NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 1: OATECLÔ
Chương I
NGƯỜI TA THẤY GÌ KHI ĐI TỪ NIVEN ĐẾN
Năm
ngoái (1861), vào một buổi sáng tháng năm đẹp trời, người kể chuyện này từ
Ninven đến và đi về La Huynpơ. Anh ta đi bộ. Con đường rộng lát đá lượn mình
băng qua nhiều quả đồi liên tiếp, lúc nhô lên cao, lúc tụt xuống thấp, nhấp nhô
như những đợt sóng khổng lồ. Anh ta đi theo con đường ấy, giữa hai rặng cây bên
lề. Đi quá Liloa và Boa Xenhơ Ixăc, anh ta nhìn về phía ấy thì thấy cái gác
chuông lợp đá xám của nhà thờ vùng Bơrơn Lalơ, tròn tròn như cái chậu úp. Anh
ta cũng vừa đi quá một cánh rừng trên một mỏm cao và một cái quán rượu chỗ ngã
ba một con đường tắt, bên cạnh một cái gì như một cái giá gỗ mục nát còn ghi
mấy chữ: Cổng cũ số 4. Cổng cũ số 4. Trước quán có biển đề: Gió bốn phương
Êsabô, quán rượu tư nhân.
Cách
quán không xa mấy, lại đến một thung lũng nhỏ, con đường vắt qua một cái cổng
vòm tròn, bên dưới có dòng nước chảy qua. Bên trái, một lùm cây thưa nhưng tàn
lá xanh um, phủ kín thung lũng; bên phải cũng lùm ấy mà lơ thơ rải rác trên các
đồng cỏ, rồi duyên dáng và như lộn xộn chạy về Bơren Lalơ.
Quãng
ấy, bên vệ đường, về tay phải có một hàng cơm. Trước cửa, một chiếc xe bò bốn
bánh, một bó to những cành hubơlông, một cái cày, một đống gai khô bên cạnh
hàng rào xanh, một mớ vôi đang tôi hãy còn bốc khói trong một hố vuông, một cái
thang tựa vào vách đất một cái nhà kho cũ. Một thiếu nữ đang cuốc cỏ trong
ruộng. Một tấm áp phích màu vàng, chắc là của một đám làm trò chợ phiên nào,
đang phất phơ trước gió. Bên góc quán, gần cái ao có đàn vịt bơi lội, một con
đường hẻm lát đá lởm chởm chui sâu vào một bụi rậm. Người khách rẽ vào lối ấy.
Đi quãng
một trăm bước, men theo một dãy tường cổ, trên cao là đầu hồi nhọn hoắt bằng
gạch xây đổi chiều, anh ta đứng trước một cổng tò vò lớn bằng đá, có cửa giả
bên trên, theo kiểu kiến trúc nghiêm nghị đời Lui XIV, với hai bên hai bức phù
điêu. Bên trong, là mặt trước của ngôi nhà, đồ sộ, cao ngất so với cổng vào.
Một bức tường chạy dài từ mặt trước nhà đến gần sát cổng, làm thành một góc
thẳng đột ngột. Trên bãi cỏ trước cổng, ba cái bừa bỏ nằm chơ vơ, các loại hoa
xuân đã chen vào kẽ răng thanh gỗ, đua nhau tươi tốt. Cổng nhà im ỉm. Trên hai
cánh cửa ọp ẹp hãy còn chiếc búa gõ cửa gỉ nát làm thứ trang hoàng. Mặt trời ấm
áp dễ chịu. Cành lá có gì xôn xao êm dịu của mùa xuân. Dường như không phải vì
gió mà từ các tổ ấm trên cành truyền ra. Một con chim nhỏ dễ thương, chắc là si
tình, đang hót mê mẩn trên ngọn cây cao. Người khách cúi xuống nhìn, ở phiến đá
bến trái dưới chân cửa, cái lỗ thủng khá rộng và tròn như một cục bi. Vừa lúc
ấy cánh cổng hé ra và một người đàn bà quê mùa bước ra. Chị ta trông thấy khách
và hiểu khách đang nhìn gì:
- Đó là
vết đạn đại bác của quân Pháp đấy.
Và chị
ta tiếp:
- Phía
trên một tí, ông nhìn thấy đó; trong cánh cửa, cạnh cái đinh, còn có vết đạn
của súng cỡ to, nhưng đạn chưa xuyên qua gỗ.
Người
khách hỏi:
- Đây là
vùng nào?
-
Hugômông – người đàn bà đáp.
Người
khách đứng thẳng lên. Anh ta bước đi vài bước rồi đưa mắt nhìn qua đầu hàng
giậu. Sau các rặng cây, về phía chân trời là một cái gò cao và trên đỉnh gò một
cái gì nhìn xa có hình thù như một con sư tử.
Người
khách đang ở giữa chiến trường Oateclô.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 1: OATECLÔ
Chương 2
HUGÔMÔNG
Hugômông
là một nơi đau thương tang tóc, nơi bắt đầu mọi chướng ngại, nơi người thợ rừng
vĩ đại của châu Âu mà người ta gọi là Napoleon đã gặp sự kháng cự đầu tiên ở
Oateclô, là cái mắc cứng đầu tiên dưới lưỡi búa. Ngày xưa đó là một lâu đài,
bây giờ thì chỉ còn là một trại tá điền. Dưới mắt một anh bán đồ cổ thì
Hugômông chỉ là Hugômôngxơ. Lâu đài này do chúa đất Xômơren là Huygo xây nên,
chính ông cũng đã cúng cho tu viện Vile một phần đất lộc của tu viện.
Người
khách đẩy cổng, lách qua một cỗ xe ngựa cổ dưới hành lang rồi đi vào sân.
Vật đầu
tiên làm anh chú ý là một cái cửa rất cổ, nay trông như một cổng tò vò trong
đền cổ, vì chung quanh mọi vật đều đổ nát hết. Cánh hoang tàn thường làm nên vẻ
hùng tráng của di tích. Bên cạnh cổng tò vò ấy có một cái cửa khác xây đá
nghiêng theo kiểu thời vua Hăngri IV. Cửa trổ trên một bức tường, đằng sau cửa
thấp thoáng một vườn cây ăn quả. Gần cửa là một hố phân, một mớ cuốc xẻng, mấy
chiếc xe bò, một cái giếng cũ với phiến đá to và cần quay bằng sắt, một chú
ngựa con đang nhảy cỡn, một anh gà tây đang xòe đuôi, một nhà nguyện nhỏ có gác
chuông trên nóc, một hàng lê áp vào vách đang ra hoa, đó là tất cả quang cảnh
cái sân mà Napoleon đã ao ước chiếm cho được. Mẩu đất cỏn con này, giá ông
chiếm được thì ông đã nắm cả thiên hạ trong tay. Một bầy gà mái bới bới mổ mổ,
làm bụi bay mù mịt! Có tiếng gầm gừ: đó là một con chó kếch xù nhe răng, gác
thay cho quân Anh không còn đây nữa. Hồi ấy quân Anh đóng ở đấy đáng khen thật.
Bốn đại đội cận vệ của Cuốc đã đương đầu trong bảy giờ liền với cuộc tấn công
ráo riết của cả một quân đoàn.
Nhìn
trên bản đồ theo bình diện hình học thì Hugômông cả nhà cửa lẫn vườn như một
thứ hình chữ nhật không đều mà một góc đã bị vạt đi. Cổng phía nam ở vào góc
này. Bảo vệ cổng là một bức tường, từ bức tường đó có thể bắn thẳng vào cổng,
rất gần. Hugômông có hai cổng: cổng nam là cổng vào lâu đài, còn cổng bắc là
cổng vào trại. Napoleon đã điều em mình là Giêrôm đến đánh Hugômông. Các sư
đoàn Ghidơminô, Phoa và Basôluy đều bị chặn đứng ở đấy. Hầu hết binh đoàn của
Rây vứt vào đấy nhưng chẳng làm được gì, đạn pháo của Kênlécman cũng đã trút
sạch vào cái mảng tường anh dũng nọ. Cũng phải cả lữ đoàn Bôđuyanh mới chọc
thủng được Hugômông ở mặt bắc, còn lữ đoàn Xoa thì chỉ công phá được nhiều ít ở
mặt nam, mà không chiếm nổi.
Các dãy
nhà trại vòng theo sân ở phía nam. Một miếng cửa bắc bị quân Pháp bắn gãy, còn
lủng lẳng trên tường. Đó là bốn mảnh ván ghép lại bằng hai thanh ngang, dấu vết
trận tấn công còn in rõ.
Cổng
phía bắc đã bị quân Pháp phá thủng. Tấm ván lủng lẳng trên tường đã được thay
bằng một phiến gỗ. Cổng mở hé ở cuối dãy hành lang, về phía bắc sân. Nó được
đục hẳn vào tường, phía dưới xây bằng đá, trên bằng gạch. Thật ra đó chỉ là một
cái cổng cho xe bò vào ra, cũng như ở mọi nhà trại nông dân, mấy tấm ván ghép
lại thành hai cánh thô sơ. Bên ngoài cổng là các đồng cỏ.
Hai bên
đã tranh giành nhau rất ác liệt cái cổng này. Rất lâu về sau hãy còn thấy trên
khung cửa đủ loại dấu tay vấy máu. Bôđuyanh chết ở chính nơi này.
Bây giờ
nhìn vào khoảng sân này hãy còn như nghe thấy giông tố của trận đánh. Không khí
ác liệt ghê gớm đương rành rành trước mắt. Cảnh quân lính quần nhau ẩu đả, nay
đã hóa đá trong cảnh đổ nát hoang tàn. Sống đó; chết đó; mới như hôm qua. Tường
vách hấp hối, gạch đã đổ rơi, phá khẩu kêu gào. Những lỗ thủng là những vết
thương. Cây cối ngả nghiêng, run rẩy dường như đang cố sức chạy trốn.
Hồi 1815
chung quanh sân này nhà cửa nhiều và kiên cố hơn bây giờ. Nhiều cái ngày nay đã
triệt hạ nhưng lúc ấy hãy còn và tạo ra rất nhiều những góc, những khuỷu, những
mõm như những công sự. Quân Anh cố thủ ở đó. Quân Pháp lọt vào nhưng không bám
chốt được. Bên cạnh nhà nguyện, toàn bộ lâu đài Hugômông vỡ ra toang hoác. Lâu
đài bấy giờ đã là đồn lũy, nhà nguyện thành ra lô cốt. Hai bên hủy diệt nhau ở
đây. Bị bắn từ khắp nơi, từ sau tường, trên gác, dưới hầm, qua các cửa sổ, các
lỗ thông hơi, các kẽ đá, quân Pháp đem cành khô đến châm lửa đốt các bức tường
và đốt luôn quân Anh. Súng đạn được đáp lại bằng đám cháy là như vậy.
Trong
mảng nhà còn lại ấy, qua các cửa sổ có chấn song sắt, còn thấy các căn buồng đổ
sạt nham nhở của một dãy nhà bằng gạch. Bọn vệ binh Anh nấp trong các buồng
này. Chiếc cầu thang xoáy trôn ốc, thủng, vỡ từ dưới đất lên đến tận nóc, hiện
ra như một con ốc bị đập vỡ. Cầu thang có hai tầng, quân Anh bị vây trong cầu
thang, dồn lại ở các bậc trên cao, đã phá đứt các bậc dưới thấp. Đó là những
phiến đá xanh rộng đổ thành đống giữa vạt dền gai. Độ mười bậc còn dính vào
tường, bậc thứ nhất có khắc hình một cái đinh ba. Các bậc không leo lên được
này còn gắn vững vào trụ. Phần còn lại thì như hàm răng rụng. Hai cây mọc trước
kia hãy còn đó: một cây đã chết, cây kia bị thương ở gốc, đến tháng tư thì xanh
lại. Từ 1815, nó lại lớn lên, đâm xuyên qua cầu thang.
Hai bên
tàn sát lẫn nhau trong nhà nguyện. Ở đấy, bây giờ đã yên lặng và trông rất lạ
lùng. Từ ngày có cuộc đổ máu, không làm lễ nữa. Tuy vậy, cái bàn thờ bằng gỗ
vẫn còn nguyên, áp sát vào vách đá xù xì. Bốn vách quét vôi, một cửa ra vào đối
diện với bàn thờ, hai cửa sổ nhỏ có vòm cuốn. Trên cửa, một thánh giá to bằng
gỗ, phía trên thánh giá, một lỗ thông hơi hình vuông, có một bó rơm nhét kín;
trong góc, dưới đất, một khung cửa kính cũ vỡ nát. Pho tượng gỗ xưa của nữ
Thánh Anơ đóng hẳn vào cạnh bàn thờ. Cái đầu của Chúa Giêsu hài đồng bị đạn bay
mất. Quân Pháp làm chủ nhà nguyện một lúc, khi buộc phải rút ra ngoài đã châm
lửa đốt. Thánh đường ngập lửa cháy như một lò than. Cửa ra vào cháy, sàn nhà
cháy, nhưng tượng đấng Cơrít bằng gỗ lại không. Lửa chỉ thiêu các ngón chân,
rồi ngưng lại để trơ lại bên chân cụt ngón xém đen. Người trong vùng cho đó là
một việc thần kỳ. Chúa hài đồng Giêsu, bị cụt đầu, cũng không may mắn gì hơn
Chúa cứu thế.
Trên
vách đầy chữ. Bên chân tượng Chúa cứu thế có tên: Hankinê. Rồi các tên khác:
Riô Mackê, Anmargô. Cũng có nhiều tên Pháp với dấu than đằng sau, biểu thị sự
căm giận. Các quốc gia chửi nhau trên ấy. Đến năm 1849 các bức tường này đã
được quét vôi lại.
Chính ở
trước cửa nhà nguyện này người ta đã nhặt được xác một chiến sĩ trên tay còn
ghì chặt cái búa. Đó là xác của thiếu úy Lơgôrô.
Ra khỏi
nhà nguyện, về bên trái, có một cái giếng. Trong sân có những hai cái giếng.
Người ta đặt câu hỏi: Tại sao ở giếng bên trái này không có gầu và ròng rọc? Vì
người ta không lấy nước ở đây nữa. Tại sao lại không lấy nước nữa? Vì trong đó
đầy xương người.
Người
cuối cùng còn múc nước giếng này là Ghiôm Văng Kinxơn. Ông ta là một nông dân
chuyên làm vườn ở Hugômông. Ngày 18 tháng 6 năm 1815, gia đình ông ta chạy trốn
vào rừng.
Dân
chúng khốn khổ trong rừng cũng chạy tan tác như vậy. Cánh rừng chung quanh tu
viện Vile đã che chở cho họ suốt mấy ngày đêm liền. Ngày nay theo một số dấu
vết còn nhận ra được, thí dụ các súc gỗ cháy sém, có thể tìm lại được những nơi
mà đoàn người run sợ đã cắm lều nấp tạm giữa vùng gai góc.
Riêng
Ghiôm Văng Kinxơn lại ở lại Hugômông để “giữ tòa lâu đài”. Ông ta thu mình
trong một cái hầm rượu dưới nhà. Quân Anh phát hiện ra được. Chúng lôi ông ra
khỏi hầm và dùng bản kiếm đánh, bắt con người hoảng sợ ấy phải phục dịch. Chúng
kêu khát thì ông phải đem nước đến. Nước lấy ở cái giếng này. Nhiều tên đã uống
ngụm nước cuối cùng ở đây. Bao nhiêu kẻ chết đã uống ở giếng này và cái giếng
cũng phải chết theo.
Sau trận
đánh, người ta vội vã chôn các xác chết. Cái chết thường có cách riêng của mình
để báo hại chiến thắng và sau vinh quang là dịch tễ. Thương hàn là cái đuôi của
chiến thắng. Cái giếng khá sâu, người ta dùng luôn nó làm ngôi mộ và vứt xuống
đó ba trăm người chết. Vứt vội vứt vàng nên không chắc là đã chết cả. Tục
truyền vẫn có người còn sống. Và nghe đâu, đêm hôm sau, trong giếng văng vẳng
có tiếng người kêu.
Giếng
nằm biệt lập giữa sân. Ba tấm vách nửa đá nửa gạch xếp lại như ba cánh bình
phong, bọc ba mặt như một lô cốt hình vuông. Mặt thứ tư để hở, là nơi người ta
đến múc nước. Trên tấm vách phía sau có một lỗ trống, có lẽ là do đạn pháo bắn
thủng, nên chẳng ra hình thù gì cả. Lô cốt ấy nguyên có trần nhưng giờ chỉ còn
trơ mấy chiếc xà ngang. Các thanh sắt đỡ tường bên phải xếp thành hình một chữ
thập. Bước vào giếng, cúi xuống nhìn, chỉ thấy vách gạch tròn và một hố sâu
thẳm tối om om. Chung quanh, dền gai mọc đầy phủ kín cả chân tường.
Đằng
trước giếng cũng không có phiến đá to màu xanh, làm cái bình phong như thói
thường ở Bỉ. Thay vào đó là một súc gỗ nằm ngang làm chỗ gối đầu cho năm sáu
đoạn gỗ hình thù xấu xí, đầy mắt, cứng đờ như những xương người to tướng. Chẳng
còn gầu, dây, ròng rọc gì cả, nhưng cái chậu đá để đổ nước vào thì hãy còn,
đọng đầy nước mưa. Thỉnh thoảng một con chim rừng đâu đó lại bay đến uống nước
rồi vụt biến mất.
Giữa
cảnh hoang tàn này, một ngôi nhà còn có người ở là ngôi nhà của người tá điền.
Nhà này thông với sân. Trên cửa ra vào, gần ổ khóa kiểu xưa còn có quả nắm sắt
chạm hình lá đỗ, bắt chênh chếch. Hồi đang đánh nhau, lúc viên trung úy người
Đức là Uynđa, vừa đưa tay cầm quả nắm để mở cửa vào trốn trong nhà này thì một
công binh Pháp vung búa chặt phăng bàn tay ấy.
Ông cụ
làm vườn Văng Kinxơn qua đời đã lâu. Bây giờ người ở ngôi nhà này là con cháu
của cụ, gọi cụ bằng ông. Một người đàn bà tóc đã hoa râm kể: “Hồi ấy tôi có ở
đây. Tôi mới lên ba. Chị tôi lớn hơn tôi, chị tôi sợ, chị tôi khóc. Cả nhà đưa
chúng tôi vào rừng. Mẹ tôi ẵm lấy tôi. Ai nấy đều ghé tai xuống đất để nghe ngóng.
Còn tôi, tôi bắt chước tiếng đại bác, cứ “bùm bùm” luôn miệng”.
Bên trái
có cửa thông ra vườn cây ăn quả.
Vườn cây
này mới thật ghê gớm.
Có ba
phần, có thể nói là ba hồi. Phần thứ nhất nguyên là một mảnh vườn cảnh, phần
thứ hai là vườn cây ăn quả, phần thứ ba là một khóm rừng. Cả ba phần đều có một
hàng rào chung phía phía đi vào lâu đài và nhà trại. Còn bên trái là một hàng
giậu, bên phải là một bức tường bằng gạch, phía sau là một bức tường đá. Bước
vào là đến khu vườn cảnh trước hết. Nó chiếm phần đất thấp, trồng dâu đất,
nhưng đầy gai góc, đằng cuối có một cái nền đất cao đồ sộ chắn ngang, bằng đá
tảng, có hàng bao lơn chạy bọc. Đây là một kiểu vườn vương giả ở nước Pháp
trước khi kiểu vườn Lơnôt ra đời. Nhưng bây giờ thì chỉ còn hoang tàn và gai
góc. Cột vôi đều có quả cầu trên đỉnh, giống như những quả đạn bằng đá. Trụ bao
lơn còn được bốn mươi ba cái nguyên, bao nhiêu cái khác đều ngã nằm trong cỏ.
Hầu hết đều có vết đạn sây sứt. Có một trụ gẫy nằm vật ngang nom như một cái
chân người bị rời ra. So với vườn cây thì khu này thấp hơn. Chính trong vườn
này, sáu binh sĩ trong đòan khinh binh số 1, lọt được vào nhưng không trở ra
nổi. Bị vít lại với hai đại đội quân Đức, trong đó có một đại đội trang bị súng
nhẹ bắn nhanh. Bọn Đức nấp dọc theo dãy bao lơn bắc từ trên cao xuống. Số khinh
binh bắn trả lại từ bên dưới lên. Sáu người mà chống lại hai trăm, chỉ bằng
dũng cảm, chỉ có những cây dâu đất che mình. Thế mà đến một khắc mới chịu chết.
Bước qua
một vài bậc đá thì sang vườn cây ăn quả. Chính trên khoảnh đất chỉ mấy thước
này, một nghìn năm trăm người đã ngã xuống trong khoảng thời gian không đầy một
tiếng đồng hồ. Nhìn lên vẫn thấy bức tường như đang sẵn sàng trở lại chiến đấu.
Ba mươi tám lỗ châu mai do quân Anh đục trong đá ở đủ tầm cao thấp khác nhau, hãy
còn nguyên đó. Hai ngôi mộ người Anh bằng đá hoa cương nằm dài trước lỗ thứ
mười sáu. Chỉ bức tường phía nam có lỗ châu mai. Đợt tấn công chính xuất phát
từ phía bức tường có một hàng giậu cây xanh che khuất. Quân Pháp kéo đến, tưởng
chỉ phải vượt qua có hàng giậu, không ngờ vấp phải bức tường. Vệ binh Anh lấy
đây làm công sự, làm nơi phục kích và từ ba mươi tám lỗ châu mai, nổ súng một
loạt, đạn to đạn nhỏ bắn nhỏ bắn ra rào rào như dông như bão. Lữ đoàn Xoa thế
là tan nát. Trận Oateclô bắt đầu như vậy.
Tuy
nhiên quân Pháp vẫn chiếm được vườn cây. Không có thang, họ bám tay không để
trèo. Hai bên đánh giáp lá cà trong lùm cây. Cỏ cây ở đấy đều đẫm máu. Một tiểu
đoàn của Natxô ngã gục ở đây. Bên ngoài, hai khẩu đội pháo của Kenlecman chĩa
thẳng vào bức tường làm cho nó sứt mẻ lỗ chỗ.
Mùa
xuân, vườn cây này cũng xôn xao rung động như mọi vật trong bầu trời. Cỏ lên
xanh tốt, hoa xuân đua nở. Mấy con ngựa cày gặm cỏ. Dây phơi quần áo chăng từ
cây này qua cây nọ khiến người đi qua phải cúi đầu. Người ta bước đi trong cỏ
dại, chân có lúc thụt xuống một hang chuột. Trong cỏ người ta nhận thấy một
thân cây trốc gốc, nằm trơ đang nẩy mầu xanh. Đây là nơi đại úy Bơlắcman ngồi
tựa vào trước khi tắt thở. Dưới gốc cây to bên cạnh là nơi tướng Đức Guypơla
ngã xuống, ông này là con cháu một gia đình người Pháp tị nạn sang Đức lúc thu
hồi sắc dụ Năngtơ (Năm 1598, tại thành Năngtơ, vua Pháp Hăngri IV ban hành sắc
dụ cho phép dân theo đạo cải cách. Gần 100 năm sau, Lui XIV thu hồi sắc dụ ấy).
Kề bên có cây táo già xiêu xiêu, có bệnh, được băng bó bằng rơm và đất sét. Hầu
hết các cây táo đều già cỗi và không có cây nào là không có vết đạn. Trong vườn
còn bao nhiêu là cây chết khô, đứng sững như những bộ xương. Một bầy quạ đang
bay trong cành. Đằng cuối, phía khu rừng, hoa viôlét mọc đầy.
Ở đây,
Bôđuyanh tử trận, Phoa bị thương, Đuypơla tử trận, Bơlăcman tử trận. Ở đây,
người ta dùng lửa thiêu nhau, người ta chém giết nhau, tàn sát nhau. Ở đây, máu
đã chảy thành sông, máu Pháp, máu Anh, máu Đức, lẫn lộn. Ở đây, một cái giếng
sâu đã làm mồ chôn xác chết. Ở đây, trung đoàn Natxô, trung đoàn Bơrăngguych bị
tiêu diệt, vệ binh Anh bị thiệt hại nặng, hai mươi trên bốn mươi tiểu đoàn Pháp
của quân đoàn Rây bị đánh tan tác. Đúng, ba nghìn người, trong cái túp lều
Hugômông này, đã bị đâm, bị chém, bị chặt, bị bắn, bị thiêu. Và tất cả cái đó
chỉ để cho ngày nay một ông dân địa phương trả lời khách qua đường: “Thưa ông,
nếu ông ưng nghe, ông cho tôi ba phơrăng, thì tôi xin kể cái chuyện Oateclô cho
mà nghe!”
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 1: OATECLÔ
Chương 3
NGÀY 18 THÁNG SÁU 1815
Xin trở
lui về trước – người kể chuyện thường được phép làm như vậy – và đặt mình vào
năm 1815, hơn thế nữa, vào trước lúc câu chuyện trong phần một sách này bắt đầu
một ít.
Ví thử
cái đêm 17 rạng ngày 18 tháng 6 năm 1815 mà trời không mưa thì tương lai châu
Âu chắc không phải thế này. Quả là một vài giọt mưa thêm, bớt đã làm cho
Napoleon nghiêng ngả. Té ra đấng cao anh chỉ cần thêm một ít mưa là trang sử vẻ
vang bắt đầu từ Auxteclít đành chấm dứt ở Oateclô và một đám mây trái mùa bay
ngang bầu trời lại đủ làm sụp đổ cả một thế giới.
Trận
Oateclô đến tận mười một giờ rưỡi trưa mới bắt đầu được. Nhờ thế nên Bơluyse
mới có thì giờ đến kịp. Tại sao lại chậm thế? Là vì trời mưa, đất ướt, phải đợi
cho đất se lại một tí thì pháo binh mới vận động được.
Napoleon
trước kia là sĩ quan pháo binh, ông cũng luôn luôn thấy mình là như vậy. Cái
căn bản của nhà quân sự vĩ đại ấy, là con người, từ thời Đốc chính khi báo về
trận Abukia, đã nói chính xác rằng: quả đạn pháo này đã diệt sáu tên địch. Ở
con người này tất cả kế hoạch đánh trận đều phục vụ cho con đường đi của đạn
pháo. Nã tập trung pháo vào một điểm nhất định, đó bí quyết của chiến thắng.
Ông coi chiến lược của tướng địch như một thành lũy và ông đánh thủng nó bằng
pháo binh. Lâm trận, ông cho tập trung pháo vào chỗ bên địch núng thế; ông thắt
trận đánh lại hay giải quyết trận đánh đều bằng đại bác. Trong thiên tài của
ông có phần xạ kích. Chọc thủng các đội hình vuông, nghiền nát từng trung đoàn,
chọc thủng các trận tuyến, đè bẹp, đánh tan những khối tập trung, tất cả chiến
thuật của ông là dập, dập mạnh, dập không ngừng và ông dùng đạn đại bác để dập
địch. Thật là một chiến thuật đáng sợ. Chiến thuật ấy, đi kèm theo thiên tài
quân sự, đã khiến cho người đô vật dữ dội ấy giữ cờ vô địch suốt mười lăm năm.
Ngày 18
tháng 6 năm 1815, ông lại càng tin cậy ở pháo binh vì so với địch ông nắm trong
tay nhiều pháo hơn. Tướng Oenlinhtơn bấy giờ chỉ có một trăm năm mươi chín khẩu
pháo, còn Napoleon có đến hai trăm bốn mươi.
Giả dụ
bữa ấy đất khô, đại bác có thể lăn bánh được và cuộc tấn công bắt đầu từ sáu
giờ sáng thì trận đánh đã thắng lợi và kết thúc vào hai giờ chiều, nghĩa là ba
giờ trước khi quân Phổ vào cuộc.
Trong
cuộc thất trận này, liệu Napoleon đã phạm bao nhiêu lỗi lầm? Thuyền chìm phải
chăng do lỗi của người cầm lái?
Năm ấy
sức khỏe của Napoleon rõ ràng có sa sút, nhưng không biết tình trạng ấy có kéo
theo một sự kém sút nào về mặt tinh thần không? Hai mươi năm chinh chiến có làm
cho con người ấy hao mòn cả lưỡi cả vỏ, từ tâm hồn đến cơ thể hay không? Hay là
tuổi già đã ảnh hưởng tai hại đến vị tướng chỉ huy? Tóm lại, như nhiều nhà sử
học có tiếng đã khẳng định, thiên tài kia đã mờ đi chăng? Đã cuồng nhiệt đến
mức tự lừa dối về sự sa sút của mình? Đã bắt đầu nghiêng ngả, mất hướng vì liều
lĩnh, phiêu lưu? Đã phạm khuyết điểm nghiêm trọng của người cầm quân, là mất
hết ý thức về tài hoa? Hoặc giả trong hàng ngũ những người vĩ đại mà người ta
có thể gọi là những bậc khổng lồ trong hành động, có phải đến một tuổi nào đó
thì thiên tài cũng trở nên cận thị chăng? Tuổi già chẳng làm gì nổi những bậc
thiên tài của lý tưởng: đối với những Đăngtơ, những Mikenlăng già có nghĩa là
lớn lên, còn đối với những Aniban, những Bônapac thì có nghĩa là bé lại chăng?
Phải chăng Napoleon đã mất đi trực giác về chiến thắng? Phải chăng ông đã đến
lúc không còn nhận ra đâu là trở ngại, không còn đoán ra đâu là cạm bẫy, không
còn phân biệt rõ đâu là bờ cheo leo trên vực thẳm nữa? Phải chăng ông không còn
linh cảm về tai họa? Xưa kia ông là người đã từng thuộc mọi nẻo đường dẫn đến
vinh quang, đã từng đứng trên cỗ xe sấm chớp của mình, đưa ngón tay uy vũ mà
chỉ những lối ấy cho mọi người, phải chăng con người ấy, bây giờ bỗng dưng nổi
cơn hoảng loạn gớm ghê, dẫn những binh đoàn rầm rộ của mình lao đầu xuống vực
thẳm? Con người ấy, bốn mươi sáu tuổi, đã mắc phải một cơn điên tuyệt độ chăng?
Người đánh xe khổng lồ ấy của số mệnh phải chăng đã cố tình đâm vào nơi tự sát?
Chúng
tôi không nghĩ như vậy.
Kế hoạch
trận đánh của ông, theo ý kiến mọi người, là một kiệt tác. Đánh thẳng vào giữa
trận tuyến quân đồng minh, chọc thủng một quãng ở đó cắt nó ra làm đôi, đẩy một
nửa là cánh quân Anh về Han, một nửa là cánh quân Phổ đếm Tôngcơrơi, chặt đại
quân đồng minh ra thành hai đoạn, đoạn Oenlintơn và đoạn Bơluyse, giành Mông
Xanh Giăng, chiếm Bơrúcxen, xô quân Phổ về sông Ranh và hất quân Anh xuống bể.
Tất cả kế hoạch ấy, đối với Napoleon đều ở trong trận này. Còn sau đó sẽ hay.
Không cần phải nói là chúng tôi không định viết lịch sử chiến dịch Oateclô ở
đây. Một trong những cảnh đẻ ra câu chuyện chúng tôi kể đây dính đến chiến dịch
này. Nhưng lịch sử toàn chiến dịch thì không phải việc chúng tôi. Lịch sử ấy
thật ra đã viết rồi và viết một cách tay thầy, hoặc theo quan điểm Napoleon
hoặc theo một quan điểm khác, do một lô những nhà sử học (Oantơ Xcốt,
Lammáctin, Vôlaben, Sarát, Kinê, Chie- chú thích ở nguyên bản). Về phần chúng
tôi, chúng tôi xin để cho các nhà sử học tranh cãi với nhau; còn chúng tôi chỉ
là một kẻ chứng kiến từ xa, một khách bộ hành đi qua cánh đồng, một người tìm
tòi dừng lại trên mảnh đất trộn lẫn thịt người này. Có thể chúng tôi thấy bề
ngoài mà nhận lầm là sự thật bên trong. Nhưng chúng tôi không có quyền, nhân
danh khoa học, cưỡng lại một loạt sự kiện trong đó có thể có ảo ảnh. Chúng tôi
không có thực tiễn quân sự, cũng không có thẩm quyền về chiến lược để có thể
cho phép mình dựng lên một học thuyết. Theo ý chúng tôi, ở Oateclô, một chuỗi
những ngẫu nhiên xoắn xít nhau đã tác động mạnh hơn những tính toán của hai
người cầm quân hai bên. Và khi đã nói đến số mệnh, cái tên bị cáo huyền bí ấy,
thì chúng tôi chỉ xin phán xét như dân chúng, người thẩm phán ngây thơ đơn
giản.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 1: OATECLÔ
Chương 4
Muốn
hình dung được rõ ràng trận Oateclô chỉ cần dùng trí tưởng tượng vẽ ra trên mặt
đất một chữ A hoa. Vế trái là con đường đi Niven, vế phải là con đường đi
Giơnáp, vạch ngang là lối trũng từ Ohanh đến Bơren Lalơ. Còn đỉnh Mông Xanh
Giăng, Oenlinhtơn đóng ở đó; chân vế trái là Hugômông, chỗ Rây và Giêrôn
Bônapac đóng; chân vế phải là Ben Laliăng, Napoleon đóng. Phía trên chỗ vạch
ngang gặp vế phải một chút là Hexanh. Giữa vạch ngang đúng là điểm quyết định
cuối cùng trận đánh. Ở đấy bây giờ có đặt một con sư tử, chắc là vô tình nhưng
đã tượng trưng cho linh hồn anh dũng vô song của đoàn quân cận vệ.
Hình tam
giác nằm giữa hai vế và vạch ngang là dãy đồi Mông Xanh Giăng. Giành giật dãy
đồi này là diễn biến của cả trận đánh. Hai đạo quân dàn ra hai bên đường Giơnáp
và Niven: quân của Đéclông đối diện với quân của Pictơn, quân của Rây đối diện
với quân của Hin.
Đằng sau
đỉnh của chữ A, sau dãy đồi Mông Xanh Giăng là cánh rừng Xoanhơ. Còn bản thân
cánh đồng thì cứ xin hình dung đó là một vùng đất rộng lượn sóng nhấp nhô, đợt
sau cao hơn đợt trước và lên dần cho đến Mông Xanh Giăng, rồi hòa vào khu rừng
sau đó.
Hai đội
quân đối địch khi đã dàn trên một chiến trường thì giống như hai võ sĩ vật
nhau. Bên này tìm cách làm ngã bên kia. Vì thế, gặp cái gì họ cũng bám; bụi
cây, góc tường đều là chỗ tựa; một cái nhà tồi tàn có thể giúp cho một trung
đoàn dựa vào và trụ lại; một vệt đất thấp, một lằn đất cao, một con đường tắt
ngang đúng lúc, một khu rừng, một dòng khe, đều có thể kìm chân người võ sĩ
khổng lồ mà người ta gọi là một đạo quân và không cho nó lùi nữa. Trong trận
đánh, ai ra khỏi chiến trường kẻ ấy thua. Cho nên, trách nhiệm của người chỉ
huy là nhất thiết phải xem xét từng khóm cây bụi cỏ và đi sâu nắm vững mọi chi
tiết địa hình.
Hai nhà
cầm quân đã chăm chú nghiên cứu cánh đồng Mông Xanh Giăng, nay gọi là cánh đồng
Oateclô. Từ năm trước, Oenlinhtơn, với cái khiếu viễn cảm của mình, đã tìm hiểu
địa hình cả vùng, dự phòng một trận đánh to có thể xảy ra ở đấy. Tóm lại, về
đất này và về chuẩn bị cho trận sốn mái này, ngày 18 tháng 6, Oenlinhtơn đứng ở
thế thuận lợi, còn Napoleon ở thế bất lợi. Quân Anh đóng phía cao, quân Pháp ở
phía thấp.
Ở đây mà
phác qua dáng dấp Napoleon, tay cầm ống nhòm, ngồi trên mình ngựa ở ngọn đồi
Rốtxôm, sáng sớm ngày 18 tháng 6 năm 1815 ấy, kể ra cũng thừa. Bởi vì chưa cần
phải chỉ ra, mọi người đã thấy rồi. Nét mặt bình tĩnh ấy dưới chiếc mũ con con
của trường võ bị Bơriên, bộ quân phục màu lá cây có ve trắng che khuất tấm huân
chương, chiếc áo khoác màu xám phủ mất tua vai, góc chiếc băng đỏ dưới áo ghi
lê, cái quần bằng da, con ngựa trắng với tấm phủ lưng bằng nhung đỏ thẫm, thêu
hình chim ưng và những chữ N cài mũ miện ở các góc, đôi ủng kỵ mã, bít tất lụa,
đôi cựa bạc, thanh gươm ở Marănggô. Đó, toàn bộ hình dung của vị Xêda cuối cùng
đứng sừng sững trong trí óc mọi người, mà có kẻ thì hoan hô, có kẻ thì lên án
một cách nghiêm khắc.
Một thời
gian khá lâu, con người ấy hiện lên hoàn toàn rực rỡ. Có lẽ vì chung quanh phần
đông những bậc anh hùng thường có những thần thoại che khuất chân lý trong một
thời gian. Nhưng ngày nay thì lịch sử cũng như chân lý đã tỏ tường cả rồi.
Lịch sử
là thứ ánh sáng nghiêm khắc. Nó là ánh sáng và chính vì nó là ánh sáng, nên mới
có cái lạ lùng và thiêng liêng, là nó đặt bóng tối vào chỗ mọi người chỉ nhìn
thấy tia sáng; nó chia cũng một con người ấy ra làm hai kẻ khác nhau, để cho kẻ
này công kích và đánh giá kẻ kia và để cho mọi thứ tối tăm của tay độc tài
chồng nhau với mọi thứ rực rỡ của vị tướng lĩnh. Chính từ đó mới có được cái
mức đo đúng hơn trong sự đánh giá cuối cùng của các dân tộc. Việc giày xéo
Babilôn làm phẩm giá Alecđăng; việc chuyên chế đối với La Mã làm giảm giá Xêda
và Giêruxalem bị chà đạp làm giảm giá Tituyl. Sự hung bạo đi theo bạo chúa.
Khốn thay cho kẻ để lại sau mình bóng đêm mang hình dung của chính bản thân
mình.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 1: OATECLÔ
Chương 5
TRẬN ĐÁNH CÓ ĐIỂM MỜ MỊT
(Nguyên
văn Latinh: Quid obseurum)
Mọi
người đều biết giai đoạn đầu của trận đánh. Thật là bối rối, mơ hồ, ngập ngừng,
nguy hiểm cho cả hai đạo quân, phía quân Anh còn nặng nề hơn phía quân Pháp.
Cả đêm
hôm trước trời mưa rất to. Đất bị ướt sũng. Đây đó trên cánh đồng, nước mưa
đọng lại các chỗ trũng như trong những chậu thau. Có nơi xe cộ của hậu cần nước
ngập đến tận trục; từ những dây da quàng dưới bụng ngựa ở các cỗ xe, bùn lỏng
chảy rỏ giọt. Giá không có lúa mì, lúa mạch bị xe xộ rộn rịp giày xuống lấp kín
vết xe làm cái lót cho bánh lăn đi, thì bất kỳ xe pháo nào cũng không cử động
được, đặc biệt ở các thung lũng mạn Papơlốt.
Trận
đánh bắt đầu muộn. Như trên kia đã nói. Napoleon có thói quen muốn nắm chắc
pháo binh trong tay như nắm cây súng ngắn, để cần thì lúc chĩa vào điểm này,
lúc chĩa vào điểm khác trên chiến trường, nên ông có ý đợi cho mặt trời lên và
đất khô đi để các khẩu pháo có ngựa kéo có thể lăn bánh chạy ngang dọc tha hồ.
Nhưng mặt trời không hiện ra. Thật chẳng còn như cảnh Austelít (Trong trận
chiến thắng Austeclit 1805 – mặt trời lên rực rỡ). Khi phát đại bác đầu tiên
gầm lên, viên tướng Anh là Côvin nhìn đồng hồ đúng mười một giờ ba mươi lăm
phút.
Cuộc tấn
công của cánh trái quân Pháp vào Hugômông bắt đầu dữ dội, có lẽ quá dữ dội so
với ý định của Napoleon. Cùng lúc ấy, Napoleon cho lữ đoàn Kiô xông lên He
Xanh, đánh vỗ vào mặt giữa, còn Nê thì cho cánh phải tiến đánh cánh trái quân
Anh đang lấy Papơlốt làm chỗ tựa.
Cuộc tấn
công vào Hugômông có hàm ý nghi binh để nhử Oenlinhtơn nghiêng về phía cánh
trái đó. Kế hoạch là như vậy. Ý đồ ấy có lẽ thực hiện được, nếu bốn đại đội vệ
binh Anh và sư đoàn quân Bỉ dũng cảm của tướng Pécpôngse không giữ vững nổi vị
trí này. Nhưng họ đã cố thủ được và vì thế Oenlinhtơn, đáng lẽ phải dồn quân về
đó, chỉ cần tiếp viện có bốn đại đội vệ binh khác và một tiểu đoàn của
Bơrăngguych.
Cuộc tấn
công của cánh phải vào Papơlốt có tính triệt để hơn. Phải làm rối loạn cánh
trái quân Anh, cắt đứt đường đi Bơruxen, chặn đường quân Phổ có thể kéo sang,
đánh chiếm Mông Xanh Giăng, dồn Oenlinhtơn về Hugômông, từ đó về Bơren Lalơ và
từ Lalơ đẩy luôn về Han. Kế hoạch như thế rõ như ban ngày. Trừ một vài sự biến
nhỏ, cuộc tấn công này đã đạt được mục tiêu: chiếm được Papơlốt và hạ được He
Xanh.
Ở đây có
chi tiết cần ghi lại. Trong hàng ngũ bộ binh Anh đặc biệt trong lữ đoàn Căm, có
khá nhiều tân binh. Đứng trước các chiến sĩ bộ binh đáng gờm của chúng ta,
những tên lính trẻ ấy tỏ ra khá dũng cảm và lòng dũng cảm ấy đã khiến cho sự
thiếu kinh nghiệm của họ trở nên được việc. Họ biến thành những xạ thủ tài
tình. Binh lính mà chiến đấu theo kiểu xạ thủ thì gần như độc lập hành động,
chỉ vì mình chỉ huy lấy mình; những tên lính trẻ ấy vì thế, tỏ ra có ít nhiều
cái tính sáng tạo và sự hăng máu của quân Pháp. Loại bộ binh chưa có kinh
nghiệm này rất là ưa bắn. Điều đó Oenlinhtơn không thích.
Sau khi
He Xanh bị hạ, thì trận đánh chao đảo, thắng lợi không ở về bên nào rõ rệt.
Trong
ngày hôm ấy, từ trưa đến bốn giờ chiều, có chỗ không rõ. Trận đánh có một quãng
ở giữa gần như mờ mờ, hình như là cảnh hỗn chiến mù mịt. Trời đất như tối sầm
lại lúc này. Trong đám sương mù ấy, nhiều đợt sóng dài chao qua đảo lại, một
vùng màu sắc loạn xạ, vun vút, nhìn phát choáng váng. Đó là tất cả mớ quần áo,
mũ mãng, giày dép, trong quân trang thời bấy giờ mà ngày nay không còn biết đến
nữa: những mũ ống có chòm tua như ngọn lửa, những túi da lòng thòng, những dây
da mang chéo, những bọc lựu đạn, những áo thêu của kỵ binh, những đôi ủng đỏ
đầy nếp, những chiếc mũ kỵ binh viền tua xoắn ốc; rồi bộ binh của Bơrăngguych
quân phục xám đen chen lẫn với bộ binh Anh quân phục đỏ tươi, cầu vai trắng
thêu nổi trên áo lính Anh, cái mũ da tròn và dài quấn dây đồng, có bờm bằng
lông màu đỏ của khinh kỵ Đức, rồi lính Êcốt để gối trần và mặc áo khoác ca-rô,
lính cận vệ ta mang ghệt trắng. Tất cả những cái đó hình như những bức tranh,
những sắc màu, hình khối cần cho một họa sĩ, hơn là những trận tuyến chiến
lược, những vị trí, những người cần cho một tướng pháo binh.
Trong
một trận đánh thường xen vào một lượng bão táp nhất định. Cái gì mù mờ, thì chỉ
có đoán mới biết. Cho nên người chép sử tùy mình mà ghi thành một nét phang
phác nào đó về những chỗ lộn xộn ấy. Bởi vì, dù các tướng cầm quân có tính toán
như thế nào đi nữa, khi hai đạo quân chạm nhau nhất định sinh ra vô số những
điều bất ngờ. Trong quá trình hai bên đánh nhau, hai kế hoạch tác chiến cài vào
nhau, làm biến dạng lẫn nhau. Chỗ nào trên chiến trường tiêu hao nhiều chiến sĩ
hơn chỗ khác, cũng như đổ nước lên đất thì có nơi đất hút nhanh, có nơi đất hút
chậm, cho nên phải đổ bù quân vào đó quá mức mong muốn. Đó là những khoản chi
không dự kiến! Chiến tuyến bềnh bồng quanh co – như một sợi chỉ, máu chảy thành
dòng một cách không hợp lý, phòng tuyến các đạo quân nhấp nhô, các trung đoàn
nơi thì lồi ra nơi thì lõm vào thành những mũi, những vịnh, tất cả những dãy đá
ngầm trên mặt bể kia cử động liên tục trước mặt nhau. Chỗ nào là bộ binh trước
kia thì pháo binh lúc này kéo đến; chỗ nào là pháo binh thì kỵ binh ùa lại; cá
tiểu đoàn trưởng như những đám khói. Hình như trong đó đang xảy ra chuyện gì,
người đang tìm, thì cái đó lại biến mất rồi. Mới thấy hé sáng chỗ này thì lại
đã sáng sang chỗ khác. Bóng tối tiến lên, lùi xuống. Hình như có một ngọn gió
của cõi âm đang nổi lên, xô đẩy, thổi căng, thổi giạt đi tất cả những đám đông
bi hùng này. Hỗn chiến là gì? Là một sự chao đảo. Một kế hoạch dù chính xác như
toán học đi nữa, đem ra thực hiện, có giã nguyên không sai chạy tí nào là trong
một hai phút chứ không thể trong một ngày được. Cho nên chỉ có những nhà danh
họa biết tung hoành ngọn bút mới mô tả được một trận đánh. Và như thế
Răngbơrăng hợp hơn Vănđe Mơlăng. Vănđe Mơlăng, họa cảnh chiến trường rất đúng
vào giờ ngọ, nhưng người mục kích cùng chiến trường ấy vào giờ thân thì cho là
vẽ láo. Ở lĩnh vực này cái gì chân phương hình học lại khiến người ta lầm lạc;
trái lại phải linh hoạt, dữ dội như bão tố thì mới nắm được sự thật. Có lẽ vì
vậy mà nhà chiến thuật ngày nay mới nói ngược lại nhà sử học ngày xưa được.
Cũng xin nói thêm rằng có lúc nào đó, trận đánh chỉ còn là những cuộc xung đột
nho nhỏ, riêng biệt ở từng nơi và phân tán ra vô vàn những sự biến vụn vặt,
những cái này, theo cách nói của chính bản thân Napoleon “thuộc tiểu sử của các
trung đoàn nhiều hơn là lịch sử của đạo quân”. Trong trường hợp này, người viết
sử rõ ràng là có quyền tóm tắt. Bởi vì chỉ có thể nắm được những nét bao quát
và chính yếu của trận đánh, chứ dù có cần cù đến đâu cũng không tài nào ghi dứt
khoát và cố định hình dáng của một trận đánh, nó như một đám mây rùng rợn luôn
luôn biến đổi.
Đối với
tất cả các cuộc giao tranh giữa hai đạo quân xưa nay, điều đó đã đúng, thì đặc
biệt đối với trận Oateclô nói điều đó càng đúng hơn.
Tuy vậy,
buổi chiều, đến lúc nào đó, trận đánh vỡ ra.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 1: OATECLÔ
Chương 6
BỐN GIỜ CHIỀU
Đếnkhoãng
bốn giờ chiều, tình hình đạo quân Anh nghiêm trọng. Hoàng thân Orăng chỉ huy
mặt giữa. Hin cánh phải, Pietơn cánh trái. Hoàng thân rối trí nhưng dũng cảm,
thét lên động viên liên quân Hà – Bỉ: “Nátxô! Bơrăngguych! Nhất định không
lùi!” Cánh quân của Hin đã núng thế, Hin phải đến tựa vào Oenlinhtơn. Còn
Pietơn thì đúng vào lúc quân Anh cướp được của quân Pháp lá cờ của quân đoàn số
105, quân Pháp đã bắn chết ông ta bằng một viên đạn xuyên qua đầu. Oenlinhtơn
có hai điểm tựa: Hugômông và He Xanh – Hugômông thì còn giữ được nhưng bốc
cháy, còn He Xanh thì đã mất. Ở đấy, cả một tiểu đoàn Đức chống giữ, chỉ có bốn
mươi hai người sống sót, tất cả sĩ quan đều bị giết hoặc bị bắt, chỉ còn năm
người. Ba nghìn binh sĩ đã chém giết nhau trong cái kho thóc ấy. Một đội trưởng
cận vệ Anh, chính là tay vô địch quyền Anh, nổi tiếng trong quân ngũ là bất khả
xâm phạm, đã bị một chú thiếu niên lính kèn Pháp giết chết ở đấy. Bêrin bị tống
ra, Onten bị chém chết cũng ở đấy. Rất nhiều lá cờ của tiểu đoàn Luynơbua mà
người cầm là một hoàng thân xứ Đơpông. Quân Êcốt xám không còn một ai, đoàn kỵ
binh hộ pháp của Pônxônbi bị vằm nát. Họ khá dũng cảm nhưng đã bị kỵ binh giáo
dài của Bơrô và kỵ binh thiết giáp của Tơrave đè bẹp. Trong số một nghìn hai họ
chỉ còn sáu trăm; trong số ba trung tá, hai đã tử trận: Hamintơn bị thương,
Matơ bị giết. Còn Pônxônbi cũng bị ngã, bị đâm đến bảy nhát giáo. Goócđơn chết,
Mácsơ cũng chết. Hai sư đoàn năm và sáu bị tiêu diệt. Sau khi Hugômông bị lấn
và He Xanh bị mất thì chỉ còn một mắt cứng nữa là mặt giữa. Mắt cứng ấy giữ
vững Oenlinhtơn tăng quân củng cố, gọi Hun từ Mécbơren, gọi Sátxê từ Bơren Lalơ
về.
Mặt giữa
quân Anh; đóng thành vành hơi lõm, hàng ngũ đông đặc, ở vào một địa thế vững
chãi. Nó chiếm cả cao nguyên Mông Xanh Giăng, đằng sau là làng xóm, trước mặt
là sườn dốc hồi bấy giờ còn khá ngược. Nó tựa lưng vào một ngôi nhà vững chắc –
bấy giờ là tài sản của quận Niven, nằm giữa ngã ba đường. Ngôi nhà này xây từ
thế kỷ mười sáu, toàn bằng đá, làm nên một khối rất vững, đạn pháo bắn vào chỉ
xước qua chứ không suy suyển nổi. Chung quanh cao nguyên, quân Anh đã cắt xén
các hàng giậu, phát những lỗ trống trong các chòm hoa dại, giấu một họng đại
bác giữa hai cành cây, biến các bụi gai thành công sự đặt súng. Pháo binh của
họ đều phục như vậy trong bụi bờ cả. Công việc lừa gạt ấy được phép đem dùng vì
trong chiến tranh có thể dùng cạm bẫy. Có điều họ làm khéo quá đến nỗi,
Napoleon hồi chín giờ sáng, đã cho Haxô đi trinh sát pháo địch, chẳng trông
thấy gì cả và trở về báo cáo là không có gì trở ngại cả, trừ hai chiến lũy chắn
ngang các con đường đi Niven và Giơnáp. Bấy giờ lúa cũng đã tốt; men theo bờ
cao nguyên, quân Anh cũng đã cho tiểu đoàn 95 của lữ đoàn Căm, trang bị bằng
súng nhẹ và nhanh, nằm phục sẵn trong lúa.
Sau khi
đã chống đã chèn một cách bảo đảm như vậy, mặt giữa của đạo quân Anh – Hà coi
như ở vào thế khá vững chãi.
Chỗ hở
của trận địa này là khu rừng Xoanhơ, liền sát với chiến trường nhưng có các đầm
nước Gơrônăngđaen và Boapho cắt ngang. Nếu phải lùi vào đó thì dù một quân đoàn
cũng khó mà không tiêu tan, vì các trung đoàn lập tức vỡ nát ngay, còn pháo thì
chết chìm trong các đầm nước. Rút lui vào đó, theo ý kiến của nhiều người trong
nghề - đành rằng có kẻ khác bác bỏ - chỉ là một cuộc tháo thân, mạnh ai nấy
chạy mà thôi.
Oenlinhtơn
rút từ cánh phải một lữ đoàn của Sátxô từ cánh trái một lữ khác của Uyncơ và sư
đoàn Cơlintơn về tăng cường cho mặt giữa, phụ lục hai bên là bộ binh của
Bơrăngguych, của Nátxô, quân Hanôvơrơ và quân Đức. Như vậy là Oenlinhtơn nắm
trong tay hai mươi sáu tiểu đoàn. Và, như Sarát nói, cánh phải của đạo quân đã
bẻ cụp lại đằng sau mặt giữa. Ở chỗ ngày nay gọi là “Bảo tàng Oateclô” là một
khẩu đội pháo khổng lồ che khuất sau một đống bao đất. Ngoài ra, Oenlinhtơn còn
có sau một nếp đất cao, đội kỵ binh cận vệ của Xômơcxet gồm một nghìn bốn trăm
ngựa, phân nửa của đoàn kỵ binh Anh nổi tiếng. Phần của Pônxônbi đã bị tiêu
diệt, nhưng đoàn của Xômơcxet hãy còn đó.
Khẩu đội
pháo nếu bố trí xong xuôi sẽ có thể hầu như là một công sự. Nó được đặt sau một
bức tường thấp trong vườn, phủ vội lên một lớp bao cát và đắp nhanh một vành
đất rộng và cao án ngữ. Công sự này chưa hoàn thành, vì không còn đủ thì giờ để
rào ngăn chung quanh nữa.
Oenlinhtơn
trong lòng băn khoăn nhưng không để lộ ra nét mặt. Suốt ngày ông ngồi trên mình
ngựa, luôn luôn trong một tư thế không thay đổi, trước cái cối xay cổ của Mông
Xanh Giăng, dưới bóng một cây du. Cối xay này hiện nay hãy còn, duy cây du thì
một người Anh, vào loại những kẻ phá hoại mà tưởng mình nhiệt tình với lịch sử
đã bỏ ra hai trăm phơrăng để mua, rồi cưa và đem đi. Oenlinhtơn đứng đó, anh
dũng một cách lạnh lùng. Chung quanh, đạn pháo tới tấp như mưa. Goócđơn, viên
sĩ quan phụ tá nữa ngã xuống bên cạnh. Hin trỏ một quả tạc đạn đang nổ, hỏi:
“Thưa tướng quân, nếu ngài có mệnh hệ nào thì ngài định chỉ thị như thế nào và
ra lệnh ra làm sao cho chúng tôi?” Ông ta đáp: “Cứ làm như tôi”. Ông cũng nói
vắn tắt với Cơlintơn: “Giữ chỗ này đến người cuối cùng!” Thế trận xấu đi trông
thấy. Ông ta nhìn vào các chiến hữu của mình ở Talavêra, ở Vittôria, ở Xalamăng
trước kia và lớn tiếng kêu gọi: “Này các cậu! Làm thế nào mà nghĩ đến chuyện
rút lui cho được? Phải nghĩ đến tổ quốc Anh lâu đời của chúng ta chứ!”
Khoãngbốn
giờ chiều, bên trận tuyến quân Anh thấy có chuyển dịch về phía sau. Đột nhiên
trên ngọn cao nguyên Mông Xanh Giăng chỉ thấy có pháo binh và các tốp lính bắn
lẻ, còn tất cả đều mất hút. Thật ra bị pháo binh quân Pháp đập đuổi, họ phải
lùi xuống một nếp đất sâu, chỗ có con đường ra vào của nhà trại ở Mông Xanh
Giăng cắt ngang, đến nay hãy còn trông thấy. Một sự vận động chuyển về sau xuất
hiện, trận tuyến quân Anh đã lẩn tránh mặt trước. Oenlinhtơn đã lùi. Napoleon
reo lên: “Bắt đầu rút lui rồi!”
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 1: OATECLÔ
Chương 7
NAPOLÉON VUI VẺ
Hoàng đế
đang ốm lại có chỗ đau trong người nên ngồi ngựa hơi khó chịu, nhưng chưa bao
giờ người lại vui vẻ như cái hôm 18 tháng 6 năm 1815 ấy. Từ sớm hôm ấy người
không lạnh lùng khó hiểu nữa, mà lại hay mỉm cười. Cái tâm hồn sâu sắc ấy như
bọc vỏ cẩm thạch. Nhưng hôm đó tâm hồn ấy chẳng đắn đo gì, rạng rỡ hẳn ra. Té
ra con người trước kia ở Austelít thì âm thầm, nay ở Oateclô lại vui vẻ. Những
con người vĩ đại trời sinh trời phú cho những sứ mạng lớn lao, thường hay có
những việc làm ngược đời như vậy. Những vui mừng của chúng ta mơ hồ như bóng
tối. Chỉ có Chúa mới có được nụ cười tối hậu.
Binh
lính thời La Mã nói Xêda cười, Pôngpê khóc (Nguyên văn Latinh: Ridet Cocsar,
Pompeius flebit). Nhưng Pôngpê lần này chưa phải đã khóc, mà Xêda thì chắc chắn
đã cười. Đêm hôm trước, hồi một giờ sáng, mặc dù mưa gió dữ dội, người đã cùng
Béctơlăng đi thăm dò các quả đồi gần Rốtxôm. Nhìn thấy đèn đóm trong trại quân
Anh thắp sáng một dãy dài phía chân trời, từ Phơrítsơmông đến Bơren Lalơ, người
thấy yên lòng và có cảm tưởng là cái số mệnh mà người hẹn ngày đến trên cánh
đồng Oateclô này, đã đúng hẹn. Người đã dừng ngựa đứng im một lát, nhìn trời
nhìn mây, rồi bỗng nhiên người ta nghe con người của định mệnh ấy thốt lên
trong đêm tối một câu nói bí ẩn: “Chúng ta đồng ý với nhau”. Không, người đã
lầm. Số mệnh không đồng ý với người nữa đâu.
Đêm ấy
người không chợp mắt tí nào. Mỗi phút qua đều như đánh dấu bằng một nỗi vui
mừng. Người đã đi qua suốt hàng cận vệ, chốc chốc lại dừng lại trò chuyện với
những người lính gác. Đến hai giờ rưỡi đêm, khi đến gần khu rừng Hugômông, nghe
có tiếng một đoàn quân đang đi, trong chốc lát người đã tưởng là Oenlinhtơn rút
lui. Người nói với Béctơlăng: “Hậu vệ chúng nó đang vận động để chuồn. Ta sẽ
bắt gọn lũ sáu nghìn vừa đáp bến Ôtxtăng đó”. Người nói chuyện cởi mở, hồ hởi
như hồi đổ bộ ngày mồng một tháng ba. Hồi ấy thấy một người nông dân ở vịnh
Giuyvăng nhiệt liệt đón mừng, người đưa tay chỉ cho đại nguyên soái và nói to:
“Kia kìa, Béctơlăng, viện binh đó rồi!” Ngay đêm 17 rạng 18 tháng Sáu ấy, người
cũng chế giễu Oenlinhtơn: “Phải cho cái chú Anh-cát-lợi bé nhỏ này một bài
học!” Người cứ nói chuyện mà ngoài trời mưa càng to, sấm chớp càng dữ.
Đến ba
giờ rưỡi sáng, cái ảo tưởng quân địch rút không còn nữa: nhiều sĩ quan phái đi
trinh sát trở về báo là bên chúng chẳng động tĩnh gì cả. Tất cả đều im lìm, lửa
trong các trại chẳng chỗ nào tắt. Quân địch đang ngủ. Mặt đất im lặng hoàn
toàn, chỉ trên trời là ầm ĩ. Bốn giờ, lính canh dẫn đến trước mặt người một
nông nô. Người này đã dẫn đường cho một lữ đoàn địch, chắc là lữ đoàn Vayviên,
đến bố trí ở làng Ohanh, bên cực tả. Năm giờ, hai lính Bỉ đào ngũ đưa tin là họ
vừa trốn khỏi trung đoàn họ và quân Anh đang sẵn sàng chờ đánh nhau. Người nói
to: - Càng tốt, ta thích quật chúng hơn là đẩy chúng rút lui.
Sáng hôm
sau, người dừng lại ở bãi cỏ chỗ khúc ngoặt của Pơlăngxơnoa. Người rời lưng
ngựa, bước xuống bùn, gọi lính lôi từ nhà trại Rốtxôm ra một cái bàn nấu bếp và
một cái ghế cục mịch, rải một bó rơm làm thảm rồi đặt lên đó. Người ngồi xuống,
mở bản đồ chiến trường ra trải lên bàn rồi vui vẻ bảo Xu: Đẹp nhé! Như một bàn
cờ!
Đêm qua
mưa, đoàn xe quân lương ì ạch mãi trong các ngả đường lầy lội, đến sáng vẫn
chưa tới kịp. Quân lính suốt đêm bị mưa ướt, không ngủ được, lại phải nhịn đói.
Thế mà người vẫn nói với Nê một cách vui vẻ, nhẹ nhàng: Trăm phần chúng ta cầm
chắc trong tay chín mươi rồi. Tám giờ, cơm sáng dọn ra. Người mời nhiều vị
tướng quân cùng ăn. Vừa ăn, có người kể rằng đêm hôm kia, Oenlinhtơn có mặt ở
dạ hội khiêu vũ tại nhà bà công tước Ríchmông ở Bơruxen. Xu, vị tướng quân khắc
khổ, có nét mặt của một ông giám mục, nghe thế, liền nói: “Hôm nay mới thật là
khiêu vũ đây!” Nê tiếp: “Oenlinhtơn có dại gì mà chờ bệ hạ!” Người liền chế Nê
về câu ấy, đó cũng là thói quen của người. Phơlơri bảo với Sabulông: Ông ấy đùa
luôn miệng. Guốcgô nói: Căn bản ông ấy tính tình vui vẻ. Còn Bengiamanh
Côngxtăng nói: Ông ấy đùa nhiều nhưng có phần kỳ quặc hơn là hóm hỉnh. Những
phút vui đùa của các bậc anh hùng, kể ra cũng đáng nhấn mạnh một tí. Chính
người đã từng gọi ưu binh của mình là “dân hay cáu”, rồi xách tai, kéo râu họ.
Và chính mồm họ lại có kẻ nói: Ngài chỉ nghịch thôi! Trong chuyến đi bí mật từ
đảo Enbơ về đất Pháp, ngày 27 tháng 2, đương giữa bể khơi, chiếc thuyền buồm Vô
định chở giấu Napoleon gặp phải chiến hạm Thanh phong của hải quân Pháp. Chiếc
Thanh phong hỏi chiếc Vô định tin tức về Napoleon. Bấy giờ người đang đội mũ có
băng nửa trắng nửa đỏ lốm đốm những hình ong (Phù hiệu quân đội và hải quân
Hoàng gia Pháp) theo kiểu người đã nhận dùng lúc ở đảo Enbơ. Người liền vừa
cười vừa chụp lấy ống loa, tự mình trả lời: “Hoàng đế mạnh khỏe”. Đùa được như
thế kể phải quen với mọi biến cố lắm lắm. Bữa ăn sáng ở Oateclô hôm ấy, người
đã có nhiều trận cười như vậy. Ăn xong, người trầm ngâm mười lăm phút. Sau đó
hai vị tướng quân đến ngồi trên bó rơm, người đọc cho họ chép lệnh ra quân.
Đến chín
giờ thì đạo quân Pháp chuyển mình ra trận. Toàn quân triển khai thành năm cánh,
các sư đoàn dàn thành hai hàng, pháo binh xen giữa các lữ đoàn, quân nhạc đi
trước, cử điệu xuất quân, trống rung, kèn thổi. Một rừng mũ mãng, gươm giáo lấp
kín cả chân trời. Thật là một cảnh tượng mãnh liệt, vui tươi, hùng vĩ. Lúc ấy,
hoàng đế xúc động, reo đến hai lần:
- Tuyệt
đẹp! Tuyệt đẹp!
Thực là
khó tin nhưng chỉ từ chín giờ đến mười rưỡi là toàn bộ đội quân đã chiếm lĩnh
trận địa, chia làm sáu tuyến, hình thành, theo lời của chính hoàng đế, “sáu chữ
V”. Cùng lúc, người ra lệnh rút từ hàng ngũ của Đ’éclông, Rây và Lôbô ba khẩu
đội pháo gồm hai mươi bốn khẩu, để mở màn trận đánh bằng cách giã vào Mông Xanh
Giăng, chỗ các đường đi Niven và Giơnáp gặp nhau. Mấy phút sau khi hàng trận
bày xong, trong cái không khí im lìm nặng trĩu trước trận đánh cũng như trước
một cơn dông, khi nhìn thấy các khẩu đội pháo kéo qua, ngưỡi vỗ vào vai Haxô và
nói: Hai mươi bốn cô gái đẹp đó, tướng quân ạ.
Đại đội
công binh của đạo quân thứ nhất được người chỉ định sẽ chết tại Mông Xanh Giăng
một khi chiếm được làng, đang diễu qua trước mặt. Người nhìn họ mỉm cười khuyến
khích vì trong bụng người cầm chắc sẽ thắng. Tâm hồn người lúc bấy giờ hoàn
toàn thanh thản chỉ có một lần, người buông một lời thương hại kiêu kỳ. Đó là
khi thấy bên cánh trái, ở chỗ ngày nay còn một ngôi mồ to tướng, đoàn kỵ binh
Êcốt nổi tiếng, quân phục mầu xám, người ngựa to khỏe, đội ngũ dày đặc, người
thốt lên: Thật phí quá!
Sau đó
người lên ngựa, đến trước Rốtxôm, chọn một chỗ đứng quan sát. Đó là chỗ thứ hai
người đứng trong trận này, một mô đất cỏ hẹp bên phải đường đi từ Giơnáp đến
Bơruxen. Vào bảy giờ tối, người dời đến chỗ thứ ba, giữa Benlaliăng và He Xanh.
Chỗ này đáng sợ quá. Nó là một mô đất khá cao, nay hãy còn đó. Đằng sau là đoàn
vệ binh tập trung trên sườn dốc. Chung quanh mô đất, đạn pháo nhảy thia lia từ
mặt đường đến tận chỗ người đứng. Trên đầu người đạn to đạn nhỏ vèo vèo như hồi
ở Bơriên. Về sau, người ta nhặt được ngay dưới chân ngựa của người, nhiều quả
đạn đại bác đã gỉ, những thanh gươm và mảnh đạn cách đây mấy năm chẳng còn hình
thù gì nữa và gỉ ăn gần hết.
Người ta
còn đào được một quả tạc đạn 60 ly, thuốc nổ còn nguyên, nhưng ngòi đã bị gãy
sát vỏ. Chính ở trạm thứ ba này, trông thấy người nông dân dẫn đường Lacốt, vì
có thể gây trở ngại nên bị trói ngồi sau lưng một kỵ binh, cứ hoảng hốt quay
mặt mỗi lần đạn nổ và cố sức nấp vào lưng kỵ binh này, người đã mắng: “Đồ ngu!
Xấu hổ chửa! Khéo không rồi lại bị bắn chết từ phía lưng giờ!” Tự tay kẻ viết
sách này cũng đã tìm thấy ở sườn dốc của một mô đất này, khi đào lớp cát rất
tơi ở đây, vết tích của một quả bom gỉ đã làm nát vụn và một số những thanh sắt
có thể lấy tay bẻ gãy như những que dút.
Những
làm sóng đất nhấp nhô trên các cánh đồng và nghiêng đổ về các hướng khác nhau
trước đây là nơi hai bên Napoleon và Oenlinhtơn đấu sức, nay không còn như hồi
18 tháng 6 năm 1815 nữa, điều đó mọi người đều rõ. Vì muốn lấy ở mảnh đất tang
tóc này vật liệu cần thiết để dựng lên một đài kỷ niệm, người ta đã làm thay
đổi cả địa hình cũ. Cho nên, ngay lịch sử cũng ngẩn ngơ, không còn nhận ra đâu
là đâu nữa. Muốn cho đất này được vẻ vang, người ta đã vạt cả mặt mũi nó đi là
như vậy. Hai năm sau, Oenlinhtơn trở lại Oateclô buộc phải kêu lên: “Cái chiến
trường của tôi, người ta đã đổi khác hết”. Chỗ bây giờ là cái nền đất to hình
tháp trên đặt con sư tử, ngày xưa còn có cái mỏm khá cao, thoai thoải về hướng
Niven thành một lối bậc thang đi lại được, nhưng về phía nẻo đi Giơnáp thì gần
như là dốc đứng. Sườn dốc ấy cao bao nhiêu, ngày nay có thể đo bằng chiều cao
của hai nấm mồ to tướng như hai gò đất ôm lấy con đường từ Giơnáp đến Bơruxen,
một cái dành cho lính Anh, một cái dành cho lính Đức. Không có cái nào cho lính
Pháp cả. Đối với nước Pháp, tất cả cánh đồng này là mộ địa. Hàng nghìn hàng vạn
xe bò đất đã được đắp thành một gò chu vi nửa cây số, cao năm mươi thước, nhờ
vậy cao nguyên Mông Xanh Giăng bây giờ có thể leo lên bằng một lối thoai thoải,
chứ ngày xưa, hồi đánh nhau, nhất là về phía He Xanh thì dốc ngược và cao lắm.
Sườn đồi ở đó nghiêng dựng đến nỗi đại bác quân Anh đặt ở đấy không trông thấy
dưới chân mình cái nhà trại nằm giữa đám thung lũng, chỗ trung tâm của trận
đánh. Ngày 18 tháng 6 năm 1815, mưa lại xói lở thêm những sườn dốc khó khăn
này. Lại thêm có bùn, nên leo càng khó, vì không chỉ có leo mà còn phải lội lầy
nữa. Dọc theo mỏm có một thứ hào dài, từ xa khó mà đoán ra được.
Đường
hào ấy là cái gì vậy? Xin nói ngay. Đây là đất Bỉ, Bơren Lalơ là một cái làng,
Ohanh là một cái làng khác. Hai làng ấy đều ẩn mình trong những khuỷu đất thấp,
có một con đường độ một dặm rưỡi nối liền nhau. Con đường này băng qua một cánh
đồng nhấp nhô nên đây đó lại chui sâu vào các ngọn đồi như một rãnh cày, do đó,
một đôi nơi, con đường thực chất là một hào sâu. Năm 1815 cũng như ngày nay,
con đường ấy cắt ngang mỏm cao Mông Xanh Giăng ở quãng giữa hai con đường đi
Giơnáp và Niven. Chỉ có khác là ngày nay nó bằng mặt với cánh đồng, còn hồi đó
nó là một đường trũng. Hai bờ cao của nó, về sau, người ta đã san đi để đắp vào
cái nền đất kỷ niệm. Tuy vậy phần lớn con đường hãy còn là một con hào giao
thông, có khi sâu đến hàng trượng và hai bên bờ cao ngược rải rác lại sạt đổ,
nhất là về mùa đông, khi trời mưa to. Tai nạn hay xảy ra các nơi đó. Đến cổng
làng Bơren Lalơ, con đường quá hẹp, đến nỗi một người bộ hành đã bị một cái xe
bò nghiến. Tấm bia đá dựng bên nghĩa địa đã ghi rõ tên họ người xấu số: Ông
Bécna đơ Bơri, nhà buôn ở Bơruxen, cũng như ngày tháng xảy ra tai nạn: tháng 2
năm 1637 (Bia đề: Đây là nơi yên nghỉ của ông Bécna đơ Bơri, nhà buôn ở Bơruxen
bị xe cán chết, ngày (không rõ) tháng 2 năm 1637- chú thích ở nguyên tác). Trên
ngọn cao nguyên Mông Xanh Giăng, con đường lại đặc biệt sâu, một người nông
dân, Machiơ Nikedơ bị đất trên bờ lở xuống, đã chết năm 1783, như có ghi trên
một tấm bia khác. Tấm bia này, phần trên đã vùi lấp khi người ta vỡ hoang,
nhưng phần đế bị lật ngược ngày nay hãy còn thấy trên sườn cỏ bên trái con
đường lớn, giữa He Xanh và nhà trại ở Mông Xanh Giăng.
Con
đường trũng men theo mỏm Mông Xanh Giăng ấy, cái rãnh sâu trên ngọn sườn đồi
cao ấy, cái vệt lõm khuất trong đất ấy, chẳng có gì báo hiệu là nó cả. Cho nên,
trong trận đánh nhau hôm đó, chẳng ai trông thấy nó và vì thế nó trở thành một
vật kinh khủng.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 1: OATECLÔ
Chương 8
HOÀNG ĐẾ HỎI NGƯỜI DẪN ĐƯỜNG LACÔT
Thế là,
sáng hôm đánh trận Oateclô, Napoleon lấy làm vừa ý.
Như vậy
là phải, vì kế hoạch trận đánh do ông phác ra, như trên đã nói, đúng là tuyệt
diệu.
Trận
đánh bắt đầu. Diễn biến thật phức tạp. Hugômông vẫn cố thủ, He Xanh chiến đấu
kiên trì, Đôđuyanh chết. Phoa loại khỏi vòng chiến. Lữ đoàn Xoa tan nát trước
một bức tường bất ngờ. Ghiơminô trong tay không pháo đùng, không thuốc súng,
một sự dại dột hại. Các khẩu đội pháo sa lầy. Mười lăm khẩu thiếu bảo vệ bị
địch đánh tơi bời trong một đoạn đường trũng. Đạn trái phá rơi vào giữa hàng
ngũ địch, chui xuống đất nhão, khoét thành hố sâu làm cho bùn bắn ra tung tóe
chứ chẳng có mảnh đạn nào. Pirê đem kỵ binh ra biểu diễn một cách vô ích ở
Bơren Lalơ, làm cho cả đoàn người ngựa, mười lăm đại đội, gần như bị xóa sổ.
Cánh phải quân Anh chưa có gì khiến nao núng, cánh trái chưa bị tiêu hao đáng
kể. Việc hiểu lầm của Nê thật kỳ lạ: đáng lẽ ra phải rải ra thì lại cho cả bốn
sư đoàn của quân đoàn số 1 dàn trận đông đặc. Những đội hình hai mươi bảy hàng
dày bít, những trận tuyến hai trăm người san sát, cứ thế mà nộp mình cho đạn
ghém của địch, cứ thế mà để cho đạn đại bác khoét những lỗ trống kinh khủng.
Hàng ngũ các đội xung kích rời rạc. Buốcgioa, Đôngdolô và Đuyrét lầm nguy, Kiô
bị đẩy lui. Trung úy Viơ, nhà lực sĩ tốt nghiệp trường bách khoa, bị thương
trong lúc đang vác búa phá cửa ở He Xanh, vì quân địch bắn từ trên chiến lũy
chắn ngang khuỷu đường từ Giơnáp đi Bơruxen. Sư đoàn Máccônnhê bị kẹp giữa bộ
binh và kỵ binh địch, một đằng bị quân bộ của Bet và Păc núp trong ruộng lúa
bắn gần sát nách, một mặt bị quân kỵ của Pônxônbi chém. Công tước Xắcxơ Vâyma
vẫn chiến đấu và giữ vững khi đội pháo bảy khẩu của ông bị hóc, mặc dù bá tước
Đeclông, Phơrítsơmông và Xmôhanh tấn công mãnh liệt. Lá cờ của trung đoàn 105 bị
mất, lá cờ của trung đoàn 45 cũng bị cướp. Cái tên kỵ binh Phổ, mặc quân phục
đen, bị lính gác của đoàn cơ động ba trăm người đi sục giữa Vavơrơ và
Phơlăngxơnoa bắt được. Những điều nó khai ra thật đáng lo. Gơruxi đến chậm quá.
Một nghìn năm trăm người chết trong vườn quả Hugômông trong non một giờ. Một
nghìn tám trăm người ngã chung quanh He Xanh trong một thời gian ngắn hơn. Tất
cả những sự kiện bão táp ấy diễn ra trước mặt Napoleon như những đám mây vần
của trận đánh. Nó chỉ làm cho mắt rồng hơi mờ đi một thoáng, nhưng không hề làm
cho lòng tin sắt đá ấy lung lay. Ông đã quen nhìn thẳng vào chiến tranh. Ông
không bao giờ đem từng chi tiết mà cộng lại. Con số không quan trọng lắm, chỉ
cốt nó đưa đến tổng số cuối cùng là chiến thắng. Cho dù những bước đầu có chệch
choạc, ông cũng chẳng vì thế mà lo ngại, vì ông tin chắc mình nắm đích cuối
cùng. Ông biết chờ đợi, coi mình như ở ngoài vòng số mệnh và ngang tầm với số
mệnh. Có vẻ như ông nói với nó: “Mày đừng hòng”.
Napoleon
là nửa ánh sáng nửa bóng tối. Ông cảm thấy phía tốt thì mình được bảo vệ, còn
phía xấu thì mình được khoan dung. Không biết đó là điều có thật hay là ông tin
như thế, nhưng sự thật, có thể nói là mọi sự việc đều như đồng mưu với ông, về
hùa với ông, cho nên ông mới có cái mà thời cổ gọi là tính bất khả xâm phạm.
Tuy
nhiên, khi người ta đã từng trải qua Bêrêdina, Laixích, Phôngtenbơlô, thì lẽ ra
người ta cũng có thể hoài nghi Oateclô. Trên cõi cao thâm nghìn trùng, đã gợn
một nét cau mày huyền bí.
Lúc
Oenlinhtơn cho quân lùi lại, Napoleon thấy người mình rung động. Cao nguyên
Mông Xanh Giăng trong giây lát đã vắng bóng quân lính và trận tuyến quân Anh
biến mất. Địch tập họp lại nhưng đồng thời cũng lẩn tránh. Napoleon gần như
nhổm người đứng lên bàn đạp. Trong giây lát chiến thắng như một tia chớp vụt
hiện trong mắt ông.
Oenlinhtơn
mà bị đẩy lùi đến rừng Xoanhơ và bị tiêu diệt, tức nước Anh bị nước Pháp quật
ngã một cách vĩnh viễn. Đó là những thảm bại Cơrêxi, Poachiê, Manpơlake, Ramidi
được phục thù. Các điều khoản Adanbcua người anh hùng Marăngô sẽ xóa sạch.
Vừa nhẩm
trong óc giai đoạn ghê gớm ấy, Napoleon vừa đưa ống nhòm nhìn khắp một lượt
cuối cùng tất cả các vị trí trên chiến trường. Đoàn quân cận vệ, súng chống
xuống đất, sẵn sàng ở đằng sau, phía dưới thấp, theo dõi các cử chỉ của ông, trong
bụng tin như tin ở Chúa. Ông suy nghĩ, ông quan sát các sườn đồi, để ý các
đường dốc, nhìn xoi mói các bụi cây, các thửa ruộng mạch, các đường hẻm; có cảm
tưởng ông tò mò đếm từng bụi gai. Ông nhìn khá chăm chú các chiến lũy của địch
trên hai con đường lớn. Hai chiến lũy, hai đống cây chồng chất lên nhau, khá
rộng. Cái trên đường Giơnáp, phía trên He Xanh, có hai khẩu đại bác; trong toàn
bộ pháo binh địch chỉ hai khẩu này là chĩa tới được phía cuối của chiến trường.
Cái trên đường Niven thì sáng loáng những lưỡi lê của lữ đoàn Hà-lan do Satxê
chỉ huy. Ông cũng chú ý đến ngôi nhà thờ cổ Xanh Nicôla bên cạnh, quét vôi màu
trắng, ở góc đường tắt ngang đi Bơren Lalơ. Ông nghiêng mình thì thầm với người
dẫn đường Lacôt. Tên này lắc đầu ra hiệu là không có gì, chắc chắn là nó xảo
quyệt.
Napoleon
ngồi thẳng người lại, trầm ngâm. Oenlinhtơn đã lùi. Chỉ còn đè bẹp hắn ta luôn
một thể.
Đột
nhiên Napoleon quay lại đằng sau, ra lệnh cho một chiến sĩ liên lạc phi ngựa
cấp tốc về Paris báo tin chiến thắng.
Napoleon
vốn là một trong những thiên tài gây ra bão táp.
Ông vừa
tìm ra được đòn sấm sét của mình.
Ông
xuống lệnh cho kỵ binh thiết giáp của Milô đánh chiếm cao nguyên Mông Xanh
Giăng.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 1: OATECLÔ
Chương 9
ĐIỀU BẤT NGỜ
Đoàn
quân ấy gồm ba nghìn năm trăm người dàn thành một hàng trận dài một phần tư
dặm. Người hộ pháp, ngựa khổng lồ. Tất cả là hai mươi sáu đại đội kỵ binh. Họ
có sư đoàn của tướng Lephe Đenuét làm hậu thuẫn, lại thêm một trăm linh sáu cấm
vệ quân ưu tú, một nghìn một trăm chín mươi bảy khinh kỵ binh và tám trăm tám
mươi kỵ binh xử trường thương trong đội quân cận vệ. Họ đội mũ không có lông và
mặc giáp sắt, súng ngắn gài bên yên, gươm dài treo lủng lẳng. Buổi sáng hồi
chín giờ khi họ tiến ra mặt trận, đội ngũ hùng dũng, cờ mở trống giong, nhạc
binh cử bài Bảo vệ đế quốc, một đội trọng pháo bên sườn, một đội ở trung tâm,
toàn quân trầm trồ khen ngợi. Đoàn quân xếp rải ra hai hàng, giữa hai con đường
Giơnáp và Phơrítsơmông ở trong trận tuyến thứ hai dũng mãnh mà Napoleon đã bố
trí một cách rất khoa học, bên trái có đoàn giáp binh của Kenlécman, bên phải
có đoàn giáp binh của Milô, như hai cái cánh sắt.
Sĩ quan
cần vụ Bécna mang lệnh của Napoleon đến cho họ. Tướng Nê vung gươm xông lên
trước. Cả đoàn quân rầm rộ tiến theo.
Một cảnh
tượng hùng vĩ diễn ra.
Tất cả
đoàn kỵ binh, gươm vung cao, cờ bay phấp phới, kèn trống vang vang. Nghìn người
như một phi ngựa từ trên đồi Benlailiăng, chính xác và mãnh liệt lao xuống cái
thung lũng khủng khiếp đã chôn vùi bao nhiêu chiến binh, khuất hẳn sau làn khói
đạn rồi lại xuất hiện phía bên kia thung lũng, đội ngũ vẫn khép chặt thành một
khối chắc nịch, ngựa phi dưới làn mưa đạn, leo lên sườn đồi Mông Xanh Giăng lầy
lội ghê gớm. Đoàn kỵ binh xông lên oai nghiêm, dữ dội, không nao núng; tiếng vó
ngựa ầm ầm giữa những đợt súng trường và đại bác. Hai sư đoàn như hai mũi dùi
tiến lên, sư đoàn Vachiê bên phải, sư đoàn Đơlo bên trái, trông xa tưởng hai
con rắn thép khổng lồ trườn lên đỉnh đồi và băng qua chiến trường như một điều
kỳ diệu.
Sau đợt
xung phong kinh khủng của đội kỵ binh đánh chiếm lũy bờ sông Matxcơva trước
kia, thật chưa từng thấy một cuộc tấn công nào ghê gớm như thế này. Vắng mặt
Muyra nhưng còn có Nê (Muarat và Nev là hai trong số những tướng ưu việt nhất
của Napoleon. Cả hai đều nổi tiếng trong việc chỉ huy kỵ binh. Muarat là em rể
Napoleon, được ông cho làm vua ở Naple, lúc này đang bị nghĩa quân Ý đánh).
Đoàn quân tiến thành một con quái vật, tất cả chỉ có một linh hồn. Những đội
quân dâng lên như sóng trào, cuồn cuộn như con bạch tuộc uốn mình sau làn khói
mù mịt rách toang ở đôi chỗ. Mũ, gươm quay đao, mông ngựa chồm chồm trong tiếng
hò hét, tiếng đại bác, tiếng kèn, gây nên một cảnh náo động dữ dội và có kỷ
luật ghê rợn. Trên tất cả cái khối chuyển động ấy nổi bật những mảnh giáp sắt,
như vẩy trên mình con rắn khổng lồ.
Cảnh
tượng thật hùng vĩ như ở thời cổ đại xa xôi, trong những truyền thuyết hoang
đường, những đoàn quân khổng lồ mặt người mình ngựa xông lên núi Ôlanhpơ, những
đoàn quân kinh khủng, vĩ đại, bất tử, nửa thần linh nửa dã thú.
Một sự
ngẫu nhiên: hai mươi sáu đại đội bộ binh chờ đón hai mươi sáu đại đội kỵ binh.
Bên kia đỉnh đồi, nấp sau những cỗ pháo ngụy trang, bộ binh Anh bố trí thành
mười ba đội hình vuông, mỗi đội hình vuông gồm hai đại đội, dàn thành hai hàng
trận, bảy ô hàng thứ nhất, sáu ô hàng thứ hai, súng kề vai, nòng chĩa thẳng về
phía trước mặt, chờ đón quân thù sắp đến, bình tĩnh, im lặng. Họ không trông
thấy đoàn giáp binh, đoàn giáp binh cũng không trông thấy họ. Họ nghe đoàn kỵ
binh phi ngựa tới như sóng triều dâng, tiếng vó ngựa dồn dập, nhịp nhàng càng
ngày càng rõ, ba nghìn con ngựa đang phi nước đại, tiếng áo giáp, tiếng gươm
loảng xoảng và một hơi thở lớn thật là ghê gớm. Một phút im lặng kinh hãi, rồi
đột nhiên trên đỉnh đồi xuất hiện một hàng cánh tay vung gươm, mũ sắt nhấp nhô,
kèn đồng sáng loáng, cờ phấp phới, ba nghìn cái đầu, ba nghìn bộ ria mép xám
cùng kêu lên: Hoàng đế vạn tuế! Tất cả đoàn kỵ binh xông lên, mặt đồi rung
chuyển như một cơn động đất. Rồi bỗng nhiên ở phía tả quân Anh, ở phía hữu quân
ta, những hàng kỵ binh đầu chồn lại và thét lên một tiếng rùng rợn.
Họ đã
xông lên đến ngọn đồi, máu sôi sục muốn tiêu diệt ngay quân thù, xéo bẹp những
hàng bộ binh và pháo binh của giặc, bỗng nhiên một cái vực thẳm hiện ra giữa họ
và quân Anh: chính là con đường trũng Ohanh.
Giây
phút kinh khủng. Vực thẳm bất ngờ hiện ra trước mặt, ngay dưới chân ngựa, sâu
hai sải, miệng toang hoác. Đoàn kỵ binh xô nhau xuống vực, hàng thứ hai xô hàng
thứ nhất, hàng thứ ba xô hàng thứ hai, ngựa chồm lên ngã ngửa, giơ bốn vó rồi
cứ thế tuột xuống vực đè lên những người kỵ binh; không sao giữ lại được; đoàn
kỵ binh xông lên như vũ bão, tưởng đè bẹp quân Anh, lại xéo lên quân Pháp. Phải
lấp đầy cái vực ác nghiệt ấy thì cái vực mới để cho quân Pháp vượt qua, người
ngựa cứ xô nhau xuống đè bẹp lẫn nhau, nghiến nát lẫn nhau thành một khối thịt
kinh khủng. Khi vực đã lấp đầy, những hàng kỵ binh sau xéo lên người, ngựa mà
tiến. Gần một phần ba lữ đoàn Đuyboa bị vùi dưới vực. Thua trận bắt đầu từ đấy.
Người
địa phương truyền lại, chắc là phần nào ngoa ngoắt, hai nghìn ngựa, một nghìn
năm trăm kỵ binh bị chôn dưới con đường trũng Ohanh này. Con số đó có lẽ gồm cả
những xác chết ngày hôm sau người ta vứt xuống đấy.
Cũng nên
nhắc lại rằng chính lữ đoàn Đuyboa, thất bại nặng nề ở đây, một giờ trước tai
nạn, đã tấn công quân địch và giật lá cờ của tiểu đoàn Luynơbua.
Napoleon
trước khi ra lệnh xung phong cho đoàn kỵ binh Milô đã thăm dò địa hình, nhưng
không nhìn thấy trên mặt đồi một dấu vết gì của con đường trũng Ohanh. Cái nhà
thờ trắng nhỏ ở góc đường Niven cũng đã khiến ông nghi ngờ, ông đã hỏi người
dẫn đường Lacôt chỗ ấy có chướng ngại gì không. Người dẫn đường trả lời không
có gì. Cái lắc đầu của một người nông dân đã làm sụp cả cơ đồ của Napoleon, nói
như vậy cũng không ngoa lắm.
Nhiều
vận nạn khác còn đến tiếp.
Có thể
nào Napoleon thắng được trận này không? Chúng tôi nói: Không. Vì sao? Tại
Oenlinhtơn? Tại Bơluyse? Không. Do Chúa mà ra cả.
Bônapac
mà thắng trận ở Oateclô thì điều đó không hợp với qui luật của thế kỷ mười chín
nữa. Rất nhiều sự kiện mới đang chuẩn bị xuất hiện, nhưng Napoleon không có chỗ
đứng trong đó nữa. Từ lâu đã có dấu hiệu việc chẳng chiều người. Đã đến lúc con
người to rộng ấy phải sụp đổ.
Con
người ấy đè nặng quá đáng lên vận mệnh nhân loại làm lệch mọi thế cân bằng.
Riêng một mình ông mà chấp cả vũ trụ. Tất cả sinh lực tràn trào của loài người
tập trung vào một đầu óc, cả thế giới như dâng lên trí tuệ một con người, nếu
tình hình đó mà kéo dài thì văn minh có cơ tiêu diệt mất. Đã đến lúc luật công
lý không gì suy suyển nổi ở trên cao phải chú ý. Bởi vì chắc hẳn bao nhiêu
nguyên tắc, bao nhiêu lực lượng điều khiển mọi sự vận động bình thường trong
lĩnh vực tinh thần cũng như trong lĩnh vực vật chất, đã lên tiếng phàn nàn. Máu
thành sông, xương thành núi, tiếng khóc mất con, mất chồng, còn có những lời
kêu ca nào đáng sợ hơn! Khi mặt đất rên xiết dưới một ách quá nặng nề, thì từ
bóng đêm cũng có những lời rên rỉ huyền bí vang đến cao xanh lồng lộng.
Napoleon
đã bị tố giác trước đất trời và sự sụp đổ của ông đã được quyết định.
Bởi vì
ông làm rầy Chúa.
Cho nên
Oateclô nào phải là một trận đánh, đó là cảnh tượng đất trời ngả về phía khác.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 1: OATECLÔ
Chương 10
CAO NGUYÊN MÔNG XANH GIĂNG
Cùng lúc
với cái hào sâu, các khẩu đội pháo cũng xuất hiện.
Sáu mươi
cỗ đại bác và mười ba đội hình vuông nổ súng như sấm sét vào đoàn giáp binh,
gần như ngay sát nách. Tướng Đơlo gan dạ, đưa tay lên chào pháo Anh như theo
kiểu nhà binh.
Tất cả
pháo binh cơ động của địch đều phóng nhanh trở vào giữa các đội hình vuông.
Giáp binh không có lấy một lúc được ngừng lại để chỉnh đốn. Tai hại ở đường
trũng có làm cho họ thiệt hại nhiều, nhưng không làm cho họ ngã lòng. Đó là
những con người, còn ít bao nhiêu càng dũng cảm bấy nhiêu.
Chỉ một
mình đội ngũ của Vachiê lầm vào tai họa. Còn đội ngũ của Đơloa, thì hình như Nê
linh cảm sẽ có cạm bẫy, nên cho tiến tạt qua bên trái, do đó đã đến nơi nguyên
vẹn.
Họ phi
ngựa nhẩy xổ vào các đội quân địch. Người nằm rạp trên lưng ngựa, ngựa buông
lỏng hết cương, gươm sẵn sàng, súng lăm lăm.
Lâm trận
có những lúc mà tinh thần của người lính làm cho con người họ rắn lại như tượng
đồng, như sắt đá. Đó là các tiểu đoàn quân Anh, bị tấn công một cách điên
cuồng, nhưng vẫn trơ trơ.
Cảnh tượng
thật kinh khủng.
Các đội
vuông Anh đều bị tấn công bốn mặt một lúc. Chung quanh họ, người ngựa, gươm
giáo quay lộn cuống cuồng. Nhưng họ vẫn lạnh lùng, hàng ngũ chỉnh tề. Hàng thứ
nhất, quì xuống, chĩa lê ra đằng trước, chờ giáp binh xông tới, trong khi hàng
thứ hai nhằm bắn. Sau hàng thứ hai các pháo thủ nạp đạn vào pháo; nạp xong,
đằng trước dãn ra cho một loạt đạn ghém bắn vãi ra rồi lại khép lại. Giáp binh
đáp lại bằng cách cho ngựa xéo lên người họ. Các con ngựa to lớn chồm lên, nhảy
qua các hàng người, phóng lên trên các dãy lê rồi cả khối người ngựa khổng lồ
đổ sầm xuống giữa bức tường người. Đạn pháo chọc thủng từng lỗ trong hàng ngũ
giáp binh, giáp binh phá vở từng mảng của đội hình vuông. Từng dãy người biến
mất, ngã lăn, bị nghiền nát dưới chân ngựa. Nhiều lưỡi lê cắm lút vào bụng
những người – ngựa ấy. Các vết thương, do đó cũng kỳ dị, không đâu có. Giáp
binh đánh như điên như dại, các đội vuông có bị sứt mẻ, nhưng chỉ bị thu hẹp
lại chứ không lay chuyển. Đạn ghém của họ cứ liên tục nổ vào giữa đoàn người
tấn công. Quang cảnh trận đánh thật kỳ quái. Các đội vuông chẳng còn là binh
lính nữa, mà là những núi lửa; các đội giáp binh chẳng còn là quân kỵ mã nữa,
mà là một trận bão. Mỗi một đội hình vuông là một núi lửa bị một đám mây tấn
công; phúc thạch đánh nhau với sấm sét.
Đội hình
vuông bên cực hữu, ở vào vị trí trống trải nhất nên bị tiêu diệt gần hết ngay
từ những hiệp đầu. Đó là những binh lính của trung đoàn 75 ở vùng núi Êcôt.
Trong lúc tứ phía mọi người đâm chém nhau thì anh chàng quân nhạc tay ôm kèn,
ngồi trên cái trống của mình, vẫn lơ đễnh đưa cặp mắt nhớ rừng nhớ suối nhìn
vào chỗ xa xôi, dạo lên mấy điệu núi rừng. Dân Êcôt chết vẫn nhớ đất Ben
Lôtiăng của họ cũng như dân Hy Lạp lìa đời vẫn nghĩ đến vùng Acgốt của mình.
Một lưỡi gươm kỵ binh đã chém đứt cả cánh tay lẫn cây kèn, giết chết nhạc công,
cắt ngang luôn khúc nhạc.
Quân số
đoàn kỵ binh vốn đã ít lại giảm đi rất nhiều sau tai nạn ở đường trũng, phải
đương đầu gần như với toàn bộ quân đội Anh, nhưng được cái họ hăng lên gấp bội,
một người như nhân thành mười. Trong lúc ấy thì một số tiểu đoàn Hanôvơrơ núng
thế. Oenlinhtơn trông thấy bèn nghĩ đến kỵ binh của mình. Giá Napoleon lúc ấy,
cũng nghĩ đến bộ binh thì có lẽ ông đã giành phần thắng. Nhưng ông đã quên, cái
quên đó là một lầm lỗi lớn dẫn đến tai họa không tài nào tránh khỏi.
Đoàn
giáp binh đang ở thế tiến công, đột nhiên cảm thấy như bị phản kích. Kỵ binh
địch đã ở sau lưng. Thế là mặt trước có các đội hình vuông, mặt sau có Xômớcxet
với một nghìn bốn trăm kỵ binh cận vệ. Ông ta còn có bên phải đội khinh kỵ Đức
của Đoócbéc, bên trái đội khinh kỵ Bỉ của Tơríp. Giáp binh như thế là bị bộ
binh và kỵ binh đánh tứ phía, phải chống đỡ cả bốn mặt. Chẳng sá gì! Cả đoàn
trở thành một cơn lốc. Tinh thần anh dũng của họ thật không lời nào tả xiết.
Lại
thêm, sau lưng, pháo binh vẫn nhằm họ mà nổ không ngớt. Vì thế họ bị thương từ
sau lưng! Trong mớ hiện vật gọi là bảo tàng Oateclô còn giữ một bộ giáp của họ
bị thủng ở bả vai bằng một viên đạn súng cỡ to ấy.
Chống
lại những con người Pháp như vậy, tất phải có những con người Anh cũng như vậy.
Vì thế
cũng không còn là một cuộc hỗn chiến nữa, mà là một cuộc vật lộn tối trời đen
đất, một cuồng nộ, một cơn bốc đồng ghê người của tâm hồn và can đảm, một trận
sấm súng chớp gươm. Chỉ trong chốc lát từ một nghìn tư kỵ binh cận vệ Anh chỉ
còn tám trăm. Trung tá Phơlơ bị giết. Nê dẫn dội kỵ binh của Lơphe Đênuét xông
tới. Cao nguyên Mông Xanh Giăng giành đi giật lại với địch đến lần thứ hai.
Giáp binh đánh với bọn kỵ binh rồi lại quay đánh với bọn bộ binh. Hay, nói đúng
hơn, cả đám người ngựa loạn xạ này quắp chặt lấy nhau, không bên nào chịu rời
bên nào. Giáp binh đã xung phong mười hai lần. Nê mất đến con ngựa thứ tư bị
giết dưới đùi mình. Một nửa giáp ninh nằm lại, trên đồi. Nhưng các đội hình
vuông quân Anh vẫn đứng vững. Cuộc chiến đấu kéo dài hai tiếng đồng hồ.
Đạo quân
Anh bị lung lay một cách nghiêm trọng. Thật chẳng còn nghi ngờ gì nữa, nếu đoàn
kỵ binh thiết giáp mà không yếu đi vì cái tai họa ở con đường trũng, thì họ đã
đánh tam mặt giữa đạo quân Anh và quyết định thắng lợi. Chính đoàn kỵ binh thần
kỳ này đã làm cho Cơlintơn, con người đã từng chứng kiến các trận Talavêra và
Bađagiô; phải ngây người khâm phục. Còn Oenlinhtơn xem như ba phần tư thua
trận, vẫn trầm trồ một cách anh hùng: “Tuyệt vời!” (Splendid!: chú thích ở
nguyên bản)Giáp binh đã tiêu diệt bảy trong số mười ba đội hình vuông, chiếm và
phá hỏng sáu mươi khẩu trọng pháo, cướp của các trung đoàn địch sáu lá cờ và
cho ba giáp binh và ba kỵ binh cận vệ mang về cho Napoleon trước trại ở
Benlaliăng.
Tình thế
của Oenlinhtơn đã xấu đi. Trận chiến kỳ lạ này giống như một cuộc đọ sức giữa
hai người đã bị thương, nhưng vẫn quyết liệt, bên nào cũng vừa đánh vừa cố hết
sức nên dần dần máu ra gần hết. Bên nào sẽ ngã xuống trước?
Cuộc vật
lộn trên cao nguyên vẫn tiếp diễn.
Đoàn
giáp binh đã tiến đến đâu? Không ai có thể biết rõ. Điều chắc là hôm sau trận
đánh, người ta tìm thấy một giáp binh, cả người lẫn ngựa chết trong cái giàn
cân xe ở Mông Xanh Giăng, đúng chỗ bốn con đường Niven, Giơnáp, Lahuyn và
Bơruxen gặp nhau và cắt nhau. Anh giáp binh ấy đã chọc thủng hàng trận của quân
địch. Một trong mấy người kéo xác anh ta ra, hiện còn sống ở Mông Xanh Giăng,
tên là Đơhadơ. Hồi ấy ông ta mười tám tuổi.
Oenlinhtơn
cảm thấy thế trận của mình không đứng nổi nữa. Tan vỡ đến nơi rồi.
Đoàn
giáp binh chưa đạt được mục tiêu, vì chưa chọc thủng được mặt giữa. Hai bên
cùng có mặt, trên cao nguyên Mông Xanh Giăng chứ chưa bên nào chiếm được. Nói
cho đúng thì phần lớn còn ở trong tay quân Anh. Oenlinhtơn giữ khu làng và cánh
đồng trên cao, Nê chỉ chiếm mỏm và sườn thấp. Cả hai bên đều như cắm rễ xuống
mảnh đất ghê rợn này.
Tuy
nhiên sự suy yếu của quân Anh xem chừng không cứu chữa nổi. Đạo quân đã thiệt
hại ghê gớm quá. Ở cánh trái, tướng Căm đòi viện binh. Oenlinhtơn đáp: “Không
có. Bảo ông ấy tử thủ thôi!” Gần như cùng lúc ấy, Nê cũng xin hoàng đế cho bộ
binh chi viện. Napoleon kêu lên: “Bộ binh! Lấy đâu ra bộ binh? Họa là bảo ta đẻ
ra!” Trùng hợp ngẫu nhiên và kỳ lạ, nhưng thật ra đó chỉ là tình trạng bên nào
cũng kiệt sức.
Tuy
nhiên, phía bên Anh nghiêm trọng hơn. Những đợt xung phong dữ dội của các đội
giáp thép ngực đồng ấy đã nghiền nát bộ binh địch. Có chỗ đóng một trung đoàn
nay chỉ còn mấy người chung quanh một lá cờ. Có tiểu đoàn chỉ còn một đại úy
hoặc một trung úy chỉ huy. Sư đoàn Onten ở He xanh đã bị đánh tơi tả thì nay
hầu như bị tiêu diệt. Lữ đoàn Bỉ dũng cảm của Văng Cơludơ xác nằm ngổn ngang
trong ruộng mạch trên đường đi Niven. Lính pháo thủ Hà-lan, hồi 1811 cùng đứng
trong hàng ngũ quân ta ở Tây Ban Nha đánh Oenlinhtơn, thì nay, 1815 lại theo
quân Anh đánh lại Napoleon, họ gần như không còn sót lại được người nào. Sĩ
quan hao hụt nhiều quá. Huân tước Uýchbơrít bị vỡ đầu gối, hôm sau đem chôn ống
chân mình. Trong cuộc tấn công của giáp binh, nếu bên Pháp, Đơlo, Lêrichiê,
Cônbe, Nốp, Tơrave và Bơlăngsa bị loại ra ngoài vòng chiến thì phía Anh, Onten
bị thương, Bác bị thương, Đilanxê chết, Văng Móclăng chết, Omtêda chết, toàn bộ
tham mưu của Oenlinhtơn bị tổn thất nặng nề. Trong cuộc chia máu này bên Anh
phải chịu phần nặng hơn. Trung đoàn số 2 vệ binh bị mất năm trung tá, bốn đại
úy và ba sĩ quan cầm cờ; tiểu đoàn I của trung đoàn 30 bộ binh mất hai mươi bốn
sĩ quan và một trăm mười hai lính, trung đoàn 79 sơn binh có hai mươi bốn sĩ
quan bị thương, mười tám sĩ quan chết, bốn trăm năm mươi lính chết. Kỵ binh
Hanôvơrơ của Cơmbơclen, cả một trung đoàn, quay lui trước trận đánh và chạy về
phía rừng Xoanhơ, rồi tút lui tan vỡ về tận Bơruxen. Viên đại tá chỉ huy là
Hắcơ, về sau bị đưa ra tòa án và cách chức. Các đoàn hậu cần, kéo pháo, chở
hàng, tải thương, thấy quân Pháp tiến dần và nhích gần đến khu rừng, liền kéo
nhau chạy ùa vào đó. Quân Hà Lan, kỵ binh Pháp phang cả, thét lên: cứu! Cứu! Từ
Vecucu đến Gơrônenđaen, trên một quãng gần hai dặm đi về phía Bơruxen, theo lời
những người chứng kiến hồi đó, quân lính chen nhau chạy trốn. Tình trạng hoảng
hốt ấy ghê gớm đến nỗi lây đến cả hoàng thân Côngđê ở Malin và Lui XVIII ở
Gang, Oenlinhtơn coi như không còn kỵ binh nữa, trừ số dự trữ yếu ớt đóng rải
sau trạm quân y ở nhà trại Mông Xanh Giăng và mấy lữ đoàn Vayviên và Văngđơlơ
phụ vào cánh trái. Rất nhiều khẩu đội, nằm bẹp hư hỏng. Những tình hình này đều
do Xiboóc thú nhận. Còn Pơringơn thì phóng to sự thiệt hại, đến mức cho rằng
đạo Anh – Hà chỉ còn ba vạn tư. Quận công – thép (Tên hiệu danh dự người ta
dùng để gọi quận công Oenlintơn. Tiếng Anh: Iron duke, tiếng Pháp: Duc-de-fer)
vẫn giữ vẻ bình tĩnh, nhưng đôi môi đã tái nhợt. Vanhxăng ủy viên Áo, Alava ủy
viên Tây Ban Nha, có mặt trong trận đánh bên cạnh bộ tham mưu, tưởng Oenlinhtơn
nguy đến nơi. Năm giờ chiều, ông rút đồng hồ xem và lẩm bẩm một câu não nuột:
Bơluyse, hoặc là đêm tối!
Vừa lúc
ấy một hàng lưỡi lê nhấp nhánh đằng xa, trên các ngọn đồi phía Phơrítsơmông.
Giai
đoạn kết thúc của tấn kịch khổng lồ này bắt đầu.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 1: OATECLÔ
Chương 11
HƯỚNG ĐẠO CỦA NAPOLEON TỒI, HƯỚNG ĐẠO CỦA BUYLÔ TỐT
Mọi
người đều biết Napoleon đã lầm lẫn đau xót như thế nào. Chờ Gơrusi thì Bơluyse
lại đến, mong cái sống thì cái chết lại tới. Cuộc đời có những cái oái oăm như
vậy. Định làm bá chủ thiên hạ, không ngờ lại nhìn thấy Xanh Hêlen.
Giá như
thằng bé chăn cừu làm hướng đạo cho Buylô, tướng của Bơluyse, khuyên ông ta đổ
ra cánh đồng bên kia theo con đường rừng phía trên Phơrítsơmông chứ không phải
ở dưới Pơlăngxơnoa, thì hình thế của thế kỷ XIX có lẽ đã khác nay. Napoleon có
lẽ đã thắng ở Oateclô. Bởi vì bất kỳ một con đường nào khác ở trên Pơlăngxơnoa
đều dẫn đến một dòng khe sâu, pháo binh không tài nào qua nổi và như thế Buylô
không đến kịp.
Như
tướng Muýphơlin trong quân Phổ tuyên bố, nếu Bơluyse mà đến chậm một giờ thì
Oenlinhtơn đã không còn trụ nổi nữa, trận đánh thua mất rồi. Như vậy là Buylô
đến rất đúng lúc. Sự thực, ông ta đã gặp nhiều trở ngại không thì đã đến sớm
hơn thế. Đêm trước ông đóng dã ngoại ở Điông lơ Mông và sáng sớm đã ra đi.
Nhưng đường xấu quá, các sư đoàn đều mắc phải lầy, không tiến được. Các cỗ pháo
ngập bùn đến nửa bánh xe. Lại phải vượt sông Đilơ bằng mỗi cái cầu hẹp ở Vavơrơ.
Đường lên cầu lại bị quân Pháp đốt, nhà cửa hai bên đường còn đang cháy. Vì thế
các hòm đạn, các xe cộ của pháo binh phải chờ cho lửa tắt mới dám đi qua. Mãi
đến trưa mà tiền đạo của Buylô vẫn chưa tới Xanh Lambe.
Trận
đánh nếu bắt đầu hai giờ sớm hơn, thì đến bốn giờ có lẽ đã xong và dù Bơluyse
có đến thì cũng đến vào lúc Napoleon đã thắng trận. Những điều ngẫu nhiên lớn
lao như vậy thật là sự tính toán của cõi vô biên nào, ta không tài gì hiểu nổi.
Từ trưa,
Napoleon là người đầu tiên, nhìn thấy qua ống nhòm ở phía cuối chân trời một
cái gì là lạ làm ông để ý. Ông nói: “Ta thấy đằng xa kia có một đám bụi hình
như là quân đội”. Ông lại hỏi quận công Đammaxi: “Xu, ông thấy gì phía Xanh
Lambe không?” Thống chế Xu đưa ống kính của mình về phía đó, đáp lại: “Tâu bệ
hạ, có đến bốn hay năm nghìn người, chắc chắn là quân của Gơrusi”. Nhưng đám
bụi cứ im lìm trong sương mù. Tất cả các ông nhòm của bộ tham mưu đều theo dõi
quan sát cái “đám bụi” Napoleon đã phát hiện. Có người cho đó là những quân
đoàn đang nghỉ. Phần lớn đều nghĩ rằng đó chỉ là những đám cây. Trên thực tế
đám bụi ấy đứng im thật. Napoleon đã phái đoàn khinh kỵ của Đômông đi trinh sát
về phía cái chấm mờ ấy.
Đúng là
Buylô dừng lại, im lìm. Tiền đạo của ông ta mong manh lắm, không thể làm gì
được. Phải chờ đại quân đến. Và, ông đã được lệnh tập kết rồi mới bước vào
trận. Nhưng đến năm giờ, thấy tình hình nguy ngập của Oenlinhtơn, Bơluyse ra
lệnh cho Buylô tấn công. Ông ta đã nói một câu dí dỏm:
- Phải
hà hơi cho quân Anh.
Một lúc
sau, các sư đoàn Lôthin Hile, Hắccơ và Ritxen triển khai trước phòng tuyến của
Lôbô, kỵ binh của hoàng thân Ghiôm nước Phổ từ khu rừng Paris cũng đổ ra.
Pơlăngxơnoa nổi cháy và trọng pháo quân Phổ bắt đầu rơi như mưa vào tận các
hàng cận vệ dự bị đóng sau lưng Napoleon.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 1: OATECLÔ
Chương 12
ĐOÀN CẬN VỆ
Tình
hình diễn biến như thế nào, mọi người đều biết: một đạo quân thứ ba đột nhiên
xuất hiện. Trận địa vỡ lở. Tám mươi sáu khẩu trọng pháo nổ đồng loạt. Piếc đệ
nhất đùng đùng hiện ra với Buylô Kỵ binh do đích thân Bơluyse chỉ huy. Quân
Pháp bị đẩy lùi khắp nơi. Macônhe bị quét khỏi đồi Ohanh, Đuyruýt phải bỏ
Papơlôt. Đôndơlô và Kiô rút lui, Lôbô bị đánh vỗ vào sườn. Nghĩa là một trận
đánh mới ào ào đổ lên đầu các trung đoàn đã tả tơi của quân ta, vào lúc trời
tối. Thừa thế, quân Anh trên khắp các mặt trận lại trở lại tấn công, lao về
phía trước. Trận tuyến quân Pháp bị chọc thủng một quãng to. Quân Anh, quân Phổ
trợ lực cho nhau, đạn to đạn nhỏ, vãi ra như mưa, tha hồ mà tiêu diệt. Thế là
tan vỡ, tan vỡ mặt trước, tan vỡ bên sườn. Trước tình hình sụp đổ kinh khủng
ấy, đoàn cận vệ bước vào chiến đấu.
Biết thế
nào rồi cũng chết, họ thét to: “Hoàng đế vạn tuế!” Thật xưa nay không có gì cảm
động bằng cảnh tượng đoàn quân sắp chết đó còn vùng lên hoan hô như vậy.
Suốt
ngày hôm ấy trời đầy mây. Bỗng nhiên, đúng vào lúc ấy – bấy giờ đã tám giờ tối
– mây ở chân trời vén ra. Xuyên qua các vòm cây trên đường đi Niven loang loáng
ánh sáng đỏ bầm, ghê rợn của mặt trời đang lặn. Người ta nhớ cũng mặt trời ấy
đã mọc lên ở Austelít.
Trong
trận giải kết này, mỗi tiểu đoàn quân cận vệ được một vị tướng chỉ huy.
Phơriăng, Misen, Rôghê, Háclê, Malê, Moócvăng đều có mặt. Khi có đội ưu binh
cận vệ xuất hiện giữa chiến trường mù mịt, với những chiếc mũ cao, những huy
chương chim ưng, hàng ngũ chỉnh tề, cân đối, lặng lẽ, rực rỡ, quân địch tưởng
như trông thấy uy phong của cả nước Pháp nên cảm thấy phải kính nể. Hình như
tất cả các chiến thắng xưa nay đang xòe rộng đôi cánh tiến ra chiến trường cùng
một lúc, cho nên, những kẻ đang chiến thắng bỗng dưng coi mình như thua trận và
lùi lại. Nhưng Oenlinhtơn thét to: “Vệ binh, đứng lên và nhằm cho đúng!” Trung
đoàn vệ binh quân phục đỏ, đang nằm phục sau các hàng giậu, bỗng đứng lên. Một
loạt đạn như mưa bắn vào lá cờ ba sắc đang rùng mình chung quanh bầy chim ưng
của chúng ta. Rồi tất cả lao tới trước. Cuộc chém giết cuối cùng bắt đầu.
Trong
bóng tối, đoàn cận vệ cảm thấy tất cả hàng ngũ chung quanh núng thế và khắp nơi
đều có dấu hiệu lung lay muốn tan vỡ. Họ nghe tiếng hô mạnh ai nấy chạy! Thay
vào tiếng hô vạn tuế! Mặc cho những kẻ bỏ chạy sau lưng, họ vẫn tiếp tục tiến
lên. Mỗi bước tiến lên họ lại bị bắn thêm nhiều hơn và bị giết thêm nhiều hơn.
Nhưng không hề có ai ngập ngừng hoặc e ngại. Lính cũng như tướng trong đoàn
quân này tất cả đều anh hùng như nhau. Chẳng một ai chịu thiếu mặt trong giờ
tựu nghĩa này.
Giữa cơn
bão táp như thế, Nê cuống cuồng nhưng hùng vĩ trong cử chỉ sẵn sàng hy sinh,
đưa mình đón tất cả gươm súng của quân địch. Con ngựa thứ năm đã chết dưới
người ông. Nê mồ hôi ướt đẫm, cặp mắt đổ lửa, miệng sùi bọt, quân phục bật
tung, một bên cầu vai bị một tên giữ ngựa chém sả lòng thòng, chiếc huân chương
đệ nhất đẳng bội tinh bị đạn bắn nong lên, toàn thân đầy máu, đầy bùn, nhưng
đẹp tuyệt vời! Ông vung lưỡi gươm đã gãy lên, thét: “Mở mắt mà xem một thống
chế Pháp chết ở chiến trường như thế nào!” Nhưng vô ích, ông không chết. Ông
phờ phạc và phẫn uất. Ông quay thét hỏi Đơruê Đéclông: “Còn anh, anh không chết
hả?” Giữa những tiếng nổ của pháo địch dồn vào băm nát một nhúm người, ông thét
lên: “Sao không dành phần cho ta! Trời ơi! Ta chỉ muốn tất cả bom đạn vào hết
trong bụng này!” Không đâu, con người bất hạnh, số phận đã dành anh cho những
viên đạn Pháp đấy (Thống chế Ney bị tòa án tối cao của Lui XVIII xử bắn mấy
tháng sau).
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 1: OATECLÔ
Chương 13
ĐỔ VỠ
Đằng sau
đội cận vệ tình trạng tan vỡ thật thê thảm.
Cả đội
quân xiêu ngã đột ngột cũng một lúc ở khắp nơi, ở Hugômông, ở He Xanh, ở
Papơlốt, ở Pơlăngxơnoa. Tiếng thét nổi lên: “Bị phản rồi! Bị phản rồi!” Tiếp
theo là tiếng kêu: “Chạy! Chạy!” Một đạo quân bỏ chạy thì chẳng khác gì băng
tan. Tất cả đều chông chênh, rạn nứt, lềnh bềnh, răng rắc, rồi lăn lóc, đổ vỡ,
xô vào nhau, chồm lên nhau. Tan rã chưa từng thấy. Nê mượn một con ngựa, phóc
lên, không mũ, không áo, tay không, đứng chặn ngang giữa đường đi Bơruxen, ngăn
lại không cho chạy cả quân Pháp lẫn quân Anh. Ông hết gọi lại mắng, cố giữ sức
quân đội lại, cố sức ngăn cản không cho nó tan rã. Nhưng sức ông không xuể.
Quân lính chạy xa ông, vừa chạy vừa kêu: “Thống chế Nê muôn năm!” Hai trung
đoàn của Đuyruýt chạy tới chạy lui, hoảng hốt, như bị hất đi hất lại giữa làn
gươm của kỵ binh Phổ và họng súng của các sư đoàn Căm, Bết, Pắc và Rylăng. Tan
vỡ là cuộc ẩu đả tồi tệ nhất! Cùng một bên nhưng cứ giết nhau để thoát, tiểu
đoàn kỵ binh, tiểu đoàn bộ binh xô lẫn vào nhau rồi cùng tan ra từng mảng, như
bọt bèo. Đầu này Lôbô, đầu kia Rây, hai cánh đều bị cuốn vào dòng thác lũ.
Napoleon một mình, với chỗ cận vệ còn lại, cố sức làm những bức tường ngăn,
nhưng ông chỉ đem cả tiểu đoàn trực chiến của ông thử cố gắng một lần cuối
cùng, chứ chẳng được gì. Kiô lùi trước Vayviên, Kenlécman trước Văngđơlơ, Lôbô
trước Buylô. Môrăng trước Piếc, Đômông và Xuybecvic trước hoàng thân Ghiôm.
Guyô dẫn đầu các tiểu đoàn kỵ binh cận vệ của Napoleon tiến lên xung phong, đã
ngã xuống dưới chân ngựa quân Anh. Napoleon phi ngựa đuổi theo binh lính bỏ
chạy, kêu gọi, thúc giục, đe dọa, van lơn. Cũng những con người ấy, sáng nay thét
to “hoàng đế vạn tuế”, nhưng bây giờ thì há hốc mồm không đáp lời nào và nhìn
cũng khó nhận ra họ nữa. Trong lúc đó thì kỵ binh Phổ mới tới, sung sức, xô
tới, bay vào vùn vụt, chém, chặt, bửa, giết, diệt. Các cỗ pháo ngựa kéo lồng
lên, bỏ chạy; lính tiếp đạn bỏ các xe đạn lại, tháo ngựa cưỡi trốn; nhiều xe
tải thương đổ nhào, bốn bánh chổng ngược, ngáng cả lối đi, tạo cơ hội cho quân
địch ùa đến tàn sát. Người ta giẫm lên nhau, đè bẹp nhau, bước bừa lên cả người
chết lẫn người sống, tay chân cuống cuồng như điên như dại. Bốn vạn người chạy
trốn một lần! Đường to, ngõ hẻm, nào cầu, nào ruộng, nào đồi, bao nhiêu lũng,
bao nhiêu rừng, đâu đâu người cũng đông nghịt, hốt hoảng, cuống cuồng. Kêu
khóc, thở than, xắc, súng vứt vào ruộng mạch, chém giết để mở lối, hết bạn hết
bè, hết tướng hết tá. Kinh khủng không tả xiết. Nước Phổ cứ gươm mà chém nước
Pháp tha hồ. Sư tử đã trở thành hươu non. Cảnh tan vỡ này là như vậy.
Đến
Giơnáp, người ta cố đứng lại, lập thành trận tuyến, cản quân địch. Lôbô tập họp
được ba trăm người, cùng nhau chặn cổng làng lại. Nhưng nếm loạt đạn đầu tiên
của quân Phổ, mọi người lại bỏ chạy. Lôbô bị bắt. Ngày nay còn thấy vết đạn ấy
trên nóc một ngôi nhà gạch bên đường, về phía tay phải, một quãng trước khi vào
Giơnáp. Quân Phổ nhảy vào Giơnáp, tức giận sao chiến thắng chỉ có thế. Họ đuổi
theo một cách điên cuồng và Bơluyse ra lệnh tiêu diệt một cách man rợ. Rôghê đã
từng nêu một cái gương thảm hại là hễ lính Pháp nào mang đến cho hắn một tù
binh Phổ thì hắn dọa đem bắn. Nhưng Bơluyse bây giờ còn vượt xa hơn. Tướng
Đuyhêm trong đội thanh niên cận vệ, bị dồn đến trước cửa một quán cơm ở Giơnáp,
ông trao thanh gươm cho một tên kỵ binh Phổ, tên này cầm lấy gươm và giết luôn
người tù binh. Người ta kết thúc chiến thắng bằng cách giết hại những người
thua trận. Cho nên phải nói lên lời phê phán của chúng ta, vì chúng ta là lịch
sử: tướng Bơluyse đã tự bôi nhọ mình.
Sự man
rợ ấy làm cho cuộc đổ vỡ càng thêm khủng khiếp. Binh lính thất trận, tan vỡ
tuyệt vọng, cứ thế cắm đầu chạy, qua Giơnáp, qua ngã tư, qua Gốtxơli, qua
Phơran, qua Sáclơroa, qua Tuyanh, đến tận biên giới mới dừng lại. Mà than ôi!
Kẻ chạy là ai? Chính lại là đạo quân vĩ đại.
Cái tinh
thần anh dũng tuyệt vời của đạo quân đã từng làm cho lịch sử kinh ngạc, bỗng
dưng sụp đổ tan tành như vậy, kinh hoàng, khủng khiếp như vậy, phải đâu không
có nguyên nhân? Không. Bóng đen của một đường thẳng khổng lồ đã chiếu xuống
Oateclô. Đó là ngày của số mệnh. Một sức mạnh trên con người, đã tạo ra ngày
hôm đó. Do vậy mà mọi vầng trán đều có nếp nhăn, mọi tâm hồn cao cả kia phải
hàng phục. Những người đã từng chiến thắng cả châu Âu, đành ngã xuống, chẳng
nói chẳng rằng, vì đã cảm thấy đâu trong bóng tối có một cái gì ghê gớm. Ngày
hôm ấy, bộ mặt nhân loại đã thay đổi. Oateclô coi như là bản lề của thế kỷ mười
chín. Con người vĩ đại ấy biến đi là cần thiết cho thế kỷ vĩ đại ra đời. Một kẻ
nào đó đứng trên tất cả mọi người đã phụ trách xếp đặt tất cả các công việc ấy.
Bây giờ thì hiểu được vì đâu có sự hoảng loạn trên kia. Trong trận Oateclô
không phải chỉ có mây mà còn có cả điềm trời, Chúa đã có mặt.
Chập
choạng tối, trong một cánh đồng gần Giơnáp, một người bị cuốn theo dòng thác
tan vỡ, vừa xuống ngựa, dáng bơ phờ, âm thầm dữ tợn. Người ấy kẹp cương ngựa
dưới nách, rồi một mình, ngơ ngác, đi trở về phía Oateclô. Bấy giờ Bécna và
Bectơrăng mới đưa tay nắm lấy vạt áo người đó giữ lại. Đó là Napoleon đang cố
sức tiến về phía trước, một kẻ mộng du to lớn trong giấc mộng vừa đổ vỡ tan
tành.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 1: OATECLÔ
Chương 14
ĐỘI HÌNH VUÔNG CUỐI CÙNG
Như
những hòn đá giữa dòng nước chảy, một số đội hình vuông của đoàn cận vệ vẫn
đứng trong làn sóng tan vỡ và giữ vững cho đến tối. Đêm đến, cái chết cũng đến,
họ chờ cả hai và để cho cả hai vây phủ lấy mình, không lay chuyển. Chẳng còn
liên lạc gì với cả quân đội đã tan vỡ khắp nơi, mà cũng cách biệt nhau mỗi
trung đoàn mỗi nơi, nên mỗi đơn vị chỉ còn biết mình chiến đấu cho mình. Để làm
được việc đó, một số bố trí trên các ngọn đồi ở Rôtxôm, một số giữa đồng bằng
Mông Xanh Giăng. Ở đấy, bị bỏ rơi, thua trận, những đội hình vuông dữ tợn ấy đã
chết dần một cách âm thầm nhưng thật vĩ đại. Cùng với họ hình như Uynm,
Vagơram, Iêna, Phơrietlăng (Những chiến thắng lẫy lừng trước của Napolen, trong
đó đội Cận vệ lập công lớn) cũng chết theo.
Đến tối,
vào quãng chín giờ, dưới chân cao nguyên Mông Xanh Giăng, còn một số các đội
hình vuông ấy. Nó chiến đấu trong cái thung lũng nhỏ ấy, ở cuối cái sườn đồi
trước đây giáp binh đã chiếm được, nhưng bây giờ thì đầy quân Anh, nó đứng dưới
tầm pháo tập trung và dưới làn đạn dày đặc của quân địch chiến thắng. Người chỉ
huy của họ là một sĩ quan chẳng tiếng tăm gì, tên là Căngbơrôn. Quân địch bắn
họ một loạt, một số trong bọn họ ngã xuống, nhưng họ cũng bắn trả lại. Có điều
súng họ nhỏ hơn, ít hơn. Và họ phải luôn luôn thu hẹp bốn mặt tường của họ.
Quân lính chạy trốn xa xa, có lúc mệt quá dừng lại, vẫn nghe trong đêm tối
tiếng súng của họ thưa dần. Đến lúc đoàn quân ấy chỉ còn một nhúm người, lá cờ
của họ chỉ còn là một miếng vải rách, súng hết đạn của họ chỉ là những que củi,
xác người chết chất cao hơn người còn sống, trong hàng ngũ những kẻ chiến thắng
như có một thứ hoảng sợ thiêng liêng trước những người dũng cảm tuyệt vời này.
Pháo binh Anh dừng lại lấy hơi, bỗng dưng im bặt. Đó là một thứ nghỉ ngơi.
Những người chiến sĩ đó nhìn thấy chung quanh mình không biết bao nhiêu là bóng
ma, những hình người cưỡi ngựa, bóng đen của các khẩu trọng pháo, màu mây bạc
nhìn qua bánh xe và chuôi pháo, cái đầu khổng lồ của cái chết mà các chiến sĩ
anh hùng đã luôn luôn nhìn thấy trong khói đen ở cuối trận địa, cái đầu ấy đang
tiến về phía họ và trừng trừng nhìn họ. Trong bóng tối, họ cũng nghe được tiếng
trọng pháo nạp đạn, thấy rõ được các ngòi lửa giống như những mắt hổ trong đêm,
đang vây quanh đầu họ và những que lửa nhích gần đến nòng pháo. Vào lúc đó, một
viên tướng Anh, có người nói là Convin, có kẻ cho là Métlen, đang nắm trong tay
mình cái giây phút cuối cùng lơ lửng trên đầu họ, bỗng thấy động lòng, bèn cất
tiếng kêu gọi: “Hỡi những người Pháp anh dũng, hãy hàng đi!” Căngbơrôn đáp lại:
“Cục cứt!”
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 1: OATECLÔ
Chương 15
CĂNGBƠRÔN
Độc giả
Pháp ai cũng muốn được tôn trọng. Cho nên, mặc dù lời ấy là lời đẹp nhất mà một
người Pháp đã nói, cũng không thể lặp lại với họ. Thói thường không được đặt
cái cao siêu vào trong lịch sử. Nhưng chúng tôi xin được vi phạm điều đó và
gánh lấy tất cả trách nhiệm.
Trong
hàng ngũ những hộ pháp ấy lại có một khổng lồ, đó là Căngbơrôn. Nói lời nói kia
ra rồi chết. Còn gì lớn hơn! Bởi vì, ông đã muốn thế, thì phải coi như ông đã
chết rồi. Còn mặc dù bị bắn như vãi đạn ông ta cũng không chết thì đâu phải lỗi
tại ông ta!
Người
thắng trận Oateclô, cố nhiên không phải là Napoleon bị tan vỡ, cũng không phải
là Oenlinhtơn, vì hồi bốn giờ Oenlinhtơn núng thế và đến năm giờ ông tuyệt
vọng, cũng không phải Bơluyse vì Bơluyse chẳng đánh chác gì. Người thắng trận
Oateclô là Căngbơrôn.
Đập lại
cái sấm sét giết mình bằng lời nói ấy, có nghĩa là chiến thắng.
Đó là
đáp lại cuộc đổ vỡ. Đó là nói với số mệnh, đó là đặt nền bệ cho con sư tử dựng
làm kỷ niệm về sau. Đó là câu trả lời cho gió mưa đêm tối, cho bức tường phản
bội của lâu đài Hugômông, cho con đường trũng Ohanh, cho sự chậm trễ của
Gơrusi, cho sự kịp thời của Bơluyse. Đó là cười đùa trong cõi chết, đứng dậy
sau khi đã ngã xuống. Đó là dìm trong vài chữ cái liên minh của châu Âu, dâng
lên cho vua chúa những bồn xia mà họ từng biết. Đó là đưa cái chữ bẩn nhất
trong ngôn ngữ lên thành chữ đẹp nhất bằng cách pha lẫn vào đó cái tinh thần
sấm chớp của nước Pháp. Đó là kết thúc Oateclô một cách ngạo mạn bằng một giây
phàm tục, bổ sung cho Lêôniđa bằng Rabôle, tóm tắt chiến thắng này trong một
lời cuối cùng khó nói. Đó là mất đất đai nhưng giữ được lịch sử, là sau cuộc
chém giết kinh khủng lại tranh thủ được những kẻ biết cười. Thật là vô cùng vĩ
đại!
Nó ngạo
mạn với cả sấm sét, nó có tầm hùng tráng như bi kịch Etsin.
Câu nói
của Căngbơrôn có tác dụng làm gãy xương. Đó là cú đấm khinh bỉ làm gãy xương
ngự. Chết đến nơi nhưng ức quá nên mới nổ ra lời. Kẻ nào đã thắng? Có phải
Oenlinhtơn không? Không. Bởi vì không có Bơluyse thì ông ta đã thua. Có phải
Bơluyse không? Cũng không. Không có công Oenlinhtơn trước đó thì Bơluyse cũng
chẳng làm được trò trống gì. Anh chàng Căngbơrôn kia chỉ là một kẻ độc hành giờ
chót, một người lính vô danh, một hạt bụi trong cuộc chiến. Anh cảm thấy ở đây
có cái gì dối trá, mà dối trá trong một cuộc đổ vỡ ghê gớm như thế kia thì bi
đát thành hai. Thế mà đến khi anh đã sôi sục phẫn uất thì kẻ kia lại dám bảo
anh bám lấy cái sống vô nghĩa! Hỏi ai không nổi khùng?
Tất cả
vua chúa của châu Âu, tất cả tướng lĩnh may mắn, tất cả những kẻ làm mưa làm
gió trong thiên hạ đều có mặt. Mười vạn binh lính thắng trận và theo gót mười
vạn ấy là trăm vạn khác, súng chĩa ra đằng trước, đạn lên nòng, sẵn sàng, dữ
tợn. Chúng đã giẫm lên đoàn quân cận vệ và đại quân của Napoleon và đè bẹp ông
ta. Chỉ còn sót có mỗi một Căngbơrôn. Chỉ còn mỗi một con giun quèn này để phản
kháng. Và nó đã phản kháng thật. Anh tìm chữ nghĩa như người ta tìm một lưỡi
gươm. Và anh đã tìm thấy nó trong bọt bèo, bọt bèo chính là nó. Đứng trước trận
chiến thắng lạ thường mà tầm thường, trận thắng không có người thắng này, con
người tuyệt vọng kia đã vùng dậy. Anh bị cái to lớn của nó nghiền nát, nhưng
anh vẫn thấy nó là vô nghĩa. Có nhổ vào mặt nó cũng chưa đủ. Dưới sự bức bách
của số đông sức mạnh và của vật chất anh tìm thấy cho tinh thần mình một tiếng
nói, thứ bẩn thỉu nhất để bày tỏ thái độ mình. Xin nói lại điều này: nói được
như thế, làm được như thế, tìm được như thế, tức là chiến thắng.
Những sự
kiện hệ thống trong đời thường có tinh thần riêng của nó. Tinh thần ấy đã nhập
vào con người vô danh này trong giây phút khủng khiếp kia. Căngbơrôn đã tìm ra
lời nói của mình về Oateclô cũng như Rugiê đờ Lin đã tìm ra được bài La Mácxâyde,
đó là nhờ có ngọn gió thiêng liêng thổi xuống. Một làn gió từ khối bão tố của
trời cao, thổi qua những tâm hồn này, làm họ rùng mình, kẻ thì hát lên bài hát
tuyệt vời, người thì ném ra tiếng thét dữ dội. Lời khinh bỉ mênh mông ấy
Căngbơrôn không phải chỉ nhân danh đế chế mà văng vào châu Âu, vì như thế còn
ít; ông còn vì cách mạng văng vào quá khứ. Người ta đã nghe thấy lời nói ấy và
người ta đã nhận thấy tinh thần các nhân vật khổng lồ ngày xưa như nhập vào con
người ấy. Có cảm tưởng như đó là Đăngtông đang nói hoặc Cơlêbe đang gầm.
Tiếp
theo tiếng thét của Căngbơrôn, giọng người bên Anh đáp: “Bắn!” Các khẩu pháo
bùng lửa sáng rực, quả đồi rùng mình. Một loạt đạn khủng khiếp vụt ra từ các
họng thép. Một đám khói to cuồn cuộn lan ra, trăng trắng dưới ánh trăng vừa lên
mờ mờ. Khi làn khói tan xong thì không còn gì nữa. Đám người anh hùng còn lại
đã bị quét sạch. Đoàn cận vệ hoàn toàn tiêu diệt. Bốn bức tường của cái công sự
bằng người đều ngã rạp dưới đất, nhìn kỹ mới thấy thấp thoáng có chút cựa quậy
trong đám xác chết. Thế là các đoàn cận vệ Pháp, anh hùng hơn các đoàn quân La
Mã nhiều, đã tắt thở ở Mông Xanh Giăng, trong những ruộng lúa âm u, trên mặt
đất dầm mưa và đẫm máu. Chỗ đó, ngày nay, cứ bốn giờ sáng, anh chàng Giôdép,
phụ trách chuyến xe thư Niven, lại cho xe mình đi qua, vừa giơ roi quất vào
mông ngựa vừa huýt sáo vui vẻ.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 1: OATECLÔ
Chương 16
BAO NHIÊU QUYỂN SÁCH TRONG TÂM HỒN?
(Nguyên
văn Latinh: Quot libras in duce?)
Trận
Oateclô là một điều khó hiểu. Đối với người thắng cũng như đối với kẻ bại, nó
đều mù mờ. Trong trí Napoleon đó là một phút hoảng loạn (“Một trận đánh đã kết
thúc, một ngày đã qua, một số chủ trương sai lầm đã sửa đổi, nhiều thắng lợi to
lớn hơn đã chắc chắn giành được cho tương lai. Vậy mà tất cả đều hỏng hết chỉ
vì một phút hoảng loạn.” Napoleon đọc cho người chép ở Xanh Hêlen – chú thích ở
nguyên tác); Bơluyse mù mịt; còn Oenlinhtơn cũng chẳng hiểu sao. Hãy đọc các
báo cáo mà xem. Những bản tin rối mù, những lời bình luận lúng túng. Kẻ ấp a,
người ấp úng. Giômini thì phân trận đánh ra làm bốn bước; Mơpphơling thì cắt
làm ba giai đoạn; chỉ có Sarát, tuy ở một đôi điểm cách đánh giá có khác chúng
tôi, nhưng đã nắm được trong một cái nhìn cao điệu những nét lớn, tiêu biểu của
cuộc đổ vỡ này, cuộc đổ vỡ của thiên tài con người đối chọi với ngẫu nhiên của
trời đất. Còn tất cả các nhà sử học khác đều như bị lóa mắt, cho nên phải mò
mẫm. Sự thật đó cũng là một ngày sấm chớp, một ngày mà bá quyền quân sự đổ và
cuốn theo các ngai vàng khác khiến cho vua chúa sửng sốt; đó là ngày sức mạnh
phải nhào đổ vào chính chiến tranh lại bại trận. Trong sự kiện lịch sử này, dấu
ấn của siêu phàm rất đậm, nên phần của con người thật chẳng có ý nghĩa gì.
Cất cái
vinh quang chiến thắng Oateclô đối với Oenlinhtơn và Bơluyse thì nước Anh, nước
Đức có mất gì không? Không. Nước Anh danh tiếng cũng như nước Đức tôn nghiêm,
không nước nào liên quan trong vấn đề Oateclô. Ơn trời, các dân tộc được vĩ đại
không phải là nhờ những phiêu lưu quân sự, thê thảm. Nước Đức, nước Anh, nước
Pháp, chẳng nước nào vận mệnh lại nằm trong một vỏ gươm cả. Ngay thời mà gươm
đao khua vang ở Oateclô, trên Bơluyse nước Đức có Gớt và trên Oenlinhtơn nước
Anh có Bairơn. Thời đại chúng ta đánh dấu bằng một cuộc trỗi dậy rộng lớn về tư
tưởng và nước Anh, nước Đức đều có phần ánh sáng rực rỡ của mình trong buổi
bình minh ấy. Các dân tộc ấy uy nghi vì những tư tưởng của họ. Trình độ văn
minh được nâng lên và đóng góp của bản thân, do sức họ làm ra chứ không phải
nhờ một chuyện ngẫu nhiên. Thế kỷ mười chín, họ có lớn lên được chỗ nào thì đó
không phải bắt nguồn từ Oateclô. Chỉ có những dân tộc dã man mới nổi lên đột
ngột sau một trận chiến thắng. Nhưng đó chẳng qua là cơn nước lũ sau trận mưa
dông, khoa trương ồn ào trong chốc lát. Còn những dân tộc văn minh, nhất là
trong thời đại ngày nay, thì không bao giờ vì sự rủi may của một tướng cầm quân
mà giá trị mình lại tăng lên hay giảm xuống. Vị trí của họ trong nhân loại được
qui định bởi một cái gì khác hơn một cuộc chiến đấu. Danh dự của họ, phẩm chất
của họ, ánh sáng tài ba trí tuệ của họ, ơn Chúa! Đâu phải là những quân bài mà
kẻ anh hùng, người chinh phục đem đặt vào cuộc đỏ đen của các trận đánh. Nhiều
lúc trận mạc thì thua, mà văn minh lại có tiến bộ. Vinh quang có giảm, nhưng tự
do được tăng. Trống trận im lặng, thì lẽ phải lên tiếng. Ở đây người thua lại
là người được. Cho nên phải nói về Oateclô từ cả hai phía với cái nhìn thật
khách quan. Cái gì thuộc về ngẫu nhiên, xin trả về cho ngẫu nhiên, cái gì của
Chúa, xin dâng lại Chúa. Vậy Oateclô là gì? Một chiến thắng? Không. Một số độc
đắc.
Châu Âu
trúng số độc đắc, nước Pháp là người trả tiền.
Đặt một
con sư tử vào đấy để làm gì! Oateclô chỉ là một cuộc gặp gỡ kỳ lạ bậc nhất
trong lịch sử. Napoleon và Oenlinhtơn, hai người ấy không phải là kẻ thù, mà là
những người trái ngược nhau. Trên trời vốn thích đối chọi, nhưng chưa bao giờ
làm được một sự đối lập sắc sảo, một sự đối chiếu lạ lùng như thế. Một bên là
cái gì cũng chính xác, cũng đoán trước nhìn sau, cũng ngang ngay sổ thẳng, cũng
thận trọng, cũng cẩn mật tính chuyện tiến thoái an toàn, cũng dè dặt sử dụng
lực lượng dự bị. Thêm vào đó là một nghị lực sắt đá, một ý thức phương pháp
không lay chuyển, một chiến lược khéo léo biết lợi dụng địa thế địa hình, một
chiến thuật biết quân phân các đội ngũ. Rồi đến chém giết cũng là kẻ mực giăng
dây, chiến đấu mà tính toán từng giờ từng phút, chẳng chịu bỏ sót chút gì cho
rủi may. Đó là tinh thần dũng cảm cổ điển, sự đúng đắn tuyệt đối. Còn bên kia
là trực giác, là thần đoán, là kỳ tài quân sự, là linh khiếu siêu phàm, là con
mắt nảy lửa, là cái nhìn sắc như chim ưng và giáng mạnh như sấm sét. Kèm theo
là một nghệ thuật tuyệt vời, một tác phong sôi nổi coi thường mọi khó khăn, tất
cả những bí ẩn của một tâm hồn sâu sắc, một uy quyền tuyệt đối như điều khiển
cả chiến trường, lôi cả số mệnh, núi sông, đồng bằng, rừng rậm về phía mình,
buộc chúng phải tuân theo và cuối cùng là lòng tin ở thời vận cộng với khoa học
quân sự, làm cho khoa học này thêm lớn lên nhưng đồng thời cũng làm cho nó thêm
băn khoăn. Tóm lại Oenlinhtơn là một chiến trường mực thước, sách vở, còn
Napoleon lại là một nghệ sĩ thiên tài trong nghệ thuật chiến tranh. Và lần này,
con người thiên tài đã bị con người tính toán đánh bại.
Bấy giờ
cả hai phía đều đợi viện binh. Napoleon đợi Gơrusi, Gơrusi không đến.
Oenlinhtơn đợi Bơluyse, Bơluyse đến kịp thời. Người tính toán giỏi đã thắng.
Oenlinhtơn
đã giành lại thế thắng cho chiến tranh cổ điển. Hồi mới xuất hiện, Bônapac đã
gặp nó ở Ý và đã đánh bại nó một cách oanh liệt. Voi non ra mặt, trâu già chạy
dài. Chiến thuật cũ như bị sét đánh, mất tinh thần. Cái anh chàng người Coócxơ
hai mươi sáu tuổi ấy, cái chú dốt kiêu hùng ấy là quái gì mà dám đem một nhúm
người không lương thực, không đạn dược, không trọng pháo, không giày dép, chẳng
ra quân đội binh lính gì, cứ thế tay không nhảy vào hàng trận đầy đủ mọi thứ
của tất cả châu Âu liên kết lại. Thế mà anh ta đã chiến thắng vô lý trong những
điều kiện không sao có thể chiến thắng được, làm cho người ta không tài nào
hiểu nổi. Cái anh chàng cuồng tử ấy lại cùng với nhúm người đó, chẳng kịp nghỉ
ngơi gì, liên tiếp nghiền nát năm đạo quân của hoàng đế Đức, đuổi dồn tướng
Bôhơ lên lưng tường Avanhdi, xô Uômxơ vào Bôliơ, đẩy Mêlát lên Uômxơ và dồn cục
Mắc vào Mêlát (Tên những tướng Áo bị Bônpac đánh bại trong chiến dịch Ý nổi
tiếng – 1796) cái anh chàng ấy ở đâu ra thế? Cái anh chàng chân ướt chân ráo
trong nghiệp chinh chiến mà sáng rỡ như sao đó là ai? Trường phái cổ điển về
khoa học quân sự chịu thua anh ta nhưng chẳng thừa nhận anh ta. Có lẽ từ đó mà
những người theo đường lối quân sự cũ, nề nếp, chân phương tính toán, thận
trọng, sinh ra căm hờn không đội trời chung với đường lối chiến thuật mới ào
ạt, nẩy lửa, linh hoạt, thần tình. Ngày 18 tháng 6 năm 1815, mối căm hờn ấy đã
được rửa sạch và dưới Lôđi, Môngtơbenlô, Môngtơnốt, Măngtu, Măngrănggô, Accôn,
nó đã ghi chữ Oateclô. Những kẻ tồi đã thắng, đa số lại được yên lòng. Khôi hài
thật, nhưng số mệnh lại đồng tình. Vào lúc mạt vận của mình, Napoleon đã gặp
lại Uômxơ hồi trẻ. Chỉ cần nhuộm trắng đầu Oenlinhtơn là chúng ta có Uômxơ.
Oateclô
là một trận đánh vào loại một mà kẻ chiến thắng lại là một tướng cầm quân loại
hai.
Trong
trận Oateclô, đáng khâm phục là nước Anh, là lòng cương nghị Anh, chí kiên
quyết Anh, là dòng máu Anh: cái rực rỡ nhất ở đây nói hơi thất lễ, chính là bạn
thân nước Anh. Không phải là người chỉ huy, mà là quân đội Anh.
Oenlinhtơn,
trong một bức thư gửi cho huân tước Bathơi, tuyên bố rằng đạo quân của ông, đạo
quân đã chiến đấu ngày 18 tháng 6 năm 1815, là: “một đạo quân đáng ghét”. Không
hiểu sao ông lại bạc bẽo kỳ lạ đến thế. Những đống xương vô định còn vùi dưới
đồng ruộng Oateclô, đống xương ấy nghĩ như thế nào về câu nói kia?
Nước Anh
đã quá khiêm tốn. Đề cao Oenlinhtơn đến thế là hạ thấp nước Anh. Ông ta chỉ là
một người dũng cảm như muôn nghìn người khác. Những người lính Êcốt quân phục
xám, những kỵ binh cận vệ, những trung đoàn Metlen, Mitsen, bộ binh của Pắc,
của Căm, kỵ binh của Pônxônbi, của Xômơcxét, những người lính vùng núi thổi kèn
dưới lửa đạn, những tiêu đoàn của Pilan, những lính mới vừa biết cầm súng mà
đương đầu với đoàn quân già dặn từng đánh nhau ở Etlin ở Rivôli, tất cả những
con người ấy mới vĩ đại, Oenlinhtơn được cái kiên trì, cái đó là ưu điểm của
ông ta, không bàn cãi làm gì, nhưng bất kỳ anh lính bộ binh nào, anh lính kỵ
binh nào cũng đã kiên trì như ông. Quân thép cũng xứng với “quận công thép”.
Nhưng đối với chúng tôi, chúng tôi giành cho người lính Anh, cho quân đội Anh,
cho nước Anh tất cả lời ca ngợi của chúng tôi. Nếu quả có một giải chiến thắng thì
giải ấy phải trao cho nước Anh. Ở đài kỷ niệm Oateclô giá người ta xây tượng
một dân tộc, chứ đừng xây tượng một người thì có lẽ đúng hơn.
Nhưng
nước Anh vĩ đại sẽ phật ý vì điều chúng tôi nói đây.
Sau cách
mạng 1688 và cách mạng 1789, nước Anh vẫn còn ảo mộng phong kiến. Nó tin tưởng
vào dòng giống và tôn ti trật tự. Dân tộc này, không ai qua nổi về mặt vinh
quang và quyền lực, tự hào là một quốc gia hơn là tư cách một dân tộc. Là dân
tộc thì nó sẵn sàng chịu phụ thuộc và nhận một nhà quí tộc làm thủ lĩnh. Làm
thuê thì người ta khinh cũng được, đi lính thì người ta đánh cũng xong. Trong
trận Inkécman người cứu nguy cho cả đạo quân hình như là một trung sĩ, điều đó
mọi người còn nhớ. Nhưng tên người trung sĩ ấy không hề được huân tước Ragơlan
kể ra, vì theo tục lệ thứ bậc trong quân đội, người ta không cho phép tuyên
dương trong báo cáo một người anh hùng cấp bậc dưới sĩ quan.
Ở một
cuộc đọ sức như kiểu Oateclô, trong tất cả mọi sự, chúng tôi khâm phục nhất là
những cái ngẫu nhiên sao lại được xếp đặt khéo léo, thần tình đến thế! Mưa suốt
đêm, bức tường ở Hugômông, con đường trũng Ohanh, Gơrusi nghe tiếng súng mà như
điếc, Napoleon bị hướng đạo lừa, Buylô được hướng đạo chỉ đúng đường, tất cả
đều hình như được đạo diễn một cách tuyệt diệu trong cuộc đại biến này.
Tính
chung, phải nói Oateclô là một cuộc tàn sát hơn là một trận đánh.
Trong
tất cả các trận đánh có dàn trận, Oateclô là nơi có chiến tuyến ngắn nhất so
với số quân tham dự. Bên Napoleon, ba phần tư dặm, bên Oenlinhtơn nửa dặm, mà
mỗi bên bảy vạn hai chiến sĩ. Đông đặc đến thế thì tàn sát là dễ hiểu.
Người ta
đã tính toán và xác định những tỉ số sau đây. Về số tử vong: ở Austelít, Pháp,
mười bốn phần trăm; Nga, ba mươi phần trăm; Áo bốn mươi phần trăm. Ở Matxcơva,
Pháp: ba mươi bảy phần trăm; Nga và Phổ: mười bốn. Ở Oateclô, Pháp: năm mươi
sáu phần trăm; đồng minh: ba mươi mốt. Tổng cộng ở Oateclô, bốn mươi mốt phần
trăm. Mười bốn vạn bốn nghìn người chiến đấu, có sáu vạn chết. Ngày nay cánh
đồng Oateclô trông chẳng khác gì mọi cánh đồng. Nó vẫn có cái yên tĩnh của đất
đai, nguồn nuôi nấng, chở che cho con người, nhưng lạnh lùng trước mọi cuộc bể
dâu.
Nhưng
ban đêm một làn sương mù ma quái như bốc lên từ lòng đất. Bây giờ có khách vãng
cảnh nào dạo qua, quan sát, lắng nghe, hoặc mơ màng như Viếcgin trước cánh đồng
Philip, chắc chắn người ấy sẽ có cái ảo tưởng thấy hiện lên trước mắt mình bóng
ma của trận đổ vỡ năm xưa. Quang cảnh hãi hùng của ngày 18 tháng 6 sống lại.
Cái gò giả đắp làm kỷ niệm biến đi, con sư tử vô nghĩa ấy cũng mờ tan và cảnh
thực của chiến trường diễn lại. Từng đoàn bộ binh nhấp nhô trên cánh đồng.
Nhiều vó ngựa hùng hổ vụt qua chân trời. Và người khách mơ màng như trông thấy
gươm vung lấp loáng, lưỡi lê chạm nhau nẩy lửa, đạn pháp sáng lòa sấm chớp đan
nhau kỳ quái. Người ấy như nghe có tiếng reo hò xa xôi của trận chiến ma. Đây
là bóng ưu binh cận vệ, kia là ánh lửa giáp binh. Bộ xương này là Napoleon, bộ
xương kia là Oenlinhtơn. Tất cả chỉ là những bóng ma, nhưng họ vẫn xô vào nhau,
đâm chém nhau. Khe sâu đỏ ngầu, ngàn cây rung chuyển, sát khí bừng bừng đến tận
mây xanh. Và trong bóng tối, Mông Xanh Giăng, Hugômông, Phơrítsơmông, Papơlốt,
Pơlăngxơnoa, hết thảy những ngọn đồi dữ dội ấy đều hiện ra, mờ mờ, đầy dẫy
những bóng ma quay cuồng, đâm chém, tiêu diệt lẫn nhau.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 1: OATECLÔ
Chương 17
CÓ NÊN CHO OATECLÔ LÀ TỐT KHÔNG?
Có một
trường phái tự do đáng kính tỏ ra chẳng có ác cảm gì đối với Oateclô. Chúng tôi
không thuộc trường phái ấy. Chúng tôi coi Oateclô chỉ là ngày ngạc nhiên của tự
do. Trứng như thế mà nở ra phượng hoàng như thế, thì rõ là bất ngờ thật.
Đứng
trên chót vót của vấn đề mà xét thì Oateclô là một chiến thắng phản cách mạng,
theo chủ tâm của nhiều người. Đó là cả châu Âu chống lại nước Pháp, đó là
Pêtécbua, Viên chống lại Paris. Đó là tư tưởng bảo thủ chống lại tư tưởng tiến
bộ, là tinh thần ngày 14 tháng 7 năm 1789 bị tấn công vào ngày 20 tháng 3 năm
1815, đó là tất cả các nền quân chủ nổi kèn xung phong chống lại phong trào
vùng lên vô địch của nhân dân Pháp. Ước mơ của các thế lực ấy là dập tắt phong
trào cách mạng sôi nổi của dân tộc Pháp từ hai mươi sáu năm nay. Cho nên các
dòng họ Bơrănguých, Nátxơ, Rômanốp, Hôlendôlec, Hápxbua mới liên kết với dòng
họ Buốcbông. Oateclô, vì thế, có nghĩa là quân chủ thẩm quyền được khôi phục.
Nói cho đúng, nền đế chế trước kia chuyên chế, thì nền quân chủ sau đó, do phản
ứng tự nhiên, bắt buộc phải tự do và ngược lại ý muốn của bọn chiến thắng, một
nền trật tự có hiến chương miễn cưỡng ra đời sau Oateclô. Như thế nghĩa là cách
mạng thật sự không thể nào bị đánh bại và do hợp ý trời và nhất định phải xảy
ra, nên nó phải xuất hiện. Trước Oateclô nó xuất hiện trong Napoleon, người đã
xô đổ tất cả các ngai vàng xưa cũ. Sau Oateclô nó lại hiện ra trong Lui XVII –
khi ông này ban cho dân bản hiến chương nhưng đồng thời cũng phải phục tùng
hiến chương ấy. Bônapac cất nhắc một anh đánh xe lên ngôi vua ở Náp và một anh
đội trưởng lên làm vua Thụy Điển; lấy cái bất bình đẳng chứng minh cho cái bình
đẳng. Lui XVIII phải duyệt ký ở Xanh Uăng bản tuyên ngôn nhân quyền. Muốn hiểu
cách mạng là gì? Hãy gọi nó là Tiến bộ. Tương lai nhất định làm theo từ bây
giờ. Nó cũng luôn luôn đạt được mục đích, một cách kỳ lạ. Nhờ tay Oenlinhtơn nó
biến Phoa từ một anh lính thành một nhà hùng biện, làm cho con người ngã xuống
ở Hugômông ấy lại được đứng dậy ở diễn đàn. Đó, Tiến bộ đã làm như vậy. Đối với
anh thợ ấy, không dụng cụ nào không dùng được. Cho nên, anh ta sử dụng vào công
việc thiêng liêng của mình chẳng chút lúng túng, con người đã từng nhảy qua núi
Anpơ lẫn ông cụ già ốm đau, khấp khểnh ở cung Êlidê. Anh ta dùng cả ông cụ thấp
khớp lẫn nhà chinh phục, nhà chinh phục vào công việc bên ngoài, ông cụ thấp
khớp công việc bên trong. Oateclô, chấm dứt đột ngột công việc phá hoại các
ngai vàng châu Âu bằng súng gươm, cũng chỉ làm cho cách mạng tiếp tục ở một
phương diện khác. Sứ mệnh của súng gươm đã hết, sứ mệnh của những nhà tư tưởng
bắt đầu. Cái thời hạn mà Oateclô muốn ngăn lại, đã giẫm lên nó và tiếp tục con
đường của mình. Cái chiến thắng đáng buồn ấy đã bị tự do đánh bại.
Tóm lại,
cái điều rõ ràng không sao chối cãi nổi là, những kẻ đã chiến thắng ở Oateclô,
đa núp sau Oenlinhtơn mà mỉm cười sung sướng, đã phong cho ông ta tất cả các
danh hiệu thống chế châu Âu, kể cả thống chế Pháp như người ta nói, những kẻ đã
vui sướng đẩy các xe đất đầy xương khô để đắp cái gò sư tử, đã để một cách đắc
ý vào chân đài kỷ niệm cái thời điểm 18 tháng 6 năm 1815, đã khuyến khích
Bơluyse chém giết bừa bãi những người thua trận và đứng trên Mông Xanh Giăng đã
dòm xuống nước Pháp như dòm một miếng mồi, những kẻ ấy là bọn phản cách mạng.
Chính bọn phản cách mạng đã thì thầm với nhau công việc ghê tởm là chặt nước
Pháp ra từng mảnh. Nhưng đến Paris thì chúng thấy miệng núi lửa gần kề một bên,
đất đá hình như cháy bỏng dưới chân, nên chúng tỉnh lại. Chúng đành ấp úng bằng
một cái hiến chương.
Chỉ nên
nhìn nhận trong Oateclô cái gì có trong Oateclô. Chủ tâm nó muốn đem lại tự do
ư, không đời nào. Phản cách mạng đã miễn cưỡng tán thành tự do, cũng như, theo
một hiện tượng tương tự, Napoleon đã phải bất đắc dĩ cách mạng. Ngày 18 tháng 6
năm 1815, Rôbétxpie ngồi trên mình ngựa đã bị hất ngã xuống đất.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 1: OATECLÔ
Chương 18
QUÂN QUYỀN THẦN THÁNH LẠI ĐƯỢC ĐỀ CAO
Độc tài
chấm dứt. Cả một hệ chế châu Âu sụp đổ.
Đế chế
tan tành, thiên hạ rơi vào một thời kỳ tăm tối như hồi đế quốc La Mã suy tàn.
Cuộc đời lại đầy hang sâu vực thẳm như thời các bộ lạc dã man. Có điều, cái dã
man của năm 1815, mà phải gọi bằng tên cúng cơm của nó là phản cách mạng, vì ít
hơi sức, nên mau thở dốc và chẳng làm gì được nữa. Phải nói thật là đế chế chết
đi có nhiều người thương tiếc và toàn là những người anh dũng. Nó đã đi từ một
lưỡi gươm đến ngai vàng và nếu như thế là vinh quang thì đế chế đích là vinh
quang đấy. Nó đã gieo rắc trên đời tất cả ánh sáng mà một chế độ bạo tàn có thể
ban phát ra. Đành rằng là thứ ánh sáng âm u, có thể nói thêm, là sáng nhưng mà
tối. So với ban ngày rực rỡ, nó là đêm tối, nhưng cái đêm tối ấy mất đi thì
cũng như đêm trăng bỗng dưng có nguyệt thực.
LouisXVIII
trở lại Paris. Bao nhiêu nhiệt tình phấn khởi ngày 20 tháng 3 bị những cuộc
nhảy múa trên vỉa hè xóa sạch. Trong ngôn ngữ, anh Coócxơ bị đem ra đối lập với
chàng Bêacne (Napoleon là người đảo Coócxơ; tổ tiên của Lui XVIII là người
Bêacne). Ngọn cờ trên vòm mái điện Tuylơri bây giờ màu trắng. Những kẻ trốn ra
nước ngoài hồi Cách mạng nay trở về trị vì. Cái bàn gỗ bách của Hacoen đặt
trước chiếc ghế trổ hoa huệ của Lui XIV. Câu chuyện Buvin, Phôngtơsoa (Những
trận chiến thắng lớn thời quân chủ, trước chiến công Austelít của Bônapac
nhiều) thuở nào mà cứ nói như mới xảy ra hôm qua, còn Austelít thì đã thành cũ
rích. Ngôi vua và nhà thờ bắt tay nhau một cách oai vệ. Một trong những hình
thức tổ chức xã hội được công nhận ở thế kỷ mười chín được thiết lập ở Pháp và
nhiều nước khác trên lục địa. Cả châu Âu dùng phù hiệu màu trắng. Tơrétxtaiông
đâm nổi tiếng. Khẩu hiệu “Đệ nhất thiên hạ” (Nguyên văn Latinh) lại xuất hiện
trên bức chạm đá khắc hình mặt trời tỏa sáng, đặt trước cửa doanh trại ở bờ Oócxê.
Chỗ trước kia quân cận vệ đóng thì bây giờ là một đồn cảnh sát. Đài chiến thắng
Caruxen, có lẽ mang nhiều chiến công quá mà sinh ra lạc lõng giữa bao nhiêu thứ
mới mẻ. Hình như nó cũng hơi xấu hổ với cái vũ công Marănggô và Accôn, nên đã
xoay xở với cái tượng của quận công Ănggulêm. Nghĩa địa Mađolen là cái hố chung
ghê gớm hồi 93, bây giờ đều xây đá hoa, đá vân cả vì đây vốn có hài cốt của Lui
XVI và Mari Ăngtoanét. Ở Vanhxen, một cái tháp được xây lên trên mồ quận công
Ăngganh, nhắc lại rằng quận công bị giết ngay trong tháng Napoleon làm lễ đăng
quang. Giáo hoàng Pi VII đã cử hành lễ đăng quang gần với ngày công tước
Ăngganh chết, thì bây giờ lặng lẽ cầu phúc về sự sụp đổ cũng như trước kia ông
đã ban phúc cho bước đi lên. Ở Sônbơrơn có một em nhỏ bốn tuổi, mong manh như
một cái bóng, ai gọi em là vua La Mã thì cũng như là phiến loạn. Ấy, cuộc đời
cứ như thế, tất cả các vị vua chúa các nơi đều trở lại ngôi cũ, còn người làm
bá chủ châu Âu thì nay đã ở trong tù. Chế độ cũ bây giờ trở thành chế độ mới,
trên khắp mặt đất chỗ tối đã thành sáng và chỗ sáng đã thành tối. Tất cả đều
chỉ vì, một buổi chiều mùa hè nọ, một chú chăn cừu đã nói ở trong rừng với một
người Phổ: đi lối này chứ đừng đi lối kia!
Cái năm
1815 ấy quả như một đầu xuân ảm đạm. Những thực tế dơ bẩn, độc địa của một chế
độ già nua bỗng khoác lên mình một chiếc áo mới. Lừa dối khoác áo cách mạng
1879. Quân quyền thiêng liêng đeo một cái mặt nạ là bản hiến chương. Những cái
bịa đặt cũng vỗ ngực ta đây là hợp hiến. Bao nhiêu thành kiến, mê tín, mưu toan
đều tâm tâm niệm niệm cái khoản 14 và phủ lên mình lớp sơn của chủ nghĩa tự do.
Thật chẳng khác gì khác loài rắn thay da.
Napoleon
đã làm cho con người lớn lên nhưng đồng thời cũng bé nhỏ lại. Lý tưởng, ở vào
cái thời vật chất huy hoàng làm chúa tể ấy, được tặng cái tên lạ lùng là hệ ý
thức. Con người anh hùng đó đã dại dột chế nhạo tương lai. Nhưng nhân dân khắp
nơi, dù có phải làm bia đỡ đạn, cũng cứ say mê con người cầm súng ấy và thâm
tâm hằng mong đợi. Ông ấy đang ở đâu? Đang làm gì? Một người qua đường nói với
một thương binh đã từng tham gia các trận Marănggô và Oateclô: “Napoleon chết
rồi”. Người lính ấy liền cãi lại: “Người mà chết à! Anh biết Người rồi chứ!”
Trong trí tưởng tượng của quần chúng, con người bị quật đổ ấy đã trở thành bất
tử. Sau Oateclô cảnh trời châu Âu như tối sầm lại. Napoleon biến đi, để lại rất
lâu một khoảng trống mênh mông.
Bọn vua
chúa nhảy vào chỗ trống ấy. Các chế độ già cỗi của bọn châu Âu lợi dụng cơ hội
vực nhau đứng dậy. Một liên minh thần thánh được hình thành. “liên minh hẩu”
thì đúng hơn. Cánh đồng Oateclô tai ác đã báo trước điều đó bằng cái tên một
quả đồi của mình (Đồi Ben La Liăng, tên Pháp có nghĩa là “Liên minh hẩu”).
Châu Âu
cổ đang hồi phục. Đứng trước tình hìnhđó, một nước Pháp mới được phác ra trên
những nét lớn. Tương lai mà trước kia Napoleon hay chế giễu, bắt đầu xuất hiện
trên trán đeo một ngôi sao, sao Tự do. Các thế hệ trẻ đều nhiệt liệt hướng về
ngôi sao ấy. Điều lạ là họ vừa mê tương lai, là Tự do, lại vừa tiếc cái quá
khứ, là Napoleon. Cuộc bại trận ai ngờ đã làm kẻ thua trận lớn lên. Bônapac ngã
xuống lại có vẻ cao hơn Napoleon đang đứng. Do đó những chiến thắng sinh lo
ngay ngáy. Nước Anh cắt Hơtxơn Lô coi giữ, nước Pháp cho Môngsơnuy rình mò. Con
người khoanh hai chúa. Alêcdăng coi ông ta là mối lo mất ngủ của mình. Thật ra
tất cả sự hãi hùng kia sở dĩ có là do ông đã chất chứa trong mình một khối
lượng cách mạng quá lớn. Điều đó cũng cắt nghĩa cái chủ nghĩa tự do Bônapac,
vừa cắt nghĩa mà cũng vừa tha thứ. Cái bóng ma ấy vì thế cứ làm cho cả thế giới
cũ run sợ. Còn cái mỏm đá Xanh Hêlen thấp thoáng ở chân trời thì vua chúa đều
như nhấp nhỏm ngồi không yên trên các ngai vàng.
Napoleon
mòn mỏi dần ở Lôngut thì sáu vạn người ngã xuống ở chiến trường Oateclô cũng
yên lặng mà trở thành tro bụi. Chút ít yên tĩnh của họ đã lan tỏa vào cuộc đời.
Hội nghị Viên tiếp thu cái yên tĩnh ấy làm thành cái hiệp định năm 1815. Cả
châu Âu gọi đó là Phục hưng.
Đấy
Oateclô là như thế đấy.
Nhưng
cái đó có nghĩa lý gì đối với vô biên vô tận? Đứng trước mênh mông một con bọ
nhảy từ lá cỏ này sang lá cỏ kia, có khác gì con chim phượng hoàng bay từ tháp
chuông này qua tháp chuông nọ cho đến các tháp cao của nhà thờ Đức Bà. Cho nên
tất cả cá thứ bão tố, mây mù, chiến tranh, hòa bình, bóng tối kia cũng chẳng
làm mờ nổi một phút ánh mắt của vô biên!
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 2: CHIẾC TÀU ÔRIÔNG
Chương 1
SỐ 24.601 TRỞ THÀNH SỐ 9.430
Giăng VanGiăng đã lại bị bắt.
Bạn đọc
sẽ lấy làm hài lòng khi thấy chúng tôi lướt qua các chi tiết đau thương. Chúng
tôi chỉ xin chép ra đây hai mẩu thời sự đăng trên các báo ngày ấy, mấy tháng
sau khi xảy ra những việc lạ lùng ở Môngtơrơi Xuya Me.
Những
bài báo ấy hơi sơ lược. Chúng ta nhớ rằng thời ấy chưa có Tư pháp nhật báo.
Chúng
tôi lấy bài thứ nhất ở tờ Lá cờ trắng, số ra ngày 25 tháng 7 năm 1823.
“Ở một
quận thuộc tỉnh Pa-đơ-Cale vừa xảy ra một việc lạ thường. Một người không phải
nguyên quán ở đấy tên là ông Mađơlen, mấy năm nay nhờ những phương pháp mới đã
chấn hưng một nền công nghiệp vốn có sẵn ở địa phương, là nghề làm đồ huyền và
đồ thủy tinh đen. Nhờ thế hắn đã làm giàu và phải nói cũng làm giàu cho cả
quận. Để tưởng lệ công lao, người ta đã cử hắn làm thị trưởng. Gần đây sở cảnh
sát phát hiện cái ông Mađơlen ấy chính là một tên tù khổ sai trốn quản thúc,
tên là Giăng VanGiăng hiện đã bị tống lao lại. Hình như trước khi bị bắt, hắn
đã kịp đến ngân hàng Laphit rút ra số tiền hơn năm mươi vạn gửi tại đó; nói cho
đúng thì số tiền ấy hắn kiếm được rất chính đáng trong kinh doanh, người ta bảo
thế. Không ai biết khi bị bắt giam lại vào ngục Tulông, Giăng VanGiăng đã giấu
số tiền ấy ở đâu”.
Bài báo
thứ hai, nhiều chi tiết hơn một chút, trích ở tờ Paris nhật báo, cũng ngày ấy:
“Một tên
tội phạm đã được phóng thích tên là Giăng VanGiăng vừa mới phải ra trước tòa
đại hình hạt Va trong những trường hợp khá ly kỳ. Tên đại bợm này đã lừa bịp
được cả con mắt tinh tế của sở cảnh sát; hắn đổi tên và tìm cách xoay được chân
thị trưởng ở một thành phố nhỏ miền Bắc. Hắn lại đặt được một cơ sở kinh doanh khá
lớn ở thành phố ấy. Nhưng cuối cùng, nhờ sự mẫn cán không mệt mỏi của công tố
viên, hắn đã bị lột mặt nạ và bị bắt. Hắn có một con vợ không cưới xin, nguyên
là một gái giang hồ; lúc chồng bị bắt thì con vợ sợ quá mà chết! Tên khốn kiếp
ấy, khỏe như vâm, đã tìm cách trốn thoát nhà giam nhưng chỉ ba, bốn hôm sau,
cảnh sát lại bắt được hắn, ở ngay Paris, giữa lúc nó sắp sửa đáp một chiếc xe
nhỏ chạy con đường từ thủ đô đến làng Môngphecmây (tỉnh Xen-ê-Oađơ). Người ta
đồn rằng hắn lợi dụng ba, bốn ngày được tự do ấy để rút một số tiền to gửi ở
một nhà ngân hàng lớn tại thủ đô. Số tiền ấy ước có đến sáu, bảy mươi vạn
phơrăng. Theo bản cáo trạng thì hắn đã chôn số tiền ấy ở một nơi chỉ mình hắn
biết, vì thế, chưa lọt vào tay cảnh sát. Dù sao, tên Giăng VanGiăng cũng vừa bị
truy tố trước tòa đại hình hạt Va; hắn bị khép vào tội cướp đường có vũ khí,
xảy ra khoảng tám năm về trước; nạn nhân là một đứa trẻ lương thiện trong đám
thiếu niên đã được “Lão trượng Phécnê” (Mệnh danh của nhà văn và nhà triết học
tiến bộ Pháp Vônte thế kỷ XVIII, Phécnê một thị trấn ở sát Thụy Sĩ, nơi Vônte
cư trú 20 năm lúc về già) diễn tả trong bài thơ bất hủ:
Các em
từ đất Xavoa
Hàng năm
trở lại, đi qua vùng này
Các em
đưa nhẹ bàn tay
Chùi lau
ống khói bám đầy muội đen.
Tên
tướng cướp ấy đành cam không chối cãi. Viện công tố đã khôn khéo và hùng hồn
chứng tỏ rằng Giăng VanGiăng ăn cướp có tùng đảng và hắn có chân trong một ổ
trộm cướp ở miền Nam. Do đó, tòa tuyên bố Giăng VanGiăng là tội phạm và khép án
tử hình. Tên tội phạm ấy không xin chống án lên tòa phá án. Hoàng thượng đã lấy
lượng khoan hồng như trời bể mà ban đặc ân cho được đổi thành án khổ sai chung
thân. Lập tức Giăng VanGiăng bị giải ra nhà lao Tulông”.
Người ta
không quên rằng khi ở Môngtơrơi Xuya Me, Giăng VanGiăng đã tỏ ra mộ đạo. Cho
nên một vài tờ báo, trong đó có tờ Lập hiến trình bày việc chuyển giảm tội hình
này như một thắng lợi của phái công giáo.
Vào nhà
lao, Giăng VanGiăng đổi số hiệu. Bây giờ tên hắn là 9.430.
Cũng nên
nói ngay điều này để khỏi phải trở lại: Mất ông Mađơlen, thị trấn Môngtơrơi
Xuya Me cũng mất cảnh phồn vinh. Tất cả những điều ông ta dự đoán trong đêm
thao thức và lên cơn sốt đã xảy đến. Mất ông, thị trấn đã mất cái linh hồn. Ông
sụp đổ thì ở thị trấn cũng xảy ra việc chia của ích kỷ, việc xâu xé thầm lặng
những phồn vinh sau khi các cuộc đời lớn sụp đổ. Đó là điều tất nhiên trong
cộng đồng nhân loại, tuy lịch sử chỉ nói đến có một lần vì nó diễn ra sau khi
Alêcxăng chết (Alexandre, vua xứ Maxêđoan, sống vào thế kỷ thứ III trước công
nguyên. Là nhà quân sự thiên tài, ông đã chinh phục một đế quốc rộng lớn bao
gồm Hy Lạp, Tây Á, Ba Tư, một phần Ấn Độ. Các tướng lĩnh của ông đánh nhau dữ
dội để giành đất đai ngay sau khi ông chết). Tướng lĩnh xưng vương sau khi
hoàng đế băng hà, đốc công cũng tự tôn làm nhà sản xuất sau khi ông chủ qua
đời. Sự cạnh tranh đố kỵ diễn ra. Các xưởng thợ rộng lớn đóng cửa các tòa nhà
đổ nát. Thợ thuyền phân tán, người bỏ xứ, kẻ bỏ nghề. Từ đấy chỉ có sản xuất
nhỏ, không còn nền công nghiệp qui mô ngày trước. Người ta sảm xuất vụ lợi chứ
không vì lợi ích công cộng. Không có trung tâm, đâu đâu cũng chỉ có cạnh tranh,
cạnh tranh khốc liệt. Ngày xưa ông Mađơlen ở trên tất và điều khiển tất. Ông đổ
xuống, mỗi người đều cố kéo mối lợi về mình. Óc đấu đá chiếm chỗ của óc tổ
chức, lòng hám lợi thay lòng nhân ái. Ngày xưa ông chủ sáng lập ân cần sốt sắng
với tất cả mọi người, ngày nay mọi người thù hằn nhau. Những chỉ buộc của ông
Mađơlen ngày xưa bây giờ rối mù và đứt tung. Người ta làm gian dối trong sản
xuất, làm mất phẩm chất của sản phẩm, do đó không được khách hàng tín nhiệm
nữa. Người mua ít đi, đơn đặt hàng giảm sút. Tiền công bớt. Các xưởng hết việc.
Rồi phá sản. Không còn phúc lợi gì cho kẻ khó nữa. Tất cả đã tan như mây khói.
Nhà nước
cũng nhận thấy có ai bị đè chết ở đâu đây. Không đầy bốn năm sau khi tòa đại
hình thẩm định ông Mađơlen và tên tù khổ sai Giăng VanGiăng chỉ là một và tống
người ấy vào nhà lao, thì ở quận Môngtơrơi Xuya Me, phí tổn như thuế cũng tăng
lên gấp đôi. Ông Đơ Vilen đã nhận xét điều đó trên diễn đàn nghị viên vào hồi
tháng 2 năm 1827.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 2: CHIẾC TÀU ÔRIÔNG
Chương 2
NƠI CÓ HAI CÂU THƠ CÓ LẼ LÀ CỦA QUỈ SỨ
Trước
khi kể tiếp, cũng nên nhắc lại có chi tiết một chuyện lạ lùng xảy ra ở
Môngphecmây cũng dạo ấy; câu chuyện này có lẽ không phải là không ăn khớp với
mấy điều phỏng đóa của viện công tố.
Ở vùng
Môngphecmây có một điều mê tín từ lâu đời, kỳ thú và quí báu bởi vì một điều mê
tín dân gian tồn tại ở gần Paris cũng hiếm có như cây cúc mốc ở Tây-bá-lợi-á.
Chúng tôi thuộc hạng người quí trọng tất cả những gì như loại cây hiếm có. Cho
nên cái điều mê tín ở Môngphecmây là thế này: người ta cho là từ đời hồng
hoang, quỉ sứ đã chọn rừng để giấu của. Những bà cả tin nói quyết rằng nhiều
lần người ta bắt gặp lúc hoàng hôn, ở những quãng vắng trong rừng, một người
đen đủi, có vẻ là một anh đánh xe tải hay một anh đốt than, đi guốc, mặc quần
áo vải, rất dễ nhận diện vì đầu chẳng có mũ nón gì, chỉ có hai cái sừng dài.
Đúng là dấu hiệu đó dễ nhận ra thật. Người ấy thường mãi đào lỗ. Gặp vậy, có ba
lối thoát. Cách thứ nhất là đến hỏi han người ấy. Bấy giờ sẽ nhận thấy đó chỉ
là một nông dân, đen đủi vì lúc ấy trời nhá nhem; y không đào lỗ mà chỉ cắt cỏ
cho bò; cái tưởng là sừng thì chỉ là một cái chĩa hai để xới phân đeo ở sau
lưng; hai cái răng sắt như từ đầu mọc lên vì nhìn trong bóng tối. Thế là khi về
nhà, người ta chết nội trong tuần lễ. Cách thứ hai là cứ quan sát, chờ cho nó
đào lỗ xong, lấp lại và đi khỏi. Bấy giờ hãy chạy nhanh đến lỗ, bới đất lên và
cuỗm ngay cái kho của mà con người đen đủi tất phải chôn. Trường hợp này, người
gặp sẽ chết trong tháng. Cách thứ ba là đừng nói năng gì với nó hết, đừng nhìn
nó, cứ việc vắt chân lên cổ mà chạy tránh. Như thế thì sẽ chết trong năm.
Vì ba
phương pháp đều lưu hại cả nên người ta thường chọn cách thứ hai vì ít ra nó
cũng mang đến cho vài cái lợi, đặc biệt là cái lợi có một kho của, dù chỉ có
tạm trong vòng một tháng. Vì thế, những người bạo gan chỉ thích thử thời vận,
nghe nói họ thường bới cái hố của người đen đủi ra và thử đánh cắp quỉ sứ. Hình
như kết quả cũng tầm thường thôi. Ít ra, đó cũng là điều mà truyền thuyết khẳng
định. Đặc biệt người ta thấy ý nghĩa đó trong hai câu thơ bí ẩn bằng tiếng
Latinh cổ lỗ do một tu sĩ hổ mang kiêm phù thủy xứ Nócmăngđi tên là Tơriphông để
lại. Mộ tên Tơriphông ấy ở tu viện Xanh Giórgiơ Bôsecvin, gần thành Ruăng. Cóc
sinh sôi trên mộ ấy.
Người ta
hì hục – những hố quỉ chôn của ấy thường sâu lắm – người ta đổ mồ hôi, người ta
đào bới, người ta vất vả trọn một đêm – công việc ấy làm vào đêm thôi – người
ta làm, ướt cả sơ-mi, hết cả nến, mẻ cả cuốc. Cuối cùng, khi đào đến đáy hố,
khi với tới “kho của”, thì người ta tìm thấy gì? “Kho của” quỉ sứ là gì? Một
đồng xu, đôi khi một đồng êquy hoặc một hòn đá, một bộ xương người, một xác
chết còn chảy máu; có khi đó là một con ma gấp tư như một tờ giấy gấp để trong
ví da, cũng có khi không có gì cả. Đó là những cái mà mấy câu thơ của Tơriphông
có vẻ báo cho bọn hiếu kỳ tò mò biết.
Nó đào
lên và ở dưới hố tối đen, nó giữ những kho tàng
Tiền
đồng, tiền bạc, đá, xác chết, tượng và mọi thứ linh tinh.
(Nguyên
văn: Fodit, et in fossa thesaures condit opaca, As, nummos, lapides, cadaver,
simulacra, nibilque)
Ngày
nay, hình như cũng có khi người ta tìm thấy hoặc một bọc thuốc súng và đạn,
hoặc một cỗ bài cũ vàng ố và nhầy mỡ, chắc chắn là của lũ quỉ dùng để chơi với
nhau. Tơriphông không ghi hai vật này, vì lẽ dễ hiểu là Tơriphông sinh sống ở
thế kỷ XII và không có vẻ gì là quỉ sứ đã tài tình phát minh ra thuốc súng
trước Rôgie Bacon, bài Tây trước Sáclơ VI.
Cần phải
nói thêm là ai đem bài đó ra đánh thì thua tất cả gia tài, còn thuốc súng trong
bọc đó, nếu đem bắn thì y như rằng nó làm nổ toác súng vào mặt anh.
Ít lâu
sau cái ngày viện công tố tưởng rằng tên phạm nhân Giăng VanGiăng trong mấy
ngày trốn thoát ra ngoài đã lảng vảng ở quanh Môngphecmây, thì người ta để ý
đến, ở ngay làng đó, những hành tung bí mật trong rừng của một người phu lục lộ
già tên là Bulatơruyen. Dân chúng có nghe nói tên này trước cũng phải tù, bây
giờ vẫn bị cảnh sát theo dõi, nhưng vì hắn không tìm ra việc làm, nên nhà nước
phải mượn hắn làm phu lục lộ với đồng lương rẻ mạt để hắn trông nom con đường
tắt từ Ganhi sang Lanhi.
Cái lão
Bulatơruyen ấy không được người địa phương đánh giá tốt. Lão lễ phép quá, khiêm
nhường quá, gặp ai cũng giở mũ, đứng trước cảnh sát thì vừa run sợ vừa cười
nhăn nhở. Người ta nói lão có chân trong các đảng trộm cướp và nghi lão thường
núp rình xó rừng vào lúc nhá nhem. Điều duy nhất có thể thanh minh cho lão là
lão nghiện rượu.
Đây là
những điều người ta cho là đã nhận thấy:
Ít lâu
nay, Bulatơruyen nghỉ việc hàng ngày rất sớm và vác cuốc đi vào rừng. Người ta
gặp lão vào đêm ở những quãng rừng thưa vắng nhất hoặc rậm rạp nhất, dáng bận
tìm kiếm một cái gì, một đôi khi đang đào lỗ. Gặp hắn, lúc đầu cá bà tưởng là
Bendêbuýt, sau khi nhận ra là Bulatơruyen thì cũng chả yên tâm hơn chút nào.
Những cuộc gặp gỡ ấy có vẻ làm cho hắn ta rất khó chịu. Rõ ràng là lão muốn
trốn con mắt thiên hạ và trong hành động của lão có cái gì bí ẩn đây.
Dân làng
kháo nhau: “Rõ ràng là quỉ đã hiện. Bulatơruyen đã trông thấy quỉ cho nên hắn
sục sạo. Hiển nhiên là hắn mà ôm được cái kho của Chúa quỉ thì, coi như mệnh
hắn đi đứt”. Bọn hoài nghi nói thêm: ‘Chẳng biết ai lừa ai, Bulatơruyen lừa quỉ
hay quỉ lừa Bulatơruyen?” Các bà già thì luôn tay làm dấu thánh giá.
Nhưng
rồi Bulatơruyen cũng thôi không vào ra sục sạo trong rừng nữa và lại làm việc
đều đặn. Người ta cũng không bàn tán về việc ấy nữa.
Tuy
nhiên cũng còn có mấy kẻ tò mò. Họ nghĩ rằng trong chuyện này có lẽ không có
những kho của dị thường nói trong truyền thuyết, mà hẳn là một món bở gì thiết
thực hơn và đáng giá hơn những giấy bạc của quỉ sứ. Chắc là lão phu chữa đường
đã khám phá được một phần điều bí mật đó. Ông hương sư và anh chủ quán Tênácđiê
là những người “băn khoăn” nhất, Tênácđiê thân với tất cả mọi người, kể cả
Bulatơruyen. Hắn nói:
-
Bulatơruyen đã làm khổ sai trên tàu biển ư? Ối dào! Biết ai đã ở đó, biết ai sẽ
đến đó!
Một buổi
tối, ông hương sư nói rằng giá ngày trước thì tòa án đã điều tra xem
Bulatơruyen đi vào làm gì trong rừng ấy và chắc là hắn ta phải khai ra. Nếu cần
thì người ta tra khảo và hẳn là Bulatơruyen không chịu nổi ngón đòn tàu lặn.
- Thôi
thì ta dùng đòn rượu đi – Tênácđiê nói.
Thế là
họ cố chạy vạy để mời rượu lão phu lục lộ già. Bulatơruyen uống rất nhiều mà
nói rất ít. Với một nghệ thuật đáng khâm phục, lão điều hòa sự đói khát của một
đứa phàm phu với tính kín đáo của một quan tòa, theo một tỉ lệ khoa học. Tuy
nhiên, nhờ tấn công ráo riết và đối chiếu, vắt nắn những lời lẽ mập mờ lão buột
miệng nói ra, Tênácđiê và ông giáo cũng đoán được những điều sau đây:
Một hôm,
sáng tinh mơ, Bulatơruyen đi làm như thường lệ, chợt thấy ở một xó rừng, trong
bụi rậm, một cái xẻng và một cái cuốc, hình như có ai giấu ở đấy. Song, hắn
nghĩ là có lẽ cái xẻng, cái cuốc ấy là của lão gánh nước thuê Xíchphua, nên
cũng chẳng để ý làm gì. Nhưng chiều tối hôm ấy, hắn thấy “một người lạ, không
phải là người làng, mà hắn thì hắn biết rõ lắm”: người ấy rẽ từ đường đi sâu
vào trong rừng nơi rậm nhất; chắc chắn là người kia không trông thấy hắn, bởi
vì có một gốc cây che khuất. Người lạ mặt mang một gói gì vuông vuông hình như
là một cái hộp lớn hay một cái hòm nhỏ. Bulatơruyen ngạc nhiên hết sức; mãi
bảy, tám phút sau hắn mới nảy ra ý nghĩ theo dõi “kẻ lạ”. Nhưng chậm quá rồi; kẻ
lạ đã ở trong rừng sâu mà trời lại sập tối, nên theo không kịp. Thế là hắn đành
đứng rình ở bìa rừng. Trăng sáng. Hai ba tiếng đồng hồ sau, Bulatơruyen mới
thấy kẻ lạ kia từ rừng sâu đi ra, tay xách một xẻng và một cái cuốc chứ không
phải cái hòm nhỏ như lúc nãy. Hắn để mặc người kia đi chứ không dám gọi lại
hỏi; hắn nghĩ là người ấy khỏe gấp ba hắn, lại có cuốc trong tay, người kia mà
nhận ra được hắn và biết mình đã bị lộ mặt thì thế nào hắn cũng bị đánh chết.
Nhưng cái xẻng và cái cuốc đã soi cho hắn một tia ánh sáng; hắn chạy đến chỗ
bụi rậm ban sáng thì chẳng thấy cuốc với xẻng đâu cả. Hắn kết luận rằng kẻ lạ
vào rừng chỉ là để lấy cuốc đào hố chôn cái hòm và lấy xẻng lấp đi. Cái hòm nhỏ
quá, không bỏ vừa một xác chết, vậy chỉ là hòm đựng tiền. Thế là hắn ra công dò
tìm. Bulatơruyen sục sạo, thăm dò, chui rúc khắp cả khu rừng, chỗ nào đất có vẻ
mới đào lên là hắn xục tới. Nhưng không ăn thua gì.
Hắn
chẳng “kiếm” được gì hết. Ở Môngphecmây, không ai nghĩ đến cái chuyện ấy nữa.
Chỉ có vài mụ lắm mồm miệng có gan nói: “Hãy cứ tin rằng cái lão phu lục lộ
Ganhi ấy chẳng dại hành thân hoại thể như vậy để mà chơi. Chắc chắn là có quỉ
sứ hiện”.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 2: CHIẾC TÀU ÔRIÔNG
Chương 3
XIỀNG SẮT MÀ ĐẬP MỘT BÚA ĐÃ GẪY TAN THÌ CHẮC ĐÃ CÓ KẺ CHUẨN
BỊ BẺ TỪ TRƯỚC
Vào
khoảng cuối tháng mười cũng năm 1823 đó, nhân dân thành phố Tulông thấy chiếc
tàu biển Ôriông vừa qua một cơn bão táp ngoài biển, cập bến để sửa chữa mấy chỗ
hư hỏng. Chiếc tàu này về sau dùng làm tàu huấn luyện thủy quân ở Bơrét, nhưng
lúc ấy, tàu thuộc hạm đội Địa-trung-hải.
Chiếc
tàu chiến bị sóng dập gió dồi đã trở nên quặt quẹo, nhưng nó vẫn làm cho người
ta chú ý. Nó kéo cờ tướng lệnh gì không biết mà được chào bằng mười một phát
đại bác nghi lễ và cũng đáp lại với số tương đương thành ra đã có tất cả là hai
mươi hai tiếng đại bác rền lên khi tàu cập bến. Người ta tính ra cứ mỗi ngày
đêm, thế giới văn minh bắn mắt mười lăm vạn phát thuốc súng đại bác vô ích về
những việc chào mừng, những nghi lễ đế vương và quân sự, những trao đổi lễ
nghĩa, những hiệu lệnh, những nghi thức nhập cảng, nhập thành, những lễ chào
mặt trời mọc, mặt trời lặn ở tất cả các thành trì và những việc phù phiếm khác.
Cứ cho là mỗi phát tiêu tốn sáu phơrăng, thì mỗi ngày có chín mươi vạn, mỗi năm
ba trăm triệu thực sự tan thành khói. Một khoản nhỏ nhặt thôi mà! Trong khi đó
thì người nghèo cứ chết đói.
Năm 1823
là năm mà nền quân chủ phục hưng gọi là “thời kỳ chiến tranh Tây Ban Nha”.
Cuộc
chiến tranh ấy gồm nhiều biến cố chứa đựng trong một biến cố duy nhất và vô số
những điều đặc biệt. Một việc gia đình lớn trong dòng họ Buốcbông; chi Buốcbông
ở Pháp viện trợ và che chở cho chi Buốcbông ở Madrit, nghĩa là nó thực hiện
nghĩa vụ huynh trưởng; một sự phục hồi những truyền thống dân tộc lẫn khuynh
hướng phục tùng và phụ thuộc đường lối của các nội các phương Bắc; công tước
Ănggulem, mà các tờ báo tự do mệnh danh là Người anh hùng Ăngduygia, công tước
Ănggulem đang dồn ép chủ nghĩa khủng bố thực sự của nhà thờ, chủ nghĩa khủng bố
này xung đột với chủ nghĩa khủng bố huyền ảo của phái tự do, nhưng dáng điệu
đắc thắng không hợp với vẻ mặt hiền hòa của công tước; những người cộng hòa
phục sinh dưới danh hiệu đêcamixađô khiến cho những bà quả phụ hưởng quyền thừa
kế đâm ra lo sợ; chủ nghĩa quân quyền coi sự tiến hóa là hỗn loạn và ngăn trở
nó; những nguyên lý của cách mạng 89 bị gián đoạn đột ngột trong cơn bão táp;
châu Âu hô “Họ!” với tư tưởng Pháp đang chạy vòng quanh quả đất; bên cạnh đại
tướng tổng tư lệnh người Pháp, hoàng thân Carihăng, sau này là Sáclơ Anbe, đầu
quân trong đạo thập tự viễn chinh của vua chúa chống nhân dân các nước, dưới
danh nghĩa là một lính pháo thủ tình nguyện, ngù vai bằng len đỏ; lính của
hoàng đế lại ra trận sau tám năm nghỉ ngơi, nhưng bây giờ già cả, buồn bực,
chiến đấu dưới cờ hiệu trắng; cờ tam tài thì bây giờ chỉ có một dúm nhỏ người
Pháp anh dũng nhất ở nước ngoài, cũng như cờ trắng ở Côblăng ba mươi năm trước;
tu sĩ chen lẫn trong binh lính ta; tư tưởng tự do và tân tiến bị lưỡi lê khuất
phục; nguyên tắc bị đạn đại bác vùi dập; nước Pháp dùng vũ khí hủy hoại những
gì nó đã xây dựng bằng tư tưởng. Ngoài ra còn có sự mua chuộc những tướng lĩnh
phía thù, sự do dự của binh lính, những thành phố bị vây hãm bằng tiền ức bạc
triệu. Không có những hiểm họa chiến trường nhưng cũng có những vụ bùng nổ, như
trong hầm mỏ; ít đổ máu, ít vinh dự, nhục nhã cho vài người và không vinh quang
cho ai cả. Đó, cái trận chiến tranh do các vua chúa cháu chắt của Lui XIV gây
nên và các tướng lĩnh mà Napoleon đào tạo tiến hành. Buồn làm sao! Nó không
khiến cho người ta nghĩ đến những cuộc chiến lớn hay những sự kiện chính trị
lớn.
Cũng có
đôi chiến tích quan trọng. Chẳng hạn việc hạ Trôcađêrô là một chiến công xuất
sắc. Nhưng chung qui, chúng tôi lặp lại, những loa, còng của cuộc chiến tranh
này nghe như có tiếng rạn. Toàn cuộc có cái gì đáng ngờ, nước Pháp nuốt có phần
nghẹn ngào cuộc chiến thắng giả này và lịch sử cũng đồng tình vậy. Hình như một
số chỉ huy Tây Ban Nha có nhiệm vụ kháng chiến đã chịu thua một cách quá dễ
dàng, cho nên khái niệm mua bán cứ phảng phất trong danh từ chiến thắng. Hình
như người ta đã mua được hơn là đánh được các tướng lĩnh bên thù. Giờ khải hoàn
mà người lính chiến thắng lại cảm thấy bị nhục. Đúng là một cuộc chiến tranh
làm bé mình đi, một cuộc chiến tranh mà trong những nếp của quân kỳ, người ta
đọc thấy chữ Ngân hàng Pháp quốc.
Nhiều
cựu binh năm 1808, mà thân xác xuýt bị vùi trong cảnh sụp đổ dữ dội của thành
Xaragôtxô, đã cau mày trước những thành trì dễ dàng mở cửa cho họ vào năm 1823.
Họ đâm ra tiếc rẻ Palaphôtx. Cái tính khí Pháp là như vậy; thà đối địch với
Rôtxtôpkin (Rostopkine: tổng đốc thành Mạc Tư Khoa, đã đốt cháy thành phố để
cho đội quân xâm lược của Napoleon bị đói, rét – 1812) chứ không thiết có kẻ
thù là Banlexterotx.
Còn có
một điểm quan trọng hơn mà chúng ta cũng cần phải chú ý. Cuộc chiến tranh ấy,
đã làm tổn thương tinh thần thượng võ nước Pháp còn bôi nhọ tinh thần dân chủ.
Đó là một công cuộc nô dịch hóa người ta. Người lính Pháp do chế độ dân chủ đẻ
ra, thế mà mục tiêu của họ trong trận này là dành cho được một cái ách cho vai
cổ nhân dân một nước khác. Một phản nghĩa ghê tởm! Nước Pháp sinh ra để thức
tỉnh các dân tộc chứ không phải để bóp nghẹt họ. Từ năm 1792, tất cả những cuộc
cách mạng ở Châu Âu đều là cách mạng Pháp. Tự do tỏa sáng từ Pháp. Đó là một
hiện tượng nhật quang. Chỉ có kẻ mù mới không nhìn thấy! Chính Bônapac đã nói
điều đó.
Chiến
tranh 1823 là một xúc phạm đối với dân tộc Tây Ban Nha hào hiệp, đồng thời là
một xúc phạm đối với cách mạng Pháp. Vụ hành hung quái gở và to tát ấy chính là
do nước Pháp làm ra. Bằng bạo lực. Bởi vì trừ những cuộc chiến tranh giải
phóng, thì những gì quân đội làm, họ đều làm bằng bạo lực. Danh từ phục tùng
thụ động chứng tỏ điều đó. Một đạo quân là một công trình tổ hợp kỳ quặc và
tuyệt diệu trong đó sức mạnh nẩy sinh từ một tổng số những bất lực. Đó là sự
giải thích về chiến tranh, do nhân loại tiến hành chống nhân loại, bất chấp
nhân loại.
Về phần
dòng họ Buốcbông, thì chiến tranh 1823 đã làm hại họ. Họ tưởng đó là một thắng
lợi. Họ có thấy đâu sự nguy hiểm gây ra do dùng mệnh lệnh mà giết tư tưởng. Họ
ngây thơ đến độ đem cái suy yếu lớn do tội ác gây nên làm nhân tố hùng mạnh của
chế độ. Tư tưởng đánh úp len vào đường lối chính trị. 1830 nẩy mầm ở 1823.
Trong các hội nghị của họ, chiến dịch Tây Ban Nha trở thành một luận cứ để bảo
vệ những bạo hành và những cuộc hành quân vì quyền vị thiêng liêng. Nước Pháp
đã phục hồi nhà vua (Nguyên văn: el rey neto) ở Tây Ban Nha, thì cũng có thể
phục hồi nền quân chủ chuyên chế ở nước mình. Dòng họ Buốcbông phạm một sai lầm
ghê gớm là lẫn lộn sự phục tùng của người lính với sự đồng ý của quốc gia. Tin
tưởng như vậy thì mất ngôi dễ như chơi. Không nên ngủ dưới bóng cây măngxơniliê
(Nguyên văn: mancenillier, một loại cây có quả độc và nhựa độc đến nỗi người ta
tin rằng ngủ dưới bóng nó cũng đủ chết) cũng như dưới bóng quân đội.
Chúng ta
hãy trở lại với chiếc tàu Ôriông.
Trong
những chiến dịch do hoàng thân tổng tư lệnh chỉ huy có một hạm đội tuần hành
trong Địa trung hải. Chúng ta đã nói chiến hạm Ôriông ở trong hạm đội ấy và nó
chạy vào cảng Tulông là do bão biển làm hư hỏng.
Chiến
hạm mà vào đỗ ở cảng thì quần chúng kéo đến xem và mải miết với nó. Bởi vì nó
lớn mà quần chúng thì thích cái lớn.
Một đại
chiến hạm là sự phối hợp kỳ diệu của thiên tài con người với sức mạnh hùng hậu
của thiên nhiên.
Một đại
chiến hạm là sự hợp nhất của cái gì nặng nhất với cái gì nhẹ nhất bởi vì nó có
quan hệ song song với ba hình thái của vật chất: thể rắn, thể lỏng và thể hơi,
và đồng thời phải đối phó với ba hình thái ấy. Nó có mười một bộ vuốt sắt để
bám đá dưới đáy biển và còn có nhiều cánh, nhiều râu hơn loại bọ để hứng gió
trên tầng mây. Hơi thở của nó thoát ra từ một trăm hai mươi họng đại bác, như
từ những cái kèn khổng lồ và dõng dạc trả lời cho sấm sét. Đại dương muốn cho
nó lạc nẻo trên mặt nước với ngàn vạn đợt sóng giống nhau kinh khủng, nhưng nó
có một linh hồn, đó là cái la bàn để hướng dẫn và luôn chỉ hướng Bắc cho nó.
Trong những đêm tối, đèn hiệu của nó thay thế sao trời. Như thế là chống với
gió, tàu có dây và vải, chống với nước thì có gỗ, với đá thì có sắt, đồng và
chì, chống với bóng tối, có ánh đèn, chống với mênh mông, có một cái kim.
Ai muốn
có một ý niệm về những kích thước khổng lồ làm nên một đại chiến hạm thì hãy
vào trong một thân tàu sáu hầm được che đậy ở cảng Bơretx hoặc cảng Tulông.
Chiến hạm được đóng ở đấy có thể nói là đang đặt trong một cái chuông. Chiếc
đòn khổng lồ này là một trục buồm: cái trụ gỗ to tướng nằm dưới đất dài như vô
tận ấy là cái cột buồm cái. Nếu tính từ gốc ở đáy tàu lên tận đỉnh chót vót
trên mây, thì cột buồm cao ngót một trăm hai mươi mét, đường kính ở gốc là một
mét. Cột buồm cái Ănglê ngất ngưởng bảy mươi mét trên mặt nước. Hải quân của
ông cha là dùng dây cáp, hải quân ngày nay dùng xích sắt. Riêng đống xích của
một hạm trang bị một trăm đại bác đã cao một mét tư, rộng bảy mét, sâu hai mét
rưỡi. Cần bao nhiêu gỗ để đóng chiếc tàu ấy? Ba nghìn mét khối. Cả một khu rừng
nổi.
Nên chú
ý đây là mới nói đến chiếc tàu chiến bốn mươi năm về trước, tức là chiếc tàu
buồm. Lúc bấy giờ hơi nước còn đang ở bước đầu. Từ ấy đến nay hơi nước đã đưa
thêm vào chiếc tàu chiến tuyệt vời nhiều điều kỳ diệu mới. Chẳng hạn, hiện nay
chiếc tàu chân vịt hỗn hợp là một cỗ máy lạ lùng chịu sức đẩy đưa của một bộ
buồm rộng tổng cộng ba nghìn mét vuông và một nồi hơi mạnh hai nghìn năm trăm
ngựa.
Không
nói đến những kỳ quan mới ấy, chiếc tàu của Cơritxtôphơ Côlông và Ruyte xưa kia
cũng đã là một kiệt tác vĩ đại của loài người. Sức mạnh của nó vô tận cũng như
gió trong cõi vô biên. Nó chứa gió trong buồm, nó tiến tới chính xác trên những
giàn sóng dàn trải bao la, nó bềnh bồng như nó ngự trị.
Tuy
nhiên, có một giờ phút nào đó bão tố bẻ gãy cái trục buồm hai mươi mét đó như
một cọng rạ, gió uốn cong như một cây lau cái cột buồm một trăm hai mươi mét,
chiếc neo một vạn cân gập trong họng súng cũng như cái lưỡi câu trong mồm con
cá quả, những cỗ đại bác khổng lồ gầm lên thảm thương vô ích, tiếng gào thét cứ
theo gió biệt tăm vào đêm tối và khoảng không, tất cả sức mạnh và oai hùng của
con tàu trong giờ phút ấy bị hủy hoại bởi một sức mạnh và oai hùng cao hơn.
Khi một
sức mạnh vô tận triển khai để đi đến một sự suy yếu vô cùng, nó thường bắt con
người phải suy nghĩ. Do đó mà có sự tụ tập của những người tò mò quanh những
công cụ chiến tranh và hàng hải ấy, tuy họ không hiểu thật rõ ràng họ đến vì lẽ
gì.
Ngày nào
cũng vậy, từ sớm đến chiều, các đê, các bờ bến đều chật ních những kẻ vô công
rồi nghề, những người lêu lổng – như ở Paris người ta gọi – họ chỉ có mỗi một
việc là đến xem chiếc tàu Ôriông.
Tàu
Ôriông là một chiếc tàu bệnh hoạn từ lâu. Trong những hành trình trước đây,
nhiều lớp hà dày cộm đã bám lên vỏ tàu, đến nỗi làm mất một nửa tốc độ. Năm
trước, người ta đã kéo tàu lên cạn để cạy hà, sau đó cho đi biển lại. Nhưng
việc cạy hà cũng làm thương tổn đến hệ bù-loong ở vỏ tàu. Đến ngang quần đảo
Balêa, sườn tàu mỏi mệt đã long lở; thời bấy giờ, vỏ tàu chưa được bọc bằng tôn
cho nên nước đã lọt vào. Một cơn gió mạnh tiết thu phân thổi đến đã làm vỡ mũi
tàu bên trái cùng với một cửa sổ và làm hư hại bộ dây buồm mũi. Sau những hư
hại đó, tàu Ôriông trở về Tulông. Tàu bỏ neo ở gần Binh công xưởng thủy quân.
Tàu đang trang bị và được đem chữa. Vỏ tàu về phía bên phải không có chỗ nào
hỏng, nhưng theo lệ thường, người ta tháo mấy cái nẹp sắt ra để lùa không khí
vào trong sườn tàu.
Một buổi
sáng, đám người đi xem tàu được chứng kiến một tai nạn.
Bọn thủy
thủ đang buộc buồm vào trục. Bỗng người thủy thủ phụ trách cầm mép buồm vuông
bên hữu mất thăng bằng. Anh ta lảo đảo. Đám người tụ tập ở bến Binh công xưởng
hét lên một tiếng. Anh ta lộn cổ xuống, quay một vòng quanh trục buồm, tay
buông thõng xuống vực thẳm. Anh ta giơ vội một tay, rồi hai tay nắm được cái
bậc thang giả và cứ thế người treo lủng lẳng. Bên dưới anh ta là biển sâu thăm
thẳm. Cái bậc thang giả bị va mạnh, đu đưa như một cái đu. Người ấy cứ lủng
lẳng đưa đi đưa lại ở đầu dây, chẳng khác gì hòn đá ở cái dây bắn đá.
Trèo lên
để cứu anh ta là một việc nguy hiểm ghê người. Bọn thủy thủ toàn là dân chài
mới tuyển mộ, thế mà không một người nào dám mạo hiểm. Lúc ấy, người thủy thủ
bất hạnh đã mệt mỏi lắm; tuy không thấy được nét mặt khiếp đảm của anh ta,
nhưng cứ trông cái chân, cái tay cũng biết là anh ta đã kiệt sức. Hai cánh tay
bị kéo căng thẳng ghê gớm. Mà mỗi lần cố co tay leo lên thì cái bậc thang lại
đu mạnh thêm. Anh ta không kêu, sợ mất sức. Ai cũng chỉ còn chờ cái giây phút
anh phải buông tay và chốc chốc người ta ngoảnh mặt đi để khỏi phải trông thấy
cảnh tượng anh rơi xuống. Có những lúc một mẩu dây thừng, một con sào, một cành
cây là cả sự sống, cho nên thật là khủng khiếp phải trông một sinh mệnh từ đấy
rơi xuống như một quả chín muồi.
Bỗng
thấy một người leo lên cái dây gò cột buồm, nhanh thoăn thoắt như một con mèo
rừng. Người ấy mặc quần áo đỏ, vậy ra là một tên tù khổ sai, hắn lại đội một
cái mũ vải xanh, vậy ra là một tên tù chung thân. Hắn leo đến tầng trên cột
buồm thì gió đánh bạt chiếc mũ, để lộ một cái đầu bạc phơ; vậy ra không phải là
một thanh niên.
Đúng
thế, một tên tù khổ sai, cùng làm trên tàu với cả bọn tù nhân, ngay từ phút đầu
đã chạy đến chỗ viên sĩ quan trực nhật, xin phép được liều mình cứu anh thủy
thủ, giữa lúc mọi người luống cuống chưa biết làm thế nào, giữa lúc mọi thủy
thủ đều run sợ và chịu bó tay. Viên sĩ quan vừa gật đầu thì người ấy lấy búa
đập một nhát gãy ngay chiếc xiềng xích chân rồi vơ lấy một cuộn thừng và leo
lên dây buồm. Lúc ấy, chẳng ai để ý xem tại sao chiếc xiềng lại dễ gẫy thế. Mãi
sau người ta mới nghĩ đến chuyện ấy.
Trong
nháy mắt, người ấy đã lên đến tận trục buồm. Hắn dừng lại vài giây, hình như để
lấy mắt ước lượng dài ngắn thế nào. Trong lúc thân người thủy thủ treo lủng
lẳng ở đầu dây, gió đưa đi đưa lại, thì vài giây đồng hồ ấy, người đứng nhìn ở
dưới thấy lâu như hàng mấy thế kỷ. Sau cùng, hắn ngước mắt nhìn trời rồi bước
lên một bước. Ai nấy đều thở phào. Rồi thấy hắn chạy trên trục. Đến đầu trục,
hắn lấy ra cuộn dây thừng đem theo lúc nãy, buộc một đầu vào trục rồi thả đầu
kia xuống; thật là vô cùng khủng khiếp, vì bây giờ không chỉ có một người treo
lơ lửng trên vực thẳm nữa, mà là hai người.
Trông
hệt như một con nhện sắp bắt một con ruồi, nhưng đây là con nhện mang lại cái
sống chứ không phải cái chết. Hàng vạn con mắt chăm chăm nhìn hai người đó.
Không một tiếng kêu, không một lời nói, cơn hồi hộp chung khiến họ nhíu cả lông
mày lại. Ai nấy đều nín thở, tưởng như sợ rằng hơi thở ở miệng mình góp thêm
sức cho gió đu đưa hai kẻ khốn cùng.
Thế
nhưng, tên tù cũng lần được xuống tới gần người thủy thủ. Vừa kịp! Giá chậm một
phút thì người kia iệt sức và tuyệt vọng sẽ buông tay cho rơi người xuống vực.
Tên tù một tay bám dây thừng, một tay lấy thừng buộc chặt người kia lại. Rồi
người ta thấy hắn leo lên trục, kéo cả người thủy thủ lên và đặt anh ta ở đó;
hắn nâng đỡ anh ta một lát để anh ta lấy lại sức, xong lại cắp lấy anh ta mà
mang từ đầu trục đến chốt cột buồm, rồi lại từ chốt cột buồm đến tận chỗ sàn
tầng trên; bấy giờ hắn mới giao anh thủy thủ cho các bạn anh.
Công
chúng vỗ tay vang dậy; có những anh lính già coi tù ứa nước mắt trên bến, các
bà ôm lấy nhau mà hôn. Muôn miệng nhất loạt thét to, tiếng thét vừa dữ dội vừa
xúc động: “Ân xá cho người ấy!”
Tên khổ
sai lúc ấy vội vã xuống ngay để trở về với công việc khổ dịch. Hắn bám vào dây
buồm tụt xuống cho nhanh, rồi chạy trên cái trục dưới. Bao nhiêu con mắt dều
nhìn theo hắn. Đến một lúc, mọi người sợ hãi thấy hắn ngập ngừng rồi lảo đảo:
Chắc là hắn mệt quá hoặc choáng váng. Bỗng mọi người kêu thét lên: hắn vừa rơi
xuống biển!
Tên tù
khổ sai xấu số rơi vào một chỗ quá nguy hiểm. Hắn lọt xuống giữa hai chiếc tàu
chiến: tàu Ôriông và tàu Angiêđira đậu cạnh nhau. Chỉ sợ hắn ngụp xuống dưới
bụng của một trong hai chiếc tàu. Bốn người vội vàng nhảy xuống một chiếc
xuồng. Dân chúng cổ vũ họ. Sự hồi hộp lo âu lại trở về. Không thấy hắn nổi lên
mặt nước. Hắn chìm xuống biển như rơi xuống một thùng dầu, không một vết sóng gợn.
Người ta thăm dò người ta lặn kiếm. Vô hiệu. Tìm mãi đến tối cũng không thấy
xác hắn.
Hôm sau
tờ nhật báo Tulông đăng mấy dòng sau đây: “17 tháng 11 năm 1823 – Hôm qua, một
tên tù làm việc khổ dịch trên tàu Ôriông, sau khi cứu được một thủy thủ, đã ngã
xuống biển chết đuối. Không tìm thấy xác hắn. Người ta đồn rằng hắn bị mắc vào
hàng cọc ở chỗ mỏm gần Binh công xưởng. Tên tù ấy số 9.430, tên là Giăng
VanGiăng”.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 3: GIỮ LỜI HỨA VỚI NGƯỜI ĐÃ KHUẤT
Chương 1
VẤN ĐỀ NƯỚC ĂN TẠI MÔNGPHECMÂY
Môngphecmây
ở vào giữa Livơri và Senlơ, bên rìa phía nam cao nguyên ngăn đôi triền sông Uốc
và sông Mácnơ. Ngày nay Môngphecmây là một thị trấn khá lớn; những biệt thự
bằng đá trắng tô điểm cho thị trấn quanh năm và cứ ngày chủ nhật thì nó lại
được điểm tô bằng những ông thị dân mặt mày nở nang rạng rỡ. Nhưng năm 1823 thì
Môngphecmây làm gì có nhiều nhà trắng xóa như thế, nhiều kẻ sung sướng như thế!
Nơi ấy hồi đó chỉ là một cái làng miền rừng. Rải rác cũng có dăm ba biệt thự
xây từ thế kỷ trước, nhờ vẻ đường bệ mà dễ nhận ra, có bao lơn bằng sắt uốn, có
cửa sổ cao lấp lánh những miếng kính đủ các màu xanh trên nền trắng của những
cửa gỗ đóng im ỉm. Tuy vậy Môngphecmây cũng không hơn gì một thôn xóm. Những
tay buôn len dạ về vườn và những thầy cò thầy kiện đi nghỉ mát chưa tìm ra nơi
này. Đây là một khu tĩnh mịch và xinh xắn, không nằm trên con đường nào hết.
Đời sống quê mùa, dễ dàng, có đủ thứ và rất rẻ. Chỉ có khoản nước là khan hiếm,
vì là đồi cao.
Phải đi
khá xa mới kiếm được nước. Đầu làng về phía Ganhi thì lấy nước ở các hồ ao rất
đẹp trong rừng. Cuối làng, mấy xóm quanh nhà thờ, về phía Senlơ, phải xuống tận
lưng chừng đồi, gần đường cái, đi mất khoảng mười lăm phút, mới có một con suối
nhỏ có nước ăn.
Vì vậy,
nhà nào cũng thấy việc đi lấy nước là một công việc khó nhọc. Những nhà giàu
có, những nhà quí phái, quán hàng Tênácđiê cũng trong số ấy, phải thuê gánh
nước, cứ mỗi thùng một đồng lia; lão gánh nước thuê cho các nhà ở Môngphecmây
mỗi ngày kiếm được tám xu; nhưng về mùa hạ, lão chỉ làm đến bảy giờ, về mùa
đông thì đến năm giờ, cho nên lúc trời đã tối, cửa ngõ mọi nhà đã đóng, nhà nào
hết nước phải tự đi lấy hoặc nhịn uống đến hôm sau.
Con bé
Côdét rất sợ cái nạn ấy, chắc độc giả chưa quên con bé đáng thương. Vợ chồng
Tênácđiê nuôi con Côdét được hai cái lợi, mẹ thì trả tiền, con thì hầu hạ chúng
nó. Đến khi mẹ nó không có tiền trả nữa, vì cớ đã nói ở các chương trên, vợ
chồng Tênácđiê vẫn giữ đứa bé; nó làm thay đứa ở. Vì là đứa ở nên khi cần thì
nó phải đi lấy nước. Hễ nghĩ đến việc đi lấy nước ban đêm là nó khiếp sợ, nên
không bao giờ nó dám để trong nhà phải thiếu nước.
Ngày lễ
Giáng sinh năm 1823 ở Môngphecmây đặc biệt vui vẻ. Đầu mùa đông, tiết trời dễ
chịu, chưa có hôm nào đóng băng hay mưa tuyết. Đám phường trò ở Paris đã được
phép ông thị trưởng cho cất rạp ở ngay phố chính trong làng. Bọn bán hàng rong
cũng tha hồ được dựng quán ở sân nhà thờ và đến tận cả ngõ Hàng Bánh; chắc độc
giả còn nhớ ngôi hàng của vợ chồng Tênácđiê cũng ở ngõ này. Quán ăn, quán rượu
chật ních những khách hàng; cái làng thường ngày tĩnh mịch này bỗng trở thành
ồn ào, vui vẻ. Để làm một sử gia trung thành, chúng tôi cần phải nói là trong
mọi cái lạ tai lạ mắt phô bày giữa thiên hạ, còn có một gánh xiếc thú rong mà những
diễn viên là những người bẩn thỉu, rách rưới, không biết từ đâu lại. Từ năm
1823, họ đã trưng bày cho nông dân Môngphecmây xem một con kên kên Braxin khủng
khiếp mà viện sinh vật hoàng gia của chúng ta mãi đến 1815 mới có. Loại kên kên
này có con mắt màu cờ tam tài. Hình như các nhà sinh vật học gọi con chim đó là
Caracara Pôlybôruýtx, loại ăn thịt, giống kên kên. Một vài cựu binh chất phác
thuộc phái thân Bônapac đến chiêm ngưỡng con vật ấy một cách tín mộ. Bọn làm
xiếc thì khoa trương cái màu cờ trong con mắt chim đó là một hiện tượng hãn hữu
mà Chúa nhân từ bày ra để giúp đỡ gánh xiếc của họ.
Đêm lễ
Giáng sinh, vô số người, nào phu đánh xe, nào phu tải vào hàng Tênácđiê ăn ăn
uống uống, xúm quanh bốn hay năm ngọn nến ở gian phòng tầng dưới. Gian phòng
này cũng giống như ở mọi quán rượu khác, lủng củng những bàn, những hũ rượu
bằng thiếc, những chai lọ, những người uống rượu, người hút thuốc lá. Anh sáng
thì ít mà tiếng ồn ào thì nhiều. Hai vật thời thượng của tầng lớp thị dân nằm
trên một chiếc bàn, chứng tỏ rõ ràng chúng ta đang ở năm 1823: đó là một ống
kính vạn hoa và một cây đèn sắt tây màu gợn sóng. Mụ Tênácđiê đang chăm nom các
món ăn xèo xèo trên lò lửa cháy đượm; lão chồng uống rượu và nói chuyện thời
thế với khách hàng.
Ngoài
các câu chuyện thời sự mà những chủ đề chính là chiến tranh Tây Ban Nha và công
tước Ănggulem, trong tiếng ồn ào chung, người ta nghe đây đó những mẩu chuyện
địa phương đại loại: “Vùng Năngte và Xuyarên nho được rượu quá, cứ dự tính mười
thùng thì được những mười hai. Cho vào bàn ép mới thấy nho lắm nước – Như thế
là nho chưa chín chăng? - Ở vùng ấy không ai chờ nho chín mới hái, nếu cất rượu
bằng nho chín thì rượu bị lềnh ngay vào xuân – Thế là rượu tiểu thủ công, rượu
địa phương? – Còn địa phương hơn ở đây nữa. Phải hái nho xanh”…
Có lúc
một anh thợ xay hét:
- Làm
sao đổ tội cho chúng tôi về những gì nằm trong các bao lúa? Chúng tôi tìm thấy
cả một xứ những hạt kia hạt nọ, hơi sức đâu mà nhặt, cho nên cứ phải để vậy mà
đổ vào cối. Nào là cỏ kiệu, cỏ gấu, cỏ may, cỏ chỉ, cỏ mật, lùng, nàn nàn và
khối những vị khác, không kể những hòn cuội nhan nhản trong lúa một đôi vùng,
đặc biệt là vùng Brơtanhơ, cũng như bọn thợ cưa không thích xẻ những khúc gỗ có
đanh. Cứ thử nghiệm xem cái bụi đá ấy mà trộn lẫn trong bột thì còn ra gì. Rồi
thì người ta kêu bột thế nọ, bột thế kia. Nói bậy tuốt. Chúng tôi chẳng có lỗi
gì nếu bột xấu.
Ở khoảng
cách giữa hai cửa sổ, một anh cắt cỏ ngồi uống rượu với một điền chủ. Người
điền chủ đang mặc cả giá cắt một đám cỏ cần tiến hành vào mùa xuân. Anh cắt cỏ
bảo: “Cỏ ướt cũng không sao. Càng dễ cắt. Sương là tốt, ông chủ ạ. Bù vào cái
cỏ ấy, cỏ của ông non khó xơi lắm: nó mềm quá, cứ oằn xuống tránh lưỡi hái”…
Con
Côdét vẫn ở chỗ thường ngày, nó ngồi trên cái thang ngang dưới gầm bàn bếp, kê
cạnh lò sưởi. Quần áo nó rách tả tơi; chân không bít tất xỏ một đôi guốc gỗ;
bên ánh lửa lờ mờ, nó đang đan bít tất len dành cho mấy đứa con nhà Tênácđiê.
Một chú mèo con đùa giỡn dưới gầm ghế, có tiếng mấy đứa trẻ, con Epônin và con
Adenma cười nói bi bô ở gian bên.
Ở góc bệ
sưởi, có cái roi da treo vào một chiếc đinh. Thỉnh thoảng lại có tiếng một đứa
rất bé đặt nằm chỗ nào không biết khóc thét lên giữa cảnh ồn ào trong quán. Mụ
Tênácđiê đẻ thằng bé này vào một mùa đông trước: mụ thường bảo “không biết tại
sao lại đẻ ra nó, chắc là tại trời rét” – thằng bé đã được hơn ba tuổi. Mẹ nó
vẫn nuôi nó, nhưng không ưa. Khi thằng bé kêu khóc dữ quá, làm mọi người khó
chịu, thằng chồng mới bảo mụ vợ: “Thằng nhãi lại oe óe kìa, xem nó đòi gì”. Con
mụ đáp: “Chà! Bực cả mình với thằng ranh”. Đứa bé bị bỏ mặc vẫn la khóc trong
bóng tối.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 3
Chương 2
HOÀN THÀNH HAI BỨC CHÂN DUNG
Trên đây
ta mới được biết chân dung vợ chồng Tênácđiê nhìn nghiêng; đã đến lúc cần đi
quanh đôi vợ chồng này để thấy đủ mọi mặt.
Thằng
chồng vừa mới chẵn năm mươi tuổi; con vợ thì gần bốn mươi, nhưng là đàn bà, kể
cũng như năm mươi; như thế là hai vợ chồng vừa tuổi nhau.
Chắc độc
giả còn nhớ cái bóng dáng đầu tiên của mụ Tênácđiê; mụ cao lớn, tóc vàng, da
đỏ, béo nung núc những thịt, vuông người, phục phịch mà nhanh nhẹn; như chúng
tôi đã nói, mụ thuộc cái hạng nữ khổng lồ man rợ ở các phiên chợ, tóc đeo nhiều
tảng đá đứng tấn cho người ta xem. Mụ làm mọi việc trong nhà, dọn giường, lau
buồng, giặt giũ, bếp nước, làm mưa làm gió, tác yêu tác quái. Trong nhà chỉ có
mỗi một con ở là con Côdét. Rõ ràng một con chuột nhắt hầu một con voi. Tiếng
mụ nói làm rung cả cửa kính, đồ đạc và làm mọi người run lên. Cái mặt phèn phẹt
đầy những chấm đỏ, trông như cái môi hớt canh. Mụ có râu. Rõ là một anh phu
khuân vác đầu chợ, mặc quần áo đàn bà. Mụ chửi rủa ra tuồng; mụ khoe chỉ đấm
một cái là vỡ tan quả hạnh đào. Giả sử không có những cuốn tiểu thuyết mụ đã
được đọc, thỉnh thoảng lại làm hiện ra một cách kỳ quái bóng dáng cô ả mỹ miều
trong cái lốt con quỉ cái, thì không bao giờ ai có ý nghĩ gọi mụ là một người
đàn bà. Mụ giống như một tiểu thư ghép vào một mụ hàng tôm hàng cá. Nghe tiếng
mụ nói, người ta bảo: một tên sen đầm; nhìn mụ uống, người ta bảo: một tay đao
phủ. Lúc mụ nghỉ ngơi, vẫn thấy sát khí đằng đằng!
Thằng
cha Tênácđiê người bé nhỏ, gầy gò, xanh xao, góc cạnh, xương xương, khẳng kheo,
trông như ốm thế mà mạnh khỏe ra dáng; nó xảo trá ngay từ hình dáng. Nó quen
mỉm cười để đề phòng; nó hầu như lễ phép với hết thảy mọi người, với cả đứa ăn
mày mà nó không thí cho được một đồng lia. Mắt nó như mắt giống cầy nhưng vẻ
mặt nó là vẻ mặt một nhà văn. Trông nó, giống như các bức chân dung của ông
thầy tu Đơlin. Chỗ hãnh diện của nó là ngồi uống rượu với bọn phu tải. Chưa ai
làm cho nó uống đến say bao giờ; nó hút một cái tẩu to tướng. Nó mặc áo choàng
ngoài một bộ quần áo đen đã cũ. Nó sính nói văn chương và duy vật luận. Lúc nó
nói cái gì ra vẻ quan trọng, nó thường kể nào là Vônte, là Raynan, là Pácni và
có cái lạ là cả Thánh Ôguytxtanh nữa. Nó tự xưng có “một học thuyết”. Học
thuyết của quân kẻ cắp. Đúng là một nhà “đạo tặc đạo”, một danh từ có ý nghĩa
riêng (Nguyên văn: Un Filousophe”, filou: tên trộm cắp, sophe: người có lý
thuyết, có khoa học - một danh từ tác giả mới tạo, phỏng âm danh từ philosophe,
nhà triết học – để nói đây là một tay trộm cắp có lý luận). Ta còn nhớ nó khoe
nó đã từng đi lính; nó kể lể không dè sẻn là ở trận Oateclô, nó đóng lon đội
trong đạo khinh kỵ thứ 6 hay thứ 9 gì đó, một mình nó đương đầu với một tiểu
đoàn kỵ binh quyết tử và đã lấy thân che kín và cứu sống “một vị tướng bị trọng
thương” giữa mưa đạn. Do câu chuyện ấy mới có cái biển lòe loẹt treo trên tường
và trong làng ai cũng gọi quán ăn của nó là “quán đội trưởng Oateclô”. Nó tự
nhận thuộc phái tự do, cổ điển và đế chính. Dân làng đồn rằng nó đã từng đi học
để làm cố đạo.
Chúng
tôi thì nghĩ rằng nó chỉ học cái nghề bán hàng cơm ở Hà Lan. Có lẽ đúng là loại
tứ chiếng ấy: ở xứ Pơlăngđrơ thì nó là người Pơlăngđrơ của thành phố Lilơ, ở
Paris thì là người Pháp, ở Bơruxen thì là người Bỉ, hai chân ở hai biên giới,
khai vào chỗ nào cũng tiện. Nó dũng cảm ở Oateclô như thế nào thì ta đã biết
rồi. Đấy, nó phóng đại ra một chút như thế. Đời nó khúc khuỷu, phiêu lưu, lúc
lên voi lúc xuống chó; lương tâm đã rách nát thì cuộc đời cũng chắp vá thôi;
hình như trong cái thời gian bão táp ngày 18 tháng 6 năm 1815, Tênácđiê thuộc
các loại những kẻ vừa làm nghề bán căngtin vừa ăn cắp trong quân đội, như đã
nói ở trên; chúng đi đến đâu là sục sạo đến đấy, bán hàng cho người này, đánh
cắp của kẻ kia, cả bầu đoàn thê tử trên một chiếc xe lăn khấp khểnh theo các
cuộc hành quân, dựa vào bản năng để bao giờ cũng theo bên thắng. Sau chuyến đó,
sẵn có ít vốn (Nguyên văn: du quibus) nó bèn về mở quán hàng ăn ở Môngphecmây.
Cái vốn
ấy là những túi tiền, đồng hồ, nhẫn vàng, huy chương bạc gặt được trong vụ mùa
trên những luống cày gieo bằng xác chết; cái vốn ấy chẳng to gì nên tên bán
hàng trong quân đội ấy lúc trở về mở cái quán tồi tàn này, chứ cũng chẳng làm
nên trò trống gì hơn. Cử chỉ Tênácđiê mang một nếp cứng rắn riêng. Nếp cứng rắn
ấy cộng với thói quen nguyền rủa là nếp của trại lính, cộng với dấu chữ thập,
là nếp của nhà tu. Nó ăn nói hoạt bát. Nó để cho người ta đồn rằng nó học
thông. Tuy vậy thầy giáo làng vẫn thấy nó “hớ” luôn. Nó kê hóa đơn cho khách
hàng một cách rất thạo. Nhưng người tinh ý nom vào thì thấy có lỗi chính tả.
Tênácđiê là đứa thâm hiểm, háu ăn, la cà, lanh lợi. Nó chẳng từ con sen con ở,
nên mụ vợ không mượn người giúp việc nữa. Con voi nan ấy mà ghen tuông. Mụ
tưởng như tất cả đàn bà con gái ai cũng muốn chim cái lão bé choắt, còm nhom,
vàng ễnh đó.
Nổi bật
hơn hết, Tênácđiê là một thằng lưu manh thuộc loại ôn hòa, nó là một đứa giảo
hoạt và tỉnh táo. Loại này mới thật là nguy hiểm nhất: đã lưu manh, lại đạo đức
giả.
Không
phải là có lúc Tênácđiê không biết nổi nóng; ít ra nó cũng nóng bằng con vợ nó;
nhưng họa hoằn thôi; lúc ấy thì nó thù ghét tất cả nhân loại, lòng nó chứa chất
cả một lò lửa căm thù; nó giống như những người suốt đời chỉ lo trả thù trả
oán, những người động một tí là buộc tội tất cả mọi vật xung quanh, rồi lúc nào
cũng lăm le chỉ muốn nhẩy xổ vào kẻ nào chẳng may chợt qua đấy; kẻ đó tức là
thủ phạm chính thức gây ra tất cả những thất vọng, những tai họa, những bất
hạnh trong đời nó; bấy giờ nó giống như có men rượu bốc trong người, sôi sục
trong mồm, trong mắt, thế là nó trở thành ghê gớm. Vô phúc cho kẻ nào chợt đến
lúc nó hung hãn như thế.
Ngoài
những năng khiếu khác, Tênácđiê lại còn được cái nết ý tứ và sâu sắc, biết lựa
lúc mà im lặng hay ba hoa, nhưng dù lúc nào, nó cũng tỏ ra thông minh rất mực.
Nó có cái nhìn của người thủy thủ quen nheo con mắt trước ông kính viễn vọng.
Tênácđiê làm một chính khách vậy.
Kẻ nào
mới đến quán ăn này lần đầu, thấy mụ Tênácđiê cũng phải bảo: “Hẳn đây là chủ
nhà”. Lầm to. Mụ cũng chẳng là bà chủ nữa. Chính thằng chồng mới vừa là ông chủ
vừa là bà chủ. Thằng chồng sắp đặt công việc, con vợ cứ thế làm. Nó điều khiển
tất cả bằng một thứ điện lực vô hình và thường xuyên. Chỉ một tiếng, hay có khi
chỉ cần một dấu hiệu, thế là con voi cái tuân lệnh. Thằng Tênácđiê, đối với con
vợ, vô tình đã là một đấng đặc biệt quyền uy vô thượng. Thái độ ấy âu cũng là
một đức tính riêng của mụ. Nói thí dụ, - ấy là thí dụ thôi, chứ chẳng bao giờ
lại có thế, - nếu có điều gì không đồng ý với “ông Tênácđiê” thì dù là việc gì
đi nữa, mụ cũng không đổ cho chồng là sai trước mặt mọi người. Có “người lạ”,
không bao giờ mụ phạm lỗi ấy, cái lỗi này nhiều bà mắc phải và thường được gọi
là: vạch áo cho người xem lưng. Tuy cái cảnh thuận vợ thuận chồng chỉ là để làm
việc độc ác, nhưng sự phục tùng của mụ Tênácđiê vẫn có một cái gì tôn nghiêm.
Cả cái núi thịt suốt ngày ầm ĩ ấy chuyển động theo ngón tay bé nhỏ của tên bạo
chúa lẻo khoẻo kia.
Đây là
chuyện vật chất bái phục tinh thần, một chân lý lớn lao và phổ biến biểu hiện ở
một sự việc bé nhỏ và buồn cười. Bởi vì một đôi cái xấu xí dị hợm vẫn có cơ sở
tồn tại ở sâu ngay trong cái đẹp vĩnh cửu. Ở Tênácđiê có một cái gì thuộc cõi
bất khả tri. Do đó hắn có quyền uy tuyệt đối với vợ. Có những lúc mụ ta thấy
hắn như một ngọn nến sáng trưng; nhiều lúc khác mụ cảm thấy hắn là một cái vuốt
nhọn.
Người
đàn bà ấy là một sinh vật ghê gớm chỉ biết yêu con và sợ chồng. Mụ sở dĩ có con
là vì mụ thuộc loài có vú. Tuy nhiên tình mẹ con cũng chỉ trùm lên hai đứa con
gái là hết, mụ không yêu gì những đứa con trai, sau này ta sẽ rõ. Còn thằng
chồng, nó có độc một tư tưởng: làm giàu.
Nhưng
nào có được. Cái tài ba lỗi lạc ấy không có đất dụng võ. Ở Môngphecmây,
Tênácđiê cứ sa sút mãi, - ấy là tạm dùng chữ sa sút, đến đấy Tênácđiê cũng chỉ
có hai bàn tay trắng. Giả sử nó ở Thụy Sĩ hay ở Pyrênê, chắc cái thằng kiết xác
ấy đã trở thành triệu phú. Nhưng số mệnh đã buộc chặt thằng chủ quán ở đâu thì
nó đành phải gặm ở đấy.
Chủ quán
ở đây dùng theo nghĩa hẹp không mở rộng đến cả giai cấp.
Đúng vào
cái năm 1823 ấy, Tênácđiê mắc nợ chừng ngàn rưởi phơrăng, đều là những món vay
nóng, nên nó có bề lo lắng.
Số mệnh
dù đối với hắn khe khắt một cách kiên trì. Tênácđiê vẫn là một trong những con
người hiểu sâu sắc và mới mẻ nhất cái nghĩa vụ đối với khách trọ. Cái nghĩa chủ
khách đó ở các dân tộc dã man là một đức tính cao quí, ở các dân tộc văn minh,
đó là một món hàng bán mua. Ngoài ra hắn còn là một tay săn bắn trộm tài tình,
đường đạn tinh ai cũng ca ngợi. Tiếng cười của nó lạ lắm, lạnh lẽo và ôn hòa
nhưng rất thâm hiểm.
Một đôi
khi những lý thuyết làm chủ quán từ óc nó bật ra như những tia chớp. Các giáo
điều nghề nghiệp ấy hắn cài vào trí óc vợ nó. Một hôm nó hung hăng nói nhỏ với
vợ: “Bổn phận của người chủ quán là bán cho mọi người bước vào cửa hàng cái ăn,
cái ngủ, cái ánh sáng, cái lửa sưởi, chăn đệm bẩn, cô hầu phòng, rận rệp và nụ
cười; là bắt cóc kẻ qua đường, là trút những túi nhẹ, làm nhẹ những túi nặng
một cách lương thiện; là cung kính chứa trọ những gia đình đi đường xa, là nạo
ông, vặt bà, lột da cô, cậu; là định giá tất cả: nào cửa mở, cửa đóng, bệ sưởi,
ghế bành, ghế tựa, ghế đẩu, ghế con, nệm lông chim, nệm bông, ổ rơm; là phải
biết bóng người làm mòn gương soi bao nhiêu để tính tiền: là… nghĩa là, mẹ kiếp!
Phải biết tính tiền đủ các thứ để bắt khách hàng trả, đến những con ruồi mà chó
họ ngáp phải cũng biết tính!”
Người
đàn ông ấy với người đàn bà ấy là xảo quyệt và điên cuồng kết hôn, một đôi hợp
phối gớm ghiếc và đáng sợ.
Thằng
chồng thì âm thầm nghĩ ngợi, tính toán; còn con vợ thì chẳng thèm nghĩ gì đến
bọn chủ nợ không có ở đấy; nó thì chẳng lo gì về ngày hôm qua, cũng chẳng màng
đến ngày mai; nó sống hăng tiết, sống tất cả trong giờ phút hiện tại.
Đấy, hai
con người ấy là như thế. Côdét sống giữa chúng nó, chịu đựng sức ép của cả hai
đứa, giống như kẻ vừa bị tảng cối xay nghiến, vừa bị kìm xé thịt. Thằng chồng
và con vợ, mỗi đứa một cách đối xử: Côdét bị đánh đập tơi bời là do con vợ; nó
đi chân không mùa rét là do thằng chồng.
Con bé
hết lên lại xuống, nào là giặt giũ, cọ chải, lau chùi, quét tước, vừa đi vừa
chạy, vừa làm vừa thở, chuyển những đồ vật nặng; tội nghiệp con bé gầy còm như
thế mà phải làm những công việc rất nặng nhọc. Chẳng ai thương hại nó; một bà
chủ dữ tợn, một ông chủ thâm độc. Cái cửa hàng của Tênácđiê giống như cái lưới
nhện, Côdét mắc vào đó, run rẩy. Cái lối hà hiếp người trong cảnh ở tớ thảm đạm
này thật là một cảnh điển hình. Đó là kiếp con ruồi làm tôi con nhện.
Tội
nghiệp con bé đành ngậm miệng mà chịu đựng.
Vừa từ
cõi Chúa xuống, trần trụi, bé bỏng bước vào bình minh của cuộc sống mà gặp phải
người đời như vậy, thử hỏi các linh hồn trong trắng ấy nghĩ gì?
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 3 - Chương 3
PHẢI CÓ RƯỢU CHO NGƯỜI, NƯỚC CHO NGỰA
Lại bốn
khách đi đường nữa vào hàng.
Côdét
buồn rầu nghĩ ngợi; vì tuy mới tám tuổi đầu, nó đã chịu bao đau xót, nên nó
ngồi nghĩ vơ vẩn với dáng điệu một bà cụ già thảm hại.
Một bên
mắt nó tím bầm, vì một quả đấm của mụ Tênácđiê, đã thế thỉnh thoảng mụ còn nói:
- Gớm!
Con mắt sưng húp của nó sao mà xấu thế!
Côdét
nghĩ ngợi: đêm thì tối đen như mực, đột nhiên lại phải múc nước đổ đầy các
bình, các chai trong buồng bọn khách chợt đến và ngoài bể lại chẳng còn hột
nước nào.
Nó còn
yên tâm đôi tí là ở nhà hàng Tênácđiê này, người ta không uống nhiều nước lắm.
Chẳng thiếu gì người khát; nhưng thật là khát cái vò rượu chứ không phải khát
cái vại nước. Ở đây, trước một cái bàn la liệt cốc rượu, ai mà gọi một cốc nước
thì chẳng khác gì người man rợ. Vậy mà đã có lúc con bé phải run sợ: mụ
Tênácđiê mở vung một cái xoong đang sôi trên bếp lửa, rồi cầm lấy cái cốc đi
vội ra bể nước. Mụ vặn vòi nước; con bé ngẩng đầu lên và nhìn theo từng cử chỉ
của mụ. Một tia nước nhỏ chảy ra từ vòi nước, chỉ có lưng cốc. Mụ bảo: “Ồ! Hết
sạch nước rồi!”; mụ đứng im một lát. Con bé nín thở. Mụ Tênácđiê xem lại lưng
cốc nước, lại nói: “Chà, thôi thế này cũng đủ”.
Côdét
lại cắm cúi làm, nhưng đến hơn mười lăm phút đồng hồ, nó thấy tim nó nhảy trong
lồng ngực, bồng bềnh tựa như bóng.
Nó đếm
từng phút trôi qua như vậy và mong cho chóng đến sáng hôm sau.
Thỉnh
thoảng lại có khách đang uống rượu nhìn ra đường, kêu lên: “Tối như hũ nút”
hoặc “Giờ này có họa là mèo mới ra đường không đèn đuốc gì”, Côdét rùng mình.
Bỗng một
ông khách trọ buôn hàng chuyến bước vào sừng sộ nói:
- Ngựa
tôi không được uống nước!
Mụ
Tênácđiê bảo:
- Cho
uống rồi đấy chứ.
Tên lái
buôn đáp:
- Cái
chị này! Tớ bảo không mà lị.
Côdét
chui dưới gầm bàn ra, nói:
- Thưa
ông, có mà! Ngựa uống rồi, nó uống ở thùng, nó uống một thùng đầy cơ đấy, thì
tay cháu mang nước cho nó, cháu lại còn nói chuyện với nó nữa.
Chuyện
không có như thế. Côdét đã nói dối. Ông lái quát:
- Con
ranh bé bằng nắm tay mà nói điêu to như hòn núi. Tao bảo nó chưa uống là nó
chưa uống, nhóc cái ạ! Lúc nó khát thì nó thở thế nào, tao biết chứ.
Côdét cố
cãi; nó hoảng quá, giọng thều thào nghe không rõ:
- Nó
uống no nê là khác!
Tay lái
buôn cả giận mắng:
- Thôi
đừng nói láo. Cho ngựa uống nước đi, rồi xếp, không đôi co gì nữa.
Côdét
lại chui vào gầm bàn. Mụ Tênácđiê bảo:
- Phải,
phải rồi. Ngựa chưa được uống thì phải cho nó uống chứ.
Rồi mụ
nhìn quanh:
- Kìa,
cái con kia đâu rồi?
Mụ cúi
xuống, thấy Côdét ngồi thu mình mãi cuối bàn, gần ngay dưới chân khách uống
rượu. Mụ thét:
- Mày có
ra ngay không.
Côdét từ
xó ẩn chui ra. Mụ Tênácđiê tiếp:
- Mời cô
Chó Vện đi lấy nước cho ngựa uống đi.
Côdét
trả lời khe khẽ:
- Nhưng,
thưa bà, nước hết rồi ạ.
Mụ
Tênácđiê mở toang cửa ra đường:
- Hết
thì đi mà xách về chứ!
Côdét
cúi đầu vào lấy cái thùng không ở góc lò sưởi.
Cái
thùng to hơn cả nó, con bé mà ngồi hẳn vào trong cũng còn rộng chán.
Mụ lại
đến ngồi cạnh bếp lò, cầm cái môi gỗ nếm thử món ăn nấu ở trong xoong, mồm lẩm
bẩm:
- Nước ở
ngoài suối chứ còn đâu. Có khó gì! Ồ! Giá mình tán hành ra thì hơn.
Rồi mụ
lục cái ngăn kéo đựng cả xu, cả hồ tiêu, cả tỏi. Mụ tiếp:
- Này cô
Cóc, lúc về vào hàng bánh mua cho tôi một cái bánh to. Đồng mười lăm xu đây
này.
Côdét
mặc cái tạp dề có túi con ở một bên; nó lẳng lặng cầm đồng hào bỏ vào túi.
Rồi nó
đứng im, tay xách thùng, trước cái cửa mở toang. Hình như nó đợi có người đến
cứu nó. Mụ Tênácđiê thét:
- Đi đi
chứ!
Côdét đi
ra. Cánh cửa đóng lại.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 3 - Chương 4
MỘT CON BÚP BÊ LÊN SÂN KHẤU
Ta còn
nhớ, cái dãy cửa hàng giữa trời chạy từ nhà thờ đến tận cái quán ăn Tênácđiê.
Những quán ấy chờ bọn nhà giàu đi dự lễ nửa đêm đi qua, nên quán nào quán nấy
đều nến thắp sáng trưng trong những cái phễu bằng giấy; cảnh ấy trông như “cảnh
thần tiên”, theo lời ông thầy giáo trong làng, lúc ấy đang ăn uống trong quán
Tênácđiê. Trái lại trên trời không có lấy một ông sao.
Cái quán
cuối dãy dựng lên ngay trước mặt cửa hàng nhà Tênácđiê; hàng bán đồ chơi, lấp
la lấp lánh những giấy trang kim, những đồ thủy tinh, những đồ bằng sắt tây rất
đẹp. Bên ngăn ngoài, ở ngay đằng trước, bày một con búp bê lót trên một lượt
khăn bông trắng nõn. Con búp bê thật lộng lẫy, cao tới gần bảy mươi phân, mặc
một cái áo nhiễu màu hồng, đầu cài những bông lúa vàng, tóc như tóc thật, mắt
thì bằng men sứ. Suốt ngày những khách tí hon dưới mười tuổi qua lại đều ngây
người ra mà ngắm cái kỳ quan ấy. Ở Môngphecmây tìm đâu ra bà mẹ có đủ tiền hay
thừa tính tiêu hoang mà mua cho con cái của ấy. Con Epônin và con Adenma cứ
đứng hàng giờ mà ngắm con búp bê; cả con Côdét nữa cũng cả gan lấm la lấm lét
nhìn trộm búp bê.
Lúc
Côdét bước ra ngoài, tay xách thùng, mặt rầu rĩ và khổ sở như thế, mà nó cũng
không nhịn được, phải ngước mắt nhìn con búp bê kỳ diệu ấy, nhìn “cái bà quí
phái ấy”, như nó nói. Con bé khốn nạn đứng đờ người ra. Chưa lần nào nó được
nhìn gần như thế. Nó tưởng gian hàng như một cái cung điện nào; còn búp bê thì
không phải là con búp bê, mà là một nàng tiên hiển hiện. Con người bé nhỏ đáng
thương ấy đang chìm sâu trong cảnh ảm đạm lạnh lẽo bỗng nhiên thấy đứng trước
một cảnh vui vẻ, lộng lẫy, giàu có, hạnh phúc thoáng hiện ra như trong một
luồng ánh sáng ảo mộng. Côdét lấy cái trí thông minh thơ ngây nhưng đáng buồn
của nó để ước lượng cái hố sâu thăm thẳm phân cách nó với con búp bê này. Nó
cho rằng phải là một bà hoàng hậu hay ít ra là một nàng công chúa mới mua được
“cái của ấy”. Nó ngắm nghía cái áo hồng tươi đẹp, mớ tóc mượt, bụng nghĩ thầm:
“Con búp bê này, chắc nó sung sướng lắm nhỉ!” Mắt nó không thể rời cái cửa hàng
huyền diệu ấy. Càng nhìn càng thấy lóa mắt. Nó tưởng như được thấy thiên đường.
Những con búp bê bày phía sau con búp bê to, tưởng như tiên nữ, thánh thần cả.
Còn cái ông bán hàng đi đi lại lại sau quầy thì nó mường tượng như Đức Chúa
Trời vậy.
Mải
chiêm ngưỡng, nó quên hết; quên cả nhiệm vụ phải làm. Bỗng nhiên tiếng gắt của
mụ Tênácđiê gọi nó trở về thực tế:
- Ô kìa,
con ranh, mày chửa đi à? Cứ đứng đấy, tao ra đây! Không biết nó còn đứng đấy
làm gì kia chứ! Đồ quỉ quái, đi đi!
Thì ra
mụ Tênácđiê vừa nhìn ra đường thấy Côdét đang say sưa ngắm nghía.
Côdét
vội vàng xách thùng lủi đi, cố hết sức bước những bước thật dài.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 3 - Chương 5
MỘT MÌNH CON BÉ
Quán
Tênácđiê ở phía đầu làng, khu xóm nhà thờ, nên con Côdét phải đi lấy nước ở mãi
tận cái suối trong rừng về phía Senlơ.
Nó đi
thẳng, không nhìn đến cửa hàng nào nữa. Lúc còn ở ngõ Hàng Bánh và trong khu
vực nhà thờ thì còn đèn nến sáng trưng trong các cửa hiệu soi rõ lối đi; nhưng
chẳng bao lâu, ánh đèn cửa hiệu cuối cùng mờ hẳn. Con bé con ở trong bóng tối.
Nó cứ đi sâu vào bóng tối. Trong bụng đã thấy sờ sợ, nó vừa đi vừa hết sức vung
vẩy cái quai thùng cho kêu lên; tiếng khua động như là một người bạn cùng đi
với nó.
Càng đi
bóng tối càng dày đặc. Ngoài đường, không còn lấy một bóng người. Thế nhưng nó
cũng gặp một bà thấy nó thì đứng lại nhìn theo, miệng lẩm bẩm: “Đứa bé nào đi
đâu thế này? Hay là ma quỉ gì đây?” Bà nhận ra Côdét: “À! Ra con Sơn ca!”
Cứ thế,
Côdét lần mò qua những phường phố khúc khuỷu, quanh co và vắng lặng ở cuối làng
Môngphecmây về phía Senlơ. Còn thấy có bóng nhà hay chỉ những bức tường hai bên
vệ đường, con bé còn mạnh dạn mà đi. Chốc chốc còn được thấy ánh đèn le lói lọt
qua khe cửa; ánh sáng đấy, sự sống đấy, còn có người đấy, nó còn được vững dạ.
Nhưng càng đi, bước chân nó tự nhiên chầm chậm lại. Lúc nó vừa qua cái góc nhà
cuối cùng, nó dừng lại. Đi quá cái cửa hàng cuối cùng đã là khó rồi; đi quá cái
nhà cuối cùng này thì không thể được nữa. Nó đặt cái thùng xuống đất, thò tay
lên đầu gãi gãi; đó là cử chỉ đặc biệt của con trẻ lúc kinh sợ và ngần ngừ.
Không còn là làng Môngphecmây nữa; chỉ còn đồng không mông quạnh. Trước mắt nó,
không gian đen ngòm, vắng lặng. Nó nhìn bóng tối tuyệt vọng; không còn lấy một
bóng người, chắc có thú dữ, có cả ma nữa cũng nên. Nó cố nhìn, nó nghe thấy
tiếng những con vật đi trong cỏ, nó thấy rõ ràng những con ma ngó ngoáy trong
lùm cây. Thế là sợ quá hóa liều, nó vớ lấy cái thùng, miệng nói: “Chà! Cứ bảo
là hết nước rồi!” Rồi nó quả quyết quay trở về Môngphecmây.
Song,
được độ trăm bước, nó lại đứng lại và gãi đầu. Bây giờ thì hình ảnh mụ Tênácđiê
hiện ra; mụ Tênácđiê với cái mõm sói cầy, con mắt giận dữ nảy lửa. Con bé nhìn
trước nhìn sau thảm hại. Làm thế nào bây giờ? Rồi sẽ ra sao? Biết đi đâu? Đằng
trước, bóng con quỉ cái Tênácđiê. Đằng sau, tất cả những ma quái của đêm tối và
rừng rậm. Nhưng mà trước mặt đã có mụ Tênácđiê thì phải lùi. Thế là nó lộn trở
lại con đường ra suối và đâm đầu chạy. Nó chạy khỏi làng, nó chạy vào rừng,
chẳng còn nhìn gì, chẳng còn nghe thấy gì hết. Mãi đến lúc đứt cả hơi thở nó
mới thôi chạy, nhưng cứ đi mãi. Nó cứ tiến đi, hết cả hồn cả vía.
Nó vừa
chạy vừa muốn òa lên khóc.
Cảnh
rừng rậm ban đêm rì rào vây bọc lấy nó. Nó không nghĩ gì nữa mà cũng chẳng nhìn
thấy gì. Một đứa bé nhỏ xíu trước đêm tối bao la. Một bên là tất cả bóng tối;
một bên là một hạt bụi li ti.
Từ cửa
rừng vào đến suối, đi chỉ mất bảy, tám phút. Côdét ban ngày vẫn thường đi nên
thuộc đường. Có điều lạ là đêm tối như thế, hãi hùng như thế mà nó vẫn không
lạc. Hãy còn chút bản năng đưa đường cho nó. Nó có dám đưa mắt nhìn sang hai
bên đâu, sợ nhỡ trông thấy cái gì ở trên cành cây hay ở bụi rậm. Cứ thế mà nó
đến được suối.
Đây là
một cái lòng chảo thiên nhiên nhỏ, do nước xói mãi vào đất sét; vũng sâu chừng
sáu mươi phân, chung quanh, rêu và cỏ mọc, thứ cỏ cao, hoa tròn, thường gọi là
“cỏ cổ áo vua Hăngri IV”. Giữa mấy viên đá tảng, một dòng suối róc rách chảy
lặng lờ.
Côdét
không kịp thở nữa. Trời tối đen như mực, nhưng nó đã quen con suối này rồi. Tay
trái nó quờ quạng trong bóng tối tìm cây sồi nhỏ mọc ngả xuống suối, thường
ngày nó vẫn vịn vào đấy mà múc nước; nó nắm được một cành, bám chặt lấy, cúi
xuống và vục thùng xuống múc. Lúc ấy nó hăng hết sức nên khỏe gấp ba mọi ngày.
Lúc cúi xuống, nó không để ý đến cái túi tạp dề đang dốc ngược. Đồng mười lăm
xu rơi xuống nước, Côdét không trông thấy và cũng không nghe thấy tiếng rơi. Nó
kéo cái thùng nước gần đầy lên rồi đặt xuống bãi cỏ.
Xong
xuôi, nó mới thấy đã kiệt hơi. Nó cũng muốn về ngay nhưng nó đã dùng hết sức
lực để múc nước nên lê không nổi nước. Nó đành phải ngồi nghỉ. Nó gieo phịch
người xuống rồi ngồi xổm luôn trên bãi cỏ.
Nó nhắm
mắt lại, rồi mở mắt ra, không hiểu tại sao, mà cũng chẳng làm khác được.
Bên
cạnh, nước trong thùng sóng sánh vẽ thành những vòng tròn trông như những con
rắn bạc long lanh.
Trên
đầu, bầu trời phủ đầy mây đen bát ngát, trông như từng mảng khói. Cái khuôn mặt
thê thảm của bóng tối như nghiêng xuống đứa trẻ này.
Sao Mộc
đang lặn ở phương xa thăm thẳm.
Con bé
kinh hoàng nhìn ngôi sao to, lạ lùng kia. Ngôi sao lúc ấy đang đến sát chân
trời, xuyên qua làn sương đêm dày đặc, trông đỏ đòng đọc. Sương mù nhuốm một
màu đỏ ghê rợn làm cho ngôi sao to thêm ra. Giống như một vết loét ngời sáng.
Gió lạnh
từ đồng thổi vào. Rừng tối om! Không một tiếng lá sột soạt, không một gợn sóng,
thứ ánh sáng mờ mờ, mát mẻ những đêm mùa hạ. Các cành cây to dựng đứng trông
gớm chết. Mấy bụi cây gầy guộc, hình thù kỳ quặc đang rít gió ở ven rừng. Đám
cỏ cao vút nhung nhúc dưới làn gió thổi, như một đàn lươn. Những cây gai vặn
vẹo như những cánh tay dài nghêu có vuốt đang giơ ra bắt mồi; mấy cành khô gió
thổi cuốn nhanh qua như kinh hãi chạy trốn cái gì sắp tới. Tứ bề tòan là cảnh
mênh mông kinh khủng.
Bóng tối
làm cho choáng váng. Con người cần có ánh sáng. Kẻ nào đi vào chỗ không phải là
ánh sáng sẽ thấy lòng hồi hộp. Hễ mắt thấy mù mịt trí óc cũng thấy bàng hoàng.
Trong nguyệt thực, trong đêm đen, trong cảnh u ám khói muội, người bạo nhất
cũng có phần ngại ngùng. Không ai đi trong rừng đêm mà không run rẩy. Bóng đêm
và cây cối là những khối đáng sợ. Một hiện thực kỳ ảo mọc ra từ cõi mập mờ sâu
thẳm. Cái không tưởng tượng được sẽ hình thành cách anh mấy bước rõ ràng như
bóng ma. Anh sẽ thấy lung linh trong không gian hay trong đầu óc, một cái gì
mập mờ vô định như những đóa hoa nhìn thấy trong mơ. Phía chân trời có những
bóng dáng dữ tợn. Anh hít thở từng luồng gió từ khoảng không đen tối. Anh thấy
sợ và muốn nhìn ra phía sau. Những hốc đêm, những đồ vật trở nên bơ phờ, những
hình bóng lặng lẽ tan biến khi anh bước tới, những dáng điệu rũ rượi lờ mờ,
những bụi bờ giận dữ, những đầm vũng nhờ nhờ, hình ảnh ảm đạm phản chiếu trong
cảnh tang ma, cảnh vắng lặng mênh mông của hầm mộ, những sinh linh bí ẩn, những
cành lá huyền bí nghiêng mình, những thân cây dễ sợ, những bụi cỏ rùng mình mãi
không thôi. Trước tất cả những cái ấy, anh không có gì che chở, gan lì mấy cũng
không tránh khỏi giật mình, cũng thấy mình sắp hoảng loạn. Anh cảm thấy có cái
gì gớm ghiếc như thể linh hồn anh nhập vào bóng tối. Trạng thái nhập vào bóng
tối đó rất thảm hại đối với trẻ con.
Cảnh
rừng là cảnh tận thế. Và cái đập cánh của một linh hồn bé bỏng dội lên như một
tiếng hấp hối dưới vòm cây lá bao la.
Côdét
không hiểu được cái cảm giác của mình lúc ấy, nhưng nó cảm thấy cả cái khối to
lớn, đen ngòm của vũ trụ đang túm chặt lấy nó. Không phải nó chỉ thấy khủng
khiếp, nó thấy cái gì khủng khiếp hơn cả sự khủng khiếp. Nó rùng mình. Một cái
rùng mình lạ lùng lạnh thấu tâm can, không chữ nào tả xiết. Con mắt nó hãi
hùng. Nó như cảm thấy cũng đến giờ này ngày hôm sau nó không thể nào không trở
lại chỗ này được.
Bấy giờ,
như một thứ bản năng xui khiến để thoát khỏi cái trạng thái dị kỳ, khó hiểu mà
nó khiếp sợ đó, nó bèn cất tiếng rõ to đếm một, hai, ba, bốn đến mười; đếm
xong, nó lại đếm nữa. Lúc ấy nó mới hoàn hồn, nhận rõ sự vật quanh mình. Nó
thấy tay nó lúc múc nước bị ướt nên rét cóng. Nó đứng dậy. Nó lại thấy sợ, cái
sợ tự nhiên, không sao tránh được. Nó chỉ có một ý nghĩ là chạy trốn; ba chân
bốn cẳng mà chạy, chạy qua rừng, qua cánh đồng, một mạch đến tận nơi có nhà, có
cửa sổ, có đèn thắp sáng. Nó chợt nhìn thấy, cái thùng nước trước mặt. Nghĩ đến
mụ Tênácđiê, nó lại sợ hơn, không dám bỏ thùng nước đấy mà chạy. Nó phải lấy cả
hai tay mà nắm quai thùng. Thùng nước nặng, ì ạch mãi mới xách nổi.
Đi được
hơn chục bước, nó lại phải đành lòng đặt thùng nước xuống đất; thùng đầy nước,
nặng quá. Nó đứng thở một lát, rồi lại nhấc thùng lên, lại đi: lần này thì được
một thôi dài hơn. Nhưng rồi lại phải dừng lại nữa. Nghĩ vài giây, lại đi. Trông
nó như một bà già, đi thì còng về đằng trước, đầu cúi xuống. Thùng nước nặng
quá, cánh tay gầy gò cứ thẳng căng và cứng đờ ra. Cái quai sắt làm cóng nốt hai
bàn tay nhỏ bé ướt đẫm nước. Chốc chốc nó lại phải đứng lại; mỗi lần đứng lại
thì nước lạnh trong thùng lại sóng ra, chảy vào hai chân giẫm đất. Giữa rừng
thẳm, giữa đêm tối, mùa rét, xa con mắt của mọi người và đứa bé mới lên tám
tuổi đầu. Lúc ấy, họa chăng có trời mới nhìn thấy cái cảnh bi thảm ấy.
Và, than
ôi! Có lẽ cả vong hồn mẹ nó nữa.
Vì ở đời
có những cảnh ngộ làm cho người chết ở dưới mồ cũng phải mở mắt ra mà nhìn.
Nó thở
như rên siết, nghe đau đớn lắm. Tiếng khóc dâng lên nghẹn cổ; nhưng nghĩ đến mụ
Tênácđiê, nó không dám khóc to, dù không có mụ ở đấy. Lúc nào nó cũng tưởng như
mụ Tênácđiê ở ngay trước mặt.
Cứ thế,
nó không đi được bao đường đất; nó đi chậm lắm. Lúc nghỉ thì rõ ít, mà đi thì
rõ lâu; nhưng cũng chẳng ăn thua gì. Có lẽ phải hơn tiếng đồng hồ mới đến
Môngphecmây rồi thế nào mụ Tênácđiê cũng đánh đòn; nghĩ thế, nó càng khiếp. Đã
khiếp lại thêm hoảng sợ, một thân trơ trọi ban đêm giữa rừng sâu. Nó đã mệt lử
người mà vẫn chưa ra khỏi rừng. Đến gần một gốc cây dẻ cổ thụ nó quen lắm, nó
dừng lại lâu hơn mọi lần để nghỉ một làn cuối cùng cho thật khỏe, rồi nó thu
hết sức lực, xách lấy thùng nước, lại can đảm bước đi. Tuy vậy, con người bé
bỏng tuyệt vọng ấy không khỏi buột miệng kêu: “Trời ơi là trời!”
Đúng lúc
ấy, nó thấy thùng nước tự nhiên nhẹ bỗng đi. Một bàn tay có lẽ to lớn lắm vừa
nắm lấy quai thùng và nhấc lên rất mạnh. Nó ngẩng đầu lên. Một bóng đen to lớn,
đứng thẳng, đang đi bên nó, trong bóng tối. Người ấy là một người đàn ông, đi
sau nó, đến gần nó lúc nào nó không biết. Người ấy chẳng nói chẳng rằng, nắm
lấy quai thùng nó đương xách.
Trên
đời, mỗi lần gặp gỡ, vẫn có cái linh tính nó báo trước dữ lành. Con bé không
thấy sợ.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 3 - Chương 6
CÓ LẼ BULATƠRUYEN CŨNG THÔNG MINH THẬT
Xế chiều
ngày lễ Giáng sinh năm 1823, có một người tha thẩn rất lâu ở quãng đường vắng
vẻ đại lộ Nhà thương ở Paris. Người ấy như muốn tìm một chỗ ở thuê và hình như
có ý chọn những nhà nào tầm thường nhất ở xóm ngoài vùng ngoại ô Xanh Mácxô.
Đọan sau
ta sẽ biết, người ấy đã thuê được một căn buồng ở cái xóm hẻo lánh này.
Trông
cách ăn mặc và bộ điệu, có thể thấy người ấy là hình ảnh của hạng ăn mày tử tế,
nghèo xác xơ nhưng vẫn cố giữ được hết sức tinh tươm. Người ấy là một người rất
nghèo khổ, lại là người biết giữ tư cách, hai điều đó khiến cho những kẻ thông
minh đĩnh ngộ phải thêm phần kính trọng. Người ấy đội một cái mũ tròn rất cũ và
chải rất kỹ, mặc một cái áo khoác bằng da thô đã sờn đến tận lần trong, màu
vàng gạch, là màu quen mắt thủa ấy; một cái ghi lê rộng, túi may kiểu rất xưa;
cái quần đen, hai đầu gối đã bạc phếch, đôi bít tất len màu đen và đôi giày thô
cài khuy đồng. Nom như một gia sư cũ ở nhà quý phái mới hồi cư. Cứ nhìn mái tóc
bạc phơ, cái trán nhăn nheo, hai môi tái ngắt, khuôn mặt nhọc nhằn, chán nản sự
đời, người ta đoán có lẽ lão đã ngoài sáu mươi. Song nhìn cái dáng đi tuy chậm
chạp nhưng chắc chắn, những điệu bộ mạnh mẽ lạ thường, thì người ta đồ chừng
lão ta chỉ mới độ năm mươi. Mấy nếp nhăn trên trán thật đúng chỗ, khiến ai nhận
xét kỹ lão cũng phải nể. Môi thì mím lại thành một nếp kỳ lạ, vừa nghiêm nghị
vừa khiêm nhường. Con mắt nhìn thì trong suốt mà não nùng. Người ấy tay trái
xách một gói nhỏ buộc trong chiếc khăn mùi xoa, tay phải chống một cái gậy chặt
ở một hàng cây làm rào. Cái gậy gọt đẽo cẩn thận, trông không đến nỗi tồi lắm;
các đốt đều được sửa cho đẹp thêm, chỗ nắm tay thì bằng xi đỏ giả san hô; chính
ra là cái dùi cui, nhưng ra vẻ một cái gậy.
Con
đường này vốn vắng người qua lại, nhất là về mùa rét. Người ấy hình như còn cố
tránh mọi người chứ không muốn gần một ai.
Thuở ấy,
vua Lui XVIII ngày nào cũng xa giá tới Soadilơroa; ngài lại ưa đi con đường
này. Cứ vào hai giờ chiều, ít khi sai, thì xa giá và đoàn kỵ mã phóng nhanh
trên đường phố Nhà thương.
Các chị
dân nghèo trong khu phố, nhờ thế mà biết giờ khắc. Các chị bảo nhau:
- Hai
giờ rồi đấy, người ta đi về điện Tuylơri kia.
Người
này chạy đến, kẻ kia tránh đi. Một nhà vua đi qua chẳng bao giờ chẳng gây một
sự náo động. Vả lại vua Lui XVIII hiện ra hay biến đi cũng có ảnh hưởng phần
nào đối với đường phố Paris. Đoàn xa giá đi rất nhanh, nhưng uy nghi đường bệ.
Ông vua bại liệt ấy lại thích phi nước đại. Không bước được, ngài chỉ muốn
chạy. Tuy què liệt, ngài muốn đằng vân. Hiền hòa, nghiêm trang, ngài lướt qua
cùng với một rừng gươm tuốt vỏ. Cỗ loan xa nặng thiếp vàng, điểm hoa huệ, lăn
đi rầm rộ. Người ta chỉ kịp nhìn thoáng qua một cái. Trong góc xe bên phải, một
người ngồi tựa chồng gối bọc xa-tanh trắng, mặt to, chắc, hồng hào, trán tươi mát
điểm phấn, con mắt tự phụ, tinh vi mà vô tình, nụ cười học giả, hai vai có hai
ngù lớn tỏa tua xuống bộ quần áo không lòe loẹt, trên ngực có đủ huân chương và
bội tinh cao cấp, một cái bụng phệ có băng choàng xanh vắt ngang. Vua đấy. Ra
khỏi Paris thì ngài lấy mũ xuống để trên đầu gối, mũ ngài cắm lông vũ trắng,
chân ngài mang giầy ghệt Anh cao. Vào thành thì ngài đội mũ, nhưng ít khi chào.
Ngài nhìn dân chúng lạnh lùng, lạnh lùng dân chúng nhìn lại ngài. Khi ngài xuất
hiện ở khu phố Xanh Mắcxô lần đầu, uy tín của ngài tóm tắt trong câu của anh
dân ngoại ô này nói với bạn: “Cái ông béo phị ấy là cả triều đình đó”.
Xa giá
nhà vua cứ đúng giờ ấy đi qua phố Nhà thương, ngày nào dân phố cũng quen lệ ấy.
Người đi
dạo mặc áo vàng hẳn không phải là người khu này và có lẽ không phải là người
Paris, nên không biết việc trên. Lúc hai giờ, khi xa giá có đoàn thị vệ cưỡi
ngựa vây quanh, từ Xanhpêtơrie rẽ vào đường này thì người ấy có vẻ ngạc nhiên
và gần như sợ hãi. Bên lề đường chỉ độc có lão; lão vội núp sau một bức tường,
nhưng công tước Đavrê cũng kịp trông thấy. Vì là chỉ huy trưởng trực ban của
đội cấm quân, công tước ngồi đối diện nhà vua. Ông nói: “Tên kia khả nghi”.
Những viên cảnh sát đi dẹp đường cũng để ý đến lão; một người được lệnh theo
dõi. Nhưng người lạ mặt đã lẩn vào những phố vắng vẻ trong khu; lúc ấy trời bắt
đầu tối nên người cảnh sát đành để mất hút.
Ngay tối
hôm đó người ta gửi báo cáo lên bá tước Ănggletx, bộ trưởng bộ an ninh về việc
ấy.
Khi
người mặc áo vàng đánh lạc đường viên cảnh sát rồi, lão bèn rảo cẳng đi, chốc
chốc lại ngoái cổ nhìn lại xem có ai theo mình không. Đến bốn giờ mười lăm, tức
là lúc trời đã tối hẳn, lão đi qua rạp hát của ô Xanh Mactanh hôm ấy diễn kịch
Hai tên tù khổ sai. Tờ quảng cáo để ngay dưới ngọn đèn rạp hát làm lão phải chú
ý; tuy đang vội đi, lão cũng dừng lại để đọc. Một lát sau, lão đi vào cái ngõ
cụt Lapơlăngsét, tìm đến quán “Cái đĩa thiếc” là nơi bấy giờ đặt buồng giấy của
hãng xe chạy Lanhi. Đến bốn rưỡi thì xe chạy. Ngựa đã đóng cương đâu đấy; nghe
tiếng người đánh xe gọi, hành khách hấp tấp leo lên chiếc thang cao bằng sắt.
Người ấy
hỏi:
- Còn
chỗ không bác?
Người
đánh xe đáp:
- Chỉ
còn một chỗ thôi, cạnh tôi đây này.
- Được,
để cho tôi.
- Lên
ngay đi.
Nhưng,
trước khi xe chạy, người đánh xe đưa mắt nhìn bộ quần áo tồi tàn của khách và
cái gói nhỏ xíu rồi đòi tiền. Anh ta hỏi:
- Ông đi
tận Lanhi chứ?
- Phải.
Khách
trả lời rồi trả tiền xe đến Lanhi.
Xe chạy.
Qua cửa ô rồi, người đánh xe thử bắt chuyện, nhưng khách chỉ trả lời gióng một.
Anh ta đành huýt sáo miệng và cứ quát ngựa chạy.
Người
đánh xe trùm kín áo tơi. Trời lạnh. Khách hình như không lưu ý tới. Cứ thế, xe
chạy qua Guôcnay và Nơiyxuya Mác.
Độ sáu
giờ tối thì đến Senlơ. Người đánh xe cho xe dừng lại để ngựa nghỉ ngơi, xe đỗ
trước cửa quán ăn của phu xe tải, nguyên trước kia là nhà tu kín. Người lạ mặt
bảo:
- Tôi
xuống đây.
Rồi cầm
lấy cái gói và cái gậy, nhảy xuống đất!
Chỉ một
lát là lão biến mất!
Lão
không vào hàng ăn.
Mấy phút
sau, xe lại chạy trên con đường đi Lanhi, nhưng cũng không thấy lão ở phố chính
thành Senlơ.
Người
đánh xe quay lại nói với hành khách ngồi trong xe:
- Lão ấy
không phải người vùng này, nếu phải tôi đã biết. Coi bộ không có một xu thế mà
chả thiết gì đến tiền. Trả thì trả đến tận Lanhi, mà đến Senlơ đã xuống. Khuya
rồi, nhà nào nhà nấy đóng cửa im lìm thế mà lại không vào hàng trọ và cũng
chẳng thấy đâu cả. Thế thì chẳng độn thổ thì còn đi đâu.
Khách
không độn thổ mà lại vội vã đi qua phố chính thành Senlơ, trong đêm tối; rồi
chưa đến nhà thờ đã rẽ sang trái, tạt vào con đường hẻm đi Môngphecmây, y như
một người đã quen vùng này lắm và đã đến đây nhiều lần rồi.
Khách đi
rất nhanh. Lúc đến chỗ ngã tư, nơi con đường hẻm gặp con đường cũ đi từ Ganhi
đến Lanhi, hai bên có cây, lão nghe có tiếng người đang đi lại. Lão vội vàng
núp xuống cái rãnh, đợi cho bọn kia đi khuất. Kể cẩn thận như thế cũng là thừa
vì đêm nay là đêm tháng chạp, trời đen như mực. Trên trời thấp thoáng chỉ hai
ba ông sao.
Chỗ ấy
bắt đầu lên cái dốc khu đồi. Lão không rẽ vào con đường đi Môngphecmây; lão
quặt sang tay phải, đi tắt qua quãng đồng và vội vã vào khu rừng.
Vào đến
rừng, lão đi chậm lại; lão nhìn kỹ từng gốc cây, đi từng bước một như tìm kiếm
và đi theo một con đường bí mật chỉ một mình lão biết. Có lúc hình như lão lạc
mất hướng nên đứng lại, tần ngần. Sau cùng, lần mò mãi mới tới một khu rừng
thưa có một đống đá lớn trăng trắng. Lão vội vàng đến gần đống đá, xem xét kỹ
lưỡng qua làn sương đêm, như để điểm qua từng hòn một. Cách đống đá chừng mấy
bước, có một gốc cây lớn vỏ xù xì những mấu. Lão đến gần gốc cây, lấy tay lần
trên vỏ như để nhận ra và đếm từng mấu sứt trên thân cây.
Cây ấy
là cây tần; trước mặt, có một cây dẻ có chỗ bong vỏ nên người ta lấy miếng kẽm
đóng vào để băng bó. Lão kiễng chân lên rồi lấy tay sờ miếng kẽm.
Lão lấy
chân giậm khoảng đất giữa gốc cây và đống đá một lúc như là để xem xét có ai
mới đào bới gì chỗ ấy lên không.
Xong
xuôi, lão định lại phương hướng rồi lại xuyên rừng mà đi.
Người ấy
là người vừa gặp con Côdét.
Thì ra
lúc người ấy len lỏi qua rừng đi về phía Môngphecmây, chợt trông thấy một cái
bóng bé nhỏ vừa nhúc nhích đi vừa rên rỉ rồi đặt cái gì nặng xuống đất, lại
xách lấy, lại đi. Người ấy tiến đến gần, nhận ra là một đứa bé tí tẹo mà lại
xách một cái thùng to tướng. Người ấy bèn đến gần đứa bé, lẳng lặng xách lấy
quai thùng nước.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 3 - Chương 7
CÔDÉT ĐI CẠNH NGƯỜI LẠ TRONG BÓNG TỐI
Như trên
đã nói, Côdét không sợ.
Người ấy
bắt chuyện với nó; ông nói khẽ, hầu như thầm thì:
- Này
cháu, cháu xách cái này chắc nặng lắm nhỉ?
Côdét
ngẩng đầu lên đáp:
- Thưa
ông, vâng.
Người ấy
lại tiếp:
- Đưa
đây, ông mang đỡ cho.
Côdét
buông tay ra. Người kia đi từ từ bên cạnh, nói khe khẽ:
- Nặng
thật.
Rồi
người ấy bảo:
- Cháu
lên mấy?
- Thưa
ông, lên tám.
- Cháu
đi từ đâu, có xa không?
- Cháu ở
suối về, trong rừng kia.
- Nhà
cháu còn xa nữa không?
- Đi độ
mười lăm phút nữa thì đến.
Người lạ
mặt im lặng một lúc rồi đột nhiên hỏi:
- Thế
cháu không còn mẹ ư?
Đứa bé
trả lời:
- Cháu
không biết.
Không
đợi người kia kịp nói, nó tiếp luôn:
- Hình
như không có. Đứa nào cũng có mẹ, mà cháu thì không có.
Một lát
sau, nó lại nói:
- Hình
như trước kia cũng không có.
Người lạ
dừng lại, đặt thùng nước xuống đất, cúi xuống đất, cúi xuống rồi đặt hai tay
lên vai con bé: người ấy cố nhìn kỹ nó, nhìn tận mặt nó trong bóng tối.
Khuôn
mặt gầy gò, quắt queo của Côdét mờ mờ dưới ánh sáng nhợt nhạt của bầu trời.
Người kia hỏi:
- Tên
cháu là gì?
- Côdét.
Người ấy
như bị điện giật; lão nhìn kỹ nó lượt nữa rồi tay buông vai con bé, lại xách
thùng nước, cất bước đi.
Một lúc
sau lão hỏi:
- Bé
này, nhà cháu đâu?
- Ở
Môngphecmây, ông có biết không?
- Bây
giờ cháu về đấy phải không?
- Thưa
ông, vâng.
Ngừng
một lát, lão lại hỏi:
- Ai sai
cháu vào rừng lấy nước khuya thế này?
- Bà
Tênácđiê ạ.
Người lạ
cố hết sức lấy giọng tự nhiên mà hỏi, song nghe như có vẻ run run khác thường:
- Bà
Tênácđiê nhà cháu làm gì?
Con bé
đáp:
- Bà ấy
là bà chủ cháu. Nhà bán quán.
- Quán
à? Thế thì ta lại đấy trọ đêm nay. Cháu dẫn ta lại nhé.
- Đi
đường này đấy ạ.
Người lạ
đi khá nhanh. Côdét nhanh nhẹn theo sau. Nó không thấy mệt nữa. Thỉnh thoảng nó
lại ngước mắt nhìn người ấy, ra vẻ bình tĩnh và tin cậy vô cùng. Chưa ai dạy nó
ngước lên Chúa và cầu nguyện bao giờ. Thế mà lúc này nó cảm thấy có cái gì
giống như niềm hy vọng và nỗi sung sướng được hướng về Thượng đế.
Mấy phút
trôi qua. Người kia lại hỏi:
- Nhà bà
Tênácđiê không mượn người ở à?
- Thưa
không ạ.
- Chỉ có
một mình cháu thôi ư?
- Vâng
ạ.
Lại im
lặng. Côdét lên tiếng:
- Cũng
còn hai đứa con gái nữa.
- Hai
đứa nào?
- Con
Pônin với con Denma.
Côdét
gọi gọn như vậy hai cái tên đặc tiểu thuyết mà mụ Tênácđiê đặt cho con:
- Pônin
với Denma là ai?
- Là hai
cô nhà bà Tênácđiê. Con gái bà chủ đấy.
- Hai cô
ấy làm gì?
- Ấy,
các cô có những con búp bê đẹp ghê, cả những vật có vàng nữa, bao nhiêu thứ.
Các cô ấy được chơi, được nô đùa.
- Cả
ngày à?
- Vâng
ạ.
- Thế
cháu?
- Cháu
thì bận, cháu làm việc.
- Suốt
ngày à?
Con bé
ngước đôi mắt to, long lanh giọt nước mắt, tối quá không trông thấy. Nó dịu
dàng đáp:
- Vâng
ạ.
Lặng im
một lát, nó lại tiếp:
- Cũng
có khi làm lụng xong xuôi đâu đó mà được phép thì cháu cũng chơi.
- Cháu
chơi gì?
- Chơi
gì thì chơi. Người ta mặc cháu. Nhưng làm gì có lắm đồ mà chơi. Con Pônin với
con Denma không cho cháu chơi chung búp bê. Cháu chỉ có một thanh gươm bằng
chì, dài bằng này.
Con bé
xòe ngón tay út ra.
- Thế
không cắt được chứ?
- Có ông
ạ… cắt được lá rau và đầu ruồi.
Đã đến
đầu làng. Côdét dẫn người kia qua các phố. Qua cửa hàng bánh nhưng Côdét quên
bẵng phải mua bánh về cho mụ chủ. Người lạ không hỏi chuyện nó nữa, cứ lầm lì
đi. Vừa đi khỏi nhà thờ, người ấy thấy tất cả những quán dựng ngoài trời, liền
hỏi Côdét:
- Ở đây
mở chợ phiên đấy à?
- Không
ạ. Lễ Giáng sinh đấy ạ.
Gần đến
quán ăn, Côdét khẽ sờ tay người kia:
- Thưa
ông…
- Gì thế
cháu?
- Gần
đến nhà rồi.
- Thế
thì làm sao?
- Bây giờ
ông cho cháu xin lại cái thùng nước.
- Sao
thế?
- Cháu
chỉ sợ bà chủ trông thấy có người xách hộ, cháu lại phải đòn.
Người
kia đưa thùng cho nó. Chỉ một lát sau đã đến cửa hàng ăn.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 3 - Chương 8
PHẢI TIẾP TRONG NHÀ MỘT KẺ NGHÈO MÀ CÓ LẼ GIÀU THÌ THẬT
PHIỀN
Côdét
không thể không đưa mắt liếc nhìn con búp bê to vẫn bày ở cửa hàng bán đồ chơi,
rồi mới gõ cửa. Mụ Tênácđiê ló ra, tay cầm ngọn đèn:
- Ra con
ranh! Gớm nhỉ, đi sao mà lâu thế! Chắc còn la cà chơi đâu, con nỡm!
Côdét
run lẩy bẩy đáp:
- Thưa
bà, có ông này hỏi trọ.
Mụ
Tênácđiê mặt đang hầm hầm liền nhăn nhở lấy lòng khách: thói thường đám nhà
hàng ăn xưa nay vẫn đổi thay như thế. Mụ hau háu con mắt tìm xem ai đến. Mụ
hỏi:
- Ông
này phải không?
Người lạ
để tay lên mũ đáp:
- Thưa
bà, vâng.
Khách
giàu làm gì có người lễ phép đến thế. Cứ cái cử chỉ ấy và quần áo cùng hành lý
của khách, mụ Tênácđiê chỉ thoáng nhìn một lượt là đổi ngay nét mặt đon đả trở
lại hầm hầm giận dữ. Mụ nhạt nhẽo nói:
- Ông
già, vào đi.
“Ông
già” bước vào. Mụ Tênácđiê đưa mắt nhìn lượt thứ hai. Mụ đặc biệt nhìn kỹ cái
áo khoác ngoài đã sờn hết, cái mũ đã bẹp, rồi mụ hất đầu, nhăn mũi và nháy mắt
ra hiệu hỏi ý chồng; gã Tênácđiê vẫn đang ngồi uống rượu với bọn phu xe. Hắn
trả lời bằng cách máy máy nhẹ ngón tay trỏ, môi thì phều ra một tí, có nghĩa
là: khách kiết. Thấy vậy, mụ bèn lên tiếng:
- À, thế
này, bác ạ, thật không phải, nhà hết chỗ cả rồi.
- Tôi
nằm đâu cũng được, có chỗ gác xép hay ngoài chuồng ngựa cũng được; rồi tôi cũng
cứ trả như trả một phòng.
- Bốn
mươi xu cơ đấy.
- Bốn
mươi xu. Được.
- May
chưa!
Một
người phu xe nói khẽ với mụ Tênácđiê:
- Bốn
mươi xu cơ à? Tưởng chỉ hai mươi xu thôi chứ?
Mụ cũng
khẽ đáp:
- Hắn
thì bốn mươi xu. Hạng nghèo không bao giờ tôi lấy kém.
Thằng
chồng nhẹ nhàng nói thêm:
- Ấy,
chứa những đồ ấy chỉ tổ bẩn nhà.
Khách để
khăn gói và cái gậy xuống ghế dài rồi ngồi vào bàn; con Côdét vội vàng đem đến
một chai rượu vang và một cái cốc. Người lái buôn đòi nước lúc nãy tự tay xách
thùng ra cho ngựa uống. Côdét lại chui xuống gầm bàn bếp, ngồi đan.
Khách
rót rượu ra cốc nhưng chỉ nhấp có một tí rồi chăm chú nhìn con bé.
Côdét
trông xấu quá. Giá mà nó được sung sướng, chắc nó cũng xinh. Chúng tôi đã phác
qua cái khuôn mặt âu sầu bé nhỏ ấy. Côdét gầy và xanh; nó lên tám mà nom như
mới lên sáu. Mắt nó to, sâu lõm vào; nó khóc lắm nên mắt dại hẳn đi. Hai bên
mép có nếp nhăn, dấu hiệu của sự khủng khiếp thường xuyên, thường thấy trên nét
mặt những kẻ tù tội hoặc những kẻ ốm đau đã tuyệt vọng. Hai bàn tay thì nứt nẻ.
Ánh lửa lúc này chiếu vào nó, làm nổi rõ những đầu xương, thân hình gầy guộc
của nó càng thêm ghê sợ. Lúc nào nó cũng rét run cầm cập, nên hai đầu gối nó ép
sát vào nhau đã thành thói quen. Quần áo thì độc một manh, mà đã rách nát, mùa
nực trông rất thương tâm, mùa rét thì đến phát khiếp. Không một mụn len, rặt
những mảnh vải rách mướp. Hở cả da thịt từng quãng, trông rõ cả những vệt đen,
vệt tím do những trận đòn của mụ Tênácđiê để lại. Hai cẳng khẳng khiu và mẩn đỏ
chẳng có gì che đậy. Hai vai gầy lõ xương, trông đến rớt nước mắt. Tất cả người
con bé ấy, từ cách đi đứng, dáng điệu, đến giọng nói, lời nói ấp a ấp úng, con
mắt nhìn, sự im lặng, cử chỉ rụt rè, tất cả đều nói lên và diễn tả một điều: sự
sợ hãi.
Sợ hãi
thấm đầy người nó, trùm lên nó. Sợ hãi như có sức gì khép chặt khuỷu tay nó vào
hai đùi, thu gót chân nó vào trong váy, co rúm người nó lại cho khỏi tốn chỗ,
nín hơi không dám thở mạnh; nó sợ quá, nên nó đã nhiễm cái thói quen ấy, mỗi
ngày một co rúm thêm. Trong khóe mắt, còn có một tia kinh sợ.
Nó sợ quá,
đến nỗi về đến nhà, ướt át là thế mà nó cũng không dám lại gần lửa mà hơ; nó
lẳng lặng bắt tay vào việc. Nó mới lên tám tuổi đầu, mà con mắt nhìn lúc nào
cũng âm thầm, đôi khi sầu thảm quá, nên có lúc tưởng như nó sắp hóa dại hay
thành con quái vật.
Như ta
đã biết, bình sinh nó chưa hề biết cầu nguyện là thế nào, chưa từng bước chân
vào nhà thờ bao giờ. Mụ Tênácđiê thường bảo: “Thời giờ đâu?”
Người
mặc áo khoác vàng vẫn đăm đăm nhìn Côdét.
Bỗng mụ
Tênácđiê tru tréo:
- Ơ kìa,
thế bánh đâu?
Cứ quen
lệ, mỗi lần mụ Tênácđiê the thé lên tiếng, con bé lại chui cho nhanh ra khỏi
gầm bàn.
Nó quên
khuấy việc mua bánh; nó lại dùng đến cái kế của những đứa trẻ lúc nào cũng
khiếp sợ. Nó nói dối:
- Thưa
bà, hiệu bánh đóng cửa rồi ạ.
- Phải
đập vào cửa ấy chứ.
- Thưa
bà con có đập.
- Thế
sao?
- Người
ta không mở.
- Để mai
tao hỏi xem có thật không. Mày mà nói dối thì liệu hồn. Bây giờ hãy trả tao
đồng mười lăm xu đây.
Côdét
thọc tay vào túi tạp dề; bỗng nó tái xanh người. Mất đồng mười lăm xu rồi. Mụ
Tênácđiê bảo:
- Hừ,
tao bảo gì, mày có nghe thấy không?
Côdét
lộn túi áo, chẳng có gì. Không biết tiền nó đi đằng nào? Khốn nạn, con bé không
còn biết nói sao. Nó ngây như phỗng.
Mụ
Tênácđiê rên lên:
- Mày
đánh mất đồng mười lăm xu rồi à? Hay là mà định ăn cắp của tao, con kia?
Vừa nói,
mụ vừa tay với cái roi da treo trên lò sưởi.
Trông
thấy mụ hùng hổ như thế, Côdét bật kêu lên:
- Con
lạy bà, con lạy bà, bà tha cho con, con chừa rồi.
Mụ
Tênácđiê tháo cái roi ra.
Lúc ấy,
người mặc áo khoác vàng móc túi áo ghi lê mà không ai để ý tới. Vả lại những
người khác còn mải uống rượu, đánh bài, có ai để ý đến cái gì đâu.
Côdét
khiếp đảm thu hình lại, ở góc lò, co rúm chân tay trần trụi lại, hòng giấu đi.
Mụ Tênácđiê vừa giơ roi thì người kia nói:
- Xin
lỗi bà. Lúc nãy tôi vừa thấy cái gì ở túi con bé rơi ra rồi lăn vào đây. Hay là
đồng hào đấy.
Vừa nói,
khách vừa cúi xuống, vờ tìm dưới đất một lúc, rồi ngẩng lên:
- Đúng
rồi. Đây bà này.
Rồi ông
ta đưa một đồng hào cho mụ Tênácđiê. Mụ nói:
- Phải,
phải rồi.
Nhưng
nào có phải, đồng này là đồng hai mươi xu; nhưng mụ thấy có lời. Mụ bỏ đồng
tiền vào túi đành quắc mắt lườm con bé mà bảo:
- Dù
vậy, từ giờ cũng phải chừa, nghe không?
Côdét
lại chui vào cái chỗ mụ Tênácđiê gọi là “ổ chó”; mắt nó mở to nhìn mãi người
khách lạ; con mắt bắt đầu như có một ánh gì lạ lùng từ xưa chưa từng có. Mới
chỉ là một nỗi ngạc nhiên thơ ngây nhưng có lẫn một niềm tin thảng thốt.
Mụ
Tênácđiê hỏi khách:
- Này
bác, bác có ăn tối không?
Khách
không trả lời, hình như đang mải mê nghĩ ngợi gì. Mụ lẩm bẩm:
- Hạng
người gì thế này? Chắc là một gã kiệt xác. Làm quái gì có tiền mà ăn. Chẳng
biết có tiền mà trả tiền trọ không. Nhưng cũng may mà hắn không nổi lòng tham
mà ăn cắp đồng tiền rơi dưới đất.
Lúc ấy,
cửa bên mở. Epônin và Adenma chạy vào.
Hai đứa
bé gái đẹp thật; chúng nó ra vẻ thành thị chứ không quê mùa, rất xinh; một đứa
tóc tết chải bóng màu hạt dẻ; một đứa tóc đen nhánh tết đuôi sam, bỏ xõa sau
lưng; cả hai đứa đều nhanh nhẹn, sạch sẽ, mũm mĩm, tươi tắn, khỏe mạnh, nhìn
rất thích mắt. Hai đứa cùng mặc áo rất ấm, nhưng nhờ có bàn tay khéo léo của
người mẹ, nên vải tuy dày mà mặc vẫn sát sóng và duyên dáng. Mặc phòng đông mà
vẫn không mất vẻ xuân tươi. Hai con bé như tỏa ra ánh sáng. Chúng nó lại còn
cái vẻ trị vì nữa. Cứ trông bộ cánh, cách nô đùa ầm ĩ cũng đủ thấy chúng nó là
những bà chúa trong nhà. Thấy con chạy vào, mụ Tênácđiê mắng yêu chúng nó:
- À! Ra
hai cô đấy ư?
Rồi mụ
kéo từng đứa một vào lòng, lấy tay vuốt tóc chúng nó, buộc lại cái băng cho
chúng nó, rồi buông chúng nó ra, vừa buông vừa đẩy một cách âu yếm, miệng nói:
- Các
con tôi ăn với mặc lôi thôi quá!
Hai đứa
nhỏ đến ngồi bên cạnh bếp lửa. Chúng nó có một con búp bê đặt trên đùi, hết lật
qua lật lại, bi bô với nhau rất vui vẻ. Côdét thỉnh thoảng bỏ đan ngẩng lên
nhìn hai đứa, nét mặt thiểu não.
Epônin
và Adenma thì không nhìn đến Côdét. Chúng coi Côdét cũng như con chó trong nhà.
Cả ba đứa cộng tuổi lại chưa đầy hai mươi tuổi, nhưng tiêu biểu được cho tất cả
xã hội loài người; một bên là thèm muốn, một bên là khinh rẻ.
Con búp
bê của hai chị em nó đã cũ, bạc phếch cả ra, già nua, còm cõi, nhưng Côdét vẫn
thấy đẹp lắm; cả đời nào nó có được một con búp bê, một con búp bê thật bao giờ
- ấy là chúng ta dùng cái tiếng của trẻ con, đứa nào cũng hiểu.
Bất chợt
mụ Tênácđiê đang đi đi lại lại trong nhà trông thấy Côdét lơ đãng nhìn hai đứa
bé kia chơi, bỏ cả việc. Mụ thét:
- À, quả
tang nhé. Mày làm ăn thế à? Để tao quất cho mấy roi vào xác rồi mới chịu làm,
hả!
Khách lạ
vẫn ngồi trên ghế, quay lại mụ Tênácđiê mỉm cười có vẻ rụt rè và nói:
- Chà!
Thưa bà, cứ để cho cháu nó chơi.
Giá mà
câu nói ấy là ở miệng một ông khách đã gọi một khoanh đùi lợn và hai chai rượu
vang, mà đừng có cái vẻ kiết xác thì đã là một cái lệnh đấy. Nhưng đằng này,
một người đội cái mũ như thế kia lại muốn thế này thế khác, một người mặc cái
áo khoác không ra áo khoác như thế kia lại dám yêu cầu này nọ thì mụ Tênácđiê
chịu sao nổi. Mụ gay gắt đáp:
- Nó ăn
thì nó phải làm chứ. Ai nuôi không nó được?
- Thế
cháu nó làm gì đấy ạ.
Giọng
khách nói ôn tồn, trái hẳn lại với bộ đồ ăn mày và cái dáng vai u thịt bắp của
mình.
Mụ
Tênácđiê hạ cố trả lời:
- Đan
bít tất đấy, chứ còn làm gì. Đan cho hai con tôi, hai đứa không có bít tất, lúc
nãy chả đi chân không đấy thôi.
Khách
nhìn xuống đôi chân mẩn đỏ của Côdét, lại hỏi:
- Đôi
này, cháu nó đan bao giờ mới xong?
- Nó lại
không dây ra ba, bốn ngày nữa à, cái con lười ấy!
- Thế
đan xong thì một đôi giá độ bao nhiêu?
Mụ
Tênácđiê nhìn khách ra vẻ khinh bỉ:
- Rẻ ra
cũng phải ba mươi xu.
- Năm
phơrăng bà có bán không?
Một
người phu xe nghe chuyện phá lên cười:
- Ái
chà! Năm phơrăng đấy à? Bán phứt đi chứ lị! Năm phơrăng kia mà!
Thằng
chồng thấy cần phải lên tiếng:
- Thưa
ông, vâng. Ông có thích thì nhà cháu để lại hầu ông, năm phơrăng đấy. Nhà hàng
chúng cháu bao giờ cũng chiều khách.
Mụ
Tênácđiê giở cái giọng ăn chắc và gọn quen thuộc:
- Mua
thì trả tiền ngay đây.
- Được,
tôi mua đôi tất này.
Khách
vừa nói vừa móc túi lấy đồng năm phơrăng, đặt lên bàn:
- Tiền
đây.
Rồi quay
lại Côdét:
- Giờ
thì đôi tất con đan là của ta. Cho con chơi đi.
Người
phu xe thấy đồng bạc thích quá, bỏ cả cốc rượu, chạy lại nhìn kỹ rồi reo lên:
- Ồ mà
thật này! Cả một cái bánh hậu! Bở thật! Không phải bạc giả đâu.
Mụ
Tênácđiê không còn nói vào đâu được. Mụ cắn môi, ra dáng tức tối lắm.
Côdét sợ
run lên. Nó đánh liều hỏi:
- Thưa
bà, có thật không? Con chơi có được không ạ?
Mụ
Tênácđiê gầm lên:
- Thì
chơi!
- Cảm ơn
bà.
Miệng nó
nói cảm ơn Tênácđiê nhưng tấm lòng thơ của nó thì cảm ơn khách.
Thằng
Tênácđiê lại ngồi uống rượu. Vợ nó ghé vào tai, khẽ hỏi:
- Ta
từng thấy chán nhà triệu phú ăn mặc như thế.
Côdét
không đan nữa nhưng chưa kịp chui ra khỏi gầm bàn. Nó vẫn thường ít động đậy.
Nó thò tay ra sau lưng lấy ở trong hộp ra mấy mụn giẻ cũ và cái gươm nhỏ bằng
chì.
Con
Epônin với con Adenma chẳng để ý đến cái gì cả. Chúng nó vừa làm được một việc
trọng đại; chúng nó bắt được con mèo. Chúng vứt búp bê xuống đất, rồi con
Epônin là con chị lấy áo quần, tã lót xanh đỏ quấn cho con mèo con, tha hồ cho
nó kêu gào giãy giụa. Nó vừa làm cái công việc quan trọng và khó khăn đó, vừa
thủ thỉ với con em; giọng con trẻ nghe êm ái, dễ thương lạ, đẹp như cánh bướm
huy hoàng và cũng như cánh bướm vừa định ghì lấy, đã bay mất.
- Em nom
mà xem, con búp bê này thích bằng mấy con búp bê kia. Nó biết động đậy, nó biết
kêu, người nó lại ấm cơ. Đấy! Em nom mà xem, chúng mình chơi với nó nhé. Giả vờ
nó là con gái chị; chị thì vờ làm một bà. Chị đến chơi với em rồi em nhìn nó,
rồi em thấy nó có râu, em lạ quá. Rồi thì em lại thấy cái tai nó, rồi lại cái
đuôi, em lại lạ quá. Thế rồi em bảo: Trời ơi, kìa! Chị mới bảo em: Thưa bà,
vâng, con cháu tôi nó như thế đấy. Bây giờ thì bọn con gái, đứa nào cũng thế
cả.
Adenma
ngây người ra mà nghe Epônin nói.
Lúc ấy,
bọn khách uống rượu đang hát một bài hát tục tĩu rồi cười vang, làm rung trần
nhà. Tênácđiê cũng hát theo để kích thích thêm.
Cũng như
giống chim bạ cái gì cũng tha về làm tổ được, bọn trẻ con thì cái gì cũng làm
được búp bê. Hai chị em Epônin và Adenma còn mải quấn cho con mèo thì Côdét
cũng quấn cho cái gươm. Quấn xong, nó bế lên tay và khe khẽ ru.
Búp bê
là một đòi hỏi bức bách của các em bé gái và đó là biểu hiện đáng yêu của nữ
tính ở tuổi trẻ con. Chăm sóc, vá may, trang điểm, thay áo quần, dạy dỗ, mắng
mỏ chút ít, ru ẵm, vỗ về, dỗ ngủ, coi một đồ vật là một sinh linh, tương lai
của người đàn bà là ở đấy. Em bé gái lúc mơ tưởng líu lo, lúc vá may quần áo
hay tã lót nhỏ xíu, lúc may cái áo ngoài, cái yếm, cái áo lót xinh xinh. Cứ vừa
làm như thế mà đứa trẻ dần dần trở thành một cô gái nhỏ, cô gái nhỏ thành cô
gái lớn, cô gái lớn trở thành thiếu phụ. Đứa con đầu lòng sẽ thay chân con búp
bê cuối cùng.
Một đứa
bé gái thiếu búp bê thì cũng khổ sở gần như người đàn bà không con và cũng là
chuyện vô lý.
Vì thế,
Côdét lấy thanh gươm làm con búp bê.
Còn mụ
Tênácđiê thì mon men đến gần người áo vàng. Mụ nghĩ thầm:
- Chồng
mình nói phải, hay đây là ông chủ ngân hàng Laphit? Có những nhà giàu cứ hay
bông phèn như thế.
Mụ đến
bên bàn khách, tì tay nói:
- Thưa
ông…
Thấy
tiếng “ông” khách quay lại. Từ nãy mụ chỉ một giọng gọi khách là “bác” hay “ông
già”. Giờ thì mụ cố làm ra dáng dịu dàng, nhưng cái dịu dàng của mụ còn khả ố
hơn cái nanh ác lúc nãy.
- Thưa
ông, ông xem, tôi có cấm đoán nó đâu, nó chơi thì chơi. Có chơi cũng chỉ lần
này thôi. Thật nể ông tốt quá. Ông xem, nó trơ thần xác ra, có gì đâu. Nó phải
làm chứ!
Khách hỏi:
- Cháu
nó không phải là con bà ư?
- Rõ
khốn nạn! Thưa ông, tôi đâu có thứ con ấy. Nó là con nhà túng đói, chúng tôi
đem về nuôi làm phúc. Nó đần độn lắm cơ. Đầu nó dễ thường chỉ toàn là nước. Ông
xem, đầu nó to thế kia mà. Chúng tôi cũng làm hết sức mình vì cháu, nhưng nhà
nghèo lắm. Chúng tôi đã gửi thư về quê quán, mà sáu tháng nay chẳng được tin
tức gì cả. Chắc là mẹ cháu chết rồi.
- Thế à?
Khách
nói xong lại trầm ngâm nghĩ ngợi.
Mụ
Tênácđiê nói tiếp:
- Mẹ nó
cũng chẳng ra quái gì. Mang con bỏ chợ.
Lúc hai
người nói chuyện thì Côdét như có linh tính báo cho nó biết hai người đang nói
chuyện nó; nó không rời mắt nhìn mụ Tênácđiê. Nó nghe bập bõm, câu được câu
chăng.
Bọn
khách đã say mềm vẫn hát mãi cái bài hát thô tục của họ, càng ngày càng ầm ĩ.
Đó là một bài hát chúa tục trong đó có nói đến Đức Nữ đồng trinh và ấu chúa
Giêsu. Mụ Tênácđiê đã chạy đến chia phần vui nhộn. Côdét vẫn ngồi dưới bàn nhìn
đăm đăm ngọn lửa và ngọn lửa thì phản chiếu long lanh trong mắt nó. Nó lại ru
nựng cái quấn tã nó vừa làm ra, vừa nựng vừa hát khe khẽ: Mẹ em chết rồi! Mẹ em
chết rồi! Mẹ em chết rồi!
Bà chủ
hiệu mời mọc mãi, nhà “triệu phú” mới chịu ăn tối.
- Thưa
ông, ông dùng gì?
- Bánh
mì và pho mát – khách nói.
“Rõ ràng
là một tên kiết xác”, mụ Tênácđiê nghĩ vậy.
Bọn say vẫn
hát bài tục tĩu của chúng. Côdét thì cứ ru bài hát riêng của mình.
Bỗng
Côdét im bặt. Nó vừa quay lại và thấy con búp bê của chị em nhà Tênácđiê vứt
chỏng dưới đất, gần cái bàn làm bếp, để chơi con mèo. Thế là nó buông thanh
gươm quấn giẻ xuống, vì nào có ra búp bê; rồi nó thong thả nhìn quanh phòng một
lượt. Mụ Tênácđiê đang mải nói thầm với chồng, tay thì đếm tiền; Epônin với
Adenma bận chơi con mèo; khách thì nào ăn, nào uống, nào hát; không ai nhìn nó
cả. Con bé thừa cơ hội, tức khắc ở trong bàn bò ra, nhìn quanh lượt nữa xem có
ai rình nó không, rồi nhanh nhẹn trườn ra chỗ con búp bê mà nhặt lấy. Thoáng
một cái, nó đã ngồi vào chỗ cũ, không nhúc nhích, quay lưng lại để cho con búp
bê vào chỗ bóng tối; nó bế con búp bê trên tay. Nó chẳng mấy khi được chơi búp
bê thật nên nó thấy sung sướng hết sức.
Ngoài
người khách lạ đang thong thả ăn bữa ăn xoàng kia, không ai trông thấy nó cả.
Con bé
vui được đến gần mười lăm phút.
Song mặc
dầu Côdét đã hết sức cẩn thận, nó không ngờ một chân con búp bê vẫn thò ra
ngoài, ánh lửa rực rỡ trong lò soi vào. Bỗng con Adenma nhìn thấy cái chân hồng
hồng và sáng chói ấy thò ra ngoài bóng tối. Nó bảo Epônin: “Kìa! Chị!” Hai đứa
bé ngừng chơi, ngẩn người ra: Con Côdét cả gan lấy búp bê của chúng nó!
Epônin
đứng dậy, tay vẫn ôm con mèo, đến gần mẹ nó, kéo váy. Mẹ nó bảo:
- Yên
nào! Cái gì thế?
- Mẹ ơi!
Trông kìa!
Miệng
nói tay trỏ con Côdét.
Côdét
mải mê con búp bê, không nom thấy gì và cũng không nghe thấy gì hết.
Nét mặt
mụ Tênácđiê biến sắc! Mụ có cái vẻ đặc biệt của bọn nặc nô, chẳng có gì cũng
giơ nanh giẩu mỏ.
Lần này
mụ bị bẽ mặt nên càng giận dữ. Côdét không coi ai ra gì hết. Côdét dám phạm đến
con búp bê của “các cô chiêu” ấy.
Giả thử
một bà hoàng hậu nước Nga mà thấy một tên nông nô dám khoác thử cái băng huân
chương nhất đẳng của đông cung hoàng thái tử thì vẻ mặt phẫn nộ cũng chỉ đến
thế là cùng.
Mụ thét
lên, giọng khản đi vì uất ức:
- Côdét!
Con bé
giật nảy mình, tưởng như trời long đất lở. Nó quay lại. Mụ Tênácđiê lại thét:
- Côdét!
Côdét
cầm con búp bê khẽ đặt xuống đất, vừa nâng niu quý trọng vừa ngao ngán thất
vọng. Mắt nó vẫn nhìn con búp bê, hai tay nó chắp lại; rồi nó vặn tay trông mới
thảm chứ, con bé ngần ấy tuổi đầu! Qua bao cơn sợ hãi ngày hôm đó, nào là lặn
lội trong rừng, nào là xách thùng nước nặng, nào là đánh mất tiền, nào là cái
roi da, nào là những lời độc địa mụ Tênácđiê nói lúc nãy, mà cũng chẳng hề gì,
thế mà lúc này nó khóc. Nó khóc nức nở.
Người
khách đứng dậy hỏi mụ Tênácđiê:
- Cái gì
thế bà?
Mụ
Tênácđiê trỏ cái tang vật còn nằm sóng sượt dưới chân con bé.
- Không
trông thấy ư?
- Thế
thì làm sao?
- Con ăn
mày dám sờ vào búp bê của trẻ tôi!
- Chỉ có
thế mà cũng ầm lên à? Thế nó chơi búp bê đó thì đã sao?
- Tay
bẩn thế kia mà dám mó vào, tay thật là tởm.
Côdét
càng nức nở khóc. Mụ quát:
- Cô câm
họng ngay không?
Người
khách đi thẳng ra phía cửa, mở cửa và ra ngoài.
Thấy
khách đi khỏi, mụ Tênácđiê thừa dịp thò chân vào gầm bàn đạp mạnh cho nó một
cái, làm nó phải kêu lên mấy tiếng.
Cửa lại
mở, người khách trở về, hai tay ôm con búp bê kỳ diệu đã nói ở trên, con búp bê
mà tất cả trẻ con trong làng ngắm nghía từ sáng. Người ấy đặt con búp bê đứng
ngay trước mặt Côdét nói:
- Này,
của con đây.
Chắc là
người ấy lúc ngồi nghĩ vẩn vơ có đến hơn một tiếng đồng hồ cũng thoáng thấy cửa
hàng bán đồ chơi rực rỡ những đèn nến, trông qua cửa kính hàng ăn như một ánh
sáng thần tiên.
Côdét
nhìn lên, thấy người ấy mang búp bê đi về phía mình thì nó tưởng như thấy mặt
trời tiến đến; rồi nó nghe thấy câu nói lạ lùng: của con đây; nó liền chậm chậm
lùi lại, lùi vào tận chỗ cuối bàn, nơi xó tường mà núp.
Nó không
khóc nữa, nó không kêu nữa, nó như không dám thở nữa.
Mụ
Tênácđiê, Epônin, Adenma sừng sững như ba pho tượng. Bọn khách cũng phải ngừng
cả lại. Trong quán tự nhiên im lặng, trang nghiêm.
Mụ
Tênácđiê đứng trơ như phỗng và ngậm câm: mụ lại băn khoăn. Cái lão già này là
người thế nào? Một kẻ nghèo? Hay là một nhà triệu phú? Có lẽ cả hai, tức là một
thằng kẻ cướp.
Mặt
thằng chồng nhăn nhíu lại. Cái nhăn đó phản ánh rõ dục vọng bên trong, đó là
cái nhăn trên mặt người khi bản năng thú tính nổi dậy thôi thúc. Tên chủ quán
hết ngắm con búp bê lại ngắm người khách; nó đánh hơi ông ta như một túi bạc.
Như thế chỉ thoáng qua như một tia chớp. Rồi nó đến gần vợ thầm thì:
- Cái
này rẻ cũng phải ba mươi quan. Đừng có dại dột nhé. Hãy quì mọp trước mặt hắn.
Những kẻ
vũ phu cũng giống như những người thơ ngây, thường hay thay đổi đột ngột. Mụ
Tênácđiê cố lấy cái giọng ngọt ngào – ngọt mà chua như dấm của bọn đàn bà cay
nghiệt – bảo Côdét:
- Kìa,
Côdét, ông cho, sao con không cầm lấy?
Côdét
khiếp sợ nhìn con búp bê kỳ lạ. Mặt nó còn ròng ròng nước mắt, nhưng hai con
mắt đã ngời lên những tia sáng lạ lùng vì sung sướng, tựa như bầu trời lúc bình
minh. Lúc ấy nó có cảm tưởng như có người đột nhiên bảo nó: “Cô bé, cô là hoàng
hậu nước Pháp”.
Nó tưởng
như nó mà mó vào con búp bê thì sấm sét sẽ nổ ra. Cái đó cũng có phần đúng, vì
nó nghĩ mụ Tênácđiê sẽ mắng nó, - rồi đánh nó.
Song nó
ham thích quá, nó liền sán đến gần rồi quay lại mụ Tênácđiê, rụt rè khẽ hỏi:
- Thưa
bà, con xin, có được không ạ?
Không có
chữ nào tả được cái vẻ vừa liều lĩnh, vừa khiếp sợ, vừa hân hoan ấy. Mụ
Tênácđiê nói sõng:
- Được
chứ! Của mày đấy. Ông cho mày mà lị.
- Thưa
ông, có thật không? Có thật “bà lớn” này là của con không?
Khách
như muốn ứa nước mắt. Khách cảm động quá, không nói vì sợ tiếng nói sẽ bật
thành tiếng khóc. Khách nhìn Côdét gật đầu rồi cầm tay búp bê đặt vào tay
Côdét.
Côdét
vội rụt ngay tay lại như nó phải lửa và cúi gằm mặt xuống đất. Phải nói thêm
rằng lúc ấy nó thè lưỡi dài ra. Rồi nó quay phắt lại, ôm chầm lấy con búp bê.
Nó nói:
- Cháu
đặt tên nó là Catơrin.
Cái lúc
quần áo tả tơi của Côdét chạm vào và quấn quít với những dải là áo lượt màu
hồng của con búp bê, thật là giây phút lạ lùng. Nó hỏi:
- Thưa
bà, con đặt nó lên ghế có được không?
- Được,
con ạ.
Giờ thì
lại đến lượt Epônin và Adenma đứng nhìn Côdét mà thèm.
Côdét
đặt búp bê lên ghế rồi ngồi bệt xuống đất ngay trước mặt, ngồi yên, không nói
không rằng trông dáng điệu chiêm ngưỡng. Khách lạ bảo nó:
- Côdét,
con chơi đi.
- Ồ! Con
chơi chứ.
Cái
người lạ mặt ấy hình như Trời sai xuống để thăm Côdét thì mụ Tênácđiê lại căm
ghét nhất thiên hạ. Nhưng phải nén giận. Mặc dầu lâu nay mụ đã quen nhất cử
nhất động đều học hỏi chồng, không bao giờ để lộ nỗi vui giận, lúc này mụ không
sao nhịn được tức. Mụ vội cho hai con đi ngủ, mụ lại xin phép người áo vàng cho
Côdét cũng được đi ngủ; mụ nói thêm, ra vẻ thương yêu nó lắm: “Hôm nay cháu nó
chả mệt”. Côdét hai tay ôm búp bê đi ngủ.
Chốc
chốc, mụ lại đến chỗ cuối phòng là nơi chồng ngồi để “khai uất”. Mụ thì thào
với chồng: nhưng càng không dám nói to, giọng lại càng hằn học:
- Cái
con khỉ già! Không biết bụng dạ nó nghĩ thế nào! Đến mà làm rầy người ta! Nó
lại muốn cho con quỷ con chơi! Lại cho nó cả búp bê nữa! Con búp bê những bốn
mươi phơrăng, lại đem cho cái con chó ghẻ có bán xác đi cũng chỉ được bốn mươi
xu. Không khéo lại đến nước lão ta “bẩm công nương” với nó như bẩm với Beri
quận chúa chắc! Không biết nó có tỉnh táo không. Cái thằng già bí mật này, dễ
nó hóa rồ!
Thằng
chồng cự lai:
- Sao
lại rồ! Có gì là lạ. Người ta thích thế thì sao! Mẹ mày thì mẹ mày thích bắt
con bé phải làm, người ta thì người ta thích cho con bé chơi. Người ta có quyền
của người ta. Khách trọ muốn làm gì thì làm, miễn là trả tiền. Lão ấy là kẻ hay
thương người thì bận gì đến mẹ mày? Còn như lão ta gàn dở thì cũng chẳng can gì
đến mẹ mày. Người ta có tiền thì mặc người ta, việc gì mà cứ nói mãi?
Trước
cái giọng dứt khoát của ông chủ và cái lý lẽ chủ quán ấy, cũng hết ngõ trả lời.
Người
khách lạ chống tay xuống bàn, ngồi trầm ngâm. Bọn lái buôn và bọn phu xe lảng
dần, thôi không hát nữa. Họ ngồi xa mà nhìn ông ta, ra vẻ kính sợ. Người ta ăn
mặc tồi tàn thế mà không coi tiền bạc vào đâu, lại vứt tiền ra mà mua những con
búp bê to tướng cho những đứa trẻ bẩn thỉu, rách rưới, chắc phải là bậc phú
quí, có quyền thế lắm.
Mấy
tiếng đồng hồ trôi qua. Lễ nửa đêm đã xong, tiệc đêm Giáng sinh đã tàn, khách
khứa cũng đã ra về; cửa hàng ăn đã đóng; cái gian phòng dưới vắng ngắt, đèn lửa
đã tắt. Người khách lạ vẫn ở nguyên chỗ cũ, vẫn dáng ngồi như trước. Thỉnh
thoảng mới đổi khuỷu tay chống nẹ. Chỉ có thế. Từ lúc Côdét đi khỏi, khách
không hề nói một lời.
Chỉ còn
hai vợ chồng Tênácđiê ở lại trong phòng, vì lễ nghĩa cũng có, vì tò mò cũng có.
Mụ vợ càu nhàu: “Dễ thường cứ ngồi thế suốt đêm chắc”. Lúc chuông đồng hồ đánh
hai giờ sáng, mụ đành chịu thua, bảo chồng: “Tôi đi ngủ đây, mặc mình làm gì
người ta thì làm”. Thằng chồng đến ngồi ở cái bàn nơi xó buồng, thắp một cây
nến rồi giở tờ Tin tức nước Pháp ra đọc.
Một
tiếng đồng hồ nữa trôi qua. Ông chủ quán đáng kính ấy ít nhất cũng đã đọc tờ
Tin tức nước Pháp đến ba lần, từ chỗ đề ngày tháng đến tên nhà in. Khách vẫn
không nhúc nhích.
Tênácđiê
cựa mình, ho, khạc, sĩ mũi, khua bàn ghế. Khách vẫn yên như không. Tênácđiê
nghĩ thầm: “Hay là ngủ rồi”. Khách không ngủ, nhưng không tài nào đánh thức
được.
Sau
cùng, Tênácđiê bỏ mũ, khẽ lại gần khách, đánh liều hỏi:
- Thưa
ngài, ngài chưa đi nghỉ?
Nói là
chưa đi ngủ sợ hơi nặng và suồng sã. Đi nghỉ nghe lịch sự và kính trọng hơn.
Những tiếng ấy sáng hôm sau có tác dụng huyền diệu là thổi phồng to những con
số trên đơn tính tiền. Một cái buồng cho khách ngủ, chỉ trả hai mươi xu; một
cái buồng cho khách nghỉ thì phải trả hai mươi phơrăng.
Khách
đáp:
- Ừ nhỉ!
Ông nói phải. Chuồng ngựa đi đằng nào?
Tênácđiê
mỉm cười:
- Thưa
ngài, để tôi đưa ngài.
Nó cầm
một cây nến, khách lấy khăn gói và cái gậy. Tênácđiê dẫn khách vào một cái
phòng ở trên gác, rất lộng lẫy, đồ đạc toàn bằng gụ, có giường khung buông màn
điều.
Khách
hỏi:
- Sao
lại thế này?
- Đây là
buồng cưới của vợ chồng nhà cháu ngày xưa. Bây giờ chúng tôi ở phòng khách một
năm chỉ vào phòng này ba, bốn lần.
Khách
nói sẵng:
- Tôi
thì chuồng ngựa cũng thế thôi.
Tênácđiê
vờ như không nghe thấy câu nói khiếm nhã ấy!
Nó thắp
hai cây nến còn mới tinh lên lò sưởi. Trong lò, lửa cháy khá đượm.
Trên lò
sưởi, có một cái khăn trùm phụ nữ dệt bằng chỉ bạc kết hoa cam đặt dưới một cái
bình.
Khách
hỏi:
- Còn
cái này là cái gì?
- Thưa
ngài, cái khăn cưới của mẹ cháu.
Khách
nhìn vật đó như có ý bảo: hóa ra con quỷ cái ấy cũng có lúc là gái đồng trinh
kia đấy.
Tênácđiê
nói láo: khi nó thuê cái nhà này để mở hàng ăn thì đã có sẵn y nguyên cái phòng
và những đồ đạc này rồi, nó mua lại đồ đạc ấy và đổi chác ở đâu được cái khăn
hoa cam, cho người ta tưởng rằng trước đây vợ nó cũng có cái vẻ mỹ miều và nhà
ta có vẻ lịch sự một tí.
Lúc
khách quay lại thì chủ quán đã biến mất. Tênácđiê khéo lủi ra ngoài lúc nào; nó
không dám cáo từ, sợ nếu tỏ ra quá thân thì thất lễ với kẻ mà nó định bụng sáng
hôm sau sẽ thẳng tay cắt cổ.
Chủ quán
về phòng riêng. Mụ vợ đã đi nằm nhưng chưa ngủ. Nghe tiếng chân chồng vào, mụ
quay lại bảo:
- Mình
ạ, mai tôi tống con Côdét ra khỏi cửa.
Tênácđiê
nhạt nhẽo đáp:
- Mình
hăng nhỉ!
Hai vợ
chồng không nói gì nữa, mấy phút sau thì tắt đèn.
Về phần
khách, khách cất gậy và khăn gói vào một xó.
Lúc chủ
quán đã ra ngoài, khách mới ngồi xuống cái ghế bành và nghĩ ngợi một lúc. Rồi
khách tháo giầy, cầm một cây nến, còn cây kia thì tắt đi, rồi đẩy cửa ra ngoài,
khách nhìn quanh như người tìm cái gì. Ông ta đi qua hành lang, đến đầu cầu
thang. Đến đây, nghe thấy tiếng thở rất khẽ, như tiếng trẻ con thở. Lần theo
tiếng thở ấy mà đến một cái hốc góc thụt vào dưới cầu thang; chỗ ấy chính là
cái gầm cầu thang. Nhìn vào thấy ngổn ngang những sọt cũ, chai lọ vỡ, bụi bặm
và mạng nhện chăng đầy; ở giữa có một cái giường. Gọi là giường nhưng thật ra
chỉ là một cái ổ rơm cũ thủng lòi cả rơm ra ngoài, lại có cả một cái chăn rách
giơ cả lõi. Làm gì có khăn trải. Ổ rơm đặt ngay trên mặt đất. Giường ấy là
giường của Côdét.
Khách
đến gần nhìn con bé.
Côdét
ngủ say. Nó để nguyên cả quần áo mà ngủ. Mùa rét, nó không dám cởi bớt áo, sợ
lạnh.
Nó ôm
chặt lấy con búp bê; hai mắt búp bê mở to, lóng lánh trong đêm tối. Chốc chốc
nó lại thở dài như sắp tỉnh dậy rồi lại ôm ghì lấy con búp bê. Bên cạnh giường
chỉ có một chiếc guốc.
Bên kia
cái cửa cạnh giường Côdét là một cái buồng khá rộng tối om. Khách vào xem. Qua
lần cửa kính, khách thấy ở cuối buồng hai cái giường nhỏ trắng tinh kê song
song. Giường ấy là giường Adenma và Epônin. Phía sau, có một cái nôi bằng mây
không có màn: chính thằng bé kêu khóc suốt lúc tối ngủ đấy.
Khách
đoán là buồng này thông sang buồng của vợ chồng Tênácđiê. Vừa định quay ra thì
chợt thấy cái lò sưởi; một thứ lò sưởi nơi quán trọ vừa to vừa rộng lúc nào
cũng có một ngọn lửa heo hắt về mùa đông, trông chỉ thấy lạnh. Nhưng lò này lại
không thấy đốt lửa, tro tàn cũng không. Khách chú ý nhìn hình như có vật gì;
thì ra hai chiếc giày trẻ con rất xinh, chiếc to chiếc nhỏ. Ông nhớ ra cái tục
đáng mến lưu lại từ xưa là cứ ngày lễ Giáng sinh đến thì trẻ con lại để giày
vào lò sưởi để chờ nàng tiên đêm đến sẽ cho một món quà sáng chói. Epônin và
Adenma không quên tục ấy, nên mỗi đứa đã đem một chiếc giày để trong lò sưởi.
Khách
cúi xuống nhìn.
Nàng
tiên, tức là người mẹ, đã qua thăm rồi, nên trong mỗi chiếc giày thấy một đồng
mười xu lấp lánh.
Khách
đứng dậy toan ra thì lại thấy ở phía trong, chỗ xó tối nhất trong lò, còn một
vật gì. Nhìn kỹ thì ra một chiếc guốc, một chiếc guốc bằng gỗ xấu đã mòn vẹt
cả, nhơ nhớp những tro cùng bùn đóng khô lại. Guốc ấy là guốc của Côdét. Thì ra
mặc dù luôn luôn bị đánh lừa, lòng trẻ con vẫn luôn luôn tin tưởng, nên Côdét
cũng để chiếc guốc của mình trong lò sưởi.
Thấy một
đứa bé chỉ gặp điều thất vọng mà còn biết hy vọng thì thật phấn khởi và thú vị.
Guốc
chẳng có gì.
Khách
lục túi áo ghi lê, cúi xuống để vào guốc của Côdét một đồng lui vàng.
Rồi ông
rón rén trở về buồng mình.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 3 - Chương 9
TÊNÁCĐIÊ GIỞ THỦ ĐOẠN
Sáng hôm
sau, còn đến ít ra là hai giờ đồng hồ nữa mới sáng rõ, đã thấy Tênácđiê ngồi ở
bàn nơi phòng thấp dưới cửa hàng, bên ngọn nến, tay cầm bút; nó đang sáng chế
cái đơn tiền trọ của ông khách áo vàng. Mụ vợ đứng cạnh khom khom cúi xuống
nhìn chồng viết. Hai vợ chồng không nói với nhau một lời. Một đằng thì suy nghĩ
trầm ngâm, một đằng thì chiêm ngưỡng một kỳ công của tài trí con người đang
hình thành và ra ánh sáng. Trong nhà có tiếng động; Côdét đang quét cầu thang.
Sau mười
lăm phút và mấy lần gạch xóa, Tênácđiê hoàn thành kiệt tác sau đây:
Đơn kê tiền
trọ của ông khách buồng số 1:
Bữa ăn
tối 3 phơrăng
Tiền
buồng 10
Nến 5
Tiền củi
sưởi 4
Hầu hạ 1
Cộng 23
phơrăng
Trong
đơn, có nhiều lỗi chính tả.
Mụ vợ
thấy thế thích chí reo lên, tuy còn ngài ngại:
- Hai
mươi ba phơrăng!
Thằng
chồng vẫn chưa được vừa ý, cũng như các bậc nghệ sĩ đại tài vậy. Nó “phừ” một
tiếng.
Ấy, lúc
ông Cátstơnrít kê khoản đày thọ của nước Pháp ở hội nghị Viên, ông cũng “phừ”
như vậy (Hội nghị Viên, 1814-1815, sau cuộc bại trận của Napoleon; Hội nghị này
bắt nước Pháp phải bồi thường cho các nước liên minh).
Mụ vợ
nghĩ đến con búp bê ông khách cho Côdét trước mặt hai đứa con gái mình. Mụ khẽ
nói:
- Mình
ạ, mình tính phải đấy, trả thế là phải. Đúng thì đúng nhưng sợ hơi nhiều. Chỉ
sợ nó không chịu trả.
Tênácđiê
lạnh lùng cười:
- Nó trả
thôi!
Cái cười
ấy là cái cười của kẻ cả, có uy thế tuyệt đối. Nó có ý nghĩa: cứ yên chí, đã
nói sao thì được vậy. Mụ vợ không bàn thêm. Mụ đi thu dọn lại bàn ghế. Thằng
chồng đi đi lại lại trong phòng. Một lát sau nó nói:
- Tao
còn nợ một món nghìn rưởi phơrăng kia mà.
Nó đến
bên lò sưởi ngồi xuống, chân gác trên đống tro còn ấm, dáng nghĩ ngợi. Mụ vợ
lại nói:
- À này,
hôm nay là tôi tống cổ con Côdét đi đấy nhé. Con ôn! Nghĩ đến con búp bê là tôi
lộn cả ruột. Thà rằng lấy vua Lui XVIII (Vua Lui XVIII béo, xấu, không được
lòng dân) còn hơn là phải chứa thêm nó một ngày trong nhà.
Tênácđiê
châm ống điếu hút, rồi phì cười mà bảo vợ:
- Chốc
đưa cái giấy này cho người ta.
Xong,
hắn đi ra.
Hắn vừa
ra khỏi thì người khách bước vào.
Tênácđiê
lập tức quay trở vào, theo sau lưng khách đứng yên chỗ ngoài cửa hé mở, chỉ có
mụ vợ là trông thấy.
Người
mặc áo vàng tay xách gậy và khăn gói. Mụ Tênácđiê nói:
- Ngài
dậy sớm thế ạ? Ngài định đi ngay, không để chúng tôi hầu hạ nữa sao?
Vừa nói
mụ vừa lúng túng mân mê cái đơn trả tiền, ngón tay gấp gấp tờ giấy. Nét mặt
đanh đá của mụ có một vẻ khác thường, nửa như rụt rè, nửa như băn khoăn.
Hình như
mụ thấy đưa một cái đơn tiền trọ như vậy cho một người có vẻ “kiết xác” thế
kia, thì cũng khó chịu.
Khách
hình như lơ đãng, óc còn bận nghĩ ngợi điều gì. Khách đáp:
- Thưa
bà vâng, tôi đi bây giờ.
- Thế
ngài không có việc gì ở Môngphecmây ạ?
- Không.
Tôi chỉ qua đây. Thế thôi. Thưa bà, tôi phải trả bao nhiêu nhỉ?
Mụ
Tênácđiê chìa tờ giấy ra, không nói gì.
Người
kia mở giấy nhìn qua, tâm trí còn để tận đâu đâu.
- Thưa
bà, nhà ta mở hàng ở đây có khá không?
Mụ
Tênácđiê kinh ngạc thấy không bùng nổ ra chuyện gì cả, mụ đáp:
- Cũng
nhì nhằng thôi ạ.
Rồi mụ
đổi giọng nỉ non than vãn:
- Thưa
ngài, thời buổi khó khăn quá! Vùng này lại ít nhà có của. Ngài xem, toàng hạng
xuềnh xoàng cả. Giá một đôi khi không được những vị khách hào phóng, dư dật như
ngài thì cũng… chúng tôi lại lắm gánh nặng. Đấy, như cái con bé ấy, thật đến
róc tủy róc xương với nó.
- Con bé
nào?
- Kìa,
cái con ấy, con Côdét ấy ạ, con Sơn ca ấy mà, vùng này cứ quen gọi nó là con
Sơn ca.
- À, à!
Mụ lại
tiếp:
- Người
nhà quê kể ngốc thật, không biết sao lại đặt nó là Sơn ca; trông nó như con dơi
thì có. Thưa ngài, chúng tôi chẳng muốn ăn xin ai, nhưng chẳng có của đâu mà
làm phúc cho ai được. Lời lãi chẳng có gì, mà đóng góp thì vô số. Nào môn bài,
nào thuế nọ, thuế kia, thuế cửa lớn, thuế cửa sổ, thuế phụ thu. Chắc ngài cũng
thừa biết nhà nước đang thu tiền khiếp lắm. Chúng tôi lại còn con cái nữa chứ.
Hoài công mà nuôi con người.
Khách cố
lấy giọng tự nhiên, nhưng vẫn có vẻ cảm động:
- Thế
ngộ có ai rước nó đi thì bà nghĩ sao?
- Rước
ai? Con Côdét ấy à?
- Vâng.
Cái mặt
đỏ gay dữ tợn của mụ chủ quán bỗng rạng hẳn lên, trông ghê tởm:
- Trời
ơi, thưa ngài, ngài phúc đức quá! Ngài vào mà nhận nó đi, ngài giữ lấy nó, dắt
nó đi, mang nó theo, đem nó đi mà nâng niu, mà chiều chuộng nó. Đức mẹ Đồng
trinh và thần thánh trên thiên đường phù hộ cho ngài!
- Được
rồi.
- Thật
ư? Ngài đem nó đi thật ư?
- Tôi
đem nó đi.
- Đem
ngay?
- Ngay
bây giờ. Bà gọi con bé ra đây.
Mụ
Tênácđiê gọi:
- Côdét!
- Bây
giờ tôi hãy trả tiền bà đã. Hết bao nhiêu nhỉ!
Khách
liếc qua tờ giấy, không khỏi lộ vẻ ngạc nhiên:
- Hai
mươi ba phơrăng!
Ông ta
nhìn mụ chủ quán, nhắc lại:
- Hai
mươi ba phơrăng kia à?
Cùng một
câu nói, nhưng câu trước thì tỏ vẻ ngạc nhiên, câu sau là một câu hỏi.
Mụ
Tênácđiê đã có thời gian chuẩn bị đối phó. Mụ trả lời chắc nịch:
- Thưa
ngài, vâng, đúng hai mươi ba phơrăng.
Khách
đặt năm đồng năm phơrăng xuống bàn, nói:
- Tìm
con bé cho tôi.
Vừa lúc ấy,
Tênácđiê tiến vào giữa phòng, bảo:
- Thưa
ngài, ngài chỉ phải trả hai mươi sáu xu thôi.
Mụ vợ
kêu lên:
- Sao
lại hai mươi sáu xu!
Tênácđiê
lạnh lùng đáp:
- Tiền
buồng hai mươi xu, bữa ăn tối sáu xu. Còn chuyện con bé thì tôi cần thưa với
ông đây vài lời. Mình để mặc ông với tôi.
Mụ
Tênácđiê lóa mắt vì thiên tài đã xuất hiện. Mụ biết là người diễn viên ưu tú
đang lên sân khấu. Mụ đi ra, không cãi nửa lời.
Còn lại
hai người, Tênácđiê đưa ghế mời khách ngồi. Khách ngồi xuống, còn nó, nó vẫn
đứng, bộ mặt làm ra vẻ hiền lành, ngay thật. Nó nói:
- Thưa
ngài, để tôi xin thưa chuyện. Tôi thì tôi quý con bé ấy lắm.
Khách
nhìn nó chằm chằm:
- Con bé
nào kia?
Nó vẫn
nói:
- Cũng
lạ thật. Hai bố con mến nhau đáo để. Tiền gì thế này? Ngài cất những đồng năm
phơrăng này đi. Con bé, tôi quý nó lắm.
Khách
lại hỏi:
- Ai cơ
chứ?
- Kìa,
con bé cháu Côdét ấy mà! Ngài chả định đem nó đi là gì? Đây, tôi xin nói thật.
Ngài là người đứng đắn thế nào thì tôi nói cũng thật như thế; tôi không thuận
để cho nó đi. Thiếu nó tôi không chịu được, tôi nuôi nó từ tấm bé. Đành rằng
nuôi nó thì tốn kém thật. Đành rằng nó lắm tật xấu, đành rằng chúng tôi chẳng
dư dật gì, đành rằng nó chỉ ốm một trận cũng đủ thuốc thang đến bốn trăm
phơrăng. Nhưng ăn ở cũng phải cho phúc đức. Nó bồ côi, bồ cút, tôi đã nuôi nó.
Tôi còn đủ cơm nuôi miệng tôi, nuôi miệng nó. Thật thế, tôi mến nó lắm. Ngài
hiểu cho, bấy nhiêu lâu làm gì không quyến luyến nhau. Tôi quê mùa cứ nói thật,
không lý luận gì cả. Con bé ấy, tôi quý nó lắm. Vợ tôi phải cái nóng nảy nhưng
cũng thương cháu lắm. Ngài xem đấy hai vợ chồng chúng tôi coi cháu như con đẻ.
Có nó thì vui cửa vui nhà.
Khách
vẫn nhìn nó chằm chằm. Nó lại tiếp:
- Ngài
thứ lỗi, nói thế này thì cũng có phần không phải. Ai lại đem con mà cho khách
qua đường như thế. Nói thế có phải không ạ? Nhưng nghĩ lại, ngài thì giàu có,
lại ra người phúc hậu, thôi cũng là hạnh phúc của cháu, có phải không ạ? Nhưng
phải xem thế nào. Giả dụ tôi hy sinh mà cho cháu theo ngài, thì tôi cũng phải
biết là cháu đi đâu chứ, tôi không thể để cho cháu biệt tăm biệt tích; tôi còn
muốn biết cháu nó ở nhà ai để thỉnh thoảng còn đi lại thăm nom; cháu cũng cần
biết bố nuôi cháu vẫn ở đây, lúc nào cũng chú ý đến cháu. Tóm lại không thể như
thế được ạ. Ngay quý danh, tôi cũng chưa tường. Ngài mang nó đi rồi, tôi chỉ
còn biết kêu: Con ơi, Son ca ơi, con đi đâu rồi? Ít ra cũng phải xem một mẩu
giấy tờ lăng nhăng gì, một mẩu giấy thông hành chẳng hạn!
Khách
vẫn giương mắt nhìn, cái nhìn như thấy suốt tận tâm can nó, rồi trả lời, giọng
nghiêm nghị và dõng dạc:
- Ông
Tênácđiê ạ, từ Paris đến đây có năm dặm, thì ai mà lấy giấy thông hành. Tôi có
đem con Côdét đi là tôi cứ đem, thế thôi. Ông không được biết tên tôi, ông
không được biết nơi tôi ở, ông không được biết nó sẽ ở đâu và ý tôi thì tôi
muốn từ nay, suốt đời nó, nó sẽ đi khỏi cái nhà này. Ông có ưng thế không? Ưng
hay không thì ông nói.
Ma quỷ,
thần thánh chỉ cần thấy một vài dấu hiệu là nhận ngay ra được một bậc thượng
đẳng thần; Tênácđiê cũng vậy, nó biết ngay là gặp một tay ghê gớm. Giống như
một thứ trực giác vậy; vốn nó tinh nhạy, sắc sảo nên nó hiểu ngay. Hôm trước,
lúc ngồi uống rượu với bọn phu xe, lúc hút thuốc, lúc hát nhảm nhí, nó không
rời mắt nhìn người khách lạ suốt một buổi tối, rình người kia như mèo rình,
nghiên cứu người kia như một nhà toán học. Nó vừa rình như thế vì quyền lợi
riêng, vì nó ham thích như vậy và bản năng nó như vậy; nó vừa dò xét tuồng như
được ăn tiền để mà dò xét. Nó không bỏ qua một cử chỉ, một dáng điệu nào của
người khách mặc áo vàng. Ngay trước khi khách tỏ vẻ rõ rệt là đặc biệt chú ý
đến con Côdét, nó đã đoán biết rồi. Nhiều lần nó bắt gặp con mắt sâu sắc của
ông già nhìn con bé. Sao lại có cái cảm tình đặc biệt như vậy? Người này là ai?
Tại sao trong bọc lắm của như vậy, lại ăn mặc bẩn thỉu thế kia? Biết bao nhiêu
câu hỏi nó tự đặt ra, mà không tài nào trả lời được, nó càng thêm tức tối. Nó
nghĩ ngợi suốt đêm. Tất không phải là bố con Côdét. Hay là ông nội, ông ngoại?
Thế thì sao không xưng ra ngay có được không? Bao giờ người ta có quyền thì
người ta cũng nói ngay chứ. Hẳn là người này không có quyền gì về con Côdét cả.
Thế thì nó là ai? Tênácđiê nghĩ mãi đâm quẩn. Càng đoán càng mờ mịt. Mặc dù
vậy, lúc mới nói câu chuyện, nó biết chắc là có sự gì bí ẩn, mà biết chắc là
người kia muốn giữ kín tiếng, nó thấy nó ở thế mạnh. Nhưng nghe câu trả lời dứt
khoát, cứng cỏi của khách, nó thấy người khách này bí mật chỉ là vì bí mật, thế
thôi, lúc ấy, nó lại thấy nó ở thế yếu. Nó không ngờ câu chuyện lại xoay ra
thế. Bao nhiêu điều ước đoán đều vứt đi cả. Nó bèn tập trung ý nghĩ lại. Nó cân
nhắc chỉ trong nháy mắt. Tênácđiê là đứa chỉ cần liếc mắt đã nhận định được
tình thế. Nó biết lúc này cần đi thẳng vào vấn đề và quyết định ngay. Cũng như
những vị danh tướng cầm quân biết giờ phút nào quyết định vận mệnh của trận
đánh. Tênácđiê liền nổ súng. Nó nói:
- Thưa
ngài, phải đúng nghìn rưởi quan.
Khách
móc cái túi bên, lấy ra một chiếc ví da đen đã cũ, mở ví rút ra ba tờ giấy bạc
đặt lên bàn. Khách lấy ngón tay cái chặn lên mấy tờ giấy bạc, bảo tên chủ quán:
- Cho
gọi con Côdét ra đây.
Lúc ấy,
Côdét làm gì?
Côdét
vừa dậy đã vội chạy ra tìm chiếc guốc. Nó thấy có đồng tiền vàng. Đây không
phải là đồng vàng Napoleon. Đây là một đồng vàng hai mươi phơrăng mới toanh,
thời quân chủ phục hưng mà trên mặt khắc nổi một hình khác đã thay hình vòng
nguyệt quế. Con bé hoa cả mắt. Nó như bắt đầu say sưa với thời vận. Nó chưa hề
biết đồng tiền vàng ra thế nào, có bao giờ nó thấy đâu. Nó vội vang giấu ngay
vào túi như vừa đánh cắp ở đâu vậy. Song, nó cảm thấy đồng tiền này là của nó,
nó đoán biết ai đã cho nó. Tuy nhiên nó mừng mà vẫn sợ. Nó sung sướng lắm.
Nhưng nó kinh ngạc nhiều hơn.
Nó không
dám tin là những cái tươi đẹp như thế lại có thật được. Thấy con búp bê, nó sợ:
thấy đồng tiền vàng, nó cũng sợ. Thấy những vật mỹ lệ như thế, bụng nó run run
thấp thỏm. Duy có ông khách là nó không sợ. Trái lại, nó thấy vững tâm. Từ tối
hôm qua, qua bao chuyện lạ lùng, rồi cả trong giấc ngủ, lúc nào hình ảnh người
kia cũng vẩn vơ trong khối óc bé nhỏ của nó; người ấy ra vẻ già nua, nghèo khổ,
rầu rĩ, thế mà nhiều tiền, nhân đức đến thế. Từ lúc gặp ông già ấy ở trong
rừng, nó thấy cuộc đời nó như biến đổi.
Côdét
không được như con chim én bé nhỏ trên trời, nó chưa hề biết cái hạnh phúc được
ẩn nấp dưới bóng mẹ, được ủ trong cánh mẹ. Từ năm năm nay, nghĩa là từ ngày nó
bắt đầu nhớ được, khốn nạn, con bé chỉ rặt một màu những run cùng sợ. Đời nó
như thể trần trụi trong cơn gió bấc cắt da của cảnh khổ ải; bây giờ thì nó như
được tấm áo che thân. Xưa, tâm hồn nó giá lạnh, bây giờ, tâm hồn nó ấm áp. Nó
không khiếp sợ mụ Tênácđiê như trước nữa. Nó không cô độc nữa; đã có ai ở bên
mình.
Hôm ấy,
vừa thức dậy nó đã tất tả làm mọi việc như mọi sáng. Đồng tiền vàng nằm trong
cái túi áo tối hôm qua có đồng hào mười lăm xu rơi ra. Đồng vàng ấy đã cho nó
nhiều phút lý thú. Nó không dám mó tới, nhưng cứ chốc chốc nó lại ngắm nghía,
lưỡi thì cứ thè dài. Nó quét cầu thang, thỉnh thoảng lại ngừng tay, ngây người
nhìn ngôi sao lấp lánh trong đáy túi, quên cả chổi và vũ trụ bên ngoài.
Đương
lúc nó mải mê ngắm đồng tiền thì mụ Tênácđiê chợt vào. Có điều lạ lùng là mụ
không phát nó cái nào mà cũng không chửi. Mụ lại có vẻ ngọt ngào bảo:
- Côdét,
ra ngay đây nhé.
Một lát
sau, Côdét ra cái phòng thấp bên ngoài.
Người
khách cầm cái gói mở ra. Trong gói có một cái áo len dài trẻ con, một cái tạp
dề, một cái áo vải bông, một cái váy, một cái khăn quàng, một đôi tất len, một
đôi giày, đủ một bộ phận áo con gái lên tám. Toàn quần áo đen cả. Khách bảo con
bé:
- Con
mang quần áo này vào trong nhà mặc nhanh lên.
Lúc trời
sáng rõ, các nhà ở Môngphecmây mở cửa sớm đều trông thấy ở phố Paris một ông
già ăn mặc tồi tàn dắt một đứa bé gái mặc toàn đồ tang, tay ôm một con búp bê
to màu hồng. Hai ông cháu đi về phía Livơry.
Hai
người ấy là người khách trọ và Côdét.
Không ai
quen biết người ấy cả; mà con Côdét không ăn mặc rách rưới nữa, nên nhiều người
không nhận được nó.
Côdét ra
đi. Với ai? Nó không biết! Đi đâu? Nó cũng chẳng hay. Chỉ biết một điều là nó
đã thoát khỏi cái hàng ăn nhà Tênácđiê. Chẳng ai hơi đâu mà từ biệt nó mà nó
cũng chẳng thiết từ biệt ai. Nó bước ra đi, rời khỏi cái nhà nó thù oán và cũng
oán thù nó.
Đứa trẻ
nhỏ đáng thương, lòng vẫn bị dồn ép từ trước tới giờ.
Nó đi
nghiêm chỉnh lắm, hai mắt mở to nhìn trời. Nó đã bỏ đồng tiền vàng vào túi
chiếc tạp dề mới. Thỉnh thoảng nó cúi nhìn đồng tiền rồi lại ngẩng nhìn ông
già. Nó tưởng như nó ở bên cạnh Chúa Trời phúc hậu.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 3 - Chương 10
THAM THÌ THÂM
Mụ
Tênácđiê vẫn theo thường lệ để mặc chồng giải quyết mọi việc. Mụ hy vọng sẽ có
những biến cố lớn lao. Lúc người khách với Côdét đi khỏi, Tênácđiê ngồi yên đến
mười lăm phút không nói gì, rồi mới gọi vợ ra một chỗ và chìa cho xem số tiền
nghìn rưởi phơrăng. Mụ bảo:
- Có thế
thôi à?
Từ thuở
lấy nhau, lần này là lần đầu mụ dám chê ông gia trưởng.
Quả là
có hiệu lực. Thằng chồng nói:
- Ừ,
mình nói phải. Thật ngốc quá. Đưa mũ đây…
Nó gấp
ba tờ giấy bạc lại, nhét vào túi rồi vội vàng chạy đi. Nhưng lại đi lầm đường;
thoạt đầu nó rẽ tay phải. Sau, hỏi thăm mấy người hàng phố mới biết con Sơn ca
và người kia đi về phía Livơry. Nó theo lối ấy, vừa rảo cẳng vừa nói một mình:
- Người
ấy chắc phải là một tay triệu phú, giả khoác cái áo vàng còn mình thì như một
con lợn. Lúc đầu bỏ ra hai mươi xu, sau năm phơrăng, rồi năm mươi phơrăng, rồi
đến nghìn rưởi mà lúc nào cũng dễ như bỡn. Nó có thể trả đến vạn rưởi phơrăng
cũng nên. Nhưng thế nào cũng đuổi kịp.
Lại còn
cái gói quần áo may sẵn cho con bé! Toàn là chuyện lạ lùng. Chắc là có chuyện
gì bí mật lắm. Nắm được điều bí mật, ai lại thả ra bao giờ. Mà điều bí mật của
bọn có của lại là những nắm bọt rong biển thấm đầy vàng; phải khôn khéo mà vắt.
Những ý nghĩ ấy cứ quay cuồng trong đầu óc Tênácđiê. Nó nói một mình:
- Mình
là con lợn.
Ra khỏi
Môngphecmây, đến chỗ ngoặt sang con đường đi Livơry, ta thấy con đường chạy dài
tăm tắp trước mặt trên cao nguyên. Đến đây, nó đinh ninh là sẽ trông thấy người
kia và con bé. Nó phóng tầm mắt rõ xa, nhưng chẳng thấy gì. Nó lại phải hỏi
thăm. Thành ra lại mất thêm thời giờ. Mấy người đi đường mách cho nó biết người
khách và con bé đã đi vào khu rừng phía Ganhi. Nó chạy về nẻo ấy.
Tuy hai
người có đi trước nó, nhưng đứa bé ắt đi chậm, còn nó thì đi nhanh. Và nó thuộc
hết đường đất vùng này.
Chợt nó
đứng dừng lại, tay đập vào trán như người quên một cái gì cần thiết và sẵn sàng
quay trở lại. Nó tự bảo:
- Đáng
lẽ mang súng!
Tênácđiê
thuộc loại người lưỡng diện, lắm khi đi qua giữa chúng ta mà chúng ta không
biết rõ, rồi biến mất đi chúng ta cũng không tường, bởi vì cuộc đời dun dủi nó
chỉ hiện ra trước mắt ta ở một phía. Số kiếp của nhiều người là như vậy đấy, là
sống chìm ngập hết nửa người. Ở cảnh ngộ bình an, ổn định, Tênácđiê có đủ điều
kiện để làm – chúng tôi không nói để là – một nhà buôn lương thiện, một anh tư
sản đủ đỗi, theo quan niệm của người đời. Trong lúc ấy, khi có những sự kiện nào
đó, khi xảy ra những biến động làm dậy bản chất của hắn thì hắn lại có đủ khả
năng, để là một tay vô lại. Đó là một tay chủ quán có nuôi trọ trong người mình
một con quỉ. Chắc Chúa quỉ Xa tăng đã nhiều lúc ngồi xổm ở một xó nào đó trong
cái nhà hát của tên Tênácđiê và mơ màng nghĩ về cái công trình kiệt tác đó của
mình.
Lưỡng lự
một lát, nó nghĩ thầm:
- Chà!
Thế thì chúng nó có đủ thì giờ thoát chết.
Thế là
nó lại đi, rảo cẳng tiến lên phía trước, có vẻ chắc ăn; trông nó tinh ranh như
con cáo đánh hơi thấy một đàn gà gô.
Quả
nhiên, lúc nó vượt khỏi khu ao đầm và tắt ngang qua quãng rừng thưa ở bên phải
con đường Benvuy và đến cái lối đi đầy cỏ mọc lượn quan đồi rồi vượt qua vòm
con sông đào cũ gần nhà tu Senlơ, thì nó chợt nhìn thấy một cái mũ nhô lên khỏi
một bụi rậm. Cái mũ ấy đã làm nó tốn công phu xây dựng bao nhiêu ước đoán. Mũ
ấy là mũ của người khách. Bụi cây không cao lắm. Tênácđiê nhận ra người khách
và Côdét đang ngồi nghỉ. Không nhìn thấy con bé vì nó bé quá, nhưng nhìn thấy
cái đầu búp bê.
Tênácđiê
không lầm. Người khách đã ngồi lại để cho Côdét nghỉ chân.
Tênácđiê
đi vòng qua bụi rậm, đột nhiên xuất hiện trước mặt hai người. Nó vừa thở vừa
nói:
- Thưa
ngài, ngài tha lỗi cho, xin trả lại ngài nghìn rưởi quan của ngài.
Vừa nói
thế, nó vừa chìa ra ba tờ giấy bạc. Người khách ngước mắt nhìn lên:
- Thế
này là thế nào?
Tênácđiê
lễ phép đáp:
- Là thế
này, tôi xin bắt con Côdét lại, thưa ngài.
Côdét
rùng mình, nép vào người ông già.
Ông ta
nhìn thẳng vào mắt Tênácđiê, nói dằn từng tiếng:
- Ông –
bắt – con – Côdét – lại?
- Thưa
ngài, vâng, tôi bắt nó lại. Tôi xin nói rõ. Tôi đã nghĩ kỹ. Thực ra, tôi không
có quyền giao nó cho ngài. Tôi là người đứng đắn, ngài xem. Con bé này có phải
là con tôi đâu; nó còn mẹ nó. Mẹ nó gửi nó cho tôi, tôi chỉ được quyền trả lại
cho mẹ nó mà thôi. Chắc ngài bảo: Mẹ nó chết rồi. Được. Thế thì tôi chỉ có thể
giao nó cho người nào có giấy tờ của mẹ nó ký và bảo là phải giao nó cho người
ấy. Rõ ràng là như thế.
Người
khách chẳng nói chẳng rằng, lục tìm trong túi; Tênácđiê thấy ông ta lấy ra cái
ví đựng tiền lúc nãy. Tên chủ quán mừng run lên. Nó nghĩ thầm:
- Được,
phải vững vàng. Mình sắp được mua chuộc đây.
Trước
khi mở ví, người khách còn đưa mắt nhìn chung quanh, nơi này vắng tanh vắng
ngắt. Trong rừng, dưới lũng không một bóng người. Ông ta mở ví, lấy ra một mảnh
giấy con, - chứ nào đâu có phải là nắm giấy bạc như Tênácđiê đang mong chờ! Ông
ta mở to tờ giấy, đưa cho Tênácđiê rồi bảo:
- Ông
nói phải. Đọc đi.
Tênácđiê
cầm lấy đọc:
“Môngtơrơi
Xuya Me, ngày 25 tháng 3, 1823.
Gửi ông
Tênácđiê,
Ông giao
Côdét cho người này. Bao nhiêu khoản chi phí lặt vặt, người này sẽ trả đủ cho
ông.
Kính
chào ông.
Phăngtin”
Người
kia nói tiếp:
- Ông
biết chữ ký này chứ?
Đích
thực là chữ ký của Phăngtin. Tênácđiê nhận ra ngay.
Chẳng
còn cãi vào đâu được nữa. Nó bị hai cái bẽ bàng: một là tưởng được đấm mõm lại
hóa suông, hai là bị đuối lý. Người khách lại bảo:
- Ông cứ
giữ lấy giấy này làm bằng.
Tênácđiê
ngoan ngoãn thu quân. Nó lẩm bẩm:
- Chữ ký
bắt chước kể cũng khéo. Thôi, được!
Nó đã
tuyệt vọng, nhưng còn cố vớt vát:
- Thưa
ngài, thế cũng được. Ngài là người ấy. Nhưng phải trả cho tôi các khoản chi phí
lặt vặt. Khoản ấy cũng to.
Ông già
đứng phắt dậy, lấy tay phủi bụi trên cái ống tay áo đã sờn, miệng nói:
- Ông
Tênácđiê này, ngày tháng giêng, mẹ con bé tính còn thiếu ông một trăm hai mươi
phơrăng, thế mà tháng hai, ông gửi giấy đòi năm trăm phơrăng; hồi cuối tháng
hai ông đã nhận ba trăm phơrăng, đầu tháng ba lại ba trăm phơrăng nữa. Từ dạo
ấy đến nay được chín tháng, mỗi tháng đã thỏa thuận là mười lăm phơrăng, vị chi
là một trăm ba mươi phơrăng. Trước ông nhận dôi ra một trăm. Tính thế, còn phải
trả ông ba mươi lăm phơrăng thôi. Thì vừa đây tôi đưa ông nghìn rưởi quan.
Tênácđiê
có cảm giác như một con sói mắc cạm bị cái hàm thiếc cắn vào chân. Nó nghĩ
bụng:
- Thằng
quỷ này là thằng nào?
Rồi, làm
như con chó sói, nó giãy một cái. Đã một lần nó liều mà hóa được. Nó vứt bỏ cái
giọng lễ độ đi, sừng sộ nói:
- Này
ông cha căng chú kiết kia ơi, một là tôi bắt lại con Côdét, hai là đưa ngay một
nghìn ê qui đây.
Ông già
bình tĩnh nói:
- Côdét,
đi, con.
Rồi tay
trái ông dắt đứa bé, tay phải ông nhặt cái gậy ở dưới đất.
Tênácđiê
nhận thấy cái gậy quá to và quãng rừng vắng ngắt.
Ông già
đi thẳng vào rừng sâu với con bé, để mặc tên chủ quán đứng ngây chỗ cũ.
Trong
khi họ đi xa dần. Tênácđiê nhìn theo hai vai rông còng còng và hai nắm tay to
tướng của ông già.
Nó nhìn
lại nó, hai cánh tay khẳng khiu, hai bàn tay còm nhom. Nó nghĩ bụng: - Đã đi
săn lại quên mẹ nó cả súng. Quả ta là một thằng ngốc.
Song tên
chủ quán vẫn chưa chịu buông mồi. Nó nói:
- Để xem
nó đi đâu.
Rồi nó
theo hút đằng sau, cách xa xa. Trong tay chỉ còn hai thứ, một trò chơi: tức là
cái mảnh giấy nát có chữ ký Phăngtin và một niềm an ủi tức là nghìn rưởi quan.
Người
khách dắt Côdét đi về nẻo Livơry vad Bôngdy. Ông ta đi thong thả, đầu cúi gằm,
ra vẻ nghĩ ngợi, buồn rầu. Về mùa đông rừng thưa lá, nên tuy Tênácđiê đã cách
khá xa mà vẫn nhìn thấy hút hai người. Thỉnh thoảng người khách lại quay lại
nhìn xem có ai theo sau không. Chợt ông thấy Tênácđiê. Ông vội lôi Côdét đi vào
một khu rừng rậm hơn, trong đó Tênácđiê dễ mất dấu họ.
- Chó
quá!
Nói
xong, Tênácđiê rảo cẳng tiến lên.
Rừng chỗ
này rậm nên nó phải theo gần sát. Đến quãng rừng rậm nhất, ông già quay đầu
lại. Nó cố núp vào chỗ cành cây nhưng vô hiệu, ông già đã trông thấy nó. Ông lo
ngại nhìn nó rồi hất đầu một cái, lại đi. Tên chủ quán lại đi theo. Đi như thế,
được độ hai ba trăm bước. Bỗng ông già quay lại lượt nữa. Vẫn thấy tên chủ
quán. Lần này ông trừng mắt nhìn nó, nên nó thấy có theo nữa cũng “vô ích”.
Tênácđiê bèn quay trở về.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 3 - Chương 11
CON SỐ 9.430 LẠI XUẤT HIỆN, CÔDÉT TRÚNG SỐ ẤY
Giăng
VanGiăng chưa chết.
Lúc ngã
xuống biển, nói cho đúng, lúc nhảy xuống, thì như ta đã biết, Giăng VanGiăng không
còn xiềng xích trên người nữa. Ông bơi giữa hai con nước, đến tận dưới lườn một
cái tàu đậu bến; một chiếc thuyền con buộc bên cạnh tàu. Ông tìm cách núp trong
thuyền đến tận tối. Vào đêm, ông lại nhảy xuống nước bơi vào bờ, chỗ gần mỏm
Bơroong. Đến đây, tiền sẵn nên cũng dễ kiếm được quần áo. Quanh vùng Balaghiê
có một cửa hàng chuyên bán quần áo cho bọn tù vượt ngục, nghề này kể cũng tươm.
Giăng VanGiăng cũng như mọi kẻ đi trốn tránh đáng thương khác, phải tìm cách mà
thoát khỏi con mắt cú vọ của luật pháp, thoát khỏi cái xã hội ác nghiệt, Giăng
VanGiăng lần theo một hành trình tối tăm và lắt léo. Chặng thứ nhất thì nghỉ
lại ở Pơrađô, gần Bốtxê. Rồi đi về phía Gơrăng Vila, gần Briăngxông, thuộc quân
thương Anpơ. Thật là một cuộc trốn tránh mò mẫm, đầy lo âu; đường thì rặt những
đường nhánh tối om, không biết đâu mà mò. Sau này, có tìm được một vài vết tích
của Giăng VanGiăng ở vùng xứ Anh, thuộc địa phận Xivơriô, ở Accông, một nơi gọi
là Grănggiơ đơ Đuméc, trong dãy núi Pirênê, gần thôn Savay. Rồi ở vùng lân cận
xứ Pêrigơ, làng Bruyni tổng Sapen Gônaghe. Ông lên Paris. Vừa rồi ta gặp ông ở
Môngphecmây.
Chúng ta
vẫn nhớ rằng lần vượt ngục trước, ông ta đã bí mật đến đấy hay vùng chung quanh
đấy và tòa án cũng đã có chút ít ánh sáng về hành trình đó.
Ai cũng
tưởng ông chết rồi, vì thế hành tung càng thêm tối tăm, mù mịt. Ở Paris, có lần
ông được xem tờ báo tường thuật việc ông ngã xuống biển. Ông cảm thấy bớt lo,
gần như yên ổn, như là đã chết rồi thực.
Ông trở
về đến Paris ngay tối hôm giành được Côdét khỏi nanh vuốt vợ chồng Tênácđiê.
Ông cùng con bé đi lối cửa ô Môngxô mà vào Paris, lúc chập tối. Rồi lên xe độc
mã, vào chỗ sân Thiên văn đài. Ông xuống trả tiền xe rồi lại dắt Côdét cứ thế
mò mẫm trong đêm tối qua các phố vắng gần Uốcxin và La Glaxie rồi đến đường Nhà
thương.
Ngày hôm
ấy là ngày Côdét cảm thấy rất lạ và đầy những xúc động. Đến bữa thì ông già mua
bánh và phó mát ở những quán hàng khuất nẻo rồi mang ra sau bụi cây hàng rào mà
ăn; đi đường thì đổi xe luôn; chốc lại đi bộ một quãng. Nó mệt lắm nhưng không
kêu ca gì. Ông già thấy tay nó cứ co trĩu xuống, biết là nó mệt, ông liền cõng
nó. Côdét tay vẫn không rời Catơrin, ngả đầu trên vai Giăng VanGiăng, ngủ
thiếp.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 4: CĂN NHÀ NÁT GORBÔ
Chương 1
ÔNG BIỆN LÝ GORBÔ
Bốm mươi
năm trước, khi người đi dạo chơi một mình đưa chân vào những vùng hẻo lánh khu
nhà thương Xanpêtơrie và đi ngược lên dọc theo đại lộ đến tận cửa ô Itali, thì
sẽ tới một khu nhà người ta có thể nói rằng không còn là Paris nữa. Không phải
là nơi hoang vắng, ở đây có người qua lại; không phải là nông thôn vì ở đây có
nhà và đường phố; không phải là thành thị vì đường phố có những vết xe lõm sâu,
đầy cỏ mọc, như ở trên những đường trường; không phải vì xóm làng vì nhà cửa
quá cao. Thế thì là cái gì vậy? Là một khu dân cư mà không có ai ở, là một vùng
vắng tanh mà lại có bóng người; là một đại lộ của thủ đô, một phố của Paris,
ban đêm ghê sợ hơn là giữa rừng, ban ngày buồn thảm hơn là một bãi tha ma.
Đây là
cái khu phố cũ chợ ngựa.
Người đi
dạo chơi ấy nếu dấn bước xa hơn bốn bức tường cổ khu chợ ngựa, nếu hắn ưng đi
qua phố Pơti Băngkiê sau khi đã đi qua một mảnh vườn nhà quê ở bên tay phải, có
tường cao quây bốn phía, một bãi cỏ có mấy đống vỏ sồi bao sừng sững như những
cái lều của giống hải ly khổng lồ, rồi qua một khu đất rào kín, ngổn ngang
những thanh rầm, rui mới xẻ, những đống gỗ đầu mẩu, những đống mùn cưa và vỏ
bào, có một con chó đứng trên sủa inh ỏi, rồi lại qua một bức tường thấp đã đổ
nát với một cái cổng đen ảm đạm, rêu phủ kín và khi mùa xuân đến thì lại đầy
hoa, rồi đến cái quãng vắng nhất, sẽ thấy một cái nhà ghê tởm, điêu tàn, với
trên tường một dòng chữ lớn: “Cấm dán yết thị” sau đó người dạo chơi không mục
đích ấy sẽ tới góc phố Vinhơ Xanh Mácxen, một vùng ít người biết đến. Ở đây,
gần một xưởng máy và giữa hai bức tường của hai khu vườn, hồi bấy giờ người ta
thấy một cái nhà hát, lúc mới trông thì chỉ bé như một cái nhà gianh nhưng thực
ra nó to như một cái nhà thờ. Ngoài đường chỉ trông thấy một cái đầu hồi, do đó
mà tưởng nó nhỏ. Gần toàn bộ cái nhà khuất mắt mọi người. Người ta chỉ trông
thấy cái cửa ra vào và một cái cửa sổ.
Cái nhà
nát ấy chỉ có một tầng gác. Nhìn kỹ cái nhà, thoạt đầu phải để ý chi tiết nổi
bật này: cái cửa ra vào chỉ có thể là của một nhà tồi tàn, còn cửa sổ nếu đục
trong đá hoa chứ không phải đá xây cất thường thì phải là cửa sổ của một tòa
lâu đài. Cánh cửa thì chỉ là mấy tấm ván đã mọt, ghép với như bằng mấy cái
gióng ngang; trông chẳng khác gì thanh củi. Cửa mở ngay sát một cái cầu thang
gác dựng đứng với những bậc cao đầy bùn, vôi tường và bụi, cũng rộng bằng bề
rộng cái cửa ngoài phố trông chẳng khác gì một cái thang dựng đứng mất hút giữa
hai bức tường. Bên trên cánh cửa là một cái khung cửa méo mó, có một tấm ván che,
ở giữa đục một cái lỗ hổng hình tam giác. Khi cánh cổng đóng thì cái lỗ hổng
hình tam giác. Khi cánh cổng đóng thì cái lỗ hổng này vừa là cái cửa sổ trên
trần nhà, vừa là cái lỗ dòm ở cửa. Phía trong cửa, một cây bút vẽ đã vạch bằng
mực hai nét thành con số 52 và ở cái tấm ván bên trên cửa, cũng cái bút vẽ ấy
đã vạch con số 50. Thành ra người ta phân vân. Cái nhà số mấy đây? Bên trên cửa
thì bảo là số 50, bên trong cửa thì cãi lại: đây là số 52. Những mảnh giẻ màu
bụi rủ xuống từ cái khung nhỏ tam giác như là những tấm màn cửa.
Cái cửa
sổ thì rộng, khá cao, có cửa chớp và cửa kính với những ô kính to. Chỉ phải cái
là những ô kính ấy mang những thương tích đa dạng, có những băng giấy khéo dán
muốn che đậy cái thương tích nhưng cũng làm cho người ta để ý các vết thương,
còn cánh cửa chớp, lỏng lẻo như răng bà lão, thì đe dọa người ngoài đường hơn
là che giữ người trong nhà. Những thanh ván ngang cửa chớp đã mất ở vài chỗ và
được thay thế bằng những mảnh ván đóng đanh, theo chiều dọc, thành ra vừa là
cửa chớp, vừa là cửa ván.
Cái cổng
có vẻ ghê gớm ấy và cái cửa sổ có vẻ tử tế ấy, tuy rằng mục nát kề sát nhau
trên cũng một căn nhà, trông như hai kẻ hành khất rách rưới cùng đi với nhau,
sát cánh với hai vẻ mặt khác nhau trong những tấm giẻ rách như nhau, một kẻ từ
xưa vẫn là hành khất, một kẻ đã từng là một nhà quí phái.
Cầu
thang dẫn lên một gian nhà rất rộng, trông giống như một cái kho mà người ta
chữa thành nhà ở. Gian nhà ấy nối với một đường ống, đó là một hành lang dài,
bên phải bên trái có những buồng lớn, bé, không đều, cũng không thể ở được,
giống như những cửa hàng thợ hơn là những buồng ở. Những buồng ấy có cửa sổ
trông ra những khu đất hoang ở xung quanh. Tất cả tối tăm, trông khó chịu, mờ
nhạt, buồn bã, có vẻ tha ma và qua những kẽ hở ở trên mái và ở cửa, có những
tia sáng lạnh lọt xuống hay những ngọn gió rét lùa vào. Một nét đặc biệt đáng
chú ý và kỳ thú ta thường gặp trong những loại nhà này, ấy là những con nhện
khổng lồ.
Bên trái
cửa ra vào, nhìn ra mặt đường, cao ngang đầu người, có một cửa tò vò mà người
ta đã bít lại còn như một cái ổ vuông đầy những hòn đá mà trẻ con khi qua lại
ném vào.
Một phần
căn nhà này gần đây đã bị phá hủy. Phần còn lại cũng có thể giúp ta mường tượng
được trước kia cả cái nhà ấy như thế nào. Toàn bộ cái nhà ấy tuổi chưa ngoài
một trăm. Một trăm năm đối với một nhà thờ là tuổi trẻ, nhưng là tuổi già đối
với một cái nhà ở. Hình như nhà ở của người đời cũng ngắn ngủi như đời người,
còn nhà của Chúa thì cũng vĩnh cửu như Chúa.
Những
người phát thư của bưu điện gọi cái nhà hát ấy là nhà số 50-52. Nhưng ở trong
khu này người ta quen gọi nó là nhà ông Gorbô.
Hãy kể
xem vì đâu nó mang cái tên đó.
Những kẻ
thích cóp nhặt các sự việc nhỏ và xếp lại như một tập mẩu thực vật, đã ghim vào
ký ức họ những niên đại thoáng qua, chắc biết rằng ở thế kỷ trước, vào khoảng
những năm 1770 có hai ông biện lý ở tòa án Satơlê, một ông tên là Corbô
(Corbeau: con quạ), một ông tên là Rơna (Renard: con cáo). Hai cái tên đó La
Phôngten (La Fontaine: nhà ngụ ngôn nổi tiếng nước Pháp, thế kỷ 17. Mấy câu thơ
dưới nhại đoạn đầu bài ngụ ngôn “Cáo và quạ” của ông) trước kia đã nói đến. Cơ
hội quả thật là rất tốt để cho giới tư pháp tha hồ cười cợt. Thơ, vè chế nhạo,
xuất hiện ngay tức khắc và truyền đi trong những tòa án ở Paris. Có những câu
thơ ít nhiều khập khiễng:
Trạng sư
Quạ đỗ trên giấy má
Ngậm
trong mồm một lá tịch biên
Đánh hơi
trạng Cáo tới liền
Múa môi
uốn lưỡi bẩm lên: “Thưa ngài…”
Những
câu chế giễu làm cho hai vị biện lý khó chịu và những tiếng cười khúc khích
đuổi theo họ, làm cho họ khó ngẩng cao đầu. Họ quyết định tâu lên vua, nhờ nhà
vua can thiệp. Họ dâng sớ lên Lui XV, đúng vào ngày, giờ mà sứ thần của Giáo
hoàng một bên và đức giáo chủ Đơ La Rôsơ Aymông một bên, đang quỳ gối một cách
kính cẩn nâng hai chiếc hài xỏ vào hai bàn chân trần của bà Đuy Bari vừa ngủ
dậy. Nhà vua đang cười lại được dịp cười thêm. Mặc hai vị giám mục, hoàng
thượng quay về hai ngài biện lý và cho phép hai ông thầy kiện ấy đổi tên hay
sửa tên một chút. Ông Corbô được phép nhà vua thêm một cái đuôi vào chữ đầu
tiên của ông và trở thành ông Gorbô. Ông Rơna thì không được may mắn bằng vì
chỉ được phép cho thêm chữ P ở trước chữ R của mình và mang tên mới là Prơna,
khiến cho cái tên sau này cũng tiêu biểu cho ông chẳng kém cái tên trước
(Renard: con cáo, tiêu biểu cho xảo quyệt. Prenard vốn không có chữ, nhưng nếu
có thì có nghĩa là trên trộm cắp đục khoét). Theo người khu phố ấy truyền lại
thì ông biện lý Gorbô là chủ cái nhà mang số 50-52 ở đại lộ bệnh viện này.
Chính ông ấy cũng là người đã trổ cái cửa đồ sộ kia.
Do đó mà
cái nhà hát bấy giờ có cái tên nhà ông Gorbô.
Ngay
trước cửa số nhà 50-52, giữa những cây cối trên đại lộ có một cây du đã chết
đến ba phần tư. Hơi chếch cửa nhà này một chút là phố cửa ô Gôbơlanh, lúc bấy
giờ chưa có nhà ở, chưa có đá lát, cây trồng không hàng lối, xanh tươi hay bẩn
lấm tùy mùa, phố này dẫn thẳng đến hàng thành bao quanh Paris; một xưởng máy
gần đó bốc lên qua mái một mùi diêm sinh.
Cửa ô
ngay ở gần đấy. Năm 1854 tường thành vẫn còn.
Chính
cái cửa ô này gợi ra trong đầu óc những hình ảnh thê thảm. Nó là con đường dẫn
đến Bixetơrơ. Chính qua cửa ô ấy, dưới thời đế chế và thời phục hưng, những tù
tử hình được đưa về Paris ngày họ bị hành hình. Chính ở đây vào khoảng năm 1829
đã xảy ra một vụ ám sát mệnh danh là “Vụ ám sát cửa ô Phôngtennơblô” mà công lý
đã không tìm ra được những thủ phạm. Vấn đề bi thảm không được đưa ra ánh sáng,
bí mật ghê sợ không được khám phá. Tiến thêm vài bước nữa bạn sẽ tới cái phố
tai họa Cơrulơbácbơ nơi mà Uynbasơ đã đâm chết cô gái chăn dê ở Yvơry, giữa
tiếng sấm rền như trong một vở bi kịch. Đi vài bước nữa bạn sẽ tới những cây
du, ghê tởm, bị chặt ngọn của cửa ô Xanh Giacơ. Đây là mưu mẹo của các nhà ái
quần, muốn che giấu cái máy chém ở nơi pháp trường ti tiện và nhục nhã của một
xã hội con buôn và thị dân. Cái xã hội đó đã lùi bước trước cái án tử hình,
không dám hủy bỏ nó một cách đại lượng, cũng không dám duy trì nó một cách oai
nghiêm.
Ba mươi
bảy năm trước nếu không kể đến cái quảng trường của cửa ô Xanh Giacơ lúc nào
cũng ghê rợn này mà số phận đã định thì cái nơi vắng vẻ, thê thảm nhất của cái
vùng thê thảm này, đúng là cái nơi mà bây giờ cũng chẳng vui hơn tí nào, cái
nơi ta thấy ngôi nhà nát 50-62.
Những
ngôi nhà thị dân mới bắt đầu xuất hiện ở đây khỏang hai mươi lăm năm sau đó.
Cái khu này vẫn u ám. Qua những ý nghĩ chết chóc mà cái khu này khêu gợi, người
ta cảm thấy mình đứng giữa cái vòm mái của bệnh viện Xanpêtơrie (La Salpêtơrie:
là một bệnh viện cứu tế của nhà thờ đón những phụ nữ già bệnh tật và cả những
phụ nữ mắc bệnh thần kinh) và cửa ô Bixetơrơ mà người ta nhìn thấy ẩn hiện cái
hàng rào. Nghĩa là giữa cái điên dại của phụ nữ và cái điên dại của đàn ông.
Phóng
tầm mắt nhìn ra xa nhất cũng chỉ thấy những lò sát sinh, bức tường thành và vài
ba mặt tiền nhà máy hiếm hoi, giống như những trại lính hay những tu viện. Đâu
cũng thấy những túp lều gỗ ván, những đống vôi gạch đổ nát, những bức tường cổ,
đen như những tấm vải liệm người, những bức tường mới trắng như những bức lụa
phủ mặt. Khắp nơi những hàng cây song hành, những ngôi nhà thẳng tắp kẻ chỉ,
lạnh lẽo và những góc vuông buồn bã thê thảm. Không có một cái mô cái gò nào,
không có một nét kiến trúc tài tử nào, không có một nếp gợn nào. Cả một khối
lạnh lẽo như băng giá đều đặn, xấu đến kinh khủng. Không có gì làm cho trái tim
ta đau thắt lại như cái cân đối. Bởi vì cân đối là chán ngán và chán ngán là
gốc rễ của tang tóc. Tuyệt vọng biểu lộ bằng cái ngáp dài. Người ta có thể
tưởng tượng một cái gì ghê rợn hơn cõi địa ngục làm người ta chịu đau khổ, ấy
là cái địa ngục làm cho người ta buồn chán. Nếu cái địa ngục ấy có thật thì
đoạn đường này của đại lộ Bệnh viện có thể là con đường dẫn đến đó.
Khi đêm
bắt đầu xuống, khi ánh ngày bắt đầu đi, nhất là về mùa đông khi gió lạnh hoàng
hôn làm rung những lá hung đỏ cuối cùng của những cây du, khi bóng tối dày đặc,
không có một ánh sao hay là khi mặt trăng và gió chọc thủng những đám mây, thì
cái đại lộ này bỗng trở nên kinh khủng. Những đường nét thẳng đâm sâu vào đêm
tối và mất hút đi những khúc đường của vô tận. Người qua đường không thể không
nghĩ tới những cảnh treo cổ quen thuộc của vùng này. Cái vắng vẻ của một nơi đã
xảy ra bao nhiêu tội ác, thật có một cái gì ghê rợn. Trong cái bóng tối đen
này, người ta cảm thấy có những cạm bẫy, tất cả những hình dáng mơ hồ của bóng
tối đều đáng nghi đáng sợ và những khoảng vuông trống rỗng ở giữa những bóng
cây có vẻ là những huyệt chôn người. Ban ngày thì xấu xí, chiều lại thê thảm,
đến đêm quả ghê rợn.
Mùa nực,
lúc sẩm tối người ta thấy ở một vài chỗ những bà già ngồi dưới gốc cây du hay
trên những tấm ghế dài mốc meo vì dầm mưa. Những bà già ấy đôi khi cũng ngửa
tay xin tiền.
Những
cái khu phố có vẻ xưa chứ không cổ ấy bây giờ mỗi ngày một thay đổi. Ngay hồi
bấy giờ ai muốn biết cái khu phố ấy thì phải đến mau. Mỗi ngày một nét của cái
khu phố cũ nát ấy mất đi. Và bây giờ thì hai mươi năm rồi, cái “bến” xe lửa đi
Oóclêăng đã đặt tại đây, bên cạnh khu phố ngoại thành cũ và nhào gọt cho nó
thay đổi. Ở rìa một thủ đô, chỗ nào đặt một bến xe lửa thì ở đó khai tử một khu
ngoại ô và khai sinh một thành phố. Hình như xung quanh những trung tâm hoạt
động của các dân tộc, trong tiếng sấm rền của những cái máy cực kỳ mạnh ấy,
trong hơi thở của những con ngựa quái đản của văn minh ngốn than và phun lửa,
lòng đất đầy mầm sống rung động và mở ra để nuốt những chỗ ở cũ của con người
và làm hiện lên những chỗ ở mới. Những nhà cũ đổ xuống và những nhà mới mọc
lên.
Từ khi
nhà ga Oóclêăng lấn chiếm đất đai của khu Xanhpêtơrie, những phố cũ chật hẹp ở
gần những phố Xanh Vichto và vườn Bách thảo, rung chuyển mỗi ngày ba, bốn lần,
vì những đoàn xe ngựa chở khách, xe ngựa con, xe buýt chạy xuyên qua và trong
một thời gian nhất định làm cho hai dãy nhà bên trái bên phải lùi lại. Có nhiều
sự việc nói ra thì lạ lùng nhưng lại rất chính xác, cũng như có thể nói rất
đúng, trong các thành phố lớn mặt trời làm cho các mặt nhà quay về phía nam như
sống dậy và lớn lên, cũng rất có thể nói rằng việc qua lại thường xuyên của xe
cộ làm cho các đường phố rộng ra. Những triệu chứng của một cuộc sống mới thật
rõ rệt. Trong cái khu phố tỉnh nhỏ có những ngõ ngách hoang vu nhất này, nền
đường bắt đầu bày ra, vỉa hè bắt đầu bò và kéo dài, ngay ở những chỗ chưa có ai
qua lại. Một buổi sáng, một buổi sáng đáng ghi nhớ vào tháng 7 năm 1845, bỗng
nhiên người ta thấy những cái nồi nấu nhựa đường bốc khói. Ngày hôm ấy người ta
có thể nói rằng văn minh đã đi đến phố Luôcxinơ và Paris đã đi vào ô Xanh
Mácxô.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 4: CĂN NHÀ NÁT GORBÔ
Chương 2
TỔ DÀNH CHO CÚ VÀ BẠC MÁ
Giăng
VanGiăng dừng lại ở trước cửa chính cái nhà nát Gorbô ấy. Cũng như loại chim
dữ, ông ta đã tìm chỗ xa vắng nhất để làm tổ.
Ông lục
túi áo ghi lê, lấy một chiếc chìa khóa vạn năng mở cửa, đi vào rồi đóng lại cẩn
thận và leo lên thang gác, lưng vẫn cõng con Côdét.
Lên hết
cầu thang, ông móc túi lấy ra một chiếc chìa khóa khác và mở một cửa khác. Cái
phòng ông vừa vào là một gian phòng tồi tàn nhưng khá rộng, về đồ đạc chỉ có
một cái nệm đặt dưới đất, một chiếc bàn và mấy cái ghế tựa. Một lò sưởi đặt ở
góc, đang cháy, từ ngoài nhìn thấy than hồng. Ngọn đèn đường soi lờ mờ cảnh nhà
nghèo nàn ấy. Cuối phòng, có một cái buồng đặt một chiếc giường giát cứng.
Giăng VanGiăng mang con bé đặt nằm lên chiếc giường đó, nó vẫn không tỉnh dậy.
Ông bật
máy lửa đốt cây nến. Máy lửa, nến đều đặt sẵn trên bàn từ trước. Cũng như tối
hôm qua, Giăng VanGiăng ngắm Côdét với đôi mắt say sưa trong đó vẻ nhân từ và
niềm âu yếm như đến mức điên dại. Con bé bình tĩnh tin cậy như người khỏe tuyệt
đối hoặc như kẻ yếu vô cùng, trước đây đã ngủ thiếp đi mà không cần biết mình
đang ở nơi nào.
Giăng
VanGiăng nghiêng mình hôn tay con bé đó.
Chín
tháng trước, ông đã hôn tay người mẹ, lúc đó cũng vừa ngủ.
Một niềm
đau thương lẫn kính cẩn thắt gan thắt ruột tràn ngập lòng ông.
Ông quỳ
xuống bên cạnh giường Côdét.
Trời đã
sáng rõ mà con bé còn ngủ. Ánh sáng nhợt nhạt mặt trời tháng chạp xuyên qua cửa
sổ, in lên trần nhà những vệt dài. Thình lình, một chiếc xe chở đá chất nặng đi
qua đại lộ làn chuyển căn nhà như một tiếng sấm trời giông và làm rung động nó
từ nền đến mái. Côdét bừng tỉnh, kêu:
- Vâng,
thưa bà! Con đây! Con đây!
Và nó
nhảy từ giường xuống, mắt còn nửa nhắm nửa mở vì ngái ngủ. Nó đưa tay vào góc
buồng, miệng nói:
- Chao
ôi! Cái chổi của tôi đâu rồi?
Nó mở
hẳn mắt và trông thấy gương mạt tươi cười của ông Giăng. Nó nói:
- Ô!
Này, mà thật! Con chào ông.
Khi niềm
vui và hạnh phúc đến thì trẻ con tiếp nhận ngay, tiếp nhận không kiểu cách bởi
vì chính chúng là niềm vui và nguồn hạnh phúc.
Côdét
nhìn thấy Catơrin ở cuối giường và vồ lấy. Nó vừa chơi vừa hỏi ông Giăng hàng
trăm câu hỏi:
- Đây là
đâu? Paris có lớn không? Bà Tênácđiê có quả là ở xa không? Bà có trở về
không?... Đột nhiên, nó kêu: - Chao ôi! Ở đây xinh quá!
Thật ra
đây là căn nhà tồi tàn xấu xí. Nhưng mà nó cảm thấy tự do. Lát sau nó nói tiếp:
- Con có
phải quét nhà không?
- Con
chơi đi – Giăng VanGiăng nói.
Ngày hôm
đó trôi qua như vậy. Không cần tìm hiểu gì hết, Côdét cảm thấy sung sướng không
xiết kể giữa con búp bê đó và ông già kia.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 4: CĂN NHÀ NÁT GORBÔ
Chương 3
HAI BẤT HẠNH HỢP THÀNH HẠNH PHÚC
Hôm sau,
tảng sáng, Giăng VanGiăng vẫn còn ngồi bên giường Côdét. Ông ngồi lặng yên, chờ
con bé dậy.
Một cái
gì mới lạ nảy nở trong tâm hồn Giăng VanGiăng.
Ông chưa
từng biết yêu bao giờ. Hai mươi lăm năm nay, một thân ông trơ trọi trên đời.
Ông chưa hề làm cha, làm người yêu, làm chồng, làm bạn. Trong tù thì xấu tính
xấu nết, lầm lì, trai giới, dốt nát, dữ tợn. Tấm lòng người tù già ấy còn lắm
điều trinh khiết. Người chị và mấy đứa cháu chỉ còn là những hình ảnh phai mờ,
xa xôi, hầu như không còn gì nữa. Ông đã hết sức thăm dò tìm kiếm mà không
thấy, nên rồi cũng quên mất. Con người vẫn thế. Những kỷ niệm êm đềm thời niên
thiếu, nếu có đi nữa, cũng đã chìm trong vực thẳm.
Lúc thấy
Côdét, lúc bắt nó mang về, lúc giải thoát được cho nó, ông thấy lòng mình bồi
hồi xúc động.
Những
tình cảm thiết tha, trìu mến thức dậy trong lòng, trút cả vào con bé. Ông lại
gần giường nó ngủ, run run sung sướng. Ông thấy lòng quặn đau như lòng người
mẹ, mà không biết nó là cái gì. Trái tim lúc bắt đầu yêu có những xúc động lớn
lao, lạ lùng; thật là huyền bí, êm đềm.
Thương
thay, tấm lòng già còn thơ dại.
Nhưng vì
ông đã năm mươi lăm tuổi mà Côdét mới lên tám nên tất cả yêu đương mà trái tim
ông suốt đời có thể chứa đựng được đã hòa tan thành một nguồn ánh sáng êm đềm
không sao tả được.
Đây là
lần thứ hai trong đời Giăng VanGiăng được thấy màu trắng hiển hiện. Trước kia,
ông giám mục đã làm thức tỉnh đạo đức, rạng rỡ như buổi bình minh, bây giờ
Côdét thức tỉnh tình yêu trong lòng ông, như buổi bình minh thứ hai.
Những
ngày đầu trôi qua trong cảnh xán lạn đó.
Về phần
Côdét cũng vậy, Côdét cũng biến đổi, nhưng tội nghiệp, nào nó có biết đâu. Nó
xa mẹ từ ngày còn bé tí, nay không còn nhớ gì nữa. Côdét cũng như mọi trẻ khác,
giống như cành nho con, gặp gì cũng quấn lấy, nó tìm để mà yêu. Nhưng nào có
được. Ai ai cũng ruồng rẫy nó, từ vợ chồng Tênácđiê, đến hai đứa con, cả trẻ
khác nữa. Nó mới yêu con chó thì con chó lăn ra chết. Chẳng ai thèm chơi với
nó, cái gì cũng muốn xa nó. Như đã nói ở trên, mà nói ra thì thật là bi thảm,
con bé mới tám tuổi đầu mà lòng đã nguội lạnh. Có phải lỗi ở nó đâu, đâu có
phải con bé không biết yêu, song, có ai đâu để mà yêu chứ. Thành ra ngay từ hôm
đầu, nó thương yêu ông già thắm thiết. Nó có một cảm giác lạ lùng chưa từng
thấy bao giờ; lòng nó như bừng nở.
Mắt nó
nom ông già không thấy già nua, nghèo khổ. Nó thấy Giăng VanGiăng đẹp tựa như
nó thấy căn nhà này xinh vậy.
Đó là
những ảo ảnh mà bình minh, ngày thơ ấu, tuổi thanh xuân, hạnh phúc đem lại.
Cảnh vật mới mẻ, cuộc sống mới mẻ cũng có phần tác động nữa. Không có gì đẹp
bằng những màu sắc long lanh của hạnh phúc trong một gian nhà tiều tụy. Trong
quá khứ, chúng ta đều có một cái ổ xanh tươi.
Thiên
nhiên, cái khoảng cách dài năm mươi năm đã đào một cái hố sâu giữa Giăng
VanGiăng và Côdét. Cái hố ngăn cách ông đã được số mệnh lấp bằng. Số mệnh đã
đột ngột gắn liền với một sức mạnh không gì ngăn cản nổi, hai cuộc đời bật rễ,
khác nhau về lứa tuổi mà giống nhau về tóc tang. Cuộc đời này bổ sung cho cuộc
đời kia. Bản năng dẫn Côdét đi tìm một người cha, bản năng dẫn Giăng VanGiăng
đi tìm một người con. Gặp nhau là đã tìm thấy nhau rồi. Khi hai cái bàn tay của
họ chạm vào nhau thì tức khắc đã gắn liền với nhau, cùng trong một phút giây
huyền bí. Khi hai tâm hồn ấy trông thấy nhau thì đã nhận ra nhau, người nọ nhận
ra ở người kia con người mà họ đang cần; và họ đã ôm chặt lấy nhau.
Dùng
danh từ với cái nghĩa dễ hiểu nhất và tuyệt vời nhất, ta có thể nói rằng, cách
biệt với tất cả cuộc đời như giữa những bức tường của nhà mồ, Giăng VanGiăng là
người đàn ông góa bụa, Côdét là đứa trẻ mồ côi. Trong hoàn cảnh ấy Giăng
VanGiăng đã trở thành một cách thiêng liêng, người cha của Côdét.
Thực ra
cái cảm giác huyền bí mà Côdét thấy trong rừng sâu, khi bàn tay Giăng VanGiăng
nắm tay em trong bóng tối, không phải là một ảo tưởng mà là một điều có thực.
Giăng VanGiăng đến với em bé ấy tức là Chúa đã đến với em.
Giăng
VanGiăng đã khéo chọn được nơi này mà ẩn náu. Hình như được hoàn toàn yên thân.
Căn
buồng mà ông cùng với Côdét ở, có cửa sổ trông ra phố. Cả nhà chỉ có độc một
cái cửa sổ này, nên không sợ có kẻ nào nhòm nom vào được, cả hai bên hay từ
trước mặt cũng thế.
Tầng
dưới ngôi nhà số 50-52 là một cái kho đổ nát, dùng làm nơi chứa xe của bọn hàng
rau, nhà dưới không có lối nào lên tầng trên được. Sàn gác không đục cửa, không
có cầu thang, thành thử tầng trên tầng dưới cách biệt hẳn nhau như có một cái
màng ngăn vậy. Tầng trên có nhiều buồng và mấy gian gác xép, bà già giúp việc
Giăng VanGiăng ở một gian, còn thì bỏ không cả.
Bà già
này gọi là người thuê nhà chính cho đẹp, chứ thật ra chỉ có nhiệm vụ gác cổng.
Bà ấy đã cho Giăng VanGiăng thuê lại cái buồng, đúng hôm lễ Giáng sinh. Ông tự
xưng là một nhà tư sản bị khánh kiệt trong vụ quốc trái Tây Ban Nha, nên ông
đến đây ở với đứa cháu gái. Ông trả tiền nhà trước sáu tháng và nhờ bà già sắm
cho ít đồ đạc bày biện trong buồng như ta vừa thấy. Bà ấy đã chu đáo đốt lò và
sửa soạn mọi thứ, tối hôm ấy ông đưa đứa nhỏ về.
Mấy tuần
lễ qua. Hai con người ấy sống sung sướng trong căn nhà khốn khổ. Vừa bảnh mắt
đã thấy Côdét cười, nói bi bô, ca hát. Trẻ đứa nào sáng dậy chả hát như chim
hót. Đôi khi Giăng VanGiăng cầm cái bàn tay nhỏ tím bầm, nứt nẻ, và nâng lên
môi hôn. Đứa trẻ xưa nay chỉ biết có roi vọt không hiểu gì cả và bẽn lẽn chạy
ra.
Cũng có
lúc em nghiêm nghị ngắm nhìn cái áo dài đen của em. Côdét không mặc áo rách nữa
mà bận đồ tang. Em đã ra khỏi cảnh nghèo khổ và bước vào cảnh đời.
Giăng
VanGiăng bắt đầu dạy chữ cho Côdét. Thỉnh thoảng khi dạy Côdét đánh vần, ông
nhớ lại ông đã tập đọc ở nhà lao với ý định là để làm điều xấu, nay hóa ra để
dạy một đứa trẻ học và người tù khổ sai mỉm cười cái nụ cười trầm tư của thiên
thần.
Ông cảm
thấy có sự xếp đặt trước của bề trên, một ý muốn không phải của người đời và
ông đắm đuối trong mơ mộng. Những ý tốt lành cũng sâu thẳm như những mưu đồ xấu
xa.
Bấy giờ
hầu như tất cả cuộc đời của Giăng VanGiăng chỉ là để dạy Côdét học và cho Côdét
chơi. Ông lại còn đem chuyện mẹ nó kể cho nó nghe và bảo nó cầu kinh.
Nó gọi
Giăng VanGiăng là cha; nó không biết ông còn có tên gì khác.
Ông ngồi
ngắm nó hết mặc áo rồi lại cởi áo cho búp bê, nghe nó nói rúc ra rúc rích hàng
giờ không chán. Từ nay, ông thấy cuộc đời đầy ý nghĩa, người đời ai cũng tử tế,
công bằng; trong thâm tâm ông không oán trách gì ai cả. Bây giờ, con bé ấy nó
yêu mến ông, thì chẳng tội gì mà không sống rõ lâu nữa. Côdét như một luồng ánh
sáng êm dịu rọi vào tương lai ông. Người ta tốt đến đâu cũng không tránh khỏi
những ý ích kỷ. Đôi khi ông có ý mừng khi thấy Côdét sau này sẽ chẳng nhan sắc
gì.
Sau đây
chỉ là một ý kiến riêng. Để nói hết, thì chúng tôi nghĩ rằng từ khi Giăng
VanGiăng đem lòng thương yêu Côdét như thế, thì mối tình ấy là khoản viện trợ
giúp cho ông tiếp tục sống một đời sống nhân hậu. Ông vừa được thấy lòng độc ác
của người đời, cái xã hội khốn nạn, dưới những khía cạnh mới; những khía cạnh
này chưa đầy đủ và chỉ biểu hiện một mặt của sự thật: số phận người đàn bà
trong hình ảnh Phăngtin, quyền lực của nhà nước trong nhân vật Giave. Ông lại
phải vào tù, lần này vào tù vì một điều thiện. Cuộc đời lại tràn ngập những nỗi
đắng cay. Ông lại chán nản, ngã lòng. Đôi khi, hình ảnh ông giám mục cũng bị
che lấp, tuy sau này lại hiện lên rực rỡ, vinh quang; nhưng dù sao hình ảnh
thiêng liêng ấy cũng mờ yếu dần. Biết đâu Giăng VanGiăng chẳng sắp nản lòng và
sa ngã lượt nữa? Nhưng ông yêu, nên lòng thêm mạnh mẽ. Lúc bấy giờ than ôi, ông
cũng đương bước cao bước thấp chẳng kém gì Côdét. Ông che chở cho Côdét, Côdét
làm cho lòng ông thêm vững vàng. Ông dắt Côdét đi trên đường đời và nhờ Côdét,
ông mạnh bước vào con đường đạo đức. Côdét nương tựa vào ông, còn ông, ông tựa
vào Côdét mà sống. Số phận con người điều hòa như vậy, thật là bí ẩn huyền diệu
vô cùng.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 4: CĂN NHÀ NÁT GORBÔ
Chương 4
NHỮNG NHẬN XÉT CỦA BÀ CHÁNH TRƯƠNG
Giăng
VanGiăng cẩn thận không ra khỏi nhà ban ngày bao giờ. Chiều nào cũng đợi lúc
nhá nhem tối ông mới đi chơi độ một, hai tiếng đồng hồ, đôi khi một mình, nhưng
thường thì dắt Côdét đi theo; có đi cũng chọn những con đường phụ bên cạnh đại
lộ, rất vắng vẻ hoặc vào các nhà thờ lúc tối mịt; ông ưa nhất vào nhà thờ Xanh
Mêđa là nhà thờ gần nhất. Khi ông đi một mình thì Côdét ở nhà với bà già. Nó
thích được đi chơi với ông hơn; ngay những lúc rủ rỉ rất lý thú với Catơrin nó
cũng không thích bằng. Ông dắt tay nó, vừa đi vừa kể những câu chuyện vui vui.
Côdét (
cosette) sống những ngày vui vẻ.
Bà già
thì làm việc nhà, nấu ăn và đi chợ.
Đời sống
đạm bạc, như của người túng bấn, tuy trong nhà bao giờ cũng đốt ngọn lửa nhỏ
trong lò sưởi. Đồ đạc vẫn y nguyên như ngày đầu; duy chỉ có cái cửa ngăn phòng
Côdét bằng kính thì ông thay bằng cửa gỗ bịt kín.
Ông vẫn
mặc cái áo khoác vàng, cái quần chẽ màu đen, vẫn đội cái mũ dạ cũ. Ra đường, ai
cũng tưởng ông là kẻ nghèo khó. Có khi có những bà hảo tâm quay lại cho ông một
xu. Giăng VanGiăng nhận tiền rồi kính cẩn vái chào. Cũng có khi ông gặp một
người rách rưới đi ăn xin; thế là ông nhìn phía sau xem có ai trông thấy mình
không, rồi rón rén đến gần, dúi cho một đồng tiền, thường là một đồng hào bạc,
và rảo cẳng bước đi cho nhanh. Làm thế cũng có điều bất lợi. Trong xóm nhiều
người bắt đầu biết ông và gọi ông là kẻ ăn mày hay bố thí.
Bà già
thuê chung nhà, vốn là người quàu quạu, lúc nào cũng chỉ rình rình ghen tị kẻ
khác; mụ thường dò xét Giăng VanGiăng luôn mà ông không hề biết. Mụ hơi nghễnh
ngãng, nên lại càng bép xép tợn. Dĩ vãng còn để lại cho mụ hai cái răng, một
cái ở hàm trên, một cái ở hàm dưới, lúc nào cũng cộc vào nhau. Mụ hỏi dò Côdét;
con bé chẳng biết gì nên cũng chẳng nói được gì, ngoài cái chuyện nó ở Môngphecmây
lên đây. Một buổi sáng, mụ thấy Giăng VanGiăng vào một căn buồng bỏ trống, coi
có vẻ khác ý. Mụ vội rón rén đi theo như con mèo già; mụ nhòm qua khe cửa nhìn
ông mà ông không biết. Ý chừng ông cũng đề phòng cẩn thận nên quay lưng ra phía
cửa. Mụ thấy ông lục túi lấy ra một cái bao có cái kéo và sợi chỉ; ông tháo lần
lót ở vạt bên cái áo khoác, lôi ra một mảnh giấy vàng vàng rồi mở ra. Mụ nhận
ra là tờ giấy bạc một ngàn quan, mụ choáng váng cả người. Từ thuở cha sinh mẹ
đẻ, lần này là lần thứ hai thứ ba gì đó mụ mới được trông thấy tờ giấy bạc một
ngàn. Mụ hãi quá, chạy biến đi.
Một lát
sau, Giăng VanGiăng tìm mụ nhờ đi dổi hộ tờ giấy bạc một ngàn, nói là tiền lời
tiết kiệm mới lĩnh ngày hôm qua. Mụ nghĩ bụng: - Lĩnh ở đâu? Mãi sáu giờ tối
lão ta mới đi, mà kho bạc nhà nước đâu có mở vào giờ đấy. Mụ đi đổi tờ giấy và
cứ phỏng đoán thế này thế khác. Tờ giấy bạc một ngàn được bàn tán và nhân lên
thành đầu đề của vô số những câu chuyện kinh ngạc trong đám đàn bà rỗi mồm ở
phố Vinhơ Xanh Mácxen. ( Saint Maixent)
Mấy hôm
sau, chợt có lần Giăng VanGiăng cởi áo khoác ra cửa gỗ ở ngoài hành lang. Mụ
già thì quét dọn ở trong buồng có một mình; lúc ấy Côdét ( Cosette) mải thích
thú ngắm nhìn những mảnh gỗ vừa xẻ. Mụ thấy cái áo khoác mắc trên một cái đinh;
mụ nhìn kỹ: chỗ lót đã khâu kín lại. Mụ già nắn rõ kỹ thì hình như thấy hai bên
vạt áo và những chỗ lót cồm cộm những giấy. Thôi chắc là toàn giấy bạc một ngàn
rồi!
Mụ còn
thấy ở túi áo vô khối thứ: ngoài kéo, kim, chỉ đã nom thấy hôm nọ, còn có một
cái ví lớn, một con dao to tướng và mấy bọ tóc giả các màu, cái đó mới đáng
nghi. Mỗi túi áo ra vét là một cái cẩm nang để đề phòng những việc bất trắc.
Ngày qua
tháng lại, chẳng mấy chốc mà mùa đông đã tàn.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 4: CĂN NHÀ NÁT GORBÔ
Chương 5
MỘT ĐỒNG NĂM PHƠRĂNG RƠI XUỐNG ĐẤT KÊU THÀNH TIẾNG
Gần nhà
thờ Xanh Mêđa, thường có một người nghèo khó ngồi co ro trên bờ giếng công cộng
nay đã bỏ không; Giăng VanGiăng hay cho người ấy tiền, không mấy khi đi qua mà
không cho vài xu. Đôi khi còn hỏi chuyện nữa. Những kẻ ghen ghét người ăn mày
kia thường bảo lão ta là đồ mật thám. Trước kia lão ta quét dọn nhà thờ, nay đã
bảy mươi lăm tuổi, lúc nào miệng cũng lẩm bẩm cầu kinh.
Một tối,
Giăng VanGiăng ( Jean Valjean) đi qua chỗ ấy một mình không dắt theo Côdét; ông
vẫn thấy người ăn mày ngồi chỗ cũ, dưới cột đèn vừa mới thắp. Cũng giống như
mọi ngày, người lão lom khom xuống và hình như vẫn cầu kinh. Giăng VanGiăng
(Jean Valjean) đến gần, đưa tiền bố thí vào tận tay lão. Lão vụt ngước mắt lên,
nhìn chòng chọng Giăng VanGiăng, rồi lại vội cúi đầu xuống. Thật nhanh như
chớp. Giăng VanGiăng giật bắn mình. Dưới ánh đèn, hình như ông thoáng thấy một
cái mặt ghê gớm, quen quen, chứ không phải cái mặt lờ đờ, ngớ ngẩn của lão quét
dọn nhà thờ. Ông có cảm giác như người ở trong bóng tối bỗng chạm trán một con
cọp. Ông hết vía lùi lại, người ngây đờ ra, không dám thở, không dám nói, đứng
lại cũng không dám mà chạy trốn cũng không; ông nhìn kỹ người ăn mày đã cúi gằm
xuống, đầu che một mảnh giẻ, làm như không biết có ông đứng đấy nữa. Giây phút
lạ lùng ấy, linh tính, có lẽ là bản năng sinh tồn, xui ông không nên hé môi nói
một lời. Người ăn mày, vẫn cái tầm vóc ấy, vẫn bộ quần áo tả tơi, vẫn hình dáng
mọi ngày. Giăng VanGiăng tự bảo: - Quái! Mình điên à! Mê ngủ rồi! Vô lý!
Hôm ấy,
ông về nhà, lòng vô cũng bối rối.
Ông
không dám quả quyết với mình rằng cái mặt ông vừa thoáng thấy là mặt thằng
Giave (Javert).
Đêm ấy
nghĩ ngợi mãi, ông tiếc sao không hỏi chuyện người kia để bắt nó phải ngẩng mặt
lên lượt nữa.
Chập tối
hôm sau, ông lại ra chỗ ấy. Người ăn mày vẫn ngồi nguyên chỗ cũ. Giăng VanGiăng
cho lão một xu và quả quyết nói: “Chào ông lão”. Người ăn mày ngẩng đầu lên,
rầu rĩ đáp: “Xin đa tạ ông”. Đúng là lão quét nhà thờ.
Giăng
VanGiăng thấy hoàn toàn yên dạ. Ông cười một mình nghĩ thầm: thế quái nào hôm
qua lại trông ra thằng Giave được? Không biết mình có quáng gà không đây. Rồi
ông không nghĩ đến chuyện ấy nữa.
Mấy hôm
sau, lúc ấy khoảng tám giờ tối, ông đang ở trong buồng dạy Côdét tập đánh vần
lên thành tiếng thì nghe thấy cửa dưới nhà mở ra rồi đóng lại. Ông lấy làm lạ.
Nhà chỉ có độc một bà già; mụ cứ chập tối là đi ngủ để khỏi tốn nến. Ông ra
hiệu cho Côdét im tiếng. Có tiếng người lên thang gác. Cùng lắm, có thể là mụ
già giở giời làm sao mà đi mua thuốc về. Giăng VanGiăng lắng tai nghe. Tiếng
chân bước nghe nặng nề, lộp cộp như chân đàn ông; nhưng mụ già vẫn đi thứ giày
to và bước chân bà già thì rất giống với bước chân đàn ông. Tuy vậy, ông cũng
vụt tắt cây nến.
Ông cho
Côdét đi ngủ, khẽ dặn: - Con im lặng ngủ đi nhé. Lúc ông ôm hôn trán nó thì
tiếng đi bên ngoài cũng ngừng lại. Ông ngồi yên, không nhúc nhích, không lay
động chiếc ghế, lưng quay ra phía cửa, không dám thở mạnh. Được một lúc khá
lâu, không thấy gì ông mới khẽ quay đầu nhìn ra phía cửa: ở lỗ khóa có ánh
sáng, trông như một ngôi sao quái gở mọc giữa khoảng tối đen của cánh cửa và
bức tường. Đích là có người cầm nến nghe ngóng ở bên ngoài.
Mấy phút
sau, cái ánh sáng ấy bỏ đi chỗ khác. Nhưng tuyệt không nghe thấy tiếng động;
tức là người đến nghe trộm ngoài cửa đã tháo giầy ra.
Giăng
VanGiăng để nguyên cả quần áo vật mình nằm trên giường, suốt đêm không chợp
mắt.
Lúc rạng
sáng, ông mệt quá thiếp đi thì có tiếng kẹt cửa ở mãi căn buồng cuối hành lang;
ông tỉnh dậy. Vẫn tiếng chân người lên cầu thang tối hôm qua. Tiếng chân tiến
lại gần. Ông nhảy xuống đất, áp mắt vào lỗ khóa, cũng khá to, định bụng xem
người ấy là ai mà đêm hôm lại vào nhà mình mà nghe trộm như thế. Quả nhiên thấy
một người đàn ông đi qua, nhưng lần này thì không dừng lại ở trước cửa buồng
nữa. Ngoài hành lang, lúc bấy giờ còn tối, không được rõ mặt. Nhưng khi người
ấy đến đầu cầu thang thì có ánh sáng bên ngoài chiếu vào, làm nổi rõ cái bóng
đen đang đi; Giăng VanGiăng nom rõ phía sau lưng. Người ấy cao lớn, mặc một cái
áo khoác dài, nách cắp một cái dùi cui. Đích thị là cái thân hình vạm vỡ của
Giave.
Giăng
VanGiăng vó thể ra cửa sổ trông ra đường, nhìn lại cho rõ. Nhưng lại phải mở
cửa, ông không dám.
Tất
nhiên người ấy phải có chìa khóa riêng nên mới ra vào tự nhiên như ở nhà mình
như thế. Chìa khóa ấy ai cho? Thế này là thế nào?
Đến bảy
giờ sáng, bà già vào buồng dọn dẹp; Giăng VanGiăng nhìn mụ như muốn thăm dò,
nhưng không lên tiếng hỏi. Bà già vẫn bình thường như mọi ngày.
Vừa quét
nhà mụ vừa bảo:
- Chắc
đêm qua ông cũng nghe thấy có người vào nhà chứ?
Đến tuổi
ấy mà lại ở cái phố ấy thì mới tám giờ tối cũng đã gọi là đêm sâu rồi. Ông cố
lấy giọng điềm tĩnh trả lời:
- Ừ, có.
Ai thế?
- Một
người thuê nhà mới nữa.
- Tên là
gì?
- Cũng
chả nhớ. Cái ông Đuymông hay là Đômông gì đó, cũng chẳng biết. Đại khái như
thế.
- Thế
ông Đômông ấy làm gì?
Bà già
ranh mãnh nhìn ông, đáp:
- Ấy,
cũng sống về lợi tức tiết kiệm như ông đấy.
Có lẽ mụ
chẳng có ác ý gì. Nhưng Giăng VanGiăng thì đem lòng ngờ vực.
Khi mụ
ra khỏi cửa, ông mở tủ lấy ra số tiền một trăm phơrăng có trong tủ, cuộn lại
rồi bỏ vào túi. Mặc dầu ông đã rất gượng nhẹ chân tay để người ngoài khỏi nghe
thấy tiền xủng xẻng, một đồng một trăm xu cũng lọt tay rơi xuống rồi lăn leng
keng trên sàn gạch.
Trời nhá
nhem, ông xuống nhà nhìn tứ phía rất cẩn thận. Không một bóng người. Đường vắng
tanh vắng ngắt. Duy chỉ sợ có người nào nấp sau cây.
Ông lại
lên gác, bảo Côdét:
- Đi,
con.
Ông dắt
tay con bé, hai người bước ra đường.
Xem tiếp:
Xem tiếp:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét