Chương 26
GIỮA LUÂN ĐÔN VÀ CHATHAM
Từ giã Brighton, anh bạn George của chúng ta ra
vẻ một ông hoàng ngự xe bốn ngựa đến một khách sạn thật lịch sự ở khu phố
Cavendish, một dãy phòng trang hoàng lộng lẫy đã được sửa soạn sẵn sàng để chờ
đón cặp tân lang và tân giai nhân: trên mặt bàn tiệc bày toàn bát đĩa loại quý,
xung quanh có đến nửa tá người hầu da đen đứng yên lặng túc trực sẵn sàng.
George ra hiệu mời Joe và Dobbin ngồi, điệu bộ lịch sự như một ông hoàng. Lần
đầu tiên Amelia ngồi chủ tọa bàn tiệc mà George gọi là bàn tiệc do chính cô
chiêu đãi, cô có vẻ e dè ngần ngại làm sao.
George hết chê rượu rồi, lại quát tháo bọn hầu
bàn, Joe thì ra sức mà chén món xúp ba-ba có vẻ khoái chí lắm. Dobbin làm nhiệm
vụ tiếp món ăn cho anh ta, vì Amelia ngồi chủ tọa bàn tiệc không có kinh nghiệm
nên lúng ta lúng túng mãi với đĩa thịt ba-ba đặt trước mặt; cô tiếp cho anh
trai cả thịt lẫn mai không phân biệt. Thấy bữa tiệc sang trọng quá, mà mấy gian
phòng thuê để đãi tiệc cũng hết sức lộng lẫy. Dobbin phát hoảng.
Ăn xong, thừa lúc Joe ngủ gật trong ghế bành,
Dobbin khẽ trách bạn rằng món thịt ba-ba và rượu sâm-banh đặt quá thừa mứa, ăn
tiêu sang như một vị giám mục, nhưng vô hiệu, George nói:
- Xưa nay đi đâu tôi vẫn quen tiêu pha cho ra
con người lịch sự, và dĩ nhiên, nhà tôi cũng sẽ du lịch cho xứng với tư cách
một phu nhân. Túi tôi còn tiền, nàng sẽ không thiếu một thứ gì hết.
Anh chàng “quen thói bốc trời” đó hoàn toàn hài
lòng về tính hào phóng của chính mình. Dobbin cũng chẳng cố gắng phân tích cho
anh ta hiểu rằng hạnh phúc của Amelia không phải là ở chỗ được ăn nhiều xúp
ba-ba nữa.
Ăn xong được một lúc, Amelia dè dặt ngỏ ý muốn
về nhà ở Fullham thăm mẹ một chút; George đành ưng thuận, nhưng cũng có vẻ
không thoải mái lắm. Amelia nhanh nhảu bước về phòng ngủ của mình để sửa soạn;
gian phòng rộng mênh mông, ở giữa kê một cái giường đồ sộ trông như một cái
linh cữu lớn; xưa người em gái của hoàng đế Halixander đã ngủ trên giường này,
khi những người bạn đồng minh đang thất bại tại nơi đây. Cô quàng khăn san, đội
mũ trùm lên đầu, trong lòng dào dạt sung sướng.
Lúc Amelia quay lại phòng ăn vẫn thấy George
còn ngồi uống rượu vang, không có ý tỏ ra muốn đứng lên. Cô hỏi chồng:
- Anh có về nhà với em không, anh yêu?
Không đâu. Tối nay “anh yêu” còn “có việc bận”.
Đã có thằng hầu của George ra thuê xe ngựa đưa cô về thăm nhà. Chiếc xe ngựa đã
đỗ trước cửa khách sạn; Amelia đưa mắt nhìn chồng hai ba lần, rồi thất vọng từ
biệt chồng mà bước xuống thang gác. Đại úy Dobbin cũng xuống theo dắt tay
Amelia đỡ lên xe rồi đứng nhìn theo mãi. Chính thằng hầu cũng lấy làm ngượng
không muốn nói rõ địa chỉ cho anh xà ích ngay trước mặt đám hầu bàn của khách
sạn; hắn bảo cứ đánh xe đi một quãng rồi sẽ nói cũng được.
Dobbin đi bộ về nhà trọ của mình là quán
Slaughters; anh ta lẩn thẩn nghĩ rằng giá được cùng ngồi trên xe ngựa với bà
Osborne thì sung sướng biết bao nhiêu. Sở thích của George thì lại khác hẳn;
sau khi đã uống rượu vang chán chê rồi, anh ta đi mua một nửa vé để vào rạp hát
lúc giữa chừng xem tài tử Kean sắm vai Shylock. Đại úy Osborne có tính mê xem
diễn kịch; chính anh ta cũng đã có dịp sắm vai chính một cách khá xuất sắc
trong vài vở kịch diễn trong trại lính. Joe vẫn ngủ lăn ra cho đến tối mịt; mãi
tới lúc thằng hầu vào dọn dẹp bát đĩa ra và tu nốt chai rượu còn dở trên bàn
tiệc, nghe tiếng động anh ta mới tỉnh dậy.Trạm xe ngựa gần đó lại phải cung cấp
một chiếc xe đưa vị anh hùng béo phệ về nhà làm bạn với cái giường ngủ.
Bà Sedley vừa thấy chiếc xe đỗ trước cổng nhà
đã vội chạy ra đón cô dâu mới đang vừa run run vì xúc động, vừa thút thít khóc;
bà ôm ghì lấy con, tình mẫu tử khăng khích dào dạt trong lòng. Ông Clapp bận áo
sơ mi trần đang đứng xới mấy cây trong vườn hoảng hốt chạy vào trong nhà. Chị
hầu gái người Ai len nhảy bổ từ trong bếp ra mỉm cười chúc mừng cô chủ: “Cầu
Chúa ban phúc lành cho cô”.
Amelia lảo đảo gần như không đủ sức leo nổi hết
cầu thang dẫn lên phòng khách.
Mấy cái vòi nước lại được dịp chảy; hai mẹ con
lại được ghì chặt lấy nhau trong gian phòng ấm cúng mọi ngày, họ khóc lóc thế
nào, các bạn đọc hơi có tính đa cảm cứ tưởng tượng ra cũng đủ biết. Đàn bà lúc
nào mà chẳng khóc được? Nước mắt họ sẵn sàng chảy ra bất cứ trường hợp nào, khi
vui khi buồn cũng như lúc có công việc gì khác. Và sau một chuyện quan trọng
như chuyện về nhà chồng, dĩ nhiên bà mẹ và cô con gái phải được tự do bộc lộ
thói đa cảm cố hữu của phụ nữ. Cứ kể cũng êm đềm, và cũng hay hay.
Vào những dịp đi lấy chồng thì chính tôi đã
từng thấy nhiều người đàn bà xưa nay vẫn không ưa nhau lúc ấy lại ôm lấy nhau
mà vừa khóc vừa hôn nhau thật nồng nàn. Ví thử họ quý nhau thực, không biết lúc
ấy họ đối với nhau đến thế nào? Đối với các bà cũng đi lấy chồng lần thứ hai;
và ai dám bảo rằng trong những dịp này, các cụ già lại không có tình cảm tương
tự, vì các cụ vốn giàu tình mẫu tử hơn ai hết? Có thể nói rằng một người đàn bà
chỉ thực sự hiểu thấu thế nào là tình mẫu tử khi họ đã đến tuổi có cháu gọi
bằng bà. Chúng ta hãy để mặc hai mẹ con bà Sedley ngồi với nhau trong căn phòng
khách tranh tối tranh sáng mà thì thầm, mà thở vắn than dài, rồi hết cười tại
khóc. Ông già Sedley cũng vậy, lúc xe ngựa vừa đỗ ngoài cổng, ông chưa biết là
ai, ông không chạy xổ ra ngay để đón con gái, nhưng lúc Amelia bước vào phòng,
ông cũng hôn con rất âu yếm; ông lão vẫn ngồi trong phòng như mọi khi với đủ
các thứ giấy má, dây buộc hàng và sổ kế toán. Ngồi với vợ con một lúc, ông khôn
khéo đứng dậy ra ngoài, để cho họ được tự do.
Thằng hầu của George đang đứng khinh khỉnh nhìn
ông Clapp bận áo xơ-mi trần tưới nước cho mấy cụm hồng. Tuy vậy, hắn cũng lễ
phép ngả mũ chào ông Sedley. Ông lão hỏi chuyện hắn về con rể ông, về chiếc xe
ngựa của Joe, không biết đôi ngựa của anh ta đã mang về Brighton chưa. Ông lại
hỏi cả đến chiến tranh nữa. Lát sau chị hầu gái bưng một cái khay trên có đặt
một chai rượu vang ra cho ông; ông già nhất định đòi rót rượu mời tên người
nhà.
Đoạn ông thưởng cho hắn một đồng nửa ghi-nê
nói:
- Bác Trotter, hãy uống mừng sức khỏe cho ông
chủ và bà chủ của bác đi. Và đây, bác cầm lấy gọi là để khi về nhà uống chút
rượu cho ấm bụng.
Thằng hầu của George cầm tiền đút túi, nét mặt
lộ vẻ vừa ngạc nhiên vừa khinh khỉnh.
Tính từ hôm Amelia rời bỏ nhà nhỏ bé này ra đi
mới được chín ngày...nhưng nhớ lại cái buổi mình từ biệt nó để đi với George,
Amelia cảm thấy như đã lâu lắm rồi. Giữa hiện tại và cuộc đời thiếu nữ vừa qua
như có một vực thẳm ngăn cách. Nhìn lại quá khứ, Amelia thấy mình gần như là
một người hoàn toàn khác; hồi ấy cô còn là một thiếu nữ chưa chồng, đang yêu
say đắm, suốt ngày chỉ tâm niệm nghĩ đến người yêu; đáp lại sự trìu mến của cha
mẹ, cô chỉ tỏ một thái độ nếu không phải là vô ơn thì cũng là hờ hững, coi như
tự nhiên mình có quyền được hưởng, vì tâm hồn và trí tuệ cô còn mải hướng về
một mục đích duy nhất là thỏa mãn ước vọng của mình. Ngẫm lại cuộc sống trong
những ngày ấy, những ngày vừa mới trôi qua mà tưởng như xa xôi lắm rồi, Amelia
cảm thấy xấu hổ và hối hận vì thấy cha mẹ đối với mình vẫn âu yếm như trước.
Phải chăng lúc đã chiếm được phần thưởng - tức là thiên đường trong cuộc sống -
thì con người may mắn ấy lại bỗng cảm thấy hoài nghi và không thỏa mãn?
Thường thường sau khi đã để cho đôi nhân vật
nam nữ của mình thành vợ thành chồng, nhà tiểu thuyết vẫn buông tấm màn xuống,
coi như tấm kịch đã trọn; ấy là lúc những nỗi băn khoăn, những sự vật lộn trong
cuộc đời đã chấm dứt, như thể một khi người ta leo lên được cõi niết bàn của
cuộc sống gia đình, thì thấy cỏ cây tươi tốt bốn mùa, mọi sự đều đáng hài lòng
cả. Hai vợ chồng chỉ còn một việc là ghì chặt lấy nhau mà thơ thẩn đi xuống cái
dốc dẫn đến tuổi già, đầy hạnh phúc. Song cô Amelia bé nhỏ của chúng ta vừa
chân ướt, chân ráo bước vào địa giới của cái xứ sở mới mẻ này đã phải quay nhìn
sang bờ sông xa tít bên kia để ngó lại những bộ mặt quen thuộc đang buồn rầu
vẫy tay từ biệt mình.
Để gọi là mừng cô dâu mới về thăm nhà, bà mẹ
nghĩ nên sửa soạn một bữa tiệc; hai mẹ con hàn huyên với nhau một lúc, bà để
con gái ngồi lại một mình rồi xuống nhà dưới lo chuẩn bị dọn một bữa tiệc trà
thật long trọng (gian nhà này là chỗ ở cho vợ chồng ông Clapp; chị hầu gái
người Ai len là chị Flanagan, khi đã rửa bát đĩa xong xuôi và gỡ xong những
chiếc cặp uốn tóc ra, thì cũng ngủ ở đấy). Ở đời mỗi người có một cách bộc lộ
tình cảm riêng; bà Sedley nghĩ rằng nhân dịp đặc biệt này, Amelia hẳn phải
thích một chiếc bánh mềm uống với nước trà và thật nhiều mứt cam đựng trong một
cái bát thủy tinh.
Trong lúc bà mẹ bận sửa soạn món mứt ở dưới bếp
thì Amelia rời gian phòng khách lên gác; không hiểu sao tự nhiên Amelia lại lẩn
về căn phòng nhỏ của riêng mình hồi chưa đi lấy chồng, và lại ngồi xuống đúng
chiếc ghế xưa kia đã nhiều lần mình ngồi lặng lẽ rầu rĩ hàng giờ. Cô cảm thấy
như chiếc ghế bành dang rộng hai cánh tay ra đón mình, như đón một người bạn
cũ; tâm trí cô vơ vẩn nhớ về tuần lễ vừa qua, nhớ về cuộc sống hồi còn con gái.
Khi đã nhớ lại những kỷ niệm buồn bã, mơ hồ qua, Amelia lại luôn luôn than thở
vì điều hằng mong ước, một khi đạt được, không đem lại sự vui sướng mà chỉ có
sự đau khổ và hoài nghi; đáng thương thay cô thiếu nữ bé bỏng tội nghiệp và
trong trắng, lang thang trơ trọi giữa những đám người hỗn độn trong Hội chợ phù
hoa này.
Amelia ngồi đây âu yếm mường tượng lại hình ảnh
George; trước ngày cưới, cô đã từng quỳ xuống mà thờ phụng hình ảnh con người
ấy. Cô có dám tự thú nhận rằng con người thực ngoài cuộc đời khác xa hình ảnh
người thanh niên anh hùng cô hằng phụng thờ trong mộng không? Chưa đâu vì người
đàn bà muốn thắng nổi tính kiêu hãnh và thói phù hoa của chính mình để dám tự
thú những điều như vậy, cần trải qua một thời gian dài, dài lắm... và phải đã
bị đàn ông lừa dối nhiều lần. Lúc ấy đôi mắt xanh sáng long lanh và nụ cười ma
quái của Rebecea lại hiện ra ám ảnh làm cho Amelia rùng mình; cô ngồi lặng một
lúc lâu, tâm trí băn khoăn nghĩ ngợi, dáng điệu thờ thẫn, y như cái ngày nào
lúc chị hầu gái bước vào trao cho cô lá thư của George ngỏ ý muốn nối lại mối
duyên gần đứt đoạn.
Amelia nhìn chiếc giường nhỏ có trải đệm trắng;
mấy ngày trước đây, chiếc giường ấy vẫn còn là của cô. Amelia thầm ước đêm nay
lại được ngủ trên chiếc giường này, rồi cũng như ngày xưa, sáng ra thức dậy lại
được thấy mẹ cúi xuống nhìn mình mỉm cười. Cô nghĩ đến chiếc linh cữu to tướng
phủ vải hoa sặc sỡ kê trong gian phòng sang trọng mông mênh và tối tăm kia đang
chờ đợi mình trong tòa khách sạn đồ sộ ở khu phố Cavendish mà ghê cả người. Ôi,
chiếc giường bé nhỏ thân yêu! Đã biết bao đêm dài, cô nhỏ những giọt nước mắt
đầm đìa trên mặt gối? Đã biết bao lần cô tuyệt vọng muốn cứ nằm trên giường như
thế mà từ giã cõi đời. Nhưng bây giờ ước vọng của cô đã thành sự thật rồi;
người tình nhân cô yêu đến đau khổ chẳng đã trở thành của cô mãi mãi rồi sao?
Và bà mẹ hiền từ của cô cũng đã bao lần kiên nhẫn âu yếm quanh quẩn bên chiếc
giường này săn sóc cho cô? Amelia lại bên chiếc giường quỳ xuống. Tấm linh hồn
e lệ, dịu dàng và thiết tha nhưng đã bị giầy vò ấy hướng về thượng đế tìm nguồn
an ủi, hướng về một sức mạnh mà phải nhận rằng xưa kia ít khi người thiếu nữ ấy
tìm đến. Cho đến nay lòng tín ngưỡng của Amelia là tình yêu; nhưng giờ đây trái
tim buồn rầu đang ứa máu vì thất vọng kia đã bắt đầu cảm thấy cần một nguồn an
ủi khác rồi.
Chúng ta có quyền lắng nghe, hoặc nhắc lại đây
những đời cô cầu nguyện không nhỉ? Thưa các bạn đó là những điều bí mật vượt ra
ngoài phạm vi của Hội chợ phù hoa là cái thế giới của cuốn truyện này.
Điều có thể thấy được là khi bữa tiệc trà đã
dọn ra cô thiếu nữ trẻ măng của chúng ta bước xuống thang gác, vẻ mặt hớn hở
hơn nhiều. Cô không còn băn khoăn than thở cho số phận của mình, cũng không
nghĩ đến thái độ lạnh nhạt của George hoặc đôi mắt của Rebecca như vừa rồi nữa.
Cô xuống nhà hôn cha mẹ, ríu rít nói chuyện với ông lão, và làm cho ông Sedley
cảm thấy vui vẻ khác hẳn mọi ngày. Cô ngồi vào cây dương cầm của Dobbin mua
tặng vừa đàn vừa hát những bài hát cũ kỹ mà ông già rất ưa nghe. Cô nhận xét
trà pha rất ngon, lại khen cách mẹ bày mứt trong bát thủy tinh cực khéo. Vì
quyết làm cho mọi người trong nhà vui vẻ, nên chính cô cũng thấy mình vui lây.
Trở về khách sạn, Amelia nằm xuống chiếc linh cữu ngủ thiếp đi; mãi tới lúc
George đi xem hát về, cô mới thức dậy đón chồng với một nụ cười.
Ngày hôm sau George còn có những việc quan
trọng hơn là việc đi xem ông Kean đóng vai Shylock. Vừa về đến Luân-đôn, anh ta
đã viết thư ngay cho những luật sư của cha, tỏ ý muốn gặp mặt họ sớm hôm sau.
Khi ở khách sạn anh ta chơi bi-a và đánh bài với đại úy Crawley đã thua gần hết
nhẵn túi; trước khi lên đường ra nước ngoài, thế nào cũng phải lo lấy một món
bù vào; không có cách nào khác, anh ta đành khấu vào khoản hai nghìn đồng mà
mấy ông thày kiện được lệnh giao lại cho anh ta. George tin chắc như đinh đóng
cột rằng chỉ sau một thời gian ngắn thế nào ông bố cũng phải nghĩ lại. Phải, có
một cậu con trai quý báu như anh ta, bậc cha mẹ nào đành tâm giận lâu cho được?
George còn tính toán rằng ví thử tài năng và giá trị của mình trong quá khứ
không đủ khiến ông lão nguôi giận mà tha thứ, thì anh ta sẽ quyết tâm lập những
chiến công thật hiển hách trong chiến dịch sắp xảy ra; như vậy hẳn ông lão phải
hồi tâm nghĩ lại. Nhưng nếu ông cụ cứ khăng khăng một mực sắt đá thì sao? Dào
ôi! Cuộc đời đang rộng mở trước mặt ta; chẳng lẽ đánh bài với thủ hạ, George cứ
bị đen mãi sao. Vả lại hiện giờ cứ biết hãy còn hai nghìn đồng tiêu cái đã.
Thế là George lại thuê xe ngựa cho Amelia về
thăm bà Sedley một lần nữa. Anh ta giao toàn quyền cho hai người liệu mà sắm
sửa không được thiếu thứ gì, sao cho bà George Osborne có thể viễn du ra ngoại
quốc xứng đáng như một bậc mệnh phụ. Thời giờ cấp bách, chỉ có chẵn một ngày để
thu xếp việc này; chẳng nói ta cũng rõ hai mẹ con bà Sedley bận rộn thế nào.
Lần này, bà Sedley lại được ngồi xe ngựa, tíu tít đi hết hàng len dạ này đến
cửa hiệu và những người bán hàng xun xoe theo tiễn rất lễ độ; bà lão cảm thấy
mình lại được là bà Sedley ngày xưa, và lần đầu tiên kể từ khi lâm vào cảnh
hoạn nạn, bà sung sướng thật sự. Chính Amelia cũng lấy việc được đi thăm các
cửa hiệu, được nhìn ngắm, được mà cả, được mua sắm những thức hàng đẹp mắt ấy
là việc làm thú vị.
Đối với Amelia tuân theo ý chồng là một điều
hạnh phúc; cô sắm một lô khá nhiều đồ dùng của phụ nữ, và tỏ ý rất có khiếu
thẩm mỹ; mấy bác bán hàng đều phải công nhận như vậy.
Về cuộc chiến tranh sắp nổ ra, Amelia chả cần
chú ý lắm. Bonaparte thì rõ ràng sẽ bị đè bẹp, có lẽ chẳng cần đánh cũng tan.
Ngày nào tầu thủy ở Margate cũng chật ních những hành khách đi Brussels và
Ghent; đàn ông cũng như đàn bà, toàn những người sang trọng lịch sự.
Người ta có cảm tưởng họ đi du lịch hơn là tham
gia một cuộc chiến tranh: Báo chí ra sức mà giễu cợt tên phiêu lưu hãnh tiến
một cách không thương xót. Cái tên dân đảo Corse khốn nạn ấy mà dám đương đầu
với quân đội đồng minh Âu châu, dám chống lại thiên tài quân sự trác tuyệt của
Wellington? Amelia coi khinh hắn như rơm rác. Con người hiền hậu dịu dàng ấy
thường suy nghĩ theo ý kiến của người xung quanh, vì bản tính giản dị và phục
tùng, cô không quen có thái độ của riêng mình. Tóm lại Amelia và bà mẹ chỉ
những mua sắm mà bận túi bụi suốt một ngày trời; cô rất sung sướng vì thấy mình
thắng lợi ngay trong bước đầu ra mắt giới thượng lưu của thành phố Luân- đôn.
Trong khi ấy George, mũ lệch về một bên đầu,
hai khuỷu tay khuỳnh khuỳnh, tiến về Bedford Row; anh ta đường hoàng bước vào
phòng làm việc của mấy ông luật sư, như thể mình là ông chúa mà đám thư ký mặt
tai tái đang ngồi cạo giấy kia là nô lệ cả. George gọi một người ra lệnh đi báo
ngay cho ông Higgs rằng đại úy Osborne đang đợi; điệu bộ anh ta khệnh khạng
hung hăng, làm như cái lão luật sư “dân thường” kia, mặc dù có kiến thức gấp ba
lần anh ta, giầu hơn anh ta gấp năm mươi lần, và có kinh nghiệm sống hơn anh ta
gấp một nghìn lần, cũng phải lập tức xếp mọi việc làm ăn lại để ra hầu tiếp ông
đại úy ngay. George không nhận thấy bọn nhân viên trong phòng nhìn nhau mà cười
tỏ ý chế nhạo; viên thư ký đầu bàn giấy, liếc nhìn mấy bác thư ký tập sự; mấy
bác thư ký tập sự gật gù với mấy người chạy giấy mặc quần áo chật ních. George
điềm nhiên ngồi gõ gõ cái can vào chiếc ủng, khinh khỉnh nhìn cái bọn người
cùng khổ, coi họ như rơm rác. Nhưng cái bọn cùng khổ này biết tỏng mọi chuyện
của anh chàng rồi. Tối tối, ngồi uống bia với nhau trong quán rượu, họ vẫn lôi
chuyện xích mích giữa hai bố con anh ta ra kháo với đám thư ký làm việc tại
những phòng vật tư khác. Ở thành phố Luân-đơn này, đố có việc gì thoát khỏi tai
mắt bọn luật sư và đám thư ký của họ. Bọn này soi mói biết hết mọi chuyện; và
họ chỉ ngồi có một chỗ mà ngầm thống trị cả thành phố.
Có lẽ khi bước chân vào phòng giấy của ông
Higgs, George hy vọng thấy ông này được ủy quyền trao cho mình lá thư hòa giải
của cha. Cũng có lẽ anh ta làm ra cái vẻ lạnh lùng, khinh khỉnh ấy cốt để tỏ ra
mình không cần gì, mình đã quyết định rồi. Nhưng đáp lại thái độ hung hăng của
George, viên luật sư tỏ ra thản nhiên, mặt cứ lạnh như tiền, làm cho cử chỉ
khệnh khạng của anh chàng trở thành lố bịch. Anh chàng đại úy bước vào thấy ông
Higgs đang bận viết gì trên một tờ giấy. Lão nói:
- Mời ông ngồi chơi để một lát; tôi sẽ tiếp ông
ngay.
Phiền ông Poe mang sổ chi lại đây hộ.
Đoạn lão lại cúi xuống hí hoáy viết tiếp. Ông
Poe đi lấy sổ chi tiền mang lại; lão tính tiền chiết khấu của số hai nghìn đồng
rồi hỏi xem đại úy Osborne muốn rút món này ra bằng ngân phiếu hay muốn chuyển
khoản để mua tín phiếu. Lão thản nhiên tiếp:
- Hiện vắng mặt một người làm chứng trong chúc
thư của bà Osborne đã quá cố, nhưng khách hàng của tôi muốn thanh toán công
việc càng sớm càng tốt, nên bằng lòng thỏa mãn yêu cầu của ông ngay.
Viên đại úy bực mình lắm, đáp:
- Ông cho tôi một tờ ngân phiếu.
Thấy lão luật sư ghi rõ cả số tiền lẻ: George
nói ngay:
- Vứt quách chỗ xu hào lẻ ấy đi, không cần.
Thấy cử chỉ hào hùng của mình làm cho lão thầy
kiện già ngượng đỏ mặt, George khoái trí lắm; anh ta đút tấm ngân phiếu vào
túi, hiên ngang bước ra khỏi phòng giấy:
Ông Higgs bảo ông Poe:
- Chỉ hai năm nữa, thằng này sẽ vào nhà đá.
- Ngài xem liệu cụ Osborne có nghĩ lại không?
Ông Higgs đáp:
- Có họa khi nào trời sụp.
Viên thư ký nói:
- Anh chàng này là tay “bán giời không cần văn
tự”. Mới cưới vợ được một tuần lễ đấy; thế mà tôi đã gặp anh ta cùng mấy tay sĩ
quan khác bâu lấy cô đào Highflyer mà đưa lên xe của ả sau buổi diễn kịch rồi.
Sau đó hai thầy trò xét đến hồ sơ của một thân
chủ khác; họ không buồn nhớ tới George Osborne nữa.
Tờ ngân phiếu thuộc về tài khoản lưu ký tại
ngân hàng Hulker và Bullock tại phố Lombard; George đến ngay nhà ngân hàng này
để lấy tiền. Lúc anh ta bước vào, Frederick Bullock đang cúi bộ mặt vàng ệch
xuống một cuốn sổ kếch xù, bên cạnh một bác thư ký lặng lẽ ngồi túc trực. Trông
thấy viên đại úy bộ mặt vàng khè của Bullock bỗng đổi sang một thứ màu khủng
khiếp hơn; anh ta vội lủi vào gian phòng khách phía trong, điệu bộ nom như kẻ
có tội. George đang bận hau háu nhìn món tiền (vì chưa bao giờ anh ta được cầm
một lúc số tiền lớn như vậy) cũng không kịp để ý đến sắc mặt hoặc sự lẩn tránh
của cái anh chàng “thây ma” đang theo đuổi em gái mình kia.
Tối hôm ấy Fred Bullock đem chuyện George rút
tiền ra kể lại với ông Osborne. Anh ta nói:
- Anh ấy coi bộ đường hoàng lắm, rút ngay một
lúc cả số tiền không để lại một xu. Ăn tiêu bừa phứa như anh ấy thì hai nghìn
bạc liệu được mấy bữa?
Ông Osborne văng tục rầm lên bảo rằng ông “đếch”
cần quan tâm đến chuyện George ăn tiêu thế nào và bao giờ thì hết tiền. Hồi này
ngày nào Fred cũng đến khu phố Russell ăn bữa tối.
Về phần George anh ta rất hài lòng về công việc
của mình hôm ấy. Anh ta cấp tốc sửa soạn hành lý và ký ngân phiếu thanh toán
tiền hàng Amelia vừa sắm sửa, hào phóng như một ông hoàng.
Chương 27
AMELIA ĐI THEO TRUNG ĐOÀN CỦA CHỒNG
Khi cỗ xe ngựa lịch sự của Joe chạy đến đỗ tại
cổng khách sạn ở Chatham, người đầu tiên Amelia gặp lại chính là anh chàng đại
úy Dobbin quen thuộc. Anh ta vừa đi bách bộ có đến một tiếng đồng hồ ngoài phố
để chờ các bạn. Trông viên đại úy rõ ra vẻ con nhà võ với quân phục đính lon
vàng chóe, thắt lưng đỏ, cây kiếm đeo lủng lẳng bên sườn. Joe hết sức kiêu hãnh
vì được quen một người như vậy; anh chàng dân thường to béo lên tiếng chào
Dobbin một cách thân mật đặc biệt, khác hẳn các anh ta vẫn đối xử với người bạn
này hồi ở Brighton và phố Bond.
Cùng đi với viên đại úy có anh chàng sĩ quan
cầm cờ Stubble. Nom thấy chiếc xe ngựa tiến đến gần khách sạn, anh chàng này
kêu lên: “Trời ơi? Người đâu mà xinh tuyệt!”
Tỏ ý rất phục Osborne là tay biết chọn vợ. Thật
thế, với tấm áo cưới có đính đăng-ten hồng, đôi má ửng đỏ lên vì cuộc hành
trình vừa qua, nom Amelia thật tươi tắn và xinh đẹp, hoàn toàn xứng đáng với
lời ca tụng của viên sĩ quan cầm cờ. Thấy Stubble khen Amelia, Dobbin tỏ vẻ
bằng lòng lắm. Anh chàng sĩ quan cầm cờ tiến lên đỡ người thiếu nữ xuống xe,
nhận ra ngay một bàn tay xinh xinh nhỏ nhắn đón lấy tay mình, và một bàn chân
cũng xinh xinh nhỏ nhắn đáng yêu làm sao đặt xuống bậc cửa xe.
Anh ta bỗng lúng túng mặt đỏ lên, cúi rạp xuống
chào một cách thật lịch sự. Nhìn thấy phù hiệu của trung đoàn thứ…thêu trên mũ
Stubble, Amelia cũng mỉm cười rất tươi cúi chào trả lại, làm cho viên sĩ quan
trẻ tuổi gần như chết đứng. Từ hôm ấy trở đi Dobbin đối với Stubble rất có cảm
tình; những buổi hai người cùng đi dạo hoặc đến chơi nhà nhau, Dobbin thường
khéo khuyến khích anh chàng nói chuyện về Amelia. Và trong đám sĩ quan trẻ tuổi
của trung đoàn thứ... cái việc tán dương và thờ phụng bà Osborne bỗng trở thành
một cái “mốt”. Những cử chỉ giản dị tự nhiên, điệu bộ khiêm tốn và thân mật của
Amelia đã chinh phục được tâm hồn tất cả mọi người. Kẻ viết truyện này không
sao dùng ngòi bút mà miêu tả nổi sự giản dị mà hấp dẫn của người thiếu nữ ấy.
Nhưng chúng ta, ai là người đã từng tiếp xúc với những thiếu nữ như thế này mà
không thấy - mặc dầu họ chỉ mới nói với ta một câu, đại khái đã trót hẹn nhảy
với người khác điệu quadrille sắp tới rồi, hoặc than thở rằng hôm nay sao trời
nóng quá - bao nhiêu đức tính tốt đẹp nơi họ? Xưa nay George vẫn nổi tiếng
trong trung đoàn, bây giờ lại càng được anh em kính phục vì tấm lòng cao thượng
dám cưới một cô vợ nghèo không của hồi môn, và vì con mắt tinh đời, khéo kén
được người vợ sao mà xinh đẹp, dịu dàng như vậy.
Bước chân vào phòng khách được sửa soạn sẵn để
chờ đón các nhà du khách, Amelia ngạc nhiên nhìn thấy trên bàn có một lá thư để
gửi cho bà đại úy Osborne. Lá thư viết trên một mảnh giấy màu hồng hình tam
giác có đóng một con dấu hình con chim bồ câu ngậm cành lá ô-liu, ngoài bì gắn
nhiều dấu xi màu xanh nhạt; chữ viết to nhưng nét không khỏe, rõ ra chữ đàn bà.
George cười bảo vợ:
- Thư của bà Peggy O’Dowd đấy. Nom con dấu cũng
biết ngay.
Quả thật đó là thư của bà thiếu tá O’Dowd. Bà
này mời Amelia ngay tối hôm ấy đến dự một buổi họp mặt thân mật do bà tổ chức.
George bảo vợ:
- Em nên đến dự. Em sẽ nhân dịp làm quen với
mọi người trong trung đoàn. Bởi vì ông O’Dowd chỉ huy trung đoàn, nhưng chính
bà Peggy lại chỉ huy ông O’Dowd.
Nhưng hai vợ chồng vừa mới kịp đọc xong lá thư
thì cửa phòng bỗng mở toang; một người đàn bà to béo, tươi tỉnh, bận bộ áo đi
ngựa bước vào, theo sau là hai viên sĩ quan trong trung đoàn của Osborne.
- Gớm, tôi không sao nén lòng chờ đợi tới giờ
bữa tiệc trà - buổi chiều được. Ông George thân mến ơi, giới thiệu tôi với bà
ta đi. Rất hân hạnh được biết bà, và được giới thiệu nhà tôi là thiếu tá O’Dowd
với bà.
Người đàn bà vừa nói vừa thân mật nắm chặt đấy
tay Amelia ; cô thiếu nữ biết ngay đấy chính là bà thiếu tá, người đã bị chồng
mình nhiều lần đem ra làm trò cười. Bà này lại vui vẻ tiếp:
Hẳn bà đã nhiều lần được nghe ông nhà ta kể
chuyện về tôi chứ ?
Ông thiếu tá chồng bà xen vào:
- Nhất định bà đã nghe kể chuyện nhiều lần rồi.
Amelia mỉm cười đáp:
- Quả có thế.
Bà O’Dowd lại nói:
- Chắc ông George ít nói tốt cho tôi, phải
không?
- Ông ấy thật đến tồi.
Ông chồng bà ta làm bộ láu lỉnh xen vào:
- Điều ấy thì khỏi phải bàn.
George cười xòa. Bà O’Dowd quất roi ngựa đến
đét một cái ngụ ý ra lệnh cho ông chồng đừng bép xép nữa, rồi bà yêu cầu George
giới thiệu mình với “Bà đại úy” theo đúng thủ tục của khoa xã giao.
George trịnh trọng lên tiếng:
- Xin giới thiệu với mình đây là người bạn rất
tốt, rất quý báu của tôi, bà Auralia Margaretta, còn gọi là bà Peggy.
Viên thiếu tá lại chêm vào:
- Lạy chúa, ông nói đúng quá đi mất.
-…còn gọi là bà Peggy tức Michael O’Dowd thiếu
tá phu nhân, lệnh ái của tôn ông Fitzjurld Ber’sford de Burgo Malony ở
Glenmalony, quận Kildare.
Bà thiếu tá điềm nhiên tiếp theo, rất kiêu
hãnh:
- Và tại quảng trường Muryan, Doblin.
Ông thiếu tá chồng bà cũng thì thầm:
- Đúng lắm, tại quảng trường ông Muryan.
Bà vợ lại nói:
- Chính tại đó, xưa kia ông đã lặn lội theo
đuổi tôi mãi, phải không, ông thiếu tá yêu quý?
Ông thiếu tá gật đầu công nhận, như ông quen
công nhận bất cứ điều gì vợ nói trước công chúng.
Thiếu tá O’Dowd đã từng phục vụ đức Hoàng đế
tại khắp mọi nơi trên mặt trái đất này; mỗi bậc thang danh vọng của ông được
đánh dấu bởi những chiến công trên cả sự oanh liệt, tuy vậy ông ta lại là người
khiêm tốn, ít nói và hiền lành nhất đời; đối với bà vợ, ông ta ngoan ngoãn vâng
lời như một thằng nhỏ. Ngồi ăn với các sĩ quan trong quán ăn nhà binh, ông
không nói mấy, cứ ra sức mà nốc rượu. Rượu say bí tỷ rồi ông mới lặng lẽ chệnh
choạng lần về trại. Khi ông lên tiếng, ấy chỉ là để tán thành ý kiến của hết
thảy mọi người về bất cứ vấn đề gì. Cứ thế, cuộc đời ông trôi qua một cách hết
sức thoải mái, dễ chịu. Bầu trời nóng bức xứ Ấn Độ không hề khiến ông bẳn tính
bao giờ, cũng như đối với ông, bệnh sốt rét vàng da đành chịu khoanh tay bất
lực. Ông tiến ra trận địa với thái độ hoàn toàn bình thản y như lúc ngồi vào
bàn ăn. Món thịt ngựa hay món xúp ba-ba đối với ông đều đáng thưởng thức như
nhau. Ông còn bà cụ thân sinh đã già là cụ O’Dowd ở O’Dowdstown; từ nhỏ, chưa
bao giờ ông trái lời mẹ, trừ việc ông trốn nhà xin tòng ngũ, và việc ông cứ
nhất định cưới bằng được cái bà Peggy Malony ghê gớm này làm vợ.
Bà Peggy có năm chị em cả thảy, trong số mười
một người con vừa trai vừa gái thuộc gia đình quý tộc Glenmalony; ông O’Dowd
đối với bà thuộc hàng anh họ, nhưng về bên họ ngoại, thành ra không có cái hân
hạnh vô song là được mang dòng máu của gia đình Malony trong người, dòng máu mà
bà Peggy yên trí rằng cao quý nhất thế giới. Bà đã đi Doblin chơi chín lần, lại
đã hai lần đi Cheltenham và Bath mà không tìm được người xứng đáng trao duyên
gửi phận. Cho đến năm đã gần ba mươi ba cái xuân xanh, bà bèn ra lệnh cho ông
anh họ là Mick phải cưới mình làm vợ; ông anh họ thực thà vâng lệnh đưa bà sang
Tây Ấn, để bà chủ tọa những cuộc họp mặt của các vợ sĩ quan trong trung đoàn
thứ...vì ông vừa được đến chỉ huy đơn vị này.
Chỉ sau nửa giờ ngồi chơi với Amelia cũng như
ngồi chơi với bất cứ người nào khác, bà O’Dowd đã đem gia thế nhà mình ra khoe
với người bạn mới thật cặn kẽ. Bà vui vẻ nói:
- Bà bạn thân mến ạ, trước kia tôi vẫn có ý
muốn được coi ông George là người trong nhà đấy. Cô Glorvina em gái nhà tôi mà
làm bạn với ông ấy thì đẹp đôi quá. Nhưng câu chuyện đã qua chả nên nhắc lại
làm gì; bây giờ bà đã kết bạn trăm năm với ông ấy, tôi quyết định sẽ coi bà như
em gái, tôi sẽ coi bà như một người trong gia đình. Nói có Chúa trời chứng
giám, bà có bộ mặt xinh đẹp đáng yêu lắm, chắc chắn chúng mình sẽ thân nhau
ngay; gia đình chúng tôi có thêm một người nữa.
- Đúng lắm, sẽ có thêm một người nữa.
Ông O’Dowd xen vào tỏ ý tán thành, Amelia cũng
cảm thấy sung sướng và biết ơn, vì đột nhiên được tiếp xúc ngay với nhiều người
sẵn có cảm tình với mình như vậy.
Bà vợ ông thiếu tá lại nói:
- Chúng tôi ở đây đều là người tốt. Bà sẽ thấy
khắp quân đội không có đơn vị nào anh em đoàn kết một lòng với nhau như ở đây,
và cũng không đâu có một câu lạc bộ nào thú vị bằng. Không ai gây sự cãi nhau
bao giờ, không hề có chuyện bôi nhọ nói xấu nhau. Chúng tôi quý nhau lắm cơ.
George cười đáp:
- Thí dụ như bà Magenis chẳng hạn, nhỉ?
- Bà đại úy Magenis và tôi đã làm lành với nhau
rồi, tuy rằng cách bà ấy đối xử với tôi có thể sẽ khiến tôi tóc bạc trắng đi vì
phiền muộn mà chết.
Ông thiếu tá vội kêu lên:
- Ấy chớ, thế thì hỏng hết bộ tóc huyền của bà,
hoài của?
- Thôi, im đi, ông Mick, ông ngớ ngẩn lắm. Bà
Osborne thân mến ạ, cái bọn các ông chồng vẫn không chừa thói cứ hay nhúng mồm
vào. Tôi vẫn bảo ông Mick nhà tôi luôn luôn rằng đừng có bao giờ mở mồm ra làm
gì, trừ trường hợp phải chỉ huy lính, hoặc để nốc rượu ăn thịt thì không kể.
Lúc nào chị em mình ngồi riêng với nhau tôi sẽ
kể cho bà nghe mọi chuyện trong trung đoàn để bà biết mà liệu giữ gìn. Bây giờ
bà hãy giới thiệu tôi với ông anh trai của bà đi; ông ấy trông thật bệ vệ, lịch
sự, làm cho tôi nhớ đến ông anh họ của tôi là Dan Malony quá (bà biết không,
tức là thuộc chi họ Malony Ballymalony ấy mà; chị dâu tôi là Ophalia Scully
Oystherstown, là em họ của bá tước Poldoody đấy) Thưa ông Sedley, vô cùng hân
hạnh được làm quen với ông. Chắc ông vui lòng đến dùng cơm tại quán ăn nhà binh
chúng tôi hôm nay? Ông Mick, chớ quên lời căn dặn của ông bác sĩ nhé; hôm nay
xin ông uống in ít thôi cho tôi nhờ.
Viên thiếu tá đáp:
- Mình ạ, hôm nay là bữa tiệc trung đoàn 15 tổ
chức thiết chúng ta đấy. Nhưng bảo họ viết giấy mời ông Sedley cũng tiện thôi.
- Simple, đi hộ ngay... đây là thiếu uý Simple,
sĩ quan cầm cờ trong trung đoàn chúng tôi, khi nãy quên chưa giới thiệu với
bà... chạy ngay bộ sang tìm trung tá Tavish nói rằng bà thiếu tá O’Dowd gửi lời
chào nhé, và báo rằng đại úy Osborne có ông anh vợ đến chơi, sẽ đến thăm câu
lạc bộ của trung đoàn 15 lúc năm giờ đúng...Bây giờ thì hai chị em mình, ta
cùng ăn với nhau một chút gì cho vui chứ?
Bà O’Dowd chưa nói dứt câu đã thấy thiếu uý
Simple nhảy bổ xuống thang gác đi thi hành lệnh trên rồi.
Đại úy Osborne nói:
- Sự phục tòng là linh hồn của quân đội Emmy ạ.
Trong khi bà O’Dowd ở đây trò chuyện cho mình vui, chúng tôi phải đi lo nhiệm
vụ.
Đoạn hai viên đại úy mỗi người khoác một cánh
tay ông thiếu tá, vừa lôi ông ta ra ngoài vừa nhìn qua sau đầu ông ta mà cười
với nhau. Được ở một mình với người bạn mới, bà O’Dowd bắt đầu dốc ra đủ các
thứ chuyện con cà con kê, làm cho cô thiếu nữ đáng thương của chúng ta cứ rối
cả lên, không sao chịu nổi. Bà kể cho Amelia nghe hàng trăm thứ chuyện liên
quan đến cái gia đình đông đúc của bà, mà từ nay người thiếu phụ trẻ tuổi đang
ngơ ngác kia có hân hạnh được coi là người nhà.
- Bà Heavytop, vợ ông đại tá, đã chết ở Jamaica
rồi; bà mắc bệnh sốt rét vàng da, lại đèo thêm chứng đau tim. Cái ông đại tá đã
già mà còn “chơi trống bỏi”, đầu hói, sọ giơ ra như gáo dừa mà còn chấp chới
một cô bé người lai thổ dân.Bà Magenis tuy có thiếu giáo dục thật, nhưng cũng là
người tốt; đáng tiếc là có cái lối mồm loa mép giải, giá đánh bài với mẹ thì
cũng bịp chứ chẳng tha. Còn bà đại úy Kirk thì mới nghe nói đến chuyện chơi bài
bà cứ ngước mãi đôi mắt tôm rồng lên ra vẻ sợ hãi lắm. (Xưa kia ông cụ thân
sinh ra tôi, vốn ngoan đạo, rất chăm chỉ đi lễ nhà thờ, và chú tôi là ông Dane
Malôny, một vị giám mục hẳn hoi, đêm nào cũng đánh bài với nhau để giải trí, có
sao đâu).
Bà O’Dowd lại tiếp:
- Nhưng mấy bà ấy không đi theo trung đoàn đâu.
Bà Magenis còn bận ở nhà giúp việc bà mẹ, hình như làm nghề bán lẻ khoai và
than ở Islington gần Luân-đôn thì phải; thế mà lúc nào cũng thấy bà ta khoác
lác rằng ông cụ thân sinh kinh doanh nghề tàu biển, hễ thấy tàu nào chạy trên
sông cũng lôi chúng tôi ra chỉ cho xem bằng được. Bà Kirk và lũ con ở lại khu
phố Bethesda để được luôn luôn gần gũi đức cha linh hồn là mục sư Ramshorn.
Hoàn cảnh bà Bunny cũng đáng chú ý lắm... nói cho đúng thì bao giờ cảnh bà ấy
cũng thế...Chả là bà ta đã đẻ cho ông trung úy Bunny tới bảy đứa con mà. Vợ
thiếu úy Posky cũng mới đến đây trước bà có hai tháng thôi. Bà ta cãi nhau với
Tom Posky đến hàng chục bận rồi, cứ ồn lên khắp cả trại lính (họ kể chuyện rằng
hai vợ chồng nhà này quăng cả bát đĩa lên đầu nhau. Tom bị sưng tím một bên
mắt, nhất định giấu không chịu nói vì sao). Có lẽ bà vợ sắp bỏ về với mẹ, đâu
như mở một nhà chứa trọ cho các thiếu nữ ở Richmond thì phải. Thế thì bỏ nhà đi
lấy chồng làm gì cho khổ? À, mà bà đã theo học ở trường nào đấy nhỉ? Tôi đã
từng được thụ hưởng giáo dục tại trường Flanahan ở Ilyssus Grove gần Dublin;
học phí đắt vô kể, nhưng được cái có một bà hầu tước dạy chúng tôi nói tiếng
Pháp hệt giọng Pháp lại có cả một vị trung tướng trong quân đội Pháp đã về hưu
dạy chúng tôi tập thể dục.
Amelia không sao hết bỡ ngỡ, vì đột nhiên thấy
mình trở thành một người trong cái gia đình kỳ quái này, tức là cái gia đình có
bà O’Dowd là chị cả. Đến giờ uống nước trà buổi chiều, cô được giới thiệu với
các phụ nữ khác; vì cô e lệ đáng yêu lại không đẹp một cách lộng lẫy, nên họ
đối với cô ra chiều cũng có cảm tình; cho tới lúc các sĩ quan trong trung đoàn
15 đến, thấy người nào cũng có vẻ chú ý tới Amelia, mấy người chị em của cô dĩ
nhiên mới bắt đầu moi ra đủ mọi thứ khuyết điểm. Bà Magenis bảo với bà Bunny:
- Tôi hy vọng rằng từ nay trở đi Osborne sẽ tu
tỉnh lại.
Ví thử một tay bán giời không văn tự có thể hối
cải mà thành người chồng tốt, thì bà này cũng có phúc đấy.
Bà O’Dowd thì thầm với bà Posky như vậy. Bà
Posky vừa bị Amelia cướp mất địa vị cô vợ mới nhất trong trung đoàn, cũng đang
căm giận kẻ thoán đoạt. Bà Kirk, học trò của ngài Ramsorn, bèn ra cho Amelia
vài câu hỏi thuộc về nguyên tắc đạo lý, để xem cô có thông giáo lý không, có
phải là tín đồ Gia-tô giáo thực sự không. Thấy người thiếu nữ đáp lại bằng
những lời lẽ đơn giản, bà này cho rằng Amelia còn đang chìm trong bóng tối dày
đặc, bèn đưa tặng mấy cuốn sách đạo rẻ tiền trong có vẽ tranh minh họa... đại
khái là cuốn “Sa mạc gió hú”, “Người đàn bà giặt thuê ở Wandsworth”, “Cây lưỡi
lê cừ khôi nhất trong quân đội Anh quốc”. Mong cho bạn được ơn trên soi thấu
trước khi đi ngủ, bà Kirk yêu cầu Amelia ngay đêm ấy nên đọc cho xong mấy cuốn
sách rồi hãy lên giường nằm.
Riêng bọn đàn ông vốn là những người tốt bụng,
cứ xúm xít xung quanh cô vợ xinh đẹp của bạn, giở hết vẻ hào hoa của con nhà võ
ra để tỏ lòng ngưỡng mộ. Hôm ấy Amelia cũng gọi được là thắng lợi, trong lòng
phấn khởi đôi mắt sáng ngời lên. George thấy vợ được chú ý cũng tỏ vẻ tự hào,
vì Amelia khéo đáp lại những sự săn sóc và những lời chúc tụng của các bạn; cô
rất tươi tỉnh và duyên dáng, tuy cử chỉ có phần mộc mạc và hơi e lệ một chút.
Còn George trong bộ quân phục...ôi chao trong phòng đố ai nom điển trai bằng
anh ta? Amelia cảm thấy chồng đang âu yếm nhìn mình; mặt cô sáng ngời lên, sung
sướng vì tình yêu của chồng. Cô tự nhủ thầm quyết định thế này: “Mình sẽ tiếp
đãi bạn bè của anh ấy chu đáo. Mình sẽ quý hết thảy người nào quý anh ấy. Mình
sẽ hết sức vui vẻ để làm cho anh ấy vừa lòng”. Tóm lại, trung đoàn đã đón nhận
Amelia rất nhiệt tình. Các đại úy đều đồng tình, các trung úy đều hoan nghênh
và các thiếu úy thì đều bị “thu mất hồn”. Ông già Cutler, thầy thuốc nhà binh
chêm vào vài câu khôi hài...những câu khôi hài có vẻ lính tráng quá, không tiện
nhắc lại ở đây. Cackle phụ tá quân y đã từng tòng học tại Edinburgh đại học đường,
ra điều muốn sát hạch cô về khoa văn chương, bèn dẫn ra ba câu thơ tiếng Pháp
của mình để thử tài. Viên thiếu uý trẻ tuổi Stubble cứ đi hết người này đến
người khác mà thì thầm: “Lạy Chúa, con người quả là xinh đẹp nhỉ”. Anh chàng cứ
ngây người ra mà ngắm Amelia cho tới lúc rượu mang ra mới thôi.
Riêng đại úy Dobbin, suốt buổi tối hôm ấy anh
ta không nói chuyện nhiều với Amelia, Dobbin cùng đại úy Porter thuộc trung
đoàn 15 đưa Joe, trở về khách sạn; Joe say bí tỉ. Câu chuyện săn hổ Joe mang ra
kể rất có kết quả ở quán ăn nhà binh cũng như trong buổi tiếp tân do bà O’Dowd
chủ tọa với chiếc khăn to tướng trên đầu có đính lông một con chim thụy hồng.
Giao ông ủy viên tài phán cho người hầu xong, Dobbin đi quanh quẩn rồi đến hút
thuốc lá ở ngoài cửa khách sạn. Trong khi ấy, George choàng khăn san cho vợ cẩn
thận rồi từ biệt bà O’Dowd đưa vợ về, sau khi đã bắt tay khắp mặt đám sĩ quan
trẻ tuổi. Họ theo ra tận ngoài cửa để tiễn; xe ngựa chuyển bánh, họ còn đồng
thanh reo to lên để chào. Về đến khách sạn Amelia bước xuống xe trao bàn tay
xinh xinh cho Dobbin, mỉm cười và trách anh sao suốt buổi tối hôm ấy chẳng thèm
để ý đến mình chút nào.
Sau khi khách sạn đã đóng cửa, hàng phố cũng đã
tắt đèn đi ngủ cả. Dobbin vẫn còn đứng hút thuốc lá theo dõi ánh đèn tắt đi trong
phòng khách của George, rồi lại sáng lên trong gian phòng ngủ kề ngay bên cạnh.
Lúc anh ta trở về chỗ mình ở, trời đã gần sáng. Trên mặt sông đã nghe tiếng ồn
ào vẳng lại từ những chiếc tàu thủy; những chiếc tàu này đang lấy khách và chất
hàng để sửa soạn xuôi dòng sông Thames.
Chương 28
AMELIA SANG BỈ
Trung đoàn cùng các sĩ quan sẽ được chuyển vận
bằng tàu bể do chính phủ Hoàng gia cung cấp đặc biệt. Hai ngày sau bữa tiệc trà
tổ chức ở nhà O’Dowd, đoàn tàu từ từ tiến theo dòng sông đi Ostend, giữa những
tiếng hoan hô sôi nổi từ những chiếc tàu của công ty Đông Ấn và của những binh
sĩ đứng trên bờ sông, dàn quân nhạc cử bài “Thượng đế phù hộ cho nhà vua” vang
lên; các sĩ quan vừa hò reo cổ vũ vừa giơ cao mũ vẫy chào; quần chúng cũng hoan
hô nhiệt liệt. Chàng Joe phong tình sẵn sàng lĩnh nhiệm vụ theo hộ vệ cô em gái
và bà vợ viên thiếu tá; Mớ hòm xiểng to kếch xù của bà này cùng với tấm khăn
bịt đầu có đính chiếc lông chim nổi danh cũng được chuyển đi cùng vời đồ quân
dụng của trung đoàn. Hai nữ nhân vật của chúng ta không có hành lý cồng kềnh đi
rất thoải mái đến Ramsgate; từ đó, họ tới Ostend, trên một con tàu khác.
Bây giờ bắt đầu một đoạn đời mới của Joe, có
rất nhiều sự kiện xảy ra đủ cung cấp đề tài cho anh chàng kể chuyện trong hàng
chục năm sau; ngay cả chuyện săn hổ cũng bị xếp xó, vì Joe còn bận kể biết bao
nhiêu chuyện ly kỳ hấp dẫn về chiến dịch Waterloo vĩ đại. Ngay buổi anh chàng
nhận đi hộ vệ cho cô em gái ra nước ngoài, người ta bắt đầu thấy Joe thôi không
cạo râu nữa. Ở Chatham, anh ta theo dõi rất chăm chú mọi cuộc duyệt binh và tập
tành của đơn vị. Anh ta lại lắng nghe kỹ càng mọi câu chuyện giữa “các anh em
sĩ quan” (sau này, thỉnh thoảng Joe vẫn còn gọi họ như vậy) và cố thuộc lòng
những danh từ quân sự càng nhiều càng hay. Trong những cuộc nghiên cứu ấy, bà
O’Dowd đã giúp đỡ anh ta rất nhiều. Cuối cùng, khi họ bước lên chiếc tàu thủy
“Đóa hồng xinh” để đến đích thì Joe xuất hiện với tấm áo có đính khuy hoa theo
lối nhà binh, mặc quần trắng và đội một chiếc mũ lưỡi trai có lon vàng sáng
chói. Anh ta lại cho đem theo cả chiếc xe lên tàu; gặp hành khách nào trên tàu
anh ta cũng kín đáo cho biết rằng mình đang đi theo đội quân của Quận công
Wellington. Thiên hạ yên trí anh ta là một nhân vật quan trọng, một đặc phái
viên nào đó, hoặc ít nhất thì cũng phải là một tín sứ của chính phủ.
Cuộc hành trình qua mặt bể làm cho anh ta vô
cùng khổ sở; hai người đàn bà cũng mệt mỏi không kém. Nhưng lúc con tàu đến
Ostend, Amelia như người được sống lại vì thấy chiếc hải thuyền chở trung đoàn
của chồng cặp bến gần như cùng một lúc với chiếc “Đóa hồng xinh”. Joe về khách
sạn trước, người mệt rã rời; đại úy Dobbin đi kèm hai người đàn bà, sau đó
trông nom việc chuyển chiếc xe cùng đồ đạc của Joe đem vào phòng thuế quan; lúc
này Joe không có ai theo hầu, vì tên người nhà của Osborne và thằng hầu béo phị
của Joe đã âm mưu với nhau ở Chatham dứt khoát không chịu vượt biển. Cuộc phiến
loạn hết sức đột ngột xảy ra đúng vào ngày cuối cùng trước khi lên đường làm
cho Joe Sedley lo sốt vó suýt nữa thì quyết định bỏ dở cuộc hành trình, nhưng
bị đại úy Dobbin giễu cợt (theo lời Joe thì Dobbin hiếu sự không thể tả được)
anh chàng lại đi vậy. Vả lại, bộ râu của anh ta đã rậm rồi; cuối cùng Joe lên
tàu thiếu những người hầu béo tốt, kiểu cách, chỉ biết nói tiếng Anh như ở
Luân-đôn, Dobbin đã tìm cho Joe và hai người đàn bà cùng đi một thằng hầu bé
nhỏ người Bỉ da đen đen; không biết nó nói thứ tiếng gì, nhưng có điệu bộ nhanh
nhẩu tháo vát, lúc nào nó cũng khéo gọi tôn ông Sedley, một điều “bẩm quan
lớn”, hai điều, “bẩm quan lớn”, thành ra cũng được vị quý khách mau có cảm
tình. Bây giờ Ostend đã thay đổi nhiều rồi; trong số những người Anh qua đó du
lịch, không còn mấy người có vẻ là những vị vương công hoặc biết cư xử như
những người thuộc dòng dõi quý tộc nước Anh như xưa. Hầu hết họ đều ăn mặc tồi
tàn, chơi bi-a, nốc rượu bí tỷ, bê tha cờ bạc và ưa la cà quanh những tấm bàn
nhờn mỡ ở các quán ăn.
Lệnh trên đã ấn định rằng mọi quân nhân trong
đội quân của Quận công Wellington mua gì đều phải trả tiền. Đó là tác phong
thích hợp nhất trong sự giao thiệp với một dân tộc toàn những người buôn bán.
Một xứ sở chuộng thương mại như thế mà được tiếp đón một đội quân khách hàng
sòng phẳng thì thật là đại hồng phúc. Cái đất nước được đội quân ta đến che chở
chẳng có tí gì là quân sự hết.
Trải qua một thời gian dài trong lịch sử, họ
vẫn nhường cho người nước khác đánh nhau hộ trên đất nước họ, khi tới quan sát
lại trận địa của chiến dịch Waterloo, kẻ viết truyện này có hỏi bác xà ích
trông vạm vỡ có vẻ một cựu chiến bình, xem bác ta có tham dự trận đánh ấy
không.
Bác ta đáp: “Cũng không tồi lắm”()...Có lẽ
không một người Pháp nào muốn nói câu đó cũng như muốn có tình cảm đó của bác
ta; trái lại, anh chàng bồi ngựa đi theo xe chúng tôi, trước kia là một tử
tước, con trai một viên tướng trong quân đội thời đế chế bị phá sản; hắn ta
chịu ngửa tay nhận một ngụm bia đáng giá một xu mà uống. Âu cũng là một bài học
hay vậy.
Cái xứ sở giàu có, phong lưu ấy chưa bao giờ có
vẻ thịnh vượng như hồi đầu mùa hạ năm 1815; những bộ quân phục màu đỏ của chúng
ta làm cho bộ mặt của những cánh đồng xanh rì và những thành phố lặng lẽ tươi
tỉnh hẳn lên. Từng đoàn xe ngựa lộng lẫy của người Anh chen chúc nhau trên
những đường phố thênh thang, và những chiếc tàu thủy nhỏ trườn dọc theo những
cánh đồng cỏ mỡ màng cùng những làng xóm cũ kỹ lạ mắt và những lâu đài cổ kính
ẩn giữa những bụi cây cổ thụ; trên tàu chật ních toàn những hành khách phong
lưu người Anh. Hồi ấy những người lính trơn uống rượu ở tửu quán trong làng trả
tiền rất sòng phẳng. Anh lính Donald, người xứ Highlander, trú quán trong những
trại ở Bỉ đã đu đưa cái nôi cho em bé ngủ, trong khi Jean và Jeannette còn bận
chuyển rơm ngoài đồng về nhà. Các họa sĩ của chúng ta, ai yêu những đề tài quân
sự, hãy nhân cảnh đó mà dựng ngay một bức tranh để minh họa cho cách người Anh
tham chiến đứng đắn như thế nào. Quân sĩ người nào trông cũng chỉnh tề, hiền
lành như trong một cuộc duyệt binh ở quảng trường Hyde.
Trong khi ấy, Napoléon nấp sau những dãy pháo
đài ở biên giới đang sửa soạn một cuộc tấn công, xô đẩy những con người hiền
lành ấy vào trong máu lửa, và giết chết khá nhiều người trong bọn họ. Nhân dân
Anh ai cũng triệt để tin tưởng vào vị tướng lĩnh chỉ huy: Quận công Wellington
được toàn nước Anh hoàn toàn tín nhiệm không kém gì người Pháp đã say sưa tôn
sùng Napoléon một thời. Việc chuẩn bị tự vệ tỏ ra hoàn toàn chu đáo. Khi lâm
sự, lực lượng tiếp viện hùng hậu lại sẵn sàng can thiệp kịp thời, cho nên không
ai nghĩ đến chuyện nguy hiểm, và những vị khách du lịch của chúng ta - trong số
đó, có hai người thuộc phái yếu, bản tính nhút nhát - đều cảm thấy thoải -mái
yên tâm như mọi du khách người Anh khác.
Trung đoàn có những viên sĩ quan quen thuộc của
chúng ta phục vụ đã dùng những tàu thủy đi sông để chuyển quân đến Bruges và
Ghent, rồi từ đó đi đường bộ tới Brussels. Joe vẫn đi kèm hai người đàn bà trên
tàu thủy của nhà nước, loại tàu rất sang trọng đầy đủ tiện nghi, người nào đã
từng đi du lịch xứ Flanders không ai quên được. Những chiếc tàu này đi chậm,
nhưng về khoản cung cấp ăn uống thì tuyệt; có một giai thoại rằng một du khách
người Anh định đến thăm nước Bỉ trong một tuần, đã đi trên một chiếc tàu loại
này; ông ta khoái việc phục vụ trên tàu quá, đến nỗi cứ ở lỳ trên tàu mà đi đi
lại lại từ Bruges đến Ghent mãi, cho tới khi người ta phát minh ra xe hỏa. Khi
đó, sau cuộc hành trình cuối cùng, ông ta nhảy xuống sông tự vẫn. Joe sẽ không
chết như vậy; anh ta chỉ ăn tiêu thật sang trọng; bà O’Dowd cứ góp ý kiến mãi
rằng nếu có thêm cô em chồng bà là Glorvina cùng đi thì hạnh phúc của anh thật
là hoàn toàn. Suốt ngày anh ta ngồi trên boong tàu để uống rượu bia xứ Flemish,
để hò hét, sai bảo tháng hầu là Isidor và để tán chuyện với hai người đàn bà.
Hồi này bỗng nhiên Joe hóa ra can đảm ghê gớm.
Anh ta kêu ầm lên: “Boney dám tấn công quân ta! Emmy, cô em gái thân yêu của
anh ơi, đừng sợ, không có gì nguy hiểm đâu. Anh cam đoan với cô rằng hai tháng
nữa, quân đội đồng minh sẽ vào Paris, và anh sẽ đưa cô đến dự tiệc tại “cung
điện Hoàng gia”, thật đấy! Ba mươi vạn quân Nga, cô hiểu không, ba mươi vạn
quân Nga đang qua Mayence, vượt sông Rhine tiến vào nước Pháp; cô em gái ơi, ba
mươi vạn quân dưới quyền chỉ huy của Wittgenstein và Barclay de Tolly! Cô không
biết gì về chiến thuật, chiến lược, nhưng anh là người am hiểu; cô phải biết bộ
binh Pháp không thể đương đầu với bộ binh Nga, và tướng tá của Boney thì không
ai đáng cắp gươm theo hầu tướng Wittgenstein. Lại còn quân Áo nữa chứ, tất cả
là năm mươi vạn con người ra con người. Dưới quyền chỉ huy của Schwartzenberg
và hoàng tử Charles, chỉ mười ngày hành quân nữa là đến biên thùy nước Pháp, ấy
là chưa kể quân Phổ do một viên mãnh tướng chỉ huy là Hoàng tử thống chế. Murat
chết rồi, đố tìm đâu được một viên tướng chỉ huy kỵ binh tài giỏi bằng ông ta
đấy. Đúng không, bà O’Dowd? Việc gì mà phải sợ nào? Hả ? Mang thêm bia lên đây?
Bà O’Dowd bảo rằng cô Glorvina nhà bà cũng
không hề biết sợ ai trên đời, kể cả những người Pháp - vừa nói bà vừa nốc cạn
một cốc bia và nháy mắt một cái, tỏ ý rất thưởng thức món giải khát.
Nhờ được tiếp xúc thường xuyên với phái phụ nữ
ở Chentenham và Bath nên ông bạn cựu ủy viên tài phán của chúng ta đỡ được phần
nào tính dát gái thuở trước; nhất là lúc này lại có thêm men rượu trợ lực, anh
chàng đâm ra ba hoa tệ. Đối với trung đoàn, Joe đã trở thành khá thân mật; bọn
sĩ quan được Joe thết đãi hào phóng lại càng thú vị trước những điệu bộ cố làm
ra vẻ nhà binh của anh ta. Có một trung đoàn danh tiếng khi hành quân đã dùng
một con dê dẫn đầu một đội quân và dùng một con hươu dẫn đầu một đội quân khác
cho nên George đã khôi hài, ám chỉ ông anh vợ rằng trung đoàn của mình sẽ do
một con voi dẫn đầu.
Từ khi đưa Amelia ra mắt trung đoàn, dường như
George có ý ngượng vì vài người bạn trong đại đội mà anh ta buộc lòng phải giới
thiệu với vợ. Anh ta ngỏ ý với Dobbin quyết định xin chuyển ngay sang một trung
đoàn khác, để tránh cho vợ khỏi phải tiếp xúc với cái đám đàn bà thô bỉ ở đây
(điều này, khỏi phải nói, ta cũng biết Dobbin hoàn toàn tán thành). Nhưng cái
cảm tưởng hổ thẹn vì bè bạn của mình thường thấy trong nam giới nhiều hơn là
trong nữ giới (dĩ nhiên, trừ một số các bà lớn kiểu cách thì lại hay ngượng vì
chuyện này lắm); vì vậy vốn tính giản dị, mộc mạc, Amelia không hề có cái
ngượng ngập giả tạo mà chồng lầm coi là tế nhị.
Bà O’Dowd đội cái mũ có đính một mớ lông gà,
trên ngực đeo lủng lẳng một chiếc đồng hồ báo thức to tướng, thỉnh thoảng vô cớ
lại réo chuông cứ ầm lên. Bà ta kể lại rằng cái ngày bước chân lên xe hoa về
nhà chồng, ông thân sinh ra bà đã tặng bà chiếc đồng hồ đó làm quà cưới.
Khi Amelia phải tiếp xúc với bà thiếu tá, thấy
bà ta trang sức kỳ quái như vậy, cũng như vì nhiều điểm khác, Osborne ngượng
chín cả người. Nhưng Amelia chỉ thấy thú vị, tuyệt nhiên không hề cảm thấy khó
chịu điều gì.
Trong suốt thời gian cuộc hành trình quen thuộc
đối với hầu hết mọi người dân Anh trung lưu ấy, ta có thể có người bạn đồng
hành hiểu biết hơn, nhưng khó lòng kiếm được một người bạn lý thú hơn bà thiếu
tá O’Dowd.
- Này bà chị, nói về tàu thủy chạy sông ấy mà,
không đi xem những cái tàu chạy từ Dublin đến Ballinasloe thì không được. Chạy
nhanh như gió ấy, mà gia súc ở đây thì đẹp cha chả là đẹp ! Bà có biết không,
cụ thân sinh ra tôi xưa kia đã được thưởng huy chương vàng trong một cuộc triển
lãm về một con bò non bốn tuổi đẹp vô cùng; bây giờ khắp nước này, không đào
đâu ra được một con bò như vậy nhé. Chính ngài Quận công cũng đã dùng một miếng
thịt nó; ngài dạy rằng chưa hề ăn một miếng thịt nào ngon đến thế.
Joe vừa thở dài vừa tỏ ý tán thành rằng về cái
món thịt bò vừa ngon, không béo, không gầy, thì nước Anh quả là nhất thế giới.
Bà thiếu tá đáp:
- Trừ Ailen, thưa ông, giống bò tốt nhất của
các ông đều mua ở đấy cả.
Như tất cả mọi người dân Ailen khác, bà cũng ưa
đề cao đất nước mình trong khi so sánh với các xứ sở khác. Tuy chính bà khơi
ra, nhưng bà thấy đem so sánh những phiên chợ gia súc ở Bruges với những phiên
chợ Dublin là một việc làm vô cùng khôi hài. Bà vừa cười ầm lên đến rung chuyển
cả nhà cửa, vừa bảo: “Các ông làm ơn mách tôi biết họ xây cái chòi trên nóc chợ
kia làm gì thì hay quá.”
Đi qua chợ, họ thấy lố nhố toàn những anh người
Anh. Sáng sáng tiếng kèn đồng của nhà binh Anh đánh thức mọi người dậy, và tối
đến, nghe tiếng kèn hơi và tiếng trống “cà rùng” của quân đội Anh, mọi người
lên giường đi ngủ. Đất nước này cũng như toàn thể âu châu đều đang được quân sự
hóa, và sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử sắp sửa xảy ra rồi. Vậy mà bà Peggy
O’Dowd thực thà kia, người có liên quan đến sự kiện lịch sử ấy hơn ai hết, vẫn
cứ tiếp tục tán chuyện mãi về Balinafad, về giống ngựa ở Glenmalony, và về thứ
rượu ngon cất ở đấy. Joe thì không ngớt lời ca tụng gạo và món cay ở Dumdum
ngon tuyệt; còn Amelia thì chỉ mê mải nghĩ đến chồng, không biết tỏ tình yêu
với chồng thế nào cho thật khéo... y như trên đời đối với họ chỉ có chuyện ấy
là quan trọng.
Ai ưa gấp tập sử lại mà đi vào những giả định
về những biến chất có thể xảy ra trong quá khứ ngoài những điều đã trở thành sự
thật tàn nhẫn, (ấy tức là một loại suy tưởng lạ lùng, thú vị, nhiều sáng tạo và
hữu ích nhất đấy ạ!) ắt nghĩ rằng Napoléon đã chọn lầm một lúc bất lợi nhất để
trốn khỏi đảo Elba về đất liền, để thả con diều hâu của hắn bay từ vịnh San
Juan đến nhà thờ Đức Bà. Các sử gia của phe chúng ta chép lại rằng quân đội
đồng minh may mắn vẫn còn đủ sức sẵn sàng đánh ngã vị hoàng đế đảo Elba bất cứ
lúc nào. Giữa các “ông lái” tai to mặt lớn họp nhau lại ở Vienna để tùy sở
thích chia năm sẻ bảy lãnh thổ Âu châu, đã có quá nhiều mâu thuẫn đến nỗi suýt
nữa những đội quân đã chiến thắng Napoléon lại phải một phen đánh lộn nhau, nếu
con người mà toàn thể bọn họ đều thù ghét và khiếp sợ không trở lại. Này là một
vị đế vương có một đạo quân sẵn sàng chiến đấu, vì ngài vừa mới chiếm được
Ba-lan và nhất định bám chặt lấy quyền thống trị trên đất nước này; kia là một
vị khác mới cướp được một nửa xứ Saxony, cũng đang muốn nắm thật chặt không
chịu rời. Nước Ý cũng đang được một vị thứ ba chiếu cố nhòm ngó. Ông nọ to
tiếng mắng ông kia là tham lam; ví thử tên dân đảo Corse chịu ngồi đợi trong
nhà tù thêm ít lâu, khi nào mấy cường quốc kia quay ra cắn xé nhau rồi hãy về,
có lẽ hắn đã ung dung nuốt trôi tất cả rồi. Song, nếu quả thế thì câu chuyện
này và các nhân vật trong truyện sẽ ra sao? Nếu nước biển cạn hết thì biển sẽ
ra thế nào?
Trong thời gian ấy, việc đời cứ bình thản trôi
đi, đặc biệt là những trò ăn chơi, dường như không có chuyện gì chấm dứt nổi
cũng như không có kẻ thù nào ngoài mặt trận. Trung đoàn được lệnh đóng quân ở
Brussels; mấy nhà du lịch của chúng ta ai cũng bảo rằng được đến thăm một thành
phố vui vẻ sầm uất nhất châu Âu như Brussels thật là một hân hạnh lớn. Tại đây,
những quầy hàng của hội chợ phù hoa bày la liệt, trang hoàng lộng lẫy và hấp
dẫn nhất trần đời. Cờ bạc chơi tha hồ, nhảy nhót thả cửa; tiệc tùng ở đây thì
đủ sức thỏa mãn ngay cả anh chàng Joe tham ăn. Lại có một hý viện, trong đó một
Catalani kỳ diệu làm cho thính giả mê hồn, rồi thì những đường phố thênh thang
mỹ lệ được những bộ quân phục lộng lẫy làm tôn vẻ đẹp. Amelia rất thích thành
phố cổ kính hiếm có này với những phong cảnh và cách kiến trúc lạ kỳ. Cô chưa
hề bao giờ được ra ngoại quốc, cho nên nhìn cái gì cũng thấy lạ mắt và thú vị.
George và Joe chung nhau thuê một căn nhà thật lịch sự. George tính vốn hào
phóng lại hết sức chiều vợ. Suốt nửa tháng trăng mật, Amelia cảm thấy mình là
cô dâu mới hạnh phúc nhất nước Anh.
Mỗi ngày trong cái thời gian sung sướng này họ
lại có thêm những trò giải trí mới mẻ, hoặc đi thăm một ngôi nhà thờ, hoặc lại
đi xem một phòng triển lãm hội họa…hoặc giong xe ngựa đi chơi, hoặc đi coi hát.
Đội nhạc binh của cái trung đoàn chơi nhạc suốt ngày. Các bậc tai mặt của nước
Anh đều đến công viên, nơi một đại hội của nhà binh đang được thường xuyên tổ
chức. Mỗi đêm George lại dẫn vợ đến một nơi giải trí mới, anh ta bằng lòng mình
lắm và tuyên bố rằng hồi này mình đâm ra rất ưa cuộc sống gia đình. Được đi
chơi đây đó với George, đối với cô Amelia bé bỏng kia, thế cũng đủ cho tim cô
hồi hộp đập vì sung sướng rồi. Lá thư nào cô gửi về thăm mẹ cũng đầy những lời
lẽ hạnh phúc và biết ơn chồng. George bắt cô phải sắm đăng ten, vòng cổ, đồ
trang sức và đồ chơi đủ thứ; ôi, chồng cô thật là người tất nhất đời, rộng
lượng nhất đời!
George vốn mang tâm lý của một người Anh chính
cống, lấy việc được gặp gỡ những vị vương công, những bậc mệnh phụ chen chúc
nhau tại những nơi công cộng là một điều vô cùng thích thú. Tại đây, họ vứt bỏ
thái độ lạnh lùng, kiêu hãnh, kẻ cả thường ngày ở nhà, và hạ cố hòa mình với
tất cả thiên hạ. Một buổi tối, đến dự dạ hội do viên tướng chỉ huy sư đoàn có
đơn vị của George tổ chức, anh chàng có hân hạnh được khiêu vũ với công nương
Blanche Thistlewood, tức là con gái bá tước Bareacres; anh ta rối rít chạy đi
lấy đồ giải khát và nước đá để mời hai người đàn bà quý tộc; lại cũng chính anh
ta vịn tay đẩy chiếc xe của Bareacres phu nhân. Về nhà, George luôn mồm ca tụng
bá tước phu nhân; ngay đến ông Osborne cũng không có nhiệt tình được hơn thế.
Hôm sau, George lại đến thăm hai mẹ con bà bá tước rồi cưỡi ngựa đi kèm bên xe
của họ trong công viên; anh ta lại mời họ dự tiệc tại một khách sạn lớn; thấy
họ nhận lời, George xuýt phát điên lên vì sung sướng. Ông lão Bareacres tính
vốn không kiêu kỳ lắm, lại phàm ăn, nên sẵn sàng đi dự tiệc ở bất cứ đâu.
Bareacres phu nhân, sau khi nghĩ ngợi về bữa
tiệc mình đã nhận lời một cách hơi quá vội vàng, hỏi con gái:
- Không biết ngoài chúng mình ra, có người phụ
nữ nào khác không nhỉ?
Công nương Blanche, hồi nãy mới còn say sưa
trong cánh tay của George mà quay hàng giờ theo một điệu “valse” mới nhập cảng,
vội kêu ầm lên:
- Trời đất? Má ơi, anh chàng không đem vợ đến
chứ? Đàn ông bọn họ còn chịu đựng được, chứ vợ họ thì... ôi thôi. Ông bá tước
già nói:
- Vợ ông ta à? Họ đồn rằng vừa cưới xong, người
đẹp mê hồn.
- Thôi được; Blanche ạ, ba mày đã muốn thế thì
ta cứ đến dự; nhưng bao giờ về nước Anh, ta cũng chẳng cần đi lại với họ làm
gì.
Những vị tai mặt này quyết định với nhau khi
nào về phố Brussels, hãy cứ nhận lời đi dự tiệc cái đã, và chiếu cố để cho anh
chàng chịu trả tiền cũng thú. Tuy nhiên để cứu vãn lại đôi chút danh dự, họ tìm
mọi cách làm cho Amelia phải khó chịu, nghĩa là nhất định không đả động gì đến
cô trong khi nói chuyện. Cái thứ danh dự này thì đám đàn bà quý phái nước Anh
thuộc loại trùm. Nếu ta hay la cà trong Hội chợ phù hoa mà lại biết triết lý
đôi chút, thì cứ chịu khó quan sát cách giao thiệp của một bà quý phái đối với
bọn phụ nữ tầm thường, ta sẽ thấy nhiều điều lý thú.
Buổi dạ hội hôm nay, George, tiêu vô khối tiền,
ấy thế mà đối với Amelia cũng lại là bữa giải trí khổ tâm nhất trong suốt tuần
trăng mật. Cô viết thư kể lại bữa tiệc về cho mẹ, lời lẽ thật đau khổ. Nào là
Bareacres bá tước phu nhân không không thèm bắt chuyện với mình, nào là công
nương Blanche cứ giơ mãi cái ống nhòm mà soi mói nhìn mình, nào là thấy thái độ
của họ như vậy, Dobbin hết sức phẫn nộ, rồi lúc ăn xong, lão bá tước lại đòi
xem tờ hóa đơn tính tiền; lão kêu ầm lên rằng bữa tiệc đắt thế mà tồi quá.
Đọc thư, bà lão Sedley thấy con gái bực mình
phàn nàn rất nhiều về sự thô lỗ của bọn khách, nhưng bà cũng vẫn sung sướng; đi
đến đâu bà cụ cũng khoe rằng Emmy, con gái bà đánh bạn với Bareacres bá tước
phu nhân; đến nỗi ông Osborne ở khu City cũng biết tin con trai mình thết tiệc
các vị công nương quý tộc và các mệnh phụ.
Ai đã từng biết tướng George Tufto, tước tùy
giá Hiệp sĩ, và đã có dịp gặp mặt ông ta - trong mùa hội thì điều ấy cũng dễ
lắm - ắt còn nhớ hình ảnh này: vào những buổi đẹp trời, ông ta khệnh khạng đi
chơi ở Pall Mall, bận áo chế lót bông, đi ủng cao cổ bóng lộn, dáng điệu lẩy
bẩy, mắt cứ gườm gườm nhìn người qua đường như muốn khiêu khích, hoặc cưỡi một
con ngựa màu hạt dẻ mà liếc tình vào trong những xe ngựa của người ta chơi
trong công viên.
Nhưng bây giờ chẳng ai còn nhận ra trên con
người tướng Tufto hình ảnh vị sĩ quan dũng cảm trong cuộc chiến tranh ở
Tây-ban-nha và trong chiến dịch Wateeloo xưa kia nữa. Bây giờ ông ta có một bộ
tóc rậm quăn quăn màu nâu, đôi lông mày đen nhánh và bộ ria mép đỏ quạch; thế
mà vào năm 1815, đầu ông ta lại hói, tóc hơi ngả bạc nhưng chân tay còn mập
mạp; bây giờ chân tay ông ta khẳng khiu quá rồi. Cái hồi ông ta ngót thất tuần
(nay ông lão đã gần tám mươi), tự nhiên bộ tóc màu nâu và quăn tít; rồi lông
mày và ria mép cũng thay màu nết. Những đứa xấu mồm bèn phao tin rằng nghe ông
lão độn bông, còn bộ tóc là tóc giả, vì tóc lão có bao giờ mọc đâu. Tom Tufto
là cháu nội lão vẫn xích mích với lão mấy chục năm nay; Tom tuyên bố rằng một
buổi cô Jaisey, đào hát ở Hí viện Pháp, kéo rơi tuột cả bộ tóc giả của ông hắn;
nhưng cái thằng Tom ấy vẫn nổi danh là hay thù vặt và ghen ghét, vì thế cũng
chẳng nên để ý đến bộ tóc giả của vị tướng ấy làm gì. Một bữa kia, mấy viên sĩ
quan trong trung đoàn...của chúng ta là cà trong chợ hoa ở Brussels; họ vừa đi
thăm Tòa thị chính về. Bà O’Dowd bảo rằng so với cái lâu đài của ông thân sinh
ra bà ở Glenmalony thì Tòa thị chính ở đây không được to và đẹp bằng. Bỗng họ
thấy một sĩ quan cao cấp đi ngựa, có lính hộ vệ theo sau, tiến vào chợ. Viên sĩ
quan xuống ngựa, vào dãy hàng hoa, chọn mua một bó hoa đẹp nhất. Người bán hàng
bọc hoa vào giấy; viên sĩ quan lên ngựa, trao bó hoa cho anh lính hầu; anh lính
ôm bó hoa nhăn răng ra cười và đi theo ông quan thầy; vị sĩ quan phóng ngựa đi
và có vẻ hài lòng lắm.
Bà O’Dowd lên tiếng:
- Ước gì các ông được xem hoa ở Glenmalony. Ba
tôi nuôi ba người thợ làm vườn người Scotchland và chín thằng phụ việc. Nhà tôi
có một sào “nhà kính”. Còn dứa thì nhiều như đậu ở Luân-đôn lúc đang mùa ấy.
Nho nhà tôi mỗi chùm phải nặng tới năm sáu cân; tôi xin lấy danh dự cam đoan
rằng hoa mộc lan nhà tôi mỗi bông phải to bằng một cái ấm đun nước pha trà ấy.
Anh chàng Osborne quỷ quái chỉ thích gợi chuyện
để giễu cợt bà O’Dowd (Amelia cứ khẩn khoản xin chồng tha cho đừng trêu bà ta
làm gì), nhưng Dobbin thì không “tiêu” được bà này; anh ta phải lẩn vào đám
đông, chuồn ra một chỗ thật xa rồi mới dám phá ra cười, làm cho người đi chợ ai
cũng lấy làm quái lạ. Bà O’Dowd hỏi:
- Này, cái ông đại úy kệch cỡm ấy đâu rồi nhỉ?
Ông ấy lại chảy máu cam rồi phỏng? Lúc nào cũng thấy ông ấy nói mình chảy máu
cam, có nhẽ, khi nào hết máu trong người mới khỏi bệnh chắc! Này ông O’Dowd, có
phải hoa mộc lan ở Glenmalony to bằng cái ấm đun nước không?
Viên thiếu tá đáp:
- Peggy, đúng lắm, còn to hơn nữa cơ.
Câu chuyện bị ngắt đoạn khi viên sĩ quan vừa
nói trên đến mua hoa. George nói:
- Con ngựa đẹp thế nhỉ?
- Giá ông được nhìn thấy con ngựa của em tôi là
Molasses; nó đã ăn giải một cái bình bạc chạm ở Curragh đấy. Bà thiếu tá lại
kêu ầm lên, rồi thao thao bất tuyệt kể lai lịch gia đình mình; ông chồng ngắt
lời vợ:
- Đúng là tướng Tufto, chỉ huy sư đoàn bộ binh
thứ...rồi - ông điềm nhiên nói tiếp - Trong chiến dịch vây hãm Talavera ông ta
và tôi cùng bị đạn vào một chân như nhau.
George cười hỏi:
- Nhờ thế mà được thăng chức nhỉ? Tướng Tufto?
Này, mình ơi, vợ chồng Crawley cũng đến kìa.
Amelia thấy như nhói một cái trong tim, không
biết tại sao. Cô thấy đột nhiên mặt trời như tối lại, những mái nhà cổ kính với
những trường hồi nhọn hoắt bỗng mất dần vẻ đẹp tuy lúc ấy là buổi hoàng hôn rực
rỡ của một ngày đẹp đẽ, lộng lẫy nhất cuối tháng năm.
Chương 29
BRUSSELS
Joe thuê một đôi ngựa để kéo chiếc xe mui trần
của anh ta, chiếc xe song mã lộng lẫy kiểu Luân-đôn, trong những cuộc giong xe
đi chơi Brussels, trông anh ta cũng có mẽ người đáo để. George cũng mua riêng
một con ngựa, anh ta và Dobbin vẫn thường cưỡi ngựa đi kèm bên cạnh chiếc xe,
trên xe có Joe và em gái ngồi. Hôm ấy, như thường lệ, họ ra công viên chơi, và
thấy rõ George nói đúng; hai vợ chồng Rawdon Crawley cũng có mặt ở Brussels.
Rebecca đi giữa một đám đông cưỡi ngựa, toàn
những người tai mặt ở Brussels; cô ta bận một tấm áo kỵ mã thật lịch sự bó khít
người, cưỡi một con ngựa Ả-rập nhỏ rất đẹp, dáng điệu vô cùng thoải mái; hồi
còn ở trại Crawley Bà chúa, cô ta đã được cụ Pitt và chính Rawdon dạy cho cưỡi
ngựa nhiều lần. Cô sóng ngựa đi bên viên tướng hào hoa Tufto.
Bà thiếu tá O’Dowd bảo với Joe đang bắt đầu đỏ
tía mặt lên:
- Đích thị công tước rồi. Còn người cưỡi ngựa
nâu là bá tước Uxbridge. Trông mới lịch sự làm sao? Cậu Molloy Malony nhà tôi
giống ông ta như hai giọt nước vậy!
Mới đầu Rebecca không tiến lại chiếc xe ngựa,
nhưng lúc nhìn thấy cô bạn cũ Amelia ngồi ở trong thì cô chào bằng một nụ cười
thật duyên dáng, giơ bàn tay lên hôn gửi một cái và vẫy về phía chiếc xe, đoạn
cô lại quay sang tiếp tục câu chuyện với tướng Tufto. Ông này hỏi: “Viên sĩ
quan béo ị đội mũ đính lon vàng kia là ai đấy?” Rebecca đáp đó là một viên chức
trong công ty Đông Ấn. Rawdon Crawley thúc ngựa tách khỏi đám đông tiến ra thân
mật bắt tay Amelia, và bảo Joe: “Thế nào, ông bạn, mạnh khỏe chứ?” Đoạn anh ta
quay sang cứ trố mắt lên mà nhìn vào tận mặt bà O’Dowd cùng cái túm lông cài
trên mũ; bà này yên trí anh chàng phải lòng mình đứt đuôi rồi.
George từ phía sau lập tức cùng Dobbin thúc
ngựa tiến lên, họ giơ tay lên vành mũ chào mấy vị khách quan trọng. Osborne
nhìn thấy ngay trong số đó có cả cô vợ Rawdon. Thấy Rawdon thân mật ghé vào bên
xe trò chuyện với Amelia, anh ta khoái lắm, bèn sôi nổi bắt chuyện với viên sĩ
quan tùy tòng của tướng Tufto. Còn Rawdon và Dobbin thì chỉ khẽ gật đầu chào
nhau một cách hết sức lạnh nhạt.
Crawley bảo George rằng mình cùng tướng Tufto
hiện đang trọ tại khách sạn Công viên, lại hứa với George sẽ đến thăm ngay anh
ta tại chỗ ở riêng. George nói:
- Ba hôm nay không gặp mặt anh, buồn quá. Tôi
vừa tổ chức một bữa tiệc tại khách sạn...cũng khá vui. Bá tước Bareacres cùng
phu nhân và công nương Blanche cũng có lòng đến dự... giá có mặt thì tuyệt.
Thấy bạn đã tỏ rõ mình cũng đang trở thành một
con người sang trọng, George từ biệt Rawdon; Rawdon nhập vào đoàn quý khách
cưỡi ngựa, còn George và Dobbin lại quay về kèm hai bên xe ngựa của Amelia.
Bà O’Dowd lại nói:
- Công tước cưỡi ngựa trông đẹp nhỉ? Họ
Wellesleys và họ Molony là thân thích với nhau đấy. Nhưng thật khốn khổ, tôi
chẳng dám mơ đến chuyện tự giới thiệu mình với Công tước, có lẽ cứ để ngài nhớ
ra mà nhận họ hàng trước thì phải hơn.
Lúc nhân vật quan trọng kia đã đi rồi, Joe mới
cảm thấy thoải mái hơn trước; anh ta cũng góp ý kiến:
- Công tước thật là một quân nhân có tài. Thử
hỏi xưa nay ai thắng được trận nào như trận Salamanca? Phải không, Dobbin?
Nhưng có biết ngài nghiên cứu kỹ thuật quân sự ở đâu không? ở Ấn Độ đấy, thưa
người anh em. Rừng rậm chính là trường học quân sự của các vị tướng lĩnh, xin
nhớ hộ thế cho. Bà O’Dowd ạ, tôi cũng có quen công tước; trong một buổi dạ hội,
cả tôi và ngài cũng đã cùng nhảy với cô Cutler, con gái ông Cutler trong đội
pháo binh; cô ta đẹp tuyệt trần đời; ở Đumdum ấy mà.
Suốt buổi đi chơi hôm ấy, họ chỉ bàn tán với
nhau về cuộc gặp gỡ mấy nhân vật quan trọng, ngay trong bữa ăn cũng vậy, mãi
tới giờ đi xem hát ở rạp Opera mới thôi.
Cảnh tượng dường như không khác gì ở nước Anh.
Trong rạp hát toàn những bộ mặt quen thuộc
người Anh; từ lâu khắp thành phố người ta đã sôi nổi ca tụng cách làm đầu của
phụ nữ Anh-cát-lợi. Cách chải tóc của bà O’Dowd cũng được chú ý không kém. Mớ
tóc quăn trước trán có đính một hàng ngọc Ailen; theo ý bà, cả rạp hát không ai
có vật trang sức nào đẹp bằng. Phải ngồi cạnh bà O’Dowd, Osborne khổ tâm vô
cùng nhưng bà này hễ nghe nói mấy ông bạn trẻ đi đâu chơi là nhất định mò đến
tìm kỳ được bởi lẽ bà đinh ninh rằng được đi chơi cùng bà, họ phải sung sướng
lắm lắm.
George thường vẫn yên trí để vợ ngồi một mình
với bà O’Dowd. Anh ta bảo vợ:
- Mọi lần bà ấy có ích cho em lắm; nhưng may
quá, bây giờ có Rebecca rồi, em sẽ bầu bạn với cô ta, còn cái bà Ailen kia thì
ta xin đủ thôi.
Nghe chồng nói, Amelia không đáp, mà làm sao
biết được cô đang nghĩ gì nhỉ?
Ngó qua Hý viện Brussels, bà O’Dowd cũng thấy
hay hay, nhưng vẫn cho không bằng Hý viện Dublin ở phố Fishamble được; và theo
ý bà âm nhạc của người Pháp cũng không thể nào so sánh với thứ âm nhạc du dương
của tổ quốc bà. Bà cứ bô bô nói hết chuyện này đến chuyện khác, thản nhiên như
không, hết cụp rồi lại mở cái quạt giấy đem theo làm nó kêu cứ soàn soạt.
- Này Rawdon, anh yêu của em, cái bà kỳ quặc
ngồi cạnh Amelia kia là ai thế Một người đàn bà ngồi trong lô ghế phía trước
mặt hỏi vậy (bà này ở nhà riêng vẫn quen suồng sã với chồng, nhưng trước đám
đông lại càng tỏ ra thân mật hơn nữa). Anh có nhìn thấy người đội khăn có đính
cái gì vàng vàng kia kìa, mà mặc áo sa tanh đỏ, có đeo cái đồng hồ to tướng không?
- Ngồi gần người đàn bà xinh xinh bé nhỏ mặc áo
trắng ấy à?
Một ông sang trọng đứng tuổi ngồi cạnh người
đàn bà nói trên cũng lên tiếng; trên ngực áo của ông này có đính một hàng cuống
huy chương, cổ thắt một chiếc cà-vạt hoa trắng to tướng; ông ta mặc bao nhiêu
là áo gi-lê.
- Người đàn bà xinh xinh mặc áo trắng là Amelia
đấy, thưa trung tướng: chả người đàn bà đẹp nào thoát được khỏi mắt ngài, ngài
thật tệ quá.
- Ồ, trên đời này, tôi chỉ thấy có một người
đẹp thôi, thưa bà- viên tướng thú vị đáp.
Người đàn bà cầm bó hoa to tướng đập vào người
lão một cái.
Bà O’Dowd nói:
- Đích thị ông ta rồi. Chẳng phải bó hoa ông ta
mua ngoài chợ hoa là gì!
Rebecca thấy cô bạn gái nhìn về phía mình, bèn
đưa bàn tay xinh xinh lên miệng gửi một cái hôn. Bà thiếu tá O’Dowd lại tưởng
cái hôn ấy dành cho mình bèn mỉm cười thật duyên dáng đáp lại, làm cho anh
chàng Dobbin bất hạnh kia lại phải nhảy bổ ra ngoài “lô” ghế một lần nữa.
Hết màn kịch, George bỏ chỗ ngồi ra ngoài một
lát; anh ta đến chào Rebecea tại chỗ cô này ngồi; gặp Rawdon ngoài hành lang,
hai người trao đổi với nhau mấy câu về những chuyện xảy ra trong nửa tháng vừa
qua. George láu lỉnh hỏi:
- Anh thấy ngân phiếu của tôi hợp lệ chưa?
Rawdon đáp:
- Tốt lắm anh bạn ạ. Rất hân hạnh được để cho
anh phục thù. Ông cụ nhà “nghĩ lại” chưa?
George đáp:
- Chưa, nhưng rồi cũng ổn thôi, vả lại anh cũng
biết tôi còn ít tiền của bà cụ để lại cho. Bà cô đã “hồi tâm” rồi chứ?
- Gửi cho tôi được hai mươi đồng, gớm; cái bà
lão chết tiệt,vắt cổ chầy ra nước. Bao giờ chúng ta lại gặp nhau nhỉ? Thứ ba
này trung tướng dùng cơm ở ngoài. Thứ ba anh đến chơi được không? Bảo Sedley
cạo bộ râu đi. Một anh dân thường lại để râu xồm xoàm và mặc áo có khuy hoa là
nghĩa lý quái gì? Thôi nhé thứ ba cố đến chơi, nghe không.
Đoạn Rawdon cùng hai người trai trẻ ăn bận sang
trọng đi chỗ khác; hai người này cùng làm việc với anh ta tại phòng tham mưu
của trung tướng. George không được vui lòng lắm vì bị mời đến chơi đúng vào
ngày viên trung tướng dùng cơm ở ngoài.
Anh ta nói:
- Tôi muốn vào chào chị ấy một tý.
Rawdon đáp:
- Hừm, xin tùy anh.
Anh chàng có vẻ không bằng lòng; hai người sĩ
quan trẻ tuổi láu lỉnh nháy mắt với nhau. George từ giã họ qua hành lang đi về
“lô” ghế của viên trung tướng; anh ta nhớ rất kỹ số phòng.
- Cứ vào!
Có tiếng nói thanh thanh vọng ra; anh bạn của
chúng ta bước vào, thấy ngay Rebecca trước mặt. Cô ta đứng phắt dậy vỗ tay, và
chìa cả hai bàn tay ra cho George bắt; được gặp George cô ta cũng thích quá.
Viên trung tướng huân chương đầy ngực cứ trân trân ngó anh chàng, mặt lầm lì
cau lại, coi bộ như muốn hỏi anh là cái thằng quái nào thế nhỉ?
Rebecca say sưa reo lên:
- Đại úy George thân mến? Anh thật tốt quá, lại
đến tận đây! Trung tướng và em đương sắp cảm thấy buồn. Thưa trung tướng, đây
là đại úy George mà tôi đã nói chuyện với ngài.
Viên trung tướng chỉ hơi nghiêng nghiêng mình
gọi lại đáp:
- Đúng thế, đại úy George thuộc trung đoàn nào
nhỉ?
George nói số trung đoàn của mình, anh ta ước
gì được nói thêm rằng đó là một đơn vị kỵ binh rất tinh nhuệ.
Viên tướng vẫn kiêu hãnh ra mặt, tiếp:
- Chắc vừa mới từ Tây Ấn về phỏng? Trong cuộc
chiến tranh vừa rồi không thấy tham chiến nhiều. Đông quân ở đây chứ, đại úy
George?
Rebecca xen vào:
- Không phải là đại úy George, ngài thật chẳng
biết cái gì, đại úy Osborne.
Viên trung tướng vẫn cứ cau có hết nhìn Becky
lại nhìn George.
- Đại úy Osborne, phải. Có họ hàng gì với gia
đình quý tộc L-Osborne không đấy?
- Chúng tôi cùng mang chung một huy hiệu của
dòng họ.
George đáp vậy, mà sự thực quả có như thế. Mười
lăm năm về trước, ông Osborne đã đi hỏi một nhà chuyên môn và “cóp” đúng cái
huy hiệu của nhà L - kia trong sách “Danh bạ quý tộc” để sơn lên chiếc xe của
mình. Nghe George tuyên bố vậy, viên tướng không đáp; ông ta cầm lấy chiếc ống
nhòm xem hát - hồi ấy người ta chưa chế ra loại ống nhòm hai ống kính - giơ lên
quan sát khắp phòng. Nhưng Rebecca trông thấy rõ con mắt bên kia của ông đang
chiếu ra những tia lửa hằn học về phía mình và George.
Cô càng tỏ vẻ thận trọng hơn:
- Chị Amelia có mạnh khỏe không? Nhưng em chẳng
cần phải hỏi: chị ấy trông đẹp ra đấy. Còn cái người đàn bà đẹp beo béo ngồi
cạnh chị ấy là ai thế? Ý trung nhân của anh chứ gì? Gớm, đàn ông các anh tệ
thật. Lại cả anh Sedley đang ăn kem kìa: coi bộ anh ấy ăn ngon quá! Thưa trung
tướng, sao chúng ta lại chưa ăn kem nhỉ?
Cơn giận dữ của viên trung tướng bùng lên:
- Để tôi đi mua mang về bà xơi ạ?
George ôn tồn:
- Xin lỗi ngài, cứ để tôi.
- Không, em cũng muốn đến chỗ Amelia một tí:
chị ấy thật đáng quý. Đại úy George, đưa tay cho em vịn.
Nói đoạn, cô gật đầu chào viên tướng, lanh lẹn
bước ra ngoài hành lang. Lúc chỉ có hai người đi cạnh nhau, cô ta đưa mắt nhìn
George một cách thật lạ lùng mà láu lỉnh, cái nhìn ngụ ý. “Anh có hiểu câu
chuyện ra sao không? Có thấy hắn phát điên phát rồ vì tôi không”? Nhưng George
không nhận thấy. Anh ta còn bận sắp đặt kế hoạch riêng của mình, và đang mải mê
thích thú với ý nghĩ mình có khả năng hấp dẫn đàn bà rất tài.
Rebecca cùng người đàn ông chiếm được cô ta vừa
ra khỏi, viên tướng khẽ thốt lên một tiếng chửi khá tục tĩu, đến nỗi kẻ chép
chuyện chắc chắn rằng nếu có viết ra thì những người thợ sắp chữ trong nhà in
cũng không dám in. Tiếng chửi ấy phát từ đáy lòng viên trung tướng; kể cũng lạ
thay, thế mới biết con người ta khi cần thiết ai cũng có thể dốc ra hàng kho
những câu nói thô bỉ, tục tĩu đầy giận dữ và hằn học đến như vậy.
Đôi mắt xinh đẹp của Amelia cũng đang lo lắng
chăm chú theo dõi cử chỉ của cặp trai gái đã khiến cho viên tướng phát khùng
lên vì ghen. Nhưng khi Rebecca bước vào trong lô ghế của cô, Amelia ôm chầm lấy
bạn, mặc dầu đang ở chỗ đông người. Cô ôm lấy người bạn thân thiết mà hôn ngay
trước mặt mọi khán giả, ngay cả trước mặt viên tướng, vì lúc này lão đang hướng
ống nhòm về phía “lô” ghế của Osborne. Bà Crawley cúi chào. Cô thật lịch sự. Cô
ngắm nghía mãi cái trâm Cairngorm và những hạt kim cương Ai len sáng ngời của
bà O’Dowd và nhất định bảo rằng kim cương ấy đích thị là của mỏ Golconda. Cô ta
chuyện trò tíu tít, quay đi ngó lại, uốn éo, mỉm cười với người này, tươi tỉnh
với người nọ, cốt để cho con người ghen tuông, ngồi mé bên kia nom, thấy rõ qua
chiếu ống nhòm xem hát.
Lúc màn vũ ba-lê bắt đầu (trong màn kịch này
các nghệ sĩ đã tỏ ra có thiên tài vô địch), Becky trở về “lô” ghế của mình, lần
này khoác tay đại úy Dobbin. Không, lần này cô không muốn đi cùng George: anh
ta cần phải ở lại; để trò chuyện với cô Amelia thân yêu quý báu nhất đời của
anh ta chứ.
Dobbin lặng lẽ dẫn Rebecca về “lô” ghế của cô
ta không nói một lời, mặt buồn thiu như người đi đưa đám; lúc trở về chỗ của
mình, anh ta thì thầm với George:
- Con mụ đóng kịch khéo thật. Cứ lăn lộn uốn éo
như con rắn ấy. Anh có thấy không, suốt thời gian ngồi ở đây, cô ta đóng kịch
cho lão trung tướng ở bên kia xem đấy.
George nhe hàm răng trắng muốt cười, giơ tay vê
vê bộ ria mép màu phổ phách:
- Đóng kịch hả?... Cóc cần; cô ta là hoa khôi
đẹp nhất nước Anh đấy. Dobbin, anh không lịch sự một tí nào. Nhưng mà kìa, nhìn
xem; cô ta chưa nói, tướng Tufto đã toét miệng ra cười rồi? Chao ôi! Đôi vai
mới xinh làm sao! Emmy, sao em không mua lấy một bó hoa! Ai cũng đem theo hoa
cả. Bà O’Dowd chen vào:
- Thế sao ông không mua một bó?
Cả Dobbin và Amelia thầm cám ơn câu trả lời
đúng lúc của bà này, nhưng sau đó hai người đàn bà đều không có vẻ được hài
lòng. Amelia buồn rầu nhận thấy kẻ địch của mình lộng lẫy quá, duyên dáng quá,
trội hơn hẳn mình.
Còn bà O’Dowd suốt buổi tối hôm ấy cũng lặng
thinh sau sự xuất hiện rực rỡ của Rebecca, không tán chuyện về Glenmalony nữa.
Mấy ngày sau, có lần Dobbin hỏi George:
- George, anh định bao giờ mới chừa đánh bạc
đấy? Anh hứa với tôi như thế có dễ đã một thế kỷ rồi nhỉ?
-Còn anh, anh định bao giờ mới nghỉ dạy luân lý
cho tôi? Việc quái gì anh phải lo? Chúng tôi chơi cò con với nhau thôi mà. Đêm
qua tôi được. Anh cho rằng Crawley bịp à? Cứ chơi thực thà với nhau thì từ giờ
đến cuối năm tôi cũng hòa vốn.
- Nhưng tôi tin rằng nếu hắn thua, hắn không có
tiền trả đâu.
Lời khuyên của Dobbin cũng chẳng có tác dụng gì
hơn mọi lần. Bây giờ Osborne và Crawley đã thành đôi bạn nối khố. Tướng Tufto
đi dự tiệc ở ngoài luôn. Kề sát bên phòng của viên trung tướng là căn phòng của
hai vợ chồng viên sĩ quan tùy tòng; tại đây, bao giờ George cũng được tiếp đón
nồng hậu.
Lần vợ chồng George đến thăm vợ chồng Crawley ở
đây, thái độ của Amelia khiến cho lần đầu tiên xuýt nữa hai vợ chồng thành ra
giận nhau. George mắng vợ một cách thô bạo vì cô không muốn đi với mình, và lúc
đến chơi, sao lại tỏ thái độ kiêu ngạo, kẻ cả quá đối với vợ Rawdon là bạn cũ.
Amelia không đáp lại một lời. Nhưng đến lần thăm viếng thứ hai thì cô lại càng
tỏ ra vụng về lúng túng, vì thấy chồng cứ ngó mình chằm chằm, còn Rebecca thì
lại thỉnh thoảng liếc mắt nhìn mình soi mói. Dĩ nhiên Rebecca càng tỏ ra thân
mật gấp bội, không hề chút nào chú ý đến thái độ lạnh nhạt của bạn.
- Hình như Amelia trở thành kiêu ngạo hơn từ
khi tên ông cụ được nêu trong...từ khi cụ Sedley gặp rủi ro thì phải.
Rebecca bảo nhỏ George, cố ý làm dịu bớt câu
nói.
Cô ta tiếp:
- Thật đấy. Hồi chúng ta còn ở Brighton, em đã
có cái hân hạnh được chị ấy ghen thì phải. Bây giờ, em đoán chắc rằng chị ấy
thấy em và Rawdon sống chung với trung tướng, chị ấy ghét đấy. Nhưng mà anh
nghĩ xem, túng như chúng em, nếu không có bạn san sẻ bớt sự chi tiêu thì làm
thế nào? Anh tưởng Rawdon không đủ sức bênh vực danh dự cho em sao. Nhưng em
cũng đội ơn Emmy lắm, đội ơn lắm lắm.
George đáp:
- Dào ôi ? Ghen đấy! Gái nào là gái chẳng hay
ghen?
- Còn đàn ông các anh thì không? Tối hôm đi xem
Opera, anh và tướng Tufto, hai người chả ghen với nhau là gì? Này, hôm ấy lão
muốn ăn thịt em, vì em cùng đi với anh sang thăm cô vợ vớ vẩn của anh đấy; em
thèm vào để ý đến anh và lão ta.
Vợ Rawdon vừa nói vừa lắc đầu một cách rất
xược.
- Anh dùng cơm ở đây nhé? Nhà em ăn cơm với
viên tổng tư lệnh. Nghe như có nhiều tin quan trọng lắm. Họ đồn rằng quân Pháp
đã vượt biên giới rồi. Sẽ không có ai quấy rầy chúng ta đâu.
Tuy vợ hơi khó ở, nhưng George cũng nhận lời.
Đến hôm nay anh chàng mới lấy vợ chưa được sáu tuần lễ, thế mà anh ta không tức
giận khi thấy vợ mình bị một người đàn bà khác giễu cợt. Anh chàng tốt bụng ấy
cũng không biết bất mãn với chính mình nữa. George nghĩ thầm: “Kể ra thế cũng
tồi, nhưng mặc kệ; chả lẽ làm tài trai có một người đàn bà đẹp cứ nhất định lăn
đến với mình thì bảo làm thế nào?” Anh chàng vẫn thường mỉm cười gật gật cái
đầu một cách có ý nghĩa, bảo với Stubble và Spooney cùng những người bạn khác
trong câu lạc bộ sĩ quan rằng: “Tôi cũng khá là lả lơi với đàn bà”; bọn này tỏ
vẻ khâm phục tài ba này còn hơn cả lòng dũng cảm của anh chàng.
Từ thượng cổ đến nay, trong Hội chợ phù hoa,
sau những chiến thắng về quân sự, thì chiến thắng trong ái tình vẫn là nguồn
kiêu hãnh đối với đàn ông; nếu không, tại sao mấy cậu học sinh vẫn huênh hoang
khoe gái mê mình, và Don Juan lại trở thành bất hủ?
Osborne yên trí rằng mình sinh ra đời để chinh
phục đàn bà, và phụ nữ mê mình như điếu đổ. Cho nên anh ta không dám cưỡng lại
định mệnh, cứ hoàn toàn thản nhiên phục tùng ý trời. Thấy Emmy không hề tỏ ý
rầy la ghen tuông, chỉ lặng lẽ kín đáo sầu khổ một mình, anh ta cho rằng vợ không
hay biết gì về chuyện yêu đương lộ liễu giữa mình và Rebecca : Bất cứ khi nào
cô này rỗi rãi là thấy hai người cùng sóng ngựa đi chơi với nhau. George nói
dối Amelia là mình bận lo việc của đơn vị (Amelia biết thừa anh chàng nói dối);
mặc vợ lẻ loi ở nhà với ông anh ruột, tối nào anh ta cũng đến nhà Crawley để
cúng tiền cho anh chồng và để tưởng rằng chị vợ chết mê chết mệt vì mình.
Rất có thể hai vợ chồng nhà này cũng chưa bao
giờ âm mưu dứt khoát với nhau rằng trong khi, chị vợ ve vuốt anh chàng trẻ tuổi
thì anh chồng moi tiền, nhưng họ hoàn toàn hiểu mánh khóe của nhau; cho nên
Rawdon hoàn toàn vui vẻ, mặc Osborne ra vào tùy thích.
George mải mê với những người bạn mới, thành ra
giữa anh ta và William Dobbin không được thân mật như cũ. George thường tránh
mặt bạn ở chỗ đông người hoặc trong đơn vị vì, như ta đã biết, anh ta không ưa
gì bạn “lên lớp” về luân lý cho mình nghe. Dobbin bực mình về nhiều cách cư xử
của George, muốn bảo cho bạn biết rằng tuy anh ta có bộ râu quai nón rậm thật
và vẫn tự hào là lịch duyệt, nhưng thực ra còn ngây thơ như một cậu học sinh,
rằng Rawdon đang rắp tâm biến George thành nạn nhân của gã như bao kẻ khác từ
trước đến nay, lúc nào vét hết tiền, hắn sẽ đá đít anh chàng thẳng cánh; nhưng
nghĩ lại, Dobbin thấy cũng vô ích; đời nào George chịu cho là phải.
Vì vậy, những khi đến nhà Osborne thỉnh thoảng
may mắn được gặp ông bạn cũ, Dobbin hết sức tránh không gợi đến câu chuyện đau
lòng vô ích ấy làm gì. Còn anh bạn George của chúng ta thì đang bận say sưa
ngập lặn trong những thú vui của Hội chợ phù hoa.
Từ thời Darius đến nay, chưa bao giờ có một bọn
theo quân đội để ăn bám nào đẹp đẽ lộng lẫy như cái bọn đoàn sĩ quan tùy thuộc
của quận công Wellington ở Bỉ vào năm 1815. Có thể nói rằng hội hè tiệc tùng
kéo dài liên miên cho mãi tới khi chiến sự nổ ra. Ngày rằm tháng sáu cùng năm
này, có một buổi dạ hội lịch sử do một quận chúa tổ chức. Khắp Brussels nô nức
chờ đợi. Tôi đã được chính những bà có mặt tại thành phố hồi đó kể lại rằng
giới phụ nữ bàn tán sôi nổi về cuộc dạ hội; họ còn quan tâm hơn cả đối với tin
tức kẻ thù ngoài mặt trận. Người ta đánh nhau, vận động nhau, van xin nhau để
có bằng được một chiếc vé dự dạ hội. Song cũng chỉ những bà sang trọng của
người Anh mới có, vì họ không từ một cách nào cốt sao len lỏi được vào chỗ ăn
chơi của các vị thượng lưu nước họ.
Joe và bà O’Dowd thèm một tấm tiếp mời quá,
nhưng không kiếm đâu ra. Mấy người bạn của họ may mắn hơn; thí dụ nhờ có hầu
tước Bareacres chạy chọt, có lẽ để trả nợ bữa tiệc bữa nọ. George vớ được một
tấm thiếp,mời đại úy và bà Osborne; anh chàng lấy làm hân hạnh quá. Dobbin là
bạn của mọi viên tướng chỉ huy sư đoàn, một hôm vừa cười vừa chìa cho “bà
Osborne” xem một tấm thiếp mời tương tự, làm cho Joe phát tức lên vì thèm muốn;
George ngạc nhiên quá, không biết anh bạn làm thế nào mà cũng chui được vào xã
hội thượng lưu. Ông bà Rawdon thì dĩ nhiên cuối cùng cũng được mời, vì quen một
viên thiếu tướng chỉ huy lữ đoàn kỳ binh.
George sắm sửa áo mới và đủ mọi đồ trang sức
cho Amelia. Đúng buổi tối đã ấn định, hai vợ chồng đi xe ngựa đến dự buổi dạ
hội nổi tiếng. Nhưng Amelia không quen một người nào tại đây. Osborne mon men
lại gần Bareacres phu nhân; mụ này đánh bài lờ, coi như cho George tấm thiếp
mời thế là quá đủ. George mặc Amelia ngồi nghĩ ngợi một mình trên một tấm ghế
dài. Có lẽ anh ta cho rằng mình đã sắm áo mới, lại dẫn vợ đến dự dạ hội, cho vợ
giải trí, thế cũng đã quá lịch sự rồi chăng? Trong thâm tâm, Amelia cũng không
cảm thấy vui lắm ngoài anh chàng Dobbin thực thà kia, cũng không người nào đến
quấy rầy cô. Buổi dạ hội đối với Amelia là một thất bại thảm hại (vì anh chồng
hơi bực bội); nhưng trái lại, lần đầu tiên, bà Rawdon bước vào xã hội thượng
lưu lại thành công rực rỡ.
Cô ta đến rất muộn, mặt tươi cười rạng rỡ, bận
một tấm áo đẹp tuyệt. Đứng giữa toàn những bậc quý khách, trước bao nhiêu ống
nhòm hướng về phía mình, Rebecca có vẻ vẫn điềm nhiên, hoàn toàn tự chủ như khi
cô ta dẫn đám học trò nhỏ trong trường học bà Pinkerton đến nhà thờ. Cô quen
biết khối đàn ông ở đấy, và những tay công tử bột cứ bâu lấy cô. Các bà các cô
thì thầm với nhau rằng Rawdon đã rủ cô ta trốn khỏi một tu viện, và cô ta chính
là một người thuộc dòng họ Montmorency. Thấy Becky nói tiếng Pháp rất thạo,
người ta lại càng cho tin đồn ấy là có cơ sở; mọi người đồng ý rằng cử chỉ của
cô rất lịch sự, dáng điệu cực phong nhã. Có đến năm chục người đàn ông lập tức
xúm xít vây quanh, yêu cầu được cái vinh dự khiêu vũ với Becky. Cô ta đáp rằng
đã có người mời rồi, và chỉ nhảy rất ít. Sau đó, cô lập tức tiến về chỗ Emmy
ngồi rầu rĩ đau khổ một mình không ai chú ý đến; thật là một đòn điếng người
đối với người thiếu nữ trẻ dại này. Vợ Rawdon đến bên cạnh nói với cô bạn
Amelia thân yêu toàn những lời thân ái nhất đời, với một điệu bộ hết sức kẻ cả.
Cô ta chê áo của Amelia may vụng, tóc Amelia tết không khéo, và tỏ ý ngạc nhiên
sao bạn mình lại có thể đi một đôi giầy như thế được. Becky cam kết sáng hôm
sau sẽ bảo người thợ may áo chẽn () của mình đến giúp Amelia. Cô ta lại hết lời
khen buổi dạ hội rất vui, toàn những người quen biết cả, người tầm thường thì
hết sức ít. Sau một nửa tháng và sau ba bữa tiệc lớn, người đàn bà trẻ tuổi này
đã có đủ thì giờ học thuộc lòng những tiếng lóng của giới thượng lưu, nói thạo
không kém gì những tay chính cống; có điều Becky nói tiếng Pháp quá thạo, người
ta có thể nhân đó mà đoán ra rằng cô không phải là con nhà dòng dõi. Lúc mới
vào gian phòng hội, George bỏ mặc Amelia ngồi một mình trên chiếc ghế dài; đến
lúc thấy có Rebecca ngồi cạnh vợ, anh ta lập tức quay lại. Lúc này Becky vừa
mới diễn thuyết cho bạn nghe xong về những thói xấu George đang mắc phải:
- Trời ạ, chị thân yêu ơi, chị phải bảo anh ấy
thôi đi, đừng đánh bạc nữa, nếu không rồi thì tai vạ vào thân đấy, đêm nào
Rawdon và anh ấy cũng chơi bài; chị biết đấy, anh ấy có giàu đâu; nếu không cẩn
thận rồi Rawdon sẽ được hết tiền mất. Sao buổi tối không đến em chơi cho vui,
cứ ngồi nhà buồn thiu với cái ông đại úy Dobbin kia? Kể ra ông ta cũng dễ
thương lắm, nhưng mà hai chân to bè bè ra ai mà yêu được. Bàn chân anh ấy nhà
chị trông xinh lắm...anh ấy đã lại kia...đi đâu về đấy, ông tướng? Chị Emmy
đang khóc đỏ mắt vì anh đấy. Anh tìm em để nhảy điệu quadrille phải không?
Thế là cô ta đặt bó hoa và chiếc khăn san xuống
cạnh Amelia, rồi thoăn thoắt cùng George bước ra khiêu vũ.
Chỉ có đàn bà mới độc địa đến thế. Dễ thường ở
đâu những mũi tên nhọn của cô có tẩm thuốc độc, nó làm cho người ta đau đớn gấp
nghìn lần thứ khí giới cùn của đàn ông. Cô Emmy đáng thương của chứng ta suốt
đời chưa biết thù ghét ai, giễu cợt ai, giờ đây đành chịu bất lực trong bàn tay
tàn nhẫn của kẻ địch.
George khiêu vũ với Rebecca độ hai ba
lần...Amelia cũng chẳng biết rõ là mấy lần nữa. Cô cứ ngồi trơ trọi trong một
xó, chẳng ai buồn để ý tới; chỉ có Rawdon thỉnh thoảng lại gần nói vài câu
chuyện vụng về. Đến khuya, đại úy Dobbin mới đánh bạo mang đồ giải khát lại cho
cô và ngồi bên cạnh. Dobbin không muốn hỏi thăm tại sao cô có vẻ sầu khổ như
thế, nhưng vì nước mắt cứ muốn trào ra nên Amelia phải nói thác rằng vợ Rawdon
vừa mách George vẫn bê tha bài bạc. Dobbin nói:
- Kể cũng lạ, khi người ta đã mê cờ bạc thì
người ta bằng lòng chui vào cái cạm bẫy rất vô lý của những thằng khốn kiếp.
Emmy đáp:
- Đúng thế.
Nhưng cô đang nghĩ đến chuyện khác; không phải
chuyện mất tiền làm cho cô buồn khổ.
Cuối cùng, George trở lại tìm chiếc khăn san và
bó hoa của Rebecca. Cô này đã đi chỗ khác rồi, cũng không thèm quay lại từ biệt
Amelia lấy một lời. Người đàn bà đáng thương mặc chồng mình đi lại, không hé
răng nói nửa lời, cứ ủ rũ gục đầu xuống ngực. Có người đã gọi Dobbin ra chỗ khác;
anh ta đang thì thầm nói chuyện với bạn là viên tướng chỉ huy sư đoàn, không để
ý đến việc George bỏ đi lần này. Lúc George trao bó hoa lại cho Rebecca thì
trong bó hoa có cài một mảnh giấy cuộn tròn lại như con rắn giữa những bông hoa
mĩ miều. Rebecca thoáng nhìn bó hoa, nhận ngay ra mảnh giấy. Hồi còn trẻ, cô ta
đã từng nhiều lần dùng phương pháp thông tin này. Cô đưa tay ra nhận bó hoa,
hai luồng mắt giao nhau; George thấy rõ Becky đã hiểu sẽ tìm thấy gì trong bó
hoa. Rawdon vội vàng dắt vợ đi; anh chàng này còn đang bận bịu nghĩ ngợi điều
gì nên không kịp nhận ra bạn và vợ đang ra hiệu cho nhau. Vả lại điều đó cũng
chỉ là chuyện vặt, Rebecca giơ một bàn tay cho George và như mọi khi, liếc mắt
rất nhanh nhìn anh chàng, đoạn cúi chào rồi đi. George nghiêng mình đáp lễ; anh
ta không đáp lại Crawley, cũng chẳng nghe thấy Crawley nói gì nữa, vì đầu óc
còn đang sôi nổi quay cuồng với những ý nghĩ của kẻ thắng trận.
Amelia cũng nhìn thấy phần đầu của cảnh trả lại
bó hoa. George chiều ý Rebecca trở lại lấy hộ hoa và khăn san thì có gì là lạ?
Mấy hôm nay, George đã từng làm công việc ấy có hàng chục lần, nhưng không hiểu
sao lần này Amelia không thể chịu được. Đột nhiên nắm chặt lấy cánh tay Dobbin
ngồi bên cạnh, nói:
- William, anh vẫn luôn luôn tử tế với tôi...
tôi... tôi...thấy hơi khó ở. Đưa tôi về nhà.
Amelia cũng không thấy mình đã gọi Dobbin bằng
tên thánh của anh ta, như George thường gọi bạn. Dobbin vội vàng đưa vợ bạn đi
ngay. Chỗ vợ chồng George ở cũng gần đây thôi; hai người len lỏi qua đám đông
đứng chen chúc bên ngoài. Trông những người này còn có vẻ sôi nổi hào hứng hơn
cả những người dự hội bên trong.
Đã hai ba lần, đi chơi khuya về thấy vợ còn
thức đợi mình, George cáu kỉnh gắt vợ; vì vậy lần này Amelia về nhà là đi nằm
ngay; nhưng cô không ngủ được vì trí óc còn đang bị bao nhiêu ý nghĩ giày vò;
ngoài đường tiếng người phi ngựa và bao nhiêu tiếng ồn ào không ngớt mà cô cũng
không nghe thấy gì.
Trong khi ấy, Osborne say sưa như điên dại, đi
thẳng đến chiếu bạc, đặt một tiếng bạc thật lớn. Anh ta trúng liên tiếp mấy
tiếng bạc liền, nghĩ thầm “Tối hôm nay, mình gặp đủ mọi thứ may mắn”. Nhưng sự
may mắn trong canh bạc cũng không làm dịu được sự sôi nổi trong lòng. Một lúc
sau, anh ta móc túi lấy tiền được bạc đi đến quầy rượu giải khát nốc một lúc mấy
cốc rượu vang. Anh ta đang ba hoa cười nói ầm ỹ với những người xung quanh như
kẻ điên thì bị Dobbin tóm được, Dobbin đã đến chỗ đánh bạc, nhưng không thấy.
Mặt George đỏ tía vui vẻ bao nhiêu thì mặt Dobbin tái nhợt và trang trọng bấy
nhiêu.
- A ha, Dop! Lại đây làm vài cốc, anh bạn quý
ơi! Rượu của ngài Quận công thì tuyệt! Này, ông cho vài cốc nữa đây. Anh ta run
rẩy giơ cốc ra để lấy rượu. Dobbin vẻ mặt vẫn trang nghiêm đáp:
- George, về thôi. Đừng uống nữa.
- Uống đi, không gì thú vị hơn đâu. Cứ uống đi,
rồi da mặt anh sẽ hồng lên cho mà xem. Này, cầm lấy.
Dobbin lại gần thì thầm điều gì với bạn. George
giật nảy mình, gào lên một tiếng “Hoan hô” như phát dại, đặt phăng chiếc cốc
lên mặt bàn rồi lập tức khoác tay bạn bước ra phố. William nói:
- Quân địch vượt sông Samber rồi. Đội tả quân
của chúng ta đã giáp chiến. Ba tiếng đồng hồ nữa chúng ta xuất quân.
George bước ra ngoài, khắp người rần rật lên vì
hào hứng, tin tức đợi chờ từ lâu nay đã đến một cách quá đột ngột. Lúc này mọi
chuyện bướm ong rắc rối còn có nghĩa lý gì nữa? Trên con đường đi đến trại binh
anh ta rảo bước, đầu óc quay cuồng trăm nghìn ý nghĩ... cuộc sống trong quá
khứ, và may rủi trong tương lai... rồi cô vợ và có thể cả đứa con nữa, đứa con
anh ta rất có thể vĩnh biệt mãi mãi mà chưa hề biết mặt...ôi, George hối hận
quá về thái độ của mình đêm hôm nay; liệu anh có đủ thư thái trong tâm hồn khi
từ biệt con người thùy mị vô tội đã hết lòng yêu anh ta mà bị rẻ rúng không?
Tưởng lại cuộc đời có vợ ngắn ngủi trong mấy
tuần lễ vừa qua, anh ta thấy mình đã xài phá một cách đáng sợ số vốn cỏn con.
Thật là vô cùng dại dột và bừa bãi. Giả thử gặp chuyện gì không may, liệu còn
để lại được những gì cho vợ? George cảm thấy mình không xứng đáng với tình yêu
của Amelia. “Tại sao mình lại cưới Amelia làm vợ nhỉ? Mình có đủ tư cách lập
gia đình đâu? Tại sao lại cưỡng lời ông cụ? Bao giờ ông cụ cũng vẫn rộng lượng
đối với mình cơ mà?”. Bao nhiêu tình cảm phức tạp bề bộn trong lòng: hy vọng,
hối hận, cao vọng, yêu thương, và ích kỷ nữa.
George ngồi vào bàn viết một bức thư gửi cho
cha, khi nhớ lại cái điều trước kia anh đã nói, khi anh ta nhận đấu súng tay
đôi với người khác. Lúc gấp bức thư vĩnh biệt lại thì trời cũng vừa tảng sáng.
Anh ta dán lại, và hôn bức thư một cái. Anh nghĩ rằng mình quá bội bạc mà bỏ
người cha rộng lượng ấy để ra đi và nghĩ đến trăm ngàn điều tốt mà ông già
nghiêm khắc đã làm cho anh.
Lúc về nhà, George ngó vào phòng Amelia thấy vợ
nằm yên lặng, hai mắt như đang nhắm lại; thấy vợ ngủ, anh ta rất vui. Khi rời
dạ hội về nhà, thấy người hầu đang sửa soạn hành lý George ra hiệu cho bác này
yên lặng; việc sửa soạn làm rất nhanh và kín đáo. Anh tính toán không biết nên
vào đánh thức vợ dậy hay là viết giấy gửi lại để Joe sẽ báo tin xuất quân cho
Amelia biết? George bước vào phòng nhìn vợ một lần nữa. Lần trước, khi George
bước vào phòng Amelia chưa ngủ nhưng cứ nhắm mắt, không muốn chồng thấy mình
thức lại cho là mình có ý trách móc gì. Nhưng thấy chồng trở về với mình sớm
như vậy, người đàn bà nhút nhát này cảm thấy yên tâm hơn. Lúc George rón rén
bước ra khỏi phòng, cô quay nhìn về phía chồng rồi nhẹ nhàng ngủ thiếp đi.
George lại quay vào; lần này anh ta đi rón rén khẽ hơn. “Khuôn mặt dịu dàng tai
tái hiện ra dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn đèn đêm đôi vành mi đỏ vì khóc đã nhắm
chặt; một cánh tay tròn trĩnh, mịn màng trắng làm sao? Thật hiền hậu thùy mị và
lẻ loi làm sao! Vậy mà sao ta quá ích kỷ, tàn nhẫn, bội bạc?”.
Anh ta đến bên giường nhìn vợ ngủ, lòng tràn
đầy hối hận, lương tâm day dứt. “Một kẻ tồi tệ như mình sao dám nghĩ đến việc
cầu nguyện cho con người trong sạch như Amelia? Cầu Chúa ban phúc lành cho
nàng”. George đến bên cạnh giường, nhìn vào bàn tay bé nhỏ mịn màng, bàn tay
cũng như đang ngủ say. Và anh lặng lẽ cúi xuống bộ mặt hiền hậu tai tái ngả
trên tấm gối.
Hai cánh tay xinh đẹp giơ lên vòng lấy cổ
George:
- George, em còn thức đấy.
Người con gái đáng thương vừa nói vừa thổn
thức, trái tim nhỏ bé đang kề sát ngực George như muốn vỡ ra. Thì ra cô vẫn
thức; đáng thương quá, nhưng thức làm gì? Vừa lúc ấy, từ chỗ tập trung quân,
tiếng kèn đồng bắt đầu lanh lảnh vang lên bay lan ra khắp tỉnh. Và cả thành phố
choàng thức dậy giữa những tiếng trống của đoàn quân nhạc bộ binh và tiếng kèn
hơi kêu rin rít của đoàn quân xứ Scotland.
Chương 30
THIẾP BÊN SONG CỬA, CHÀNG NGOÀI CHÂN MÂY
Chúng tôi không dám có ý muốn lạm dự vào hàng
những nhà tiểu thuyết quân sự. Chúng tôi là những người dân thường; khi chiến
sự xảy ra, chúng tôi sẵn sàng lùi về hậu tuyến và ngoan ngoãn chờ, còn hơn làm
quẩn chân những người chiến sĩ dũng cảm cho nên chúng tôi chỉ dám theo trung
đoàn thứ...tới cổng thành phố mà thôi; đến đây, để thiếu tá O’Dowd ra đi với
nhiệm vụ của mình, chúng tôi quay lại với bà thiếu tá cùng mấy người đàn bà và
đám hành lý của họ.
Ngài thiếu tá cùng phu nhân không được mời đến
dự buổi dạ hội vừa miêu tả ở trên, thành ra trong khi những người ham thích
hưởng thụ khoái lạc cũng ngang với việc làm nhiệm vụ đang đắm mình trong lạc
thú thì họ nằm khểnh ở nhà làm một giấc ngủ thật yên trí. Ông thiếu tá điềm
nhiên kéo chiếc mũ ngủ xuống trùm kín hai tai, bảo vợ:
- Peggy, mình yêu ơi, tôi chắc chỉ hai ba ngày
nữa, sẽ có một buổi dạ hội linh đình xưa nay chưa từng có.
Đối với ông, bất cứ buổi dạ hội nào cũng không
thú bằng nốc một cốc rượu rồi lên giường đi ngủ. Riêng bà Peggy thì cũng muốn
triển lãm chiếc khăn quấn đầu có chiếc lông chim thụy hồng tại buổi dạ hội kia
một tý, nhưng câu nói của ông chồng làm cho bà ta đâm ra đăm chiêu tợn.
Ông thiếu tá lại bảo vợ: :
- Độ nửa tiếng đồng hồ trước khi tập hợp, đánh
thức tôi dậy nhé. Mình yêu ơi, đến một rưỡi đánh thức tôi dậy; xem mọi thứ sắp
sẵn cả chưa. Có nhẽ tôi không về ăn sáng được đâu Câu nói ấy ngụ ý sáng hôm sau
trung đoàn sẽ xuất phát; viên thiếu tá im tiếng rồi ngủ. Lúc này bà O’Dowd
khoác tấm áo ngủ, trên mái tóc đầy những chiếc cặp búp bằng giấy. Vốn là một
người nội trợ xứng đáng, bà nghĩ rằng lúc này không phải là lúc đi ngủ, mà phải
làm việc.
Bà tự nhủ:
- Bao giờ Mick đi rồi, mình còn khối thì giờ
ngủ, lo gì. Đoạn bà buộc lại chiếc va-ly của chồng cho chặt, chải lại bộ binh
phục và chiếc mũ, xếp thứ tự sẵn sàng. Bà còn bỏ sẵn vào túi áo của chồng một
gói thức ăn và một cái chai nhỏ đựng được đến già nửa lít rượu cô-nhắc rất
ngon. Thứ rượu này cả hai vợ chồng cùng ưa lắm. Lúc kim đồng hồ báo thức chỉ
một giờ rưỡi, đồng thời tiếng chuông ngân nga báo đúng giờ tai hại đã điểm (bà
chủ nhà vẫn khoe rằng tiếng chuông đồng hồ nhà bà hay như chuông nhà thờ), bà
O’Dowd đánh thức chồng dậy; bà lại đã chuẩn bị sẵn sàng một tách cà-phê thật
ngon như mọi tách cà phê buổi sáng ở Brussels. Ai dám bảo rằng những cử chỉ săn
sóc tế nhị của người đàn bà này không đủ tỏ tình cảm nồng nhiệt bằng những dòng
nước mắt và những trận khóc rũ rượi của những thiếu phụ đa cảm hơn?
Tách cà-phê hai vợ chồng uống chung nhau giữa
tiếng kèn đồng báo lệnh xuất quân cùng tiếng trống nổi vang lên khắp thành phố,
chẳng phải là có ích lợi và đúng chỗ hơn những lời nỉ non khóc lóc ư? Kết quả
là viên thiếu tá xuất hiện trước ba quân, mặt mũi hồng hào, râu cạo nhẵn thín.
Trông ông ta ngồi đường hoàng trên lưng con ngựa chiến vẻ tươi tỉnh, nhanh
nhẹn, ba quân cũng thấy thêm phần tin tưởng và phấn khởi. Bà thiếu tá đứng trên
bao lơn đón đoàn quân đi qua, vui vẻ vẫy tay chào; tất cả các sĩ quan đều chào
lại. Tôi đảm bảo rằng sở dĩ bà không muốn đích thân mình dẫn đầu trung đoàn
xuất trận, không phải vì bà thiếu can đảm, mà chính vì bà vẫn còn tính kín đáo
của phụ nữ đấy thôi.
Những ngày chủ nhật và trong những ngày long
trọng, bà O’Dowd thường vẫn trịnh trọng giở một cuốn sách giảng đạo của một ông
chú chịu chức chánh xứ ra đọc; cuốn sách trên đã an ủi bà rất nhiều, khi bà
cùng chồng lênh đênh trên mặt biển từ Tây Ấn hồi hương; hồi ấy vợ chồng bà suýt
chết vì tàu đắm. Sau khi trung đoàn lên đường rồi, bà lại trở về trầm tư mặc
tưởng với cuốn sách; có thể bà không hiểu rõ lắm những dòng chữ mình đang đọc,
tâm trí còn bận để đâu đâu, nhưng bà vẫn không sao chợp mắt được, mặc dầu đã cố
ý đặt chiếc mũ ngủ của ông chồng trên gối ngay cạnh mình. Đời là như vậy đấy
Jack hoặc Donald lưng đeo ba-lô mà ra đi đeo đuổi mộng công danh, chân vui
bướu, miệng ngân nga bài hát “Vĩnh biệt người tình”; riêng kẻ ở lại chịu cảnh
phòng không bóng chiếc... đêm ngày đằng đẵng nhớ thương sầu muộn.
Rebecca hiểu rõ rằng nhớ thương là chuyện vô
ích mà đa sầu đa cảm lắm thì chỉ tổ chuốc thêm sự đau khổ vào thân; cho nên cô
ta khôn ngoan quyết định sẽ không buồn rầu vô ích làm gì; phải ly biệt cùng đức
ông chồng cô chịu đựng với thái độ dũng cảm không kém gì phụ nữ thành Spartan
thời cổ. So với người đàn bà bé nhỏ cương nghị này thì phút kẻ đi người ở, đại
úy Rawdon bị xúc động mạnh mẽ hơn nhiều, Rebecca đã làm chủ được con người có
bản tính thô bạo cục cằn này rồi: anh chàng đã yêu, đã thờ phụng cô vợ với hết
cả tâm hồn mình. Suốt đời, chưa bao giờ anh ta được hưởng hạnh phúc đầy đủ bằng
khoảng thời gian sống chung với vợ mấy tháng vừa qua. So với lạc thú gia đình
anh ta vừa được hưởng, thì bao nhiêu trò giải trí khác như thi ngựa, đàn đúm,
săn bắn, cờ bạc, những mối tình với mấy cô bán đồ trang sức trước kia, cùng
những thắng lợi dễ dàng của một anh chàng quân nhân vụng về, đều trở thành nhạt
phèo như nước ốc. Bao giờ cô vợ cũng biết tìm cách vui lòng chồng. Anh chàng
thấy cứ ngồi nhà cạnh vợ cũng đủ thú vị nghìn lần đi chơi với bất cứ ai, bất cứ
ở đâu kể từ bé đến giờ. Cho nên anh ta rủa thầm những chuyện rồ dại của mình
trong quá khứ, lại phàn nàn mãi rằng bao món nợ chồng chất ngập mặt chưa trả
xong, nay sinh tác hại cản trở bước tiến của vợ trong giới thượng lưu.
Đêm đêm trò chuyện với nhau, anh ta vẫn ca cẩm
nhiều về chuyện này với Rebecca, tuy rằng hồi chưa vợ, anh ta không hề bao giờ
lấy đó làm bận tâm. Chính Rawdon cũng ngạc nhiên về hiện tượng này, anh ta
thường nói:
- Mẹ cha nó? (cũng có khi anh ta văng ra một
tiếng còn thô tục hơn, vì quen tính tự do trong ngôn ngữ) trước khi lấy vợ
chẳng bao giờ mình thèm để ý là mình đang ký tên vào giấy tờ gì miễn là lão
Moses còn bằng lòng đợi, hoặc lão Levy ưng thuận cho chịu thêm ba tháng nữa,
thì mình cứ ký văng mạng. Ấy thế mà từ khi lấy vợ, thề rằng chưa lần nào mình
mó đến tờ giấy có đóng dấu đấy, họa chăng để yêu cầu hoãn nợ thì có.
Bao giờ Rebecca cũng biết khéo léo tìm cách xua
đuổi nỗi sầu muộn của chồng; cô thường bảo:
- Ô hay, ông ngợm ơi, nào ta đã mất hết hy vọng
về bà cô đâu? Nếu bà lão “chơi khăm” chúng mình thì sao anh không dùng đến tờ
báo Tin tức? Mà thôi, để bao giờ ông Bute về chầu giời, em sẽ có kế khác. Theo
luật thì anh em trai có quyền thừa kế cai quản nhà thờ chứ gì? Vậy thì anh cứ
việc bán phăng chức đại úy về đi tu là xong.
Cứ nghĩ đến câu chuyện bàn với vợ. Rawdon lại
phá ra cười rũ rượu. Nửa đêm còn nghe tiếng cười hô hố của anh sĩ quan cận vệ
vang khắp cả khách sạn. Tướng Tufto nằm trong phòng ở mãi tầng trên cũng nghe
rõ; hôm sau, trong khi ăn Rebecca kể lại câu chuyện đêm trước, lại bắt chước
điệu bộ Rawdon, viên tướng lấy làm thú quá.
Nhưng đấy là chuyện quá khứ. Khi có tin tức
đích xác chiến tranh đã nổ ra, sắp phải tiến quân thì bỗng nhiên Rawdon trở
thành nghiêm trang khác hẳn trước. Lúc Rebecca giễu cợt, anh chàng phát cáu,
giọng hơi run run, bảo vợ:
- Becky, mình không nghĩ rằng tôi nhát sợ chứ?
Người tôi to lớn thế này, dễ trúng đạn lắm. Ví thử tôi chết thì hỏi có gì để
lại cho mình, và có thể là cho hai mẹ con nữa, mà sinh sống? Này, bà Crawley
ơi, không phải là chuyện đáng cười đâu. Rebecca tìm cách nói ngọt ngào vuốt ve
để ông chồng bị chạm tự ái nguôi cơn giận. Thường thường khi để cho mình bị lôi
cuốn theo cái khuynh hướng ưa hài hước nghịch ngợm, Rebecca hay giở giọng châm
biến ra (như hầu hết mọi trường hợp khác), nhưng rồi cô cũng lấy lại được vẻ
mặt trang nghiêm ngay:
- Mình yêu ơi, mình tưởng em không biết đau
lòng sao? Cô ta vội vàng quệt cái gì ở khoé mắt rồi mỉm cười nhìn vào mặt
chồng. Chồng đáp. Đây này, nếu tôi chết, xem tôi để lại cho mình được những gì?
Cho đến bây giờ tôi vẫn gặp nhiều may mắn trong khi đánh bạc; đây là hai trăm
ba mươi đồng. Tôi hãy còn mười đồng Napoléon trong túi, thế là thừa tiêu rồi.
Trung tướng trả lương mọi người hậu hĩnh như một ông hoàng. Nếu tôi chết cũng
không phải lo tốn phí về tôi. Đừng khóc, mình; biết đâu tôi lại chẳng cứ sống
để làm cho mình khó chịu? Phải đấy, hai con ngựa của tôi, tôi sẽ để cả ở nhà,
tôi cưỡi con ngựa thồ màu xám của trung tướng: giá nó rẻ hơn; tôi sẽ báo cáo
rằng ngựa của tôi bị què; giả thử tôi chết, mình bán hai con ngựa cũng được món
tiền. Hôm qua, lúc chưa biết tin phải đi trận, thằng Grigg đã trả con ngựa non
chín mươi đồng, thế mà ngu quá, tôi lại cứ khăng khăng rằng dưới một trăm nhất
định không bán. Thế nào con Bullfinch cũng đã được giá ấy; nhưng mình nên bán
ngay tại đây, bởi vì tôi còn nợ tụi lái ở Anh nhiều lắm không nên đem nó về
nước. Cái con ngựa cái non trung tướng cho mình, bán cũng được một món tiền
đấy. May quá, ở đây ta lại không nợ nần ai như ở Luân- đôn.
Rawdon cười tiếp:
- Bộ đồ trang điểm của tôi đáng giá hai trăm
đồng...nghĩa là tôi nợ người bán hai trăm đồng. Mấy cái lọ có nút bằng vàng giá
ba hay bốn chục đồng. Góp tất cả những thứ ấy lại, cả cặp áo, nhẫn, đồng hồ,
dây chuyền và mọi đồ trang sức khác: chỗ ấy vô khối tiền. Ngày trước, bà
Crawley mua chiếc đồng hồ và cái dây đeo mất những một trăm đồng. Đừng quên mấy
cái lọ có nút bằng vàng nhé. Dại quá, biết thế mình lấy thêm một ít xong.
Edwards đã xui mình cứ lấy cái gót giầy bằng bạc mạ vàng; đáng lẽ mình có một
bộ đồ trang điểm đầy đủ, cả cái bồn nước bằng bạc và đủ chai lọ không thiếu thứ
gì. Nhưng thôi, có sao hay thế, phải không Becky?
Đó tức là tờ di chúc của đại úy Crawley vậy.
Mới cách đây mấy tháng, anh ta chỉ biết quý trọng cái thân thể của chính mình,
bây giờ tình yêu đã thay đổi hẳn tính anh ta.
Crawley làm một bản thống kê những món đồ dùng
vặt vãnh, cố tìm xem liệu nhỡ mình gặp tai nạn thì vợ sẽ bán được bao nhiêu.
Anh ta lấy bút chì nguệch ngoạc kê ra giấy những thứ có thể bán được lấy tiền
cho người vợ góa, nét chữ to và vụng về như chữ trẻ con...đại khái thế này:
chiếc súng hai nòng, 40 đồng ghi-nê; chiếc áo choàng đi săn viền lông thú, 50
đồng bảng Anh; đôi súng lục có cả bao bằng gỗ hồng (đã dùng súng này bắn chết
đại úy Marker) 20 đồng bảng Anh, bộ yên ngựa và áo yên, bộ yên ngựa đã dùng đi
chơi v.v... Rebecca được quyền thừa kế tất cả.
Thực hiện nghiêm túc kế hoạch đã đặt ra, viên
đại úy chỉ bận bộ quân phục cũ nhất, tồi tàn nhất, dành những bộ quần áo mới
lại cho vợ, rất có thể sẽ là cô vợ góa. Và anh chàng công tử bột nổi tiếng ở
Windsor và công viên Hyde mặc một bộ đồ tầm thường như một viên đội để ra trận,
đôi môi còn mấp máy như muốn lẩm nhẩm cầu kinh cho cô vợ trẻ ở nhà. Anh ta bế
bổng vợ lên, ghì chặt lấy vợ một phút, ấp sát vào trái tim đang đập thình thình
của mình.
Khi buông vợ xuống đất để ra đi, mặt anh chàng
đỏ bừng, hai mắt lờ đờ. Anh ta cưỡi ngựa bước song song bên cạnh viên trung
tướng lặng lẽ rít thuốc lá. Hai người thúc ngựa mau để theo kịp lữ đoàn của
viên tướng đã đi trước. Mãi tới khi đã đi được vài dặm đường, anh ta mới thôi
không xoắn ria mép và mới mở mồm nói chuyện.
Cô Rebecca khôn ngoan, như ta đã rõ, quyết định
không vì sự ly biệt với chồng mà để cho sự sầu não vô ích giày vò mình. Cô ngó
qua cửa sổ vẫy tay từ biệt chồng; chồng đi rồi, cô còn đứng đó một lúc lâu nhìn
ra ngoài. Lúc này những mái nhà thờ cao vút, và những đầu hồi của những ngôi
nhà cổ kính dưới ánh nắng sớm rọi tới vừa đỏ ửng lên. Đêm qua, Becky không được
nghỉ ngơi tý nào, trên mình vẫn còn mặc bộ quần áo dự dạ hội rất đẹp, mớ tóc
vàng rủ xuống cổ, những búp tóc soăn soăn đã hơi duỗi ra, mấy món tóc xõa xung
quanh đôi mắt quầng thâm vì đêm trước mất ngủ. Becky ngắm nghía mình trong
gương nói: “Trông mình mà phát khiếp! Cái áo hồng này làm cho nước da mình đâm
ra tái thêm”.
Và cô ta cởi tấm áo hồng ra đồng thời có một
mảnh giấy từ trong tấm áo lót rơi xuống đất. Rebecca mủm mỉm cười nhặt lên, bỏ
vào trong chiếc hộp đựng đồ trang điểm khóa lại. Đoạn cô ta cắm bó hoa được
tặng trong buổi dạ hội vào một cốc nước rồi lên giường nằm ngủ một giấc thật
thoải mái.
Đến mười giờ thức dậy, Rebecca thấy cả thành
phố hoàn toàn yên tĩnh. Cô ta uống một tách cà phê rất ngon miệng, thấy mình đã
lại sức sau những xúc động lúc sớm. Ăn xong, Rebecca bắt đầu soát lại bản thống
kê của anh chồng thực thà và tự xét lại hoàn cảnh của mình. Nếu có sự gì không
may thì, nói cho cùng, cô ta cũng ung dung chán. Ngoài những vật chồng để lại,
Becky còn có đồ trang sức và áo sống riêng cơ mà. Khi mới cưới vợ, chúng ta đã
biết, Rawdon ăn tiêu rất hào phóng. Viên trung tướng, một tên nô lệ dốc lòng
thờ phụng Rebecca, đã tặng cô ta nhiều vật rất đẹp, thí dụ, không kể con ngựa
cái non, còn có mấy chiếc khăn san bằng lụa Casơmia, mua trong một cuộc bán đấu
giá tài sản của vợ một viên tướng người Pháp bị phá sản, và nhiều thứ đồ trang
sức khác sắm tại một hiệu kim hoàn, thứ nào cũng chứng tỏ người mua là một tay
sành sỏi và lắm của. Còn mấy cái “máy tích tắc” (anh chàng Rawdon vẫn gọi là
đồng hồ bằng cái tên này) thì cứ kêu tích tắc trong buồng nghe cũng vui tai.
Một buổi tối, cô phàn nàn rằng chiếc đồng hồ của mình hay hỏng; chiếc đồng hồ
này do thợ người Anh chế tạo, và là tặng vật của Rawdon. Lập tức sáng hôm sau
cô ta nhận được ngay hai chiếc khác: một chiếc rất xinh, khắc hiệu Leroy, hộp
vỏ và dây đeo có khảm ngọc Thổ-nhĩ-kỳ, một chiếc hiệu Brequet, có nạm ngọc
bích, chỉ nhỉnh hơn đồng nửa cơ-rao một tý. Một chiếc là của Tướng Tufto mua
tặng còn chiếc kia là của đại úy Osborne, còn người hào hoa phong nhã. Amelia
không có đồng hồ, nhưng nói của đáng tội, nếu cô hỏi thì George cũng mua cho
rồi. Còn Tufto phu nhân ở nước Anh thì chỉ có mỗi một chiếc đồng hồ cổ lỗ sĩ
của bà cụ thân sinh để lại, có thể dùng thay thế cho chiếc chậu rửa mặt bằng
bạc mà Rawdon đã nói ở đoạn đầu. Nếu các ông Howell và James công bố danh sách
những người mua đồ trang sức trong hiệu của họ, hẳn có lắm gia đình phải ngạc
nhiên. Và nếu những vật trang sức ấy chỉ về tay những bà vợ chính thức và các
cô con gái mà thôi, thì khối gia đình sang trọng trong Hội chợ phù hoa đã có vô
số vật quý vô giá. Tính toán về những vật quý giá ấy xong xuôi, Rebecca không
phải không thấy thú vị khi nhận ra rằng nhỡ có chuyện rủi ro thì mình vẫn có
thể bắt đầu lại cuộc đời với ít nhất là sáu hoặc bẩy trăm đồng vốn liếng. Thế
là suốt buổi sáng, cô ta chỉ loay hoay thu dọn, xếp đặt, ngắm nghía, và bỏ các
thứ vào hòm khóa lại cẩn thận coi bộ rất hí hửng.
Giữa đám giấy mà trong ví của Rawdon lại có cả
một tấm ngân phiếu của Osborne trị giá hai mươi đồng. Nhìn tấm giấy Rebecca
nghĩ đến vợ Osborne. Cô tự nhủ: “Mình phải đi lĩnh ngay món tiền này mới được. Rồi
sẽ qua thăm chị Emmy đáng thương ấy một tí.
Tuy nói rằng truyện này không có nhân vật
chính, thực ra ít nhất cũng phải có một nhân vật chính là một người đàn bà.
Trong quân đội Anh vừa ra trận, mà không một
người lính nào, kể cả bản thân ngài quận công vĩ đại kia nữa, có được thái độ
điềm tĩnh, can đảm trước những khó khăn của tương lai vô định bằng người đàn bà
phi thường này tức là cô vợ bé bỏng của viên sĩ quan tùy tòng.
Trong đám người quen thuộc của chúng ta, còn có
một người nữa cũng bị bỏ lại hậu phương, một người “dân thường”; chúng ta có
quyền hiểu biết đôi chút về cảm xúc và cử chỉ của người này: ấy là ông bạn cựu
ủy viên thu nhập quận Boggley Wollah của chúng ta vậy. Cũng như nhiều người
khác, tiếng kèn đồng mới sớm tinh sương đã giục giã làm anh chàng thức dậy.Vốn
tính hay ngủ nhiều, lại rất có cảm tình với cái giường, cho nên nếu không bị ai
phá rối, thì anh ta đã mặc xác mọi thứ tiếng kèn đồng, trống trận và kèn hơi
của quân đội Anh quốc tha hồ thi nhau nổi lên, mà cứ tiếp tục ngáy khò khò một
giấc như lệ thường. Người phản đối không phải là George Osborne, vì tuy ở chung
nhà với Joe, nhưng anh chàng này còn bận tíu lên về việc riêng, hoặc có lẽ bận
sầu não vì nỗi biệt ly với vợ, nên không kịp nghĩ đến chuyện sang từ giã ông
anh rể đang ngon giấc. Vậy thì không phải là George mà là Đại úy Dobbin; anh ta
dựng bạn dậy, nhất định đòi bắt tay bạn một cái trước khi lên đường.
- Cảm ơn anh lắm lắm.
Joe vừa ngáp vừa rủa thầm viên đại úy. Dobbin
lắp bắp nói:
- Tôi...tôi không muốn lên đường mà không lại
từ biệt anh một chút bởi vì, anh cũng rõ, trong số chúng tôi có thể có người
không trở về; và tôi muốn được thấy các bạn khỏe mạnh vui vẻ và... và…như thế
ấy mà, anh hiểu chứ.
Joe dụi mắt đáp:
- Anh định bảo gì cơ?
Viên đại úy không nghe bạn nói, cũng chẳng để ý
đến anh chàng béo ị đội mũ ngủ, người được anh ta làm ra vẻ rất quý mến. Anh
chàng đạo đức giả này còn bận ngóng về phía cửa buồng của George mà lắng tai
nghe. Anh ta cứ rảo bước đi lại trong phòng, va cả vào ghế, bàn tay đánh nhịp
trống, đưa móng tay lên miệng nhấm...nghĩa là tỏ ra hết sức muốn trấn tĩnh sự
rối ren trong lòng.
Mọi ngày, Joe gần như vẫn coi thường viên đại
úy, lúc này bắt đầu ngờ rằng anh mất can đảm. Joe mỉa mai nói:
- Tôi có thể giúp anh việc gì nhỉ, Dobbin?
Viên đại úy lại bên giường đáp:
- Tôi nhờ anh hộ một việc mà anh có thể làm
được; Anh Sedley ạ, mười lăm phút nữa, chúng tôi ra trận, có thể cả George và
tôi cũng không trở về được nữa. Anh nhớ kỹ nhớ, khi nào chưa biết đích xác tin
tức ra sao thời chớ rời khỏi thành phố này vội. Anh phải ở lại đây chăm nom em
gái anh, an ủi cô ấy, đừng để có chuyện gì xảy ra. Nếu George có mệnh hệ nào,
nhớ rằng trên đời này, cô ấy chỉ còn trông cậy được vào anh mà thôi. Nếu quân
ta thất bại, anh phải lo đưa cô ấy về Anh cho an toàn. Anh phải lấy danh dự mà
hứa với tôi rằng sẽ không bao giờ bỏ mặc cô ấy nhé. Tôi biết anh không phải là
người như thế. Còn về chuyện tiền nong tốn kém thì xưa nay anh vẫn rộng rãi.
Anh có cần thêm tiền không? Nghĩa là tôi muốn nói rằng nếu có chuyện gì không
may xảy ra thì anh có đủ tiền trở về Anh không?
Joe kiêu hãnh đáp:
- Thưa ngài, khi nào tôi cần tiền, khắc tôi
biết, nên hỏi ở chỗ nào. Còn về em gái tôi thì không cần ngài dạy tôi phải ăn ở
sao cho phải lẽ.
Dobbin vui vẻ nói:
- Anh Joe ạ, anh nói thế mới thật là người cao
thượng.
-George ra đi, vợ ở nhà được người tốt bụng như
anh săn sóc, tôi cũng yên tâm. Vậy tôi có thể bảo với George rằng anh đã lấy
danh dự mà hứa sẽ luôn luôn ở bên cạnh Amelia trong những lúc khó khăn chứ?
- Dĩ nhiên... dĩ nhiên rồi.
Joe đáp; Dobbin cũng hiểu rằng về chuyện tiền
nong, bạn vốn là người rộng rãi.
- Và anh sẽ trông nom đưa Amelia rời khỏi
Brussels nếu quân ta thất bại?
Anh chàng ngồi trên giường la lên:
- Thất bại! Ma quỷ ơi? Làm gì có chuyện ấy. Thôi đừng giả vờ dọa tôi đi.
Thấy Joe tỏ vẻ quyết định săn sóc em gái cẩn thận, bấy giờ tâm trí Dobbin
mới thấy hoàn toàn thư thái. Viên đại úy nghĩ thầm: “Ít nhất thì nếu có chuyện
bất hạnh xảy ra, Amelia vẫn còn có chỗ dựa”.
Nếu như đại úy Dobbin hy vọng được nhìn thấy mặt Amelia một lần nữa để thỏa
mãn ước muốn cá nhân mình, và để lấy thêm nghị lực trước khi trung đoàn ra
trận, thì thói ích kỷ xấu xa ấy thật đáng trừng phạt. Phòng ngủ của Joe có cửa
mở thông ra một căn phòng khách chung của gia đình, mé bên kia lại có cửa thông
sang phòng của Amelia, Tiếng kèn đồng đã đánh thức mọi người trong nhà dậy: bây
giờ thì chả cần phải giấu giếm gì nữa, bác người hầu của George đang lúi húi
buộc hành lý trong phòng ngủ, thỉnh thoảng lại ném ra cho người hầu những thứ
cần phải mang theo khi hành quân. Và lúc này Dobbin được thỏa mãn ước vọng sâu
kín anh vẫn ấp ủ trong lòng: anh ta lại được nhìn mặt Amelia một lần nữa. Nhưng
bộ mặt mới tiều tụy làm sao! Bộ mặt trắng bệch, đờ đẫn đầy vẻ thất vọng. Mãi
sau này, vẻ mặt Amelia lúc ấy còn ám ảnh Dobbin mãi như một tội ác, và cứ mỗi
lần nhớ đến, anh lại thấy đau nhói trong tim vì mong mỏi và xót thương.
Amelia khoác một tấm áo choàng trắng toát, tóc xõa xuống vai, đôi mắt mở to
trừng trừng mà như không có ánh sáng. Muốn giúp đỡ một tay vào việc sửa soạn
cho chồng ra đi, và để tỏ rằng mình cũng có ích đôi chút trong phút long trọng
này, người đàn bà đáng thương ấy cứ cầm lấy cái thắt lưng của George trong ngăn
kéo và lẽo đẽo theo sau chồng đi đi lại lại trong phòng lặng lẽ nhìn chồng sửa
soạn hành lý. Cô bước ra khỏi phòng dựa lưng vào tường; ấp chiếc thắt lưng vào
ngực, mảnh vải đỏ thắm rủ xuống tận đất như một dòng máu trào ra. Trước cảnh
tượng ấy, viên đại úy đa cảm của chúng ta thấy thắt ruột lại hối hận. Anh ta
nghĩ thầm: “Trời đất ơi, ta có quyền gì len lỏi vào một sự đau khổ đến như thế
kia?”. Chẳng có cách nào an ủi con người lặng lẽ sầu não ấy cho được. Anh ta
bất lực đứng nhìn Amelia một lúc lâu, cõi lòng vò xé tơi bời vì xót thương như
một người cha chứng kiến sự đau đớn của đứa con đẻ rứt ruột.
Cuối cùng, George cầm tay Emmy dắt trở vào trong phòng ngủ, rồi bước ra một
mình. Thế là xong cuộc ly biệt.
Anh ta lên đường.
- Lạy Chúa, thế là xong.
George vừa nghĩ thầm, vừa nhảy xuống thang gác, thanh kiếm cắp dưới nách,
anh ta nhanh nhẹn chạy tới chỗ tập trung quân, má đỏ hồng lên, mạch máu trong
người chạy rần rật. Ở đây, lính và sĩ quan cũng đang vội vã theo lệnh tập hợp
hàng ngũ. Canh bạc lớn là cuộc chiến tranh sắp bắt đầu rồi, và anh ta cũng có
tham gia một chân.
Bao nhiêu là hoài nghi, hy vọng và khoái cảm. Liệu được hay thua? Biết bao
nhiêu sự bất ngờ đầy say sưa? So với lần này bao nhiêu canh bạc khác anh ta đã
dự thật không nghĩa lý gì. Từ bé đến giờ chàng trẻ tuổi này đã quen lao vào bất
cứ một trò chơi nào cần đến sức khỏe và sự khéo léo của một lực sĩ với tất cả
sức lực của mình. Được các bạn hoan hô cổ vũ, anh ta đã chiếm những giải vô
địch trong trường và trong trung đoàn anh ta đã giật giải hàng trăm lần, từ
những trò chơi criquer hồi bé, đến những cuộc đua ngựa do nhà binh tổ chức, và
đi đến bất cứ đâu, anh ta cũng được đàn bà cũng như một kẻ dễ dàng được quần
chúng hoan nghênh, vì có sức khỏe, có can đảm ấy, sẽ dùng được gì trong chiến
trận? Từ cổ chí kim, sức khỏe và lòng dũng cảm vẫn là đề tài quen thuộc của văn
chương; và kể từ câu chuyện thành Troy đến nay, thi ca vẫn ưa chọn nhân vật
trung tâm là một chiến sĩ. Tôi băn khoăn tự hỏi có lẽ vì người đời đều hèn nhát
cả, nên thiên hạ mới xưng tụng sự can đảm đến như vậy, và mới đề cao sự dũng
cảm trong trận mạc trên mọi đức tính khác để mà đền đáp và thờ phụng chăng.
Thế là, nghe tiếng gọi sa trường rộn rã, George cũng rứt được ra khỏi đôi
cánh tay trìu mến của người vợ suýt nữa làm anh ta nhụt chí khí. Trong thâm
tâm, anh ta cũng hơi cảm thấy hổ thẹn vì mình đã bịn rịn hơi lâu, tuy cũng
không đến nỗi quyến luyến vợ nhiều quá. Những người bạn khác của George cũng
cùng một tâm trạng say sưa hào hứng như vậy, từ viên thiếu tá to béo dẫn đầu
đoàn quân ra trận đến Stubble, viên sĩ quan cầm cờ bé nhỏ ngày hôm ấy lĩnh nhiệm
vụ mang quân kỳ của trung đoàn.
Cuộc hành quân bắt đầu giữa lúc mặt trời vừa mọc...
Cảnh tượng thật hào hùng...đội nhạc binh dẫn
đầu, nổi khúc nhạc tiến quân của đơn vị... rồi đến viên thiếu tá chỉ huy
trưởng, cưỡi trên lưng con ngựa Pyramus cao lớn…theo sau là đội cận vệ, có viên
đại úy dẫn đầu. Đi giữa đoàn quân là hai viên sĩ quan cầm cờ, một già một trẻ
giương cao hai lá cờ quân kỳ... rồi đến George đi trước đại đội của mình. Anh
ta ngước nhìn lên mỉm cười với Amelia rồi đi thẳng. Tiếng kèn của đội nhạc binh
cũng dần dần tắt chương.
Chương 31
JOE SEDLEY TRÔNG NOM CÔ EM GÁI
Tất cả các sĩ quan cao cấp đều phải lo nhiệm vụ
ở nơi khác nên trao quyền quản lý cái thuộc địa nhỏ bé ở Brussels lại cho Joe
Sedley. Dưới quyền anh ta có Amelia đang ốm, có Isidor thằng hầu người Bỉ, và
một chị hầu gái có nhiệm vụ làm đủ mọi việc trong nhà: đó là đội lính của Joe.
Tuy đầu óc đang rối như bòng bong, lại bị Dobbin và những sự kiện xảy ra buổi
sớm phá mất giấc ngủ, nhưng Joe vẫn nằm dài trên giường thêm mấy tiếng đồng hồ,
trằn trọc trở mình mãi cho tới giờ thường lệ mới dậy. Mặt trời đã lên cao,
những người bạn dũng cảm của chúng ta đã rời khỏi Brussels được đến mươi dặm,
anh chàng “dân thường” này mới dạy ăn sáng, trên mình còn khoác tấm áo ngủ có
in hoa.
Ông anh vợ cũng không bận tâm gì lắm về việc
George ra đi. Có lẽ trong thâm tâm, Joe lại lấy thế làm thích; vì suốt thời
gian viên đại úy còn ở nhà, anh ta chỉ được đóng một vai trò rất phụ trong gia
đình. Osborne không nể nang gì, vẫn tỏ ra coi khinh anh chàng dân thường béo ị
này.
Nhưng Emmy đối với anh trai vẫn tốt, vẫn săn
sóc chu đáo; cô lo lắng mọi điều tiện nghi cho anh, lo dọn cho anh những món ăn
theo sở thích, cùng đi bộ hoặc cưỡi ngựa dạo mát với anh (Amelia có rất nhiều
dịp, quá nhiều nữa, để đi chơi với anh, vì George cứ biền biệt tận đâu đâu ấy);
thấy anh trai giận dữ trước thái độ miệt thị của George, cô hết sức tươi cười
cho anh vui lòng. Trước kia đã nhiều lần Amelia đã rụt rè ngỏ ý trách chồng để
bênh vực ông anh, nhưng George gạt phắt ngay đi, nói:
- Tôi là một người chân thực nghĩ sao nói vậy,
cũng như mọi người chân thực khác. Sao mình lại cứ muốn tôi phải lễ độ với một
kẻ ngốc nghếch như ông anh trai của mình kia chứ?
Cho nên bây giờ George đi vắng thì Joe khoái
lắm. Cứ nhìn cái mũ và đôi bao tay của em rể đặt trên mặt tủ bát và cứ nghĩ
rằng chủ chúng không có nhà, cũng đủ cho Joe cảm thấy một niềm vui kín đáo dào
dạt trong thâm tâm.
Anh ta nghĩ thầm: “Sáng hôm nay, mình không còn
bị khó chịu vì cái điệu bộ công tử bột và cái thái độ hỗn xược của hắn nữa
rồi”. Anh ta sai thằng hầu Isidor:
- Mang cái mũ của ông đại úy vào trong phòng
khách kia cho tao. Có nhẽ ông ấy không cần đến cái đó nữa đâu.
Thằng hầu láu lỉnh nhìn chủ. Nó cũng không ưa
gì George, vì vẫn bị anh ta đối xử với một thái độ hách dịch đặc biệt
Anh-cát-lợi.
- Rồi vào thưa bà ra dùng bữa sáng, nghe.
Sedley ra lệnh có vẻ oai vệ lắm; anh ta ngượng,
không muốn nói chuyện với thằng hầu về sự xích mích giữa George và mình. Thực
ra đã có đến bao nhiêu lần George cự ông anh vợ ngay trước mặt người ở.
Nhưng than ôi! Bà đại úy không thể nào ra dùng
bữa sáng, để cắt khoanh bánh mỳ phết bơ mà ông Joe rất thích. Chị hầu gái ra
thưa rằng bà rất khó ở; từ lúc ông đại úy đi, trông bà tiều tụy lắm. Joe rót
cho em gái một tách lớn nước trà bảo bưng vào, đó là cách anh ta tỏ sự thông
cảm. Hơn thế nữa, anh ta còn sai mang bữa ăn sáng vào phòng em gái, và còn cố
nghĩ xem đến bữa chiều nên sai làm món ăn gì Amelia ưa nhất.
Trước khi George lên đường, trong khi bác người
hầu của Osborne sửa soạn hành lý, Isidor đứng nhìn, mặt cứ nặng ra. Bởi lẽ,
trước hết, hắn ghét George như đào đất đổ đi; anh ta đối đãi với hắn cũng như
với mọi người bề dưới một cách quá quắt (giới đầy tớ trong đất liền không quen
bị đối xử hách dịch, khác với bọn tôi tớ nước ta, vốn quen chịu đựng); hai là
hắn thấy rõ, nếu có chuyện hỗn độn xảy ra thì bao nhiêu đồ vật quý giá sẽ lọt
khỏi tay hắn mà chạy vào túi người khác sạch; cho nên hắn tức. Về chuyện thất
bại của quân đồng minh, thì hắn cũng như mọi người ở Brussels và ở khắp nước
Bỉ, không ngờ vực mảy may.
Thiên hạ, ai cũng đinh ninh rằng Hoàng đế sẽ
cắt rời đội quân Phổ ra khỏi đội quân Anh, rồi lần lượt tiêu diệt cả hai, và
không đến ba ngày sau sẽ chiếm được Brussels; khi ấy mấy ông chủ sẽ hoặc tử
trận, hoặc chạy trốn, hoặc bị cầm tù, còn bao nhiêu của cải, tất nhiên phải
chui vào túi ngài Isidor một cách hợp pháp.
Vừa giúp đỡ trong công việc trang điểm buổi
sáng rất phức tạp và vất vả như thường ngày, thằng hầu trung thành này vừa tính
toán sẵn xem sẽ nên dùng chính những đồ vật nó đang trang sức lên mình chủ như
thế nào. Hắn sẽ tặng cho người con gái hắn đang yêu những bình nước hoa bằng
bạc và đồ trang điểm, hắn sẽ giữ lại bộ dao kéo và chiếc cặp có nạm hồng ngọc
để dùng riêng. Mặc áo sơ- mi lụa mà gài thêm cái này thì phải biết là bảnh. Lại
còn chiếc mũ có lăn vàng, tấm áo khoác có viền - chữa lại cho vừa khổ người hẳn
cũng dễ thôi - chiếc can đầu bịt vàng, có chiếc nhẫn to tướng có đính hồng ngọc
thì có thể mang đánh lại thành một đôi hoa tai rất đẹp; hắn tính rằng với bộ đồ
ấy, hắn sẽ thành một chàng Adonis rõ lịch sự trai, chim cô Reine dễ như ăn kẹo.
Vừa nhìn chằm chằm vào đôi cổ tay trùng trục của Sedley, hắn vừa nghĩ: bộ khuy
tay áo mình ưa quá, lâu nay vẫn thèm. Còn đôi ủng của lão đại úy có cựa gót
bằng đồng cất ở phòng bên, chu cha! Diện vào mà đi chơi ở Đại Lộ Xanh () thì
tuyệt? Thế là trong khi chính bàn tay ngài Isidor còn đang bẹo mũi ông chủ để
cạo nốt phần dưới bộ mặt, thì hắn đã tưởng tượng mình mặc cái áo có viền và lon
vàng cùng cô Reine sóng đôi đi dạo mát ở Đại Lộ Xanh rồi; ngả mình trên ghế
dựa, hắn sẽ ngắm những chiếc thuyền nhẹ nhàng trườn mình dưới bóng râm của hàng
cây ven con sông đào, hoặc ngồi trong một quán rượu trên đường đi Leaken, hắn
sẽ nhấm nháp một cốc rượu Faro cho đỡ khát. Song cũng may cho Joeseph Sedley,
anh ta không biết những ý nghĩ gì đang diễn ra trong đầu thằng hầu của mình,
cũng như bạn đọc không hề bao giờ biết thằng John hoặc con Mary () được bạn trả
lương, nhưng nghĩ về bạn thế nào. Bọn đầy tớ nghĩ gì về chúng ta?... Giả sử ta
biết rõ đám thân bằng cố hữu nghĩ về ta thế nào, có nhẽ chúng ta đến sẵn sàng
vui vẻ từ giã cõi đời này mất; vì nếu không thì lúc nào tâm trí ta cũng hốt
hoảng, hỏi còn chịu đựng làm sao? Thêm thằng hầu của Joe sắp sửa hạ giá nạn
nhân của hắn rồi, chẳng khác gì ta thấy bày một người giúp việc của ông Paynter
ở phố Leadenhall đặt lên mình một con ba-ba vô tư lự tấm biển đề: “Ngày mai có
xúp ba-ba”.
Chị hầu phòng của Amelia thì không đến nỗi quá
tệ như thế. Rất ít đầy tớ được gần gũi con người dịu dàng, dễ tính là bà
Osborne, nếu chưa chứng tỏ được rằng mình là người hiền hành trung thực. Nói
của đáng tội, chị bếp Pauline đã an ủi bà chủ nhiều hơn bất cứ người nào Amelia
gặp trong buổi sáng tai hại này. Bởi vì, lúc chị ta thấy Amelia cứ ngồi lặng lẽ
hàng giờ không động đậy bên cạnh khung cửa sổ mà lúc nãy những hàng lưỡi lê
cuối cùng của đoàn quân đã diễu qua, thì chị hầu gái thực thà cầm lấy tay bà
chủ nói:
- Kìa, thưa bà, người yêu của cháu chẳng cũng
phải ra trận đó sao?()
Rồi chị ta nức nở khóc; Amelia ngã vào hai cánh
tay của chị hầu, cũng khóc; chủ và tớ xót xa, an ủi lẫn nhau.
Suốt buổi sáng hôm ấy, nhiều lần, thằng Isidor
chạy vào trong tỉnh, la cà đến cổng những khách sạn và những quán trọ xung
quanh công viên, chỗ người Anh tập trung trú ngụ, để nghe ngóng tin tức. Hắn
trà trộn vào đám quân hầu đầy tớ và những thông tin viên, lượm lặt được vô khối
tin sốt dẻo về báo cáo lại với chủ. Hầu hết những người dân này trong thâm tâm
đều có cảm tình với Hoàng đế, họ đều chắc mẩm chiến tranh sẽ chóng vánh kết
thúc.
Bản bố cáo của Hoàng đế từ Avesnes được phân
phát rộng rãi tại Brussels, nội dung như sau:
“Hỡi binh sĩ!
Hôm nay là ngày kỷ niệm trận Marengo và
Friedland, hai trận đánh lớn đã hai lần quyết định vận mệnh của châu Âu. Thế mà
sau trận Austerlitz cũng như sau trận Wagram, chúng ta đã tỏ ra quá rộng lượng.
Chúng ta đã quá tin vào lời thề, lời hứa của những ông hoàng còn được chúng ta
cho phép ngồi lại ngai vàng. Một lần nữa, chúng ta hãy tiến quân trên gặp họ.
Chúng ta không là người như họ sao? Hỡi binh lính! Cũng bọn lính Phổ ngạo mạn
ngày hôm nay, ở Jena, ba người đánh một, và ở Montmirail, sáu đánh một chống
lại chúng ta. Ai từng bị bắt làm tù binh bên nước Anh hãy kể lại mình đã bị đối
xử tàn tệ thế nào trên những tàu chiến của chúng. Quân rồ dại! Một phút thịnh
vượng ngắn ngủi đã làm cho chúng mù quáng, nếu chúng tiến sang nước Pháp, thì
đây sẽ là mồ chôn chúng!”
Nhưng người Bỉ đứng về phe quân Pháp lại còn
đoán trước kẻ thù của Hoàng đế sẽ bị thất bại nhanh chóng hơn thế nữa. Ai nấy
đều đồng tình rằng quân Phổ và quân Anh chỉ có thể trở về giữa đám hậu quân của
Hoàng đế với tư cách là tù binh.
Những tin tức trên được báo cáo lại với Sedley
ngay hôm đó. Anh ta được tin thêm hôm trước đội quân của quận công Wellington
đã bị đè bẹp rồi; hiện giờ quận công đang cố gắng tập hợp tàn binh lại.
- Bị đè bẹp, xì? Quận công sẽ đánh bại Napoléon
như đã đánh bại bất cứ tướng lĩnh địch quân nào trước kia.
Lúc ăn sáng Joe vẫn còn có vẻ can đảm lắm.
Thằng hầu thông tín viên đáp:
- Tài liệu của quận công bị đốt sạch, hành lý
bị mất rồi; còn tổng hành dinh thì đã sửa sang lại để quận công Dalmatia dùng.
Tin này con nghe chính mồm lão quản gia của quận công nói lại. Gia nhân ngài
quận công Richemont cũng đang thu xếp đồ đạc; ngài quận công đã trơn biệt, còn
quận chúa thì chờ gói ghém những đồ vật bằng bạc xong, cũng lên đường tìm đến
Ostend với vua nước Pháp ().
Joe giả vờ không tin, đáp:
- Vua nước Pháp ở Ghent cơ, anh bạn ơi - Đêm
qua, ông ta đã đến Bruges rồi, hôm nay sẽ rời khỏi Ostend. Quận công de Berri
bị bắt làm tù binh. Ai muốn yên thân nên sớm trốn đi ngay; ngày mai chúng sẽ mở
cửa đập nước, cả xứ này bị ngập thì có mọc cánh cũng không thoát.
Sedley vẫn cãi:
- Vô lý lắm. Ta có ba người chống một. Lực
lượng như thế, Bonaparte làm gì được. Áo, và Nga cũng đang tiến quân. Hắn sẽ bị
tiêu diệt; hắn phải bị tiêu diệt.
Joe vừa nói vừa đập mạnh tay xuống bàn.
- Ở Jena, quân Phổ dùng ba người đánh một, thế
mà hắn bắt sống cả quân đội, cướp cả nước trong có một tuần lễ ở Montmirail ta
cũng sáu người đánh một, mà chạy tan tác như đàn cừu. Quân Áo đang tiến về
thật, nhưng lại có hoàng hậu và vua La-mã cầm đầu! Còn quân Nga? Chu cha! Quân
Nga thì rồi cũng đến chạy như vịt. Chúng sẽ không để cho người Anh đầu hàng; cứ
xem cách chúng đối xử với binh lính của ta trên những chiếc tàu chở tù binh
khủng khiếp ấy thì đủ biết. Ngài hãy đọc mà xem, có phải rõ như ban ngày không?
Đây là tờ bố cáo của hoàng đế và vua nước Pháp.
Thằng Isidor ra mặt đứng về phe Napoléon hắn
rút tờ bố cáo trong túi ra, lạnh lùng giơ vào giữa mặt ông chủ, mắt đã lăm le
ngó vào bộ áo khoác có viền và các thứ đồ vật quý giá mà hắn coi như đã nằm gọn
trong tay rồi.
Nếu chưa đến nỗi hoảng sợ thực sự, thì ít nhất
Joe cũng thấy không yên tâm chút nào.
- Đưa áo và mũ đây, rồi theo tao đi. Tao phải
đích thân đi xem xét thực hư ra sao mới được.
Thấy Joe mặc chiếc áo khoác có viền, thằng
Isidor tức lắm. Hắn nói:
- Có lẽ ngài không nên mặc áo nhà binh. Bọn
Pháp đã thề không cho một tên lính người Anh nào sống sót.
- Im mồm đi?
Joe vẫn hoàn toàn cương quyết, xỏ tay vào ống
tay áo; đang còn bận công việc anh hùng ấy, thì thấy bà Rawdon Crawley bước
vào. Rebecca định đến thăm Amelia; cửa mở sẵn, cô ta không giật chuông.
Rebecca vẫn trang điểm thật lộng lẫy lịch sự
như mọi khi. Sau lúc chồng ra đi, cô ta đánh một giấc ngon lành, đã lại sức.
Giữa một thành phố và trong một ngày mà thiên hạ ai ai cũng có vẻ đăm chiêu,
rầu rĩ, đôi má hồng hồng chúm chím của cô ta trông thật ngon mắt; thấy điệu bộ
anh chàng to béo loay hoay, cuống quít mặc mãi không xong chiếc áo khoác có
viền, Rebecca không nhịn được cười:
- Anh sửa soạn đi theo đoàn quân đấy à, anh
Joseph? Thế không có ai ở lại Brussels bảo vệ đám đàn bà con gái đáng thương
chúng em ư?
Cuối cùng Joe cũng mặc xong áo; anh ta đỏ mặt
tía tai tiến ra, ấp úng chào người khách xinh đẹp:
- Sau những chuyện xảy ra sớm nay, cô có được
vui vẻ không? Buổi dạ hội đêm qua hẳn em mỏi mệt?
Ngài Isidor biến ngay vào trong căn phòng của
chủ kề bên, mang theo cả tấm áo ngủ có in hoa.
Rebecca giơ cả hai bàn tay nắm chặt lấy tay
Joe, nói:
- Cảm ơn anh có lòng hỏi thăm. Thiên hạ ai cũng
khiếp đảm, chỉ có anh là điềm nhiên như không, chị Emmy thân yêu của em ra sao?
Phút chia tay chắc đau đớn nắm đấy nhỉ?
Joe đáp :
- Đau xót vô cùng.
Rebecca tiếp:
- Đàn ông các ngài cái gì cũng chịu đựng được.
Chia ly, nguy hiểm, chả coi mùi gì. Anh thú thực đi, sắp ra trận, định bỏ mặc
chúng em ở nhà phải không nào? Em biết, đúng thế, linh tính báo với em như vậy.
Cứ nghĩ thế mà em sợ quá cơ, chả là thỉnh thoảng ngồi buồn một mình, em vẫn nhớ
đến anh đấy, anh Joseph ạ? Cho nên em phải chạy ngay đến đây; em van anh đừng
bỏ chúng em mà đi nhé.
Câu nói ấy có thể hiểu thế này: “Ông ơi, nếu
quân ta thất bại, ta phải đi chỗ khác, thì ông có sẵn xe ngựa đấy, nhớ dành cho
tôi một ghế.”
Chẳng rõ Joe có hiểu như vậy không. Nhưng anh
ta vẫn hết sức bực mình vì suốt thời gian ở Brussels, không hề được Rebecca chú
ý đến bao giờ. Chưa lần nào anh ta được giới thiệu với đám bạn bè sang trọng
của Rawdon Crawley, cũng ít khi được mời đến dự những buổi tiếp khách tối của
Rebecca. Bởi vì tính Joe rụt rè, không dám chơi những tiếng bạc to; vả lại
George và Rawdon cũng không muốn anh ta có mặt; cả hai cùng không thích có
người chứng kiến những trò giải trí riêng của họ. Joe nghĩ bụng: “À thì ra bây
giờ cần mình, cô ta mới mò đến. Mãi đến lúc tứ cố vô thân, cô ta mới nhớ đến
lão Joseph này!”. Nhưng bên cạnh những ý nghi ngờ, anh ta vẫn khoái vì được
Rebecca khen mình can đảm.
Mặt mũi đỏ bừng, anh ta lấy ngay điệu bộ quan
trọng nói:
- Tôi cũng muốn xem trận mạc ra sao một tý.
Chắc cô hiểu, người có đôi chút can đảm ai cũng thế. Trước tôi cũng có xem đánh
nhau chút ít ở Ấn Độ, nhưng chưa dự trận nào lớn như lần này.
Rebecca đáp:
- Đàn ông các ngài quen hy sinh mọi thứ cho thú
vui chốc lát. Sớm nay, đại úy Crawley từ biệt em mà vui vẻ y như sắp đi săn
vậy. Anh ấy cần gì đâu? Các anh, có ai thèm để ý đến một người đàn bà đáng
thương trơ trọi đau khổ như thế nào? Em cũng chẳng biết anh chàng to lớn lười
biếng tham ăn của em có ra trận thật hay không nữa! Ôi, anh Sedley thân mến ơi,
em đến với anh để xin được an ủi đây. Em cầu kinh suốt buổi sáng nay. Nghĩ đến
những người chồng của chúng ta, bè bạn chúng ta, binh lính và đồng minh của
chúng ta, đang lao vào bao hiểm nguy ghê gớm mà em rùng mình. Vì thế em đến đây
để xin che chở…thì lại thấy người bạn của em.. người bạn cuối cùng còn lại định
lao mình mất vào trong cảnh tượng khủng khiếp.
Joe bắt đầu cảm thấy hoàn toàn dễ chịu, đáp:
- Thưa cô bạn thân yêu, xin cô đừng sợ. Tôi mới
có ý định ra trận mà thôi... là người Anh, ai mà không thế? Nhưng còn nhiệm vụ
giữ tôi ở lại; tôi không thể bỏ mặc người em gái đau khổ hiện nằm trong phòng
bên được.
Anh ta chỉ về phía cửa phòng Amelia. Rebecca
cầm khăn tay chấm chấm vào mắt, mùi nước hoa cô-lô-nhơ bay ra thơm sực:
- Thực là một người anh cao quý. Em đã hiểu lầm
anh. Quả thực anh có một trái tim. Trước kia em cứ tưởng anh không có.
Joe làm một cử chỉ như muốn đặt bàn tay vào chỗ
Rebecca vừa nói:
- Ô, đúng lắm cô! Cô hiểu tôi quá, quả thật như
vậy...cô Rebecca thân mến ạ!
- Bây giờ em hiểu rõ anh thương yêu em gái thế
nào rồi. Nhưng nhớ lại chuyện cũ hai năm qua... hồi ấy, đối với em, anh thật vô
tình.
Rebecca vừa nói vừa chăm chú ngó anh chàng một
lúc lâu, đoạn quay nhìn ra cửa sổ, Joe đỏ tía cả mặt. Trong người anh ta, cái
bộ phận vừa bị Rebecca lên án là bị thiếu, bắt đầu đập thình thịch, thình
thịch. Anh ta nhớ cái ngày bỏ Rebecca mà đi, nhớ lại sự say mê một hồi đã đốt
cháy tâm can mình... nhớ lại cái buổi hai người cùng giong xe ngựa đi chơi; hồi
ấy cô ta đan chiếc túi lụa xanh tặng anh, còn Joe thì cứ ngồi ngây người ra mà
ngắm đôi cánh tay trắng muốt và cặp mắt long lanh của người đẹp.
Rebecca rời khung cửa sổ, lại nhìn anh chàng
một lần nữa, và giọng nói hơi run run, thủ thỉ bảo anh chàng thế này:
- Chắc anh cho em là kẻ vô ơn, phải không? Lần
gặp lại nhau vừa qua, thấy anh lạnh lùng, cứ tránh không nhìn em, em cũng hiểu.
Đó chẳng phải là những cớ khiến em phải lánh mặt anh sao? Anh hãy hỏi lòng mình
thì đủ rõ. Anh có biết rằng vì nhà em yêu em quá, nên không muốn tiếp anh
không? Xưa nay, nhà em chỉ nói nặng với em có một lần, phải công nhận như vậy,
thì lần ấy chính là về chuyện anh đấy...mà câu nói mới thật là tàn tệ...tàn tệ
quá.
Joe vừa sung sướng, vừa bối rối, hỏi lại:
- Trời đất ơi. Tôi có điều gì không phải nhỉ?
Tôi phạm lỗi gì với…với…?
Rebecca đáp:
- Vì ghen chứ còn vì sao nữa? Nhà em cứ dằn vặt
em mãi vì chuyện anh đấy. Song, dù rằng xưa kia hai ta đối với nhau thế
nào...bây giờ em cũng chỉ một lòng một dạ yêu chồng. Em hoàn toàn vô tội. Có
đúng thế không, anh Sedley?
Nhìn người đàn bà chết mê chết mệt vì mình,
mạch máu trong người Joe chạy rần rật vì sung sướng. Chỉ cần vài câu nói khéo
léo, một cái liếc tình thế là anh ta quên sạch mọi điều nghi ngờ. Kể từ thuở
hoàng đế Solomon đến nay, biết bao người đàn ông khôn ngoan hơn anh ta nhiều
chẳng phải đã bị đàn bà mơn trớn mà lừa dối đó sao? Becky nghĩ thầm: “Nếu có
chuyện bất hạnh xảy ra, mình yên trí sẽ có chỗ ngồi trong xe ngựa để đi nơi
khác rồi”.
Có lẽ những tình cảm say sưa nồng nhiệt kia có
thể đã khiến Joe bày tỏ mối tình nồng nàn của mình với Rebecca, ai mà biết
được, nếu đúng lúc ấy, thằng hầu Isidor không ló mặt ra bắt đầu lăng xăng thu
dọn, Joe vừa định thốt lời tỏ tình thì nghẹn lại vì xúc động, đành thôi.
Rebecca cũng thấy lúc này nên vào hỏi thăm cô bạn quý Amelia đi là vừa. Cô ta
vừa nói: “Xin tạm biệt”() vừa giơ tay hôn gởi một cái cho Joseph, rồi se sẽ gõ
cửa phòng Amelia. Rebecca vào trong, cửa khép lại rồi, anh chàng ngồi phịch
xuống ghế mây ngơ ngẩn nhìn và thở dài sườn sượt.
- Chiếc áo này ngài mặc chật quá.
Isidor nói vậy, mắt vẫn dán vào tấm áo có khuy
hoa.
Nhưng chủ hắn không nghe thấy gì; anh ta còn
bận nghĩ đến chuyện khác. Hình ảnh cô Rebecca đầy quyến rũ kia đã làm cho anh
chàng như ngây như dại, nhưng cứ nghĩ đến Rawdon Crawley có tính cả ghen với bộ
ria cong vểnh như ria cá trê, lại đèo thêm cả một đôi súng lục đáng sợ nạp đạn
sẵn sàng, thì Joe lại rụt cổ lại.
Thấy Rebecca bước vào, Amelia sợ hãi lùi lại.
Nhìn bạn, Amelia nhớ lại cuộc đời, nhớ lại câu chuyện hôm trước.
Sáng nay, bị bao nỗi sợ hãi choán lấy tâm trí,
thành ra cô cũng không có thì giờ nghĩ tới chuyện ghen tuông với Rebecca ; cô
không nhớ tới chuyện gì hết, chỉ lo cho chồng ra trận sẽ gặp bao sự hiểm nghèo.
Cho mãi tới lúc con người trâng tráo này bước vào cắt đứt dòng suy nghĩ của cô
chúng ta cũng mới dám cùng bước vào căn phòng âm thầm này. Không rõ người đàn
bà đáng thương ấy đã quỳ bao lâu trên mặt đất, đã âm thầm cầu nguyện, đã ủ rũ
cay đắng trong lòng suốt bao nhiêu tiếng đồng hồ rồi! Các nhà văn chuyên viết
những thiên truyện huy hoàng miêu tả chiến tranh và sự chiến thắng mấy khi hé
mở cho ta biết những sự thực này. Trong một cuộc thắng trận những chuyện ấy tầm
thường quá. Giữa tiếng hò hét ồn ào vui vẻ của bản nhạc hợp tấu của chiến
thắng, tiếng than khóc của những người vợ góa và tiếng nức nở của những người
mẹ hiền chìm đi, không nghe thấy nữa.
Mới đầu cử chỉ của Amelia lộ vẻ hoảng hốt...
nhưng khi thấy đôi mắt xanh biếc của Rebecca chiếu thẳng về phía mình, khi cô
này tiến lại, sột soạt trong bộ áo lụa mới tinh cùng những đồ trang sức lóng
lánh, giơ hai tay như muốn ôm hôn...thì đột nhiên Amelia thấy giận dữ làm sao;
sắc mặt cô lúc trước tái nhợt bỗng đỏ rực lên; Amelia trân trân nhìn lại kẻ
tình địch một lúc lâu, làm cho chính Rebecca cũng phải ngạc nhiên và hơi bối
rối.
Rebecca giơ tay định nắm tay bạn, nói:
- Chị làm sao thế, khó ở lắm phải không? Chưa
biết bệnh trạng của chị ra sao, em cũng không thể nào yên tâm được.
Amelia rụt tay lại... Từ bé, chưa hề bao giờ
con người thùy mị dịu dàng ấy từ chối không nhận một cử chỉ thân mật âu yếm của
người khác. Nhưng lần này cô rụt tay lại, khắp người run lên bần bật.
- Rebecca, cô đến đây làm gì?
Amelia hỏi, đôi mắt to vẫn nghiêm trang nhìn
trừng trừng vào mặt Rebecca, làm cho cô này cũng phải bối rối.
Rebecca nghĩ thầm: “Chắc nó nhìn thấy chồng đưa
mảnh giấy cho mình trong buổi dạ hội rồi”; mắt vẫn nhìn xuống đất, cô ta đáp:
- Chị Amelia thân mến ơi, đừng lo ngại. Em đến
xem có thể... xem chị có mạnh khỏe không thôi mà.
Amelia :
- Cô có mạnh khỏe không? Cô thì phải khỏe mạnh
lắm, vì cô có yêu chồng cô đâu. Nếu yêu chồng, cô đã chẳng đến đây làm gì.
Rebecca, cô nói đi, có phải xưa nay bao giờ tôi cũng đối tốt với cô không?
Cô kia vẫn cúi mặt xuống, đáp:
- Đúng thế, chị Amelia ạ.
- Hồi cô còn nghèo khổ, ai là người đánh bạn
với cô? Tôi có đối đãi với cô như chị em ruột không? Cô cũng biết, trước khi
lấy anh ấy, chúng tôi sung sướng thế nào. Hồi đó tôi là tất cả của anh ấy, nếu
không, sao anh ấy lại hy sinh tất cả tiền tài, bỏ cả gia đình như anh ấy đã
hành động một cách cao thượng để đem hạnh phúc lại cho tôi? Sao cô lại phá hoại
tình yêu của tôi? Ai xui cô đến đây chia uyên rẽ thúy, mà cướp tình yêu của
chồng tôi đi? Cô tưởng cô yêu được anh ấy như tôi à? Tình yêu của anh ấy đối
với tôi là tất cả cuộc đời. Cô biết thế nhưng lại muốn ăn cướp của tôi. Nhục
lắm, Rebecca ạ; cô là một người đàn bà hèn hạ, tồi tệ, một người bạn dối trá,
một người vợ phản bội.
Rebecca quay lại nhìn bạn nói:
- Chị Amelia ơi, em xin thề trước Chúa trời, em
không hề có lỗi gì với nhà em.
- Rebecca, có thật cô chưa làm tệ làm hại gì
tôi không?Cô đã làm rồi, nhưng không ăn thua gì đấy thôi. Hãy cứ tự vấn lương
tâm xem.
Rebecca nghĩ thầm: “Thì ra nó chưa biết gì”.
- Anh ấy sẽ trở về với tôi, tôi biết. Tôi biết
rằng không có sự lừa dối, bợ đỡ nào có thể giữ anh ấy xa tôi lâu. Tôi cầu
nguyện mong anh ấy sẽ trở lại.
Người đàn bà đáng thương nói những lời trên một
cách trôi chảy, hăng hái khác thường, Rebecca chưa thấy thế bao giờ; cô ta cứ
đứng im thin thít. Amelia lại tiếp, giọng đau khổ:
- Nhưng nào tôi đã làm gì cô mà cô định tâm
cướp anh ấy đi? Tôi mới chung sống cùng anh ấy được có sáu tuần lễ. Rebecca, cô
tha cho tôi điều ấy mới phải. Thế mà ngay những ngày đầu tiên trong tuần trăng
mật của chúng tôi, cô đã đến quyến rũ anh ấy rồi. Bây giờ anh ấy đã đi mất, cô
đến đây xem tôi đau đớn ra sao phải không? Suốt nửa tháng vừa qua, cô làm tôi
đau khổ quá đủ rồi; hôm nay, cô nên tha cho tôi mới phải.
Rebecca vụng về đáp:
- Em... em có đến đây bao giờ đâu?
- Không, cô không đến đây; cô cướp anh ấy mang
đi. Cô định đến cướp anh ấy phải không? - Amelia nói tiếp, càng nói càng giận
dữ - Trước kia, anh ấy vẫn ở đây, bây giờ đi rồi. Đây, anh ấy vẫn ngồi trên
chiếc ghế xô-fa này. Đừng mó vào đấy. Chúng tôi ngồi đây trò chuyện với nhau,
tôi ngồi trên lòng anh ấy; hai cánh tay tôi ôm lấy cổ anh ấy; chúng tôi cùng
nói: “Thượng đế của chúng ta”. Phải trước kia, anh ấy vẫn ngồi đây; thế mà họ
đến mang anh ấy đi mất rồi; nhưng anh ấy đã hứa thế nào cũng trở về.
Rebecca cũng phải động tâm, nói:
- Chị thân mến ơi, thế nào anh ấy cũng trở về.
Amelia lại nói:
- Cô nhìn xem, đây là chiếc thắt lưng của anh
ấy…xem màu có đẹp không nào?
Và cô nâng dải lụa lên môi hôn. Nhiều lúc cô đã
lấy dải lụa ấy quấn quanh người. Hình như Amelia đã quên cả giận dữ, ghen
tuông, quên cả sự có mặt của kẻ tình địch. Cô lặng lẽ đi về phía giường, như
hơi mỉm cười, bắt đầu vuốt ve chiếc gối của George.
Rebecca cũng lặng lẽ bước ra ngoài, Joe vẫn
ngồi nguyên trên ghế như lúc nãy, hỏi:
- Amelia thế nào?
Rebecca đáp:
- Chị ấy cần có người săn sóc bên cạnh; xem có
vẻ yếu lắm. Rồi cô ta bỏ về, vẻ mặt trầm ngâm. Sedley khẩn khoản nài ở lại chơi
dùng bữa trưa, nhưng cô ta từ chối.
Thực tâm Rebecca cũng là người tốt, hay giúp
người; cô vẫn quý Amelia hơn mọi người khác. Đối với cô ta, những lời trách móc
tàn nhẫn của bạn cũng là những lời tán tụng…đó tức là tiếng rên rỉ của kẻ bại
trận. Ra đến công viên, Rebecca gặp ngay bà O’Dowd; những bài giảng đạo của ông
chú chánh xứ chắc không an ủi được bà thì phải, nên bà mới đi chơi cho khuây
khỏa nỗi lòng. Thấy Rebecca lại gần bắt chuyện, bà này hơi ngạc nhiên, vì xưa
nay không mấy khi được bà Rawdon Crawley ban cho cái hân hạnh ấy, Rebecca báo
tin cho bà ta rõ rằng Amelia đang mệt nặng, gần như mất trí vì đau khổ, và giục
người đàn bà Ai len tốt bụng này lại thăm nếu bà ta có thể an ủi được cô bạn
thân yêu của mình. Bà O’Dowd trịnh trọng đáp:
- Bản thân tôi cũng nhiều điều phiền não lắm
rồi. Có lẽ hôm nay bà Osborne cũng chưa cần có bạn bên cạnh đâu. Nhưng nếu quả
thật bà ấy yếu quá như lời bà vừa nói, xưa nay hai người vẫn chơi thân mà bà
cũng không an ủi được, thì tôi cũng đến một tý, xem có giúp được việc gì chăng.
Thôi, chào bà nhé.
Nói đoạn người đàn bà đeo đồng hồ báo thức khẽ
gật chào Rebecca, bà ta không muốn cùng đi chơi với cô này.
Rebecca nhìn bà O’Dowd bước đi, miệng hơi mỉm
cười.
Tính cô ta vẫn ưa hài hước. Thấy bà O’Dowd lúc
bỏ đi còn ngoái cổ lại nhìn mình, vẻ đăm chiêu trên nét mặt cô ta khi nãy biến
hẳn. Bà Peggy nghĩ thầm: “Bà nỡm ơi, xin kính bà; bà vui vẻ thế, tôi cũng lạ
cho bà. Chắc bà chẳng đến nỗi khóc sưng mắt lên đâu. Đoạn bà nhanh nhẹn đi về
phía nhà trọ của Amelia.
Người đàn bà đáng thương vẫn đứng cạnh giường
suốt từ lúc Rebecca bỏ đi, khổ sở như muốn phát điên. Bà thiếu tá vốn là người
cứng cỏi, hết sức tìm cách an ủi người bạn trẻ tuổi của mình. Bà ta ngọt ngào
nói: “Amelia thân yêu ơi, phải biết chịu đựng chứ. Không nên để ông ấy khi
thắng trận trở về thấy bà ốm yếu. Ngày hôm nay, nào phải có một mình bà ở trong
cảnh éo le như thế đâu?”
- Em biết lắm. Nhưng em tồi quá, em yếu đuối
quá.
Amelia đáp. Cô hiểu rõ sự yếu đuối của chính
mình.
Sự có mặt của người đàn bà cứng cỏi hơn khiến
cô tự chủ được thêm; có bà O’Dowd bên cạnh, cô cũng cảm thấy dễ chịu. Hai người
nói chuyện với nhau mãi đến hai giờ chiều. Cả hai cùng để tâm hồn bay theo đoàn
quân cứ tiến mãi, mỗi lúc một thêm xa. Bao nỗi lo âu khắc khoải ghê gớm...bao
lời cầu nguyện...bao sự sợ hãi, sầu khổ không tả xiết...cũng gửi theo đoàn
quân. Ấy là sự đóng góp của phụ nữ vào cuộc chiến tranh. Chiến tranh đòi đàn
ông góp máu, và đàn bà thì phải góp nước mắt.
Đến hai giờ rưỡi, một sự kiện rất quan trọng
xảy ra cho Joseph: giờ ăn trưa đã điểm. Các chiến sĩ có thể cứ chiến đấu, cứ tử
trận, nhưng Joe phải ăn cái đã. Anh ta vào phòng Amelia định dỗ em gái ra cùng
ăn với mình:
- Ăn một tý xem, xúp ngon lắm, Emmy ạ.
Và anh ta hôn tay em gái. Đã hàng bao năm nay,
trừ buổi hôn lễ của Amelia, anh ta chưa hề hôn tay em bao giờ. Amelia đáp:
- Anh Joseph, anh tốt quá, anh thương em quá.
Ai cũng quý em, nhưng hôm nay, em không muốn ra khỏi phòng, anh ạ.
Riêng cặp lỗ mũi của bà O’Dowd lại có cảm tình
với mùi thơm ngào ngạt của món xúp; bà thấy có thể nán lại chơi với Joe được.
Thế là bà ngồi vào bàn ăn. Bà thiếu tá trịnh trọng nói:
- Cầu Chúa ban phước lành cho bữa ăn của chúng
ta.
Bà đang nghĩ tới ông Mick thực thà của bà đang
cưỡi ngựa dẫn đầu đoàn quân ra chiến trường. Bà thở dài, tiếp: “Những người anh
em đáng thương của chúng ta hôm nay chắc ăn uống chẳng ra sao nhỉ?” Y như một
triết gia, bà bắt đầu bữa ăn.
Càng ăn, Joe càng thấy tinh thần phấn khởi. Anh
ta muốn uống để chúc mừng trung đoàn; hoặc giả anh ta muốn kiếm cớ uống thêm
một cốc sâm-banh nữa. Joe ngả đầu rất lịch sự trước bà khách, nói: “Chúng ta
uống mừng ngài O’Dowd cùng các bạn chiến sĩ anh hùng trong trung đoàn
thứ...phải không, thưa bà O’Dowd? Isidor, rót đầy cốc của bà đi”.
Nhưng đột nhiên, Isidor giật bắn mình; bà thiếu
tá cũng vội đặt dao dĩa xuống bàn. Cửa sổ phòng mở rộng, trông về phía Nam. Từ
phía này, những tiếng ầm ầm xa xa vang qua những mái nhà rực rỡ ánh nắng vọng
về, Joe hỏi:
- Cái gì đấy? Con khỉ, sao không rót rượu?
Isidor chạy ra bao lơn đáp:
- Súng đấy!
- Lạy Chúa tôi! Súng đại bác đấy!
Bà O’Dowd đứng phắt dậy kêu lên và chạy ra cửa
sổ. Từ trong những căn nhà khác, hàng nghìn người mặt tái đi lo lắng ló cổ ra
ngoài. Lúc này hình như dân chúng khắp thành phố đổ xô hết ra đường.
Chương 32
JOE ĐI TRỐN VÀ CHIẾN TRANH KẾT THÚC
Dân thành phố Luân-đôn thanh bình chúng ta chưa
hề bao giờ được chứng kiến một cảnh tượng hỗn độn, hốt hoảng như ở Brussels lúc
này (cầu Chúa tránh cho chúng ta điều đó). Nhiều đám đông chen lấn nhau tiến vê
phía cổng thành Namur vì có tiếng súng từ phía ấy vọng lại; nhiều người cưỡi
ngựa phi lên trước để đón những thông tin viên của quân đội. Người nọ nhao nhao
hỏi tin tức người kia; những nhà quý tộc tai mặt người Anh cùng các mệnh phụ
cũng hạ cố hỏi chuyện cả những người tầm thường không quen biết bao giờ. Bọn
người có cảm tình với quân Pháp thì chạy ngược chạy xuôi, sướng điên người lên,
luôn mồm tiên đoán sự thắng lợi của Hoàng đế. Các thương gia đóng chặt cửa hàng
lại, cũng xông ra đường đóng góp phần mình vào sự ồn ào túi bụi chung. Đàn bà
xô đẩy nhau chạy vào nhà thờ, quỳ xuống cầu kinh ngay cả trên những bậc đá
ngoài cửa. Tiếng súng đại bác vẫn ầm ầm vang dội. Lúc này, những chiếc xe ngựa
của du khách bắt đầu rời khỏi thành phố, lao qua cổng Ghent. Điều dự đoán của
bọn thân Pháp bắt đầu được coi là thành sự thật.
Kẻ nói: “Hoàng đế đã cắt những đạo quân đồng
minh ra làm hai rồi”. Người bảo: “Hoàng đế đang tiến thẳng về Brussels; Hoàng
đế đã đánh bại quân Anh. Đêm nay Người sẽ ở đây?”
Ixiđo thét lên với chủ: “Hoàng đế sẽ đánh bại
quân Anh. Đêm nay Người sẽ vào thành phổ. Hắn cứ nhảy cỡn lên từ trong nhà ra
đường, chốc chốc lại đem một tin thất bại mới toanh chạy về. Mặt Joe mỗi lúc
một thêm tái nhợt. Anh chàng “dân thường” to béo này bắt đầu hoàn toàn mất tinh
thần, uống bao nhiêu là sâm-banh cũng không lại hồn. Chưa hết ngày hôm ấy, anh
chàng đã lo đến cuống cả người lên; Isidor khoan khoái ngắm chủ, chắc mẩm trong
bụng phen này ăn ngon chiếc áo khoác có viền và mọi đồ vật khác.
Hai người phụ nữ vẫn chưa nói gì với nhau. Nghe
ngóng tiếng súng nổ một lúc lâu, bà thiếu tá béo phị mới nhớ đến người bạn gái
của mình trong gian phòng bên. Bà chạy vào để săn sóc và nếu cần thì an ủi
Amelia đôi chút. Người đàn bà Ai len này vốn đã cứng cỏi bây giờ lại càng can
đảm hơn, vì bà nghĩ rằng mình đang có nhiệm vụ che chở cho một người yếu đuối
thất vọng khác. Bà ta ở liền năm tiếng đồng hồ cạnh người bạn gái, lúc thì lên
tiếng trách móc, lúc thì ngọt ngào vui vẻ; nhưng thường thường bà ngồi yên
lặng, thì thầm cầu nguyện Chúa trời. Sau này, bà kể lại rằng: “Suốt ngày hôm
ấy, cho mãi đến đêm khi tiếng súng ngừng hẳn, tôi không hề rời bàn tay bà ấy ra
lúc nào”. Chị hầu gái Pauline thì còn bận quỳ trong nhà thờ ngay gần đó để cầu
nguyện cho anh nhân tình của chị ta().
Tiếng đại bác đã ngừng hẳn. bà O’Dowd từ trong
phòng của Amelia bước ra phòng khách, thấy Joe ngồi trước hai chiếc vỏ chai
không, bao nhiêu can đảm lúc trước cạn sạch. Có một hai bận anh ta đã đánh bạo
lấn vào tận cạnh giường cô em gái, vẻ mặt rất lo lắng, như có điều gì muốn nói
với em. Thấy bà thiếu tá vẫn ngồi yên chỗ cũ, anh ta đành đi ra, không bộc bạch
được can tràng. Joe ngượng không muốn cho bà này biết mình muốn đi trốn.
Nhưng khi bà O’Dowd bước ra phòng ăn, lúc anh
chàng ngồi trong căn phòng tranh tối tranh sáng làm bạn với mấy cái vỏ chai
rượu sâm banh, thì anh ta bắt đầu thổ lộ tâm sự:
- Bà O’Dowd ạ, có lẽ bà nên sửa soạn cho Amelia
đi thôi.
Bà thiếu tá đáp:
- Ông định bảo đưa bà ấy đi chơi à? Bà ấy còn
yếu lắm, đi sao được.
Anh chàng nói:
- Tôi... tôi đã ra lệnh sửa soạn xe... và...
thuê ngựa; thằng Isidor đi lo liệu việc này rồi.
Bà khách đáp:
- Tối tăm thế này, ông định giong xe đi chơi
đâu? Để bà ấy nằm nghỉ tốt hơn. Tôi vừa mới dỗ được bà ấy ngả lưng một chút
đấy.
Joe đáp:
- Đánh thức cô ấy dậy; thế nào cũng phải dậy -
anh ta giậm mạnh chân xuống đất - tôi đã bảo thuê ngựa sẵn sàng cả rồi mà...
phải, đâu vào đấy cả. Hỏng hết mọi sự rồi... bây giờ...
Bà O’Dowd hỏi:
- Bây giờ làm sao?
- Tôi đi Ghent đây. Thiên hạ ai cũng đi cả. Tôi
dành cho bà một chỗ ngồi trong xe! Nửa giờ nữa ta lên đường.
Bà thiếu tá nhìn vào mặt anh chàng, vẻ khinh bỉ
lộ ra nét mặt. Bà nói:
- Chưa có lệnh của ông O’Dowd nhà tôi, tôi chưa
rời khỏi nơi này. Ông Sedley, ông có thể đi đâu tùy thích nhưng nhất định tôi
và Amelia ở lại đây.
- Cô ấy phải đi. Joe lại giậm chân đáp.
Bà O’Dowd khuỳnh tay đứng án ngữ ngay trước cửa
phòng ngủ. Bà bảo:
- Ông định đưa bà ấy về với cụ bà nhà ta phỏng?
Hay là chính ông cũng muốn về núp bóng bà cụ đấy, ông Sedley? Vậy thì chào ông,
chúc ông lên đường bình an vô sự. Chúc ông một hành trình tốt đẹp. Tôi khuyên
ông điều này, nên cạo, quách bộ râu đi thôi, kẻo chúng nó làm lôi thôi đấy.
- Bỏ mẹ thật.
Joe kêu lên, vừa sợ, vừa giận lại vừa bực mình.
Vừa lúc ấy, thằng Isidor lù lù bước vào, mồm
cũng đang chửi vung tàn tán: “Hết sạch cả ngựa rồi”().
Ngày hôm ấy, ở Brussels không phải chỉ có Joe
là biết sợ đến cuống người lên. Gần sáng thì Joe sợ hãi đến gần như biến thành
loạn trí ở trên, ta đã rõ chị Pauline cũng có một anh nhân tình, anh phải ra
trận đương đầu với quân đội của hoàng đế Napoléon. Anh này là người Brussels và
làm khinh kỵ binh trong đội quân Bỉ. Trong cuộc chiến tranh này, lính Bỉ nổi
tiếng không phải vì can đảm, mà vì chuyện khác; cho nên anh chàng Van Cutsum,
người yêu của Pauline, cũng chẳng dũng cảm gì nên đã ngoan ngoãn tuân theo lệnh
rút lui của viên đại tá Bỉ. Trong thời kỳ đó trong đội quân đồn trú ở Brussels,
có anh chàng trai trẻ Regulus (anh ta vốn sinh trưởng trong thời kỳ cách mạng)
hầu như có lúc nào rỗi là lại la cà trong bếp của Pauline; mấy bữa trước, khi
chia tay với cô nhân ngãi khóc sướt mướt để ra trận, túi áo và túi súng của anh
ta đầy phồng toàn những của ngon vật lạ lấy trong chạn để thức ăn.
Riêng đối với trung đoàn của anh chàng này thì
chiến tranh có thể coi là đã kết thúc rồi. Trung đoàn của anh ta là một bộ phận
của sư đoàn đặt dưới quyền chỉ huy của vị hoàng đế tương lai là thái tử Orange.
Cứ nom lưỡi kiếm và bộ ria mép dài lê thê, cùng những đồ trang phục và trang bị
lộng lẫy, thì thấy Regulus và các bạn đồng ngũ cũng có vẻ can trường lắm, chẳng
kém gì những đội quân dũng cảm khác đã từng lập những chiến công hiển hách.
Thống chế Ney tiến quân như vũ bão, chặn bước
tiến của quân đồng minh, chiếm hết cứ điểm nọ đến điểm kia; mãi tới khi đại
quân Anh từ Brussels tham gia chiến đấu tỏ ra hoạt động tích cực nhất trong
việc rút lui chạy dài trước quân Pháp, hối hả bỏ lại hết vị trí này đến vị trí
khác. Chỉ có đội quân Anh đi tập hậu mới chặn nổi bước rút lui của họ. Nhân
thế, kỵ binh của địch quân (mà người ta phải khâm phục sự dũng cảm đến khủng
khiếp) mới có dịp được chạm trán với quân Anh hơn là với quân Pháp, nên len bừa
vào giữa hàng ngũ của quân Anh đi tập hậu mà chạy thục mạng, rồi mạnh ai người
nấy chạy tan tác tứ phía trốn sạch. Vậy là trên thực tế trung đoàn quân Bỉ
không còn tồn tại nữa. Đố ai biết nó ở đâu, bản doanh cũng biến mất. Regulus
trơ trọi một mình một ngựa, phi miết, chuồn khỏi chỗ giáp chiến đến mấy chục
dặm đường; và dĩ nhiên, anh ta còn kiếm đâu ra được một chỗ tốt hơn là cái bếp
của Pauline cùng đôi cánh tay trung thành của người yêu sẵn sàng đón tiếp anh?
Gia đình Osborne, theo lối du khách lục địa,
thuê một căn phòng trên gác khách sạn. Khoảng mười giờ, nghe có tiếng gươm chạm
vào bậc thang gác kêu lách cách, rồi thấy có tiếng gõ cửa bếp; chị Pauline đáng
thương vừa ở nhà thờ về vội mở cửa ra, thấy ngay “thầy quyền” của mình mặt ngơ
ngơ ngác ngác lù đù đứng đấy, chị ta sợ hãi suýt chết ngất. Mặt anh này tái
nhợt, như mặt chàng lính ngự lâm nửa đêm đánh thức cô Leonora vậy. Pauline muốn
kêu rú lên, nhưng lại sợ chủ nghe tiếng, e rằng anh tình nhân đào ngữ của mình
bị lộ mất. Chị ta bèn yên lặng dẫn anh chàng vào bếp, dọn cho anh chàng nào
rượu bia, nào vô khối món ăn rất ngon mà lúc chiều Joe không còn bụng dạ nào mà
nuốt. Chàng lính khinh kỵ chứng tỏ mình không phải là ma quỷ hiện hồn về bằng
cách nốc bia và xơi thịt cật lực vừa nhai nhồm nhoàm anh ta vừa thuật lại câu
chuyện tai hại của mình.
Theo lời anh ta, trung đoàn quân Bỉ đã chiến
đấu anh dũng vô kể, cho nên đã chặn đứng cuộc tiến công của toàn bộ quân Pháp
trong một thời gian, nhưng cuối cùng cũng bị đánh; mà quân Anh cũng vậy. Ney
tiêu diệt hết trung đoàn nọ đến trung đoàn kia. Quân Bỉ tìm mọi cách cứu quân
Anh khỏi cuộc tàn sát khủng khiếp, song vô hiệu.
Quân lính của quận công Brunswick bị đánh tơi
bời...quận công bị tử trận. Thật là một sự tan rã hoàn toàn. Anh chàng muốn dìm
nỗi sầu thất trận của mình vào hết cốc bia này đến cốc bia khác.
Isidor qua bếp nghe lỏm được câu chuyện, tức
tốc nhảy bổ đi mách với chủ. Hắn hét ầm lên: “Hỏng hết cả rồi; quận công bị bắt
làm tù binh; quận công Brunswick tử trận. Quân Anh đại bại. Độc có một người
thoát chết trốn được về đang ở trong bếp... xuống mà xem”.
Joe lảo đảo lần xuống bếp, thấy Regulus vẫn
ngồi ngất ngưởng trên bàn, tay cầm chắc lấy cốc bia. Joe vận dụng hết khả năng
Pháp văn của mình (tuy còn xa lắm mới gọi là tạm đúng ngữ Pháp) để dỗ anh lính
khinh kỵ thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Càng nghe anh ta kể, càng thấy tai họa
thêm trầm trọng. Anh ta là người độc nhất thoát khỏi bị giết tại trận.
Chính mắt anh ta nhìn thấy quận công Brunswick
ngã, đoàn khinh kỵ binh áo đen chạy trốn tan tác, và đoàn quân Scotch bị đạn
trọng pháo nghiền nát như cám. Joe há hốc mồm ra hỏi:
- Thế còn trung đoàn thứ...?
- Nghĩa là tơi bời.
Pauline nghe nói kêu ầm lên: “Ôi, bà chủ của
tôi, bà chủ yêu quý của tôi ơi.” (); rồi chị ta tru tréo khóc ầm nhà lên.
Sedley lo tưởng phát điên, không biết tính toán
ra sao, không biết chuồn đâu cho thoát nữa. Anh ta hối hả chạy lên gác, lo lắng
nhìn vào cánh của phòng Amelia, mà lúc chiều bà O’Dowd đã đóng lại ngay trước
mắt anh ta và khóa chặt. Nhưng nhớ đến vẻ mặt khinh bỉ của bà này, Joe ngần
ngại, nghe ngóng một tý rồi quyết định ra phố một lúc xem tình hình thế nào.
Thế là Joe vớ lấy một cây nến, soi tìm chiếc mũ
có lon vàng, thấy nó nằm ở chỗ mọi khi, trên chiếc bàn con kê sát vách trong
phòng khách, trước chiếc gương; mọi lần trước khi ra mắt thiên hạ, anh ta vẫn
nhìn vào chiếc gương này để làm dáng, vuốt lại mái tóc một tý, sửa lại cái mũ
trông cho thật bảnh. Lần này theo thói quen, giữa cơn sợ hãi, anh ta vẫn chải
lại mái tóc cho mượt, sửa lại cái ngù lông trên mũ. Nhìn trong gương thấy mặt
mình tái nhợt, lại thấy bộ râu nuôi đã bảy tuần lễ nay mọc xồm xoàm, anh ta
bàng hoàng cả người, nghĩ bụng: “Thế nào, chúng nó cũng cho mình là hàng binh
mất. Nhớ lại lời Isidor đe dọa, nhớ lại những chuyện tàn sát quân Anh bại trận,
anh ta lảo đảo bước về phòng ngủ, rối rít kéo chuông gọi người hầu.
- Isidor, cắt tao đi, mau lên! Cắt đi?()
Isidor tưởng chủ phát điên, muốn bảo mình cắt
cổ hộ chăng.
Joe lại hét:
- Râu ấy, râu ấy... cắt đi, cạo đi, mau.()
Tiếng Pháp của anh ta như vậy đấy, nói khá trôi
chảy, nhưng không đúng văn phạm cho lắm.
Isidor lập tức lấy dao cạo sạch bộ râu trong
nháy mắt; hắn rất khoan khoái thấy chủ ra lệnh đi lấy một cái mũ và một bộ áo
thường, Joe bảo: “Đừng mặc áo nhà binh nữa...cho mày đấy...đem ra ngoài kia
()...”
Thế là chiếc mũ và tấm áo nhà binh về tay hắn
rồi.
Sau đó Joe vào tủ áo chọn một chiếc áo gi-lê
đen.và một chiếc áo khoác ngoài kiểu thường, đeo chiếc cà vạt trắng và đội thêm
cái mũ rộng vành. Giả thử kiếm được một cái mũ mục sư có lẽ anh ta cũng đội. Trông
bộ dạng anh ta lúc này giống một ông thầy tu béo tốt thuộc nhà thờ Anh-cát-
lợi. Joe bảo người hầu:
- Bây giờ theo tao...đi...đi ra ngoài phố ()
Rồi anh ta nhanh nhẹn bước xuống thang gác ra phố.
Regulus tuyên bố mình là người duy nhất thoát
nạn, còn tất cả trung đoàn, có thể toàn bộ quân đội đồng minh đã bị Ney đánh
cho thất điên bát đảo rồi. Nhưng dễ thường anh ta nói khoác, vì thấy vô khối
người khác cũng sống sót trốn được về. Nhiều bạn đồng ngữ của Regulus chạy được
về Brussels đều đồng thanh công nhận sự thất bại, và phao tin ầm khắp tỉnh rằng
quân đồng minh đã thua trận.
Từng giờ, từng giờ, người ta đợi quân Pháp tiến
vào thành phố. Cảnh tượng hỗn độn diễn ra khắp nơi, chỗ nào cũng thấy người sửa
soạn chạy trốn. Joe lo cuống cả người lên: “Kiếm đâu ra ngựa bây giờ?” Anh ta
đã sai Isidor đi hỏi thăm hàng chục nơi xem chỗ nào có ngựa bán hoặc cho thuê,
không đâu có; Joe như chết điếng người đi được. Hay là đành đi bộ? Chưa bao giờ
vì sợ hãi mà anh chàng béo phị này đâm ra hoạt động đến như vậy.
Ở Brussels, hầu hết những khách sạn có người
Anh trú ngụ đều tập trung quanh khu công viên; Joe không có chủ định gì, lang
thang trong khu vực này giữa những đám đông, lòng dạ bồn chồn vừa sợ hãi, vừa
tò mò. Anh ta thấy có vài gia đình may mắn hơn kiếm đâu ra được cặp ngựa, đang
giong xe chạy như bay qua các phố để đi lánh nạn. Lại cũng có nhiều gia đình
khác lâm vào hoàn cảnh tương tự như Joe, cũng không tìm được phương tiện chạy
trốn, mặc dầu đã dùng đủ mọi cách van lơn cũng như mua chuộc. Trong đám người suýt
nữa được lánh nạn này, Joe nhận thấy cô Bareacres phu nhân và tiểu thư; cả hai
đang ngồi trong xe ngựa riêng đỗ ngoài cổng khách sạn, hành lý xếp sẵn sàng
trên nóc xe; cũng chỉ vì thiếu ngựa kéo như Joe nên hai mẹ con nhà này chưa đi
được.
Rebecca Crawley cũng trọ tại khách sạn này.
Trong thời gian vừa qua, nhiều lần cô đã va chạm với đám phụ nữ trong gia đình
Bareacres. Khi hai bên tình cờ gặp nhau ở cầu thang, Bareacres phu nhân lạnh
nhạt ngoảnh mặt đi không thèm chào Rebecca. Trong câu chuyện, nghe ai nhắc tới
tên vợ Crawley, bà này thường tìm cách khéo léo để nói xấu. Thấy tướng Tufto cư
xử thân mật với vợ viên sĩ quan tùy tùng, bà bá tước này rất công phẫn. Còn
công nương Blanche thì tránh mặt Rebecca y như sợ cô này truyền bệnh hủi. Riêng
ông bá tước thì thỉnh thoảng có kín đáo giao thiệp với Rebecca, nhưng giấu kín
không dám cho vợ con biết.
Bây giờ chính là lúc Rebecca có dịp trả miếng
bọn kẻ thù hỗn xược. Trong khách sạn, ai cũng biết đại úy Crawley để ngựa ở
nhà. Lúc tình hình bắt đầu hỗn độn, Bareacres phu nhân hạ cố sai chị hầu gái
đến tìm vợ viên đại úy, nói rằng phu nhân có lời chào và hỏi xem muốn bán cặp
ngựa với giá bao nhiêu. Bà Crawley cũng viết gửi lời chào lại, kèm theo một câu
nói ngụ ý xưa nay mình không có thói quen mua bán với người ở cửa các bà quyền
quý. Thành ra ông bá tước đành phải đích thân tìm đến buồng Rebecca để giao
thiệp, song cũng không có kết quả gì hơn. Bà Rawdon giận dữ kêu ầm lên:
- Lại sai đứa ở đến giao thiệp với tôi à? Sao
Bareacres phu nhân không sai tôi ra thắng yên ngựa cho bà ấy một thể! Thế bà ấy
muốn đi trốn, hay là chị hầu phòng của bà ấy muốn đi trốn?
Ông bá tước đành về trình lại nguyên văn với
vợ. Thế là “qua sông nên phải lụy đò”, bà bá tước đành chịu thân chinh đến gặp
Rebecca vậy. Bà ta khẩn khoản xin, cho biết giá tiền cặp ngựa lại mời cả Becky
đến thăm lâu đài Bareacres, nếu bằng lòng bán ngựa để mụ về được đến nhà đến
cửa. Vợ Crawley cười ầm lên vào mặt mụ, đáp:
- Nào tôi có thiết được bọn đầy tớ mặc chế phục
hầu hạ đâu; có lẽ khó lòng mà về được nước Anh; ít nhất thì cũng khó lòng đem
được kim cương châu báu về cho vẹn toàn. Bọn Pháp sẽ vét sạch. Hai tiếng đồng
hồ nữa, chúng nó tới đây; lúc ấy tôi đã đi được nửa đoạn đường tới Ghent rồi.
Tôi không bán ngựa cho bà đâu; đánh đổi lấy hai viên kim cương to nhất bà đeo
trong buổi dạ hội cũng vô ích.
Bareacres phu nhân run lên vì sợ, vì giận. Bà
này đã khâu mấy viên kim cương giấu vào trong áo, còn đâu thì gói lại nhét vào
trong ủng của chồng. Bà nói:
- Này bà, tôi lưu ký kim cương ở nhà băng rồi.
Tôi muốn có cặp ngựa.
Rebecca cười vào giữa mặt bà ta. Bá tước phu
nhân giận dữ bước xuống thang gác, lại leo lên xe ngồi. Bà ta bắt chị hầu gái,
anh xà ích và cả chồng nữa, mỗi người một phương, chạy lùng khắp tỉnh tìm ngựa.
Đứa nào về chậm thì đừng có trách. Bà ta đã quyết định, hễ có ngựa là cho đánh
xe đi liền... chồng chưa kịp về cũng mặc kệ.
Rebecca thấy cảnh tượng bà quý tộc ngồi chờ
trong chiếc xe không ngựa thì hả dạ lắm, Cô ta ngồi trong cửa sổ cứ nhìn cho
vào mặt bà bá tước mà lớn tiếng giễu cợt thái độ bối rối của bà này:
- Không tìm đâu ra ngựa. Mà lại có bao nhiêu
kim cương khâu trong áo gối mới chết chứ! Phen này bọn Pháp mà đến thì tha hồ
vớ bẫm?... Là nói chiếc xe và chỗ kim cương ấy, chứ còn người thì...
Rebecca lại kháo ầm lên với lão chủ nhà, với
bọn đầy tớ, với những người khách trọ; cả đám đông toàn người lạ cũng biết.
Bareacres phu nhân ước gì có súng mà ngồi trong xe bắn cho cô ta một phát chết
tươi.
Đang khoái trá vì trả được mối thù cũ, thì
Rebecca nhìn thấy Joe. Anh chàng vừa nom thấy Rebecca vội tiến lại Nhìn bộ mặt
béo múp bơ phờ vì sợ hãi cũng đoán được anh ta đang muốn chuồn, vì đang lùng
phương tiện để đi trốn. Rebecca nghĩ ngay: “Thế nào hắn cũng phải mua ngựa của
mình. Mình cưỡi con ngựa non cũng được”.
Joe tiến thẳng đến trước mặt người con gái,
nhắc lại câu nói vừa dùng hàng nghìn lần: “Cô có biết đâu bán ngựa không?”
Rebecca cười, đáp:
- Thế nào? Anh mà cũng đi trốn à? Em nghĩ anh
là người hiệp sĩ che chở cho phụ nữ chứ, anh Sedley?
Anh chàng lắp bắp nói:
- Tôi... Tôi không phải là quân nhân.
- Thế còn Amelia? Ai sẽ trông nom cho cô em gái
bé bỏng đáng thương của anh? Chẳng lẽ anh bỏ mặc chị ấy sao?
Joe đáp:
- Ví như...ví như quân địch tới thì tôi giúp đỡ
gì được cho cô ấy!... Chúng không giết đàn bà con gái, nhưng thằng hầu của tôi
bảo rằng chúng thề không để cho một người đàn ông nào sống sót... bọn hèn mạt!
- Khủng khiếp nhỉ?
Rebecca giả vờ kêu lên; thấy anh chàng hoảng
hốt, cô ta thú lắm. Joe lại nói:
- Vả lại, tôi không có ý định bỏ mặc cô ấy.
Nhất định thế. Tôi vẫn dành một ghế trong xe tôi cho Amelia và có cả một ghế
cho cô nữa, Rebecca ạ, nếu cô cũng đi, và nếu chúng ta tìm được ngựa.Anh ta thở
dài...
Rebecca đáp:
- Em có một cặp ngựa đang muốn bán đây.
Joe nghe nói mà muốn ôm chầm ngay lấy cô ta.
Anh chàng kêu lên.
- Isidor, lấy xe ra; mua được ngựa rồi...mua
được rồi.
Rebecca đáp:
- Ngựa của em chưa đóng xe bao giờ. Anh mà bắt
càng xe vào thì con Bullfinch nó đá gẫy tan xe ra mất.
Joe vội hỏi:
- Thế nó có chịu cho cưỡi không?
- Nếu cưỡi, thì nó ngoan như con cừu, mà chạy
nhanh như thỏ.
Joe lại hỏi:
- Nặng như tôi, cưỡi được chứ?
Anh chàng đã tưởng tượng ngay cảnh mình ngồi
trên yên ngựa, quên khuấy mất cô gái đáng thương rồi. Ai đang khao khát có ngựa
để đi trốn mà cưỡng lại điều cám dỗ này cho được?
Rebecca không đáp, mời anh chàng vào trong
phòng để mà cả cho ngã giá. Anh ta nín thở bước theo. Trong đời Joe, chưa lần
nào chỉ trong nửa đống đồng hồ mà anh ta mất một món tiền lớn đến như vậy.
Rebecca thấy Joe đang khao khát ngựa, mà ngựa lại hiếm, nên hiểu rõ giá trị
những con ngựa của mình lắm, bèn thẳng tay bắt chẹt; cô ta đặt cho đôi ngựa của
mình một giá quá đắt, làm cho Joe cũng phải chùn lại. Cô ta tuyên bố dứt khoát
chỉ bán cả đôi, không bán một con, nhất là Rawdon đã dặn lại không được bán cặp
ngựa dưới giá vừa nói: bá tước Bareacres dưới nhà sẵn sàng trả cùng giá ấy,
nhưng cô ta không bán. Vì muốn tỏ cảm tình đặc biệt với gia đình Sedley nên cô
ta mới chịu để lại cho Joe.Vả chăng “anh Joseph thân yêu” nên thể tình cho rằng
người nghèo cũng cần phải sống...tóm lại cô ta nói ngọt như mía lùi, song cũng
hoàn toàn cương quyết trong vấn đề giá cả.
Hẳn ta cũng đoán trước được là cuối cùng Joe
đành ưng thuận. Món tiền lớn quá, anh ta phải xin khất trả sau; đối với
Rebecca, đó là một cái gia tài nho nhỏ. Nhưng như chớp cô ta tính toán rằng món
tiền ấy cộng với tiền bán mớ đồ vặt vãnh của Rawdon để lại, cùng tiền trợ cấp
tử tuất được hưởng cũng tạm đủ cho cô ta sống độc lập không cần nhờ vả ai và có
thể sẵn sàng đối phó với cảnh góa bụa.
Ngày hôm ấy, cũng có một đôi lần Rebecca nghĩ
đến việc đi trốn, nhưng rồi cô ta cân nhắc: “cho rằng bọn Pháp tràn đến đi nữa,
thì chúng nó sẽ làm gì người vợ góa của một sĩ quan? Dào ôi! Bây giờ đâu còn
những chuyện cướp bóc, hãm hiếp như ngày xưa? Rồi mình cũng phải được an toàn
hồi hương, hoặc có thể cứ ung dung mà sống ở nước ngoài cũng được”.
Joe và Isidor cùng ra tàu ngựa xem cặp ngựa mới
mua.
Anh ta sai thằng hầu thắng yên cương ngay lập
tức. Giá đi được ngay đêm ấy, ngay lúc ấy, Joe cũng đi. Mặc thằng hầu lo việc
sửa soạn yên cương, anh ta trở về khách sạn sửa soạn hành lý. Cần giữ bí mật
việc chuồn đi này. Anh ta muốn đi cửa hậu vào phòng mình, không muốn gặp mặt bà
O’Dowd và Amelia, vì sợ phải thú nhận rằng mình sắp đi trốn.
Lúc việc mua bán với Rebecca và việc xem ngựa
xong xuôi cả thì trời đã bắt đầu rạng sáng. Nửa đêm đã qua từ lâu mà khắp thành
phố vẫn còn đồn ồn lên. Dân chúng chong mắt không ai ngủ, nhà nào cũng thắp đèn
sáng rực; từng đám đông tụ tập trước cửa mỗi nhà; phố xá toàn người là người.
Người nọ truyền người kia đủ các thứ chuyện. Có tin nói quân Phổ đã hoàn toàn
bị đè bẹp; lại có tin phao rằng chính đội quân Anh mới bị tấn công và bị phá
vỡ; một nguồn tin thứ ba cho hay quân Anh vẫn giữ vững vị trí.
Lời đồn cuối cùng này mỗi lúc một trở thành
đáng tin cậy hơn. Vẫn không thấy mặt tên lính Pháp nào. Nhiều anh lính lẻ tẻ
rút lui từ mặt trận về mang theo những tin tức mỗi lúc một thêm tốt đẹp; cuối
cùng có một viên sĩ quan tùy tùng về Brussels, đem theo một tờ công văn gửi tư
lệnh bảo vệ thành phố, lập tức ông này cho dán khắp thành phố những tờ bố cáo
chính thức báo tin quân đội đồng minh thắng trận “Bốn cánh tay”(), hoàn toàn
đánh lui quân Pháp dưới quyền chỉ huy của Ney, sau sáu giờ đồng hồ chiến đấu.
Có lẽ viên sĩ quan tùy tùng này đến Brussels xấp xỉ vào lúc Joe và Rebecca đang
mà cả với nhau, hoặc lúc Joe đang xem ngựa. Lúc anh chàng về tới khách sạn đã
thấy mấy chục khách trọ tụ tập trước cửa bàn tán sôi nổi...
Không có gì đáng nghi ngờ nữa. Anh ta vội leo
lên gác báo tin cho hai người đàn bà được mình che chở rõ. Anh ta cũng không
muốn để họ biết mình vừa có ý định đi trốn đã mua ngựa và đã phải trả với một
giá cắt cổ như thế nào.
Thắng hay bại, đối với họ không phải là chuyện
quan trọng; họ chỉ quan tâm nhất là sự an toàn của những người thân yêu. Amelia
nghe tin thắng trận lại hóa ra bồn chồn xao xuyến hơn trước. Cô muốn tìm đến
đơn vị của chồng ngay lập tức, cô cứ khóc lóc khẩn khoản anh trai đưa mình đi
trong lòng khắc khoải, hãi hùng đến cực độ. Người đàn bà đáng thương này vừa
lúc nãy còn lầm lì hàng tiếng đồng hồ liền, bây giờ cứ chạy loăng quăng chỗ
này, chỗ kia, miệng nói lảm nhảm như một người mất trí...trông đến thảm hại.
Sau cuộc chiến đấu gay go trên bãi chiến trường cách đó mười lăm dặm, biết bao
nhiêu con người anh dũng phải ngã xuống nhưng không một ai đau đớn quằn quại
bằng người nạn nhân chiến tranh vô tội và đáng thương này. Joe không sao chịu
đựng nổi cảnh tượng em gái đau khổ như vậy. Anh ta để em gái cho bà bạn cứng
cỏi hơn chăm sóc, lại xuống thang gác ra cửa khách sạn; vẫn còn nhiều người
đứng tụ tập chờ nghe những tin tức mới.
Trời dần dần đã sáng hẳn mà họ vẫn đứng chờ.
Lại thêm những người đã tham dự trận đánh trở về với những tin tức sốt dẻo.
Nhiều xe ngựa và xe bò chất đầy những thương binh chạy qua thành phố. Từ trong
xe vọng ra những tiếng rên rỉ khủng khiếp, và trên những đống rơm ló ra những
bộ mặt phờ phạc. Joe Sedley đang nhìn theo một chiếc xe, vẻ mặt vừa đau đớn vừa
tò mò... tiếng những người nằm trong xe rên rỉ vọng ra nghe đến sợ... mấy con
ngựa mệt mỏi gần như không còn đủ sức kéo chiếc xe nữa. Bỗng có tiếng nói yếu
ớt từ đống rơm trong xe vọng ra: “Đứng lại! Đứng lại!” Chiếc xe dừng lại trước
cửa khách sạn của Sedley.
- Đúng là George rồi, tôi biết!
Amelia chạy xổ ra bao lơn kêu lên, mặt tái
nhợt, mớ tóc xõa xuống rũ rượi. Không phải là George; nhưng cũng may, có tin
của George nhắn về. Thì ra đây là anh chàng Tom Stubble đáng thương của chúng
ta. Mới hai mươi bốn giờ đồng hồ trước, anh ta còn hùng dũng rời Brussels ra
trận, tay giương cao lá quân kỳ của trung đoàn trên chiến trường. Tom đã bảo vệ
lá cờ một cách anh dũng xứng đáng. Một tên lính Pháp đã đâm anh ta bị thương
vào chân; lúc ngã xuống tay anh ta vẫn còn dũng cảm nắm chặt cán cờ. Trận đánh
kết thúc, người ta cho chàng trẻ tuổi đáng thương này một chỗ nằm trong một cái
xe ngựa và đưa về Brussels.
“Ông Sedley, ông Sedley?” chàng thanh niên lên
tiếng yếu ớt gọi; Sedley hốt hoảng chạy đến ngay. Mới đầu cũng chưa nhận ra
được ai gọi mình.
Cậu Tom Stubble chìa bàn tay nóng rực mềm nhũn
ra, nói:
- Cho tôi xuống đây. ông Osborne và...và ông
Dobbin bảo thế. Ông cho người đánh xe hai đồng Napoléon hộ; tôi xin mẹ tôi trả
ông sau.
Trong những giờ đằng đẵng sốt hầm hập nằm trong
chiếc xe ngựa, người con trai này chỉ mơ màng nghĩ về cái làng có ông bố làm
mục sư mà anh mới từ đó ra đi được vài tháng nay; nhờ những phút mê man thế mà
có khi anh chàng tạm quên được nỗi đau đớn về thể xác.
Khách sạn thì rộng, mọi người trong đó cũng tốt
bụng.
Họ đem tất cả những thương binh trên xe vào
trong nhà, đặt lên giường cẩn thận. Viên sĩ quan cầm cờ trẻ tuổi được đưa lên
chỗ ở của gia đình Osborne trên gác. Lúc Amelia từ ngoài bao lơn nhận ra mặt
Stubble, cô và bà thiếu tá chạy xổ ngay vào. Các bạn cứ tưởng tượng xem, nghe
báo tin cuộc chiến đấu đã qua, chồng họ vẫn an toàn, thì hai người đàn bà này
có cảm tưởng thế nào. Amelia sung sướng đến say sưa yên lặng ôm lấy cổ người
bạn gái mà hôn. Cô quỳ ngay xuống say sưa cầu nguyện, cảm tạ đấng uy lực vô
biên đã cứu chồng mình tai qua nạn khỏi.
Trong lúc lòng dạ bồn chồn khắc khoải, đối với
người thiếu phụ trẻ tuổi này, không có một ông bác sĩ nào kê được một đơn thuốc
bổ tài tình bằng đơn thuốc của sự may mắn. Amelia và bà O’Dowd luôn luôn săn
sóc bên cạnh viên sĩ quan trẻ tuổi bị thương. Vết thương của anh ta rất nặng;
Amelia thấy mình có nhiệm vụ săn sóc, nên bận quá cũng không có thì giờ nghiền
ngẫm những nỗi băn khoăn lo lắng của riêng mình. Bằng những lời lẽ giản dị,
viên sĩ quan bị thương kể lại trận đánh ngày hôm đó và việc tham chiến của
những chiến sĩ dũng cảm thuộc trung đoàn thứ...như sau: “Trung đoàn tổn thất
khá nặng, mất khá nhiều lính và sĩ quan. Lúc trung đoàn xuất kích, con ngựa
viên thiếu tá đang cưỡi bị bắn trúng; ai cũng tưởng ông O’Dowd tử trận và
Dobbin được thăng chức thiếu tá. Sau đợt tấn công quay về vị trí cũ, họ đã thấy
viên thiếu tá ngồi ung dung trên xác con Pyramus với một chai rượu. Chính đại úy
Osborne đã chém gục tên lính Pháp đâm bị thương viên sĩ quan cầm cờ Stubble.
Amelia tái cả mặt chỉ lo bà O’Dowd ngắt lời người quân nhân trẻ tuổi. Đến chiều
thì, tuy bản thân bị thương, chính đại úy Dobbin đã bế viên sĩ quan cầm cờ lên
mang trao lại cho viên sĩ quan quân y, rồi lại đưa xe ngựa bảo xe về Brussels.
Và cũng chính Dobbin hứa cho người đánh xe hai đồng Louis, nếu người này đưa
người bị thương về tới khách sạn của Sedley yên ổn. Stubble lại nói với bà đại
úy Osborne rằng trận đánh thế là xong, và chồng bà hoàn toàn bình an vô sự.
Bà O’Dowd lên tiếng:
- Nói của đáng tội, cái ông William Dobbin cũng
tốt bụng đấy chứ, mặc dù ông ấy chúa là hay chế nhạo tôi.
Stubble thì cam đoan rằng trong quân đội không
có một sĩ quan nào sánh được với Dobbin; anh ta cứ luôn mồm tán tụng những đức
tính của viên đại úy, nào là khiêm tốn, nhã nhặn nào là ra trận thì bình tĩnh
vô cùng. Amelia lơ đãng, không chú ý lắm đến những chuyện này; khi nghe nhắc
đến George, thì cô lắng tai chú ý, mà không nói đến George thì cô lại mơ màng
đến chồng.
Cả ngày hôm sau Amelia không thấy thì giờ trôi
qua chậm chạp lắm, vì lúc nào cũng bận săn sóc người thương binh, và bận nhớ
lại những chuyện xảy ra ngày hôm trước.
Đối với Amelia, trong quân đội chỉ có một
người; chỉ cần người ấy được bình yên vô sự là đủ, ngoài ra mọi hoạt động của
quân đội không có gì đáng chú ý. Những tin tức Joe mang ngoài phố về chỉ loáng
thoáng bên tai Amelia ; cũng những tin tức ấy lại đủ khiến cho anh chàng nhát
gan này cũng như mọi người dân thành Brussels phải lo sốt vó.
Quân Pháp quả thật có bị đánh lui, nhưng thật
ra chỉ có một sư đoàn quân Pháp bại trận, mà cũng phải sau một trận chiến đấu
hết sức gay go. Còn Napoléon và đại quân thì vẫn ở Ligny, đã tiêu diệt hoàn
toàn quân Phổ, bây giờ có thể rảnh tay dốc toàn lực tấn công quân đồng minh.
Quận công Wellington đã lùi quân về sát thành
phố, trận đại chiến sắp tới rất có thể sẽ diễn ra ngay dưới chân thành; kết quả
ra sao, cũng chưa biết thế nào mà lường, Quận công Wellington chỉ có thể dựa
vào lực lượng hai vạn quân Anh, vì quân Đức gồm toàn dân vệ, mà quân Bỉ thì
không có tinh thần chiến đấu. Với một dúm quân như thế, quận công phải đương
đầu với mười lăm vạn con người đã tràn vào nước Bỉ dưới quyền chỉ huy của
Napoléon. Napoléon chỉ huy! Trên đời này có viên tướng lĩnh nào, dù danh tiếng
lẫy lừng và có tài thao lược mấy đi nữa, mà đủ sức chống lại?
Joe đã nghĩ đến những điều đó; anh ta run quá.
Nhân dân thành phố Brussels cũng vậy...Ai cũng cảm thấy rằng trận đánh ngày hôm
trước mới chỉ là mở màn cho một trận đại chiến khác chắc chắn sẽ nổ ra. Đã có
một đội quân bị Hoàng đế đánh cho tan tành không còn mảnh giáp rồi. Đem dúm
quân Anh còn lại ra kháng cự thì rồi cũng đến bỏ mạng trên chiến trường mà
thôi; kẻ thắng trận sẽ giẫm qua xác họ mà tiến vào thành phố. Kẻ nào còn lại
trong thành phố mà bị quân Pháp bắt gặp ắt phải chết!
Người ta đã soạn sẵn những bài diễn văn; bọn
công chức đã họp nhau lại bí mật thảo luận; người ta còn sửa sang sẵn sàng
nhiều căn nhà, lại thuê may sẵn cờ tam tài và làm huy hiệu chiến thắng để chuẩn
bị đón rước Hoàng đế vua nước Pháp.
Việc tản cư vẫn tiếp tục tiến hành; gia đình
nào tìm được phương tiện vận chuyển là chuồn thẳng. Buổi chiều ngày tháng sáu,
Joe đến khách sạn của Rebecca đã thấy chiếc xe ngựa đồ sộ của gia đình Bareacres
rời cổng khách sạn lao đi rồi. Lão bá tước đã tìm được không biết ở đâu ra một
cặp ngựa chẳng cần đến bà Crawley nữa, bây giờ đang trên đường đi Ghent, Louis
thứ mười tám cũng đang soạn sửa tủ áo sắp rời bỏ thành phố này. Hình như tai
họa không chịu rời bỏ lão vua phệnh đường lưu vong thì phải.
Joe cảm thấy tình hình không có chiến sự hôm
qua cũng rất tạm bợ; bây giờ là lúc nên dùng cặp ngựa mua với “giá cắt cổ” này
vào việc. Suốt ngày, anh ta như người sắp chết. Chừng nào giữa Napoléon và
thành phố Brussels còn có đạo binh Anh, thì cũng chưa cần phải đi trốn ngay;
nhưng anh ta cũng đem cặp ngựa về nhốt sẵn sàng trong tàu ngựa ngoài sân khách
sạn; như thế mới để mắt đến được, không sợ ai dùng vũ lực đoạt mất. Ngày đêm
Isidor đứng canh bên trong chuồng ngựa; ngựa thì yên cương sẵn sàng, khi cần có
thể lên đường tức khắc, Joe ước gì phút ấy xảy ra ngay cho xong.
Sau buổi đón tiếp hôm trước, Rebecca không còn
thiết gì đến gần bó hoa Amelia yêu quý của mình nữa. Cô ta thay nước cho bó hoa
George tặng mình, rồi đọc lại mảnh giấy của chàng.
Vừa quấn mảnh giấy nhỏ quanh ngón tay, Rebecca
vừa nói một mình: “Anh chàng khốn kiếp, mình có thể giết cô ta bằng cái này lắm
chứ?... Con người như thế mà cô ta yêu đến đau khổ được thì lạ thật... một anh
chàng ngu ngốc, đồ “rẻ cùi tốt mã”, mà lại vô tình với cô ta nữa cơ chứ. Lão
Rawdon đáng thương nhà mình so với của ấy còn bằng mười”.
Đoạn Rebecca lại suy tính xem mình sẽ làm ăn ra
sao giá dụ... giá dụ, như Rawdon có mệnh hệ nào, và cảm ơn trời đất mãi vì may
mắn làm sao chồng lại để đôi ngựa ở nhà.
Hôm ấy, vợ Rawdon thấy gia đình Bareacres lên
đường cũng có ý bực mình. Cô ta nghĩ cũng nên bắt chước bà bá tước cẩn thận một
chút, bèn đem gần hết mọi vật trang sức, ngân phiếu và giấy bạc khâu vào lần
lót áo. Thế là đủ chuẩn bị để đối phó với mọi biến cố...nghĩa là tùy trường hợp
hoặc chạy trốn, hoặc ở lại để đón tiếp kẻ chiến thắng, dù kẻ chiến thắng là
người Anh hay người Pháp. Ngay đêm hôm ấy, trong lúc Rawdon áo choàng khoác
trên vai, dãi dầu mưa bão trên đồi St. John, đang một lòng một dạ thiết tha nhớ
về cô vợ trẻ để lại nhà, thì không biết chừng Rebecca đang nằm mơ thấy mình trở
thành một quận chúa, hoặc một thống chế phu nhân cũng nên.
Hôm sau là ngày chủ nhật. Bà thiếu tá O’Dowd thấy tất cả những bệnh nhân
của mình đã lại sức và vui vẻ sau một đêm nghỉ ngơi thì rất bằng lòng. Chính bà
cũng ngồi ngay trong một chiếc ghế bành lớn trong phòng Amelia mà ngủ; như thế,
khi cần tiện săn sóc cả người bạn gái và viên sĩ quan cầm cờ bị thương. Sáng ra
người đàn bà cứng cỏi này trở về chỗ trọ của mình và chồng là viên thiếu tá, để
trang điểm một cách thật cầu kỳ lộng lẫy cho xứng đáng với ngày chủ nhật. Chắc
hẳn khi chỉ có một mình trong gian phòng nơi trước kia chồng vẫn ra vào, lại
nhìn thấy chiếc mũ của chồng còn úp trên gối, chiếc can của chồng còn dựng ở
góc phòng, thế nào bà ta chẳng cầu Thượng đế che chở cho người chiến sĩ dũng
cảm Michael O’Dowd ít nhất là một lần.
Lúc quay lại với Amelia, bà mang theo cuốn kinh cầu nguyện, và cuốn sách
giảng đạo nổi danh của ông chánh xứ chú bà; có ngày Sa-bát () nào bà quên không
đọc quyển sách này; tuy bà cũng chỉ hiểu lõm bõm, và nhiều khi đọc cũng sai, vì
bài nào cũng dài dằng dặc và tối như hũ nút - ông chánh xứ vốn là người học
rộng nên ưa dùng hàng tràng tiếng la-tinh- song bao giờ bà cũng cao tiếng đọc
ngân nga trịnh trọng dáng điệu hết sức nghiêm túc. Bà vẫn nhủ thầm: “Đã bao
nhiêu lần Mick lắng nghe những bài giảng đạo ta đọc trong ca-bin tàu thủy!” Hôm
nay, bà có ý định diễn lại cái trò này với Amelia và viên sĩ quan cầm cờ bị
thương. Đồng thời, cũng giờ ấy, tại hai vạn giáo đường trong nước cũng tổ chức
việc giảng đạo tương tự và hàng triệu người dân Anh, đàn ông cũng như đàn bà,
cùng quỳ gối cầu xin sự che chở của đấng bề trên tối cao. Họ không nghe thấy
những tiếng động đã quấy rối sự yên tĩnh của mấy nhân vật tại Brussels. Bà
O’Dowd đang cao giọng ngân nga bài giảng đạo, thì bỗng vang lên những tiếng nổ
còn to hơn cả những tiếng nổ họ nghe thấy hai hôm trước: súng đại bác trận
Waterloo bắt đầu gầm thét.
Nghe những tiếng nổ khủng khiếp ấy vọng về, Joe quyết định ngay rằng mình
không thể sao chịu đựng nổi những nỗi lo sợ hãi hùng triền miên ấy được, và anh
phải chuồn ngay. Anh ta xông vào trong căn phòng có viên sĩ quan bị thương nằm,
thấy ba người đang cầu kinh với nhau, bèn lên tiếng gọi Amelia :
- Emmy, anh không sao chịu đựng nổi nữa rồi, không chịu được nữa; cô phải
đi với anh ngay. Anh đã mua cho cô một con ngựa. Không cần biết giá đắt rẻ ra
sao... cô phải mặc áo, đi ngay với anh. Cô ngồi sau Isidor.
Bà O’Dowd đặt cuốn sách xuống, nói:
- Lạy Chúa tha tội cho tôi, ông Sedley ơi, ông chỉ là một tên hèn nhát.
Anh chàng vẫn nói tiếp:
- Amelia, anh bảo phải đi ngay. Bà ấy nói gì
mặc kệ, đừng nghe. Tại sao chúng ta lại ở đây cho bọn Pháp tàn sát?
Anh chàng Stubble bé nhỏ đang nằm trên giường
cũng nói:
- Ông ơi, ông quên trung đoàn thứ... rồi à?
Và... kìa bà O’Dowd ơi, bà sẽ không bỏ mặc tôi chứ?
Bà này cúi xuống hôn cậu thanh niên, đáp:
- Không đâu, cậu em đáng yêu ạ. Còn có tôi bên
cạnh, cậu chưa sợ gì nguy hiểm. Ông Mick nhà tôi chưa có lệnh, tôi chưa đi chỗ
khác. Tôi mà ngồi bám sau lưng cái ông này trên lưng ngựa thì trông hay đáo để
đấy nhỉ?
Cái hình ảnh đó làm cho anh chàng trẻ tuổi bị
thương đang nằm trên giường cũng phải phá lên cười. Amelia cũng mỉm cười theo,
Joe quát ầm lên:
- Tôi không hỏi bà ấy...Tôi không hỏi cái...cái
mụ người Ailen này; tôi hỏi Amelia cơ. Lần cuối cùng, cô có đi không?
- Bỏ mặc nhà em mà đi trốn ư, anh Joseph?
Amelia nhìn anh trai ngạc nhiên hỏi, rồi đưa
tay cho bà thiếu tá. Joe không sao nhịn được nữa.
- Vâng thì xin chào.
Anh ta vừa nói vừa giơ nắm tay rung rung, giận
tưởng phát điên, rồi đi ra khép cửa đánh thình. Lập tức Joe ra lệnh lên đường,
trèo lên ngựa ngay trong sân. Bà O’Dowd nghe rõ mồn một tiếng vó ngựa phi ra
cổng; nhìn ra, bà thấy Joseph phi ngựa xuôi xuống phố có Isidor theo sau đầu
đội chiếc mũ có lon vàng; bà ném theo mấy lời nhận xét đầy khinh miệt. Cặp ngựa
đã mấy hôm không phải diễn tập, rất sung sức, phi nước đại qua các phố. Joe
không cưỡi ngựa quen lại nhát, ngồi trên yên ngựa, coi bộ không vững vàng lắm.
“Này, Amelia, ra cửa sổ phòng khách mà xem; y như con voi trong tủ kính bày đồ
sứ ấy nhỉ?” Hai người kỵ sĩ dóng dả phi nước đại đi về phía Ghent; bà O’Dowd
vẫn còn nhìn theo mà nói mỉa mai cho đến khi họ đi khuất mới thôi.
Suốt ngày hôm ấy, từ sáng mãi đến sau lúc mặt
trời lặn không lúc nào ngớt tiếng đại bác gầm thét. Lúc tiếng súng đột nhiên
ngừng bặt thì trời cũng đã tối hẳn.
Chúng ta đọc sách đều đã hiểu rõ trong thời
gian này đã xảy ra những chuyện gì rồi. Trận đánh đã trở thành câu chuyện cửa
miệng của người Anh. Bạn và tôi, khi chiến dịch vĩ đại ấy diễn ra, chúng ta còn
bé cả, vậy mà có bao giờ chúng ta không muốn cứ được nghe đi nghe lại, cứ được
kể đi kể lại trận đánh lịch sử ấy? Nhớ lại trận đánh, hàng triệu đồng bào của
những kẻ bại trận ngày hôm ấy còn thấy đau nhói trong tim. Họ khát khao sao có
dịp trả mối hận này. Và nếu như một cuộc chiến tranh mới sẽ kết thúc bằng sự
thắng lợi của họ, thì lại đến lượt họ kiêu hãnh, còn chúng ta sẽ thừa hưởng sự căm
thù và đau khổ; và chuỗi dài toàn những cái gọi là vinh dự và nhục nhã ấy sẽ
không bao giờ chấm dứt, vì cả hai dân tộc kiêu hùng sẽ vĩnh viễn lao vào một
cuộc chém giết khi thắng lợi, khi thất bại. Đã bao nhiêu thế kỷ rồi, người Pháp
và người Anh chúng ta vì kiêu ngạo đã tàn sát lẫn nhau, đổ máu cho một thứ luật
lệ quỷ quái về danh dự.
Mấy người bạn của chúng ta đã góp phần chiến
đấu xứng đáng trên trận địa. Suốt ngày hôm ấy, trong khi cách đó mười dặm, mấy
người đàn bà cầu nguyện Thượng đế, thì những đội bộ binh Anh dũng cảm chống đỡ
và đánh bật những cuộc tấn công điên cuồng của kỵ binh Pháp. Đạn đại bác địch
nổ, ở Brussels cũng nghe rõ mồn một, cầy tung hàng ngũ quân Anh; nhiều bạn đồng
đội gục ngã, những người còn sống bổ sung ngay vào chỗ trống. Gần tối, quân
Pháp lại tấn công nhưng bị chống trả quyết liệt nên sức mạnh mỗi lúc một yếu
dần. Chúng sẽ tấn công quân đội đồng minh của Anh, hay sẽ dồn sức mở một đợt
phản công quyết định? Cuối cùng, ta thấy những đội ngự lâm quân Pháp tiến lên
tấn công đồi thánh Jean, nhằm quét sạch quân Anh chiếm lấy cao điểm suốt ngày
vẫn nằm trong tay họ.
Đại bác Anh gieo rắc chết chóc trong hàng ngũ
quân Pháp, mặc? Dòng người đen ngòm cứ cuồn cuộn tràn lên đồi; lúc gần chiếm
được đỉnh đồi thì thấy quân địch như ngập ngừng...tiến chậm lại, dừng hẳn, song
vẫn tiếp tục giao chiến. Cuối cùng, từ vị trí không kẻ địch nào bẩy được họ ra
ngoài, những đội quân Anh lao xuống; đội Ngự lâm quân quay lưng tán loạn chạy
trốn.
Brussels không còn nghe thấy tiếng súng vọng về
nữa, cuộc truy kích diễn ra cách đó mấy dặm. Màn đêm đã buông xuống bãi chiến
trường và thành phố, Amelia vẫn cầu nguyện cho George, nhưng George đã chết
rồi, nằm úp xuống mặt đất, bị một viên đạn xuyên qua trái tim.
Chương 33
HỌ HÀNG BÀ CRAWLEY LO LẮNG VỀ BÀ
Xin bạn đọc nhớ hộ cho rằng sau những trận
thắng doanh liệt ở Flanders, khi quân đội ta đang tiến lên để chiếm những pháo
đài thuộc biên giới nước Pháp trước khi chiếm đóng nước này thì ở nước Anh một
số nhân vật có liên quan đến giai đoạn lịch sử hiện nay và sẽ phải xuất hiện để
được ghi vào niên sử vẫn cứ sống hoàn toàn yên ổn. Suốt thời gian xảy ra những
trận đánh đầy nguy hiểm kia, bà Crawley vẫn sống ở Brighton, cũng không lấy làm
xúc động lắm về những biến cố lớn lao đang diễn ra. Những tin tức quan trọng
này khiến cho báo chí đâm ra thú vị; bà Briggs đọc báo Tin tức thấy đăng tin
Rawdon chiến đấu rất dũng cảm, và lại được thăng chức. Bà cô nghe, nói:
- Rõ tiếc, thằng bé lầm lẫn một cách tai hại
ngay khi mới bước vào đời. Con nhà gia thế lại có địa vị xã hội như thế, làm gì
nó chẳng lấy được con nhà tử tế, con gái một nhà sản xuất rượu chẳng hạn, như
cô Grains ấy, của hồi môn có tới hai mươi lăm vạn đồng; nó cũng rất có thể kết
thân với những gia đình tai mặt ở Anh quốc; và nó sẽ được hưởng gia tài của tôi...
nó, hoặc con cái nó sau này bởi vì, bà Briggs ạ, tôi chưa muốn chết vội đâu,
mặc dầu bà chỉ mong tôi chết cho thoát nợ. Thế mà bây giờ nó đành chịu nghèo xơ
xác, lấy một con vũ nữ làm vợ.
- Bà Crawley thân yêu ơi, bà nỡ nào không
thương xót người chiến sĩ dũng cảm mà tên tuổi đã được nhắc tới trong sổ sách
quang vinh của đất nước? Bà Briggs nói vậy; bà rất phấn khởi về trận đánh
Waterloo, và thích hễ có dịp là ăn nói kiểu lãng mạn như thế - ông đại úy, bây
giờ tôi có thể gọi ông trung tá rồi - ông trung tá chẳng đã hành động khiến cho
tên tuổi dòng họ Crawley lừng lẫy danh tiếng đó sao?
Bà Crawley đáp:
- Bà Briggs, bà xuẩn lắm. Trung tá Crawley đã
đem tên tuổi dòng họ Crawley dìm xuống vũng bùn rồi. Cưới con gái một lão thầy
dạy vẽ làm vợ, chết thật ?...Cưới một tùy nữ?...Con bé ấy chỉ đáng gọi như thế
thôi bà Briggs ạ. Nó cũng chỉ như bà thôi... Có điều nó trẻ hơn, đẹp hơn và
thông minh hơn bà nhiều. Không biết chừng bà còn a tòng với con bé khốn kiếp tứ
cố vô thân ấy cũng nên. Cháu tôi chết về bàn tay xảo quyệt của nó; còn bà thì
lúc nào cũng gân cổ lên mà ca tụng. Phải, chính bà a tòng với nó. Nhưng tôi bảo
cho bà biết trước, bao giờ tôi viết chúc thư bà sẽ thất vọng cho mà xem. Bà
viết ngay hộ tôi lá thư gửi ông Waxy, bảo tôi cần gặp ông ta ngay lập tức.
Ít lâu nay bà Crawley có thói quen gần như ngày
nào cũng viết thư cho ông Waxy luật sư riêng của bà, vì bà cứ thay đổi lại mãi
nội dung lá chúc thư, bối rối quá, không biết định đoạt số phận gia tài của
mình ra sao. Tuy nhiên, bà già cũng đã bình phục lại nhiều. Cứ nghe bà luôn
luôn mỉa mai giễu cợt bà Briggs thì đủ rõ.
Người đàn bà này chịu đựng tất cả một cách
ngoan ngoãn, hèn nhát; thái độ đành lòng ấy nửa như rộng lượng, nửa như giả
dối... tóm lại, đó là sự phục tùng của kẻ nô lệ, mà những người đàn bà tính
tình như thế, ở cương vị như thế bắt buộc phải biểu lộ. Ai là người chưa từng
được thấy đàn bà họ đối xử tàn tệ với nhau ra sao? Những sự dằn vặt đàn ông ta
phải chịu không thấm vào đâu, so với cách đối xử thâm độc, đầy khinh miệt như
những mũi tên hàng ngày từ tay những mụ nữ bạo chúa xuyên vào trái tim những
người đàn bà nghèo khổ. Những kẻ nạn nhân đáng thương?
Nhưng hãy trở lại câu chuyện; bà Crawley khỏi
bệnh, lại đâm ra hết sức trái thói, độc ác... cũng như ta thường nói, vết
thương đang lên da non thì hay ngứa ngáy. Trong thời gian bà Crawley đang bình
phục, bà Briggs là nạn nhân duy nhất được phép ra mắt người ốm. Song bà con
thân thuộc khác cũng không quên bà lão đáng quý, họ đều cố gắng khiến bà ta
không quên họ bằng cách gửi quà cáp và thư từ thăm hỏi.
Trước tiên, phải kể ngay đến anh cháu trai là
Rawdon Crawley. Sau trận Waterloo nổi tiếng vài tuần lễ, khi báo Tin tức đã
công bố tin viên sĩ quan này chiến đấu anh dũng và được thăng chức, thì chiếc
tàu thủy Dieppe chở về Brighton cho bà Crawley một hộp tặng phẩm, kèm theo một
lá thư lời lẽ chí hiếu của ông cháu trung tá. Trong hộp, thấy có một đôi lon
vai của nhà binh Pháp, một tấm Bắc đẩu bội tinh và một cái cán gươm.... đấy là
những kỷ vật của trận đánh vừa qua. Nội dung lá thư kể lại với giọng trào phúng
rằng những vật đó là của một tên sĩ quan Pháp chỉ huy đội quân Ngự lâm; tên này
vừa thề rằng “Ngự lâm quân thà chịu chết, không bao giờ lùi” thì một phút sau
đã bị một anh lính trơn bắt sống làm tù binh; anh ta lấy báng súng đập gãy gươm
của tên sĩ quan Pháp. Rawdon bèn lấy ngay chiếc cán gươm gãy làm kỷ niệm. Còn
đôi lon vai và tấm Bắc đẩu bội tinh là của một tên trung tá kỵ binh Pháp; tên
này bị Rawdon giết chết tại trận. Rawdon thấy tốt nhất là gửi mấy vật này về
làm quà cho bà cô quý mến nhất đời của mình. Không biết anh ta có thể tiếp tục
viết thư từ Paris về cho bà cô được không? Quân đội đang tiến tới đó. Nếu vậy,
anh ta sẽ có thể viết thư thuật lại nhiều chuyện thú vị của kinh đô nước Pháp,
cùng tin tức về một số bạn cũ của bà Crawley; hồi họ còn lưu vong sang nước
Anh, bà đã đối đãi với họ rất tử tế trong khi họ gặp bước khốn cùng.
Bà gái già sai bà Briggs viết cho viên trung tá
một bức thư, lời lẽ ngọt ngào, ngợi khen chiến công của anh ta, lại khuyến
khích anh ta cứ tiếp tục viết thư về. Nội dung lá thư đầu tiên của thằng cháu
lý thú quá, làm cho bà lão đâm ra thèm xem tiếp những lá thư sau. Bà ta giải
thích cho bà Briggs nghe thế này: “Bà Briggs này, tôi biết tỏng rằng tài văn
chương của thằng Rawdon cũng chỉ như bà thôi, làm gì viết nổi một bức thư hay
đến thế, lại cái con mẹ ranh Rebecca nó đọc từng chữ cho thằng chồng chép đấy
thôi. Nhưng không phải vì thế mà tôi không có quyền được giải trí đôi chút, cho
nên tôi muốn nó tưởng rằng tôi vui lòng lắm”.
Chắc bà không ngờ rằng chẳng những chính tay
Rebecca viết thư, mà cũng chính tay cô nhặt nhạnh mấy vật kỷ niệm kia để về làm
quà... Ngay sau trận Waterloo, có vô số người bán rong những di tích của trận
đánh; Rebecca chỉ mất có mấy đồng phơ-răng. Riêng nhà tiểu thuyết là người biết
hết mọi chuyện cũng biết điều đó.
Dẫu sao chăng nữa, lá thư đầy lời lẽ ngọt ngào
của bà Crawley cũng khiến hai vợ chồng Rawdon rất phấn khởi; họ hy vọng bà cô
đã hồi tâm, vì thấy bà vui vẻ lắm. Đúng như lời Rawdon nói trước, hai vợ chồng
may mắn được theo đoàn chiến thắng tới Paris. Từ đó họ viết thư gửi về cho bà
cô, ra sức kể vô khối chuyện lý thú.
Bà vợ ông thầy tu về nhà thuốc thang cho chồng
bị gãy xương đùi cũng gửi thư hỏi thăm, nhưng phong thư trả lời của bà Crawley
chẳng vui vẻ tí nào. Đối với bà em chồng, bà Bute, người đàn bà sắc mắc, nhanh
nhảu, độc tài ấy đã phạm một sai lầm tai hại nhất đời. Bà Bute đã đàn áp bà
Crawley và tất cả nhà...thành ra bị họ chán ngấy.
Nếu bà Briggs là người có đôi chút thông minh,
chắc bà phải rất thú vị khi được bà chủ ra lệnh viết thư trả lời bà Bute rằng,
từ ngày bà Bute ra về, thì bà Crawley khỏe ra nhiều, lại yêu cầu bà Bute không
việc gì phải lo lắng, mà cũng không dám phiền bà này bỏ nhà bỏ cửa để lên săn
sóc nữa. Đối với nhiều người đàn bà khác, thì thắng được kẻ vẫn đối xử ngạo
mạn, độc ác với mình là điều đáng hả dạ; nhưng thực ra bà Briggs không phải là
người tinh ranh lắm, nên đến lúc thấy kẻ thù bại trận, bà ta lại thấy thương
thương.
Bà Bute nhận được thư, nghĩ thầm: “Mình rõ thật
ngu, cái bữa gửi biếu đôi gà tây, việc gì phải báo trước trong thư là mình sẽ
lên thăm. Lẽ ra mình sẽ lên thăm. Lẽ ra mình cứ yên lặng mà mò đến, không cho
mụ già lẩm cẩm ấy biết trước mới phải, có thế mới cướp được mụ trong tay con mẹ
Briggs ngốc nghếch và con bé hầu buồng quỷ quyệt kia chứ. ông Bute ơi là ông
Bute! Sao ông lại đi gãy xương đùi làm gì cho tôi khổ”!
Tại sao thế nhỉ? Chúng ta đã thấy Bà Bute chơi
một nước bạc khá cao lúc vận còn đỏ; bà ta đã hoàn toàn chế ngự được cả nhà, bà
Crawley rồi cơ mà? Nhưng cũng chính vì bị đàn áp quá đáng nên hễ gặp dịp là họ
nổi loạn ngay tức khắc. Bà Bute và cả nhà bà nghĩ rằng, chính bà là nạn nhân
của sự ích kỷ và phản bội ghê gớm; bà đã hy sinh bao nhiêu để chăm lo cho bà
Crawley mà bây giờ bị bạc đãi một cách dã man quá. Người đàn bà ngoan đạo này
thấy tin Rawdon được thăng chức đăng ầm ĩ trên báo Tin tức thì tức cuồng người
lên. Bây giờ nó làm đến trung tá, lại chịu tước Tùy giá hiệp sĩ rồi, không
chừng bà cô nghĩ lại mất; mà cái bọn Rebecca đáng ghét ấy lại được yêu quý như
trước nữa chăng? Bà vợ ông cha xứ lập tức thảo ngay hộ chồng một bài thuyết
giáo, phân tích sự phù phiếm của những chiến công quân sự và thịnh vượng của
những kẻ xấu; ông thầy tu đáng kính lấy cái giọng tốt nhất đọc từ đầu chí cuối
mà không hề hiểu được một chữ. Hôm ấy Pitt Crawley cũng có mặt trong số thính
giả. Pitt đưa hai cô em khác mẹ đến nhà thờ nghe giảng đạo, vì lão nam tước già
hồi này không sao đến dự luôn luôn được.
Từ ngày Becky Sharp bỏ đi, lão già ma bùn này
mặc sức ngập lặn trong những thú tính hạ cấp, khét tiếng bừa bãi cả một vùng;
anh con trai đành cứ câm nín chịu đau khổ. Chiếc mũ của cô Horrocks được dịp
trang điểm bằng những cái dải lộng lẫy hơn bao giờ hết. Những gia đình nền nếp
hãi hùng lánh xa trại Crawley và ông chủ của nó như lánh hủi. Cụ Pitt la cà
xuống nhà các tá điền, ngồi uống rượu với họ. Đến phiên chợ, lão lại ngồi chén
chú anh với bọn nông dân ngay trong quán rượu ở Mudbury,và các vùng lân cận.
Lão ngồi sóng đôi với cô Horrocks, giong xe bốn ngựa đi chơi Southampton; khắp
quận, tuần nào người ta cũng chờ tin đám cưới lão đăng trên tờ báo địa phương;
con trai lão cũng yên trí như vậy, song không dám nói ra.
Quả thật là một gánh nặng nhục nhã cho Crawley.
Anh này vẫn có thói quen chủ tọa những buổi họp của các giáo sĩ, hoặc những tổ
chức có tính chất tôn giáo trong vùng, và thường nói thao thao bất tuyệt hàng
mấy tiếng đồng hồ liền; bây giờ anh ta thấy lưỡi mình như cứng lại, bởi vì mỗi
khi đứng lên nói, anh ta có cảm tưởng thiên hạ đang xì xào rằng: “Con trai lão
Pitt vô lại đấy, giờ này có lẽ lão già đang say sưa trong quán rượu cũng nên”.
Có một lần Crawley đang công kích đời sống của vua xứ Timbuctoo vì không biết
hắn giấu giếm trong bóng tối có đến bao nhiêu vợ, thì một tên say mèm trong đám
đông hét ầm lên: “Ông trẻ đạo đức giả ơi, ở trại Crawley Bà chúa nhà ông, có
bao nhiêu vợ thế?”Cử tọa sửng sốt, và bài diễn thuyết của Pitt cũng đi đứt. Cụ
Pitt thề từ giờ đến chết không mượn cô giáo dạy trẻ nữa; nếu Pitt Crawley không
đe bố, bắt buộc lão già phải cho hai cô con gái vào nội trú trong trường học,
thì có lẽ hai cô thiếu nữ cũng đến hư đốn mất.
Mấy người cháu trai và cháu gái của bà Crawley
tuy có những chuyện xích mích cá biệt đối với nhau, nhưng đều nhất trí ở điểm
cùng hết sức cố gắng yêu quý bà cô, thi nhau mà tỏ lòng kính mến. Bà Bute thì
gửi biếu gà tây, và mấy cái bắp cải thật ngon, lại kèm theo một cái túi thật
đẹp và một chiếc gối cài kim khâu do chính tay hai cô gái yêu làm; hai cô cũng
mong được bà cô thân yêu nhớ đến tý chút. Còn Pitt thì gửi biếu nào đào, nào
nho, lại cả thịt thú rừng săn trong trại. Xe ngựa đi Southampton vẫn phải chở
những tặng vật ấy đến Brighton cho bà Crawley. Thỉnh thoảng Pitt cũng đi xe
ngựa đến thăm bà cô. Vì có chuyện bất hòa với bố nên hồi này Pitt vắng nhà
luôn. Không những thế, anh chàng thích đến Brighton, còn vì công nương Jane
Sheepshanks; hai bên có đính ước với nhau, như ta đã rõ. Công nương sống ở
Brighton với mấy chị em gái và mẹ là bá tước phu nhân Southdown; xưa nay người
đàn bà cương nghị này vẫn nổi tiếng trong giới đạo đức.
Chúng ta cũng phải dành ít lời nói qua về bá
tước phu nhân cùng gia đình quý phái của bà... vì hiện nay cũng như sau này bà
ta có nhiều liên quan với gia đình Crawley.
Về người đứng đầu gia đình Southdown thứ tư,
thì không có gì đáng nói lắm; anh ta được cử vào Nghị viện (cũng như bá tước
Wolsey) do sự bảo lãnh của ông Wilberforce. Một thời ông ta đã được người đỡ
đầu cho mình về chính trị rất tin cậy; hồi còn trẻ, quả thật anh ta cũng là
người đứng đắn; nhưng ông thân sinh ra anh ta vừa chết đi không bao lâu, bà mẹ
đã nghe đồn đại nhiều về con trai: nào là hay đàn đúm chơi bời bậy bạ, nào là
thua bạc mất vô khối tiền ở sòng bạc nhà Wattier và ở quán “Cây dừa”; bà mẹ lấy
làm khổ tâm không thể tưởng tượng được. Anh ta đem cả gia tài ra ký cược lấy tiền
tiêu trước, đi chơi đâu cũng giong xe bốn ngựa, lại làm ông bầu tổ chức thi đấu
quyền Anh.
Hiện anh ta còn thuê cả một “lô” ghế tại rạp
Opera để thết đãi bè bạn toàn một bọn trai trẻ chưa vợ bán giời không văn tự.
Người quen bà mẹ góa có của ấy hễ nhắc đến tên anh ta là ai cũng phải phàn nàn.
Công nương Emily hơn em trai rất nhiều tuổi; cô
này khá nổi tiếng trong giới nghiên cứu đạo lý và là tác giả mấy cuốn sách thú
vị đã nói ở trên, và nhiều bài thơ tôn giáo ấy là một cô gái ở vậy đã quá lứa,
không còn tơ tưởng mấy tý đến chuyện chồng con, bây giờ bao nhiêu tình cảm còn
lại dốc vào sự thương xót những người da đen. Hình như cô ta là tác giả bài thơ
xinh xinh sau đây:
Hãy đưa ta đến hòn đảo nào chói nắng,
Phía trời tây xa tít giữa trùng dương.
Nơi nghìn năm trời xanh cười tươi tắn.
Mà người da đen vạn kiếp khóc thê lương.
Cô ta vẫn còn thư từ đi lại với nhiều mục sư ở
hầu hết các thuộc địa Đông Âu và Tây Ấn của ta; hình như cô còn mang một mối
tình u ẩn với cha xứ Silas Hornblower; nghe đâu ông này bị bọn người bán khai
tại những đảo xa xôi miền cực nam xa xôi xăm mình mất rồi.
Còn công nương Jane, ý trung nhân của Pitt
Crawley, như ta đã rõ. Là người tính tình hiền hậu, e lệ, nhút nhát và ít nói.
Thấy anh trai hư hỏng, cô chỉ khóc lóc, và tự lấy làm xấu hổ vì mình vẫn quý
anh như cũ. Nhiều khi, cô vẫn giấu giếm viết những mẩu thư ngắn gửi cho anh.
Suốt đời, cô chỉ có mỗi một điều bí mật khiến cho lương tâm cắn rứt là cô một
lần đã cùng bà quản gia có tuổi lén đến thăm Southdown ở Albany, và thấy anh
trai gớm ghiếc, cái ông mãnh trời đánh - đang hút xì gà, ngồi trước một chai
rượu ca-cao. Cô rất khâm phục chị gái, rất kính mến mẹ; lại thường vẫn coi Pitt
Crawley là người đàn ông lịch sự, tài giỏi nhất thiên hạ, sau Southdown dĩ
nhiên, vì đối với cô, Southdown là một vị thiên thần đã chết. Cô coi mẹ và chị
là hai người đàn bà siêu quần, họ lo lắng hết thảy cho cô; họ nhìn cô với thái
độ thương hại khả ái của những người phụ nữ đối đãi với những người tầm thường
hơn mình. Mẹ cô may quần áo cho cô, mua sách cho cô, sắm mũ cho cô, suy nghĩ hộ
cô nữa. Cô sinh ra đời để cưỡi ngựa đi chơi, để tập đàn dương cầm, cũng như để
làm mọi việc khác theo sở thích của Southdown phu nhân. Nếu như không nhân dịp
công nương Jane được vào chầu nữ hoàng Charlotte mà phải bỏ “quần yếm” ra thì
có lẽ bá tước phu nhân còn cứ bắt cô đeo mãi, mặc dù cô đã hai mươi sáu tuổi.
Khi mấy mẹ con bà bá tước đến Brighton, Crawley
chỉ đến thăm riêng họ; anh ta chỉ gửi lại nhà bà cô một tấm danh thiếp, và nhã
nhặn hỏi thăm bác Bowls hoặc anh phụ việc vài lời về tình hình sức khỏe của
người ốm. Lần gặp bà Briggs từ hiệu sách về nhà, khệ nệ ôm một chồng tiểu
thuyết, Crawley đỏ mặt lên một cách khác thường, lúc tiến lại bắt tay người bạn
của cô mình, vì tình cờ lúc đó anh ta đang cùng đi với công nương Jane; anh ta
bèn giới thiệu Briggs với người yêu: “Công nương Jane, cho phép tôi giới thiệu
người bạn tốt nhất và cũng là người thân cận dịu dàng nhất của cô tôi, bà
Briggs là tác giả tập thơ Tiếng Tơ Lòng mà cô nương rất ưa đọc”. Công nương Jane
cũng đỏ mặt lên, giơ bàn tay bé nhỏ của mình ra cho bà Briggs nắm; cô ấp úng
nói mấy câu không đầu không đuôi về mẹ mình, rồi hứa sẽ đến thăm bà Crawley,
đồng thời tỏ ý rất vui mừng được làm quen với bè bạn và thân nhân của Pitt
Crawley.
Lúc chia tay đôi mắt cô nhìn bà Briggs dịu dàng
như mắt chim bồ câu; Pitt Crawley thì cúi rạp xuống chào bà này, như anh ta vẫn
chào quận chúa Pumpernickel, hồi anh ta còn nhận chức tùy viên ngoại giao bên
cạnh quận chúa.
Thật là một nhà ngoại giao có thủ đoạn, xứng
đáng là học trò của ngài Machiavellian Binkie (). Chính anh ta đưa cho công
nương Jane xem tập thơ của bà Briggs; anh ta nhớ có lần bắt gặp tập thơ này ở
trại Crawley Bà chúa; thấy có lời tác giả đề tặng bà mẹ kế đã quá cố, anh ta
bèn mang đến Brighton; ngồi trên chuyến xe Southampton, anh ta đọc thơ, lấy bút
chì gạch đánh dấu rồi trao cho công nương Jane. Lại cũng chính anh ta trình bày
với Southdown phu nhân rằng nếu gia đình Southdown liên hệ chặt chẽ với bà
Crawley thì sẽ có lợi như thế nào... theo ý anh ta thì có lợi cả về vật chất và
tinh thần: bây giờ bà Crawley hoàn toàn trơ trọi; Rawdon vì cái tính hoang
toàng và cái tội lấy vợ không “môn đăng hộ đối” đã bị bà ghét cay ghét đắng
rồi; bà Bute Crawley thì tham lam, hám lợi và ngang ngược quá. Bà gái già đã
phải nổi loạn chống lại sự lạm quyền quá quắt ấy. Riêng Pitt Crawley xưa nay
vẫn tránh không chịu tranh thủ cảm tình của bà lão; anh ta thấy có lẽ mình kiêu
ngạo không đúng chỗ; bây giờ chính là lúc cần áp dụng những biện pháp thích
đáng, vừa để cứu vớt linh hồn bà lão khỏi sa xuống địa ngục, vừa nhằm ăn chắc
cái gia tài của bà về phần mình với tư cách là trưởng họ Crawley.
Southdown phu nhân vốn là người cả quyết, hoàn
toàn tán thành đề nghị của con rể, định cải đạo bà Crawley ngay tắp lự. Hồi còn
ở đất Southdown và lâu đài Trottermore, vị sứ giả to béo và ghê gớm của chân lý
này thường ngồi xe giong khắp nơi, có kỵ sĩ theo hầu; bà ném hàng bó sách đạo
cũng như bà ra lệnh cho bác Hicks đoạt thuốc súng của một anh James nào đó mà
không cần đến sự can thiệp của các mục sư tại chức. Hồi bá tước Southdown còn
sống - ông này mắc bệnh, tính tình giản dị - ông chồng vẫn có thói quen tán
thành mọi việc làm, mọi ý kiến của bà Matilda (mà tư tưởng ấy cũng khá phức
tạp, vì bà chịu ảnh hưởng của đủ mọi thứ học giả ly khai với chính giáo), bà
không nề hà gì mà không ra lệnh cho tất cả tá điền và người hầu phải tin tưởng
như mình. Cho nên, bất cứ vị tu sĩ nào đến chơi, là đức cha Saunders McNitre
người Scotch hay đức cha Luke Waters thuộc dòng Wesleyan, hoặc đức cha Giles
Jowls ông thợ giầy mộ đạo, người đã tự phong cho mình chức linh mục y như
Napoléon tự tôn làm hoàng đế vậy...bất cứ ai đến chơi, bà cũng bắt cả nhà từ
lớn chí bé cùng bà quỳ xuống nghe các vị ấy cầu kinh mà nói “A-men” tất. Trong
lúc ấy, vì ốm, nên ông già Southdown được phép cứ ở trong phòng mình để uống
rượu, đọc báo. Ông lão quý công nương Jane nhất nhà; cô này cũng săn sóc yêu
quý cha thực tâm nhất nhà. Công nương Emily là tác giả cuốn “Người thợ giặt ở
Finchley”; cô ta miêu tả trong sách những sự trừng phạt ở thế giới bên kia ghê
gớm quá (sau này cô có thay đổi quan điểm) làm ông bố già nhút nhát đọc đến mà
phát ốm; các ông thày thuốc tuyên bố rằng cứ khi nào nghe con gái thuyết giáo
là ông lão lại lên cơn bệnh.
Nghe Pitt Crawley, anh con rể tương lai khuyến
khích mình, Southdown phu nhân đáp:
- Thế nào tôi cũng đến thăm. Thầy thuốc chữa
cho bà Crawley là ai đấy nhỉ?
Pitt Crawley đáp là ông Creamer.
- Anh Pitt ơi, lão này có biết thuốc men là cái
gì đâu, uống thuốc của lão nguy hiểm lắm. Nhờ ơn Chúa tôi đã nhiều lần có dịp
tống khứ lão ta ra khỏi nhiều gia đình đấy; cũng có một đôi lần tôi đến không
kịp. Tôi đã không cứu được tướng Glanders tội nghiệp đang chết ngắc ngoải trong
tay gã ngu ngốc đó; tôi đến thăm thấy thế bèn lấy thuốc viên của Podgers cho
nuốt thấy hồi lại đôi chút, nhưng rồi cũng hỏng. Chậm quá mất rồi. Ông ta chết
cũng nhẹ nhàng, được sang thế giới bên kia, thế cũng là việc hay. Anh Pitt ạ,
phải tống khứ lão Creamer đi mới xong.
Pitt tỏ ý hoàn toàn tán thành. Anh ta quen chịu
ảnh hưởng của bà mẹ vợ tương lai có tính tình cương quyết. Chính anh ta đã quen
tiếp những Saunders McNitre, Luke Waters, Giles Jowls, và uống cả thuốc viên
của Podgers lẫn của Rodgers hoặc thuốc nước của Pokey, nghĩa là đủ mọi thứ
thuốc vật chất và tinh thần tự tay bà bá tước trao cho. Lần nào từ biệt gia
đình này ra về, anh ta cũng kính cẩn ôm theo hàng chồng sách thần học lăng
nhăng và sách thuốc lang băm. Ôi, những người bạn quen thuộc với Hội chợ phù
hoa của tôi ơi, có ai chưa bao giờ phải chịu đựng sự thống trị của một vị bạo
chúa nhân từ như thế không? Tha hồ cho ta nói: “Kính thưa quý bà, năm ngoái tôi
đã theo lệnh quý bà uống thuốc của Podgers, tôi đã tin tưởng là thuốc hay rồi,
sao bây giờ tôi lại cứ phải đổi ý kiến mà uống thuốc của Rodgers nữa cơ chứ?”
Vô ích; người tín đồ mới mẻ ấy không thể lấy lý luận mà thắng được, lập tức
khóc hu hu lên; thế là cuối cùng kẻ xa rời chính đạo đành bưng lấy bát thuốc,
nói: “Vâng, vâng, thì thuốc của Rodgers hay hơn vậy.”
Dĩ nhiên, về mặt tinh thần, bà ấy cần được săn
sóc ngay lập tức. Trót uống thuốc của lão Creamer rồi, rất có thể chết lúc nào
không biết đấy; mà chết với một tâm trạng như thế nào, anh Pitt? Một tâm trạng
khủng khiếp? Tôi sẽ lập tức phái đức cha Irons đến ngay. Jane đâu, viết ngay
thư thay mặt mẹ gửi cha Bartholomew Irons, xưng với cha bằng ngôi thứ ba, mời
đức cha tối nay đến chơi xơi nước, hồi sáu giờ rưỡi. Đức cha nhiệt tình lắm.
Thế nào đức cha cũng phải gặp bà Crawley ngay đêm nay, trước khi bà ấy đi nghỉ.
Còn Emily, con gái yêu của mẹ ơi, con phải sắp sẵn ngay một chồng sách để biếu
bà Crawley. Lấy quyển Một tiếng gọi trong đám lửa. Tiếng kèn báo động Jericho,
Cái nồi vỡ hay là cuốn Kẻ ăn thịt người được cải đạo nhé…
Công nương Emily góp ý:
- Cả cuốn Người thợ giặt ở Finchley nữa, mẹ ạ.
Mới đầu ta phải vuốt ve dịu dàng chứ.
Nhà ngoại giao Pitt ngắt lời:
- Thôi thôi, các chư vị. Để tỏ ý hết sức tôn
trọng ý kiến của Southdown phu nhân tôn kính, con thiết thưởng ta bắt đầu ngay
với bà Crawley bằng những chuyện đứng đắn quá, e không lợi. Nên nhớ rằng bà ấy
đang yếu, và xưa nay, ít khi, phải, rất ít khi bà ấy chú ý tới những chuyện
dính đáng đến hạnh phúc vĩnh cửu của mình.
Công nương Emily tay lăm lăm ôm sáu quyển sách
đã đứng lên:
- Ta bắt tay ngay vào việc chứ, chú Pitt?
- Nếu chị hành động đột ngột quá, bà ấy sợ. Tôi
biết tính bà cô tôi, ta vào đề đột ngột quá thì hỏng bét. Bà ấy sẽ phát hoảng
và bực mình. Chưa biết chừng bà ấy sẽ quẳng mấy cuốn sách vào một xó, không
thèm nhìn mặt chúng ta nữa.
- Chú Pitt ạ, chú cũng ưa xã giao chẳng kém gì
bà Crawley.
Công nương Emily nói rồi ôm chồng sách ra
thẳng.
Pitt hạ thấp giọng nói tiếp, không để ý đến lời
Emily:
- Phu nhân Southdown quý mến ạ, chẳng nói chắc
bà cũng hiểu, nếu ta không nhẹ nhàng, thận trọng, thì hỏng hết, không hy vọng
gì hưởng món gia sản của bà cô con đâu. Xin bà nhớ cho rằng cô con có bảy mươi
vạn đồng bảng vốn, tuổi lại già mà ốm yếu quặt quẹo luôn. Bà cụ định cho thằng
em con là trung tá Crawley hưởng gia tài, nhưng hủy di chúc đi rồi. Đang lúc bà
cụ bực mình, ta phải dùng cách mơn trớn mới hy vọng dẫn được về con đường phải;
sỗ sàng là hỏng việc. Cho nên, chắc bà đồng ý với con rằng...rằng...
Southdown phu nhân đáp ngay:
- Dĩ nhiên, dĩ nhiên rồi, Jane, thôi; không cần
biên thư cho ông Irons, con ạ. Nếu bà ấy còn yếu, chưa thảo luận được, ta đợi
bao giờ khỏe hàng hay. Mai, tôi sẽ đến thăm bà Crawley.
Pitt ngọt ngào thêm:
- Mà con có ý kiến, có nhẽ ta không nên mang
Emily đi theo; chị ấy hăng hái quá, không lợi. Bà nên cho công nương Jane cùng
đi, cô ấy dịu dàng, có lợi hơn.
Southdown phu nhân đáp:
- Phải lắm, Emily sẽ làm hỏng hết việc mất.
Lần này, bà ta chịu nhượng bộ, không dùng đến
chiến thuật quen thuộc của mình, nghĩa là mỗi khi muốn khuất phục ai, bà thường
đánh phủ đầu bằng một lô sách đạo (y như kỵ binh Pháp trước khi tấn công phải
bắn một loạt đại bác đã). Vậy thì hoặc vì sức khoẻ, vì hạnh phúc vĩnh cửu sau
này của người bệnh, hoặc vì tiền không rõ, Southdown phu nhân đã chịu nhượng
bộ.
Hôm sau, người ta thấy chiếc xe ngựa đồ sộ của
gia đình Southdown dừng lại bệ vệ trước cửa nhà bà Crawley. Trên vách xe, có vẽ
một hình quả trám, trên có huy hiệu bá tước (ba con cừu non sơn màu bạc trên
nền xanh đậm tức là dấu hiệu đặc biệt của gia đình Southdown, ở một góc có tô
màu đen trên nền kim nhũ, ngụ ý thuộc dòng họ Binkie).
Anh hầu người cao lớn trao cho bác Bowls một
tấm danh thiếp của bá tước phu nhân gửi cho bà Crawley, và một tấm gửi cho bà
Briggs. Tối hôm ấy, công nương Emily cũng gửi cho bà Briggs một bọc sách, trong
đó có cuốn truyện Người thợ giặt... cùng nhiều cuốn sách khác như Bánh vụn
trong nhà bếp, Chảo và lò, Bộ áo của Tội lỗi. Đại loại toàn những sách ghê gớm
cả, để bà Briggs và các gia nhân khác đọc.
Chương 34
CÁI TẨU CỦA JAMES CRAWLEY BỊ QUẲNG ĐI
Thấy Pitt Crawley nhã nhặn, lại thấy công nương
Jane tỏ ra rất lịch sự với mình, bà Briggs lấy làm hể hả lắm; cho nên lúc nhận
được tấm danh thiếp của Southdown phu nhân, bà thấy mình phải nói tốt về công
nương với bà Crawley. Một vị bá tước phu nhân mà lại gửi cả danh thiếp cho
chính mình! Người đàn bà trơ trọi đáng thương này làm sao không cảm động cho
được.
- Này, bà Briggs, Southdown phu nhân gửi danh
thiếp cả cho bà, thế là nghĩa lý gì nhỉ?
Bà Crawley, người vẫn có tư tưởng cộng hòa hỏi
thế. Bà Briggs ngoan ngoãn đáp, tỏ ý hy vọng rằng việc một bậc mệnh phụ chiếu
cố đến một người đàn bà tầm thường không có gì đáng ngại; đoạn bà ta cất kỹ tấm
danh thiếp vào chiếc hộp khâu cùng với những vật quý giá nhất. Bà Briggs còn kể
lại hôm trước gặp Pitt Crawley đi chơi với cô em họ đồng thời là vị hôn thê như
thế nào, những là cô thiếu nữ trông xinh đẹp, dịu dàng lắm, cô ta bận một tấm
áo giản dị, nhưng không phải là xoàng xĩnh... bà Briggs tả lại từ cái mũ cho
đến đôi giầy, thật đúng lối kể chuyện tỉ mỉ của đàn bà.
Bà Crawley không ngắt lời nhiều, cứ mặc cho bà
Briggs thao thao bất tuyệt. Trong người thấy đã hơi khỏe, bà Crawley bắt đầu
thèm tiếp khách. Ông thầy thuốc Creamer nhất định không bằng lòng cho bà trở về
cuộc sống bừa bãi ở Luân-đôn như trước, cho nên bà lão già này chỉ mong sao có
khách khứa đến thăm mình ngay tại Brighton thì sướng quá. Không những bà nhận
tiếp gia đình Southdown ngay hôm sau mà còn có nhã ý cho gọi cả Pitt Crawley
đến chơi nhân thể. Anh ta cùng đến với Southdown phu nhân và cô con gái. Bà bá
tước góa chồng không hé răng nói nửa lời về tình hình tư tưởng của bà Crawley,
chỉ kín đáo nói toàn những chuyện về thời tiết; về chiến tranh, về sự thất bại
của con quỷ Bonaparte, nhất là những chuyện về thầy thuốc, lang băm, và tài
năng đặc biệt của bác sĩ Podgers, người được bà đỡ đầu.
Trong buổi gặp gỡ hôm đó, Pitt Crawley đã chơi
một miếng đòn thật lợi hại, chứng tỏ giả sử anh ta không từ bỏ làng ngoại giao
quá sớm, hẳn anh ta có thể leo lên những chức vụ cao cấp trong nghề. Lúc bá
tước phu nhân Southdown theo “mốt” đương thời công kích tên dân đảo Corse hãnh
tiến, nhất định cho hắn ta là một con quỷ phạm đủ mọi thứ tội ác trên đời, là
một thằng hèn nhát, một tên bạo chúa, không đáng được sống trên trái đất, và sự
sụp đổ của hắn là do trời định v.v... thì đột nhiên Pitt Crawley đứng ngay ra
biện hộ cho Napoléon: Anh ta miêu tả viên đệ nhất Tổng giám đốc, như anh ta đã
gặp trong lúc ký hòa ước Amiens; hồi ấy anh ta có vinh dự được biết Fox tiên
sinh một nhà chính trị đại tài, người vẫn tỏ thái độ hết sức kính trọng hoàng
đế Napoléon; tuy giữa anh ta và ông Fox có nhiều điểm bất đồng ý kiến nhưng anh
ta vẫn không thể không kính phục ông này. Anh ta còn lớn tiếng mạt sát thái độ
hèn nhát của đồng minh trong việc đối xử với vị hoàng đế bị truất ngôi này; anh
ta thấy Napoléon đã chịu đầu hàng một cách anh hùng, vậy mà bị đi đầy một cách
nhục nhã, tàn tệ, trong khi kẻ thay thế nắm quyền sinh sát cả nước Pháp chỉ là
một tên cuồng tín vô danh tiểu tốt thuộc phe giáo hoàng La-mã, như vậy thậm vô
lý.
Công kích thái độ mê tín với La-mã, thế là
tranh thủ được cảm tình của Southdown phu nhân, đồng thời ca tụng Fox và
Napoléon tức là được lòng bà Crawley. Trong phần đầu cuốn truyện, chúng ta đã
nói tới tình bạn thân thiết giữa bà này và nhà chính trị người Anh đã quá cố!
Bà Crawley thật xứng danh là một người thuộc phái Whig (); suốt thời gian chiến
tranh, bà vẫn đứng về phe đối lập.
Tuy bà chẳng vì sự sụp đổ của vị hoàng đế mà
đời bà giản dị hoặc kém thoải mái đi chút nào, bà cũng thấy mát lòng mát dạ.
Chỉ một câu nói, anh ta đoạt được ngay cảm tình của bà lão.
- Thế còn ý kiến của cô nương ra rao?
Bà Crawley hỏi công nương Jane. Thoạt nhìn cô
thiếu nữ, bà đã có cảm tình ngay vì xưa nay bà vẫn ưa những cô gái xinh đẹp mà
e lệ, tuy rằng cảm tình của bà sôi lên cũng chóng, mà nguội đi cũng nhanh.
Công nương Jane đỏ bừng mặt, đáp rằng mình
không biết gì về chính trị, xin nhường cho những bậc cao minh; song cô cũng
thấy ý kiến của mẹ nhất định là đúng, và Crawley nói cũng rất hay. Kết thúc
buổi gặp gỡ, hai mẹ con bà khách ra về, bà Crawley ngỏ ý “hy vọng rằng Southdown
phu nhân sẽ vui lòng cho phép công nương Jane thỉnh thoảng đến chơi, nếu công
nương có lòng bớt chút thì giờ an ủi một người đàn bà ốm đau già yếu trơ trọi”.
Bà khách vui vẻ nhận lời, hai người chia tay nhau hết sức thân mật.
Đoạn bà Crawley bảo cháu:
- Anh Pitt, lần sau đừng đưa Southdown phu nhân
đến nữa. Bà ấy ngu xuẩn, và tự phụ giống cả họ bên nhà mẹ anh, tôi không sao
chịu nổi. Nhưng mà cái cô Jane xinh xinh ấy thì anh cứ đưa đến chơi lúc nào
cũng được.
Pitt hứa vâng lời. Anh ta không dám cho bá tước
Southdown phu nhân rõ cô mình đã đánh giá bà này ra sao; trái lại, bà bá tước
cứ đinh ninh rằng mình đã gây một ấn tượng rất sâu sắc và đẹp đẽ đối với bà
Crawley. Công nương Jane đến thăm bà Crawley luôn; cô không thấy việc an ủi một
người ốm là đáng sợ, hoặc có lẽ cô thấy thỉnh thoảng cũng nên giải thoát mình
khỏi cái giọng thuyết giáo lè nhè phát ngấy của đức cha Bartholomew Irons, cũng
như khỏi phải nhìn mặt một bọn nịnh hót nguy hiểm vẫn bám lấy váy cái bà bá
tước là mẹ cô. Cô dong xe ngựa cùng đi chơi với bà Crawley, hoặc buổi tối cùng
bà ngồi tán chuyện gẫu. Bản tính cô tốt và hiền hậu, ngay cả bà Firkin cũng
không ghen ghét vào đâu được; còn bà Briggs thì nhận thấy mỗi khi công nương
Jane đến chơi bà chủ tỏ ra bớt tàn nhẫn với mình. Bà Crawley tiếp đãi cô hết
sức lịch sự. Bà kể lại cho cô thiếu nữ nghe bao nhiêu chuyện hồi bà còn trẻ,
thân mật khác hẳn khi chuyện trò với cái cô Rebecca quỷ quái kia. Công nương
Jane có cái vẻ ngây thơ đặc biệt khiến cho không ai dám nói điều gì sỗ sàng
trước mặt, còn bà Crawley lại là người quá lịch thiệp, không khi nào cư xử như
vậy. Bản thân công nương cũng chẳng được ai đối xử tử tế ngoài bà gái già này
và cha và anh nên cô cũng đáp lại bằng một thái độ nhã nhặn và một tình bạn
chân thành.
Những buổi tối mùa thu năm ấy (trong khi
Rebecca đang sống huy hoàng ở Paris, nổi bật giữa những sĩ quan của quân đội
chiến thắng, còn Ameia, cô Ameia đau thương của chúng ta, thì không biết ở
đâu!), công nương Jane thường ngồi trong phòng khách nhà bà Crawley vào lúc
hoàng hôn, dịu dàng hát cho bà này nghe những bài hát giản dị mộc mạc mà cô ưa
thích, trong khi bên ngoài, mặt trời dần lặn, và sóng biển gầm thét xô vào bãi
cát. Hễ tiếng hát ngừng, thì bà lão lại thức dậy đòi được nghe thêm.
Bà Briggs giả bộ ngồi đan sung sướng quá, chảy
bao nhiêu là nước mắt; bà cảm động nhìn bóng đêm phủ dần xuống mặt biển, và
những ngôi sao mỗi ngày một lóng lánh hơn trên bầu trời... Ai biết được bà
Briggs của chúng ta đa cảm và sung sướng đến chừng nào nhỉ?
Pitt thì ngồi trong phòng ăn, đọc một cuốn sách
nói về ngũ cốc, hoặc tờ báo của Hội truyền giáo; đó là thú giải trí quen thuộc
của nam giới sau bữa ăn tối, dù là người lãng mạn hay không lãng mạn cũng vậy.
Anh ta vừa nhấm nháp cốc rượu madera, vừa xây dựng trong đầu bao giấc mộng viển
vông. Những lúc này, anh ta thấy mình đẹp trai quá, và càng thấy yêu công nương
Jane hơn bao giờ hết; hai người đính ước với nhau đã bảy năm qua mà chưa khi
nào Pitt tỏ ra sốt ruột; rồi anh ta ngủ một giấc dài. Đến giờ uống cà- phê, bác
Bowls thường thình thịch bước vào để mời ngài Pitt ra uống thì đã thấy ngài
đang vùi đầu đọc sách trong xó tối rồi.
Một buổi tối, thấy bác Bowls mang cà-phê và mấy
cây nến vào bà Crawley liền bảo:
- Công nương ơi, giá có ai chơi bài Pic-kê với
tôi thì hay quá; Cái bà Briggs chơi bài vụng lắm, ngu cứ như con lừa (bà già
này vẫn thói quen sỉ nhục bà Briggs ngay trước mặt đầy tớ). Đánh bài xong, chắc
tôi ngủ được ngon giấc.
Công nương Jane đỏ ửng từ hai tai cho đến tận
mười đầu ngón tay búp măng. Chờ cho bác Bowls ra khỏi phòng, cửa đã đóng chặt
cô mới đáp:
- Bà Crawley ạ, cháu cũng biết chơi qua loa.
Trước cháu vẫn thỉnh thoảng đánh bài với... ba cháu...
Bà Crawley sung sướng quá, kêu lên:
- Lại đây hôn tôi đi, lại đây hôn tôi một cái
ngay đi; cô bé đáng yêu quá!
Khi Pitt cầm cuốn sách lên gác đã thấy bà già
và cô thiếu nữ đang chơi bài rất vui vẻ; suốt buổi tối hôm ấy cô Jane tội
nghiệp kia mặt cứ đỏ bừng lên.
Đừng tưởng rằng mưu mẹo khôn ngoan của Pitt
Crawley thoát khỏi được mắt thân nhân của anh ta ở nhà thờ trại Crawley Bà
chúa. Hai quận Hamshire và Sussex sát ngay cạnh nhau, bà Bute Crawley có vô
khối người quen ở quận bên kia sẵn sàng cung cấp cho bà tất cả mọi tin tức về
những chuyện xảy ra tại nhà bà Crawley ở Brighton, còn nhiều hơn sự thực nữa là
khác. Càng ngày Pitt càng năng đến Brighton. Có đến hàng mấy tháng liền, anh ta
không về trại, mặc ông bố tồi tệ tha hồ say sưa bí tỷ, vui thú cùng cái gia
đình Horrocks bỉ ổi. Sự thành công của Pitt khiến cho gia đình ông cha xứ phát
điên; còn bà Bute Crawley thì nghĩ ngấm nghĩ ngầm mà tiếc đứt ruột; thành ra
chỉ vì bà có cái lỗi lớn là đã sỉ nhục bà Briggs, quá nghiệt ngã, miệt thị
Bowls và bà Firkin, nên bây giờ không có một người ở ngay trong nhà bà em chồng
để đưa tin? Bà cứ nhất định đay nghiến chồng: “Chỉ tại cái xương đùi của ông
cả. Nó không gãy thì tôi đâu phải bỏ về. Tôi thật khổ vì nhiệm vụ, khổ vì cái
thói mê săn bắn giời đánh ấy, ông Bute ạ”.
Ông cha xứ cãi:
- Tại tôi đi săn à? Chỉ nói vớ vẩn! Tại bà làm
cho họ phát hoảng lên thì có. Bà khôn ngoan lắm, nhưng tính nết bà cũng đáo để
quá đáng cơ, chỉ biết ôm khư khư lấy tiền thôi, bà Bacbara ạ. Bà khôn ngoan
lắm, nhưng cũng tại bà cứ muốn xỏ dây vào lỗ mũi người khác đấy.
Đoạn nhà tu hành tự an ủi bằng một cốc rượu to
tướng.
Ông ta tiếp:
- Không biết bà ấy báu gì cái thằng Pitt
Crawley ngốc nghếch kia nhỉ? Thằng cha nhát như cáy, không dám đuổi cả một con
ngỗng. Cái thằng Rawdon ấy nó mới thực là người đàn ông; tôi còn nhớ ngày trước
có cầm roi đuổi thằng Pitt chạy quanh chuồng ngựa mà quật túi bụi, thằng Pitt khóc
hu hu chạy về gọi mẹ. Ha! ha! Thật đấy chứ, con mình, đứa nào cũng đủ sức quật
cho nó ngã như nhái. Thằng Jim kể chuyện rằng ở Oxford, chúng nó gọi thằng Pitt
là cô Pitt Crawley ...
Ngừng lại một lúc, ông ta lại bảo:
- Bacbara, tôi bảo này...
- Cái gì?
Bà vợ đang vừa cắn móng tay, vừa gõ nhịp lên
mặt bàn.
- Hay là ta cho thằng Jim đến Brighton với bà
lão xem có làm ăn được gì không. Nó sắp thi đỗ rồi; bà cũng biết đấy nó chỉ mới
được học đại học, được ở Oxford có nhiều cái lợi lắm. Nó vẫn cầm lái trong
những cuộc đua thuyền đấy; mặt mũi nom sáng sủa. Chết cha thật? Bà nó này, cứ
gửi nó về với bà lão, hả? Dặn nó nếu thằng Pitt lếu láo thì cứ nện cho một
trận, Ha! ha? ha?
Bà vợ thở phào đáp:
- Jim đến thăm bà ấy kể cũng được; giá ta đưa
được một đứa con gái vào thì tốt hơn; nhưng bà ấy không chịu đâu, chúng nó chả
đứa nào nom ra hồn người!
Hai cô thiếu nữ bất hạnh được ăn học cẩn thận
này đang ở trong phòng khách ngay sát cạnh. Các cô đang nện những ngón tay cứng
nhắc xuống những phím đàn dương cầm rầm rầm; suốt ngày họ phải chơi âm nhạc,
đeo biển gỗ sau lưng, nếu không phải học địa lý, học lịch sử... Nhưng trong Hội
chợ phù hoa, những khả năng ấy nào có giúp ích gì được cho cái cô thiếu nữ khổ
người ngắn cũn cỡn, mặt xấu, da thô? bà Bute chỉ hy vọng cậu thầy lễ sẽ cưới
một cô làm vợ. Giữa lúc ấy Jim từ chuồng ngựa bước vào, trên chiếc mũ bằng da
dầu có gài một cái tẩu ngắn; hai bố con trao đổi với nhau về giải ngựa thi ở
St. Leger, câu chuyện của hai vợ chồng ngừng lại ở đấy.
Bà Bute không hy vọng gì lắm về việc phái anh
con trai là James làm sứ giả, cho nên lúc tiễn con đi mặt bà nom cứ ỉu xìu xìu.
Bản thân anh chàng cũng chẳng phấn khởi lắm. Anh ta chỉ hy vọng may ra bà cô sẽ
thí cho một món tiền nào đó đủ để trả ngay mấy món cần tiêu cấp bách đầu niên
học sắp tới ở Oxford; thế là anh ta lên xe ngựa ở trạm Southampton, tối hôm ấy
đến Brighton, mang theo cả va-ly, con chó săn Towzer yêu quý cùng một cái giỏ
lớn đầy những sản vật trong trại, tức là tặng vật của những người nhà thờ gửi
biếu bà Crawley. Thấy mình đến quá muộn không tiện làm phiền bà cô ốm ngay đêm
ấy, anh chàng vào quán trọ nghỉ, mãi trưa hôm sau mới đến thăm bà Crawley.
Lần trước gặp James Crawley, bà cô thấy thằng
cháu còn là một anh con trai mới lớn vụng về, đang tuổi dậy thì, giọng nói biến
chuyển từ chỗ the thé đến cái giọng ồ ồ ...mặt thì đầy những nốt trứng cá. Ấy
là thời con trai hay lấy trộm kéo may của chị để cạo râu và hễ nom thấy con gái
là sợ rúm cả người lại, và cũng là thời kỳ bàn tay và cổ chân to kệch nom như
thò dài ra ngoài quần áo lúc này đã trở nên quá chật. Sau bữa cơm, các bà không
thích sự có mặt của hạng con trai mới lớn này; họ ưa ngồi trong phòng khách thì
thầm với nhau những chuyện bí mật gì gì ấy; còn bọn đàn ông quanh bàn ăn thì
hết sức khó chịu vì họ không tiện nói với nhau những chuyện lý thú trước mặt
những anh chàng ngây thơ chưa nếm mùi đời. Thường, uống xong cốc rượu tráng
miệng thứ hai là ông bố bảo ngay. “Jack, ra xem ngoài trời có tối lắm không ?
Thế là cu cậu rời khỏi bàn tiệc, vừa sung sướng vì được tự do, lại vừa bực mình
vì không được coi là người lớn. Bây giờ anh chàng James gà tồ đã là một thanh
niên thực sự, được thụ hưởng một nền giáo dục đại học, có cái phong thái lịch
sự đặc biệt của một sinh viên sống phóng túng trong một trường đại học nhỏ; anh
ta mắc nợ đầm đìa, thi trượt, và bị đuổi.
Tuy nhiên, trông James cũng đẹp trai; lúc đến
trình diện với bà cô, được bà có cảm tình ngay. Tính hay đỏ mặt và những điệu
bộ lúng túng của anh ta cũng không có hại gì, vì bà Crawley cho rằng có như thế
mới gọi là cậu con trai còn thơ ngây, đứng đắn.
Anh ta thưa rằng mình định ở chơi vài ngày thăm
một người bạn học cùng trường và...và để thăm sức khỏe của bà cô, lại chuyển
lời bố mẹ chúc cô luôn mạnh khỏe.
Lúc người nhà báo tin James đến chơi. Pitt đang
có mặt trong phòng; nghe nhắc đến tên James mặt anh ta tái lại.
Bà cô thấy anh cháu bối rối lấy làm thú vị lắm.
Bà hỏi thăm tất cả mọi người ở nhà thờ, và nói mình cũng dự định bữa nào tiện
sẽ về chơi một buổi. Bà ta còn khen anh cháu giỏi trai, dạo này lớn trông thấy
mà trông có mẽ người lắm, tiếc rằng hai cô chị mặt mũi chẳng được sáng sủa như
vậy. Khi hỏi ra biết cháu trọ ở khách sạn, bà cô nhất định không nghe, bắt bác
Bowls cho người đi mang hành lý của cháu về ngay lập tức. Bà còn dặn thêm:
“Bowls, nhớ trả hộ cả tiền trọ cho cậu James nhé”.
Bà liếc nhìn Pitt tinh quái, làm cho nhà ngoại
giao suýt chết ngất đi vì ghen tức. Anh ta khéo bợ đỡ lấy lòng bà cô đã nhiều
nhưng chưa lần nào được bà giữ ngủ lại chơi trong nhà, thế mà cái thằng ranh
con mới đến đã được tiếp đón nồng nhiệt gớm.
Bác Bowls tiến lên cúi rạp người xuống hỏi:
- Xin cậu tha lỗi, không rõ thằng Thomas phải
đến khách sạn nào để lấy hành lý ạ?
- Ấy chết, để tôi đi.
James giật nảy mình, đáp. Bà Crawley bảo:
- Ô hay?
James đỏ mặt mũi, đành nói:
- Ở quán trọ “Con bò”.
Bà Crawley nghe nói phá ra cười. Bác Bowls cũng
cười một tiếng thật to, vì bác là một người đầy tớ thân tín trong gia đình,
nhưng rồi bác im bặt ngay; nhà ngoại giao chỉ mỉm cười.
James cúi mặt nói:
- Cháu... cháu không biết có khách sạn nào tốt
hơn. Cháu chưa đến đây bao giờ. Thằng xà ích mách cháu đến chỗ ấy.
Cái thằng nói dối như ranh. Sự thực thì hôm
trước, James gặp Tutbury Pet, là bạn cũ cùng đi trên chuyến xe ngựa
Southampton; cũng đi Brighton để tỉ thí với Rottingdean Fibber. Nghe Pet tán
chuyện vui tai, anh chàng theo bạn đến quán trọ này cùng nghỉ.
James lại tiếp:
- Thôi... để ... để ... cháu đến trả tiền trọ
cũng được. Ai lại để cô phải trả tiền như thế.
Thấy cháu tế nhị, bà cô lại cười. Bà vẫy vẫy
tay, ra lệnh cho đầy tớ: “Bowls, đi trả tiền trọ cho cậu, rồi đem hóa đơn về
đây”. Thật khốn khổ, bà lão không biết mình vừa làm một việc tai hại. James
cuống cả người lên, vội nói:
- Có…có con chó con đấy. Để tôi đi thì hơn. Nó
hay cắn vào bắp chân bọn đầy tớ lắm.
Cả nhà phá ra cười vì câu nói ngộ nghĩnh, cả bà
Briggs và công nương Jane từ nãy đến giờ vẫn ngồi yên lặng cũng vậy. Bác Bowls
không nói gì, bước ra.
Bà Crawley muốn trừng phạt anh cháu lớn, cứ
tiếp tục tiếp đãi thật ngọt ngào cậu sinh viên Oxford. Bà ta mà đã bắt đầu khen
ai, hay nói ngọt với ai, thì không có giới hạn nào cả. Bà bảo Pitt đến tối lại
ăn cơm, và bắt James phải cùng bà giong xe ngựa đi chơi; bà cho anh ta ngồi ở
ghế sau, dẫn ngược dẫn xuôi dọc bờ biển...Trong buổi đi chơi hôm ấy, bà nói toàn
chuyện vui; bà đọc thơ Ý, thơ Pháp làm cho cậu thanh niên cứ há hốc mồm ra mà
nghe; bà nhất định cho cháu mình là một học giả cừ, thế nào cũng phải chiếm
được huy chương vàng, và được xếp hạng “Senior Wrangler”().
- Ha? ha? Cửa hiệu bên kia mới có “Senior
Wrangler” chứ.
- Cửa hiệu bên kia là cái gì?
- Trường Cambridges mới có lệ xếp hạng “Senior
Wrangler”; bên Oxford không có.
Nhà học giả ra vẻ hiểu biết giải thích như vậy.
Anh ta định tỉ mỉ giải thích thêm, thì vừa lúc ấy gặp một chiếc xe ngựa nhà nông
do một con ngựa rất khỏe kẻo. Tutbury Pet, cùng Rottingdean Fibber và ba người
nữa ngồi trong xe, mặc áo trắng mỏng có đính khuy ngọc trai; họ chào hỏi James
cứ ồn ào lên. Cuộc gặp gỡ làm cu cậu mất hết hào hứng, suốt buổi, cho đến lúc
về không hé răng nói câu gì nữa.
Về nhà, anh ta thấy phòng của mình đã sửa soạn
xong, hành lý đã mang về; lúc được bác Bowls dẫn về phòng, anh ta nhận thấy mặt
bác có vẻ nghiêm trang, như ngạc nhiên mà lại có ý thương hại. Nhưng anh ta
không kịp hiểu. Anh ta còn đang bận than thở sao mình lại rơi ngay vào một cái
nhà toàn những bà lão cứ liên liến cái mồm mà nói tiếng Ý với tiếng Pháp, và
nói chuyện thơ với anh ta. Anh chàng nhút nhát phát bẳn lên: “Đem mà treo cổ cả
lũ lên cho rảnh?” Khi nghe đàn bà nói chuyện với mình, anh ta không dám nhìn
mặt... ngay với bà Briggs cũng thế. Nhưng nếu ra bờ bể thì anh ta có thể nói
tiếng lóng, văng tục không thua bất cứ người dân chài nào.
Đến giờ ăn James phải thắt một chiếc cà-vạt
trắng tưởng đến nghẹt thở. Anh ta có vinh dự được khoác tay công nương Jane
xuống thang gác; bà Briggs và Pitt Crawley đi sau kèm bà lão với đủ mọi thứ phụ
tùng, nào chăn, nào khăn san, nào gối. Bà Briggs phải dành đến nửa số thì giờ
suốt bữa cơm để săn sóc bà lão ốm, và để cắt thịt gà cho con chó béo múp của bà
chủ ăn. James nói ít, anh ta chỉ chú ý mời rượu mấy người đàn bà. Nhận lời uống
thi với Pitt Crawley, anh ta nốc già nửa chai sâm-banh mà bác Bowls được lệnh
mang ra để khoản đãi cu cậu. Ăn xong, mấy người đàn bà rời phòng ăn còn lại hai
anh em họ ngồi với nhau. Nhà cựu ngoại giao bỗng nhiên trở thành đặc biệt thân
mật, rôm chuyện. Anh ta hỏi về chuyện học hành của James... về chuyện tương
lai... tỏ ý rất mong ông em họ thành công; tóm lại Pitt tỏ ra nhã nhặn và thành
thực. Có hơi men trợ ứng James cũng cởi mở hơn trước; mọi chuyện về đời sống,
tương lai, nợ nần, thi trượt đại học, và những vụ xích mích với ông đốc học thế
nào, cu cậu kể tất với anh họ; vừa chuyện, vừa vui miệng nốc hết chai nọ đến
chai kia đủ các thứ rượu.
Pitt Crawley rót rượu vào cốc của mình, nói:
- Bà Crawley thích nhất là ai đến chơi cũng cứ
tự nhiên như ở nhà. Chú James ạ, đây là Điện Tự-do đấy. Chú thích gì cứ nói,
muốn gì cứ làm, như thế bà Crawley bằng lòng lắm. Tôi biết ở nhà quê ai cũng
chế tôi về thuộc phe Tory, thế mà bà Crawley cũng chịu được; bà phóng khoáng
lắm. Về nguyên tắc, bà thuộc phái cộng hòa, rất ghét những chuyện dòng dõi,
tước vị.
James hỏi:
- Vậy sao anh lại sắp cưới con gái một bá tước
làm vợ?
Pitt nhã nhặn đáp:
- Anh bạn ơi, nên nhớ rằng đâu phải vì trót
sinh ra là người quyền quý mà công nương Jane có tội. Không muốn cũng không
được. Vả lại, tôi thuộc phái Tory cơ mà.
Jim đáp:
- À, về vấn đề ấy thì con nhà dòng dõi vẫn hơn
chứ. Tôi hoàn toàn phản đối cái bọn cấp tiến các anh. Tôi hiểu thế nào là một người
quý tộc lắm. Không tin, cứ xem thi thuyền hay đấu quyền sẽ thấy ngay; mà cứ xem
chó săn chuột cũng rõ... Con nào thắng? Phải là chó nòi. Lão Bowls đâu rồi? Lấy
thêm rượu ra đây; tớ nốc nốt chai này đã. Tôi đang nói gì nhỉ?
Pitt đưa ngay cho em chiếc cốc vại, nhẹ nhàng
đáp:
- Hình như chú đang nói chuyện chó săn chuột
thì phải?
- Chó săn chuột hả ? Được lắm anh Pitt, anh có
ưa thể thao không? Anh có muốn xem chó thế nào thì mới săn được chuột không?
Nếu anh thích, thì theo tôi đến xem con chó của Tom Corduroy trong dãy chuồng ở
phố Castle, tôi sẽ cho xem một con chó nòi chuyên đào hang... úi dào! Rõ vớ
vẩn!- James phá ra cười vì sự ngớ ngẩn của chính mình - Anh có bao giờ để ý đến
chó với chuột. Toàn chuyện hão cả. Tôi đánh cuộc rằng anh không phân biệt nổi
con gà với một con vịt khác nhau thế nào đấy ().
Pitt vẫn nói ngọt như mía lùi:
- Đúng đấy, tôi xin chịu. Chú đang nói về dòng
dõi, về sinh trưởng trong một gia đình quý tộc có lợi gì. Chai rượu nguyên đây.
James nốc rượu ừng ực đáp:
- Dòng dõi, đúng lắm. Không có gì bằng con nhà
nòi, ngựa, chó hay người cũng thế cả. Thí dụ, cuối kỳ tam cá nguyệt vừa qua,
trước khi tôi thi trượt. .. nghĩa là trước khi tôi bị lên sởi ấy mà, ha! ha!...
tôi cùng thằng Ringwood ở trường Nhà thờ, thằng Bob Ringwood là con trai bá
tước Cinqbars ấy mà, ngồi uống bia trong quán “Cái chuông ở Blenheim” có thằng
lính thủy Banbury thách đấu quyền với một trong hai đứa chúng tôi, ai thắng thì
được uống một cốc bia. Tôi không đấu được. Tay tôi đang đau; hai ngày trước tôi
bị ngã cứ tưởng mất tay. Thế là đành chịu; thằng Bob lập tức cởi phăng áo...
đấu liền bốn hiệp mỗi hiệp ba phút, cho thằng kia “nốc-ao” như chơi. Tại sao
thằng lính thuỷ bị ngã, anh xem? Vì nó không phải là con nhà dòng dõi... không
phải là con nhà nòi.
Viên cựu tùy viên ngoại giao tiếp:
- Chú James, tửu lượng của chú xoàng quá. Hồi
tôi còn học ở Oxford, anh em họ uống rượu có phần khá hơn chú cơ.
- Yên trí, yên trí. - James đưa tay bịt mũi,
nháy đôi mắt lờ đờ vì say rượu- đừng có nói đùa, ông anh ơi. Anh định thử xem
tửu lượng tôi ra sao chứ gì? Không ăn thua gì đâu nhé. In vino veritas() ông
anh ạ. Mars, Bacchus Apollo () virotum hả? Giá bà cô gửi mấy chai rượu này cho
ba tôi thì hay quá. Rượu thế mới gọi là rượu chứ.
Anh chàng Machiavel tiếp tục:
- Chú cứ hỏi xem; bây giờ hãy uống cho thích
cái đã. Có câu thơ thế nào nhỉ: ‘Nunc vino pellite curas, Cras ingens
iterabimus aequor’ (). Và người học trò của thần Bacchus sau khi long trọng dẫn
câu nói trên y như giữa nghị viện, giơ thật cao cốc rượu rồi chỉ nhấp một ngụm
rất nhỏ.
Ở nhà thờ, sau bữa cơm tối, khi mở rượu port
thì mỗi cô con gái cũng được uống một cốc rượu thường. Bà Bute uống một cốc
port. Thường thường James uống hai cốc, nếu cu cậu tỏ ý muốn xơi thêm, lập tức
ông bố cau mặt lại; anh chàng đành nuốt nước bọt, xuống chuồng ngựa uống rượu
thường, hay rượu rum pha nước lã, đánh bạn với bác xà-ích và cái tẩu. Ở Oxford
rượu thì tha hồ uống, nhưng không có rượu ngon. Khi đủ cả số lượng chất lượng
song toàn, thí dụ như ở nhà bà cô, thì James cũng tỏ ra là tay sành sỏi. Không
cần ông anh họ khuyến khích, anh ta cũng nốc cạn chai rượu bác Bowls vừa tiếp
thêm.
Đến giờ uống cà-phê, hai anh em trở lại với mấy
người đàn bà; James thấy rất ngại. Tính hay chuyện của cu cậu tự nhiên biến
mất, anh chàng lại nhút nhát như cũ chỉ biết vâng vâng dạ dạ; anh ta cứ gườm
gườm nhìn công nương Jane, và có lần luýnh quýnh đánh đổ cả tách cà phê.
Tuy nói ít nhưng anh ta luôn luôn ngáp một cách
thảm hại; sự có mặt của anh chàng làm cho buổi tối kém vui: bà Crawley và công
nương Jane đang chơi bài Pic-kê cũng như bà Briggs đang đan, đều cảm thấy khó
chịu vì đôi mắt lờ đờ của anh ta cứ nhìn vào mặt họ.
Bà Crawley bảo Pitt:
- Thằng bé tính ít nói, vụng về, mà lại nhút
nhát nhỉ?
- Không có đàn bà thì chú nó cũng hót được như
khướu đấy Machiavel đáp xẵng; có lẽ anh chàng đang cáu vì chai rượu port không
làm cho James mở miệng nói thêm được mấy tý.
Sáng hôm sau, James dậy sớm, hí hửng viết thư
cho mẹ kể lại bà Crawley thết đãi mình hậu hĩ thế nào. Anh ta có biết đâu ngày
hôm ấy sắp gặp tai họa, mà cái địa vị con cưng của mình cũng sắp sụp đổ đến
nơi. Cu cậu quên khuấy mất một chuyện - câu chuyện rất tầm thường mà hóa ra cực
kỳ tai hại - đã xảy ra tại quán trọ “Con bò” đêm hôm trước, James quen tính hào
phóng đặc biệt, hễ rượu vào là bất cần thiên hạ, thết đãi tất; đêm hôm ấy anh
ta đãi hai nhà vô địch Tutbury, Rottingdean và mấy người bạn ba bốn chầu rượu
liền, tất cả có đến mười tám cốc, cứ tính tám xu một cốc, ghi vào hóa đơn,
James Crawley phải trả. Tiền không đáng bao nhiêu, nhưng cái số mười tám cốc
rượu này đã làm hại James khi bác Bowls theo lệnh chủ đến thanh toán tiền trọ
cho anh chàng. Ông chủ quán sợ mất món tiền rượu, bèn long trọng thề rằng chính
cậu thanh niên đã uống tất cả ngần ấy cốc rượu không sót một giọt. Bowls trả
tiền, rồi mang hóa đơn về đưa cho bà Firkin xem. Thấy cu cậu uống ngần ấy rượu,
bà này phát hoảng, rồi trao tờ hóa đơn cho bà Briggs để ghi vào sổ chi tiêu. Bà
Briggs tự thấy có nhiệm vụ phải trình lại với bà Crawley.
Nếu James có uống hàng tá chai rượu vang, bà cô
già cũng sẵn sàng tha thứ. Xưa kia, ông Fox, ông Sheridan cũng uống rượu vang.
Người quý phái, ai cũng uống rượu vang.
Nhưng đàn đúm với một bọn đánh võ vai u thịt
bắp, uống đến mười tám cốc rượu trắng trong một quán rượu bần tiện thì quả là
một trọng tội không thể tha thứ được. Họa vô đơn chí: cu cậu lại vừa xuống
chuồng ngựa thăm con chó Towzer, lúc lên nhà khắp người sặc sụa mùi phân ngựa;
anh ta định đưa con chó quý đi hóng gió một chút thì gặp ngay bà Crawley cũng
dắt con chó Blenheim của bà đi chơi.
Con Towzer suýt cắn chết con chó quý của bà cô;
con Blenheim quắp đuôi chạy biến ra chỗ bà Briggs. Ấy thế mà ông chủ tàn nhẫn
của con Towzer còn đứng nhìn cái cảnh khốc hại đó mà cười hô hố lên được.
Ngày hôm ấy, hình như chàng thanh nhiên đang
vận rủi ấy quên khuấy cái tính khiêm tốn thường ngày của mình. Suốt bữa ăn tối,
anh ta tỏ ra rất rôm chuyện, và lại hay pha trò. Có một hai lần anh ta bỡn cợt
cả Pitt Crawley; anh ta uống nhiều rượu không kém hôm trước, lại lừ lừ đi sang
phòng khách đem những chuyện lý thú ở trường đại học Oxford ra tán với mấy
người đàn bà.
Anh ta kể những là Molyneux và Dutch Sam và tài
nghệ đấu quyền của họ thế nào, rồi thách công nương Jane đánh cuộc với mình xem
Tutbury Pet đấu với Rottingdean thì ai được; cuối cùng, anh ta thách ông anh họ
Pitt đánh “bốc” với mình, đánh tay không hay có đeo găng tùy ý. Anh ta đập mạnh
vào vai Pitt, cười hô hố lên mà nói: “Chơi thẳng thắn đấy nhé, ông anh ạ. Ở nhà
bà tôi cũng dặn tôi thách anh đấu một trận. Ông cụ cũng dự phần cược đấy, ha,
ha!”.
Nói đoạn, James còn láu lỉnh nháy mắt với bà
Briggs, hất ngón tay qua vai chỉ về phía Pitt Crawley, có vẻ khoái trí và hỗn
ra mặt.
Có lẽ Pitt không hoàn toàn hài hòng, nhưng về
cơ bản cũng không đến nỗi buồn lắm. Anh chàng James tội nghiệp cười thật thỏa;
lúc mấy người đàn bà đi nghỉ, anh ta với ngay lấy cây nến của bà cô, chệnh
choạng bước qua phòng, cúi chào bà Crawley với nụ cười tươi tỉnh nhất của một
bác lưu linh. Đoạn anh ta về phòng riêng, rất hài lòng về mình, chắc mẩm trong
bụng phen này gia tài của bà cô phải chui tọt vào túi, bố cũng đừng hòng, mà cả
họ cũng đừng xơ múi. Con người ta khi đã ngồi một mình trong phòng ngủ thường
yên trí mình chẳng thể làm điều gì bậy bạ thêm. Anh chàng James bất hạnh của
chúng ta cũng nghĩ vậy.
Ngoài trời ánh trăng chiếu lấp lánh trên mặt
biển; James thấy phong cảnh hữu tình, ra tựa cửa sổ nhìn, trong đầu nảy ngay ý
nghĩ nên hút điếu thuốc cho thêm khoan khoái, “Mình mở tung cửa sổ thò đầu ra
ngoài mà hút thuốc, thì ai ngửi thấy mùi khói mà sợ”.
Nghĩ sao làm vậy. Song đang lúc say sưa, anh
chàng quên khuấy rằng suốt thời gian ấy cửa ra vào vẫn mở; gió bể hiu hiu thổi
vào, lùa khói thuốc lá xuống dưới nhà đến tận chỗ bà Crawley và bà Briggs ngồi,
mùi cứ sực lên.
Chiếc tẩu thuốc lá làm cho mọi sự hỏng bét. Gia
đình nhà Bute Crawley đâu ngờ rằng mất toi hàng chục vạn đồng vì nó. Bà Firkin
hộc tốc lao xuống thang gác đi tìm Bowls; bác này đang ngồi lên tiếng ông ổng
đọc cuốn “Lửa và chảo rán” cho anh phụ bếp nghe. Bà Firkin kể lại câu chuyện bí
mật khủng khiếp vừa xảy ra, dáng điệu vô cùng kinh hoảng, làm cho mới đầu hai
thầy trò bác Bowls cứ nghĩ rằng trong nhà có trộm, và bà Firkin hẳn vừa nhìn
thấy đôi chân thằng kẻ trộm ở gậm giường của Bà Crawley thò ra ngoài. Nghe
thủng câu chuyện, bác Bowls nhảy choàng lên cầu thang ba bước một, xông vào
phòng James kêu lên, giọng nghẹn đi vì sợ hãi:
- Cậu James, trời đất ơi? Đừng hút thuốc nữa.
Bác ta giật ngay lấy chiếc tẩu quẳng ra ngoài cửa sổ, nói tiếp, giọng thật
bi đát:
- Cậu James ơi, cậu làm gì thế? Bà nhà không chịu được khói thuốc đâu.
- Thì bà đừng hút, có sao.
James đáp thế, và cười một cách rất ngốc nghếch không đúng chỗ, yên trí câu
chuyện là vô cùng lý thú. Nhưng sáng hôm sau anh ta nghĩ khác hẳn.
Người phụ việc của bác Bowls cọ rửa đôi bốt của James và mang nước nóng vào
để anh ta cạo cái bộ râu mà cu cậu vẫn cố “nuôi” rồi người này đưa cho James
mẩu giấy, chữ bà Briggs viết:
- Thưa cậu, đêm qua bà Crawley không sao ngủ được vì khói thuốc lá sặc sụa
khắp nhà. Bà bảo tôi thưa với cậu rằng bà mệt, rất tiếc không gặp được cậu
trước khi cậu ra về. Đáng tiếc hơn cả là bà đã khuyên cậu rời khỏi quán trọ, vì
trong thời gian ở Brighton bà chắc ở đó cậu sẽ thấy thoải mái hơn.
Vậy là chấm dứt câu chuyện James “săn” cảm tình của bà cô. Trong thực tế,
anh ta đã vô tình thực hiện điều vẫn dọa làm: anh ta đã xỏ găng đánh “bốc” với
ông anh họ, nhưng chính mình bị đo ván.
Thế còn kẻ đã từng được chú ý đầu tiên trong cuộc chạy đua theo đồng tiền
này thì hiện ra ở đâu? Chúng ta đã biết, sau trận Waterloo, Becky và Rawdon lại
đoàn tụ; mùa đông năm 1815, hai vợ chồng sống một đời sống cực kỳ xa hoa vui
thú ở Paris. Rebecca vốn khéo tằn tiện; với món tiền bán cặp ngựa cho Joe
Sedley, hai vợ chồng đủ sống ung dung ít nhất là một năm, thành ra cũng không
có dịp mang phát mại “đôi súng lúc mà anh đã dùng để giết đại úy Marker” mà
cũng chẳng cần phải để lại chiếc hộp bằng vàng đựng đồ trang điểm cùng tấm áo
choàng viền da thú làm gì. Becky đem chữa thành một tấm áo khoác ngắn cho mình,
mặc cưỡi ngựa đi chơi ở rừng Boulogne, ai cũng tấm tắc khen đẹp. Lúc tìm đến
đơn vị gặp chồng sau khi quân đội đã vào thành phố Cambray, Rebecca tháo chỉ
khâu ở áo, dốc ra nào đồng hồ, nào đồ trang sức, rồi giấy bạc, ngân phiếu cùng
nhiều vật quý giá khác giấu tận trong lần mền bông, từ hồi định bỏ Brussels đi
trốn. Tufto lấy làm thú vị lắm. Rawdon thì cứ lăn bò ra mà cười, cho là một trò
khôi hài lý thú nhất đời. Lúc nghe vợ lấy điệu bộ khôi hài để lại chuyện đã xỏ
Joe một vố ra sao, anh ta khoái quá, tưởng phát điên lên được. Anh chồng tin
tưởng vào chị vợ, y như lính Pháp tin tưởng vào Napoléon vậy.
Sống ở Paris, Rebecca rất được chú ý: các phu nhân người Pháp đồng thanh
khen cô ta đẹp. Rebecca nói tiếng Pháp rất thạo, lại khéo bắt chước ngay cái
duyên dáng, cái nhí nhảnh cung cách cử chỉ của họ. Phải cái anh chồng hơi thộn,
đàn bà có một anh chồng thộn lại càng dễ “nổi”; chồng cô ta là người thừa kế
của bà Crawley, con người giầu nứt đố đổ vách và rất trí xảo. Cửa nhà bà ta đã
từng mở rộng tiếp đón giới quý tộc Pháp hồi họ còn lưu vong ở Anh. Cho nên họ
tiếp bà trung tá tại lâu đài riêng. Sau khi Cách mạng Pháp vừa nổ ra, trong
thời buổi khó khăn, có một bà công tước người Pháp đã được bà Crawley bỏ tiền
ra mua không mà cả tất cả đồ trang sức và đăng ten, lại được mời đến nhà, ăn uống
luôn. Bà này viết thư cho bà Crawley nói:
-Thế nào? Sao bà chị không sang Paris thăm hai vợ chồng ông cháu, bà gặp
lại bè bạn cũ một tý? Thiên hạ ai cũng ngất lên () vì cái vẻ đẹp tinh nghịch ()
của bà Rawdon. Thật thế chúng tôi thấy đúng là cái duyên dáng, cái thông minh
của bà Crawley, bạn quý của chúng tôi? Hôm qua ở điện Tuileries, Hoàng thượng
có chú ý đến bà trung tá và chúng tôi ai cũng phải phát ghen lên, vì thấy Đức
ông săn sóc đến bà ấy ghê quá. Lúc nữ công tước Angouleme, thuộc dòng dõi hoàng
tộc, biết bà ấy chính là cháu dâu yêu quý của bà chị, muốn được giới thiệu để
thay mặt nước Pháp cảm tạ tấm thịnh tình của bà chị đối với những kẻ bất hạnh
trong thời kỳ lưu vong, thì có một bà Bareacres ngớ ngẩn nào đó tỏ ý bực mình
ra mặt, rõ lạ quá? (bà này có cái mũi diều hâu, và chiếc mũ cao có túp lông
chim cứ vươn ngất ngưởng trên đầu mọi người). Bà trung tá có mặt tại mọi cuộc
hội họp, mọi buổi dạ hội...Bà ấy chỉ dự hội thôi, chứ không nhảy mấy khi. Con
người xinh đẹp thế, đàn ông cứ quấn lấy mà ca tụng, cứ trông cũng đủ có cảm
tình; mà đã sắp có con rồi cơ đấy. Nghe bà trung tá nói về bà chị, coi là người
đỡ đầu, là người mẹ của mình, kẻ sắt đá đến đâu cũng phải cảm động rơi nước
mắt. Bà trung tá quý bà chị như vàng. Chúng tôi quý mến bà chị vô cùng.”
Hình như lá thư của bà quý tộc người Pari không khiến được bà cô đáng kính,
đáng mến, yêu quý Rebecca thêm chút nào thì phải. Trái lại, đọc hết lá thư bà
lão già bèn nổi cơn tam bành lên, vì thấy Rebecca có địa vị, lại cả gan dám lợi
dụng tên tuổi của mình để len lỏi vào giới thượng lưu quý tộc ở Paris. Bà
Crawley giận run người, không đủ bình tĩnh để tự tay viết một bức thư bằng
tiếng Pháp trả lời: bà đành đọc cho bà Briggs viết một lá thư đầy giận dữ bằng
tiếng mẹ đẻ, trong đó bà không nhận có họ hàng gì với “bà Rawdon Crawley”, đồng
thời khuyên mọi người nên cẩn thận đề phòng con người xảo quyệt nguy hiểm nhất
đời ấy. Song, vì công tước phu nhân X... chỉ lưu trú ở Anh có hai mươi năm, cho
nên một tiếng Anh bẻ đôi không biết: lần họp mặt sau, phu nhân đành chỉ nhận
được của bà Rawdon Crawley biết rằng mình vừa nhận được của bà bạn quý một bức
thư đầy những lời lẽ ân cần đối với cháu dâu. Rebecca bắt đầu thực sự hy vọng
là bà lão đã hồi tâm.
Trong khi ấy Rebecca vẫn là người phụ nữ Anh được ca tụng nhất, được chiều
chuộng nhất. Những buổi tối tiếp khách ở nhà cô ta thật một cuộc tiểu hội nghị
của toàn châu Âu. Người Phổ, người Cossack, người Tây-ban-nha, người Anh... mùa
đông năm ấy ở Pari có đủ các dân tộc. Trong phòng khách của Rebecca đầy những
vị ngực đeo huy chương san sát chỉ nhìn mà cả giới quý tộc Anh cũng đủ ghen
tức. Vô khối nhà quân sự đại danh cưỡi ngựa kèm cô ta đi chơi ở rừng Boulogne,
hoặc chen chúc nhau ngồi đầy lô, ghế riêng của cô ta ở Opera. Chưa bao giờ
Rawdon phấn khởi như vậy. Ở Paris không có ai là chủ nợ; ngày nào ở nhà
Beauvilliers’cũng có đánh bạc; anh ta chơi thả cửa, mà lại gặp lúc vận may nên
phất to. Riêng Tufto thì hơi cáu, vì bà Tufto không ai mời cũng mò sang Paris.
Nào đã đủ đâu, bây giờ lúc nào cũng có đến nửa tá tướng lính quây quanh ghế
của Becky; lúc đi xem hát cô ta có thể tùy thích chọn một trong số hàng tá bó
hoa đưa tặng, Bareacres phu nhân và các mệnh phụ người Anh là những người đần
độn nhưng đứng đắn, thấy cái con bé Becky hãnh tiến thành công quá, họ cứ lồng
lộn lên vì ghen tức. Rebecca trả miếng bằng những câu châm chọc sâu cay đầy nọc
độc.
Rebecca còn có tất cả đàn ông đứng về phe mình. Cô ta ngang nhiên ra mặt
đối phó với mấy mụ quý tộc này. Bọn họ đành chỉ dám dùng tiếng mẹ đẻ để nói xấu
Rebecca cho sướng miệng.
Bà Rawdon Crawley chỉ những hội hè, giải trí mà hết cả mùa đông năm
1815-1816. Rebecca thích ứng với đời sống thượng lưu rất tài, như thể đã hàng
thế kỷ nay, tổ tiên cô ta đều thuộc dòng dõi quý tộc ... Kể ra thông minh như
thế, lại có tài và sẵn nghị lực, cô ta cũng đáng được có một địa vị trong Hội
chợ phù hoa.
Đầu mùa xuân năm 1816, trên mặt báo Galignani thấy có đăng tin: “Ngày 26
tháng ba, trung tá Crawley phu nhân, thuộc đội Ngự lâm quân, sinh hạ một con
trai”.
Các báo ở Luân-đôn đều đăng lại tin trên. Ở Brighton lúc ăn sáng, bà Briggs
mang đọc tin ấy cho bà Crawley nghe.
Tuy ai cũng đã biết việc sẽ xảy ra, nhưng tin này cũng gây nên một sự xáo
trộn trong gia đình Crawley. Bà lão giận quá lập tức cho gọi Pitt, anh cháu
trai, lại mời cả Southdown phu nhân ở công viên Brunswick về, yêu cầu tổ chức
ngay hôn lễ đã dự định từ lâu. Bà tuyên bố sẽ trợ cấp cho đôi vợ chồng mới cưới
mỗi năm một nghìn đồng cho đến khi bà chết; sau đó, phần lớn gia tài của bà sẽ
trao cho anh cháu trai, và cô cháu dâu yêu quý hóa là Jane Crawley. Luật sư
Waxy được triệu đến để chứng thực... bá tước Southdown dẫn em gái đến trước bàn
thờ Chúa làm lễ... một vị giám mục đứng ra làm phép cưới, chứ không phải là đức
cha Bartholomew Irons; ông cố đạo “nửa mùa” này lấy làm thất vọng lắm.
Cưới xong, Pitt định tổ chức một cuộc du lịch
trăng mật với cô vợ mới cho xứng với địa vị của mình; nhưng bà cô già cứ quấn
quít lấy người cháu dâu làm cho công nương Jane thú thực không sao rời bà cô
chồng quí mến mà đi được. Hai vợ chồng Pitt đành dọn đến ở chung với bà
Crawley. Southdown phu nhân, nhà gần ngay đây, thực tế cai quản cả gia đình,
gồm có Pitt, công nương Jane, bà Crawley, bà Briggs, bà Firkin và gia nhân;
Pitt anh chàng đáng thương, rất đau khổ vì bị giằng co giữa một bên là bà cô một
bên là mẹ vợ, cả hai cùng đáo để. Bà mẹ vợ không thương xót, bắt anh ta đọc đủ
mọi thứ sách và uống đủ mọi thứ thuốc; bà đuổi ông Creamer thay bằng ông
Rodgers; dần dần bà tước cả cái vỏ quyền hành của bà Crawley. Bà lão này đâm ra
nhút nhát quá, đến nỗi mất cả thói quen nhiếc móc bà Briggs như cũ; đành cứ bám
lấy cô cháu dâu, và mỗi ngày nỗi lo chết lại thêm ám ảnh. Hãy yên nghỉ, hỡi bà
già ngoại đạo vừa tốt bụng vừa ích kỷ, vừa rộng lượng lại vừa phù phiếm kia.
Chúng ta sẽ không còn gặp lại con người ấy nữa. Hy vọng rằng công nương Jane sẽ
kiên tâm chịu đựng nổi bà cô chồng và nắm tay bà ta nhẹ nhàng dắt được ra khỏi
cái Hội chợ phù hoa ồn ào hỗn độn này.
Chương 35
MẸ GÓA CON CÔI
Trong thời gian ấy, những tin tức về chiến dịch
“Bốn cánh tay” và “Waterloo” cũng vang dội về tận nước Anh. Báo “Tin tức” là tờ
báo đầu tiên công bố kết quả của hai trận đánh. Những tin tức vinh quang ấy
khiến cho toàn thể nước Anh rung động lên vì kiêu hãnh cũng như vì sợ hãi. Tiếp
theo là những chi tiết; sau tin chiến thắng là danh sách thương binh, tử sĩ.
Nói sao cho xiết được nỗi khắc khoải của mọi người khi lần giở những trang báo.
Khắp ba nước (), trong từng làng, từng nhà,
nghe công bố tin tức về những trận chiến đấu ở Bỉ (), ai ai cũng cảm thấy hào
hứng sôi nổi; người ta vừa phấn khởi, vừa biết ơn lại vừa lo âu đau đớn vì tang
tóc khi đọc bản thống kê những sự tổn thất của mình. Ngay bây giờ cũng vậy, giá
có ai lật giở lại chồng báo cũ thời đó, hẳn cũng vẫn còn cảm thấy như phải nín
thở vì lo lắng. Bản danh sách liệt sĩ cứ mỗi ngày lại đăng tiếp thêm, người đọc
phải ngừng lại ở giữa chừng. Như xem nội dung một câu chuyện còn sẽ đăng tiếp
trong các kỳ báo sau. Các bạn thử tưởng tượng xem, khi những trang báo còn tươi
nét mực kia nối tiếp nhau đến tay người đọc thì họ cảm thấy gì?
Nếu một trận đánh chỉ có hai vạn người Anh tham
gia đã khiến cho cả nước ta rúng động đến thế thì các bạn thử nghĩ xem suốt
thời gian hai chục năm về trước nhân dân châu Âu ở trong một tình trạng ra sao
khi quân số tham chiến không phải là hàng ngàn, mà hàng triệu. Mỗi người trong
số đó, khi đánh gục một kẻ thù, đồng thời cũng tàn nhẫn đâm lưỡi dao sâu vào
trái tim một con người vô tội ở hậu tuyến xa xôi.
Những tin đăng trên tờ báo “Tin tức” nổi tiếng
kia gây ra một sự choáng váng khủng khiếp trong gia đình Osborne, nhất là những
người đứng đầu gia đình này. Hai cô con gái tha hồ mà khóc. Ông bố già nua vốn
âu sầu lại càng rầu rĩ hơn trước số mệnh tàn nhẫn.
Ông cố tin rằng đó là sự trừng phạt con ông vì
đã nghiêm khắc đến nỗi ông phải run sợ vì những lời nguyền rủa của chính ông đã
quá vội vàng trở thành sự thực. Đôi lúc ông run lẩy bẩy vì hốt hoảng, dường như
chính ông là thủ phạm gây ra tai họa mà con ông đã phải chịu. Trước kia còn
mong có dịp cha con hoà giải với nhau, thí dụ vợ George rất có thể bị chết hoặc
con trai ông có thể quay về với gia đình và nói “Thưa cha, con đã có lỗi”.
Nhưng bây giờ không còn hy vọng gì nữa rồi. Con trai ông đứng bên kia bờ vực
thẳm không cách nào qua được và nhìn ông với đôi mắt âu sầu. Ông nhớ lại có lần
con ông bị sốt, ai cũng tưởng không sao thoát chết; nó nằm liệt trên giường
bệnh im lặng, đôi mắt cũng mở trừng trừng trông buồn thảm ghê sợ như thế. Trời
ơi! Lạy Chúa, hồi ấy ông bố cứ bám chặt lấy ông bác sĩ, lẽo đẽo theo sau ông ta
với một nỗi khắc khoải não nuột trong lòng. Tới khi cơn sốt đi qua, con trai
ông bình phục lại nhìn ông với đôi mắt quen thuộc hằng ngày, ông mới như cất
được một gánh nặng trong tâm hồn. Nhưng bây giờ còn săn sóc hoặc chữa chạy hoặc
mong gì sự hoà giải được nữa, và nhất là còn đâu những lời lẽ phục tùng để xoa
dịu lòng giận dữ vì quyền lực của ông bố bị tổn thương, khiến cho dòng máu bực
bội sôi sục kia lại chảy tự nhiên như xưa. Cũng khó mà đoán biết được rằng trái
tim của ông bố kiêu hãnh bị vò xé bởi điều gì nhiều nhất; bởi vì ông không còn
có dịp tha thứ cho con trai ông, hay vì lời tha tội mà lòng kiêu hãnh của ông
vẫn mong đợi có ngày nói ra sẽ không bao giờ còn được dùng đến nữa.
Dẫu sao đi nữa, ông già nghiêm khắc ấy cũng
không chịu thổ lộ tâm tình với ai. Ông không bao giờ nhắc đến tên George khi
nói chuyện với hai con gái. Nhưng ông ra lệnh cho mọi người trong gia đình để
tang và bắt cả bọn gia nhân phải mặc đồ đen mọi cuộc tiếp tân và mọi trò giải
trí đều đình chỉ. Ngày cưới con gái đã ấn định nay tạm hoãn; tuy ông không báo
gì cho anh con rể tương lai, nhưng cứ nhìn dáng điệu bề ngoài của ông Osborne,
anh chàng Bullock cũng chẳng dám hé răng nhắc đến chuyện cưới xin vội. Thỉnh
thoảng anh ta và hai cô con gái Osborne lại thì thầm với nhau trong phòng
khách, nơi ông bố không bao giờ còn bước chân đến; ông ta ở lỳ trong căn phòng
làm việc của mình. Toàn bộ mặt trước của toà nhà cửa đóng kín mít trong suốt
thời gian để tang.
Khoảng ba tuần lễ say ngày mười tám tháng sáu
(), ông bố William Dobbin đến thăm ông Osborne. Tại khu phố Russell mặt ông tái
mét, phờ phạc; ông khăng khăng đòi gặp mặt, ông Osborne. Người nhà dẫn ông vào
phòng ông chủ; sau vài câu trao đổi mà cả người nói lẫn người nghe không ai
hiểu gì, ông uỷ viên hội đồng thành phố lấy trong ví ra một lá thư, có đóng một
con dấu đỏ lớn, ngập ngừng nói: “Con trai tôi là thiếu tá Dobbin có nhờ một sĩ
quan trong trung đoàn thứ... mới về tỉnh hôm nay chuyển cho tôi một lá thư,
trong có kèm một phong bì gửi cho ngài.”
Đoạn ông uỷ viên hội đồng thành phố đặt phong
bì xuống mặt bàn; ông Osborne nhìn trừng trừng vào mặt khách một lúc lâu, tia
mắt làm cho ông lão đưa tin phải hoảng. Ông ta lấm lét nhìn người bố đau khổ
một lát rồi vội vàng lủi ra. không nói thêm lời nào.
Cũng vẫn nét chữ khoẻ mạnh, cứng cáp quen thuộc
của George. Thư viết vào hồi rạng sáng ngày 16 tháng sáu, ngay trước khi anh ta
từ biệt Amelia để ra trận. Con dấu lớn màu đỏ mang hình huy hiệu của gia tộc,
có câu cách ngôn Pax in bello. Đó tức là huy hiệu của dòng họ. Bàn tay đã ký
dưới lá thư này thôi không bao giờ cầm được bút hay nắm được cán gươm nữa. Sớm
hôm sau, khi George đã gục trên chiến trường, bạn anh đã lần túi áo lấy lại con
dấu ông Osborne không hề biết việc ấy; ông ngồi lặng lẽ, giương cặp mắt đờ đẫn
nhìn phong thư. Lúc sắp sửa bóc thư, ông suýt ngất đi.
Bạn đọc đã bao giờ có chuyện xích mích với một
người bạn thân chưa? Những lá thư hồi hai người còn thân thiết với nhau bây giờ
đọc lại sao khiến bạn bực mình đến thế! Còn có gì đáng chán cho bằng phải đọc
lại những lời lẽ bộc lộ một nỗi cảm tình đã chết lụi đi rồi. Đó là những tấm mộ
chí giả dối dựng trên thi thể của Tình yêu! Đó cũng là những lời phẩm bình tàn
ác và đáng buồn đối với Hội chợ phù hoa vậy. Hầu hết chúng ta đều có dịp hoặc
viết, hoặc nhận được đầy ngăn kéo toàn những lá thư như thế. Ấy là những căn
hầm đựng xương khô mà chúng ta vừa trân trọng lại vừa xa lánh. Ông già Osborne
còn bồi hồi run rẩy mãi mới dám mở bức thư của đứa con trai đã chết ra đọc.
Nội dung lá thư rất sơ sài, con trai tội nghiệp
của ông cũng quá kiêu ngạo không chịu bộc lộ những tình cảm đằm thắm ủ kín
trong thâm tâm. Anh ta chỉ nói rằng, đêm trước khi dự một trận đánh lớn, anh ta
muốn gửi lời từ biệt đến cha, và trịnh trọng ngỏ ý mong ông chăm sóc đến người
vợ và rất có thể cả đứa con nhỏ mình để lại. Anh ta buồn rầu thú nhận rằng đã
tiêu xài gần hết cả gia tài nhỏ mọn của mẹ để lại, và cám ơn cha trước kia đã
đối xử rộng lượng với mình; cuối cùng, anh ta hứa với cha rằng dù phải gục ngã
trên chiến trường, hay được thoát chết, bao giờ anh ta cũng hành động cho xứng đáng
với cái tên George Osborne.
Do thói quen của người Anh, do tính kiêu hãnh
hoặc cũng có thể là do vụng về, George không viết thêm gì nữa. Ông bố không thể
nhìn thấy cái hôn người con trai đã áp vào địa chỉ đề trên lá thư. Ông già
Osborne buông rơi lá thư xuống đất, tâm hồn bị giằng xé giữa những nối tiếc hận
vì sự giận giữ. Ông cảm thấy mình vẫn yêu thương con trai, nhưng chưa thể tha
thứ cho nó được.
Tuy nhiên, khoảng hai tháng sau, khi hai cô con
gái cùng đi lễ nhà thờ với bố, họ nhận thấy ông già không ngồi vào chỗ mọi khi;
ông hướng mắt qua đầu hai con gái nhìn chăm chăm vào bức tường trước mặt. Thấy
thế hai cô thiếu nữ cùng đưa mắt nhìn theo: họ thấy trên mặt tường có một bức
phù điêu đắp hình Britannia () ngồi khóc trên một chiếc bình đựng tro hài cốt,
bên cạnh có một lưỡi gươm gãy và một con sư tử nằm phủ phục; họ hiểu rằng bức
tượng được dựng lên để kỷ niệm một chiến sĩ nào đó đã tử trận. Các nhà điêu
khắc đương thời có sẵn trong đầu hàng mớ những mẫu biểu tượng buồn thảm tương
tự; bây giờ các bạn có thể gặp trên tường nhà thờ St. Paul la liệt hàng trăm
những bức tượng ngụ ngôn huênh hoang ngoại đạo như vậy. Trong khoảng mười lăm
năm đầu thế kỷ hiện tại, tranh và tượng loại này rất được ưa thích.
Mé dưới bức tượng có vẽ hình huy hiệu của gia
đình Osborne, kèm theo một dòng chữ ghi rõ bức phù điêu được dựng lên để kỷ
niệm đại uý George Osborne thuộc trung đoàn bộ binh thứ... của hoàng gia tử
trận ngày 18 tháng sáu năm 1815, thọ 28 tuổi, khi chiến đấu cho Hoàng đế và Tổ
quốc trong trận chiến thắng Waterloo vinh quang. Dulce et decorum est pro
patria mori ().
Nhìn bức tượng hai chị em bị xúc động dữ dội
đến nỗi cô Maria phải rời nhà thờ ra về ngay. Mọi người kính cẩn dẹp ra nhường
lối cho hai cô thiếu nữ mặc áo tang đen vừa đi vừa nức nở khóc và cảm thương
ông bố già nua khắc khổ ngồi đối diện bức tượng kỷ niệm người liệt sĩ. Cơn xúc
động ban đầu đã qua, hai chị em hỏi nhau: “Liệu ba có tha thứ cho vợ anh George
không nhỉ?”.
Những người quen thuộc gia đình Osborne bàn tán
nhiều về sự xích mích giữa hai cha con do việc anh con cưới vợ gây nên bây giờ
cũng tỏ ý hy vọng ông bố chồng sẽ tha thứ cho người con dâu đã trở thành goá
bụa. Ở khu City cũng như ở khu phố Russell, nhiều người đã bỏ tiền ra đánh cuộc
với nhau về việc này.
Ví thử hai cô con gái có lo ngại gì về việc
Amelia có thể được công nhận là dâu con trong gia đình hay không thì bây giờ họ
càng lo lắng hơn, vì đến cuối mùa thu, ông Osborne báo cho họ biết rằng ông sẽ
đi ra nước ngoài ít lâu. Ông không nói rõ là đi đâu, nhưng họ thừa biết là thế nào
ông cũng sang Bỉ; họ lại biết rõ rằng người vợ goá của George vẫn còn ở
Brussels. Dobbin phu nhân và mấy cô con gái vẫn cung cấp cho họ những tin tức
khá chích xác về Amelia.
Anh chàng đại uý thực thà của chúng ta đã được
thăng cấp nhân dịp viên thiếu tá chỉ huy phó trung đoàn bị tử trận. Còn ông
O’Dowd, con người dũng cảm đã chiến đấu anh dũng trong trận này cũng như đã
chứng tỏ đức tính bình tĩnh và can đảm của mình tại bất cứ nơi nào, thì được
thăng chức trung tá, lại được ban tước Tuỳ giá Hiệp sĩ.
*
Khá nhiều chiến sĩ trong trung đoàn thứ... bị
thương nặng qua hai trận đánh vẫn còn lưu lại Brussels suốt mùa thu để an
dưỡng, hàng bao nhiêu tháng sau trận đánh vĩ đại kia, thành phố Brussels vẫn
còn là một quân y viện khổng lồ; binh lính cũng như sĩ quan đã bắt đầu chữa
lành thương tật, cho nên các công viên và những nơi công cộng trong thành phố
chật ních toàn những quân nhân què chân, cụt tay, già có, trẻ có. Cũng như tất
cả mọi người trong Hội chợ phù hoa, vừa thoát khỏi bàn tay của tử thần, họ đã lăn
xả vào mà đánh bạc mà vui đùa, mà yêu thương. Trong số này, ông Osborne tìm
thấy rất dễ dàng vài người trong trung đoàn... ông vẫn nhớ rõ quân phục của họ,
lại vẫn thường theo dõi những sự thăng thưởng và thuyên chuyển trong trung
đoàn; ông thường ưa nói chuyện về trung đoàn và về các sĩ quan, y như mình cũng
là một thành viên của quân đội. Sau hôm tới Brussels một ngày, ông vừa bước ra
khỏi khách sạn đối diện với công viên, thì nhìn thấy ngay một người lính bận bộ
quân phục quen thuộc ngồi nghỉ trên một tấm ghế đá. Ông bước lại gần, run run
ngồi xuống bên người thương binh.
- Có phải ông thuộc đại đội của đại uý Osborne
không? - Ngừng lại một chút, ông tiếp - nó là con trai tôi đấy ông ạ.
Người này không thuộc đại đội Osborne, nhưng
cũng đưa bàn tay không bị thương lên vành mũ chào ông già đờ đẫn và sầu não với
một điệu bộ vừa buồn bã vừa kính cẩn. Anh ta đáp:
- Cả binh đoàn không có một sĩ quan nào đẹp
trai và can đảm hơn. Một viên trung sĩ thuộc đại đội của đại uý Osborne (bây
giờ thuộc quyền chỉ huy của đại uý Raymond) hiện có mặt trong thành phố, anh ta
đang chữa vết thương ở vai, bị một viên đạn xuyên thủng. Nếu muốn, ngài có thể
tìm gặp; anh ta sẽ kể cho ngài rõ việc trung đoàn thứ...tham chiến như thế nào.
Nhưng chắc ngài đã gặp thiếu tá Dobbin, bạn thân của đại uý dũng cảm ấy rồi
chứ? Cả bà Osborne cũng còn ở đây; nghe nói bà ấy mệt lắm. Họ còn bảo rằng đến
sáu tuần nay bà ấy như người mất trí. Nhưng xin lỗi ngài chuyện ấy chắc ngài đã
biết rõ.
Ông Osborne đặt vào tay người lính một đồng ghi
nê và hứa sẽ đãi thêm một đồng nữa, nếu anh ta dẫn được viên trung sĩ nói trên
tới khách sạn Công Viên. Lời hứa quả có hiệu lực; viên hạ sĩ quan nọ chẳng bao
lâu được đưa đến gặp ông Osborne. Anh lính mách tin ra về kháo ầm lên với một
hai người bạn rằng cụ thân sinh ra đại uý Osborne đã tới; thật là một người hào
phóng, rồi họ đưa nhau đi chè chén thoả thích chừng nào tiêu hết sạch hai đồng
tiền vàng lấy được từ ví kiêu hãnh của ông già đau khổ kia mới thôi.
Đi cùng viên trung sĩ cũng vừa chữa lành vết
thương, ông Osborne thăm lại chiến trường Waterloo và chiến trường Bốn cánh
tay; hồi ấy hàng ngàn đồng bào của ông cũng tổ chức những chuyến đi thăm viếng
như vậy. Ông cùng viên trung sĩ đi xe ngựa thăm lại cả hai khu vực xảy ra chiến
sự dưới sự hướng dẫn của người này. Ông được thấy lại chỗ ngã tư, nơi trung
đoàn bắt đầu tác chiến ngày mười sáu và cả cái sườn đồi thoai thoải, nơi quân
Anh đánh bật đoàn kỵ binh Pháp truy kích đội quân Bỉ đang rút lui. Ông đến cả
chỗ viên đại uý anh hùng đã chém chết tươi tên sĩ quan Pháp đang vật lộn với
người sĩ quan cầm cờ trẻ tuổi để giành lấy lá quân kỳ, vì lúc này mấy viên
trung sĩ bảo vệ cờ đã bị bắn chết cả. Ngày hôm sau đoàn quân rút lui cũng theo
con đường này; và đây là khoảng đất trên đó, đêm hôm mười bảy, trung đoàn trú
quân dưới trời mưa tầm tã. Quá bên kia một chút là vị trí quân Anh đã chiếm
được và giữ vững suốt ngày hôm ấy, lúc thì tập hợp lại để nghênh chiến với bọn
kỵ binh Pháp tấn công, lúc thì nằm bẹp trong hầm trú ẩn để tránh đạn trọng pháo
của địch bắn dữ dội xuống đầu. Và đây là cái dốc, nơi buổi tối hôm ấy, toàn bộ
trận tuyến quân Anh được lệnh phản kích khi quân địch tiến công lần cuối cùng
bị đánh bật trở lại, và chính là chỗ viên đại uý khoa lưỡi kiếm vừa hò reo vừa
lao xuống sườn đồi, rồi trúng đạn gục chết. Viên trung sĩ hạ thấp giọng tiếp:
- Chính thiếu tá Dobbin đã mang thi hài của đại
uý về Brussels và cho người chôn cất như ngài đã rõ.
Trong lúc viên hạ sĩ quan kể chuyện, một đám
đông nông dân và những người bán hàng rong vây quanh hai người, tranh nhau mời
ông già mua đủ mọi thứ kỷ vật của trận đánh, nào là báng súng, lon vai, những
mảnh áo giáp vỡ nát, cả những hình chim diều hâu bằng sắt gẫy.
Thăm viếng xong quang cảnh những nơi ghi lại
dấu vết chiến thắng cuối cùng của con trai, ông già chia tay cùng viên trung sĩ
và đãi anh ta một món tiền thật hậu. Ông cũng đã thăm nơi an nghỉ cuối cùng của
con. Thật ra, ngay sau khi đến Brussels, ông đã lập tức đi viếng mộ George. Thi
hài con ông được chôn cất tại nghĩa trang Laeken, một nghĩa trang rất đẹp gần
thành phố.
Ngày trước, một lần đến thăm chốn này, ông đã
vui miệng ngỏ ý muốn sau này khi mình chết sẽ được chôn cất tại đây. Người bạn
thân đã mang thi thể của viên đại uý về chôn tại một khu đặc biệt trong nghĩa
trang; một hàng rào nhỏ ngăn khu vực này với khu vực các giáo đường, các toà
dinh thự và những vườn cây là nơi những người theo đạo cơ đốc của nhà thờ La Mã
được chôn cất. Hình như ông già Osborne lấy làm tủi nhục vì con trai ông, một
người thượng lưu nước Anh, một đại uý trong quân đội Anh quốc lừng danh tiếng,
lại không xứng đáng được chôn cùng một chỗ với mọi người dân ngoại quốc tầm
thường khác. Chúng ta ai có thể biết được trong cái nhìn đầy thông cảm nhiệt
tình của ta đối với người khác có mấy phần phù phiếm và trong tình cảm của ta có
bao nhiêu phần ích kỷ. Ông già Osborne cũng không để tâm phân tích tâm trạng
phức tạp của mình để thấy sự xung đột giữa tình phụ tử và tính ích kỷ đã diễn
ra như thế nào. Ông tin chắc rằng mọi việc mình làm đều phải, và trong bất cứ
trường hợp nào, mình cũng nên hành động theo ý riêng... Và y như cái nọc của
con ong vò vẽ hay con rắn, sự giận dữ của ông trào lên đầy chất độc sẵn sàng
làm tê liệt kẻ nào dám chống lại. Ông kiêu hãnh cả về lòng căm thù của mình
cũng như về mọi việc mình làm. Bao giờ cũng có lý, bao giờ cũng phải dẫm đạp mà
tiến lên và không khi nào hoài nghi, phải chăng sự ngu độn đã thống trị thế
giới với những đức tính lớn lao ấy?
Sau buổi đi thăm chiến trường Waterloo, xe ngựa
của ông Osborne về đến gần cổng thành phố vào lúc hoàng hôn thì gặp một chiếc
xe ngựa mui trần khác, trên có hai người đàn bà và một người đàn ông ngồi, lại
có một sĩ quan cưỡi ngựa đi kèm bên cạnh. Ông Osborne hốt hoảng quay người lại;
viên trung sĩ ngồi cạnh đặt tay lên vành mũ chào người sĩ quan và quay sang
nhìn người bạn đồng hành tỏ vẻ rất ngạc nhiên. Viên sĩ quan cũng chào lại,
nhưng không chú ý lắm. Thì ra đấy là Amelia ngồi cạnh chàng sĩ quan cầm cờ trẻ
tuổi bị què, đối diện với bà O’Dowd, người bạn trung thành của cô. Đúng là
Amelia, nhưng trông khác hẳn hình ảnh người con gái tươi tắn, xinh đẹp còn lưu
trong ký ức ông Osborne.
Mặt cô gầy và tái nhợt, mớ tóc đẹp màu nâu ẩn
dưới một chiếc mũ tang. Cô thiếu nữ đáng thương quá! Mắt cô mở trừng trừng,
nhưng nào cô có nom thấy gì đâu! Lúc hai chiếc xe gặp nhau, cô nhìn thẳng vào
mặt ông Osborne, nhưng không nhận ra ông; nếu không trông thấy Dobbin cưỡi ngựa
đi bên xe, ông già cũng không nhận ra cô là ai. Ông thù ghét Amelia quá rồi.
Trước khi gặp Amelia, ông không hề ngờ rằng mình ghét cô thiếu nữ đến thế. Xe
Amelia qua rồi, ông quay lại ngó viên trung sĩ, mắt long lên sòng sọc, mồm lẩm
bẩm chửi rủa, như muốn nói: “Sao mày lại dám nhìn tao? Đồ khốn nạn! Tao ghét
cay ghét đắng nó. Chính vì nó mà bao nhiêu hy vọng của tao sụp đổ, bao nhiêu
niềm kiêu hãnh của tao tan vỡ”. Ông thét thằng hầu ngồi phía trước: “Bảo nó
đánh xe nhanh lên”.
Một lát sau, nghe có tiếng vó ngựa phi nhanh
sau xe, chính là ngựa của Dobbin. Lúc hai chiếc xe gặp nhau, Dobbin đang mải
nghĩ đến chuyện khác; đi được một quãng, anh ta mới nhớ ra rằng vừa gặp ông
Osborne. Anh ta bèn quay sang nhìn xem Amelia gặp mặt bố chồng có xúc động
không, nhưng cô thiếu nữ không hay biết điều gì hết. Hằng ngày Dobbin vẫn
thường cưỡi ngựa đi theo xe của Amelia; anh ta vội rút đồng hồ xem rồi xin lỗi
bạn, lấy cớ vừa chợt nhớ ra có hẹn với một người và phi ngựa quay trở lại.
Amelia cũng không biết đến việc Dobbin ra về, cô vẫn ngồi rầu rĩ nhìn phong
cảnh phía trước mặt; xa xa là cánh rừng, nơi George đã lên đường ra trận.
Dobbin phi ngựa lên, chìa bàn tay ra gọi:
- Cụ Osborne! Cụ Osborne!
Ông Osborne không chìa tay ra bắt, trái lại ông
văng tục một câu, quát xà ích giong xe nhanh hơn. Dobbin đặt bàn tay lên thành
xe nói:
- Tôi muốn gặp cụ, tôi có một chuyện muốn thưa
cùng cụ.
Ông Osborne giận giữ đáp:
- Chuyện về mụ đàn bà kia à?
- Không, chuyện về con trai cụ.
Ông Osborne ngồi phịch xuống, tựa vào góc xe.
Dobbin chờ cho phút xúc động qua đi, anh ta cho ngựa theo sát sau xe, không nói
thêm gì, cứ thế qua thành phố về đến khách sạn của ông Osborne. Rồi anh ta theo
ông già lên phòng trọ. Trước kia, nhiều lần George đã đến phòng này, đây là chỗ
ở của vợ chồng Crawley hồi còn ở Brussels.
- Vậy ông có việc gì chỉ thị cho tôi nào, ông
đại uý? - Xin lỗi, tôi phải nói là thiếu tá Dobbin; bởi vì những kẻ tài ba hơn
ông chết đi rồi, tất nhiên các ông thay thế họ.
Ông Osborne nói với cái giọng châm biếm, mà
thỉnh thoảng ông rất ưa dùng. Dobbin đáp:
- Những kẻ ưu tú hơn đã chết thật rồi. Tôi cũng
muốn thưa với cụ về một người trong số đó.
Ông già cau mặt nhìn khách, văng tục rồi nói:
- Xin ông nói gọn cho.
Viên thiếu tá đáp:
- Tôi đến đây với tư cách là bạn thân nhất,
đồng thời là người thực hiện di chúc của người đã mất. Di chúc được thảo ra
trước khi xuất trận. Cụ có rõ anh ấy túng thiếu thế nào và người vợ goá bây giờ
quẫn bách ra sao không?
Ông Osborne đáp:
- Tôi không biết đến người vợ goá nào hết. Mặc
xác con bé ấy cho nó trở về với bố nó.
Nhưng người khách cứ tươi tỉnh như thường,
không để ý đến câu cắt ngang của ông già. Anh ta tiếp:
- Thưa cụ, cụ có rõ hoàn cảnh hiện nay của chị
Osborne ra sao không? Tai hoạ vừa giáng xuống gần như làm rung chuyển cả cuộc
đời của chị ấy và làm chị ấy như mất trí. Tôi thấy chị ấy rất khó lòng mà bình
phục lại được. Tuy vậy cũng còn một chút hy vọng, và tôi đến để thưa cùng cụ về
điều này. Chị ấy cũng sắp đến kỳ sinh nở. Không lẽ cụ lại muốn trút lên đầu đứa
bé sự giận dữ đối với cha nó? Hay là vì thương anh George, cụ sẽ tha thứ cho
đứa con anh ấy?
Ông Osborne vừa thao thao bất tuyệt biện hộ cho
hành động của mình, vừa luôn mồm thề độc; ông tự biện hộ cốt để cho lương tâm
khỏi cắn rứt và ông thề độc để làm tăng thêm tội bất hiếu của George. Thử hỏi
khắp nước Anh, có người bố nào lại rộng lượng được như ông đã đối xử với con
trai ông? Vậy mà hắn dám chống lại ông một cách tai quái đến thế. Hắn đã chết,
nhưng cũng chưa hề muốn hối hận về tội lỗi đã phạm. Hãy để cho hắn chịu những
hậu quả tai hại do chính sự rồ dại và sự bất hiếu của hắn gây ra. Về phần ông,
ông bao giờ cũng giữ lời hứa. Ông đã thề không bao giờ thèm nói chuyện với người
con gái kia, cũng không chịu nhận người ấy là con dâu. Ông thề độc một câu và
tiếp:
- Ông có thể bảo với cô ta thế, tôi đã quyết
định giữ đúng thái độ như vậy từ nay cho tới lúc chết.
Thế là tuyệt mọi hy vọng. Người đàn bà goá đành
phải sống trong cảnh túng thiếu hoặc nhờ Joe trợ cấp cho đồng nào hay đồng ấy;
ta có thể bảo với nàng như thế, nhưng nàng cũng chẳng quan tâm đến chuyện ấy
lắm đâu. Dobbin buồn rầu nghĩ thầm. Quả thật, từ sau khi chồng chết, người
thiếu phụ đáng thương kia không hề bao giờ nghĩ đến chuyện này; mang nặng nỗi
đau thương trên vì đối với Amelia bây giờ hạnh phúc hay tai họa nào có khác gì
nhau. Mà quả vậy tình bạn và lòng thương mến đối với cô cũng chẳng có nghĩa lý
gì nữa, cô lặng thinh tiếp nhận tất cả, rồi lập tức lại vùi mình vào trong cõi
sầu muộn.
*
Sau cuộc nói chuyện vừa kể trên, mười hai tháng
trời đã trôi qua trong cuộc đời của Amelia tội nghiệp. Thời gian đầu, cô đã
sống trong một tâm trạng bi thương sầu não, khiến cho những kẻ chứng kiến và
miêu tả nỗi đau đớn đang làm cho trái tim cô rỉ máu phải lùi lại không dám
nhìn. Bên giường nằm của tấm linh hồn đau khổ và bất hạnh kia, xin các bạn hãy
nhẹ bước. Hãy bắt chước những người chăm sóc cô, nhẹ nhàng khép kín cánh cửa
của căn phòng âm u nơi cô sống với sầu não và đau thương và không rời cô nửa
bước cho tới khi thượng đế ban cho cô một niềm an ủi. Một ngày kia, trong tâm
trạng vừa bàng hoàng vừa sung sướng, người con gái sớm goá chồng đã được một
đứa bé vào ngực... một đứa trẻ có đôi mắt y hệt như đôi mắt của George đã
khuất...một đứa con trai đẹp như một thiên thần. Tiếng đứa trẻ khóc chào đời
đối với cô có tác dụng như một phép mầu. Cô ôm đứa bé, vừa cười lại vừa khóc...
áp đứa con vào trái tim, cô thấy như tình yêu, hy vọng cùng những lời cầu
nguyện sống lại với mình. Bây giờ cô được cứu sống rồi. Những ông thầy thuốc
săn sóc cô trước đó đã tỏ ý quan ngại rằng hoặc tính mạng hoặc là lý trí của cô
bị đe doạ. Họ đã khắc khoải chờ đợi giờ phút hiểm nghèo ấy trước khi có thể
tuyên bố rằng mọi sự đều ổn. Những người đã lo lắng, sợ hãi sống bên cạnh cô
hàng tháng ròng thấy thật bõ công vất vả của mình bấy lâu khi thấy đôi mắt cô
lại lóng lánh nhìn họ đầy trìu mến.
Trong số này có anh bạn Dobbin của chúng ta.
Chính anh ta đã đưa cô về căn nhà của mẹ cô ở nước Anh, khi bà O’Dowd nhận được
lệnh của ông trung tá đành phải từ biệt cô... Cứ nhìn Dobbin ôm đứa bé và
Amelia vừa ngắm nó vừa cười sung sướng, ai cũng phải vui lây. William là cha đỡ
đầu của đứa bé. Anh ta bóp óc để chọn đủ các thứ đồ chơi cho nó, nào là cốc,
thìa, nào là tàu bằng giấy và cả những cành san hô nữa.
Người mẹ tự tay mình chăm sóc đứa con, may quần
áo cho nó, sống vì nó. Amelia không muốn mượn người giữ trẻ, cũng ít khi để cho
bàn tay người khác đụng đến con mình. Riêng thiếu tá Dobbin là cha đỡ đầu của
đứa bé thỉnh thoảng được nâng niu nó một chút. Amelia coi đó là một ân huệ lớn
đối với anh ta. Đứa con là tất cả cuộc đời của cô. Hạnh phúc của cô là được
vuốt ve, được bao bọc đứa bé yếu ớt vô tri kia trong một bầu không khí yêu
thương và phụng thờ; dòng sữa đứa con bú chính là cuộc sống của cô. Đêm đêm nằm
một mình, cô cảm thấy có những phút bản năng làm mẹ thức dậy kín đáo và say sưa
mãnh liệt. Thượng đế tối linh đã ban riêng cho người làm mẹ những phút giây như
vậy; những mềm vui ấy vừa cao thượng quá lại vừa tầm thường quá đối với lý
trí... sự phụng thờ mù quáng và đẹp đẽ ấy, chỉ có tâm hồn người đàn bà mới hiểu
nổi.
William vẫn để tâm những hành động ấy của
Amelia và theo dõi mọi nhịp đập của trái tim cô. Tình yêu đã khiến anh ta sáng
suốt đoán được mọi cảm xúc của trái tim ấy. Chính vì thế mà, hỡi ơi, anh ta
cũng đành phải nhận rằng trong trái tim của Amelia không hề có chỗ nào dành cho
mình. Dobbin như cam chịu số phận hẩm hiu một cách hiền lành và gần như bằng
lòng với điều đó.
Có lẽ bố và mẹ Amelia hiểu rõ tình cảm của viên
thiếu tá họ cũng có ý khuyến khích anh chàng. Ngày nào Dobbin cũng đến thăm,
ngồi nói chuyện hàng giờ với Amelia hoặc với gia đình ông Clapp chủ nhà. Hầu
như ngày nào anh ta cũng kiếm cớ mang lại biếu người này hoặc người khác một món
quà và trở thành bạn thân của con gái ông Clapp. Cô thường gọi anh ta là “Thiếu
tá kẹo bánh”. Amelia rất mến cô bé. Chính cô bé này thường đóng vai trò tiếp
tân, thường dẫn anh ta vào thăm Amelia. Một hôm cô bé cười ầm lên vì thấy
“Thiếu tá kẹo bánh” bước xuống xe, ôm theo đủ thứ, một con ngựa gỗ, một cái
kèn, một cái trống và nhiều thứ đồ chơi kiểu nhà binh khác để tặng chú bé
Georgy; chú mới được gần sáu tháng, đã chơi làm sao được những thứ ấy.
Đứa nhỏ đang ngủ; hình như Amelia hơi bực mình
vì đôi ủng của Dobbin cứ kêu cọt kẹt. Cô nói “suỵt” và chìa bàn tay ra. Thấy
Dobbin lúng túng đặt hết đồ chơi xuống đất rồi mới bắt tay được, cô mỉm cười.
Anh ta bảo cô bé:
- Em Mary ơi, xuống nhà chơi nhé. Anh có chuyện
muốn nói với bà Osborne.
Amelia nhìn lên hơi ngạc nhiên, rồi đặt con
xuống giường.
Dobbin nhẹ nhàng nắm lấy bàn tay trắng muốt
mảnh dẻ của cô nói:
- Tôi đến để từ biệt Amelia.
Cô mỉm cười hỏi:
- Từ biệt ư? Anh phải đi đâu thế?
- Chị cứ gửi thư cho luật sư của tôi, họ sẽ
chuyển đi. Chị sẽ viết thư cho tôi chứ? Tôi đi vắng lâu đấy.
Amelia đáp:
- Tôi sẽ biên thư cho anh về Georgy. Anh
William thân mến ạ, anh đối với mẹ con tôi tốt quá! Anh nhìn nó xem, có phải nó
đẹp như thiên thần không?
Vô tình, bàn tay hồng hào xinh xinh của đứa trẻ
nắm lấy ngón tay của anh chàng sĩ quan trung thực. Amelia ngước nhìn anh tràn
trề niềm vui sướng của người mẹ. Cái nhìn tàn ác nhất đời cũng không thể khiến
anh chàng đau khổ bằng tia mắt đầy trìu mến nhưng vô tình đó. Anh ta cúi xuống
nhìn hai mẹ con, trong một lúc lâu, nghẹn lời không nói được gì. Gắng thu hết
sức lực trong người anh mới nói được một câu: “Cầu Chúa ban phước lành cho
chị”. Amelia cũng đáp lại như thế và ngẩng đầu lên hôn anh.
Thấy William Dobbin đi ra cửa, bước chân nặng
nề. Amelia lại nói “Suỵt! Khéo Georgy thức dậy đấy!”.
Cô không nghe thấy tiếng ngựa chuyển bánh, cô
còn bận ngắm đứa con đang mỉm cười trong giấc ngủ.
Chương 36
LÀM THẾ NÀO SỐNG ĐÀNG HOÀNG KHÔNG MỘT ĐỒNG LỢI
TỨC
Có lẽ Hội chợ phù hoa này làm gì có ai thờ ơ
đến nỗi không thỉnh thoảng nhòm ngó tí chút đến việc làm ăn của người quen kẻ
thuộc, hoặc quá từ bi đến mức không buồn ngạc nhiên tự hỏi mấy bác Jones và
Smith hàng xóm làm sao vẫn cứ vắt mũi đủ đút miệng quanh năm? Mặc dầu rất kính
trọng gia đình Jenkins (vì tôi đã có dịp ăn tiệc trong gia đình này đôi ba
lần), tôi vẫn phải thú thật rằng từ nay cho đến chết tôi không thể quên được sự
kinh ngạc khi thấy bầu đàn nhà Jenkins xuất hiện tại công viên trên một chiếc
xe ngựa đồ sộ, kẻ hầu đầy tớ dập dìu; bởi lẽ dẫu tôi thừa biết rằng xe ngựa là
đồ cũ mua lại, mà bọn đầy tớ chỉ được nơi ăn chốn ở, chứ không có tiền lương,
nhưng nguyên ba thằng hầu và cái xe ấy cũng phải tiêu tốn ít nhất là sáu trăm
đồng hằng năm... Thế mà còn tiệc tùng sang trọng, lại hai đứa con trai nội trú
ở trường trung học Iton; mấy cô con gái thì đủ cả cô giáo và thầy giáo dạy
riêng. Mùa thu họ đi chơi ở Eastbourne hay Worthing; thỉnh thoảng họ lại ra
ngoại quốc du lịch một chuyến; mỗi năm một lần, họ còn tổ chức một buổi dạ hội,
có tiệc ăn đêm đặt tại nhà hàng Gunter (nhân tiện xin nói thêm, nhà này quen
thầu những thứ bữa tiệc loại thượng hạng của gia đình Jenkins; tôi biết rõ điều
này vì có lần được mời đến để lấp một chỗ trống, thì thấy ngay rằng một bữa ăn
như thế vượt xa những bữa tiệc kẻ tầm thường này vẫn được dự). Người hiền lành
đến đâu cũng đánh một dấu hỏi rằng gia đình Jenkins làm thế nào mà sống kiểu
ông hoàng như vậy được? Jenkins
là cái gì? Còn ai lạ gì anh ta nữa... Một nhân viên quèn tòng sự tại ngự tiền
văn phòng, lương đồng niên 1.200 đồng. Hay là chị vợ có của riêng? Úi dà!... Cô
Flint là một trong số mười một đứa con của nhà quý tộc quèn vùng
BuckingHampshire . Suốt năm những thứ cô được gia đình cho chỉ là một con gà
tây vào ngày lễ Giáng sinh! Bù lại, cô phải nuôi ba cô em trong suốt mấy tháng
nghỉ hè, và còn phải tiếp mấy ông anh trai mỗi khi họ ra tỉnh chơi nữa cơ chứ.
Thế thì Jenkins giữ thăng bằng ngân sách bằng cách nào nhỉ? Tôi cũng như bất cứ
người bạn nào của anh ta đều phải tự hỏi không hiểu tại sao Jenkins chưa bị
truy tố trước pháp luật từ lâu. Mà làm sao năm ngoái anh ta vẫn còn dám vác mặt
về Boulogne. (Thiên hạ lấy làm kinh ngạc về điều này lắm).
Tiếng “tôi” ở đây có nghĩa là tất cả mọi người... nghĩa là bà Grundy ()
trong một độc giả như vậy...Mỗi người đều có thể chỉ ra trong đám thân bằng cố
hữu một gia đình nào đó vẫn sống đàng hoàng không biết bằng cách nào. Chắc hẳn
chúng ta cũng đã từng nâng nhiều cốc rượu mà gật gù thù tạc với chủ nhân, đồng
thời ngạc nhiên tự hỏi không rõ lão này xoay đâu ra tiền mà mua rượu.
Khoảng ba bốn năm sau, sau khi ở Pariss trở về nước, hai vợ chồng Rawdon
Crawley sống trong một căn nhà nhỏ rất đầy đủ tiện nghi tại phố Curzon trong
khu May; đám bạn bè thường được họ thết tiệc, không mấy ai không tự đặt câu hỏi
trên về họ. Ở trên tôi đã có dịp nói rằng nhà tiểu thuyết có con mắt thấu suốt
mọi sự, cho nên tôi cũng có đủ thẩm quyền tiết lộ với bạn đọc tại sao vợ chồng
Crawley không một xu dính túi mà vẫn sống đàng hoàng. Nhưng tôi có thể yêu cầu
các báo chí có thói quen trích bài đăng trong các tuần báo khác đừng in lại
những chuyện tôi kể dưới đây được không?... Bởi lẽ tư cách là kẻ đã khám phá ra
sự thực (mà cũng có tốn kém đôi chút đấy), tôi muốn được hưởng chút lợi lộc. Ví
phỏng trời cho tôi có được một mụn con trai, tôi sẽ bảo họ rằng: “Con ơi, con
nên chịu khó đi lại giao thiệp luôn luôn với anh ta thì mới học được cách sống
ung dung mà quanh năm không mất xu nào. Nhưng tốt nhất là đừng có quá thân mật
với các ông sang trọng loại này, nên nhờ người khác tính toán hộ mình vì giống
như bảng tính lôgarít, nếu ta phải làm lấy những con toán thì sẽ tổn phí khá
nhiều công sức”.
Về chuyện không mất một xu mà trong khoảng hai ba năm, Crawley và vợ sống
một đời sống hết sức thoải mái và hạnh phúc ở Pariss, chúng tôi chỉ có thể kể
lại rất sơ lược. Chính trong thời gian này, anh ta bán lại lon trung tá của
mình, từ giã đội ngự lâm quân.
Khi chúng ta gặp lại thì chỉ còn nhận thấy dấu vết cái nghề trận mạc cũ của
anh ta ở bộ ria mép và cái danh hiệu trung tá in trên tấm danh thiếp.
Ở trên đã nói, vừa đến Paris, Rebecca đã chiếm một vị trí nổi bật trong
giới thượng lưu của kinh đô nước Pháp; cô ta còn được vài gia đình nổi tiếng
nhất thuộc giới quý tộc Pháp mới khôi phục lại uy thế tiếp đón rất long trọng.
Bọn người Anh sang trọng ở Paris cũng săn đón Rebecca làm cho các bà vợ tức lộn
ruột; họ không thể chịu nổi con người bon chen ấy. Trong mấy tháng liền,
Rebecca quen đi lại những phòng khách chính ở khu ngoại ô St. Germain và thường
xuyên ra vào chỗ triều đình lộng lẫy huy hoàng; được tiếp đón hết sức long trọng;
cô ta sung sướng quá và dễ thường hơi bị choáng váng trong thời kỳ khoái hoạt
ấy thì phải, cho nên mới có ý muốn coi thường đám bè bạn của chồng mình hầu hết
là những quân nhân trẻ tuổi trung thực.
Phải ngồi cạnh những bà quận chúa và các bậc mệnh phụ trong triều, viên
trung tá thấy buồn quá; anh ta cứ ngáp ngắn ngáp dài. Mấy bà cụ chơi bài cãi
nhau ồn cả lên vì một đồng năm frăng; thấy thế, trung tá Crawley chán ngấy,
chẳng buồn ngồi vào chiếu bạc nữa. Anh không thưởng thức nổi cái tế nhị trong
câu chuyện họ nói với nhau, vì không biết tiếng Pháp. Anh ta tự hỏi không hiểu
vì sao đêm nào vợ mình cũng chịu khó cong lưng chào hàng tá những bà hoàng bà
chúa để làm gì. Bây giờ Rawdon mặc Rebecca đến dự những buổi tiếp tân này một
mình; anh ta trở lại với những thú chơi riêng bình dị mà anh ta thích giữa đám
bạn hữu tự mình chọn lấy.
Thực ra, khi chúng tôi nói rằng một ông sang trọng sống đàng hoàng mà quanh
năm không một xu lợi tức, ấy là chúng tôi muốn nói ông ta có những nguồn lợi ta
không biết rõ - nghĩa là không rõ ông ta bù đắp việc chi tiêu trong nhà ra sao.
Riêng ông bạn trung tá của chúng ta thì vốn có biệt tài trong các trò chơi may
rủi. Anh ta lại chịu khó tập luyện thường xuyên trong các món đánh bài xì, chơi
xúc xắc, hoặc bi-a, cho nên so với kẻ thỉnh thoảng mới giải trí, dĩ nhiên anh
ta “tài nghệ” hơn. Biết cầm một cái gậy bi-a cho khéo cũng công phu chẳng khác
gì người cầm bút vẽ, thổi sáo, hoặc đánh kiếm... mới đầu không thể thắng được
ai, nhưng hễ chịu cần cù học hỏi, lại có chút năng khiếu là tự nhiên người ta
có thể trở thành xuất sắc. Cho nên từ chỗ chỉ là một tay chơi tài tử khéo tay,
Crawley leo lên địa vị một nhà lão luyện trong nghề bi-a. Y như một viên tướng,
thường thường thiên tài của anh ta phát triển song song với những sự nguy hiểm;
mỗi khi thần may mắn suốt buổi quay lưng lại với anh ta, hễ đặt tiền là y như
rằng mất hút, anh ta chỉ cần chơi vài “cú” thật táo bạo và tài tình, là đủ lấy
lại được ưu thế, cuối cùng lại được như thường, và thiên hạ lấy làm ngạc nhiên
vô cùng - thiên hạ đây tức là những anh không rõ ngón chơi của Crawley; còn
những tay quen thuộc thì rất dè dặt mỗi khi đặt tiền để thi tài với người đã
thạo nghề lại giàu mánh khoé như vậy.
Trong môn đánh bài, Rawdon cũng không phải là tay kém cạnh. Bước vào mỗi
cuộc chơi, anh ta thường thua lúc đầu vì chơi thiếu thận trọng và vụng về; thế
là bọn mới đến coi thường tài nghệ của anh ta; cho đến lúc bị mất liên tiếp
những món tiền nho nhỏ, anh ta mới hăng máu, thận trọng hơn. Ta để ý sẽ thấy
Crawley đổi hẳn lối chơi và chắc chắn chưa hết canh bạc anh ta đã đánh cho kẻ
thù những đòn thất điên bát đảo. Quả thật rất ít người dám nói là có lần mình
đã hạ được Rawdon.
Vì Rawdon luôn luôn được bạc cho nên bọn ghen ghét và bọn mất tiền hay nói
xấu anh ta, điều đó cũng không lạ. Cũng như người Pháp thường nói về con người
không bao giờ chịu thất trận là Quận công Wellington rằng chẳng qua ông ta bách
chiến bách thắng cũng nhờ những sự may mắn lạ kỳ liên tiếp nhau giúp đỡ mà
thôi; họ còn đồn rằng quận công đã chơi một nước bạc bịp ở Waterloo để nắm chắc
phần thắng về mình. Tóm lại ở nước Anh, người ta thì thào rằng trung tá Crawley
cứ được bạc luôn hẳn có chuyện bịp bợm chi đây.
Hồi ấy ở Paris có hai sòng bạc lớn là “Frascati” và “Salon”, nhưng người ta
mê đánh bạc quá, thành ra, những sòng bạc công khai không đủ thoả mãn “máu mê”
của thiên hạ; người ta đánh bạc ngay cả trong phòng khách ở nhà riêng. Trong
những cuộc họp mặt buổi tối thân mật êm đềm tại nhà trung tá Crawley, chủ và
khách không ai thoát khỏi cái trò giải trí tai hại này... Và cái bà Crawley nhỏ
bé tốt bụng kia lấy làm phiền lòng lắm lắm. Bà nói về chuyện chồng mê chơi xúc
xắc bằng một giọng vô cùng buồn nản; bà kêu rên với mọi khách khứa đến nhà chơi
về chuyện này. Bà yêu cầu những người bạn trẻ tuổi tuyệt đối đừng bao giờ mó
vào cái ống đổ xúc xắc. Cái lần anh chàng Green trẻ tuổi thuộc đội khinh binh
bị thua một món tiền lớn, suốt đêm hôm ấy bà khóc mãi, và quỳ xuống mà cầu xin
chồng huỷ bỏ khoản nợ, đốt tờ văn tự đi; ấy là theo lời người đầy tớ kể lại về
anh chàng trẻ tuổi bất hạnh.
Rawdon biết làm thế nào được? Chính anh ta cũng vừa thua món tiền lớn về
tay lão Blackstone, thuộc đội khinh kỵ binh, và lão bà trước Punter thuộc đội
kỵ binh Hanover. Green sẽ được hưởng một thời hạn rộng rãi; nhưng còn chuyện
trả tiền?...Dĩ nhiên là phải trả...
Đốt văn tự nợ, có hoạ là chuyện trẻ con.
Nhiều sĩ quan khác, đặc biệt là bọn còn ít tuổi (vì bọn trai trẻ ưa xúm xít
quanh bà Crawley lúc tan buổi họp ra về), mặt anh nào anh ấy buồn rười rượi, vì
ít nhiều đã để lại một số tiền trên mặt cái bàn đánh bài tai hại kia. Bắt đầu
có tiếng đồn đại không hay về căn nhà của bà chủ, những tay già đời báo cho bọn
còn non nớt về sự nguy hiểm. Trung tá O’Dowd thuộc trung đoàn thứ... là một
trong những trung đoàn chiếm đóng Paris thời đó cũng cảnh báo trung uý Spooney
về việc này. Hai vợ chồng viên trung tá bộ binh và hai vợ chồng trung tá
Crawley đã cãi nhau một trận ầm ĩ ngay giữa nhà hàng cà phê Paris, nơi họ đến
dùng bữa cơm trưa. Hai bà vợ cùng tham gia tích cực vào cuộc đấu khẩu. Bà O’Dowd
tát vào mặt bà Crawley và gọi chồng bà này là đồ lừa đảo; trung tá Crawley
thách trung tá O’Dowd đấu súng. Viên tổng chỉ huy hay tin bèn gọi trung tá
Crawley đến hỏi chuyện và ngăn không cho cuộc đọ súng xảy ra; lúc này Crawley
đã sửa soạn sẵn đôi súng lục “đã dùng để bắn chết tươi đại uý Marker”. Giá
Rebecca không đích thân quỳ xuống mà van xin trung tướng Tufto có lẽ Crawley đã
bị tống về Anh rồi; suốt mấy tuần lễ sau anh ta đành chỉ đánh bạc với bọn dân
thường.
Tuy nhiên Rebecca vẫn thấy rõ rằng dù cho ông chồng có tài mấy và có được
bạc luôn đi nữa thì tình thế vẫn cứ bấp bênh lắm.
Dù rằng ít khi hai vợ chồng chịu trả tiền ai, nhưng vốn nhỏ mọn của họ rồi
cũng có một ngày mòn đi thành con số không. Cô ta vẫn bảo: “Mình ơi, đánh bạc
có thể giúp mình tăng thêm số thu hoạch thật đấy, nhưng bản thân nó không phải
là một số thu hoạch chắc chắn. Rồi có ngày thiên hạ chán đánh bạc, lúc ấy vợ
chồng mình xoay xở ra sao?” Rawdon công nhận vợ nói có lý; quả thật anh ta đã
nhận thấy rằng sau mấy buổi tổ chức ăn đêm tại nhà và v.v. bọn đàn ông đã tỏ ra
chán không muốn đánh bạc với anh ta thực, và cái sức quyến rũ của Rebecca cũng
không thể khuyến khích họ tham dự một cách hào hứng như trước.
Cuộc sống thoải mái vui vẻ của đôi vợ chồng ở Paris chẳng qua cũng là một trò
giải trí vô nghĩa cho qua ngày; Rebecca hiểu rằng muốn giúp cho chồng làm nên
thì phải về nước. Cô phải kiếm cho chồng một chức vụ nào đó ở nước Anh hoặc ở
các thuộc địa; cho nên cô ta quyết định hễ có cơ hội là trở về Anh. Biện pháp
đầu tiên của Rebecca là xui chồng bán phăng cấp bậc trung tá và chịu ăn nửa
lương vậy. Ít lâu nay, anh ta đã thôi không đảm nhiệm chức vụ sĩ quan phụ tá
của tướng Tufto nữa rồi. Đi đâu Rebecca cũng giễu cợt lão sĩ quan già này về mớ
tóc giả lão đeo khi đến Paris, về tấm áo gi lê, về bộ răng giả, nhất là về
chuyện lão cứ nhất định tự cho mình là một tay chim gái cừ khôi, và đàn bà con
gái ai đến gần lão cũng phải mê tít. Hồi này, lão trung tướng đang xun xoe
quanh bà Brent - vợ viên cao uỷ Brent; bà này có bộ lông mày rậm như chổi sể;
lão tốn vô khối hoa, cơm thết tại khách sạn, vé mời ghế “lô” rạp hát và các thứ
đồ chơi vặt. Bà Tufto đáng thương cũng vẫn không sung sướng hơn mấy tí, vẫn
đành ngồi suốt những buổi tối dài đằng đẵng với mấy cô con gái; bà hiểu rằng
ông trung tướng nhà bà còn đang bận túc trực sau ghế bà Brent ở rạp hát, râu
tóc uốn quăn, xức nước hoa thơm lừng. Mất lão trung tướng, Rebecca đã có hàng
tá đàn ông cảm lăn cảm lóc thế chân; kể ra khôn ngoan lanh lợi như cô ta thì
đánh gục tình địch dễ như bỡn, nhưng ta đã rõ, Rebecca cảm thấy chán ngán cuộc
sống thù tiếp vô vị; những “lô” ghế ở rạp hát, những bữa tiệc ở khách sạn cô
thấy ngấy lắm rồi. Những bó hoa thơm không dành làm vốn cho tương lai được, mà
các thứ đồ chơi lặt vặt, khăn tay thêu hoa và bao tay bằng da dê nào có gặm ra
mà ăn được đâu. Cô thấy sự vui chơi vô nghĩa quá, phải kiếm những món lợi nào
chắc chắn hơn mới được Đúng lúc ấy, có tin đồn lan ra trong đám chủ nợ của viên
trung tá ở Paris, khiến họ bằng lòng quá. Bà Crawley, bà cô giầu có mà viên trung
tá vẫn hy vọng hưởng gia tài sắp chết rồi, viên trung tá cần có mặt ngay bên
giường bệnh của bà. “Bà trung tá” và con trai ở lại Paris, khi nào ông chồng
sang đón sẽ về nước sau. Trung tá lên đường đi Calais và đến đó an toàn; có lẽ
sau đó sẽ đi Dover; thật ra, Rawdon đi xe ngựa đến Dunkirk rồi chuồn một mạch
sang Brussels, nơi mà từ trước anh ta vẫn trú. Thì ra ở Luân đôn, Rawdon nợ còn
nhiều hơn cả ở Paris, cho nên anh ta thấy cuộc sống ở cái thành phố Bỉ lặng lẽ
kia đẹp hơn những nơi kinh đô quá ồn ào.
Bà cô chết thực rồi. Rebecca
đặt may một bộ đồ tang thật long trọng cho mình và con trai. Ngài trung tá còn
đang bận thu xếp vấn đề thừa kế gia sản. Bây giờ họ có thể thuê buồng ở tầng
thứ nhất không phải sống trong tầng hầm của khách sạn như trước nữa. Trung tá
phu nhân và ông chủ khách sạn có một buổi hội ý với nhau về việc sắm thảm mới
để trang hoàng trên tường và trải trên mặt sàn. Hai bên đồng ý với nhau về mọi
thứ. Riêng về khoản giá cả thì không thoả thuận được. Rồi Rebecca lên xe đi,
chị vú nuôi người Pháp bế thằng con trai ngồi cạnh. Hai vợ chồng ông chủ khách
sạn mỉm cười theo ra tận cổng để tiễn. Nghe tin Rebecca lên đường, trung tướng
Tufto nổi lôi đình; thấy lão nổi lôi đình, bà Brent bèn nổi lôi đình với lão.
Trung uý Spooney thấy trái tim như vỡ ra từng manh. Còn ông chủ khách sạn thì
sửa soạn sẵn phòng trọ đẹp nhất, chờ hai vợ chồng bà khách xinh đẹp trở lại,
ông ta cẩn thận xiết lại () dây buộc những chiếc vali đồ sộ mà khách đã yêu cầu
ông giữ gìn chu đáo hộ. Bà Trung tá đã đặc biệt căn dặn ông về việc này. Ít lâu
sau, mở ra thì ở trong chả thấy có cái quái gì đáng tiền cả.
Trước khi sang thủ đô nước Bỉ với chồng,
Rebecca cũng ghé qua nước Anh, để đứa con lại lục địa cho chị vú nuôi người
Pháp trông nom.
Cuộc chia tay giữa Rebecca và thằng con trai
cũng không khiến cả hai mẹ con đau lòng lắm. Nói cho đúng thì từ khi sinh con
đến giờ cô ta cũng ít khi nhìn đến thằng bé. Theo lối nuôi con của các bà mẹ
Pháp, cô ta gửi con cho một bà vú nuôi tại một làng gần khu ngoại ô thành
Paris. Ở đây, thằng bé Rawdy đi guốc gỗ, sống chung trong cái gia đình đông đúc
gồm các trẻ em được gửi bà vú, cũng không phải là không có hạnh phúc. Bố nó
cưỡi ngựa đến thăm con trai luôn; thấy con bẩn thỉu nhưng hồng hào, bi bô hò
hét, nặn đất cát một cách thú vị dưới con mắt coi sóc của bà vú nuôi là vợ
người làm vườn, ông bố vui vẻ lắm.
Rebecca không ưa đến thăm con trai. Đã một lần
thằng bé làm bẩn tấm áo lông mới màu cổ vịt của cô ta. Chính nó cũng ưa được bà
vú nuôi nâng niu hơn được mẹ bế, và khi phải từ biệt người vú nuôi tốt bụng đã
săn sóc mình như con đẻ, thằng bé gào khóc hàng mấy giờ liền; mẹ nó phải nói
dối rằng hôm sau sẽ được về với bà vú nuôi tốt bụng, nó mới tin.
Lúc chia tay, bà vú nuôi cũng buồn, nghe nói
thằng bé sẽ trở lại ngay, bà này cứ ngóng ngóng chờ mãi.
Có thể nói hai vợ chồng Rawdon là tiền bối của
cả một thế hệ những tay giang hồ táo bạo người Anh, sau này đã tràn vào lục địa
và làm nghề lừa đảo mà sống tại khắp các kinh đô Âu châu. Trong thời kỳ
1817-1818, người ta rất kính trọng danh dự và sự giàu có của người Anh. Hồi đó,
họ chưa biết quỵt tiền một cách trắng trợn, như ta thấy bây giờ. Hồi ấy những
thành phố lớn của châu Âu cũng chưa mở cửa đón bọn lưu manh người Anh. Bây giờ
thì khó lòng mà thấy một tỉnh nào ở Pháp, ở Ý mà không có mặt vài đồng bào quý
báu của chúng ta với cái điệu bộ nghênh ngang khệnh khạng rất Anh cát lợi nhận
ra được ngay ở bất cứ đâu. Họ quỵt tiền các chủ quán, đổi ngân phiếu giả cho
các ông chủ nhà băng cả tin, ăn cắp xe ngựa của các chủ xe, lừa đồ trang sức
của các hiệu kim hoàn, chơi bạc bịp để lừa tiền của các khách du lịch, nẫng
túi, thậm chí cuỗm cả sách ở các thư viện công cộng... Ba mươi năm trước, chỉ
cần là một “quý ông” người Anh đi xe ngựa riêng là đến đâu cũng được tín nhiệm;
và đáng lẽ lừa thiên hạ như bây giờ thì hồi ấy họ lại bị thiên hạ lừa. Vợ chồng
Crawley bỏ đi được vài tuần thì ông chủ khách sạn ở Paris mới biết mình vừa bị
một vố đau: bà Marabou chủ hiệu trang sức, vác hoá đơn đứng tên bà Rawdon
Crawley đến đòi tiền xoành xoạch; ông Didelot, chủ hiệu “Thỏi Vàng” ở phố Hoàng
Cung năm sáu bận đến thăm xem cái bà phu nhân xinh đẹp mua chịu đồng hồ và
xuyến kia đi vắng đã về chưa?() Cả bà vợ người làm vườn đã săn sóc cậu con trai
của bà “phu nhân” cũng không hề được trả tiền công sáu tháng nay về việc cho
cậu bé Rawdy bụ bẫm khoẻ mạnh kia bú sữa. Vợ chồng ông Rawdon Crawley vội vàng
quá, cũng không kịp nghĩ đến cái món nợ nhỏ mọn ấy nữa. Còn ông chủ khách sạn
thì từ bữa ấy cho đến chết cứ ra sức mà chửi tàn tệ cả cái giống Anh cát lợi.
Ông ta gặp khách du lịch nào cũng hỏi thăm có biết một lão trung tá Crawley nào
đó... và vợ lão... một người đàn bà nhỏ nhắn, rất dí dỏm không? Ông nói thêm:
“Ngài ơi ! Chúng nó lừa tôi một cách khốn nạn quá (). Giọng ông than thở khi kể
lại tai hoạ trên nghe thật ảo não.
Rebecca về thăm Luân đôn nhằm mục đích thương
lượng với bọn chủ nợ của chồng, định đề nghị chịu khoảng 4% hoặc 5% với điều
kiện để cho chồng được yên ổn trở về nước. Ta không cần phải tả lại những cuộc
thương lượng gay go này làm gì. Cuối cùng Rebecca làm cho họ hể hả tin rằng món
tiền cô ta đưa ra là tất cả vốn liếng của chồng và Crawley thì thà sống suốt
đời ở ngoại quốc còn hơn về nước để bị chủ nợ giày vò. Cô ta trình bày với họ
rằng chồng mình không còn trông mong vào khoản tiền nào khác, và họ cũng đừng
hy vọng hưởng một tỷ lệ lãi cao hơn; cuối cùng toàn thể đám chủ nợ đồng tình
ưng thuận; thế là với một vạn năm nghìn đồng tiền mặt, Rebecca đã thanh toán
được một món nợ gấp hơn chục lần số tiền này.
Rebecca không cần nhờ luật sư thu xếp hộ mình.
Xem cách cô ta trình bày với thầy kiện của chủ nợ thì sự việc đơn giản quá; chỉ
có một là thuận, hai là mất nợ, thế là họ đành chịu, cho nên thầy cò Lewis đại
diện ông Davids ở công viên Sư tử đỏ, và thầy cò Moss thay mặt ông Manasseh ở
phố Cursitor (ông này là chủ nợ chính của viên trung tá), cả hai phải khen bà
Rawdon lo việc tài tình quá, những tay nhà nghề cũng không bằng.
Rebecca khiêm tốn nhận lời khen; cô gọi mang
một chai rượu mạnh và bánh ngọt đến chỗ ở là cái quán trọ tồi tàn, nơi thương
lượng công việc, để thết đãi mấy lão thầy kiện của chủ nợ; đoạn cô ta hết sức
vui vẻ bắt tay từ biệt họ, rồi lập tức quay về lục địa với chồng con và báo cho
chồng biết tin anh ta hoàn toàn được giải phóng. Trong thời gian mẹ đi vắng,
thằng con trai bị cô Genevieve, tức là chị vú nuôi người Pháp, bỏ lơ là không
săn sóc đến. Chị ta mải chấp chới với một thầy quyền trong trại lính ở Calais,
quên khuấy mất nhiệm vụ của mình. Thằng bé Rawdy đã bị chị vú bỏ quên trên bãi
biển, bị lạc, suýt nữa thì chết đuối.
Thế là trung tá Crawley và vợ về Luân đôn.
Chính trong toà nhà ở phố Curzon, khu May Fair, họ đã thi thố tài năng trong
cách sinh sống bằng mọi mánh khoé như đã nói ở trên.
Chương 37
CÂU CHUYỆN TIẾP TỤC
Trước hết, chúng tôi cần trình bày cách thức
kiếm một căn nhà ở mà không mất xu nào, vì đó là việc quan trọng nhất. Có những
căn nhà cho thuê kê sẵn đồ đạc; nếu bạn được ông Gillows hoặc ông Bantings tinh
tín nhiệm, bạn có thể thuê nhà trang hoàng theo sở thích. Nếu bạn ưng chọn một
căn nhà có sẵn đồ đạc rồi thì tránh được nhiều chuyện phiền phức hơn. Hai vợ
chồng Rawdon Crawley chọn cách thứ hai.
Trước khi bác Bowls đến lãnh nhiệm vụ quản lý
trong gia đình bà Crawley ở đường Công Viên thì bà đã có một người quản lý khác
tên là Raggles, bác này là con một người làm vườn ở trại Crawley Bà chúa. Nhờ
có hạnh kiểm tốt, nhờ có dáng người chừng mực và bộ giò đẹp, điệu bộ lại trịnh
trọng, Raggles leo từ địa vị hầu ăn lên địa vị hầu xe, rồi đến địa vị quản lý.
Trong thời gian làm việc trong gia đình bà Crawley, Raggles được trả lương rất
hậu, lại có tiền thưởng luôn luôn tha hồ có dịp để dành, ít lâu sau bác tuyên
bố cưới chị làm bếp cũ của bà chủ làm vợ. Chị này hiện đương làm nghề giặt
thuê, đồng thời mở một cửa hàng nhỏ bán rau cỏ ở gần đấy. Thực ra hôn lễ đã bí
mật tiến hành từ mấy năm trước; sở dĩ bà Crawley biết tin Raggles lấy vợ vì có
hai đứa trẻ, một trai một gái, khoảng bảy tám tuổi cứ quanh quẩn luôn trong
bếp, làm cho bà Briggs phải chú ý tới. Raggles bèn xin thôi việc và đích thân
quản lý cửa hàng bán rau của vợ. Bác dọn thêm vài mặt hàng mới như sữa, kem,
trứng và thịt lợn muối, có vẻ tự bằng lòng với công việc quê mùa này, trong khi
các bác quản lý khác thôi việc đều ra mở cửa hàng bán rượu. Vốn giao du rộng
trong giới quản lý khắp vùng, hai vợ chồng Raggles thường tiếp đãi họ trong một
phòng khách ấm áp nên anh em chiếu cố đến mua sữa, kem và trứng cũng đông, mỗi
năm tiền lời lại tăng thêm. Bác lặng lẽ kín đáo dành dụm năm này qua năm khác.
Cuối cùng, khi ngôi nhà xinh đẹp số … phố Curzon khu May Fair, trước kia là khu
nhà riêng của ngài Frederick Deuceace vừa bỏ ra nước ngoài, bị mang bán đấu giá
với tất cả đồ đạc sang trọng toàn do những tay thợ khéo nhất Luân đôn làm ra,
thì ngoài Raggles ra còn ai là người đến mua cả nhà và đồ đạc? Bác có phải vay
thêm của một người quản lý khác thật và chịu lãi khá nặng, nhưng phần lớn số
tiền là vốn liếng có sẵn. Bác Raggles gái cũng có phần kiêu hãnh khi thấy mình
được nằm trên một cái giường gỗ đào hoa tâm chạm nổi, lại có riềm màn bằng lụa,
trước mặt đặt một tấm gương xoay to tướng, lại kê một cái tủ kếch xù, đút cả
hai vợ chồng Raggles và con cái vào cũng lọt.
Dĩ nhiên, họ không định ở mãi mãi trong một căn
nhà quá lộng lẫy như thế, Raggles mua nhà cốt để cho thuê lại. Khi tìm được
người muốn thuê, bác lại dọn về ở chỗ cửa hàng thực phẩm cũ; bác ta có cái thú
đi từ cửa hàng đến phố Curzon để ngắm ngôi nhà - ngôi nhà riêng của bác - có
hoa phong lan trồng trên cửa sổ, lại có cái búa gõ cửa bằng đồng đen có chạm
hình. Anh hầu thỉnh thoảng ra phất phơ ngoài hàng rào gặp Raggles, chào tỏ vẻ
rất kính cẩn; chị làm bếp ra nhận rau của bác đem vào, luôn mồm một điều “thưa
ông chủ”, hai điều “thưa ông chủ”, và nếu bác ta muốn biết thì không một cử chỉ
nào, không món ăn nào của người thuê nhà lọt được mắt bác.
Raggles là một người hiền lành tốt bụng. Tiền
cho thuê ngôi nhà hằng năm cũng khá, bác quyết định cho con đi học tử tế, không
ngại tốn kém. Charles được gửi đến ngụ học tại trường ông Swishtail ở
Sugar-cane Lodge; cô bé Matilda thì học trường bà Peckover, ở Laurentinum
House, Clapham.
Raggles rất yêu quý và kính trọng gia đình
Crawley, coi như gia đình này đã gây dựng cơ nghiệp cho mình. Bác treo ở mé
trong cửa hàng tấm hình của bà chủ và bức tranh vẽ căn phòng người gác cổng
trại Crawley Bà chúa do chính tay bà gái già vẽ bằng mực Tàu.
Bác chỉ thêm vào ngôi nhà ở phố Curzon một vật
trang trí duy nhất là bức tranh trại Crawley Bà chúa ở Hampshire vẽ ngài nam
tước Walpole Crawley ngồi trong xe ngựa mạ vàng thắng sáu con ngựa bạch, bên
một cái hồ đầy những chim thiên nga, có nhiều bà mệnh phụ vận váy bồng bơi
thuyền chơi, cùng một bọn nhạc công đội tóc giả có rắc phấn. Quả thật Raggles
cho rằng khắp thế giới không đâu có toà nhà lộng lẫy và một gia đình đáng kính
như thế.
Tình cờ làm sao, đúng lúc hai vợ chồng Rawdon
từ Luân đôn về thì ngôi nhà ở phố Curzon cũng đang vắng người ở thuê. Viên
trung tá biết rõ ngôi nhà này cùng chủ nhân của nó. Raggles vẫn giữ quan hệ với
gia đình Crawley vì mỗi khi bà Crawley tiếp khách, bác vẫn sang giúp Bowls một
tay. Bác không những thuận cho viên trung tá thuê nhà mà còn tự nguyện hứa khi
nào có khách, bác sẽ sang tạm lãnh chân quản lý hộ. Bác Raggles gái làm việc
dưới bếp, dọn những bữa cơm mà ngay bà Crawley cũng phải khen ngon. Ấy thế là
Crawley thuê nhà không mất một xu nào. Raggles còn phải trả tiền thuê, tiền lãi
nợ, tiền bảo hiểm sinh mệnh của mình, tiền trọ học của các con, tiền nuôi gia
đình mình và đôi khi tiền nuôi cả gia đình Crawley nữa, nghĩa là bác Raggles
tội nghiệp đang bị đe doạ phá sản, con cái có thể bị ném ra hè phố, bản thân có
thể ngồi tù; nhưng phải có một người nào đó trả tiền thay cho những ông sang
trọng sống đường hoàng không một xu dính túi chứ. Số mệnh đã bắt bác Raggles
bất hạnh bù đắp vào cái túi tiền rỗng tuếch của trung tá Crawley vậy.
Không rõ đã có bao nhiêu gia đình lâm vào cảnh
phá sản và trộm cắp vì tay những tên đại bợm kiểu Crawley?... Đã bao nhiêu
người quý tộc tai to mặt lớn ăn cắp của bọn bán hàng hèn mọn, và hạ mình lừa cả
đám đầy tớ từng món tiền nhỏ, bịp họ từng hào một. Mỗi khi nghe tin có một bậc
quý tộc như vậy bỏ trốn ra nước ngoài hoặc bị tịch ký phát mại gia sản, hoặc
còn nợ sáu bảy triệu đồng không có tiền trả, chúng ta thấy sự phá sản ấy càng
có vẻ oanh liệt, và chúng ta đâm ra kính trọng kẻ bất hạnh. Nhưng còn bác thợ
cạo nghèo khó không được trả tiền rắc phấn tóc cho bọn đầy tớ, bác bán thảm đã
sạt nghiệp vì trang hoàng phòng ăn cho quý bà, bác phó may tội nghiệp được lão
quản lý giới thiệu đã cầm cố sạch mọi vật trong nhà để may chế phục cho đám gia
nhân của quý ông và được cái vinh dự là quý ông bàn chuyện... Có ai thương tất
cả những người ấy không? Một khi một gia đình có tiếng tăm sụp đổ, bọn người
khốn khổ này cũng bị đè bẹp theo mà nào có ai để ý đến. Thật như chuyện cổ tích
có nói: trước khi một người tự thân lăn vào móng vuốt của quỷ dữ, hắn đã xô đẩy
vô khối linh hồn vào tay nó rồi.
Hai vợ chồng Rawdon sử dụng ngay những người
bán hàng trước kia vẫn cung cấp cho bà Crawley để phục vụ mình. Một số, nhất là
những người nghèo, lại tỏ ra khá sốt sắng. Có một bà giặt thuê cứ đúng lệ thứ
bảy mỗi tuần là đẩy xe từ Tooting đến lấy quần áo mang về, tiền công thì chỉ
lấy giấy biên nhận hết tuần này sang tuần khác. Chính bác Raggles cũng cung cấp
rau và quả. Tập hoá đơn mua rượu cho đầy tớ tại nhà hàng “Chiến Thắng” cũng là
một tài liệu kỳ cục trong nghề buôn rượu. Khắp mặt đầy tớ, không một ai được
trả đầy đủ tiền công, vì thế họ buộc lòng vẫn phải ở lại hầu hạ trong nhà. Tóm
lại, không một ai được thanh toán sòng phẳng, bác thợ rèn chữa khoá cũng như
bác thợ kính hàn cửa kính vỡ, lão chủ cho thuê xe ngựa cũng như cậu xà ích
giong xe, anh hàng thịt vẫn bán chịu đùi cừu cũng như bác bán than cung cấp
than để quay đùi cừu, chị bếp cũng như tất cả gia nhân khác; và đây là chuyện
thường tình trong giới người sống sang trọng mà không cần tốn kém xu nào.
Trong một tỉnh nhỏ, những việc như thế cũng khó
lòng thoát khỏi mặt thiên hạ. Ở đây người ta biết rõ cả chuyện ông hàng xóm
uống bao nhiêu sữa. Cho nên rất có thể hai ngôi nhà số 200 và 202 ở phố Curzon
cũng nắm vững mọi việc xảy ra trong ngôi nhà ở giữa là nhà số 201, vì đã có bọn
gia nhân truyền tin cho nhau biết qua hàng rào. Song hai vợ chồng Crawley cùng
bè bạn của họ không hay biết gì về hai gia đình số 200 và 202. Mỗi khi ta đến
chơi nhà số 201, ta vẫn thấy ông bà chủ ra đón chào đon đả, miệng cười tươi như
hoa, lại được mời ăn trưa đường hoàng, tay bắt mặt mừng, như thể hàng năm họ
phải có món lợi lớn không dưới ba bốn nghìn đồng. Họ có thật, nhưng không phải
bằng tiền mặt mà bằng nhiều mánh khoé khác... Nếu không trả tiền họ vẫn có thịt
cừu chén. Còn như họ có đem vàng nén ra đổi lấy rượu hay không, đố ai rõ. Chỉ
biết bao giờ Rawdon cũng sẵn loại rượu thượng hảo hạng để thết khách, tiệc tùng
phải sang trọng, kẻ hầu người hạ cẩn thận. Phòng khách của anh ta nom xinh xắn
đẹp đẽ không thể tưởng tượng được, trang hoàng rất có mỹ thuật, lại bày vô số
đồ chơi Rebecca mang từ Paris về. Cứ nghe cô ta chơi dương cầm, líu lo hát
thoải mái như không, ai cũng cảm thấy mình ở trong một thiên đường của hạnh
phúc gia đình, và đồng tình rằng anh chồng có hơi đần độn đôi chút, nhưng chị
vợ thì xinh như mộng, và bữa tiệc thì ngon không chê vào đâu được.
Nhờ thông minh, duyên dáng và khôn ngoan, nên
sau một thời gian ngắn, Rebecca được giới thượng lưu ở Luân- đôn rất chú ý.
Trước cửa nhà cô ta thường xuyên có nhiều xe ngựa
đỗ, từ trong bước ra toàn những vị tai mặt. Ta lại gặp Rebecca ngồi xe ngựa
riêng đi chơi trong công viên, vô khối công tử xúm xít xung quanh. “Lô” ghế của
cô ta ở ban công thứ ba trong rạp Opera bao giờ cũng chật ních những khách, nay
vị này mai vị khác. Nhưng phải thú thực rằng giới phụ nữ vẫn giữ thái độ xa
lánh cô ta, nhất định không thèm mở cửa tiếp đón con người xảo quyệt.
Về cái thế giới phụ nữ sang trọng này cùng mọi
phong tục riêng của họ, kẻ viết truyện chỉ nghe phong phanh mà biết. Đàn ông không
ai có thể hiểu gì hơn về những bí mật của họ, ngoài những điều các bà nói ra
mồm lên thang gác, sau bữa ăn. Chỉ có cách kiên nhẫn dò hỏi thì đôi khi họ mới
thoáng để lộ ra đôi chút.
Kẻ thường mòn gót trên vỉa hè phố Pall Mall và
lui tới các câu lạc bộ ở thủ đô này cũng thế, họ có thể đích thân tìm biết được
hoặc nhờ các bạn chơi bời mách tin mà hiểu ít nhiều về đời sống của giới thượng
lưu thành Luân đôn; họ sẽ thấy có những “quý ông” thuộc loại tương tự như
Rawdon, trước con mắt của những kẻ ngờ nghệch mới được nếm mùi công viên, trông
thật là có mẽ người chuyên giao du với những tay phong lưu công tử, và cũng sẽ
gặp những “quý bà” xứng đáng là vợ của các “quý ông”, được mọi ông sang trọng
hết sức thờ phụng, nhưng lại bị vợ các ông ghét cay ghét đắng. Bà Firebrace
thuộc loại này, tức là người đàn bà sang trọng có mớ tóc quăn quăn xinh xinh,
ngày nào ta cũng gặp ở công viên Hyde, xung quanh xúm xít toàn những tay ăn
chơi phong lưu nổi tiếng nhất nước. Một bà khác tên là Rockwood luôn luôn đăng
tin tiếp tân trên những tờ báo nổi tiếng nhất; khách dự tiệc có đủ mặt các vị
đại sứ và các nhà quý tộc nổi danh. Ta còn dẫn được ra tên nhiều vị khác, nếu
họ có liên quan đến chuyện này. Những người ngây thơ quen giao thiệp với giới
thượng lưu và các bác ở tỉnh lẻ sính học làm sang đứng ngắm nhìn các “quý bà”
nói trên mà thèm muốn vẻ huy hoàng bề ngoài của họ; nhưng kẻ am hiểu thực tế
hơn có thể mách cho biết rằng các “quý bà” ấy không có hy vọng đứng vững được
trong giới thượng lưu như bà vợ ngu si của ông quí tộc nhà quê ở Somersetshire
đang theo dõi hành vi của họ trong báo “Tin tức buổi sáng”; đàn ông ở Luân đôn
ai cũng rõ những sự thực ghê gớm này, nhiều bà có vẻ sang trọng giàu có ra
phết, thế mà bị tống cổ ra khỏi giới này một cách tàn nhẫn. Ai từng quan tâm
nghiên cứu đời sống của đồng loại mà không phải ngạc nhiên khi thấy các “quý
bà” nói trên cố tìm trăm phương nghìn kế để len lỏi vào giới này, dùng cả đến
những thủ đoạn bỉ ổi và chịu đựng bao điều khổ nhục.
Cuộc săn đuổi danh vọng rất gian khổ sẽ là một
đề tài thú vị, ai có chút thông minh, có thì giờ rỗi rãi, lại am hiểu kha khá
tiếng Anh cũng nên chú ý đến mà viết lại thành truyện.
Số ít ỏi các bà các cô bà Crawley quen thuộc
tại ngoại quốc, không những chỉ từ chối đến thăm bà ta khi họ có dịp sang chơi
bên này eo biển, mà còn ra mặt lờ tịt bà ta tại những nơi công cộng. Kể cũng
lạ, tại sao các bà mệnh phụ kia lại quên được Rebecca nhỉ. Âu cũng là điều lý
thú Rebecca cần suy nghĩ. Lần Bareacres phu nhân gặp cô ta trong phòng đợi ở
rạp Opera, bà này lập tức kéo mấy cô con gái lại sát mình, tuồng như sợ bị
Rebecca truyền bệnh dịch; đoạn bà ta lùi lại vài bước, đứng che mấy cô con gái
và nhìn trừng trừng vào mặt kẻ thù. Nhưng đôi mắt hốt hoảng của bà già
Bareacres lạnh lẽo kia không sao đủ sức khiến cho Rebecca phải bối rối. Khi phu
nhân de la Mole, người đã từng cùng ngồi xe ngựa dạo chơi với Becky hàng chục
lần ở Brussels, gặp lại cô ta ở công viên Hyde, bà ta đánh bài lờ ra mặt, làm
như không hề quen thuộc bao giờ. Cả bà Blenkinsop là vợ ông chủ nhà băng cũng
hay gặp cô ta ở nhà thờ lắm. Cô ta sánh đôi cùng Rawdon bước vào giáo đường,
mỗi người cầm một cuốn kinh to tướng, bìa mạ vàng, và suốt buổi lễ, vẻ mặt lúc
nào cũng nghiêm trang, nom mộ đạo ra phết.
Mới đầu, thấy vợ bị sỉ nhục, Rawdon đau xót
lắm, bộ mặt lúc nào cũng có vẻ rầu rầu hoặc dữ tợn. Anh ta định thách chồng
hoặc anh em của tất cả những người đàn bà hỗn xược dám coi thường vợ anh ta đấu
súng với mình. Cô vợ phải hết sức van xin, rồi bắt buộc, anh chồng mới nguôi
giận. Cô ta khôi hài bảo chồng:
- Chẳng nhẽ anh dùng súng mà bắn em vào giới
thượng lưu được à? Nhớ rằng em chỉ là một cô giáo dạy trẻ, còn anh, anh quỷ ơi,
anh chỉ có thể nổi tiếng về nợ nần, bài bạc và đủ mọi thói xấu khác. Rồi chúng
ta sẽ có vô khối bạn, bao nhiêu tuỳ thích, nghĩa là nếu anh biết ngoan ngoãn
vâng lời cô giáo của anh. Cái hồi chúng mình nghe tin bà cô cho vợ chồng Pittt
cả gia tài, anh chả nổi xung lên là gì? Không có em khuyên bảo có lẽ anh đã làm
ầm lên khắp Paris; và không chừng anh đã nằm trong nhà lao St. Pelagie vì tội
quỵt nợ rồi. Thế mà bây giờ anh lại được ở một ngôi nhà xinh đẹp, đầy đủ tiện
nghi. Hồi ấy anh cáu quá, suýt nữa thì ám sát cả anh ruột mình; thật là đồ Cain
() tồi tệ. Giận dữ mãi có ích lợi gì kia chứ? Cáu kỉnh đến mấy cũng không gặm
được đồng xu nào của bà cô cơ mà. Tốt hơn là hãy bắt chước cái bọn Bute khốn
kiếp ấy, làm thân với gia đình ông anh của chúng ta. Bao giờ ông cụ thân sinh
ra anh chết, hằng năm vợ chồng mình sẽ về sống yên ấm ở trại Crawley Bà chúa
qua mùa đông có thú hơn không? Nếu chúng mình bị phá sản, thì anh sẽ coi chuồng
ngựa, còn em lại giữ chân cô giáo dạy con của công nương Jane! Phá sản! Nói
chơi thế thôi: em sẽ lo cho anh một địa vị tử tế, không sợ. Hoặc giả Pitt và
thằng con trai bé chết đi thì vợ chồng chúng mình lại hoá thành tôn ông Rawdon
và phu nhân cũng chưa biết chừng. Còn sống là còn hy vọng; em sẽ gây dựng cho
anh. Thử hỏi ai bán đôi ngựa của anh được giá? Ai trả nợ cho anh sòng phẳng?
Rawdon đành phải nhận rằng vợ mình khéo xoay sở
ra tiền và sẵn sàng để vợ chỉ huy trong tương lai.
Khi bà Crawley giã từ cõi đời thì cái gia tài
kếch xù đã khiến cho đám thân nhân của bà tranh nhau kịch liệt, cuối cùng rơi
vào túi Pitt. Bute Crawley chắc mẩm mình phải được chia hai vạn đồng, nhưng chỉ
được có năm nghìn; trong cơn bất như ý, lão phát khùng, chửi thằng cháu trai ầm
lên. Thế là sự xích mích vẫn kéo dài lâu nay giữa hai bên kết thúc bằng một sự
đoạn tuyệt hoàn toàn. Trái lại, tuy chỉ được có một trăm đồng, Rawdon Crawley
vẫn giữ một thái độ khiến cho ông anh ruột phải ngạc nhiên, còn bà chị dâu thì
phục lắm! Công nương Jane vẫn sẵn sàng thân thiết với mọi người trong gia đình
nhà chồng. Từ Paris, Rawdon viết một bức thư gửi cho anh, lời lẽ thẳng thắn,
cao thượng, vui vẻ. Anh ta nói rằng cũng biết vì chuyện vợ con nên mình mới bị
bà cô ghét bỏ, và tuy có tiếc vì thái độ quá nghiệt ngã của bà cô nhưng vẫn
mừng rằng, món gia tài không lọt ra người ngoài. Anh ta lại hồ hởi hỏi thăm
chân thành tới chị dâu, và ngỏ ý mong chị dâu sẽ đối đãi tốt với vợ mình. Cuối
lá thư lại có mấy câu do chính tay Rebecca viết về hỏi thăm Pitt. Cô ta lặp lại
lời chúc tụng của chồng, lại nói thêm không đời nào quên được tấm lòng rộng
lượng của bà Crawley đối với mình khi mình còn là một đứa con gái của Pitt, và
cho đến bây giờ cô vẫn cầu chúc cho hai cô bé được sống hạnh phúc. Cô ta ngỏ ý
hy vọng được phép mang con trai đến thăm “hai bác”, và thay mặt con, xin được
“hai bác” che chở đùm bọc cho. Pitt Crawley nhận thư, tỏ ý hài lòng lắm, còn
vui vẻ hơn cả bà Crawley khi đọc những bức thư của Rebecca cho Rawdon viết hồi
nọ.
Công nương Jane đọc thư thích quá, khuyên chồng
nên chia ngay gia tài vừa được hưởng ra làm hai phần bằng nhau, để gửi một nửa
cho em trai ở Paris.
Nhưng cô rất ngạc nhiên vì Pitt không chịu gửi
cho Rawdon một tấm ngân phiếu ba vạn đồng. Anh ta chỉ hứa bao giờ Rawdon về
nước Anh nếu có cần gì sẽ sẵn sàng giúp đỡ. Anh ta lại cảm tạ những lời Rebecca
đã chúc tụng mình và vợ, ngỏ ý sẽ tìm mọi cơ hội để giúp đỡ thằng cháu bé.
Thế là sợi dây thân mật giữa hai anh em gần như
đã được nối lại. Hồi Rebecca về Luân đôn, hai vợ chồng Pitt không có mặt tại
đây. Nhiều bận cô ta cho giong xe đi ngang qua căn nhà của bà Crawley ở đường
Công viên để xem vợ chồng Pitt đã dọn đến ở chưa, nhưng không thấy động tĩnh
gì. May nhờ có Raggles, cô ta mới biết được hành động của đôi vợ chồng này...
Thì ra bọn gia nhân của bà Crawley bị thải hết, nhưng được trả tiền công hậu
hĩ; Pitt chỉ đến Luân đôn có một lần sống trong ngôi nhà có vài ngày để giải
quyết công việc với bọn thầy kiện, và bán hết chỗ tiểu thuyết Pháp của bà cô
cho một hiệu sách ở phố Bond. Becky khao khát chờ vợ chồng Pitt cũng có lý do
riêng. Cô ta tính toán “Khi nào Jane về đây, mụ sẽ là người dẫn đường cho mình
bước vào giới thượng lưu ở Luân đôn, còn bọn phụ nữ, thì, dào ôi! Bọn phụ nữ sẽ
phải thân mật với mình khi nào họ thấy đàn ông ai cũng đeo theo mình”.
Trong hoàn cảnh này có một khoản cũng cần thiết
cho các bà sang trọng như chiếc xe ngựa hoặc bó hoa tức là một người tỳ nữ.Tôi
vẫn phải kính phục cái cách phụ nữ (tức là những con người thiếu tình cảm thì
không sao sống được) thuê một người cũng là đàn bà nhưng hết sức vô vị, để luôn
luôn đi sát mình. Cứ nhìn thấy người đàn bà không thể tránh được ấy bận bộ áo
bạc màu, ngồi sau lưng người bạn của mình trong “lô” ghế ở tạp Opera, hoặc ngồi
ở ghế hậu trên xe ngựa là tôi cảm thấy dễ chịu và hiểu đời hơn. Cảnh tượng ấy
làm tôi nhớ tới chiếc đầu lâu bày trong bữa tiệc của những người Ai Cập ưa hành
lạc () thời cổ, đó tức là biểu tượng kỳ quái và mỉa mai của Hội chợ phù hoa vậy
Sao thế nhỉ? Thì cái bà Firebrace đang long sòng sọc kia, người thì đẹp, nhưng
chẳng có chút tâm hồn, lương tâm nào, ông bố đã phải chết vì hổ nhục là gì? Lại
bà Mantrap nữa. Con người thật duyên dáng và bạo dạn, cưỡi ngựa trông cực lịch
sự, thường giong xe song mã đi chơi ở công viên, thế mà mẹ bà ta vẫn làm nghề
bán hàng vặt ở Bath... Cứ ngỡ những người bạo gan đến thế thì có sợ gì ai, vậy
mà họ cũng phải có một người bạn gái đi kèm mới dám ló mặt ra với thiên hạ.
Phải có một người nào đó cho những con người ấy bấu víu mới được. Đố bạn gặp họ
ở bất cứ nơi công cộng nào mà không thấy kè kè đằng sau một người tỳ nữ tiều
tụy bận một tấm áo lụa nhuộm bạc màu.
*
Một bữa đêm đã khuya, trong nhà Becky, một đám
khách đàn ông sang trọng đang ngồi quanh lò sưởi, củi cháy kêu lách tách; họ
đến chơi đây tiêu nốt đêm hành lạc, được bà chủ nhà thết toàn kem và cà phê
loại ngon nhất. Becky bảo chồng:
- Anh Rawdon, em cần một con chó chăn cừu.
Rawdon đang đánh bài, ngửa lên hỏi lại:
- Cần cái gì?
Anh chàng bá tước trẻ tuổi Southdown đáp hộ:
- Một con chó chăn cừu! Bà Crawley thân mến ơi, bà có ý kiến hay quá. Sao
không mua lấy một con chó giống Đan-mạch? Tôi biết có một con to như con hươu
cao cổ, cho kéo xe ngựa cũng được. Hay là tậu một con chó săn giống Ba Tư. Tùy
bà đấy. Mua phăng loại chó lùn ấy, nó bé tí tẹo, bỏ vào trong hộp thuốc lá của
hầu tước Steyne được đấy. Ở Bayswater có người mua được một con, bà có
thể...tôi ra con Tây đây ạ... Bà có thể lấy mõm nó mà treo mũ được.
Rawdon trịnh trọng đáp:
- Tôi biết nước bài của anh rồi đấy...
Cũng như mọi lần, bao giờ anh ta cũng chỉ chú ý đến canh bạc, ít tham gia
câu chuyện chung, trừ khi mọi người bàn đến chuyện đua ngựa và “đánh cá” thì
không kể. Anh chàng Southdown bé nhỏ ranh mãnh hỏi lại:
- Làm gì mà bà phải dùng chó chăn cừu?
Becky cười, ngước nhìn hầu tước Steyne, đáp:
- Tôi muốn nói một con chó chăn cừu theo nghĩa bóng.
Vị hầu tước hỏi:
- Thế là nghĩa lý quái gì?
Becky đáp:
- Cần một con chó săn để đuổi chó sói cho tôi. Nghĩa là một tỳ nữ.
- Cô cừu non bé nhỏ thân yêu ơi, cô cần lắm thật đấy. Vị hầu tước đáp vậy,
quai hàm lão banh ra, lão méo xệch mồm đi mà cười, rồi đôi mắt ty hý cứ liếc
Rebecca mãi.
Vị hầu nước đại danh Steyne đang đứng nhấm nháp cà phê bên lò sưởi. Lửa
trong lò sáng rực, củi cháy kêu tí tách, nghe rất vui tai. Trên mặt lò sưởi có
đến nửa tá bạch lạp thắp sáng trưng gắn trên những chân đèn bằng đồng đen hoặc
bằng sứ, hình thù lạ mắt. Ánh lửa chiếu hắt vào mặt Rebecca đang ngồi trên ghế
xô fa có đệm bọc vải hoa mầu rực rỡ. Trong tấm áo màu hồng, trông cô ta tươi
mát như một đoá hồng mơn mởn. Đôi vai và cánh tay để trần, trắng nõn nà, nửa
kín nửa hở ẩn dưới một tấm khăn bằng sa mỏng tanh. Mớ tóc rủ xuống gáy thành
những búp xoăn xoăn. Dưới những nếp áo lụa mới tinh ló ra một bàn chân nhỏ
nhắn, một chiếc dép xinh xắn nhất ôm lấy một bàn chân đi tất lụa đẹp đẽ cũng
xinh xắn nhất trên đời!
Ánh sáng nến soi vào cái trán hói bóng loáng của hầu tước Steyne có viền
một hàng tóc đỏ quạch. Lão có bộ lông mày sâu róm, đôi mắt ti hí, hấp háy đầy
những tia máu, xung quanh chi chít những vết nhăn. Mỗi lúc lão cười, cằm dưới
bạnh to ra, để lộ hai chiếc răng nanh trắng nhởn dữ tợn như răng thú rừng. Lão
vừa đi dự tiệc buổi tối với các quan to trong triều về, hãy còn khoác trên ngực
tấm băng bội tinh “Nịt đùi!(). Hầu tước thân hình lùn thấp, ngực rộng, chân
vòng kiềng, nhưng ngài rất kiêu hãnh có đôi bàn chân bé nhỏ, lúc nào cũng xoa
xoa đầu gối có đeo nịt. Lão nói tiếp:
- Vậy ra chàng chăn cừu không đủ sức bênh vực con cừu non của anh ta sao?
Becky cười đáp:
- Chàng chăn cừu còn quá mải mê đánh bài và đàn đúm với bạn.
Vị hầu tước nói:
- Chết thật, anh chàng Corydon thật hư hỏng quá, chả để ý gì đến nhiệm vụ
của mình.
Rawdon vẫn ngồi đánh bài, lên tiếng:
- Tôi ra hai chọi với ba của anh đấy.
Vị hầu tước quý báu nhếch mép cười:
- Trông bác Meliboeus kìa, công việc chăn nuôi của bác ta mới bận rộn làm
sao! Bác đang lo gọt lông con cừu Southdown, một con cừu ngây thơ quá, hả? Cha
mẹ ơi, bộ lông trắng nõn như tuyết vậy!
Đôi mắt Rebecca ánh ra những tia sáng đầy ý nghĩa châm chọc, khinh miệt:
- Thưa hầu tước, chính ngài là một Hiệp sĩ Bội tinh “Lông cừu vàng () đấy
ạ.
Thực tế, ngài hầu tước đeo ở cổ chiếc băng đỏ của tước hiệu Hiệp sĩ Bội
tinh lông cừu vàng là tặng vật của Hoàng gia Tây Ban Nha vừa mới phục hưng.
Hồi còn trẻ, lão hầu tước Steyne lừng lẫy tiếng tăm về sự táo bạo và may
mắn trên chiếu bạc. Có lần lão đánh bài với Fox tiên sinh suốt hai ngày đêm
liền không nghỉ. Lão đã được bạc của những tay bạc tai mắt nhất trong nước. Họ
đồn rằng tước hầu của lão cũng mua ngay trên chiếu bạc, nhưng lão không ưa ai
nhắc đến những chuyện ngông cuồng cũ. Rebecca thấy đôi lông mày sâu róm của lão
cau lại. Cô ta đứng lên tiến lại, nhấc lấy tách cà phê trên tay lão vừa khẽ cúi
chào, nói:
- Vâng, tôi cần một con chó săn thực, nhưng nó sẽ không sủa ngài đâu.
Đoạn bước sang phòng khách bên kia, cô ta ngồi xuống cạnh cây dương cầm,
lên tiếng hát mấy bài hát tiếng Pháp, giọng hát thật du dương êm ái; lão quý
tộc dịu hẳn nỗi bực mình, lập tức theo sang; người ta thấy lão gật gù cái đầu
theo nhịp đàn.
Trong khi ấy, Rawdon và bạn vẫn tiếp tục đánh bài kỳ chán chê mới chịu
thôi. Viên trung tá được bạc. Mặc dầu lần nào cũng được tiền, anh chàng cựu sĩ
quan ngự lâm quân vẫn thấy chán những tối hội họp cuối tuần vài lần như thế
này, vì trong khi chị vợ điều khiển câu chuyện được mọi người thán phục thì anh
ta ngồi lầm lỳ một chỗ, nghe những câu bỡn cợt, những lời bóng gió đầy bí mật
trao đi đổi lại, mù tịt chẳng hiểu lấy một tiếng. “Phu quân bà Crawley có mạnh
khoẻ không?” Mỗi lần gặp mặt anh, hầu tước Steyne lại chào như vậy. Sự thật thì
bây giờ đó chính là nghề nghiệp của Rawdon. Anh ta là chồng bà Crawley chứ
không còn là trung tá Crawley nữa rồi.
Cho đến bây giờ chúng ta chưa có dịp nói nhiều về thằng bé Rawdy chính vì
nó còn bị giấu kín trên một xó gác nào đó, hoặc nó còn đang bò lê la xuống nhà
bếp để tìm bạn chơi. Mẹ nó chẳng mấy khi nhòm ngó đến con trai. Suốt thời gian
còn nuôi chị vú người Pháp cả ngày nó chỉ chơi với chị này; đến khi chị ta thôi
việc, thằng bé phải ngủ một mình, gào khóc suốt đêm; một chị hầu gái trong nhà
thấy vậy thương quá, bèn tìm lên ngủ với nó trong căn gác xép. Lúc Rebecca và
hầu tước Steyne cùng vài người nữa, ở rạp Opera về, vào phòng khách uống trà
thì nghe tiếng thằng bé kêu la trên đầu. Ngồi uống trà trong phòng khách,
Rebecca bảo: “Thằng bé nhà tôi nó gọi vú em đấy mà”. Cô ta cũng chẳng buồn đứng
dậy xem con khóc ra sao nữa. Hầu tước Steyne mỉa mai: “Bà đừng ra nữa, nhìn
thấy nó khéo mà phát ốm lên vì thương con mất.”
Rebecca hơi đỏ mặt đáp:
- Dào ôi! khóc chán mồm thì nó ngủ.
Đoạn cả bọn lại tiếp tục bàn chuyện Opera.
Rawdon đã lẻn ra ngoài xem con trai thế nào, thấy chị Dolly chân thật đang
dỗ nó anh ta mới quay vào phòng khách. Phòng rửa mặt của viên trung tá ở trên
gác, anh ta thường vẫn chơi với con trong phòng này. Sáng sáng lúc cạo râu anh
ta chơi đùa với con. Thằng Rawdy ngồi trên cái hòm nhìn bố cạo mặt thích lắm,
hai bố con rất mến nhau. Ông bố hay lấy bớt phần mứt tráng miệng sau bữa ăn đem
giấu vào trong cái hộp đựng lon vai để cho con trai tìm. Thằng bé khám phá ra
chỗ để mứt, thích quá cười vang lên; nhưng cấm không được cười to, vì mẹ nó
đang ngủ dưới nhà, không được làm ồn. Rebecca hay thức khuya, hôm sau thường
ngủ mãi đến chiều mới dậy.
Rawdon mua cho con rất nhiều sách có tranh vẽ, trong phòng của thằng bé
ngổn ngang những đồ chơi. Trên tường la liệt toàn tranh là tranh, bố nó bỏ tiền
ra mua về rồi tự tay dán lên cho con chơi. Lần nào không phải theo hầu vợ đi
dạo ngoài công viên, anh ta ngồi chơi với con hàng mấy giờ liền; thằng bé cưỡi
lên ngựa, hai bố con đùa với nhau suốt ngày đủ trò. Căn phòng này trần thấp lè
tè; hồi thằng bé chưa đến năm tuổi, một bữa bố nó đùa tung nó lên cao, sọ thằng
con trai va vào trần nhà một cái thật mạnh; anh ta hoảng quá, suýt đánh rơi
thằng bé xuống đất.
Thằng bé Rawdy định hét rầm lên; kể ra nó cũng đau quá thật, nhưng bố nó
dọa:
- Ngoan nào, Rawdy, đừng khóc mẹ dậy.
Thế là thằng bé mếu máo nhìn bố, mím môi lại, nắm chặt hai bàn tay, không
khóc tý nào. Rawdon đem chuyện kể lại với tất cả mọi người ở câu lạc bộ và ở
quán ăn. Anh ta bảo thế này: “Ông ạ, thằng bé nhà tôi cừ thật. Tôi làm nó va
đầu suýt thủng cả trần nhà, thế mà nó sợ mẹ nó dậy, không khóc một tiếng nào,
thế có tài không cơ chứ?”
Mỗi tuần lễ, mẹ nó chỉ lên gác thăm nó độ một hai lần. Vào thăm con mà
trông cô ta như là người mẫu trong tiệm trưng bày áo phụ nữ (), miệng cười thật
tươi, áo xống, bao tay và giầy mới tinh thật đẹp. Trên người cô ta đủ các thứ
khăn đăng ten và đồ trang sức lấp lánh, mỗi lần vào thăm con, cô ta lại đội một
cái mũ mới, bao giờ cũng có gài hoa, hoặc đính một túm lông đà điểu cao vút
tuyệt đẹp, trắng muốt và mịn như hoa bạch trà. Thằng bé đang ăn hoặc đang vẽ
hình thằng lính ngước lên. Cô ta gật gật đầu với con độ một hai cái, có vẻ
chiếu cố đến nó. Lúc cô ta đi ra, trong phòng còn thoang thoảng mùi hoa hồng
hoặc một thứ mùi hương huyền bí nào đó. Trước mắt thằng bé, mẹ nó là một nhân
vật thần tiên, cao xa hơn bố nó nhiều, cao xa hơn tất cả mọi người... phải đứng
xa xa mà chiêm ngưỡng và thờ phụng. Cùng ngồi xe đi chơi với một bà như thế là
cả một nghi lễ. Nó ngồi ở ghế hậu, không dám nói năng gì, hai mắt cứ mở thao
láo ra mà ngắm cái bà công chúa áo quần lộng lẫy ngồi trước mặt. Nhiều ông sang
trọng cưỡi ngựa, áo quần thật đẹp tiến lại mỉm cười nói chuyện với mẹ nó. Nó
thấy mắt mẹ nó sáng rực lên mỗi khi nhìn họ, khi họ đi qua xe, mẹ nó giơ tay
lên vẫy vẫy thật mềm mại. Đi chơi với mẹ, bao giờ thằng bé cũng được mặc bộ áo
đỏ mới. Ở nhà thì chỉ mặc bộ áo cũ nhàu cũng được. Thỉnh thoảng Rebecca đi
vắng, thằng bé theo chị Dolly vào trải lại giường trong phòng mẹ. Thật là một
cái động tiên...
Thằng bé thấy gian phòng toàn những đồ vật lộng lẫy kỳ lạ. Trong tủ áo treo
bao nhiêu là áo màu, hồng xanh, hồ thuỷ và ngũ sắc, trên bàn trang điểm có một
cánh tay bằng đồng đen đeo đến một trăm cái nhẫn óng ánh. Có cả một tấm gương
xoay, một kiệt tác nghệ thuật; nhìn vào gương, thằng bé chỉ kịp thấy khuôn mặt
ngơ ngác của mình lấp ló và bóng chị Dolly đang rũ gối cạnh giường (quái, trông
chị ta méo mó và như treo lộn ngược lên trần nhà ấy nhỉ?). Đáng thương thay,
thằng bé không người săn sóc. Trời sinh ra tiếng “mẹ” để dành cho đôi môi và
trái tim của con trẻ, nhưng thằng Rawdy đã phải thờ phụng một cục đá!
Tính tình Rawdon Crawley tuy bạt mạng như thế nhưng anh cũng có những tình
cảm cao thượng, quý vợ quý con ra phết. Anh ta vẫn giấu giếm nâng niu thằng
Rawdy; việc này không thoát khỏi mắt Rebecca, tuy cô ta không hề nói với chồng;
cũng không vì thế mà Rebecca bực mình, tính cô ta vẫn tốt. Có điều chuyện ấy
khiến Rebecca khinh chồng hơn. Anh cảm thấy hơi xấu hổ về tình cảm bố con uỷ mị
của mình, anh giấu vợ và chỉ dám âu yếm con khi vợ đi. Sáng sáng, Rawdon hay bế
con đi chơi. Hai bố con dắt nhau ra chuồng ngựa rồi ra công viên. Anh chàng bá
tước Southdown trẻ tuổi là người rất tốt bụng, có thể sẵn sàng lột mũ đang đội
trên đầu ra cho người khác; suốt đời anh này chỉ có một công việc là đi mua đủ
thứ đồ chơi về để dành biếu thiên hạ dần. Anh ta tậu cho thằng bé một con ngựa
non, theo lời anh ta, “chỉ nhỉnh hơn con chuột một tý”. Rawdon hay cho con trai
cưỡi ngựa ô giống Shetland rồi dắt ra công viên chơi... Viên trung tá rất thích
thăm lại trại lính và những bạn đồng đội cũ ở Knightsbridge. Nhớ lại cuộc đời
trai không vợ trước kia, anh chàng bắt đầu có ý tiêng tiếc. Đám lính tráng gặp
lại vị chỉ huy cũ thì vui quá. Họ tranh nhau bế ẵm thằng Rawdy. Trung tá
Crawley lại thấy thích dùng cơm ở quán ăn nhà binh với các bạn sĩ quan. Anh ta
thường nói: “Mẹ kiếp, vợ tớ vẫn cho tớ là đần... tớ biết lắm. Nó chẳng mong tớ
về đâu. Anh ta nói đúng, vợ anh ta không mong chồng thật.
Rebecca cũng quý chồng. Đối với chồng bao giờ cô ta cũng vẫn vui vẻ dịu
dàng; cũng chưa bao giờ cô ta để lộ sự khinh rẻ của mình quá rõ ràng, có lẽ
thấy chồng ngớ ngẩn, cô ta lại ưa hơn cũng nên. Rawdon trở thành người đầy tớ
thân tín của vợ, đóng vai một thứ quản lý trong nhà. Vợ sai gì, anh ta làm nấy,
không hỏi han căn vặn; anh ta giong xe cho vợ, muốn đi đâu chơi thì đi, không
hề bao giờ có ý kiến gì. Dẫn vợ đến Opera xong, Rawdon chuồn về câu lạc bộ
chơi, chờ đến khi tan hát thì trở lại đón vợ. Giả thấy vợ quý thằng con trai
hơn một tí thì anh ta cũng thích, nhưng rồi Rawdon cũng tự an ủi: “Mẹ kiếp, vợ
mình nó vẫn là tay thông minh. Mình có chữ nghĩa được bằng nó đâu. Bởi lẽ, như
ta đã biết, muốn chơi bài xì và bi-a giỏi để ăn tiền thiên hạ chẳng cần thông
minh lắm, mà Rawdon cũng không thiết tài giỏi trong các lãnh vực khác.
Khi có khách đến chơi thì nhiệm vụ gia đình của anh ta lại hoá ra nhẹ nhàng
quá. Cô vợ khuyến khích anh chồng đi dùng bữa ở ngoài. Cô ta sẵn lòng miễn cho
anh chồng cả cái việc phải đến đón mình khi tan hát ở rạp Opera. Cô hay bảo anh
chồng: “Anh yêu, đêm nay đừng ở nhà làm gì cho buồn nhé. Em sắp có vài người
khách, họ sẽ chỉ làm cho anh bực mình thôi. Em chẳng báu gì họ, nhưng anh cũng biết
đấy, mời họ đến chơi cũng có lợi cho anh; vả lại bây giờ đã có một con chó chăn
cừu rồi, thì em cũng chẳng cần sợ hãi vì tiếp họ một mình!
Bà Crawleyl nghĩ thầm: “Một con chó chăn cừu... một người tỳ nữ. Becky
Sharp cùng một người tỳ nữ! Kể cũng tức cười thật”. Ý nghĩ ấy kích thích cái
khiếu hài hước của cô ta đến cực độ.
Một buổi sáng chủ nhật, Rawdon Crawley cho con cưỡi ngựa đi chơi ở công
viên như mọi khi, thì gặp một người quen cũ là viên hạ sĩ Clink thuộc trung
đoàn của mình ngày trước. Bác này đang đứng nói chuyện với một người quen là
một ông già; ông lão bế một đứa bé trạc tuổi thằng Rawdy. Thằng bé đưa tay mân
mê tấm huy chương Waterloo của viên hạ sĩ có vẻ thích chí lắm.
Viên trung tá chào:
- Thế nào, khoẻ mạnh chứ?
Bác hạ sĩ đáp:
- Xin kính chào ngài, em bé này cũng trạc tuổi cậu con trai của trung tá
đây.
Ông già đang bế thằng bé cũng nói:
- Bố cháu cũng có dự trận Watecloo đây. Phải không cháu Georgy?
- Vâng.
Thằng bé Georgy đáp vậy. Nó và thằng bé cưỡi
ngựa trố mắt lên nhìn nhau chòng chọc từ đầu đến chân đúng lối trẻ con lạ mới
gặp nhau lần đầu.
Clink nói giọng hãnh diện:
- Ông ấy thuộc một trung đoàn chiến đấu.
Ông lão tiếp, giọng gần như trịnh trọng:
- Bố cháu là đại uý trong trung đoàn thứ... Đại
uý George Osborne... Có lẽ ngài cũng có biết bố cháu. Nó chết như một người anh
hùng trong khi chiến đấu chống lại tên bạo chúa người đảo Corse. Trung tá
Crawley đỏ bừng mặt lên, hỏi:
- Thưa cụ, tôi biết anh ấy rõ lắm. Còn vợ anh
ấy, thưa cụ bây giờ ra sao?
- Vợ nó là con gái tôi đấy, ngài ạ.
Ông già đặt thằng bé xuống đất, trịnh trọng móc
trong túi ra một tấm danh thiếp đưa cho viên trung tá, trên danh thiếp thấy đề:
“Ông Sedley, đại lý duy nhất của công ty kim
cương đen và Liên đoàn buôn than không có tro, trụ sở tại Bunker’s Wharf, phố
Thames và tại Anna-Maria Cottages, đường Funllam Tây”.
Thằng Georgy tiến lại gần ngó con ngựa non
Shetland. Thằng Rawdon đang ngồi trên yên hỏi:
- Mày có muốn cưỡi không?
Georgy đáp: “Có”.
Viên trung tá có vẻ mến thằng bé bế ngay nó lên
cho ngồi đằng sau thằng Rawdy. Anh ta bảo:
- Georgy, nắm chặt lấy áo em, ôm lấy lưng nó
nhé... nó tên là Rawdon đấy.
Cả hai đứa trẻ cùng cười. Viên sĩ quan vui tính
nói:
- Khó mà thấy được hai đứa bé nào kháu thế.
Viên trung tá cùng bác hạ sĩ và ông già Sedley
tay cắp ô, cả ba cùng đi theo hai đứa trẻ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét