm lại, tôi đã yêu cầu hầu tước thôi đừng gửi thư thách thức
nữa.
Rawdon nghiến chặt hai hàm răng, nói:
- Tôi không thèm tin lấy một lời nào của ông.
Chuyện ông nói hoàn toàn bịa đặt và ông Wenham, chính ông cũng có nhúng tay vào
việc này. Nếu hắn không thách thức, thì chính tôi, tôi sẽ thách thức.
Nghe viên trung tá giận dữ ngắt lời mình như
vậy. Wenham mặt tái như gà cắt tiết đưa mắt nhìn ra cửa.
May quá, hắn được đại uý Macmurdo can thiệp
giúp. Anh chàng này đứng lên, thề độc một câu, rồi trách Rawdon đã ăn nói quá
lời!
- Anh đã bằng lòng nhờ tôi thu xếp hộ công việc
thì phải nghe theo cách giải quyết của tôi, không được theo ý riêng. Anh không
có quyền sỉ nhục ông Wenham với lối ăn nói như vậy. Anh cần phải xin lỗi ông
ấy. Còn việc đưa thư thách thức cho hầu tước Steyne thì anh nhờ người khác, tôi
không muốn làm. Nếu ngài hầu tước bị ăn đòn nhưng lại muốn câm miệng hến thì
mặc kệ ngài. Còn như cái chuyện rắc rối về... về bà Crawley, theo ý tôi, không
có gì là căn cứ hết; nghĩa là vợ anh vô tội, như lời ông Wenham đã cam đoan.
Tóm lại nếu anh không bịt câu chuyện đi và nhận chức tổng trấn thì anh rõ là
một thằng xuẩn.
Wenham mừng rơn, vội kêu lên:
- Đại uý Macmurdo, ông ăn nói thật biết điều
quá. Tôi không giận vì những lời ông Crawley vừa thốt ra trong cơn nóng nảy
đâu.
Rawdon cười gằn, nói:
- Ông giận làm sao được tôi.
Viên đại uý vui vẻ bảo bạn:
- Thôi ông nỡm, im mồm đi, ông Wenham đây không
phải là người ngổ ngáo, ông ấy nói thế là rất phải.
Người phái viên của ngài hầu tước Steyne nói:
- Theo ý tôi, việc này nên giữ hoàn toàn bí
mật, tuyệt đối không nên để lộ ra ngoài. Như thế là vì quyền lợi của bạn tôi
cũng như của trung tá Crawley, mặc dầu ông ta vẫn một mực coi tôi là kẻ thù.
Đại uý Macmurdo đáp:
- Hầu tước Steyne chắc không muốn nói câu
chuyện này ra làm gì, còn chúng tôi dĩ nhiên cũng chẳng nên báo cáo ra với
thiên hạ. Câu chuyện không hay ho gì, càng ít nhắc đến bao nhiêu, càng tốt. Các
ông bị xơi đòn, chứ không phải chúng tôi. Nếu các ông vẫn lấy làm bằng lòng thì
việc gì chúng tôi lại lấy làm khó chịu.
Wenham bèn cầm lấy mũ; đại uý Macmurdo tiễn ra
cửa; hai người ra ngoài khép cửa lại, mặc Rawdon ngồi giận dữ một mình trong
phòng. Ra ngoài cửa rồi, Macmurdo mới nghiêm khắc nhìn vào bộ mặt tròn xoay hớn
hở của Wenham, dáng điệu khinh bỉ ra mặt nói:
- Ông không từ việc gì mà không làm đấy.
Wenham mỉm cười đáp:
- Đại uý Macmurdo, ông quá khen. Tôi xin lấy
danh dự mà thề rằng bà Crawley có mời vợ chồng tôi đến ăn đêm sau khi đi xem
hát về.
- Dĩ nhiên? Thế rồi bà Wenham bị nhức đầu cũng
là dĩ nhiên! Đây này, hiện tôi giữ một tấm ngân phiếu một nghìn đồng; tôi giao
cho ông, yêu cầu ông cho một tờ biên nhận. Và đây tôi sẽ cho tờ ngân phiếu ấy
vào trong một chiếc phong bì gửi cho hầu tước Steyne. Anh bạn tôi sẽ không đấu
súng với hầu tước đâu; nhưng chúng tôi cũng không nên giữ số tiền ấy làm gì.
Đại uý Macmurdo đứng trên đầu cầu thang cúi
chào vừa lúc ấy Pitt Crawley bước lên... Hai người cũng hơi quen biết nhau; viên
đại uý cùng Pitt quay vào trong phòng chỗ Rawdon vẫn ngồi đợi; anh ta kể lại
cho Pitt rằng mình đã thu xếp ổn thoả câu chuyện xích mích giữa hầu tước Steyne
và viên trung tá.
Dĩ nhiên Pitt rất hài lòng; anh ta vui vẻ ngỏ ý
mừng em về câu chuyện được giải quyết êm đẹp; anh ta còn kèm theo vài câu luân
lý về tai hại của sự đấu súng, cho em thấy giải quyết xích mích theo lối đó
không phải là phương pháp thoả đáng. Sau phần giáo đầu này Pitt cố đem hết tài
hùng biện ra để hoà giải câu chuyện giữa hai vợ chồng Crawley. Anh ta tóm tắt
lại những lời trình bày của Becky có nhấn mạnh rằng những điều đó có phần đúng
sự thực, và quả quyết rằng em dâu mình vô tội. Song Rawdon vẫn khăng khăng một
mực nói:
- Mười năm nay, nó giấu giếm tiền nong không
cho tôi biết. Mới đêm qua, nó còn thề rằng Steyne không hề cho nó xu nào. Nó
tưởng thế là xong; không ngờ chính tôi moi ra được. Anh Pitt ạ, nếu quả thực nó
vô tội, thì nó cũng vẫn đều như đã phạm tội. Không bao giờ tôi còn nhìn mặt nó
nữa... không bao giờ.
Anh ta vừa nói vừa gục đầu xuống ngực, trông
thật rầu rĩ.
Macmurdo lắc đầu nói:
- Thằng cha đáng thương quá.
Rawdon Crawley suy tính mãi không biết có nên
nhận chức vụ do một người đỡ đầu mạt hạng như thế chạy cho mình hay không; anh
ta định bắt con trai thôi học trường “Dòng tu sĩ áo trắng”, vì nhờ có hầu tước
Steyne giới thiệu nó mới được nhận vào. Đại uý Macmurdo và Pitt hết sức can
ngăn, cuối cùng Rawdon cũng đồng ý; nhất là khi Pitt vạch rõ rằng không gì thú
hơn buộc hầu tước Steyne phải tức đến phát điên lên vì chính tay hắn phải bắc
thang cho kẻ thù leo lên đài danh vọng.
Sau vụ rắc rối này, hầu tước Steyne ra nước
ngoài ít lâu. Ông Tổng trưởng Bộ thuộc địa đến chào lão; lấy tư cách cá nhân
cũng như thay mặt cho Bộ thuộc địa, ông ta khen ngợi lão vì đã giới thiệu một
nhân vật rất có khả năng. Chẳng nói ta cũng rõ, được ông tổng trưởng khen ngợi,
hầu tước Steyne khoan khoái đến thế nào.
Câu chuyện bí mật giữa hầu tước Steyne và trung
tá Crawley được bịt kín như bưng, đúng như lời Wenham căn dặn, nghĩa là những người
trong cuộc và những nhân vật phụ thuộc, không ai hé răng kể lại. Thế mà ngay
tối hôm ấy, đã thấy người ta đưa câu chuyện ra bàn tán tại hơn năm mươi bàn
tiệc trong Hội chợ phù hoa rồi. Chính Cackleby đích thân đi đến bảy nơi khác
nhau, kể lại cuộc xô xát cho mọi người nghe, đến mỗi chỗ đều có kèm theo thêm
lời phẩm bình và thêm mắm thêm muối vào. Bà Washington White lấy làm khoái trá
lắm. Bà vợ giám mục Ealing phẫn nộ quá chừng; ngay hôm sau đức giám mục lập tức
đến ghi tên tại sổ tiếp tân của lâu đài Gaunt. Bá tước Southdown thì hơi buồn;
và chắc cô em của bá tước là công nương Jane cũng buồn lắm. Southdown phu nhân
lập tức viết thư báo tin cho con gái ở Hảo vọng giác biết. Suốt ba ngày sau,
khắp thành phố ai cũng bàn tán về chuyện này; may được Wenham gợi ý, Wagg phải
ra sức vận động ráo riết câu chuyện mới không bị đưa lên mặt báo. Bọn công sai
và chủ nợ thi hành án quyền trữ gia sản của bác Raggles đáng thương ở phố
Curzon. Thế còn người đàn bà xinh đẹp thuê nhà bây giờ đi đâu? Nào ai rõ Chỉ
một hai hôm sau đã chẳng ai buồn hỏi đến cô ta nữa, Becky có tội hay không nhỉ?
Chúng ta đều biết người đời vốn sẵn từ tâm ra sao, và một khi câu chuyện còn
mập mờ, toà án của Hội chợ phù hoa đã sẵn sàng tuyên án thế nào rồi. Có người
đồn rằng cô ta đi Naples, đuổi theo hầu tước Steyne; lại có người cam kết rằng
nghe tin Becky tới Naples hầu tước liền rời tỉnh này đi Palermo. Nhiều người
phao tin cô ta hiện ở Bierstadt, làm nữ quan () cho hoàng hậu nước Bungari; có
người bảo rằng cô ta ở Boulogne; lại cũng có người nói cô ta vẫn ở một căn trọ
tại Cheltenham.
Rawdon gửi tiền trợ cấp hàng năm cho vợ cũ cũng
khá; ta có thể yên trí rằng Becky là một người đàn bà khéo xoay xở, tuy ít tiền
nhưng vẫn có thể sống phong lưu. Lẽ ra Rawdon cũng muốn trả nợ sòng phẳng trước
khi rời khỏi nước Anh, nhưng không tìm ra được một hãng bảo hiểm nào dám bảo
hiểm sinh mệnh cho mình, mà cũng không ai dám trông vào số lương hàng năm của
Rawdon mà cho vay trước, bởi lẽ khí hậu ở đảo Coventry nổi tiếng là độc.
Tuy vậy Rawdon vẫn gửi tiền về cho anh trai đều
đặn, và lần nào có chuyến tàu về nước cũng viết thư cho con. Anh ta gửi thuốc
lá về cho Macmurdo, lại gửi rất nhiều quà về biếu công nương Jane, như các thứ
vỏ ốc, hồ tiêu, hương liệu và các thứ thổ sản thuộc địa khác. Rawdon còn gửi cho
anh cả tờ báo “Tin tức tỉnh Đồng Lầy”; báo đăng toàn những lời nhiệt liệt tán
dương vị tổng trấn mới; trong khi ấy, báo “Người lính gác tỉnh Đồng Lầy lại
kịch liệt lên án vị tổng trấn mới là một bạo chúa; so với ngài Nero còn là kẻ
biết thương người, nguyên là vì Rawdon không mời vợ ông chủ bút báo này đến dự
tiệc tại dinh tổng trấn. Thằng Rawdy vẫn hay tìm mấy tờ báo để đọc tin tức về
bố nó.
Becky không hề tỏ ý muốn đến thăm con trai.
Ngày chủ nhật và ngày lễ, thằng bé vẫn về với bác gái nó. Chỉ ít lâu sau, nó đã
thuộc từng tổ chim trong trang trại Crawley Bà chúa và cùng cưỡi ngựa đi chơi
với bầy chó săn của bá tước Huddlestone, đàn chó mà ngay từ buổi gặp gỡ đầu
tiên ở Hampshire nó đã thích rồi.
Chương 56
VẪN CÂU CHUYỆN CŨ
Georgy bây giờ sống ra dáng ông hoàng trong toà
nhà sang trọng của ông nội ở khu phố Russell; nó được dùng gian phòng riêng của
bố nó ngày trước; nó cũng là người thừa kế chính thức tất cả cơ nghiệp lộng lẫy
ở đây. Thấy cháu khôi ngô, cử chỉ đường hoàng rõ ra vẻ con nhà, ông Osborne rất
quý. Ông kiêu hãnh về cháu nội không kém gì xưa kia đã từng kiêu hãnh về
George.
� thử được nhìn thấy cháu có danh vọng như vậy
thì chết cũng yên tâm nhắm mắt. Phải tìm cho nó một ông thầy học có
tiếng...Không thể dùng mấy ông lang băm hoặc mấy ông trí thức mạo danh
được...Mới vài năm trước đây, ông vẫn có thói quen kịch liệt công kích các học
giả,các ông mục sư, nói chung là “các giới trí thức”...ông gọi họ là một bọn vô
tích sự, chỉ biết nhai đi nhai lại mấy câu La tinh hay Hy Lạp để kiếm cơm, là một
bầy chó đói cứ muốn khinh khỉnh lên mặt với các nhà buôn và các nhà quý tộc
nước Anh, mặc dầu những người này có thể bỏ tiền ra mua họ từng mớ một. Bây giờ
thường thường ông vẫn trịnh trọng tỏ ý buồn rầu về hồi xưa kia mình không được
học hành mấy, cho nên nhiều bận ông vẫn nghiêm trang dạy Georgy rằng một nền
học vấn cổ điển là hết sức quan trọng.
Lúc hai ông cháu gặp nhau trong bữa ăn, ông hay
hỏi xem hôm ấy cháu học được những gì; nghe cháu kể lại việc học hành ông tỏ ra
rất quan tâm; cháu nói gì, ông cũng làm ra vẻ hiểu rõ lắm. Cũng có nhiều bận
ông lỡ lời, để lòi cái đuôi của mình ra; điều đó chẳng làm tăng uy tín của ông
đối với thằng cháu nội chút nào. Vốn tinh ranh lại được ăn học cẩn thận, nó
hiểu ngay rằng ông nó chỉ là một lão già ngờ nghệch; thế là nó bắt đầu coi
thường, và muốn cưỡi cổ ông nội nó. Phải nhận rằng, tuy trước kia thằng bé chỉ
được học hành gọi là, nhưng cũng đủ biến thành một cậu công tử con nhà, hơn cả
những ước mơ cao xa của ông nội nó. Kẻ nuôi dưỡng nó trước kia là một người đàn
bà hiền hậu, yếu đuối, dịu dàng, cả đời chỉ có niềm kiêu hãnh duy nhất là đứa
con trai; người đàn bà ấy tâm hồn trong trắng quá, cử chỉ thuỳ mị và ngoan
ngoãn quá; người như thế nhất định phải là một vị phu nhân chân chính.
Amelia bận rộn với những công việc gia đình,
lặng lẽ làm nhiệm vụ của mình; cô không nói được điều gì cao xa bóng bẩy, nhưng
cũng chưa hề nói hoặc nghĩ tới điều gì độc địa xấu xa. Con người trong sạch,
chân thực, giàu lòng thương yêu và đức hạnh như vậy làm sao mà lại không thực
sự là một người đàn bà thượng lưu cho được?
Người đàn bà hiền hậu, phục tùng ấy đã bị thằng
Georgy đè đầu cưỡi cổ. Bây giờ, gặp ông nội là người ngờ nghệch, long trọng một
cách thô kệch, trái hẳn với tính tình giản dị và tế nhị của mẹ nó, thằng bé
cũng khống chế nốt. Có thể nói một hoàng tử cũng không được nuôi dưỡng để sẵn
sàng tự cao về mình như nó. Ở nhà mẹ nó mong nhớ con có thể nói là từng giờ
từng phút; nhiều đêm Amelia trằn trọc không ngủ được vì nhớ con; trong khi ấy
thằng bé cảm thấy xa mẹ cũng chẳng đáng buồn mấy tý, vì nó có bao nhiêu là thú
giải trí. Trẻ nhỏ thường cứ đi học là khóc... chúng khóc vì phải đến một chỗ
không được thoải mái lắm. Rất hiếm có đứa biết khóc vì yêu thương. Thử nhớ lại
xem có phải xưa kia mỗi lần mẹ hoặc chị đi vắng, đang khóc mấy mà nhìn thấy tấm
bánh đa hoặc chiếc bánh ngọt nhân thịt, y như rằng mắt chúng ta ráo hoảnh lập
tức. Thôi, các bạn ơi, cũng chẳng nên quá tin vào những tính tốt của mình làm
gì.
Vậy thì cậu Georgy Osborne được ông nội nâng
như nâng trứng, hứng như hứng hoa. Ông lão ra lệnh cho bác xà ích tìm mua cho
cháu bằng được một con ngựa non thật đẹp. Georgy được theo học tại một trường
dạy khoa kỵ mã; sau khi đã cưỡi thạo không cần phải dùng bàn đạp, lại có thể
phi qua gióng chắn được rồi, thì nó được dẫn đi ra Phố Mới đến công viên
Nhiếp-chính, và công viên Hyde. Từ đó người ta thấy nó đường hoàng cưỡi ngựa
dạo chơi ở công viên Hyde có bác xà ích Martin theo hầu. Hồi này thỉnh thoảng
ông Osborne mới đến khu City; ông để cho những người cộng tác trẻ tuổi của mình
trông nom việc doanh thương; ông thường cùng cô Osborne đánh xe ngựa đi chơi về
phía công viên Hyde.
Thằng Georgy hiên ngang trông ra phết công tử
thúc ngựa tiến đến đón ông; ông Osborne thú quá, huých vào tay con gái bảo:
“Nom kìa, cô Osborne”. Rồi ông cười, mặt đỏ lên vì sung sướng; ông ngó qua cửa
xe gật đầu với cháu; bác bồi ngựa của Georgy vội cúi chào hai bố con ông chủ;
anh hầu xe cũng lễ phép chào cậu Georgy. Lại cả bà Frederick Bullock, cô thằng
Georgy, cũng đến kia; ngày nào cũng thấy xe ngựa của bà trong công viên, trên
vách xe có treo huy hiệu gia đình mạ vàng; ba cái đầu trẻ con đội mũ đính lông,
cổ áo viền đăng- ten lấp ló trong khung cửa giương mắt ngó ra ngoài; bà
Frederick Bullock liếc mắt khinh khỉnh hằn học nhìn thằng bé cưỡi ngựa đi qua;
một tay nó khuỳnh khuỳnh đặt vào cạnh sườn, mũ đội lệch sang một bên đầu, trông
kiêu hãnh như một ông hoàng.
Tuy mới mười một tuổi đầu, nhưng Georgy đã mặc
quần có dây đeo và đi một đôi ủng đẹp như người lớn. Nó đeo một đôi cựa giày mạ
vàng, cầm một cái roi ngựa đầu bịt vàng, khăn tay có đính một cái cặp rất đẹp.
Đôi bao tay xinh xinh bằng da dê thuộc của nó thuộc loại quý nhất mua trong
hiệu Lamb ở phố Conduit. Mẹ nó gửi cho nó một đôi ca-vat, lại cẩn thận viền cho
nó mấy chiếc áo sơ- mi. Nhưng lúc nó về thăm nhà, mẹ nó thấy con trai vận áo
may bằng thứ vải đẹp hơn nhiều. Khuy đính trên ngực áo của nó bằng chất nhựa
bóng rất đẹp. Nó chẳng thèm mặc đến những thứ quần áo tầm thường của mẹ nó...
có lẽ cô Osborne đem cho đứa con bác xà ích rồi. Amelia cố nghĩ rằng mình cũng
vui vì thấy con đã thay đổi hẳn. Nói cho đúng thì thấy con có vẻ xinh xắn hơn,
cô cũng sung sướng. Amelia đã thuê vẽ một tấm hình nhỏ của con trai mất một
si-linh, đem treo cạnh hình bố nó trên tường cạnh giường ngủ. Một bữa, thằng bé
theo lệ thường đến thăm mẹ, phi ngựa nước đại dọc theo dẫy phố hẹp ở Brompton
làm cho mọi người trong phố phải ngó ra trầm trồ khen; vào nhà, nó rút trong
túi áo choàng ra một chiếc hộp nhỏ bằng gỗ mun đỏ (nó có một tấm áo choàng màu
trắng cổ nhung), vẻ mặt sung sướng và kiêu hãnh đưa cho mẹ, nói:
- Mẹ ạ, con mua bằng tiền của con đấy. Con biết
mẹ thích lắm.
Amelia mở hộp, kêu lên một tiếng ngạc nhiên và
thú vị, ôm lấy con hôn lấy hôn để. Trong hộp có một bức hình của nó vẽ rất khéo
(nhưng người đàn bà goá vẫn cho rằng còn kém đẹp xa so với con trai). Một lần
ông nội nó đi qua Southampton Row, thấy bày mấy tác phẩm của một hoạ sĩ, ông tỏ
vẻ rất ưng ý, muốn nhờ vẽ cho cháu một bức chân dung. Sẵn tiền trong túi,
Georgy đến hỏi nhà hoạ sĩ xem một bức chân dung nhỏ giá bao nhiêu; nó bảo rằng
muốn bỏ tiền riêng ra thuê vẽ để gửi về cho mẹ. Nhà hoạ sĩ mến thằng bé, báng
lòng vẽ với giá rẻ. Ông lão Osborne biết chuyện cũng tỏ ý hài lòng, ông cho
cháu gấp đôi số tiền cháu vừa tiêu.
Nỗi sung sướng của Amelia còn gấp bội. Thấy con
tỏ lòng quyến luyến mình như vậy, Amelia cho rằng trên đời không có đứa trẻ nào
ngoan ngoãn bằng. Có đến mấy tuần lễ liền, hễ nghĩ đến con, cô lại thấy vui,
Amelia cảm thấy đặt tấm hình của con dưới gối thì mình ngủ ngon giấc hơn. Nhiều
lần, Amelia hôn tấm hình của con rồi khóc và cầu nguyện mãi. Con người có tâm
hồn e lệ dịu dàng ấy chỉ cần những người mình yêu bộc lộ một chút cảm tình thôi
cũng đủ lấy làm sung sướng. Từ buổi xa con, chưa lần nào cô hài lòng được như
vậy.
Trong gia đình mới của mình, Georgy có quyền
thế như một ông vua con. Vào bữa ăn, nó mời các bà dùng rượu vang, điệu bộ cứ
tỉnh khô. Nom cách nó nâng cốc sâm-banh lên uống mà ông nội nó thích quá. Ông
lão đỏ mặt, hích người ngồi bên cạnh nói: “Nom cháu kìa, ông có thấy đứa trẻ
nào được như thế không? Lạy chúa! Nó sắp mua một bộ đồ trang sức và dao cạo để
cạo râu đấy, không đúng cứ đem cổ tôi ra mà chặt”.
Có lẽ mấy ông khách không lấy làm thú vị lắm về
cái điệu bộ láu lỉnh của thằng bé như ông Osborne. Ông Justice Coffin có vẻ
không bằng lòng vì đang nói chuyện bị thằng Georgy nói leo vào làm ông cụt
hứng. Đại tá Fogey nhìn bộ mặt ngà ngà say của thằng bé cũng không ưa lắm. Bà
vợ viên đội già Toffy bị nó kéo hích khuỷu tay một cái làm sóng một ít rượu ra
tấm áo sa-tanh vàng của bà rồi cười, bà cũng hơi bực mình. Một lần thằng con
trai thứ ba của bà hơn Georgy một tuổi được nghỉ học, bà đưa đến công viên
Russell chơi; tháng bé bị Georgy choảng cho một trận; chuyện này không làm bà
hài lòng mấy tuy ông Osborne thì lấy thế làm thú vị lắm. Ông nội nó thấy cháu
anh hùng, bèn thưởng cho hai đồng tiền vàng, lại hứa lần sau hễ cứ bắt nạt nổi
những đứa lớn hơn thì sẽ có thưởng. Khó lòng hiểu ông lão thích cháu bắt nạt
trẻ con khác vì lẽ gì ông chỉ mang máng thấy rằng trẻ con đánh nhau nhiều thì
sinh bạo, và biết thống trị người khác là một điều bổ ích, chúng cần phải học.
Thiếu niên nước Anh từ lâu vẫn được giáo dục như vậy, cho nên chúng ta mới gặp
trong đám trẻ con hàng vạn đứa quen kính trọng và biện hộ cho sự bất công, và
sự tàn nhẫn.
Được khen, và lại dã được cả thằng Toffy,
Georgy phổng mũi, càng hống hách dữ tợn; một hôm, nó bận một bộ áo mới thật
bảnh, đang đi vênh vang gần phố St. Pancras thì bị thằng bé con một người làm
bánh mì nói mấy câu châm chọc; cậu công tử nhà ta bèn hăng hái lột phăng áo,
giao cho thằng bạn cùng đi với mình (tức là thằng Tođ ở Phố Greet Coram, khu
Russell, con trai người cộng tác với ông Osborne trong hãng buôn). Georgy định
choảng cho thằng kia một trận; nhưng lần này cu cậu không gặp may mắn, lại bị
thằng bé con nhà hàng bánh nện cho một vố nên thân. Nó đành mang đôi mắt sưng
húp tím bầm về nhà, chiếc áo sơ-mi mới tinh rách tơi tả, bị máu chảy ròng ròng
từ mũi xuống làm cho loang lổ.
Nó kể với ông nội rằng mình vừa chiến đấu với
một thằng khổng lồ; hôm về thăm mẹ nó kể lại câu chuyện thật dài, dĩ nhiên là
không đúng sự thực lắm, làm cho mẹ nó sợ hết hồn.
Thằng Tođ ở phố Coram, khu Russell, là bạn thân
của Georgy; thằng này phục bạn lắm. Hai đứa cùng thích vẽ tranh diễn viên đóng
kịch, cùng thích ăn bánh rán, và mùa rét cũng thích chơi trò trượt tuyết ở công
viên Nhiếp chính và trên sông Serpentine. Ông Osborne vẫn sai Rowson là người
hầu riêng của Georgy đưa hai đứa đi xem hát; cả ba ngồi đình huỳnh trong lô ghế
hạng nhất.
Chúng được đưa đến khắp các rạp hát lớn trong
kinh đô, thuộc lòng tên các đào kép, từ đường Drury đến Sadler’s Wells. Về nhà,
hai đưa hì hục cắt giấy tô màu, dựng lại những cảnh trên sân khấu cho các bạn
xem. Bác hầu việc Rowson tính cũng hào phóng, khi tan hát, nếu túi tiền rủng
rẻng một chút, vẫn hay thết hai cậu một chầu sò huyết, lại kèm theo một chút
rượu “rum” để cậu về ngủ cho ngon giấc. Dĩ nhiên, Rowson cũng được cậu chủ đền
bù lại rộng rãi để tỏ lòng biết ơn bác người nhà đã cho mình thưởng thức những
thú chơi khoái trá kể trên.
Ông Osborne không bao giờ chịu mượn bọn phó may
cà mèng ở khu City may áo cho cháu, mặc dầu chính ông vẫn nhờ họ cắt áo cho
mình; ông gọi một bác thợ may nổi tiếng ở tận West End đến để trang hoàng cho
cái thân thể của cậu cháu nội, lại căn dặn chớ có ngại ông tiếc tiền. Được lời
như cởi tấm lòng, ông Woolsey ở phố Conduit bèn ra sức phát huy trí tưởng
tượng, cắt cho thằng bé kiểu áo tối tân, nhiều vô kể, cho trẻ con hàng xóm cũng
không hết.
Dự những buổi tiếp khách tối thì Georgy mặc áo
chẽn trắng, dùng bữa trưa thì mặc áo chẽn nhung; nó lại có cả một bộ py-ja-ma
dùng riêng để mặc trong nhà y như người lớn. Bữa trưa nào nó cũng bận lễ phục
cẩn thận; thấy thế, ông nội khen cháu “Chẳng thua gì con nhà khá giả ở West
End”; ông lại sai riêng một người nhà chuyên việc hầu hạ cậu, giúp cậu mặc quần
áo, để cậu sai vặt, lại bắt hễ có thư gửi cho cậu thì phải đặt vào khay bạc cẩn
thận mới được mang lên.
Ăn sáng xong, thường thường Georgy hay ngồi
trong ghế bành ở phòng ăn đọc báo “Tin tức buổi sáng”, trông ra phết người lớn.
Thấy cậu chủ hay văng tục và thề độc, bọn đầy tớ cho là sớm hiểu biết, phục
lăn. Những người có biết bố nó ngày xưa đều nói nó giống viên đại uý như đúc.
Tuy thằng bé tính tình nghịch ngợm, “ông hạng”, hay quát tháo nhưng tốt bụng,
nhà cửa thế cũng vui.
Việc giáo dục của Georgy được giao cho một nhà
học giả mở trường dạy tư ở gần nhà; ông này chuyên “chuẩn bị cho các thiếu niên
con nhà quý tộc và con nhà thượng lưu để vào các trường đại học, và nghị viện
và làm các nghề tự do; phương pháp giáo dục không dựa vào sự trừng phạt thân
thể đã lỗi thời mà nhiều nơi vẫn còn dùng; tại nhà trường, học trò sẽ được sống
trong một bầu không khí ấm cúng của gia đình với những tập quán của một xã hội
thượng lưu lịch sự”. Đó là phương pháp “câu học trò của ngài mục sư Lawrence
Veal ở phố Hart Bloomsbury, và là giáo sĩ riêng của gia đình bá tước Bareacre.
Nhờ khéo quảng cáo và ra sức vận động, ngài
“mục sư gia đình”, và bà vợ vẫn thường có một hai học trò lưu trú trong nhà; bố
mẹ họ phải trả thật nhiều tiền, cứ yên trí rằng đã cho con được ăn học trong
một trường đứng đắn thực sự. Có một cậu lộc ngộc người xứ Tây Ấn quanh năm chả
có ai đến thăm, da màu súc-cù-là, tóc quăn tít, điệu ra phết công tử. Lại có
một chàng thanh niên vụng về đã hai mươi ba tuổi, trước nay học hành không ra
sao cả, nhưng bây giờ ông bà Veal đang có nhiệm vụ đưa dắt vào xã hội thượng
lưu. Ngoài ra còn có hai đứa con trai chịa đại tá Bangles, thuộc Công ty Đông
Ấn Độ. Khi Georgy đến thụ giáo thấy cả bốn đang ngồi ăn chung một bàn do bà Veal
chủ toạ.
Georgy cùng khoảng một tá học sinh khác ngoại
trú. Sáng sáng bác Rowson đưa nó đi học; nếu trời đẹp, đến trưa nó cưỡi con
ngựa non về nhà, có bác bồi, ngựa theo sau. Trong trường ai cũng đồn rằng ông
nội nó giàu nứt đố đổ vách. Ngài mục sư Veal vẫn tấm tắc khen thằng bé về
chuyện này, chắc sau này nó phải làm to. Ông ta lại khuyên nó nên chăm chỉ học
hành và vâng lời để chuẩn bị lãnh những nhiệm vụ quan trọng chắc chắn nó sẽ
phải đảm đương khi đến tuổi thành nhân. Ông bảo rằng trẻ con ngoan ngoãn vâng
lời là cách tốt nhất để học chỉ huy người khác khi lớn lên. Vì vậy ông yêu cầu
Georgy không nên đem kẹo ngọt đến trường để làm hư dạ dày của cậu Bangles; cần
ăn thức ăn gì, bà Veal đã cung cấp đầy đủ rồi.
Riêng về mặt học vấn thì “Học đường” - ông Veal
vẫn ưa gọi như vậy - cung cấp hết sức phong phú. Các cậu học sinh ở phố Hart
được học đủ mọi môn. Mục sư Veal có một bảng thiên văn, một máy phát điện, một
máy tiện, một sân khấu (thiết lập trong phòng giặt quần áo), một ít dụng cụ thí
nghiệm hoá học, và một cái mà ông gọi là tủ sách chọn lọc, toàn tác phẩm của
các tác giả cổ kim bậc thầy đủ các thứ tiếng. Ông đưa học trò đi thăm Viện bảo
tàng nước Anh, giảng giải về những di tích cổ sử và những hiện vật về khoa vạn
vật học bày tại đây cho học trò nghe. Ông nói hay đến nỗi người xem xúm xít
xung quanh; ông nổi tiếng trong khu phố Bloomsbury là một học giả biết rộng
hiểu nhiều. Mỗi khi ông nói (mà ông nói luôn) bao giờ ông cũng cố tìm những
tiếng thật dài, thật hay trong ngữ vựng; ông cho rằng dùng một tính từ thật
kêu, thật hay cũng không tốn kém hơn một tiếng đơn giản thông thường là mấy tý.
Đại khái ở trường, ông thường hỏi Georgy thế
này: “Hôm qua tôi được hân hạnh tham dự buổi nói chuyện khoa học với ông bạn
hết sức quý báu của tôi là Bulders tiên sinh, một nhà khảo cổ học chân chính...
phải, một nhà khảo cổ học chân chính... lúc trở về nhà tôi quan sát thấy những
khung cửa sổ trên ngôi nhà vô cùng lộng lẫy của con người đáng kính là ông nội
anh, sáng rực rỡ như có đại tiệc. Không biết tôi có lý không khi tôi phỏng đoán
rằng đêm qua ông Osborne đã mở tiệc long trọng thết đãi toàn những vị khách lựa
chọn?”
Georgy tính cũng ưa khôi hài bèn trả lời ông
Veal rằng ông phỏng đoán rất đúng; nó vẫn hay bắt chước điệu bộ của thầy giáo
rất khéo ngay trước mũi ông ta.
- Vậy thì, các anh, tôi dám cam đoan rằng,
những ông bạn đã có hân hạnh được ông Osborne thiết đãi không có lý do gì để
phàn nàn về bữa tiệc; chính tôi đây cũng từng nhiều lần được thưởng thức những
bữa tiệc như vậy... (Nhưng anh Osborne, sáng nay anh đi học hơi muộn đấy: và
đây không phải là lần đầu tiên tôi nhận thấy khuyết điểm ấy của anh). Vậy thì
tôi xin nói với các anh rằng tầm thường như tôi đây, tôi cũng cảm thấy mình
không đến nỗi không xứng đáng dự hưởng sự thết đãi lọng trọng của ông Osborne.
Tuy tôi đây cũng đã từng nhiều phen tiệc tùng với những vị quý tộc tai mặt -
tôi thấy có thể dẫn ra trong số ấy tên vị bá tước đáng kính Bareacre, người bạn
quý đồng thời là người che chở cho tôi, nhưng tôi có thể cam kết với các anh
rằng bàn tiệc của một thương gia Anh quốc vẫn đầy đủ cách tiếp đãi, vẫn lịch sự
hơn hết.
Anh Bluck, chúng ta hãy trở về đoạn văn của
Eutropis vừa bị anh Osborne đến làm ngắt đoạn”.
Đó tức là vị học giả vĩ đại đã phụ trách việc
dạy dỗ Georgy trong một thời gian. Nghe những câu nói văn hoa bóng bẩy, Amelia
chẳng hiểu ra sao cả, nhưng cũng yên trí Veal tiên sinh là một tay uyên bác. Vì
những lý do riêng, người đàn bà góa này đã tìm cách kết thân với bà Veal. Cô
thích lại chơi nhà bà này để được nhìn thấy Georgy đến đây học. Cô cũng thích
được bà Veal mời đến dự những buổi họp mặt hàng tháng; nhà giáo sư thường gửi
những tấm thiếp màu hồng có in chữ Minerva trên góc, mời học trò và bạn hữu đến
dự những buổi nói chuyện về khoa học, có thết nước trà pha thật loãng.
Amelia không bao giờ vắng mặt trong những buổi
gặp gỡ này; được có Georgy ngồi cạnh, bà mẹ thấy buổi họp mặt hết sức lý thú.
Buổi nói chuyện tan, khách khứa ra về, bác Rowson cũng đến đón Georgy đi nốt;
Amelia cảm động ôm lấy bà Veal mà hôn để cảm tạ vì vừa được dự một buổi họp mặt
rất vui, rồi khoác áo, choàng khăn san đi bộ về nhà.
Về mặt học vấn mà Georgy thụ hưởng được của vị
giáo sư đa ngôn thông hiểu mọi khoa học trên trái đất này, thì hình như thằng
bé tấn tới lắm, nếu ta căn cứ vào những tờ thông báo hàng tuần nó mang về đưa
cho ông nội. Tờ giấy liệt kê có tới hơn một tá các môn khoa học nghe rất hấp
dẫn, vị giáo sư phê rành rọt về sự tiến bộ của học trò trong từng môn. Về môn
tiếng Hy Lạp Georgy được phê là aristos, về môn tiếng la tinh, optimus, về môn
Pháp văn, très bien và v.v...
Cuối năm học. Cả cái cậu Swartz tóc quăn tít em
trai cùng bố khác mẹ của bà Mac Mull, và cậu Bluck tức là anh thanh niên đã hai
mươi ba tuổi đầu ở nhà quê ra, học dốt như bò cùng cậu Todd mà ta cũng đã biết,
được phát thưởng mấy cuốn sách rẻ tiền có ghi chữ “Minerva” ở ngoài bìa, kèm
theo một câu tiếng La- tinh của vị giáo sư đề tặng.
Gia đình cậu Todd là những kẻ ăn bám nhà ông
Osborne; ông lão đã nâng địa vị ông Todd từ chân nhân viên thường lên hàng một
người cộng tác trẻ tuổi của hãng buôn. Ông Osborne nhận làm cha đỡ đầu cho
thằng Todd (về sau lớn lên, đi đâu Todd cũng chìa ra một tấm danh thiếp in tên
“Ông Osborne Todd”, và trở thành một tay phong lưu công tử khét tiếng). Cô
Osborne vẫn dắt cô Mary Todd đi lễ nhà thờ, hàng năm lại tặng cô bạn gái được
mình che chở một cuốn sách đạo, một bộ sách, một tập thơ tôn giáo có giá trị
hết sức... văn chương, hoặc một vài tặng phẩm khác làm kỷ niệm. Thỉnh thoảng cô
Osborne lại cho đánh xe ngựa đưa chị em cô Todd đi chơi. Khi nào họ ốm, thế nào
cô Osborne cũng sai bác người nhà bận chế phục may bằng nhung đem kẹo mứt từ
công viên Russell đến phố Coram để cho. Hiển nhiên là phố Coram phải lép vế và
khúm núm trước công viên Russell. Bà Todd vốn là người khéo tay, cắt; hoa giấy
để lót tay ăn món thịt cừu rán rất tài, lại khéo gọt củ cải và cà-rốt thành
những hình con vịt, những cánh hoa v.v... nom như thật : mỗi khi “bên công
viên” có mở tiệc lớn thết khách, bà vẫn sang làm giúp, nhưng không mấy khi dám
nghĩ đến việc cùng ngồi dự tiệc. Nếu đến phút cuối cùng mà còn trống một ghế
khách không tới, thì ông Todd được gọi đến thế chân cho tròn cỗ. Bà Todd và cô
Mary đã rón rén vào trong phòng khách đợi trước; lúc cô Osborne dẫn các quý bà
vào, thì hai mẹ con phải sẵn sàng bắt đầu chơi nhạc và hát để giúp vui trong
lúc chờ đợi các quý ông uống rượu vang xong lại sang. Đáng thương thay cho hai
mẹ con bà. Trước khi ra mắt biểu diễn trước công chúng ở “công viên” hai mẹ con
đã tốn bao nhiêu công phu tập tành với nhau ở nhà !
Vậy thì hầu như số phận đã định rằng người nào
gặp Georgy cũng bị thằng bé thống trị, cho nên khách khứa, người trong họ cũng
như đầy tớ trong nhà thấy nó đều phải cúi rạp xuống mà chào. Phải nhận rằng
thằng bé đóng vai trò của mình đến nơi đến chốn. Thiên hạ nhiều kẻ vẫn thế.
Georgy rất ưa lên mặt ông lớn, và hình như có năng khiếu bẩm sinh về khoa này
thì phải.
Ở khu phốRussell ai cũng sợ ông Osborne, mà ông
Osborne thì lại sợ Georgy. Cái phong thái đường hoàng của thằng bé, cái cách nó
thao thao bất tuyệt bàn về kiến thức, về sách vở, cái bộ mặt giống bố như đúc,
khiến ông lão nhớ đến người con trai chưa được tha thứ đã chết trận ở Brussels
mà sinh ra tôn trọng cháu, sợ hãi cháu như nô lệ sợ chủ. Thấy một vài cử chỉ vô
tình của thằng bé, một vài lối nói đặc biệt như thừa hưởng được của bố, ông lão
giật mình, tưởng như con trai sống lại đang đứng trước mặt. Để chuộc lỗi xưa
kia đã trót quá khe khắt với cha nó, ông càng ra sức chiều chuộng cháu nội. Ai
thấy ông nuông cháu quá đáng cũng phải lấy làm lạ. Ông vẫn hay càu nhàu gắt
gỏng với cô Osborne như trước, nhưng ông vẫn tươi cười mặc dầu Georgy xuống ăn
sáng muộn.
Cô Osborne bây giờ đã thành một cô gái già,
nhan sắc phai úa, vì trải hơn bốn mươi năm trời sống trong cảnh đời tẻ nhạt,
đầy đoạ. Cho nên thằng cháu láu lỉnh cưỡi cổ cô nó dễ như bỡn. Georgy muốn gì
cô nó cũng phải cho, từ lọ mứt trong tủ cho tới hộp màu vẽ cũ kỹ đã khô nứt
(hộp màu vẽ cô mua từ hồi cô còn có thể gọi là tuổi xuân phơi phới, đang theo
học ông Smee); Georgy vớ được thứ đồ chơi mình ưa thích rồi thì lờ tít không
cần đến cô nữa.
Nói về bè bạn, Georgy có ông giáo long trọng
vẫn hay nịnh nọt nó, và thằng Todd, tuy lớn hơn nhưng vẫn bị nó bắt nạt thẳng
cánh. Bà Todd rất thích cho nó chơi với đứa con gái út là Rsa Jemima, một con
bé kháu khỉnh mới lên tám tuổi. Bà thường bảo rằng hai đưa nom tốt đôi quá (dĩ
nhiên bà không dám nói thế với những người “bên công viên”; bà nghĩ thầm: “Biết
đâu sau này hai đứa lại không thành vợ thành chồng.
Ông ngoại nó, ông lão chán đời, cũng bị thằng
bé thống trị. Thấy nó bận quần áo sang trọng, cưỡi ngựa có người theo hầu, ông
đâm ra nể cháu. Về phần Georgy, nó vẫn thường nghe ông Osborne mỉa mai thóa mạ
một cách thô bỉ kẻ thù của mình là ông John Sedley.
Ông Osborne vẫn gọi ông thông gia của mình là
thằng ăn mày, thằng bán than, thằng phá sản, và bằng nhiều tiếng tàn nhẫn khác.
Vậy thì làm sao thằng Georgy có thể kính trọng được một con người tồi tệ đến
thế ? Nó về ở với ông ngoại được vài tháng thì bà Sedley chết. Hai bà cháu
không hợp nhau, thành ra thằng bé cũng chẳng buồn tỏ ra rầu rĩ lắm. Nó bận một
bộ áo tang mới may đến thăm mẹ, và có vẻ hết sức bực mình vì lỡ mất một tích
hát nó ao ước xem từ lâu.
Hồi bà lão bị ốm, Amelia hết sức lo lắng săn
sóc dường như cố lấy việc đó làm lẽ sống của mình. Đàn ông ai thấu hết được
những nỗi khổ thầm kín của phụ nữ ? Chỉ cần một phần trăm những sự dầy vò hàng
ngày họ vẫn ngoan ngoãn chịu đựng cũng đủ làm cho chúng ta đến phát điên lên
rồi. Biết bao nhiêu người đàn bà đã phải đeo đẳng cảnh sống nô lệ đằng đẵng
không chút hy vọng được đền bù, rất thuỳ mị hiền hậu mà luôn luôn bị đối xử tàn
tệ; họ yêu chồng quý con, làm lụng vất vả, chịu đựng kiên nhẫn mà không được
lấy một lời nói ngọt ngào an ủi gọi là có; vậy mà đi ra ngoài, vẻ mặt họ vẫn
tươi tỉnh như không. Họ tức là những kẻ nô lệ thuần thục bị bắt buộc phải tỏ ra
yếu đuối và giả dối vậy.
Bà cụ Sedley được nâng từ ghế bành đặt lên
giường rồi cứ nằm liệt ở đó mãi, Amelia lúc nào cũng có mặt bên giường mẹ, trừ
những lúc phải chạy đi thăm Georgy. Những buổi vắng mặt như thế cũng hiếm,
nhưng bà cụ vẫn lấy làm giận con gái. Hồi còn làm ăn thịnh vượng, bà cụ vẫn là
một người mẹ dịu dàng, tươi tỉnh, rộng lượng; bây giờ nghèo túng bệnh hoạn đã
thay đổi cả tính tình.
Nhưng Amelia không vì mẹ ốm đau trái tính mà
lấy làm khó chịu. Hình như tình trạng ấy lại giúp cô chịu đựng nổi một sự đau
khổ khác đang vò xé lòng mình, vì phải luôn luôn săn sóc mẹ ốm, không có thì
giờ mà nghĩ đến nữa. Dẫu vất vả, nhưng Amelia vẫn tươi tỉnh hầu mẹ từng ly từng
tý; bà cụ cứ rên rỉ gọi luôn, bao giờ cô cũng dịu dàng thưa lại. Amelia hết sức
khuyến khích mẹ hy vọng bằng những lời lẽ thốt tự đáy lòng mình, và cuối cùng
chính cô đã vuốt mắt cho mẹ, đôi mắt xưa kia đã từng trìu mến nhìn cô, bây giờ
vĩnh viễn nhắm lại.
Từ đó, Amelia để hết thì giờ và tâm trí vào
việc săn sóc ông bố già nua bất hạnh; ông lão bị tai hoạ dồn dập gieo xuống
đầu, bây giờ như hoàn toàn trơ trọi giữa cuộc đời. Ông mất vợ, mất danh dự, mất
cơ nghiệp, mất hết những thứ ông tha thiết nhất trên đời. Còn lại một mình
Amelia đứng cạnh đưa đôi cánh tay dịu dàng ra nâng đỡ ông lão già nua run rẩy
và đau khổ. Chúng tôi không muốn viết về đời sống của ông Sedley, vì tẻ nhạt vô
cùng; chưa nói chúng tôi đã thấy trước cả Hội chợ phù hoa ngáp dài rồi.
Một hôm, học trò đang tề tựu đông đủ trong
phòng học của ông Veal, và ông “mục sư gia đình” của ngài bá tước Bareacre đang
“phun châu nhả ngọc” như thường lệ, thì thấy một chiếc xe ngựa tuyệt đẹp đến
chỗ cạnh bức tượng thần Minerva ngoài cổng trường; từ xe hai người đàn ông sang
trọng bước xuống. Cậu Bangles vội xô cửa sổ ngó, hy vọng bố mình ở Bombay sang
thăm; còn vị sinh viên to đầu đã hai mươi ba tuổi, vừa khóc dở mếu dở vì bài
văn của Eutropius cũng ra dán mũi vào ô cửa kính nhòm chiếc xe ngựa; cậu thấy
hai anh hầu xe nhảy vội xuống mở cửa xe cho hai ông khách bước xuống.
Ngoài cửa có tiếng gõ thình thình, Bluck reo
lên:
- Một ông béo, một ông gầy, chúng mày ạ.
Mọi người nháo nhác cả lên, kể cả ông “mục sư
gia đình”; ông ta hy vọng có phụ huynh mới đến xin học cho con; riêng Georgy
thì khoan khoái vì được dịp bỏ sách xuống chơi một lúc.
Người hầu việc () của nhà trường vội xỏ tay vào
bộ chế phục chật ních cũ rích, khuy đồng rỉ bét chạy ra mở cổng, rồi quay trở
vào báo: “Có hai vị khách muốn gặp cậu Osborne”. Sáng nay vị giáo sư vừa cãi
nhau một tí với cậu học trò vì chuyện cậu mang pháo vào lớp học; nhưng bây giờ
ông lấy vẻ mặt điềm tĩnh thường ngày nói: “Anh Osborne. tôi cho phép anh ra gặp
người nhà vừa đến tìm...nhờ anh chuyển hộ tới các vị lời chào kính cẩn của tôi
và bà Veal.
Georgy bước vào phòng tiếp khách, thấy hai
người lạ mặt, nó ngẩng cao đầu theo thói quen kiêu hãnh nhìn thẳng vào mặt họ.
Một người to béo, để râu, một người vừa cao,
vừa gầy, bận một tấm áo màu xanh nước biển, da mặt rám nắng, tóc lốm đốm hoa
râm.
Người cao gầy giật mình nói:
- Trời ơi nom giống như lột ấy nhỉ! Georgy, em
có biết chúng ta là ai không?
Mặt thằng bé đỏ bừng lên, hai mắt long lanh;
khi nó cảm động nó vẫn như vậy. Nó đáp:
- Cháu không biết ông kia là ai, nhưng nhất
định bác là thiếu tá Dobbin.
Quả thực đó là anh bạn của chúng ta. Dobbin
chào thằng bé mà giọng nói run run; anh ta nắm hai tay áo kéo thằng bé lại gần
mình hỏi:
- Má cháu nói chuyện về bác luôn cho cháu
nghe... có đúng không?
Georgy đáp:
Đúng. Má cháu nói chuyện hàng trăm lần ấy.
Chương 57
TỪ ĐÔNG PHƯƠNG TRỞ VỀ
Ông Osborne có một cái thú đặc biệt là được
thấy ông Sedley, người cạnh tranh với ông, kẻ thù của ông, đồng thời là ân nhân
của ông xưa kia, trở về già lại bị bần cùng sa sút đến mức độ phải chìa tay ra
nhận tiền giúp đỡ của những kẻ đã làm nhục mình, đã thoá mạ mình nhiều nhất.
Con người thành công trong đời ấy, vẫn cứ chửi bới ông già bất hạnh bần cùng
nhưng thỉnh thoảng lại bố thí cho tí chút gọi là. Ông Osborne vẫn cho tiền
Georgy đem về giúp mẹ, đồng thời ông cũng nói ý cho cháu biết bằng những lời lẽ
tuy bóng gió nhưng thô bạo rằng ông ngoại nó bây giờ chỉ là một lão già phá
sản, sống phụ thuộc vào người khác, và ông John Sedley nên biết cảm ơn người đã
giúp đỡ ông nhiều lần, và hiện vẫn tiếp tục đối xử với ông một cách rộng lượng.
Georgy mang tiền về đưa cho mẹ và ông ngoại già nua yếu đuối. Bây giờ mẹ nó
sống chủ yếu là để chăm nom săn sóc ông nó. Thằng bé đối xử trịch thượng cả với
ông lão yếu đuối khốn khổ kia.
Hình như Amelia tỏ ra thiếu tự trọng vì chịu
nhận tiền trợ cấp của kẻ thù của cha mình; nhưng người đàn bà đáng thương ấy có
bao giờ biết đến tự ái là gì đâu. Kể từ khi Amelia trở thành gần như một người
đàn bà, hoặc đúng hơn kể từ cuộc hôn nhân bất hạnh với George, lúc nào cô cũng
phải sống trong sự nghèo túng thiếu thốn hàng ngày, không mấy khi được nghe lời
nói ngọt ngào, tuy bận tâm giúp người nhưng không được đền đáp lại. Bẩm tính
nhút nhát, Amelia cần được che chở. Ví thử bạn được chứng kiến cảnh những người
có đức hạnh hàng ngày bị đè nặng dưới những nỗi khổ nhục như thế, ngoan ngoãn
chịu đựng số phận đắng cay của mình mà không được ai thương xót, lại nghèo
túng, mà bị khinh bỉ cũng vì nghèo túng, liệu bạn có hạ cố cúi xuống làm công
việc rửa chân cho kẻ ăn mày nhếch nhác đó không? Chỉ nghĩ đến hạng người ấy mà
đã đủ lợm giọng! Lão Dives vừa nốc nốc rượu vang, vừa nói: “Phải có giai cấp
chứ... phải có người giàu, kẻ nghèo...” (Lão còn ném mấy miếng xương thừa cho
chú hành khất Lazarus ngồi co ro chầu trước cửa sổ là may đấy). Nhưng cũng phải
thấy rằng tại sao có người thì lụa là gấm vóc, mà khối kẻ đeo khố tải, chỉ có
những con chó thương xót cảnh ngộ của mình? Đó cũng là một điều bí mật, nhiều
khi không giải thích nổi.
Vì lẽ đó Amelia không những không than thở gì
mà gần như có vẻ biết ơn khi đành tâm cúi nhặt những mẩu bánh thừa rơi vãi từ
trên bàn ăn của ông bố chồng mang về nuôi cha mẹ. Cô sớm hiểu rằng đó là nhiệm
vụ của mình. Người thiếu nữ ấy (Thưa các bà, Amelia đã ba mươi tuổi: và tôi vẫn
muốn gọi cô ấy là một thiếu nữ).. người thiếu nữ ấy vẫn quen hy sinh tất cả mọi
thứ để mưu cầu hạnh phúc cho người thân của mình. Hồi còn Georgy ở nhà, Amelia
đã thức biết bao đêm dài đằng đẵng để cặm cụi làm việc cho con trai? Cô đã chịu
đựng bao nỗi thiếu thốn, bao sự khinh bỉ để phụng dưỡng cha mẹ? Giữa cảnh sống
trơ trọi đầy những sự nhịn nhục và hy sinh âm thầm tối tăm ấy. Amelia đã không
thể kính trọng cô. Tôi tin rằng trong thâm tâm, Amelia cho rằng mình chỉ là một
người tầm thường không đáng được coi trọng, và cũng không có quyền đòi hỏi một
cuộc sống tốt đẹp hơn.
Hỡi ôi, những người đàn bà đáng thương kia.
Những người tử vì đạo và nạn nhân tối tăm sống một cuộc đời đầy đoạ, nằm trên
giường ngủ như nằm trên đống gai, ngồi vào bàn ăn như đặt đầu trên máy chém! Có
người đàn ông nào theo dõi cuộc sống đau khổ của họ, có ai ghé mắt nhìn vào
bóng tối nơi họ đang bị hành hạ trăm chiều, lại không phải mủi lòng thương
xót...và không cảm tạ thượng đế vì đã sinh ra mình là kẻ mày râu? Tôi còn nhớ
đã nhiều năm về trước, có dịp thấy trong nhà thương điên ở Bicetre gần Paris,
một anh chàng khốn khổ bị đầy đoạ trong cảnh giam cầm và bệnh tật; một người
trong bọn chúng tôi cho anh ta một nhúm thuốc lá bột đáng độ một xu; con người
tàn tật ấy không ngờ rằng trên đời lại có thể có người rộng rãi đến thế; anh ta
khóc rưng rức lên vì biết ơn và sung sướng. Ví thử có ai cho không chúng ta,
mỗi năm tới một nghìn đồng hoặc cứu sống chúng ta cũng chưa chắc chúng ta đã
cảm động đến thế. Cho nên nếu ta vẫn quen hành hạ đàn bà xưa nay, thì chỉ cần
tỏ ra rộng lượng chút xíu đối với họ cũng đủ khiến họ khóc vì sung sướng và coi
ta như thiên thần ban phúc.
Số mệnh cũng chỉ ban cho Amelia những mẩu hạnh
phúc nhỏ nhoi như vậy. Cuộc đời của cô mở đầu không đến nỗi tồi thế mà bây giờ
đã rơi xuống mức độ là một cảnh tù đầy khốn nạn nhục nhã trăm chiều. Thỉnh
thoảng thằng Georgy cũng đến thăm người mẹ sống trong cảnh giam cầm, và an ủi
mẹ bằng vài lời không có mấy tác dụng. Phạm vi nhà tù của Amelia chỉ đến công
viên Russell là cùng. Đôi khi cô cũng dạo chơi ngoài đó một chút, nhưng đến đêm
lại phải quay về gian xà lim của mình mà ngủ, mà làm những công việc không có
gì vui vẻ, mà săn sóc bên giường bệnh, mà chịu đựng những sự trái chứng của
tuổi già. Trên đời này thử hỏi có đến bao nhiêu người, nhất là đàn bà, bị số
mệnh buộc phải sống trong cảnh nộ lệ như vậy? Họ là những người khán hộ không
công... hoặc có thể gọi được là những bà “xơ” làm phúc, nhưng lại thiếu ý thức
hy sinh lãng mạn... họ vật lộn, họ nhịn đói, họ thức đêm và đau khổ nhưng không
được ai biết đến mà thương xót, rồi cứ thế mà tàn lụi đi một cách khốn nạn tối
tăm. Thì ra đấng tối linh vô hình và khắc nghiệt vẫn quyết định vận mệnh nhân
loại kia vẫn ưa vùi dập những con người hiền hậu, dịu dàng khôn ngoan, và chỉ
nâng đỡ những kẻ ích kỷ, ngu si và tàn ác! Hỡi những người đang sống trong hạnh
phúc phồn vinh hãy biết khiêm tốn một chút! Hãy đối xử dịu dàng với những kẻ
không được may mắn bằng mình, nếu không phải là xứng đáng được sung sướng hơn
mình. Thử nghĩ xem, các người có lý do gì mà kiêu ngạo, trong khi các người có
đức hạnh chỉ vì không biết thèm muốn, các người đạt được thắng lợi chỉ là nhờ
may mắn, các người có địa vị cũng do ngẫu nhiên thừa hưởng được của cha ông và
cuộc sống hạnh phúc phồn vinh hầu như chỉ là câu chuyện khôi hài?
Thi hài bà mẹ Amelia được chôn cất tại nghĩa
địa Brompton. Hôm ấy trời đất âm u, mưa rơi tầm tã. Amelia nhớ lại đúng như
ngày cô làm lễ cưới cùng George. Thằng con nhỏ ngồi cạnh mẹ bận bộ áo tang mới
nguyên nom thật long trọng. Amelia nhớ lại bà lão đưa chỗ ngồi hồi xưa. Tâm trí
cô cứ vơ vẩn đâu đây trong lúc vị mục sư đọc lời cầu nguyện. Giá không đang nắm
bàn tay Georgy trong tay mình, Amelia đã ước ao đánh đổi lấy số phận của...
nhưng cô vội xua đuôi ý tưởng ích kỷ ấy đi ngay, rồi thầm khấn nguyện xin Chúa
ban thêm sức mạnh để làm tròn bổn phận.
Amelia quyết định cố gắng đem hết sức mình ra
để giúp cho cha được sống hạnh phúc lúc tuổi già. Cô làm việc túi bụi cả ngày,
khâu vá quần áo, hát cho ông Sedley nghe và đánh bài với ông lão; cô còn đọc
báo cho cha nghe, làm những món ăn ông Sedley ưa thích, dắt ông cụ đi chơi luôn
trong công viên Kensington, hoặc trên những con đường nhỏ ở Brompton; Amelia
ngồi lắng nghe ông Sedley kể mọi thứ chuyện, cố gắng mỉm cười tươi tỉnh, không
hề tỏ ra mệt mỏi; trong khi ông già yếu đuối ngồi sưởi nắng trên tấm ghế đá
trong công viên luôn mồm rên rỉ và phàn nàn về những sự lầm lẫn và đau khổ của
mình, thì cô ngồi lặng lẽ mơ màng, theo đuổi những ý nghĩ riêng tư và những kỷ
niệm trong dĩ vãng. Những lúc ấy người đàn bà goá trẻ tuổi nghĩ đến bao chuyện
đáng buồn? Nhìn những đứa trẻ lăng xăng chạy lên chạy xuống những con đường dốc
và trên những lối đi rộng thênh thang trong vườn, Amelia lại nhớ đến đứa con
không còn được ở với mình nữa, lại nhớ đến George xưa kia cũng bị số mệnh bắt
đi, lại hối hận rằng trong cả hai trường hợp, mối tình ích kỷ tội lỗi của mình
đã bị trừng phạt một cách phũ phàng, Amelia cố gắng công nhận rằng mình bị
trừng phạt là đúng; rằng mình chỉ là một kẻ có tội, nhưng vẫn đau khổ vì phải
sống trơ trọi giữa cuộc đời.
Tôi biết rằng câu chuyện Amelia bị giam cầm
trong cảnh cô đơn đang kể đây vô cùng tẻ nhạt, muốn cho vui câu chuyện nên thêm
thắt vài sự kiện lý thú hoặc hài hước nào đó...thí dụ một bác coi tù đa tình,
một viên sĩ quan tai quái chỉ huy pháo đài, một chú chuột dám đến trước mặt
Latude () mà muốn vuốt râu hùm, hoặc con đường hầm bí mật dưới nền lâu đài do
Trenck () chỉ dùng tăm xỉa răng và móng tay mà đào được. Nhưng kẻ viết truyện
này không thể đưa những chi tiết ấy vào cuộc đời bị giam hãm của Amelia. Các
bạn hãy tưởng tượng suốt thời gian ấy Amelia rất buồn, nhưng bao giờ cũng tươi
tỉnh mỉm cười mỗi khi cha hỏi đến, cuộc sống của cô rất thiếu thốn cơ cực nhưng
không phải là tầm thường. Để ông bố già được vui lòng, cả ngày cô hát, làm món
pa-tê, đánh bài, mạng bít tất.
Amelia có phải là nhân vật chính trong truyện
này hay không... chỉ biết rằng chúng ta cũng ao ước đến khi già nua, phá sản,
được tựa vào vai một đứa con chí hiếu như thế, và được một bàn tay dịu dàng như
của Amelia sắp đặt nệm gối trong cảnh già nua bệnh hoạn.
Sau khi vợ chết, ông lão Sedley bỗng đổi tính,
ông thương con gái vô cùng. Amelia cũng lấy việc săn sóc cha già làm nguồn an
ủi.
Nhưng không lẽ chúng ta cứ bắt hai bố con ông
già sống khổ sở như vậy mãi; họ cũng sắp được hưởng hạnh phúc rồi, hạnh phúc
theo quan niệm của thế nhân. Có lẽ bạn đọc đã đoán được cái ông to béo cùng đi
với anh bạn thiếu tá Dobbin của chúng ta đến thăm Georgy là ai. Anh ta cũng là
một nhân vật quen thuộc đi vàng xa mới trở về nước Anh, đúng lúc sự có mặt của
anh ta đem lại hạnh phúc cho cha và em gái.
Lấy cớ cần giải quyết những việc riêng rất cấp
bách thiếu tá Dobbin được viên tướng chỉ huy vui tính cho phép nghỉ ngay để đi
Madras, rồi từ đó lên tàu về nước Anh. Dobbin đi suốt ngày đêm không nghỉ kỳ
cho tới đích mới thôi, thành ra đến Madras anh ta bị sốt nặng. Bọn đầy tớ theo
hầu đưa chủ đến nhà một người bạn, chỗ Dobbin định nghỉ lại, để chờ ngày lên
tàu về nước. Dobbin sốt mê man bất tỉnh. Mấy ngày liền, ai cũng tưởng anh ta
khó lòng đi xa hơn cái nghĩa địa của nhà thờ St. George, nơi rất nhiều sĩ quan
đã yên giấc ngàn năm xa gia đình; và trên nấm mộ của anh ta một toán lính sẽ
bắn một loạt súng vĩnh biệt.
Những phút mê man vật vã trong cơn sốt, những
người khán hộ thường nghe Dobbin nhắc đến tên Amelia. Còn trong những giờ tỉnh
táo, lúc nào anh ta cũng rầu rĩ vì bị ám ảnh bởi ý tưởng sắp phải xa cách
Amelia mãi mãi... Dobbin cho rằng đời mình đến đây là chấm dứt, anh ta nghiêm
trang sửa soạn từ giã cõi đời; thu xếp mọi công việc, viết di chúc để lại cái
tài sản bé nhỏ cho những người thân thiết nhất của mình. Người bạn của Dobbin ở
nhờ đang làm chứng cho việc thảo di chúc. Dobbin ngỏ ý muốn được chôn cùng với
một vòng nhỏ tết bằng tóc màu nâu vẫn đeo trên cổ. Món tóc này anh ta đã xin
được của chị hầu gái vẫn săn sóc Amelia ở Brussels, hồi cô phải cắt tóc vì ốm liệt
giường sau khi George tử trận trên đồi St. John.
Dobbin khỏi bệnh, đã bình phục, rồi phát lại,
vì trích huyết và uống ca-lô-men quá nhiều, nhưng nhờ tạng người khoẻ mạnh nên
không can gì. Khi được đưa lên tàu Ramchunder anh ta gần như một bộ xương. Tàu
này của công ty Đông Ấn Độ, do đại uý Bragg chỉ huy, nhổ neo từ Calcutta, đỗ
tạm lại Madras. Tình trạng sức khoẻ của Dobbin kém quá, đến nỗi người bạn vẫn
săn sóc anh ta đoán rằng khó lòng chịu đựng nổi cuộc hành trình qua đại dương,
và chắc chắn một buổi sáng nào đó, anh ta sẽ được liệm trong cái võng phủ một
lá cờ rồi đem theo xuống đáy biển cả cái di vật quý báu vẫn đeo bên trái tim.
Nhưng không biết nhờ gió biển hay vì hy vọng bỗng nhiên sống lại trong lòng, mà
đúng cái ngày chiếc tàu giương buồm vượt bể về nước, bệnh tình Dobbin cũng bắt
đầu thuyên giảm; và khi tàu gần đến Hảo vọng giác thì anh ta khỏi hẳn, mặc dầu
vẫn gầy như que củi. Dobbin mỉm cười bảo: “Lần này Kirk hẳn bực mình vì vớ hụt
cái lon thiếu tá; cu cậu đang hy vọng được đăng tin thăng cấp trên báo khi
trung đoàn về nước”. Cũng cần nói thêm rằng trong thời gian Dobbin nằm lại
Madras vì chuyến đi quá hối hả, thì trung đoàn của anh ta cũng nhận được lệnh
hồi hương; đơn vị này đã chiến đấu lâu năm tại nước ngoài, hồi ở Tây Ấn về nước
đã phải điều động sang tham dự chiến dịch Waterloo, sau đó lại chuyển quân từ
Flanders đi Ấn Độ. Giá viên thiếu tá chịu ở lại Madras thêm ít ngày thì có lẽ
cũng lên đường về nước với các bạn đồng ngũ.
Cũng có thể Dobbin không muốn đang lúc sức khoẻ
suy sút, mình phải để cô Glorvina săn sóc. Anh ta vừa cười vừa bảo với anh bạn
cùng đi tàu: “Tôi tin rằng nếu có bà O’Dowd cùng đi chuyến này, có lẽ bà đã làm
nốt công việc của thần bệnh; rồi sau khi đã làm cho tôi chết, thế nào bà ấy
cũng quay sang tấn công anh, anh cứ yên trí thế, và sẽ bỏ anh vào túi mang về
Southampton, Joe ạ.
Người hành khách cùng đi tàu Ramchunder này
chẳng phải ai xa lạ, chính là anh bạn to béo của chúng ta. Joe ở Belgan đã mười
năm. Sau những công việc bận rộn ở tại toà án, những bữa tiệc liên tiếp và đủ
các thứ rượu đã khiến cho Waterloo Sedley thay đổi khá nhiều. Người ta thấy cần
cho anh chàng về Âu châu nghỉ ngơi ít lâu. Vả lại Joe cũng đã làm việc tại Ấn
Độ đủ số thời gian cần thiết; anh ta được hưởng lương bổng khá hậu, đã để dành
được một món tiền lớn, bây giờ có thể hoặc về nước nghỉ ngơi ung dung với một
món lợi tức rộng rãi, hoặc lại rẽ sang Ấn Độ tiếp tục đảm nhiệm chức vụ cũ tuỳ
ý, vì anh ta tuổi đã cao, lại có nhiều kinh nghiệm trong nghề.
So với lần chúng ta gặp trước đây, Joe có gầy
đi ít nhiều, nhưng phong độ trông lại đường bệ trang trọng hơn. Hồi này anh ta
để râu cho đúng với tư cách một người đã từng tham chiến ở Waterloo. Anh ta
khệnh khạng đi lại trên boong tàu, đội một chiếc mũ lưỡi trai bằng nhung có lon
vàng chói, trên áo đính vô số cặp và đồ trang sức đủ các loại. Anh ta dùng bữa
trong ca-bin, nhưng hễ ra boong tàu chơi là phải trịnh trọng “lên khung” cẩn
thận, như thể sắp dạo phố Bond hoặc sấp ra toà án ở Calcutta làm việc. Joe còn
mang theo một người đầy tớ da đen để hầu hạ và bưng điếu. Thằng hầu này đội một
tấm khăn quấn thừng, phía trước có đính huy hiệu riêng của Sedley bằng bạc. Nó
cũng đến khổ vì thói hách dịch của ông chủ. Joe rất hãnh diện vì diện mạo của
mình, anh ta mà trang điểm thì mất vô khối thì giờ, chẳng thua gì một bà nạ
dòng đã qua thời vang bóng. Trong số hành khách trẻ tuổi cùng đi có anh
Chaffers thuộc trung đoàn số… và chàng Ricketts bị tái nhiễm bệnh sốt rét rừng
lần thứ ba; họ hay kéo Joe sang phòng giải khát, tán Joe kể cho nghe những
chuyện ghê gớm về anh ta, nhất là chuyện săn hổ và đánh Napoléon. Bữa tàu ghé
đảo St. Helen, Joe thực là vĩ đại vì anh đã xuống thăm mộ Napoléon, và trước
mặt mấy viên sĩ quan trẻ tuổi trên tàu và đám hành khách, nhưng không có
Dobbin. Joe kể lại trận Waterloo thật cặn kẽ, cốt chứng minh rằng nếu không nhờ
tay mình thì hồ dễ đã buộc được Napoléon phải đi đày ở đảo St. Helen.
Từ buổi tàu nhổ neo khỏi St. Helen, Joe tỏ ra
hào phóng hết sức; anh ta đem số thực phẩm, rượu vang, thịt ướp, bánh ngọt và
nước suối dự trữ riêng của mình ra thết đãi vung tàn tán khắp mặt mọi người.
Trên tàu không có khách phụ nữ, viên sĩ quan thuyền trưởng có nhã ý nhường địa
vị chủ toạ các bữa ăn cho vị công chức cao cấp; Joe được đại uý Bragg và các sĩ
quan trên tàu Ramchunder hết sức trọng vọng. Lần đầu gặp bão, suốt hai ngày
liền Joe nằm bẹp một xó không thấy ló mặt ra. Anh ta cài chặt cửa ca-bin, nằm
đọc truyện Người đàn bà giặt thuê ở Finchley; cuốn truyện này của Emily
Hornblower phu nhân, vợ viên mục sư Silas Hornblower, để lại trên tàu hồi hai
vợ chồng đi đến Hảo vọng giác để nhận chức vụ giáo sĩ. Joe còn mang theo nhiều
tiểu thuyết và kịch để đọc lúc nhàn rỗi; anh ta đem cho mọi người trên tàu
mượn. Ai cũng mến anh ta là người tốt bụng và lịch thiệp.
Nhiều đêm con tàu lướt trên mặt biển thăm thẳm
sóng gầm, bầu trời trăng sao vằng vặc, bên tai tiếng chuông cầm canh điểm thánh
thót, Sedley và Dobbin hay ngồi trên boong nói với nhau về chuyện gia đình;
viên thiếu tá hút thuốc lá, còn anh chàng dân thường thì hút chiếc điếu Ấn Độ;
thằng hầu người da đen đứng hầu điếu đóm cho chủ.
Trong những buổi trò chuyện ấy, thế nào Dobbin
cũng kiên nhẫn khéo léo lái câu chuyện xoay quanh Amelia và đứa con trai nhỏ
của cô. Joe tỏ ý bực mình về sự phá sản và những hành động thiếu thận trọng của
ông bố, Dobbin phải hết lời an ủi, lấy lẽ rằng dẫu sao thì ông cụ cũng đã già,
lại đang lâm vào cơn hoạn nạn; có lẽ Joe cũng không muốn về sống chung với hai
ông bà già làm gì, vì một người còn trẻ lại quen tiếp xúc với giới thượng lưu
như anh ta (đến đây Joe ngả đầu tỏ ý cảm tạ lời khen đó) có thể không thích hợp
lắm với lối sống của các cụ. Nhưng rồi viên thiếu tá lại vạch rõ rằng về
Luân-đôn Joe nên tậu một ngôi nhà riêng cho tử tế, như vậy cũng tiện nhiều bề,
không nên cứ đi thuê phòng trọ mãi như trước. Amelia là người rất xứng đáng để
quán xuyến mọi công việc trong nhà; thật là một con người lịch sự dịu dàng, cử
chỉ hết sức khả ái. Dobbin nhắc lại rằng hồi còn ở Brussels, Amelia rất được
mọi người quý mến, cũng như khi về Luân-đôn, cô được giới thượng lưu rất coi
trọng. Anh ta còn gợi ý thêm rằng Joe nên cho thằng Georgy vào trường học để
gây dựng cho nó thành người, ở nhà nó quen được mẹ và ông bà nuông chiều dễ
thành lêu lổng. Tóm lại, anh chàng sĩ quan khôn ngoan đã khéo buộc Joe phải hứa
với mình sẽ trông nom hai mẹ con Amelia chu đáo. Dobbin chưa biết tin gì về
những biến cố đã xảy ra trong gia đình ông Sedley, chưa biết rằng thần chết đã
bắt bà cụ đi rồi, còn thằng bé cũng bị sự giàu sang mang đi nốt.
Thực ra, không một giờ một phút nào, người đàn
ông si tình đứng tuổi ấy không tơ tưởng đến Amelia, và không muốn tìm mọi cách
lo cho cô được sung sướng. Dobbin mơn trớn, nịnh nọt, tán tụng Joe Sedley một
cách ngọt ngào kiên nhẫn quá, mà hình như chính anh ta cũng không ngờ mình như
vậy. Nhưng xin bạn nào có em gái hoặc con gái chưa ở riêng hãy nhớ lại xem, có
phải cái bọn đàn ông đang muốn lọt vào mắt xanh của người nhà bạn, đối với bạn
hết sức lễ độ không? Mà biết đâu anh chàng Dobbin cũng đang giở trò giả dối như
họ đấy.
Sự thực là khi Dobbin được đưa lên tàu
Ramchunder và suốt trong ba ngày tàu còn đỗ lại tại Madras, anh ta vẫn ốm nặng,
bệnh tình chưa hề chuyển. Việc gặp Sedley là bạn cũ trên tàu cũng không khiến
anh ta vui hơn mà bình phục. Ngẫu nhiên, một hôm Dobbin được đưa lên nằm nghỉ
trên boong tàu và được nói chuyện với bạn. Anh ta bảo Joe rằng mình đã đến ngày
tận số rồi; bây giờ muốn viết di chúc để lại cho đứa con đỡ đầu, lại ngỏ ý hy
vọng rằng Amelia sẽ nhớ đến mình, và sẽ được hưởng hạnh phúc với người chồng
sắp cưới. Joe ngạc nhiên đáp: “Lấy chồng à? Làm gì có chuyện ấy? Tôi vừa được
thư của nó. Không thấy nói gì đến chuyện tái giá; mà kỳ quá, nó lại báo tin
thiếu tá Dobbin sắp lấy vợ, và hy vọng anh sẽ sống hạnh phúc”. Nhưng những lá
thư gởi từ âu ấy viết từ bao giờ chứ?” Joe vội chạy đi tìm. Thì ra so với những
lá thư Dobbin nhận được, thư này viết muộn hơn hai tháng. Viên thầy thuốc trên
tàu cứ hý hửng yên trí mình đã tìm ra một đơn thuốc thần hiệu chữa lành bệnh
cho người hành khách (ông bác sĩ ở Madras khi giao người bệnh lên tàu đã không
còn hy vọng gì cứu sống nổi) vì từ hôm ấy, nghĩa là đúng từ ngày Dobbin đổi
thuốc theo đơn mới, anh ta bắt đầu bình phục. Thành ra chỉ có một mình đại uý
Kirk là thiệt vì hụt chiếc lon thiếu tá.
Từ hôm tàu rời khỏi đảo St. Helen, Dobbin tỏ ra
rất vui, sức khoẻ tăng trông thấy khiến cho các hành khách cùng đi ai cũng ngạc
nhiên. Anh ta đùa bỡn với bọn thủy thủ, dùng gậy chơi kiếm với các sĩ quan trên
tàu, chạy nghịch trên dây buồm như trẻ con; một tối sau bữa ăn, anh ta còn hát
một bài hát khôi hài, được toàn thể hành khách trên tàu tập trung trong phòng
ăn rất tán thưởng.
Dobbin bỗng nhiên trở thành hoạt bát, vui tính,
đáng yêu, làm cho đại uý Bragg mới đầu tưởng người hành khách này chẳng có gì
đáng chú ý, cho là hạng người tầm thường, thiếu nghị lực, bây giờ phải công
nhận Dobbin là một sĩ quan hiểu biết rộng, có nhiều khả năng, tuy hơi dè dặt
một chút. Bragg nói riêng với viên sĩ quan thuyền phó: “Kể ra anh chàng không
có vẻ lịch sự lắm, người như thế không thể nổi được trong những buổi tiếp tân
tại Phủ Thống đốc. Ngài Thống đốc và William phu nhân đãi tôi hết sức lịch sự,
lại chiếu cố bắt tay tôi trước mặt mọi người; ngài mời tôi dùng cơm tối và uống
bia, lúc ấy ngài Tổng tư lệnh cũng có mặt. Anh chàng không lịch sự lắm, nhưng
không phải là tay tầm thường đâu.”
Còn khoảng mười ngày nữa thì tàu cặp bến, đột
nhiên trời tắt gió, mặt biển phẳng như tờ; Dobbin cũng trở thành ít nói, kém
vui; mọi người vẫn mến anh ta vì tính nhanh nhẩu và tốt bụng, bây giờ đều lấy
làm lạ. Cho tới lúc có gió thổi lên, người hoa tiêu lại lên boong điều
khiểnbánh lái, mới thấy Dobbin vui vẻ như cũ.
Trời đất ơi! Khi trước mặt hiện ra những mái
nhà nhọn hoắt quen thuộc của thành phố Southampton, trái tim Dobbin đập mới rộn
ràng làm sao.
Chương 58
ANH BẠN THIẾU TÁ CỦA CHÚNG TA
Trong thời gian ở trên tàu, anh bạn thiếu tá
của chúng ta được mọi người rất mến; lúc anh ta cùng Sedley bước xuống chiếc
xuồng ra đón để vào bờ thì đại uý Bragg dẫn đầu đoàn thể anh em thuỷ thủ đứng
trên tàu hoan hô ba lần để từ biệt. Dobbin đỏ mặt, ngả đầu tỏ ý cảm tạ. Joe yên
trí họ chào mình bèn lột ngay chiếc mũ lưỡi trai có lon vàng ra giơ lên vẫy
mãi. Hai người đi xuồng vào bờ, bước lên kè đá, rồi đi thẳng về khách sạn
“Hoàng đế George”.
Một khoanh thịt bò và một chiếc cốc vại bằng
bạc bày sẵn sàng trong phòng ăn của khách sạn như chào đón kẻ đi xa tổ quốc mới
về, bắt người ta tưởng tới thứ rượu chính cống Anh cát-lợi cất trong nước. Du
khách đặt chân vào bất cứ khách sạn nào của nước Anh, đều thấy ngay một bầu
không khí thân mật ấm cúng như ở gia đình, ai cũng muốn nghỉ lại vài ngày.
Nhưng Dobbin đã tính đến chuyện đi thuê xe ngựa rồi; vừa chân ướt chân ráo đến
Southampton, anh ta đã lo đi Luân-đôn ngay. Riêng Joe tối hôm ấy nhất định
không chịu đi đâu. Tại sao lại phải ngồi suốt đêm trên xe ngựa. trong khi có
một chiếc giường thênh thang đệm lông êm như nhung sẵn sàng đón chờ mình? Suốt
thời gian cuộc hành trình, anh chàng công chức thuộc địa to béo bị nhốt trong
gian “ca-bin” chật hẹp trên tàu lấy làm khổ tâm lắm, Joe nói rằng chừng nào
hành lý còn chưa rỡ xuống thì nhất định anh ta không đi đâu hết. Thành ra viên
thiếu tá đành gửi thư báo tin cho gia đình và ngủ lại Southampton một đêm vậy.
Dobbin lại nài Joe phải hứa với mình sẽ viết thư báo tin cho bè bạn; Joe hứa
cho xong chuyện rồi bỏ đấy. Viên thuyền trưởng, viên thầy thuốc và vài người
hành khách cùng đi tàu cũng đến khách sạn dùng cơm với họ. Joe ra vẻ hào phóng
trịnh trọng sai dọn bữa ăn và hứa hôm sau sẽ cùng về Luân-đôn với Dobbin. Ông
chủ khách sạn tuyên bố rằng cứ nom ông Sedley nốc cốc rượu đầu tiên mà thích
mắt. Tôi cũng muốn viết một chương về cốc rượu đầu tiên uống trên đất nước của
tổ quốc quá, nhưng không có thì giờ và sợ bị coi là đi lan man. Chao ôi! Khoái
trá biết bao nhiêu? Một hớp rượu ngon như thế đủ đền bù lại nỗi đau khổ suốt
một năm ròng vì xa quê cha đất tổ.
Sáng hôm sau thiếu tá Dobbin cạo râu sạch sẽ,
ăn mặc thật chỉnh tề theo thói quen. Lúc ấy trời mới rạng sáng, khách trọ chưa
ai ngủ dậy, trừ chú bé đánh giầy ở khách sạn hình như không bao giờ biết ngủ là
gì. Dobbin rón rén đi qua dẫy hành lang tối om, còn nghe rõ tiếng ngáy khò khò
của khách trọ từ trong các phòng vẳng ra. Chú bé đánh giầy đi đến cửa từng
phòng một nhặt những đôi giày đủ các kiểu đặt sẵn ở ngoài để đem đánh xi cho
bóng. Một lúc sau anh đầy tớ da đen của Joe cũng dậy, sửa soạn quần áo và tẩu
thuốc cho ông chủ. Mấy chị hầu gái trong khách sạn mắt nhắm mắt mở chạm trán
với anh chàng da đen trong hành lang, kêu rú lên vì cứ ngỡ là gặp ma hiện hình.
Dobbin và anh hầu da đen đi lăng quăng trong khách sạn, nhiều bận vấp cả vào
những chiếc thùng nước đặt trong hành lang. Cuối cùng, người quản lý khách sạn
ra tháo then cửa: viên thiếu tá yên trí đã đến giờ lên đường, bèn ra lệnh tìm
ngay một chiếc xe ngựa.
Anh ta bước thẳng đến phòng của Sedley, thấy
bạn đang nằm ngáy trên tấm giường rộng thênh thang Dobbin vén màn lên gọi:
- Sedley, dậy thôi. Đến giờ đi rồi. Nửa giờ nữa
sẽ có xe ngựa đến tận cửa đấy.
Joe vẫn chùm chăn bông kín mít ầm ừ hỏi mấy giờ
rồi; Dobbin đỏ mặt thú thực hãy còn sớm (vì anh ta không quen nói dối, dầu rằng
nói dối có lợi cho mình mấy đi nữa). Joe cáu quá bèn văng tục một hồi không
tiện nhắc lại đây, nhưng cũng đủ chứng tỏ cho Dobbin hiểu rằng dù chết ngay anh
ta cũng không chịu dậy vào giờ này, mặc xác Dobbin muốn đi đâu thì đi, anh ta
không thèm biết, và phá giấc ngủ của người khác như thế là bất lịch sự. Anh
chàng thiếu tá chưng hửng đành rút lui, để mặc Joe vùi đầu trong chăn ngủ lại.
Lát sau, có xe ngựa đến đón; Dobbin đi ngay không đợi bạn.
Giả dụ anh ta là một nhà quý tộc đi du lịch đây
đó cho thoả ý, hoặc là một thông tin viên cần đưa tin về toà báo (ta không nói
đến giấy tờ của chính phủ, vì chúng đi từ tốn, thoải mái hơn nhiều) anh ta cũng
không thể đi nhanh hơn được. Mấy chú bồi ngựa được anh ta đãi tiền uống nước
hậu hĩnh, khoái quá. Ngồi trên xe ngựa chạy hết tốc lực nhìn ra cánh đồng quê
mênh mông, xanh mướt rất thích mắt; xe chạy qua những thị trấn tươi tắn, có
những ông chủ khách sạn đứng cửa mỉm cười cúi chào khách; này là những quán
rượu xinh xắn bên đường, biển hàng treo trên những cây du, mà bóng râm kẻ ô
vuông trên mặt đường phủ xuống đầu mấy con ngựa và mấy bác xà-ích đang ngồi
chén chú chén anh... này là những toà lâu đài cũ kỹ, những công viên, những
thôn xóm thô sơ quây quần xung quanh những ngôi nhà thờ cổ xám xịt... bao nhiêu
là phong cảnh mỹ lệ quen thuộc của đất nước thân yêu. Hỏi rằng trên thế giới
này, có nơi nào được như thế? Du khách đi xa trở về tổ quốc thấy những phong
cảnh ấy ấm cúng biết bao... mỗi bước đi qua thấy chúng như vẫy tay chào đón
mình. Vậy mà thiếu ta Dobbin đi suốt từ Southampton đến Luân- đôn không về nhìn
thấy gì trừ những cột cây số làm mốc bên vệ đường; thế mới biết anh chàng mong
mỏi sớm về đến Camberwell để đoàn tụ với gia đình thật.
Dobbin tiếc khoảng thời gian nhỏ bỏ phí vì đến
Piccadilly lại phải rẽ vào thăm nơi ở của mình là quán trọ nhà Slaughters một
chút.
Bao nhiêu năm tháng dằng dặc đã trôi qua; hồi
Dobbin và George, cả hai cùng còn trẻ, đã bao lần họ tiệc tùng chè chén thoả
thích với nhau trong quán rượu này. Bây giờ Dobbin đã thành người đứng tuổi
rồi. Tóc trên đầu đã lốm đốm hoa râm, và nhiều tình cảm sôi nổi thuở trẻ cũng
đã phai màu. ấy thế mà, ở chỗ cửa ra vào quán trọ, anh vẫn thấy bác hầu bàn già
ngày trước trong bộ quần áo màu đen cáu ghét; vẫn bộ mặt phì nộn lờ đờ, vẫn một
bộ chìa khoá to kếch xù đen bên hông, và bác vẫn thọc tay vào túi mà xóc xóc
mấy đồng tiền như khi xưa. Bác hầu bàn Joe reo lên, như viên thiếu tá mới đi xa
có một tuần lễ, không hề tỏ vẻ gì là ngạc nhiên:
- Cất hành lý của thiếu tá vào phòng hai mươi
ba đi, phòng của ông ấy đấy. Ông xơi gà rán nhé. Thế nào, ông lập gia đình
chưa? Họ đồn ông lấy vợ rồi... ông thầy thuốc riêng, cái ông người xứ
Scotchland ấy mà cũng vừa ở đây... à, không phải, đấy là đại uý Humby thuộc
trung đoàn ba mươi ba: đã cùng đồn trú ở Injee với trung đoàn thứ... ông dùng
chút rượu chứ? Việc gì phải đi xe ngựa đặc biệt... thuê xe chuyến cũng tốt
chán.
Bác hầu bàn trung thành nhớ rõ tên tất cả các
sĩ quan hay ra vào quán rượu; đối với bác xa cách mười năm cũng chỉ như là mới
hôm qua. Bác dẫn Dobbin về căn phòng cũ, kê một chiếc giường có treo rèm vải
sặc sỡ kiểu Thổ Nhĩ Kỳ, trên mặt sàn trải một tấm thảm hình như bẩn hơn trước
ít nhiều; bàn ghế bằng gỗ sồi đen phủ vải Ba-tư đã nhạt màu; cảnh vật vẫn như
xưa không có gì thay đổi.
Dobbin nhớ lại hình ảnh George trước hôm cưới
vợ một ngày; anh chàng đi đi lại lại trong phòng, cắn móng tay, to tiếng tuyên
bố nhất định ông cụ “sẽ nghĩ lại”. mà nếu không “nghĩ lại” thì anh ta cũng “cóc
cần”. Dobbin tưởng như thấy lại George giận dữ khép cửa đánh thình một cái, lúc
bỏ về phòng riêng sát bên cạnh.
Bác John vẫn bình thản quan sát ông bạn cũ:
- Ông không trẻ ra mấy tý nhỉ.
Dobbin cười:
- Ô; bác John, mười năm trời mà bệnh sốt rét
rừng đâu có làm cho người ta trẻ ra? Chỉ có bác là vẫn trẻ như xưa... Không,
bác vẫn già như ngày xưa thì đúng hơn.
John hỏi:
Bà vợ goá của đại uý Osborne bây giờ ra sao,
ông? Ông ta điển trai quá. Mà
thật là tay hào phóng có một. Từ ngày cưới vợ đố thấy quay lại đây nữa. Ông ta
còn nợ tôi ba đồng chưa trả. Đây này, tôi còn ghi rõ trong sổ. “Ngày mồng mười
tháng tư năm 1815, đại úy Osborne, ba đồng”. Không biết cụ sinh ra ông ta có
chịu trả tôi không.
Vừa nói, bác vừa rút trong túi ra quyển sổ tay bìa da màu nâu có ghi số nợ
Osborne chưa trả trên một trang giấy cáu vàng những ghét, bên cạnh những dòng
chữ nguệch ngoạc ghi về những vị khách quen thuộc của quán trọ.
Dẫn khách về phòng rồi, bác John lại thản nhiên lui ra.
Dobbin mở va-ly lấy một bộ thường phục đẹp nhất ra mặc; anh ta hơi đỏ mặt,
và không biết vì sao, mình lại cười mình. Ghé soi vào chiếc gương nhỏ đặt trên
bàn rửa mặt. Dobbin bỗng phá ra cười vì thấy da mặt mình rám nắng, tóc đã đổi
sang màu muối tiêu.
Dobbin nghĩ thầm:
- Cũng may, John vẫn chưa quên mặt mình. Hy vọng rằng “nàng” cũng nhận ra
được. Đoạn anh ta bước ra khỏi quán trọ, lại đi về phía Brompton.
Lúc này trên đường về nhà Amelia, người đàn ông chung tình nhớ lại từng
phút trong cuộc gặp mặt lần cuối cùng với người bạn gái; rồi Dobbin rời khỏi
Piccadilly; người ta đã dựng lên tại đây một khải hoàn môn, và một pho tượng
Achilles nhưng Dobbin không buồn để ý đến lắm; cảnh vật đổi thay nhiều, nhưng
cặp mắt cũng như ý nghĩ của anh ta thờ ơ lướt qua. Cho tới lúc bắt đầu đi vào
đại lộ Brompton, con đường quen thuộc dẫn tới phố Amelia ở, Dobbin bỗng hồi hộp
run cả người. Không biết nàng đã lấy chồng hay chưa? Bây giờ gặp Amelia và
thằng Georgy... liệu nên làm gì nhỉ?
Dobbin thấy một người đàn bà dắt một đứa trẻ khoảng năm tuổi đi về phía
mình...không biết có phải hay không? Mới nghĩ thế mà anh chàng đã run bắn cả
người. Cuối cùng đến dãy nhà chỗ Amelia ở, rồi đến cái cổng anh ta nhận ra, bèn
dừng lại, trống ngực đập thình thình nghe rõ mồn một. Dobbin nghĩ thầm; “Dẫu cơ
sự ra sao thì cũng cầu chúa che chở cho nàng. Chà! Biết đâu nàng lại chẳng
không còn ở đây nữa”. Anh ta nói, rồi bước qua cổng vào nhà.
Cửa sổ phòng khách, chỗ Amelia thường ngồi vẫn để ngỏ, nhưng trong nhà
không có ai. Viên thiếu tá nhận ra cây dương cầm, mé trên vẫn treo bức tranh
không khác gì ngày xưa, tim anh ta lại đập rộn ràng. Tấm biển đồng của ông
Clapp còn treo trên cánh cửa; Dobbin giận chuông, hồi hộp đợi.
Một cô gái mũm mĩm khoảng mười sáu tuổi, mắt sáng long lanh, đôi má hồng
hào, bước ra; thấy Dobbin lùi lại dựa vào cánh cổng, cô bé cứ nhìn trừng trừng.
Mặt Dobbin tái nhợt đi như mặt xác chén anh ta lắp bắp mãi mới nói ra câu:
- Có phải là bà Osborne ở đây không?
Cô bé nhìn kỹ anh chàng một lúc lâu, rồi đột nhiên cũng tái mặt đi, nói:
- Lạy Chúa tôi!... Đúng thiếu tá Dobbin rồi.
Cô đưa cả hai tay ra nắm tay Dobbin tiếp:
- Ông còn nhớ cháu không? Cháu vẫn gọi ông là “Thiếu tá kẹo bánh” ấy mà.
Nghe nói vậy, Dobbin ôm thốc lấy cô bé lên tay mà hôn, lần đầu tiên trong
đời mình, anh ta tỏ tình cảm sôi nổi như vậy. Cô bé vừa cười, vừa khóc, réo lên
gọi mẹ:
- Má ơi! Ba ơi!
Ông bố và bà mẹ vội chạy ra; từ nãy họ vẫn để ý nhìn Dobbin từ sau tấm rèm
cửa bếp. Hai vợ chồng ông ta lấy làm lạ thấy một ông nào cao lênh khênh vận
chiếc áo khoác màu xanh và cái quần kiểu thủy thủ đang ôm lấy con gái ông mà
hôn trong sân.
Dobbin hơi đỏ mặt nói:
- Tôi là người quen cũ đây mà. Bà Clapp, bà có nhận ra tôi không, ngày
trước bà vẫn cho tôi uống nước trà và ăn bánh ngọt ấy mà? Ông Clapp còn nhớ tôi
không nhỉ? Tôi là cha đỡ đầu của thằng Georgy, vừa ở Ấn Độ về đây!
Thế là họ bắt tay nhau... bà Clapp vừa cảm động vừa sung sướng. Bà luôn mồm
lạy chúa chứng kiến cho bà nỗi vui mừng này.
Vợ chồng ông chủ nhà dẫn khách vào phòng của ông Sedley; Dobbin nhận ra
từng thứ đồ vật kê trong nhà, từ cây dương cầm cũ kỹ có nẹp đồng nhãn hiệu
Stothard, trước kia đẹp biết bao, cho tới những chiếc rèm và chiếc giá treo
đồng hồ bằng hổ phách trên có treo chiếc đồng hồ bỏ túi bằng vàng của ông
Sedley. Dobbin ngồi xuống chiếc ghế bành của ông già lúc ấy không có nhà, nghe
hai vợ chồng ông Clapp và cô con gái kể lại những chuyện về Amelia mà chúng ta
đã rõ, nhưng Dobbin chưa hề biết tý gì: nào là bà Sedley đã qua đời, nào là
Georgy được ông nội mang về nuôi, rồi Amelia phải xa con đau đớn khổ sở ra sao,
và rất nhiều chuyện khác. Có đến hai ba bận Dobbin định hỏi xem Amelia đã tái
giá chưa, nhưng lại rụt rè không dám. Anh chàng không muốn để cho người khác
thấu rõ nỗi lòng u ẩn của mình. Cuối cùng anh ta được biết rằng Amelia đưa ông
Sedley ra vườn hoa Kensington chơi. Những buổi chiều đẹp trời, hai cha con vẫn
thường ra đó ngắm cảnh cho khuây khoả; hồi này ông lão yếu lắm, đâm ra bẳn
tính, làm cho con gái đến khổ, mặc dầu Amelia vẫn hết lòng phụng dưỡng cha già.
Dobbin nói với ông bà Clapp :
- Tôi đang vội quá, có việc bận, phải đi ngay tối hôm nay, mà tôi cũng muốn
gặp bà Osborne một chút. Cô Polly có biết chỗ đưa tôi đi được không nhỉ?
Cô Polly thấy Dobbin đề nghị thế thích quá mà cũng hơi ngạc nhiên. Cô biết
đường; cô rất bằng lòng đưa viên thiếu tá đi lắm; những lần Amelia đi đến khu
phố Russell thăm con trai, cô vẫn đưa ông Sedley ra công viên Kensington dạo
mát; cô biết cả hai cha con ông lão hay ngồi chiếc ghế nào nữa. Cô Polly chạy
bay lên gác, lát sau xuống nhà thấy cô đội một cái mũ đẹp nhất, choàng chiếc
khăn san vàng của bà mẹ cho, lại cái cả một cái trâm thật to thật đẹp cũng của
bà mẹ cho mượn; cô thấy trang điểm thế mới xứng đáng đi cùng với viên thiếu tá.
Anh chàng bận áo màu xanh nước biển, đeo găng tay bằng da nai thuộc, khoác
tay cô thiếu nữ, cả hai vui vẻ ra đi. Có người cùng đi với mình Dobbin cảm thấy
yên dạ vì nghĩ đến phút gặp gỡ sắp tới hình như anh ta vẫn thấy ngài ngại. Anh
chàng còn hỏi cô gái cùng đi rất nhiều điều về Amelia; nghĩ đến Amelia phải xa
con, Dobbin cũng thấy đau đớn. “Không biết Amelia chịu đựng sự chia ly ấy ra
sao ? Có được gặp mặt con luôn không? Cụ Sedley bây giờ sống có được sung túc
không?”. Polly trả lời thật tỉ mỉ tất cả những câu hỏi của “thiếu tá Kẹo bánh”.
Hai người đang đi thì xảy ra một chuyện, tuy không có gì đặc biệt nghiêm
trọng nhưng khiến cho Dobbin vui lòng lắm. Họ thấy từ đầu phố một người đàn ông
trẻ tuổi đang đi lại; người này nước da mai mái, mép lún phún râu, bận áo cổ
cồn cứng nhắc, bị kẹp giữa hai người đàn bà đi hai bên, nghĩa là khoác tay họ;
một người đã đứng tuổi, vóc dáng cao lớn, nét mặt và sắc da cũng tương tự như
viên mục sư nhà thờ Anh-cát-lợi đi cạnh bà ta; người kia khổ người thấp nhỏ, da
mặt hơi xám, đội một cái mũ mới có đính nơ trắng, khoác một tấm áo choàng lộng
lẫy, trước ngực đeo một cái đồng hồ vàng. Người đàn ông đã bị kẹp chặt giữa hai
người đàn bà, lại còn phải mang một cái ô, một cái làn và một tấm khăn san,
thành ra cả hai tay cùng bận không có cách nào ngả mũ chào lại cô Polly Clapp
được. Ông ta đành chỉ ngả đầu đáp lễ; hai người đàn bà cũng chào lại, nhưng
điệu bộ có vẻ kiêu kỳ lắm, lại cứ trố mắt lên mà nhìn anh chàng bận áo xanh cầm
chiếc gậy trúc đi cùng cô Polly.
Dobbin tránh sang một bên cho bộ ba đi khỏi; anh ta nhìn họ có vẻ thú vị
lắm, đoạn quay sang hỏi Polly:
- Ai thế?
Cô Mary láu lỉnh nhìn anh chàng đáp:
- Ông mục sư Binny (Dobbin giật mình đánh thót một cái) và bà chị gái đấy.
Lạy chúa tôi, bà ấy làm cho chúng cháu đến khổ trong những lớp học ngày chủ
nhật. Còn cái cô bé nhỏ mắt hơi hiếng đeo đồng hồ vàng là vợ ông Binny đấy; hồi
còn con gái tên là cô Grits; ông bố bán thực phẩm có một cửa hiệu đặt tên là
“Chiếc ấm vàng ở phố Kensington Gravel. Họ vừa làm lễ cưới tháng trước, cũng
mới đi chơi tuần trăng mật ở Margate về. Cô ta có năm nghìn đồng hồi môn; mới
về nhà chồng mà đã cãi nhau với bà B rồi.
Lúc nãy Dobbin giật mình vì lo sợ, bây giờ anh ta thở phào nhẹ cả mình. Anh
ta cứ gõ cái gậy trúc cồng cộc xuống mặt đường coi bộ hăng hái lắm; Cô Polly
phá ra cười và kêu lên: “Trời ơi!” Dobbin cứ đứng há mồm ra mà nhìn theo cặp vợ
chồng trẻ một lúc lâu. Cô Polly vẫn tiếp tục kể chuyện về họ, nhưng sau cái tin
ông Binny đã lấy vợ, nào anh ta có nghe thấy gì nữa đâu. Anh chàng khoan khoái
quá, hai tai như ù đi. Sau phút gặp gỡ ấy, Dobbin đi nhanh gấp đôi trước. Anh
ta vẫn hồi hộp run run khi nghĩ tới phút gặp gỡ khao khát suốt mười năm nay;
chỉ một lúc sau, hai người đã đi hết đại lộ Brompton, bắt đầu bước vào vườn hoa
Kensington.
- Ông cụ và bà ấy kia kìa.
Cô Polly lại cảm thấy anh chàng giật mình đánh thót một cái nữa. Thế là đủ
cho cô bé hiểu rõ câu chuyên; cô nhìn thấu tận gan ruột Dobbin như đã đọc được
trong mấy cuốn tiểu thuyết cô vẫn mê xem, tức là cuốn “Cô bé Fanny mồ côi” hoặc
cuốn “Những người anh hùng xứ Scott”.
Dobbin nói :
- Hay là cô chạy đến báo tin trước hộ nhé.
Polly chạy đi ngay, chiếc khăn san màu vàng bay
phần phật trong gió.
Ông cụ Sedley đang ngồi trên ghế đá, trên đùi
trải chiếc khăn mặt; vẫn như mọi khi, ông lão đang kể cho con gái nghe những
chuyện quá khứ; Amelia đã nghe nhiều lần rồi, song vẫn kiên nhẫn mỉm cười làm
ra vẻ chú ý. Cô có thể không cần để tai nghe cha nói gì mà vẫn thỉnh thoảng góp
một hai ý kiến nhận xét thích hợp, đồng thời vẫn suy nghĩ về việc riêng của
mình. Amelia thấy cô Polly hối hả chạy tới vội đứng phắt dậy. Mới đầu, cô nghĩ
ngay chắc có chuyện gì xảy ra cho Georgy. Nhưng nhìn nét mặt vui vẻ hào hứng
của cô thiếu nữ, bao nỗi lo lắng của người mẹ nhút nhát vụt biến mất.
Cô thiếu nữ đưa tin nói :
- Có tin mừng ! Có tin mừng ? Về nhà rồi; về
nhà rồi.
- Ai về nhà thế ?
Emmy vẫn nghĩ đến con trai.
- Kia kìa chứ đâu.
Cô Clapp quay lại giơ tay chỉ. Amelia nhìn theo
thấy Dobbin cao lêu đêu đang rảo bước, bóng anh in dài trên mặt cỏ. Đến lượt
Amelia giật mình, đỏ mặt lên, và dĩ nhiên bắt đầu thút thít khóc. Hễ có việc gì
vui mừng thế nào người đàn bà giản dị chất phác này cũng phải khóc một lúc.
Dobbin nhìn thẳng vào mắt Amelia - cái nhìn
trìu mến làm sao. Cô chạy ra đón Dobbin, giơ sẵn cả hai tay ra cho anh nắm lấy.
Trông Amelia không khác xưa bao nhiêu; sắc mặt chỉ hơi tái đi chút ít, và người
có phần hơi béo so với trước, cũng vẫn đôi mắt ngày xưa, đôi mắt dịu dàng cả
tin. Trên mớ tóc màu nâu mịn như tơ thoáng điểm vài sợi bạc. Amelia đưa cả hai
tay cho Dobbin nắm, đỏ mặt lên vừa mỉm cười vừa ứa nước mắt mà nhìn thẳng vào
bộ mặt thật thà của anh chàng. Dobbin giữ chặt lấy đôi bàn tay bé nhỏ trong tay
mình. Có đến một lúc lâu, anh ta không nói được lên lời Tại sao Dobbin lại
không ôm lấy Amelia vào trong cánh tay và thề rằng sẽ không bao giờ xa nhau nữa
nhỉ? Nhất định Amelia sẽ chịu, nhất định Amelia phải tuân theo. Nhưng Dobbin chỉ
nói:
- Tôi... tôi xin báo tin có một người khác cũng
sắp tới.
Amelia đột nhiên lùi lại một bước, hỏi:
- Chị Dobbin phải không?
Và nghĩ thầm: “Sao anh ấy không viết thư báo
cho mình biết?”.
Dobbin buông hai tay Amelia ra, đáp:
- Không. Ai bịa chuyện ấy ra với chị thế? Tôi
muốn nói anh Joe cùng về một chuyến tàu với tôi, sắp tới đây rồi. Anh ấy sẽ săn
sóc chị và cụ nhà chu đáo.
Emmy vội gọi cha:
- Ba ơi, ba! Có tin mừng! Anh con về nước rồi.
Anh ấy về để trông nom ba đấy... Còn đây là thiếu tá Dobbin.
Ông Sedley giật mình run lẩy bẩy đứng dậy; ông
bố định trí nhớ lại xem người khách đứng trước mặt là ai. Đoạn ông mới bước lên
một bước vụng về cúi chào, gọi viên thiếu tá là “ông Dobbin”.
Ông tỏ ý hy vọng cụ thân sinh ra ông Dobbin là
“ngài William” vẫn được mạnh khỏe. Ông nói cũng định có dịp sẽ sang thăm sức
khoẻ “ngài Wiliam”, vì mới đây ngài có hạ cố đến thăm ông lão một bận.
Thực ra lần “ngài William” đến thăm ông cụ cách
đây đã tám năm; vừa rồi là ông cụ nói đến việc đáp lại cuộc viếng thăm ấy.
Dobbin bước lên vui vẻ bắt tay ông cụ. Emmy thì
thầm:
- Ba tôi giờ yếu quá.
Mặc dầu Dobbin vừa nói rằng đến tối có việc rất
bận, anh ta cũng nhận lời ông Sedley mời quay về nhà dùng nước trà. Amelia
khoác tay cô bạn trẻ quàng tấm khăn san màu vàng đi trước, Dobbin đỡ ông Sedley
đi sau. Ông lão đi rất chậm vừa đi vừa nhắc lại những chuyện trong quá khứ,
chuyện xưa ông làm ăn phát đạt, chuyện bà cụ Bessy của ông, chuyện ông bị phá
sản... Như những người thất thế khác, tâm trí ông lão lúc nào cũng hướng về quá
khứ. Ông không biết mấy về hiện tại, trừ tai họa vừa rồi vừa gieo xuống đầu
ông. Dobbin không cần gì hơn là ông lão cứ nói thao thao bất tuyệt. Mắt anh ta
còn mải chăm chú nhìn theo một người trước mặt... xưa nay hình ảnh con người
thân yêu ấy lúc nào cũng lởn vởn trong trí óc, hiện ra lúc nào anh ta cầu kinh
và trong những giấc mộng của anh ta khi thức cũng như lúc ngủ.
Tối hôm ấy Amelia rất vui, luôn luôn tươi cười
và hoạt động.
Dobbin thấy cô đóng vai trò chủ nhân tiếp khách
một cách hết sức duyên dáng và lịch sự. Lúc hai người ngồi trong chỗ tranh tối
tranh sáng, đôi mắt anh chàng luôn luôn hướng về phía Amelia. Đã bao nhiêu lần
anh ta khao khát được sống giờ phút này? Đã bao nhiêu lần hành quân mệt mỏi
dưới ánh nắng nung nấu như lửa đốt, anh ta nghĩ tới Amelia, đã vẽ ra trong trí
tưởng tượng hình ảnh con người dịu dàng, vui vẻ săn sóc cha mẹ già, lấy sự phục
tùng ngoan ngoãn để an ủi hai thân trong cảnh túng thiếu. Bây giờ con người ấy
đang ở trước mặt Dobbin. Tôi không nghĩ rằng sở thích của Dobbin là cao thượng
nhất và những người hiểu rộng biết nhiều ai cũng có bổn phận phải hài lòng với
cái thiên đường đạm bạc như anh bạn chất phác của chúng ta; hay hay dở không
rõ, chỉ biết rằng Dobbin thích như vậy. Cứ được có Amelia bên cạnh, anh chàng
có thể uống bao nhiêu nước trà cũng được. Amelia biết thế lấy làm thú vị, lại
càng ra sức mời mọc; vẻ mặt tinh nghịch, cô cứ rót mãi nước trà hết tách này
đến tách khác.
Thực ra, Amelia không biết rằng Dobbin chưa ăn
cơm, và hiện ở quán rượu Slaughters người ta đã bày khăn ăn đợi anh ta, và trên
mặt bàn có đặt sẵn một chiếc đĩa để tỏ rằng đã có khách giữ chỗ trước, ngay
chính ở trong gian phòng mà trước kia, hồi Amelia mới ở trường bà Pinkerton về
nhà Dobbin vẫn nhiều lần chén chú chén anh với George.
Vật kỷ niệm đầu tiên Amelia đem ra khoe với
Dobbin là tấm hình nhỏ của thằng Georgy. Vừa về nhà, cô đã chạy ngay lên gác
lấy mang xuống. Kể ra so với thằng bé thì hình vẽ xấu nhiều, nhưng đáng quý là
ở chỗ nó tự ý thuê vẽ mang về tặng mẹ. Trong khi ông Sedley còn thức, Amelia
không muốn nói chuyện nhiều về Georgy; ông lão không thích nghe nhắc đến tên
ông Osborne và khu phố Russell; ông cũng không hề ngờ rằng mấy tháng nay chính
mình đã sống nhờ lòng tốt của kẻ thù cũ; cho nên hễ nghe nhắc đến tên ông
Osborne là ông phát khùng.
Dobbin kể lại với Amelia tất cả mọi chuyện đã
xảy ra trên tàu Ramchunder và cũng có thêm thắt chút ít; anh ta phóng đại thêm
ít nhiều về việc Joe dự định trông nom và chu cấp cho cha sống sung túc lúc
tuổi già. Thực ra, trong suốt cuộc hành trình, Dobbin đã nài ép Joe nhiều lần
làm cho Joe đành phải hứa với bạn sẽ trông nom em gái và cháu cẩn thận. Joe vẫn
tức về việc ông Sedley tự ý lĩnh tiền của mình ở nhà băng về tiêu, nhưng rồi
cũng nguôi giận vì thấy Dobbin vui vẻ kể rằng chính mình cũng lâm vào hoàn cảnh
tương tự nhân câu chuyện bán rượu hộ ông lão hồi còn ở Ấn Độ. Joe vốn không
phải là người có tâm địa xấu, khi nào trong lòng hỷ hả và được người khác nịnh
khéo một chút thì anh cũng sẵn sàng rộng lượng đối với họ hàng bà con ở châu Âu.
Cuối cùng tôi cũng cảm thấy ngượng vì phải nói
rằng Dobbin còn bịa thêm với ông Sedley rằng sở dĩ Joe xin phép về Âu châu nghỉ
là cốt để gặp mặt cha già.
Đúng giờ thường lệ, ông Sedley bắt đầu thiu
thiu ngủ ngay trong ghế bành. Bây giờ Amelia mới có dịp nói chuyện nhiều với
Dobbin; quanh đi quẩn lại cũng chỉ có chuyện về thằng Georgy.
Amelia không hề nhắc tới những nỗi buồn khổ của
mình vì phải xa con; mặc đầu gần như người chết nửa đời người vì bị cướp mất
đứa con trai yêu dấu, nhưng người đàn bà đáng quý này vẫn nghĩ rằng nếu mình
phàn nàn vì chuyện ấy thì là một điều tội lỗi. Để bù lại, cô đã đem biết bao
nhiêu đức tính của con ra khoe, nào là con trai ngoan ngoãn, tài giỏi, nào là
mình dự định xây dựng tương lai cho con ra sao. Cô khoe con đẹp như thiên thần,
kể ra đến hàng trăm thí dụ để chứng minh rằng hồi còn ở với mình, nó ngoan
ngoãn và cao thượng thế nào; nào là một lần đi chơi ở vườn hoa Kensington nó
được một công tước phu nhân chú ý ra sao, nào là bây giờ nó được nâng như nâng
trứng hứng như hứng hoa, có riêng một con ngựa và một người hầu; rồi con trai
mình thông minh sáng trí thế nào, cũng như thầy giáo nó là ông mục sư Veal lịch
sự và thông thái ra sao... Amelia khoe:
- Gì ông ấy cũng biết. Những cuộc họp mặt tổ
chức tại nhà ông ấy vui lắm. Đọc rộng biết nhiều, thông minh tài giỏi như
anh...việc gì anh phải chối...xưa kia nhà tôi vẫn nói chuyện thế...giá anh đến
dự những buổi họp mặt tại nhà ông Veal, anh cũng phải thích. Cứ đúng ngày thứ
ba trong tuần lễ cuối cùng mỗi tháng. Ông ấy bảo rằng Georgy sau này thừa sức
làm nghị sĩ hay quan toà. Anh xem đây này…
Amelia lại ngăn kéo để bài nhạc lấy ra một bài
luận của Georgy. Nội dung văn bản thiên tài mà bà mẹ trân trọng gìn giữ ấy như
sau:
Bàn về thói ích kỷ- Trong tất cả mọi thói xấu
làm giảm giá trị con người thì thói ích kỷ là xấu xa đáng khinh nhất. Quá nặng
lòng yêu cá nhân mình dẫn người ta đến những tội ác khủng khiếp nhất, có thể
đưa đến những tai hoạ lớn lao ngoài xã hội cũng như trong gia đình. Nếu như một
người ích kỷ có thể làm cho gia đình mình nghèo khổ đi và nhiều khi phá sản,
thì một ông vua ích kỷ sẽ đưa nhân dân đến chỗ bần cùng và nhiều khi ném họ vào
lò lửa của chiến tranh.
Thí dụ: Thói ích kỷ của Achilles, như thi hào
Homer nhận xét, đã đem hàng ngàn tai hoạ dội xuống đầu dân Hy Lạp (Trích
Hom.Il.A.2)... Thói ích kỷ của Napoléon Bonaparte vừa chết đã đẩy Âu châu vào
những cuộc chiến tranh liên miên, đồng thời buộc hắn phải chết rụi ở trong một
hoang đảo... tức là đảo St. Helen ở giữa Đại-tây-dương.
Những thí dụ trên cho ta thấy rằng không nên
căn cứ vào lợi ích và cao vọng của riêng ta mà hành động, phải biết tôn trọng
lợi ích của người khác cũng như của mình.
GEORGY S. OSBORNE Học đường Athene, 24-4-1827.
Người mẹ lòng tràn đầy niềm vui, nói:
- Anh xem, cháu mới một tý tuổi mà viết văn hay
thế đấy, lại dẫn cả văn cổ Hy Lạp nữa, anh William ơi! (Amelia cầm lấy tay
Dobbin, tiếp). Thật là trời ban cho tôi một viên ngọc quý, cháu nó là nguồn an
ủi của đời tôi...cháu nó giống...anh ấy như tạc.
William nghĩ thầm: “Ta có quyền bực mình vì
nàng vẫn trung thành với chồng không nhỉ? Ta có quyền ghen với bạn ta đang nằm
dưới mộ không? Ta có quyền giận dữ vì lẽ con người như Amelia chỉ biết yêu có
một lần trong đời? George ơi! Xưa kia anh đã không biết rằng mình nắm trong tay
một vật báu vô giá”. Ý nghĩ ấy thoáng nhanh qua óc William trong lúc anh ta nắm
bàn tay Amelia trong tay mình. Còn Amelia thì đưa mùi xoa lên chấm mắt. Amelia
xiết chặt bàn tay Dobbin đang nắm tay mình nói:
- Anh Dobbin ạ, xưa nay anh đối với tôi đáng
quý vô cùng. Kìa, ông cụ tôi đang cựa mình.... Ngày mai, thế nào anh cũng lại
thăm cháu Georgy nhé.
Anh chàng Dobbin đáng thương đáp:
- Ngày mai thì không được rồi; tôi trót có việc
bận. Anh ta không muốn thú nhận rằng mình chưa kịp về thăm cha mẹ và người em
gái yêu dấu là cô Anne... (tôi chắc bất cứ người nào tâm trí bình thường cũng
phải trách Dobbin về thái độ vô tình này). Đoạn anh ta ghi địa chỉ của mình để
lại cho Joe rồi từ biệt Amelia ra về.
Dobbin đã sống ngày đầu tiên trên đất nước như
vậy đấy, nghĩa là anh chàng đã được gặp mặt người trong mộng của mình.
Lúc Dobbin về đến quán rượu Slaughters thì món
gà rán đã nguội tanh; anh ta đành ăn nguội vậy. Biết rằng gia đình mình quen đi
ngủ sớm, bây giờ đã khuya anh ta cũng không muốn đánh thức cả nhà dậy làm gì.
Dobbin bèn ra nhà hát “Chợ rơm” mua một tấm vé vào giải trí tạm cho qua đêm hôm
ấy.
Chương 59
CHIẾC DƯƠNG CẦM NGÀY XƯA
Việc Dobbin đến thăm làm cho ông già Sedley đâm
ra bồi hồi xúc động khác thường. Tối hôm ấy, con gái khuyên mấy ông lão cũng
không chịu làm những công việc bình thường hoặc giải trí như mọi người. Suốt
buổi tối, ông lúi húi lục lọi các ngăn kéo, các hộp đựng giấy má; hai bàn tay
run rẩy, ông lão cởi hết các bó giấy tờ cũ sắp xếp lại chờ Joe về thì đưa cho
xem... đủ cả biên lai, thư từ giao thiệp về việc thương mại với luật sư và bạn
hàng, giấy tờ liên quan đến chương trình kinh doanh rượu vang (kế hoạch mới đầu
thì nhiều triển vọng lắm nhưng cuối cùng thất bại vì một sự rủi ro khó mà giải
thích được.), chương trình kinh doanh than đất (nếu không vì thiếu vốn thì kế
hoạch này cũng hứa hẹn lắm lắm), dự án thành lập một xưởng máy cưa v.v... Mãi
tới khuya, ông lão còn loay hoay với đống giấy má, cứ lẩy bẩy đi từ phòng này
sang phòng khác, tay run run bưng cây đèn cháy chập chờn... Đây là giấy tờ về
rượu, đây là về than, đây là về nhà máy cưa, còn đây là bản lưu bức thư gửi đi
Madras và Calcutta, cả thư trả lời của thiếu tá Dobbin và Joseph Sedley, “Emmy
ạ, phải cho nó thấy rằng tao làm ăn đâu vào đấy”. Emmy mỉm cười đáp:
- Ba ạ, con chắc anh Joe chả buồn để ý đến
những giấy má ấy đâu.
Ông lão lắc đầu trịnh trọng nói:
- Con ơi, mày chẳng hiểu lý gì về việc kinh
doanh cả.
Phải công nhận rằng về vấn đề này Emmy không
hiểu gì thật, nhưng lại đáng thương cho nhiều người khác, vì họ am hiểu vấn đề
ấy quá tường tận. Ông lão xếp cẩn thận mớ tài liệu vô giá trị trên mặt bàn rồi
lấy một chiếc khăn tay có in hoa (một tặng vật của Dobbin) phủ lên trên cẩn
thận; vẻ mặt hết sức nghiêm trang, ông dặn chị hầu gái và bà chủ nhà chớ có mó
máy gì vào chỗ giấy má ấy, để sớm hôm sau ông Joe về sẽ xem lại... “Ông Joseph
Sedley, tòng sự tại Sở Hành chính khu Belgan, thuộc Công ty Đông Ấn Độ).
Hôm sau, Amelia thấy ông lão dậy thật sớm, có
vẻ nóng ruột, bận bịu lắm, nhưng cũng run rẩy hơn mọi ngày. Ông nói:
- Emmy, đêm qua tao không ngủ được mấy. Tao cứ
nghĩ đến bà cụ Bessy nhà này. Giá bà lão còn sống đến bây giờ để lại được ngồi
xe ngựa của thằng Joe đi chơi nhỉ. Ngày xưa, bà cụ nhà này đi đâu có xe ngựa
riêng, cũng chững chạc lắm.
Hai dòng nước mắt bỗng ứa ra chảy ròng ròng
trên đôi má nhăn nheo của ông lão. Amelia lấy khăn tay chùi nước mắt cho cha,
hôn ông cụ thật âu yếm, đoạn thắt cho ông cụ một cái nơ thật khéo trên cổ áo,
lại cài vào ngực áo sơ-mi của ông lão một chiếc cặp bằng vàng. Thế là ông
Sedley bận bộ áo ngày chủ nhật đẹp nhất của mình ngồi sẵn chờ con trai từ sáu
giờ sáng.
Ngoài dãy phố lớn ở Southampton có mấy hiệu thợ
may to; trong tủ kính thấy bày đủ kiểu áo chẽn rất đẹp, may bằng lụa và nhung,
vàng, tím đủ các màu; lại treo cả những tấm hình vẽ quảng cáo cho các kiểu áo
tối tân, vẽ những ông công tử bảnh bao đeo kính, vừa dắt tay những đứa nhỏ, đứa
nào mắt cũng to thô lố và tóc cũng quăn tít, vừa liếc tình mấy bà bận áo kiểu
đi ngựa đang ghìm cương bên pho tượng Achilles ở Apsley House. Tuy đã có những
bộ áo sang trọng may ở Calcutta nhưng Joe cho rằng nếu không cắt thêm vài kiểu
áo tối tân này thì không thể ló mặt ra đường được.
Anh ta chọn một tấm áo gi-lê bằng sa-tanh màu
đỏ thẫm có thêm hình bươm bướm bằng chỉ kim tuyến, và một chiếc áo ngoài bằng
vải sa-tăng nhung màu đen pha đỏ có sọc trắng, cổ bẻ, lại mua thêm một chiếc
ca-vát sa-tanh màu xanh lơ; kèm theo một cái cặp ca-vát bằng vàng có đính hình
người phi ngựa nhảy qua hàng rào bằng sắt tráng men màu hồng. Đủ lệ bộ như thế,
anh ta mới cảm thấy yên tâm ra mắt công chúng nơi kinh đô được. Joe không còn
nhút nhát vụng về, hay đỏ mặt như xưa nữa; bây giờ anh ta đã trở thành bạo dạn
và tự tin vào mẽ người của mình một cách khá ngây thơ. Waterloo Sedley vẫn hay
bảo bạn bè thế này: “Cần cóc gì để ý đến lời bàn tán của thiên hạ, xưa nay tớ
vẫn là tay ăn diện cơ mà”.
Trong những buổi dạ hội tổ chức tại dinh Tống
đốc Belgan, mỗi lần Joe bị giới phụ nữ để ý đến là anh chàng lúng túng đỏ mặt.
Sở dĩ anh chàng chạy trốn những cái liếc tình của các cô, chủ yếu vì sợ mình bị
bắt chim, như thế rất phiền vì anh ta đã quyết định không bao giờ lấy vợ. Nhưng
ở Calcutta, ai cũng đồn rằng Waterloo Sedley là một tay hào hoa nổi tiếng, ăn
tiêu rất mực sang trọng, tiệc tùng luôn, mà bát đĩa dùng trong các bữa tiệc thì
cũng đẹp nhất thành phố.
Thợ may xin một ngày mới đủ thì giờ may áo chẽn
cho một vị to béo và sang trọng như Joe. Trong khi chờ đợi, anh ta dùng một
phần thì giờ đi tìm thuê một người để trợ lực anh người làm da đen trong việc
hầu hạ mình; rồi dặn dò người nhân viên sở quan thuế cho việc chuyển từ trên
tàu xuống hành lý, hòm xiểng và sách những cuốn sách cả đời anh ta không để mắt
đến - những hòm gia vị, những bọc khăn san mua về làm quà cho những người hiện
nay anh ta chưa biết là ai, và tất cả những đồ phụ tùng đông phương () khác của
anh ta.
Mãi đến ngày thứ ba, anh ta mới khệnh khạng bận
áo mới bước vào thành phố Luân-đôn. Thằng hầu người da đen quấn khăn san, ngồi
co ro trên cái hòm bên cạnh một người phụ việc mới thuê; Joe đứng bên thỉnh
thoảng lại thở phào một hơi thuốc lá, nom ra phết ông chủ; thấy vậy, bọn trẻ
con reo ầm lên:
- Hoan hô!
Nhiều người qua đường yên trí anh ta phải là
một viên tổng trấn nào đó ở thuộc địa mới về. Trên đường đi, Joe cũng không từ
chối lời chào mời đon đả của mấy ông chủ khách sạn. Đi qua mỗi thị trấn anh ta
lại dừng lại chè chén một lúc. Ở Southampton, Joe đã dùng một bữa sáng thật ê
hề, đủ các món cá, cơm, trứng luộc, thế mà chưa đến Winchester, anh ta đã thấy
cần uống một cốc rượu mạnh để trợ lực rồi. Đến Alton, thằng hầu mời chủ nghỉ
chân, anh ta đồng ý ngay, vào quán thưởng thức rượu ngon nổi tiếng của địa
phương một chầu tuý luý. Qua Fullham, Joe đứng lại xem lâu đài của đức giám
mục, và ăn qua loa gọi là vài món nhẹ, gồm có lươn hầm, sườn bê rán, đậu Pháp,
kèm theo một chai vang. Đến Bagshot Heath, anh ta cảm thấy lạnh, lại thấy thằng
hầu da đen cứ run bắn lên, bèn dừng lại làm ít rượu cho ấm bụng. Tóm lại, lúc
bước chân vào tỉnh, dạ dày anh ta phình lên toàn những rượu, thịt, gia vị và
thuốc lá, như cái kho chứa thực phẩm của một chiếc tàu chở hàng.
Khi chiếc xe ngựa rầm rầm chạy đến đỗ trước
chiếc cổng nhỏ ngôi nhà ở Brompton thì trời đã tối; người con trai chí hiếu
muốn về nhà thăm bố ngay, trước khi đến gian phòng trọ Dobbin đã thuê sẵn hộ ở
quán rượu Slaughters.
Cả phố đổ xô ra cửa sổ nhìn; chị hầu gái chạy
vội ra hàng rào ngó. Hai mẹ con bà Clapp cũng vén rèm bếp nom ra. Emmy cảm động
quá đứng chờ trong hành lang, áo mũ chỉnh tề, ông lão Sedley ngồi trong phòng
khách run lên bần bật. Từ trên xe ngựa Joe bệ vệ bước xuống, bậc xe rít lên ken
két; hai chú người hầu da đen và da trắng vội đỡ chủ; anh chàng da đen càng run
tợn, bộ mặt đen tái nhợt đi vì lạnh, biến thành màu mề gà. Hai mẹ con bà Clapp,
áng chừng muốn nghe trộm, vừa mon men đến cửa phòng khách, đụng ngay phải anh
chàng Ấn Độ bận áo sù sụ ngồi run như cầy sấy trên chiếc ghế dài, vừa rên hừ hừ
nhe bộ răng trắng nhởn thô lố mắt ra mà nhìn.
Chúng tôi không muốn tả lại cuộc đoàn viên giữa
Joe và ông bố già nua và người em gái dịu dàng. Ông lão xúc động đặc biệt, dĩ
nhiên Amelia cũng vậy. Joe cũng không phải là vô tình; xa gia đình mười năm
trời đằng đẵng, kẻ ích kỷ mấy cũng phải nhớ nhà, nhớ cha mẹ anh em. Sự xa cách
khiến cho con người thêm gần gũi nhau. Sau một thời gian dài ấp ủ những tình
cảm đã quên đi, đến lúc được hưởng lại, người ta thấy đậm đà đằm thắm hơn trước
nhiều. Tuy hai bố con có chuyện không bằng lòng nhau...nhưng lần này nhìn thấy
và được bắt tay cha, Joe cảm thấy sung sướng một cách thành thực; Joe cũng vui
mừng vì được gặp lại em gái, và ta nhớ rằng xưa kia cô là một thiếu nữ rất xinh
tươi. Joe buồn rầu thấy thời gian, sự lo nghĩ và những tai hoạ đã khiến ông già
tiều tuỵ đi nhiều. Emmy bận áo tang đen ra cửa đón, thì thầm trước với anh trai
rằng mẹ đã chết, lại dặn anh đừng nên gợi lại câu chuyện đau lòng ấy với cha
làm gì. Thật ra cẩn thận như thế cũng vô ích, vì chính ông lão Sedley lại nhắc
đến chuyện ấy trước; ông lão kể lể và khóc lóc mãi. Thấy cha đau khổ như thế,
anh chàng “ấn-độ” cảm động quá; anh ta đâm ra ít suy nghĩ về mình hơn mặc dầu
xưa nay Joe vẫn là người ích kỷ.
Cuộc hàn huyên có lẽ đem lại kết quả tốt đẹp,
vì lúc Joe lên xe ngựa trở về phòng trọ, Amelia âu yếm hôn cha, dáng điệu sung
sướng, cô nói với ông cụ rằng xưa nay mình vẫn chẳng bảo Joe tâm địa rất tốt là
gì?
Thực ra Joseph Sedley thấy cha và em lâm vào
hoàn cảnh túng thiếu cũng thương; nhân cuộc tái ngộ đầu tiên, đang hào hứng,
anh ta tuyên bố ngay rằng từ rày trở đi sẽ không để cho cha và em gái phải
thiếu thốn điều gì, và trong thời gian còn lưu lại ở nước Anh - mà thời gian
này cũng khá lâu- tất cả mọi thứ của anh đều là của cả gia đình. Amelia sẽ đóng
vai bà chủ gia đình cho anh trai, cho đến khi nào cô muốn giữ vai trò riêng cho
mình.
Amelia hiểu anh trai muốn nói gì. Cô buồn bã
lắc đầu và dĩ nhiên cũng như mọi lần, lại thút thít khóc. Ngay đêm hôm Dobbin
đến thăm, Amelia và người bạn tâm tình ít tuổi là cô bé Mary đã bàn với nhau
rất lâu về chuyện này. Cô bé Polly tính tình sôi nổi nhịn không được, bèn đem
ngay câu chuyện mình vừa khám phá ra kể cho Amelia nghe, cô tả lại Dobbin có vẻ
xúc động đặc biệt thế nào khi gặp ông Binny đi cùng người vợ mới cưới, khi anh
biết rằng ông ta không còn là kẻ tình địch của mình nữa. Cô Polly thêm:
- Lúc bà hỏi ông ấy lập gia đình chưa, ông ấy
đáp: “Ai bịa chuyện ấy ra với chị…” thế bà có thấy ông ấy cảm động đến run lên
không? Bà ạ, em thấy mắt ông ấy không rời bà lấy một chút. Em chắc vì nghĩ đến
bà nhiều quá nên tóc ông ấy đã lốm đốm bạc đấy.
Amelia ngước nhìn lên chân dung chồng và con
trai treo trên đầu giường, rồi khuyên cô thiếu nữ đừng bao giờ nên nhắc tới
chuyện ấy nữa. Cô nói rằng thiếu tá Dobbin là người bạn thân thiết nhất của
chồng, và có thể coi Dobbin như một người anh... vả chăng người đàn bà nào đã
có diễm phúc làm vợ một thiên thần như thế kia - cô chỉ lên bức chân dung treo
trên tường - thì không bao giờ có thể nghĩ đến chuyện tái giá. Cô bé Polly thở
dài; cô chợt nhớ đến cậu Tomkins làm ở phòng bào chế hay nhìn cô chằm chằm mỗi
lần gặp nhau ở nhà thờ. Cậu ta mới tấn công cô bé bằng luồng nhỡn tuyến mà đã
khiến cho trái tim bé bỏng e lệ của cô hồi hộp quá đến nỗi cô chỉ muốn đầu hàng
ngay lập tức... cô đang nghĩ xem ví thử bây giờ cậu Tomkins bất hạnh bị chết
thì mình sẽ cư xử ra sao? Cô biết cậu ta đang mắc bệnh phổi, hai má lúc nào
cũng đỏ ửng, mà thân hình thì gầy đét.
Còn Emmy khi biết rõ anh chàng thiếu tá thực
thà kia yêu mình, cũng có ra mặt cự tuyệt hoặc cảm thấy khó chịu khi phải gặp
mặt với anh ta đâu. Người đàn bà nào có thể bực mình trước tâm tình của một con
người chân thành và trung thực như vậy? Xưa kia Desdemona () cũng có giận
Cassio () đâu, tuy chắc chắn nàng biết viên tướng trẻ này yêu mình tha thiết
(riêng tôi, tôi tin rằng trong câu chuyện đáng buồn này có nhiều uẩn khúc mà vị
tướng quân người Moore () không hề ngờ tới: tại sao Miralda vẫn đối xử nhã nhặn
với Cassio? Dĩ nhiên cũng chỉ có một nguyên nhân thôi...nhưng nói như thế không
có nghĩa là nàng khuyến khích mối tình si dại của thằng quỷ con gớm ghiếc.
Thì Amelia cũng vậy; cô không hề khuyến khích
mối tình si của viên thiếu tá. Cô sẵn sàng vẫn ban cho anh chàng những cái nhìn
trìu mến, mà con người tốt bụng và chung thuỷ xứng đáng hưởng: cô sẽ đối đãi
với Dobbin một cách hết sức thẳng thắn, thân mật cho tới khi nào anh chàng thổ
lộ mối tình u ẩn của mình; khi ấy mới là lúc nên nói chấm dứt những hy vọng
chắc chắn không bao giờ thực hiện được.
Cho nên đêm hôm ấy, sau buổi chuyện trò với cô
Polly , Amelia ngủ rất yên giấc; có lẽ giấc ngủ còn ngon hơn mọi đêm mặc dầu
hôm ấy Joe vẫn chưa về. Cô nghĩ thầm: “Anh ấy không cưới cô O’Dowd làm vợ, thôi
thì mình cũng mừng thay. Đại tá O’Dowd không thể nào có em gái xứng đáng lấy
thiếu tá William làm chồng được”. Vậy thì trong chỗ người quen kẻ thuộc, thử
điểm mặt xem có ai xứng đáng làm vợ anh chàng không? Cô Binny? Không được, cô
ta già quá, lại bẳn tính. Cô Osborne?... cũng già rồi. Cô bé Polly thì còn trẻ
con quá…cho đến lúc ngủ thiếp đi, Amelia vẫn chưa tìm được ai xứng đáng kết
duyên với anh chàng thiếu tá.
Mãi tới khi người đưa thư đem tin của Joe đến,
hai cha con mới yên tâm; thư viết rằng Joe đi đường hơi mệt, hôm ấy chưa về nhà
ngay được; sáng hôm sau anh ta mới rời Southampton, đến tối thì sẽ tới nhà gặp
mặt em gái và cha mẹ. Amelia đọc to lá thư lên cho cha nghe; cô dừng lại ở chữ
cuối cùng; thế này rõ ràng anh trai cô chưa biết tý gì về những chuyện đã xảy
ra trong gia đình. Mà làm sao Joe biết được? Đoán rằng anh bạn đường của mình
sẽ kiếm cớ trì hoãn ít nhất là hai mươi bốn tiếng đồng hồ rồi mới về thăm nhà.
Dobbin cũng không kịp viết thư báo cho bạn biết trước về tin buồn trong gia
đình bạn, vì mải nói chuyện với Amelia lúc anh ta ra về thì đã quá giờ nhận thư
của bưu điện lâu rồi.
Cũng sáng hôm ấy Dobbin nhận được một lá thư từ
Southampton gửi về quán trọ Slaughters cho mình; Joe viết thư xin lỗi “anh
Dobbin yêu quý” về chuyện hôm trước mình đã gắt gỏng lúc bị đánh thức dậy quá
sớm. Joe nói rằng đêm hôm ấy bị nhức đầu như búa bổ, mãi gần sáng mới thiếp đi
được một tí, lại nhờ Dobbin thuê sẵn hộ vài căn phòng thật tiện lợi trong quán
trọ Slaughters cho mình và người hầu ở. Suốt cuộc hành trình, Dobbin đã trở
thành cần thiết đối với Joe. Anh chàng cứ bám nhằng nhằng lấy viên thiếu tá.
Mấy người cùng đi trên chuyến tàu cũng về
Luân-đôn; ngay hôm ấy Ricketts và Chaffers thuê xe ngựa về nhà... Đến Botley,
Ricketts leo lên ngồi đằng trước xe, đòi cầm cương thay xà ích; viên thầy thuốc
thì về Portsea thăm gia đình. Bragg về Luân-đôn tìm lại cánh bè bạn trong nghề
kinh doanh tàu biển. Riêng viên phó thuyền trưởng còn ở lại lo việc dỡ hàng hoá
gửi trả khách. Một mình Joe ở lại Southampton buồn quá, anh chàng bèn mời ông
chủ khách sạn “Hoàng đế George” uống với mình vài cốc rượu cho vui. Cũng đúng
giờ ấy, thiếu tá Dobbin đang ngồi ăn với ông cụ thân sinh là tôn ông William.
Anh chàng cả đời không biết nói dối bao giờ, thành ra phải thú thực với cô em
gái rằng hôm qua mình bận đến thăm bà George Osborne nên về muộn.
Joe sống rất ung dung tại đại lộ Martin, cả
ngày tha hồ hút thuốc lá Ấn Độ thoả thích, lúc nào hứng lại la cà ở các rạp
hát. Có lẽ anh ta cứ ở lỳ mãi tại quán trọ Slaughters, nếu không có Dobbin thúc
bách. Joe mà chưa thực hiện lời hứa lo sắp đặt nơi ăn chốn ở cho cha và em gái
cẩn thận thì Dobbin chưa chịu để cho yên. Tính Joe vốn nhu nhược, ai bảo gì
cũng nghe... Dobbin vẫn có thói quen “Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng”,
thành ra nhà ngoại giao tốt bụng này xui gì, Joe ngoan ngoãn làm theo ngay;
thôi thì mua sắm, thuê mượn, bán chác tuỳ ý Dobbin. Chú hầu da đen Loll Jewab,
mỗi lần vác bộ mặt “súc cù là” ra đường là bị bọn trẻ con đuổi theo chế nhạo
đến khổ; Joe bèn gửi nó về Calcutta, trên chuyến tàu “Công nương Kicklebury”
của Công ty Ấn Độ, chiếc tàu mà William Dobbin có góp cổ phần kinh doanh. Trước
khi về nước, nó đã làm tròn nhiệm vụ huấn luyện thằng hầu người da trắng của
Joe phương pháp làm các món cà-ry, cơm rang và cách hầu điếu ông theo kiểu Ấn
Độ. Joe và Dobbin chung nhau thuê một nhà làm xe ngựa ở Long Acre đóng một cỗ
xe thật lộng lẫy. Joe để hết tâm trí săn sóc việc đóng xe. Anh ta mua được một
đôi ngựa thật đẹp, thế là ngày ngày chỉ bệ vệ giong xe ngựa ra công viên chơi,
hoặc đi thăm các bạn cũ trước cùng làm việc ở Long Acre . Ít khi có Amelia cùng
ngồi xe ngựa đi chơi với anh trai mà không thấy Dobbin ngồi cặp kè trên ghế
sau; thỉnh thoảng ông Sedley cùng ngồi xe ngựa đi chơi với con gái. Amelia cũng
mời cô Clapp đi chơi với mình luôn. Cô bé choàng tấm khăn san màu vàng ngồi
trên xe ngựa, sung sướng nhất là lúc đi qua phòng thăm bệnh thấy cậu Tomkins
nhận ra mình, cứ thập thò cái đầu trong cửa sổ ngó theo mãi.
Joe về Brompton được ít lâu thì một chuyện đáng
buồn xảy ra tại ngôi nhà nhỏ bé này, nơi gia đình Sedley đã sống hơn mười năm
trời. Một hôm, Joe đánh xe ngựa đến (chiếc xe dùng tạm chứ không phải là chiếc
xe mới còn đang đóng dở dang chưa xong) đưa hai cha con ông già Sedley đi để
không bao giờ trở lại đây nữa. Nhân dịp hai mẹ con bà chủ nhà đã nhỏ những giọt
nước mắt buồn khổ cũng thành thực như bất cứ giọt nước mắt nào đã nhỏ trong
cuốn truyện này. Suốt thời gian chung sống, cũng như từ ngày quen hơi bén
tiếng, họ chưa hề thấy Amelia nặng lời với ai. Bao giờ Amelia cũng ăn nói dịu
dàng, ngọt ngào bao giờ cũng tỏ ra nhã nhặn, biết ơn, ngay cả những khi bà
Clapp cáu kỉnh và giục trả tiền nhà. Bây giờ Amelia đi hẳn rồi, bà mới hối hận
về những lời phũ phàng của mình trước kia; cho nên lúc hai mẹ con lấy xi đính
một tờ giấy lên cửa sổ rao trong nhà có phòng bỏ không cho thuê, người ta thấy
bà khóc thút thít. Khó lòng mà tìm một người thuê nhà biết điều như vậy, chuyện
ấy là rõ ràng nhất. Về sau sự dự đoán của bà quả nhiên thành sự thật. Để trả
thù sự xấu thói của người đời, bà Clapp bèn tính tiền đèn nến và tiền thịt cừu
thật nặng, đổ vào đầu những người ở thuê nhà bà. Đa số trả tiền nhưng càu nhàu
kêu ca; vài người quỵt thẳng, nhưng không có ai ở nhà bà lâu. Bà chủ nhà tha hồ
mà tiếc những người bạn cũ đã từ biệt mình đi ở chỗ khác.
Cô Mary phải chia tay với Amelia buồn bã quá
đến nỗi chúng tôi không dám miêu tả lại đây nữa. Từ tấm bé, hàng ngày sống cạnh
Amelia, cô rất gắn bó với người đàn bà hiền hậu tốt bụng này; lúc chiếc xe ngựa
đến mang Amelia đi, cô ngất lịm trong tay người bạn lớn tuổi. Amelia cảm động
không kém vì vẫn yêu quý cô bé vui tính này và coi cô như con gái mình. Suốt
mười một năm nay cô Mary vẫn là người bạn tâm tình trung thành của Amelia, cho
nên đối với chính cô, cuộc chia tay cũng đầy đau khổ. Nhưng rồi Amelia thu xếp
thế này; cô Mary sẽ đến chơi luôn luôn tại ngôi nhà sang trọng chỗ Amelia sắp
dọn đến ở. Cô Mary nhất định tin rằng tại đó Amelia sẽ không thể nào được sung
sướng bằng hồi còn cùng mình chung sống trong “mái nhà tranh”; ấy là danh từ cô
Clapp dùng để chỉ căn nhà của bố mẹ, bắt chước ngôn ngừ trong mấy cuốn tiểu
thuyết mà cô rất mê.
Chúng ta cũng mong rằng cô nghĩ như vậy là lầm.
Thực ra, trong thời gian sống dưới “mái nhà tranh”, những ngày hạnh phúc của
Amelia rất hiếm hoi. Số mệnh tàn ác như luôn luôn lẩn quất trong nhà này. Bây
giờ đi khỏi rồi, Amelia không muốn nghĩ đến chuyện trở lại nữa, cũng không
thiết nhìn lại mặt bà chủ nhà đã đối xử với mình không ra gì lúc tức giận vì
tiền nhà chưa trả đủ, và lúc vui vẻ thì lại thân mật một cách sỗ sàng đến gần
như thô bỉ.
Thấy Amelia trở lại cuộc sống sung túc, bà
Clapp tỏ thái độ săn đón đến hèn hạ: Amelia không thể chịu nổi. Đến thăm ngôi
nhà mới chỗ Amelia ở, bà luôn luôn tấm tắc khen nhà cửa, bàn ghế, đồ dùng cái
gì cũng đẹp cũng sang. Bà mân mê quần áo của Amelia, đoán phỏng may hết chừng
nào tiền; bà khăng khăng thề rằng người như Amelia thì đồ ăn thức dùng quý đến
đâu cũng chưa xứng. Nhìn con người nịnh xằng đang bợ đỡ mình, Amelia không sao
quên được hình ảnh mụ đàn bà cay nghiệt trước kia đã bao nhiêu lần làm mình mất
ăn mất ngủ mỗi khi cô phải nói khéo xin khất tiền nhà chưa trả được; lần nào
bắt gặp Amelia mua chút quà bánh về cho bố mẹ là mụ la lối om xóm. Amelia quên
sao được kẻ đã chà đạp thân phận hèn mọn của mình trong cảnh túng thiếu.
Nào ai thấu hết được nỗi khổ nhục người đàn bà
đáng thương ấy đã phải chịu đựng. Amelia giữ kín không cho cha biết, mặc dầu
chính vì sự vụng tính của ông lão mà cô phải khổ. Người con gái đành gánh vác
hết cả tai hoạ do sự lầm lỗi của cha gây ra, với một thái độ hết sức nhẫn nại
dường như trời sinh ra mình là để làm một nạn nhân vậy.
Có lẽ từ đây trở đi Amelia không còn phải vất
vả như trước nữa. Người ta thường bảo rằng kẻ đau khổ tìm được cách tự an ủi
mình, có lẽ thế thật; cô bé Mary đáng thương phát ốm vì phải xa bạn, gia đình
bèn mời cậu thanh niên ở phòng bào chế đến thăm bệnh, kê đơn; chỉ sau một thời
gian ngắn được cậu này săn sóc, cô khỏi phăng mọi bệnh tật. Lúc rời Brompton ra
đi, Emmy để lại cho Mary tất cả đồ đạc trong nhà, chỉ mang theo có hai bức chân
dung (hai tấm hình vẫn treo ở đầu giường ngủ) và chiếc dương cầm...
Chiếc đàn bây giờ đã cũ kỹ lắm rồi, kêu không
ra tiếng, nhưng Amelia vẫn quí vì những lý do riêng. Cô đã dùng nó từ hồi còn
bé; đó là món quà của cha mẹ mua cho. Sau này, khi ông bố lâm vào cảnh phá sản,
mất hết cơ nghiệp, riêng cây dương cầm được vớt vát lại, trở về với chủ cũ,
chắc các bạn đọc còn nhớ.
Dobbin cũng đến trông nom hộ việc dọn dẹp nhà
cửa; anh ta luôn miệng khen nhà đẹp và đầy đủ tiện nghi. Dobbin vui nhất là khi
thấy trên chiếc xe ngựa chở hòm xiểng của gia đình Sedley từ Brompton đến, có
cả chiếc dương cầm cũ kỹ. Amelia muốn đặt chiếc đàn trong phòng khách riêng của
mình, một căn phòng xinh xắn gọn ghẽ trên gác, kê sát ngay phòng của cha; ông
lão có thói quen tối nào cũng ngồi chơi trong căn phòng này.
Người nhà khiêng chiếc dương cầm vào; Amelia
bảo họ đem đặt trong căn phòng khách vừa nói trên; Dobbin thấy thế bằng lòng
lắm. Anh chàng cảm động nói: Chị gìn giữ chiếc đàn này như thế, tôi cho là phải
lắm. Tôi chỉ lo chị không buồn để ý đến nó.
Amelia đáp:
Tôi quý nó hơn mọi vật trên đời này đấy, anh ạ.
- Thật không, Amelia?
Anh chàng thiếu tá sung sướng quá, kêu lên. Sự
thực chính Dobbin đã mua chiếc đàn; và mặc dầu chưa bao giờ nói ra, nhưng anh
ta cũng không hề nghĩ rằng Emmy có thể lầm, cho rằng người mua đàn gửi tặng là
người nào khác; theo ý anh ta, chắc chắn Emmy phải biết chính Dobbin mua đàn
tặng mình. Anh ta kêu lên:
“Thật không, Amelia?” và đôi môi đã mấp máy
muốn thốt ra một câu hỏi, câu hỏi quan trọng nhất đời mình thì Amelia đáp:
- Tất nhiên tôi phải gìn giữ chứ... chẳng phải
là của anh ấy tặng tôi sao?
- Nào tôi biết được!
Anh chàng Dobbin đáng thương cụt hứng đáp.
Ngay lúc ấy, Amelia không quan tâm đến câu
chuyện cũng không chú ý đến bộ mặt rầu rĩ của anh chàng Dobbin thực thà nhưng
về sau cô mới nghĩ ra. Lúc ấy Amelia mới giật mình; biết rằng chính Dobbin mới
là người gửi tặng mình chiếc dương cầm, Amelia cảm thấy đau khổ vô cùng. Thì ra
xưa nay vẫn tưởng George tặng mình chiếc đàn là lầm; đó không phải là tặng phẩm
của George, không phải là tặng phẩm duy nhất của người yêu như mình vẫn
tưởng... thế mà mình đã nâng niu trân trọng nó hơn mọi vật quý trong đời... coi
nó như một di vật quý báu thân thiết nhất. Nhiều lần Amelia đã thì thầm nói
chuyện với chiếc đàn về George đã chơi những bài nhạc George thích trên chiếc
dương cầm; nhiều buổi tối Amelia đã ngồi hàng giờ liền đem hết tài năng tầm
thường của mình dạo những tiếng đàn ảo não trên hàng phím, rồi âm thầm khóc
trên phím đàn. Bây giờ chiếc dương cầm chẳng còn phải là tặng vật của George
nữa rồi; đối với Amelia nó trở thành vô giá trị.
Hôm sau, ông Sedley bảo con đánh đàn cho mình
nghe, Amelia trả lời rằng nó bị hỏng nhiều quá mình lại đang nhức đầu không sao
đánh được.
Nhưng rồi cũng như mọi khi, Amelia hối hận; cô
tự trách mình có thái độ nhỏ nhen, vô ơn; Amelia thấy mình có tội, vì tuy không
hề nói ra với Dobbin, nhưng trong thâm tâm quả có thái độ rẻ rúng đối với chiếc
đàn khi biết là của anh chàng gửi tặng. Mấy hôm sau, nhân lúc hai người ngồi
trong phòng khách - Joe ăn xong đã ngủ thiếp đi rất ngon giấc- Amelia giọng run
run nói với Dobbin:
- Tôi phải xin anh tha lỗi cho về chuyện này.
Dobbin hỏi lại:
- Về chuyện gì thế?
- Về chuyện...chuyện chiếc dương cầm ấy. Từ hồi
anh mua gửi cho đã mười mấy năm nay, khi tôi còn chưa ở riêng, tôi chưa lần nào
có lời cảm tạ anh. Trước tôi vẫn tưởng người khác gửi tặng. Anh William tôi xin
cảm ơn anh.
Amelia đưa tay cho Dobbin nắm, nhưng trong lòng
như đứt từng khúc ruột, và dĩ nhiên nước mắt lại tuôn ra như suối.
Lúc này William không sao kìm giữ lòng mình
được nữa; anh ta thổ lộ can tràng:
- Amelia, Amelia; chính tôi đã mua chiếc dương
cầm ấy đấy.Ngay từ hồi ấy cũng như hiện nay, tôi vẫn yêu Amelia. Tôi phải thú
thực hết. Có nhẽ tôi yêu Amelia ngay phút gặp gỡ đầu tiên...ngay khi George đưa
tôi đến nhà ta để giới thiệu vị hôn thê với tôi. Hồi ấy, Amelia còn là một
thiếu nữ, mặc áo trắng toát, có những búp tóc quăn quăn, vừa bước xuống thang
gác vừa hát... Amelia còn nhớ không?... thế rồi chúng ta đi chơi Vauxhall. Từ
ngày ấy, tôi chỉ mơ tưởng đến một người đàn bà trên đời này, người đó là
Amelia. Suốt mười hai năm nay, quả thực không có một giờ một phút nào tôi không
nghĩ đến Amelia. Trước khi đi Ấn Độ tôi đã đến để thú thực điều ấy, nhưng
Amelia có buồn để ý đến tôi đâu; thế là tôi không dám nói nữa. Hồi ấy, Amelia
không cần biết tôi đi hay tôi ở lại.
Amelia đáp:
- Tôi thật là kẻ vô ơn.
Dobbin thất vọng tiếp:
- Không phải. Amelia vô tình thì đúng hơn. Tôi
tự biết không có đức tính gì khiến được đàn bà khỏi vô tình với mình. Tôi hiểu
hiện giờ Amelia nghĩ gì. Sự thực về chiếc dương cầm đã khiến cho Amelia rất khổ
tâm, vì nó là tặng vật của tôi, không phải là của George. Lẽ ra tôi không bao
giờ nên nói ra điều này mới phải; bây giờ chính tôi phải xin Amelia thứ lỗi vì
trong một phút điên rồ đã có cử chỉ vô nghĩa ấy, và vì lầm tưởng rằng hơn mười
hai năm trời trung thành tận tụy có thể khiến Amelia động tâm nghĩ lại.
Amelia cảm động đáp:
- Chính anh mới thật là nhẫn tâm. George bao
giờ cũng vẫn là chồng tôi, dưới cõi trần cũng như trên thiên đường. Làm sao tôi
có thể yêu người khác được? William ạ, bây giờ cũng như lần đầu tiên anh gặp
tôi, tôi vẫn là của George. Chính anh ấy đã nói với tôi rằng anh là người rộng
lượng, cao quý; chính George đã dạy tôi biết coi anh như người anh ruột; thì
anh chẳng đã săn sóc chu đáo mọi sự cho mẹ con tôi đấy sao? Đối với chúng tôi
anh đã là người đỡ đầu thân quý nhất trung thực nhất, là người che chở rộng
lượng nhất. Giá anh trở về sớm hơn vài tháng, có lẽ đã tránh cho mẹ con tôi
được sự chia ly đau đớn kia rồi. Ôi, anh William ơi, tôi như chết đi từng khúc
ruột... nhưng anh không về mặc dầu ngày đêm tôi vẫn cầu nguyện mong đợi tin
anh. Thế là họ bắt mất đứa con của tôi mang đi. Anh William, anh có thấy cháu
đáng yêu không? Mẹ con tôi mong vẫn được coi anh là bạn như cũ...
Nói đến đây, Amelia nghẹn ngào, gục mặt vào vai
Dobbin.
Anh chàng thiếu tá vòng tay ôm lấy Amelia như
ôm một đứa trẻ, và cúi xuống hôn vào mái tóc, nói:
- Amelia thân yêu ơi, tôi sẽ không thay đổi.
Tôi sẽ không đòi hỏi Amelia yêu tôi nữa. Có lẽ tôi không nên đòi hỏi gì khác.
Chỉ xin Amelia cho tôi được gần gũi và trông thấy mặt luôn luôn là đủ.
- Vâng, luôn luôn.
Amelia đáp vậy. Thế là William cứ việc tự do mà
nhìn và khao khát, y như thằng bé học trò đáng thương không một xu trong túi,
tha hồ ngắm nghía hòm kẹo của người đàn bà bán hàng rong mà thở dài nuốt nước
bọt.
Chương 60
TRỞ LẠI XÃ HỘI THƯỢNG LƯU
Từ nay Thần May mắn lại bắt đầu mỉm cười với
Amelia.
Chúng ta cũng lấy làm mừng cho cô vì đã thoát
được ra khỏi cảnh sống tăm tối trước kia, và bắt đầu bước chân vào một xã hội
lịch sự; tuy chẳng được cao sang tôn quý lắm như những nơi cô bạn Becky của
chúng ta có dịp ra vào, nhưng cũng là những người theo lối ăn chơi quý phái.
Joe quen nhiều người trong số những viên chức trước đã tòng sự tại cả ba dinh
Thống đốc ở Ấn Độ; ngôi nhà mới của anh ta hiện nay lại ở ngay khu vực hỗn hợp
Anh - Ấn Độ, mà công viên Moira là trung tâm, gồm có những phố Great Clive,
Warren, Hastings, quảng trường Ochterlony và những công viên Plassy, Assaye.
Còn ai là người không biết đến những chốn họp mặt danh tiếng ấy của giới thượng
lưu thuộc địa, cũng như khu phố mà Wenham đã mệnh danh là “cái hang tối”?
Số tiền lợi tức của Joe không đủ cho phép anh
ta tậu một ngôi nhà ở công viên Moira; những tay sống ở đây là những ủy viên
trong hội đồng quản trị thuộc địa, hoặc có cổ phần trong các hãng buôn Ấn Độ
kếch xù (họ kiếm khoảng mươi vạn đồng, sang tên cho vợ rồi rút lui về thôn quê
sống gọi là eo hẹp với số lợi tức đồng niên khoảng bốn năm nghìn đồng). Joe
thuê một ngôi nhà cũng tươm tất thuộc loại nhì loại ba ở phố Gillespie, rồi đặt
mua tại nhà hàng Seddons những tấm thảm kiểu đông phương, những tấm gương thật
đắt tiền cùng các thứ đồ đạc thật lịch sự; những thứ này là của ông Skape bị
tòa bắt phát mại; trước kia ông ta cũng có cổ phần trong hãng Fogle, Fake, và
Cracksman ở Calcutta. Ông Skape đã bỏ vào hãng này số vốn bảy vạn đồng là tiền
dành dụm chắt bóp trong suốt một đời người làm ăn lương thiện cần cù, để thế
chân ông Fake; ông này rút lui về sống như một ông hoàng tại quận Sussex (gia
đình Fogle thì đã rút lui khỏi việc doanh thương từ lâu; ngài Horace Fogle hiện
sắp được ban tước vị nam tước Bandanna). Thế là Skape tiên sinh cầm đầu hãng buôn
Fogle và Fake, được hai năm thì lỗ vốn một triệu đồng, bản thân bị phá sản,
đồng thời kéo theo cả một nửa gia đình người Anh ở Ấn Độ cũng phá sản theo.
Ông Skape làm ăn lương thiện mà bị mất hết cơ
nghiệp, đau đớn vô cùng. Đã bảy mươi nhăm tuổi đầu, ông còn đi Calcutta hy vọng
gây dựng sự nghiệp kinh doanh cũ. Con trai là Walter Skape phải từ biệt trường
Eton về làm thư ký cho một hãng buôn. Hai cô tiểu thư Florence Skape và Fanny
Skape cùng bà mẹ bỏ đi Boulogne, về sau không ai nghe nói tới nữa. Tóm lại, Joe
mua những tấm thảm thêu và đồ đạc của gia đình này, ngày ngày anh ta soi mặt
vào những tấm gương đã từng phản chiếu vẻ mặt kiều diễm của mấy cô thiếu nữ nhà
giàu. Bọn bán hàng cho gia đình Skape được thanh toán sòng phẳng, nay đã ngấp
nghé đến đưa danh thiếp xin vào hầu, đề nghị được cung cấp hàng cho ông chủ
mới.
Các bác đầu bếp béo múp míp vẫn bận áo chèn
trắng tinh hầu ăn cho Skape, bọn bán hoa quả, bán sữa, cũng tìm đến tranh thủ
cảm tình của bác quản lý. Bác Chummy chuyên nghề thông ống khói lò sưởi, đã
từng giúp việc ba đời chủ nhà liên tiếp ngụ ở đây, cũng đến săn sóc nịnh nọt
bác quản lý, nịnh cả thằng nhỏ phụ việc của bác ta; thật ra công việc chính của
thằng bé là mỗi khi Amelia đi chơi đâu thì bận áo kẻ sọc trắng đính hàng tràng
khuy đồng đi theo hầu.
Gia đình Joe tuy vậy nhưng cũng không sang
trọng lắm. Bác quản lý đồng thời làm thêm nhiệm vụ người hầu riêng của Joe; lúc
nào cũng thấy bác ta say bí tỉ đúng như cách một bác quản lý sành sỏi biết giá
trị kho rượu của chủ nhà. Emmy có một chị hầu phòng riêng, là con gái một người
tá điền trong trại của ngài William Dobbin ở nhà quê. Chị ta cũng nhanh nhảu
khéo léo; mới đầu Amelia ngại quát cứ nghĩ đến chuyện mình phải có một người
hầu riêng, cô đã đủ sợ, vì không biết rồi mình sẽ sai bảo ra làm sao; từ xưa
đến nay, Amelia bao giờ cũng nói năng với đày tớ một cách nhã nhặn mềm mỏng.
Thực ra mướn chị hầu gái cũng có nhiều cái lợi; chị ta săn sóc ông Sedley rất
chu đáo. Bây giờ ông lão hầu như chỉ ở lỳ trong phòng của mình, không mấy khi
dự những buổi tiếp khách vui vẻ của gia đình.
Khách khứa đến thăm Amelia rất đông. Dobbin phu
nhân và mấy cô con gái thấy Amelia trở lại đời sống sung túc cũng lấy làm mừng;
họ đến chơi luôn. Cô Osborne ở khu phố Russell cũng có lại thăm; cô ta đi một
chiếc xe ngựa thật đồ sộ, có đính huy hiệu sáng quắc. Thiên hạ đồn rầm lên rằng
Joe giàu lắm. Ông Osborne tỏ ý không phản đối việc thằng Georgy sẽ thừa hưởng
cả gia tài của ông nội và gia tài của bác nó. Ông bảo: “Mẹ kiếp, tao sẽ gây
dựng cho nó đến nơi đến chốn. Tao phải nhìn thấy nó thành ông nghị sĩ rồi mới
chịu chết. Osborne, con có thể đến thăm mẹ nó một tý cũng được; tao không nhìn
mặt nó thì đã đành”. Emmy cũng muốn gặp mặt chị chồng luôn, vì có dịp gần gũi
con trai hơn. Từ nay trở đi, thằng bé được phép đến thăm mẹ nhiều hơn trước.
Mỗi tuần lễ, nó ăn cơm ở phố Gillespie một hai lần; về đây nó cũng quát tháo
người làm, hạch sách tất cả mọi người y như ở khu phố Russell.
Riêng đối với thiếu tá Dobbin, thằng bé bao giờ
cũng tỏ thái độ kính nể; có mặt Dobbin, cử chỉ của nó cũng bớt phần rạng rỡ. Nó
cũng thông minh, biết nể mặt viên thiếu tá. Nó rất phục Dobbin, vì anh ta tính
tình giản dị, hiểu rộng biết nhiều, lại vui tính và bao giờ cũng tỏ ra tôn
trọng sự thật và sự công bằng. Từ bé đến giờ nó chưa gặp người nào như Dobbin,
tự nhiên nó thấy mến anh chàng. Thằng bé cứ luôn luôn quấn quít lấy người cha
đỡ đầu. Nó thích nhất được đi chơi với Dobbin ở công viên, được nghe anh ta nói
chuyện. William nói với Georgy những chuyện về cha nó, về Ấn Độ, về trận
Waterloo, về tất cả mọi thứ, nhưng không bao giờ nói chuyện về mình. Mỗi khi
Georgy tỏ ra xấc xược hoặc tự cao quá đáng, Dobbin hay lấy lời lẽ khôi hài giễu
cợt; Amelia thường cho như thế là anh ta tàn nhẫn với con trai mình. Một lần
Dobbin đưa thằng Georgy đi xem hát, thằng bé nhất định không chịu ngồi ghế hạng
nhì, vì cho rằng chỗ ngồi ấy không xứng đáng; Dobbin bèn dẫn nó vào ngồi ghế
lô, để nó ngồi đó rồi quay ra ngồi ghế hạng nhì một mình. Chưa được một lúc
lâu, anh ta thấy có người khoác vào cánh tay, và một bàn tay bé nhỏ đeo găng
bằng da dê thuộc nắm chặt lấy tay mình; thằng Georgy đã thấy cử chỉ của mình là
vô lý; nó bỏ hàng ghế “lô” xuống ngồi hạng ghế tầm thường vậy. Thấy thằng bé
kênh kiệu biết hối hận, Dobbin mỉm cười vui vẻ. Anh ta rất quý thằng bé cũng
như anh ta quý bất cứ thứ gì thuộc về Amelia. Lúc về nhà, nghe kể lại chuyện
thằng Georgy biết hối lỗi như vậy, Amelia bằng lòng lắm. Đôi mắt cô nhìn Dobbin
sáng lên đặc biệt khác hẳn mọi lần.
Dobbin thấy hình như Amelia nhìn mình xong hơi
đỏ mặt thì phải.
Thằng Georgy không ngớt lời ca tụng Dobbin với
mẹ. Nó nói:
- Má ạ, con yêu bác lắm, vì cái gì bác cũng
biết; mà bác khác hẳn ông Veal. Má có biết không, ông Veal lúc nào cũng hay
huênh hoang nói tràng giang đại hải. Bọn học trò chúng nó gọi ông ấy là,ông
“Dài dòng văn tự”; con đặt tên cho ông ấy đấy; tên hay không má? Bác Dob nói
tiếng La-tinh thạo như tiếng Anh, nói tiếng Pháp cũng giỏi như thế, lúc đi chơi,
bác chỉ nói chuyện về cha con, không nói chuyện về bác bao giờ. Thế mà ở nhà
ông nội, con nghe thấy đại tá Buckler nói chuyện rằng bác Dob là một trong số
những sĩ quan dũng cảm nhất trong quân đội, đã từng lập nhiều chiến công lắm.
Ông nội con ngạc nhiên quá bảo thế này: “Cái anh chàng ấy à? Tôi cứ nghĩ gà gáy
to anh ta cũng sợ”. Chắc không đúng, phải không má?
Emmy cười; cô cũng tin rằng Dobbin là một sĩ
quan dũng cảm. Nếu giữa thằng Georgy và anh chàng thiếu tá có một tình yêu
thương thành thực, thì cũng cần phải nói thẳng là nó đối với ông bác của nó,
lại không có chút cảm tình nào. Thằng bé học được cách phồng má thở phì phò,
móc ngón tay vào túi áo gi-lê mà nói: “Lạy chúa tôi không phải rồi!...” hệt
điệu bộ của Joe, làm cho không ai nhịn được cười. Đến bữa ăn, hễ sai người hầu
lấy thứ gì còn thiếu trên bàn, thằng bé lại đóng trò như vậy; bọn đầy tớ phá ra
cười với nhau. Dobbin thấy thế cũng phải mím môi mới nhịn được cười; Dobbin
phải mắng nó, và mẹ nó phải xin nó mãi, thằng bé mới không bắt chước điệu bộ
của Joe ngay trước mặt anh ta. Joe mang máng cảm thấy rằng thằng cháu trai coi
mình không hơn một con lừa, thích tìm cách lôi mình ra làm trò cười; tự nhiên
anh ta đâm ra nhút nhát, và dĩ nhiên khi có mặt Georgy anh càng làm ra vẻ long
trọng bệ vệ hơn nữa. Hôm nào biết tin Georgy đến phố Gillespie dùng cơm với mẹ,
thường thường Joe nói là đã có hẹn trước ở câu lạc bộ không ăn ở nhà được. Có
lẽ không ai buồn lắm vì thiếu mặt anh ta.
Những buổi ấy, ông già Sedley cũng thuận rời
căn phòng riêng của mình ở trên gác xuống nhà họp mặt với gia đình. Những buổi
họp mặt này thường có Dobbin tham dự. Anh ta trở thành người bạn thân trong nhà
(); anh ta là bạn của ông Sedley, là bạn của Emmy, của Georgy, đồng thời là
người cố vấn của Joe. Cho nên ở Camberwell cô Anne Dobbin mới bày tỏ ý kiến thế
này: “Xem cung cách như vậy, giá anh ấy cứ ở Madras lại hơn”.
Vậy thì Joseph Sedley sống một cuộc đời ung
dung nhàn hạ thật xứng đáng với địa vị của anh ta. Trước hết Joe thành một hội
viên của “Hội những người yêu phương đông”; sáng sáng anh ta đến trụ sở hội tán
chuyện với mấy ông bạn thuộc địa, rồi dùng bữa tại đó hoặc kéo họ về nhà chè
chén.
Amelia phải làm nhiệm vụ tiếp tân và lo việc
thết đãi bọn khách vừa đàn ông vừa đàn bà này. Qua câu chuyện của họ, cô biết cả
việc bao giờ Smith được cử vào hội đồng quản trị thuộc địa, Joe đem về nước bao
nhiêu “lắc”(), rồi chuyện hãng Thomson ở Luân- đôn không chịu thanh toán những
tín phiếu do hãng Thomson Kibobjee ở Bom bay phát hành. Họ còn bàn tán cả về
thái độ ít nhất thì cũng là dại dột của bà Brown (vợ một sĩ quan thuộc quân
đoàn đặc biệt Ahmednuggur) vì bà này hay ngồi chơi khuya một mình trên boong
tàu với anh chàng trẻ tuổi Swankey, sĩ quan ngự lâm, lại trốn đưa nhau đi chơi
ở Hảo vọng giác, chẳng còn tưởng gì đến danh giá. Họ kháo chuyện bà Hardyman,
con gái một ông mục sư tỉnh lẻ là ngài Felix Rabbits, đã có tới cô em gái thứ
mười ba; bà này đã khéo thu xếp gả tống đi được đến mười một cô mà có bảy cậu
giai tế chức vụ cao; rồi chuyện Hornby đang phát điên lên vì vợ nhất định ở lý
bên Âu châu không sang thuộc địa với mình, chuyện Trotter sắp được bổ giữ chức
ủy viên tài phán. Đại khái, trong những bữa tiệc thịnh soạn, câu chuyện xoay
quanh những vấn đề tương tự. Quanh đi quẩn lại cũng chỉ có những chuyện ấy,
những chiếc đĩa bạc ấy, những món thịt cừu ấy, những món gà hầm ấy và những món
vào tiệc () ấy. Ăn tráng miệng xong, các bà đưa nhau lên gác để phàn nàn với
nhau về chuyện bệnh tật và con cái; bấy giờ các ông mới đề cập qua loa đến
những vấn đề chính trị.
Chỉ có cái tên là thay đổi (), thực ra không có
gì khác. Vợ các ông quan tòa của chúng ta chẳng cũng hay bàn chuyện Tòa án là
gì? Các bà vợ sĩ quan thì ưa tán chuyện xảy ra trong trại lính...còn gì thích
hơn đối với vợ các ông mục sư bằng được ngồi kháo chuyện về những lớp học ngày
chủ nhật và những chuyện khác về Nhà thờ? Các mệnh phụ phu nhân cũng chỉ thích
nói về giới người ít ỏi hiếm hoi của họ, vậy thì tại sao mấy ông viên chức
thuộc địa lại không biết ưa thảo luận về những chuyện đặc biệt của mình? Có
điều tôi công nhận rằng kẻ ngoài cuộc phải ngồi đấy mà nghe thì đến phát ngấy
lên.
Chỉ ít lâu sau, Emmy đã có riêng một cuốn sổ
tiếp tân, và đã dùng đến xe ngựa luôn luôn để đi thăm trả nợ những chỗ quen
thuộc, như Bludyer phu nhân (vợ trung tướng Roger Bludyer, thuộc quân đoàn
Belgan), Huff phu nhân (vợ ngài Huff, thuộc quân đoàn Bombay), bà Pice (vợ
chồng Pice, giám đốc Công ty Đông Ấn Độ)v…v…Xưa nay chúng ta thay đổi lối sống
không khó khăn lắm. Ngày nào cũng thấy chiếc xe ngựa đi đi về về ở phố
Gillespie, thằng nhỏ mặc áo đính khuy đồng hết leo lên xe lại nhảy xuống xe để
đưa danh thiếp của Emmy hoặc của Joe cho các gia đình quen biết. Đúng giờ đã
định, Emmy ngồi xe ngựa đến câu lạc bộ đón Joe cùng đi chơi hóng gió một lúc,
hoặc đánh xe đưa ông Sedley đi chơi một vòng trong Công viên Nhiếp chính. Dần
dần Amelia cũng quen với chị hầu gái, với chiếc xe ngựa, với cuốn sổ tiếp tân
cũng như với chú nhỏ bận chế phục có nhiều khuy đồng, như đã từng quen với
những công việc lặt vặt hàng ngày ở Brompton vậy. Rồi cô cũng quen dần với mọi
việc. Ví thử trời cho Amelia được làm một bà quận chúa, có lẽ cô cũng đóng nổi
vai trò của mình đến nơi đến chốn. Trong giới phụ nữ quen biết Joe, ai cũng bảo
rằng Amelia là một thiếu phụ trẻ tuổi tuy không hiểu nhiều biết rộng, nhưng đại
khái là cũng dễ thương.
Bọn khách khứa đàn ông thì vẫn như mọi khi, họ
ưa Amelia vì cử chỉ nhã nhặn mà tự nhiên, duyên dáng mà không kiểu cách.
Có mấy cậu công tử trẻ tuổi tòng sự ở thuộc
địa, nghỉ phép về nước thăm gia đình, đeo dây đồng hồ vàng, để ria mép, vẫn hay
giong xe ngựa chạy như bay ngoài phố, không tối nào họ vắng mặt tại các rạp
hát, và chuyên sống tại các khách sạn ở khu West End; tuy vậy cậu nào cũng muốn
lọt vào mắt xanh của Amelia; hễ gặp cô đi xe ngựa ngoài công viên là họ tranh
nhau chào, chỉ mong sao có hân hạnh buổi sớm nào đó được phép đến thăm người
đẹp... Một hôm, Dobbin bắt gặp ngay chính anh chàng Swankey, sĩ quan ngự lâm;
cái anh chàng trẻ tuổi nguy hiểm vốn được coi là con hươu đầu đàn của toàn bộ
đội quân đóng ở Ấn Độ đang nghỉ phép - ngồi nói chuyện một mình với Amelia; anh
chàng thao thao bất tuyệt kể cho Amelia nghe chuyện mình săn lợn rừng, có vẻ
say sưa hùng hồn lắm; Swankey lại còn nhắc đến chuyện có anh chàng sĩ quan phải
gió nào đó người cao lêu đêu, khẳng khiu, nom già già và bộ dạng thật tức cười
cứ mon men ra vào nhà này luôn không biết để làm gì, một anh chàng tâm hồn khô
khan không sao hiểu nổi được những người có tài ăn nói.
Giá Dobbin là người hay tự ái hơn một chút, có
lẽ anh ta đã ghen với viên đại úy hay tán gái và rất nguy hiểm này; nhưng tính
Dobbin vốn chất phác và rộng lượng; anh ta không thể nghi ngờ Amelia bất cứ
điều gì, không gì khiến cho anh ta vui bằng được thấy bọn trai trẻ tỏ thái độ
kính nể và yêu mến Amelia. Từ khi trở thành một người đàn bà, nếu gọi được như
vậy, chẳng phải Amelia đã luôn luôn bị coi thường và hành hạ đó sao? Còn gì
sung sướng hơn được thấy trong cảnh sống sung túc bây giờ. Amelia dần dần trở
lại yêu đời như xưa, lại có những cử chỉ dịu dàng bộc lộ bao nhiêu đức tính tốt
đẹp cũ. Người nào biết rõ Amelia đều khen viên thiếu tá có con mắt tinh đời...
nếu quả thực những người đàn ông đang bị thần ái tình mê hoặc còn đủ tỉnh táo
để có được con mắt tinh đời. Sau khi Joe được vào triều kiến nhà vua cho đúng
với đạo thần tử (anh ta bận lễ phục thật lộng lẫy ra trưng ở câu lạc bộ, Dobbin
mặc một bộ binh phục đã cũ sờn đến đón bạn vào triều); xưa kia Joe vẫn là người
có tư tưởng triệt để bảo hoàng, vẫn rất kính phục hoàng đế George đệ tứ; bây
giờ anh ta càng trở thành một tay Tory nhiệt thành, một cây cột trụ của quốc
gia, anh cố nhất định đưa Amelia vào triều bằng được mới nghe. Anh ta cố tự bắt
mình phải tin rằng bản thân cũng có quan hệ nhiều đến việc duy trì đời sống
hạnh phúc cho quần chúng; cho nên nếu Joe Sedley này và gia đình chưa đến điện
St. James để quây quần xung quanh hoàng thượng, chắc Người chưa sao yên tâm
được. Emmy cười hỏi anh:
- Em có phải đeo kim cương vào chầu không nhỉ.
Dobbin nghĩ thầm:
- Còn tôi thì chỉ thèm được mua kim cương tặng
em. Kim cương quý đến đâu đối với em cũng chưa xứng đáng.
Chương 61
TẮT ĐI HAI NGỌN ĐÈN
Một bữa kia, cả chuỗi dài những cuộc giải trí
kiểu cách trang trọng trong gia đình Joe Sedley bỗng bị ngắt đoạn vì xảy ra một
việc, cái việc phải xảy ra trong bất cứ gia đình nào. Lần theo cầu thang dẫn
tới phòng khách lên buồng ngủ trên gác, ta sẽ nhìn thấy trên tường ngay trước
mặt có một cái cửa tò vò nhỏ, nó dùng để soi sáng chiếc cầu thang dẫn từ tầng
gác hai lên tầng gác ba (là phòng ngủ của người làm và chỗ chơi của trẻ con),
đồng thời nó còn dùng vào một việc khác chỉ có mấy bác phu đám mới hiểu. Lúc
khiêng quan tài từ trên gác xuống nhà, họ sẽ ghếch tạm một đầu quan tài lên
thành cửa sể để nghỉ cho đỡ mỏi rồi lại tiếp tục chuyển đi, như thế sẽ không
làm phiền mấy tý đến giấc ngủ cuối cùng của người nằm trong hòm sàng.
Trong các ngôi nhà ở Luân-đôn, chính cái cửa tò
vò này vẫn đứng giữa dãy cầu thang mà ngó lên ngó xuống, để chứng kiến sinh
hoạt của tất cả những người trú ngụ trong nhà...Chị đầu bếp dậy từ sáng sớm đi
xuống nhà cọ rửa xoong chảo cũng như ông chủ nhà trẻ tuổi sau những trận cười
thâu đêm suốt sáng, trút bỏ đôi giầy dưới phòng khách mà rón rén mò lên gác,
đều phải đi qua đấy; các cô thiếu nữ áo mới sột soạt đăng-ten, rạng rỡ vẻ mỹ
miều, sửa soạn để chinh phục trong những buổi dạ hội cũng phải đi qua đấy; cái
cửa tò vò ấy còn làm chứng cho thói tinh nghịch của chú bé Tomy thích ngồi
trượt trên lan can cầu thang, không biết sợ là gì; nó cũng đã nhìn bà chủ nhà
tươi tỉnh âu yếm khoác tay ông chồng, vững vàng bước từng bước một xuống thang
gác, theo sau là chị hầu gái, vào hôm viên thầy thuốc tuyên bố rằng người bệnh
nhân xinh đẹp đã có thể xuống nhà giải trí được. Anh John vừa uể oải ngáp dài
vừa giơ cây nén chập chờn soi tìm những đôi giày đang chờ anh ta trong hành
lang vào lúc trời sắp sáng cũng phải đi qua đấy; cái vòm cửa sổ này đã soi sáng
chiếc cầu thang để cho người ta đi lên đi xuống, bế những đứa trẻ sơ sinh, dìu
những ông bà già, dẫn các vị khách xuống nhà dự tiệc; viên mục sư đến làm lễ
rửa tội, ông thầy thuốc vào phòng người ốm nghe bệnh, các bác phu đám lên gác
hộ việc tang, ai mà không phải đi qua... Nếu ngài ngồi khoảng giữa mà ngó lên
nhìn xuống bạn sẽ thấy cái cửa tò vò và cái cầu thang chính là cuốn nhật ký của
sự sống chết và sự phù hoa vậy!... Này, ông bạn bận áo sặc sỡ của tôi ơi, rồi
sẽ có ngày vị bác sĩ đến thăm chúng ta một lần cuối cùng tại đây; chị hầu gái
sẽ vén màn ngó vào nhìn mà chúng ta không hề hay biết... rồi chị ta sẽ đẩy cửa
sổ hé ra một chút cho không khí ùa vào trong phòng. Và tất cả các cửa trước nhà
sẽ đóng kín mít, mọi người chỉ dùng những phòng bên trong... sau đó người ta
cho đi mời luật sư và mấy bác chuyên bận áo màu đen() đến bàn việc... Lúc ấy
tấn hài kịch ngài và tôi vẫn đóng sẽ hạ màn; và chúng ta được đưa đi một nơi
rất xa không một tiếng kèn trống ồn ào nào còn vẳng đến tai được nữa. Nếu chúng
ta thuộc dòng dõi quý phái, họ sẽ treo lên trước ngôi nhà cuối cùng của chúng
ta một tấm huy hiệu mạ vàng có ghi câu “Yên nghỉ trên thiên đường”. Con trai
ngài sẽ trang hoàng lại nhà cửa, hoặc cho thuê lại để dọn đến một khu phố sang
trọng. Hôm năm sau, tên tuổi ngài sẽ được liệt vào danh sách “những hội viên đã
quá cố” của câu lạc bộ ngài vẫn lui tới. Mặc dầu rất có thể thương nhớ chồng
đến đứt ruột ra được, bà vợ góa của ngài vẫn đòi thợ may cắt bộ áo tang sao cho
thật khéo mới nghe... ngày ngày chị đầu bếp vẫn phải lên gác hỏi bà chủ sẽ ăn
những món gì hôm ấy... và dần dần những người còn sống không muốn cứ phải nhìn
mãi bức hình của ngài treo trên lò sưởi, họ sẽ hạ xuống cất vào kho nhường chỗ
danh dự ấy cho tấm chân dung đứa con trai kế nghiệp trị vì trong nhà.
Không biết trên đời này loại người chết nào
được ta thương tiếc nhiều nhất nhỉ?...Tôi tin rằng đó là loại người ít yêu quý
kẻ còn sống nhất. Chết một đứa con, người ta thường khóc lóc thảm thiết, giá
chính ngài từ giã cõi đời cũng không được ai thương xót đến thế. Ví thử ngài
mất một đứa con còn sơ sinh, chưa biết bố mẹ mấy, chỉ xa ngài một tuần nó cũng
đã quên ngài thế mà ngài sẽ đau khổ gấp mấy lần mất người bạn nối khố hoặc mất
đứa con đầu lòng bây giờ đã lập gia đình, vợ con đề huề. Chúng ta có thể tàn
nhẫn, nghiệt ngã với Judah và Simeon. Nhưng đối với thằng nhỏ Benjamin () chúng
ta vẫn động tâm thương xót. Một ngày kia, đến tuổi già, già mà giàu có, hoặc
già mà nghèo khổ cũng thế, rất có thể ngài sẽ tự nhủ thế này: “Xung quanh ta
thiên hạ ai cũng tốt cả; nhưng ta chết đi họ cũng chẳng buồn rầu lắm đâu. Ta có
của, họ chỉ nghĩ tới chuyện xâu xé thôi... hoặc ta nghèo quá, họ chịu đựng ta
đã quá mệt rồi.
Vừa hết tang bà Sedley, Joe chưa kịp bỏ bộ đồ
tang để diện tấm áo chẽn lộng lẫy vẫn thích xưa nay thì mọi người trong nhà đã
nhận thấy ông lão Sedley cũng đang ở tình trạng gần đất xa trời, sắp sửa đi
theo bà lão sang thế giới bên kia mất rồi. Joe Sedley trịnh trọng tuyên bố ở
câu lạc bộ thế này:
- Tình trạng sức khỏe của cha tôi không cho
phép tôi tổ chức nhiều cuộc họp mặt “ra trò” mùa này. Nhưng anh Chutney, nếu
anh quá bộ lại chơi vào khoảng sáu giờ rưỡi tối, dùng tạm mấy ly rượu nhạt với
vài anh em cánh ta... thì tôi cũng rất lấy làm hân hạnh.
Thế là Joe và “anh em cánh ta” cứ lặng lẽ chè
chén với nhau, trong khi ấy ngay trên gác, ông lão cứ trút dần sinh lực của
mình như cát trong chiếc đồng hồ. Bác quản lý đi rón rén đem rượu ra cho Joe và
khách khứa; ăn xong cả bọn chơi vài ván bài; thỉnh thoảng thiếu tá Dobbin đến
làm một chân. Đôi khi Amelia cũng từ trên gác xuống góp mặt, ấy là những lúc cô
đã sắp đặt chu đáo, yên trí không có gì làm kinh động giấc ngủ chập chờn của
ông bố già.
Từ khi bị ốm, lúc nào ông Sedley cũng đòi con
gái có mặt bên mình. Nếu không phải là tự tay con gái bưng lên mời, ít khi ông
chịu ăn cháo hoặc uống thuốc. Công việc duy nhất trong đời Amelia bây giờ hầu
như chỉ là săn sóc ông bố ốm đau. Amelia kê giường ngủ của mình kề sát cửa
thông sang phòng của cha; ông lão chỉ hơi cựa mình rên rỉ, cô đã trở dậy sang
thăm rồi. Nhưng thật ra phải nói rằng nhiều đêm ông lão nằm thao thức hàng giờ
yên lặng không động đậy, và không muốn làm phiền người con gái hiền thục hết
lòng phụng dưỡng mình.
Có lẽ kể từ khi Amelia còn bé đến giờ, hồi này
ông cụ quý con gái nhất. Lòng hiếu thảo của người con có dịp bộc lộ rõ rệt qua
những việc thuốc thang săn sóc cho cha. Dobbin thấy Amelia ra vào trong gian
phòng của ông cụ dáng điệu nhẹ nhàng, uyển chuyển, mặt vẫn tươi tỉnh, bước đi
không một tiếng động nhỏ thì nghĩ thầm: “Nàng bước vào buồng êm ái như tia nắng
ấm”.
Người đàn bà nào khi cho con bú hoặc săn sóc
người ốm trong phòng bệnh mà không được ánh sáng thiêng liêng của tình yêu và
lòng thương chiếu rạng rỡ vẻ mặt?
Mối giận của ông bố ngấm ngầm mang trong lòng
từ mấy năm nay đối với con gái bây giờ đã nguôi hẳn; tuy không nói ra, nhưng
ông đã hoàn toàn tha thứ cho con gái. Trong những ngày cuối cùng của đời mình
và nhất là thấy con gái hiếu thảo, ông lão cảm động quên hết chuyện cũ; trước
kia nhiều lần hai ông bà già đã bàn tán với nhau suốt đêm về những lỗi lầm của
con gái; nào là Amelia hy sinh tất cả chỉ biết có thằng Georgy, Amelia thờ ơ
đối với cha mẹ lúc già nua túng thiếu, chỉ nghĩ đến con trai; lúc thằng cháu về
ở với ông nội nó, hai ông bà già thấy con gái đau khổ quá đáng một cách vô lý
và kỳ quái. Trong những giờ gần đất xa trời, ông già Sedley mới xóa bỏ cho con
hết thảy những tội lỗi trên, và mới tỏ ra công bằng với người đàn bà đau khổ
quen cắn răng chịu đựng không than vãn nửa lời.
Một đêm, Amelia rón rén bước vào phòng thăm
cha, thấy ông Sedley vẫn thức; ông cụ thổ lộ với con gái thế này: “Emmy ơi, ba
đang nghĩ rằng trước kia ba má đối với con bất công quá, thật là không phải”.
Vừa nói ông lão vừa đặt bàn tay yếu đuối lạnh lẽo vào tay con gái. Amelia quỳ
xuống bên giường cha, lẩm nhẩm cầu nguyện; ông lão vẫn nắm tay con cũng khe khẽ
cầu kinh. Ông bạn ơi, ước gì khi nào đến lượt chúng ta, cũng có được một người
con như vậy cùng cầu kinh, trước khi từ giã cõi đời nhỉ.
Có thể trong những giờ nằm thao thức trên
giường bệnh ông lão đã thấy cả cuộc đời mình lại hiện ra trước mắt... những
cuộc vật lộn đầy hy vọng hồi còn trẻ... cuộc sống sung túc phát đạt lúc đứng
tuổi…sự thất bại khi về già và tình trạng tuyệt vọng hiện tại...bây giờ thôi
còn mong gì chống lại số mệnh, ông đã hoàn toàn thất bại rồi... còn gì để lại
cho con cái đâu, tiền nong chẳng có, tên tuổi cũng không; hết đời lại chỉ là
một kẻ thất bại khốn cùng? Nhưng thưa bạn đọc, thử hỏi rằng chết trong cảnh phú
quý tiếng tăm và chết trong cảnh bần cùng đau khổ, đằng nào sung sướng hơn? Kẻ
được của rồi bắt buộc phải nhả ra là khổ hay người đã chơi trọn canh bạc thua
cháy túi rồi lặng lẽ bước ra ngoài cuộc sống mới đáng thương?
Cứ kể cuộc đời đến một ngày kia, khi chúng ta
phải nói rằng: “Mai đây thắng lợi hay thất bại đối với mình đều vô nghĩa; mặt
trời cứ mọc, cái nhân loại vô vàn hỗn độn kia vẫn cứ làm việc hoặc giải trí như
lệ thường, nhưng riêng mình sẽ bước ra khỏi cái vòng luẩn quẩn” thì âu cũng là
một cảm giác kỳ lạ vậy. Thế rồi một buổi sớm kia, mặt trời vẫn mọc, và thiên hạ
trở dậy, kẻ lo làm, người lo chơi như thường ngày, riêng ông lão John Sedley
mãi mãi không còn phải vật lộn với số mệnh, không phải tính toán, và cũng không
còn hy vọng gì được nữa. Ông lão chỉ phải làm công việc cuối cùng là đi về
nghĩa trang Brompton kiếm lấy một chỗ ở lặng lẽ và không người biết đến bên
cạnh bà vợ già.
Thiếu tá Dobbin, Joe và thằng Georgy theo sau
chiếc linh xa phủ vải đen đưa thi hài ông già về nơi an nghỉ cuối cùng. Joe rời
khách sạn “Ngôi sao và Huy chương” tại Richmond về nhà dự lễ mai táng; sau khi
ông lão từ trần, anh ta dọn đến khách sạn, không muốn ở nhà vì lẽ...chắc các
bạn đoán ra cũng hiểu, nhưng Emmy vẫn ở lại để làm nhiệm vụ của mình như mọi
ngày. Cô không có vẻ bị quỵ hẳn trước một nỗi đau thương lớn lao; thái độ của
cô hầu như trang trọng hơn là rầu rĩ. Amelia cầu trời sao cho mình cũng sẽ được
từ giã cõi trần một cách êm ái, nhẹ nhàng như vậy; với một thái độ thành kính
và tin tưởng, cô nhớ những lời nói đầy tín ngưỡng, biểu lộ một thái độ nhẫn nại
và tin tưởng vào tương lai ở thế giới bên kia.
Quả thật, riêng tôi tin rằng được chết trong
cảnh thanh bần mà lại hóa hay. Hãy giả thử rằng bạn giàu có nứt đố đổ vách, và
trong cái ngày cuối cùng của đời mình, bạn đã nói thế này: “Tôi rất giàu, tôi
cũng gọi được là có tiếng tăm đôi chút. Cả đời, tôi đã từng giao thiệp với giới
thượng lưu trong xã hội, và cảm ơn trời đất, tôi cũng được sinh trưởng trong
một gia đình nền nếp. Tôi đã phục vụ Đức vua và đất nước tôi một cách xứng
đáng. Tôi cũng đã từng có chân trong quốc hội trong một thời gian khá lâu, và
tại đây, có thể nói rằng thiên hạ rất ưa nghe tôi diễn thuyết, và tỏ ra cũng
khá tán thưởng. Tôi không nợ ai xu nào; trái lại, tôi còn cho ông bạn già đồng
môn của tôi là Jack Lazarus vay những năm mươi đồng; luật sư của tôi sẽ không
cần giục ông ta về món nợ này. Tôi để lại cho các con gái tôi mỗi đứa một vạn
đồng phần gia tài... cứ kể hồi môn của con gái như thế cũng đã tốt lắm. Ngoài
món “niên kim chung thân”, tôi còn để lại cho bà vợ góa của tôi tất cả đồ đạc,
bát đĩa trong nhà, thêm ngôi nhà ở phố Baker; con trai tôi thừa hưởng phần đất
ruộng, số tiền còn lưu ký tại Ngân hàng quốc gia, và toàn bộ hầm rượu hảo hạng
của tôi ở phố Baker nữa. Thằng hầu việc của tôi mỗi năm sẽ được chia hai mươi
đồng bảng. Cuối cùng tôi thách bất cứ ai có thể tìm ra được tính tình tôi có
điểm gì đáng trách”. Hoặc giả, ví thử ngược lại, bạn là một người quanh năm vắt
mũi chẳng đủ đút miệng, lúc kề miệng lỗ, than thở thế này: “Thật suốt đời tôi
chỉ là một thằng nghèo xác, hoàn toàn bị phá sản rồi. Trời sinh ra thằng tôi
thông minh chẳng có mà may mắn cũng không. Tôi thú thực mình đã nhiều phen hành
động rất hớ, rất vụng. Tôi cũng công nhận rằng nhiều lần có thiếu sót trong
nhiệm vụ. Những ngày cuối cùng của đời tôi hoàn toàn trơ trọi, nhục nhã. Tôi
cầu xin Bề trên tha thứ cho những sự yếu đuối đã qua, và xin phủ phục dưới chân
Đấng tối linh rộng lượng, lòng đầy hối hận”.
Bạn thử nghĩ xem, câu nói nào thích hợp nhất
đối với tang lễ của chính bạn nhỉ?
Ông già Sedley đã chọn câu nói sau. Thế là với
những ý nghĩ tầm thường ấy trong đầu, ông già nắm chặt lấy bàn tay con gái và
để cho cuộc sống với hết thảy những nỗi ưu tư cũng như những chuyện phù hoa
trút theo hơi thở cuối cùng của mình.
Ông Osborne bảo thằng Georgy:
- Cháu xem, con người ta có tài mà chịu khó,
lại khéo kinh doanh, được đền bù như thế nào. Cháu hãy nhìn ông đây, và xem
ngân khoản tại nhà băng của ông có bao nhiêu. Lại coi ông ngoại cháu làm ăn
thất bại ra sao thì biết. Thế mà cũng ngày này cách đây hai mươi năm, ông ngoại
cháu khá hơn ông bây giờ nhiều...giàu hơn ông đến một vạn đồng.
Không kể hai ông cháu nhà này, chỉ có gia đình
ông Clapp là còn nhớ đến ông già Sedley mà đến hỏi thăm chia buồn. Ngoài ra
không một ma nào buồn để ý đến ông lão, cũng chẳng thèm nhớ rằng trong cuộc đời
đã có mặt một con người như vậy nữa.
Một lần nghe thấy ông bạn đại tá Buckler nói
chuyện rằng Dobbin trước kia là một sĩ quan rất có tài (như thằng Georgy đã có
dịp cho ta biết), ông tỏ thái độ hết sức hoài nghi và khinh miệt; ông rất ngạc
nhiên không sao tin được rằng ngữ ấy lại có thể thông minh và nổi tiếng. Nhưng
rồi khá nhiều người khác quen biết ông cũng nhác đến tiếng tăm của viên thiếu
tá. Tôn ông William Dobbin đối với con trai rất mực coi trọng; ông kể lại nhiều
chuyện chứng tỏ con trai ông là người học rộng, biết nhiều, có tài năng, và
được thiên hạ rất mến phục. Không những thế, tên Dobbin còn được ghi trên danh
sách tân khách đến dự một hai buổi họp mặt quan trọng của giới quý tộc. Chuyện
này đã tác động rất mạnh đến tâm trí ông già quý phái của chúng ta ở khu phố
Russell. Với tư cách là người đỡ đầu của thằng Georgy, Dobbin không thể tránh
khỏi những cuộc tiếp xúc với ông Osborne, vì bây giờ ông nội thằng bé đứng ra
lãnh trách nhiệm này. Cũng trong một cuộc tiếp xúc ấy, nhân cùng viên thiếu tá
xét lại việc thanh toán những khoản chi phí về thằng Georgy và mẹ nó trong thời
gian qua, một mối ngờ khiến ông bàng hoàng, vì ông vốn là một thương gia có con
mắt nhận xét rất sắc sảo. Mối ngờ ấy làm cho ông bực mình lắm, nhưng đồng thời
cũng khiến ông rất vui vẻ; ông thấy trong số vốn chu cấp cho hai mẹ con người
đàn bà góa, có một phần là tiền túi của chính Dobbin.
Ông buộc anh ta phải giải thích rõ về khoản
này; vốn không quen nói dối, Dobbin đỏ mặt, lúng túng một hồi, cuối cùng đành
thú nhận:
- Thưa cụ, việc anh chị ấy thành hôn với nhau
(mặt ông già bỗng xám lại) phần lớn là do tôi thu xếp. Tôi nghĩ rằng bạn tôi đã
đi quá xa, nếu từ hôn sợ mất danh dự, mà còn có thể gây ra cái chết của chị
Osborne. Cho nên, khi chị ấy trơ trọi không nơi nương tựa, tôi thấy có nhiệm vụ
phải dành dụm tiền nong giúp đỡ.
Ông Osborne nhìn trừng trừng vào mặt Dobbin;
chính mặt ông cũng đỏ tía lên; ông nói:
- Thiếu tá Dobbin, ông đã gây ra cho tôi nhiều
chuyện tai hại. Nhưng xin cho phép tôi được nói rằng ông là một người rất tốt.
Chúng ta hãy bắt tay nhau; tôi thực không hề ngờ rằng cháu tôi đã phải nhờ tiền
của của ông mới sống được đến bây giờ.
Hai người bắt tay nhau; Dobbin có vẻ sượng sùng
vì thấy hành động giả dối tuy rất nhân đạo của mình bị khám phá. Anh ta cố tìm
cách làm dịu bớt sự giận dữ của ông Osborne và khuyên ông lão hãy tha thứ cho
người con trai đã chết.
Dobbin nói:
- Anh ấy thật là một người cao quý; chúng tôi
ai cũng mến, sẵn sàng vì anh ấy làm bất cứ việc gì. Hồi ấy tôi còn thanh niên;
được anh George coi là bạn thân, tôi cũng cảm thấy tự hào lắm. Được mọi người
thấy mình cùng đi chơi với anh ấy, có lẽ tôi còn hãnh diện hơn được đi cùng
ngài Tổng tư lệnh quân đội. Tôi chưa từng gặp một sĩ quan nào dũng cảm và có
đầy đủ những đức tính thượng võ như anh George đấy.
Dobbin lại cố nhớ những chuyện về tài năng và
sự can đảm của bạn đem ra kể cho ông lão nghe, rồi nói thêm:
- Má thằng cháu Georgy sao mà giống bố nó như
đúc, cụ ạ.
Ông nội thằng bé đáp:
- Trông nó giống quá, nhiều khi tôi đến phát
sợ.
Có một hai buổi tối Dobbin đến dùng bữa với ông
Osborne (ấy là vào hồi ông Sedley đang ốm); ăn xong hai người ngồi nói chuyện
với nhau; suốt buổi tối, câu chuyện xoay quanh kỷ niệm về người anh hùng đã chết.
Vẫn do thói quen, ông bố huênh hoang kể lại những cái hay của con trai, lấy
việc khoe những chiến công và lòng dũng cảm của con để đề cao chính mình. Từ
xưa đến nay chưa bao giờ đối với người con trai bất hạnh đã chết, ông lão tỏ ra
rộng lượng như vậy.
Anh chàng thiếu tá có tâm hồn cao quý kia cũng
lấy làm hể hả vì thấy đó là triệu chứng báo hiệu ông già bát đầu nghĩ lại mà
tha thứ cho con trai. Lần thứ hai đến chơi: Dobbin đã được ông Osborne gọi bằng
tên tục là William, y như ông vẫn gọi anh ta hồi Dobbin và George cả hai còn là
trẻ con. Anh chàng thấy ông lão đã nguôi giận, cũng lấy làm vui lắm.
Ngày hôm sau, nhân cùng ngồi ăn sáng với cha,
cô Osborne đã táo bạo dám đưa ra vài nhận xét ngụ ý giễu cợt hình dáng và cử
chỉ của Dobbin - cái thói soi mói của cô ta vốn do bản tính và do cảnh chồng
con muộn mằn - lập tức cô bị ông bố chặn lời:
- Này cô Osborne, ví thử được anh ta hỏi làm
vợ, cô cũng nên cảm ơn thượng đế. Nhưng chùm nho ấy xanh lắm, phải không con.
Ha! ha! Thiếu tá Dobbin trông cũng đẹp trai đấy chứ.
Georgy tán thành ý kiến của ông nội, đáp:
- Đúng, ông ạ. Thiếu tá Dobbin tốt lắm.
Rồi nó đến cạnh ông già đưa hai bàn tay lên túm
lấy bộ ria mép to tướng, nhìn vào tận mặt ông nội mà cười vui vẻ, rồi hôn một
cái. Đêm hôm ấy nó kể chuyện lại cho mẹ nó nghe; Amelia hoàn toàn đồng ý với
con trai. Cô nói:
- Đúng thế. Bác Dobbin tốt lắm. Ngày xưa cha
con cũng vẫn bảo thế. Bác Dobbin là người tốt bụng và trung thực nhất trên đời
này đấy, con ạ.
Ngẫu nhiên, hai mẹ con vừa nói chuyện với nhau
thế được một lúc thì Dobbin rẽ vào chơi; hình như Dobbin đến đúng vào lúc này
khiến cho Amelia hơi đỏ mặt thì phải; thằng bé tinh quái lại đem ngay câu
chuyện lúc nãy ra kể lại, làm cho mẹ nó càng bối rối hơn. Nó nói:
- Bác Dob ạ, cháu biết có một cô đẹp tuyệt đang
muốn lấy bác đấy. Cô ấy nhiều tiền lắm, cô ấy lại đeo cả một mớ tóc quăn giả
trên trán. Cô ấy mắng chửi bọn đày tớ suốt từ sáng sớm tới tối mịt.
Dobbin hỏi:
- Ai thế cháu?
Thằng bé đáp:
- Cô Osborne nhà cháu ấy mà. Ông nội cháu bảo
thế. Bác Dob ạ, cháu mà được gọi bác bằng “bác” thì cháu thích ghê cơ.
Vừa lúc ấy ông già Sedley nằm trong phòng bên
cất tiếng run rẩy gọi Amelia, mọi người mới ngớt cười.
Bây giờ ai cũng thấy rõ ông già Osborne đã đổi
tâm tính.
Thỉnh thoảng ông ta cũng có hỏi thăm thằng
Georgy về bác nó; nghe thằng cháu nội bắt chước Joe ề à nói: “Cầu Chúa ban phúc
cho tôi” và húp món xúp soàn soạt, ông Osborne phì cười; nhưng rồi ông bảo
cháu:
- Này cháu, trẻ con dám làm điệu bộ bắt chước
các bậc cha chú trong nhà như vậy là hỗn. Cô Osborne, hôm nay cô đánh xe ngựa
đi chơi đâu, nhớ rẽ vào nhà ông Sedley gửi lại danh thiếp cho ba, nghe không?
Dẫu sao đi nữa thì giữa ba và ông ta cũng không có chuyện gì.
Joe cũng gửi danh tiếp đáp lại, ông Osborne mời
viên thiếu tá và Joe đến nhà ăn tiệc... một bữa tiệc sang trọng nhất và cũng vớ
vẩn nhất, kể từ khi ông Osborne mở tiệc thết khách đến nay. Trong nhà có bao
nhiêu bát đĩa quý giá ông sai mang ra bày kỳ hết, khách khứa được mời toàn
những người sang trọng. Joe Sedley khoác tay cô Osborne xuống cầu thang vào
phòng ăn, cô thiếu nữ tỏ ra rất lịch sự đối với anh ta; trong khi ấy hầu như cô
không nói một lời nào với anh chàng thiếu tá; Dobbin ngồi cách xa cô thiếu nữ,
chọn một chỗ ngay cạnh ông Osborne, anh ta có vẻ nhút nhát. Joe tuyên bố rất trịnh
trọng rằng hôm nay đã được ăn món xúp rùa ngon nhất đời mình; anh ta lại hỏi
ông Osborne mua được rượu madera ở đâu mà ngon thế?
Bác quản lý thì thầm vào tai ông chủ:
- Bẩm cụ, chỗ rượu mua đấu giá của nhà cụ
Sedley còn lại đấy ạ.
Ông Osborne bèn quay ra trả lời khách:
- Rượu này tôi mua đã lâu lắm, mà cũng phải trả
khá đắt cơ đấy.
Rồi ông quay sang thì thầm với ông khách ngồi
bên tay phải về việc mình đã mua rượu trong vụ phát mại tài sản của “lão già”
như thế nào.
Cũng đã có một vài lần ông Osborne hỏi thăm
Dobbin về...về “bà George Osborne”; dĩ nhiên, đụng đến vấn đề này, anh chàng tỏ
ra hết sức hoạt bát. Anh ta kể lại bao nỗi khổ cực Amelia đã phải chịu... anh
ta kể lại mối tình nồng thắm chung thủy của Amelia đối với chồng, người chồng
đến nay cô vẫn tôn thờ trong tâm tưởng...
Dobbin kể lại việc Amelia đã phụng dưỡng cha mẹ
và gây dựng cho con trai thật chu đáo vì coi đó là nhiệm vụ của mình. Anh chàng
thực thà giọng hơi run run vì xúc động nói:
- Thưa cụ, cụ không thể hiểu thấu chị ấy đã phải
chịu đựng đến thế nào. Tôi hy vọng, tôi tin tưởng rằng rồi đây cụ sẽ vui lòng
tha thứ cho chị ấy. Nếu trước kia cụ đã bị chị ấy cướp mất con trai, thì nay
chị ấy thay thằng con trai của mình cho cụ. Và xin cụ cứ tin rằng cụ yêu quý
anh George một phần, thì chị ấy còn yêu quý thằng Georgy mười phần nữa cơ.
Ông Osborne chỉ biết trả lời:
- Lạy Chúa, ông thật là người rất tốt.
Từ trước, ông chưa hề bao giờ nghĩ rằng người
đàn bà góa kia lại cảm thấy đau khổ vì phải xa con; ông cũng không tin rằng
Amelia thấy con trai được thừa hưởng một gia tài lớn, lại có thể lấy việc ấy
làm đau lòng. Thế là việc ông bố chồng tha thứ cho con dâu coi như chắc chắn sẽ
thực hiện trong một ngày rất gần đây. Nhưng mới nghĩ tới cuộc gặp gỡ đáng sợ
với ông thân sinh ra George mà trống ngực Amelia đã dồn dập vì lo lắng.
Tuy thế nhưng cuộc hội kiến ấy cũng không bao
giờ có. Sau đó, xảy ra việc ông Sedley bị ốm, rồi chết; thành ra trong một thời
gian coi như không thể nào tổ chức một cuộc gặp gỡ được. Sự kiện tai hại ấy
cùng nhiều việc khác nữa hình như tác động mạnh đến tinh thần ông Osborne. Gần
đây, sức khỏe ông sa sút rất nhanh vì tuổi đã cao, lại thêm nỗi âm thầm lo
nghĩ. Ông đã cho đi mời mấy viên luật sư riêng lại bàn việc. Có lẽ ông muốn
thay đổi một vài điều khoản nào đó trong tờ di chúc thì phải. Viên thầy thuốc
được mời đến thăm sức khỏe cho ông tuyên bố rằng ông yếu lắm, tâm thần bất
định. Ông ta bảo cần trích huyết và mang bệnh nhân đi an dưỡng tại bờ biển ít
lâu; nhưng ông Osborne không chịu trích huyết, cũng chẳng đi an dưỡng.
Một hôm, đến giờ lẽ ra ông Osborne phải xuống
nhà dùng bữa sáng, người hầu không thấy ông chủ đâu bèn vào trong phòng rửa mặt
của ông để tìm; anh ta thấy ông chủ bị cơn bệnh vật và đang nằm sóng sượt ngay
dưới chân bàn, vội báo tin ngay cho cô Osborne; người nhà lập tức đi mời thầy
thuốc. Thằng Georgy được phép nghỉ học ở nhà; lần này đành phải triệu đến những
thầy lang chuyên giác huyết. Nhưng ông Osborne chỉ gọi là hơi tỉnh lại; có hai
lần ông cố gắng một cách thê thảm, hình như muốn trối trăng lại điều gì, nhưng
không sao nói ra tiếng được nữa. Bốn hôm sau, ông tắt thở.
Mấy ông thầy thuốc xuống thang gác ra về, đến
lượt các ông chủ đòn đám ma leo thang gác lên làm nhiệm. vụ. Tất cả cửa sổ mặt
chính tòa nhà trông ra công viên Russell đóng kín mít. Từ khu City, Bullock hối
hả chạy xổ đến. “Ông cụ để lại cho thằng nhóc bao nhiêu tiền đấy hả?... Nhất
định không phải là một nửa gia tài chứ? Phải chia làm ba phần đều nhau, dứt
khoát thế”. Việc cửa việc nhà lúc ấy thật rối như bòng bong.
Chẳng rõ lúc hấp hối ông già đáng thương kia có
định cố gắng trối trăng lại điều gì cho con cháu không? Tôi hy vọng rằng ông tỏ
ý muốn gặp mặt Amelia và trước khi từ giã cõi đời muốn tha thứ cho người vợ
thân yêu và trung thành của đứa con đã khuất.
Nhất định là như thế, vì xem nội dung chúc thư,
ta thấy rằng ông già đã gột sạch được mối căm thù từ lâu vẫn ủ ấp trong thâm
tâm.
Người nhà lục trong túi áo ngủ của ông thấy một
lá thư có đóng con dấu lớn màu đỏ, tức là lá thư George gửi từ Waterloo về cho
ông. Ông cũng đã đọc lại nhiều giấy má khác có liên quan đến con trai, vì trong
túi áo của ông người ta thấy cả chìa khóa chiếc hộp ông vẫn dùng để cất những
giấy tờ ấy; trong hộp, phong bì đều để ngỏ, dấu xi gắn đã bị bóc.. việc này có
lẽ đã xảy ra ngay buổi tối trước hôm ông bị lên cơn bệnh bất thình lình; lúc ấy
bác quản lý mang nước trà vào trong phòng làm việc cho chủ, thấy ông đang ngồi
đọc cuốn thánh kinh đồ sộ của gia đình, bìa bọc da màu đỏ.
Xem đến tờ di chúc, thì ra ông để lại cho
Georgy một nửa gia tài phần còn lại chia cho hai cô con gái. Chúc thư còn ghi
rõ rằng ông Bullock có thể hoặc tiếp tục hùn vốn trong công ty của ông Osborne
để chia lợi nhuận như cũ, hoặc rút vốn ra, tùy ý. Hàng năm sẽ trích một số tiền
là năm trăm đồng bảng, tính vào phần tài sản của Georgy được hưởng, để trợ cấp
cho Amelia “người vợ góa của George Osborne, con trai yêu dấu của tôi”, quyền
đỡ đầu đứa cháu nội cũng trao lại cho mẹ nó. Người thực hiện chúc thư là phiếu
tá William Dobbin, bạn của con trai tôi”.
Tờ di chúc viết tiếp: “Để tỏ lòng biết ơn thiếu
tá đã có lòng hào hiệp và rộng lượng, bỏ tiền riêng ra trợ cấp cho cháu nội tôi
và người vợ góa của con trai tôi, trong thời gian hai mẹ con lâm vào hoàn cảnh
quẫn bách không người giúp đỡ, tôi muốn ông ta nhận ở đây những lời cảm tạ chân
thành về sự quan tâm ấy; tôi lại khẩn cầu ông ta nhận cho một món tiền đủ để lo
được thăng lên cấp bậc trung tá, hoặc để dùng vào bất cứ việc nào khác tùy sở
thích”.
Nghe tin bố chồng đã tha thứ cho mình, Amelia
lòng tràn ngập niềm vui; cô cũng cảm tạ lòng tốt của ông bố chồng quá cố đã để
lại số tiền trợ cấp cho mình. Nhưng khi cô hay tin Georgy sắp được trở về với
mình, nhất là được biết chính Dobbin đã can thiệp để đi đến kết quả này, chính
Dobbin đã trợ cấp cho mình trong cơn hoạn nạn, chính Dobbin đã mang đến cho
mình cả chồng, cả con...thì cô đã quỳ ngay xuống để cầu Chúa ban phúc lành cho
con người quý hoá và chung thủy; có thể nói cô muốn tự hạ mình, gục xuống mà
hôn bàn chân của một tấm lòng rộng lượng và cao đẹp tuyệt vời như vậy.
Song Amelia cũng chỉ có thể lấy sự biết ơn để
đáp lại tấm tình chung thủy và cao quí kia... chỉ có sự biết ơn mà thôi? Vì mỗi
khi cô nghĩ tới một sự đền đáp nào khác, lập tức cô thấy hình ảnh George từ
dưới mộ đứng dậy bước ra, lên tiếng: “Em thuộc về anh; em chỉ là của anh mà
thôi, bây giờ và vĩnh viễn sau này nữa”.
Wiham rất hiểu tâm tư của Amelia, anh ta chẳng
đã sống suốt đời để đón ý người mình yêu đấy sao?
Khi nội dung tờ di chúc của ông Osborne được
tuyên bố cho mọi người rõ, tự nhiên Amelia được những người quen biết săn đón
trọng vọng khác thường; âu cũng là một việc đáng suy nghĩ. Mọi lần, bọn gia
nhân phục dịch trong tòa nhà Joe mới tậu vẫn quen cãi lại Amelia, mặc dầu cô
chỉ dám dùng những lời lẽ thật nhã nhặn mỗi khi sai bảo; chúng nói bướng rằng
để sẽ đi “hỏi lại ông chủ” xem có nên vâng lời hay không đã; bây giờ tất cả một
mực gọi dạ bảo vâng răm rắp. Chị đầu bếp không còn dám cười cợt chế giễu Amelia
vì cô bận những bộ áo cũ kỹ tồi tàn (vì, dĩ nhiên, những buổi tối chủ nhật đi
lễ nhà thờ, đầu bếp, gia nhân ăn bận thật lịch sự át hẳn bà chủ); những đứa đầy
tớ khác cũng không còn càu nhàu mỗi khi nghe tiếng chuông Amelia gọi, và khi
nghe rõ vội thưa ngay. Anh xà ích trước kia vẫn cấm cẳn phàn nàn tỏ ý không
muốn cặp ngựa của mình phí sức, không muốn xe ngựa của chủ biến thành một cái
nhà thương vì phải giong xe cho “lão già” và bà Osborne đi chơi; bây giờ chính
y lại xun xoe chỉ mong được đánh xe hầu, vì y đang thấp thỏm sợ bác xà ích nhà
ông Osborne hất cẳng vào chiếm chỗ làm của mình. Gặp ai anh ta cũng rêu rao:
“Cái bọn xà ích ở khu phố Russell chúng nó có biết phố xá trong tỉnh mô tê đâu
vào đâu! Mặt chúng nó mà xứng đáng ngồi giong cương xe ngựa cho một bậc mệnh
phụ à?” Bỗng nhiên đám bè bạn của cô cả đàn ông lẫn đàn bà ai cũng săn đón hỏi
thăm Emmy; trên mặt bàn trong phòng khách thư từ mọi chỗ quen thuộc gửi đến
chia buồn chất thành đống. Chính Joe xưa nay cũng vẫn quen coi em gái chỉ là
một người đàn bà nghèo túng tốt bụng và vô hại, mình có nhiệm vụ phải chu cấp
nơi ăn chốn ở; bây giờ đối với hai mẹ con thằng cháu trai triệu phú, anh ta
cũng đâm ra hết sức kính nể... Joe sốt sắng khuyên em gái thay đổi cách sinh
hoạt, nên tìm cách giải trí đôi chút để khuây khỏa nỗi sầu muộn sau bao cơn thử
thách... “Con bé đáng thương quá”... Anh ta lại bắt đầu xuống cùng dự bữa sáng
với gia đình, và đặc biệt lại hỏi ý em gái xem nên sử dụng ngày hôm ấy như thế
nào.
Với tư cách là người đỡ đầu của Georgy, và được
sự đồng ý của thiếu tá Dobbin tức là người được ủy nhiệm thực hiện di chúc,
Amelia ngỏ ý muốn lưu cô Osborne ở lại khu phố Russell; cô muốn ở đến bao giờ
cũng được, nhưng cô Osborne cảm ơn, đáp rằng mình không sao chịu đựng nổi cuộc
sống trơ trọi giữa tòa nhà đầy những kỷ niệm đau buồn này; cô buồn bã bỏ về
Cheltenham cùng hai người đầy tớ già. Amelia trả tiền công hậu hĩnh cho tất cả
bọn gia nhân còn lại, rồi cho họ thôi việc. Riêng bác quản lý có tuổi và trung
thành được Amelia giữ lại tiếp tục giúp việc, nhưng bác từ chối; bác muốn đem
số vốn liếng đã gom góp được ra mở một quán rượu; chúng ta hy vọng rằng việc
làm ăn của bác cũng không đến nỗi đáng phàn nàn. Cô Osborne không muốn ở lại
khu phố Russell; sau khi đã suy đi tính lại kỹ càng, Amelia cũng tỏ ý không
muốn sống trong tòa nhà cổ kính âm thầm này làm gì. Vì vậy, người ta dẹp hết cả
đồ đạc đi; những bộ bàn ghế quý giá, những cây đèn cổ kính trang nghiêm, những
tấm gương nước thủy mờ mờ rầu rĩ, tất cả đều được bọc lại cẩn thận mang cất đi;
gian phòng khách lộng lẫy bằng gỗ hồng cũng được che cẩn thận dưới một lượt rơm
phủ kín; người ta cuộn tất cả những tấm thảm và bó lại, những tác phẩm chọn lọc
đóng bìa rất đẹp vẫn bày trong chiếc tủ sách nhỏ, nay đem chất đống vào trong
hai cái tủ rượu. Cuối cùng tất cả mọi thứ đồ đạc vặt vãnh cũng được mang chất
vào trong mấy chiếc xe chở đồ, chờ khi nào Georgy đến tuổi thành niên. Riêng về
khoản bộ bát đĩa cổ bằng bạc thì mang đến gửi tại nhà ngân hàng Stumpy và
Rowdy; nó sẽ nằm yên trong nhà kho của mấy vị này và cũng chờ đến ngày đó.
Một hôm Amelia giắt tay Georgy, hai mẹ con cùng
bận đồ tang, đến thăm tòa nhà trống trải, nơi từ hồi còn con gái đến giờ cô mới
đặt chân đến là lần đầu. Ngoài sân còn bừa bãi những rơm rác, đấy là chỗ người
nhà đã chất đồ đạc lên xe mang đi. Hai mẹ con bước vào những căn phòng cô quạnh
mênh mông, trên mặt tường còn để lại vết những bức tranh và những tấm gương soi
đã gỡ mang đi. Hai mẹ con lại theo chiếc cầu thang lớn bằng đá dẫn lên tầng
trên; bước vào một gian phòng, Georgy thì thầm bảo mẹ rằng “ông nội chết ở
đây”, rồi dắt mẹ lên tầng gác thứ ba, vào trong gian phòng riêng của mình. Đứa
con trai vẫn đứng bên, tay níu chặt áo mẹ, nhưng lúc này Amelia đang nghĩ đến
cha nó... Cũng như nó, xưa kia George đã từng sống trong căn phòng này đây. Cô
bước lại bên một khung cửa sổ vẫn để ngỏ (hồi trước, khi đứa con trai của cô bị
bắt mang đi, đã bao lần cô đứng dưới đường đăm đăm nhìn lên những khung cửa sổ
phòng này. Từ trong phòng trông ra, Amelia có thể nhìn qua ngọn những hàng cây
trồng trong khu phố Russell thấy ngôi nhà cổ kính, nơi chính cô đã lọt lòng mẹ
ra chào đời, nơi cô đã được sống bao ngày tháng của tuổi hoa niên đẹp đẽ thiêng
liêng. Bao kỷ niệm xa xưa dồn dập trở lại trong ký ức. Những tháng nghỉ hè đầy
hạnh phúc, những bộ mặt thân thuộc dịu dàng, những trò giải trí thoải mái hồn
nhiên, và cả những cuộc thử thách, những nỗi sầu muộn đã sớm ùa đến mà dìm cô
xuống trong sự đau khổ. Cô nhớ lại tất cả những chuyện ấy, nhớ lại cả con người
chung thủy vẫn đùm bọc che chở cho mình, vị thần hộ mệnh, người bạn trìu mến và
rộng lượng của mình.
Georgy bỗng nói:
- Nhìn kìa, má. Có hai chữ G.O. vạch bằng kim
cương lên mặt ô kính cửa sổ; trước kia con chưa trông thấy bao giờ; con cũng
không vạch hai chữ ấy.
Amelia trả lời con:
- Georgy, đây là phòng riêng cha con vẫn dùng
ngày xưa... đã lâu lắm, lâu lắm rồi, trước khi con ra đời, con ạ.
Rồi cô cúi xuống hôn con, mặt đỏ lên.
Lúc hai mẹ con ngồi xe ngựa trở về Richmond,
Amelia lặng thinh có ý đăm chiêu; cô thuê tạm một ngôi nhà ở đây. Người ta thấy
mấy ông thầy kiện mặt mũi hể hả vẫn ra vào ngôi nhà này, coi bộ bận rộn lắm (ta
có thể yên trí rằng họ tính cẩn thận từng buổi đến thăm trong bản thanh toán
tiền công với thân chủ); và dĩ nhiên trong nhà cũng có một gian phòng dành
riêng cho thiếu tá Dobbin; anh ta cưỡi ngựa đến chơi luôn; Dobbin cũng đang bận
túi bụi lên vì phải lo thu xếp công việc cho đứa trẻ vị thành niên được mình đỡ
đầu.
Hồi này Georgy được phép từ giã ông Veal; nó
được nghỉ học trong một thời gian không hạn định; đồng thời nhà học giả cũng
được thuê tiền để sáng tác nội dung một tấm bia tạc bằng đá cẩm thạch quý sẽ
dựng trong nhà thờ cô nhi viện, mé dưới bức tượng kỷ niệm đại úy George
Osborne.
Vợ Bullock, tức là cô thằng Georgy, cũng đối xử
thân mật với hai mẹ con người đàn bà góa; mụ tỏ ra vẫn có tấm lòng bao dung mặc
dầu đã bị cái thằng oắt con quỷ quái cướp mất nửa số tiền lẽ ra mình được hưởng
trong phần gia tài của cha để lại.
Roehampton cũng không cách xa Richmond là bao
cho nên một buổi kia, người ta thấy một chiếc xe ngựa có treo huy hiệu mạ vàng
của gia đình Bullock chạy thẳng đến cửa nhà Amelia ở Richmond thì đỗ lại. Lũ
con nhà Bullock ngồi trong xe, mặt mũi xanh xao. Mấy mẹ con kéo nhau ùa vào
trong vườn, thấy Amelia đang ngồi đọc sách, và Joe thì đang ngồi dưới một vòm
cây uốn, ung dung thả những quả dâu tươi vào rượu vang; lại thấy cả thiếu tá
Dobbin bận bộ áo nhà binh Ấn Độ đang cúi khom khom lưng để cho thằng Georgy
chơi trò nhảy ngựa.
Nó nhảy qua đầu Dobbin rơi xuống ngay trước mặt
đám trẻ nhà Bullock; mấy đứa này bận áo tang đen, đội mũ có đính những túp lông
màu đen to tướng, líu ríu theo sau ba mẹ cũng bận áo đại tang.
Trông thấy thằng Georgy, bà mẹ quý hóa nghĩ
thầm ngay:
- Thằng bé vừa xuýt xoát tuổi con Rosa nhà mình
đây! Và liếc nhìn sang cô con gái quý báu, một cô tiểu thư ốm o mới lên bảy
tuổi. Bà Frederick bảo con gái:
- Rosa, lại hôn anh đi, con. Georgy, cháu có
biết cô là ai không nào? Cô là cô ruột cháu đây mà.
Georgy đáp:
- Cháu biết thừa đi rồi. Nhưng mà xin lỗi, cháu
không thích hôn đâu.
Con Rosa ngoan ngoãn vâng lời mẹ chạy đến hôn
thằng anh con nhà bác; nhưng thằng Georgy không chịu, lảng ra.
Bà Frederick lại bảo:
- Con nhà đến hay. Thế đưa cô đến gặp má cháu
vậy.
Lần đầu tiên hai người đàn bà gặp lại mặt nhau,
sau hơn mười lăm năm trời xa cách. Suốt thời gian Emmy lâm vào cảnh nghèo túng
khổ cực cô em chồng chưa hề bao giờ nghĩ đến chuyện lại thăm chị dâu; nhưng bây
giờ Amelia đã tạm gọi là mở mặt ra với thiên hạ thì cô em chồng lại mò đến hỏi
han là chuyện tất nhiên. Vô khối người khác cũng thế. Một hôm, cô bạn cũ của
chúng ta là cô Swartz cùng chồng từ Hampton “tiền hô hậu ủng” đến Richmond
chơi, mang theo cả một bầy gia nhân bận chế phục rực rỡ màu vàng; cô vẫn tỏ ra
nồng nàn đối với bạn như trước. Cô Swartz thề rằng mình vẫn yêu quý bạn như
xưa, hiềm nỗi không có điều kiện đi lại thăm bạn luôn được. Ta cũng đành tin
như vậy. Vì biết làm sao được?() trong cái kinh thành mênh mông này ai là người
có đủ thì giờ đi tìm lại đám bạn cũ mà thăm hỏi cho xuể. Nếu họ trót rời khỏi
hàng ngũ thì xin họ cứ việc tự do biến mất, chúng ta tiếp tục tiến lên không
cần đến họ nữa. Trong Hội chợ phù hoa này, có ai là người được kẻ khác thương
nhớ bao giờ đâu.
Vậy thì tóm lại, trước khi hết tang ông
Osborne, Emmy đã thấy mình sống giữa một xã hội thượng lưu nho nhỏ. Đám người
này không bao giờ tưởng tượng được rằng trong giới mình lại có thể có kẻ gặp
chuyện không may trong đời. Ít có bà nào không có họ hàng với một nhà quí tộc,
mặc dầu chồng các bà chỉ là một bác lái buôn quèn ở khu City. Cũng được vài bà
có học vấn, có kiến thức; họ đọc sách của Somerville, và có đến Hàn lâm viện
của Hoàng gia luôn; nhiều bà khác tính tình khắc khổ, không bỏ sót buổi họp mặt
nào ở Exeter Hall không đến. Phải thú thực rằng sống giữa đám các bà các cô tai
to mặt lớn này, Emmy thấy lúng túng khó cư xử quá.
Hai lần cô bắt buộc phải nhận lời mời của vợ
Frederick Bullock đến dự tiệc thì hai lần cô cảm thấy vô cùng khổ sở. Cái cô em
chồng mệnh phụ này cứ nhất định lên mặt bề trên với Amelia, và cương quyết một
cách vô cùng lịch sự đòi dạy cô bằng được những kiểu cách của xã hội thượng
lưu. Mụ dắt đến cho Amelia lũ thợ trang sức của mụ; mụ còn đòi điều khiển cả
việc gia đình hộ Amelia, cũng như muốn uốn nắn cả từ lời ăn tiếng nói cho chị
dâu. Mụ đánh xe ngựa từ Roehampton đến chơi luôn, kể lể con cà con kê toàn
những chuyện nhạt phèo trong giới thượng lưu và trong triều đình. Joe nghe
chuyện khoái tai lắm, còn anh chàng thiếu tá hễ thấy mụ đàn bà lò dò đến với
cái món quý phái rẻ tiền của mụ là lẩm bẩm bực mình bỏ đi nơi khác.
Một buổi tối, sau bữa tiệc thịnh soạn do
Frederick Bullock thết, Dobbin lim dim ngủ (Bullock vẫn đang xoay đủ cách để
chuyển số vốn của ông Osborne gửi tại nhà ngân hàng Stumpy and Rowdy về ngân
hàng của mình), trong khi ấy Amelia ngồi giữa đám khách khứa phụ nữ sang trọng
trong gian phòng khách rộng bát ngát, yên lặng nhìn ra ngoài vườn ngắm những
thảm cỏ mịn như nhung, những lối đi sạch sẽ trải đá cuội và những ngôi nhà kính
trồng hoa sáng lấp lánh; bởi vì cô không hiểu tiếng La-tinh, không biết cả tên
tác giả vừa viết một bài xã luận nổi tiếng trong tờ “Tuần báo Edinburgh”, cũng
như không buồn chú ý đến những lời kêu ca phàn nàn của ông Peel về vấn đề trưng
cầu ý kiến giải phóng tôn giáo rất sôi nổi vừa qua. Thấy thế, bà Rowdy bảo:
- Bà ta nom cũng hiền lành, nhưng phải cái vô
vị quá. Thế mà coi bộ ông thiếu tá say sưa () đáo để..
Bà Hollyock thêm:
- Xem ra thiếu kiểu cách () lắm, không thương
được. Bà bạn của tôi ơi, đố bà làm sao uốn nắn nổi đấy.
Bà Glowry thì buồn bã lắc đầu cái đầu quấn
khăn, giọng nói như vang từ đáy mồ:
- Bà ta dốt nát một cách kinh khủng, nếu không
thì cũng là quá sức lơ đãng. Tôi hỏi bà ta Đức giáo hoàng tạ thế năm nào; năm
1836, theo ông Jowls, hay là năm 1839 theo ông Wapshot, bà ta đáp: “Tôi không
rõ;đáng thương thay cho đức Giáo hoàng... ông ấy làm gì nhỉ?”.
Bà Frederick Bullock đáp:
- Các bà bạn ơi, vợ góa của ông anh ruột tôi
đấy. Bởi thế tôi nghĩ rằng chúng ta có nhiệm vụ hết sức chú ý săn sóc và dạy dỗ
chị ấy để đưa vào xã hội thượng lưu. Xin các bà đừng hiểu lầm rằng vì tôi hám
lợi, các bà còn lạ gì chuyện thất vọng của tôi vừa qua.
Lúc ra về, Rowdy và Hollyock cùng đi, họ bàn
tán với nhau:
- Cái mụ Bullock quý hóa đáng thương kia lúc
nào cũng thấy tính toán mưu mẹo. Mụ đang tìm cách chuyển số tiền lão Osborne
gửi chúng mình về ngân hàng của chồng mụ đấy...Nom cách mụ mơn trớn thằng bé,
và cố ghép nó ngồi sát cạnh con Rosa mắt chó giấy mới tức cười làm sao.
Lão kia đáp:
- Mong rằng Glowry xưa đã chết quách cùng với
kẻ phản chúa và trận Armageddon của mụ ().
Xe chuyển bánh chạy về phía Putney Bridge.
Nhưng cái xã hội thượng lưu này đã lịch sự một
cách quá tàn nhẫn đối với Emmy, khi có ý kiến bàn nên đi du lịch nước ngoài,
tất cả mọi người nhảy cỡn lên vì sung sướng.
Chương 62
TRÊN BỜ SÔNG RHEIN
Sau ngày xảy ra những việc lặt vặt kể trên được
vài tuần lễ, một buổi sáng đẹp trời kia, những con người lịch sự thành Luân- đôn
rủ nhau rời khỏi thành phố để bắt đầu cuộc du lịch hàng năm của họ đi tìm thú
giải trí hoặc để lấy lại sức khỏe. Quốc hội đã tạm ngừng hoạt động vì thời tiết
mùa hè oi bức.
Chiếc tàu thủy chạy hơi nước Batavier từ giã
cầu Tháp Luân- đôn chật ních toàn du khách người Anh đi nghỉ mát. Trên boong
tàu đằng lái đã căng lên nhiều chiếc lều vải bạt; hành khách chen chúc nhau
trên những chiếc ghế dài, và bên hàng lan can thành tàu: Những đứa trẻ bụ bẫm
hồng hào, những chị vú nuôi bận rộn tíu tít, những bà sang trọng bận áo mát mùa
hè, đội mũ màu hồng thật diêm dúa, và những ông sang trọng trong những bộ áo
vải, đầu chụp mũ lưỡi trai du lịch, với bộ râu vừa mới để rậm cốt dùng riêng
trong cuộc viễn du. Ấy là chưa kể các vị du khách lão luyện ăn bận lịch sự, vóc
dáng béo tốt, cổ áo đính nơ, hồ bột cứng nhắc, mũ chải thật tươm tất. Từ hồi
chiến tranh chấm dứt, đám khách du lịch này vẫn ồ ạt kéo vào Âu châu bất cứ mùa
nào trong năm. Họ đem cái phong cách đặc biệt dân tộc của người Anh đi giới
thiệu tại tất cả các thành phố trên lục địa. Hộp mũ, va ly, và những hộp đựng
đồ trang sức chất thành đống trên tàu. Đây là những cậu sinh viên trẻ tuổi
trường đại học Cambridge cùng những giảng viên hướng dẫn, đi tham quan
Nonnenwerth và Konigswinter; kia là mấy chàng thanh niên Ai len để râu mép nom
thật bảnh, đeo cả đồ trang sức nữa; họ luôn mồm kháo nhau về chuyện đua ngựa,
và tỏ ra hết sức lịch sự với các bà các cô cùng đi trên tầu. Trái lại, các cậu
sinh viên Cambridge và mấy vị giảng viên hướng dẫn nước da tai tái, thấy phụ nữ
lại cứ lẩn như trạch, e lệ như con gái. Người ta thấy trong số hành khách còn
có cả những ông vẫn quen la cà ở Pall Mall; họ đi Ems và Wiesbaden để tiêu bớt
số mỡ thừa trong người vì những bữa tiệc ê hề mùa hội vừa qua, và đồng thời
cũng tìm cách kích thích thêm lòng yêu đời bằng những ván bài xì () và trò chơi
quay số. Này là ông lão Methuselah vừa vớ được một cô vợ trẻ măng, có đại úy
Papillon () thuộc Ngự lâm quân đi kèm, mang quyển sách hướng dẫn du lịch và cầm
hộ ô cho cô dâu mới; kia là cậu May() trẻ trai dẫn vị hôn thê đi đổi gió tìm
thú vui (vị hôn thê của cậu là bà Winter (), xưa kia có hồi đã là bạn đồng học
của bà nội chính cậu May), lại có cả tôn ông John cùng phu nhân và con cái, lau
nhau vừa đúng một tá, kèm theo vú bõ một đoàn, ta còn thấy gia đình quý tộc
Bareacre ngồi trơ trọi mé gần bánh lái, cứ giương mắt lên mà ngó tất cả mọi
người, nhưng không thèm hỏi ai cả. Xe ngựa của gia đình này với đủ cả huy hiệu
quý tộc đỗ trên boong tàu đằng mũi, chen chúc bên cạnh một tá xe ngựa khác
tương tự. Kiếm cho ra một lối đi lách qua đám xe cộ kềnh càng này thật khó. Đám
hành khách đáng thương thuê ca-bin phía mũi tàu phải vất vả lắm mới tìm được
chỗ ra vào. Đó là mấy ông Do-thái ăn mặc thật lãng lẫy; họ hà tiện mang theo
thức ăn của nhà; nhưng thật ra, họ có đủ tiền để mua đến nửa số các ông bà sang
trọng đang giải trí vui vẻ trong phòng khách lớn của con tàu. Một vài anh chàng
coi bộ đứng đắn để râu mép, mang theo những mảnh bìa cứng rộng, khoảng nửa giờ
trước khi tàu chạy đã thấy họ lúi húi giở giấy bút ra vẽ ký họa rồi. Có một hai
chị hầu phòng người Pháp đã bắt đầu say sóng lúc tàu mới đi ngang Greenwich;
một vài anh xà ích cứ loanh quanh bên cạnh chỗ nhốt ngựa để trông nom ngựa nhà,
hoặc đứng tỳ vào bánh lái trên khoang tàu mà tán chuyện gẫu với nhau về những
chiến công của con “Nhẹ nhàng”, và đoán phỏng người nào sẽ chiếm giải trong
cuộc đua tranh giải Goodwood.
Bọn đầy tở đã quen chịu đựng tàu chòng chành,
không còn ngã bổ chửng như trước nữa; họ thu xếp chỗ nằm ngồi của chủ trong
ca-bin hoặc trên boong tàu xong xuôi, bèn túm năm tụm ba đứng kháo chuyện và
hút thuốc lá với nhau. Mấy ông sang trọng người Do-thái bèn lân la lại gần cùng
đứng ngắm mấy cỗ xe. Tôn ông John có cỗ xe to chứa được đến mười ba người cùng
ngồi; này là xe của bá tước Methuselah, xe của bá tước Bareacre; xe cỡ lớn, xe
cỡ nhỏ, và cả loại xe hạng tồi, ai muốn cũng có thể sắm được.
Không hiểu mấy nhà quý tộc đào đâu ra tiền mà
chi phí trong cuộc du lịch này nhỉ? Riêng các ông khách người Do-thái biết rất
rõ tiền ấy ở đâu ra. Các ông biết cả số tiền hiện nằm trong túi các vị là tiền
nào, vay của ai và chịu lãi bao nhiêu phần trăm. Cuối cùng bọn này duyệt đến
một cỗ xe du lịch thật sự; một bác hầu việc tai đeo khuyên vàng, khoác một cái
túi da đựng tiền, hỏi một bác hầu việc khác cũng khoác túi da và đeo khuyên ở
vành tai:
- Xe này của ai nhỉ ?()
Bác kia đáp lại cũng bằng tiếng Pháp lơ lớ pha
giọng Đức:
- Chắc là xe của lão Kirsch... vừa nãy tôi nom
thấy lão ngồi ăn bánh xăng-uych trong xe. ()
Kirsch đang đứng gần đó; hắn đang bận gân cổ hò
hét ra lệnh cho bọn phu khuân vác phải buộc néo hành lý của khách đi tàu sao
cho thật chặt, vừa văng tục bằng đủ các thứ tiếng trên thế giới. Hắn bước lại
cho các bạn đồng nghiệp biết về lý lịch chiếc xe. Hắn bảo rằng chiếc xe này là
của một ông “Nabopp” ở Calcutta Jamaica; ông này giàu có không biết để đâu cho
hết của; ông ta thuê hắn đi theo hầu hạ trong cuộc du lịch này. Lúc ấy có một
thằng bé vừa hì hục leo được lên đống hòm xiểng va ly cao ngất, lại đứng ngay
tại đấy mà nhảy đánh huỵch một cái xuống nóc xe của bá tước Methuselah, rồi cứ
thế thằng bé chuyền qua nóc các xe khách cuối cùng đến xe của gia đình; nó leo
xuống chui qua cửa sổ xe vào trong. Bọn hầu việc đứng nom coi bộ phục lăn.
Bác hầu việc, vừa cười vừa lật chiếc mũ lưỡi
trai chào thằng bé:
- Hôm nay, cuộc vượt biển của chúng ta chắc sẽ
dễ chịu lắm, cậu George ạ. ().
Thằng bé văng tục:
- Vứt mẹ nó cái tiếng Pháp của anh đi. Bánh
bích quy để đâu, hả?
Kirsch đành nói với thằng Georgy bằng tiếng
Anh, hoặc đúng hơn bằng một thứ tiếng đại khái như tiếng Anh... Kirsch biết nói
đủ các thứ tiếng, nhưng không có một thứ tiếng nào hắn nói được gọi là thạo;
hắn cứ liến thoắng nói tất cả các thứ tiếng một cách vô tội vạ như nhau, bất
cần ngữ pháp.
Cậu công tử hách dịch đang đứng ngốn lấy ngốn
để bánh bích-quy chính là thằng Georgy Osborne người bạn quen thuộc của chúng
ta. Lúc này nó đã thấy đói, vì từ lúc cu cậu ăn điểm tâm ở Richmond đến bây giờ
đã có tới ba tiếng đồng hồ. Mẹ nó và bác Joe đang ở trên boong tàu đằng lái,
cùng với một người bạn vẫn đi lại thân mật với gia đình. Cả bốn người định đi
du lịch xa trong mùa hè năm nay.
Joe đang ngồi trên boong, dưới một chiếc lều
vải bạt, gần như đối diện với chỗ gia đình bá tước Bareacre ngồi. Hầu như Joe
tập trung hết cả sự chú ý của mình vào cử chỉ của gia đình nhà này. Cả hai vợ
chồng lão bá tước nom trẻ ra so với hồi Joe gặp họ ở Brussels năm 1815 (hồi ở
Ấn Độ, anh chàng thường khoe ầm lên rằng mình có đi lại rất thân mật với họ).
Hồi ấy tóc của Bareacre phu nhân màu sẫm, bây giờ đổi thành màu vàng óng rất
đẹp; còn bộ râu của lão bá tước trước kia màu đỏ sẫm, bây giờ lại hóa thành màu
đen; ánh nắng chiếu vào làm ánh lên những sợi pha màu đỏ sẫm và xanh tím. Tuy
hình dáng bề ngoài của vợ chồng nhà này có thay đổi nhưng Joe vẫn nhận ra, anh
chàng rất chú ý đến cử chỉ của họ.
Đứng trước một vị bá tước, Joe như bị thu mất
hồn, không thiết để mắt nhìn một vật gì khác.
Dobbin ngắm Joe, bật cười nói:
- Hình như cái bọn kia làm anh thú vị lắm thì
phải?
Amelia cũng cười. Cô đội một chiếc mũ rơm có
băng đen, vẫn mặc áo tang; nhưng sự ồn ào xung quanh và cuộc hành trình giải
trí thoải mái khiến cô dễ chịu và cảm thấy hào hứng; xem ý cô thích thú lắm.
- Trời hôm nay đẹp tuyệt!
Emmy thốt lên, và tiếp theo một nhận xét thực
là đặc sắc:
- Tôi mong rằng chuyến đi này trời im bể lặng.
Joe xua xua bàn tay tỏ ý coi thường nguy hiểm,
mắt vẫn liếc nhìn sang cái gia đình quý phái ngồi mé trước mặt. Anh ta nói:
- Nếu cô đã từng đi đây đi đó nhiều như chúng
tôi đây, cô sẽ không buồn quan tâm lắm đến thời tiết làm gì.
Nhà du khách lão luyện của chúng ta tuy huyênh
hoang nói thế, nhưng đêm hôm ấy anh chàng chui vào xe nằm, trong người nôn nao
tưởng gần chết. Bác hầu việc Kirsch phải đem rượu mạnh trợ lực cho chủ, săn sóc
thật chu đáo. Đúng giờ đã định, đoàn khách du lịch vui vẻ này cập bến ở
Rotterdam, rồi lại xuống một chuyến tàu thủy khác đi Cologne. Đến đây mọi người
đặt chân lên đất liền; chiếc xe ngựa cũng được chuyển lên bộ. Thấy báo chí ở
Cologne đăng tin: “Ngài bá tước von Sedley từ Luân-đôn vừa đến Cologne”() Joe
lấy làm hãnh diện lắm; anh ta cẩn thận mang theo cả bộ lễ phục dùng riêng trong
những cuộc triều kiến, và cũng đã nhất định buộc Dobbin phải đem theo bằng được
bộ quân phục. Joe tuyên bố rằng phen này mình có ý định vào thăm triều đình các
nước ngoài, để tỏ lòng trân trọng đối với các vị quốc vương những nước có hân
hạnh được anh ta đặt chân tới du lãm.
Mỗi lần dừng chân ở bất cứ đâu, và hễ có dịp
thế nào Joe cũng tìm đến tòa lãnh sự Anh ở địa phương để đưa bằng được danh
thiếp của mình và của Dobbin vào. Lần viên lãnh sự Anh ở Judenstadt mời họ đến
dự tiệc, mọi người phải can mãi anh ta mới thôi không đội chiếc mũ vành tam
giác có đính băng kim tuyến để ra mắt nhà ngoại giao có bụng hiếu khách. Joe
còn viết một tập nhật ký, trong đó anh ta ghi lại tất cả những ưu điểm cũng như
khuyết điểm của những khách sạn anh ta đã đặt chân đến, cùng đặc điểm của các
thứ rượu và các món ăn đã thưởng thức.
Riêng Emmy thấy cuộc du lịch rất thú vị. Trong
những buổi đi chơi, Dobbin vẫn mang hộ người bạn gái một chiếc ghế xếp nhỏ và
một tập sách vẽ. Anh ta cứ tấm tắc khen mãi những bức ký họa của nhà nghệ sĩ
xinh xinh; lần đầu tiên trong đời, Amelia được người khác ca tụng những bức vẽ
của mình như vậy. Cô ngồi trên boong tàu thủy nhìn lên bờ sông vẽ những mỏm đá
hoặc những tòa lâu đài. Cũng có khi Amelia cưỡi lừa leo lên thăm những chiếc
tháp cổ kính trơ trọi trên đỉnh đồi, gọi là tháp của trộm cướp, có Dobbin và
Georgy đóng vai kỵ sĩ phụ tá theo hầu. Nhìn Dobbin cưỡi lừa, hai chân dài nghêu
thõng xuống sát đất, Amelia không sao nhìn được cười; Dobbin cũng cười theo,
Dobbin lãnh nhiệm vụ thông ngôn cho cả đoàn, vì anh ta biết khá nhiều tiếng Đức
trong thời gian tại ngũ. Anh ta đem những chuyện về chiến dịch sông Rhine và
chiến dịch Palatinate kể lại cho thằng Georgy nghe, thằng bé khoái lắm. Chỉ
trong khoảng vài tuần sau, nhờ chịu khó thảo luận với tôn ông Kirsch lúc ngồi
trên ghế xà ích, Georgy đã có những tiến bộ trông thấy trong việc học tiếng
Đức. Nghe nói có chuyện với bọn đầy tớ trong các khách sạn và bọn bồi ngựa, mẹ
nó sung sướng quá.
Dobbin cũng lấy làm thú vị.
Joe rất ít khi tham dự những cuộc đi chơi buổi
chiều cùng các bạn đồng hành. Ăn xong, anh ta lăn ra đánh một giấc thật cẩn
thận, nếu không thì cũng ngồi lim dim sưởi nắng dưới vòm cây trong những khu
vườn xinh xắn của các khách sạn. Những khu vườn vùng sông Rhine mới đẹp làm
sao! Thật là một xứ sở thần tiên của thanh bình và ánh nắng... những ngọn núi
hùng vĩ màu đỏ tía, đỉnh núi soi bóng xuống dòng sông trắng lệ. Ai đã từng
thưởng thức cảnh đẹp này, sẽ không bao giờ quên được những nét mỹ lệ mang lại
cho người du khách sự thư thái trong tâm hồn.
Chúng ta hãy tạm dừng bút và để cho tâm hồn
mình bay tới vùng sông Rhine kiều diễm... chỉ cần thế thôi cũng đủ khiến cho
chúng ta sung sướng rồi. Vào hồi này, những buổi chiều mùa hạ, từng đàn bò lũ
lượt từ sườn đồi kéo xuống vừa kêu rống lên vừa lắc lắc những cái chuông đeo ở
cổ kêu leng keng, chúng tiến về một thị trấn cổ kính còn giữ lại đủ cả những
hào nước, những chiếc cổng đồ sộ, những mái nhà nhọn hoắt cũ kỹ, và những hàng
cây dẻ trải bóng mát màu xanh thẫm dài ra trên mặt cỏ. Nền trời và mặt sông
cùng ánh lên một màu ráng vàng đỏ ối như rực lửa. Và kìa mặt trăng đã vội hiện
ra mờ mờ ngó xuống cảnh hoàng hôn.
Mặt trời lặn dần sau những dãy núi hùng vĩ,
trên đỉnh nổi bật bóng đen của những tòa lâu đàn màu đêm buông xập xuống, mặt
sông tối dần, từ những khung cửa sổ trên mặt sông run rẩy chập chờn, hoặc thấp
thoáng êm đềm trong những xóm làng dưới chân đồi bên kia bờ sông.
Còn Joe thì sau bữa ăn hay ngồi thu hình trong
ghế bành thật thoải mái, kéo khăn quàng che kín mít mặt đánh một giấc ngon
lành; sau đó anh ta đọc tất cả các tin tức đăng trên báo Galignani, nghiền ngẫm
từng câu từng chữ (mọi người Anh du lịch ra ngoại quốc đều cầu Chúa ban phúc
lành cho người sáng lập ra tờ báo quý ghê quý gớm này!); nhưng dù Joe thức hay
ngủ, thì mấy người bạn đồng hành cũng không hề cảm thấy thiếu sự có mặt của anh
ta.
Quả thật họ đang sống tràn trề hạnh phúc. Buổi
tối, họ thường rủ nhau đi coi hát tại rạp Opera...những rạp Opera ấm cúng;
khiêm tốn, cũ kỹ nhưng rất thân mật trong các thị trấn nước Đức; tại đây người
ta thấy một bên các ông bà quý tộc vừa coi hát vừa hò hét, hoặc đan bít tất; họ
ngồi tách biệt hẳn với bọn thị dân mé bên kia.
*
* *
Ngài quận công () cùng gia đình cao quý lịch sự
của ngài tiến vào lô ghế dành riêng ở khu giữa. Tầng dưới chật ních toàn những
sĩ quan dáng điệu phong nhã, bận áo chèn bó khít lưng, để bộ ria mép màu vàng
óng, mặc dầu lương chính của các vị chỉ có hai penni một ngày. Chính tại nơi
này, Emmy đã vô cùng sung sướng vì lần đầu tiên được làm quen với âm nhạc kỳ
diệu của Mozart và Cimarosa. Ở trên, chúng ta đã có dịp biết Dobbin cũng yêu âm
nhạc và lại có dịp thưởng thức tài thổi sáo của anh ta. Nhưng có lẽ ngồi trong
rạp Opera, anh ta thú nhất là được ngắm Emmy say sưa thưởng thức âm nhạc. Nghe
những bản nhạc thần tiên này, Emmy cảm thấy trước mặt mình mở ra cả một thế
giới mới của tình yêu và mỹ lệ.
Người đàn bà ấy vốn có một khả năng cảm xúc vô
cùng tế nhị và sâu sắc, làm sao mà thờ ơ được khi nghe nhạc của Mozart? Có
những đoạn trong bản nhạc Don Juan dịu dàng êm ái quá; đánh thức trong tâm hồn
Amelia những khoái cảm đầm ấm vô cùng đến nỗi ban đêm, những lúc ngồi cầu kinh,
cô băn khoăn tự hỏi không biết rằng khi thưởng thức vở nhạc kịch ‘Vedrai
Carino’ và ‘Batti Batti’, trái tim bé nhỏ của mình rung động mãnh liệt như thế
có phải là một tội lỗi hay không. Cô đem thắc mắc của mình ra hỏi ý kiến
Dobbin; anh chàng thiếu tá vẫn đóng vai cố vấn về giáo lý cho người bạn gái (và
chính anh ta cũng là một người rất ngoan đạo) đáp rằng, theo ý riêng, bất cứ vẻ
đẹp nào của nghệ thuật hoặc của tạo vật cũng chỉ giúp cho con người thêm hạnh
phúc. Anh ta nói thêm rằng được nghe một bản nhạc hay, được ngắm những ngôi sao
trên bầu trời, cũng như được thưởng thức một phong cảnh kỳ thú hoặc một bức họa
thiên tài, những sự thích thú ấy đều khiến cho chúng ta chân thành cảm tạ
Thượng đế như khi được hưởng bất cứ một hạnh phúc trần tục nào khác. Amelia rụt
rè đưa ra vài ý kiến phản đối (rút trong những cuốn sách đạo lý đại khái như
cuốn “Người đàn bà giặt thuê ở Finchley” hoặc những tác phẩm tương tự cùng
loại, mà cô đã được đọc hồi còn ở Brompton). Dobbin bèn kể một câu chuyện cổ
tích Đông phương đại ý nói con cú cho rằng ánh sáng mặt trời không thể thích
hợp với mắt, và con chim họa mi được người ta đánh giá tài năng quá mức(). Anh
ta cười nói thêm: “Trời sinh ra con họa mi để hót, và con cú để rúc; chị có
giọng nói trong trẻo như thế, chị phải thuộc về loài chim họa mi mới đúng.
Tôi muốn nói dài một chút về quãng đời này của
Amelia, vì tôi tin rằng thời kỳ này cô có nhiều hạnh phúc và sung sướng. Các
bạn đã rõ, từ nhỏ Amelia chưa mấy khi được hưởng một cuộc sống như vậy; trí
thông minh và những năng khiếu của cô cũng chưa hề có điều kiện được giáo dục
đến nơi đến chốn. Cho đến nay, cô vẫn chỉ được thụ hưởng sự giáo huấn của những
nhà trí thức quá tầm thường. Rất nhiều người phụ nữ phải chịu chung số phận như
vậy.
Và cũng vì mỗi một người thuộc phái đẹp là kẻ
thù của tất cả những người đàn bà khác trên đời, cho nên những người này sẵn
sàng rộng lượng đánh giá người e lệ là vớ vẩn, người thùy mị là ngốc nghếch...
và sự yên lặng - tức là một cách phản ứng rụt rè đối với lời gièm pha xấu thói
của những kẻ cứ muốn lên mặt khống chế thiên hạ - thì không bao giờ được Tòa án
tôn giáo của giới phụ nữ tha thứ. Bởi thế cho nên, hỡi bạn đọc thân mến và văn
minh của tôi, nếu tối hôm nay chúng ta đến dự một buổi họp mặt của các bác bán
hoa quả, rất có thể câu chuyện chúng ta không được các bác chú ý lắm. Ngược lại
ví thử có một bác bán hoa quả nào đó lại lạc vào ngồi uống trà cùng bàn với các
vị khách lịch sự nhã nhặn như bạn, để nghe người ta thi nhau ăn nói bóng gió,
kiểu cách, để nghe các ông các bà thượng lưu tai mặt bôi nhọ danh dự của bè bạn
một cách thật thú vị, rất có thể người khách lạ mặt kia sẽ gìn giữ không dám
nói nhiều, và dĩ nhiên không được ai chú ý, cũng như không buồn chú ý đến ai.
Chúng ta cũng cần nhớ rằng, cho đến nay, chưa
bao giờ Amelia có dịp tiếp xúc với một nhân vật thượng lưu. Có lẽ những con
người thực sự thượng lưu trên đời này hiếm hơn nhiều người vẫn tưởng. Thử hỏi
chúng ta ai là người có thể tìm thấy được nhiều nhân vật thượng lưu thực sự
trong số những người quen thuộc... nghĩa là những người biết lấy việc làm điều
tốt lành là mục đích của cuộc sống, biết trung thành tôn trọng sự thực, không
những trung thành mà còn biết vươn tới những sự thực cao đẹp, những con người
tính tình giản dị vì xa lạ với những thói đê tiện, những người có thể thẳng
thắn ngẩng cao đầu nhìn vào mặt cuộc đời, với một thái độ thông cảm rất cao quý
đối với kẻ giàu sang cũng như người nghèo hèn? Chúng ta đều có thể đếm được
hàng trăm người thuộc loại sang trọng nghĩa là bận quần áo may cực khéo; nhưng
chúng ta chỉ có thể tìm được khoảng chục người gọi là có tư cách đáng trọng,
còn loại người biết giữ vững được bản lĩnh, mình vẫn là mình, mà bước chân vào
cái giới thượng lưu đầy những con mắt cú vọ soi mói để giễu cợt, thì lại càng
hiếm lắm, chỉ có độ một hai là cùng. Vậy thì được bao nhiêu người thực sự là
quý phái? Mỗi người chúng ta hãy lấy giấy bút ra liệt kê danh sách coi thử.
Lẽ dĩ nhiên, đứng đầu danh sách của tôi, phải
là anh bạn thiếu tá Dobbin. Anh ta có bộ giò dài ngoằng ngoẵng, một bộ mặt vàng
khè, đôi môi hơi mỏng, thoạt nhìn trông anh ta hơi tức cười. Nhưng anh ta tính
tình trung thực, trí óc sáng suốt, đời sống trong sạch không một vết nhơ, có
tâm hồn nồng nàn nhưng kín đáo. Kể ra bàn chân bàn tay anh ta cũng to quá thật;
thằng Georgy, và cả cha nó hồi còn sống nữa vẫn hay vẽ biếm họa để lôi anh ta
ra làm trò cười. Những chuyện cười cợt nghịch ngợm ấy có thể đã làm cho Emmy
lạc hướng không nhìn thấy chân giá trị của Dobbin. Nhưng chẳng phải đã hàng
trăm lần chúng ta lầm lẫn đối với thực chất của những kẻ được ta quý mến, để
rồi sau này lại thay đổi ý kiến đó sao? Cho nên trong thời gian này Emmy cũng
thấy những thành kiến của mình đối với chân giá trị của anh chàng thiếu tá bị
lay chuyển dữ dội.
Có lẽ đấy là thời kỳ cả hai người cùng được
hưởng hạnh phúc đầy đủ nhất trong đời họ, nếu như họ hiểu đó là hạnh phúc,
nhưng ai là người biết được mình đang có hạnh phúc? Liệu trong chúng ta, ai có
thể chỉ rõ ra rằng đâu là tột đỉnh của hạnh phúc loài người? Dẫu sao đi nữa thì
đôi trai gái này cũng rất bằng lòng với cuộc du lịch mùa hè của họ, không kém
gì bất cứ một cặp tình nhân nào rời nước Anh ra du ngoạn nước ngoài trong năm
nay. Cuộc đi chơi nào cũng có mặt Georgy, nhưng khi ra về, người choàng khăn
san lên đầu cho Emmy bao giờ cũng là anh chàng thiếu tá. Những buổi đi dạo mát
hoặc đi thăm phong cảnh, thằng Georgy thường hay chạy trước; nó leo lên cầu
thang gác lâu đài hoặc trèo lên cây một mình; trong khi ấy cặp du khách từ tốn
hơn ngồi chơi dưới cỏ, anh chàng thiếu tá thản nhiên hút thuốc lá như thường
lệ, còn Emmy thì ngồi hý hoáy vẽ phong cảnh hoặc ghi lại hình ảnh tòa lâu đài
đổ nát.
Chính trong cuộc du lịch lý thú vừa tả ở trên,
kẻ chép câu chuyện toàn sự thực này đã có may mắn gặp họ lần đầu tiền, và được
làm quen với họ.
Lần đầu tiên tôi gặp trung tá Dobbin và các bạn
của anh ta là tại thị trấn xinh xinh Pumpernickel, một thị trấn lịch sự, thủ
phủ của một quận (nơi tôn ông Pitt Crawley có hồi đã từng thực hiện nhiệm vụ
của mình một cách xứng đáng với tư cách là tùy viên sứ quán; nhưng ấy là câu
chuyện quá khứ, đã lâu lắm rồi, trước khi xảy ra trận Austerlitz, làm cho các
nhà ngoại giao Anh ở nước Đức phải cắp cặp lên đường về nước). Họ cùng người
hầu việc ngồi xe ngựa riêng đến khách sạn “Hoàng thái tử” là khách sạn lịch sự
nhất của thị trấn. Tối hôm ấy, tất cả mọi người cùng ngồi dùng bữa tại phòng ăn
công cộng của khách sạn. Ai cũng phải chú ý đến dáng điệu bệ vệ của Joe, và
thái độ sành sỏi của anh ta khi nhấm nháp, đúng hơn là tu ừng ực những cốc rượu
vang Johannisberger anh ta đã gọi trong bữa ăn. Tôi nhận thấy thằng bé cũng ăn
khỏe ra phết; nó ngốn hết món nọ đến món kia, sườn rán, thịt bò nướng, khoai
tây (), rồi mứt quả, rau tươi, pa-tê, chim quay, bánh ngọt, xơi cật lực, rõ
xứng đáng là một người dân Anh quốc. Thanh toán xong khoảng mười lăm món ăn
thằng bé bắt đầu sang mục tráng miệng; nó thậm chí còn chiếu cố mang theo về
một vài thứ. Có vài người trẻ tuổi ngồi cùng bàn thấy thằng bé ăn uống tự nhiên
thoải mái như thế, lấy làm thú vị, xui nó bốc một ít bánh hạnh nhân bỏ vào túi.
Trên đường đi xem hát, thằng Georgy mới móc ra nhấm nháp dần. Ở cái thị trấn
nhỏ bé của nước Đức này rạp hát chính là nơi họp mặt của mọi người khi ăn xong.
Mẹ thằng bé, người đàn bà bận áo tang, nhìn con cười và đỏ mặt lên; suốt bữa
ăn, người đàn bà này tỏ ra hết sức e lệ nhưng vui vẻ, nhất là những khi thấy
con trai láu lỉnh nghịch ngợm (). Viên trung tá - bởi vì ít lâu sau Dobbin được
thăng một cấp - hay giả bộ nghiêm trang nói trêu thằng bé; anh ta chỉ cho nó
biết những đĩa ăn nó còn chưa đụng đến, và khuyên nó không nên ăn uống quá dè
dặt; Dobbin còn bảo nếu cần thì gọi lấy thêm vài món nữa cho đủ.
Tối hôm ấy, người ta tổ chức một buổi dạ hội
tại hý viện riêng của tiểu triều đình Pumpernickel. Bà Schroeder Devrient đóng
vai chính trong vở nhạc kịch Fidelio; hồi này sắc đẹp cũng như tài nghệ của bà
ta đang độ nở hoa rực rỡ. Từ chỗ tôi ngồi giáp sân khấu nhìn lên, có thể nhận
ra bốn người bạn của chúng ta trong lô ghế đặc biệt mà ông Schwendler chủ khách
sạn “Hoàng thái tử” đã giữ dành riêng cho các vị khách quý của ông. Tôi cũng
nhận thấy tài nghệ của diễn viên và bản nhạc diệu kỳ đã khiến cho bà Osborne
xúc động mạnh mẽ; tôi biết đúng là bà ta vì có lần nghe thấy người đàn ông to
béo để râu rậm gọi như vậy. Lúc trình diễn vở nhạc kịch thiên tài “Bản đồng ca
của những tù nhân”, tiếng hát thánh thót của người nữ nghệ sĩ vươn cao lên và
vang ra khắp phòng trong một hòa âm tuyệt diệu; trên nét mặt người thiếu phụ
Anh lộ ra một vẻ đặc biệt vừa ngạc nhiên vừa say sưa, khiến cho ngay anh chàng
Fipps bé nhỏ, tùy viên ngoại giao, con người vẫn tự cho mình là kẻ chán đời (),
phải thốt lên khi hướng ống nhòm về phía Amelia: “Trời ạ, sung sướng thay cho
người ta vì còn được thấy có người đàn bà say sưa đến mức như vậy! Rồi đến cảnh
trong nhà tù, lúc Fidelio nhảy xổ vào ôm lấy chồng mà kêu lên: “Không, không,
anh Florestan của em!”() thì Amelia gần như ngất lịm đi, vội đưa mùi xoa lên
che kín mặt. Hôm ấy, tất cả phụ nữ trong rạp đều ứa nước mắt vì cảm động. Nhưng
tôi chú ý đặc biệt đến Amelia, vì số trời đã định cho tôi phải viết tập ký ức
này về cô.
Hôm sau, rạp hát trình diễn một vở kịch khác
của Beethoven, vở “Trận đánh Vittoria”(). Màn vừa mở, Malbrook xuất hiện báo
hiệu cuộc tiến quân của quân Pháp; rồi tiếp đến tiếng kèn tiếng trống, tiếng
đại bác gầm thét, tiếng người bị thương rên rỉ, cuối cùng vở kịch kết thúc bằng
bản nhạc hùng hồn “Cầu chúa che chở cho Vua ta”.
Hôm ấy trong rạp có khoảng hơn một chục người
Anh đến xem. Lúc bản nhạc thân yêu và quen thuộc kia nổi lên, tất cả đều đứng
bật dậy tỏ ra vô cùng tự hào được là công dân của đất nước Anh cổ kính đáng
yêu, tất cả, từ chúng tôi là những người trẻ tuổi ngồi sát sân khấu, đến tôn
ông John và Bullminster phu nhân (hai vợ chồng nhà quý tộc này đã thuê nhà ở
Pumpernickel để tiện săn sóc việc học hành của chín đứa con), người đàn ông to
béo để bộ râu rậm, viên thiếu tá cao lêu đêu bận chiếc quần màu trắng, cùng hai
mẹ con thằng bé mà anh chàng thiếu tá săn sóc rất chu đáo và cả bác hầu việc
Kirsch ngồi ở hạng bét nữa. Riêng Tapeworm, đại biện sứ quán Anh, thì đứng hẳn
dậy trong lô ghế của mình mỉm cười và cúi chào mọi người, y như thể lão đang
đại diện cho tất cả dân tộc Anh vậy. Tapeworm là cháu trai, và người thừa kế
của thống chế Tiptoff, tức là người đã có lần ra mắt bạn đọc trong truyện này
với tư cách là trung tướng Tiptoff trước khi xảy ra trận Waterloo; trước kia
ông ta chỉ huy trưởng trung đoàn thứ... tức là trung đoàn của Dobbin; năm xảy
ra chiến dịch lớn lao này, ông ta tạ thế vì trót sơi quá nhiều trứng chim óc
cau. Tang lễ rất linh đình, do đó quyền chỉ huy trung đoàn chuyển sang trung tá
Michael O’Dowd, tước tùy giá hiệp sĩ, là người đã từng có thành tích chỉ huy
đơn vị, lập rất nhiều chiến công hiển hách.
Chắc Tapeworm đã có dịp gặp Dobbin tại nhà
riêng của ông chú là thống chế Tiptoff, cho nên tối hôm ấy anh ta nhận ra ngay
viên thiếu tá ở rạp hát. Nhà ngoại giao đại diện cho Hoàng đế tỏ ra hết sức
bình dân, đích thân rời “lô” ghế của mình và, trước mặt tất cả mọi người, tiến
đến bắt tay người bạn mới gặp lại.
Fipps ngồi sát sân khấu soi mói nhìn theo cấp
trên của mình, thì thầm với bạn:
- Nom mặt lão Tapeworm quỷ quyệt kìa; chỗ nào
thấp thoáng có bóng đàn bà con gái xinh xinh y như lão lách vào bằng được.
Nói cho đúng thì trời sinh ra các nhà ngoại
giao còn để làm việc gì khác kia chứ? Viên đại biện sứ quán mỉm cười một cách
hất sức duyên dáng nói:
- Thưa, chúng tôi có hân hạnh được tiếp kiến bà
Dobbin chăng? Georgy phá ra cười:
- Lạy chúa, ông nói đùa thế thì chết thật.
Từ chỗ tôi ngồi nhìn ra thấy cả Dobbin và Emmy
cùng đỏ mặt.
Viên thiếu tá trả lời:
- Thưa ngài, đây là bà George Osborne; còn đây
là anh trai của bà Osborne, ông Sedley, một viên chức lỗi lạc tòng sự tại Sở
Hành chính Belgan. Xin cho phép tôi được giới thiệu ông Sedley cùng ngài.
Ngài đại biện quay sang Joe, vẫn với một nụ
cười vô cùng hấp dẫn, hỏi tiếp, khiến cho Joe cảm động quá:
- Ngài có định lưu lại Pumpernickel lâu không?
Ở đây buồn lắm. Chúng tôi không có ai là người lịch sự để đánh bạn. Nhưng chúng
tôi sẽ cố gắng làm vui lòng các ngài, ông... a hèm... bà... ư hừm... tôi mong
sáng mai có hân hạnh được đến thăm các vị tại khách sạn.
Nói đoạn lão trở về chỗ ngồi, vừa mỉm cười
ngoái cổ gửi lại một cái liếc tình sắc như mũi tên của dân Parthia (). Lão yên
trí bà Osborne hẳn là bị mình thu mất hồn.
Xem kịch xong, bọn trai trẻ kéo nhau đi la cà
trong hành lang, các ông bà lịch sự lũ lượt ra về. Bà quận chúa già góa bụa
bước lên chiếc xe ngựa cũ rích kêu lọc cọc, có hai người thị nữ trung thành mặt
mũi nhăn nheo theo hầu. Một nhà quý tộc bé nhỏ có tuổi đã đứng túc trực sẵn;
lão bận một cái quần màu nâu, một cái áo màu xanh lá cây, trên ngực la liệt
toàn huy chương... chiếc giải áo màu vàng trên có đính tấm bội tinh thánh
Michael của triều đình Pumpernickel nom nổi bật, ai cũng phải chú ý. Một hồi
trống nổi lên, hàng lính cận vệ đứng nghênh chào; chiếc xe ngựa cũ kỹ lắc lư
chuyển bánh.
Tiếp đến quận công và gia đình của ngài, cùng
đi với các sĩ quan cao cấp và các quan chức trong triều. Ngài quận công điềm
đạm cúi chào đáp lễ tất cả mọi người. Hàng lính cận vệ bồng súng chào; đám gia
nhân bận chế phục màu tía tíu tít chạy, giơ cao những bó đuốc sáng rực; toàn xe
ngựa của nhà quý tộc tiến về phía tòa lâu đài cổ kính của quận công, có những
chòi tháp cao vút đứng sừng sững giữa thị trấn. Ở Pumpernickel, không ai lạ ai.
Hễ có một người khách lạ đến thị trấn, ngài tổng trưởng Bộ ngoại giao, hoặc một
vị quan to quan nhỏ nào đó trong triều, lập tức đến ngay khách sạn “Hoàng thái
tử” để tìm cho ra tên tuổi của người du khách.
Chúng tôi đang đứng ngoài cửa rạp hát nhìn họ
ra về. Vừa lúc ấy Tapeworm bước ra, khoác một tấm áo choàng; một bác lính hộ vệ
to lớn như hộ pháp lúc nào cũng ôm tấm áo nói trên túc trực sẵn sàng; trông lão
có vẻ Don Juan lắm. Thủ tướng phu nhân cũng vừa ép được cái thân hình phì nộn
của bà vào trong lòng chiếc ghế cáng; lệnh ái của bà, tức là cô Ida kiều diễm
cũng vừa quàng khăn san, vừa sỏ chân vào đôi giày xong. Đám du khách người Anh
bước ra khỏi rạp; thằng bé ngáp dài mệt mỏi, viên thiếu tá choàng tấm khăn san
thật cẩn thận lên đầu Amelia; Sedley coi bộ rất hiên ngang, chiếc mũ đội lệch
về một bên đầu, một tay thọc vào tiếng túi chiếc áo gi-lê trắng to tướng. Chúng
tôi ngả mũ chào mấy người bạn ngồi cùng bàn ăn bữa chiều; người đàn bà hơi mỉm
cười và cúi đầu đáp lễ, thái độ nhã nhặn của người đàn bà khiến chúng tôi rất
vui vẻ.
Kirsch lúc nào cũng lăng xăng bận rộn, đã về
khách sạn bảo giong ngựa đến đón sẵn. Nhưng người đàn ông to béo bảo rằng mình
thích đi bộ về nhà vì còn muốn hút thuốc lá. Ba người kia mỉm cười gật đầu với
chúng tôi rồi lên xe về trước để Sedley đi sau; bác Kirsch cầm hộp thuốc lá lẽo
đẽo theo hầu chủ.
Chúng tôi cũng đi bộ trở về khách sạn, vừa đi
vừa tán chuyện với người đàn ông to béo về những cái thú vị ()của thị trấn này
đối với người Anh, đây cũng là một nơi khá dễ chịu. Người ta thường tổ chức
những cuộc săn bắn; triều đình rất hiếu khách, dạ hội khiêu vũ và tổ chức những
trò giải trí thường xuyên; xã hội thượng lưu ở đây nói chung lịch sự, rạp hát
diễn toàn vở hay, và giá sinh hoạt lại rất rẻ.
Ông bạn mới của chúng tôi nói:
- Vị đại diện nước tôi có vẻ là một nhân vật
rất lịch thiệp, tính tình ngài dễ chịu lắm. Với một vị đại diện như vậy và nếu
lại có có thêm một ông thầy thuốc lành nghề nữa, thì tôi thấy chỗ này thật là
thần tiên. Xin chúc các vị ngon giấc.
Nói đoạn Joe lê đôi ủng kêu cọt kẹt trèo lên
cầu thang về phòng ngủ, Kirsch cầm bó đuốc đi theo sau. Hình như chúng tôi ai
cũng hy vọng rằng người đàn bà xinh đẹp kia sẽ lưu lại ít lâu tại thị trấn nhỏ
bé này.
Chương 63
CHÚNG TA GẶP LẠI MỘT NGƯỜI BẠN CŨ
Ngài Tapeworm đối xử lịch thiệp đến như thế,
thảo nào chẳng khiến cho Sedley có cảm tình; cho nên ngay sáng hôm sau, trong
bữa điểm tâm, anh ta lên tiếng tuyên bố rằng kể từ khi bắt đầu cuộc du lịch,
chưa thấy nơi nào thú vị bằng thị trấn Pumpernickel. Vì sao Joe hào hứng đến
thế, kể cũng chẳng có gì là khó hiểu. Anh chàng Dobbin vẫn cười thầm mỗi khi
nghe ngài cựu ủy viên tài phán lên mặt hiểu biết tả lại lâu đài Tapeworm và lai
lịch họ hàng nhà quý tộc này, tự nhiên cứ như không; thật ra mới sáng nay, anh
ta dậy sớm ngồi giở cuốn “Danh bạ quý tộc” mang theo ra tra cứu mãi mới biết.
Theo lời Joe thì chính anh ta đã có lần gặp bá tước Bagwig thân sinh ra ngài
Tapeworm; rõ ràng là anh ta đã gặp một lần, gặp ở... ở buổi lễ “Ngự tẩy”...
Dobbin còn nhớ không nhỉ? Và khi nhà ngoại giao giữ đúng lời hứa đến thăm, Joe
đã tiếp đãi hết sức long trọng, cúi rạp xuống mà chào, chưa bao giờ nhà ngoại
giao được tiếp đón như vậy. Ngài đại biện vừa tới, Joe quay sang nháy mắt với
bác Kirsch người phái viên này đã có chỉ thị từ trước, lập tức bước ra ngoài,
ra lệnh chuẩn bị đủ các thứ: Thịt nguội, nước hoa quả ép, và các thứ kẹo mứt;
bác đặt tất cả lên khay bưng vào. Joe nhất định nài vị quý khách phải dùng một
ít mới chịu.
Tapeworm không mong gì hơn là có cớ ngồi lại để
ngắm đôi mắt long lanh của bà Osborne (nước da tươi mịn của Amelia gặp ánh sáng
ban ngày lại càng đẹp), cho nên lão vui vẻ nhận lời mời ngồi nán lại. Lão lựa
vài câu hỏi cực khéo, yêu cầu Joe cho biết về Ấn Độ và về những vũ nữ ở đó; lão
lại hỏi Amelia có phải đứa trẻ xinh xắn vẫn đi theo cô là con trai không, rồi
lão ca tụng mãi Amelia, bảo rằng cô làm cho bao nhiêu người trong rạp hát phải
chú ý đến; Amelia nghe nói ngạc nhiên lắm. Lão còn cố hấp dẫn cả Dobbin bằng
những câu chuyện về cuộc chiến tranh vừa qua; lão kể rằng đoàn quân tình nguyện
quận Pumpernickel dưới quyền chỉ huy của vị thế tử, hiện nay là quận công
Pumpernickel, đã lập rất nhiều chiến công hiển hách.
Tapeworm quả đã thừa hưởng được của dòng họ khá
nhiều đức tính lịch thiệp; xưa nay lão vẫn sung sướng đinh ninh rằng một khi
lão đã đưa mắt tống tình người đàn bà nào thì nhất định người ấy phải xiêu
lòng. Từ biệt Emmy ra về, lão chắc mẩm trong bụng rằng khoa tán và cái mẽ người
hấp dẫn của mình hẳn đã làm cho người đàn bà chết mê chết mệt. Lão bèn về nhà
ngồi viết một lá thư tình thật hay ho gửi cho Emmy. Nhưng Emmy không bị chết mê
chết mệt; cô chỉ hơi bối rối trước cái cười đờ đẫn nhăn nhở của lão, trước cái
khăn tay lụa nõn sực mùi nước hoa và đôi ủng gót cao bóng loáng của lão. Nghe
lời lão tán tụng, cô chỉ hiểu đại khái. Vốn rất ít kinh nghiệm trong việc giao
tiếp với đàn ông (Emmy chưa hề bao viờ tiếp xúc với một tay tán gái lành nghề)
cho nên cô chỉ thấy ngài quí tộc Tapeworm là một cái gì kỳ quái hơn là đáng
yêu; và nếu như cô không phải lòng lão ta, chắc chắn đối với lão, cô rất ngạc
nhiên. Trái lại, Joe tỏ vẻ rất hài lòng. Anh ta nói:
- Ngài bá tước mới lịch sự làm sao chứ. Ngài
bảo rằng sẽ phái viên thầy thuốc riêng đến đây thăm bệnh cho tôi, con người quý
hóa có một. Kirsch, anh mang danh thiếp của chúng ta đến nhà bá tước
Schlusselback ngay, nghe không: Thiếu tá và ta đang muốn vào triều kiến càng
sớm càng hay đây. Sửa soạn sẵn bộ lễ phục của ta, Kirsch... cả lễ phục của
thiếu tá nữa. Phàm là người Anh thượng lưu hễ ra ngoại quốc là phải đến thăm vị
đại diện của nước mình và đến ra mắt vị quốc vương xứ mình đến du ngoạn, như thế
mới là có lễ độ. Khi viên thầy thuốc của bá tước Tapeworm, tức là bác sĩ Von
Glauber, thầy thuốc riêng của ngài quận công, đến thăm sức khỏe cho Joe, lão
tán tỉnh làm cho anh chàng tin ngay rằng muốn trẻ lại như con trai và làm cho
người thon bớt đi thì không gì bằng theo thuốc của lão và tắm suối nước nóng ở
Pumpernickel. Lão tán:
- Năm ngoái tướng Bulkeley có đến đây; ngài
cũng là một vị tướng người Anh, to béo còn gấp đôi ông nữa cơ. Thế mà chỉ theo
thuốc của tôi có ba tháng, ngài đã gầy hẳn đi; và sau có hai tháng ngài đã
khiêu vũ được với Glauber nam tước phu nhân rồi đấy.
Vậy là ý Joe đã quyết: ở đây có nước suối nóng,
có ông bác sĩ, có triều đình, lại được ngài đại biện sứ quán khuyến khích, anh
ta bèn tuyên bố sẽ lưu lại thị trấn thú vị này nốt mùa thu. Và giữ đúng lời
hứa, ngày hôm sau, vị đại biện sứ quán đưa Joe và viên thiếu tá đến ra mắt
Victor Aurelius XVII, bá tước Schlusselback, thị vệ đại thần của hoàng gia,
đích thân ra tiếp để dẫn vào triều kiến vị tiểu quốc vương ().
Thế là lập tức họ được mời vào dự tiệc trong
triều. Joe quyết định lưu lại chơi Pumpernickel một thời gian; tin này được
tung ra, các bà các cô lịch sự nhất trong tỉnh ùa nhau kéo đến thăm Osborne.
Trong đám này, bà nào nghèo rớt mùng tơi cũng phải là nam tước phu nhân trở
lên; Joe khoái trí vô kể.Anh ta viết thư gửi về Anh cho Chutney báo tin rằng uy
tín của Công ty Đông Ấn Độ ở nước Đức rất lớn; Joe kể thêm rằng mình đang dạy
cho người bạn mới là bá tước Schlusselback cách săn lợn rừng theo lối Ấn Độ, và
hai vợ chồng người bạn mới của mình tức là bá tước và phu nhân thật là những
con người lịch sự tốt bụng nhất trần đời.
Emmy cũng được đưa đến ra mắt hoàng gia, theo
phong tục của triều đình, hàng năm không được phép bận áo tang vào triều trong
một số ngày nhất định; cho nên bữa ấy Emmy khoác một tấm áo choàng màu hồng,
trên ngực đính một hạt kim cương. Cô được anh trai dẫn vào triều kiến. Bộ áo
tôn hẳn vẻ đẹp của Emmy lên, khiến cho Quận công và khắp mặt quận chúa trong
triều ai cũng phải trầm trồ khen ngợi (dĩ nhiên ta không cần nói tới anh chàng
thiếu tá; từ trước đến giờ ít khi Dobbin có dịp thấy Amelia bận áo dạ hội, lần
này anh ta nhất định tuyên bố rằng Emmy trẻ hẳn ra, trông như chưa đến hai mươi
lăm tuổi).
Hôm đến dự cuộc dạ hội do Hoàng gia tổ chức
Emmy cũng bận tấm áo ấy; cô nhảy một điệu vũ Ba-lan với thiếu tá Dobbin.
Điệu nhẩy cũng dễ, nên Joe có hân hạnh được trổ
tài với Schlusselback bá tước phu nhân, một bà lão gù lưng rắn eo, nhưng đã
trải qua đến mười sáu đời quý tộc cha truyền con nối, và có họ với đến một nửa
số hoàng gia nước Đức.
Thị trấn Pumpernickel nằm trong một cái thung
lũng êm đềm, có dòng sông mầu mỡ Pump chảy qua...dòng sông này đổ vào sông
Rhine, nhưng vì hiện không có bản đồ trong tay, nên chúng tôi không thể nói
thật đích xác là ở chỗ nào. Một đôi chỗ, mặt sông khá rộng, phải dùng phà để
qua lại; có vài khúc sông nước chảy mạnh, đủ sức cho chạy một cái cối xay bột.
Ngay tại thị trấn Pumpernickel, vị anh hùng vĩ đại lừng danh Victor Aurelius
XIV vốn là quận công cách đây ba đời đã cho xây một chiếc cầu rất đẹp; trên cầu
có dựng tượng của chính mình đứng giữa một bầy nữ thủy thần, và những biểu
tượng của chiến thắng, của hòa bình, và của sự phồn vinh. Tượng tạc ngài đứng
đặt một chân lên cổ một tên Thổ Nhĩ Kỳ nằm phủ phục (sử chép rằng trong trận
Sobieski giải phóng thành Vienna, ngài có tham chiến và đã cầm giáo xuyên thủng
ngực một tên lính ngự lâm Thổ). Tên lính địch hấp hối giãy giụa một cách khủng
khiếp ngay dưới chân, nhưng ngài hoàn toàn bình tĩnh, vẫn điềm nhiên mỉm cười,
cầm cây kiếm chỉ về phía quảng trường Aurelius; lẽ ra ngài định dựng lên tại
nơi này một lâu đài tuyệt đẹp, một kỳ quan của thời đại. Tiếc thay bậc vương
công có chí lớn ấy không đủ tiền; cho nên công trình kiến trúc của Monplaisir
tiên sinh (người Đức vẫn gọi là Monplaisir) mới bị đình lại; và hiện nay quảng
trường cũng như tòa lâu đài rơi vào một tình trạng điêu tàn, tuy rất rộng, gấp
đến mười lần diện tích cần thiết cho triều đình của vị đương kim quốc vương.
Khu vườn thượng uyển của hoàng gia được sắp đặt như để ganh đua với kiểu vườn
hoa của cung điện Versailles. Trong vườn có đắp nhiều nền cao, và đặt những bồn
nước; ở giữa dựng vài cái máy phun nước đồ sộ tạc theo những hình có ý nghĩa
tượng trưng; mỗi khi có lễ hội, máy nước lại thi nhau phun ra những tia nước đủ
mọi cỡ, làm cho người xem mất vía vì cơn giận của thủy thần. Có cái hang
Trophonius () trong đó các vị thần nửa người nửa cá đúc bằng chì không những
phun nước mà còn phát ra từ hai lỗ tai những tiếng kêu ghê khiếp, nhờ có một
cái máy đặc biệt giấu ở trong; lại có một bồn nước có tạc hình nữ thủy thần
đang tắm; một cái khác dựng theo hình thác Niagara. Hàng năm đều có mở hội vào
ngày khai mạc khóa họp quốc hội, hoặc nhân những dịp kỷ niệm sinh nhật hoặc
ngày thành hôn của hoàng gia, nhân dân địa phương đến xem, ai cũng trầm trồ
khen ngợi. Từ kháp các tỉnh, tỉnh xa nhất chỉ cách Pumpernickel khoảng gần mười
dặm... từ tỉnh Bolkum nằm trên miền biên giới phía tây, ngạo nghễ nhìn sang
nước Phổ, từ tỉnh Growitz, ngăn cách với địa phận thuộc quyền quốc vương Potzenthal
bởi con sông Pump (tại tỉnh này quốc vương có một tòa lâu đài riêng dùng để
nghỉ ngơi khi ngài ngự đi săn), nhân dân bận áo chẽn màu đỏ, đầu đội mũ nhung,
hoặc mũ vành ba góc, miệng ngậm tẩu thuốc phì phèo lũ lượt kéo nhau từng đoàn
từ những thôn xóm làng mạc rải rác giữa ba thị trấn lớn trong nước và nằm dọc
theo dòng sông Pump đổ về kinh đô, chen lấn nhau trong lâu đài của hoàng gia để
thưởng thức những cuộc vui tổ chức trong ngày hội. Những dịp ấy, rạp hát mở cửa
cho xem không mất tiền; những máy phun nước của Monblaisir tiên sinh được dịp
thi thố tài năng (cũng may mà lại có đông người xem, vì nếu chỉ có một mình thì
mới nhìn cũng đủ chết khiếp)... rồi vô khối những thầy lang đến rao hàng, đoàn
xiếc cưỡi ngựa đến trổ tài (ai cũng còn nhớ có lần ngài quận công chết mê chết
mệt vì một chị đào hát tên là chị Vivandiere xinh xinh () Nghe nói chị này là
một tay gián điệp hoạt động cho nước Pháp). Dân chúng được phép thả cửa vào
thăm các gian phòng trong tòa lâu đài mông mênh của hoàng gia. họ tha hồ mà trầm
trồ khen ngợi cái sàn nhà nhẵn thín trơn tuột, những bức thảm thêu và những
chiếc ống nhổ đặt trước cửa bao nhiêu là gian phòng nhiều không đếm xuể. Có cả
một gian phòng đặc biệt do ngài Aurelius Victor XV tự tay vẽ kiểu - ngài vốn là
một vương công ưa hành lạc có phần hơi quá độ - người ta kể chuyện với tôi rằng
gian phòng này là một công trình tuyệt tác kỳ diệu để phục vụ cho sự khoái lạc
hào hoa. Trên tường toàn những tranh vẽ về sinh hoạt của Bacchus và Ariadne()
tình tự với nhau, trong phòng đặt những cần trục đặc biệt có thể nhấc bàn ăn
đưa ra ngoài, hoặc mang từ ngoài vào, như vậy người ngồi dự tiệc được tự nhiên
không cần đến đầy tớ hầu hạ. Sau khi Victor Aurelius XV chết đi, bà vợ góa là
công chúa Bacbara giữ quyền nhiếp chính trong thời gian con trai chưa đến tuổi
trưởng thành. Bà là một người tính tình khắc khổ và mộ đạo, thấy chồng chết vì
quá say mê tửu sắc bà bèn ra lệnh cấm không được dùng đến gian phòng này nữa.
Hý viện của thị trấn Pumpernickel rất nổi tiếng
trong khu vực này của nước Đức. Hồi vị đương kim quận công còn trẻ, ngài cứ
nhất định bắt rạp phải công diễn những tác phẩm ca vũ nhạc do chính ngài sáng
tác, thành thử có một thời gian tình hình hý viện có phần hơi tiêu điều; người
ta đồn rằng một bữa ngài ngồi tại chỗ dàn nhạc dự nghe một buổi tổng diễn tập;
đang lúc quá nóng, ngài phang vào đầu viên nhạc trưởng một cái vỡ cả một cây
kèn đồng vì ông này điều khiển dàn nhạc quá chậm chạp. Trong thời kỳ này, quận
chúa Sophia cũng sáng tác nhiều vở hài kịch, giá đem diễn thì khán giả đến ngáp
dài. Bây giờ thì vị quý tộc này chỉ cho biểu diễn sáng tác của mình cho riêng
mình xem thôi, còn quận chúa cũng chỉ cho đem các vở kịch của mình ra trình
diễn khi nào có các vị quý khách nước ngoài đến thăm cái triều đình bé nhỏ của
bà.
Cái triều đình ấy cũng được tổ chức huy hoàng
ra trò. Mỗi khi có dạ hội, dù có tới bốn trăm thực khách được mời ăn, cứ bốn
người lại có riêng một gia nhân bận chế phục màu tía có đính đăng- ten đứng
hầu. khách khứa dùng toàn bát đĩa bằng bạc. Hội hè yến tiệc tổ chức thường
xuyên. Quận công có đủ các quan thị vệ, các quan giám mã theo hầu, và quận chúa
cũng có một bầy thị nữ và một nữ quan chuyên việc trang phục, không kém gì
hoàng gia của bất cứ một nước lớn nào khác.
Hiến pháp của xứ này dựa trên cơ sở một chế độ
chuyên chế ôn hòa; một quốc hội được lập nên để kiềm chế bớt quyền hạn của
chính phủ; nhưng Quốc hội có khi được bầu lên. cũng có khi không.
Suốt thời gian sống ở Pumpernickel, tôi chưa hề
nghe nói đến họp quốc hội lần nào. Dinh của thủ tướng đặt ở tầng gác hai trong
tòa Quốc hội; còn văn phòng của ngài Tổng trưởng Bộ ngoại giao thì đặt ở tầng
trên cửa hiệu bán bánh ngọt Zwieback. Quân đội của Nhà nước gồm có một đám nhạc
binh khi cần, phụ trách cả những công việc linh tinh trên sân khấu. Cứ kể cảnh
tượng cũng thú vị: Ban ngày vừa mới nghe họ biểu diễn âm nhạc suốt buổi sáng
tại quảng trường Aurelius, đối diện với quán cà-phê chỗ chúng tôi ngồi dùng
điểm tâm, đến tối đã lại thấy mấy ông tướng lên sân khấu rồi; họ đánh phấn, bôi
môi, bận quần áo Thổ Nhĩ Kỳ,khi ra trò thì đeo gươm gỗ, hoặc đóng vai các chiến
sĩ La-mã thời cổ vác kèn đồng thổi. Ngoài đội nhạc binh ra, quân đội còn gồm
một số rất đông sĩ quan giàu có, nhưng theo chỗ tôi biết thì lính chỉ có một
nhúm. Không kể đội lính phòng vệ, còn có độ ba bốn người bận sắc phục khinh kỵ
binh vẫn đứng canh gác trước tòa lâu đài của quận công - nhưng tôi không thấy
họ cưỡi ngựa bao giờ; vả lại đang thời buổi thái bình thịnh trị, việc quái gì
mà phải dùng đến kỵ binh cơ chứ?... mà xét cho cùng() thì kỵ binh còn biết phóng
ngựa đi đâu?
Ở đây ai ai cũng đi lại thăm viếng láng giềng
của mình - ấy là tôi nói những nhà quý tộc, vì dĩ nhiên không lẽ tôi lại quan
tâm đến giới bình dân. Phu nhân de Burst tiếp khách mỗi tuần một lần; de
Schnurrbart phu nhân cũng có buổi tiếp khách thường kỳ đã ấn định... Mỗi tuần
hý viện mở cửa hai lần, triều đình mở tiệc chiêu đãi một lần, tóm lại cuộc đời
trôi đi trong một chuỗi ngày toàn những trò du hý liên tiếp, rất đúng kiểu sinh
hoạt bình thường của Pumpernickel.
Dĩ nhiên không ai chối cãi được rằng tại đây
không có những vụ xung đột. Sinh hoạt chính trị ở Pumpernickel cũng khá sôi
nổi, đảng phái tranh chấp cũng gay go ra trò. Có nhóm của bà Strumpff; có đảng
của bà Lederlung: Một bên được sứ bộ của chúng ta nâng đỡ, còn bên kia thì được
vị đại biện sứ quán nước Pháp là de Macabau tiên sinh ủng hộ. Ngay từ khi vị
đại diện của nước ta tuyên bố nâng đỡ bà Strumpff (ai cũng phải công nhận bà
này hát hay hơn bà Lederlung nhiều, vì giọng bà cao hơn giọng của kẻ thù những
ba cung) thì hễ ngài đưa ra bất cứ một ý kiến gì là lập tức bị nhà ngoại giao
đại diện cho nước Pháp lên tiếng phản đối ngay.
Giới quý tộc trong thị trấn không người nào là
không đứng về phe này hoặc phe kia. Bà Lederlung là một người đàn bà mảnh dẻ
xinh đẹp, có giọng hát rất trong (quả có thế); còn bà Strumpff thì, nói của
đáng tội, sắc đẹp và tuổi trẻ không còn ở thời kỳ “trăng tròn gương, hoa phong
nhị” nữa rồi, mà vóc người lại đang phát phì ra.
Thí dụ như trong màn cuối của vở kịch “Thụy du”
()chẳng hạn; bà này, bận áo ngủ, tay cầm cây đèn bước ra sân khấu, rồi phải
trèo qua cửa sổ bước lên tấm ván của cái cối xay gió bên ngoài; lúc ấy khó khăn
làm bà ta mới chui lọt được qua khung cửa, và tấm ván phải chịu đựng một sức
quá nặng, võng hẳn xuống mà rít lên ken két... Nhưng đến lúc bà ta hát đoạn kết
thúc của bản vũ nhạc thì tuyệt! Nhất là khi bà ta sôi nổi say sưa nhảy xổ vào
hai cánh tay của chàng Elvino - gần như có thể đè chết tươi anh chàng - Còn cái
bà Lederlung bé nhỏ kia... nhưng thôi, chuyện trò lan man mãi.
Sự thật là hai người phụ nữ ấy đã đóng vai đại
diện cho hai đảng phái ở Pumpernickel, một đảng có cảm tình với nước Anh, một
đảng có cảm tình với nước Pháp; và xã hội thượng lưu ở đây cũng chia ra hai phe
hướng về hai nước lớn kia. Ủng hộ phe chúng ta thì có ngài tổng trưởng Bộ nội
vụ, ngài giám mã đại quan, ngài bí thư đặc biệt của quận công, và quan thiếu
phó; nâng đỡ phe thân Pháp thì có ngài tổng trưởng Bộ ngoại giao, tổng tư lệnh
quân lực phu nhân (ngài tổng tư lệnh đã từng chiến đấu dưới cờ của Napoléon): ngài
thị vệ đại thần và phu nhân (phu nhân ưa nhất là ăn mặc theo mốt Paris; muốn
mua mũ hoặc tìm hiểu điều gì về khoa phục sức của người Pháp thì đã có de
Macabau tiên sinh phụ trách). Viên bí thư sứ quán Pháp là Grignac, một người
trẻ tuổi xảo quyệt không kém gì quỷ Xa tăng; khắp thị trấn chỗ nào cũng thấy
những tập an-bum có những tranh biếm họa do hạn vẽ để liễu cột Tapeworm.
Trụ sở và chiêu đãi sở của đảng thân Pháp đặt
tại “Khách sạn Paris”; khách sạn này ra sức ganh đua với khách sạn “Hoàng thái
tử” về mặt tiện nghi sang trọng. Dĩ nhiên, trước công chúng, các vị thượng lưu
thuộc hai phe đối với nhau rất mực lịch sự; nhưng họ tấn công nhau bằng những
bài thơ châm biếm lời lẽ cay độc cứ y như hai bác đấu sĩ ở Devonshire cầm roi
quật đen đét vào cẳng chân nhau mà mặt cứ lạnh như tiền, không động đậy một thớ
thịt. Tapeworm cũng như de Macabau, khi gửi công văn về cho chính phủ mình, thế
nào cũng kèm theo một tràng dài toàn những lời công kích đối phương. Đại khái,
sứ quán của chúng ta thường viết thế này: “Quyền lợi của các Anh quốc tại đây
cũng như trong toàn thể nước Đức đang bị đe dọa nghiêm trọng vì sự có mặt của
phái bộ nước Pháp hiện đảm nhiệm sứ mệnh; viên đại sứ người Pháp thuộc hạng
người vô cùng xảo quyệt; hắn không từ một thủ đoạn đê tiện nào không làm; để
đạt mục đích hắn không do dự trước mọi tội ác. Hắn gièm pha đại diện của nước
Anh với triều đình; hắn vu cáo chính phủ nước ta một cách vô cùng bỉ ổi; và
không may thay, hắn lại được một vị tổng trưởng đặc biệt có thế lực trong
triều, nhưng nổi danh dốt nát ủng hộ”. Về phía phái bộ của Pháp, họ viết như
sau: “Ông Tapeworm vẫn tiếp tục biểu lộ một thái độ khiêu khích ngu xuẩn đặc
biệt Anh-cát-lợi, và một thái độ bần tiện đối với một quốc gia vĩ đại nhất thế
giới là nước ta. Mới hôm qua, người ta nghe thấy hắn nói xấu quận chúa Berri;
trước đó ít lâu hắn đã phỉ báng quận công Angouleme anh hùng của chúng ta; hắn
còn táo gan dám nói bóng rằng ngài quận công Orleans đã âm mưu khởi loạn chống
lại ngai vàng nước Pháp. Ở chỗ nào không giở thủ đoạn đe dọa ngu xuẩn ra được,
thì hắn không tiếc vàng bạc để mua chuộc. Hoặc bằng cách này, hoặc bằng cách
kia, hắn cũng đã tranh thủ được sự nâng đỡ của một số yếu nhân trong triều...
Tóm lại, Pumpernickel không thể nào yên ổn, nước Đức không thể nào thái bình,
nước Pháp không thể nào được tôn trọng, và Âu châu không thể nào ổn định nếu
con rắn độc kia chưa bị chà nát dưới gót chân!” Và đại khái như thế... Mỗi khi
phe này hoặc phe kia thảo một lá công văn lời lẽ “cay cú” như vậy gửi về nước,
thế nào tin ấy cũng lọt ra ngoài.
Bước vào mùa đông chưa được bao lâu thì Emmy đã
phải lo tổ chức một buổi tối tiếp tân, cô đã khoản đãi khách khứa một cách giản
dị nhưng không kém phần lịch sự. Cô đã mướn một ông thầy giáo người Pháp để
luyện thêm - ông này khen cô nói tiếng Pháp rất đúng giọng, và học tập rất mau
tiến bộ. Sự thật thì Emmy đã học tiếng Pháp từ lâu, và đã có dịp củng cố lại
môn ngữ Pháp để có đủ sức kèm Georgy học thêm. Bà Strumpff được mời đến để dạy
cô học hát. Cô hát rất hay, giọng hát trong trẻo, hấp dẫn đến nỗi mỗi khi bên
này học hát thì Dobbin ở căn nhà bên kia đường phía dưới phòng ông thủ tướng
cũng mở cửa sổ ra để lắng nghe. Một vài bà mệnh phụ người Đức vốn tính đa cảm,
lại cũng không kiểu cách câu nệ lắm, cứ xoắn lấy Emmy và đã bắt đầu “chị chị em
em” với cô rồi. Những câu chuyện vặt ấy kể cũng nhàm, nhưng lại liên quan đến
quãng đời hạnh phúc nhất của Emmy. Viên thiếu tá tự lãnh nhiệm vụ kèm Georgy
học; anh ta dạy nó dịch tập lịch sử Caesar bằng tiếng La-tinh và khoa toán học,
mặc dầu thằng bé đã có một ông thầy người Đức thuê riêng để săn sóc việc học
vấn. Chiều chiều Emmy ngồi xe ngựa đi chơi, có Dobbin và Georgy cưỡi ngựa đi
kèm.
Tính cô vẫn nhút nhát như cũ, con ngựa thằng
Georgy cưỡi chỉ hơi tỏ ra trái chứng một chút cũng đủ làm cho cô kêu ầm lên vì
sợ hãi. Trong những cuộc dạo chơi ấy, Emmy ngồi cạnh một người bạn người Đức
giong xe đi loanh quanh, còn Joe thì ngả lưng trên ghế sau, lim dim ngủ.
Hồi này Joe càng ngày càng có cảm tình sâu sắc
đối với nữ bá tước Fanny de Butterbrod, một người đàn bà trẻ tuổi xinh xắn, đa
cảm, tính tình khiêm tốn. Bà này tuy là nữ bá tước thật nhưng nghèo xác, lợi
tức đồng niên không được lấy mười đồng tiền vàng.
Fanny cũng thẳng thắn tuyên bố rằng được làm
chị dâu của Amelia ấy là trời ban cho mình một hạnh phúc lớn nhất trên đời. Vậy
thì suýt nữa Joe đã có thể sơn thêm một cái huy hiệu nữ bá tước bên cạnh huy
hiệu riêng trên vách xe và trên cán dĩa của mình...nhưng bỗng xảy ra một việc
làm đảo lộn hất cả mọi dự định tốt đẹp nói trên.
Nhân lễ thành hôn của vị thế tử giữ ngôi trừ
nhị ở Pumpernickel với quận chúa Amelia ở Humbourg - Schlippenschloppen, hoàng
gia tổ chức một cuộc hội lớn. Trong dịp này, người ta cũng đã phô trương nọi sự
lộng lẫy chưa hề thấy kể từ khi ngài Victor XIV ưa xa xỉ kia tạ thế đến nay.
Khắp mặt các vị thế tử, quận chúa và các quan đại thần các tiểu quốc láng giềng
đều được mời đến dự hội. Tại Pumpernickel giá thuê phòng cao vọt, lên tới nửa
cơ-rao một giường mỗi đêm. Các bậc vương công quý tộc khắp nơi đổ về lắm quá;
quân đội của nhà nước cạn sạch người vì phải cung cấp lính hộ vệ cho các ngài.
Quận chúa lấy chồng theo thủ tục đại diện, bá tước Schlusselback thay mặt chú
rể, đám cưới tổ chức tại nhà ông cụ thân sinh ra nữ bá tước. Nhân dịp này, nhân
dân được mua vô khối hộp đựng thuốc lá (bác thợ kim hoàn của triều đình nói với
tôi thế, bác được lệnh bán ra, nhưng sau đó lại mua vào).
Hàng thúng huy chương thánh Michael của hoàng
gia Pumpernickel được mang ban phát cho cá nhà quý tộc trong triều. Chúng tôi
cũng nhận được hàng bó dây đeo huy chương và bội tinh thánh Catherine
Schlippenschloppen. Viên đại diện nước Pháp vớ được cả hai loại. Theo nguyên
tắc, Tapeworm không được quyền nhận bội tinh của nước ngoài, lão nói:
- Thằng cha đeo huy chương đầy mình, nom chẳng
khác gì con ngựa kéo xe trưng bày trong hội chợ nông nghiệp. Cho chúng nó đeo
huy chương; nhưng rồi xem thắng lợi về tay đứa nào.
Cuộc hôn nhân này là một thắng lợi của chính
sách ngoại giao của Anh, vì bọn thân Pháp đã đề nghị và cực lực ủng hộ một cuộc
hôn nhân với quận chúa thuộc hoàng gia Potztausend- Donnerwetter; lẽ dĩ nhiên
sứ quán của ta phản đối ông này.
Cuộc lễ hội mở ra đón tiếp hết thảy bàn dân
thiên hạ. Trên khắp các nẻo đường người ta đã dựng lên những cổng chào kết hoa
để mừng đón cô dâu mới. Chiếc vòi nước thánh Michael to tướng phun ra một thứ
rượu vang chua loét, đồng thời vòi nước ở quảng trường pháo binh cũng tia lên
những dòng rượu bia. Các loại vòi nước thi nhau hoạt động. Người ta lại trồng
“cột mỡ” trong các công viên để các bác nông dân các nơi về xem hội đua tài; ai
muốn leo thì leo; leo được thì vớ đủ thứ: Đồng hồ, đĩa bạc, xúc xích có tết nơ
hồng, tất cả treo lủng lẳng trên ngọn. Thằng Georgy hì hục leo lên với được một
cái xúc-xích, nó giật phắt lấy rồi tụt một mạch xuống đất nhanh như chớp, ai
nom thấy cũng phục lăn. Nhưng Georgy leo cột mỡ cốt để trổ tài cho thiên hạ xem
thôi. Nó đem khúc xúc-xích lấy được cho một bác nông dân; bác này leo mãi được
gần đến nơi thì tuột xuống, cứ đứng tần ngần dưới chân cột vì thất bại.
Sứ quán Pháp thắp nhiều hơn chúng ta sáu cái
đèn, nhân dịp này. Nhưng để trả miếng, chúng ta đưa ra một cái đèn đặc biệt có
vẽ hình Sự Bất hòa chạy trốn khi nhìn thấy cặp tân lang và tân giai nhân tiến
lại; thú vị nhất là hình thù Sự Bất hòa, nom giống hệt viên đại sứ Pháp; ấy thế
là bọn Pháp thua trắng mắt. Tôi tin chắc rằng sau này Tapeworm được thăng chức
và được ban Bội tinh Tùy giá, chính là nhờ đã lập nên chiến công hiển hách này.
Khách ngoại quốc đến dự hội đông nghìn nghịt.
Dĩ nhiên là có rất nhiều người Anh. Không kể những buổi dạ hội do triều đình tổ
chức, còn có những buổi hội khiêu vũ mở ra cho quần chúng tại tòa thị sảnh và
tại khu du hý công cộng. Tại tòa thị sảnh lại dành riêng một gian phòng để đánh
bài và chơi trò quay số. nhưng chỉ chơi trong thời gian mở hội. Một công ty của
người Đức ở Ems hoặc Aix-la-Chapelle đứng ra tổ chức những trò giải trí này. Sĩ
quan và dân chúng trong thị trấn Pumpernickel tuyệt đối không được tham dự trò
chơi này nhưng người ngoại quốc, dân quê và phụ nữ thì tha hồ; ai muốn mất tiền
hoặc vét túi thiên hạ thì cứ việc vào.
Cái thằng Georgy quỷ sứ lợi dụng lúc người lớn
đi dự dạ hội trong triều, bèn bảo Kirsch dẫn đến xem hội ở tòa thị sảnh; túi nó
lúc nào cũng sẵn tiền. Có một lần nhân cùng đi với Dobbin đến đây chơi, nó đã
ngó trộm vào gian phòng đánh bạc, nhưng dĩ nhiên không được phép vào. Lần này
được tự do, thằng bé hối hả mò ngay đến chỗ giải trí đặc biệt này, cứ loanh
quanh mãi bên bác hồ lỳ và các con bạc đang bận rộn tíu tít về chuyện ăn thua.
Đàn bà đến đánh bạc cũng nhiều. Một số đeo mặt nạ che kín mặt; phong tục này
phổ biến trong thời gian hội hè hỗn độn.
Có một người đàn bà tóc vàng bận một bộ áo
xoàng xĩnh, trông đã tàng tàng, đeo mặt nạ, để lộ ra hai con mắt sáng quắc một
cách kỳ lạ. Mụ ngồi bên một cái bàn chơi trò quay số, tay cầm một mảnh bìa và
một cái ghim, trước mặt đặt hai đồng flô-rin. Mỗi khi nhà cái tuyên bố màu và
số trúng giải, người đàn bà lại lấy ghim vạch vào mảnh bìa đánh dấu thật cẩn
thận. Mụ chỉ dám đặt tiền khi nào thấy màu đen hay màu đỏ đã lên thông vài bận
liền. Cử chỉ người đàn bà này khiến cho người ta ngạc nhiên.
Dầu đã thận trọng và kiên nhẫn đến thế, nhưng
mụ vẫn đoán lầm. Hai đồng flô-rin cuối cùng theo nhau chui tọt vào trong ngăn
kéo của bác hồ ly, lúc bác lạnh lùng tuyên bố màu và số nào trúng giải. Người đàn
bà thở dài nhún đôi vai để trần vốn đã quá lộ liễu trong tấm áo buổi tối, rồi
cắm mạnh cái ghim xuống mặt bàn xuyên qua mảnh bìa; mụ gõ gõ ngón tay, ngồi yên
một lúc. Lát sau mụ lên nhìn quanh, gặp ngay bộ mặt thực thà của Georgy đang
ngó chăm chăm vào cái bàn quay số, thằng bé mới hay chứ! Không biết nó mò đến
đây làm gì thế. Lúc người đàn bà nhìn thấy thằng bé, mụ giương đôi mắt lóng
lánh sau chiếc mặt nạ ngó trân trân vào mặt nó một hồi rồi hỏi:
- Cậu không chơi à? ()
Thằng bé đáp:
- Thưa bà, không.()
Nhưng có lẽ người đàn bà nghe giọng nói của
thằng bé đã biết nó là người nước nào, cho nên mụ dùng tiếng Anh hỏi tiếp,
tiếng nói lơ lớ pha giọng ngoại quốc.
- Cậu chưa đánh bạc bao gờ... cậu giúp chị một
tý nhé?
- Giúp cái gì cơ?
Thằng Georgy lại đỏ mặt đáp. Bác Kirsch đang
ham cuộc đỏ đen () không để ý đến cậu chủ.
- Cậu chơi hộ chị một cái tý nhé. Cậu cứ đặt
tiền hộ vào số nào cũng được, bất cứ số nào.
Mụ lôi trong ngực ra một cái túi, móc ra một
đồng tiền vàng, đồng tiền vàng duy nhất còn lại, và đặt vào tay thằng Georgy.
Thằng bé cười và làm theo lời người đàn bà. Lần
này trúng ngay số ấy được giải. Người ta vẫn bảo rằng “đánh bạc có thần hay đãi
tay mới”, đúng thật.
Người đàn bà vơ tiền về, nói:
- Cảm ơn cậu nhé. Tên cậu là gì nhỉ?
- Tên cháu là Osborne.
Georgy vừa đáp vừa thọc tay vào túi mân mê mấy
đồng tiền vàng sắp sửa thử một tiếng bạc, thì đúng lúc ấy viên thiếu tá bận bộ
quân phục và Joe mặc theo lối hầu tước vừa dự dạ hội trong triều về, bước vào.
Nhiều người khách thấy buổi dạ hội trong triều tẻ quá, bỏ về sớm; họ ưa những
thú vui xô bồ tại tòa thị sảnh hơn. Có lẽ Joe và Dobbin đã về nhà, nhưng không
thấy Georgy đâu, hai người lại đi tìm. Vừa nhìn thấy thằng bé, Dobbin lập tức
tiến lại nắm lấy vai nó kéo sềnh sệch ra khỏi nơi giải trí tai hại này. Đoạn
anh ta mới nhìn quanh, thì thấy ngay Kirsch đang mải chúi mũi vào đám bạc.
Dobbin bước lại hỏi tại sao bác dám dắt Georgy đến một nơi như thế này.
Bác Kirsch vừa say rượu lại đang mê lên vì canh
bạc, đáp:
- Mặc xác tôi, cũng phải giải trí một tý chứ, Ơ
kìa! Tôi có phải là người hầu của ông đâu?().
Thấy bác đang cơn máu mê, Dobbin không buồn nói
thêm làm gì. Anh ta kéo Georgy đi ra và hỏi xem Joe có muốn cùng về không. Lúc
ấy Joe đang đứng kề sát người đàn bà đeo mặt nạ, mụ này xem ra đang gặp vận đỏ.
Joe có vẻ rất chú ý đến canh bạc.
Viên thiếu tá hỏi:
- Joe, có nhẽ anh nên cùng về với tôi và Georgy
thì hơn.
Joe đáp:
- Tôi ở lại một tý rồi về sau với thằng cha
Kirsch kia cũng được.
Dobbin vì nhã nhặn nghĩ rằng không nên phản đối
Joe ngay trước mặt tháng cháu trai; anh ta để Joe ở lại, đưa Georgy về trước.
Ra khỏi tòa thị sảnh, trên đường về nhà, Dobbin
hỏi Georgy:
- Lúc nãy cháu có đánh bạc không?
Thằng bé đáp:
- Không ạ.
- Cháu hãy lấy danh dự của một người thượng lưu
hứa với bác rằng sẽ không bao giờ đánh bạc nhé?
Georgy hỏi lại:
- Tại sao, hở bác? Cháu thấy vui lắm mà.
Viên thiếu tá, với giọng nói sôi nổi hùng biện,
giải thích cho nó rõ tại sao không nên đánh bạc. Dobbin định lấy ngay George là
cha nó ngày trước làm thí dụ để thuyết phục thằng bé, nhưng nghĩ lại, không
muốn nói bất cứ điều gì không tốt đẹp về người bạn đã quá cố nên anh ta lại
thôi. Đưa Georgy về nhà cẩn thận rồi, Dobbin về giường nằm, nhưng vẫn để ý nhìn
xem ánh đèn trong phòng thằng bé sát ngay mé ngoài phòng của Amelia đã tắt
chưa. Độ nửa giờ sau, đèn trong phòng Amelia cũng tắt. Không rõ vì cớ gì anh ta
để ý tỷ mỷ đến thế.
Riêng Joe vẫn la cà ở lại bên bàn quay số. Anh
ta không phải là người máu mê cờ bạc, nhưng giá thỉnh thoảng giải trí tý chút
cho vui thì cũng không phản đối. Nhân sẵn mang theo trong túi mấy đồng
Napoléon, Joe bèn móc ra một đồng, với tay qua cái vai đẹp để trần của người
đàn bà bé nhỏ ngồi trước mặt đặt xuống bàn. Cả hai người cùng được. Người đàn
bà hơi nhích người ra, vơ vạt áo lại cho gọn nhường chỗ cho Joe ngồi xuống
chiếc ghế cạnh mình.
- Ông ngồi xuống đây; mong rằng ông sẽ đem lại
may mắn cho tôi.
Giọng nói của người đàn bà lại lơ lớ pha giọng
ngoại quốc, khác hẳn lúc nãy khi cảm ơn thằng Georgy đã chơi giúp tiếng bạc may
mắn, mụ nói bằng tiếng Anh rất thoải mái và đúng giọng. Anh chàng to béo đưa
mắt ngó quanh xem có ai là người tai mặt để ý đến mình không, rồi mới ngồi
xuống. Anh ta lẩm bẩm:
- A, hay lắm; cầu chúa ban phúc lành cho tôi...
Tôi đang cầu sao được vậy, chắc chắn tôi sẽ đem sự may mắn đến cho bà.
Joe còn lúng túng tiếp theo mấy lời chúc tụng
không nghe rõ.
Người đàn bà đeo mặt nạ hỏi:
- Ông có hay chơi luôn không?
Joe hãnh diện quăng ra một đồng tiền vàng đáp:
- Chơi tý ty gọi là thôi.
Người đàn bà láu lỉnh đáp:
- Phải, gọi là cho đỡ buồn ngủ sau bữa ăn, phải không?
Nhưng thấy Joe nhìn mình tỏ vẻ hốt hoảng, mụ tiếp theo bằng giọng nói thanh
thanh của người Pháp:
- Ông đánh bạc không cốt được tiền. Tôi cũng vậy. Tôi đánh bạc để quên,
nhưng không sao quên nổi. Tôi không sao quên nổi quá khứ ông ạ. Thằng cháu gọi
ông bằng bác sao mà giống bố nó như đúc. Còn ông... trông ông vẫn như xưa...
nhưng không, cũng có thay đổi ít nhiều. Ai cũng thay đổi, ai cũng quên hết cả;
không có người nào là chung tình.
Joe bối rối hỏi:
- Trời đất ơi, bà là ai vậy?
- Joseph Sedley, ông không đoán ra ư?
Người đàn bà bé nhỏ đáp bằng một giọng buồn rầu; đoạn gỡ chiếc mặt nạ xuống
nhìn thẳng vào mặt Joseph:
- Anh quên em rồi.
Joe há hốc mồm ra vì ngạc nhiên:
- Lạy Chúa tôi. Bà Crawley!
Người đàn bà đặt tay mình lên tay Joe, chữa lại:
- Rebecca.
Nhưng trong lúc nói chuyện với Joe, Rebecca vẫn không quên để ý theo dõi
canh bạc. Cô ta nói tiếp:
- Em trọ ở khách sạn “Con Voi”. Anh cứ hỏi thăm bà de Raudon thì tìm thấy.
Hôm nay em có gặp chị Amelia thân yêu của em một lần. Hồi này chị ấy đẹp ra
nhiều; chị ấy sung sướng thật! Anh cũng vậy. Tất cả mọi người đều có hạnh phúc,
chỉ riêng em là khổ sở, anh Joseph Sedley ạ.
Nói đoạn cô ta đẩy đồng tiền của mình đặt bên cửa màu đỏ sang bên màu đen.
Nhưng làm như vì vô tình chạm bàn tay vào chứ không phải là cố ý, đồng thời cô
ta đưa chiếc mùi xoa có viền một hàng đăng-ten đã rách bươm lên chùi mắt.
Lần này vẫn lên màu đỏ,. thế là Rebecca mất sạch số tiền được từ nãy. Cô ta
bảo Joe:
- Chúng ta đi thôi. Anh đi với em một tý nhé... đối với nhau, chúng là bạn
có…có phải thế không anh Sedley thân mến?
Vừa lúc ấy Kirsch tiên sinh cũng cạn túi. Hắn
đi theo ông chủ ra ngoài đường. Trời sáng trăng; đèn bắt đầu tắt dần từng ngọn
một. Trong bóng tối lờ mờ, khó lòng theo dõi được cặp trai gái cho rõ ràng.
Chương 64
MỘT CHƯƠNG LÔNG BÔNG
Chúng ta bắt buộc phải bỏ qua một thời kỳ trong
cuộc đời của Rebecca Crawley không nói đến, như vậy cốt thỏa mãn cái gọi là
tính tế nhị của người đời... cái bọn người đời đứng đắn, tuy không đặc biệt
phản đối những thói xấu xa, nhưng hình như lại cứ muốn có thái độ ghê tởm mỗi
khi nghe ai gọi những thói xấu ấy bằng đúng tên tục. Trong Hội chợ phù hoa, có
những việc xảy ra hàng ngày ai cũng thừa rõ, nhưng không ai chịu nói ra; chẳng
khác gì bọn người theo tôn giáo Ahrimania thờ cúng quỷ sứ, nhưng không bao giờ
dám hé miệng nhắc đến tên nó. Bởi vậy, công chúng lịch sự mới không thể chịu
đựng nổi một cuốn tiểu thuyết miêu tả chân thực những thói ô uế của người đời,
cũng như những phụ nữ chân chính lịch sự người Anh hoặc người Mỹ không bao giờ
chịu để cho danh từ “cái quần” lọt vào đôi tai tinh khiết của họ. Vậy mà thưa
quý bà, hàng ngày cái quần vẫn cứ nghiễm nhiên đi lại trước mặt chúng ta mà
cũng chẳng thấy ai lấy làm khó chịu lắm. Ví thử mỗi lần nhìn thấy cái quần bà
lại ngượng đến đỏ mặt lên, thì ôi thôi, sắc mặt bà không biết rồi sẽ ra sao.
Song cũng may thay, chỉ khi nào nghe nhắc đến có tên thô bỉ ấy, thì sự e lệ của
bà mới có dịp giật mình hoảng hốt và công phẫn. Kẻ viết truyện này, vì cũng
muốn chiều theo thói tục của người đời, cho nên từ đầu đến cuối cuốn sách chỉ
nhắc tới sự có mặt của tội lỗi trên trái đất bằng những lời lẽ nhẹ nhàng bóng
bẩy, dễ ưa, cốt cho không một ai có tâm hồn tế nhị phải khó chịu. Tôi thách
người nào dám nói rằng tôi đã không trình bày Becky trước công chúng với một
dáng vẻ hoàn toàn nhã nhặn và vô hại đấy, mặc dầu không phải là cô ta không có
một vài thói xấu.
Trong khi miêu tả con nữ thủy quái luôn luôn
mỉm cười ca hát, mơn trớn nịnh nọt cực khéo, tác giả rất khiêm tốn xin hỏi khắp
các vị độc giả xem có một lúc nào hắn đã quên không tôn trọng những quy tắc của
sự lễ độ mà cho con thủy quái thò cái đuôi đáng ghê tởm của nó lên khỏi mặt
nước chăng? Không! Tùy sở thích, ai muốn, xin cứ việc ghé mắt nhòm kỹ xuống mặt
nước cũng khá trong; qua những đợt sóng, họ sẽ thấy cái đuôi uốn éo, dẫy dụa,
nhầy nhụa bùn đất và xấu xí một cách đáng tởm của nó đang phe phẩy bên đám
xương trắng, hoặc cuốn lấy thi thể của những kẻ nạn nhân. Nhưng thử hỏi rằng,
trên mặt nước, có cái gì gọi là không đúng đắn lịch sự, nhã nhặn, khiến cho kẻ
đạo đức giả soi mói nhất trong Hội chợ phù hoa có quyền lên tiếng phản đối? Tuy
vậy, khi con thủy quái nhào xuống nước mà biến mất, dĩ nhiên mặt nước sẽ lầm
lên, chúng ta có cố tò mò nhìn theo cũng chỉ mất công toi mà thôi. Khi những
con quái vật ấy ngồi trên tảng đá nhấn những cung đàn, cầm lược chải mớ tóc
mượt mà, và hát, và soi gương, và vẫy bạn đến gần, thì trông cũng xinh đẹp lắm
lắm. Nhưng một khi chúng đã lặn sâu xuống cái môi trường thích hợp với bản chất
của chúng thì chẳng còn gì đáng hấp dẫn nữa; tốt hơn là chúng ta không nên theo
dõi những con quái vật ăn thịt người ấy làm gì, nhất là lúc chúng đang say sưa
chè chén trên những thi thể bị ướp của nạn nhân. Cho nên xin các bạn hãy tin
rằng, khi Becky thoát khỏi tầm mắt của chúng ta, hành động của cô ta chắc chắn
không được tốt đẹp lắm, và càng ít nhắc đến những hành động của cô ta bao nhiêu
càng tốt.
Nếu phải kể lại đầy đủ hành vi của Becky suốt
hai năm trời sau khi xảy ra câu chuyện tai hại ở phố Curzon, e rằng có một số
người sẽ vin vào đó mà nói rằng cuốn truyện này không đứng đắn. Xưa nay cách ăn
ở của hạng người ưa thú phù hoa, vô tình và ham khoái lạc thường vẫn không được
đứng đắn (cũng như khá nhiều hành vi của chính ngài, hỡi ông bạn mặt mũi nghiêm
trang và đạo đức không ai chê vào đâu được kia... nhưng ấy là nói chơi thế
thôi); trách chi một người đàn bà không có đức tin... không biết đến tình yêu,
sống không có một nguyên tắc nào? Cho nên tôi muốn nghĩ rằng trong cuộc đời của
Becky, có một thời gian cô ta bị một nỗi thất vọng nào đó - chứ không phải là
sự hối hận - giày vò, do đó đã hoàn toàn chán chường đối với chính mình, và
chẳng thiết gì đến chuyện gìn giữ danh giá làm chi cho mệt.
Không phải đột nhiên sự rã rời (), sự sa đọa ấy
xảy ra ngay một lúc; sau cơn hoạn nạn của cô ta, nó đến từ từ bước một bước
một, mặc dầu Becky cũng đã gắng gỏi vật lộn nhiều lần để ngóc đầu dậy; cũng như
một người bị rơi khỏi mạn tàu xuống bể, cố sống cố chết bám lấy một mảnh ván
trôi dạt chừng nào trong đầu còn le lót một tia hy vọng; nhưng tới lúc thấy rõ
vật lộn mấy nữa cũng chỉ vô ích, người ấy sẽ quăng mảnh ván kia đi và cứ thế mà
chìm sâu xuống nước.
Trong thời gian chồng đang lo sửa soạn lên
đường nhận chức vụ của chính phủ giao cho, Becky còn nấn ná lang thang trong
thành phố Luân-đôn ít lâu. Như ta có thể dự đoán, cô ta đã nhiều lần tìm cách
gặp mặt ông anh chồng tức là tôn ông Pitt Crawley, hòng lợi dụng cảm tình của
người đã hầu như được cô ta để lọt vào mắt xanh. Một hôm tin ông Pitt cùng đi
bộ với Wenham đến Hạ nghị viện, Wenham nhác thấy Rebecca che chàng mạng đen kín
mặt đang lượn đi lượn lại gần tòa quốc hội. Gặp tia mắt Wenham, cô ta vội lảng
đi chỗ khác; về sau cũng không lần nào Becky thực hiện được ý định lợi dụng anh
chàng nam tước.
Cũng rất có thể chính công nương Jane đã nhúng
tay vào việc này. Có người bảo với tôi rằng ông chồng ngạc nhiên không thể
tưởng tượng được khi thấy vợ tỏ ra quá hăng hái trong vụ xích mích vừa rồi, và
cương quyết tuyệt giao hẳn với Becky. Công nương Jane tự ý mời Rawdon dọn đến ở
với anh trai ở phố Gaunt trong thời gian chưa lên đường đi Coventry, vì cô hiểu
rằng có Rawdon đóng vai trò hộ vệ cho chồng, chắc chắn không khi nào Becky dám
liều lĩnh bén mảng tới. Công nương Jane còn cẩn thận xem xét từng phong thư gửi
đến cho ông Pitt, sợ rằng chồng và cô em dâu thư từ đi lại với nhau chăng. Giả
thử Becky muốn viết thư cho Pitt Crawley cũng không thể được, nhưng cô ta không
viết thư cũng không tìm cách đến nhà riêng để gặp mặt; sau vài lần thất bại,
Becky đồng ý nhận lời đề nghị của Pitt, nghĩa là tất cả những giấy tờ có liên
quan đến vụ xích mích của vợ chồng cô ta sẽ do luật sư chuyển giao. Nói cho
đúng thì cảm tình của Pitt Crawley đối với cô em dâu đã bị người khác cắt đứt
rồi. Sau câu chuyện không may của hầu tước Steyne, Wenham có dịp ngồi chơi với
Pitt. Hắn mới dụng ý trình bày một bản lý lịch của Becky, đủ để cho ông chủ
trại Crawley Bà chúa phải tròn mắt vì ngạc nhiên. Hắn am hiểu chân tơ kẽ tóc về
cuộc đời của cô ta; hắn cho biết bố đẻ ra Becky là ai; mẹ cô ta là vũ nữ nhảy
múa ở rạp Opera vào những năm nào; trước khi lấy chồng, quá khứ của Becky ra
sao, và suốt thời gian ăn ở với Rawdon tư cách của cô ta thế nào... Tôi không
muốn nhắc lại những điều hắn kể ở đây, vì tôi tin rằng phần lớn là những chuyện
bịa đặt do dụng ý xấu xa của hắn. Chỉ biết rằng Becky đã để lại một ấn tượng
rất đáng buồn cho nhà quý tộc xứ quê và cũng là ông anh chồng, người đã một
thời đặc biệt có cảm tình đối với cô em dâu.
Lương bổng của vị thống đốc đảo Coventry không
được hậu hĩnh lắm. Ngài thống đốc dành riêng một phần lợi tức để thanh toán một
số món nợ cấp bách nhất; vả chăng ở địa vị cao quý này, ngài cũng phải chi tiêu
nhiều. Cuối cùng tính ra ngài chỉ có thể trợ cấp cho bà vợ cũ mỗi năm khoảng hơn
ba trăm đồng. Rawdon đặt điều kiện là muốn lấy tiền, Rebecca không được tìm
cách làm phiền đến mình nữa. Nếu không muốn thế thì...cho câu chuyện xấu xa vỡ
lở ra, và ly dị, và đưa nhau ra tòa cũng không cần. Nhưng đã có Wenham, đã có
hầu tước Steyne, đã có Rawdon, đã có tất cả mọi người lo việc tống khứ cô ta ra
khỏi nước Anh, để bịt cái hũ mắm thối lại.
Có lẽ Becky quá bận bịu trong việc giao thiệp
với luật sư của chồng, nên quên bẵng không nghĩ đến chuyện đòi giữ đứa con trai
tức là thằng Rawdy, mà cũng không hề lần nào ngỏ ý muốn tìm gặp mặt nó. Thằng
bé được đưa về cho hai bác nó trông nom. Xưa nay bác gái nó vẫn được nó quý hơn
cả. Sau khi rời nước Anh ra đi, Rebecca từ Boulogne gửi cho con một lá thư lời
lẽ thật ngọt ngào; trong thư, cô ta dặn con phải chăm chỉ học tập; còn mình thì
sẽ đi du lịch một thời gian trên lục địa, và sẽ viết thư gởi về cho con nữa.
Nhưng một năm sau, cũng chẳng thấy thư từ gì
của cô ta. Mãi tới khi thằng con một ốm o loẻo khoẻo của tôn ông Pitt bị chết
vì bệnh ho gà và lên sởi thì Becky lại viết cho đứa con trai yêu quý một bức
thư lời lẽ cực kỳ nồng nàn. Thằng bé anh họ chết đi, thế là Rawdy trở thành
người thừa kế quyền sở hữu trại Crawley Bà chúa.
Đối với người bác gái tốt bụng, nó càng quý mến
hơn trước, vì công nương Jane đã coi nó như con đẻ. Bây giờ Rawdy Crawley đã là
một thiếu niên vạm vỡ, xinh trai; nhận được thư mẹ, nó đỏ mặt nói:
- Ồ, bác Jane ơi, bác mới chính là mẹ của cháu
chứ không phải... không phải người kia đâu.
Tuy vậy nó cũng viết một lá thư lời lẽ ngọt
ngào lễ độ gửi cho Rebecca; hồi này cô ta đang ở trọ trong một gia đình tại
Florence.
Nhưng đó là chuyện sẽ nói đến ở dưới.
Chuyến bay nhảy đầu tiên của Becky cũng không
xa lắm. Cô ta đỗ lại ở Boulogne, bên bờ biển nước Pháp; đó là chỗ trú ẩn của
khá nhiều người Anh trong trắng vô tội. Ở đó, cô ta thuê hai gian phòng khách
sạn; một chị hầu phòng giúp việc, sống như một người đàn bà góa hiền lành. Cô
ta dùng bữa tại phòng ăn công cộng của khách sạn; ai cũng cho Becky là người
vui tính, vì cô ta hay kể chuyện với những người bên cạnh về anh chồng mình là
tôn ông Pitt và về những bạn bè toàn những bậc tai mặt ở Luân-đôn. Đối với một
số người tầm thường, những câu chuyện vẩn vơ ấy và khoa ăn nói giảo hoạt của cô
ta rất được tán thưởng. Nhiều người cứ yên trí rằng cô ta là một nhân vật quan
trọng. Becky tổ chức những buổi tiệc trà thân mật nho nhỏ, thết khách tại phòng
riêng, và cũng tham dự những thú giải trí thông thường khác trong thành phố đại
khái như đi tắm bể, ngồi xe ngựa bỏ mui đi chơi mát, đi bách bộ hứng gió bể
trên bãi cát, đi xem hát v.v... Bà Burjoice, vợ một ông chủ nhà in, cùng con
cái đến thuê phòng tại khách sạn suốt mùa hạ; hàng tuần cứ thứ bảy và chủ nhật,
ông Burjoice lại đến thăm vợ con. Bà này thấy Becky đáng yêu lắm, cho tới khi
ông chồng bắt đầu tỏ ra săn sóc hơi quá đáng đến cô bạn. Nhưng chuyện ấy không
có liên quan gì đến chúng ta; chỉ biết rằng Becky bao giờ cũng hòa nhã, duyên
dáng và vui vẻ... đặc biệt là với đàn ông.
Hàng năm vào hồi này, người Anh có thói quen ra
nước ngoài du lịch rất đông. Becky có nhiều dịp để biết giới thượng lưu thành
Luân-đôn nghĩ thế nào về cách ăn ở của mình. Một bữa Becky đang bình thản dạo
chơi trên bến tàu Boulogne vừa hướng tầm mắt ra ngoài bể ngắm những vách đá của
xứ sở Albion lóng lánh dưới ánh mặt trời trên làn sóng xanh biếc thì trạm trán
với Partlet phu nhân đi cùng mấy cô con gái. Partlet phu nhân lập tức nghiêng
chiếc ô che kín mặt và ra hiệu cho mấy cô con gái đứng quây quần lại quanh
mình. Đoạn bà ta vừa đi khỏi bến tàu vừa liếc cặp mắt giận dữ nhìn lại Becky
đứng trơ trọi một mình. Một bữa khác, Becky đứng xem tàu từ Anh sang cập bến.
Vừa qua, trời nổi lại gió; Becky có cái thú đặc biệt là ngắm những bộ mặt phờ
phạc của hành khách dưới tàu bước lên. Hôm ấy Slingstone phu nhân cũng đi tàu.
Cuộc hành trình vất vả vừa qua làm cho phu nhân mệt nhoài, hầu như không còn đủ
sức để bước qua mảnh gỗ bắc từ mạn tàu lên bờ. Nhưng chợt thấy Becky đội chiếc
mũ hồng đứng mỉm cười diễu cợt nhìn mình, bà này bỗng thấy khỏe mạnh hẳn lên.
Bà liếc nhìn Becky với cặp mắt khinh miệt đủ khiến cho mọi người đàn bà khác
phải chui xuống đất vì hổ thẹn, rồi rảo bước tiến về phía phòng quan thuế không
cần ai nâng đỡ. Becky chỉ cười nhưng chắc trong thâm tâm cô ta cũng không vui
vẻ gì. Bây giờ cô ta cảm thấy mình trơ trọi, hoàn toàn trơ trọi. Không còn hy
vọng gì qua được cái vách đá sáng lóng lánh của nước Anh, xa tít tắp kia mà về
nước nữa rồi.
Thái độ đàn ông đối với cô ta bây giờ cũng đổi
khác thế nào ấy. Gặp Becky, Grinstone nhe bộ răng trắng nhởn ra cười, và ăn nói
suồng sã một cách khó chịu. Mới ba tháng trước đây cái anh chàng bé nhỏ Bob
Suckling hễ thấy cô ta là vội ngả mũ cầm tay chào thật lễ phép; khi ấy anh ta
sẵn sàng đi bộ một dặm đường dưới trời mưa tầm tã cốt đến phố Gaunt nhìn mặt
Becky ngồi trong xe ngựa một tý.
Một hôm Becky đi chơi trên kè đá gặp anh ta
đứng nói chuyện với Fitzoof, sĩ quan ngự lâm quân (con trai bá tước Heehaw);
anh chàng Bobby ngoái cổ lại khẽ gật đầu chào cô ta một cái chiếc mũ vẫn úp lù
lù trên đầu, cũng không thèm tạm ngừng câu chuyện đang nói dở với bạn. Tom
Raikes thì có lần định mò vào tận phòng khách của Becky, mà trên mồm vẫn phì
phèo điếu xì gà. Cô ta đóng sập cửa lại, chỉ hận một điều là không kịp làm cho
anh chàng bị kẹp nát ngón tay. Becky bắt đầu cảm thấy từ nay mình hoàn toàn trơ
trọi.
Cô ta tự nhủ: “Ôi chao, nếu anh ấy có mặt ở
đây, cho ăn kẹo mấy thằng hèn nhát này cũng không dám lếu láo với mình”. Becky
nghĩ đến “anh ấy” trong lòng buồn bã quá thể, và có lẽ lúc này cô ta đang nhớ
tiếc con người hiền lành, đần độn, nhưng rất mực ngoan ngoãn và chung tình, nhớ
tiếc con người luôn luôn vâng lời vợ, luôn luôn vui tính, và can đảm. Không
biết chừng Becky đã khóc, vì lúc xuống nhà dùng bữa tối, thấy cô ta vui vẻ hẳn
lên một cách khác thường, đánh phấn hồng bôi môi thật lộng lẫy.
Hồi này ngày nào Becky cũng đánh phấn bôi môi
cẩn thận, và và ngoài số rượu cô-nhắc có tính trong hóa đơn của khách sạn, cô
ta còn bảo chị hầu gái mua ngoài để dùng thêm.
Đối với Becky, có lẽ sự bỉ báng của bọn đàn ông
không đáng giận bằng thái độ thương hại của nhiều người đàn bà khác. Bà
Crackenbury và bà Washington White nhân sang Thụy Sĩ có đi qua Boulogne (cuộc
du lịch này do đại tá Horner và anh chàng Beaumoris tổ chức, dĩ nhiên có cả ông
già Crackenbury và cô con gái nhỏ của bà White cùng đi). Họ lại không tránh mặt
Becky mới lạ chứ. Họ chỉ tíu tít cười nói, rồi thăm nom, rồi an ủi với thái độ
hết sức kẻ cả, kỳ cho cô ta uất đến điên người lên được. Sau khi hôn Becky để
từ biệt, họ vừa đi vừa cười với nhau, Becky nhìn theo nghĩ thầm: “Cái bọn chúng
nó mà lại dám lên mặt ta đây với mình”. Từ cầu thang gác còn vẳng lên tiếng
cười của anh chàng Beaumoris, Becky hiểu rõ ý nghĩa cái cười ấy lắm. Becky vẫn
thanh toán tiền phòng đều đặn hàng tuần, vẫn tỏ ra khả ái đối với tất cả mọi
người ở đây; gặp bà chủ khách sạn bao giờ cô ta cũng mỉm cười chào; nói với bọn
hầu phòng và hầu ăn thì một điều thưa hai điều gửi tử tế, thái độ này bù đắp
lại rất nhiều thói keo kiệt của cô ta (xưa nay Becky vẫn keo kiệt), thế mà sau
cuộc viếng thăm nói trên, đột nhiên Becky nhận giấy báo của ông chủ khách sạn
yêu cầu cô ta dọn đi chỗ khác, vì có người cho biết là không nên để cho hạng
người như Becky ngụ tại khách sạn này và vì các bà thượng lưu người Anh không
chịu cùng ngồi ăn với cô ta.
Thành thử Becky bắt buộc phải đi trọ nơi khác;
không gì khiến cô ta chán nản bằng phải sống ở nơi tiêu điều vắng vẻ. Mặc dầu
bị vấp váp như vậy, Becky vẫn còn chống trọi, vẫn tìm cách gây dựng lại tín
nhiệm cho bản thân, cố xóa bỏ lời miệng thế gièm pha. Cô ta chịu khó đi lễ nhà
thờ rất chăm chỉ, lại hát to hơn mọi người. Becky còn bỏ tiền ra làm việc
thiện, giúp đỡ vợ con những người dân chài bị đắm thuyền chết đuối, lại cùng
vào Hội truyền giáo Quashyboo nhiều bức vẽ và đồ thêu. Cô ta ghi tên hưởng ứng
rất nhiều việc từ thiện, và không bao giờ chịu khiêu vũ theo điệu van-xơ. Tóm
lại, Becky chịu làm tất cả những việc gì gọi là đáng kính; chính vì thế chúng
tôi thích đặc biệt nhấn mạnh đến đoạn đời này của cô ta hơn là thời kỳ trước,
vì hồi ấy, cuộc sống của Becky không được đẹp đẽ bằng. Bị thiên hạ tránh mặt
nhưng cô ta vẫn kiên nhẫn mỉm cười tươi tỉnh với mọi người. Nhìn vẻ mặt bề
ngoài, đố bạn có thể lường được trong thân tâm Becky đau đớn tủi nhục đến thế
nào.
Nói cho cùng, cuộc đời của Becky thật là một
điều bí mật; đối với hành vi của cô ta, người đời chia làm hai phe, khen có,
chê có.
Một số người đa sự nhất định lên án Becky là hư
hỏng, trong khi lại có một số người khác cả quyết rằng cô ta ngây thơ trong
trắng như một con cừu non, và bao nhiêu tội lỗi là ở anh chồng gây ra hết. Thấy
Becky khóc nức nở mỗi lần nghe ai nhắc đến tên con trai, hoặc tỏ vẻ rầu rĩ âu
sầu khi nhìn thấy đứa trẻ nào giống con mình, nhiều người đâm ra thông cảm.
Bằng thủ đoạn này, Becky đã chinh phục được cảm tình của bà Alderney; bà này
hầu như được coi là nữ hoàng của những người Anh sống ở Boulogne; ở đây bà là
người mở tiệc và tổ chức dạ hội thết đãi khách khứa nhiều nhất.
Lần cậu bé Alderney trọ học tại trường của
Swishtail tiên sinh nghỉ hè về thăm nhà, Becky nghẹn ngào khóc bảo với Alderney
thế này:
“Chú bé nhà ta cùng tuổi với cháu Rawdy, mà nom
giống nhau quá cơ,” Thật ra hai đứa chênh lệch nhau đến năm tuổi, còn chuyện
diện mạo thì chúng giống nhau cũng như kẻ hèn mọn viết truyện này giống bạn độc
giả đáng kính mà thôi. Nhân ra nước ngoài để đến Kissingen tìm hầu tước Steyne,
Wenham đã cho bà Alderney biết sự thực về chuyện này. Hắn nói với bà ta rằng
hắn có thể tả lại hình dáng thằng Rawdy đúng hơn chính mẹ nó, vì thiên hạ ai
cũng thừa biết Becky ghét con trai như đào đất đổ đi, có nhìn mặt nó bao giờ đâu.
Hắn kể thêm rằng thằng Rawdy lên mười ba, mà Alderney thì mới lên chín, thằng
Rawdy khá xinh xắn, còn thằng bé kia thì tóc đen. Tóm lại Wenham làm cho người
đàn bà tiếc mãi vì nỗi mình cả tin.
Cứ mỗi lần Becky vất vả xây dựng được cảm tình
của một vài người đối với mình, thì lại có một kẻ ở đâu đến tàn nhẫn đạp đổ đi;
thế là cô ta phải làm lại từ đầu. Công việc thật là vất vả, vô cùng vất vả;
đáng buồn hơn nữa là không được một ai giúp đỡ.
Đã có một hồi bà Newbright đi lại thân mật với
Becky, vì bị hấp dẫn bởi giọng hát ngọt ngào của cô ta ở nhà thờ; hơn nữa bà
này lại thấy Becky có nhiều ý kiến xác đáng đối với những vấn đề tôn giáo;
những ngày sống ở trại Crawley Bà chúa, Becky đã có dịp học hỏi nhiều về những
vấn đề này. Cô ta bằng lòng nhận những cuốn sách tôn giáo bà này đưa cho, lại
đọc cẩn thận. Becky còn may những tấm váy bằng len để tặng phái đoàn truyền
giáo Quashyboo, may những chiếc mũ vải bông gửi cho thổ dân da đỏ ở Cocoanut,
vẽ những cái quạt giấy gửi chúng vào công cuộc cải đạo cho người Do- thái của
đức Giáo hoàng. Hàng tuần, cứ ngày thứ tư, Becky đi nghe ông Rowls giảng đạo,
thứ năm đi nghe ông Huggleton, chủ nhật đi lễ nhà thờ hai bận, không kể buổi
tối lại nghe ông Bawler thuyết giáo.
Nhưng tất cả đều vô ích. Bà Newbright có dịp
trao đổi thư từ với bá tước Southdown phu nhân về công cuộc từ thiện của quỹ
cứu trợ “Cái lồng ấm” nhằm giúp đỡ những người thổ dân đảo Fiji (đối với công
cuộc từ thiện này, giới phụ nữ rất sốt sắng); trong một bức thư, bà này đã
không tiếc lời ca tụng người bạn yêu dấu của mình là bà Rawdon Crawley. Bà bá
tước bèn gửi một lá thư phúc đáp nói về Becky với đủ mọi chi tiết đặc biệt kèm
theo những lời bóng gió, những bằng chứng và những lời vu cáo, tóm lại khiến
cho mối giao tình thân mật giữa bà Newbright và bà Crawley đình chỉ ngay lập
tức.
Và từ đó mọi người Anh đứng đắn ở thành Tours,
nơi xảy ra sự việc tai hại này, cũng thôi hẳn không đi lại với con người bị
ruồng bỏ ấy nữa. Ai đã từng am hiểu sinh hoạt của người dân Anh ở nước ngoài
đều biết rằng đi đâu chúng ta cũng mang theo cả tính kiêu ngạo, những thành
kiến, món nước sốt, món ớt cay cùng đủ mọi thứ thói quen khác, tóm lại để dựng
thành một nước Anh-cát-lợi nho nhỏ ngay nơi chúng ta trú ngụ.
Rebecca bay chuyền từ nơi này đến nơi khác một
cách khá vất vả, từ Boulogne cô ta đi Dieppe, từ Dieppe đi Caen, rồi từ Caen
lại bỏ đi Tours... đến đâu cũng gắng hết sức sống một cuộc đời đáng kính; nhưng
than ôi! vẫn không sao tránh khỏi một ngày nào đó lại bị lũ quạ phát hiện và
đuổi ra khỏi tổ.
Trên con đường phiêu bạt, đã một lần Becky được
bà Hook Eagles đón về cho ẩn náu; bà này là một người đứng đắn, cả đời không hề
có tai tiếng gì, lại có một ngôi nhà riêng ở công viên Portman. Becky đến
Dieppe thì gặp bà ta cũng đang sống tại khách sạn ở đây. Lần đầu tiên hai bên
làm quen với nhau ngoài bờ biển, lúc cùng bơi trên mặt nước, sau đó lại gặp
nhau nhiều lần trong phòng ăn công cộng của khách sạn. Bà Eagles có nghe phong
thanh về câu chuyện giữa Becky và hầu tước Steyne (còn ai mà không biết đến
chuyện này nữa?) nhưng sau một buổi trò chuyện với cô ta, bà tuyên bố rằng
Becky là một vị thiên thần, còn anh chồng là một tên thô bỉ, hầu tước Steyne là
một thằng khốn nạn như tất cả mọi người đều đã rõ; tóm lại tất cả những âm mưu
bỉ ổi làm cho bà Crawley mất danh dự đều do bàn tay tên mặt hạng Wenham gây ra.
Bà Hook Eagles bảo chồng:
Này, ông Eagles, nếu ông quả thực là người có
lương tâm, thì lần sau gặp tên khốn nạn ấy ở câu lạc bộ, ông phải bạt tai nó
một cái hộ tôi.
Nhưng ông Eagles là một ông lão hiền lành, trời
sinh ra để làm chồng bà Eagles, chỉ thích nghiên cứu khoa địa chất học, và cũng
chẳng đủ cao lớn để với đến tai người khác mà bạt.
Thế là Becky được bà Hook Eagles che chở, đưa
về sống chung tại nhà riêng ở Paris! Bà Eagles còn cãi nhau cả với vợ viên đại
sứ Anh, vì bà này không chịu tiếp người được mình nâng đỡ; bà còn làm mọi việc
một người đàn bà có thể làm để giữ gìn tiếng tăm cho cô ta nữa.
Thoạt tiên Becky cũng chịu sống một cuộc đời
nền nếp, đứng đắn; nhưng rồi chẳng được bao lâu cô ta đã chán ngấy đến tận mang
tai cuộc sống “nhà lành” tẻ ngắt ấy. Ngày nào cũng như ngày nào, vẫn chỉ ngần
ấy chuyện lắp đi lắp lại, vẫn những tiện nghi nhạt nhẽo ấy, vẫn những cuộc
giong xe đi chơi trong cái khu vườn Boulogne chán chết, vẫn ngần ấy khách khứa
tiếp đãi buổi tối, vẫn những bài thuyết giáo trong cuốn Blair đọc tối chủ nhật,
và vẫn vở kịch Opera diễn đi diễn lại mãi không chán. Becky đang sắp chết vì
buồn nản thì may mắn làm sao cậu thanh niên Eagles từ trường đại học Cambridge
về thăm gia đình. Bà mẹ thấy cô bạn gái bé nhỏ của mình làm cho con trai xúc
động mạnh quá, bèn thẳng tay cảnh cáo Becky.
Sau đó, cô ta sống chung với một người bạn gái;
được ít lâu cặp này bắt đầu cãi lộn nhau, và mắc nợ. Becky bèn quyết định sống
cuộc đời ở trọ; cô ta đã sống ít lâu tại tòa nhà nổi danh của bà de Saint
Amour, ở phố hoàng gia thành Paris. Becky bắt đầu đem cái duyên dáng hấp dẫn
của mình ra thử với các cậu công tử quá thì và những đóa hoa khôi “nhuộm lại”
vẫn ra vào phòng khách của bà chủ trọ. Tính Becky ưa giao thiệp; thiếu khách
khứa cô ta không chịu nổi, chẳng khác gì anh nghiện thuốc phiện thiếu thuốc thì
ngáp dài ngáp ngắn, cho nên thời kỳ ở trọ tại đấy, cô ta cho là có hạnh phúc
nhất. Becky bảo với một người bạn cũ ở -Luân-đôn gặp lại đây thế này:
- Bọn đàn bà ở đây thú vị lắm, chẳng khác gì ở
May Fair; có điều áo họ mặc không đẹp bằng. Đàn ông đi găng tay trắng muốt,
nhưng cũng chỉ là một bọn thô tục chán mớ đời. Tuy thế họ cũng chẳng tồi tệ gì
hơn mấy đứa bên kia. Bà chủ nhà hơi thô bỉ thật, nhưng xét ra cũng chưa thô bỉ
bằng công nương...Cô ta nêu ra tên một bậc mệnh phụ đứng đầu giới phụ nữ thượng
lưu lịch sự; thà chết chứ tôi chả dám nhắc lại đây. Phòng khách của bà de Saint
Amour ban đêm thắp đèn sáng trưng. Đàn ông đeo toàn huy chương () ngồi đánh
bài, đàn bà ngồi riêng với nhau cách xa một chút, trước cảnh tượng ấy ai chẳng
bảo đây là nơi giải trí của xã hội thượng lưu, và bà chủ đích thị là một bá
tước phu nhân chính hiệu. Nhiều người cũng tin tưởng như vậy và một thời, Becky
đã là một trong số những bậc mệnh phụ lộng lẫy nhất ra vào phòng khách của bà
bá tước.
Nhưng có lẽ đám chủ nợ của Becky
Cô ta đến thăm Waterloo, và nghĩa địa Laeken.
Trông thấy nấm mộ của George, Becky xúc động mạnh. Cô ta lấy giấy bút ra ghi
lại hình ảnh nấm mộ, vừa nghĩ thầm: “Cái anh chàng si tình đáng thương làm sao!
Anh ta say mê mình ghê quá, mà anh ta cũng ngu ngốc không ai bằng. Không biết
Emmy có còn sống không nhỉ? Con bé cũng tốt bụng đấy, cả cái lão anh trai béo ị
của nó nữa. Mình vẫn còn giữ được cái tranh vẽ anh chàng béo, trông đến buồn
cười. Kể ra họ cũng là những người tốt”.
Becky đến Brussels được bà de Saint Amour giới
thiệu với một người bạn là bà bá tước de Borodino; bà này là vợ góa của bá tước
de Borodino, một viên tướng nổi danh của Napoléon. Người anh hùng này chết đi
chẳng để lại cho vợ được cái gì, ngoài cái nghề chứa trọ và gá bạc. Khách khứa
đến ăn và bỏ tiền ra chơi trò may rủi tại nhà bà bá tước de Borodino là những
cậu công tử bột và những tay trác táng () loại nhì. Những tay nổi tiếng trác
táng, những bà vợ góa thường thường là đang có việc kiện cáo, và đám người Anh
ngây thơ cứ tưởng tìm thấy ở đây một xã hội thượng lưu của lục địa. Mấy cậu
trai trẻ hào hoa này quăng tiền ra thết rượu sâm-banh tất cả mọi người có mặt
trong phòng ăn, giong xe ngựa đi chơi với phụ nữ, hoặc thuê ngựa cho họ đi du
ngoạn ở vùng quê, thuê hàng lô ghế tại rạp Opera, và xúm xít xung quanh những
đôi vai đẹp để trần của các bà các cô mà đánh cuộc với nhau trên chiếu bạc; thế
rồi họ viết thư về kể lại cho gia đình ở Devonshire rằng họ đang gặp nhiều may
mắn trong sự giao du với giới thượng lưu nước ngoài.
Cũng như tại Paris, ở đây Rebecca vẫn là một nữ
hoàng của các nhà trọ. Hễ ai mời cô ta uống rượu sâm-banh, tặng hoa cô ta, mời
cùng đi xe ngựa về vùng quê chơi hoặc ngồi ghế “lô” dành riêng trong rạp hát,
không bao giờ cô ta từ chối; nhưng Becky mê nhất cái thú đánh bài xì ban đêm...
mà cô ta chơi rất bạo. Mới đầu Becky chỉ đặt ít nhiều gọi là, dần dần đặt cửa
từng đồng năm trong một, rồi đến từng cọc đồng Napoléon, cuối cùng thì đến từng
sắp giấy bạc. Do đó, nhiều khi cô ta thua cháy túi không còn đủ trả tiền trọ
phải vay tiền của những chàng trẻ tuổi. Khi trong túi lại rủng rỉnh tiền, Becky
nói bà bá tước de Borodino không ra gì, nhưng lúc thiếu tiền chưa trả được thì
cô ta mơn trớn nịnh nọt nói ngọt cứ như mía lùi. Dần dần có lần Becky phải chơi
cò con, đặt cửa từng hào một, ấy là lúc đang cạn túi. Lại có những lần vừa nhận
được tiền trợ cấp xong, cô ta sẵn sàng thanh toán sòng phẳng đủ mọi khoản với
bà de Borodino, và hôm ấy cũng sẵn sàng, lại ăn thua với ông de Rossignol và
ông de Raff trên ghế bạc.
Một sự thực đáng buồn khi Becky rời khỏi
Brussels là cô ta còn thiếu lại bà de Borodino ba tháng tiền trọ () chưa trả.
Nhân thế bà bá tước de Borodino mới đem đủ các thứ chuyện về Becky ra kể lại
với bất cứ người Anh nào đặt chân đến cửa nhà bà: Nào là cô ta quỵt tiền trọ,
cô ta đánh bạc, cô ta uống rượu, cô ta quỳ xuống mà van lạy ông mục sư Muff, tu
sĩ Anh quốc giáo, để vay tiền, cô ta ve vãn tán tỉnh công tử Noodle, con trai
bá tước Noodle và là học trò của mục sư Muff, cô ta hay mời cậu này vào chơi
trong phòng riêng, và đánh bài với cậu này vớ được vô khối tiền... cùng hàng
trăm thủ đoạn đê tiện khác nữa; để kết luận, bà bá tước tuyên bố rằng bà Rawdon
quả thật là một con rắn độc()không hơn không kém.
Cứ như thế, người đàn bà này phiêu lưu nay đây
mai đó, đi cắm lều tại khắp các thành phố ở Âu châu, sống cuộc đời vô định y
như Ulysses hoặc tên Do thái lang thang ngày xưa. Càng ngày Becky càng đi sâu
vào con đường trụy lạc. Cô ta trở thành một người đàn bà “Bôhêm” thực thụ,
chung đụng cả với những hạng người mới gặp mặt cũng đủ khiến chúng ta dựng cả
tóc gáy.
Không có thành phố nào gọi là đông đúc một tý
mà thiếu mặt một bày lưu manh người Anh tụ tập để sinh nhai, tức là những người
vẫn được ông Hemp, lục sự, đọc tên trước tòa án của vị Bảo an đại quan. Nhiều
khi họ cũng là con cái các gia đình thượng lưu nhưng đã bị cha mẹ từ bỏ rồi.
Hạng người này chuyên ra vào các phòng chơi bi-a, các quán rượu, chuyên tổ chức
những cuộc đua ngựa và cầm đầu các sòng bạc. Họ là khách trọ của các nhà tù
giam, những người quỵt nợ... họ uống rượu rồi đi nghênh ngang ngoài đường... họ
gây sự đánh nhau, chửi nhau ầm ĩ... họ chuồn khỏi nhà trọ không thèm trả
tiền... họ đấu súng với các sĩ quan người Pháp, và người Đức...họ chơi bạc bịp
với ông Spooney, họ đi xe ngựa thật lịch sự đến sòng... họ thuộc lòng đủ mọi
mánh lới bịp bợm, túi rỗng không những cứ lẩn quất quanh bàn bạc kỳ bao giờ vớ
được một ông Spooney khác để lừa, hoặc đổi được một tờ ngân phiếu giả cho lão
chủ nhà hoặc cho lão chủ nhà băng người Do- thái nào đó mới chịu. Cái cảnh lên
voi xuống chó của đám người này trông thấy mà bật cười. Cuộc đời của họ hẳn
cũng có nhiều cái kích thích, Becky - chúng ta phải thú nhận như vậy- đã lăn
vào cuộc đời ấy mà không phải là với thái độ miễn cưỡng đâu. Cùng với đám người
“Bôhêm” này, cô ta lang thang từ tỉnh này sang tỉnh khác. Kháp các sòng bạc
nước Đức khét tiếng bà Rawdon vận đỏ. Cô ta và bà de Cruchecassee cùng trọ
chung một nhà với nhau ở Florence. Nghe đồn rằng chính quyền thành phố Munich
đã ra lệnh bắt cô ta phải đi khỏi nơi này. Một người bạn tôi là ông Frederick
Pigeon xác nhận rằng chính tại nhà Becky ở Lausanne, ông ta đã bi chuốc rượu
cho say bí tỷ, rồi đánh bài mất toi với thiếu tá Loder và ngài Deuceace tám
trăm đồng. Xin các bạn biết cho rằng chúng tôi bắt buộc phải kể lại đoạn đời
này của Becky, nhưng có lẽ về chuyện này, càng nhắc đến ít bao nhiêu càng tốt
thì phải.
Có người kể lại rằng khi nào Rebecca gặp vận bĩ
thì cô ta lại mở lớp âm nhạc, hoặc mở những cuộc hòa nhạc để kiếm kế sinh nhai.
Một lần thấy quảng cáo có bà de Raudon tổ chức biểu diễn âm nhạc () ở Wildbad,
với sự cộng tác của Herr Spoff, đệ nhất tài tử dương cầm trong đội nhạc công
của phó vương Wallachia. Anh bạn Eaves của tôi, con người biết khắp mặt thiên
hạ trên đời này, và cũng đã từng đi chu du khắp đó đây, thường nói chuyện rằng
vào năm 1830 anh ta đến Strasburg chơi, có thấy một bà Rebecque nào đó xuất
hiện trên sân khấu rạp ca vũ. Bà Blanche, lần ấy bà này bị khán giả la ó cực kỳ
dữ dội. Họ hò reo huýt sáo làm cho người đàn bà này phải chuồn ngay khỏi sân
khấu, một phần vì nhà nghệ sĩ quá vụng về, nhưng chủ yếu là vì một số khán giả
ngồi ở khu vực ghế hạng nhất () đã biểu lộ cảm tình một cách quá lộ liễu (chỗ
này đặc biệt dành riêng cho các sỹ quan trong doanh trại). Eaves chắc chắn rằng
nhà nghệ sĩ mới vào nghề () không may ấy, đích thị là bà Rawdon Crawley chứ
không còn ai nữa.
Sự thực là bây giờ Rebecca đã trở thành một con
người giang hồ phiêu bạt thực thụ; kiếm được đồng nào, cô ta mang đánh bạc hết,
mà hễ thua cháy túi, là cô ta dùng mọi thủ đoạn để xoay bằng ra tiền để lại đem
đánh bạc; đố ai biết cô ta còn từ thủ đoạn gì không dùng để làm tiền? Cũng có
người đồn rằng một lần gặp Becky ở St. Petersburg, nhưng ngồi chưa nóng chỗ, cô
ta đã bị sở cảnh sát trục xuất thẳng cánh; vì thế có lẽ tin đồn Becky sau này
là một nữ điệp viên của Nga ở Toplitz và Vienna cũng không có căn cứ gì. Chính
tôi cũng được có người cho biết rằng ở Paris, Becky có gặp người nhà; chẳng
phải ai khác, chính là bà ngoại của cô ta. Bà lão không hề là con cháu dòng họ
Montmorenci bao giờ, chỉ là một bà già xấu xí nom đến tởm làm nghề đưa chỗ ngồi
trong một rạp hát tại “Phố lớn”. Cuộc gặp gỡ giữa hai bà cháu nhất định phải
cảm động như một số người hình như được chứng kiến đã kể lại. Kẻ chép truyện vì
thiếu tài liệu đích xác nên không dám tả lại ở đây.
Một lần ở La Mã, Rebecca vừa lĩnh món tiền trợ
cấp sáu tháng của mình tại một nhà ngân hàng lớn trong thành phố, nhà tài phiệt
này có lệ hàng năm, vào mùa đông đều có tổ chức dạ hội để mời các khách hàng có
tài khoản tại nhà ngân hàng từ năm trăm đồng ê-quy trở lên. Nhân thế, Becky có
hân hạnh vớ được một tấm thiếp mời đến dự một buổi chiêu đãi rất sang trọng của
thân vương Polonia và quận chúa. Bà quận chúa thuộc dòng dõi gia đình Pompili
tức là ăn về ngành trưởng chi họ đệ nhị hoàng đế La Mã và công chúa Egeria
thuộc hoàng gia Olympus. Còn ông nội thân vương là Alessandro Polonia thì làm
nghề bán xà phòng, dầu thơm, thuốc lá và khăn tay lại kiêm thêm nghề đưa thư
cho các ông sang trọng để kiếm tiền và cho vay lãi vặt. Giới tai mặt khắp thành
phố La Mã chen chúc nhau xô đến phòng khách của thân vương Polonia...Đủ mặt các
bậc vương công, các vị đại sứ, các nhà nghệ sĩ tài danh, các tay nhạc công và
cả những cậu trai trẻ có người đỡ đầu giới thiệu...nghĩa là khách khứa thuộc đủ
mọi tầng lớp trong xã hội. Phòng khách của thân vương bài trí cực kỳ rực rỡ huy
hoàng, chỗ nào cũng thấy lóng lánh toàn những bức tranh lồng trong khung mạ
vàng và những thứ đồ cổ khả nghi. Trên tất cả các mái nhà, cánh cửa cũng như
mặt tường, la liệt những huy hiệu đồ sộ mạ vàng của ông hoàng chủ nhân; một cái
nấm bằng vàng trên nền đỏ thẫm (tức là nhãn hiệu loại khăn tay do ông ta sản
xuất) và một cái vòi nước bằng bạc (tức là huy hiệu riêng của gia đình
Pompili). Trên chiếc riềm màn đồ sộ bằng nhung đỏ, dành riêng để tiếp đón đức
Giáo hoàng và Hoàng đế, cũng có đính một tấm huy hiệu sáng quắc.
Thế là Becky vừa từ Florence đi xe ngựa thuê
đến trọ tại một quán trọ tầm thường cũng nhận được một tấm thiếp mời dự đại
hội. Hôm ấy chị hầu gái của cô ta ra sức mà trang điểm cho chủ thật cầu kỳ.
Đoạn Becky khoác tay thiếu tá Loder đến dự buổi đại hội long trọng. Hồi này
thiếu tá với Becky tình cờ thành đôi bạn đồng hành trên bước đường phiêu lưu
(hắn cũng chính là người năm sau đã bắn chết hoàng tử Ravoli ở Naples trong một
cuộc đọ súng tay đôi, và cũng đã bị bá tước John Buckskin đánh cho mấy gậy vì
tội giấu mấy con “xì” trong mũ định giở trò gian lận trong lúc đánh bài). Cặp
trai gái này cùng tiến vào phòng hội; Becky gặp lại vô số bộ mặt quen thuộc cũ
hồi cô ta đang còn được hưởng những ngày hạnh phúc, tức là thời kỳ cô ta không
phải là vô tội, nhưng chưa bị ai khám phá ra là có tội.
Thiếu tá Loder cũng gặp lại một số bạn cũ người
ngoại quốc, bọn này để bộ râu dài nhọn hoắt, có đôi mắt sáng quắc, bận quần áo
tầm thường, trên ve áo có đính những chiếc cuống huy chương đã bạc màu. Ta để ý
thấy người Anh nào có mặt trong phòng hội cũng tìm cách tránh mặt anh chàng
thiếu tá. Lác đác Becky cũng gặp lại vài bà sang trọng quen biết, tức là mấy bà
góa người Pháp, mấy bà bá tước người Ý bị chồng đối xử không ra gì... (không
biết có thật không; ôi chao... chúng ta đã từng được tiếp xúc với những con
người thượng lưu cao quý trong Hội chợ phù hoa, vậy nói đến cái bọn lưu manh
mạt hạng này làm quái gì. Nếu chúng ta đánh bài, nhớ dùng cỗ bài mới nguyên,
thật sạch, chớ có đụng đến những cỗ bài cáu bẩn. Ai đã từng có dịp du lịch đây
đó, thế nào cũng có ngày gặp những tên thổ phỉ không chính quy này, chúng cứ
bám nhằng nhằng lấy đội quân du lịch chủ lực; chúng ăn mặc sang trọng như ông
hoàng, huênh hoang toàn những chuyện công to việc lớn, nhưng trong bụng chỉ lăm
le cướp bóc người khác để mưu lợi cho mình và đôi khi ta thấy chúng bị treo cổ
bên lề đường.)
Becky ung dung khoác tay thiếu tá Loder đi thăm
các phòng hội, họ ra quầy rượu nốc sâm banh thỏa thích. Đây là chỗ khách khứa
chen lấn xô đẩy nhau dữ dội nhất, đặc biệt là mấy đám bè bạn của thiếu tá. Cặp
trai gái này giải khát đủ dùng rồi, bèn dắt nhau mò tới tận gian phòng khách
của bà quận chúa ở mãi tận cuối dãy phòng; gian phòng này căng toàn nhung màu
hồng quanh tường, có bày một bức tượng thần Vệ nữ soi bóng vào một tấm gương
cực lớn lồng trong khung bằng bạc. Đây là chỗ vị quý tộc chủ nhân dành riêng để
tiếp toàn những vị khách quý nhất. Họ ngồi dùng tiệc quanh một chiếc bàn tròn.
Becky nhớ lại rằng trước kia cô ta đã dự một bữa tiệc gồm toàn những khách chọn
lọc tương tự tại nhà hầu tước Steyne... bây giờ chính lão đang ngồi kia, ngay
cùng bàn với ngài Polonia, Becky nhìn thấy rõ ràng.
Vết sẹo do viên kim cương gây nên còn để lại
trên cái trán hói trắng bóng của lão một vạch đỏ. Lão đã nhuộm lại bộ râu đỏ
quạch của mình thành màu sẫm hơn, khiến cho sắc mặt lão vốn tai tái trông lại
càng thêm nhợt nhạt. Lão đeo đủ các thứ huy chương và bội tinh trên ngực. Giữa
đám thực khách, lão có vẻ là người quan trọng nhất, mặc dầu hôm ấy có mặt một
vị quận công, một bà quận chúa và các tiểu thư. Ngồi kề bên lão hầu tước là bà
bá tước Belladonna kiều diễm tục danh () là Glandier; chồng bà là bá tước Paolo
della Belladonna, rất nổi danh về một công trình sưu tầm các loại sâu bọ; ông
ta vắng nhà đã lâu, vì bận đảm nhiệm một sứ mệnh bên cạnh quốc vương Maroc. Gặp
lại bộ mặt quý phái quen thuộc kia, Becky đột nhiên cảm thấy thiếu tá Loder trở
thành thô tục quá sức, mà cái anh chàng đại úy Rook mới khiếp chứ, mồm sặc sụa
toàn mùi thuốc lá! Phút chốc Becky sống lại cuộc đời mệnh phụ trong quá khứ; cô
ta cố gắng lấy lại điệu bộ và sống lại tâm trạng như hồi còn ở khu May Fair.
Becky nghĩ thầm: “Cái con mụ kia mạt mũi đến ngờ nghệch, nom buồn buồn thế nào
ấy; mẽ người như thế, nhất định không sao làm cho hầu tước vừa ý được. Chắc
ngài đến phải phát ngấy... trước kia mình chưa bao giờ làm ngài chán”. Bao
nhiêu ý nghĩ đáng cảm động như vậy dồn dập kéo đến, những niềm hy vọng, những
nỗi e dè, những kỷ niệm đã qua, làm cho trái tim bé nhỏ của Becky rộn ràng đập
mạnh, trong lúc cô ta hướng đôi mắt sáng long lanh nhìn về phía nhà quý tộc (cô
đánh phấn hồng lên tận mí mắt, làm cho đôi mắt chiếu ra những tia sáng lấp
lánh).
Khi nào đeo đủ các thứ huy chương trên người,
hầu tước Steyne vẫn ưa những điệu bộ thật đường bệ, cách cử chỉ ăn nói đúng như
một ông hoàng. Nom cái cười nở nang của lão, cái dáng điệu thoải mái, sang
trọng, đường hoàng của lão, sao mà Becky cảm phục thế. Trời ạ! Ngài thật là một
người bạn tâm tình thú vị; con người mới thông minh tinh tế làm sao, nói chuyện
thật khéo, mà phong nhã không ai bằng. Thế mà bây giờ cô ta lại đi vớ lấy một
anh thiếu tá Loder sặc sụa mùi thuốc lá và rượu mạnh, cùng một anh chàng đại úy
Rook ăn nói bừa bãi, thô tục như một thằng bồi ngựa. Becky băn khoăn: “Không
biết hầu tước có còn nhận ra mình nữa không?!.
Vừa lúc ấy, hầu tước Steyne đang nói cười vui
vẻ với một người mệnh phụ ngồi cạnh, chợt ngẩng lên nhìn thấy Becky.
Bốn mắt gặp nhau. Becky run cả người vì hồi
hộp... Cô ta vội mỉm một nụ cười duyên dáng nhất và khẽ nghiêng đầu chào vừa có
vẻ nhút nhát, lại vừa có ý van lơn. Trong có đến một phút đồng hồ, lão đờ người
ra há hốc mồm nhìn trân trân vào mặt Becky, y như Macbeth khi thấy Banquo đột
nhiên hiện hồn về giữa lúc đang dự tiệc trong buổi dạ hội (). Lão cứ há mồm ra
mà nhìn mãi, thì vừa lúc cái anh chàng thiếu tá Loder gớm ghiếc kia đến nắm tay
Becky kéo đi.
Loder nói:
- Này Rebecca, ta sang bên phòng ăn đi; nhìn
bọn quý tộc họ chè chén với nhau, mình thấy nước bọt ứa ra đầy mồm. Ta sang bên
kia nếm mùi sâm-banh của lão già một tý cái đã.
Becky thầm nghĩ anh chàng thiếu tá đã nếm quá
đủ rượu sâm-banh của vị chủ nhà rồi.
Hôm sau, cô ta lại thẩn thơ dạo chơi trên đồi
Pincian; đây tức là công viên Hyde của những người dân La Mã nhàn hạ. Có lẽ cô
ta muốn nhìn lại mặt hầu tước Steyne một tý thì phải. Nhưng Becky chỉ gặp một
người quen khác là Fiche, tay chân thân tín của nhà đại quý tộc. Fiche gật đầu
chào cô ta có vẻ hơi suồng sã; hắn giơ một ngón tay lên vành mũ, tiến lại gần
nói: “Tôi biết thế nào cũng gặp bà ở đây. Tôi đã đi theo bà ngay từ lúc bà bước
ra khỏi khách sạn. Có một điều này muốn khuyên bà.”
Becky hỏi lại:
- Ông thay mặt hầu tước Steyne chăng?
Cô ta hết sức lấy dáng điệu thật kiêu hãnh,
trong lòng khấp khởi chờ đợi và hy vọng. Tên tay sai đáp:
- Không, lời khuyên của chính tôi. Thành phố La
Mã thời tiết độc lắm.
- Mùa này thì trời vẫn đẹp ông Fiche.
- Thưa với bà rằng ngay bây giờ cũng rất đáng
ngại. Đã nhiều người mắc bệnh sốt rét rồi. Ở đây mùa nào cũng có nhiều người
chết vì cái gió quỷ quái thổi từ vùng đồng lầy về. Này, bà Crawley, xưa nay bà
vẫn là người biết điều (), tôi rất quan tâm đến bà, xin lấy danh dự mà thề ()
như vậy. Bà nên cẩn thận. Hãy đi khỏi La Mã đi, tôi nói thật đấy... nếu bà
không muốn mắc bệnh mà chết.
Becky gượng cười, nhưng tưởng như muốn điên lên
vì tức giận.
- Thế nào, lại muốn ám sát một con người yếu ớt
đáng thương như tôi à? Chuyện lãng mạn đấy nhỉ! Có thật hầu tước thuê cả những
tên sát nhân làm tay chân và mang theo dao găm đầy hành lý không? Úi chào! Tôi
cứ ở lại đây, dẫu có vì thế mà ngài bực mình cũng chẳng sao. Trong thời gian
tôi ở đây, sẽ không thiếu người bênh vực cho tôi.
Lần này đến lượt Fiche tiên sinh phá ra cười:
- Bênh vực cho bà! Ai đấy nhỉ? Ông thiếu tá
chăng? Ông đại úy chăng? Bất cứ tên cờ bạc bê tha nào trong số bè bạn bà vẫn đi
lại đều sẵn sàng đánh đổi tính mệnh của bà lấy một trăm đồng đấy. Chúng tôi
biết nhiều chuyện hay lắm về thiếu tá Loder (hắn đâu còn là thiếu tá cũng như
tôi đâu còn là hầu tước nữa, thưa bà), nghĩa là những chuyện đủ đưa hắn vào
xà-lim hoặc nặng hơn thế nữa. Chuyện gì trên đời này chúng tôi cũng biết. Chỗ
nào chúng tôi cũng có bè bạn. Chúng tôi biết rõ cả hồi ở Paris, bà đi lại với
những ai, bà gặp lại những người nào trong gia đình. Được lắm, mời bà cứ việc
tròn mắt lên mà ngạc nhiên; đúng thế đấy, xin hỏi bà tại sao không một viên
lãnh sự Anh nào trên lục địa chịu cho bà gặp mặt? Ấy là vì bà đã trót làm mếch
lòng một người... Người đó không bao giờ tha thứ cho bà đâu... Nay gặp lại mặt
bà, cơn giận dữ của người ấy còn ghê gớm hơn trước nữa. Đêm qua về nhà, ngài
như người phát điên. De Belladonna phu nhân gây sự với ngài về chuyện bà, rồi mới
nổi cơn tam bành lên, khiếp quá.
- Ồ, thì ra bà de Belladonna sai ông đến đây
phải không?
Becky cảm thấy nỗi lo sợ do lời đe dọa vừa rồi
dịu đi đôi chút.
- Không phải đâu...bà ấy không dính dáng gì đến
việc này...bao giờ bà ấy chả hay ghen lồng ghen lộn lên như thế. Xin thưa bà
rõ, chính hầu tước phái tôi lại đây. Bà đã để cho ngài nhìn thấy mặt, thực là
vô cùng dại dột. Nếu bà nhất định ở lại đây, rồi bà sẽ phải hối hận. Nhớ kỹ lời
tôi nói đấy. Thôi đi đi. Kìa, xe của hầu tước sắp đến.
Fiche nắm cánh tay Becky kéo vội vào một con
đường nhỏ trong công viên; vừa lúc ấy, chiếc xe ngựa đồ sộ có treo huy hiệu hầu
tước Steyne ầm ầm dọc theo đại lộ chạy đến. Xe kéo bởi một cặp ngựa quý vô giá.
De Belladonna phu nhân ngồi trên đệm xe, đẹp lộng lẫy, nhưng vẻ mặt rầu rầu như
đang có chuyện bực mình, một cái ô trắng lắc lư xoay trên đầu, bà ta ôm trong
lòng một con chó non “Hoàng đế Charles”. Lão hầu tước Steyne nằm dài ra bên
cạnh, mặt mũi bơ phờ, mắt lờ đờ. Thỉnh thoảng, đôi mắt lão cũng sáng lên đôi
chút vì căm thù, vì giận dữ hoặc vì thèm muốn, nhưng bình thường thì đôi mắt ấy
không có chút ánh sáng nào, như đã quá chán ngán vì phải nhìn mãi cuộc sống mà
hương nhụy là bao nhiêu lạc thú và vẻ đẹp mỹ miều nhất đã bị lão già mệt mỏi và
bỉ ổi này hút hết cả rồi.
Chiếc xe lao vút qua trước mặt hai người.
Rebecca đứng núp sau một lùm cây còn ghé mắt nhòm theo. Fiche tiên sinh thì
thầm với cô ta:
- Hầu tước sẽ không bao giờ quên được câu
chuyện đêm qua, không bao giờ đâu. Becky nghĩ thầm:
- Âu cũng là một điều đáng an ủi.
Không biết lão hầu tước có ý định giết Rebecca
như lời Fiche tiên sinh nói không? Nhưng tên tay sai không muốn phải dùng đến
thủ đoạn giết người, hay là hắn chỉ có nhiệm vụ đe dọa Rebecca, cất buộc cô ta
phải rời bỏ thành phố La Mã, vì lão chủ có ý định lưu lại đây qua mùa đông, và
vì nhìn thấy mặt cô ta, lão càng đâm bực mình. Điều này không ai có thể nói
chắc được. Chỉ biết rằng lời đe dọa ấy có hiệu lực; người đàn bà xảo quyệt ấy
không còn dám tìm cách mon men đến ra mắt ông chủ cũ nữa. Còn Fiche thì sau khi
hầu tước Steyne chết, hắn quay về sống tại quê nhà, rất được mọi người kính
trọng, vì hắn đã mua được cái danh vị nam tước Ficci.
Mọi người hẳn còn nhớ cái chết đáng tiếc của
nhà đại quý tộc.
Ngài tạ thế tại Naples hai tháng sau khi cuộc
đại cách mạng Pháp năm 1880 nổ ra. Tin cáo phó đăng trên báo như sau: “Ngài
George Gustavus tôn kính, hầu tước Steyne, bá tước Gaunt, chúa lâu đài Gaunt,
tước đại quan Ai len, tử tước Hellborough, nam tước Pitchley và Grillsby, tước
tùy giá hiệp sĩ, bội tinh “Lông cừu vàng” Tây-ban-nha, đệ nhất đẳng bội tinh
Saint Nicholas Nga, bội tinh “Mặt trăng khuyết” Thổ Nhĩ Kỳ, tước Thị vệ đại
thần, Đại tá chỉ huy trung đoàn dân vệ trực thuộc Hoàng tử nhiếp chính, ủy viên
quản trị Hàn lâm viện Hoàng gia, ủy viên quản trị trường đại học “Tam vị nhất
thể” và học viện “Dòng tu sĩ áo trắng”... đã tạ thế vì bị xúc động quá mạnh
trước sự sụp đổ của Hoàng gia nước Pháp”.
Một tờ tuần báo dành riêng một mục kể lại bằng
những lời xưng tụng hùng hồn đức tính, tài năng, sinh hoạt huy hoàng và những
việc làm cao quý của hầu tước. Sinh thời hầu tước vẫn nhận có họ hàng với dòng
họ Bourbon nước Pháp; vốn tính đa cảm, ngài không thể sống nổi trước cái tai
họa ghê gớm gieo xuống đầu những người thân thích tôn quý của mình. Thi hài
ngài hầu tước được mai táng tại Naples, còn trái tim ngài - trái tim đã từng
rung động vì những tình cảm vô cùng cao đẹp - được bỏ vào trong một chiếc bình
bằng bạc đưa về lâu đài Gaunt.
Wagg tiên sinh viết trên báo: “Ngài chết đi,
quần chúng nghèo khổ và nền mỹ thuật mất một người che chở rộng lượng, xã hội
thượng lưu mất một thành viên tiêu biểu nhất, nước Anh mất một chính khách đại
tài, một nhà ái quốc cao quý nhất, v.v... v.v...”.
Người ta tranh cãi nhau kịch liệt về tờ di chúc
ngài hầu tước để lại. Một vụ kiện nổ ra nhằm buộc bà de Belladonna hoàn lại một
viên kim cương quý giá đặt tên là “Mắt thằng Do-thái”, mà lúc còn sống hầu tước
vẫn hay đeo ở ngón tay trỏ; người ta đồn rằng sau khi ngài từ trần, bà de
Belladonna đã tự ý rút ra đút túi.
Nhưng người bạn thân tín đồng thời là người
giúp việc của ngài là ông Fiche đã đứng ra làm chứng rằng hai ngày trước khi từ
trần, chính hầu tước đã tặng bà de Belladonna chiếc nhẫn kim cương này của
ngài, cùng những ngân phiếu quốc gia của thành Naples và nước Pháp, v.v.. Những
thứ này người ta tìm thấy trong ngăn kéo bàn giấy của hầu tước. Những người
thừa kế của ngài cho rằng người đàn bà vô tội kia đã tước đoạt, cứ nhất định
đòi hoàn lại.
Chương 65
LẠC THÚ VÀ VIỆC LÀM ĂN
Ngay sau buổi tái ngộ với cố nhân tại bàn quay
số, Joe ăn mặc thật chải chuốt thật chỉnh tề, mới sáng sớm đã thấy đứng trước
cửa khách sạn “Con Voi” hỏi thăm rồi. Anh ta thấy chẳng cần kể lại với ai trong
gia đình về câu chuyện gặp gỡ tối hôm trước, cũng chẳng muốn để ai cùng đi với
mình. Nhân dịp có đại hội, khách sạn này cũng chật ních những khách, dãy bàn kê
ngoài thềm khách ngồi quây xung quanh hút thuốc lá và uống rượu bia. Trong
phòng khách sạn khói thuốc bay mù mịt; với điệu bộ long trọng thường ngày, Joe
đem hết cái vốn liếng tiếng Đức nghèo nàn của mình ra để hỏi thăm người đẹp
mình đang muốn tìm; người ta mách rằng phải leo lên tận tầng trên cùng của
khách sạn. Tầng thứ nhất là chỗ ở của người bán hàng rong; họ đang bày ra đủ
các thứ đồ trang sức và các loại gấm để chào khách. Tầng thứ hai là Sở chỉ huy
() của công ty phụ trách các trò chơi may rủi trong đại hội. Một đám lốc nhốc
toàn những tài tử “Bôhêm” nổi tiếng làm trò nhào lộn ngụ ở tầng thứ ba. Thành
ra Becky đành phải ngụ ở tầng trên cùng.
Những căn buồng bé tý ở đây dành cho các cậu sinh
viên, các tay làm nghề chào hàng, các bác bán hàng vặt và những nông dân các
nơi kéo về xem hội. Chưa bao giờ thấy một mỹ nhân phải chui rúc ở một nơi bẩn
thỉu đến thế.
Nhưng Becky rất bằng lòng; cô ta cảm thấy hết
sức thoải mái giữa đám người sống ở đây, nghĩa là các bác bán hàng rong, các
nghệ sĩ nhào lộn, các cậu sinh viên,v..v... Cô ta thừa hưởng được cái tính bừa
bãi lang thang “gia truyền”, vì cả bố và mẹ cô ta đều là những tay “Bôhêm” do
hoàn cảnh tạo nên đồng thời cũng do sở thích. Nếu như không có mặt nhà quý tộc
đứng đấy, Becky sẵn sàng trò chuyện với tên gia nhân một cách cực kỳ thân mật.
Ngay những khi gặp vận áo xám, không còn lấy một đồng một chữ để trả tiền trọ,
Becky cũng vẫn cảm thấy người mình rậm rật một cách thú vị vì bị kích thích bởi
cái ồn ào sôi nổi của khách sạn, cái không khí hút sách chè chén, những tiếng
trò truyện tục tĩu của các bác bán hàng rong người Do-thái, cái điệu bộ long
trọng, huyênh hoang của mấy tay làm nghề nhào lộn đáng thương, cái ngôn ngữ bí
hiểm của bọn nhà cái chuyên nghiệp cờ bạc, những bài hát và lối ăn nói một tấc
đến trời của các cậu sinh viên. Bây giờ cái không khí ồn ào ấy đối với Becky
càng đáng yêu biết bao.
Joe vừa leo hết bậc thang cuối cùng, mệt bở hơi
tai, tưởng không thở được nữa; anh ta đứng ở đầu cầu thang rút khăn tay lau mồ
hôi rồi mới đi tìm phòng số 93 tức là cái tổ của con chim xanh anh ta đang tìm
đến. Cánh cửa gian phòng số 90 để mở, Joe nhìn vào thấy có một cậu sinh viên đi
ủng cao cổ, bận một chiếc áo dài () cáu ghét để phanh ngực không cài khuy đang
nằm ườn ra trên giương mồm ngậm một chiếc tẩu thuốc dài ngoẵng. Một cậu sinh
viên khác có bộ tóc bờm sờm, mặc một chiếc áo rất đẹp mà cũng rất bẩn đang quỳ
trước cửa phòng số 92, ghé mồm vào lỗ khoá kêu ầm lên mà khẩn khoản điều gì với
người ở trong phòng. Có tiếng người nói ra, giọng nói quen thuộc làm cho Joe
hồi hộp làm sao:
- Thôi xéo đi, tôi sắp có khách đây. Ông nội
tôi sắp đến chơi, đừng có giơ cái mặt ra để ông nội tôi nom thấy.
Cậu sinh viên đang quỳ mọp, có bộ tóc soăn soăn
màu nâu, tay đeo những chiếc nhẫn kếch xù, gào ầm lên.
- Nàng tiên Anh-cát-lợi của tôi ơi! Hãy thương
chúng tôi một tý nào. Thì hẹn cho chúng tôi gặp lúc khác vậy. Thế nào cũng ra
công viên chén với tôi và Fritz một chầu nhé. Chúng mình sẽ gọi rượu mạnh, chim
quay, pa-tê và cả rượu vang Pháp nữa. Nàng không bằng lòng thì chúng tôi chết
ngay cho mà xem đây này. Phải chúng tôi chết thật đấy.
Vị quý tộc trẻ tuổi nằm dài trên giường cũng
góp ý kiến, Joe nghe loáng thoáng câu chuyện họ nói với nhau vừa rồi, nhưng không
hiểu rõ ý nghĩa, vì anh ta chưa bao giờ có dịp học thứ tiếng họ dùng để trao
đổi với nhau.
Thở xong, lúc đã nói được ra lời, Joe mới lấy
điệu bộ thật đường bệ, hỏi:
- Làm ơn tỉ đúp sú tín mui hai tua gài!()
- Sú tín mui hai ().
Anh chàng sinh viên vừa nhại vừa đứng bật dậy,
nhảy biến vào trong phòng của mình, cài then cửa lại. Joe còn nghe tiếng anh ta
cười rũ ra với người bạn nằm trên giường.
Trước cử chỉ kỳ quái của họ, vị công chức xứ
Belgan đờ người ra vì ngạc nhiên. Vừa lúc ấy, tự nhiên thấy cánh cửa phòng số
92 mở ra, cái đầu bé nhỏ với bộ mặt láu lỉnh của Becky lấp ló sau khe cửa; nhìn
thấy Joe, cô ta vội bước ra nói:
- Thì ra anh. Gớm, em đang sốt ruột lên vì đợi
anh đấy. Khoan đã, đừng vào vội... chờ em một phút đã.
Cô ta quay vào vớ lấy cái bình phấn, chai rượu
mạnh và chiếc khay trên có mấy miếng thịt ăn dở, nhét xuống dưới nệm giường rồi
quay ra lấy cái lược chải vội mớ tóc, xong đâu đấy mới mời ông khách vào trong
phòng.
Tấm áo buổi sáng cô ta bận trên người là một
tấm áo ngủ rộng lùng thùng, màu hồng đã bạc phếch và dây nhiều vết bẩn, lại có
cả vết kem dính nhớp nháp. Nhưng đôi cánh tay Becky lấp ló trong tay áo rộng
nom thật khêu gợi, vẫn rất đẹp và trắng nõn nà.
Tấm áo có dây lưng lại bó khít lấy cái lưng
thon thon, thành ra nó vẫn làm tôn vẻ đẹp của bộ mặt người mặc áo. Becky nắm
tay Joe kéo vào trong phòng nói:
- Vào đây, vào đây nói chuyện với em đi. Anh
ngồi xuống ghế kia.
Cô ta xiết mạnh bàn tay của anh chàng một cái,
rồi vừa cười vừa đẩy anh chàng ngồi xuống ghế. Còn cô ta thì ngồi ngay lên mép
giường - dĩ nhiên là không ngồi lên đống chai lọ và khay thức ăn, bạn cứ yên
trí; giá Joe ngồi lên giường, thế nào anh ta cũng đè bẹp bất cả những thứ này -
Becky cứ ngồi thế mà hàn huyên với cố nhân. “Bao năm qua mà anh cũng không thay
đổi mấy nhỉ?”- Cô ta nói, mắt nhìn rất tình tứ.- “Em có thể nhận ra anh ngay
bất cứ ở đâu”. Sống giữa đám người tứ xứ mà được nhìn lại nét mặt trung thực
của người bạn cũ, thật là sung sướng quá.
Nói của đáng tội, lúc này cái bộ mặt trung thực
của Joe không có những nét chất phác cởi mở mà trái lại anh chàng đang có vẻ
bối rối và ngạc nhiên. Anh chàng cứ ngẩn người ra mà ngó cái gian phòng kỳ
quái, nơi cố nhân của mình chọn làm tổ ấm. Một chiếc áo vắt ở thành giường, một
chiếc khác móc ngay vào quả đấm sứ ở cánh cửa. Chiếc mũ của Becky che lấp một
nửa tấm gương trên bàn, kê sát giường, vứt lăn lóc một cuốn tiểu thuyết Pháp,
cạnh một cây nến, không phải thứ nến làm bằng sáp ong, Becky định nhét nốt cả
cuốn sách xuống nệm giường, nhưng vội quá nên chỉ lấy mảnh bìa vẫn dùng để chụp
lên cây nến tắt đi trước khi ngủ để che lấp. Becky nói tiếp:
- Em có thể nhận ra anh ngay bất cứ ở đâu; có
những điều mà đàn bà chúng em không bao giờ quên được. Vả lại, chính anh là
người đầu tiên em... em biết đến trong đời.
Joe đáp:
- Tôi à? Có thật không? Lạy Chúa; thế mà cô
chẳng nói cho tôi biết.
Becky đáp:
- Hồi em ở Chiswick cùng em gái anh đến nhà ta,
em còn trẻ con lắm, đã biết gì đâu. Bây giờ chị Amelia yêu quý của em ra sao?
Gớm, chồng chị ấy thật đến tồi; chị ấy đã có lần ghen với em đấy, làm như em
thèm chú ý đến anh ta không bằng. Hô hô! Trong khi em đang có một người...
nhưng thôi, ta chẳng nên nhắc đến chuyện cũ làm gì.
Vừa nói, cô ta vừa đưa chiếc khăn tay có viền
một hàng đăng- ten tả tơi lên chùi mắt.
Rồi Becky lại nói tiếp:
- Một người đàn bà như em đã quen sống trong
một xã hội khác hẳn, bây giờ lại đi chui rúc vào xó xỉnh này mà ở, chắc anh
cũng thấy đáng ngạc nhiên? Anh Joseph Sedley ạ, em đã từng bị nhiều nỗi buồn
phiền đau khổ giày vò. Trời đã bắt tội em phải đau khổ quá nhiều, có những lúc
tưởng phát điên lên được anh ạ. Cho nên em không sao ở yên một chỗ, cứ lang
thang hết chỗ này đến chỗ khác mà chẳng bao giờ có hạnh phúc. Bè bạn ai cũng
phản bội em...tất cả. Trên đời này khó lòng tìm được một người đàn ông trung
thực. Em là người vợ trung thành nhất đời, mặc dầu em lấy chồng là cực bất đắc
dĩ, vì đó là do sự sắp đặt của người khác... Nhưng anh chả cần để ý đến những
chuyện ấy làm gì. Lòng em thành thực, thế mà anh ấy nỡ chà đạp em, nỡ ruồng rẫy
em. Em là một người mẹ yêu quí con nhất đời. Em chỉ có một đứa con duy nhất,
đứa con yêu dấu, nó là nguồn hy vọng độc nhất, là niềm vui sướng độc nhất em ủ
ấp bên trái tim với tấm tình mẫu tử nồng nàn nhất trong đời... nó là cả cuộc
đời của em, là... là hạnh phúc của em; thế mà họ nỡ... nỡ cướp nó mang đi... họ
đã cướp nó mang đi...
Cô ta áp bàn tay lên trái tim, dáng điệu tuyệt
vọng vô cùng cảm động, rồi gục mặt xuống, nệm giường một lúc.
Chai rượu mạnh giấu dưới nệm chạm vào cái khay
đựng mẩu xúc xích ăn dở kêu lanh canh. Chắc hẳn hai thứ này thấy chủ đau đớn
quá, cũng bị xúc động. Hai cậu sinh viên Max và Fritz đang ghé tai vào sát cửa
ngạc nhiên lắng nghe tiếng Becky nức nở khóc trong phòng. Cả Joe nữa, thấy cố
nhân của mình trong tình trạng đáng thương như vậy anh ta vừa hốt hoảng vừa cảm
động. Bấy giờ Becky mới bắt đầu kể lại cuộc đời của mình...nghĩa là cô ta dựng
lên một câu chuyện có đầu có đuôi, một câu chuyện rất đơn giản, tự nhiên, đủ
khiến cho người nghe thấy rõ như ban ngày rằng ví thử có một vị thiên thần bận
áo trắng nào từ thiên đường bị giáng xuống trần để chịu đựng tất cả những sự
đau khổ do âm mưu đen tối của bọn quỷ sứ trên mặt đất gây ra, thì chính là con
người trong trắng... con người khốn cực, kẻ tử vì đạo “gần bùn mà chẳng hôi
tanh mùi bùn” trước mặt Joe, đang ngồi trên giường và cưỡi lên một chai rượu
mạnh.
Hai người ngồi trong phòng thân mật trò chuyện
tâm tình với nhau rất lâu. Trong câu chuyện, Becky tìm cách ngỏ cho Joe Sedley
biết (nhưng rất khéo léo, không làm cho anh ta mếch lòng hoặc sợ hãi) rằng trái
tim cô ta đã rung động lần đầu tiên khi tiếp xúc với chàng trai trẻ đầy hấp dẫn
này, rằng George Osborne quả có cái ý định kỳ quái là ve vãn cô ta, vì thế
Amelia mới nổi ghen, và giữa hai chị em bạn mới có sự xích mích nho nhỏ. Becky
nói thêm rằng mình không bao giờ có ý khuyến khích mối tình của anh chàng sĩ
quan bất hạnh, và từ buổi gặp gỡ lần đầu tiên đến nay, không giờ phút nào Becky
không nghĩ đến Joe; lẽ dĩ nhiên không phải vì thế mà cô ta không làm trọn bổn
phận của một người vợ hiền; bổn phận ấy Becky vẫn làm đầy đủ, và rất sẵn sàng
thực hiện cho tới ngày mình trút hơi thở cuối cùng, hoặc cho tới ngày cái khí
hậu nổi tiếng khủng khiếp nơi trung tá Crawley nhậm chức kia sẽ giải thoát cho
cô ta khỏi cái ách gia đình đã trở thành quá sức chịu đựng vì tính tình tàn
nhẫn của người chồng.
Joe từ biệt ra về, hoàn toàn yên trí Rebecca là
một người đàn bà đức hạnh nhất, đồng thời cũng duyên dáng đáng yêu nhất đời;
anh ta sắp sẵn trong đầu hàng chục kế hoạch từ thiện nhằm xây dựng tương lai
cho người bạn gái. Phải chấm dứt hẳn sự hành hạ ấy đi mới được. Phải trả Becky
lại cho xã hội thượng lưu, vì trong xã hội ấy cô ta là một vật trang sức; Joe
phải đích thân thu xếp tất cả mọi sự, lo liệu cho Becky rời bỏ chỗ này, đến ở
một nơi yên tĩnh hơn; Amelia sẽ đến thăm và nối lại tình bạn, Joe phải đi sắp
xếp ngay và trao đổi với viên thiếu tá về việc này. Lúc hai người từ biệt nhau,
Becky khóc sướt mướt tỏ lòng biết ơn, xiết chặt lấy bàn tay của anh chàng béo
phị, còn Joe thì cúi rạp xuống mà hôn hai bàn tay Rebecca.
Và khi Joe bước ra khỏi gian phòng xép bé tý,
Becky cúi rạp xuống mà chào, dáng điệu lịch sự như thể đang tiễn anh ta ra khỏi
một cung điện lộng lẫy. Vị khách to béo vừa khuất bóng dưới cầu thang, đã thấy
hai cậu sinh viên Max và Fritz mồm ngậm tẩu thuốc chui ra khỏi phòng. Becky vừa
tiêu thụ nốt bữa ăn nguội gồm mấy miếng bánh mì vừa làm điệu bộ bắt chước cử
chỉ của Joe cho họ xem, có vẻ khoái trí lắm. Joe đến chỗ Dobbin ở, lấy dáng
điệu thật long trọng, kể lại với bạn câu chuyện cảm động vừa được nghe; lẽ dĩ
nhiên anh chàng không hé răng nói nửa lời về chuyện đánh bạc tối hôm trước. Hai
người bạn của chúng ta châu đầu lại bàn tán với nhau xem có cách gì giúp ích
được cho Becky không; trong khi ấy cô ta ung dung chén nốt bữa điểm tâm có thịt
() đang ăn dở ban nãy.
Vì đâu mà Becky lưu lạc đến tận cái thị trấn
nhỏ bé này? Vì đâu mà cô ta phải sống trơ trọi, không bè bạn thân thích, cứ
lang thang một mình, nay đây mai đó? Thì ngay khi mới đi học, trẻ em đã chẳng
thấy trong sách tập đọc tiếng La-tinh có nói đến cái dốc Avernus (). Chúng ta
hãy bỏ qua thời kỳ Becky bị trôi tuột xuống cái dốc ấy không cần nhắc lại làm
gì. Nói cho đúng thì bây giờ cô ta cũng chẳng đê tiện gì hơn so với thời kỳ
việc “làm ăn” còn đang “gặp vận”... Có điều hơi kém may mắn chút ít mà thôi.
Amelia vốn là người tính tính hiền hậu, hiền
hậu quá, có thể nói là dại dột, mỗi khi nghe nói có một người lâm vào cảnh
không may, lập tức cô thương cảm đến muốn chảy nước mắt ngay. Và cũng bởi lẽ từ
thuở lọt lòng mẹ đến giờ, bản thân cô chưa hề làm một việc gì, hoặc có một ý
nghĩ gì xấu xa, cho nên đối với kẻ phạm điều tội lỗi, cô không có cái thái độ
ghê tởm đặc biệt của một số các nhà luân lý từng trải hơn cô nhiều. Cô đối đãi
rất nhã nhặn, cô chúc tụng tất cả mọi người tiếp xúc với mình...Cô xin lỗi cả
bọn đầy tớ mỗi khi kéo chuông gọi họ sai bảo... Cô cảm ơn người bán hàng đã cho
mình xem một mảnh lụa... Cô cúi chào cả một người quét đường, và lịch sự khen
khu vực ngã ba đường của anh ta chăm sóc rất đẹp mắt... Amelia có thể làm tất
cả những công việc vớ vẩn như vậy đấy, cho nên thấy một người bạn cũ của mình
gặp cảnh sa sút, làm sao cô khỏi xúc động? Mà không cứ là bạn cũ, thấy ai khổ
sở, Amelia cũng thương. Một xã hội tổ chức theo nguyên tắc của tình thương như
thế, có lẽ không được trật tự lắm, nhưng ở đời, không mấy người đàn bà, nhất là
trong số những người cầm quyền, được như Amelia. Tôi có cảm tưởng rằng ví thử
Amelia có quyền hành, chắc cô sẽ huỷ bỏ hết mọi trại giam, mọi sự trừng phạt,
mọi thứ xiềng xích, roi vọt, mọi sự nghèo khổ, ốm đau, đói rách trên đời.
Hơn nữa, Amelia “đụt” đến mức - chúng ta đành
phải thú thực điều này - bị sỉ nhục tàn nhẫn cô cũng có thể quên ngay được.
Anh chàng thiếu tá không có vẻ quan tâm lắm đến
câu chuyện tái ngộ đầy thi vị của Joe như vị công chức xứ Belgan. Trái lại,
thái độ của Dobbin còn có vẻ bực bội. Anh ta thốt ra mấy câu nói không thích
hợp lắm đối với hoàn cảnh một người phụ nữ gặp cơn hoạn nạn:
- Thế là lại chạm trán với con bé quỷ quái ấy.
Từ trước đến nay, chưa bao giờ Dobbin có lấy
được tý chút cảm tình với Rebecca, mà có thể nói ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên,
khi đôi mắt xanh thẳm của Becky nhìn vào mắt anh rồi lại lảng đi nơi khác; anh
ta đã có ý ngờ vực rồi. Dobbin nói trắng ra chẳng cần dè dặt gì với các bạn thế
này: “Cái con quỷ cái ấy đi đến đâu là đem theo tai họa đến đấy. Ai biết được
hiện nay cô ta sinh sống ra sao. Cô ta lang thang một mình ở đây làm gì? Thôi
xin anh đừng nói đến chuyện bị hành hạ, bị thù ghét nữa đi. Đàn bà đứng đắn, ai
là chẳng có bè bạn, và có bao giờ lại cắt đứt hoàn toàn quan hệ với gia đình.
Thử hỏi tại sao cô ta bỏ chồng? Vâng, tôi công nhận anh nói đúng; hắn có thể là
con người tồi tệ, không ra gì, xưa nay hắn vẫn như thế. Tôi quên sao được trước
kia thằng cờ bạc bịp ấy vẫn bịt mắt George lấy tiền bỏ túi. Việc hai vợ chồng
nhà ấy bỏ nhau vì câu chuyện bẩn thỉu ra sao, người ta chả đồn ầm lên là gì?
Tôi biết, tôi biết lắm.” Dobbin bảo bạn vậy, mặc dầu xưa nay anh ta không phải
là người hay chú ý đến những lời miệng thế gièm pha. Joe ra sức biện hộ rằng
Becky là một người đàn bà đức hạnh mà phải chịu đựng sự bất công của người đời
về mọi mặt, nhưng vô ích.
Anh chàng thiếu tá giở khoa ngoại giao khéo léo
của mình ra:
- Được, được lắm, chúng ta hỏi ý kiến chị
George xem xao? Hãy để chị ấy quyết định hộ. Tôi nghĩ rằng dù sao anh cũng tin
ở sự phán đoán của Amelia, cô ấy có thể phân biệt sai đúng.
Joe vẫn không tương đắc với em gái, đáp:
- Hừ! Emmy thì biết quái gì!
Dobbin phản đối ầm lên:
- Biết quái gì à? Trời đất ơi ! Thưa ngài, đó
là người đàn bà khôn ngoan nhất tôi gặp trong đời đấy ạ. Tôi xin nhắc lại rằng
chúng ta chỉ cần đến hỏi ý kiến Amelia xem có nên đến thăm cô kia không... Tuỳ
chị ấy quyết định, thế nào tôi cũng xin vâng.
Trong thâm tâm anh chàng thiếu tá khôn ngoan
đáng ghét này chắc mẩm thế nào mình cũng thắng, vì anh ta còn nhớ đã một hồi
Emmy khổ sở vì ghen với Rebecca - mà ghen cũng có lý đến nỗi cứ mỗi khi nhắc
đến tên người bạn gái, Emmy lại rùng mình vì sợ hãi. Dobbin nghĩ thầm: “Đàn bà
đã ghen thì đố bao giờ biết tha thứ”.
Thế là hai người bạn cùng nhau sang chỗ ở của
Amelia bên kia phố, Amelia đang vui vẻ học hát với bà Strumpff.
Bà này vừa ra về, Joe lên giọng trịnh trọng như
mọi khi đi vào vấn đề:
- Cô Amelia thân mến... Anh vừa gặp một câu
chuyện kỳ lạ... phải, lạy chúa... một câu chuyện kỳ lạ nhất đời... một người
bạn cũ, phải,... một người bạn cũ thân quý nhất của cô, có thể nói rằng một
người bạn từ thờ xa xưa... cũng vừa đến đây, anh muốn cô đến gặp cô ấy một
chút.
Amelia hỏi:
- Cô nào thế? Kìa, thiếu tá Dobbin, khéo làm
gãy kéo bây giờ!
Dobbin đang cầm lấy sợi dây chuyền nhỏ Amelia
vẫn dùng để buộc chiếc kéo vào dây lưng mà quay quay chiếc kéo, đầu cúi xuống,
xuýt nữa đâm cả kéo vào mắt. Anh ta vẫn bướng bỉnh nói:
- Cái mụ đàn bà ấy tôi chúa ghét xưa nay, mà chị
thì cũng không có lý do gì mà ưa mụ ta được.
Amelia đỏ bừng mặt lên, có vẻ rất xúc động :
- Rebecca phải không? Đúng Rebecca rồi.
Dobbin đáp:
- Chị đoán không sai: Bao giờ chị cũng đoán
đúng.
Brussels, Waterloo, những năm quá khứ xa xưa,
bao nhiêu nỗi đau buồn, bao nhiêu kỷ niệm dồn dập kéo đến choán lấy trái tim
nhỏ bé của Amelia, khiến cho cô hồi hộp xúc động và đau đớn.
Emmy nói tiếp:
- Đừng bắt em đến gặp cô ta. Em không thể nhìn
mặt con người ấy đâu.
Dobbin bảo Joe:
-Tôi đã bảo anh, có sai đâu.
Joe giục:
-Bây giờ cô ấy khổ lắm và...và thế đấy, khổ
lắm. Cô ấy nghèo xơ xác, chẳng có ai che chở, lại ốm nữa, ốm nặng lắm, mà lại
bị cái thằng chó má kia bỏ rơi nữa chứ.
Amelia kêu lên:
- Ôi chao!
Joe khéo léo tiếp tục:
- Cô ấy trơ trọi không người nương tựa, cô ấy
bảo rằng chỉ có thể trông cậy vào cô nữa thôi. Emmy ạ, cô ấy khổ lắm, khổ quá,
đau đớn nhiều lúc tưởng phát điên lên được ấy. Nghe chuyện mà tôi cảm động
quá... thật đấy, xin lấy danh dự mà thề... Tôi có thể cam đoan rằng từ xưa đến
giờ chưa có ai ngoan ngoãn chịu đựng những sự hành hạ tàn nhẫn của người đời
được như cô ấy. Gia đình cô ấy đã đối đãi tàn tệ quá đáng.
Amelia nói:
- Đáng thương quá nhỉ!
Joe tiếp tục, giọng nói thấp xuống và hơi run
run:
- Cô ấy bảo rằng nếu không tìm được ai là bạn
trên đời này nữa thì có lẽ đến chết mất. Lạy chúa che chở cho linh hồn tôi! Cô
có thể tưởng tượng được có lần cô ấy định tự tử không? Cô ấy mang theo cả chất
nha phiến....tôi trông thấy cái lọ để trong phòng... căn phòng mới tồi tàn làm
sao... thuê trong một khách sạn hạng bét, khách sạn “Con Voi” ấy mà, mãi tầng
trên cùng sát mái nhà. Tôi đã đến đấy rồi.
Hình như câu chuyện không làm cho Amelia cảm
động mấy, lại thấy cô hơi nhếch mép cười. Có lẽ Emmy đang tưởng tượng hình ảnh
Joe hì hục vừa thở phì phà phì phò vừa leo lên mấy tầng thang gác.
Joe nói tiếp:
- Cô ấy sầu não đến gần hóa điên. Bao nỗi đau
đớn con người ấy đã trải qua những nghe mà rợn cả tóc gáy. Cô ấy có một con
trai bằng trạc tuổi thằng Georgy đấy.
Emmy đáp:
- Phải, phải, em cũng còn nhớ. Vậy rồi làm sao?
Cũng như phần lớn những anh chàng béo ị, Joe
rất dễ cảm động, nghe Becky kể chuyện mình, anh ta thương lắm. Anh chàng nói
thêm.
- Thằng bé xinh xắn quá, đẹp như thiên thần,
trên đời không đứa trẻ nào bằng: nó quý mẹ nó như vàng. Thế mà bọn khốn nạn
nhẫn tâm giằng lấy thằng bé khỏi tay mẹ nó bắt đem đi, mặc nó khóc lóc thảm
thiết và rồi cũng không cho phép nó gặp mẹ lần nào nữa.
Emmy bật khóc, đứng phắt dậy:
- Anh Joseph yêu quý ơi, chúng ta lại thăm chị
ấy ngay bây giờ.
Cô chạy vào căn phòng ngủ bên cạnh, lấy mũ đội,
tay run run buộc giải mũ vì cảm động. Rồi cô bước ra, trên tay khoác một cái
khăn san, ra hiệu cho Dobbin đi theo.
Dobbin quàng khăn san lên đầu Amelia, đó là tấm
khăn san bằng lục Casơmia màu trắng chính tay Dobbin đã mua ở Ấn Độ gởi về làm
quà. Anh chàng không có cách nào khác là vâng lời người bạn gái. Amelia vịn vào
tay Dobbin và hai người ra đi, Joe dặn theo:
- Cô ấy ở gian phòng 92, trên tầng gác thứ tư
ấy.
Có lẽ vì không muốn phải leo thang lần nữa nên
anh ta ở lại nhà, đứng trong cửa sổ hướng về phía khách sạn “Con Voi” nhìn theo
bạn và em gái đi qua khu chợ.
Cũng may cho Becky đang cười cợt đùa bỡn với
hai cậu sinh viên trong phòng thì cô ta nhác thấy hai người từ xa tiến lại
khách sạn. Họ đang tả lại hình dáng “ông nội” của Becky mà cười với nhau. Lúc
Joe đến cũng như lúc Joe về, họ đều nom thấy... Becky có đủ thì giờ để tống khứ
hai cậu sinh viên và thu xếp căn phòng trông cho gọn gàng trước khi ông chủ
khách sạn “Con Voi” dẫn khách tới. Biết tiếng bà Osborne rất được triều đình
biệt đãi, ông này có ý kính nể, đích thân dẫn “phu nhân” và “ngài thiếu tá” leo
lên tầng gác chót vót sát mái nhà.
Ông chủ khách sạn gõ cửa phòng Becky, gọi:
- Thưa quý bà, thưa quá bà.
Mới hôm qua, ông ta chỉ xưng với Becky bằng
“bà” và đối đãi với Becky cũng không lịch sự lắm.
- Ai đấy.
Becky ló đầu ra hỏi và khẽ kêu rú lên. Trước
mắt cô ta là Emmy đang đứng run run và anh chàng thiếu tá cao lênh khênh chống
cây gậy trúc.
Dobbin lặng yên đứng nhìn có vẻ rất chú ý đến
cuộc gặp gỡ của đôi bạn gái. Emmy thì giang rộng cánh tay ôm chầm lấy Rebecca.
Lúc ấy cô tha thứ hết cho bạn, ôm ghì lấy bạn mà hôn rất thành thực. Ôi! người
đàn bà khốn nạn kia! Từ trước tới nay đã bao giờ cặp môi của mi nhận được một
cái hôn trong sạch như thế chưa?
Chương 66
CHUYỆN XÍCH MÍCH CỦA NHỮNG KẺ YÊU NHAU
Trước thái độ thân mật thẳng thắn của Amelia,
Becky tuy sắt đá vô hạnh thật, nhưng cũng phải cảm động. Đáp lại những cử chỉ
vuốt ve trìu mến và những lời nói ngọt ngào của Amelia, Becky đã biểu lộ một
cái gì giống như thái độ biết ơn và một sự xúc động có thể nói được là chân
thành, nếu không được lâu dài thì ít nhất cũng là lúc bấy giờ. Câu chuyện bịa
về “thằng bé bị giằng khỏi cánh tay mẹ khóc thét lên” xé ruột ấy mà Becky làm
lành được với cô bạn cũ, và chúng ta có thể chắc chắn đó cũng là câu chuyện đầu
tiên cô Emmy bé nhỏ chất phác đáng thương của chúng ta nói với người bạn mới
gặp lại.
Người đàn bà thực thà như đếm săn đón:
- Vậy ra họ cướp mất thằng cháu yêu quý mang đi
mất, hả chị? Ôi, Rebecca, người bạn đau khổ đáng thương của em ơi, em rất hiểu
người mẹ bị cướp mất đứa con khổ sở đến thế nào, cho nên em rất thông cảm với
những người mất con như vậy. Nhưng em cầu chúa sao cho cháu sớm được trở về với
chị, cũng như Thượng đế đã trả lại đứa con yêu quý cho em.
- Cháu nào? Cháu nhà em ấy à? Ô, vâng, Em khổ
ghê lắm chị. Becky đáp, trong thâm tâm hình như có ý hơi hối hận. Cô ta cảm
thấy không thoải mái lắm vì phải bắt đầu ngay bằng một câu nói dối để đáp lại
thái độ hồn nhiên đầy tin tưởng của bạn. Nhưng đó chăng qua cũng là số phận tất
nhiên của những kẻ trót bước vào con đường dối trá, bởi lẽ một khi đã trót dựng
đứng lên một câu chuyện y như thật, tất nhiên người ta phải cố gắng bịa ra một câu
chuyện khác cho ăn khớp với lời bịa đặt cũ, thành ra dần dần cái kho chuyện giả
dối đem phát hành cứ đầy ùn lên một cách không sao tránh khỏi, và dĩ nhiên cái
nguy cơ bị khám phá ra sự thực cũng mỗi ngày một tăng thêm.
Becky tiếp tục:
- Em đau khổ đến mất ăn mất ngủ (tôi hy vọng
rằng lúc này cô ta không còn ngồi lên đống chai lọ nữa rồi) lúc bọn khốn kiếp
ấy đến bắt thằng con mang đi, em cứ tưởng mình đến không sao sống nổi. Rồi em
bị bệnh ứa máu ở não, bác sĩ cũng đã chịu bó tay, thế rồi... thế rồi em khỏi
và... và bây giờ em sống ở đây, nghèo xơ nghèo xác, chả có ai bà con thân
thích.
Emmy hỏi:
- Cháu lên mấy nhỉ?
Becky đáp:
- Mười một.
Cô bạn kêu lên:
- Mười một? Em nhớ cháu sinh cùng năm với thằng
Georgy cơ mà, năm nay cháu lên...
Thực ra, Becky quên khuấy mất chẳng còn nhớ
thằng Rawdy sinh năm nào, cô vội chữa:
- Phải, phải rồi. Chị Amelia yêu quý ạ, em đau
khổ đến nỗi mất cả trí nhớ, quên nhiều chuyện quá. Em thay đổi nhiều lắm chị ạ,
có những lúc tưởng như điên dại, khi họ đến bắt cháu đem đi, cháu lên mười một
tuổi, cháu xinh xắn lắm cơ. Từ hồi ấy, em chẳng được gặp lại cháu một lần nào
nữa.
Cái cô Emmy vớ vẩn kia lại hỏi thêm:
- Tóc cháu màu sáng hay thẫm, chị cho em xem
nào.
- Hôm nay chưa thể được, chị yêu quý của em ạ,
Để lần khác, bao giờ hành lý của em gửi từ Leipzig về đã. Chả là em vừa ở
Leipzig lên đây mà. Em còn giữ được cả một bức chân dung của cháu chính tay em
vẽ hồi hai mẹ con còn sống hạnh phúc bên nhau.
Emmy than thở:
- Becky, chị Becky đáng thương của em! Thế mới
biết em mang ơn Thượng đế biết bao nhiêu ?
(Tôi thắc mắc không hiểu liệu biết cảm ơn
Thượng đế chỉ vì mình may mắn hơn người, có phải là một thái độ tín ngưỡng hợp
lý hay không, mặc dầu người ta đã dạy cho các cô thiếu nữ biết thành kính như
vậy ngay từ hồi còn tí tuổi). Sau đó, cũng như mọi khi, Amelia bắt đầu nghĩ con
trai mình là đứa trẻ xinh xắn, ngoan ngoãn và thông minh nhất thiên hạ.
- Rồi chị sẽ được nhìn thấy cháu Rawdy.
Emmy tưởng nói thế là cách tốt nhất để an ủi
Becky nếu như ở đời này còn có điều gì an ủi được cô ta.
Cứ thế, đôi bạn nói chuyện với nhau có đến hơn
một tiếng đồng hồ, Becky có thừa thãi cơ hội để dựng lên một câu chuyện về mình
đủ cả đầu đuôi, xuôi ngược cho bạn nghe. Cô ta kể rằng, cuộc nhân duyên giữa
mình và Rawdon từ trước đến giờ vẫn luôn luôn bị gia đình nhà chồng phản đối
kịch liệt, rằng mình đã bị người chị dâu (một người đàn bà đến là xảo quyệt)
tìm mọi cách nói xấu với chồng, rằng chính Rawdon đã tằng tịu với những đứa
không ra gì rồi đâm ra nhạt nhẽo với vợ con. Cô ta còn kể rằng mình đã cắn răng
chịu đựng tất cả... đã nghèo túng lại bị người chồng mình vẫn yêu quý như vàng
đối xử thờ ơ lạnh nhạt..không chịu đựng được sự nhục nhã thái quá, cô ta đành
lòng xin ly dị với chồng, vì cái con người đê mạt này đã dám mở mồm ra khuyên
vợ nên tạo điều kiện cho chồng tiến thủ bằng cách bán tiết hạnh cho một nhà quý
tộc rất có thế lực, nhưng vô cùng tồi tệ, tức là hầu tước Steyne, thật là một
con quái vật ghê tởm.
Kể đến đoạn đời sóng gió này, Becky dùng những
lời lẽ tế nhị của một người đàn bà đức hạnh bị làm nhục. Vì câu chuyện đốn mạt
kia mà cô ta đã đành rời bỏ nhà chồng ra đi, thế mà cái tên hèn mạt ấy còn theo
đuổi trả thù bằng cách bắt lấy đứa con, cho nên bây giờ Becky mới lâm vào cảnh
lang thang nghèo túng trơ trọi không người nương tựa và khốn khổ như thế này
chứ?
Câu chuyện hơi dài vì tình tiết phong phú, như
Emmy cũng chịu khó ngồi nghe từ đầu đến cuối, ai đã biết tính Emmy đều thấy cô
vẫn sẵn sàng ngồi nghe như vậy. Nghe kể lại những chuyện trác táng của Rawdon và
những cử chỉ tồi tệ của Steyne, Emmy run lên vì tức giận. Lúc Becky tả lại bị
hành hạ cô cũng thương cảm chân thành. (Becky bảo rằng mình cũng không muốn bôi
xấu chồng làm gì. Cô ta nhắc đến chuyện cũ với thái độ buồn rầu hơn là giận dữ.
Có điều là cô ta đã quá quý chồng, và nói cho cùng, Rawdon chẳng phải là cha
sinh ra đứa con trai yêu quý của cô ta đấy sao? Đến lúc Becky đọc thuộc lòng
lại đoạn văn miêu tả cảnh con trai bị bắt đem đi, Emmy rút khăn tay ra che kín
mặt, làm cho nhà tài tử bi kịch xuất chúng của chúng ta khoan khoái vô cùng vì
thấy tài nghệ của mình xúc động khán giả kịch liệt.
Đang khi đôi bạn gái mải tâm sự với nhau, thì
nhà hiệp sĩ hộ vệ trung thành của Amelia, tức là anh chàng thiếu tá, lẻn ra cầu
thang, xuống tầng dưới cùng (dĩ nhiên anh ta không muốn xen vào làm ngắt đoạn
câu chuyện của hai người, mà cứ cọt kẹt đôi ủng đi lại ngoài hành lang để va cả
mũ vào mái nhà mãi thì cũng chán) và bước vào gian phòng lớn của khách sạn “Con
Voi” là chỗ tụ họp tất cả khách trọ ra vào. Gian phòng này lúc nào cũng thấy mù
mịt khói thuốc lá, và la liệt toàn những khách ngồi uống rượu bia. Trên mặt một
chiếc bàn cáu nhờn thấy xếp hàng dãy những chân đèn bằng đồng có gắn nến để sẵn
cho khách dùng phía trên treo thành hàng dài toàn những chìa khóa các cửa gian
phòng cho thuê. Lúc vào, phải đi qua căn phòng lớn này, Emmy ngượng đỏ cả mặt
lên, chỗ này là nơi tụ họp của đủ mọi hạng người; này là các bác bán găng tay
người vùng sông Tyron các bác bán vải người vùng sông Danube, bồ bị ngổn ngang;
này là các cậu sinh viên đang nhồm nhoàm xơi điểm tâm với bánh phết bơ và thịt,
mấy anh chàng vô công rồi nghề ngồi chơi bài bên một cái bàn rượu bia đổ lênh
láng, này là mấy chú nghệ sĩ nhào lộn vào làm chút rượu giải khát trong khi chờ
đợi đến lượt ra trò... tóm lại, là tất cả cái đám người hành lạc ồn ào () của
một khách sạn Đức trong mùa hội.
Anh hầu bàn không cần hỏi han gì, mang đến cho
Dobbin một cốc vại rượu bia. Dobbin rút một điếu thuốc châm lửa ngồi thưởng
thức mấy khói “cỏ tương tư” (), và giở tờ báo ra đọc cho qua thì giờ, chờ
Amelia trên gác xuống.
Vừa lúc ấy Max và Fritz bước xuống thang gác, mũ
đội lệch về một bên đầu, lê đôi ủng làm cho cựa giày va vào nhau lanh canh, mỗi
người ngậm một chiếc ông điếu thật đẹp có gắn huy hiệu riêng. Họ móc chìa khóa
cửa phòng số 90 lên tường, rồi gọi lấy bánh mì, bơ và rượu bia để điểm tâm. Hai
người ngồi vào một cái bàn cạnh viên thiếu tá; câu chuyện họ trao đổi với nhau
không thể nào không khiến cho Dobbin phải để lọt vào tai. Đại khái họ nói
chuyện với nhau về các võ sĩ ‘Fuchs’ và ‘Philister’, về những cuộc đấu súng và
những cuộc hành lạc trong các quán rượu xung quanh trường đại học
Schoppenhausen. Hình như họ vừa từ trung tâm văn hóa nổi danh này cùng Becky
đến Pumpernickel để dự đại hội mừng cuộc lương duyên của hoàng gia thì phải.
Max dùng tiếng Pháp nói với bạn:
Xem ra cái con bé người Anh () hình như quen
thuộc nhiều người ở đây lắm(). Ông nội béo ị của nó vừa về đã thấy một cô đồng
hương bé nhỏ xinh xinh tìm đến thăm rồi. Tớ nghe thấy họ chuyện trò khóc lóc gì
với nhau ở trong gian phòng của con bé.
Fritz đáp:
- Chúng mình phải mua vé xem con bé nó hòa nhạc
mới được. Cậu có tiền không, Max?
Anh chàng kia đáp:
-Ôi dào, hòa nhạc quái gì, chuyện tào lao () ấy
mà. Thằng Hans kể với tớ rằng ở Leipzig, có một lần con bé đã quảng cáo ầm lên
sẽ tổ chức hòa nhạc, thế là bọn thị dân () ùa nhau đến mua vé, rồi nó chuồn
thẳng một mạch, chẳng hát hỏng cóc khô gì. Hôm qua, mình đi xe ngựa, nó nói
chuyện rằng thằng đệm đàn dương cầm cho nó bị ốm nằm quỵ ở Dresden rồi. Nó
không hát được đâu, tớ tin chắc như vậy. Giọng nó cũng khàn khàn vịt đực như
giọng cậu thôi, ông bạn vua rượu của tôi ạ.
- Ừ khàn thực, tớ vừa nghe nó đứng ở cửa sổ hát
thử một bài ba-lat của Anh hay tuyệt (), gọi là “Đoá hồng trên bao lơn”.
Fritz nhận xét:
- Uống và hát () có bao giờ đi đôi với nhau
đâu. (Nom cái mũi cà chua của Fritz cũng biết anh ta ưa cái thú vui thứ nhất
hơn). Thôi đừng có lấy vé mà phí toi tiền. Đêm qua con bé vừa được bạc. Tớ nhìn
thấy nó nhờ một thằng bé con người Anh đặt cửa hộ. Tiền của cậu, bỏ ra chúng
mình chè chén với nhau ở đây hoặc đi xem hát còn hơn, hay là chúng mình mời con
bé ra công viên Aurelius uống rượu vang Pháp hay rượu cô-nhăc cũng tốt, nhưng
vé thì nhất định đừng mua. Cậu tính thế nào. Làm thêm một cốc bia nữa chứ?
Đoạn cả hai thay phiên nhau nhúng bộ ria mép
màu vàng óng vào chất nước uống màu nâu, rồi vê vê bộ ria, khệnh khạng kéo nhau
đi xem hội.
Dobbin nhìn thấy chiếc chìa khóa số 90 treo
trên móc, lại nghe loáng thoáng câu chuyện của hai cậu sinh viên trẻ tuổi,
không nghi ngờ gì nữa, biết ngay họ vừa nói chuyện với nhau về Becky.
Anh ta nghĩ thầm: “Cái con mẹ ranh này hẳn đang
âm mưu làm một mẻ gì đây”. Nhớ lại ngày xưa, có lần đã được chứng kiến chuyện
cô ta chài Joe và cái kết cục khôi hài của cuộc tình duyên này, Dobbin mỉm
cười. Về sau Dobbin và George vẫn thường lôi chuyện ấy ra làm trò cười với nhau
cho tới khoảng vài tuần lễ sau ngày cưới của George mới thôi, vì hồi ấy chính
George cũng bị mắc vào cái lưới của cô Circe () bé nhỏ; chuyện George có tình ý
với Becky, chắc Dobbin cũng đoán biết, nhưng làm ngơ không muốn nói ra. William
vì tế nhị và cũng cảm thấy khó nói, nên không muốn dò hỏi đến ngọn ngành câu
chuyện bí mật xấu xa này của bạn, tuy rằng một lần George đã nhắc đến một cách
xa xôi và có ý hối hận. Ấy là buổi sáng hôm xảy ra trận Waterloo, lúc hai người
đang đứng đầu đơn vị của mình nhìn sang trận tuyến của địch san sát toàn những
quân Pháp đen ngòm đỉnh đồi, trên trời một cơn mưa lớn sắp sửa trút xuống.
George bảo bạn:
- Tôi vừa dính vào một câu chuyện âm mưu vô
nghĩa lý với một người đàn bà anh ạ. Chúng mình phải ra trận thế này, thật tôi
lấy làm may mắn. Nếu chẳng may tôi chết, mong rằng Emmy sẽ không biết tý gì về
chuyện này. Nghĩ lại, tôi lấy làm hối hận quá. William tự lấy làm hài lòng mỗi
khi nghĩ rằng nhiều lần anh ta đã khôn khéo tìm cách an ủi người vợ góa của
George, Dobbin nói rằng sau khi từ biệt Amelia, và sau trận “Bốn cánh tay”
George đã nói chuyện với anh ta về vợ và cha với một giọng nghiêm trang và âu
yếm. Những lần ngồi nói chuyện với ông già Osborne, William cũng nhấn mạnh về
việc này; do đó, trước khi từ giã cõi đời, ông lão đã tha thứ cho đứa con trai
bất hạnh.
William nghĩ thầm: “Thì ra cái con quỷ quái vẫn
tiếp tục bày trò rắc rối. Mình chỉ mong nó đi biệt tăm tích đâu cho khuất mắt.
Nó đi đâu là đem theo tai hoạ đến đấy.”
Anh ta cứ ngồi, hai tay bưng lấy đầu mà đeo
đuổi mãi những ý nghĩ day dứt như vậy. Tờ tuần báo Pumpernickel mở rộng trước
mắt, nhưng anh ta không nhìn thấy chữ gì. Bỗng có ai cầm cái cán ô đập nhẹ vào
vai; nhìn lên thì ra Amelia.
Người đàn bà này vẫn có cái mãnh lực đặc biệt
khống chế được anh chàng thiếu tá Dobbin (trời sinh ra con người ta dù yếu đuối
mấy cũng có khả năng thống trị một kẻ nào khác trên đời). Emmy vẫn bảo anh ta
làm việc này việc khác, nói năng ngọt ngào với anh ta, nhờ anh chàng lấy cái
này, mang cái kia, như thể Dobbin là một con chó nòi “Tân thế giới” () ngoan
ngoãn vậy. Ví thử Emmy có nói “Hấp, Dobbin”, không chừng anh ta cũng sẵn sàng
nhảy ngay xuống nước hoặc vui vẻ ngậm cái ví đầm lóc cóc chạy theo sau cô ta.
Nếu như các bạn độc giả không thấy rằng Dobbin là một anh chàng ngốc nghếch thì
câu chuyện tôi kể đây thật là đoảng vị.
Amelia khẽ lắc đầu, nghiêng mình chào một cách
giễu cợt, nói:
- Thế nào, sao ngài không đợi trên gác để đưa
tôi xuống cầu thang?
- Tôi làm sao đứng chờ được ở ngoài hành lang?
Dobbin đáp, vẻ mặt vừa đáng thương vừa có vẻ
khôi hài. Sau đó, lại được khoác tay đưa người đẹp ra khỏi gian phòng sặc sụa
mùi khói thuốc lá, anh ta khoái trí quá, xuýt nữa thì đi thẳng, quên cả trả
tiền cốc rượu bia còn nguyên chưa uống. Anh bồi bàn phải chạy theo ra tận cửa
khách sạn “Con Voi” để nhắc, Emmy phá ra cười; cô mắng đùa anh chàng là người
“xấu chơi”, định ăn quỵt, lại diễu Dobbin về chuyện la cà ở chỗ này. Hình như
Emmy có điều gì vui vẻ đặc biệt; cô líu ríu đi qua khu chợ một cách hơi vội vàng.
Cô muốn gặp mặt Joe ngay tức khắc. Thấy Amelia sốt ruột muốn gặp mặt anh trai,
Dobbin bật cười vì có mấy khi thấy cô muốn gặp mặt “ông anh trai quý báu” ngay
tức khắc đâu.
Hai người thấy Joe đang ngồi trong phòng khách
ở tầng nhà dưới. Suốt một tiếng đồng hồ vừa qua, Joe đã sốt ruột đi bách bộ
trong phòng, hết cắn móng tay lại nhìn qua khu chợ về phía khách sạn “Con Voi”
có đến hàng trăm bận. Trong khi ấy, Amelia đang ngồi tâm tình với Becky trong
gian phòng xép của khách sạn, còn Dobbin thì đang ngồi gõ nhịp mấy ngón tay
trên mặt bàn dưới nhà để đợi Emmy trên gác xuống, Joe cũng đang thấp thỏm đợi
Emmy.
Thấy hai người về, Joe hỏi ngay:
- Thế nào?
Emmy đáp:
- Đáng thương quá, chị ấy khổ không biết thế
nào mà nói.
- Đúng lắm, cầu chúa che chở cho linh hồn tôi.
Joe vừa hói vừa lắc lư cái đầu, làm cho đôi má
béo xệ rung rung theo.
Emmy tiếp:
- Ta có thể nhường cho chị ấy gian phòng của
Payne; để nó lên ngủ trên gác cũng được.
Payne là một chị hầu gái người Anh, tính ít
nói, giữ nhiệm vụ săn sóc riêng cho Amelia. Lẽ dĩ nhiên chị này được bác Kirsch
tán tỉnh. Georgy rất thích đem những chuyện cổ tích Đức toàn những kẻ trộm, kẻ
cướp và ma quỷ ra doạ làm cho chị ta sợ hết hồn. Suốt ngày chị ta chỉ lúi húi
thu xếp quần áo, hết phàn nàn càu nhàu lại doạ sớm hôm sau thế nào cũng bỏ về
quê ở Clapham. Emmy quyết định:
- Để chị ấy ở gian phòng của Payne.
Anh chàng thiếu tá đứng bật dậy hỏi:
- Này, chị không có ý định mang người đàn bà ấy
vào sống trong gia đình này đấy chứ? Amelia trả lời, vẻ ngây thơ nhất đời:
- Dĩ nhiên là có. Kìa, thiếu tá Dobbin, đừng
giận dữ, khéo làm gãy cả ghế ngồi bây giờ. Dĩ nhiên là chúng tôi định thế.
Joe cũng nói:
- Dĩ nhiên, anh bạn ạ.
Emmy tiếp:
- Chị ấy đã đau khổ nhiều quá rồi. Lão chủ nhà
băng nơi chị ấy gửi tiền đã trốn biệt và phá sản. Chồng chị ấy, cái tên khốn
kiếp mạt hạng, đã bỏ rơi vợ và bắt đứa con mang đi rồi (nói đến đây Emmy nắm
chặt hai bàn tay bé nhỏ lại giơ ra trước mặt với điệu bộ doạ nạt thật ghê gớm.
Dobbin thấy cảnh người bạn gái hăng hái quá mà muốn bật cười). Thật đáng thương
cho chị ấy. Bây giờ sống bơ vơ trơ trọi, bắt buộc phải dạy hát để kiếm ăn...
Không đưa chị ấy về đây sống chung thế nào được!
Anh chàng thiếu tá kêu lên:
- Chị George yêu quý của tôi ơi, hãy mời cô ta
dạy chị hát, nhưng chớ có cho về ở đây. Tôi van chị đấy.
Joe lên tiếng:
- Hừ!
Amelia sửng sốt:
- Thiếu tá Dobbin, tôi rất ngạc nhiên về thái
độ của anh đấy. Xưa nay, anh vẫn là người rộng lượng, tốt bụng cơ mà. Vậy chứ
chị ấy đang gặp cảnh khốn khó, không giúp chị ấy bây giờ thì còn lúc nào? Chị
ấy là một người bạn lâu ngày nhất của tôi, chứ đâu phải..
- Amelia, không phải bao giờ cô ta cũng là bạn
của chị đâu.
Dobbin đáp vậy, hình như anh ta bực mình lắm
rồi. Câu nói bóng gió làm cho Amelia đau nhói trong tim. Cô giận dữ nhìn thằng
vào mặt Dobbin nói:
- Thiếu tá Dobbin, anh không biết ngượng sao?
Trả miếng xong, Amelia đứng dậy, kiêu kỳ bước
sang gian phòng của mình, khép mạnh cánh cửa lại, có ý không bằng lòng, như
chính mình bị phỉ báng. Cánh cửa đóng chặt lại rồi cô mới nói một mình:
- Lại đi nói bóng đến câu chuyện ấy? Ôi, bắt
mình phải nhớ đến điều ấy, thật tàn ác quá.
Cô ngước nhìn lên bức chân dung của George vẫn
treo trên tường như mọi khi, có kèm tấm hình con trai ở dưới. “Anh ấy thật tàn
ác quá. Em đã tha thứ rồi, anh ấy còn nỡ nhắc đến làm chi? Không, theo lời
chính miệng anh ấy nói ra, em đã thấy sự ghen tuông của em là vô nghĩa, là
không có căn cứ rồi, em đã tin rằng anh rất trong sạch... Vâng, anh rất trong
sạch, vị thiên thần của em trên thiên đường ạ!”
Cô đi đi lại lại trong phòng, người run lên vì
tức giận. Cô tiến lại trước cái tủ, ngắm mãi tấm chân dung treo phía trên. Càng
ngắm, cô càng thấy hình như đôi mắt George nhìn mình mỗi lúc một thêm có ý
trách móc. Bao nhiêu kỷ niệm êm đẹp của mối tình đầu xô nhau trở lại trong ký
ức. Vết thương đã được thời gian hàn gắn kín miệng bỗng lại ứa máu. Cô cảm thấy
đau đớn hơn bao giờ hết ! Emmy không sao chịu đựng được sự trách móc của người
chồng yêu quý đang đứng trước mặt. Không! Không thể có chuyện ấy, không bao giờ
có chuyện ấy!
Đáng thương thay cho anh chàng William Dobbin,
câu nói lỡ lời ấy phá hoại hết kết quả bao nhiêu năm đeo đuổi, nó đã làm cho
tòa lâu đài tình yêu mà anh chàng mất bao công sức nhẫn nại dựng lên bỗng chốc
xụp đổ tan tành; tòa lâu đài ấy xây trên những nền móng vô hình bí mật, ẩn dấu
tất cả những sự say mê, những cuộc đấu tranh tư tưởng không kể xiết và những sự
hy sinh thầm lặng. Chỉ một lời nói thôi, thế là tòa lâu đài của hy vọng tan
thành mây khói! Chỉ một lời nói thôi, mà có khi đã làm cho con chim xanh anh
chàng mất công theo đuổi suốt một đời bay mất biệt tăm.
William nhìn vẻ mặt Amelia hiểu rằng thế là bắt
đầu một giai đoạn gay go đây, nhưng anh ta vẫn dùng những lời lẽ thiết tha nhất
khẩn khoản yêu cầu Sedley hãy dè chừng đối với Becky.
Có thể nói anh ta hăng hái thuyết phục Joe chớ
nên nhận cho Rebecca về ở chung. Dobbin xin Joe ít nhất cũng nên dò hỏi kỹ
lưỡng về hành vi của cô ta đã, lại đem những chuyện mình nghe được, kể lại rằng
Becky đã chung đụng với bọn cờ bạc bịp và những người tư cách không ra gì.
Dobbin còn nhắc Joe nhớ lại những chuyện xấu xa mà Becky đã phạm trong quá khứ:
chính hai vợ chồng Crawley đã a tòng với nhau dẫn George đi vào con đường phá
sản, và hiện nay Becky đã ly dị với chồng như chính cô ta thú nhận, mà nào ai
biết được nguyên nhân vì đâu. Một người đàn bà như thế gần Amelia thật nguy
hiểm, vì em gái Joe còn ngây thơ lắm, chưa hề từng trải việc đời. William đem
hết tài hùng biện ra thuyết phục Joe, van nài Joe chớ nhận cho Rebecca sống
chung trong gia đình; rất ít khi thấy anh chàng điềm đạm ít nói này hăng hái
đến thế.
Giá Dobbin nói dịu dàng khéo léo hơn, không
biết chừng anh ta có thể thuyết phục được Joe cũng nên nhưng nói cho đúng thì
Joe cũng có ý hơi bực, vì mọi khi anh ta vẫn cho rằng Dobbin hay có thái độ
trịch thượng đối với mình. Joe cũng đã nói riêng chuyện này với bác hầu Kirsch,
dĩ nhiên bác đồng tình với chủ, bởi lẽ bác không ưa Dobbin kiểm soát chi ly
những hóa đơn chi tiêu trong cuộc hành trình này. Joe cũng bắt đầu to tiếng trả
lời rằng mình có đủ sức tự bảo vệ lấy danh dự không cần nhờ vả đến ai, rằng
mình không muốn có người khác can thiệp vào việc riêng; nói tóm lại, anh ta ý
muốn chống lại sự áp chế của viên thiếu tá. Cuộc thảo luận giữa hai người hơi
lâu và cũng hơi gay gắt, thì bỗng bị chấm dứt một cách đơn giản nhất đời. Nghĩa
là có Becky đến chơi. Cô ta đem theo một người hầu phòng của khách sạn “Con
Voi” để xách hộ đám hành lý sơ sài.
Becky chào Joe một cách lễ độ nhưng thân mật;
đối với Dobbin, cô ta tỏ ra nhã nhặn, nhưng có ý dè dặt. Linh tính báo ngay cho
cô ta biết đích rằng đây là kẻ thù của mình, và chính Dobbin cũng vừa nói cô ta
không ra gì xong. Emmy nghe thấy những tiếng động và tiếng ồn ào bèn bước ra
khỏi phòng. Cô tiến đến bên bạn, ôm lấy bạn mà hôn thật nồng nàn, không buồn để
ý đến Dobbin, trừ một lần liếc nhìn anh chàng một cách giận dữ; có lẽ từ khi
người đàn bà đáng thương này sinh ra đời, đây là lần đầu tiên Amelia có một
thái độ khinh miệt bất công như vậy. Nhưng có những lý do riêng khiến cho cô
không sao kìm giữ được khỏi giận Dobbin. Dobbin cũng bực mình vì bị đối xử bất
công chứ không phải vì thất bại không thuyết phục nổi bạn. Anh ta nghiêng mình
chào Amelia với thái độ hết sức kiêu hãnh rồi bỏ đi, người đàn bà cũng cúi chào
tỏ ý vĩnh biệt một cách lạnh lùng không kém.
Dobbin bỏ đi rồi, Emmy tỏ ra đặc biệt phấn
khởi, vui vẻ với Becky; cô vội vội vàng vàng thu dọn trong phòng rồi dẫn cô bạn
cũ về căn phòng đã dành riêng; xưa nay tính tình cô bạn nhỏ của chúng ta vẫn
điềm đạm không mấy khi tỏ ra hoạt động và hăng hái như vậy. Thói thường vẫn
thế, những người bản chất yếu đuối, khi sắp làm một chiếc gì bất công, họ vẫn
hay vội vã làm cho chóng xong, bởi vậy, Emmy nghĩ rằng những cử chỉ của mình
vừa rồi chính là một cách tỏ rõ tấm tình gắn bó chung thuỷ và kính mến đối với
người chồng đã khuất.
Georgy đi xem hội về ăn trưa, thấy trên bàn vẫn
bày đủ bốn xuất ăn như thường lệ; nhưng nó thấy có một người đàn bà ngồi vào chỗ
mọi khi vẫn dành cho thiếu tá Dobbin. Thằng bé nói một cách rất tự nhiên như
thường ngày:
- Ô kìa, bác Dob đâu?
Mẹ nó bảo:
- Hôm nay thiếu tá Dobbin ăn cơm ngoài, chắc
thế.
Đoạn Emmy kéo con trai lại, hôn con mấy cái
liền, vén mớ tóc xoã trên trán con rồi giới thiệu với bạn:
- Rebecca, cháu đây.
Câu nói cũng có nghĩa là: “Chị xem trẻ con trên
đời này có đứa nào được bằng nó không?” Becky làm ra bộ say sưa ngắm thằng bé,
rồi âu yếm bắt tay nó; cô ả nói:
- Cháu yêu quý, nom thật giống thằng cháu...Cô
ta cảm động quá, nghẹn lời không nói tiếp được, nhưng chẳng cần bạn nói ra,
Amelia cũng hiểu rõ Becky đang nhớ đến đứa con quý báu của cô ta.
Tuy vậy, có cô bạn ngồi cạnh, Becky cũng được
an ủi, thành thử bữa ấy cô ta ăn rất ngon miệng.
Trong khi ăn, Becky tha hồ có dịp kể lể; thằng
Georgy thì lấm lét ngó người khách lạ và giỏng tai lên mà nghe chuyện. Đến lúc
dùng đồ tráng miệng, Emmy bước ra ngoài sai bảo đầy tớ dọn dẹp; Joe thì ngả
lưng trong ghế bành thiu thiu ngủ, tay cầm tờ bán Galinany, còn Georgy và người
đàn bà lạ mặt ngồi sát bên nhau.
Lần này thằng bé nhìn đi nhìn lại người khách
như đã nhận ra, cuối cùng, nó đặt cái kẹp hạt dẻ xuống nói:
- Đúng rồi.
Becky cười hỏi:
- Đúng cái gì, cháu?
Bác chính là cái bà đeo mặt nạ cháu gặp trong
phòng quay số tối hôm nọ.
Becky vội nắm lấy tay thằng bé, đưa lên miệng
hôn nói:
- Suỵt, cháu tinh quái quá. Hôm ấy bác trai
cháu cũng đến đấy? Đừng nói cho má cháu biết, má cháu không bằng lòng đâu.
Thằng bé đáp:
- Ồ, không... chẳng bao giờ cháu nói.
Lúc Emmy quay vào phòng, Becky bảo bạn:
- Chị xem, em với cháu thân nhau rồi đấy.
Phải công nhận rằng Amelia đã đem được một
người bạn gái rất biết điều và đáng yêu đến sống chung với mình.
Đang cơn tức bực, William cứ đi lang thang như
mất trí khắp thị trấn, tuy rằng anh ta cũng chưa biết hết âm mưu bội phản đang
chờ đợi mình. Thế nào lại gặp ngay lão bí thư sứ quán Anh là Tapeworm; lão mời
Dobbin vào khách sạn dùng cơm. Gọi món ăn xong, Dobbin nhân cơ hội hỏi thăm
viên đại biện xem có biết chuyện gì về một bà Rawdon Crawley nào đó hình như đã
gây ra dư luận sôi nổi một thời ở Luân-đôn không. Dĩ nhiên Tapeworm thông tỏ đủ
mọi thứ chuyện của Luân-đôn. Lão lại có họ với Gaunt phu nhân, thành thử lão
mới cung cấp cho viên thiếu tá một mớ tài liệu về cuộc đời của hai vợ chồng
Becky, đủ cho anh chàng tọc mạch há hốc mồm ra vì ngạc nhiên; nhờ những tài
liệu ấy mà có câu chuyện này, vì chính ngay trên chiếc bàn ấy mấy năm trước đây
kẻ chép truyện cũng đã từng có hân hạnh được nghe. Thôi thì đủ mọi chi tiết:
Tufto, Steyne, gia đình Crawley, cùng mọi chuyện có liên quan đến họ, mọi chi
tiết có liên quan đến Becky và quá khứ của cô ta, nhà ngoại giao tàn nhẫn lôi
ra bằng hết. Lão biết chân tơ kẽ tóc về sinh hoạt của tất cả thiên hạ. Tóm lại,
anh chàng thiếu tá thực thà của chúng ta cứ ngây người ra mà nghe những điều
khám phá mới mẻ. Thấy Dobbin nói Amelia và Sedley đã đưa Becky về sống chung
trong gia đình, Tapeworm phá ra cười rũ rượi, làm cho viên thiếu tá bàng hoàng;
lão bảo rằng giá tìm đến nhà lao, mời một vài ông sang trọng, đầu trọc lóc bận
áo vàng bị xích chân từng đôi một, vẫn được cử đi quét đường ở Pumpernickel,
mang về thết đãi, dùng làm thầy học cho thằng Georgy cứng đầu cứng cổ có lẽ còn
tốt hơn.
Câu chuyện của lão khiến cho viên thiếu tá ngạc
nhiên và hoảng hốt không phải ít. Sáng sớm hôm ấy, trước khi Becky dọn đến, mọi
người đã quyết định đến tối Amelia sẽ đi dự dạ hội trong cung, Dobbin định sẽ
nhân dịp nói hết với Amelia. Anh chàng thiếu tá bèn về nhà, thắng bộ lễ phục
cẩn thận mò vào triều cố tìm gặp Emmy. Nhưng không thấy Emmy đến. Lúc quay về,
Dobbin đã thấy đèn đóm trong nhà Sedley tắt từ lâu. Vậy phải chờ đến sáng hôm
sau mới gặp được Amelia. Không hiểu đêm hôm ấy anh chàng phải ủ ấp một sự bí mật
ghê gớm như thế trong lòng có trằn trọc mất ngủ hay không.
Sáng hôm sau, Dobbin sai một người hầu cầm thư
sang trao cho Amelia, nói cần gặp ngay có chuyện cần. Anh ta nhận được thư trả
lời, cho biết rằng bà Osborne hôm nay mệt, không thể ra khỏi phòng được.
Thật ra, chính Amelia suốt đêm qua cũng không
ngủ được, và bị ám ảnh bởi câu chuyện trước kia đã hàng trăm lần giầy vò tâm tư
cô. Trước kia, đã hàng trăm lần cô muốn đầu hàng, nhưng sự hy sinh ấy, cô cảm
thấy quá sức mình chịu đựng. Không, cô không thể bằng lòng được, mặc dầu con
người ấy đã yêu cô tha thiết, đã trung thành tận tụy với cô, và chính cô cũng
phải thú nhận rằng mình đối với anh ta rất có cảm tình, rất biết ơn và kính
trọng. Nhưng thử hỏi rằng chung thủy là cái gì, và những đức tính quý báu nữa
cũng là cái gì? Chỉ cần một món tóc xoăn xoăn của cô thiếu nữ, hoặc một sợi ria
mép của chàng trai trẻ cũng đủ làm cho cán cân trong phút chốc lệch ngay về một
bên. Đối với Emmy những đức tính ấy cũng không quan trọng hơn là đối với những
người đàn bà khác. Cô đã thử, cô đã khát khao thực hiện ước vọng của mình,
nhưng không sao được. Bây giờ tìm ra một cớ, người đàn bà tàn nhẫn ấy bèn vịn
ngay lấy, quyết định tự giải phóng mình.
Mãi đến buổi chiều ngày hôm ấy. Amelia mới cho
Dobbin gặp mặt. Lâu nay vẫn quen được tiếp đón thân mật vui vẻ, lần này bước
vào, anh ta thấy Emmy nghiêng mình chào, coi như khách, cô chìa một bàn tay vẫn
đeo găng cho anh ta bắt rồi lại rụt về ngay.
Rebecca cũng có mặt trong phòng; cô ta mỉm cười
tiến đến, đưa tay cho Dobbin. Dobbin hơi bối rối, lùi lại, nói:
- Xin... xin bà tha lỗi, thưa bà. Nhưng tôi bắt
buộc phải nói thực rằng hôm nay tôi đến đây không phải với tư cách là bạn của
bà.
- Hừ! Khỉ lắm! Thôi, đừng nhắc đến chuyện ấy
nữa.
Joe kêu lên có vẻ lo lắng và muốn tránh một câu
chuyện rắc rối. Amelia hạ thấp giọng, nhưng nói rất rõ:
- Tôi không hiểu thiếu tá Dobbin có điều gì
không bằng lòng đối với Rebecca đấy.
Giọng nói của cô hơi run run, nhưng tia mắt
nhìn rất cương quyết.
Joe lại xen vào:
- Tôi không muốn có chuyện rắc rối trong nhà
tôi đâu đấy. Tôi nhắc lại là tôi không muốn. Dobbin, tôi yêu cầu anh thôi đi.
Anh ta run bắn người lên, nhìn quanh phòng, mặt
đỏ ửng, rồi vừa thở phì phò vừa bỏ về phòng mình.
Rebecca lên tiếng, giọng nói thật ngọt ngào, êm
ái: “Kìa, ông bạn yêu quý của em! Hãy ở lại xem thiếu tá Dobbin muốn nói gì em
đã nào.”
- Tôi đã bảo rằng tôi không muốn nghe cơ mà.
Joe hét tướng lên như vậy, rồi thu gọn vạt áo ngủ, anh ta bước ra khỏi phòng.
Amelia nói:
- Bây giờ chỉ còn lại hai người đàn bà chúng
tôi. Anh đã có thể nói chuyện được rồi đấy?
Dobbin kiêu hãnh đáp:
- Amelia, có lẽ chị đối xử với tôi như vậy là
không đúng, mà tôi vẫn không tin rằng xưa nay đối với phụ nữ tôi vẫn có thái độ
phũ phàng. Tôi đến đây để làm một nhiệm vụ mà chính tôi cũng không vui lòng
lắm. Amelia mỗi lúc một thêm lúng túng, nói:
- Thiếu tá Dobbin, xin anh cứ vui lòng nói ngay
vào vấn đề cho.
Giọng cô nói hơi có vẻ khiêu khích, làm cho cái
nhìn của Dobbin bỗng trở thành nghiêm khắc.
- Tôi muốn đến đây để nói một điều... bà
Crawley bà đã muốn ngồi lại đây, thì tôi đành phải nói điều ấy ra trước mặt
bà... tôi muốn nói rằng bà không nên có mặt trong gia đình bạn tôi. Một người
đàn bà bỏ chồng, đội tên giả để đi lang bạt khắp nơi và ra vào những sòng bạc
công khai...
Becky kêu lên:
- Tôi đến dự dạ hội đấy chứ.
- …Thì không phải là một người xứng đáng làm
bạn của bà Osborne và con trai bà. Tôi còn muốn nói thêm rằng ở đây có nhiều
người hiểu rành mạch về bà, họ kể nhiều điều về tư cách của bà nữa. Tôi cũng
không muốn nhắc lại đây trước mặt... trước mặt bà Osborne.
Rebecca nói:
- Lối vu cáo của ông kể cũng khôn khéo đấy chứ
thưa thiếu tá, ông định bắt tôi phải chịu đựng lời kết án mà chính ông không
muốn nói ra. Kết án thế nào nhỉ? Tôi không trung thành với chồng tôi chăng? Tôi
không sợ đâu. Tôi thách người nào chứng minh được điều ấy. Và tôi nói thật tôi
thách ông đấy. Phẩm giá của tôi hoàn toàn không bị hoen ố, cũng như phẩm giá
của kẻ thù xảo quyệt nhất đang muốn bôi nhọ tôi. Hay là ông muốn kết tội tôi
chỉ vì tôi nghèo khổ, bị bỏ rơi, bị sa sút? Phải, những điều ấy tôi có phạm, và
ngày nào tôi cũng bị trừng phạt. Chị Emmy, để cho em đi vậy. Chẳng qua cũng coi
như em không được gặp lại chị, vả lại cũng không vì vậy mà em khổ sở hơn ngày
hôm qua cơ mà. Cũng coi như sau một đêm trú ẩn, kẻ phiêu bạt đáng thương này
lại lên đường lang thang như cũ. Chị có nhớ bài hát chúng mình vẫn hát với nhau
khi xưa không nhỉ? Ôi, những ngày êm đẹp đã qua! Từ bấy đến nay, cuộc đời em cứ
ba chìm bảy nổi mãi... em như một kẻ bỏ đi, bị người đời sỉ nhục chỉ vì em có
một thân một mình. Thôi, chị để em đi; em ở lại đây, em làm trở ngại đến những
kế hoạch riêng của ông này.
Dobbin nói:
- Thưa bà, quả có thế. Nếu như tôi có chút
quyền hành gì trong gia đình này...
Amelia vội kêu lên:
- Quyền hành ư? Ông không có quyền hành gì hết.
Rebecca, chị cứ ở đây với em. Em sẽ không bỏ chị đâu, mặc dầu chị bị hành hạ,
bị sỉ nhục, bị.. bị thiếu tá Dobbin chủ tâm đối xử như vậy. Ta đi thôi chị.
Và hai người đàn bà tiến về phía cửa. William
mở cửa cho họ.
Nhưng lúc họ bước ra, anh ta cầm lấy tay Amelia
nói:
- Chị có vui lòng ở lại một lát để nói chuyện
với tôi không?
Becky vội nói ngay:
- Ông ấy lại định nói xấu em với chị lúc em
không có mặt đấy.
Nom vẻ mặt Becky như một người tử đạo. Amelia
chỉ xiết chặt tay bạn không trả lời.
Dobbin nói:
- Xin lấy danh dự mà thề rằng câu chuyện tôi
sắp nói đây không liên quan gì đến bà. Amelia, mời chị vào trong này.
Amelia quay vào. Dobbin cúi chào Rebecca rồi
khép cửa phòng lại. Amelia dựa vào tấm gương soi nhìn Dobbin, sắc mặt và đôi
môi tái nhợt.
Viên thiếu tá yên lặng một lúc rồi nói:
- Vừa rồi, tôi hơi bối rối thành ra nói lẫn...
tôi đã dùng tiếng “quyền hành” không đúng chỗ.
Amelia đáp, hai hàm răng thốt nhiên va vào nhau
lập cập.
- Có thế.
Dobbin nói tiếp:
- Nhưng tôi tưởng ít nhất cũng có quyền được
thanh minh.
Người đàn bà đáp:
- Mẹ con tôi vẫn nhớ đã mang ơn anh rất nhiều.
William nói:
- Quyền hạn tôi nói đây là do cụ thân sinh ra
anh George uỷ nhiệm.
Amelia đáp:
- Phải lắm. Nhưng mới ngày hôm qua, anh đã bôi
nhọ linh hồn George. Hẳn anh cũng biết vậy. Tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho
anh điều ấy. Không bao giờ hết. Cô dằn mạnh từng tiếng, giọng nói run run vì
tức giận và xúc động.
William buồn rầu nói:
- Chị không thực tâm nghĩ thế chứ, chị Amelia?
Chị không cho rằng những lời chị vừa nói trong lúc vội vàng thiếu suy nghĩ chín
chắn là quan trọng hơn cả sự trung thành tận tuỵ của cả một đời người chứ? Tôi
tin rằng cách ăn ở của tôi không thể làm cho linh hồn George phải bất mãn, và
nếu như tôi có điều gì đáng trách thì, ít nhất, người trách tôi cũng không phải
là người vợ góa và là người sinh ra đứa con trai của anh George. Chị hãy nghĩ
xem... sau này, khi nào có thì giờ rỗi rãi, chị hãy nghĩ kỹ xem... rồi chị sẽ thấy
trách tôi như vậy là bất công. Rất có thể ngay bây giờ chị cũng thấy thế rồi.
Amelia cúi đầu xuống.
Dobbin nói tiếp:
- Chị giận tôi không phải vì lời tôi nói hôm
qua đâu, Amelia, đó chẳng qua là một cái cớ; bởi vì tôi đã trót yêu chị, đã
theo đuổi chị suốt mười lăm năm nay một cách vô vọng. Trong thời gian ấy, chẳng
lẽ tôi lại không thấu hiểu mọi tình cảm, mọi ý nghĩ của chị hay sao? Tôi hiểu
tâm hồn chị lắm. Chị có thể tuyệt đối trung thành với một kỷ niệm, chị có thể
ấp ủ mãi một hình bóng không tưởng. Nhưng chị không thể hiểu nổi một tấm tình
nồng nhiệt như tấm tình của tôi và cũng không thể thông cảm được với tấm tình
ấy như một người đàn bà nào khác có tâm hồn cao đẹp hơn chị. Không, chị không
xứng đáng với mối tình bao năm nay tôi theo đuổi. Đã từ lâu, tôi đã hiểu rằng
tôi chỉ là một kẻ ngu dại, sống với những ảo tưởng đẹp đẽ, đem tất cả tâm hồn
nồng nàn chân thật của mình đánh đổi lấy một mảnh duyên thừa. Bây giờ tôi không
muốn sự trao đổi ấy nữa, tôi từ bỏ và tôi không có lỗi gì hết đối với chị. Bao
giờ chị cũng vẫn là người tốt. Chị đã cố gắng hết sức rồi, nhưng chị không
thể... chị không thể vươn được tới độ cao của mối tình tôi ủ ấp đối với chị.
Mối tình ấy, một người đàn bà có tâm hồn cao thượng hơn có thể lấy làm hãnh
diện được chia xẻ! Amelia, xin vĩnh biệt. Tôi đã theo dõi cuộc đấu tranh của
chị. Hãy chấm dứt nó đi. Cả hai chúng ta đều mệt mỏi lắm rồi…
Thế là sợi dây buộc chặt vận mệnh của Dobbin cô
vẫn nắm trong tay bị anh ta đột nhiên rứt đứt. Amelia sợ hãi đứng lặng nghe
Dobbin tuyên bố lấy lại quyền tự do và ưu thế của mình. Đã từ lâu anh ta quen
bò sát dưới chân Emmy, khiến cho cô cũng quen coi việc chà đạp lên anh là
chuyện tự nhiên. Amelia không muốn làm vợ Dobbin, nhưng cứ muốn giữ lấy anh ta.
Cô không muốn phải đền đáp một tý gì, nhưng lại muốn bắt Dobbin phải cho mình
tất cả. Trong việc yêu đương, sự trao đổi không công bằng này là chuyện xảy ra
khá thường xuyên.
Lời nói dứt khoát của William khiến cô thất
vọng và bối rối.
Cuộc tấn công yếu ớt của cô thế là chấm dứt,
bây giờ cô bắt đầu rút lui Cô nói:
- Nếu tôi không hiểu lầm... thì anh có ý
định... đi xa... phải không? William?
Anh chàng cười buồn bã, đáp:
- Tôi đã đi xa một lần rồi. Và sau mười hai năm
trời tôi mới trở về. Hồi ấy, Amelia, chúng ta còn trẻ. Thôi, vĩnh biệt, tôi đã
tiêu phí đời tôi quá đủ trong trò chơi này rồi.
Trong khi hai người nói chuyện với nhau, cánh
cửa phòng Amelia vẫn hé mở; ngay lúc Dobbin vừa khép cửa lại, thì Becky đã nắm
lấy quả đấm và khẽ mở ra để nghe trộm. Cô ta không bỏ sót một lời nào trong câu
chuyện của hai người trao đổi với nhau.
Becky nghĩ thầm: “Người đàn ông này có một tâm
hồn cao quý lắm. Cô kia đùa cợt với một tấm tình như vậy thật đáng hổ thẹn”.
Becky thấy cảm phục Dobbin; cô ta không còn thù ghét cái anh chàng đã nói những
điều không hay về mình nữa; hành động của Dobbin thật quang minh chính đại,
đáng cảm phục. Cô ta thầm nghĩ: “Ôi, giá mình được một người chồng như thế
nhỉ?...Ấy mới là một người đàn ông có đủ cả tâm hồn và trí tuệ! Mình sẽ chả
quan tâm đến đôi bàn chân to kếch của anh ta”. Rồi Becky chạy về buồng riêng,
hình như trong óc đang bận suy tính điều gì. Cô ta lấy bút mực viết một lá thư
xin Dobbin hãy nán lại vài ngày đừng đi đâu vội, và hứa sẽ khuyên được Amelia
ưng thuận lấy anh ta.
Sự tan vỡ thế là không cứu vãn được rồi; lại
một lần nữa, anh chàng William đáng thương bước ra cửa và đi hẳn. Người đàn bà
góa bé nhỏ, người đã gây ra tất cả sự tan vỡ này, đã đạt được ý nguyện, đã
thắng; cô ở lại một mình, tha hồ mà thỏa mãn vui thích với sự đắc thắng của
mình. Ta hãy mặc cho những người phụ nữ ghen tỵ với thắng lợi của Amelia.
Đến đúng cái phút thi vị nhất trong ngày là lúc
ăn cơm, thằng Georgy ở đâu mò về; nó lại nhắc đến sự vắng mặt của “bác Dob”.
Mọi người yên lặng ngồi ăn không ai trò chuyện gì. Joe xơi vẫn ngon miệng như
thường, nhưng Amelia không ăn một miếng nào.
Xong bữa ăn, thằng Georgy nằm khểnh trên chồng
đệm đặt cạnh cửa sổ, một chiếc cửa sổ lớn ba bề lồng kính, xây nhô hẳn ra ngoài
đường, nom thăng ra khu chợ, phía có tòa khách sạn “Con Voi”; mẹ nó đang lúi
húi việc gì bên cạnh. Bỗng thằng bé nhận thấy trong nhà viên thiếu tá mé bên
kia đường như nhộn nhịp hẳn lên, nó bảo:
- Ơ hơ, xe của bác Dob... họ đang đẩy ra sân
kia.
Chiếc xe này Dobbin mua lại với giá tiền sáu
đồng bảng Anh; mọi người vẫn trêu anh ta về chuyện mua rẻ này.
Emmy nghe con nói hơi giật mình, nhưng vẫn yên
lặng.
Thằng Georgy lại nói:
- Ơ hơ. Thằng Francis vác va-ly đựng quần áo
của bác Dob ra kìa. Còn thằng bồi ngựa chột mắt Kunz thì đang dắt ba con ngựa
tồi ở chợ về. Đôi ủng và chiếc áo bành tô vàng của cu cậu nom bảnh quá, thằng
cha đến buồn cười. Ô kìa... chúng nó thắng ngựa vào xe của bác Dob. Bác ấy định
đi đâu thế nhỉ?
Emmy bảo con:
- Bác ấy sắp đi du lịch xa đấy.
- Đi du lịch à? Thế bao giờ bác ấy về?
Emmy đáp:
- Bác... bác không về nữa đâu.
Thằng Georgy vùng dậy kêu rầm lên:
- Không về nữa!
Joe quát thằng cháu:
- Chạy đi đâu, ông tướng?
Vẻ mặt buồn bã, Amelia bảo con:
- Georgy, ở nhà, con ạ.
Thằng bé đứng lại; nó chạy loăng quăng trong
phòng, rồi cứ hì hục hết leo lên bậc cửa sổ lại leo xuống, coi bộ nó hết sức tò
mò và bực bội.
Xe đã thắng ngựa, hành lý cũng đã chất xong.
Francis từ trong nhà bước ra ôm thanh kiếm, cây gậy trúc và chiếc ô của chủ
buộc thành một bó đặt vào trong thùng xe, còn chiếc cặp da và chiếc hộp sắt tây
đựng mũ của chủ thì hắn nhét xuống gầm ghế.
Đoạn Francis mới lôi tấm áo choàng cũ rích nhem
nhuốc bằng dạ xanh có lót nỉ đỏ của chủ ra; tấm áo này Dobbin dùng đã mười lăm
năm nay, nó cũng đã từng trải qua “trăm trận đánh đông dẹp bắc”, như lời một
bài hát phổ biến hồi ấy. Năm xảy ra trận Waterloo, tấm áo còn mới nguyên. Sau
đêm hôm xảy ra trận “Bốn cánh tay”, Dobbin và George đã cùng khoác chung tấm áo
này.
Lão Burcke, chủ khách sạn, từ trong nhà bước
ra, rồi đến Francis khuân nốt những hành lý còn lại...
Thiếu tá Dobbin đi sau cùng...Lão Burcke muốn
hôn Dobbin để từ biệt. Viên thiếu tá đi đến đâu cũng được mọi người quý mến.
Khó khăn lắm Dobbin mới từ chối khỏi phải nhận cách biểu lộ cảm tình quá nồng
nhiệt của ông chủ khách sạn.
Thằng Georgy hét tướng lên: “Giời đất ơi! Cháu
cũng đi đây.”
Becky dúi vào tay thằng bé mảnh giấy, có vẻ cảm
động, bảo nó:
- Đưa cho bác ấy cái này nhé.
Thế là thằng bé lao xuống thang gác, chạy bay
qua đường...
Anh bồi ngựa mặc áo vàng đã vút roi nhè nhẹ
rồi.
William đã gỡ mình khỏi cánh tay lưu luyến của
ông chủ khách sạn, trèo vào trong xe. Thằng Georgy cũng nhảy vào theo; từ trên
cửa sổ, ba người nhìn xuống thấy nó giang hai cánh tay ôm ghì lấy cổ viên thiếu
tá, liến thoắng hỏi chuyện. Rồi nó móc tay vào túi áo tìm lá thư đưa cho anh
ta. William vội vàng cầm lấy, tay run run giở ra đọc, nhưng lập tức anh ta đổi
sắc mặt, xé tờ giấy làm đôi quẳng ra ngoài xe. Anh ta hôn vào trán Georgy rồi
bảo Francis đỡ thằng bé xuống đất. Nó đưa hai bàn tay lên dụi mắt. Thằng bé cứ
bấu chặt lấy thành xe không chịu rời ra.
- “Hô! Đi thôi!”()
Anh bồi ngựa mặc áo vàng, quất roi kêu đen đét;
Francis nhẩy phốc lên ghế hậu, thế là chiếc xe chuyển bánh. Dobbin ngồi trong
xe gục đầu xuống ngực, xe đi ngang qua cửa sổ phòng Amelia, nhưng anh ta không
ngẩng lên. Còn lại một mình thằng Georgy đứng giữa đám đông.
Đêm hôm ấy, chị hầu gái của Amelia lại thấy
thằng bé gào khóc ầm ĩ trong phòng. Chị ta phải mang vào cho nó vài quả ô-mai
mơ để dỗ nó nín. Nhưng rồi cả hai chị em cùng khóc; thì ra tất cả những người
nghèo khổ, những người bị rẻ rúng, những người chân thực, hễ có dịp tiếp xúc
với người đàn ông giản dị và tốt bụng này, đều quý anh ta.
Còn Emmy, Emmy chẳng đã làm tròn nhiệm vụ rồi
sao? Cô đã có bức chân dung của George an ủi mình.
End-Hết
Xem tiếp:
Xem tiếp:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét