NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
Người dịch: HUỲNH LÝ, VŨ ĐÌNH LIÊN, LÊ TRÍ VIỄN, ĐỖ ĐỨC HIỂU
G.S HUỲNH LÝ người xem lại toàn bản dịch
PHẦN 1 - QUYỂN I
CHƯƠNG 1
MỘT CHÍNH NHÂN QUÂN TỬ
ÔNG MIRIEN
Những
chú thích trong bản dịch này đều là của người dịch, trừ một vài chú thích có
ghi “của nguyên bản”
Khi pháp
luật và phong hóa còn đầy đọa con người, còn dựng nên những địa ngục ở giữa xã
hội văn minh và đem một thứ định mệnh nhân tạo chồng thêm lên thiên mệnh; khi
ba vấn đề lớn của thời đại là sự sa đọa của đàn ông vì bán sức lao động, sự
trụy lạc của đàn bà vì đói khát, sự cằn cỗi của trẻ nhỏ vì tối tăm, chưa được
giải quyết; khi ở một số nơi đời sống còn ngạt thở; nói khác đi và trên quan
điểm rộng hơn, khi trên mặt đất, dốt nát và đói khổ còn tồn tại thì những quyển
sách như loại này còn có thể có ích.
HÔTƠVIN – HAODƠ
NGÀY 1-1-1862
*****
Năm
1815, ông Sáclơ Frăngxoa Biêngvơnuy Mirien ( Charles-François-Bienvenu- Myriel)
làm giám mục ở Đinhơ (Digne). Đó là một ông lão chừng bảy mươi lăm tuổi, được
cử về đây từ năm 1806.
Điều sau
đây chẳng dính dáng tí gì đến nội dung câu chuyện chúng tôi kể, nhưng nêu ra
đây những tiếng đồn, những lời bàn tán về ông lúc ông đến địa phận, có lẽ cũng
không đến nỗi vô ích, dù chỉ là để cho mọi việc được chính xác. Đúng hay sai,
miệng thế thường chiếm trong cuộc đời, nhất là trong vận mệnh người khác, cũng
nhiều chỗ bằng công việc họ làm. Ông Myriel là con một vị bồi thẩm ở tòa thượng
thẩm Etxơ, dòng quý tộc văn thần. Người ta kể rằng, ông thân sinh định dành cho
ông thừa kế chức vụ của mình, nên đã kiếm vợ cho ông rất sớm, từ lúc ông còn
mười tám đôi mươi gì đấy, theo một thói tục khá phổ biến trong các gia đình tư
pháp. Sáclơ Mirien đã có vợ rồi đấy, nhưng theo dư luận, vẫn làm cho người ta
nói về mình khá nhiều. Ông ta tầm vóc hơi thấp bé, nhưng dáng người cân đối lại
phong nhã, duyên dáng, hóm hỉnh; cả quãng đời thanh niên chỉ dành cho việc giao
du và trò ong bướm. Cách mạng xảy đến, sự biến dồn dập, các gia đình tư pháp bị
tổn vong, xua đuổi, truy lùng, tản mát mọi nơi. Ngay từ những ngày đầu Cách
mạng, Sáclơ Mirien đã di cư sang Ý. Vợ ông ta chết bên ấy vì một bệnh phổi mắc
sẵn từ rất lâu. Hai vợ chồng không có con. Sau đó cái gì xảy ra trong thân thế
Mirien? Sự sụp đổ của xã hội cũ, sự sa sút của chính gia đình mình, những cảnh
tượng bi thảm năm 93, có lẽ còn ghê sợ hơn đối với những kẻ di cư, vì đã hoảng
hốt mà ở xa thì nhìn cái gì cũng thành phóng đại, tất cả những cái đó phải
chăng đã gieo vào trí ông ta những ý nghĩ từ bỏ công danh, mến đời ẩn dật?
(1793: Năm cách mạng Pháp trấn áp kẻ thù dữ dội nhất và xử tử cả vua Louis XVI.
Cũng có những vụ trừng trị sai lầm nhất định.) Có phải, giữa những cuộc vui
chơi và những tình cảm choán hết cuộc đời, bỗng dưng ông bị giáng một đòn thần
bí, kinh khủng, ngón đòn có khi chỉ vì đánh trúng tim nên quật đổ con người mà
lâu nay các tai họa công cộng đánh vào cuộc sống và tài sản không sao lay
chuyển nổi? Không một ai có thể trả lời được. Chỉ biết một điều là khi từ Ý trở
về, ông ta đã là một cố đạo.
Năm
1804, ông Mirien làm cha xứ ở Brinhôn (Brignolles). Ông đã già và sống cuộc đời
ẩn dật.
Vào
khỏang lễ đăng quang, ông phải lên Paris vì có chút việc của nhà xứ, việc gì
thì không ai nhớ nữa. Trong số những nhà quyền thế mà ông đến nhờ vả cho con
chiên của ông, có đức giáo chủ Phếch (Cardinal Fesch). Một hôm hoàng đế đến
thăm cậu, ông linh mục đức độ ấy đang đợi ở phòng khách nên gặp ngài lúc ngài
đi qua. Ngài thấy ông nhìn mình có vẻ tò mò, liền quay lại đột ngột hỏi:
- Lão
nhân là ai mà nhìn ta kỹ thế?
Ông
Mirien đáp:
- Tâu bệ
hạ, bệ hạ nhìn một lão nhân, còn hạ thần thì nhìn một vĩ nhân, bên nào cũng
được lợi cả.
Ngay tối
hôm ấy hoàng đế hỏi giáo chủ tên vị cha xứ và sau đó ít lâu, ông Mirien rất
ngạc nhiên được tin mình thăng chức giám mục thành Đinhơ.
Chẳng ai
biết thực hư trong những câu chuyện người ta kháo nhau về đoạn đầu của cuộc đời
ông. Có mấy nhà quen thuộc gia đình ông hồi trước Cách mạng đâu! Thành ra ông
cũng phải chịu cái số phận chung của những người xa lạ mới đến ở một thành phố
nhỏ có lắm kẻ rỗi mồm mà ít người chịu khó suy nghĩ. Ông đành chịu vậy mặc dù
ông làm giám mục và chính vì ông làm giám mục. Thật ra, những chuyện xì xào về
ông chỉ là những chuyện xì xào, những tiếng đồn đại, những lời nói vào nói ra
thôi, nghĩa là toàn những chuyện ba láp cả, như cách nói mạnh mẽ của miền Nam.
(Nguyên văn: Palares: khẩu ngữ Pháp cổ, nghĩa từ nguyên là tặng vật linh tinh
trao cho một vua hoặc tù trưởng Châu Phi, nghĩa rộng là chuyện dông dài vô bổ.
Hình như danh từ này đã nhập tích vào miền Nam Việt Nam và trở thành: ba láp).
Dù sao,
chín năm trời ông làm giám mục ở Đinhơ (Digne), những chuyện thóc mách người
tỉnh nhỏ ưa đem ra bàn tán buổi đầu ấy dần dần rồi cũng bẵng đi hết. Chẳng một
ai dám nói, mà cũng chẳng một ai dám nhớ đến nữa.
Đến nhận
chức ông có đem theo một người em gái, cô Baptistin (Mell Baptistine). Cô kém
ông anh mười tuổi, ở vậy không lấy chồng. Trong nhà độc một người ở, trạc tuổi
cô em, gọi là bà Magơloa (Mme Magloire). Trước kia bà là vú già của Cha xứ,
nhưng nay bà lại kiêm hai chức, vừa là hầu phòng của cô em, vừa là quản gia của
đức giám mục.
Cô
Baptistine người cao lại lép, nước da xanh tái, nét mặt hiền hậu. Cô thực là
một người đáng trọng, vì hình như đàn bà có làm mẹ mới gọi là đáng kính được.
Cô không phải là người có nhan sắc, nhưng một đời tận tụy làm việc thiện đã làm
cho cô có một vẻ gì trong trắng và lúc về già được thêm cái vẻ nhân hậu. Dáng
người mảnh dẻ của thời con gái nay đã nhuốm vẻ thanh cao trong sáng của bậc
thiên thần. Cô không phải chỉ là một trinh nữ, cơ hồ cô là một linh hồn. Người
cô như một cái bóng. Chỉ một chút thể xác để biết là phụ nữa thôi; một chút thể
chất rạng chói hào quang. Hai con mắt to lúc nào cũng nhìn xuống; một cái cớ
cho linh hồn nán lại chốn trần tục.
Bà
Magơloa là một bà già thấp bé, da trắng, béo tròn, lúc nào cũng tất tả, cũng thở
hổn hển, một phần vì hoạt động, một phần vì chứng hen.
Khi ông
Mirien đến nhậm chức, người ta đã đón rước ông về dinh giám mục với mọi nghi lễ
long trọng đúng quy chế nhà vua ban hành. Quy chế này xếp ông liền ngay sau
chức thiếu tướng. Ông thị trưởng và ông chánh án đến thăm ông đầu tiên; phần
ông, trước hết ông cũng đến thăm ông thiếu tướng và ông tỉnh trưởng.
Xếp đặt
xong xuôi, ai nấy chờ xem ông giám mục tỉnh nhà bắt tay vào việc.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 1
CHƯƠNG 2
ÔNG MIRIEN THÀNH ĐỨC CHA BIÊNGVƠNUY
M Myriel devient Monseigneur Bienvenu
(Biêngvơnuy ( Bienvenu) là tên đệm của ông Mirien nhưng cũng
có nghĩa là “người được mong đợi”)
Dinh
giám mục thành Đinhơ ở sát ngay nhà thương. Đó là một tòa biệt thự to lớn và
lịch sự, xây toàn bằng đá từ đầu thế kỷ trước. Người xây dựng nó là đức cha
Hăngri Puygiê (Henri Puget), tiến sĩ thần học trường đại học Paris, viện trưởng
tu viện Ximo ( Simore), từ năm 1712 làm giám mục thành Đinhơ. Tòa biệt thự này
quả là một lâu đài lãnh chúa. Chỗ nào cũng uy nghi, nhà riêng của giám mục,
phòng khách, phòng ngủ, sân chơi rộng rãi với những lối dạo có vòm cuốn, theo
kiểu Phơlorăngxơ thời xưa, vườn thênh thang đầy những cổ thụ. Phòng ăn cao
rộng, đẹp đẽ, ở ngay tầng dưới, trông ra vườn. Ở đấy ngày 21 tháng 7 năm 1714,
đức cha Hăngri Puygiê ( Henri Puget)đã thết tiệc trọng thể các đức cha Sáclơ
Bruyla đơ Giangli ( Charles Brûlart de Genlis), tổng giám mục – hoàng thân ở
Ămbroong (d' Embrun), Ăngtoan đơ Mêgrinhi (Antoine de Mesgrigny), tu sĩ dòng
thánh Frăngsơ (France), giám mục ở Grát, Philip đơ Văng đôm (Grasse , Philippe
de vendôme), Pháp quốc lễ thần, viện trưởng tu viện Thánh Ônôrê đơ Lôranh
(Saint Honoré de Lérins), Frăngxoa đơ Béctông đơ Griông (Fraçois de Breton de
Crillon), giám mục – nam tước ở Văngxơ ( Vence), Xêda đơ Xabrăng đơ Forcankiê,
(César de Sabran de Forcalquier)giám mục – thống đốc ở Glăngđơve (Glandève)và
Giang Xôanen (Jean de Forcalquier), linh mục giảng viện, giảng sư bình thời của
nhà vua, giám mục – thống đốc ở Giang Xơnê (Jean Soanen). Gian phòng bày chân
dung bảy nhân vật cao quí ấy, còn cái ngày đáng ghi nhớ, ngày 29 tháng 7 năm
1714, thì được khắc bằng chữ vàng trên một cái bàn cẩm thạch trắng.
Nhà
thương là một ngôi nhà thấp, chật hẹp có độc một tầng gác với một mảnh vườn
nhỏ.
Vừa đến
Đinhơ được ba hôm, đức giám mục sang thăm nhà thương. Thăm xong, ông cho mời
viên giám đốc đến nhà riêng.
- Ông
giám đốc bệnh viện, lúc này ông có bao nhiêu bệnh nhân?
- Bẩm có
hai mươi sáu người.
- Đúng,
tôi cũng đã đếm.
- Giường
họ nằm kê sát nhau quá, - viên giám đốc nói tiếp.
- Tôi
cũng đã nhận thấy vậy.
- Phòng
dưỡng bệnh chỉ là những buồng con, không khí tù hãm.
- Tôi
cũng thấy hình như thế.
- Lại
còn cái vườn nhỏ quá, không đủ chỗ cho những người mới hồi phục ra chơi khi
trời nắng ấm.
- Tôi
cũng nghĩ vậy.
- Vào
hồi có dịch, như năm nay vừa có dịch thương hàn, năm kia có dịch sốt phát ban,
người đến chữa có lúc hàng trăm, chúng tôi chẳng còn biết xoay xở ra sao.
- Tôi
cũng đã lo có điều như vậy.
- Bẩm
Đức Cha, cũng đành thôi, chứ biết làm thế nào - viên giám đốc nói.
Hai
người nói chuyện ở ngay chỗ phòng ăn rộng lớn dưới nhà. Ông giám mục trầm ngâm
một lúc rồi quay phắt lại hỏi viên giám đốc.
- Này,
ông thử tính xem riêng phòng này kê được bao nhiêu giường.
Viên
giám đốc sửng sốt kêu lên:
- Phòng
ăn của Đức Cha!
Ông giám
mục nhìn quanh nhà, như ước lượng, rồi lẩm bẩm:
- Dễ kê
được đến vài chục giường! – Rồi ông ta nói to: Này, ông giám đốc, tôi nói điều
này: theo tôi thì có lẽ có sự nhầm lẫn gì đây. Các ông đến hăm sáu người, mà
xếp vào năm sáu căn buồng con. Còn chúng tôi ở đây có ba người mà chiếm cả một
ngôi nhà có thể chứa sáu chục. Đúng là người ta nhầm. Các ông đã chiếm nhà tôi
còn tôi thì lại ở nhà các ông. Xin ông trả lại nhà cho tôi. Nhà của các ông là
ở bên này đây.
Ngay hôm
sau, hai mươi sáu bệnh nhân nghèo được sang ở dinh giám mục và ông giám mục dọn
đến ở bên nhà thương.
Ông
Mirien chẳng có của cải gì. Cha mẹ ông đã bị phá sản trong thời kỳ cách mạng.
Bà em có món thực lợi chung thân mỗi năm hưởng năm trăm phơrăng tiền lời đủ cho
bà chi dùng riêng về phần mình. Lương đồng niên giám mục được mười lăm nghìn
phơrăng. Ngay hôm dọn sang ở bên nhà thương, ông quy định một cách cố định việc
chi dùng số tiền ấy.
Chúng
tôi chép lại dưới đây sổ chi tiêu đó, do chính tay ông viết lấy:
Bản ghi
những khoản chi tiêu trong nhà:
- Cấp
cho chủng viện 1.500 phơrăng
- Hội
giảng đạo 100
- Cấp
cho nhà tu dòng Laza ở Môngđiđiê (lazariste de Montdidier)100
- Trường
tu sĩ hội truyền giáo nước ngoài ở Paris 200
- Hội
đức Thánh Thần 150
- Cơ sở
giáo hội ở Đất thánh 100
- Nhà
dục anh 300
- Cấp
riêng cho nhà dục anh ở Aclơ (Arles)50
- Công
cuộc cải thiện nhà lao 400
- Công
cuộc ủy lạo và phóng thích tù nhân 500
- Để
phóng thích những gia trưởng bị tù vì nợ 1.000
- Phụ
cấp các thầy giáo ít lương trong địa phận 2.000
- Cấp
cho kho lúa nghĩa thương vùng Thượng Anpơ (Hautes-Alpes)100
- Cấp
cho các trường con gái nghèo của Hội từ thiện ở Đinhơ (Digne),
Manôxcơ(Manosqu), và Xixtơrông (Sisteron)1.500
- Cấp
cho kẻ khó 6.000
- Khoản
chi tiêu cho riêng mình 1.000
TỔNG
CỘNG 15.000 phơrăng
Suốt
thời gian ở Đinhơ ông không hề thay đổi một khỏan nào trong bản dự toán đó. Thế
mà ông bảo là đã dự toán các khoản chi tiêu trong nhà rồi đấy.
Cách sử
dụng đồng tiền như vậy được cô em tuyệt đối tuân theo. Đối với người đàn bà đức
hạnh, ông giám mục vừa là bậc anh, vừa là Đức Cha. Trong gia đình ông là người
bạn, theo phép nhà thờ ông là bậc bề trên. Ông nói thì cô cúi đầu nghe. Ông làm
thì cô em hưởng ứng. Chỉ có người đầy tớ già, bà Magơloa, là có kêu ca chút ít.
Vì, như ta đã thấy, ông giám mục chỉ giữ lại cho mình có một nghìn phơrăng,
cộng với số tiền dưỡng lão của bà cô Baptistin, vị chi là một nghìn rười
phơrăng một năm, mà cả ba người ăn tiêu đều phải trông vào đấy cả.
Thế mà
lần nào có một cha xứ ở dưới làng lên, ông giám mục cũng cứ giữ lại thết cơm.
Được như thế là nhờ ở tính tiết kiệm nghiêm khắc của bà Magơloa và cách quản lý
khéo léo của cô Baptistine.
Một hôm,
bấy giờ ông đã làm giám mục ở Đinhơ được ba tháng, ông bảo:
- Như
thế này thì ta cũng túng lắm nhỉ!
Bà
Magơloa (Magloire)kêu lên:
- Làm gì
mà không túng! Đức Cha quên cả không xin lĩnh món tiền nhà nước cấp cho tòa
giám mục làm tiền xe trong thành phố và tiền lộ phí kinh lý trong hạt. Đó là lệ
của các giám mục ngày trước.
- Thế à!
Bà nói phải đấy.
Và ông
làm giấy đòi khoản tiền đó.
Ít lâu
sau, hội đồng hàng tỉnh lưu ý đến đơn của tòa giám mục, bỏ phiếu chuẩn cấp cho
ông món tiền hàng năm ba ngàn phơrăng theo khoản: Chi cho đức giám mục về tiền
xe ngựa và trạm phí, lộ phí kinh lý trong hạt.
Việc này
làm cho bọn tư sản trong tỉnh kêu ầm cả lên. Các vị nguyên lão nghị viện trước
kia có chân ở Viện Ngũ bách và tán thành cuộc đảo chính ngày 18 tháng Sa mù,
lại được hưởng một thái ấp lớn ở vùng Đinhơ, viết cho thượng thư bộ lễ, ông
Bigô đơ Prêamơnơ ( M. Bigot de Préameneu), một bức thư mật giọng bực tức. (Viện
ngũ bách: viện dân biểu gồm 500 người thời Cách mạng tư sản dân quyền Pháp, bị
Napoléon giải tán năm 1799; Cuộc đảo chính 18 Brumaire của Napoléon 1799 thiết
lập thể chế Tổng đài – Consulat mà y là Tổng đài đệ nhất, chuẩn bị cho nền Đế
chế I)
Xin
trích nguyên văn một đoạn:
“...Tiền
xe? Làm gì phải cần đến tiền xe ở một tỉnh chưa đến bốn nghìn dân? Lại tiền
trạm phí và lộ phí kinh lý nữa? Đi kinh lý làm gì đã chứ? Mà đi xe trạm thế nào
được trong xứ núi non này? Đường xá làm gì có. Chỉ có đi ngựa thôi. Đến như cái
cầu trên sông Đuyrăng ở Satô Acnu cũng còn khó khăn mới cho nổi chiếc xe bò đi
qua. Cái bọn cha cố đều như thế cả. Tham lam và keo bẩn. Lão này lúc mới đến
cũng làm ra vẻ chân tu lắm, nay thì cũng y như bọn khác. Cũng đòi xe với kiệu!
Cũng đòi xa hoa như các giám mục thời trước. Gớm cho bọn tu hú này! Thưa bá
tước, bao giờ hoàng đế trừ xong cho dân ta cái nạn bọn áo dài đen này thì mọi
sự mới được ổn thỏa. Đả đảo giáo hoàng! (Khi ấy triều đình đang có xích mích
với tòa thánh La-mã). Về phần tôi, tôi chỉ biết có hoàng đế...”
Việc ấy
trái lại, làm bà Magơloa mừng rơn. Bà ta thì thào với cô Baptistin: “Có thế
chứ! Đức cha chỉ quen nghĩ đến người khác, nhưng rồi cũng phải nhớ đến mình
chứ. Các khoản làm phúc đã có đủ cả rồi. Ba nghìn phơrăng này là ba nghìn của
chúng ta đây”.
Ngay tối
hôm ấy, ông giám mục đưa cho bà em tờ kê sau đây:
Chi tiêu
về xe ngựa và lộ phí kinh lý trong hạt::
- Cấp
cho nhà thương để nấu xúp thịt cho bệnh nhân 1.500 phơrăng
- Cấp
cho hội dục anh ở Etxơ 250
- Hội
dục anh Đraguynhăng 250
- Nhà
nuôi trẻ bỏ rơi 500
- Nhà
nuôi trẻ mồ côi 500
TỔNG
CỘNG 3.000 phơrăng
Đó là
ngân sách của ông Mirien.
Còn
những khỏan thu bất thường của tòa giám mục như hủy đăng ký kết hôn, miễn trừ,
rửa tội tạm, giảng kinh, công nhận nhà thờ, nhà nguyện, cưới xin... thì cần làm
phúc cho kẻ nghèo bao nhiêu ông ráo riết thu của người giàu bấy nhiêu.
Sau một
thời gian ngắn, tiền quyên cúng đem đến rất nhiều. Người có, kẻ túng đều đến gõ
cửa nhà ông: người này đến xin tiền mà kẻ kia vừa đem lễ. Thành ra chưa đầy một
năm, ông giám mục hóa ra người thủ quỹ chung của các nhà hảo tâm và phát ngân
viên của những người cùng khốn. Tính những món tiền qua tay ông thật là nhiều.
Vậy mà cách sống của ông vẫn không hề thay đổi, không hề có thêm một khoản gì
ngoài những tối cần thiết.
Hơn thế
nữa, cũng vì trong xã hội, ở dưới có nhiều cảnh khốn cùng mà ở trên thì ít có
lòng bác ái, nên có thể nói thường tiền cúng chưa kịp vào đã phải phát ra; như
gió vào nhà trống, tiền ông có thu vào mà chẳng bao giờ còn sót một đồng dính
tay. Thành thử ông phải dốc túi ra.
Theo tục
lệ, trên giấy mà, thư từ, các vị giám mục thường nêu tên thánh của mình. Nhân
đó, những đám dân nghèo trong xứ, vì lòng kính mộ tự nhiên, đã chọn trong các
tên và họ của ông, một tên theo họ là có ý nghĩa và chỉ gọi ông là Đức Cha
Biêngvơnuy. Chúng tôi bắt chước họ gọi ông như thế khi cần. Thực ra cách xưng
hô ấy làm ông vừa ý. – Tôi thích cái tên ấy, ông nói. Chữ Biêngvơnuy làm cho
chữ Đức Cha bớt cách biệt.
Chúng
tôi không dám cho bức chân dung mô tả đây là thực, chúng tôi chỉ xin nói là nó
giống.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 1
Chương 3
GIÁM MỤC GIỎI THÌ ĐỊA PHẬN KHÓ
Ông giám
mục không phải vì đã đem tiền xe cộ ra làm phúc cả mà ít đi kinh lý. Cái xứ
Đinhơ này quả là một địa phận vất vả. Đồng bằng thì ít, núi non thì nhiều,
đường sắt hầu như không có, trên kia đã thấy rồi; lại đến ba mươi hai xứ, bốn
mươi mốt họ và hai trăm tám mươi lăm chi. Đi thăm hết thẩy bấy nhiêu là cả một
vấn đề. Ông giám mục vượt qua được tất cả. Gần thì ông đi bộ, đường đồng bằng
thì ông đi xe bò, leo núi thì ông ngồi ghế cho la thồ. Hai bà già theo ông cho
có bạn. Chuyến đi nào đối với các bà quá khó nhọc thì ông đi một mình.
Một hôm,
ông đi lừa đến Xơnê(Senez), một thành phố xưa kia có tòa giám mục. Dạo ấy, túi
tiền hầu như rỗng không, ông không thể đi lại cách nào khác. Viên thị trưởng ra
đón ông ở cửa tòa giám mục và nhìn ông từ trên mình lừa bước xuống, ra vẻ khó
chịu. Có mấy tên nhà giàu cười khúc khich chung quanh. – “Thưa ông thị trưởng
và cả các ngài tư sản nữa, tôi hiểu vì sao các ông bực bội rồi. Các ông cho là
một thầy tu quèn phải hợm mình lắm mới cưỡi lừa như đức Chúa Giêsu trước kia!
Thưa thật với các ông, tôi không hề có ý kiêu căng mà chỉ vì cần thiết quá”.
Trong
các chuyến kinh lý, ông tỏ ra rộng lượng và hiền hòa, chuyện trò nhiều hơn là
thuyết pháp. Ông không bao giờ đặt một đức tốt nào vào một chỗ mà không ai với
tới được. Ông cũng chẳng bao giờ phải tìm ra những lý lẽ và những hình mẫu cho
lời nói của mình. Nói chuyện với dân xứ này, ông nêu gương dân xứ bên cạnh. Ở
những tổng mà người ta hẹp lòng đối với kẻ túng bấn, ông nói: - “Hãy xem người
Briăngxông. Họ cho người nghèo, đàn bào góa, trẻ mồ côi quyền được cắt cỏ ở các
đồng cỏ của họ trước mọi người khác ba ngày. Nhà cửa có bị đổ nát thì họ cất
giùm lại cho, không lấy tiền. Vì thế, xứ ấy là một xứ được Chúa ban ân. Suốt
một thế kỷ, một trăm năm nay, không hề có lấy một kẻ giết người”.
Ở những
làng chỉ biết có đồng tiền và hạt thóc, ông nói: - “Hãy xem người
Ămbroong(Embrun). Vào ngày mùa, người nào có con trai tại ngũ, con gái bận công
việc nhà nước ở trên tỉnh, mà lại đau ốm hoặc gặp khó khăn, thì cha xứ đem ra
nói với con chiên vào lúc giảng kinh. Thế là, chủ nhật, xem lễ xong, hết thảy
dân làng, đàn ông, đàn bà, trẻ con kéo đến ruộng con người đáng thương nọ, gặt
hái hộ và mang cả thóc lẫn rơm rạ về tận nhà”. – Gặp những gia đình chia rẽ vì
chuyện tiền bạc và gia tài, ông bảo: - “Hãy trông dân vùng núi Đơvơnuy
(Devolny), một vùng hoang dại đến nỗi năm mươi năm không nghe họa mi hót một lần.
Thế mà, bố chết, con trai liền đi tứ phương tìm kế sinh nhai, còn của cải thì
nhường lại cho con gái để con gái dễ kiếm chồng”. - Ở các tổng ưa kiện tụng, có
nhiều tá điền suy sụp vì chạy theo các thứ đơn từ, ông nói: - “Hãy xem nông dân
thung lũng Quâyra((Queyras), họ rất thuần hậu. Họ có ba nghìn người ở đó. Trời!
Cứ như một nước cộng hòa nho nhỏ. Họ chằng hề biết đến thẩm phán, mõ tòa là gì.
Mọi việc, xã trưởng làm tất. Ông phân bổ thuế khóa từng nhà theo lương tâm
mình, giải quyết không các vụ tranh chấp, chia hộ gia tài không lấy công, xử án
không lấy án phí và mọi người nghe theo vì ông ta là một người công minh sống
giữa những con người chất phác”. Đến những làng không thấy có thầy học, ông
cũng kể đến dân vùng Quâyra: - “Bà con có biết họ làm như thế nào không? Thường
một xóm mươi lăm nóc nhà thì không nuôi nổi một thầy học, cho nên họ có những
thầy giáo do cả xứ đài thọ, các thầy giáo đó đi hết xóm này đến xóm nọ, một
tuần nơi này, mươi ngày nơi kia, đến đâu dạy đó. Các ông giáo hay đến các phiên
chợ, tôi gặp họ ở đấy. Thấy họ dắt bút lông ngỗng trên băng mũ thì nhận ra
ngay. Ai chỉ dạy đọc thì một lông, ai dạy đọc dạy tính thì hai lông, ai dạy đọc
dạy tính dạy cả Latinh nữa thì ba lông. Những vị đó là những nhà đại thông
thái. Còn dốt nát thì xấu hổ biết bao nhiêu! Bà con ta nên làm như người
Quâyra”.
Ông nói
chuyện như vậy, nghiêm túc và chân tình, thiếu ví dụ sống thì dùng ngụ ngôn, đi
thẳng vào đích, ít lời mà nhiều hình ảnh: đó là lối hùng biện của Chúa Giêsu
(Jésus) , đầy tin tưởng và sức thuyết phục.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 1
Chương 4
NÓI SAO LÀM VẬY
Ông nói
chuyện thân mật và vui vẻ. Sống với hai bà già suốt đời ở cạnh ông, ông khéo
chọn lối ăn nói cho vừa tầm họ. Khi ông cười, cái cười của ông hồn nhiên như
của một cậu học sinh.
Bà
Magơloa thích gọi ông là Ông lớn. Một hôm ông đang ngồi trên ghế, đứng dậy ra
chỗ ngăn tủ tìm một quyển sách. Sách để ở tận ngăn trên. Ông vốn thấp bé nên
không với tới. Ông gọi bà Magơloa bảo: Bà mang cho tôi cái ghế. Tôi tuy “lớn”
nhưng vẫn không lớn tới tấm ván kia.
Ông có
một bà họ xa, bà bá tước Lô. Bà này không bao giờ bỏ lỡ dịp đem khoe khoang
trước mặt ông những cái mà bà gọi là những “ngưỡng vọng” của ba cậu công tử con
bà ta. Bà ta có những ông chú bà bác đã già lắm, lại vô tự, gia tài, tước lộc,
về sau thể tất về tay ba người con bà. Cậu út rồi sẽ được hưởng đến mười vạn
quan lợi tức của một bà cô; cậu thứ hai rồi sẽ được ấm phong tước công của ông
bác; cậu cả rồi sẽ được kế chân quốc lão của ông nội. Ông giám mục thường vẫn
ngồi lặng yên nghe câu chuyện bà ta, coi đó là một cái tật vô hại của các bà
hay khoe con. Duy có một lần, trong khi bà ta đang kể đi kể lại tỉ mỉ những
chuyện kế tự và những “ngưỡng vọng” đó, thì ông giám mục trông có vẻ thẫn thờ
hơn mọi bận. Bà ta hơi bực mình, ngừng lại hỏi:
- Kìa
ông anh. Ông đang nghĩ đi đâu thế?
- Tôi
đang nghĩ đến một câu sách cũng hơi kỳ, hình như trong sách của thánh
Ôguytstanh, như thế này: “Hãy đặt ngưỡng vọng của ta vào người nào mà ta không
thừa kế gì cả”.
Một lần
khác, ông nhận được tờ cáo phó của một nhà quí tộc trong xứ, trong đó kê đặc cả
một trang giấy những chức tước của người đã khuất, lại còn la liệt những phẩm
hàm chức tước của bọn con cháu họ hàng nữa. Ông bảo: Cái chết thế mà khỏe lạ!
Mang nhẹ nhàng cả một mớ nặng chức tước! Kể người đời cũng tài thật, lợi dụng
đến cả cái thây ma để khoe khoang hợm hĩnh!
Đôi khi
ông có những lời giễu cợt nhẹ nhàng mà có ý nghĩa sâu sắc. Mùa chay năm nọ có
ông phó xứ trẻ tuổi lên tỉnh giảng thuyết ở nhà thờ lớn về lòng từ thiện. Ông
ấy giảng giải khá hùng hồn. Nội dung bài giảng là lòng từ thiện. Ông tả cảnh
địa ngục thật ghê rợn và tô điểm thiên đường thành cảnh êm đẹp ai cũng thèm ước
và ông khuyên người giàu nên bố thí cho kẻ nghèo để được lên thiên đường, khỏi
phải xuống địa ngục.
Trong
bọn người nghe có một nhà phú thương tên là Giêbôrăng, đã nghỉ kinh doanh, song
vẫn còn cho vay lãi nặng, trước đây chỉ chuyên dệt các loại len, dạ mà kiếm
được dăm chục vạn. Cả đời hắn chẳng bố thí cho ai bao giờ. Từ hôm nghe giảng,
chủ nhật nào cũng thấy hắn ném một xu cho mấy bà lão ăn mày ở cửa nhà thờ. Một
xu mà đến sáu người phải chia nhau! Một hôm thấy lão ta đang làm phúc kiểu đó,
ông mỉm cười bảo cô em:
- Kìa cô
xem, ông Giêbôrăng đang mua một xu thiên đường đấy!
Trong
công việc từ thiện không bao giờ ông nản chí. Người ta có khăng khăng từ chối,
ông cũng tìm được lời hay, bắt người ta phải suy nghĩ. Lần nọ ông khuyến quyên
trong một phòng khách ở tỉnh. Một tay quý tộc đã già, vừa giàu lại vừa kiệt,
hầu tước Săngtecxiê, hôm ấy có mặt ở đấy. Hắn ta vào loại nhân vật kỳ lạ mà một
thời người ta đã thấy xuất hiện, vừa có đầu óc bảo hoàng hơn vua, vừa có tư
tưởng phóng khoáng hơn cả Vônte. (Voltaire: một nhà văn và nhà triết học nổi
tiếng thế kỷ XVIII ở nước Pháp, có tư tưởng tự do).
Khi đến
gần hầu tước, ông giám mục kéo tay hắn: “Hầu tước ạ, ngài phải cho tôi cái gì
mới được”. Hắn quay lại, trả lời nhạt nhẽo: “Thưa Đức Cha, tôi đã có kẻ nghèo
của tôi”. Ông giám mục nói: “Thì hãy cho tôi những kẻ nghèo đó!”
Một hôm
ở giáo đường, ông giảng đạo như sau:
“Các
giáo hữu, các bạn thân mến! Hiện nay ở nước Pháp có một triệu ba mươi hai vạn
cái nhà nông dân chỉ có ba cửa, một triệu tám trăm mươi bảy ngàn nhà có hai
cửa, một cửa ra vào, một cửa sổ và còn ba mươi tư vạn sáu ngàn túp lều chỉ có
một cửa là chỗ ra vào thôi. Cái đó là do một thứ mà người ta gọi là thuế cửa.
Bắt những gia đình nghèo từ già đến trẻ phải chui rúc trong những ngôi nhà ấy
thì tránh sao khỏi làm mồi cho sốt rét và bệnh tật! Than ôi! Thượng đế đã cho
người ta không khí để thở thì luật pháp lại bắt họ phải mua! Tôi không kết án
luật pháp, tôi chỉ tạ ơn Chúa.
Trong
hạt Ide, hạt Varơ, trong hai xứ thượng, hạ Anpơ, nông dân không có đến cả cái
xe cút kít, họ phải cõng phân ra ruộng. Họ không có nến, họ phải thắp bằng
những que nhựa và những khúc dây thừng nhúng vào đầu nhựa. Khắp miền núi xứ
Đôphinê đều thế cả. Họ phải làm bánh ăn dự trữ sáu tháng. Họ đốt lò bánh bằng
phân bò phơi khô. Mùa đông, họ dùng rìu bổ bánh, ngâm vào nước một ngày một đêm
mới ăn được. Hỡi các giáo hữu! Hãy mở lòng nhân! Hãy xem chung quanh các bạn
người ta khổ như thế nào”.
Vốn sinh
ở Provăngxơ, ông rất dễ làm quen với các thổ âm miền Nam. Khi cần ông có thể
nói: “Eh bé! Moussu, sès sagé?” như người Lănggơđốc hạ, “Onté anaras passa” như
người hạ Anpơ, cũng như “Puerte un bouen montou embe un bouen froumage grase”
như người ở Đôphinê thượng. Điều đó làm dân chúng thích và giúp ông gần gũi mọi
người khá nhiều. Vào nhà tranh vách đất hay lên chỗ núi non, ông cũng tự nhiên
thoải mái như ở nhà mình. Nói những điều cao cả nhất ông cũng nói được bằng
những lời lẽ thông tục nhất. Nói năng như mọi người nên cũng đi được vào lòng
tất cả.
Tuy vậy,
đối với hạng thượng lưu cũng như đối với dân chúng ông vẫn là một.
Ông
không bao giờ buộc tội một cách vội vã mà không tính đến hoàn cảnh xung quanh.
Ông nói: - Phải xét xem tội lỗi đã đi tới bằng con đường nào.
Vì vui
vẻ tự cho mình là nguyên tội nhân, ông không thể nghĩ đến một kiểu dốc cheo leo
nào của chủ nghĩa khắc nghiệt và không cau mày nhăn mặt như những ông thiện,
ông ác, ông chỉ lớn tiếng truyền bá một học thuyết có thể tóm tắt như sau:
“Con
người ta có thể xác, nó vừa là gánh nặng vừa là nguồn quyến rũ. Con người kéo
lê thể xác nhưng cũng chiều nể nó.
Phải
trông coi, uốn nắn, trấn áp, cùng kế lắm mới nghe theo nó. Nghe theo như vậy
cũng còn có thể có tội; nhưng làm được như thế thì tội cũng nhẹ. Ngã, nhưng là
ngã quì thì còn có thể chuyển sang cầu nguyện.
Thành
thánh thì ngoại lệ; thành người chính trực là qui tắc. Lầm lạc, sa ngã, phạm
tội cũng được, nhưng phải là người chính trực.
Càng ít
tội lỗi càng tốt, đó là luật của người. Không tội lỗi nào cả, đó là mơ ước của
thiên thần. Đã thuộc trái đất này thì thoát sao khỏi tội lỗi. Tội lỗi cũng như
luật hấp dẫn, chi phối mọi người.”
Có lúc
ông thấy mọi người gào thét dữ tợn và phẫn nộ quá nhanh:
- Ồ! Ồ!
– Ông vừa cười vừa nói – rõ ràng đấy là một tội ác lớn mà mọi người đều mắc
phải. Đó chính là những kẻ đạo đức giả bị kinh động nên vội vàng phản kháng để
che thân.
Đối với
đàn bà và dân nghèo là những kẻ chịu nhiều áp bức xã hội nhất, ông rất độ lượng.
Ông bảo: “Tội lỗi của đàn bà, của con trẻ, của kẻ tôi tớ, của người yếu hèn,
của đám nghèo khổ và dốt nát, chính là tội lỗi của những bậc làm chồng, làm
cha, làm chú, những kẻ quyền thế, những người giàu có và có học thức”.
Ông lại
nói:
“Phải cố
gắng dạy cho người không biết, càng nhiều điều càng hay. Xã hội mà không thực
hiện được giáo dục không mất tiền là xã hội có lỗi. Nó phải chịu trách nhiệm về
tình trạng tăm tối do nó sản sinh. Con người tối tăm mới gây ra tội lỗi. Cho
nên kẻ có tội không phải là người đã lầm lỗi mà chính là kẻ đã gây nên tối
tăm”.
Ông đã
có một lối xét đoán sự việc theo cách riêng của mình, khá lạnh lùng như thế
đấy. Tôi ngờ là ông đã học ở sách Phúc âm.
Một hôm
ông được nghe kể ở phòng khách một trường hợp đã thẩm cứu và sắp đem xử. Có một
người đàn ông khốn khổ, vì thương người bạn tình của mình và đứa con mà chị đã
có với anh ta, và cũng quẫn quá, nên làm bạc giả. Thuở ấy luật pháp còn xử
những người làm bạc giả vào tội tử hình. Người đàn bà vừa mang đi tiêu thụ đồng
bạc giả đầu tiên do người yêu làm ra thì bị bắt. Tóm chị nhưng cũng chỉ có tang
chứng đối với chị mà thôi. Chỉ khi nào chị ta xưng thú thì người yêu của chị
mới mắc vòng pháp luật. Chị chối. Người tra gạn. Chị cũng một mực chối cãi. Bấy
giờ viên biện lý nghĩ ra được một kế. Hắn bày đặt một câu chuyện phụ tình và
khéo nhặt nhạnh chắp nối một ít mẩu thư từ đưa ra khiến cho người đàn bà khốn
nạn kia tưởng mình bị người yêu dối lừa thật. Nổi cơn ghen cùng cực, chị ta
khai hết, thú hết với đủ mọi chứng cứ. Vì thế mà người đàn ông bị bắt và nay
mai sẽ bị đem ra xử ở Etxơ cùng với đồng lõa. Người ta thuật chuyện và trầm trồ
khen ngợi viên biện lý có tài vận dụng lòng ghen tuông để phục vụ công lý. Ông
giám mục im lặng ngồi nghe, cuối cùng mới hỏi:
- Người
ta đem xử người đàn ông và người đàn bà ấy ở đâu?
- Ở tòa
đại hình.
Ông hỏi
thêm:
- Thế
còn viên biện lý thì xử ở đâu?
Ở Đinhơ
xảy ra một việc bi thảm. Một người bị xử tử hình vì can tội sát nhân. Người bất
hạnh ấy không hẳn là người có học mà cũng không hẳn dốt nắt, hắn ta từng làm
trò ở chợ và làm thầy ký viết thuê. Vụ án làm thành phố khá bận tâm. Trước ngày
hành hình, cha tuyên úy nhà ngục bị ốm. Cần một cha cố để giúp đỡ tội nhân
trong những phút cuối cùng. Người ta chạy tìm cha xứ. Ông này hình như từ chối:
“Việc đó liên quan gì đến tôi. Tôi cần gì cái việc khổ sai đó và cái tên xiếc
khỉ ấy! Tôi, tôi cũng ốm đây: với lại, chỗ tôi không phải ở đấy”. Người ta đem
câu trả lời ấy thuật lại với ông giám mục, ông nói: - “Ngài cha xứ nói đúng.
Không phải chỗ của ngài đâu, của tôi đấy”.
Lập tức
ông tới nhà ngục, xuống buồng giam của “tên xiếc khỉ”, ông gọi tên người ấy,
cầm tay hắn và nói chuyện. Cả ngày lẫn đêm ông ở cạnh hắn, quên ăn quên ngủ,
chỉ cầu xin Chúa cứu vớt linh hồn cho người bị tội và cầu xin người bị tội tự
lo cứu vớt lấy linh hồn mình. Ông nói hắn nghe những chân lý tốt đẹp nhất mà
cũng là giản dị nhất. Như một người cha, một người anh, một người bạn; còn giám
mục là chỉ để ban phúc mà thôi. Ông dạy hắn đủ điều, đem lại cho hắn vừa lòng
tin vừa sự an ủi. Trước hắn nghĩ chết tuyệt vọng. Cái chết đối với hắn như một
vực sâu; run rẩy trước cái bờ u thẳm ấy, hắn lùi lại kinh hoàng. Hắn không tối
tăm quá để đến nỗi tuyệt đối dửng dưng. Bản án làm chấn động sâu xa, chừng như
đã xô vỡ từng chỗ chung quanh hắn cái bức tường ngăn cách chúng ta với cõi bí
mật của mọi vật mà chúng ta gọi là cuộc sống. Từ những lỗ thủng tai hại ấy, hắn
không ngớt nhìn ra thế giới này và chỉ thấy toàn bóng tối. Ông giám mục đã đem
lại cho hắn ánh sáng.
Hôm sau,
lúc người ta đến tìm nạn nhận, ông giám mục có mặt và đi theo hắn. Quần chúng
thấy ông mặc áo choàng tím, đeo thánh giá giám mục, đi bên cạnh người khốn khổ
bị trói. Ông cùng hắn bước lên xe bò, ông cùng hắn bước chân lên máy chém. Hôm
qua hắn âu sầu rũ rượi hết sức mà hôm nay thì mặt mày lại rạng rỡ. Hắn cảm thấy
linh hồn được trở về với Chúa và hắn hy vọng ở Chúa. Ông ôm hôn hắn và lúc lưỡi
dao sắp rơi, ông bảo: “- Kẻ bị loài người giết chết, Chúa Trời sẽ cho sống lại;
kẻ bị anh em xua đuổi sẽ gặp lại được Cha. Cầu nguyện đi, tin đi và bước vào
cuộc hằng sống! Đức Chúa Cha đang ở đó”. Khi ông bước từ máy chém xuống, trong
mắt ông có cái gì làm cho mọi người phải tránh ra, đứng ngay ngắn lại. Không
biết cái gì đáng kính phục hơn cả, da mặt trắng bệch hay vẻ người trong sáng!
Trở về ngôi nhà tầm thường mà ông gọi là lâu đài của mình, ông nói với bà em:
“Tôi vừa làm lễ một cách long trọng”.
Việc cao
cả thường là việc ít được người hiểu, cho nên trong thành phố có kẻ bình luận
hành động của ông giám mục, lại cho rằng ông ấy đóng kịch thôi. Thực ra đó chỉ
là câu chuyện phòng khách. Còn dân chúng thì vốn không có ác ý nghi ngờ các
hành vi thiêng liêng, họ lấy làm cảm kích và hết sức kính phục.
Về phần
ông giám mục, nhìn thấy máy chém làm ông xúc cảm đột ngột, khiến ông khá lâu
mới hồi tỉnh được.
Đúng là
cái máy chém, khi nó đã ở đó, dựng lên và đứng sững, thì nó có cái gì ám ảnh
người ta thật. Thường người ta có thể có chút gì bàng quan với tử hình, chẳng
có ý kiến gì, phải cũng được mà không cũng được, chừng nào chưa thấy tận mắt
một cái máy chém. Nhưng nếu đã gặp rồi thì xúc động thật là mãnh liệt, phải
quyết định dứt khoát đứng về phía này hay phía kia. Kẻ thì ca ngợi như Đơ
Metstơrơ; người thì nguyền rủa như Beccaria. Máy chém là sự kết tụ của luật
pháp, là sự trừng trị; nó không trung lập và không cho phép ai trung lập. Ai
thấy nó đều lên một cơn run bí ẩn nhất. Mọi vấn đề xã hội đều dựng lên bao
nhiêu dấu hỏi chung quanh lưỡi dao của nó. Máy chém là một ảo tưởng. Máy chém
không phải là một giá gỗ, máy chém không phải là một cỗ máy, máy chém không phải
là một thứ máy móc cứng đờ bằng gỗ, sắt và dây. Hình như nó là loại sinh vật có
một cái gì như một sáng kiến đen tối. Hình như cái giá gỗ ấy biết nhìn, cái cỗ
máy ấy biết nghe, cái máy móc ấy biết hiểu, các thứ gỗ, sắt, dây ấy đều có ý
chí. Trong cơn ác mộng do sự có mặt của nó gieo vào tâm hồn con người, máy chém
hiện ra dữ tợn, tự nhúng tay vào công việc nó làm. Nó là đồng lõa với đao phủ;
nó ăn người; nó nuốt thịt sống, nó uống máu tươi. Máy chém như một loài quái
vật do thẩm phán và thợ mộc dựng lên, một bóng ma sống một cách đáng sợ bằng
những cái chết nó tạo ra.
Vì thế
ấn tượng của nó ở trong tâm trí ông giám mục thật là ghê rợn và sâu xa. Hôm sau
ngày hành hình và nhiều hôm sau đó nữa, ông như thất thần. Dáng thanh tĩnh gần
như mãnh liệt của phút giây bi thảm đã biến mất; bóng ma của công lý xã hội ám
ảnh người ông. Con người mà thường ngày đi hành đạo với vẻ bằng lòng rạng rỡ
trên mặt, lần này hình như có ân hận. Có lúc, ông tự nói với mình và lúng túng
thì thầm từng tràng độc thoại ảo não. Đây là một trong những độc thoại ấy bà em
đã nghe được một buổi tối và ghi lại:
“Ta
không ngờ việc ấy lại ghê rợn đến thế. Để hết tâm trí vào luật lệ của Chúa đến
mức không còn nhìn thấy luật lệ của người đời nữa thì thật là sai lầm. Cái chết
chỉ thuộc quyền Chúa. Quyền gì mà loài người động chạm đến cái việc không một
ai được biết ấy?”
Với thời
gian những cảm tưởng ấy mờ dần và chắc rồi phai hẳn. Tuy vậy, người ta vẫn để ý
thấy ông giám mục, từ đó, tránh đi qua chỗ pháp trường.
Nhà có
người ốm và người hấp hối thì lúc nào cho mời ông Mirien cũng được. Ông biết đó
là nhiệm vụ và công việc quan trọng nhất của ông. Gia đình nào vợ góa con côi
thì không cần mời, ông cũng đến. Ông khéo ngồi im lặng hàng giờ bên người chồng
mất vợ, hay bên người mẹ vừa mới chết con. Ông khéo biết lúc nào nên im lặng và
cũng biết lúc nào cần phải nói. Ông an ủi người ta mới tài tình làm sao! Ông
không tìm cách làm cho người ta quên đau thương mà làm cho người ta hy vọng, vì
hy vọng khiến cho đau thương trở nên cao cả và đáng kính. Ông thường nói: “Đối
với người quá cố, khéo chẳng lại thành ra bất kính. Đừng có nghĩ đến cái thể
chất đang thối nát mà hãy nhìn trực thị trời xanh, ở đấy có ánh hào quang lấp
lánh của người đã khuất”. Ông biết rằng đức tin là lành, nên ông thường nêu
gương nhẫn nại để an ủi người thất vọng và ông tìm cách biến sự đau khổ tuyệt
vọng hướng về mộ địa, thành sự đau khổ tin tưởng nhìn lên trời cao.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 1
Chương 5
ĐỨC CHA BIÊNGVƠNUY DÙNG ÁO LÂU QUÁ
Đời tư
của ông Mirien cũng cùng chung một số nguyên tắc như đời công. Với kẻ được xem
gần thì cái nghèo tự nguyện trong cuộc sống của ông giám mục thành Đinhơ là một
cảnh tượng trang trọng và đáng yêu.
Như
người già và phần lớn những người hay suy tưởng, ông ít ngủ, nhưng lại ngủ say.
Buổi sáng ông tĩnh tọa một giờ rồi đi làm lễ, hoặc ở nhà thờ lớn hoặc ở phòng
nguyện trong nhà. Lễ xong, ông ăn sáng một cái bánh mì bằng bột tiểu mạch dúng
trong sữa bò nhà. Sau đó ông bắt đầu làm việc.
Làm giám
mục bận rộn thật. Thường xuyên ông phải tiếp vị bí thư của tòa giám mục, thường
là một chức sắc và hầu như ngày nào cũng phải gặp các cha xứ. Ông còn phải kiểm
tra công việc các hội, phân phát các đặc ân này nọ, xem xét cả một thư viện nhà
chung, nào sách xem lễ, nào sách bổn, sách kinh... rồi thảo các thư từ hành
đạo, chuẩn y các bài thuyết pháp, giải hòa các vụ xích mích giữa cha xứ và xã
trưởng, rồi còn một mớ thư từ giao dịch về phần đạo, về phần đời, một bên là
nhà nước, một bên là tòa thánh, thôi thì trăm công nghìn việc.
Thì giờ
còn lại ngoài những công việc bề bộn ấy và những buổi lễ, những giờ đọc kinh,
dành cho kẻ khó, người ốm đau, sầu muộn, còn thừa ông dùng vào lao động. Khi
thì ông cuốc đất trong vườn nhà, khi thì ông đọc và viết. Hai công việc nhưng
ông chỉ dùng một tên gọi: làm vườn. “Trí óc cũng là một cái vườn”, ông nói.
Đến
trưa, ông ăn cơm. Bữa trưa cũng giống như bữa sáng.
Quãng
hai giờ chiều, hôm trời tốt, ông ra khỏi nhà, dạo xem phong cảnh thôn dã hoặc
phố phường, nhiều lúc ghé thăm các túp lều tranh. Ông đi một mình suy nghĩ trầm
ngâm, mắt nhìn xuống, tay chống gậy dài, trên mình chiếc áo lụa lót bông ấm,
màu tím, dưới chân đôi giày thô với bít tất tím và trên đầu chiếc mũ dệt có ba
góc để thòng xuống ba quả găng vàng viền hạt cườm.
Chỗ nào
ông có mặt cũng vui như hội. Có thể nói ông đi qua ở đâu là đem theo đó một cái
gì ấm áp và sáng sủa. Trẻ con, người già dắt nhau ra tận cửa đón ông giám mục
cũng như đón ánh mặt trời. Ông ban phúc cho mọi người và mọi người cầu phúc cho
ông. Bất kỳ ai có cần việc gì, người ta đều chỉ đến nhà ông.
Chốc
chốc ông dừng chân, hỏi chuyện các em bé, mỉm cười với các bà mẹ. Trong túi hễ
còn tiền thì ông đến thăm kẻ khó; không còn đồng nào thì ông đến thăm các nhà
giàu.
Mấy cái
áo thụng ông giữ dùng rất lâu nhưng lại không muốn người ngoài trông thấy điều
đó, nên ra phố ông không bao giờ mặc gì khác ngoài cái áo lụa lót bông màu tím.
Cái đó cũng có chút bất tiện cho ông lúc mùa hè.
Buổi
tối, tám giờ rưỡi thì ông ăn cơm tối với bà em, bà Magơloa đứng đàng sau phục
vụ cho cả hai. Bữa ăn cực kỳ thanh đạm. Tuy vậy, nếu ông giám mục giữ một cha
xứ lại dùng cơm tối thì bà Magơloa nhân cơ hội đó dọn cho Đức Cha một món cá
sông tuyệt vời hay một món thịt rừng đặc biệt. Bất kỳ cha xứ nào cũng là một cớ
ăn tươm; ông giám mục biết nhưng để mặc. Những ngoại lệ ấy trừ ra, bữa cơm
thường chỉ có rau củ và canh nấu với tí mỡ. Do đó hàng phố người ta bảo: Khi
ông giám mục không ăn cơm cha xứ, thì ông ăn cơm người khổ tu.
Ăn tối
xong, ông chuyện trò vói cô Baptistin và bà Magơloa độ nửa tiếng, xong ông về
buồng mình và lại viết, khi thì trên giấy rời khi thì ở rìa một trang sách nào
đó. Ông là người hay chữ và ít nhiều thông thái. Ông còn để lại năm sáu bản
thảo khá lạ, trong đó có một thiên biện luận về đoạn Sáng thế: Ban sơ tinh thần
Chúa bồng bềnh trên mặt nước. Ông đối chiếu với ba bản khác: bản tiếng A-rập
thì viết: Bốn phương gió Chúa thổi; bản Phơlaviuyt Giôdep thì chép: Một ngọn
gió từ Chúa đến, thổi qua mặt nước. Trong một thiên biện luận khác, ông nhận
xét về các công trình thần học của Huygô, giám mục ở Ptôlêmai, ông chú cố của
kẻ viết sách này và ông chứng minh nhiều tiểu phẩm khác nhau xuất bản thế kỷ
trước, dưới bút danh Baclâycua, là của vị giám mục này viết.
Có khi
đang đọc sách, bất cứ là sách gì, bỗng dưng ông trầm tư rồi tỉnh lại để ghi vài
dòng ngay vào trang sách đó. Những dòng này thường chẳng liên quan gì đến cuốn
sách. Trước mắt chúng tôi có một đoạn ghi chép ở rìa cuốn sách nhan đề: Thư tín
của ngài Giecmanh trao đổi với các tướng Cơlintơn, Cornoalit và các đô đốc của
trạm châu Mỹ. Ở Vécxây, hỏi ông Poangxô, hàng sách và ở Paris, hỏi ông Pítsô,
hàng sách, bến Ôguytstanh.
Đoạn ghi
chép đó như sau:
“Ôi đấng
đang tồn tại:
Người
của nhà thờ gọi Người là Quyền lực vô thượng, người Măccabê xưng Người là tạo
hóa, Luận thư cho người Ephe lại gọi Người là Tự do, Baruysơ gọi Người là Vô
biên, Thánh ca gọi Người là Đạo đức và chân lý, thánh Giăng gọi Người là Ánh
sáng, các Vua gọi Người là Chúa thượng, thiên Di cư xưng Người là Cứu thế,
người Lêvi xưng Người là Thánh nhân, Etđơrat xưng Người là Chính trực, sự sáng tạo
gọi Người là Chúa Trời, người đời gọi Ngườ là Cha. Nhưng Xalômông thì gọi Người
là Thương xót và đó là tên đẹp nhất trong mọi tên của Người”.
Đến chín
giờ tối hai bà già cáo lui và lên buồng riêng trên gác, chỉ còn một mình ông
giám mục ở dưới nhà.
Đến đây
cần cho mọi người có một ý niệm chính xác về chỗ ở của ông giám mục.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 1
Chương 6
ÔNG MIRIEN GIAO NHÀ CHO AI GIỮ
Chúng
tôi đã giới thiệu nhà ông giám mục ở có một tầng dưới và một tầng gác. Nhà dưới
ngăn làm ba, trên gác có ba phòng và trên nữa là gác xép. Sau nhà là một mảnh
vườn nhỏ mấy thước. Hai người đàn bà ở tầng trên. Ông ở tầng dưới. Phòng ngoài
trông ra phố là buồng ăn; phòng thứ nhì là buồng ngủ; phòng thứ ba là phòng
nguyện. Ở phòng nguyện muốn ra ngoài phải qua buồng ngủ và từ buồng ngủ muốn ra
ngoài phải qua buồng ăn. Trong phòng nguyện có một ngăn đóng kín, kê một chiếc
giường phòng khi có khách. Mỗi lần các cha xứ ở địa phương ra tỉnh có việc, ông
giám mục vẫn mời vào ngủ ở đó.
Ngôi nhà
ngang nhỏ trong góc vườn, trước dùng làm kho thuốc cho nhà thương, nay sửa
thành bếp và buồng chứa rượu.
Lại còn
có chuồng bò nguyên là bếp của nhà thương trước kia. Ông giám mục nuôi được hai
con bò cái, mỗi ngày vắt sữa được ít hay nhiều, ông đều xẻ ra một nửa đưa sang
bên nhà thương cho bệnh nhân. Ông bảo: “Đây là phần tô của tôi nộp”.
Phòng
ngủ của ông có phần quá rộng, mùa rét khó mà đốt lò sưởi cho đủ ấm. Ở Đinhơ củi
đắt lắm, nên ông nghĩ ra một cách là ngăn bớt chuồng bò thành một gian có vách
bằng gỗ ván che kín. Hôm nào lạnh quá, ông xuống ở đó và gọi đó là phòng khách
mùa đông.
Trong
“phòng khách” ấy cũng như trong buồng ăn, đồ đạc chỉ có chiếc bàn vuông gỗ tạp
và bốn chiếc ghế độn rơm. Buồng ăn còn có thêm chiếc tủ bát đĩa đã cũ sơn màu
hồng nhạt. Phòng nguyện cũng có cái tủ như thế phủ những khăn trắng và diềm
đăng-ten giả, tạm coi được, ông dùng làm án thờ.
Các bà
nhà giàu đến xưng tội và các bà từ thiện trong thành phố đã nhiều lần chung
tiền nhau đưa Đức Cha sắm một bộ bàn thờ mới cho phòng nguyện, nhưng lần nào
nhận tiền ông cũng đem làm phúc cho kẻ nghèo tất cả. Rồi ông bảo: “Cái bàn thờ
đẹp nhất là linh hồn kẻ khốn khổ được cứu giúp đang cảm tạ Chúa”.
Trong
phòng nguyện có hai cái ghế nguyện độn rơm và bên phòng ngủ cũng có cái ghế
bành độn rơm. Nhỡ khi phải tiếp một lúc bảy tám người khách, ông tỉnh trưởng
hay tướng chỉ huy khu, hoặc ban tham mưu của trung đoàn trú phòng hay một số
học sinh tiểu chủng viện thì lại phải xuống chuồng bò lấy ghế ở “phòng khách
mùa đông”, vào phòng nguyện lấy ghế nguyện và vào cả phòng ngủ lấy chiếc ghế
bành. Làm thế cũng có được đến mười một ghế cho khách ngồi. Có điều mỗi lần có
khách đến thêm lại phải khuân rỗng một phòng.
Có khi
cả chủ và khách đến những mười hai người, tình thế thực là khó xử. Để khỏi lúng
túng, nếu nhằm mùa rét thì ông đến đứng trước lò sưởi, còn mùa hè thì ông mời
khách ra vườn dạo một vòng.
Trong
buồng ngăn dành để khách ngủ, cũng còn một chiếc ghế nữa đấy, nhưng nó đã lòi
cả rơm và chỉ còn có ba chân, phải để tựa vào tường mới ngồi được. Còn chiếc
ghế tựa lớn bằng gỗ, xưa vốn thiếp vàng và bọc vải hoa, ở phòng cô Baptistin,
thì vì cầu thang hẹp quá không đi lọt, trước phải đưa nó lên qua cửa sổ, nên
không thể mỗi lúc cần đến lại khuân lên khuân xuống.
Cô
Baptistin chỉ mong ước làm thế nào sắm được cho ông anh một bộ bàn ghế tiếp
khách bằng gỗ đào hoa tâm có bành tựa dáng cổ ngỗng và bọc bằng nhung vàng hoa
tròn, có đủ cả tràng kỷ. Nhưng bộ đồ như thế giá ít nhất cũng năm trăm phơrăng,
mà suốt năm năm trời cô chỉ dành dụm được có bốn mươi hai phơrăng mười xu, nên
cuối cùng phải bỏ qua chuyện đó. Thôi cũng đành vậy, vì ở đời dễ mấy ai đã được
như nguyện?
Buồng
ngủ của ông giám mục thì không có gì dễ hình dung hơn! Một cái cửa sổ lớn trông
ra vườn. Ngay chỗ cửa sổ là giường ngủ, một thứ giường sắt của nhà thương, trên
có diềm màn bằng vải xanh. Trong bóng tối chiếc giường, sau một tấm màn, có vài
thứ đồ dùng quen để trang điểm, nhìn đến còn biết được những thói quen làm dáng
của con người thanh lịch trước kia. Hai cửa thông, một cái gần lò sưởi đi sang
phòng nguyện, một cái gần tủ sách sang buồng ăn. Tủ sách là một chiếc tủ kính
chứa đầy sách. Lò sưởi bằng gỗ sơn giả đá hoa chẳng mấy khi đốt lửa, trong lò
sưởi một đôi giá đỡ củi bằng sắt trang hoàng bằng đôi lọ viền hoa và xoi con
lươn, xưa kia từng dát bạc, theo cách làm sang của các tòa giám mục; phía trên,
ở chỗ thường đặt gương soi, một cây thánh giá bằng đồng, lớp bạc mạ ngoài đã
bong gần hết, gắn vào một miếng nhung đen đã sờn trong một khung gỗ sơn màu đã
bạc. Gần cửa sổ lớn một chiếc bàn rộng với lọ mực, cất giấy má lộn xộn và nhiều
cuốn sách dày cộp. Trước bàn, chiếc ghế bành độn rơm. Bên giường, một chiếc ghế
cầu kinh mượn của phòng nguyện.
Hai bức
chân dung đóng khung bầu dục treo trên vách ở hai bên giường. Cứ theo dòng chữ
vàng nhỏ chua trên nền vải bên cạnh hình vẽ thì các bức chân dung này một là
của tu viện trưởng Sahô, giám mục ở Xanh Cơlốt, còn cái kia là của tu viện
trưởng Tuốctô, giám mục dự khuyết ở Acđơ, viện trưởng ở Gơrăng Săng, dòng Xitô
ở địa phận Sactơrơ. Ông giám mục tiếp thu buồng này của các bệnh nhân nhà
thương, đã thấy sẵn các bức chân dung ấy ở đây và cứ để nguyên chỗ cũ. Họ là
nhà tu hành, chắc cũng là những ân nhân đã tư trợ bệnh viện, vậy thì có hai lý
do để ông giữ nguyên các bức chân dung ấy. Tất cả những gì ông có thể biết về
hai nhân vật ấy là họ đều do nhà vua cử về nhậm chức vụ của mình vào cùng một
ngày, 27 tháng 4 năm 1785. Nhân bà Magơloa hạ các bức vẽ ấy để lau bụi, ông
giám mục mới đọc được các chi tiết đặc biệt ấy ghi bằng một thứ mực trắng tráng
trên một vuông giấy con lâu ngày đã ngả màu vàng, dán chặt bằng bốn mẩu xi sau
lưng bức chân dung của viện trưởng Gơrăng Săng.
Ở cửa
sổ, một bức màn xưa bằng len to sợi lâu năm đã thành quá cũ nát, nhưng để đỡ
phải thay tấm mới tốn tiền, bà Magơloa buộc lòng phải khâu mấy đường dài ngay
chính giữa. Đường khâu lại hình chữ thập. Ông giám mục hay chỉ mọi người xem. –
Cái này hay quá! – Ông nói.
Từ dưới
lên trên, buồng nào cũng quét vôi trắng như kiểu nhà thương và trại lính. Tuy
vậy, những năm gần đây, bà Magơloa lại tìm ra, dưới lớp giấy quét vôi, những
bức tranh sơn trang trí cho phòng cô Baptistin, - tìm ra như thế nào thì về sau
sẽ rõ. Nhà này vốn là câu lạc bộ của bọn tư sản trước khi thành nhà thương, do
đó mới có sự trang trí như vậy.
Các
buồng lát gạch đỏ, tuần nào cũng cọ rửa. Trước các giường có những thảm rơm
bện. Nói chung, trong nhà thờ có hai tay người đàn bà nên chỗ nào cũng sạch như
chùi. Chỉ có mỗi lối xa hoa ấy là ông giám mục cho phép thôi. Ông nói: “Như vậy
không thiệt cho kẻ nghèo đồng nào”.
Tuy
nhiên cũng biết là ông giám mục còn giữ được trong số của cải xưa một bộ đồ ăn
sáu người bằng bạc và chiếc môi xúp lớn. Hàng ngày bà Magơloa sung sướng ngắm
bộ đồ bạc choáng lộn trên chiếc khăn bàn lớn bằng vải trắng. Ở đây định tả ông
hệt như ở ngoài, nên phải thêm rằng đã nhiều lần ông thú thật: “Duy có thói
quen dùng đồ bạc mà ăn là ta khó chừa”.
Nói đến
bộ đồ bạc ấy thì phải kể thêm đôi cây đèn đúc đặc bằng bạc là của thừa tự của
một bà cô để lại. Đôi cây đèn ấy thường xuyên có cắm hai cây nến sáp và bày
trên lò sưởi trong phòng ông. Hôm nào có khách ăn cơm, bà Magơloa thắp đôi nến
và mang bày ra bàn ăn.
Trong
phòng ngủ của ông giám mục, ngay chỗ đầu giường có một cái ô tường nhỏ, mỗi tối
bà Magơloa đem bộ đồ ăn và chiếc môi cất vào đó. Ô tường có khóa, nhưng chẳng
bao giờ cất chìa khóa đi cả.
Mảnh
vườn vì có những ngôi nhà nói trên dựng không đẹp mắt lắm nên cũng mất cả vẻ mỹ
thuật. Vườn có lối đi ngang dọc hình chữ thập, giữa có bể cạn. Chung quanh có
lối đi vòng theo bức tường vôi. Giữa các lối đi là bốn khỏanh đất vuông chung
quanh trồng hàng giậu xanh. Ba khoảnh bà Magơloa trồng rau, khoảng thứ tư ông
giám mục trồng hoa. Đây đó lại còn có một vài cây ăn quả.
Có lần
bà Magơloa bảo ông một cách tinh nghịch:
- Thưa
Đức ông, cái gì Đức ông cũng tính cho thật có lợi, thế mà vuông đất này thì phí
quá! Thà để kiếm mớ rau còn hơn là những bó hoa.
Ông trả
lời:
- Bà
Magơloa, bà lầm rồi! Cái đẹp cũng có ích như cái có ích khác.
Im một
lát, ông lại thêm: “Có lẽ còn có ích hơn”.
Mảnh đất
gồm chừng ba bốn luống, nhưng ông giám mục cũng bận rộn với nó như với sách vở
của mình. Ông sẵn sàng ra đấy một vài giờ, hết cắt lại cào rồi từng quãng lại
chọc lỗ, tra hạt. Ông không đủ thù ghét sâu bọ như một người làm vườn mong
muốn. Nói cho đúng, ông chẳng có tham vọng gì về khoa thực vật. Ông không biết
nhóm nọ, thuyết kia, ông cũng không hề nghĩ đến việc phải quyết định theo
Tuốcnơpho hay theo phương pháp tự nhiên. Ông không đứng về phía những thông
nang để chống phía những tử diệp, mà cũng không đứng về phe Giuytxiơ để chống
Linnê. Ông chẳng nghiên cứu gì cây cỏ, ông chỉ thích hoa. Ông rất kính trọng
người thông thái, ông còn kính trọng kẻ ngu dốt nhiều hơn và trong khi luôn thủ
lễ với hai đối tượng ấy, mỗi chiều hè ông lại tưới các luống cây của mình với
cái thùng tưới sắt tây sơn màu xanh.
Trong
nhà ông không hề có cái cửa nào có khóa. Cửa phòng ăn thông ngay ra trước nhà
thờ, ngày xưa vẫn chằng chịt then sắt, khóa sắt như cửa nhà tù. Ông giám mục
sai tháo hết những then khóa sắt ấy đi. Từ đó, ngày đêm chỉ cài bằng chiếc cựa
gà. Ai qua đường bất cứ vào giờ nào, muốn vào, cứ đẩy cửa ra là được. Lúc mới
đến ở, hai người đàn bà cứ lo ngay ngáy về cái cửa lúc nào cũng bỏ ngỏ ấy.
Nhưng ông giám mục bảo: “Nếu các bà thích vậy thì cứ đặt lấy then sắt vào cửa
buồng của các bà”. Hai bà đành phải tin tưởng như ông, hay ít ra cũng làm ra vẻ
tin tưởng như ông. Duy có bà Magơloa đôi khi còn hốt hoảng. Về phần ông giám
mục thì ý nhĩ của ông đã diễn tả hay ít nhất cũng ghi rõ trong ba dòng chữ
chính tay ông viết bên rìa một trang thánh kinh: “Chỉ khác nhau tí này thôi;
cửa nhà thầy thuốc thì không bao giờ được đóng, còn ở cửa nhà tu hành thì bao
giờ cũng phải để ngỏ”.
Trong
một cuốn sách khác nhau đề là “Triết lý y học”, ông có ghi: “Ta chẳng phải là
người thầy thuốc như họ sao? Ta cũng có những người khách bệnh đấy chứ. Trước
hết là khách của họ mà họ gọi là những người ốm đau; sau nữa là khách riêng của
ta mà ta gọi là những người khốn khổ”.
Ở chỗ
khác ông lại còn viết: “Đừng nên hỏi tên họ kẻ đến xin ngủ nhờ nhà ta, phần
nhiều kẻ lúng túng về cái tên của mình mới cần có chỗ trọ”.
Một hôm
có một cha xứ đáng kính, không nhớ rõ là cha ở Kulubru hay cha ở Pôngpieri,
chắc là do bà Magơloa xui, đánh bạo hỏi ông giám mục rằng để nhà cửa bỏ ngỏ cho
ngày đêm ai muốn vào thì vào như thế, Đức Cha có chắc là không phần nào bất cẩn
không và Đức Cha không sợ nhà cửa toang toàng như vậy có thể xảy ra sự không
may sao? Ông giám mục để tay lên vai của cha xứ rồi nghiêm trang và khoan từ mà
nói: “Nhà mà Chúa chẳng giữ cho mình, thì mình có muốn giữ kín bao nhiêu cũng
hoài công” (Nguyên văn Latinh). Xong ông nói sang chuyện khác.
Ông nói
một cách khá thích thú: “Có sự dũng cảm của nhà tu hành cũng như có sự dũng cảm
của người chỉ huy kỵ binh”. Có điều, ông nói thêm, “sự dũng cảm của ta phải
lặng lẽ”.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 1
Chương 7
CƠRAVÁT
Tới đây
tự nhiên phải dành chỗ cho một sự việc không thể nào bỏ qua được vì đó là một
trong các sự việc tốt nhất để hiểu ông giám mục là người như thế nào.
Bọn cướp
của Gatpa Be trước đây thường quấy nhiễu các hẻm núi rừng Ônliun. Sau khi chúng
bị tiêu diệt, một trong các tay đầu mục, Cơravát, lẩn tránh vào núi. Y cùng một
số lâu la, dư đảng của Gatpa Be, ẩn náu một thời gian tại quận Nixơ, rồi tràn
sang vùng Piêmông và đột nhiên lại xuất hiện ở địa phận nước Pháp, phía Bácxơlônét.
Người ta thấy y ở Giôđiê rồi ở Tuylơ. Y ẩn nấp trong hang hốc trên núi Giuđơ
Legơlơ và từ đó mò xuống xóm làng theo các vực Uybay và Uybaydet. Có lần dám
tiến tận Ămbroong và đang đêm xông vào nhà thờ vơ sạch đồ lễ. Cả vùng tàn hại
vì những mẻ trộm cướp của y. Cảnh binh được giao trách nhiệm lùng bắt, nhưng vô
hiệu. Lần nào y cũng trốn thoát, cũng có lúc y chống cự mãnh liệt. Rõ là một
tên khốn kiếp táo tợn. Đương cơn kinh hoàng đó thì ông giám mục tới. Ông đi
hành hạt. Đến Sattơla, ông xã trưởng tới tìm ông và đề nghị ông trở lui. Lý do
là Cơravát đang chiếm cứ vùng núi đến tận Acsơ và quá nữa. Đi sẽ nguy hiểm cho
dù có hộ tống. Vì như thế có thể phải hy sinh một cách vô ích ba bốn người sen
đầm bất hạnh.
- Do đó
– ông giám mục nói – tôi định không lấy người hộ tống.
- Đức
Cha lại nghĩ thế à? – Ông xã trưởng kêu lên.
- Tôi
nghĩ thế lắm, cho nên tôi nhất định không lấy sen đầm và một giờ nữa thì tôi
đi.
- Đi?
- Đi.
- Một
mình?
- Một
mình.
- Thưa
Đức Cha, Đức Cha đừng làm như vậy.
- Trên
núi – ông giám mục tiếp lời – có một xóm nhỏ chỉ bấy nhiêu, mà đã ba năm tôi
chưa đến thăm. Những người chăn dê hiền lành và lương thiện ấy, họ là những
người bạn tốt của tôi. Cứ ba mươi con dê họ chăn thì họ chỉ có một. Họ tết
những chiếc thừng bằng len đủ màu trông rất xinh, họ véo von nhiều điệu dan ca
miền núi với những ống sáo lỗ nhỏ xíu. Thỉnh thoảng họ cũng cần nghe nói tới
Chúa. Vậy mà một ông giám mục yếu bóng vía thì họ sẽ cho là thế nào? Tôi mà
không đi thì họ còn coi ra gì?
- Nhưng
mà, thưa Đức Cha, có cướp! Sợ Đức Cha gặp cướp!
- À này
– ông nói – tôi vừa nghĩ đến đấy. Ông nói có lý. Tôi có thể gặp họ lắm. Họ nữa,
họ nhất định cũng cần nghe nói tới Chúa.
- Thưa
Đức Cha, nhưng mà chúng là một lũ cướp! Một bầy chó sói!
- Ông xã
trưởng ạ, có lẽ chính vì bầy thú ấy mà Chúa Giêsu cho tôi đi làm kẻ chăn. Ai
biết đâu đường nẻo của Đấng Cứu thế?
- Thưa
Đức Cha, chúng sẽ cướp hết đồ đạc của Đức Cha.
- Tôi
chẳng có gì.
- Chúng
giết Đức Cha mất.
- Giết
một ông cha cố vừa đi vừa niệm kinh? Chà chà! Để làm gì mới được chứ?
- Lạy
Chúa! Rủi Đức Cha gặp chúng thật!
- Tôi sẽ
xin họ làm phúc cho kẻ khó của tôi.
- Đức
Cha đừng đi, xin Đức Cha, nguy đến tính mệnh mất.
- Thưa
ông xã trưởng, dứt khoát chỉ có thế thôi à! Tôi có mặt trên thế gian này không
phải để gìn giữ tính mệnh mình mà để chăn giữ các linh hồn.
Đành
phải để mặc ông. Ông ra đi, chỉ có một em bé tình nguyện đi theo dẫn đường. Cái
việc ông khư khư đòi đi ấy đồn đại khắp xứ làm người ta vô cùng hoảng sợ.
Ông
không muốn cho bà nào theo cả, bà em cũng không, bà Magơloa cũng không. Ông
cưỡi con la đi suốt qua núi không gặp một ai và đến với những người chăn dê
“bạn tốt” của ông một cách bình an. Ông ở lại với họ nửa tháng, giảng đạo, xức
dầu thánh cho người hấp hối, dạy chữ, nói chuyện đạo lý.
Hôm ông
sắp từ biệt xứ này, ông quyết định tổ chức một buổi lễ Ngợi Chúa với nghi thức
giám mục chủ lễ. Ông ngỏ ý với cụ xứ. Nhưng làm thế nào? Chẳng có đồ lễ của tòa
giám. Chỉ có thể đem cho ông dùng một bộ đồ lễ mà xứ nghèo nàn có với mấy chiếc
áo choàng lụa đã sờn đính tua vàng giả.
- Không
sao! – Ông nói – Cụ xứ ạ! Đến giờ giảng chúng ta cứ báo tin về buổi lễ đi. Mọi
việc rồi sẽ đâu vào đấy.
Người ta
lùng ở các nhà thờ xung quanh vùng. Tất cả các thứ sang trọng ở xứ đạo nghèo
này nhập lại cũng không lọc ra được một bộ lễ phục coi được cho một thầy hát
thánh ca ở nhà thờ lớn, đừng nói cho một vị giám mục.
Đương
lúng túng như vậy thì hai người đi ngựa lạ mặt mang đến cho ông giám mục một
hòm to, đặt ở nhà cha xứ rồi đi ngay. Mở hòm ra thì thấy trong đựng một áo
choàng bằng dạ vàng, một chiếc mũ lễ nạm kim cương, một thánh giá tổng giám
mục, một chiếc gậy thánh tuyệt đẹp, tất cả phẩm phục mất trộm một tháng trước ở
kho nhà thờ Đức bà Ămbroong. Trong hòm có một mảnh giấy đề mấy chữ: Cơravát gửi
Đức Cha Biêngvơnuy.
- Tôi đã
nói là mọi việc sẽ đâu vào đấy mà! – Ông nhắc. Xong lại thêm: người bằng lòng
cái áo chẽn cụ xứ thì Chúa lại gửi đến cái áo choàng tổng giám mục.
- Thưa
Đức Cha – cụ xứ lắc đầu, mỉm cười nói nhỏ - Chúa, hay quỉ sứ.
Ông giám
mục nhìn thẳng vào cha xứ, nói lại giọng nghiêm nghị: - Chúa!
Khi ông
trở về Sattơla cũng như suốt dọc đường người ta nghe nói đến điều kỳ lạ, đổ ra
xem. Đến nhà cha xứ, ông gặp cô Baptistin và bà Magơloa đang chờ ở đấy. Ông bảo
cô em:
- Nào
tôi nói có đúng không? Người thầy tu nghèo đến với dân nghèo miền núi, lúc đi
tay không, lúc về đầy túi. Tôi ra đi đem theo chỉ có lòng tin ở Chúa, lúc ra về
tôi mang cả kho của cho một nhà thờ.
Buổi tối
trước khi đi ngủ, ông còn nói:
- Không
nên sợ kẻ trộm cướp, kẻ giết người bao giờ. Có nguy hiểm thì đó là cái nguy
hiểm bên ngoài, nhỏ nhặt. Chúng ta phải biết tự mình sợ mình. Thành kiến là
trộm cướp đó, tật xấu là giết người đó. Những mối nguy lớn đều ở trong ta. Sá
gì cái đe dọa tính mệnh tài sản ta! Chỉ nên nghĩ đến cái uy hiếp linh hồn ta mà
thôi.
Sau đó
ông quay sang phía bà em:
- Cô ạ,
đã là người tu hành thì không bao giờ còn đề phòng đối với đồng loại Đồng loại
làm gì là có Chúa cho phép. Chỉ nên biết cầu Chúa khi nghĩ rằng có tai biến
đang đến với ta. Hãy cầu Chúa, không phải cho ta, mà cho đồng loại khỏi mắc tội
nhân trường hợp ta.
Nói cho
đúng, những sự biến coi như rất hiếm trong cuộc đời ông giám mục. Chúng tôi chỉ
kể những cái mình biết được, còn bình thường thì ông sống theo nề nếp là giờ
nào việc ấy. Một giờ trong ngày cũng giống một tháng trong năm, chẳng khác gì.
Riêng
“kho của” của nhà thờ Ămbroong về sau ra sao, nếu có ai hỏi, chúng tôi sẽ lúng
túng hết sức. Bao nhiêu là của đẹp, khá hấp dẫn “cuốn đi” cho người khốn khổ
thì rất tốt. Vả, nó cũng đã bị “cuốn đi” rồi kia mà. Sự tình kể cũng đã xong
một nửa; chỉ còn đổi hướng “đi” và cho nó đi nốt, mấy bước nữa về phía kẻ
nghèo. Tuy nhiên, sự việc ra sao, chúng tôi chẳng dám nói chắc. Chỉ có điều là
trong giấy má của ông giám mục thấy có ghi mấy chữ hơi khó hiểu, có lẽ có liên
quan đến việc này, xem chữ nghĩa thì như sau: Vấn đề là phải xem cái đó nên đưa
về nhà thờ hay về bệnh viện.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 1
Chương 8
TRIẾT LÝ SAU BỮA ĂN
Ông
thượng nghị sĩ nói đến trên kia là một người thông minh, linh lợi. Ông đã bước
đi trên đường đời với một nguyên tắc cứng rắn là không thèm để đến những trở
lực có khi vấp phải mà người ta gọi là lương tâm, công lý, bổn phận, lời thề
danh dự. Ông đã đi thẳng đến đích, không một lần nào chệch khỏi con đường thăng
quan, tiến lộc. Ông ta nguyên là một biện lý, say sưa với sự hanh thông, tính
tình cũng không đến nỗi nào, được thì giúp ích chút đỉnh cho con, cho rể, cho
bà con, cả cho bạn bè nữa. Quả là ông đã khéo chọn phía tốt của cuộc đời, các
dịp may, các dịp hiếm có. Còn lại ông coi như là ngu ngốc cả. Tính ông ta hóm,
hiểu biết sách vở đủ để tin mình là đồ đệ của Epicuya, kỳ thật chỉ là một sản
phẩm của Pigôn Lơbrăng. Ông sẵn sàng chế giễu một cách ý vị những cái gì vô
biên, vĩnh viễn, những “chuyện hão huyền của ông cụ già giám mục”. Có lúc, ông
đem ra cười cợt với một vẻ tin tưởng dễ thương, trước mặt chính ông Mirien để
ông này nghe.
Trog một
dịp lễ nửa công, nửa tư gì đó, bá tước… (ông thượng nghị sĩ) và ông Mirien phải
dùng cơm ở nhà ông tỉnh trưởng. Đến lúc tráng miệng, ông thượng nghị sĩ vui
miệng, mặc dù vẫn giữ đúng tư thế, nói to:
- Hay
quá, ông giám mục à, ta nói chuyện đi. Thượng nghị sĩ và giám mục nhìn nhau khó
mà không chớp mắt. Ông với tôi như hai thầy bói. Tôi có một điều muốn thú thật
với ông. Tôi có triết lý riêng của tôi.
- Ông nói
đúng – ông giám mục đáp lại. – Người ta vừa nằm vừa triết lý. Ông đang nằm trên
đệm tía đó, thưa ông thượng nghị sĩ.
Được
khuyến khích, ông thượng nghị sĩ tiếp:
- Xin
nói chuyện thật tình.
- Thật
bụng nữa – ông giám mục nói.
- Tôi
xin nói với ông - ông thượng nghị sĩ nói lại – rằng hầu tước Acgiăng, Pirông,
Hốpbơ và Negiông không phải là những thứ tầm phơ. Trong tủ sách nhà tôi có đủ
các triết gia tôi thích, đều gáy mạ vàng cả.
- Cũng
như ông vậy, ông bá tước ạ- ông giám mục ngắt lời.
Ông
thượng nghị sĩ nói tiếp:
- Tôi
ghét Điđơrô, ông ta là một nhà duy ý, một tay cao đàm, một người cách mạng, xét
kỹ là có tin Chúa và sùng đạo hơn Vônte. Vônte thì chế nhạo Nitham và như thế
là sai lầm, vì những con lươn của Nitham chứng minh rằng Chúa chẳng có ích lợi
gì hết. Một giọt dấm đổ vào một thìa bột, tức là sáng thế rồi chứ gì nữa. Giả
dụ cái giọt to hơn và cái thìa lớn hơn, thì chúng ta có thế gian. Con người,
chỉ là con lươn. Thế thì cần gì có Chúa vĩnh viễn? Thưa ông giám mục, giả
thuyết Giêhôva chán lắm. Chẳng qua nó chỉ tạo ra được những bộ xương rỗng
tuếch. Đả đảo cái tất cả cao siêu, nó chỉ làm rầy người ta! Muôn năm cái số
không vì nó để cho người ta được yên tĩnh! Từ ông đến tôi và để nói thật hết,
với lại để được xưng tội với vị cha linh hồn như lẽ thường, tôi thú thật với
ông là tôi có lương tri. Tôi không mê cái ông Giêsu nhà ông lúc nào cũng khuyên
khổ hạnh và hy sinh. Đúng là khuyên thằng khố rách phải hà tiện. Khổ hạnh! Tại
sao lại phải khổ hạnh? Hy sinh! Hy sinh cho cái gì? Tôi chưa hề thấy con chó sói
nào chịu hy sinh cho hạnh phúc của con sói khác. Hãy sống theo luật tự nhiên
vậy. Chúng ta là vật thượng đẳng, chúng ta có nền triết lý thượng đẳng. Ở trên
cao mà làm gì, nếu không nhìn được xa hơn sống mũi kẻ khác? Chúng ta nên sống
vui vẻ. Sống là tất cả. Còn cái chuyện người ta có một tương lai khác, ở chỗ
khác, ở trên cao kia, hay ở dưới ấy, đâu đấy, tôi cóc tin tí nào. Ối dào! Người
ta căn dặn tôi hy sinh và khổ hạnh, tôi phải chú ý mọi việc tôi làm, tôi phải
nát óc vì cái thiện cái ác, vì cái đúng cái sai, cái nên cái không nên. Vì sao?
Bởi vì tôi phải trả lời về hành vi của tôi. Lúc nào? Sau khi tôi chết. Thật là
hão huyền! Tôi chết rồi, có thánh mà chộp được tôi. Thử bảo một bóng bàn tay
vốc lấy một vốc tro xem. Nói hẳn cái có thật, chúng tôi là những kẻ hiểu đời,
chúng tôi đã từng biết chuyện đời, không có gì là thiện là ác cả; chỉ có sự
sống. Chúng ta phải tìm cái có thật. Phải đào sâu, tìm đến cùng chứ! Phải biết
đánh hơi chân lý, bới đất lên và chộp lấy. Có thế mới thật là vui thích. Và bấy
giờ tha hồ mà khoe tài, đắc chí. Tôi vốn là một người dứt khoát. Thưa ông giám
mục, vấn đề bất tử của con người là một chuyện phỉnh trẻ con. Ôi chao! Lời hứa
hấp dẫn làm sao! Anh cứ tin tưởng. Số ông Ađam thật là may! Bây giờ là linh
hồn, mai kia là thiên thần, có cánh màu xanh ở xương vai. Nào, ông giúp tôi
với, có phải Tectuyliêng nói rằng những kẻ hưởng phúc đời đời sẽ chu du từ hành
tinh này sang hành tinh khác không? Vâng, cứ coi là thế. Người ta sẽ trở thành
châu chấu giữa các vì sao. Và, người ta gặp Chúa Trời. Chà chà chà! Tất cả các
thứ thiên đường ấy đều nhảm nhí tuốt. Chúa Trời là một trò đùa khổng lồ. Nhất
định là tôi không nói cái đó trên tờ Người huấn luyện đâu, nhưng trong bạn bè
thì chúng tôi cứ rỉ tai nhau. Interpocula hy sinh cuộc sống trần tục để cầu
thiên đường thì chẳng khác nào thả mồi bắt bóng. Để cho vô biên lừa phỉnh, dại
gì! Tôi không gì cả. Tên tôi là bá tước Hư vô, thượng nghị sĩ. Trước khi tôi
sinh, có tôi không? Không. Sau khi tôi chết đi, còn tôi không? Không. Tôi là
gì? Một nhúm bụi dính nhau trong một cơ thể. Tôi làm gì trên trái đất này? Tùy
tôi chọn. Chịu đau khổ hoặc hưởng thụ. Chịu khổ sẽ đưa tôi đến đâu? Đến hư vô.
Nhưng tôi đã chịu khổ. Còn hưởng thụ thì sẽ đưa đến đâu? Cũng đến hư vô. Nhưng
tôi đã được hưởng thụ. Tôi đã chọn rồi đấy. Ở đời hoặc phải ăn hoặc phải bị ăn.
Tôi thì tôi ăn. Làm trâu tốt hơn làm cỏ. Cái đạo đức của tôi là thế. Còn sau
nữa nước chảy thuyền trôi, cửa mồ rộng mở, điện Păngtêông (Panthéon: điện thờ
danh nhân, xây dựng ở Paris vào thế kỷ XVIII) cho tất cả chúng ta . Tất cả đều
rơi tỏm xuốn cái hố huyệt lớn. Thế là chấm dứt. Finis. Thanh toán hòan toàn.
Đây là bắt đầu chỗ tiêu tan. Chết là hết, tôi nói đúng như thế. Ở chỗ này mà có
kẻ còn muốn nói với tôi một điều gì, chỉ nghĩ đến điều đó thôi tôi đã thấy buồn
cười. Chuyện bịa của vú em. Ngáo ộp cho trẻ con, Giêhôva cho người lớn. Không,
mai sau của chúng ta thuộc về đêm tối. Đằng sau ngôi mộ chỉ còn có những hư vô
ngang nhau. Anh đã là Xácđanapan, anh đã là Vanhxăng đơ Pôn, cái đó cũng thành
con số không như nhau. (Sardanapale: nhân vật truyền thuyết của thành quốc
Babylone, nổi tiếng hư hỏng và hèn nhát; Saint Vincent de Paul: Thánh tử vì đạo
trong thế kỷ I ở La Mã, nổi tiếng là người đạo đức, đã viết nhiều chương trong
Tân ước.) Đó là cái có thật. Vậy thì hãy sống, sống trên hết. Hãy dùng lấy cái
tôi khi nó còn trong tay anh. Nói thật, tôi xin thưa với ông, ông giám mục ạ,
rằng tôi có triết lý của tôi và triết gia của tôi. Tôi không bị mê hoặc bởi
những lời nói nhảm nhí. Cố nhiên, rồi cũng phải có gì cho kẻ ở dưới, những
người chân đất, những người mài dao, những kẻ khốn khổ. Người ta tọng cho họ
nuốt những thần thoại, những ảo tưởng, nào linh hồn bất tử, nào thiên đường,
các vì sao. Họ cứ mà nhai các thứ ấy, cứ mà phết lên mẩu bánh không. Kẻ không
có gì cả thì đã có Chúa Trời. Đúng đó là phần ít ỏi nhất. Tôi không ngăn trở
điều đó, nhưng tôi giữ cho ông Negiông. Chúa Trời là cái rất tốt cho dân chúng.
Ông giám
mục vỗ tay:
- Nói
như thế mới là nói! – Ông reo lên – Quí hóa biết bao, thật là tuyệt diệu cái duy
vật ấy! Chả phải ai muốn là có được đâu. À! Có nó thì không bao giờ còn bị lừa
nữa, không còn khờ dại mà để bị đày biệt xứ như Catông, bị ném đá như Êchiên,
càng không để bị thiêu sống như Gian Đác. Kẻ nào tạo được cho mình cái duy vật
quí hóa ấy sẽ lấy làm vui thấy mình chẳng chịu trách nhiệm về cái gì cả. Mình
có thể nuốt tươi tất thảy không chút băn khoăn, những chức vụ, những nghề ăn
không ngồi rồi, những tước vị, những quyền hành tóm được chính đáng hay không
chính đáng, những cách nói lời rồi lại ăn lời để hốt bạc, những sự phản bội bổ
ích, những sự đầu hàng ý vị của lương tâm. Và cuối cùng thì bước xuống mồ sau
khi dạ dày đã tiêu sạch mọi thứ. Thật là thú vị! Những điều đó, không phải là
tôi nói ông đâu, ông thượng nghị sĩ ạ. Tuy nhiên, tôi không thể nào mà không
khen ngợi ông. Các ngài quyền cao chức cả, chính miệng các ngài nói ra, các
ngài có triết lý riêng của mình và cho mình, một thứ triết lý hay ho, tế nhị,
chỉ riêng người giàu sang mới hiểu nổi và dùng để nấu món gì cũng được, nhất là
để nêm tiêu muối cho các khoái lạc ở đời thì càng tuyệt. Cái triết lý ấy lấy từ
đáy sâu và có những nhà thám hiểm đặc biệt moi móc lên. Nhưng các ngài cũng có
lòng từ thiện, các ngài không đến nỗi cho là xấu cái việc dân chúng lấy việc
tin vào Chúa làm triết lý của mình, giông giống như món ngỗng hầm hạt dẻ là món
gà nhồi nấm của người nghèo.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 1
Chương 9
CÔ EM TẢ ÔNG ANH
Để mọi
người có một ý niệm về cuộc sống gia đình của ông giám mục và cách hai bà phụ
nữ đem mọi hành động, mọi ý nghĩ, cả mọi bản năng phụ nữ rất hay giật thót của
mình, phục tùng những thói quen và những ý định của ông giám mục, mà không cần
ông phải mất công nói ra lời, chúng tôi thấy không gì tốt hơn là sao lại đây
bức thư của cô Baptistin gửi cho bà tử tước Boasơvrông, người bạn từ thời thơ
ấu của mình. Bức thư ấy hiện chúng tôi đang giữ.
“Đinhơ,
16 tháng 12 năm 18…
Bà chị
kính mến, không ngày nào chúng tôi không nhắc đến bà chị. Cái đó kể ra đã thành
thói quen, nhưng cũng có một lý do nữa. Bà chị cứ tưởng tượng dùm cho là bà
Magơloa trong khi chùi rửa, quét bụi trần nhà và cái bức vách, lại có những
phát hiện đấy. Hai buồng chúng tôi đều phất giấy cũ quét vôi trắng, giá như ở
trong một lâu đài như của bà chị chắc cũng không đến nỗi làm cho nó xấu đi. Bà Magơloa
đã xé tất cả chỗ giấy. Bên dưới có nhiều thứ. Các phòng khách của tôi, ở đấy
chẳng có bàn ghế gì, chúng tôi dùng để phơi quần áo vừa ngâm xong, cao năm
thước và rộng trên năm thước, có trần xưa kia quét sơn, dát vàng với nhiều xà
ngang như ở nhà bà chị. Hồi nhà này còn là nhà thương, chung quanh phòng đều
lót vải. Có cả những bức chạm gỗ thời bà cụ nội chúng ta. Nhưng chính là phải
xem buồng của tôi kia. Bà Magơloa đã tìm thấy dễ thường dưới mười lớp giấy dán
chồng nhau, nhiều bức tranh sơn, không đẹp lắm nhưng coi được. Có bức hình
Minecvơ phong kỵ sĩ cho Têlêmac, có bức cũng hình Têlêmac trong vườn cây. Tôi
quên mất tên. Cái nơi các bà người La Mã cũng đến trong một đêm. Tôi nói gì với
bà chị nữa nhỉ? Tôi có đủ những đàn ông, đàn bà La Mã (chỗ này có một chữ không
đọc được) và một đám tùy tùng. Bà Magơloa đã lau rửa sạch sẽ các thứ ấy và mùa
hè này bà ấy sẽ chữa lại đôi chỗ hư hỏng tí chút, rồi sơn lại một loạt, thế là
cái buồng của tôi trở thành một nhà bảo tàng thật sự. Bà ấy cũng tìm được trong
một xó kho thóc hai cái bàn chân quì kiểu xưa. Thợ họ đòi hai ê-quy sáu phơrăng
mới sơn lại, nhưng tốt hơn là để tiền ấy cho kẻ nghèo; với lại cái bàn ấy trông
cũng xấu xí, tôi thích một cái bàn tròn bằng gỗ đào hoa tâm hơn.
Tôi thấy
mình luôn được sung sướng. Ông anh tôi tốt quá. Ông đem tất cả cho kẻ khó và
người ốm đau. Vì thế chúng tôi khá lúng túng. Xứ này mùa đông lại gay gắt mà
cũng phải làm một cái gì cho những kẻ thiếu thốn. Chúng tôi chỉ còn vừa đủ tiền
củi sưởi và dầu đèn. Bà chị thấy không? Như thế cũng rất dễ chịu!
Ông anh
tôi lại có cái thói quen riêng. Lúc chuyện trò, ông nói rằng một ông giám mục
phải như thế mới được. Bà chị cứ hình dung cho là nhà chẳng bao giờ đóng cửa.
Muốn vào thì cứ vào và một bước là ở ngay trong buồng ông ấy. Ông chả sợ gì cả.
Ban đêm cũng vậy. Ông cho đó là dũng cảm riêng của ông.
Ông
không muốn tôi sợ giùm cho ông, mà cũng không muốn cho bà Magơloa phải sợ. Ông
xông pha mọi thứ nguy hiểm nhưng lại không muốn chúng tôi có vẻ để ý đến. Cũng
phải biết cái lối của ông ấy là thế.
Trời mưa
ông cũng đi, gặp nước ông cũng lội, mùa đông ông vẫn đi xa. Ông chẳng sợ gì đêm
tối, đường xá không an toàn ông cũng mặc; ông cũng chẳng ngại gì đụng đầu với
những tên vô lại.
Năm
ngoái, ông đi một mình đến một vùng trộm cướp. Ông không muốn đem chúng tôi
theo. Ông vắng biệt những nửa tháng. Lúc ông trở về, hóa ra chẳng có chuyện gì
xảy ra cả, người ta tưởng ông chết thì ông lại rất khỏe mạnh. Ông nói: “Người
ta đã cướp bóc tôi như thế này đây!” Và ông mở chiếc hòm đựng đầy các bảo vật
của nhà thờ Ămbroong, mà bọn cướp đã tặng ông.
Lần ấy,
trên đường về, chẳng là tôi cùng một số bạn bè của ông đã đi hai dặm để đón
ông, tôi không kìm mình được nên có cằn nhằn ông một chút, nhưng đã chú ý chỉ
nói lúc chiếc xe kêu lạch cạch để không một ai nghe thấy.
Thời
gian đầu tôi tự bảo: “Không có nguy hiểm gì làm ông chùn bước, ông này tợn
thật”. Bây giờ thì rồi tôi cũng quen đi. Bà Magơloa có định cản trở ông thì tôi
ra hiệu bảo bà ấy dừng. Mặc ông muốn xông pha nguy hiểm thì ông cứ làm. Phần
tôi, tôi kéo bà Magơloa đi, rồi tôi về buồng mình, tôi cầu nguyện cho ông và
tôi thiếp đi. Tôi vẫn yên tâm, vì tôi biết rằng nếu có tai biến gì xảy ra cho
ông thì đời tôi cũng chấm dứt. Tôi sẽ đi về với Chúa cùng ông anh và đức giám
mục của tôi. Bà Magơloa thì có vất vả hơn mới làm quen được với cái nhà bà gọi
là sự bất cẩn của ông. Nhưng bây giờ thì đã thành nếp rồi. Hai chúng tôi cùng
cầu kinh, cùng sợ với nhau và cùng nhau ngủ thiếp đi. Quỉ có vào nhà thì cũng
mặc xác nó muốn làm gì thì làm. Nói cho cùng, chúng tôi còn sợ cái gì trong nhà
này? Luôn luôn chúng tôi đã có một người nào đó bên cạnh và người đó lại là
người có quyền lực nhất. Quỉ có thể tạt qua, còn kẻ ở thường trực lại là Chúa.
Như vậy
đối với tôi là đủ. Bây giờ ông anh tôi cũng chẳng cần nói với tôi một tiếng
nào. Ông không nói tôi cũng hiểu và chúng tôi phó mình cho Thượng đế.
Đó là
cách cư xử của một con người có cái vĩ đại trong đầu óc.
Bà chị
ạ, tôi đã hỏi ông anh tôi để tìm hiểu về dòng họ Phô mà bà chị có nhờ tôi. Rõ
là cái gì ông cũng biết và ông cũng nhớ nhiều kỷ niệm lắm, vì ông luôn vẫn
trung thành với nền quân chủ. Đúng đó là một thế gia Nóocmăng rất xưa trong
quận Căng. Cách đây năm trăm năm trong gia đình ấy đã có một vị là Raun đơ Phô,
một vị là Giăng đơ Phô và một vị là Tômát đơ Phô, cả ba đều là quí tộc, trong
đó có một là lãnh chúa ở Rơsơpho. Người cuối cùng trong họ là Ghi Êchiên
Alêchdăng, chỉ huy trung đoàn và cũng giữ chức vụ gì đó trong kỵ binh của
Brơtanhơ. Con gái ông này là Mari Luidơ lấy Adriêng Saclơ đơ Gramông, con trai
công tước Lui đơ Gramông, đại tá vệ binh và chuẩn tướng trong quân đội. Tên họ
này có thể viết nhiều cách khác nhau nhưng cũng là Phô cả.
Bà chị
quí mến ơi, mong bà chị trình với Đức Khâm mạng trong hàng thân thích tôn kính
của bà chị, nhớ giùm tên chúng tôi trong lời cầu kinh của ngài. Còn cô Xivani
yêu quí của bà chị, cô ấy đã làm một việc mà không dùng những phút ngắn ngủi cô
ấy được gần bà chị mà viết thư cho tôi. Cô ấy sức khỏe, học hành vừa ý bà chị
và vẫn yêu tôi luôn luôn. Đó là tất cả những điều tôi mong muốn. Nhờ bà chị mà
tôi nhớ đến cô ấy. Tôi lấy làm sung sướng dạo này sức khỏe tôi không đến nỗi
tồi lắm, nhưng cứ ngày càng gầy thêm. Đến đây, bút cùn mực cạn, xin từ biệt bà
chị. Kính chúc bà chị mọi sự tốt đẹp. Kính chào.
Baptistin
T.B. –
Cô em dâu của bà chị vẫn ở đây với gia đình mình. Cậu cháu trai của bà chị kháu
lắm. Bà chị chắc không ngờ là cậu ta sắp lên năm nhỉ! Hôm qua cậu ta thấy một
con ngựa đi ngang qua, đầu gối quấn bao vải, cậu ta nói: con ngựa có cái gì ở
đầu gối thế nhỉ? – Cậu bé ngoan quá! Em trai cậu kéo lê một cái chổi cùn quanh
phòng như kéo xe và nói: “Nào! Nào!”
Cứ cái
thư này thì thấy rõ hai người đàn bà đã biết khuôn mình theo cách ăn ở của ông
giám mục với cái biệt tài của phụ nữ, nó giúp họ hiểu người đàn ông hơn cả
người đàn ông. Ông giám mục có cái vẻ người hiền lành, hồn nhiên, không bao giờ
thay đổi, nhưng có lúc lại có những hành động lớn lao táo bạo và hết sức đẹp đẽ
mà hình như chính ông cũng không ngờ đến. Hai bà run sợ nhưng cứ để tự nhiên.
Cũng có khi bà Magơloa thử có đôi lời trách móc trước khi ông làm, nhưng khi
ông đang làm và làm xong thì không bao giờ bà có lời nào. Tuyệt nhiên không ai
làm rầy ông, khi việc đã bắt đầu, dù chỉ bằng một dấu hiệu. Một đôi lúc, ông
chẳng cần nói, có lẽ ông cũng không có ý thức rõ rệt, vì đức giản dị của ông
quá hoàn toàn, hai bà cảm thấy một cách mơ hồ rằng ông đang hành động như một
giám mục chân tu; và như thế hai bà chỉ còn như hai cái bóng đi lại trong nhà.
Hai bà phục vụ ông một cách ngoan ngoãn và nếu phục tòng là giấu mặt thì hai bà
luôn luôn giấu mặt. Nhờ có một năng khiếu tinh tế rất đáng phục, hai bà biết
rằng có những sự săn sóc nào đó lại làm cho người ta khó chịu. Vì vậy mà ngay
lúc cảm thấy ông đang lâm nguy, hai bà hiểu rất rõ, không phải chỉ ý nghĩ mà
bản chất của ông, nên không còn giữ gìn cho ông nữa mà phó thác cho Chúa.
Với lại
cô Baptistin cũng từng nói, như trên đây đã thấy, hễ ông anh bà có mệnh hệ nào
thì bà cũng không sống nữa. Bà Magơloa thì không nói ra, nhưng bà cũng hiểu như
vậy.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 1
Chương 10
ÔNG GIÁM MỤC ĐỨNG TRƯỚC MỘT ÁNH SÁNG KHÁC LẠ
Sau bức
thư nói trên kia được ít lâu, ông giám mục làm một việc, theo dư luận thành
phố, còn liều lĩnh hơn việc đi qua vùng núi non của bọn lục lâm nữa.
Ở vùng
nông thôn kế cận thành Đinhơ, có một ông già sống đơn độc. Người ấy, xin nói
ngay cái tiếng ghê gớm, nguyên là một tay có chân trong viện Quốc ước (Nguyên
văn: Conventionnel, nghĩa là một dân biểu trong viện Quốc ước. Viện này đã
thiết lập chế độ cộng hòa, phế và xử tử Lui thứ XVI, thi hành chuyên chính để
bảo vệ cách mạng, bảo vệ nước Pháp). Tên ông ta là G.
Xã hội
nhỏ bé thành Đinhơ nói đến G. một cách ghê tởm. Một tay cách mạng, các ngài
tưởng tượng được chăng? Ngữ ấy sống ở cái thời người ta mày tớ với nhau và gọi
nhau là công dân kia, công dân nọ. Có thể nói hắn là một con quái. Chính tay
hắn không bỏ phiếu giết vua, nhưng cũng gần như thế. Hắn là một con người ghê
gớm. Tại sao, lúc các vị hoàng thân chính thống về nước, người ta lại không lôi
nó ra tòa án đặc biệt mà xử? Đã đành là không xử tử, vì có chính sách khoan
hồng, nhưng ai cấm giáng cho nó một cái án chung thân phát vãng! Cũng phải làm
một cái gì để răn người chứ!... Vả lại, hắn là một tên vô thần chủ nghĩa, cũng
như cả bè lũ chúng – Bầy ngỗng bàn tán về con kên kên.
Nhưng G.
có phải là con kên kên không? Đúng là một con kên kên, nếu như người ta nhìn
đến cảnh cô độc cục cằn của hắn. Hắn không biểu quyết xử tử vua nên không bị
đày biệt xứ. Hắn được ở lại nước Pháp.
Hắn ở
cách thành phố độ bốn mươi lăm phút, xa làng mạc, xa đường cái, trong một nếp
thung lũng hẻo lánh, hoang vu. Người ta bảo là ở đấy có một mảnh đồng, giống
như một cái ổ, một thứ xào huyệt. Không có láng giềng, cũng chẳng bao giờ có
khách tạt qua. Từ khi hắn đến ở đó thì con đường mòn qua lại cũng bị cỏ che lấp.
Người ta ghê rợn nói đến chỗ ấy cũng như nói đến cái nhà của một tên đao phủ.
Nhưng
ông giám mục nghĩ đến hắn và thỉnh thoảng nhìn về phía lùm cây ở chân trời là
chỗ thung lũng hắn ở, ông nói “ở nơi kia có một linh hồn hiu quạnh”.
Và trong
thâm tâm ông nghĩ: “Ta cần phải đi thăm hắn”.
Phải
nhận thấy rằng cái ý ấy lúc đầu có vẻ rất tự nhiên, nhưng lâu dần càng suy nghĩ
ông càng thấy kỳ quặc, phi lý, có phần ghê tởm nữa. Bởi vì, nói cho đúng, ông
không thoát khỏi cảm tưởng chung của mọi người. Đối với người cách mệnh ấy ông
muốn xa lánh, nghĩa là ông gần như thù hằn hắn ta, nhưng điều này tự ông không
thấy rõ lắm.
Ghẻ của
con chiên có làm cho người mục đồng xa lánh nó không? Nhưng con chiên này nó
thế nào ấy!
Ông giám
mục băn khoăn lắm. Một đôi khi, ông dời bước đi về phía ấy, rồi thình lình ông
quay gót.
Thế rồi
một hôm, người ta xì xào là chú bé mục đồng giúp việc cho tên sát nhân già kia
ra phố mời thầy thuốc, là hắn bị bệnh bại liệt sắp chết, có lẽ không qua được
đêm nay.
Một đôi
người thêm: may mắn làm sao!
Ông giám
mục lấy gậy, khoác áo dạ ngoài vì chiếc áo thâm của ông quá sờn cũ và gió đêm
sắp thổi lạnh, rồi ông ra đi.
Trời đã
ngã về chiều, mặt trời sắp lặn, ông giám mục mới đến nơi bị loại bỏ. Khi nhận
ra là đã đến gần miệng ổ, ông không thể giữ cho trống ngực khỏi đánh. Ông bước
qua một cái hào, đi hết một hàng giậu, nâng một dàn nho lên vào một khu vườn
hoang tàn, mạnh dạn bước mấy bước và ở cuối vườn, sau một bụi cây rậm, cái hang
ổ hiện ra đột ngột.
Đó là
một túp lều thấp, nghèo nàn, bé nhỏ mà sạch sẽ, mặt trước có một giàn nho.
Trước
cửa, trong chiếc ghế xe cũ kỹ, loại ghế nông dân, một ông già tóc bạc đang ngồi
mỉm cười với mặt trời.
Bên cạnh
ông già có một chú mục đồng. Nó đưa cho ông một bát sữa.
Trong
lúc ông giám mục lặng lẽ nhìn, ông già nói với chú bé:
- Cám ơn
chú, ta không cần gì nữa hết.
Ông
không cười với mặt trời nữa, quay sang mỉm cười với chú bé.
Ông giám
mục bước tới. Nghe tiếng động, ông già quay lại và mặt ông tỏ vẻ ngạc nhiên,
với cái lượng ngạc nhiên còn lại sau một cuộc đời dằng dặc. Ông nói:
- Từ khi
tôi về đây đến nay, lần này là lần đầu tiên có người đến nhà tôi. Thưa ông, ông
là ai?
Ông giám
mục đáp:
- Tôi là
Biêngvơnuy Mirien.
-
Biêngvơnuy Mirien! Tôi đã nghe nói đến tên ấy. Ông có phải là người mà dân
chúng gọi là Đức Cha Biêngvơnuy đó chăng?
- Chính
tôi.
Ông già
cười nụ:
- Thế
thì ông là giám mục của tôi?
- Hình
như thế.
- Mời
ông vào.
Người
cách mạng đưa tay, nhưng ông giám mục không bắt. Ông chỉ nói:
- Tôi
lấy làm sung sướng nhận thấy rằng người ta đã dối tôi. Ông không ốm đau gì thì
phải.
- Tôi
sắp khỏi rồi.
Ông già
nghĩ một tí rồi nói tiếp:
- Ba
tiếng đồng hồ nữa thì tôi chết.
Ông lại
nói:
- Tôi
cũng hơi biết nghề làm thuốc ít nhiều. Tôi biết người thế nào là sắp chết. Hôm
qua tôi chỉ thấy lạnh ở hai bàn chân; sáng nay lạnh lên đến gối; bây giờ tôi
cảm thấy nó lên đến thắt lưng rồi; khi nó lên đến tim thì tôi ngừng sống. Mặt
trời đẹp quá phải không ông? Tôi bảo đẩy tôi ra đây để nhìn vạn vật một lần
cuối. Ông cứ nói chuyện đi, nghe chuyện không làm cho tôi mệt đâu. Ông đến xem
một con người sắp chết là tốt đấy. Lúc chết mà có một người làm chứng cho mình
thì cũng hay! Ai cũng có những tật riêng. Tôi, thì tôi muốn gắng đến sáng hãy
đi, nhưng xem ra chỉ còn được sống ba tiếng nữa là cùng. Tôi sẽ nhắm mắt vào
lúc đêm tối. Nhưng cần quái gì! Chết là một chuyện đơn giản, cần gì phải có ánh
bình minh mới chết được! Đành thế. Tôi sẽ nhắm mắt dưới ánh sao.
Ông già
quay về phía chú mục đồng:
- Con đi
ngủ đi con. Con đã thức đêm hôm qua, hôm nay con phải mệt.
Chú bé
bước vào trong lều.
Ông già
nhìn theo nó, nói một mình:
- Khi nó
ngủ thì tôi chết. Cũng là giấc ngủ cả, có thể ở bên cạnh nhau lắm chứ!
Ông giám
mục không cảm động như ở mọi trường hợp khác. Ông cảm thấy không có Chúa trong
cái lối chết này. Vả lại cũng cần phải nói hết, nói cả những mâu thuẫn vụn vặt
trong những tâm hồn vĩ đại! Ông giám mục hơi phật ý vì không được gọi là Đức
Cha, tuy cũng có khi ông đem tiếng Ông lớn ra cười cợt. Ông toan gọi người cách
mạng già là: công dân. Ông thoáng có ý muốn sỗ sàng cộc lốc, như nhiều thầy
thuốc và cố đạo, tuy ông không quen cái lối ấy. Chung qui, con người ấy, tay
cách mạng ấy, dân biểu ấy, đã một thời lẫy lừng quyền thế; cho nên, có lẽ đầu
tiên trong đời, ông giám mục muốn có thái độ nghiêm khắc.
Người
cách mạng thì đối với ông chân tình và khiêm nhượng; trong thái độ của ông,
người ta cảm thấy vẻ khiêm tốn của một người biết mình sắp trở thành cát bụi.
Ông giám
mục thường tránh tọc mạch vì ông cho tọc mạch cũng gần như xúc phạm người ta.
Nhưng ông không thể không chú ý quan sát người cách mạng. Ông chú ý nhưng không
phải vì có cảm tình cho nên đối với một người nào khác mà ông chú ý như thế tất
lương tâm ông sẽ cắn rứt. Nhưng một tên cách mạng theo ông thì còn luật lệ nào
che chở cho, cả đến luật nhân ái nữa.
Ông G.
bình tĩnh, nửa thân trên vươn thẳng, giọng nói sang sảng. Ông thuộc về cái hạng
ông già tám mươi cứng cáp làm các nhà sinh lý học kinh ngạc. Cách mạng đã có
nhiều người như thế, những người cũng to lớn như thời đại. Nhìn ông, người ta
cảm thấy đó là một con người đã qua trăm rèn nghìn luyện. Cử chỉ dáng điệu của
ông là của con người khỏe mạnh, tuy ông sắp chết trong giây lát. Tia mắt trong
sáng, giọng nói chắc nịch, cái nhún vai hùng mạnh của ông làm cho thần Chết
thất vọng, làm cho quỉ sứ bắt vong phải quay trở về vì ngỡ mình lầm cửa. Ông G.
chết hình như là vì ông vui lòng muốn chết thôi. Trong cách hấp hối của ông, có
sự chủ động. Chỉ có chân ông là cứng đờ: U minh nắm ông ở đôi chân ấy. Hai bàn
chân chết lạnh nhưng đầu vẫn sống một cách mãnh liệt, chói ngời ánh sáng. Trong
giờ phút nghiêm trọng ấy, ông G. giống như ông vua trong chuyện cổ tích đông
phương nọ, phần trên người là xương thịt, phần dưới là đá hoa.
Ông giám
mục ngồi lên phiến đá bên cạnh. Đoạn khai đề khá đột ngột (Nguyên văn Latinh:
ex abrupto), ông khen mà giọng như là khiển trách:
- Tôi
mừng cho ông. Dẫu sao, ông đã không bỏ phiếu xử tử hoàng thượng.
Nhà cách
mạng có vẻ như không để ý đến những gì chua chát ẩn đằng sau hai tiếng “dẫu
sao”. Ông không cười nụ nữa. Ông trả lời:
- Ông
chớ nên quá khen tôi. Tôi đã bỏ phiếu kết liễu bạo chúa.
Giọng
nghiêm lạnh đối với giọng nghiêm khắc.
- Ý ông
định nói gì? – Ông giám mục hỏi.
- Tôi
muốn nói rằng con người có một bạo chúa: đó là sự ngu dốt. Tôi đã bỏ phiếu kết
liễu tên bạo chúa đó. Tên bạo chúa đó đã đẻ ra chế độ quân chủ; quân chủ là uy
thế xây dựng trên sai trái, trí thức là uy thế xây dựng trên cái đúng, cái
chân. Chỉ có trí thức mới xứng đáng điều khiển con người.
- Và
lương tâm – ông giám mục thêm.
- Cũng
là một. Lương tâm là cái lượng tri thức bẩm sinh ở mỗi chúng ta.
Ông giám
mục nghe luận điệu quá mới mẻ này thì hơi ngạc nhiên.
Nhà cách
mạng nói tiếp:
- Còn
việc giết Lui thứ XVI thì tôi bỏ phiếu chống. Tôi nghĩ rằng tôi không có quyền
giết người. Nhưng tôi có nhiệm vụ tiêu diệt cái xấu. Tôi bỏ phiếu thủ tiêu bạo
chúa, nghĩa là thủ tiêu chế độ mãi dâm đối với đàn bà, thủ tiêu chế độ nô lệ
đối với đàn ông, thủ tiêu đêm tối đối với con trẻ. Biểu quyết cho chính thể
cộng hòa, tôi đã biểu quyết cái đó. Tôi biểu quyết cho bác ái, cho đồng tâm,
cho bình minh! Tôi góp sức đánh đổ các thành kiến và sai lầm. Thành kiến và sai
lầm đổ xuống thì hào quang hiện lên. Chúng tôi đây là những người lật đổ thế
giới cũ là một hũ chứa đau khổ, cái hũ ấy đổ úp lên nhân loại thì thành một
bình chứa niềm vui trong lành.
- Trong
lẫn đục.
- Ông
nên gọi là niềm vui bị vẩn đục và ngày nay sau cái năm 1814 (Năm phục hưng quân
quyền ở Pháp sau thời kỳ Cách mạng và thời kỳ đế chế) mà người ta gọi là sự hồi
phục tai ngược của dĩ vãng, niềm vui tan biến. Than ôi! Công trình dang dở!
Thật vậy, chúng tôi đả phá chế độ cũ trong việc làm nhưng chúng tôi không tiêu
diệt được nó hoàn toàn trong tư tưởng. Tiêu diệt các tệ hại chưa đủ, phải thay
đổi cả phong tục. Cái cối xay gió không còn, nhưng gió vẫn tồn tại.
- Các
ông đã hủy phá tất cả. Hủy phá có thể có ích, nhưng tôi không tin sự phá hủy
trong giận dữ.
- Thưa
ông giám mục, công lý có lúc phải phẫn nộ và sự phẫn nộ của công lý là yếu tố
của tiến hóa. Người ta muốn nói gì thì nói, mặc, cách mạng Pháp vẫn là bước
tiến vĩ đại nhất của nhân loại từ khi Chúa Giêsu ra đời. Dang dở, đúng, nhưng
mà tuyệt vời. Nó đã phát hiện tất cả những bài toán xã hội. Nó đã làm cho trí
não con người dịu đi: nó vỗ về, trấn tĩnh, soi sáng; nó giội lên mặt đất từng
dòng suối văn minh. Nó là một điều hay. Cách mạng Pháp là lễ tức vị của nhân
loại.
Ông giám
mục không thể không lẩm bẩm:
- Thật
vậy ư? Còn năm 93! (Năm viện Quốc ước thi hành chuyên chính cao độ để bảo vệ
chế độ cộng hòa mới xây dựng và lãnh thổ nước Pháp bị uy hiếp. Bọn phản đối lấy
cớ là có nhiều máu đổ để công kích cách mạng và tranh thủ bọn không lập trường)
Nhà cách
mạng ngồi thẳng người lên với một vẻ nghiêm trang hầu như ảm đạm. Ông lấy hết
hơi sức của một người sắp chết, thét lên:
- Ồ! Tôi
biết mà! Năm 93! Phải đấy, tôi đợi ông nói lên cái tiếng ấy. Một đám mây mù vầy
vẩn đằng đẵng một nghìn năm trăm năm. Thế rồi sau mười lăm thế kỷ nó bị đánh
tan. Ông, ông muốn lên án tiếng sét đánh tan mây mù.
Ông giám
mục cảm thấy mình có một chỗ yếu nào đó đã bị đánh trúng. Cố để không nao núng,
ông đáp:
- Quan
tòa nhân danh công lý mà nói, cố đạo vì nhân ái mà nói; nhân ái không gì khác
là hình thái công lý tối cao. Sấm sét không nên đánh lầm.
Ông nhìn
đăm đăm vào mặt nhà cách mạng, hỏi tiếp:
- Thế
Lui XVII? (Con Lui XVI, cháu nội Lui XV là một ông vua bị dân chúng ghét nhất.
Lui XVII bị giam trong ngục và chết năm 1793, lúc lên 10 tuổi.)
- Lui
XVII? Xem nào! Ông thương khóc ai? Thương khóc em bé vô tội à? Thế thì được.
Tôi cũng thương khóc với ông. Hay là ông thương khóc hoàng tử Lui? Hãy để cho
tôi xem lại. Đối với tôi, đứa bé em thằng Cactut (một tên tướng cướp lừng
danh), một thằng bé vô tội bị buộc qua nách treo lên ở pháp trường cho đến
chết, chỉ vì cái tội là em Cactut, đứa bé ấy cũng đáng thương xót như đứa cháu
vua Lui XV là một thằng bé vô tội bị hành hạ trong ngục Tăngpơlơ, vì cái tội ác
duy nhất là cháu nội Lui XV.
- Thưa
ông, tôi không thích người ta so sánh như thế.
-
Cactut? Lui XV? Ông kêu thiệt thòi cho Cactut hay Lui đấy?
Yên lặng
trong giây lát. Ông giám mục gần như hối tiếc là mình đã trót đến đây, tuy nhiên
ông lờ mờ cảm thấy mình nao núng, nao núng một cách khác thường.
Nhà cách
mạng lại nói:
- Ồ! Ông
cố đạo không ưa nghe nói trắng sự thật. Nhưng Chúa Giêsu ngày trước lại ưa.
Chúa cầm một cái roi đập bụi cho điện thờ. Cây roi chớp hào quang của Chúa nói
sự thật lên không vị nể. Khi Chúa kêu: Để trẻ đến với ta (Nguyên văn Latinh:
Sinite parvulos). Chúa không phân biệt những đứa trẻ con. Chúa không ngần ngại
ghép con của Barabat với con của Hêrốt (Barabas: một tên sát nhân, cũng bị giam
với Giêsu; Herode: vua Giuyđê, đã kết án Giêsu). Thưa ông, sự trong trắng tự nó
đã là một chiếc mũ bình thiên, sự trong trắng không cần đến cái tước điện hạ.
Sự trong trắng rách rưới cũng tuyệt vời cao quí như sự trong trắng khoác long
bào.
Ông giám
mục nói khẽ:
- Đúng
thế!
- Tôi
nhấn thêm nữa. Ông nhắc đến Lui XVII. Chúng ta hãy thống nhất với nhau. Chúng
ta có khóc tất cả những người vô tội, những kẻ tử nạn, tất cả những trẻ em, bất
kỳ là thường dân hay quí tộc không? Khóc thế thì tôi tham dự. Nhưng như thế thì
phải đi ngược dòng lịch sử tận trước năm 93, trước Lui XVII để bắt đầu thương
xót. Tôi khóc con vua chúa với ông nếu như ông chịu khóc con dân nghèo với tôi.
- Tôi
khóc tất cả những đứa bé ấy.
Ông G.
la lớn:
- Đồng
đều như nhau! Mà nếu cán cân cần phải nghiêng về một bên nào, tôi mong rằng nó
sẽ nghiêng về bên dân chúng. Dân chúng đã chịu khổ lâu hơn.
Lại yên
lặng. Rồi người cách mạng cất tiếng trước. Ông chống khủy tay, nhỏm người lên,
beo một chút thịt bên má như người ta thường làm một cách vô tình khi người ta
hỏi cung hay là kết án. Cặp mắt tập trung tàn lực, ông chất vấn ông giám mục.
Cuộc chất vấn thật là nẩy lửa:
- Thật
thế, thưa ông, dân chúng đau khổ đã lâu đời lắm rồi. Nhưng thôi, đó không phải
là vấn đề. Tôi muốn hỏi ông, ông đến đây chất vấn tôi và nói chuyện Lui XVII để
làm gì? Tôi không quen biết ông. Từ khi đến xứ này tôi luôn ở trong khu vườn
nhỏ này, chỉ một mình, không bước chân ra ngoài, chẳng trông thấy ai ngoài chú
bé giúp việc cho tôi đó. Tên tuổi ông, tôi có phong phanh nghe đến thật và tôi
công nhận rằng những tiếng đồn về ông không đến nỗi xấu. Nhưng cái ấy cũng vị
tất có nghĩa lý gì. Những người khôn khéo có bao nhiêu cách lấy lòng anh dân
đen ngay thật! Nói đến đây mới nhớ rằng tôi không nghe tiếng xe của ông đến, có
lẽ ông để xe ở ngoài khu rừng, ở chỗ rẽ chăng? Tôi nhắc lại là tôi không biết
ông. Ông nói ông là giám mục, nhưng cái ấy cũng không làm cho tôi biết gì hơn
về nhân phẩm của ông. Tóm lại, tôi nhắc lại câu hỏi của tôi: Ông là ai? Ông là
một vị giám mục, tức là một bậc vương tước trong giáo hội, một khách lầu son
gác tía, có gia huy, có lợi tức, có bổng lộc rất hậu. Tước giám mục thành Đinhơ
lĩnh mười lăm nghìn phơrăng lương chính, mười nghìn phơrăng lộc, tổng cộng hai
vạn rưỡi. Ông có bồi bếp phục dịch, có quân hầu áo nâu, trên bàn ăn toàn là cao
lương mỹ vị, thứ sáu thì xơi chim cuốc, cái hạng mũ áo nghênh ngang, đi xe ngày
hội, có kẻ hầu ngựa nhân danh Chúa Kirixitô đi chân đất! Ông là một vị trọng
chức trong giáo hội. Bổng lộc, dinh thự, ngựa xe, kẻ hầu người hạ, mỹ vị cao
lương, tất cả những thứ khoái lạc của cuộc sống, ông đều có như những vị trọng
chức khác và ông cũng hưởng thụ như họ. Tốt lắm, nhưng các cái ấy nói nhiều
hoặc chưa nói đủ. Nó không giúp tôi thấy sáng cái giá trị chính, cái giá trị
thực chất của ông, là người có lẽ có tham vọng đến đây để dạy không cho tôi.
Tôi đương nói chuyện với người nào đây? Ông là ai vậy?
Ông giám
mục cúi đầu, đáp:
- Một
con giun đất. (Nguyên văn Latinh: Vermis sum)
Nhà cách
mạng lầm bầm:
- Hừ,
giun đất đi xe tứ mã!
Bây giờ
đến lượt nhà cách mạng kiêu hãnh, mà ông giám mục thì nhún nhường.
Ông giám
mục dịu dàng nói luôn:
- Cũng
được. Nhưng xin ông giải thích cho tôi điều này: Xe của tôi đỗ đằng sau lùm cây
vài bước, bàn ăn của tôi có cao lương mỹ vị, có chim cuốc ngày thứ sáu, bổng
lộc của tôi đến hai mươi lăm nghìn phơrăng, tôi có dinh thự, có kẻ hầu người
hạ, tại sao những thứ ấy lại chứng minh rằng lòng thương người không phải là
một đức tốt, lượng bao dung không phải là một nghĩa vụ và năm 93 không phải là
đã quá tàn nhẫn?
Nhà cách
mạng đưa tay qua trán như để xua đi một đám mây mù:
- Trước
khi trả lời ông, tôi tha thiết xin ông thứ lỗi cho tôi. Tôi vừa có lỗi. Ông vào
nhà tôi, ông là khách. Tôi có bổn phận phải đối xử lịch sự với ông. Ông không
thừa nhận ý kiến tôi, lẽ ra tôi chỉ cần bác bỏ các luận điểm của ông mà thôi.
Sự giàu sang, hưởng thụ của ông là những ưu thế cho tôi trong cuộc tranh luận
nhưng không dùng đến cái ưu thế ấy mới là lịch sự. Tôi hứa sẽ không dùng đến
nữa.
- Xin
cám ơn ông.
Ông G.
lại nói:
- Bây
giờ thì chúng ta hãy trở lại cái việc ông yêu cầu tôi giải thích. Chúng ta đã
dừng lại ở chỗ nào nhỉ? Ông đã nói thế nào? Rằng năm 93 quá tàn nhẫn phải
không?
- Tàn
nhẫn, đúng. Việc Mara (Marat: một trong những lãnh tụ trứ danh của cách mạng
Pháp. Chí công vô tư, không nhân nhượng đối với kẻ thù của cách mạng. Marat rất
được dân chúng tin yêu) vỗ tay hoan nghênh cái máy chém, ông nghĩ thế nào?
- Ông
nghĩ thế nào đối với việc Bôtxuyê (Bossuet: giám mục ở triều đình Lui XIV, xuất
thân đại quí tộc, đã có nhiều bài giảng và điếu văn văn hoa và đầy hình ảnh,
làm cho văn học sư Pháp kể ông vào hàng nhà văn; Nguyên văn Latinh: To Deum)
hát bài Tụng chúa cho bọn lính đầu rồng chém chết tín đồ đạo Cải cách?
Câu trả
lời thật là độc địa, nó xỉa ngay vào đích như một mũi kiếm thép. Ông giám mục
rùng mình. Ông không biết đánh trả thế nào, nhưng ông thấy phật ý vì cái cách
nói về Bôtxuyê. Những người sáng suốt nhất vẫn có những thần tượng của họ và
khi luận lý của người khác xúc phạm đến những người họ sùng bái thì họ cảm thấy
như đau.
Nhà cách
mạng bắt đầu thở dốc. Đàm suyễn của người hấp hối chen lấn vào những hơi thở
cuối cùng làm cho lời nói bị đứt quãng. Nhưng nhìn vào cặp mắt người ta thấy
tinh thần của ông hoàn toàn minh mẫn. Ông nói tiếp:
- Tôi
còn muốn nói một đôi câu đây đó nữa. Nói chung cách mạng là một sự tự khẳng
định vĩ đại của nhân loại; than ôi! 93 là một đòn trả miếng. Ông thấy 93 tàn
nhẫn, nhưng còn tất cả thời kỳ quân chủ thì thế nào, thưa ông? Cariê là một tên
tướng cướp, còn Môngtroven thì ông gọi là gì? (Trong câu này và mấy câu sau,
tên đầu chỉ một nhân vật thời cách mạng, tên sau chỉ một nhân vật thời quân
chủ, đều có tên trong lịch sử) Phukiê Tanhvinh là một thằng khốn, nhưng đối với
Lamoanhông Bavin, ông nghĩ thế nào? Mayda xấu xa, nhưng còn Xô Tavan? Lão
Đuysên hung tợn, thế thì ông định dùng tiếng gì để gọi lão Lơtenliê? Giuốcđăng
– chặt – đầu – người là một con quái vật, tuy thế hắn còn ít quái hơn là hầu
tước Luvoa. Ông ơi, tôi thương hại Mari Ăngtoanét đại công tước và hoàng hậu,
nhưng tôi cũng thương người đàn bà khốn nạn theo đạo Cải cách dưới triều vua
Lui XIV kia. Năm 1685 người đàn bà có con đương bú ấy bị lột trần đến rốn, trói
vào một cây trụ, con chị bị giữ lại cách xa ở trước mặt chị; vú chị ứ đầy sữa,
tim chị ứ đầy đau thương. Đứa hài nhi xanh xao đói khát càng thấy vú càng kêu
la giẫy chết. Tên đao phủ bảo với người đàn bà, người mẹ, người vú sữa ấy: “Bỏ
đạo của mày đi!” Như thế là nó bắt chị hoặc bỏ con chết, hoặc bỏ tín ngưỡng.
Dùng cái khổ hình của Tăngtan (Theo thần thoại Hy lạp, thì Tăngtan vì xúc phạm
thần linh, bị thần linh phạt mãi mãi đứng bên một dòng sông, dưới cái cây đầy
quả. Đói khát quá, đưa tay hái quả thì cành cây nhích lên cao, cúi xuống uống
nước thì dòng sông cạn) đối với một người mẹ như thế, theo ý ông, là thế nào?
Thưa ông, ông nên nhớ rằng cách mạng Pháp có những lý lẽ của nó. Đời sau sẽ
tha thứ cho cơn phẫn nộ của nó. Kết quả đem lại là một thế giới tốt đẹp hơn. Nó
sát phạt ghê gớm nhưng kết quả là nhân loại được vỗ về an ủi. Tôi nói vắn tắt
thôi. Tôi xin dừng, bởi vì chân lý ở về phía tôi rõ rệt quá. Vả lại tôi thấy
người tôi sắp chết rồi.
Ông
không nhìn ông giám mục nữa; ông kết thúc ý kiến bằng mấy lời bình tĩnh sau
đây:
- Những
vùng vẫy thô bạo của tiến hóa là những cuộc cách mạng. Qua rồi, người ta nhìn
thấy điều này: là nhân loại bị giày vò nhưng nhân loại đã tiến lên.
Nhà cách
mạng không ngờ rằng mình vừa lần lượt hạ hết các đồn lũy trong tư tưởng ông
giám mục. Tuy thế, Đức Cha Biêngvơnuy cũng còn một vị trí cố thủ cuối cùng và
từ vị trí ấy ông phóng ra một câu cũng nghiệt ngã như lúc ban đầu:
- Tiến
hóa phải tin ở Chúa. Không thể làm điều lành mà không tín Chúa. Một người hướng
đạo của nhân loại mà theo chủ nghĩa vô thần là một người hướng đạo hỏng.
Vị dân
biểu già không trả lời. Ông run run. Ông nhìn lên trời và một giọt lệ tụ dần trong
khóe mắt. Khi giọt lệ đã đầy mắt, nó chảy xuống cái má trắng nhợt; ông nói khe
khẽ, nói một mình, gần như bập bẹ, mắt đăm đăm vào cõi sâu thẳm xa xôi:
- Lý
tưởng ơi! Chỉ có mày là có thật!
Ông giám
mục thấy trong người rung động một cách khó nói.
Sau giây
lát im lặng, ông già chỉ một ngón tay lên trời, nói:
- Có vô
biên. Vô biên ở đấy. Nếu vô biên không có bản ngã , thì bản ngã đã là giới hạn
của vô biên. Nhưng vô biên tồn tại. Như thế là nó có bản ngã. Bản ngã của vô
biên là Chúa.
Ông già
hấp hối nói mấy câu rất to tiếng, giọng rung lên vì ngây ngất say mê, y như
thấy một người nào hiển hiện. Ông nói xong thì nhắm mắt lại. Ông đã gắng quá
nên kiệt sức. Rõ ràng là trong giây phút ấy, ông đã sống hết cả mấy giờ còn lại
của số mệnh ông. Những lời ông vừa nói kéo ông lại gần với Đấng ở thế giới bên
kia. Giờ phút tối hậu đã đến.
Ông giám
mục biết thế. Thời giờ rất là khẩn trương mà ông, ông đến với tư cách là một cố
đạo. Từ chỗ cực kỳ lãnh đạm lúc ban đầu, ông đã dần dần hóa ra cực kỳ xúc động.
Ông nhìn cặp mắt nhắm, ông nắm bàn tay già, nhăn nheo lạnh buốt, ông nghiêng
đầu xuống mặt người hấp hối:
- Giờ
phút này là giờ phút của Chúa. Ông có thấy rằng chúng ta gặp nhau mà không được
việc gì thì rất đáng tiếc hay không?
Nhà cách
mạng mở mắt. Mặt ông vừa nghiêm trang vừa có vẻ sầm tối. Ông nói chậm rãi, chậm
rãi vì phẩm cách tâm hồn hơn là vì kiệt sức:
- Thưa
ông giám mục, tôi đã trọn đời suy nghĩ, học hành, chiêm niệm. Khi tôi sáu mươi
thì Tổ quốc gọi tôi và ra lệnh cho tôi tham gia việc nước. Tôi đã tuân lệnh.
Đời có tệ hại, tôi đánh đổ tệ hại; có cường quyền, tôi tiêu diệt cường quyền;
có công lý và chính nghĩa, tôi tuyên dương và truyền giảng công lý và chính
nghĩa. Lãnh thổ tổ quốc bị xâm lấn, tôi chiến đấu bảo vệ lãnh thổ; nước Pháp bị
uy hiếp, tôi đem ngực tôi hiến cho nước Pháp. Trước kia tôi không giàu, bây giờ
tôi nghèo. Tôi đã là một trong những người cầm đầu nhà nước; kho tàng công khố
lúc ấy đầy ứ tiền, đến nỗi phải mang gỗ chống đỡ các bức tường chỉ chực vỡ tung
vì trọng lượng vàng bạc; nhưng tôi vẫn ăn cơm ở phố Cây Khô mỗi bữa hăm hai xu.
Tôi cứu người bị áp bực, tôi vỗ về người đau khổ. Tôi đã xé khăn phủ bàn thờ
Chúa, đúng thế, nhưng là để băng bó những vết thương của tổ quốc. Tôi luôn ủng
hộ nhân loại tiến lên ánh sáng và một đôi khi tôi đã chống những bước tiến chà
đạp lên nhân tính. Cũng có khi tôi bênh vực cho chính kẻ thù của tôi, là các
ông đấy. Ở Phơlăngđrơ, nơi vua chúa Mêrôvanhgiêng dựng lầu nghỉ mát, có một tu
viện; tôi đã bảo toàn cho tu viện ấy năm 1793. Tôi đem hết sức tôi để làm nhiệm
vụ và làm việc phải. Sau đó tôi bị đuổi đi, bị truy, bị lùng, bị khủng bố, bị
bôi nhọ, bị chế giễu, bị phỉ nhổ, bị nguyền rủa, bị khai trừ ra ngoài vòng pháp
luật. Đã bao năm rồi tôi cảm thấy có khối người tưởng là có quyền khinh bỉ tôi,
mặc dù đầu óc tôi bạc phơ. Quần chúng tối tăm nhìn mặt tôi như nhìn mặt một tội
nhân dưới địa ngục. Tôi không thù hằn ai, tôi cam nhận cảnh cô độc người ta đã
tạo ra cho tôi vì thù ghét. Ngày nay tôi đã tám mươi sáu tuổi; tôi sắp chết.
Thế thì ông đến đây để yêu cầu tôi cái gì?
- Được
ban phúc cho ông – ông giám mục nói.
Rồi ông
quì xuống.
Khi ông
ngẩng đầu lên thì vẻ mặt nhà cách mạng trông rất oai nghiêm. Ông đã qua đời.
Về nhà,
ông giám mục đăm chiêu suy nghĩ. Suốt đêm ông cầu nguyện, sáng hôm sau một đôi
người tò mò đánh bạo hỏi chuyện ông về nhà cách mạng G., ông giám mục không
nói, chỉ đưa tay chỉ lên trời. Từ độ ấy ông càng yêu thương săn sóc người dân
cùng và những kẻ đau khổ.
Ai nói
xa nói gần đến “tên vô lại G.” cũng làm cho ông băn khoăn một cách kỳ dị. Không
ai có thể nói được sự gặp gỡ giữa bộ óc ấy và bộ óc ông, giữa trái tim lớn ấy
và trái tim ông có giúp phần nào cho ông đi đến cái đạo đức hoàn hảo ngày hôm
nay không.
Việc đi
thăm tất nhiên là một đầu đề cho các cuộc họp ngồi lê đôi mách ở địa phương. Họ
bảo với nhau:
- Một
con người như thế chết, có đáng cho một giám mục đến bên giường để an ủi không?
Quân ấy tất nhiên còn biết cảm hóa theo Chúa là cái gì mà mong! Cả cái lũ cách
mạng ấy là đồ tà đạo. Thế thì còn kể đến làm gì? Ông đến để xem cái gì ở đấy?
Phải công nhận rằng ông giám mục quả thật là tò mò, ông muốn biết cái cách quỷ
sứ bắt linh hồn như thế nào.
Một hôm,
một bà quả phụ quí tộc, thuộc cái loại hỗn xược mà tưởng là mình hóm hỉnh, nói
với ông câu mỉa mai này:
- Bẩm
Đức Cha, người ta muốn biết bao giờ thì Đức Cha đội mũ chụp đỏ.
- Ồ! Ồ!
Đó là một màu sắc to lớn – ông giám mục đáp – Cũng may mà những kẻ khinh bỉ cái
màu đỏ trên mũ chụp lại sùng thượng cái màu đỏ trên mũ có vành. (Mũ chụp đỏ là
mũ của những người làm cách mạng 1789 đội. Mũ đỏ có vành là mũ của các giáo
chủ, chức vị ở trên chức giám mục)
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 1
Chương 11
MỘT ĐIỂM GIỚI HẠN
Từ đó,
nếu kết luận rằng Đức Cha Biêngvơnuy là “Một ông giám mục triết gia” hay là
“Một cụ xứ yêu nước” thì có nguy cơ sai lầm. Cuộc gặp mặt, hay hầu như có thể
nói việc giao tiếp giữa ông với nhà cách mạng G., đã để lại cho ông một sự ngạc
nhiên khiến ông càng hiền lành hơn. Thế thôi.
Ông giám
mục chẳng hề là một chính khách. Nhưng ở đây có lẽ cũng nên nói qua ít lời về
thái độ của ông trong các biến cố hồi bấy giờ, cứ giả định rằng có lúc ông nghĩ
phải nên có một thái độ.
Hãy lùi
lại mấy năm về trước.
Một thời
gian sau khi ông Mirien được nhắc lên chức giám mục, hoàng đế phong cho ông
tước nam của đế chế, một lần cùng với nhiều giám mục khác.
Mọi
người biết, giáo hoàng bị bắt giam tối ngày 5 rạng ngày 6 tháng 7 năm 1809;
nhân dịp ấy ông Mirien được Napoleon mời dự hội nghị các giám mục hai nước Pháp
và Ý triệu tập ở Paris. Hội nghị mở tại nhà thờ Đức Bà và họp lần đầu tiên ngày
15 tháng 6 năm 1811 dưới quyền chủ tọa của Đức giáo chủ Phếch. Ông Mirien là
một trong chín mươi lăm giám mục đã đến dự. Nhưng ông chỉ dự một phiên họp toàn
thể và ba bốn cuộc họp chuyên đề. Vốn là giám mục một địa phận núi non, gần gũi
thiên nhiên, quen sống quê mùa và nghèo khó, hình như ông đã đem đến giữa những
nhân vật thương lưu kia nhiều ý nghĩ làm thay đổi thời tiết của hội nghị. Không
mấy ngày sau ông đã trở về Đinhơ. Có người hỏi vì sao ông về sớm thế, ông đáp:
- Có tôi
phiền cho các ngài ấy. Không khí bên ngoài theo tôi và đến với các ngài. Tôi có
vẻ như một cái cửa mới.
Một lần
khác ông nói:
- Tôi
chịu thôi, các ông lớn ấy là những ông hoàng, còn tôi, tôi chỉ là một anh giám
mục nông dân hèn hạ.
Sự thật
là người ta không thích ông. Ngoài những chuyện kỳ dị khác, hình như có một tối
ở nhà một đồng nghiệp tiếng tăm, ông đã buột mồm kêu lên:
- Đồng
hồ đẹp quá! Thảm lót đẹp quá! Kẻ hầu người hạ đồng phục đẹp quá! Sao mà chói
mắt thế! Chao ôi! Ước gì những thứ thừa thãi kia khỏi nheo nhéo mãi bên tai:
còn có bao nhiêu người chịu đói! Còn có bao nhiêu người chịu rét! Còn biết bao
kẻ khó! Biết bao kẻ khó!
Xin nói
qua là thù ghét sang trọng không phải là một sự thù ghét thông minh. Vì thù
ghét như thế hàm ý là thù ghét nghệ thuật. Tuy nhiên, đối với kẻ tu hành, ngoài
sự tiếp khách và các lễ lạc, thì sa hoa là sai lầm. Dường như nó phơi bày ra
những thói quen ít thật sự thương người. Là cố đạo mà giàu sang thì ngược đời.
Nhà tu hành phải ở bên cạnh kẻ khó. Có thể nào gần gũi mãi cả ngày lẫn đêm, tất
cả mọi nguy khốn, mọi bất hạnh, mọi sự nghèo hèn, mà không dính trên mình một
tí gì của cái khốn khổ thiêng liêng kia như bụi đất của lao động được chăng? Có
ai hình dung được một người đứng cạnh bếp lửa mà không thấy nóng? Có ai hình
dung được một người thợ luôn luôn làm việc bên lò than, mà không hề có lấy một
sợi tóc sém, một móng tay dính bụi, một giọt mồ hôi, tí tro trên mặt? Một cố
đạo, nhất là một ông giám mục mà thương người thì bằng chứng thứ nhất là ông ta
nghèo.
Đó có lẽ
là cách suy nghĩ của ông giám mục.
Xin đừng
nghĩ rằng ông ta tán thành ở một số khía cạnh tinh vi, cái mà chúng ta gọi là
“tư tưởng của thời đại”. Ông ít xen vào các cuộc tranh cãi về giáo lý thời bấy
giờ và không phát biểu ý kiến gì về các vấn đề mà Nhà thờ và nhà nước đang dính
vào; nhưng giá thúc ép lắm thì lại hình như sẽ thấy ông là người theo giáo hội
La Mã hơn là người theo giáo hội Pháp. Chúng tôi đang mô tả người ông và không
muốn giấu một cái gì cả, nên chúng tôi đành nói thêm rằng, đối với Napoleon lúc
suy, ông tỏ ra lãnh đạm. Bắt đầu từ 1813, ông tham gia hoặc tán thành tất cả
các biểu hiện phản đối. Lúc hoàng đế từ đảo Enbơ trở về, ông từ chối không ra
bệ kiến khi người ta đi ngang qua vùng và trong thời kỳ “Bách nhật”, ông không
ra lệnh cầu kinh cho hoàng đế trong địa phận mình. (Napoleon sau khi bị ngoại
xâm và nội phản bức bách phải thoái vị năm 1814 thì ra ở đảo Enbơ. Năm 1815 ông
lại trở về, đuổi vua Lui XVIII và làm vua lại được 100 ngày. Bại trận ở
Oateclô, ông mới mất hẳn ngôi)
Ngoài cô
Baptistin là em gái ra, ông còn hai người em nữa: một làm tướng, một là tỉnh
trưởng. Ông thường hay viết thư cho cả hai. Với người thứ nhất: một độ ông tỏ
ra nghiêm khắc. Lý do là vì ông em này nhân có nắm quyền chỉ huy ở Prôvăngxơ
vào lúc Napoleon đổ bộ lên Cannơ, đã dẫn một đạo quân một nghìn hai trăm người
đuổi theo hoàng đế theo lối đuổi để cho người ta thoát. Trong thư từ gửi cho
ông em kia, ông tỏ ra thân yêu hơn, ông này trước kia làm tỉnh trưởng, nay thì
là một người tốt, đứng đắn, ở ẩn ở Paris, phố Catxet.
Bản thân
Đức Cha Biêngvơnuy như vậy là cũng có lúc thiên vị, có lúc buồn nản, tâm hồn
như có mây che. Bóng tối của những ham mê từng lúc lướt qua đầu óc hiền lành và
vĩ đại, thường xuyên chăm lo những vấn đề của vĩnh viễn. Lẽ ra một người như
thế đúng là không nên có chính kiến. Xin đừng hiểu lầm về ý này, chúng tôi
không lẫn lộn cái gọi là “chính kiến” với hoài bão sâu xa về tiến bộ, với lòng
tin tưởng cao quí tổ quốc, dân chủ và nhân đạo, những cái mà ngày nay phải làm
cơ sở cho mọi tấm lòng bác ái. Không đi sâu vào những vấn đề không liên quan
trực tiếp đến chủ đề của sách này, chúng tôi chỉ nói đơn giản như sau: tốt đẹp
hơn, nếu Đức Cha Biêngvơnuy không phải là người bảo hoàng và mắt ông đừng một
phút nào rời bỏ sự chiêm ngưỡng thanh tĩnh; ở đó, vượt qua những bóng mây giông
tố lớp lớp lại qua của cuộc đời trần tục, vẫn sáng tỏ như ban ngày ba ánh sáng
tinh thần là Chân lý, Chính trực và Nhân đạo.
Dù công
nhận Chúa không sinh giám mục Biêngvơnuy ra để làm chính trị, chúng ta vẫn có
thể hiểu ông và khâm phục ông, giá như ông phản kháng và chống đối Napoleon
thuở hùng cường, phản kháng và tự do và chính nghĩa, cũng như chống đối một
cách kiêu hãnh và chính đáng nhưng nguy hiểm. Nhưng điều ta thích khi điều đó
được áp dụng đối với kẻ đang lên, ta lại không thích nếu áp dụng đối với người
rơi xuống. Chúng ta chỉ thích đấu tranh chừng nào đấu tranh còn nguy hiểm. Và
bao giờ cũng vậy, chỉ riêng những chiến sĩ buổi đầu mới có quyền làm người
thanh toán giờ chót. Ai chưa từng là kẻ buộc tội gay gắt đối phương trong thời
thịnh vượng của nó, thì khi nó sụp đổ, nên làm thinh. Chỉ có kẻ tố cáo sự thành
công mới xứng đáng làm người phán xử hợp pháp sự sụp đổ? Về phần chúng tôi, khi
đấng Cứu thế can thiệp và trừng phạt thì chúng tôi cứ im lặng để cho Người làm.
Cứ chứng kiến năm 1812 là chúng tôi thấy không muốn đánh người ta nữa rồi (Năm
1812, dấu hiệu suy sụp của Napoleon bắt đầu hiện rõ với cuộc đại bại ở Nga).
Đến năm 1813, cơ quan lập pháp xưa nay ít nói bỗng nhiên lên tiếng một cách hèn
nhát vì đã được những tai họa của đế chế khuyến khích. Đó là một việc chỉ đáng
khinh bỉ, cho nên vỗ tay hoan hô là sai. Năm 1814, trước lũ thống chế phản bội,
trước cái thượng nghị viện ngã từ cái đống bùn nhơ này sang đống bùn nhơ kia,
tôn thờ đó rồi chửi bới đó, trước sự sùng bái vừa rút lui vừa phỉ nhổ lên thần
tượng, bấy giờ bổn phận ta là phải làm ngơ. Năm 1815, trong khi những đổ vỡ
cuối cùng như đang treo trên đầu, cả nước Pháp rùng mình cảm thấy nó đang đến
gần một cách dễ sợ, trong khi có thể lờ mờ nhìn thấy Oateclô đang mở chờ
Napoleon, thì quân đội và nhân dân mà có hoan hô một cách đau xót con người đã
bị số mệnh lên án, cái đó cũng chẳng có gì đáng cười. Và, sau khi đã có ý kiến
về kẻ độc tài, người có trái tim như ông giám mục thành Đinhơ không thể nào
không biết rằng, ngay trên bờ vực thẳm, mà một con người vĩ đại và một quốc gia
vĩ đại còn ôm chặt nhau như thế thì cái đó phải nói là cao cả và cảm động.
Trừ cái
đó ra, ông vốn là thế và lúc nào cũng thế; trong bất cứ việc gì cũng công bằng,
chân thật, phải chăng, thông minh, khiêm tốn và đứng đắn; hay làm điều lành và
độ lượng, mà độ lượng cũng là một kiểu làm điều lành. Đúng là một nhà tu hành,
một nhà hiền triết, một con người. Cũng cần phải nói, ngay trong cái chính kiến
mà chúng tôi vừa chê trách và sẵn sàng phê phán một cách nghiêm khắc, ông cũng
rộng lượng và dễ dãi, có lẽ còn hơn chúng tôi, người đang kể chuyện đây. –
Người gác cổng nhà hội hương là một người được hoàng đế bổ dụng. Ông ta là một
hạ sĩ quan già trong đoàn cựu vệ binh, một lính xung kích ở Auxteclit, trung
thành với Bônapac cũng như con phượng hoàng trên cán cờ đế chế. Gặp dịp, ông
già khốn khổ này bật ra nhiều câu nói thiếu suy nghĩ mà luật pháp hồi đó gọi là
ngôn ngữ phiến loạn. Từ cái hình nghiêng của hoàng đế vắng bóng trên huân
chương bắc đẩu bội tinh, ông ta không bao giờ chịu mặc lễ phục như ông nói, để
khỏi phải đeo chiếc huân chương của mình. Ông ta đã thành kính tự tay mình cạy
đi hình ảnh ấy trên chiếc huân chương mà Napoleon đã trao cho mình, khiến cho
chiếc huân chương bị thủng một lỗ, nhưng ông không muốn thay vào đó một cái gì
cả. Thà ta chết – ông nói – chứ nhất định không mang trên trái tim ta ba con
cóc (Ba cái hoa huệ khắc trên mặt huân chương, biểu trưng của vương triều
Buốcbông). Ông sẵn sàng chế giễu công khai Lui XXIII. Thằng già thấp khớp đi
ủng Anh! – Ông ta nói – cho nó chuồn sang Phổ với món của cải của nó đi! Ông ta
lấy làm sung sướng được tóm thu cả hai cái mà ông ghét nhất, nước Phổ và nước
Anh trong cùng một lời chửi. Ông ta hăng quá đến nỗi mất việc làm. Thế là bị
vứt ra vỉa hè với cả vợ lẫn con, không kế sinh nhai. Ông giám mục gọi đến, quở
trách nhẹ nhàng và xếp ông ta vào chân gác cổng nhà thờ lớn.
Ông
Mirien đúng là người chăn chiên, người bạn của tất cả mọi người trong địa phận
mình.
Trong
vòng chín năm, nhờ những việc làm phúc đức, cách cư xử hiền hòa của Đức Cha
Biêngvơnuy cho nên đối với Đức Cha, trong thành phố như tràn đầy một niềm tôn
kính dịu dàng của con cháu đối với ông cha. Thái độ của ông đối với Napoleon
cũng được công nhận và nhân dân mặc nhiên thể tình cho ông về khoản đó, vì vốn
là một đàn cừu yếu đuối, họ tôn thờ hoàng đế nhưng cũng kính yêu Đức Cha của
họ.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 1
Chương 12
SỰ CÔ QUẠNH CỦA ĐỨC CHA BIÊNGVƠNUY
Chung
quanh một ông giám mục hầu như bao giờ cũng có một đám tu sĩ mới vào nghề, cũng
như chung quanh một tướng lĩnh bao giờ cũng có một đoàn sĩ quan trẻ. Chính họ
là những người mà thánh Phơrăngxoa đơ Xan đáng yêu đã gọi ở một chỗ nào đó là
“những nhà tu hành mới gạy mở”. Nghề nghiệp nào cũng có những kẻ tập sự kéo
từng đoàn theo sau những người thành đạt. Chả một thế lực nào mà chẳng có người
chầu hầu. Bao nhiêu kẻ tìm kiếm tương lai quay cuồng chung quanh cái hiện tại
huy hoàng. Bất cứ đô thành nào cũng có bộ tham mưu. Bất kỳ ông giám mục có thế
lực nào cũng có bên cạnh mình đoàn trẻ thơ của chủng viện. Bọn này tuần tra và
giữ gìn trật tự trong lâu đài giám mục, cũng như canh hầu chung quanh nụ cười
của Đức Cha. Được lòng đức giám mục là bàn đạp danh vọng cho một thầy tu trẻ. Ở
đời cũng phải biết cách tiến thân; truyền đạo mà thêm nhiều bổng lộc càng tốt.
Ngoài
đời có những người áo dài thì trong đạo cũng có những kẻ mũ cao. Đó là những
giám mục đắc sủng, giàu có, nhiều lợi tức, khôn khéo và được xã hội quyền quí
chấp nhận. Họ biết cầu kinh, hẳn thế, nhưng cũng biết cầu cạnh và chẳng ngại
ngùng gì trong việc bắt cả một địa phận phải chầu chực mới gặp được mình. Họ là
dấu nối giữa nhà thờ và ngoại giao, tu sĩ hơn là giáo sĩ, chức sắc tòa thánh
hơn là giám mục. Hạnh phúc thay những ai được đến gần họ! Là những người được
tín nhiệm và có quyền thế, họ vung tay ban phát tứ tung cho mọi kẻ xun xoe, cầu
cạnh, mọi kẻ được sủng ái, cho tất cả đám người trẻ trung biết mua lòng họ,
những xứ béo bở, những chức vị có bổng lộc, có quyền xét xử, những chức tuyên
úy, những chức phục dịch nhà thờ, trong khi chờ đợi các chức vị ở tòa giám mục.
Họ vừa tiến lên lại vừa kéo mọi kẻ xoay quanh mình cũng tiến lên, y như một
thái dương hệ đang vận chuyển. Ánh sáng rực rỡ từ người họ nhuốm đỏ cả đoàn tùy
tùng. Giàu sang của họ chia thành miếng nhỏ cho bao nhiêu kẻ trong hậu trường,
mỗi người được thăng quan tiến chức tí chút. Chủ, địa phận to hơn, thì tớ yêu,
xứ cũng lớn hơn. Và La Mã cũng gần thôi. Một ông giám mục biết cách để lên giáo
chủ, họ sẽ lôi ngài đi dự đại hội tuyển cử giáo hoàng và ngài bước vào thẩm
viện, ngài có dải quàng trắng, ngài có ghế dự thính, ngài thành đại chức sắc
tòa thánh hầu cận giáo hoàng, ngài thành đại chức sắc tòa thánh và từ giám mục
lên giáo chủ chỉ có một bước và từ giáo chủ lên giáo hoàng cũng chỉ nhoáng qua
một cuộc bỏ phiếu. Bất kỳ giám mục nào cũng có thể mơ ước làm giáo hoàng. Và
ngày nay, người cố đạo là người độc nhất có khả năng lên làm vua một cách hợp
thức. Mà lại là vua tối cao. Do đó, còn vườn ươm khát vọng nào tốt hơn một
chủng viện! Bao chú bé phụ lễ còn hổ thẹn trước mọi người, bao tu sĩ còn trẻ
măng, mà đã có trên đầu một lọ sữa của Peret! (Liên hệ bài thơ ngụ ngôn nổi
tiếng của La Fonten) Vì tham vọng dễ dàng đội lốt của thiên hướng cho nên ai mà
biết được? Có khi là thực tâm và mình tự lừa dối mình, vì vốn là ngoan đạo kia
mà!
Đức Cha
Biêngvơnuy, khiêm tốn, nghèo nàn, biệt lập, nên không được dự vào hàng những vị
mũ cao. Điều đó rất rõ vì chung quanh ông không hề thấy bóng một nhà tu hành
trẻ trung nào cả. Người ta đã từng thấy hồi lên Paris “ông không chịu cắn câu”.
Vì thế không một ai muốn có tương lai lại đến ghép mình với một ông già cô độc.
Không một mầm tham vọng nào lại dại dột muốn mọc xanh tươi dưới bóng cớm của
ông. Các chức sắc tòa giám mục cũng như các linh mục quan trọng của ông đều là
những cụ già hiền hậu, ít nhiều bình dân như ông, đóng khung mình trong cách
địa phận không có đường lên hàng giáo chủ, họ cũng giống ông giám mục của họ,
chỉ khác một điều là họ thì yên phận, còn ông thì yên vui. Người ta đều thấy rõ
không tài nào có thể lớn lên được bên cạnh ông, đến nỗi, vừa chân ướt, chân ráo
ra khỏi chủng viện, các thanh niên được ông phong chức, đều chạy chọt nhờ người
giới thiệu với các đại giám mục ở Etxơ hay ở Osơ, rồi vội vã lánh đi. Bởi vì,
xin lặp lại điều này, người ta đều muốn được dấy lên. Một ông thánh ưa sống
trong cảnh hy sinh khắc khổ, thì ở gần ông là nguy hiểm; ông ta có thể san cho
mình theo cách truyền nhiễm cái bệnh nghèo khó không chữa được, làm tê dại các
khớp xương cần thiết để bước tới, tóm lại nó truyền nhiễm nhiều thứ từ bỏ hơn
mình muốn. Cho nên người ta đều lánh xa thứ đạo đức hay lây như vậy. Do đó mới
có cảnh cô quạnh của Đức Cha Biêngvơnuy. Chúng ta đang sống trong một xã hội
đen tối. Đạt được mục đích, đó là bài học rơi xuống từng giọt từ sự thối nát
sừng sững như núi.
Cũng nói
qua một lời rằng thành đạt là một điều khá xấu xa. Bên ngoài, kẻ thành đạt có
vẻ giống người có tài năng, nên người ta dễ lầm lẫn. Đối với quần chúng, thành
công nhìn nghiêng cũng có dáng như lỗi lạc. Thành đạt, mặt mày tương tự như tài
ba và có một kẻ bị nó lừa dối: đó là lịch sử. Chỉ Giuyvênan và Taxit là kêu ca
phản kháng. Nhưng trong thời đại chúng ta, một thứ triết học gần như chính thức
đã vào làm gia thần cho nó, mặc đồng phục của nhà nó và làm kẻ thường trực ở
phòng chờ. Hãy đạt cho được mục đích: đó là tất cả các học thuyết. Thịnh đạt có
nghĩa là khả năng. Anh trúng số tức anh là người khôn khéo. Kẻ nào chiến thắng,
kẻ ấy được trọng vọng. Anh cứ sinh ra đủ mũ mão, tất cả là ở chỗ đó. Có số đỏ
là rồi có tất; anh mà sung sướng thì người ta sẽ cho là anh cao thượng. Chỉ trừ
năm hay sáu ngoại lệ vĩ đại mà ánh sáng chói rực cả thế kỷ, còn thì sự khâm
phục của thời đại chẳng qua là cận thị. Núc nác thì thành vàng tâm. Vô danh
tiểu tốt cũng không sao, miễn là thành danh. Kẻ tầm thường là một anh Nácxit
già tự khen mình và tán thưởng cái tầm thường. Cái khả năng vĩ đại làm nên
Môidơ, Etsin, Đăngtơ, Miken Lăng hoặc Napoleon, rất đông người đem nó tặng một
cách đương nhiên và còn hoan hô thêm những ai đạt đến đích trong bất kì công
việc gì. Hãy xem: một chưởng khế đổi dạng thành nghị viên; một anh giả Coócnây
viết ra Tiridat; một hoạn quan đi đến chỗ chiếm đoạt hậu cung; một viên tướng
tầm thường ngẫu nhiên thắng được trận quyết định của một thời; một anh bào chế
dược liệu làm được đế giày các-tông cho quân đoàn Xămbrơ và Mơdơ và do chỗ bán
mạo các-tông làm da ấy, tạo ra cho mình một khoản lợi tức bốn mươi vạn phơrăng;
một tên buôn chạy lấy nghề cho vay cắt cổ mà đẻ ra được bảy tám triệu; một thầy
giảng trở thành giám mục nhờ giọng nói ngạt mũi; một tay quản gia vừa thôi việc
thì giàu đến nỗi được cử làm bộ trưởng tài chính. Người đời gọi thế là Thiên
tài, cũng như họ gọi khuôn mặt của Mutscơtông là Thần đẹp và cái cổ của Cơlốt
là Chí tôn. Quả là lẫn lộn tinh tú thăm thẳm trên trời với hình sao do chân vịt
in trên đất bùn lầy lội.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 1
Chương 13
ÔNG TIN GÌ
Về
phương diện tin tưởng chính thống, chúng tôi không phải thăm dò ông giám mục
thành Đinhơ. Trước một tâm hồn như vậy, chúng tôi cảm thấy chỉ có một xu hướng
là tôn kính. Nói đến lương tâm một bậc chính trực là ta phải tin. Vả lại, đối
với một số bản chất nhất định, chúng tôi công nhận rằng tất cả những vẻ đẹp của
đạo đức con người đều có khả năng phát triển được trong một lòng tin khác với
lòng tin của chúng tôi.
Ông giám
mục nghĩ gì về tín điều này hay về bí ẩn nọ? Những điều bí mật trong thâm tâm
ấy chỉ có thể biết được ở trong mồ vì khi bước xuống mồ mọi linh hồn đều trần
trụi. Điều mà chúng tôi chắc chắn là, với ông, không bao giờ những mắc mứu về
đức tin lại biến thành một thái độ giả dối. Đã là kim cương thì không còn có
thể nói đến thối nát được. Ông tin được chừng nào thì ông cố gắng tin chừng ấy.
Hãy tin ở Chúa Cha là câu ông thường nói ở cửa miệng (Nguyên văn Latinh: Credo
in Patrem). Bởi vì ông đã tìm thấy trong những việc làm phúc đức của mình một
sự thỏa mãn đầy đủ cho tâm hồn, nó luôn thì thầm bên tai ông: Chúa Trời ở bên
cạnh người.
Điều
chúng tôi thấy cần ghi là, ông giám mục có một lòng yêu thương quá mức, có thể
nói ngoài đức tin và xa hơn đức tin. Chính từ chỗ ông “đã yêu nhiều” (Nguyên
văn Latinh: Quia multum amavit) đó mà các “bậc đứng đắn”, các “bậc trang
nghiêm”, các “vị biết điều” đều đánh giá ông là có nhược điểm. Những danh từ
trên là cách nói ưa chuộng trong cái xã hội đáng buồn của chúng ta, ở đó lòng
vị kỷ lại nói cái giọng của kẻ lên mặt hiểu biết. Thương yêu quá mức ở đây là
cái gì? Đó là một sự ân cần trong sáng, tràn qua giới hạn loài người, như chúng
tôi đã có lúc nói qua và gặp dịp thì trùm lên cả sự vật. Ông sống dễ dãi. Cái
gì là sáng tạo của Chúa, ông đều khoan dung. Trong con người dù là con người
rất tốt đi nữa, cũng có một chút khắc nghiệt không tự giác dành cho loài vật.
Các nhà tu hành đặc biệt có thứ khắc nghiệt, nhưng ông giám mục thành Đinhơ lại
không hề có. Ông không đến nỗi như thầy tu bà-la-môn, nhưng hình như ông có
nghiền ngẫm lời này trong sách kinh: “Ai biết linh hồn thú vật sẽ đi về đâu?”
Dáng hình xấu xí, bản năng kỳ dị, không làm ông bận tâm, cũng không làm ông
phật ý. Nhìn thấy thế ông cảm động, gần như mủi lòng. Có vẻ như ông trầm tư suy
nghĩ, bỏ qua cái bề ngoài để tìm đến cái nguyên nhân, cách giải thích hoặc lời
thanh minh. Có lúc dường như ông cầu xin Chúa một số đổi thay. Với con mắt của
nhà ngôn ngữ lần mò từng nét bản thảo trên da thú thời xưa, ông bình tĩnh xem
xét bao nhiêu cái hỗn độn hiện còn trong tạo vật. Cách suy tưởng mơ màng ấy
nhiều lúc làm ông bật ra những lời kỳ lạ. Một buổi sáng ông đang ở ngoài vườn;
ông tưởng chỉ có một mình, không ngờ có cô em đi sau mà ông không biết; đột
nhiên, ông đứng lại và nhìn xuống đất; một con nhện to tướng, đen thui, lông lá
xồm xoàm ghê tởm đang nằm trên mặt đất. Cô em nghe rõ ông nói:
- Ồ, con
vật đáng thương! Không phải lỗi của nó.
Những cử
chỉ từ bi có vẻ là trò trẻ con mà gần như thiêng liêng ấy, tại sao lại không
nói đến? Trẻ con, vâng: nhưng thứ trẻ con cao cả ấy chính là của thánh
Phơrăngxoa Đatxidơ và của Mác Ôren. Một hôm ông bị sai khớp chân vì không nỡ
giẫm lên một con kiến.
Con
người chính nhân quân tử ấy sống cuộc đời như thế đó. Thỉnh thoảng ông lại ngủ
ngay ngoài vườn và những lúc ấy trông ông không còn gì đáng tôn kính hơn.
Có những
lời người ta kể về thời niên thiếu, cả về thời trai tráng của ông thì Đức Cha
Biêngvơnuy đã từng là một con người say đắm, có thể là dữ dội nữa. Lòng thương
mênh mông ở ông chẳng phải là một bản năng tự nhiên mà là kết quả của một lòng
tin vững chắc, cao cả, lọc qua cuộc đời và từng ý nghĩ, đọng lại trong trái tim
ông. Bởi vì, trong tính cách một con người cũng như trong một tảng đá, cũng có
thể có những lỗ sâu do nước giọt mãi mà tách ra. Thứ hang hốc như thế không bao
giờ mất; cách hình thành như vậy không gì tiêu hủy được.
Năm
1815, tưởng như chúng tôi đã nói điều này rồi, ông đã bảy mươi lăm tuổi, nhưng
trông ông không quá sáu mươi. Người ông không to, có hơi phát phì một tí và để
chống lại ông thường hay đi bộ xa; bước chân hãy còn chắc và lưng chẳng gù mấy
tí; điều này chúng tôi chẳng dám kết luận là gì cả, vì Gơrêgoa thứ XVI, tám
mươi mà người vẫn đứng thẳng, mặt mày vẫn tươi cười, nhưng cái đó chẳng cấm ông
ta là một giám mục tồi. Dân chúng cho là Đức Cha Biêngvơnuy có “cái đầu quí”,
nhưng vì nó dễ yêu quá nên người ta quên rằng nó đẹp.
Lúc nói
chuyện, tính ông vui như trẻ con, đó là một nét đáng yêu ở ông mà chúng tôi đã
nói đến. Và những lúc như vậy người ở gần ông đều thấy dễ chịu, vì từ cả người
ông như toát ra một niềm vui. Mặt mày hồng hào và tươi tắn, miệng cười để lộ
hàm răng còn nguyên và trắng trẻo, làm cho ông có vẻ cởi mở và dễ gần. Cái vẻ
như thế một người đứng tuổi thì người ta bảo: thật là một người dễ thương, còn
ở một người già thì người ta lại bảo: thật là một cụ già phúc hậu. Mọi người
còn nhớ, Napoleon lúc gặp ông đã có cảm tưởng ấy. Mới gặp và tiếp xúc lần đầu,
người ta cũng chỉ thấy ông là một cụ già phúc hậu mà thôi. Vậy mà ngồi bên ông
chừng ít tiếng đồng hồ và chỉ cần thấy ông suy tưởng, thì ông cụ già phúc hậu
biến đổi dần dần và có một cái gì hùng vĩ. Vừng trán rộng và nghiêm, có mớ tóc
bạc làm thêm vẻ cao cả, càng trở nên cao cả vì sự trầm tư. Vẻ uy nghi toát ra
từ sự phúc hậu, mà sự phúc hậu cũng không ngừng ngời sáng. Người ta cảm thấy
xúc động như đứng trước một thiên thần tươi cười, vừa thong thả dang to đôi
cánh vừa không ngớt mỉm cười. Một niềm kính mến khó tả, từng bước như thấm vào
người chúng ta, dâng lên trái tim và chúng ta cảm thấy đứng trước một tâm hồn mãnh
liệt, từng trải và bao dung, trong đó tư tưởng vĩ đại đến mức chỉ còn có thể là
hiền từ.
Như mọi
người đã thấy, cầu kinh, hành lễ, làm phúc, an ủi kẻ đau buồn, trồng trọt một
mảnh vườn, lòng bác ái, tính thanh đạm, mến khách, từ chối xa hoa, lòng tin tưởng,
học hỏi, làm việc, tất cả những cái đó làm cho ngày nào trong đời ông cũng đầy
ắp công việc. Đầy ắp, nói như thế mới đúng, bởi vì quả nhiên, ngày đó tràn đầy
những ý nghĩ tốt đẹp, những lời nói tốt đẹp, những hành động tốt đẹp. Tuy
nhiên, như vậy cũng chưa là trọn vẹn nếu vì thời tiết lạnh hay trời mưa mà tối
đến ông không ra dạo vườn một hoặc hai giờ trước khi đi ngủ và sau khi hai bà
phụ nữ đã về buồng mình. Suy tưởng trầm ngâm trước những cảnh tượng hùng vĩ của
bầu trời ban đêm rồi mới ngủ yên, việc đó hình như đã thành một nghi lễ đối với
ông. Đôi khi, vào lúc trời đã về khuya, hai bà mà không ngủ được, thì lại nghe
bước chân ông chậm rãi trên các lối đi. Ông ở đó một mình với bóng, tĩnh tâm,
than thản, thành kính, đem so với cái thanh tĩnh của lòng mình với cái thanh
tĩnh của không trung, xúc động trong bóng tối trước mọi huy hoàng trông thấy
được của tinh tú và mọi huy hoàng không trông thấy được của Chúa Trời, tâm hồn
rộng mở cho mọi tư tưởng rơi xuống từ cõi Không tên. Trong những lúc ấy, đem dâng
trái tim mình vào giờ phút các hoa đêm tỏa hương thơm, sáng ngời như ngọn đèn
giữa đêm sao, hòa mình say sưa giữa cảnh chói sáng mênh mông của tạo vật, chính
ông cũng khó lòng nói được cái đang xảy ra trong tâm trí mình. Ông có cảm tưởng
như có gì bay khỏi người mình và cũng có gì giáng hạ vào đó. Đúng là những sự
trao đổi thần bí giữ những hố sâu của tâm hồn với những hố sâu của vũ trụ!
Ông nghĩ
đến sự vĩ đại và có mặt của Chúa; đến cái vĩnh viễn sắp đến, bí mật kỳ lạ; đến
cái vĩnh viễn đã qua, bí mật còn kỳ lạ hơn; đến tất cả những cái vô biên đang
chìm sâu trước mắt ông trên khắp hướng và, không tìm hiểu cái không hiểu được,
ông chỉ đưa mắt nhìn. Ông không nghiên cứu Chúa Trời, ông tự để cho mình lóa
mắt nhìn Chúa. Ông chiêm ngưỡng những sự kết hợp rực rỡ của các nguyên tử, nó
đem lại sắc hình cho vật chất, nó phát hiện ra các lực lượng, nó tạo ra các cá
tính trong sự thống nhất, các kích thước trong không gian, cái vô số trong vô
hạn và do ánh sáng mà làm ra vẻ đẹp. Những sự kết hợp này hợp với tan liên tục;
từ đó sinh ra sự sống và cái chết.
Ông ngồi
trên một chiếc ghế gỗ kê áp vào cái giàn đã mục, để nhìn trời sao qua hình bóng
khẳng khiu, cằn cỗi của cái cây ăn quả. Mấy thước đất trồng trọt quá sơ sài,
lổn nhổn những lều lán, rất thân thiết đối với ông và ông lấy thế làm đủ.
Còn có
gì cần thêm cho ông già ấy nữa, khi ông đem thì giờ rỗi rãi trong cuộc đời, đã
rất ít rỗi rãi của ông, ra chia cho việc làm vườn ban ngày và việc chiêm ngưỡng
ban đêm? Khoảng vườn rào kín, chật hẹp này, có trời xanh làm trần trên đầu, há
không đủ để ca ngợi Chúa lần lượt trong những công trình đẹp đẽ nhất và những
công trình cao cả nhất chăng? Như thế chưa phải là tất cả hay sao? Còn đòi gì
hơn nữa? Một mảnh vườn con để dạo chơi và cõi bao la để mộng tưởng. Ở dưới chân
là những cái có thể trồng trọt và thu hoạch; trên đầu là những cái có thể
nghiên cứu và suy tưởng; một ít hoa dưới đất và tất cả sao trên bầu trời.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
QUYỂN 1
Chương 14
ÔNG NGHĨ GÌ?
Một lời
cuối cùng.
Loại chi
tiết nói trên, đặc biệt trong thời gian chúng ta đang sống đây, có thể đem đến
cho ông giám mục thành Đinhơ một dáng dấp, “phiến thần”, theo cách nói hiện nay
đang thịnh hành. Điều đó khiến người ta hoặc chê hoặc khen, nhưng đều nghĩ rằng
ông có một trong những thứ triết học, riêng chỉ thời đại chúng ta mới có và
thỉnh thoảng thấy nẩy mầm trong những bộ óc cô độc, bám rễ vào đó và lớn lên
dần đến mức thay thế cho các tôn giáo. Chúng tôi đều nhấn mạnh điều này là
không một ai trong số những người có biết Đức Cha Biêngvơnuy lại dám cho rằng
mình có thẩm quyền để nghĩ như vậy. Ngọn lửa soi sáng con người này là trái
tim. Trái tim đã tuôn ra ánh sáng để làm nên đức độ của ông.
Chẳng có
học thuyết nào cả, chỉ có nhiều hành động. Những thuyết lý cao xa, khó hiểu làm
cho người ta choáng váng; chẳng có dấu hiệu gì là ông đem trí óc dấn vào những
thứ viễn tưởng mù mờ. Người tông đồ có thể bạo phổi, nhưng ông giám mục cần
phải dè dặt. Chắc chắn là ông đã tự bảo mình phải thận trọng đừng đi quá sâu
vào một số vấn đề có lẽ chỉ dành cho những đầu óc lớn và táo tợn. Dưới cổng tò
vò của bí điều có sự ghê sợ linh thông; những cửa ngõ tối om ấy mở toang hoác
đấy, nhưng có gì như nói với ta, những kẻ bộ hành trên đời, rằng không nên vào
đó. Ai vào đó sẽ gặp tai họa. Trong chỗ cao sâu khôn tả của trừu tượng và
thuyết lý đơn thuần, những thiên tài, có thể nói là đứng trên các giáo điều, đề
nghị ý mình lên Chúa. Lời cầu Chúa của họ đồng thời là một lời đề nghị táo bạo
xin tranh luận. Sự tôn sùng của họ cũng là cách chất vấn. Đó là tín ngưỡng trực
tiếp, đầy lo ấu và trách nhiệm của những ai muốn thử trèo những đỉnh cao chênh
vênh của tôn giáo.
Sự suy
nghĩ trầm tư của con người không có giới hạn nào. Hoàn toàn chịu trách nhiệm về
công việc của mình, nó phân tích và đi sâu vào sự bừng sáng của chính mình. Có
thể nói rằng, do một thứ phản lực tốt đẹp, nó làm cho cả tạo vật cũng chói lòa;
thế giới bí ẩn chung quanh ta hễ nhận cái gì là có trả lại, cho nên có phần
chắc là những người chiêm ngưỡng lại được người ta chiêm ngưỡng. Dù sao, trên
đời cũng có những con người – phải chăng đó là những con người? – Nhìn thấy rất
rõ ở chân trời sâu thẳm của sự mơ màng những đỉnh cao của tuyệt đối và có một
hình ảnh dữ dội về quả núi vô biên. Đức Cha Biêngvơnuy chẳng phải là người như
thế, ông không phải là một thiên tài. Chừng như ông e sợ cái thứ cao siêu vì từ
đó một đôi người, có khi là những người vĩ đại, như Xuơđăngboóc và Pastcan, đã
rơi vào điên loạn. Nói cho đúng, những sự suy tưởng mãnh liệt ấy có giá trị đạo
đức và bằng những con đường gay go như thế người ta cũng đến gần sự toàn thiện
lý tưởng. Về phần Đức Cha Biêngvơnuy, ông đi theo con đường nhỏ gần hơn: kinh
thánh.
Ông
không muốn cho áo lễ của mình mang những nếp gấp trên áo khoác của Êli, ông
không chiếu một tia sáng tương lai nào lên cảnh nhấp nhô tối tăm của mọi biến
cố, ông cũng không tìm cách tập trung lửa trời của sự vật thành đuốc sáng, ông
chẳng có tí gì của nhà tiên tri và của nhà hướng đạo. Tâm hồn giản dị ấy yêu
thương, thế thôi.
Cho là
ông có mở rộng sự cầu nguyện đến một khát vọng siêu phàm, điều ấy có lẽ; nhưng
người ta không thể cầu nguyện nhiều quá cũng như không thể yêu thương nhiều
quá. Và nếu cầu nguyện quá lời kinh là tà tín thì nữ thánh Têredơ và thánh
Giêrôm đã là những người tà đạo rồi.
Ông
nghiêng mình xuống những ai rên rỉ và những ai đang chuộc tội. Thế gian hiện ra
trước mặt ông như một cõi bệnh tật bao la. Ở đâu cũng cảm thấy có cảm sốt, ở
đâu ông cũng chẩn đoán ra sự đau đớn và không tìm cách đoán biết bí ẩn, ông cố
gắng băng bó vết thương. Cảnh tượng đáng sợ của mọi vật trời sinh làm cho lòng
trìu mến của ông càng phát triển. Chỉ một điều làm ông bận là cố tìm cho mình
và gợi ý cho người khác cách tốt nhất để thương xót và đỡ đần. Mọi cái tồn tại
trên đời, đối với nhà tu hành hiền từ và hiếm có này, là một duyên cớ thường
xuyên để ông buồn và tìm cách an ủi.
Có những
người cày cực khai thác vàng; ông thì ông chuyên chú khai thác lòng thương. Nỗi
khốn khổ bao la của thế gian là hầm mỏ của ông. Bất kỳ ở đâu, đau khổ cũng chỉ
là cơ hội cho từ tâm. Các người hãy thương yêu nhau; ông cho lời nói ấy là đầy
đủ, cũng không mong ước gì hơn; và đó là tất cả học thuyết của ông. Một hôm,
cái người tự cho mình là “triết gia”, cái ông thượng nghị sĩ ấy, mà trên kia đã
nhắc đến, nói với ông giám mục: - “Nhưng xin ông nhìn thử cảnh tượng của thế
gian; ai cũng đánh nhau giết nhau; kẻ mạnh nhất thì là kẻ tài trí nhất. Cái
“các người hãy thương yêu nhau” của ông là một sự nhảm nhí.
- Thế
thì – Đức Cha Biêngvơnuy đáp lại một cách ôn tồn – nếu đó là sự nhảm nhí, thì
linh hồn cần náu mình trong đó như hạt ngọc trong con trai vậy.
Ông ẩn
mình trong đó, sống trong đó và lấy làm thỏa mãn hoàn toàn. Vì ông đã cẩn thận
gạt qua một bên những vấn đề to lớn vừa hấp dẫn vừa làm cho người ta hoảng hốt,
những chiều xa không tới nỗi của trừu tượng, những vực sâu của siêu hình học,
tất cả những vấn đề thăm thẳm qui vào một hướng và dẫn kẻ tông đồ đến Chúa Trời
cũng như dẫn kẻ vô thần đến hư vô. Đó là Vận mệnh con người, thiện và ác, sinh
vật sâu xé nhau, lương tâm con người, bản năng trầm tư ở thú vật; vấn đề chết
rồi đi đâu, nằm dưới mồ thì ôn lại kiếp sống ra sao, bao nhiêu mối tình nối
tiếp nhau tháo ghép một cách khó hiểu bên cái tôi cố định; vấn đề cái tinh hoa
và cái thể chất, sông Nin và sông Ăngxơ, linh hồn và tạo vật, tự do và tất yếu.
Toàn những vấn đề chót vót, những tầng tầng đáng sợ; bao nhiêu thiên tài vĩ đại
của trí tuệ, con người đã vùi đầu vào đó. Toàn những vực sâu kinh khủng mà
Luycơrét, Manu, Thánh Pôn và Đăngtơ từng ngắm với con mắt nảy lửa; nhìn đăm đăm
vào cõi vô biên thì hình như lại làm nở ra ở đó những vì sao sáng.
Đức Cha
Biêngvơnuy chỉ đơn giản là một con người nhìn các vấn đề bí ẩn từ bên ngoài chứ
không soi mói, không lay động tới, cũng không để cho tâm trí mình rối loạn, một
con người thâm tâm biết kính trọng bóng tối một cách tôn nghiêm.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 2
Sa Ngã
Chương 1
SAU MỘT NGÀY ĐƯỜNG
Vào
thượng tuần tháng mười năm 1815, một giờ trước lúc mặt trời lặn, có một người
khách đi bộ vào thành phố Đinhơ nhỏ bé. Dăm ba người hàng phố khi ấy còn đứng
ngoài cửa sổ, hoặc ở ngưỡng cửa, đưa mắt nhìn người bộ hành, vẻ nghi ngại. Khó
mà thấy một người đi đường tồi tàn hơn thế! Hắn ta khoảng trên bốn mươi lăm
tuổi, người tầm thước, to ngang và vạm vỡ trông đương sung sức. Chiếc mũ
cát-két có lưỡi trai bằng da sụp xuống trán che khuất một phần khuôn mặt nhễ
nhại mồ hôi. Chiếc sơ-mi vải thô màu vàng, cổ cài mỏ neo bạc, để lòi ra một cái
ngực đầy lông. Chiếc cà-vạt vặn lại như mẩu thừng. Cái quần bằng vải to màu
xanh đã cũ nát, một bên gối bạc phếch và một bên bị thủng. Cái áo khoác cũ màu
xám, rách mướp một bên khủyu tay và một miếng da xanh khâu bằng dây gai. Trên
lưng một chiếc ba lô quân đội còn mới nguyên đầy ắp và buộc kỹ lưỡng. Tay cầm
chiếc gậy gộc có đốt, chân không tất đi một đôi giày đinh. Đầu húi trọc, râu để
dài.
Con
người đã tồi tàn như thế lại cuốc bộ ngoài nắng mồ hôi mồ kê ướt đẫm, bụi bặm
đầy mình, nên càng thêm vẻ ghê tởm.
Đầu thì
húi trọc, nhưng tóc lổm chổm vì mới mọc mà hình như gần đây không được húi.
Chẳng ai
biết rõ hắn ta. Cố nhiên hắn chỉ là một kẻ qua đường. Nhưng hắn ở đâu tới? Từ
miền Nam. Có lẽ là từ miền bể. Vì hắn vào thành phố Đinhơ cũng bằng con đường
mà bảy tháng trước đây Hoàng đế Napoleon đã đi qua khi từ Can đến Paris. Chắc
hắn đã cuốc bộ suốt ngày nên coi vẻ mệt mỏi lắm. Mấy người đàn bà ở phố cũ phía
Nam đã thấy hắn nghỉ lại dưới rặng cây ở đường Gátxăngđi và vục nước máy ở đầu
đường mà uống. Hẳn là hắn khát lắm, vì lũ trẻ con đi theo thấy hắn dừng lại
cách đấy hai trăm bước, ở máy nước sân chợ và uống nữa.
Đến góc
phố Poasơve hắn rẽ sang trái và tiến về phía thị sảnh. Hắn vào và mười lăm phút
sau lại ra. Một người lính sen đầm ngồi trên tấm ghế để cạnh cửa ra vào, chiếc
ghế mà hôm mùng bốn tháng ba tướng Đôruô đã trèo lên và đọc cho quần chúng nhân
dân thành Đinhơ đang kinh hoàng tờ tuyên ngôn của Napoleon làm ở vịnh Gioăng.
Hắn bỏ mũ khúm núm cúi chào. Người lính không chào lại, chăm chú nhìn hắn,
trông theo hắn một lúc rồi bỏ đi vào trong công quán.
Ngày ấy
ở Đinhơ có một hàng cơm lịch sự là hiệu Croa đờ Cônba. Chủ quán, Giacanh Laba
cũng là một tay được vị nể trong thành phố vì y có họ với một anh Laba khác,
anh này là chủ hàng cơm Troa Đôphanh ở Grơnốp và đã từng phục vụ trong đội quân
hướng đạo. Dạo hoàng đế đổ bộ lên đất liền, trong xứ người ta đồn nhiều điều về
hàng cơm Troa Đôphanh này lắm. Có người kể rằng tướng Béctrăng, (Bertrand:
tướng phụ tá của Napoleon, rất trung thành, đã theo Napoleon trong bước suy
vong cho đến lúc cuối cùng và đã mang di cốt của vua mình về nước Pháp) cải
trang làm phu xe bò, vào tháng giêng năm ấy, thường hay đi lại trong vùng và
phân phát nhiều huân chương cho lính tráng và từng vốc bạc cho bọn thị dân. Sự
thật là khi Napoleon vào Grơnốp, ngài đã từ chối không đến ngự ở thị sảnh. Ngài
cám ơn ông thị trưởng và nói: “Tôi đến nhà một người tốt mà tôi quen biết”, rồi
đi đến quán cơm Troa Đôphanh. Cái vinh dự của anh Laba ở hàng cơm Troa Đôphanh
chiếu xa ngoài hai mươi dặm đến tận cái anh Laba ở quán cơm Croa đờ Cônba. Hàng
phố người ta thường chỉ trỏ: “Ấy, ông này là em họ của ông Laba ở Grơnốp đó”.
Anh
chàng đi về phía hàng cơm ấy là nơi chứa trọ tốt nhất miền. Hắn bước thẳng vào
bếp ngay cạnh đường. Tất cả các hỏa lò đang đỏ rừng rực; trong lò sưởi củi cháy
ngùn ngụt. Chủ quán vừa là đầu bếp, hết thổi lửa lại xem các xoong chảo, đang
tíu tít sửa soạn bữa cơm ngon cho bọn phu xe tải hàng đang cười nói ầm ĩ ở
buồng bên. Ai đã từng đi nhiều đều biết rằng chẳng có khách hàng nào háu ăn
ngon bằng đám phu xe tải. Một chiếc xiên dài có con cu li béo, hai bên kèm một
dây gà gô và gà rừng, đang quay trên lò lửa. Trong nồi hai con chép lớn hồ Lôze
và một con cá quả hồ Alôzơ đang âm ỉ.
Nghe cửa
mở và có khách mới vào, chủ quán mắt không rời bếp, hỏi:
- Ông
cần gì?
- Ông
cho ăn cơm và ngủ lại.
- Vâng,
dễ thôi – Bấy giờ chủ quán mới quay ra, nhìn người khách từ đầu đến chân một
lượt rồi thêm:
- Chỉ
cần trả tiền.
Khách
thò tay vào túi áo khoác lấy ra một chiếc ví da to:
- Tiền
đây.
- Thế
thì xin có.
Khách bỏ
ví da vào túi, bỏ chiếc ba lô ra, đặt xuống đất gần bên cửa rồi xách gậy đến
ngồi trên chiếc ghế đẩu gần lò sưởi. Thành phố Đinhơ ở miền núi, đêm tháng mười
thường lạnh.
Trong
khi ấy, chủ quán vừa đi đi lại lại vừa ngắm kỹ khách.
- Đã sắp
có cơm chưa? – Khách hỏi.
- Lát
nữa.
Trong
khi khách ngồi sưởi, quay lưng lại thì viên chủ quán Laba móc túi lấy cây bút
chì, xé một tờ báo cũ trên chiếc bàn con cạnh cửa sổ, viết một vài dòng gì đó
vào chỗ mép trắng rồi gấp lại đưa cho một chú bé, chừng vừa là phụ bếp vừa là
người đánh xe. Chú quán ghé vào tai thằng bé nói thầm một câu, thằng bé liền
cắm đầu chạy về phía thị sảnh.
Khách
không hay biết gì cả, lại hỏi:
- Đã gần
có cơm chưa?
- Một
lát nữa.
Thằng bé
cầm mảnh giấy trở về. Chủ quán đang nóng chờ câu trả lời, vội vàng mở ra xem.
Hắn ra vẻ chăm chú đọc, rồi lắc đầu suy nghĩ một lúc. Rồi hắn bước lại gần
người khách đang trầm ngâm, ra dáng lo lắng, âu sầu:
- Này
ông, tôi không tiếp ông được.
Khách
giật mình nhổm lên:
- Sao
vậy? Anh sợ tôi không có tiền trả à? Hay là tôi đưa trước cho anh nhé? Tôi đã
nói tôi có tiền mà.
- Không
phải thế.
- Thế
thì tại làm sao?
- Ông có
tiền…
- Phải.
- Nhưng
tôi thì tôi không có phòng.
Khách ôn
tồn bảo:
- Cho
tôi xuống chuồng ngựa vậy.
- Không
được.
- Sao
thế?
- Chuồng
ngựa đầy ngựa rồi.
- Thôi
thì một xó trên gác xép cũng được. Một ổ rơm là đủ mà. Ăn xong rồi ta sẽ hay.
- Tôi
không thể dọn cơm cho ông ăn được.
Câu trả
lời khoan thai, nhưng cứng cỏi, làm cho khách biết có gì nghiêm trọng đây.
Khách đứng dậy:
- Thế à!
Nhưng tôi đói lả rồi đây này. Cuốc bộ những mười hai dặm từ sáng sớm đến giờ.
Tôi có quịt đâu, tôi cần ăn mà.
- Trong
nhà chả còn thức gì cả?
Khách
phì cười, quay sang phía lò sưởi và chỗ bếp:
- Không
còn gì! Thế những cái kia?
- Đấy là
của người ta đặt trước.
- Ai
đặt?
- Các
ông phu xe tải hàng đây.
- Họ có
bao nhiêu người?
- Mười
hai.
- Đến
hai mươi ăn cũng đủ nữa là.
- Nhưng
họ đã giữ hết và trả tiền trước cả rồi.
Khách
lại ngồi xuống, ôn tồn:
- Đây là
hàng cơm, tôi đói, tôi cứ ở lại.
Chủ quán
bèn ghé vào tai khách, nói bằng một giọng làm cho khách phải giật mình:
- Đi
ngay đi.
Lúc ấy
khách đang cúi xuống, lấy đầu gậy bịt sắt vun mấy cục than hồng trong lò lửa,
bỗng quay ngoắt lại. Khách vừa mở miệng định trả lời thì chủ quán nhìn chằm
chằm vào mặt, vẫn thấp giọng nói tiếp:
- Này,
đừng nhiều lời nữa. Anh có muốn tôi nói tên anh ra không? Anh là Giăng
VanGiăng. Anh còn muốn tôi lôi lý lịch anh ra ư? Lúc anh thoạt vào, tôi đã hơi
ngờ ngờ, tôi sai người ra hỏi ngoài thị sảnh, thì người ta đã trả lời rồi đấy.
Anh có đọc được không?
Chủ quán
vừa nói vừa đưa cho khách xem mảnh giấy mở sẵn vừa mới từ hàng cơm đưa ra thị
sảnh và từ thị sảnh trở về hàng cơm. Khách đưa mắt nhìn qua. Chủ quán đứng lặng
một lát rồi bảo:
- Tôi
đây vẫn quen đối xử nhã nhặn với mọi người. Mời anh đi cho.
Khách
cúi đầu, nhặt chiếc ba lô để dưới đất rồi bước ra.
Hắn cứ
dọc theo đường phố lớn đi thẳng một mạch về phía trước, chẳng biết mình định đi
đâu, men sát theo các tường nhà, như người bị sỉ nhục và buồn rầu. Ở cửa hàng
cơm, anh chủ quán, có bọn khách trọ và người qua đường vây quanh, đang đứng
trông theo và chỉ trỏ, nói năng huyên thuyên. Người kia không hề ngoái cổ. Giá
hắn ngoái cổ trông lại thì cứ vẻ mặt nghi ngờ và kinh hãi của cả đám người ấy,
có lẽ hắn đoán biết rồi đây chả mấy chốc cả thành phố sẽ nhốn nháo lên vì hắn.
Hắn
không nhìn thấy gì về cảnh ấy cả. Người đang đau khổ có quay nhìn lại sau lưng
bao giờ! Họ biết thừa vận đen vẫn theo đuổi họ.
Hắn cắm
đầu đi như thế trong hồi lâu, lang thang hết phố này sang phố khác, chẳng biết
đâu là đâu, quên cả mệt nhọc, như một người đang cơn buồn bực. Bỗng nhiên hắn
thấy bụng đói cồn cào. Trời lại sắp tối. Hắn đưa mắt nhìn quanh xem may chăng có
nơi nào trọ được.
Hàng
quán lịch sự thì đã cấm cửa hắn rồi; hắn định tìm một quán rượu nào thật tồi
tàn, thật xơ xác.
Vừa lúc
ấy, một ánh lửa lóe lên ở đầu phố; một cành thông treo lủng lẳng trên cái cần
sắt (đó là dấu hiệu một quán trọ) in rõ trên nền trời hoàng hôn màu trăng
trắng. Hắn nhắm hướng đó đi tới.
Thì ra
là một quán rượu, quán rượu phố Sapphô.
Hắn dừng
lại một lúc, đưa mắt nhìn vào bên trong qua cửa kính. Căn phòng thấp của ngôi
hàng đang có chiếc đèn con trên bàn và lửa cháy rần rật trong lò sưởi chiếu
sáng. Vài ba người đang uống rượu. Chủ quán ngồi sưởi. Một chiếc nồi sắt treo
trên lò lửa sôi sùng sục.
Quán
rượu này đồng thời là quán cơm. Vào ra có hai cửa, một cửa trông ra đường cái,
một cửa thông ra cái sân con đầy ắp phân tro.
Hắn
không dám vào cửa trước. Hắn lẻn vào trong sân, tần ngần một lúc rồi khe khẽ
nâng then lên, đẩy cánh cửa. Chủ quán hỏi:
- Ai
đấy?
- Một
người muốn ăn cơm và nghỉ trọ.
- Được.
Ở đây có chỗ ăn và chỗ ngủ.
Hắn bước
vào. Bọn khách đang đánh chén quay cả lại. Hắn đứng giữa, một bên có ánh đèn
chiếu sáng, một bên có ánh lửa. Trong khi hắn loay hoay bỏ chiếc ba lô trên vai
xuống thì mọi người đều nhìn hắn chăm chú.
Chủ quán
bảo:
- Lò
sưởi đây, bữa tối trong nồi kia. Anh bạn lại mà sưởi cho ấm.
Hắn đến
ngồi sát bên lò sưởi, duỗi thẳng đôi chân đi bộ đau dừ ra trước đống lửa. Trong
nồi mùi thức ăn bay ra thơm phức. Trên khuôn mặt khuất sau chiếc mũ lưỡi trai
đội thụp xuống, phảng phất một vẻ gì khoan khoái lẫn trong cái dáng đau thương
của con người từng quen khổ nhục.
Thực ra,
nhìn một bên, nét mặt hắn rắn rỏi, cương quyết và rầu rầu. Kể ra cũng phức tạp:
thoạt trông thì hình như khúm núm, nhìn kỹ lại như nghiêm nghị. Hai con mắt
sáng quắt dưới bộ lông mày, trông chẳng khác gì ánh lửa dưới bụi rậm.
Trong
bọn khách đang ngồi ở quán có một anh hàng cá, trước khi đến quán này đã qua
nhà hàng Laba để gửi ngựa. Tình cờ xui khiến y gặp người lạ mặt khả nghi này
lúc ban sáng đang thất thểu ở quãng đường từ Bradat đến… (tôi quên mất tên chỗ
này, hình như là Etcublông thì phải). Chả là khi gặp y, người bộ hành đã có vẻ
mệt nhọc lắm rồi, có xin y cho ngồi nhờ sau yên ngựa: y chẳng nói chẳng rằng cứ
ra roi thúc ngựa. Nửa giờ trước đây, y lại có mặt trong đám đông, vây quanh
Giacanh Laba và chính miệng y đã thuật lại việc gặp gỡ bực mình ban sáng cho
mọi người ở cửa hàng Croa đờ Cônba nghe. Y ngồi yên tại chỗ, ra hiệu ngầm cho
chủ quán. Chủ quán ghé lại gần, hai người thì thầm với nhau một vài lời. Người
khách lạ đang thừ người ra nghĩ ngợi.
Chủ quán
trở lại chỗ lò sưởi, đột ngột đặt bàn tay lên vai hắn, bảo:
- Mày đi
ngay ra khỏi nhà này.
Hắn quay
lại nhẹ nhàng đáp:
- À! Hóa
ra anh cũng biết ư?
- Phải.
- Bên
nhà hàng kia không tiếp tôi.
- Và nhà
hàng này thì đuổi mày đi.
- Ông
bảo tôi đi đâu bây giờ?
- Đi chỗ
khác.
Người lạ
mặt cúi nhặt chiếc gậy và xách ba lô đi. Mấy đứa trẻ con đi theo hắn từ nhà
hàng Croa đờ Cônba vẫn đứng chờ ở ngoài, thấy hắn bước ra thì nhặt đá ném theo.
Hắn nổi giận quay trở lại, giơ chiếc gậy ra dọa, lũ trẻ mới chịu chạy tản ra
như một bầy chim.
Hắn đi
qua nhà lao. Cổng nhà lao có treo một sợi xích buộc vào một cái chuông. Hắn nắm
dây giật. Một cửa con mở ra. Hắn bỏ mũ kính cẩn:
- Ông
gác ơi! Ông làm ơn mở cửa cho tôi và cho tôi trọ đỡ đêm nay.
Có tiếng
trả lời:
- Nhà
pha không phải là quán trọ. Anh cứ làm cho người ta bắt giam anh đi. Tôi sẽ mở
cửa cho.
Cửa con
đóng lại.
Hắn rẽ
sang một phố nhỏ có nhiều khu vườn. Có nơi bên ngoài chỉ có hàng rào cây trông
cũng vui mắt. Giữa quãng vườn tược, rào giậu ấy, hắn nhìn thấy một ngôi nhà nhỏ
một tầng, gác có ánh sáng chiếu lọt qua cửa sổ. Hắn lại dòm qua cửa kính như
lúc đứng trước quán rượu ban nãy. Bên trong là một căn phòng rộng quét vôi
trắng, một chiếc giường có trải nệm bọc vải hoa, một chiếc nôi trẻ con ở góc
nhà, mấy cái ghế gỗ và khẩu súng săn hai nòng treo trên tường. Giữa phòng, bàn
ăn đã bày sẵn. Ánh sáng cây đèn đồng tỏa lên tấm khăn bàn vải thô màu trắng,
chiếu lên cái bình thiếc lấp loáng như bạc đựng đầy rượu và liễn xúp màu nâu
khói lên nghi ngút. Bên bàn, một người đàn ông trạc độ bốn mươi, nét mặt tươi vui,
đang đùa với đứa con nhỏ nhún nhảy trên đùi mình. Bên cạnh người vợ trẻ măng
vạch áo cho một đứa trẻ khác bú. Anh chồng cười, đứa con cười, chị vợ mỉm cười.
Người lạ
mặt mơ màng ngắm cảnh gia đình đầm ấm ấy một lúc lâu. Hắn đang nghĩ ngợi gì
vậy? Riêng chỉ có hắn biết được mà thôi. Có lẽ hắn cho rằng gia đình vui vẻ này
hẳn là hiếu khách và ở một nơi tràn đầy hạnh phúc như thế hẳn sẽ tìm được một
chút tình thương chăng.
Hắn gõ
khẽ vào cửa kính.
Không ai
nghe tiếng.
Hắn gõ
lần nữa.
Có tiếng
người vợ bảo chồng:
- Này
mình, hình như có ai gọi cửa.
Chồng
đáp:
- Đâu
có.
Hắn lại
gõ lần thứ ba.
Người
chồng đứng dậy, cầm đèn ra mở cửa.
Chủ nhà
người cao lớn, nửa ra vẻ nông dân, nửa ra vẻ thợ thủ công. Anh khoác một chiếc
tạp dề rộng bằng da, bên trái che lên đến ngang vai. Phần trên tạp dề bỏ đồ đạc
cộm lên như một cái túi, có chiếc nịt da ở lưng giữ lại: một cái búa, một chiếc
khăn tay đỏ, một bao thuốc súng và đủ thứ linh tinh nằm trong đó. Anh nghiêng
đầu ra phía sau, chiếc sơ mi cổ rộng trễ xuống để lộ ra cái cổ trần, lực lưỡng
và trắng nõn. Anh có đôi lông mày rậm, bộ râu quai nón đen nhánh, cặp mắt lồi,
cái cằm nhọn, vẩu và trên tất cả cái dáng thoải mái của con người đang ở nhà
mình, một dáng điệu rất khó tả.
- Thưa
ông, xin lỗi ông. Ông có thể cho tôi một đĩa xúp nhỏ và một xó trong nhà xe ở
ngoài vườn kia để ngủ qua đêm nay không? Tôi xin gửi tiền hầu ông. Thưa ông, có
được không? Tôi xin trả tiền ông.
Chủ nhà
hỏi:
- Anh là
ai.
- Tôi ở
Puy Moaxông đến đây. Tôi đi bộ suốt từ sáng đến giờ, kéo bộ hàng mười hai dặm
đường. Thưa ông, có được không? Tôi xin trả tiền mà.
- Người
lương thiện xin trọ mà lại trả tiền khá thì việc gì mà từ chối? – người nông
dân đáp – Nhưng sao anh lại không vào nhà hàng?
- Nhà
hàng không còn chỗ.
- Không
còn chỗ? Có lý nào. Hôm nay có phiên chợ chính hay phiên chợ xép gì đâu. Thế
anh đã vào Laba chưa?
- Đã.
- Thế
sao?
Người lạ
mặt lúng túng:
- Không
biết tại sao, họ không chịu tiếp tôi.
- Anh đã
lại nhà hàng anh gì ở phố Sapphô chưa?
Người lạ
mặt lại càng thêm lúng túng. Hắn ngập ngừng:
- Ở đấy
họ cũng không tiếp.
Chủ nhà
sinh nghi, nhìn người lạ mặt từ đầu đến chân, rồi bất thần kêu lên, giọng như
ríu:
- Dễ
thường anh là cái người mà…
Anh đưa
mắt nhìn người lạ mặt lần nữa, rồi lùi lại ba bước, đặt cây đèn xuống bàn, với
tay lấy khẩu súng trên tường.
Nghe
tiếng chồng kêu: “Dễ thường anh là cái người mà…” chị vợ vội đứng dậy, ôm lấy
hai con chạy đến nấp sau lưng chồng, không kịp kéo áo che ngực, cặp mắt hốt
hoảng, nhìn về phía người lạ mặt, miệng lẩm bẩm:
- Quân
cướp đạo.
Bấy
nhiêu việc hình dung ra thì dài song chỉ xảy ra trong chốc lát. Chủ nhà dò xét
người lạ mặt một lúc như người ta quan sát một con rắn lục, rồi trỏ ra phía cửa
bảo:
- Cút
đi.
- Van
ông, xin một cốc nước.
- Có họa
một phát súng!
Nói
xong, anh đóng sập cửa lại. Người lạ mặt nghe rõ anh ta kéo cả hai cái then lớn
cài cửa. Một lát sau, cửa sổ cũng đóng nốt và có tiếng gióng sắt chặn cửa vang
ra ngoài.
Trời mỗi
lúc một thêm tối. Gió núi thổi về lạnh buốt. Trong ánh sáng lờ mờ của ngày tàn,
người lạ mặt thấy trong một khu vườn ở gần đường có cái gì giống một cái lều
đắp bằng đất cỏ. Hắn quả quyết trèo qua hàng rào gỗ đi vào trong vườn. Đến gần
thì thấy lều chỉ có một lỗ nhỏ ra vào ở sát đất, trông giống túp lều của phu
lục lộ thường dựng dọc đường cái. Thôi đích là cái lều của phu lục lộ, có lẽ
hắn nghĩ thế. Bấy giờ hắn vừa đói lại vừa rét; đói thì hắn đành ôm bụng chịu
vậy, nhưng rét thì ít nhất cũng tạm ẩn vào đây được, vì lều của phu lục lộ thì
ban đêm thường bỏ không. Hắn bèn nằm sấp xuống chui vào. Trong lều ấm lắm, lại
có cả ổ rơm khá êm. Hắn nằm duỗi dài trên ổ, mệt quá không cựa quậy nổi. Một
chốc sau thấy cái ba lô ở sau lưng vướng víu khó chịu, hắn nghĩ nếu đem kê làm
gối thì hay quá nên với tay cởi dây đeo. Bỗng có tiếng gầm gừ dữ tợn vang lên.
Hắn nhìn ra thì thấy đầu một con chó kếch xù hiện ra trong bóng tối ngay chỗ lỗ
ra vào.
Thì ra
đó là cái ổ chó.
Hắn vốn
lực lưỡng và là một tay không vừa. Hắn vớ lấy cây gậy, giơ ba lô lên làm cái
khiên, rồi cố lách ra khỏi chuồng, mặc cho quần áo bị tươm nát thêm. Hắn cũng
luồn ra khỏi vườn, nhưng vừa lùi vừa hoa gậy theo thế võ mà bọn nhà nghề mệnh
danh là thế che hoa để dọa con chó.
Khi chật
vật lắm mới vượt được hàng rào gỗ ra ngoài đến đường cái, hắn lại càng thấy
mình trơ vơ không nhà, không cửa, không nơi nương tựa, thậm chí chui vào cái ổ
chó khốn nạn nằm lên rơm của chó, mà cũng bị chó đuổi ra. Hắn ngồi phịch xuống
một hòn đá. Hình như lúc ấy có người đi qua nghe thấy hắn than thở:
- Thân
ta thật không bằng một con chó!
Một lát
sau hắn lại đứng dậy bước đi. Hắn đi ra khỏi thành phố, hy vọng tìm được gốc
cây hay đống rạ ngoài đồng trú tạm.
Hắn cắm
đầu đi một lúc lâu. Khi đã thấy xa nơi nhà cửa có người ở rồi, hắn mới ngước
mắt nhìn quanh một lượt. Thì ra hắn đang ở giữa cánh đồng. Trước mắt là một quả
đồi thấp gặt xong, còn trơ gốc rạ trông như cái đầu húi trọc.
Chân
trời tối mịt. Đêm đã đến. Lại thêm những đám mây rất thấp, trông như tựa trên
đỉnh đồi và đang lan ra, tỏa dần khắp trời. Trăng sắp mọc, ngang trời cũng còn
mơ hồ chút ánh sáng thừa của hoàng hôn, nên từ các vòm mây, ánh sáng heo hắt ấy
lại tỏa xuống cánh đồng.
Mặt đất
thành ra trông rõ hơn nền trời và cái đó gây ra một cảnh tượng ghê rợn. Quả đồi
trơ trọi mảnh mai in hình mờ nhạt lên chân trời tối sầm trước mặt. Dưới ruộng,
trên đồi không còn cái gì khác ngoài một thân cây hình dáng kỳ dị đang quằn
quại run rẩy ở ngay gần người rảo bước.
Cố nhiên
hắn không phải là một con người thông minh, tế nhị, quen cảm xúc trước những vẻ
bí ẩn cuả tạo vật, nhưng trong cảnh trời, cảnh đồi, cảnh đồng ruộng, cả hình
dáng gốc cây ấy lúc bấy giờ đều như có cái gì tiêu điều vô hạn, khiến hắn phải
lặng người đi, mơ màng một lúc rôi bỗng quay gót trở lại. Lắm khi thiên nhiên
cũng có vẻ thù ghét con người là thế. Hắn qauy lùi về đường cũ. Bấy giờ cổng
thành đã đóng. Đinhơ trước kia, hồi chiến tranh tôn giáo đến nhiều lần đương
đầu với nhiều cuộc bao vây, nên đến năm 1815 hãy còn giữ những tường lũy cũ,
với các lô cốt vuông đã bị phá từ dạo ấy. Hắn trèo qua chỗ tường đổ trở vào
trong phố.
Lúc ấy
vào khoảng tám giờ tối. Đường sá không thuộc nên hắn lại vẫn lang thang như
trước. Đi mãi đến dinh tỉnh trưởng rồi đến chủng viện. Khi qua quảng trường nhà
thờ lớn, hắn hằn học giơ quả đấm lên nhà thờ.
Ở góc
quảng trường có một nhà in. Đây là nơi in đầu tiên các bản tuyên cáo của hoàng
đế và của quân ngự lâm gửi cho quân đội. Các bản tuyên cáo này từ đảo Enbơ mang
về do đích thân Napoleon đọc cho người ta chép.
Cuối
cùng thấy trong người rã rời, lại hết phương mong mỏi, hắn đến nằm lăn trên
chiếc ghế đá trước cửa nhà in.
Một bà
già từ trong nhà thờ đi ra, thấy hắn nằm trong bóng tối, cất tiếng hỏi:
- Ông
bạn kia làm gì ở đây?
Hắn nổi
xung gắt:
- Phúc
đức chưa! Bà không thấy à? Nằm ngủ chứ còn làm gì nữa!
Bà già
là hầu tước phu nhân R, vốn là người phúc đức thật. Bà tiếp:
- Nằm
trên ghế đá này à?
- Mười
chín năm nằm đệm gỗ, nay nằm nệm đá cũng được chứ sao?
- Trước
anh đi lính à?
- Phải,
đi lính.
- Sao
lại không vào quán trọ?
- Tôi
không có tiền.
- Rủi
quá – bà R. nói – tôi chỉ còn bốn xu trong ví!
- Không
hề gì, cứ cho tôi.
Hắn cầm
tiền. Bà R, lại bảo:
- Bấy
nhiêu cũng không đủ trả tiền trọ đâu. Nhưng anh đã hỏi thử chỗ nào chưa? Chứ
nằm cả đêm trên ghế này thế nào được! Chắc anh đang đói và rét. Người ta cũng
có thể làm phúc cho anh ngủ nhờ chứ?
- Tôi đã
gõ hết cửa mọi nhà rồi.
- Thế
sao?
- Đâu họ
cũng đuổi.
Bà già
phúc đức, chạm tay người lạ mặt, chỉ cho hắn ngôi nhà thấp nhỏ ở bên kia quảng
trường, cạnh dinh giám mục:
- Anh
bảo anh gõ cửa khắp các nhà rồi phải không?
- Phải.
- Vậy
anh đã gõ cửa nhà kia chưa?
- Chưa.
- Đến gõ
đấy xem.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 2
Chương 2
KHUYÊN NGƯỜI HIỀN PHẢI ĐỀ PHÒNG
Tối hôm
ấy, ông giám mục thành Đinhơ đi dạo phố về lại ngồi làm việc trong phòng mãi.
Ông lo soạn một bộ sách về Những bổn phận. Công việc còn đang dở dang.
Ông
nghiên cứu kỹ lưỡng tất cả những gì mà các Cha cố và các Nhà thông thái đã nói
về vấn đề trọng đại này. Cuốn sách gồm hai phần: phần thứ nhất nói về bổn phận
mọi người, phần thứ hai về bổn phận cá nhân, tùy theo hoàn cảnh từng tầng lớp.
Bổn phận mọi người là quan trọng nhất. Có bốn cái mà Thánh Mathiơ đã chỉ rõ:
Bổn phận đối với Chúa (Matth, VI), bổn phận đối với bản thân (Matth, V, 29,
30), bổn phận đối với đồng loại (Matth, VII, 12), bổn phận đối với sinh linh
(Matth, VI, 20,25). Về các bổn phận khác, ông cũng đã thấy rõ có nơi vạch ra và
khuyên làm: các nhà vua và các bề tôi thì trong khuyến thư cho người La Mã; các
quan tòa, của kẻ làm vợ, làm mẹ, của thanh niên thì trong lời thánh Pi-e; của
người làm chồng, làm cha, làm con, làm gia nhân cho kẻ khác thì trong Khuyến
thư cho dân Ephe; của người đi đạo thì trong Khuyến thư cho người Ebơrơ; của
trinh nữ, trong Khuyến thư cho dân Côranhtơ. Ông cẩn thận đem tất cả những lời
khuyên kia sắp xếp thành một bài luân lý cân đối hài hòa để: trình bày cho mọi
người.
Tám giờ
rồi ông vẫn còn ngồi lom khom viết vào những mẩu giấy vuông nhỏ, trên đùi đặt
một cuốn sách to. Như thường lệ, mụ Magơloa bước vào lấy bộ đồ bạc trong ô tủ
gần đầu giường. Một lúc sau, đoán chừng bữa ăn đã dọn xong và cô em có lẽ đang
đợi, ông gấp sách đứng lên bước sang phòng ăn.
Phòng ăn
là một căn buồng hình bầu dục có lò sưởi, cửa chính quay ra đường (như trên đã
tả) và cửa sổ trông ra vườn.
Bữa ăn
vừa dọn xong, bà Magơloa vừa bày bàn vừa nói chuyện với cô Baptistin.
Cây đèn
để trên bàn; bàn lại kê bên lò sưởi. Trong lò củi cháy khá đượm.
Người ta
có thể dễ dàng hình dung được hai bà phụ nữ, bà nào tuổi cũng ngoại sáu mươi.
Bà Magơloa thì thấp người, đẫy đà, lanh lẹ; cô Baptistin thì dịu dàng, dáng gầy
và lêu khêu, so với ông anh có cao hơn một tí; cái áo lụa bà mặc màu nâu thẫm,
bà giữ mãi đến bây giờ là sắm ở Paris từ hồi 1806, lúc ấy màu đó rất được mọi
người hâm chuộng. Nếu mượn cách nói thông tục, nó có cái hay là một chữ có thể
diễn đạt được một ý mà có khi cả một trang văn chương cũng chưa chắc đã nói đầy
đủ bằng, thì bà Magơloa có vẻ là một bà nhà quê, còn cô Baptistin thì ra dáng
một phu nhân. Bà Magơloa thì trên đầu đội cái mũ vải trắng, chung quanh cuộn
tròn thành ống, cổ đeo một cây thánh giá nhỏ bằng vàng, thứ nữ trang duy nhất
trong nhà. Cái khăn quàng của bà thật trắng lòi ra ngoài cái áo dài đen, tay
ngắn và rộng, bằng len thô. Cái tạp dề bằng vải kẻ ô xanh đỏ, buộc ngang hông
bằng các dải màu lục. Trước bụng thêm miếng vải gấp ngược lên thành túi cài hai
kim băng ở hai góc trên. Chân đi giày rộng với bít tất vàng như phụ nữ Macxây.
Chiếc áo dài của cô Baptistin cắt theo mẫu 1806, cở ngắn, thân hẹp, tay bồng,
có dải buộc và đính cúc. Mớ tóc lốm đốm bạc, bà thu vào trong một bộ tóc giả
uốn theo kiểu thiếu niên. Bà Magơloa có vẻ thông minh, lanh lợi, tốt bụng; hai
khóe miệng không cân nhau; môi trên dày hơn môi dưới, trông ở bà có cái gì cộc
cằn và độc đoán. Ông giám mục mà còn làm thinh thì bà nói năng mạnh dạn với
thái độ vừa kính nể và tự do; nhưng hễ Đức Cha lên tiếng, thì, điều này mọi
người đã biết, bà phục tòng ngoan ngoãn cũng như cô Baptistin vậy. Cô này thì
lại như không nói năng gì. Cô chỉ vâng lời và làm theo cho ông anh vui lòng.
Ngay hồi còn trẻ, người cô cũng không xinh, đôi mắt to xanh, hơi lồi, sống mũi
dài và gù; có điều khuôn mặt cũng như cả con người, như chúng tôi đã nói ở đầu
sách này, đều toát lên một vẻ hiền từ vô hạn. Cô vốn sinh ra để làm con người
hiền đức; nhưng đức tin, tình bác ái, lòng hy vọng, ba đức ấy lại nhẹ nhàng
sưởi ấm tâm hồn làm cho trái tim hiền đức kia lại dần dần nâng lên thành thánh
đức. Tạo vật chỉ đúc cô làm một con cừu, tôn giáo đã biến cô thành một thiên
thần. Tội nghiệp người con gái thánh đức! Một hình ảnh êm dịu đã mất!
Không
biết bao nhiêu lần cô Baptistin đã kể lại việc xảy ra trong dinh giám mục buổi
tối hôm ấy, cho nên nhiều người hiện nay còn sống hãy còn nhớ rõ các chi tiết.
Khi ông
giám mục bước vào, bà Magơloa đang chuyện trò có vẻ hăng lắm. Bà nói với cô
Baptistin câu chuyện bà đã thuộc lòng và ông giám mục nghe cũng đã quen tai,
câu chuyện cái then chỗ cửa ra vào.
Nghe đâu
lúc chiều đi mua thức ăn, bà đã nghe thấy chỗ nào cũng xì xào nhiều chuyện lắm.
Nào chuyện có một tên trộm hình dạng kỳ dị, một tên du đãng khả nghi vừa xuất
hiện, đang còn lẩn lút trong các phố, đêm nay ai mà về khuya chắc sẽ gặp những
chuyện chẳng lành. Nào chuyện tuần phòng bị bỏ bê, lơ là vì ông tỉnh trưởng và
ông thị trưởng không ưa nhau, cố tìm cách làm xảy ra việc nọ việc kia để hại
nhau. Ai khôn hồn thì tự liệu mà giữ lấy thân, giữ lấy của, nhà cửa phải liệu
mà rào trước chặn sau, đóng then cài chốt cho thật kỹ.
Bà cố ý
nhấn mạnh mấy tiếng sau cùng. Song ông giám mục vừa ở phòng bên sang, đang rét,
nên đến thẳng chỗ lò sưởi ngồi sưởi rồi nghĩ vơ vẩn đến chuyện khác. Ông không
có hưởng ứng gì về câu nói bóng gió của bà, khiến bà ta phải lặp lại. Cô
Baptistin muốn chiều ý bà mà không làm phiền ông anh, nên đánh bạo hỏi khẽ:
- Thưa
anh, anh có nghe bà Magơloa vừa nói gì đó không?
Ông giám
mục đáp:
- Có,
tôi có nghe loáng thoáng.
Ông quay
ghế lại, để hai tay lên đầu gối, ngẩng nhìn bà ở già. Ánh lửa từ dưới chiếu lên
khuôn mặt dịu dàng và vui vẻ:
- Nào,
có chuyện gì thế? Đang có chuyện gì nguy hiểm lắm phải không?
Bà
Magơloa lại kể lại đầu đuôi câu chuyện và vô tình thêm thắt ít nhiều. Nào là có
một tên cầu bơ cầu bất, một thằng khố dây, một tên ăn xin nguy hiểm, nó đã lọt
vào trong tỉnh. Nào nó đến xin trọ ở nhà hàng Laba nhưng người ta không chứa.
Nào lúc nhá nhem tối người còn thấy nó ở đại lộ Cátxăngđi đang rình mò trong
các phố. Một tên đầu trộm đuôi cướp mặt mày dễ sợ lắm.
Ông giám
mục nói:
- Thật
ư?
Thấy ông
giám mục đã chịu khó hỏi han, bà phấn khởi đoán chừng câu chuyện đã làm ông hơi
lo, nên đắc thắng nói tiếp:
- Vâng,
thưa Đức Cha, đúng thế. Đêm nay trong tỉnh thế nào cũng có chuyện chẳng lành.
Ai cũng bảo thế cả. Đã vậy, việc tuần phòng lại lơ là thế nào ấy (câu nhắc cần
thiết)! Ai lại ở xứ rừng núi thế này mà đêm hôm phố xá chẳng có đèn đóm gì cả!
Bước ra khỏi nhà thì cứ như là chui vào hũ nút. Thưa Đức Cha, có cô Baptistin
đấy, cô cũng đồng ý với con là...
Cô này
vội ngắt lòi:
- Không,
tôi có nói gì đâu. Anh tôi làm thế nào cũng phải cả.
Bà
Magơloa làm như không có lời chối cãi ấy, cứ tiếp:
- Chúng
tôi bàn với nhau là cái nhà này cửa ngõ không chắc chắn gì cả. Đức Cha cho phép
thì con đến lão thợ khóa Pôlanh Muyzơboa bảo lão ta đến tra ngay bộ then cũ vào
cửa; hãy còn đủ cả đấy, chỉ một chốc là xong. Thưa Đức Cha, thế nào cũng phải
có then, dù là chỉ một đêm nay thôi. Chứ cửa gì mà lại ở bên ngoài kéo cái cựa
gà là mở ngay, ai muốn mở lúc nào cũng được, đến là khiếp. Đã thế Đức Cha lại
quen tính hễ nghe gõ cửa là bảo cứ vào, nửa đêm gà gáy cũng chẳng cần xin phép
xin tắc gì cả, thực chẳng còn trời đất nào nữa...
Giữa lúc
ấy có một tiếng đập cửa khá mạnh. Ông giám mục bảo:
- Cứ
vào.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 2
Chương 3
DŨNG CẢM NHẮM MẮT VÂNG LỜI
Cửa mở
ra.
Cửa mở
toang thật mạnh như có người đẩy thốc vào một cách quả quyết.
Một
người bước vào.
Người
ấy, chúng ta biết là ai rồi. Chính là người khách bộ hành lang thang tìm chỗ
trọ ban nãy.
Hắn bước
vào một bước rồi dừng lại, cứ để cửa mở toang ở đàng sau. Hắn đeo ba lô trên
vai, tay cầm gậy mắt đầy vẻ thô lỗ, táo tợn, mệt nhọc và phũ phàng. Ánh lửa
trong lò sưởi rọi vào hắn. Trông hắn thật gớm chết. Chẳng khác gì ma quỉ hiện
hình.
Bà
Magơloa giật nẩy mình, sợ hết vía, bủn rủn cả người, chỉ đứng há hốc mồm không
kêu nổi tiếng nào.
Cô
Baptistin quay ra thấy người lạ mặt vào thì hoảng hốt nhổm người lên, nhưng dần
dần ngoảnh mặt về phía lò sưởi, nhìn kỹ ông anh, nét mặt cô trở lại bình tĩnh
và trong sáng.
Ông giám
mục bình tĩnh nhìn khách.
Ông vừa
định cất tiếng hỏi khách muốn gì thì người lạ mặt chống cả hai tay lên đầu gậy,
đưa mắt nhìn hết ông già đến hai người đàn bà và không chờ ông hỏi, lớn tiếng
nói:
- Thế
này này, tôi tên là Giăng VanGiăng, tù khổ sai. Tôi đã ở mười chín năm trong
nhà lao. Tôi được thả bốn hôm nay và bây giờ tôi đương đi về Pôngtácliê. Bốn
ngày nay tôi đi bộ từ Tulông về đây. Ngày hôm nay đi những mười hai dặm. Lúc
chập tối đến đây, tôi vào một hàng cơm, họ đã đuổi tôi vì tấm thông hành màu
vàng tôi đưa trình ở thị xã. Không đưa trình sao được! Tôi lại đến một quán
khác, chỗ nào họ cũng bảo: “Cút đi”. Chẳng ai muốn chứa tôi cả. Tôi đến đằng
chỗ nhà giam người gác không chịu mở cửa. Tôi chui vào một cái ổ chó, chó cũng
cắn tôi và đuổi tôi y như người vậy, ý chừng nó cũng biết tôi là người như thế
nào. Tôi bỏ ra ngoài đồng định tìm chỗ ngủ dưới ánh sao trời. Trời lại tối đen,
không có sao. Tôi sợ mưa. Có Đức Chúa nào tốt để ngăn khỏi mưa đâu, nên tôi lại
trở vào tỉnh tìm một xó cửa. Đến quảng trường, tôi đã định ngủ trên ghế đá thì
có một bà già phúc đức trỏ nhà ông và bảo: “Cứ gõ cửa mà vào”. Thế là tôi gõ
cửa. Đây là đâu? Có phải là một quán trọ không? Tôi có tiền. Tiền lưu công đấy.
Một trăm linh chín phơrăng mười lăm xu tiền công của tôi làm trong mười chín
năm ở tù. Tôi sẽ trả tiền. Có hề gì đâu! Tôi có tiền mà. Cuốc bộ những mười hai
dặm, bây giờ tôi mệt quá rồi và đói lắm. Ông có cho tôi ở lại đây không?
- Bà
Magơloa, dọn thêm một người ăn nữa.
Người lạ
mặt bước tới gần cây đèn để trên bàn. Hình như hắn chưa hiểu ra sao cả nên nói
tiếp:
- Này,
không phải thế. Ông đã nghe rõ chưa? Tôi là một thằng tù khổ sai, một thằng
trọng phạm vừa đi đày về.
Hắn rút
trong túi một tờ giấy vàng rộng khổ, mở ra:
- Đây,
giấy thông hành của tôi đây, ông xem, màu vàng đấy. Cũng vì nó mà ở đâu người
ta cũng xua đuổi tôi. Ông có muốn đọc không? Tôi cũng biết đọc đấy. Học ở trong
tù mà. Họ có mở lớp cho ai muốn học thì học. Đây này, người ta ghi vào giấy
thông hành như thế này: “Giăng VanGiăng, tù khổ sai được mãn hạn, sinh tại... –
cái này ông chẳng cần biết làm gì... – đi đày mười chín năm. Năm năm vì tội ăn
trộm có trèo tường bẻ khóa. Mười bốn năm vì tội toan vượt ngục bốn lần. Tên này
rất nguy hiểm”. Đấy, ai cũng tống cổ tôi ra ngoài. Còn ông, ông có chịu chứa
không? Đây có phải là quán trọ không? Ông có cho tôi ăn và ngủ lại không? Có
cái chuồng ngựa nào không?
Ông giám
mục lại gọi:
- Bà
Magơloa, lấy tấm khăn trắng trải lên giường khách.
Bà
Magơloa vâng lời bước ra. Cách hai bà già trong nhà này vâng lời ông giám mục
như thế nào, chúng tôi đã trình bày rồi. Ông giám mục lại quay sang phía khách:
- Kìa
ông, ngồi xuống đây mà sưởi cho ấm. Một lát nữa chúng ta sẽ ăn cơm. Trong khi
ăn sẽ có người dọn giường để ông nghỉ.
Đến đây
khách mới thật hiểu. Nét mặt hắn từ nãy đến giờ tối sầm và khắc khổ bỗng lộ vẻ
kinh ngạc, vui sướng, nghi ngại và trở nên kỳ lạ. Hắn lắp bắp như một người
điên:
- Thật
thế ư? Ông chứa tôi à? À, ông không duổi tôi, một tên tù khổ sai! Mà ông lại
gọi tôi bằng ông! Chứ không gọi thằng nọ thằng kía. Chả bù với thiên hạ, họ chỉ
quát: “Đồ chó, xéo ngay!” Ban nãy tôi cũng tưởng rồi ông sẽ đuổi tôi nên tôi
phải nói ngay tôi là ai cho ông biết. Chao ôi! May làm sao mà lại gặp cái bà
quí hóa, bà chỉ cho tôi vào đây! Tôi có cơm ăn! Lại có giường nắm! Cả chăn đệm
nữa! Như tất cả mọi người! Nhưng mười chín năm nay, tôi có hề được nàm giường
bao giờ đâu! Hóa ra thật tình ông bằng lòng cho tôi ở lại đây. Các ông bà phúc
đức quá. Vả lại, tôi có tiền cơ mà. Tôi xin trả sòng phẳng cả. Ông bỏ lỗi cho,
tên ông là gì nhỉ, ông chủ quán? Ông tính bao nhiêu tôi cũng trả. Ông tử tế lắm
mà. Ông là chủ quán có phải không?
Ông giám
mục nói:
- Tôi là
một nhà tu hành, nhà ở đây.
- Một
nhà tu hành! Ồ, một nhà tu hành phúc đức! Thế thì ông không bắt tôi trả tiền à?
Té ra ông là cha xứ phải không? Cha xứ ở cái nhà thờ to lớn này? Ừ mà thật,
ngốc quá, tôi lại không trông thấy cái mũ ni của ông chứ!
Vừa nói
hắn vừa xách ba lô và cây gậy để vào một góc nhà, cất giấy thông hành vào túi,
rồi lại ghế ngồi. Cô Baptistin hiền từ nhìn hắn. Hắn nói tiếp:
- Cụ xứ
ạ, cụ nhân đức thật. Cụ không khinh người. Một nhà tu hành nhân đức kể cũng quí
thật. Thế thì cụ không cần tôi trả tiền à?
- Không,
ông cứ giữ lấy. Ông có bao nhiêu nhỉ? Lúc này ông bảo có một trăm linh chín
phơrăng phải không?
- Với
mười lăm xu nữa.
- Một
trăm linh chín phơrăng mười lăm xu. Thế ông làm lụng bao lâu mới kiếm được số
tiền ấy?
- Mười
chín năm.
- Mười
chín năm?
Ông giám
mục thở dài não nuột. Khách lại nói:
- Số bạc
ấy tôi vẫn giữ nguyên chưa đụng tới. Bốn hôm nay tôi mới tiêu hết có hai mươi
lăm xu, lại là tiền công tôi dỡ hộ mấy xe hàng ở Gơrat. Cụ là nhà tu hành thì
tôi cũng xin nói là ở trong tù chúng tôi cũng có một cha tuyên úy. Một bận tôi
còn được trông thấy một ông giám mục nữa. Ai nấy đều gọi là Đức Cha. Ông giám
mục ấy ở nhà thờ Majo ở Macxây. Chừng ông ta là cụ xứ ở trên tất cả các cụ xứ
thì phải. Cụ bỏ lỗi cho, tôi không biết nói thế nào cho rõ, nhưng đối với tôi,
ông ấy xa xôi quá! Bận ấy ông ta đến làm lễ ở giữa trại giam... ông ta đội một
cái gì hình nhọn bằng vàng. Ban trưa trời nắng, trông nó nhấp nha nhấp nhánh.
Chúng tôi xếp thành hàng đứng ra ba bên. Một lô súng thần công, mồi đốt sẵn,
chĩa vào trước mặt. Chúng tôi chẳng nhìn rõ. Ông ta có nói chuyện, nhưng lại
đứng tít tận trong cùng, chẳng nghe thấy gì cả. Đấy, ông giám mục như thế đấy.
Trong
khi khách nói, ông giám mục ra khép cửa từ nãy vẫn mở toang. Bà Magơloa vào,
mang theo một bộ thìa nĩa bày ra bàn.
Ông giám
mục dặn:
- Bà xếp
cho ông khách ngồi gần lò sưởi nhé, càng gần càng tốt.
Ông quay
sang phía khách:
- Ở vùng
núi Anpơ này, ban đêm, gió buốt tợn. Ông hẳn là rét lắm nhỉ?
Một lần
ông giám mục gọi đến tiếng ông, giọng nói ôn tồn, trang trọng và rõ là thân
mật, gương mặt khách lại rạng rỡ hẳn lên. Một thằng tù mà được gọi bằng ông,
khác nào người đắm tàu sắp chết khát trên cái bè lênh đênh giữa biển được người
ta cho uống nước ngọt? Kẻ bị ô nhục thường khát khao được trân trọng là thế.
Ông giám
mục nói:
- Cái
đèn này không được sáng lắm.
Bà
Magơloa hiểu ý. Bà sang buồng ngủ ông giám mục, lấy đôi cây đèn bằng bạc ở trên
lò sưởi thắp lên và đem đặt lên bàn.
Khách
nói:
- Thưa
cụ xứ, cụ tốt quá. Cụ không khinh tôi. Cụ lại tiếp đón tôi như khách. Cụ lại
sai đốt bạch lạp cho tôi được sáng. Mặc dầu tôi đã nói thật với cụ tôi ở đâu
đến và tôi là một kẻ khốn cùng như thế nào.
Ông giám
mục ngồi bên se sẽ chạm tay khách:
- Ban
nãy, ông không cần xưng danh cho tôi biết ông là ai cũng được. Đây không phải
nhà của tôi, mà là nhà của Chúa Giêsu. Cửa nhà này không hỏi khách vào nhà có
tên không, mà chỉ hỏi có nỗi đau khổ gì không. Ông là người đang đau khổ; ông
lại đang đói khát; thì mời ông cứ vào. Xin đừng nói đến ơn với huệ, đừng nói
rằng tôi tiếp ông ở nhà tôi. Chẳng ai có quyền coi nơi này là nhà riêng của
mình, trừ những người đang cần chỗ trú. Ông khách qua đương, tôi nói rõ như
vậy, nhà này là của ông hơn là của tôi. Tất cả cái gì trong nhà này bây giờ là
của ông cả. Như thế, có cần gì tôi phải biết họ tên ông? Vả lại, trước khi ông
xưng danh, tôi đã biết tên ông sẵn rồi.
Khách
giương mắt nhìn, ngạc nhiên:
- Thật
à? Cụ biết tên tôi là gì trước rồi ư?
- Vâng,
ông tên là người anh em của tôi.
Hắn kêu
lên:
- Này,
cụ xứ! Lạ quá, lúc mới vào thì tôi đói thế, mà thấy cụ tốt quá, bây giờ tôi
không biết tôi ra làm sao nữa, hết cả đói, cụ ạ.
Ông giám
mục nhìn khách, hỏi:
- Ông đã
từng chịu đau khổ nhiều phải không?
- Chao
ôi! Áo tù nhân màu đỏ, đeo tạ ở chân, một tấm ván làm giường, rồi nóng bức, rét
mướt, lao công khổ dịch, roi vọt! Hơi một tí là xích cả hai chân. Lỡ một tiếng
là ngục tối. Ốm liệt giường cũng xích cùng cùm. Nghĩ kiếp con chó, con chó còn
sướng hơn. Mười chín năm trời! Bốn mươi sáu tuổi rồi. Đến giờ lại phải đeo cái
giấy thông hành vàng! Cái kiếp của tôi nó thế đấy.
- Vâng.
Ông vừa ở một chốn sầu khổ ra. Tôi nói ông nghe. Trên trời sẽ dành cho gương
mặt đẫm lệ của một người hối lỗi nhiều hạnh phúc hơn cho chiếc áo trắng tinh
của hàng trăm người chính trực đó ông ạ. Nếu ông từ nơi đau khổ ấy bước ra với
những tư tưởng hằn thù và căm giận đối với người đời, ông là một người đáng
thương; nhưng nếu ông từ đó ra với những tư tưởng độ lượng và hiền hòa, thì
chúng tôi không ai bằng ông được.
Lúc ấy,
bà Magơloa bưng thức ăn lên. Một món xúp nấu với dầu, bánh mì và muối, mấy lát
mỡ, một miếng thịt cừu, mấy quả vả, một miếng pho mát tươi và một cái bánh mì
lớn. Bà còn tự ý thêm vào bữa ăn thường nhật ấy một chai rượu vang cũ xứ Môvơ.
Nét mặt
ông giám mục bỗng dưng tươi vui hẳn lên, cái tươi vui riêng của những người
hiếu khách. Ông nói to:
- Nào,
ta ăn đi!
Theo
thường lệ, những khi nhà có khách ăn cơm, ông mời khách ngồi ở phía bên phải
mình. Cô Baptistin điềm tĩnh và tự nhiên, ngồi sang phía bên trái. Ông đọc
kinh, rồi vẫn như mọi ngày, đích thân múc xúp ra. Khách bắt đầu ăn ngốn ngấu.
Bỗng ông
giám mục bảo:
- Chừng
như trên bàn này còn thiếu một thứ gì.
Thì ra
bà Magơloa chỉ bày có ba bộ thìa nĩa bạc vừa đủ cho ba người thôi. Song lệ nhà
xưa này hễ có mời khách, thì phải bày cả sáu bộ, kể cũng là một cách phô trương
vô tội. Trong cái gia đình êm ả và nghiêm nghị mà mọi người coi sự thanh bạch
như là danh giá này, chút phù hoa ấy vẫn có gì ngây thơ, đáng mến thật.
Bà
Magơloa hiểu ngay câu trách ấy, lẳng lặng quay ra và mấy phút sau thì ba bộ
thìa nĩa còn lại, mà ông giám mục hỏi, đã được bày sáng trưng trên bàn, đối
diện với ba người ngồi ăn.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 2
Chương 4
CHI TIẾT VỀ NHỮNG XƯỞNG PHO MÁT Ở PÔNGTÁCLIÊ
Đến đây
chúng tôi xin sao lục một đoạn trong bức thư của cô Baptistin gửi cho một bà
bạn kể lại tỉ mỉ mà hơi ngây ngô câu chuyện giữa ông giám mục và người tù khổ
sai, để hình dung quang cảnh bữa ăn tối hôm ấy:
“...Người
ấy không chú ý đến ai cả. Anh ta ăn ngốn ngấu như người sắp chết đói. Tuy thế
dùng xong món xúp, anh ta nói:
- Cụ xứ
của Đức Chúa lành ạ, các món ăn này đối với tôi đã là quá ngon, nhưng thật tình
thì cái bọn phu xe tải ban nãy không muốn cho tôi cùng ăn, bọn ấy họ còn ăn
sướng hơn cụ nhiều.
Chỗ chị
em tôi nói riêng với bà là câu nói đó, tôi thấy có hơi trái tai. Anh tôi trả
lời:
- Họ làm
ăn vất vả hơn tôi.
Khách
đáp:
- Họ có
nhiều tiền hơn. Cụ thì nghèo, tôi thấy rõ. Có lẽ cụ chưa đến chức cha xứ. Cụ đã
được đến chức cha xứ chưa? Ồ, sao lại vô lý thế nhỉ! Chúa mà công minh thì cụ
phải lên cha xứ rồi mới phải.
Anh tôi
đáp:
- Chúa
còn hơn là công minh đấy, ông ạ.
Một lúc
sau, anh tôi lại thêm:
- Ông
Giăng VanGiăng, ông đi Pôngtácliê phải không?
- Vâng,
hành trình, họ lại định trước cho nữa đấy.
Tôi nhớ
hình như anh ta nói thế. Rồi anh ta lại tiếp:
- Mai,
tang tảng sáng tôi lại phải đi ngay. Đi đường lúc này vất vả lắm. Đêm lạnh mà
ngày thì nóng bức.
Anh tôi
nói:
- Vùng
ông đi về là một vùng dễ sống đấy. Hồi Cách mạng, gia đình tôi sa sút, lúc đầu
tôi có lánh sang Phơrăng Côngtê và sống bằng lao động chân tay ở đấy ít lâu.
Tôi có chí. Tôi tìm được việc làm. Kể ra thì tha hồ mà chọn. Ở đấy, nào là nhà
máy giấy, nhà máy thuộc da, nhà máy rượu, nhà máy dầu, xưởng chế tạo đồng hồ
hàng loạt, xưởng nấu thép, đúc đồng, ít nhất là hai mươi nhà máy luyện sắt và
bốn nhà ở Lốt, Satiông, Ôđanhcua và Bơ thì thật là đồ sộ...
Có lẽ
tôi không nhớ sai đâu, anh tôi đã kể đến tên tất cả các xứ đó rồi ngừng lại hỏi
tôi:
- Này
cô, ta có ai là bà con xứ ấy không nhỉ?
Tôi đáp:
- Trước
kia có đấy, như ông Luyxơnê chỉ huy đạo quan phòng thành ở Pôngtácliê hồi chế
độ cũ.
Anh tôi
nói:
- Phải,
nhưng hồi năm 93 thì chẳng còn thân thích nào nữa, mình chỉ còn cậy vào sức mình.
Tôi đã ra sức làm việc. Ông Giăng VanGiăng này, ở xứ Pôngtácliê mà ông sắp đến,
có một nghề gia truyền thật là dễ ưa, cô nhỉ! Cái nghề làm pho mát ấy mà – Anh
tôi vừa tiếp cơm khách, vừa cắt nghĩa cho nghe tỉ mỉ về những xưởng làm pho mát
ở Pôngtácliê. Có những hai loại: những hai loại: những xưởng to của nhà giàu,
nuôi đến bốn năm mươi bò sữa, sản xuất ra mỗi vụ hè từ bảy đến tám nghìn bánh
pho mát; những xưởng hợp tác thì thuộc người nghèo. Nông dân nghèo ở lưng chừng
núi đem bò nuôi chung rồi chia nhau sản phẩm. Họ chung nhau thuê một người làm
thợ pho mát. Người này thu sữa của các xã viên một ngày ba lần và đánh dấu số
lượng trên một miếng gỗ, vào cuối tháng tư thì các xưởng làm pho mát bắt đầu
hoạt động, đến giữa tháng sáu thì những người thợ pho mát lại đánh bò lên núi.
Ăn vào,
nét mặt khách dần dần tươi tỉnh lại. Anh tôi cứ rót rượu mời khách, thứ rượu
vang cũ xứ Môvơ ấy, chứ riêng mình thì không nếm đến, cho là thứ rượu đắt tiền.
Anh tôi nói chuyện vui vẻ, lưu loát như bà đã từng biết, đem kể mọi chi tiết
cho khách nghe, thỉnh thoảng lại quay nhìn tôi một cách thân mến. Anh tôi nhắc
đi nhắc lại chuyện làm pho mát như có ý mong để khách hiểu, chứ không lấy lời
trực tiếp và cứng cỏi khuyên anh ta rằng đó là nơi có thể dung thân được. Có
một điều làm tôi ngạc nhiên. Người khách ấy là người thế nào thì tôi đã nói với
bà rồi. Thế mà trong suốt bữa cơm suốt cả buổi tối, ngoài mấy câu về Chúa Giêsu
lúc khách mới vào, anh tôi không hề có một lời nhắc khách nhớ lại khách là
người như thế nào và nói rõ cho khách nhớ lại khách biết, anh tôi là ai. Bà
tính, rõ ràng đó là cơ hội để giảng một chút về đạo lý và lấy đức độ ông giám
mục ấn mạnh lên tâm hồn anh tù để anh ta ghi nhớ mãi buổi gặp gỡ này. Một người
khác gặp được kẻ khốn khổ như thế, tất đã vừa cho thần xác ăn uống no nê lại
vừa cho phần hồn được nghe những lời phê bình, có mùi vị khuyên bảo, răn dạy,
hoặc những lời thông cảm thương hại kèm theo mấy câu khuyến khích người ta sửa
chữa về sau. Anh tôi thì không hề hỏi một câu về quê quán, lai lịch của khách.
Vì trong lai lịch ấy tất nhiên có tội lỗi đã qua, cho nên hình như anh tôi có ý
tránh không muốn nhắc cho khách nhớ đến. Thậm chí, khi nói chuyện về người miền
núi Pôngtácliê họ làm ăn thoải mái ở những vùng cao gần trời và họ rất sung
sướng vì tâm hồn họ trong trắng, anh tôi bỗng ngừng bặt, sợ câu nói lỡ lời đó
có điều gì làm phật lòng khách chăng. Nghĩ kỹ ra, tôi mới đoán được bụng anh
tôi. Ý hẳn anh tôi thấy rằng con người ấy – anh ta tên Giăng VanGiăng – tâm trí
lúc nào cũng nghĩ ngợi đến nỗi khốn khổ của mình rồi, tốt hơn hết là làm cho
người ta khuây khỏa và làm cho người ta tin tưởng, dù chỉ trong chốc lát, rằng
người ta cũng là một con người như mọi người khác vì thấy mình đối xử với người
ta cũng tự nhiên như đối với mọi người. Có phải như thế là hiểu đúng nghĩa chữ
thương người không nhỉ? Có phải cách anh tôi giữ gìn ý tứ tuyệt nhiên không nói
gì đến đạo lý, nhân nghĩa, không nói gì xa xôi bóng gió cả, cách ấy có cái gì
thật là tế nhị, thật là từ bi không bà chị? Có phải cách thương người thắm thiết
nhất khi đứng trước một người đau khổ là đừng đả động gì đến điều đau khổ ấy
phải không? Theo tôi, hình như thâm ý của anh tôi hôm ấy là thế. Dù sao, tôi
chỉ thấy một điều rất rõ là dù anh tôi có nghĩ như vậy đi chăng nữa, anh tôi
cũng chẳng hề tỏ ra cho ai biết cả, với tôi cũng thế. Suốt buổi tối hôm ấy anh
tôi vẫn một thái độ như thường ngày, ngồi ăn với cái anh Giăng VanGiăng ấy vẫn
niềm nở, thận trọng như ngồi ăn với ông Lơ Prêvô hay cụ xứ bản hạt vậy.
Lúc gần
xong bữa, ăn đến món vả thì có người gõ cửa. Mụ Giécbô ẵm đứa con nhỏ vào. Anh
tôi hôn vào trán đứa bé, hỏi vay tôi mười lăm xu đưa cho mụ. Lúc ấy, khách
không hề để ý gì hết, chẳng nói chẳng rằng, ra dáng mệt mỏi lắm. Mụ Giécbô ra
rồi, anh tôi đọc kinh cầu nguyện rồi quay bảo khách: “Chắc ông cần nghỉ lắm
rồi!” Bà Magơloa thu dọn bàn thật nhanh. Tôi biểu là phải cáo lui để khách đi
nghỉ nên bà Magơloa và tôi đều lên gác ngay. Sau đó, tôi sai bà Magơloa đem
xuống cho khách một tấm chăn da hươu vẫn để trong phòng tôi, vì tháng ấy đêm
lạnh lắm. Đắp nó mới đủ ấm. Chỉ hơi phiền một tí là cái chăn đã cũ, sờn hết cả
lông. Anh tôi mua từ hồi còn ở Tôtlingien, gần nguồn sông Đanuyp, bên nước Đức
ấy, một lần với con dao cán ngà tôi vẫn thường dùng.
Bà
Magơloa xuống một chốc rồi trở lên ngay; chúng tôi cùng cầu nguyện ở chỗ căn
phòng thường phơi quần áo, rồi ai về phòng nấy không trò chuyện gì với nhau
cả”.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 2
Chương 5
TĨNH MỊCH
Ông
Mirien chúc cô em ngon giấc xong, cầm một cây đèn bạc trên bàn lên, đưa cây kia
cho khách và nói:
- Nào,
tôi xin đưa ông về phòng.
Khách
bước theo.
Như đã
nói ở đoạn trên, ta biết rằng theo cách bố trí trong nhà ấy, hễ muốn đi vào
phòng nguyện trong đó có ngăn kê giường khách hay muốn từ đó ra ngoài là phải
qua buồng ngủ ông giám mục.
Giữa lúc
hai người đi qua chỗ phòng ngủ ấy, bà Magơloa đang xếp cất bộ đồ bạc vào ô ở
chỗ đầu giường. Bữa nào, trước khi đi ngủ, bà cũng nhớ làm công việc thu dọn
cuối cùng ấy.
Ông giám
mục đưa khách vào tận chỗ ngủ. Ở đây giường đã trải khăn trắng tinh. Khách đặt
cây đèn xuống chiếc bàn con. Ông giám mục bảo:
- Thôi,
chúc ông ngủ cho ngon giấc. Sáng mai, trước khi lên đường, mời ông xơi một cốc
sữa thật nóng, bò nhà nuôi.
- Cám ơn
cha.
Vừa nói
xong câu nói hòa bình ấy, đột nhiên hắn thay đổi một cách lạ lùng, không ngờ
được. Giá bây giờ có hai bà già hiền lành ở đấy thì hai bà hẳn đến chết khiếp.
Cho đến nay chúng tôi khó mà hiểu cái gì đã khiến hắn như thế. Hắn muốn báo
trước hay là muốn đe dọa? Hay là hắn chỉ nghe theo một sức mạnh gì của bản năng
mà chính hắn cũng không sao hiểu được? Hắn quay phắt về phía ông già, khoanh
tay lại, giương đôi mắt dữ tợn nhìn trừng trừng vào mặt ông ta và cất giọng
khàn khàn:
- Ồ, như
thế này thật à? Để tôi ngủ trong nhà ở ngay cạnh ông thế này à?
Hắn
ngừng lại, cười một cách ghê tợn, rồi tiếp:
- Ông đã
nghĩ kỹ chưa? Ai bảo ông rằng tôi không phải là kẻ sát nhân?
Ông giám
mục ngước mắt lên trần nhà, đáp:
- Điều
ấy đã có Chúa lo.
Nói
đoạn, ông nghiêm trang giơ hai ngón tay bên phải lên làm phép ban phúc cho
khách, miệng lẩm bẩm như người cầu kinh hay tự nói với mình. Nhưng khách vẫn
đứng yên không cúi đầu. Xong, ông trở về phòng mình, không hề quay đầu nhìn
lại.
Mỗi khi
nhà chái có khách nghỉ, một tấm màn vải rộng ngăn đôi phòng nguyện che kín bàn
thờ. Qua trước tấm màn, ông giám mục quì xuống, đọc một đoạn kinh ngắn.
Một lúc
sau, ông ra vườn đi đi lại lại, vừa nghĩ vơ vẩn, vừa ngắm cảnh, tâm trí để cả
vào bao nhiêu vẻ lớn lao huyền diệu của trời đất bày ra dưới đất, bày ra dưới
mắt người thao thức lúc đêm khuya.
Còn
khách thì mỏi mệt quá đến nỗi chẳng nghĩ gì đến chăn đệm sạch sẽ, ấm áp nữa.
Hắn phồng mũi thổi đèn theo thói quen của tù khổ sai rồi cứ để nguyên quần áo
lăn vào giường ngủ như chết.
Ông giám
mục ở ngoài vườn bước về phòng mình thì đồng hồ gõ mười hai tiếng. Ít phút sau,
trong nhà ngủ im cả.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 2
Chương 6
GIĂNG VANGIĂNG
Vào
khoảng nửa đêm, Giăng VanGiăng thức giấc dậy.
Giăng
VanGiăng sinh ra ở một gia đình nông dân nghèo xứ Bri. Lúc nhỏ, anh ta chẳng
được học hành gì. Lớn lên anh làm nghề xén cây ở Phavơrôn. Mẹ anh là bà Gian
Machiơ, cha là ông Giăng VanGiăng hoặc là Vola Giăng, có lẽ do chung quanh gọi
đùa là Vola Giăng mà thành tên ấy. (Voila Joan có nghĩa là Giăng đấy)
Giăng
VanGiăng tính hay tư lự mà không buồn: chỉ những người giàu tình cảm mới như
thế. Nói đúng ra, nhìn bề ngoài thì thấy anh ta cũng lừ đừ và chẳng có gì xuất
sắc. Cha mẹ anh mất từ hồi anh còn nhỏ dại. Mẹ anh chết vì một cơn sốt xuống
sữa mà không biết cách thuốc thang. Cha anh trước cũng làm nghề xén cây, sẩy
chân nên thiệt mạng. Vangiăng chỉ còn một người chị góa chồng, trên tay bảy đứa
con dại, vừa trai vừa gái.
Bà chị
ấy đã nuôi Giăng và lúc sinh thời ông anh rể, Giăng vẫn ăn ở trong nhà chị. Lúc
anh rể chết. Lũ con, đứa lớn nhất mới lên tám, đứa út mới đầy năm. Giăng năm ấy
vừa đúng hai mươi lăm tuổi. Thế là Giăng thay anh rể đi làm giúp chị nuôi các
cháu. Rất là giản dị: anh coi đó là một bổn phận phải làm, nhưng vẫn càu nhàu
vì bản tính. Cả thời trai trẻ, anh làm quần quật suốt ngày mới tìm nổi cái ăn nên
chẳng nghe nói anh ta có nhân tình nhân ngãi gì, vì thời giờ đâu mà nghĩ đến
chuyện yêu đương.
Tối đến
đi làm về mệt nhoài, anh lẳng lặng ngồi ăn xúp. Bà chị thỉnh thoảng lại chọn
những miếng ngon trong đĩa anh, miếng thịt, lát mỡ, cái nõn cải, lấy đút cho
con. Còn anh, anh để tóc xõa cả ra quanh đĩa, che kín cả mặt, cứ cắm đầu ngồi
ăn, mặc kệ, làm như không thấy gì. Ở Phavơrôn, gần nhà Vangiăng, phía bên kia
đường đi, có nhà chị tá điền Mari Cơlốt. Lũ trẻ nhà Vangiăng ngày nào cũng ăn
đói. Đôi khi chúng chạy sang nhà chị ta, nói dối là mẹ sai sang vay ít sữa rồi
đem nhau lại chỗ sau hàng rào hoặc ở đầu ngõ, tranh giằng nhau húp vội húp vàng
làm sữa đổ cả ra quần áo. Bà Gian mà biết được thói vụng trộm ấy thì mỗi đứa
cũng được trân đòn. Giăng có nóng nảy, cau có, nhưng lại giấu chị, đến trả chỗ
tiền sữa cho chị Mari Cơlốt và như thế là các cháu khỏi phải đòn.
Về mùa
xén cây, anh kiếm được mỗi ngày hai mươi bốn xu. Hết mùa anh quay ra đi giặt
thuê làm mướn, chăn bò, khuân vác, gặp việc gì làm được thì làm. Phần bà chị
cũng cố gắng làm lụng, nhưng một nách bảy đứa con dại thì là được mấy nỗi? Cảnh
nhà thật thiểu não, quanh năm túng thiếu và mỗi ngày một nghèo ngặt thêm. Một
năm, trời làm rét quá, Giăng không có việc làm. Trong nhà không có lấy một mẩu
bánh. Đúng y như thế. Không một mẩu bánh mà những bảy đứa trẻ thơ.
Một buổi
tối chủ nhật, trong nhà lão Môbe Ydabô chủ hàng bánh mì trước nhà thờ Phavơrôn
đã dọn dẹp sắp đi ngủ. Chợt thấy có tiếng đập mạnh ở chỗ mặt ngoài cửa hàng có
chăng lưới thép và lắp kính. Lão chạy ra và kịp thấy một cánh tay thò qua chỗ
kính vỡ và dây thép đứt, đang vơ lấy một chiếc bánh và lôi ra ngoài. Lão vội
chạy ra: tên ăn trộm sải chân chạy trốn; lão đuổi theo và tóm được. Tên trộm đã
vứt bánh đi nhưng cánh tay có máu me đầm đìa. Thì ra chính là Giăng VanGiăng.
Việc ấy
xảy ra năm 1795. Giăng bị đưa ra tòa truy tố về tội “ăn trộm ban đêm có phá cửa
trong một nhà có người ở”. Anh lại có một khẩu súng săn và bắn rất giỏi, thỉnh
thoảng vẫn đi bắn trộm chim chóc trong rừng. Điều ấy làm hại anh thêm. Đối với
kẻ đi săn trộm chim muông, người ta vẫn có thành kiến là đúng, vì kẻ đi săn
trộm cũng như người buôn lậu thì không xa bọn kẻ cướp là mấy. Có điều nhân tiện
cũng nên nói rằng giữa hạng người này và bọn giết người cướp của đáng ghê tởm ở
thành thị vẫn khác nhau một trời một vực. Kẻ săn trộm chim sống trong rừng, tay
buôn hàng lậu sống ở trên núi hoặc dưới biển. Thành thị làm cho con người thối
tha, do đó trở nên độc ác. Còn núi rừng, biển cả thì có tạo ra những con người
man rợ, có phát triển phần hung dữ, nhưng không thủ tiêu phần nhân tính họ. Tòa
án tuyên bố Giăng VanGiăng có tôi. Luật lệ đã rành rành ra đấy, không có cách
gì khác. Trong xã hội văn minh của chúng ta có những giờ phút đáng sợ, là những
lúc luật pháp tuyên án đẩy người ta vào một cuộc trầm luân. Còn gì thê thảm
bằng cái phút giây mà xã hội lánh xa và dứt khoát vứt bỏ một con người biết suy
nghĩ! Giăng VanGiăng bị kết án năm năm khổ sai.
Ngày 22
tháng 4 năm 1796 người ta loan báo khắp Paris tin chiến thắng Môngtơnốt của đạo
quân đánh ở Ý. Thông điệp của Hội đồng đốc chính gửi cho viện Ngũ bách ngày 2
tháng hoa nở năm Cộng hòa thứ tư, gọi người tổng chỉ huy đạo quân ấy là
Buyônapác (Bấy giờ viện Ngũ bách- 500 đại biểu là viện lập pháp Hội đồng đốc
chính – 5 đốc chính, là cơ quan hành pháp tối cao; Tức tháng 5, theo lịch mới
của chế độ Cộng hòa). Cùng ngày ấy, ở nhà ngục Bixết người ta đã xích trong một
dây xích tù thật lớn, Giăng VanGiăng bị khóa vào dây xích đó. Một người lính
canh ngục cũ, năm nay đã gần chín mươi tuổi, còn nhớ như in con người đáng
thương ấy bị cùm vào cuối dây người thứ tư ở góc phía bắc sân nhà ngục. Anh ta
ngồi bệt xuống đất như mọi người khác. Chừng như anh ta cũng không hiểu tình
cảnh mình ra làm sao nữa, chỉ biết là kinh khủng quá. Trong ý nghĩ lờ mờ của con
người ù ù cạc cạc với tất cả mọi việc như anh, có lẽ anh cũng mang máng thấy
rằng trong việc đó có cái gì quá đáng.
Trong
khi người ta quai mạnh búa để tán chiếc đinh trên cái gông cổ phía sau gáy, anh
khóc lên, nghẹn ngào không nói nên lời, chốc chốc mới thốt được một câu: “Tôi
làm nghề xén cây ở Phavơrôn”. Rồi anh vừa nức nở và giơ tay lên, hạ xuống bảy
lần, mỗi lần mỗi hạ thấp hơn, trông như anh đang lần lượt sờ đầu bảy đứa trẻ
lớn nhỏ khác nhau. Trông cử chỉ ấy người ta đoán biết anh đã làm điều phi pháp
gì đó cũng là vì miếng cơm manh áo của bảy đứa bé con.
Anh bị
giải đi Tulông. Hai mươi bảy ngày ròng rã trên một chiếc xe bò, xiềng xích luôn
mang trên cổ. Đến Tulông, anh thay áo tù khổ sai. Cả quãng đời của anh trước
đây đều bị xóa mờ, xóa mờ cả tên tuổi; anh không còn là Giăng VanGiăng nữa, anh
là con số 24.601. Còn bà chị anh rồi ra sao? Bảy đứa bé rồi ra sao? Ai là người
chăm lo cho cái gia đình ấy? Cái cây non đã cưa mất gốc, nắm lá sẽ thế nào?
Thì ra
chuyện đời vẫn cứ thế. Những con người đáng thương ấy, những sinh linh của Chúa
ấy, từ đây không nơi nương tựa, không kẻ dìu dắt, không chỗ trú chân lang thang
trôi giạt, rồi biết đâu sẽ không mỗi người mỗi ngả, dần dần vào cái đám sương
mù lạnh lẽo đã chìm đắm bao nhiêu kiếp người cô đơn, cái cõi tối tăm thê lương
đã làm mất bóng bao nhiêu cuộc đời bất hạnh trong bước đường âm u của nhân
loại! Họ bỏ làng ra đi. Cái gác chuông ở nơi gọi là làng quê cũ quên họ đi. Cái
bờ ruộng ở nơi gọi là cánh đồng làng quên họ đi. Sau vài ba năm trong tù, ngay
cả Giăng VanGiăng cũng quên nốt họ đi. Vết thương trong lòng anh đã thành sẹo.
Thế là hết. Trong cả thời gian ở Tulông, chỉ có mỗi một lần anh được nghe tin
tức bà chị. Hình như là vào khỏang cuối năm thứ tư sau khi anh vào tù. Cũng
không rõ tin tức ấy đã đưa đến bằng cách nào. Chỉ biết có người trước kia có
quen anh ở quê nhà một lần có gặp bà chị. Bà ở Paris, trong một xóm nghèo gần
nhà thờ Xanh Xuynpit, phố Gianhđơrơ. Bà chỉ còn đem theo có mỗi một đứa con,
thằng con trai út. Còn sáu đứa kia hình như chính bà cũng không biết chúng ở
đâu nữa. Sáng sáng bà đến một xưởng in ở phố Xabô, nhà số 3, làm việc gấp giấy
và đóng sách. Mùa đông trời chưa sáng, sáu giờ đã phải có mặt. Trong xưởng có
một trường học. Đứa bé lên bảy, bà đem theo gửi học ở đấy. Có điều, sáu giờ bà
đã vào xưởng mà đến bảy giờ trường mới mở cửa, nên thằng bé phải chờ ngoài sân
ngót giờ đồng hồ, phải, ngót giờ đồng hồ ngoài trời mùa đông trong lúc còn tối
mịt. Người ta không muốn cho nó vào xưởng, bảo là làm vướng bận công việc. Thợ
thuyền sáng sớm qua đó, thấy thằng bé ngồi xổm ngoài hè, ngủ gà ngủ gật, có khi
thiếp đi trong xó tối, gập người trên chiếc giỏ mây. Gặp hôm trời mưa, bà cụ
gác cổng thương hại, nhặt nó vào trong túp lều của bà. Trong lều độc có một cái
phản, cái guồng quay sợi và hai cái ghế gỗ. Thằng bé ngủ lăn ra ở một xó nhà,
tay ôm con mèo cho đỡ rét. Đến bảy giờ trường mở cửa, nó mới vào học.
Người ta
nói với anh có bấy nhiêu. Nhưng lúc anh nghe mấy lời ấy, thì dường như trong
phút giây, trong chớp mắt, có cánh cửa sổ nào bỗng dưng đã mở toang cho anh
nhìn thoáng thấy cuộc đời của mấy người thân yêu, rồi sau đó lại khép lại, tối
tăm mù mịt. Từ đó anh chẳng còn nghe tin tức gì về những người thân yêu ấy nữa.
Mà cũng chẳng bao giờ anh thấy lại họ, chẳng bao giờ anh còn gặp họ. Ở những đoạn
tiếp theo của câu chuyện thương tâm này ta cũng không còn tìm thấy họ nữa.
Vào
khoảng cuối cái năm thứ tư ấy thì đến lượt Giăng VanGiăng vượt ngục. Ở chốn lao
tù sầu thảm này, bọn đồng cảnh vẫn thường giúp đỡ nhau việc đó. Anh trốn ra
được và lang thang hai ngày ngoài cánh đồng. Nếu tự do nghĩa là: sau lưng có
người truy nã, lúc nào cũng phải ngoái cổ nhìn lại, hơi có tiếng động là giật
mình thon thót, thấy cái gì cũng sợ, từ mái nhà tỏa khói, người đi qua đường,
tiếng chó sủa, tiếng ngựa phi, tiếng chuông đồng hồ, đến ban ngày vì ban ngày
người ta nom rõ, ban đêm vì ban đêm không trông thấy gì, đến con đường lớn, cái
lối mòn, đến bụi cây, giấc ngủ, cũng đều sợ tuốt thì hai ngày ấy anh ta được tự
do. Đến tối ngày thứ hai thì anh ta bị bắt lại, sau ba mươi sáu tiếng đồng hồ
chẳng ăn chẳng ngủ gì. Sau đó, tòa án thủy quân phạt thêm ba năm khổ sai. Năm
thứ sáu lại đến lượt anh được vượt ngục; anh nắm ngay cơ hội nhưng trốn không
trót lọt. Điểm danh thấy thiếu, người ta bắn phát súng đại bác báo hiệu và đến
đêm thì lính tuần tìm được anh trốn dưới chiếc vỏ tàu đang đóng dở. Lúc bị bắt
anh chống cự lại với lính coi ngục. Thế là cái tội vừa vượt ngục vừa kháng cự
kẻ thừa hành ấy, theo hình luật đặc biệt, phải xử giam thêm năm năm nữa trong
đó có hai năm phải đeo xiềng đôi. Cộng là mười ba năm. Đến năm thứ mười lại đến
lượt anh trốn nữa và anh cũng không bỏ lỡ cơ hội. Nhưng lần này cũng không may
gì hơn. Lại ba năm nữa, thành mười sáu năm. Sau cùng hình như đến năm thứ mười
ba, anh lại thử một lần chót nữa nhưng chỉ ra ngoài được bốn tiếng đồng hồ thì
bị bắt lại. Ba năm nữa với bốn tiếng đồng hồ ấy. Cả thảy mười chín năm. Anh vào
tù từ năm 1796 mà mãi đến tháng mười năm 1815, anh mới được thả ra. Như thế chỉ
vì anh đập một miếng kính và lấy một cái bánh mì.
Đến đây
cần mở một dấu ngoặc. Trông khi xét về hình luật và việc luật pháp đày đọa con
người, lần thứ hai tác giả lại gặp một vụ trộm bánh mì xuất phát điểm của một
kiếp trầm luân. Cơlốt Gơ đã lấy trộm một chiếc bánh. Giăng VanGiăng cũng lấy
trộm một chiếc bánh. Một thống kê tại Anh cho biết trong năm vụ trộm, có bốn vụ
trực tiếp do đói mà ra.
Lúc vào
tù Giăng VanGiăng run sợ, khóc lóc, đến khi ra, anh thành người thản nhiên, trơ
như đá. Lúc vào lòng anh tuyệt vọng, nay ra, lòng anh đen tối. Cái gì đã xảy ra
trong tâm hồn anh?
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 2
Chương 7
BÊN TRONG TUYỆT VỌNG
TA THỬ PHÂN TÍCH XEM
Xã hội
có nhiệm vụ phải thấy rõ những điều đó vì chính xã hội đã gây ra. Như chúng ta
đã biết, Giăng VanGiăng là một kẻ vô học, nhưng không phải là người ngu ngốc.
Trong con người anh vẫn có thứ ánh sáng của thiên bẩm. Đau khổ cũng có cái ánh
sáng của nó, làm cho tâm trí còn mơ hồ của anh được sáng sủa thêm lên. Trong
cuộc đời đày ải, khi roi vọt, xiềng xích, lúc nằm ngục, lao dịch, khi ở ngoài
nắng thiêu đốt, lúc nằm trên tấm phản của nhà tù khổ sai, anh thường tự hỏi
lương tâm và suy nghĩ.
Anh tự
coi mình như quan tòa.
Và anh
bắt đầu tự xét xử.
Anh công
nhận rằng anh không phải là một kẻ vô tội bị xử oan. Anh tự thú nhận đã trót
làm một việc cùng quẫn đáng chê trách. Anh mà ngửa tay xin chiếc bánh kia thì
chưa hẳn người ta không cho. Dù sao đi nữa, tốt hơn là phải dằn lòng mà chờ cho
bánh, hoặc do lao động mà có, hoặc con người ta thương hại mà cho, còn nói:
“đói ăn vụng túng làm càn” thì không phải là một lý sự cứng đến không bẻ lại
được. Bởi vì trước hết thực sự vì đói làm chết thì cũng hiếm có; sau nữa, về
bản chất con người ta lại có thể chịu đựng rất lâu và rất nhiều mọi thứ đau khổ
về tinh thần và thể chất mà không chết, cái ấy không biết là một cái may hay là
một cái rủi. Cho nên phải biết nhẫn nại. Nhẫn nại thì tốt hơn, tốt cho cả lũ
trẻ thơ kia nữa. Chứ dám đem sức vóc yếu ớt của mình mà hùng hổ tóm lấy cổ cả
một xã hội và tưởng rằng có thể thoát khỏi cảnh đói rét bằng trộm cắp, thì thật
là một hành động điên cuồng. Nói gì thì nói chứ cái cửa để ra khỏi đói rét mà
cũng dẫn vào ô nhục thì rõ là cái cửa tồi. Tóm lại, anh có sai lầm thật.
Rồi anh
tự hỏi: phải chăng chỉ có mình gây ra cho mình kiếp sống oan nghiệt này?
Trước
hết, một người lao động như anh mà phải thất nghiệp, một người siêng năng như
anh mà phải đói khát thì phải đó là một hiện tượng nghiêm trọng không? Sau nữa,
đã mắc lỗi lầm mà biết thú nhận, thì trừng trị như thế có độc ác và quá đáng
không? Có phải như thế là trong việc trừng phạt, luật pháp có đi quá trớn hơn
là kẻ phạm tội quá trớn khi lầm lỗi không? Có phải cán cân công lý đã quá
nghiêng về phía bắt đền tội không? Xử phạt nặng như thế có phải là để kẻ phạm
tội chuộc tội không? Hay là lại đưa đến kết quả đảo ngược vai trò, biến cái sai
lầm của kẻ phạm tội ra cái sai lầm của con người trấn áp, biến thủ phạm thành
nạn nhân, biến con nợ thành chủ nợ và cuối cùng đem công lý đặt về bên kẻ đã
xâm phạm vào công lý? Phải chăng hình phạt ấy, cái hình phạt liên tiếp gia nặng
thêm vì các lần toan vượt ngục, cuối cùng chỉ là một thứ ức hiếp của kẻ mạnh
đối với kẻ yếu, một tội ác của xã hội đối với cá nhân, một tội ác hàng ngày tái
diễn và kéo dài đến mười chín năm trời?
Anh tự
hỏi xã hội sao lại có quyền bắt con người phải chịu đựng, một mặt là cái thói
không phòng xa phi lý, một mặt là cái lối đề phòng quá tàn nhẫn của nó? Sao lại
có quyền ép một người xấu số vào cái thế hiểm, giữa một cái thiếu và một cái
thừa, thiếu việc làm và thừa hình phạt? Đối với những phần tử vì rủi ro mà chịu
thiệt thòi nhất trong sự phân phối của cải, đáng lẽ họ phải được chiếu cố nhất,
lại đối xử với họ như thế có phải là quá đáng không?
Các câu
hỏi ấy đặt ra và giải quyết xong, anh xét xử và lên án xã hội.
Xã hội
trở thành mối căm thù của anh.
Anh cho
xã hội phải chịu trách nhiệm về số phận anh đang chịu và định bụng một ngày kia
sẽ hỏi tội nó. Anh nhận định việc anh làm thiệt hại cho người ta chẳng bắc đồng
cân được với cái việc người ta làm thiệt hại cho anh. Và anh kết luận rằng, cái
án của anh, thật ra không phải là oan uổng nhưng rõ ràng là bất công.
Giận dữ
thì có thể mất trí và vô lý. Người ta có thể nổi nóng sai. Nhưng khi người ta
căm phẫn thì xét cho cùng người ta đã nắm lẽ phải ở chỗ nào đấy. Giăng VanGiăng
cảm thấy căm phẫn.
Vả lại,
xã hội chỉ làm hại. Luôn luôn anh thấy xã hội chỉ có một bộ mặt giận dữ là hình
án. Bộ mặt ấy nó luôn luôn giương ra cho những kẻ nó đem ra trừng trị! Còn mọi
người chung quanh thì họ động đến anh là chỉ để giày vò. Mỗi lần tiếp xúc với
họ là một vố đau đớn. Từ nhỏ đến giờ, anh chưa từng biết một lời nói thân mật,
một cái nhìn thương mến, kể cả đến của mẹ và chị trong nhà cũng thế. Hết đau
khổ này đến đau khổ khác, dần dần anh tin quyết rằng đời là một cuộc chiến
tranh và trong cuộc chiến tranh ấy, anh là kẻ chiến bại. Anh chỉ còn một thứ vũ
khí là lòng căm thù. Anh quyết chí mài giũa nó thật sắc trong tù để khi ra thì
đem theo.
Ở nhà tù
Tulông có một lớp học do một số tu sĩ mở để dạy những điều thường thức cho
trong tù ai có chí thì học. Anh cũng ở trong số người có chí ấy. Bốn mươi tuổi
anh mới vỡ lòng đi học, học đọc, học viết, học tính. Anh nghiệm rằng học để mở
mang trí não tức là rèn luyện thêm cho lòng căm hờn của mình. Có những trường
hợp, học thức và ánh sáng lại nối giáo cho cái ác.
Nói ra
thật là buồn! Sau khi lên án cái xã hội đã làm anh đau khổ, anh xét xử đến trời
vì trời đã sinh ra cái xã hội kia.
Và anh
cũng lên án trời nốt.
Ấy, mười
chín năm giam cầm và đày đọa, linh hồn anh vừa cao lên vừa rơi xuống thấp là
như thế! Ánh sáng lọt vào được bên này thì bóng tối cũng lấn đến.
Như ta
đã thấy bản chất Giăng VanGiăng không phải xấu. Khi mới vào tù, anh vẫn còn là
con người tốt. Lên án xong xã hội, anh thấy mình trở thành độc ác và lên án đến
cả trời thì anh thấy mình trở thành vô đạo.
Đến đây
khó mà không suy nghĩ một lát.
Bản chất
con người có thể thay đổi tất và hẳn như vậy chăng? Con người Chúa sinh ra
lương thiện thì xã hội lại có thể làm cho độc ác chăng? Có thể nào tâm hồn lại
bị số phận uốn nắn lại từ đầu chí cuối và trở nên xấu xa, khi gặp số phận xấu
xa? Có thể nào trái tim lại biến dạng xấu xí và mắc phải những tật nan y do sức
ép của một tai họa quá to, như cột sống bị gò dưới một vòm nhà quá thấp? Có
chăng trong tâm hồn của con người, nói chung, trong tâm hồn của Giăng VanGiăng
nói riêng, một tia lửa đầu tiên, một yếu tố thiêng liêng, ở thế giới này thì
không sao hủy hoại được, còn ở thế giới bên kia thì bất tử. Tia lửa ấy, yếu tố
ấy, điều thiện có thể nuôi lớn lên, thổi đượm, thắp sáng, đốt cháy bùng lên và
làm tỏa ánh sáng rực rỡ ra chung quanh và điều dữ không đời nào có thể hoàn
toàn dập tắt được?
Thật là
những vấn đề nghiêm trọng và bí hiểm. Riêng vấn đề cuối cùng, thì bất kỳ nhà
sinh lý học nào chắc cũng phải trả lời không mà chẳng cần ngập ngừng gì cả, nếu
đã nhìn thấy ở Tulông, vào giờ nghỉ, đồng thời cũng là giờ mơ màng của anh,
chính Giăng VanGiăng ngồi trên tay quay của một tời đứng nào đó, tay vòng trước
ngực, một đầu dây xích nhét vào trong túi để nó khỏi kéo lê. Những lúc ấy, anh
tù khổ sai mặt mày ảm đạm, nghiêm nghị, tính yên lặng và tư lự ấy, con người bị
pháp luật hất ra ngoài xã hội ấy, nhìn con người với cặp mắt giận dữ, con người
bị đày đọa của xã hội văn minh ấy nhìn trời một cách nghiêm khắc.
Nói cho
đúng và chúng tôi cũng không muốn giấu làm gì, nhà sinh lý học biết quan sát
chắc cũng thấy ở đó một nỗi khốn khổ không còn cứu vãn được, ông ta cũng có thể
thương xót cho con bệnh mà pháp luật đã làm nên nông nỗi, những chắc hẳn là
không hề thử nghĩ đến việc cứu chữa. Trong tâm hồn này có những thương tích gì
thì ông ta có hé thấy cũng làm lơ; và giống như Đăngtơ đứng trước cửa địa ngục,
ông ta chắc cũng xóa khỏi cuộc đời ấy cái chữ mà ngón tay Chúa đã ghi trên trán
mọi người: Hy vọng!
Trạng
thái ấy của tâm hồn Giăng VanGiăng, chúng tôi đã thử đem ra phân tích. Không
biết nó đã rõ với anh chưa, như chúng tôi đã cố làm cho nó rõ với độc giả sách
này? Tất cả những nhân tố làm nên nỗi khổ tinh thần của anh, không biết anh có
thấy rõ khi nó đã hình thành và trước đó đã thấy rõ nó khi nó đang hình thành
không? Con người cục cằn và vô học ấy có nhận ra được rành rọt các ý nghĩ nối
tiếp nhau trong tâm trí mình và từng bước đưa mình đến những cảnh tượng thảm
sâu, nó đã trở thành, từ bao nhiêu năm nay, chân trời bên trong của trí óc? Anh
có biết chăng tất cả những gì xảy ra trong người anh và tất cả những gì đang
xảy ra cựa quậy trong đó? Những điều ấy, quả là chúng tôi không dám nói: và
chính là chúng tôi cũng không tin. Trong Giăng VanGiăng, ngu tối còn nhiều quá,
đến nỗi, trải qua nhiều tai ương là thế, mà không phải không thật hiểu anh đang
cảm thấy điều gì. Anh sống trong tối tăm, anh đau khổ trong tối tăm, anh thù
ghét trong tối tăm, có thể nói là anh thù ghét cái gì ở đằng trước anh. Anh
quen sống trong bóng đêm ấy, dò dẫm như một người mù và như một kẻ đang mơ. Tuy
nhiên, từng lúc, do từ ngoài đến hay tự bản thân gây ra, anh rùng mình giận dữ,
đau nhói lên bội phần. Một ánh chớp mờ nhạt thoáng qua thắp sáng cả tâm hồn
anh, làm cho những vực sâu kỳ quái và hình dáng tối đen của số phận, hiện ra
đột ngột khắp nơi chung quanh anh, đàng trước cũng như đàng sau, trong một ánh
sáng vô cùng thê thảm.
Ánh chớp
biến đi, bóng tối lại ập xuống, anh đang ở đâu đây? Anh không biết nữa.
Cái lối
trừng phạt, trong đó nổi bật sự tàn nhẫn, nghĩa là điều làm cho người ta đần
độn đi, chỉ đưa đến kết quả tệ hại là biến dần dần con người thành thú rừng có
khi thành thú dữ. Bao nhiêu lần Giăng VanGiăng cố vượt ngục đi vượt ngục lại,
đủ chứng tỏ cái tác hại lạ lùng của pháp luật đối với tâm hồn con người. Mà có
dịp anh sẽ còn thực hiện nữa việc vượt ngục vô ích và điên cuồng ấy, chứ cũng
không cần nghĩ đến có thành công hay không, cũng không cần nhớ đến có những
kinh nghiệm đau đớn của lần trước. Như con chó sói thấy chuồng mở, anh lồng lộn
chạy đi. Bản năng bảo: “trốn đi!”. Nếu suy tính thì lương tri đã ngăn: “ở
lại!”. Nhưng, trước sự cám dỗ quá mạnh, lý trí đã bay mất và chỉ còn có bản
năng. Chỉ có con thú dữ trong người anh hành động. Và đến khi bị bắt lại, các
hình phạt nghiêm khắc mới chỉ làm cho nó thêm hung tợn.
Có một
chi tiết không bỏ sót là sức anh rất khỏe, trong tù không ai bì kịp. Lúc làm
việc nặng, như dòng dây cáp, quay tời, anh làm khỏe bằng bốn người. Có lúc anh
kê vai nhấc bổng hay lấy lưng đỡ những vật nặng hàng mấy tạ và khi cần thì thay
thế cả cái dụng cụ gọi là cái kích, ngày xưa gọi là cái oóc gơi, nhân đó có phố
tên Môngoócgơi gần chợ lớn Paris. Bạn bè gọi đùa anh là thằng Giăng Kích. Có
lần người ta đang chữa cái bao lơn nhà thị sảnh Tulông thì cái cột trụ đá chạm
kiểu Puygiê rời ra và xuýt đổ. Giăng VanGiăng có mặt ở đấy vội lấy vai đỡ chiếc
cột, nhờ thế mà thợ kịp đến chống lại.
Anh khỏe
đã như thế, anh nhanh nhẹn mềm dẻo lại còn hơn. Có những người tù thường xuyên
nghĩ đến vượt ngục, đã phối hợp sức mạnh với sự nhanh nhẹn đến mức một khoa học
thực sự, khoa học về gân cốt. Những con người muôn đời ước muốn có cái cánh như
con ruồi, con chim ấy, ngày ngày họ vẫn đem ra tập dượt cả một nghệ thuật huyền
bí về leo trèo. Leo theo chiều thẳng đứng, chân bám vào những nơi chỉ thấy hơi
gợn một tí, thường chỉ là trò chơi đối với Giăng VanGiăng. Chỉ có một góc tường
mà lấy gâm lưng và bắp chân, dùng khuỷu tay, gót chân bíu vào những chỗ vôi đá
ráp rỗ, là anh trèo lên đến gác ba như một trò quỉ thuật. Có khi anh cứ leo như
thế lên đến tận nóc ngục.
Anh ít
nói, không cười. Cả năm họa chăng chỉ một hai lần có cảm xúc gì thật mãnh liệt
mới làm anh bật lên tiếng cười, cái ghê rợn phảng phất như của ma quỉ. Trông
anh lúc nào cũng có vẻ đang nhìn một cái gì ghê rợn.
Đúng là
tâm trí anh đang bận.
Qua
những nhận xét không lành mạnh của một bản chất dở dang không phát triển và của
một đầu óc lẩn quẩn, anh cảm thấy mơ hồ như có một vật gì cổ quái đang đè lên
người mình. Anh đang bò giữa vùng tranh tối tranh sáng ấy và mỗi bận ngoái cổ
lại, thử vươn tầm mắt lên cao, anh lại vừa hoảng sợ vừa căm giận mà thấy tầng
tầng lớp lớp đáng sợ nào là sự vật, nào là luật pháp, thành kiến, nào là người
và việc, tất cả đều dựng sững, chồng chất đến tận mây xanh, chỗ lồi chỗ lõm một
cách ghê rợn, tất cả đều mơ hồ không rõ đường nét, những khối to như núi làm
anh hốt hoảng. Thật ra đó chỉ là cái tháp kỳ diệu mà chúng ta gọi là văn minh.
Đây đó trong cái mớ lúc nhúc, dị hình ấy, lúc thì sát ngay bên cạnh, lúc thì ở
tận nơi xa không với tới, anh lại nhìn thấy một nhóm, một chi tiết nào đó sáng
bật lên. Đó là tên lính gác ngục với chiếc dùi cui, hoặc tên sen đầm với chiếc
kiếm dài, rồi lại là ông giám mục mũ cao và tận chót vót, như trong ánh hào
quang chói lọi, hoàng đế mũ áo chỉnh tề, rực rỡ. Anh có cảm tưởng là mọi thứ
huy hoàng xa xôi kia, không những không xua tan đêm tối mà còn làm cho nó thê lương
và mù mịt thêm. Pháp luật, thành kiến, sự việc, con người, đồ vật, tất cả những
thứ đó, đi đi lại lại trên đầu anh, theo sự vận động phức tạp và bí ẩn của văn
minh mà Chúa điều khiển lấy; tất cả bước đi và chà đạp lên người anh, độc ác mà
bình thản, lạnh lùng mà ác liệt, không sao tả nổi. Như bị rơi xuống cảnh cùng
cực nhất trên đời, như bị đày xuống tầng sâu nhất của địa ngục để không còn mắt
mà nhìn nữa, những kẻ bị pháp luật đày đọa đều cảm thấy đè nặng lên đầu mình
tất cả sức nặng của cái xã hội loài người, nó quả thật vô cùng to lớn đối với
ai đứng ngoài mà nhìn và đối với người bị nó đè lên thì lại vô cùng kinh khủng.
Giăng
VanGiăng suy tưởng trong tình trạng như thế. Sự suy tưởng của anh có thể có
tính chất như thế nào?
Giá như
hạt gạo trong cối xay mà biết suy nghĩ thì chắc nó sẽ nghĩ như anh đang nghĩ.
Tất cả
những cái đó, những hiện thực đầy bóng ma, những bóng mà đầy hiện thực ấy, dần
dần đã tạo nên trong anh một tâm trạng khó tả.
Đôi khi,
đang làm lao dịch, anh dừng tay suy nghĩ. Tâm trí anh vừa già dặn vừa rối loạn
hơn xưa, bỗng vùng lên tức tối. Tất cả cái gì đã xảy ra đến cho anh đều vô
nghĩa, tất cả sự vật chung quanh anh đều phi lý. Anh tự nhủ: Thật chẳng khác gì
chiêm bao. Anh nhìn tên gác ngục cách anh mấy bước, trông nó như một bóng ma;
đột nhiên bóng ma nện anh một dùi cui.
Đối với
anh, thiên nhiên trước mắt hình như không có nữa. Không có mặt trời, không có
ngày hè đẹp, không có bầu trời rực rỡ, không có buổi sớm mai tháng tư mát dịu,
nói như thế tưởng cũng đúng với anh thôi! Ở trong anh chỉ nhờ nhờ, một thứ ánh
sáng xó buồng.
Cuối
cùng để tóm tắt những gì có thể tóm tắt được trong tất cả những điều đã kể ra
trên kia và nêu thành kết luận cụ thể, chúng ta chỉ cần nhận định rằng, sau
mười chín năm “hun đúc” trong tù, Giăng VanGiăng, cái anh thợ xén cây hiền lành
ở Phavơrôn, sau là tên trọng phạm đáng sợ ở Tulông, đã trở thành kẻ có gan làm
hai thứ việc xấu xa: một là những manh động đột nhiên, mù quáng, không suy
nghĩ, hoàn toàn do bản năng sai khiến, như là để trả thù cho những đau khổ đã
đày đọa mình; hai là có những hành động xấu xa nghiêm trọng, có đắn đo cân
nhắc, có trù tính, dựa vào những ý nghĩ sai lầm mà đau khổ vừa qua đã gieo vào
đầu óc mình. Những việc trù tính của anh thường qua ba giai đoạn liên tiếp: lý
luận, quyết tâm và kiên trì, ba việc mà chỉ những tay can trường mới làm nổi.
Sự bất bình thường xuyên, nỗi chua xót trong lòng, niềm uất ức sâu xa vì các
thứ bất công phải cam chịu và sự phản ứng đối với cả những người tốt, người vô
tội hay người công minh, đều là động cơ của anh. Mỗi lần anh suy nghĩ, anh đều
xuất phát từ lòng căm thù luật pháp của loài người và cuối cùng rồi cũng lại
quay về đích đó. Nếu không có cái gì may mắn ngăn lại thì rồi có lúc, lòng căm
thù ấy sẽ biến ra lòng căm thù xã hội, căm thù loài người, căm thù cả tạo hóa
và thể hiện ra thành cái ý muốn mơ hồ, dai dẳng và tàn bạo là làm hại, bất luận
ai, quí hồ đó là một sinh vật. Xem đó thì biết, không phải là không căn cứ mà
giấy thông hành của Giăng VanGiăng lại cho anh là người rất nguy hiểm.
Năm này
qua năm khác, tâm hồn ấy khô héo dần, chậm chậm nhưng không gì ngăn nổi. Tim
khô nên mắt cũng khô. Lúc ra khỏi nhà tù, tính ra suốt mười chín năm trời, anh
chưa hề rỏ một giọt nước mắt.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 2
Chương 8
BIỂN CẢ VÀ ĐÊM TỐI
Có người
rơi xuống biển!
Mặc! Tàu
không dừng lại. Đang có gió, chiếc tàu vô tình phải tiếp tục hành trình định
sẵn. Nó cứ lướt tới.
Người
kia mất hút rồi hiện ra, chìm xuống lại ngoi lên, kêu cứu, rồi giơ tay vẫy,
nhưng chẳng một ai nghe cả. Chiếc tàu rùng mình trước cơn bão, mọi người đang
ra tay kéo lái. Thủy thủ và hành khách không ai còn thấy người đang bị sóng vùi
nữa: cái đầu anh ta chỉ là một chấm nhỏ trên mặt biển sóng to.
Anh ta
kêu lên mấy tiếng tuyệt vọng giữa khoảng biển trời thăm thẳm. Ôi! Cánh buồm
đang bỏ đi, sao mà như một bóng ma! Anh nhìn nó, nhìn nó điên say. Nó lùi ra,
mờ đi, nhỏ dần. Mới ban nãy anh còn ở trên ấy, anh còn đứng trong hàng thủy
thủ, anh đi đi lại lại trên boong với mọi người, anh có phần không khí và ánh
sáng của mình, anh đang sống. Bây giờ, thì việc gì đã xảy ra? Anh đã trượt
chân, ngã xuống và thế là hết.
Chung
quanh anh bây giờ chỉ có làn nước dữ tợn. Dưới chân anh chỉ thấy cái gì chảy
trôi và sụp đổ. Những ngọn gió xé rách bươm, ghê tởm bao vây lấy anh, những
cuộn nước xoáy lôi anh đi, mặt biển tả tơi vùng vẫy quanh đầu anh, sóng nước
như một đám người thô bỉ đang nhổ vào mặt anh, nhiều ngõ ngách mập mờ như đang
nuốt anh mất nửa người; mỗi lần anh dấn xuống sâu, anh lại hé thấy những vực
thẳm tối om; bao nhiêu rong rêu xa lạ tóm lấy anh, quấn chân anh và lôi anh về
với nó; anh có cảm giác như mình cũng hóa thành vực sâu, cũng là bèo bọt; sóng
biển chuyền nhau dồi dập anh, anh hớp lấy đắng cay, đại dương hèn nhát ra sức
dìm anh, mênh mông đang đùa với cơn hấp hối của anh. Hình như tất thảy sóng
nước là hằn thù!
Tuy vậy,
anh vẫn vùng vẫy, cố thử tự vệ, cố thử đứng vững, cố hết sức để bơi. Nhưng anh,
anh chỉ là một sức lực đáng thương trong chốc lát đã kiệt quệ, mà lại dám đương
đầu với cái bất tận.
Chiếc
tàu ở đâu rồi? Đằng kia, mờ mờ trong bóng tối nhàn nhạt ở chân trời.
Từng cơn
gió to nổi lên; tất cả các thứ bọt bèo đập xuống người anh. Anh ngước mắt lên
và chỉ thấy mây mù ảm đạm. Đang hấp hối, anh lại chứng kiến biển cả lên cơn
điên dại. Anh như bị cơn điên kia xử nhục hình. Văng vẳng bên tai anh những
tiếng động xa lạ đối với con người, những tiếng động như đến từ bên kia trái
đất, từ một cõi ngoài nào đó kinh khủng làm sao.
Trên mây
cao có nhiều chim cũng như thường có thiên thần trên những khốn khó của con
người, nhưng chim và thần có thể giúp gì được cho anh? Những thứ đó bay, lượn
và ca hát, còn anh, anh rên rỉ sắp lìa đời.
Anh cảm
thấy mình như bị liệm trong cả hai thứ vô biên: biển cả và trời cao; biển là
mồ, trời là vải liệm.
Đêm đến
dần. Anh bơi không biết bao nhiêu giờ rồi, sức anh đã cạn. Con tàu, cái vật xa
xôi trên đó có người, đã khuất bóng. Chỉ còn một mình anh trong hố sâu thăm
thẳm của hoàng hôn. Anh chìm xuống, anh lấy gân, anh quằn quại, anh nghe dưới
chân những đợt sóng cổ quái của vô hình; anh cất tiếng kêu.
Chẳng
còn người. Vậy Chúa ở đâu?
Anh kêu.
Ai cứu tôi! Ai cứu tôi với! Anh kêu mãi.
Chân
trời vẳng lặng. Trời cao vẳng lặng.
Anh van
vỉ quãng rộng, sóng nước, rong rêu, ghềnh đá: tất cả đều câm điếc. Anh van xin
bão tố, nhưng bảo tố vô tình chỉ tuân lệnh vô biên.
Chung
quanh anh chỉ còn bóng tối, sương mù, cô quạnh; chỉ còn tiếng sóng vô tình gào
thét và mặt nước hung tàn không ngớt nhăn nheo mãi mãi. Trong người anh chỉ còn
ghê rợn và mệt mỏi. Dưới chân anh chỉ còn chìm đắm. Không còn chỗ bám víu nữa.
Anh nghĩ đến bước phiêu lưu tăm tối của thây ma trong bóng đêm vô hạn. Cái lạnh
không bờ làm anh tê dại. Hai bàn tay anh co quắp nắm lại và chỉ vơ được hư
không. Gió, mây, bão tố, trăng sao vô dụng! Biết làm thế nào? Người tuyệt vọng
đành buông xuôi, kẻ chán chường đành tìm cái chết, anh mặc cho số phận lôi đi,
anh buông tay và thế là mãi mãi đắm chìm trong những hố sâu thảm đạm.
Ôi! Bước
đi không gì cản được của xã hội loài người! Giữa đường có bao nhiêu người, bao
nhiêu linh hồn bị bỏ rơi! Một đại dương, để đón mọi cái mà luật pháp gạt ra!
Không còn một sự cứu vớt nào, đáng sợ làm sao! Chao ôi! Cái chết tinh thần!
Biển cả
ở đây là đêm tối cay nghiệt của xã hội, nơi pháp luật vứt bỏ những nạn nhân của
mình. Biển cả, đó là sự khốn khổ mênh mông.
Linh
hồn, trôi dạt trong vực sâu ấy, có thể trở nên một thây ma. Ai là kẻ làm cho nó
sống lại?
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 2
Chương 9
LẠI GẶP BẤT CÔNG
Mãn hạn
tù, khi nghe bên tai mấy tiếng lạ lùng: Mày được tự do! Thật là những phút
không ngờ, khó tả đối với Giăng VanGiăng. Một tia sáng chói lòa, thứ ánh sáng
thật sự của người sống đột nhiên chiếu vào tâm hồn anh. Khón nỗi, chẳng bao lâu
tia sáng ấy lại mờ đi. Ban đầu Giăng VanGiăng quả thực đã quáng mắt khi nghĩ
mình được tự do. Anh tin tưởng một cuộc đời mới. Nhưng anh lại thấy ngay giá
trị của kẻ mang tờ giấy thông hành vàng.
Ngay từ
phút đầu ấy đã có bao nỗi chua cay! Anh đã nhẩm tính số tiền để dành suốt thời
gian ở tù thế nào cũng phải đến một trăm bảy mươi mốt phơrăng. Phải nói cho
đúng là tính như thế anh không khấu trừ những ngày chủ nhật và ngày lễ bắt buộc
phải nghỉ, mười chín năm tức phải trừ mất đi ngót hai mươi bốn quan. Dù sao, số
tiền ấy đã bị khấu đi nhiều khoản thu linh tinh, chỉ cò một trăm linh chín
phơrăng mời lăm xu, lúc anh ra tù người ta đem tính trả cho anh.
Anh
chẳng hiểu tại sao lại chỉ còn có thế và đinh ninh là mình bị ngắt ngọn, hay
nói toạc ra, bị đánh cắp.
Hôm sau
ngày được tha, đến Gơrat, anh thấy trước cửa xưởng cất nước hoa cam người ta
đang dỡ những bao hàng to, anh lại xin làm giúp. Việc đang cần, người ta đồng ý
ngay. Anh bắt tay vào việc. Anh thông minh, người khỏe và lanh lợi, lại làm hết
sức nên người chủ ra dáng bằng lòng. Một người lính sen đầm đi ngang qua, thấy
anh đang làm, để ý, dừng lại hỏi giấy. Xong lại tiếp tục làm việc. Trước đó,
anh có hỏi thử đám phu làm như thế tiền công mỗi ngày được bao nhiêu, họ cho
anh biết là ba mươi xu. Tối đến, anh đến tìm người chủ xưởng để xin lĩnh tiền
công vì hôm sau phải lên đường sớm. Hắn chẳng nói năng gì, xỉa cho anh hai mươi
lăm xu. Anh đòi thêm, hắn bảo: Mày mà được bấy nhiêu là tốt quá rồi! Anh nài
nữa. Hắn lườm và bảo: Liệu không lại vào nhà đá!
Một lần
nữa, anh cho mình đã bị đánh cắp.
Xã hội,
Nhà nước, bớt tiền của anh là ăn cắp mẻ to. Bây giờ đến lượt cá nhân ăn cắp của
anh từng mẻ nhỏ.
Phóng
thích chưa phải là giải thoát và ra tù chứ không ra khỏi hình phạt.
Đó, ở
Gơrat, anh đã gặp câu chuyện như thế. Còn đến Đinhơ người ta đối xử với anh như
thế nào, chúng ta đã biết.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 2
Chương 10
THỨC DẬY
Chuông
đồng hồ nhà thờ đánh hai giờ, Giăng VanGiăng thức giấc dậy.
Cái
giường êm quá đã làm anh tỉnh dậy. Đã gần hai mươi năm anh không hề được nằm
giường, nên, tuy không thay quần áo, cái cảm giác quá lạ làm anh không ngủ yên
được.
Anh đã
ngủ quên được hơn bốn tiếng đồng hồ. Bao nhiêu mệt mỏi như đã trút sạch. Vả,
anh cũng quen chẳng nghỉ ngơi nhiều.
Anh mở
mắt, nhìn một lúc lâu trong bóng tối quanh mình rồi nhắm mắt ngủ lại.
Ban ngày
cảm xúc miên man, tâm trí nhiều điều lo nghĩ, đến đêm ngủ thiếp đi thì dễ dàng,
chứ đã thức giấc thì khó mà ngủ lại được. Giăng VanGiăng đêm ấy có thế thật.
Anh
không sao nhắm mắt trở lại được, đâm ra nghĩ vơ vẩn.
Đầu óc
như mờ mịt, rối bời, ý nghĩ qua lại chằng chịt. Chuyện xa, chuyện gần đều như
lềnh bềnh lộn xộn, giao nhau, lẫn lộn với nhau, khi thì mờ nhạt khi thì hiện
to, rồi bỗng nhiên vụt biến đi như chìm suống dưới làn nước bùn đang xáo động.
Nhiều ý nghĩ hiện ra, nhưng chỉ có một ý thường xuyên quấn quít trong óc anh,
lấn át tất cả: anh nghĩ về bộ đồ ăn bằng bạc và chiếc môi to tướng của bà
Magơloa bày trên bàn ăn, nó đã làm cho anh để ý lúc đầu hôm.
Bộ đồ
bạc ấy như ám ảnh anh. Nó ở ngay kia thôi, cách có mấy bước. Lúc từ buồng bên
sang đây, anh thấy bà ở già cất nó vào chỗ ô ở đầu giường. Anh đã chú ý đến chỗ
ô tường đó. Ngay phía bên phải chỗ cửa từ buồng ăn sang. Bộ đồ bạc, rõ là bằng
bạc ròng. Mà lại là bạc cũ. Kể cả chiếc môi, có thể bán ít ra là vài trăm
phơrăng. Gấp đôi món tiền anh làm trong mười chín năm trời. Thật ra thì anh có
thể kiếm được nhiều hơn thế nếu nhà nước không ăn cắp của anh.
Anh nghĩ
tới nghĩ lui, giằng co suốt giờ. Cũng có chút ít do dự và tranh đấu bản thân.
Bỗng đồng hồ đổ ba tiếng. Anh mở choàng mắt, ngồi nhổm dậy, với tay sờ cái ba
lô quẳng trong xó, rồi thả hai chân xuống đất, ngồi nhổm lên giường lúc nào
không biết. Anh ngồi yên như thế một lúc lâu, trong trí suy nghĩ vẩn vơ. Ai
thấy anh bấy giờ một mình ngồi thức trong đêm tối khi cả nhà ngủ yên, chắc phải
lấy làm ghê rợn. Bỗng anh cúi xuống, tháo giầy đặt nhẹ lên giường, rồi lại ngồi
thừ ra nghĩ ngợi.
Việc xấu
xa ấy lại bắt anh suy nghĩ miên man. Bao nhiêu ý nghĩ đã nói trên kia lại xáo
trộn cả tâm trí, khi ẩn khi hiện, như đắn đo, cân nhắc. Và rồi chẳng biết vì
sao, hình ảnh thằng Brêvơ, một bạn tù anh đã biết ở nhà lao với cái quần có độc
một dây treo đan bằng sợi, lại đến với anh, lần khân một cách vô cớ như lệ
thường khi người ta mơ màng. Hình ảnh các ô vuông trên cái dây treo quần ấy cứ
lởn vởn mãi trong óc.
Không có
đồng hồ gõ một tiếng báo khắc hay báo nửa giờ gì đó, có lẽ anh sẽ ngồi mãi như
thế cho đến sáng. Hình như tiếng chuông ấy thúc giục: cương quyết đi!
Anh đứng
dậy, ngần ngại một lát và nghe ngóng: trong nhà im phăng phắc. Anh rón rén bước
lại chỗ cửa sổ anh thoáng thấy hé mở. Trời không tối lắm. Từng đám mây lớn bay
theo gió trên không, lúc che, lúc để lộ vừng trăng rằm. Cảnh vật bên ngoài lúc
sáng lúc tối; còn trong nhà thì như một thứ hoàng hôn. Ánh sáng hoàng hôn. Ánh
sáng hoàng hôn ấy không đều do mây lúc ẩn lúc hiện, nhưng cũng đủ để nhận được
lối đi. Nó giống như thứ ánh sáng lờ mờ ở trong một cái hầm mà trước cửa thông
hơi có người qua lại. Ra đến cửa sổ, Giăng VanGiăng chú ý nhận xét. Cửa không
chấn song, quay ra vườn và theo thói quen ở địa phương, chỉ cài cái then nhỏ.
Anh mở ra, nhưng vì một luồng khí lạnh ùa vào trong phòng, anh vội đóng lại
ngay. Anh nhìn ra vườn bằng cặp mắt xem xét hơn là nhìn ngó. Quanh vườn, một
bức tường thấp quét vôi trắng trèo qua rất dễ. Bên kia tường, trông rõ những
ngọn cây cách khoảng đều nhau. Rõ ràng bên này là vườn, còn bên kia là đường
phố hoặc một ngõ con có trồng cây.
Nhìn
xong, anh quả quyết bước lại chỗ giường nằm, xách ba lô lên, mở ra, móc lấy ra
một vật gì để lên giường, nhét đôi giày vào túi, buộc ba lô lại đeo lên vai,
chụp cái mũ lưỡi trai lên đầu và kéo sụp xuống tận mắt. Anh lần mò tìm cây gậy
đem dựng ở cạnh cửa sổ rồi trở lại chỗ giường nằm nhặt lấy cái vật kia: một cái
gì giống như một thanh sắt ngắn, một đầu vạt nhọn như cái cọc.
Trong
tối không làm sao nhận được thanh sắt ấy rèn ra để làm gì. Một cái đòn bẩy
chăng? Hay là một cái dùi cui?
Ra ngoài
sáng thì có thể nhận rõ đó chỉ là cái chân đèn của phu mỏ. Thời ấy, thỉnh
thoảng người ta sai tù phạm đi lấy đá trên các quả đồi cao quanh Tulông, nên họ
cũng thường có trong tay những dụng cụ phu mỏ. Cái chân đèn đúc bằng sắt đặc,
đầu dưới nhọn để có thể đóng vào đá được.
Tay phải
cầm thanh sắt, anh nín thở, rón rén đi ra phía cửa phòng ngủ ông giám mục bên
cạnh. Cửa mở hé, ông giám mục lúc đi ngủ đã không khóa cửa.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 2
Chương 11
HÀNH ĐỘNG
Giăng
VanGiăng nghe ngóng. Yên lặng như tờ.
Anh lấy
đầu ngón tay đẩy khẽ cánh cửa, nhẹ nhàng, lén lút và ngại ngùng như con mèo
muốn tìm lối vào. Cánh cửa êm ái và lặng lẽ rộng thêm một tí.
Chờ một
lát, anh lại đẩy thêm cái nữa, lần này mạnh tay hơn.
Cửa lại
lặng lẽ mở rộng thêm, đủ cho anh lách mình qua. Nhưng gần đó lại có cái bàn con
chìa ra làm vướng lối đi.
Giăng
VanGiăng thấy khó khăn. Phải cố làm cho cửa mở rộng hơn nữa.
Anh quả
quyết, đẩy cánh cửa lần nữa mạnh hơn hai lần trước. Chiếc bản lề khô dầu tự
nhiên kẹt lên một tiếng dài trong đêm tối.
Giăng
VanGiăng giật nẩy mình. Tiếng kẹt cửa vang vào tai anh nghe to và ghê rợn như
tiếng kèn hiệu lệnh ngày phán xét cuối cùng.
Trong
phút đầu tiên ấy mọi sự đều phóng đại một cách kỳ quái; anh tưởng chừng như
chiếc bản lề vừa tỉnh dậy và đột nhiên do một sức sống đáng sợ, đang sủa lên
như chó để báo có trộm vào, đánh thức mọi người.
Anh đứng
sững lại, run rẩy, hoảng hốt, bàn chân đang nhón bỗng xịu xuống đất. Mạch máu
hai bên thái dương giật như búa bổ, ngực thở phì phò như tiếng gió lùa trong
hang núi. Anh đinh ninh thế nào tiếng rít ghê gớm của cái bản lề giận dữ ấy
cũng sẽ làm rung chuyển cả nhà cửa như một trận động đất: cánh cửa bị đẩy đã
kêu lên để báo động, ông già sắp trở dậy, hai bà già sắp hô hoán lên, xóm giềng
sẽ đến tiếp cứu; chỉ mươi mười lăm phút sau, cả thành phố sẽ náo động, cảnh sát
sẽ được huy động. Trong giây lát, anh thấy mình nguy đến nơi.
Anh đứng
trơ ra như pho tượng, không dám cử động.
Mấy phút
trôi qua. Cánh cửa đã mở toang ra rồi. Anh liều nhìn vào trong phòng. Vẫn yên
lặng cả. Anh lắng tai nghe. Không có tiếng cựa quậy. Tiếng kẹt cửa không làm ai
thức giấc cả.
Cơn nguy
hiểm đầu tiên đã qua, trong lòng anh còn hồi hộp lạ thường. Nhưng anh không
lùi. Ngay những lúc nguy ngập nhất, anh có bao giờ chịu lùi đâu. Anh chỉ tính
làm thế nào cho chóng xong. Anh tiến lên một bước, vào hẳn trong phòng.
Trong
phòng im lặng như tờ. Chỉ thấy rải rác chỗ này chỗ kia những hình lờ mờ không
rõ. Ban ngày thì rõ đó là mớ giấy bày la liệt trên bàn, những pho sách lớn mở
rộng, những chồng sách dày xếp trên chiếc ghế đẩu, chiếc ghế bành chất đầy quần
áo, chiếc ghế nguyện, nhưng lúc này chỉ thấy toàn là những khỏang tôi tối và
những chỗ trăng trắng. Giăng VanGiăng lần từng bước một, giữ gìn để khỏi đụng
vào đồ đạc. Anh nghe rõ hơi thở đều đặn và bình thản của ông giám mục đang ngủ
ở cuối phòng.
Bỗng anh
dừng lại. Không ngờ anh đã đến sát cạnh giường nhanh đến thế.
Nhiều
khi tạo hóa khéo đem những hiện tượng và cảnh tượng thiên nhiên xen vào công việc
của người đời rất đúng lúc, như hiểu biết ý người một cách thâm trầm và như có
ý muốn làm cho người ta phải suy nghĩ. Đã nửa giờ nay, một đám mây to che khắp
trời. Vừa lúc Giăng VanGiăng đến trước giường, đám mây như có dụng ý trước,
bỗng hé ra một quãng trống. Ánh trăng xuyên qua cửa sổ, đột nhiên chiếu thẳng
vào khuôn mặt trắng của ông giám mục. Ông đang ngủ yên giấc. Đêm ở miền núi
trời lạnh nên cả người ông gần như quấn trong chiếc áo len màu nâu dài tay. Đầu
ông ngửa trên gối với một dáng điệu nghỉ ngơi thoải mái. Bàn tay có chiếc nhẫn,
cái bàn tay phúc đức ấy, lại bỏ thõng ra ngoài. Vẻ mặt có cái gì khoan khoái,
tin tưởng và vui đạo làm cho sáng hẳn lên. Trông vào thấy có cái gì tươi hơn
một nụ cười, gần như là một vẻ vui thích rạng rỡ. Vừng trán lại như phản chiếu
một thứ ánh sáng vô hình khó tả. Rõ ràng là linh hồn người chính trực trong
giấc ngủ được chiêm ngưỡng một cảnh trời huyền bí.
Một tia
sáng của cảnh trời ấy hiện ra ở nét mặt ông giám mục.
Tia sáng
ấy đồng thời cũng là hào quang tỏa từ trong người ông ra chính vì cảnh trời ấy
là ở lòng ông, nó là lương tâm của ông.
Lúc ánh
trăng như hòa hợp với thứ ánh sáng bên trong ấy, toàn thân ông giám mục đang
ngủ yên vụt hiện ra như trong một vùng hào quang. Không chói sáng nhưng mờ mờ,
êm dịu vô cùng. Vừng trăng trên cao, cảnh vật im nghỉ, khu vườn không một rung
động, ngôi nhà yên tĩnh, lại vào giờ ấy, lúc ấy, sự tĩnh mịch ấy, tất cả đều
như thêm vào giấc ngủ đáng tôn kính của vị hiền triết kia một cái gì trang
nghiêm khó nói và làm cho mớ tóc bạc phơ, đôi mắt nhắm nghiền, khuôn mặt tràn
đầy hy vọng và tin yêu, cả cái đầu của bậc già nua đang ngủ giấc ngủ yên lành
của trẻ con, như rực lên trong một vòng ánh sáng uy nghi và trong suốt.
Trong
con người ông quả như có cái uy nghi của thần linh mà chính ông không biết.
Giăng
VanGiăng vẫn đứng trong bóng tối, tay cầm chiếc chân đèn sứt, sững sờ, bàng
hoàng trước cảnh ông già sáng rỡ ấy. Chưa bao giờ anh trông thấy một con người
như thế. Nét mặt tin cậy ấy làm anh khiếp sợ. Với tâm trạng bối rối và lo sợ, sắp
sa ngã vào một hành động tội lỗi, anh lại chiêm ngưỡng giấc ngủ của một bậc
chính nhân, tưởng trong thế giới tinh thần, chưa có cảnh tượng nào lớn lao
bằng!
Giữa nơi
thanh vắng và bên cạnh một kẻ như anh, giấc ngủ ấy có cái gì cao cả, anh chưa
hiểu rõ được, những cảm thấy một cách mãnh liệt.
Không ai
biết được tâm trạng anh lúc đó như thế nào. Cả anh cũng vậy. Phải tưởng tượng
một cái gì phũ phàng nhất đối với một cái gì dịu dàng nhất, mới hình dung được
tâm trạng ấy. Nhìn vào nét mặt anh thì không nhận thấy gì có thể nói chắc được.
Một thứ kinh ngạc lơ láo. Anh đứng sững mà nhìn, thế thôi. Nhưng anh đang nghĩ
gì? Khó mà đoán ra được. Những thứ cảm xúc ấy bản chất là cảm xúc gì?
Mắt anh
không rời hình ảnh ông giám mục già. Cử chỉ và nét mặt để lộ rõ một sự rụt rè
lạ lùng. Có thể nói là anh đang lưỡng lự trước hai vực thẳm, một nơi làm người
ta sa ngã và một nơi giúp người ta thoát nạn. Hình như anh đương sẵn sàng hoặc
đập vỡ sọ ông già hoặc ôm lấy tay mà hôn.
Một lúc
sau, anh từ từ giơ tay trái lên ngang trán và giở mũ ra, rồi lại bỏ cánh tay
xuống. Anh lại đứng yên, tay trái cầm mũ, tay phải cầm dùi cui, tóc lởm chởm
dựng ngược trên cái đầu dữ tợn, mắt ngắm sững ông già.
Ông giám
mục vẫn cứ ngủ thiêm thiếp trước cái nhìn đáng sợ ấy. Ánh trăng soi mờ mờ trên
cây thánh giá trên lò sưởi. Người ta có cảm giác như tượng Chúa đang dang tay
đón lấy cả hai người, để ban phúc cho người này và xá tội cho kẻ kia.
Bỗng
Giăng VanGiăng chụp mũ lên đầu, rảo bước lần theo cạnh giường, không nhìn ông
giám mục, đến thẳng chỗ ô tường mờ mờ ở đầu kia; anh giơ cái chân đèn sắt lên
để nạy khóa; chìa khóa cắm ngay trong ổ; anh mở ra, thấy ngay cái giỏ đựng đồ
bạc; anh bê ra, bước vội qua phòng, chẳng cần giữ gìn, không sợ tiếng động,
lách ra khỏi cửa, bỏ bộ đồ bạc vào ba lô, vứt cái giỏ đi, chạy qua vườn, vượt
qua tường như cọp, rồi cắm đầu chạy.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 2
Chương 12
ÔNG GIÁM MỤC LÀM VIỆC
Sáng hôm
sau, mặt trời vừa mọc, ông giám mục đã ra đi bách bộ ngoài vườn. Bà Magơloa hớt
hải chạy đến:
- Đức Cha,
thưa Đức Cha, Đức Cha có biết cái giỏ đồ bạc ở đâu không?
- Có.
- Lạy
Chúa! May quá! Con đang không biết nó chạy đi đâu.
Ông giám
mục vừa nhặt được cái giỏ ở trên luống hoa. Ông đưa cho bà.
- Giỏ
đây.
- Ô hay!
– bà Magơloa kêu – Cái giỏ không! Thế còn bộ đồ bạc?
- À, bà
tìm bộ đồ bạc à? Thế thì tôi không biết.
- Trời
đất ơi! Bị mất trộm hết rồi! Cái thằng tối hôm qua nó lấy rồi!
Và
thoáng một cái, bà chạy vụt vào phòng nguyện, đến chỗ giường khách, rồi đảo trở
ra. Ông giám mục đang cúi xuống bồn hoa nhìn mấy cây hoa bị cái giỏ quăng phải
đè gẫy. Nghe tiếng bà Magơloa kêu, ông ngẩng người lên.
- Thưa
Đức Cha, nó đi rồi! Đồ đạc bị mất trộm rồi!
Vừa kêu
lên như thế, bà lại nhìn thấy ở góc vườn có vết người mới trèo qua tường làm lở
cả bờ vôi.
- Đây
này! Nó trèo qua lối này đây. Nó nhảy ra lối phố Cơsơphilê! À, quân khốn kiếp!
Nó lấy trộm bộ đồ bạc của nhà ta còn gì.
Ông giám
mục yên lặng một lát, ngẩng nhìn bà Magơloa một cách nghiêm trang và ôn tồn
bảo:
- Nhưng
này, bộ đồ bạc ấy có phải là của nhà ta không đã?
Bà
Magơloa ngẩn người ra. Hai người đứng lặng yên một lát, ông giám mục lại nói
tiếp:
- Bà
Magơloa này, lâu nay ta cứ giữ mãi bộ đồ bạc ấy là sai đấy. Nó là của kẻ khó.
Mà người ấy là hạng người nào? Chính là một kẻ khó mà.
- Chao
ôi! Lạy Chúa! Tôi với cô Baptistin thì nói làm gì. Chúng tôi thế nào cũng xong.
Nhưng còn Đức Cha: Từ nay thì Đức Cha ăn bằng gì?
Ông giám
mục nhìn bà, dáng ngạc nhiên:
- Ô hay!
Thế không có thìa nĩa thiếc à?
Bà
Magơloa so vai:
- Thiếc
ăn có mùi tanh.
- Thế
thì dùng đồ sắt.
Bà Magơloa
nhăn mặt lại:
- Sắt có
vị han.
Một lúc
sau, ông ăn sáng ở ngay cái bàn chỗ Giăng VanGiăng ngồi hôm trước. Vừa ăn, ông
vừa vui vẻ nói chuyện. Cô em trầm tĩnh ngồi nghe và bà Magơloa thì lẩm bẩm càu
nhàu một mình. Ông bảo: chấm miếng bánh vào sữa thì cần gì phải thìa nĩa, dù là
bằng gỗ đi nữa.
Bà
Magơloa vừa đi đi lại lại vừa lẩm bẩm:
- Đời
thưở nhà ai lại đi tiếp rước một thằng như thế vào nhà bao giờ! Lại còn cho nó
nằm ngay bên cạnh phòng mình. Phúc đức làm sao nó lại chỉ mới lấy của mà thôi!
Trời ơi là trời! Cứ nghĩ đến mà rùng mình!
Hai anh
em ăn xong sắp đứng dậy thì có người gõ cửa. Ông giám mục bảo:
- Cứ
vào.
Cửa mở.
Một tốp người kỳ quặc hùng hổ kéo nhau vào. Ba người túm cổ một người. Ba người
ấy là lính sen đầm; người kia là Giăng VanGiăng.
Một
người đội, ý chừng chỉ huy cả bọn, đứng gần ở cửa. Y bước vào, tiến đến gần ông
giám mục, giơ tay chào:
- Bẩm
Đức Cha…
Nghe
thấy thế, Giăng VanGiăng đương lầm lì và có vẻ thất vọng, ngẩng lên nhìn, kinh
hoàng. Anh lẩm bẩm:
- Đức
Cha à! Vậy ra không phải là ông cụ xứ…
Một tên
lính quát:
- Im!
Đây là Đức giám mục.
Lúc ấy,
ông giám mục mặc dầu cao tuổi cũng cố bước nhanh tới bên anh. Ông nhìn vào
Giăng VanGiăng:
- A, anh
đấy à! Thấy anh tôi mừng làm sao! Nhưng này, tôi còn cho anh cả đôi chân đèn
nữa kia mà, cũng bằng bạc đấy, có thể bán được hai trăm phơrăng. Sao anh lại
không mang đi một thể với bộ đồ ăn?
Giăng
VanGiăng giương con mắt nhìn con người đáng kính ấy. Vẻ mặt anh bây giờ tưởng
không còn ngôn ngữ nào có thể tả rõ được. Viên đội nói:
- Bẩm
Đức Cha, hóa ra tên này nói thật? Chúng tôi gặp nó đang đi như có ý chạy trốn.
Chúng tôi bắt giữ lại để khám thì thấy có bộ đồ bạc này…
Ông giám
mục cười, ngắt lời y:
- Và anh
ấy nói rằng đêm hôm qua anh ấy ngủ ở nhà một ông cố đạo già và ông ấy đã cho
anh chứ gì? Tôi đoán ra thế. Rồi các ông giải anh ta đến đây phải không? Lầm
rồi.
- Nếu
vậy, chúng tôi có thể tha cho hắn đi chứ?
- Hẳn
rồi.
Bọn lính
buông Giăng VanGiăng ra. Anh lùi lại ngơ ngác như người mơ ngủ, lắp bắp nói
không ra tiếng:
- Tha
cho tôi thật à?
Một
người lính nói:
- Phải,
tha cho mày đấy, mày không nghe thấy à?
Ông giám
mục lại nói:
- Này,
anh cầm nốt hai cây chân đèn rồi hãy đi nhé! Đèn đây.
Ông đến
chỗ lò sưởi, lấy hai cây đèn và đem lại cho Giăng VanGiăng. Hai người đàn bà
lặng yên đứng nhìn không nói không rằng, không có một cử chỉ nào muốn ngăn trở
ông giám mục.
Giăng
VanGiăng run bần bật. Như cái máy, anh giơ tay cầm lấy đôi đèn, mặt mày ngơ
ngác. Ông giám mục nói:
- Thôi,
chúc anh lên đường bình yên. Nhân thể, lần sau anh có trở lại đây, nhớ không
cần phải qua phía vườn. Cứ cửa lối qua phố mà đi. Ngày đêm lúc nào ra vào cũng
được, cửa chỉ cài có cái then thôi.
Rồi ông
quay về phía bọn cảnh sát:
- Thôi,
các ông có thể về được rồi.
Bọn lính
đi ra.
Giăng
VanGiăng như người sắp ngất.
Ông giám
mục lại gần, khẽ bảo:
- Đừng
quên, đừng bao giờ quên rằng anh đã hứa với ta sẽ dùng chỗ tiền này để trở
thành con người lương thiện nhé.
Giăng
VanGiăng không nhớ có hứa với ông giám mục điều gì hay không. Anh cứ đứng ngây
người ra. Ông giám mục đã nhấn mạnh vào câu mình nói. Bây giờ bằng một giọng
thật trang nghiêm, ông lại nói thêm:
- Giăng
VanGiăng, người anh em của tôi ơi, từ nay anh không còn là kẻ ác nữa, anh thuộc
về phía người lương thiện rồi. Linh hồn của anh, ta đã mua đây, ta đem nó ra
khỏi cõi hắc ám, ra khỏi tư tưởng sa ngã, ta đem dâng nó cho Chúa.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 2
Chương 13
BÉ GIECVE
Giăng
VanGiăng vội vàng rời bỏ Đinhơ như một tên tù sổng. Anh đi về phía cánh đồng,
gặp đường ngang ngõ tắt nào cũng đi bừa theo, không biết có lúc đã lộn trở lại
con đường vừa mới đi qua. Anh cứ lang thang như thế suốt cả buổi mai, chẳng ăn
uống gì mà cũng không thấy đói. Nhiều cảm xúc mới làm anh xao xuyến cả tâm hồn.
Anh thấy mình bực tức vô cùng, chẳng biết là giận ai. Anh cũng không hiểu là
mình xúc động hay cả hổ thẹn. Có lúc anh thấy lòng mình dịu xuống một cách kỳ
lạ và cố chống lại bằng cách nghĩ đến gần hai mươi năm bị đày ải để cho lòng
lại rắn lên. Tâm trạng ấy làm cho anh mệt nhọc. Anh lo lắng thấy cái bình tĩnh
mà cảnh tù tội bất công đã đem lại cho tâm hồn anh lâu nay, cái bình tĩnh ghê
sợ ấy đến nay đã bị lay chuyển. Anh tự hỏi rồi đây cái gì sẽ thay vào đấy? Có
lúc nghĩ, giá cứ nằm trong tù với bọn cảnh sát lại hóa hay chứ không thích sự
việc lại xảy ra như thế. Tuy tiết trời đã về thu, song ở các hàng rào vẫn còn
lác đác đôi ba bóng hoa nở chậm, thoang thoảng hương thơm, khiến lúc đi ngang
qua, anh lại nhớ đến những ngày thơ ấu. Các kỷ niệm xa xưa ấy làm anh rất khó
chịu vì đã lâu lắm anh không hề nhớ tới nữa.
Suốt cả
ngày hôm ấy, những ý nghĩ miên man, khó tả như vậy cứ chồng chất mãi trong đầu
óc anh.
Mặt trời
sắp lặn. Bóng mỗi hòn sỏi nhỏ cũng in dài trên mặt đường. Giăng VanGiăng ngồi
sau một bụi cây, giữa cánh đồng rộng màu hung, bốn bề vắng ngắt. Đằng xa về
phía chân trời chỉ trơ trọi có dãy núi Anpơ. Tuyệt nhiên chẳng thấy gác chuông
nào của một làng ở xa. Anh đã đi khỏi Đinhơ có đến ba dặm. Một con đường xuyên
qua cánh đồng đi ngang sát bên bụi cây. Vẻ mặt trầm ngâm làm cho bộ áo quần tả
tơi của anh thêm ghê rợn, ai trông thấy cũng phải khiếp. Giữa lúc ấy có tiếng
nói cười vui vẻ vang đến.
Anh quay
đầu nhìn ra phía đường. Một thằng bé mười tuổi, người xứ Xavoa, vừa đi vừa hát,
bên sườn lủng lẳng chiếc đàn con và sau lưng đeo cái hòm gỗ nhỏ. Những đứa trẻ
rách rưới nhưng hiền lành và vui tính như thế người ta thấy lang thang kiếm ăn
từ vùng này đến vùng khác là thường.
Thằng bé
hát luôn miệng, thỉnh thoảng lại dừng lại, tung mấy đồng tiền trong tay lên
chơi chuyền. Trong số tiền, có lẽ tất cả vốn liếng của thằng bé, có một đồng
hào bốn mươi xu.
Nó đứng
lại bên bụi cây, nhưng mãi chơi chuyền không thấy Giăng VanGiăng. Mọi lần nó
khéo bắt, lần này đồng hào bốn mươi xu nẩy ra ngoài và lăn vào bụi cây đến tận
chỗ Giăng VanGiăng ngồi.
Giăng
VanGiăng đặt chân lên trên.
Nhưng
thằng bé nhìn theo đồng tiền lăn, đã trông thấy. Nó không tỏ vễ gì ngạc nhiên,
đến thẳng chỗ anh ngồi. Bốn bề cảnh vật thật là hoang vắng. Nhìn xa đến chân
trời cũng không thấy bóng người trên cánh đồng hay trên con đường nhỏ. Chỉ văng
vẳng có tiếng một đàn chim bay ngang trời cao tít.
Thằng bé
quay lưng lại phía mặt trời. Ánh nắng chiều gieo từng sợi vàng lên mái tóc và
phủ lên khuôn mặt dữ tợn của Giăng VanGiăng một màu đỏ bầm như máu. Với vẻ tin
cậy của một đứa trẻ thật thà và ngây thơ, thằng bé kêu lên:
- Ông
ơi! Đồng hào của tôi đâu?
Giăng
VanGiăng hỏi lại nó:
- Mày
tên là gì?
- Thưa
ông, tôi là bé Giecve.
- Cút
đi!
- Ông
trả tôi đồng hào đã.
Giăng
VanGiăng cúi đầu không nói gì. Thằng bé lại đòi:
- Đồng
hào của tôi, ông!
Giăng
VanGiăng vẫn cúi nhìn xuống đất. Thằng bé lại kêu:
- Đồng
hào của tôi! Đồng hào trắng của tôi đâu? Trả tiền của tôi lại cho tôi.
Giăng
VanGiăng vẫn lặng thinh như không nghe thấy. Thằng bé nắm lấy cổ áo anh lay
mạnh. Đồng thời nó cố hết sức đẩy cái chân đi giầy đinh đang giẫm lên đồng hào
của nó.
- Trả
tiền tôi đây! Trả đồng hào bốn mươi xu của tôi cho tôi! – Thằng bé vừa đòi vừa
khóc. Giăng VanGiăng ngẩng đầu lên nhưng vẫn ngồi. Đôi mắt anh đục ngầu. Anh
nhìn chằm chằm thằng bé, ra vẻ ngạc nhiên lắm, rồi giơ tay vó lấy cây gậy,
miệng thét to:
- Đứa
nào đấy?
- Tôi
đây, ông ơi! Bé Giecve đây. Tôi, tôi đây! Xin ông trả tôi đồng hào bốn mươi xu.
Xin ông nhấc bàn chân lên cho!
Tuy nhỏ
xíu, thằng bé cũng phát cáu lên gần như muốn nạt nộ:
- Thế
nào! Ông có bỏ chân ra không? Bỏ chân ra đi!
- A, vẫn
mày à?
Giăng
VanGiăng vùng đứng thẳng dậy, chân vẫn giẫm lên đồng hào:
- Mày có
xéo đi không?
Thằng bé
sợ hãi, giương mắt nhìn, bỗng cả người nó phát run lên. Nó ngơ ngác một lúc rồi
ba chân bốn cẳng bỏ chạy, không dám quay cổ lại, không dám kêu lên lấy một
tiếng.
Chạy
được một quãng xa, thằng bé hết hơi phải dừng lại. Giăng VanGiăng trong cơn mơ
màng nghe thấy tiếng nó nức nở khóc.
Một lúc
sau thằng bé mất hút.
Mặt trời
đã lặn.
Bóng tối
trùm chung quanh Giăng VanGiăng. Cả ngày hôm ấy anh chưa ăn uống gì. Chắc anh
đương lên cơn sốt.
Từ lúc
thằng bé bỏ chạy, anh vẫn đứng ngây người, không cử động. Ngực anh phập phồng,
hơi thở dài và không đều. Mắt trân trân nhìn xuống đám cỏ cách mười bước, hình
như chú ý nhận xét và ngắm nghía hình thù miếng mẻ sành màu lam rơi trong đó.
Bỗng anh
rùng mình: hơi lạnh hoàng hôn bắt đầu thấm vào người.
Anh kéo
sát mũ xuống trán, thờ thẫn khép lại vạt áo ngoài và cài cúc lại, bước lên một
bước và cúi nhặt cây gậy dưới đất.
Lúc ấy,
anh chợt trông thấy đồng hào bị gót giày gần vùi xuống đất đang lấp lánh trong
cát sỏi.
Trong
người như bị điện giật. Anh lẩm bẩm trong miệng:
- Cái gì
thế này?
Anh lùi
lại ba bước, rồi đứng sững lại, mắt không rời khỏi chỗ vừa mới giẫm chân xuống,
tưởng chừng như cái vật lấp lánh trong bóng tối kia là một con mắt đang nhìn
chòng chọc.
Mấy phút
sau, anh run rẩy nhảy đến chỗ đồng tiền, cầm lên, đứng dậy rồi đưa mắt ra tận
đằng xa, nhìn quanh cánh đồng một vòng. Cả người anh run rẩy như con thú dữ sợ
hãi đương tìm chỗ ẩn.
Nhìn mãi
chẳng thấy gì. Trời đã tối. Cánh đồng lạnh lẽo và lờ mờ. Từng đám sương mù tim
tím bốc lên trong ánh hoàng hôn.
Anh “à”
một tiếng rồi rảo bước đi về phía thằng bé bỏ chạy. Đi độ trăm bước anh đứng
lại nhìn. Vẫn không thấy gì hết.
Anh bèn
gọi thật to:
- Bé
Giecve! Bé Giecve!
Gọi xong
anh đứng yên chờ. Không thấy ai thưa cả.
Cánh
đồng vắng ngắt và quạnh hiu. Chung quanh là quãng trống mù mịt. Chỉ có bóng
tối, mắt nhìn chẳng thấy gì. Bốn bề yên lặng, tiếng gọi tan vào thinh không.
Cơn gió
lạnh lẽo thổi làm cho cảnh vật thêm thê lương. Những cành cây trụi lá in hình
những cánh tay gầy guộc vung vẩy cuống cuồng như muốn dọa nạt đuổi bắt ai.
Anh lại
đi, rồi vùng chạy, thỉnh thoảng đứng lại, gọi thét lên trong khoảng vắng, nghe
kinh khủng, thảm thiết lạ lùng:
- Bé
Giecve! Bé Giecve!
Nếu thực
thằng bé có nghe thấy tiếng gọi như thế, nó cũng hết vía, chẳng dám thò mặt ra,
nhưng chắc chắn là nó đi xa rồi.
Gặp một
ông cố đạo cưỡi ngựa đi qua, anh chạy theo hỏi:
- Cụ xứ
ơi! Cụ có thấy thằng bé nào đi qua đây không?
- Không.
- Một
thằng nhỏ tên là Bé Giecve mà?
- Tôi
không gặp ai hết.
Anh móc
trong bọc ra hai đồng năm phơrăng đưa cho ông:
- Thưa
cụ, cụ cầm món này để giúp kẻ khó. Cụ ạ, thằng bé ấy độ mười tuổi, hình như
lưng có đeo chiếc hòm gỗ và cây đàn. Nó đi khắp nơi. Một thằng bé đi rong làm
mướn ấy mà. Cụ biết chứ?
- Tôi
không thấy thằng bé ấy.
- Thằng
bé Giecve mà? Nó không phải là người làng nào vùng này sao cụ? Cụ bảo hộ cho.
- Như
lời anh vừa nói thì thằng bé ấy ở vùng xa đến. Nó đi ngang qua đây thôi. Ai mà
biết được.
Giăng
VanGiăng hấp tấp móc thêm hai đồng năm phơrăng nữa:
- Để ông
làm phúc.
Rồi anh
ngơ ngác bảo:
- Cụ
linh mục ơi! Tôi là một thằng ăn cướp. Nhờ cụ cho bắt tôi đi.
Ông cố
đạo thất kinh, thúc ngựa phóng thẳng.
Giăng
VanGiăng lại cứ lối ban nãy cắm đầu chạy. Cứ như thế một thôi dài, vừa nhìn,
vừa gọi, vừa kêu, nhưng chẳng thấy một ai. Hai ba phen thấy cái gì như bóng
người nằm hay ngồi xổm, anh băng đồng chạy đến. Nhưng đến gần thì chỉ là bụi
cây hay tảng đá nổi lên mặt đất. Sau hết, đến một chỗ ngã ba đường, anh đứng
lại. Trăng đã lên. Anh đưa mắt nhìn đằng xa và gọi một lần cuối: “Bé Giecve! Bé
Giecve! Bé Giecve!” Tiếng gọi chìm vào trong sương mù, không một tiếng vọng
lại. Anh còn phều phào thêm: “Bé Giecve!” Nhưng giọng đã đuối và không còn rõ
nữa; anh đã kiệt sức. Hai chân bỗng nhiên khuỵu xuống, như cả cái khối nặng tội
lỗi vô hình đè dúi lên người. Thể xác rã rời anh buông mình xuống một tảng đá
lớn, hai tay túm lấy tóc, mặt cúi gằm vào giữa hai đầu gối, miệng kêu rú lên:
- Ta là
một thằng khốn nạn!
Trái tim
vỡ ra, anh khóc rưng rức. Mười chín năm trời, bây giờ anh mới khóc lần này là
lần đầu.
Ở nhà
ông giám mục ra, như mọi người đã biết, Giăng VanGiăng thấy mình như xa lạ với
tát cả những điều anh suy nghĩ từ trước đến giờ. Anh không hiểu nổi trong anh
đã có chuyện gì xảy ra. Anh cố làm cho lòng mình rắn lại để chống chế với cử
chỉ thiêng liêng với những lời hiền từ của ông cụ: “Anh đã hứa với ta sẽ trở
thành con người lương thiện. Linh hồn của anh, ta mua đây, ta đem nó ra khỏi tư
tưởng lầm lỗi, ta đem dâng nó cho Chúa”. Những lời ấy chốc chốc lại vang lên
bên tai. Để cưỡng lại lòng bao dung vời vợi ấy, anh viện đến lòng tự kiêu, nó
như là pháo đài của tội lỗi trong ta. Anh mơ hồ cảm thấy lời tha tội của nhà tu
hành như một đợt xung phong dữ dội, một trận tấn công quyết liệt nhất đến bây
giờ vẫn còn làm choáng váng; nếu anh cưỡng lại đức độ lượng kia được, thì lòng
anh sẽ trơ như gỗ đá suốt đời; còn nếu anh chịu nghe, thì anh phải xua đuổi nỗi
căm hờn bao nhiêu kẻ khác đã gieo vào lòng anh trong bấy nhiêu năm, mà anh lại
lấy làm thích thú; lần này thì thắng hay bại phải quyết tâm chọn một, bởi vì
cuộc giao tranh đã mở ra rồi, một cuộc giao tranh khổng lồ có tính chất quyết
định, giữa một bên là tính độc ác của anh và bên kia là đức nhân từ của ông cụ.
Trước
những tia sáng như vậy, anh bước đi như người say rượu, mắt nhìn lơ láo. Anh có
nghiệm ra rằng câu chuyện ở Đinhơ sẽ đem lại cho anh kết quả gì chăng? Anh có
nghe thấy chăng những lời thì thầm bí ẩn như cảnh cáo, như quấy rầy lương tâm
người ta những lúc nào đó trong đời? Có ai bảo nhỏ bên tai rằng anh vừa trải
qua cái giờ nghiêm trọng nhất của số phận không? Rằng từ nay anh không còn lưng
chừng được nữa, thế không là người tốt nhất thì là người xấu thậm tệ, hoặc anh
lên cao hơn cả ông giám mục, hoặc anh rơi xuống thấp hơn cả tên tù khổ sai,
rằng nếu muốn trở nên người tốt thì anh phải làm bậc thiên thần, còn nếu muốn
khư khư làm kẻ ác thì anh phải làm một con quái vật?
Đến đây
lần nữa lại phải đặt lại những câu hỏi chỗ khác đã từng đặt ra. Vậy anh có thu
nhận vào tâm trí anh chút gì về tất cả những cái này không, dù chỉ là mơ hồ?
Đành rằng, điều này chúng tôi đã nói, khổ quá thì rồi cũng hóa khôn, nhưng anh
đã có thể lần được những điều chúng tôi vạch ra đây thì hãy còn đáng ngờ lắm.
Ví thử các ý nghĩ này có đến với anh thì anh cũng chỉ mới hé thấy thôi, chứ
chưa có thể nhìn ra rành rọt được và như thế nó chỉ được mỗi một việc là làm
cho anh bối rối đến nỗi không sao chịu được và gần như là đau đớn. Anh vừa mới
ra khỏi cái nơi kỳ quái và đen tối kia mà người ta gọi là nhà tù khổ sai, thì
tâm hồn như bị ông giám mục làm cho đau buốt, tựa như cặp mắt vừa ra khỏi bóng
đêm phải nhức nhối trước ánh sáng chói lòa. Cuộc sống mai sau, cuộc sống có thể
hiện ra trước mắt anh thanh khiết và rực rỡ vô cùng, khiến người anh không thôi
rung động và bàng hoàng. Nói thật, anh cũng không hiểu anh đang ra làm sao.
Chẳng khác gì con cú đột nhiên nhìn thấy mặt trời, người trong tù là anh cũng
lóa mắt như mù trước ánh sáng của đạo đức.
Điều
chắc chắn, mà anh không ngờ tới là anh không còn như trước, trong người anh hết
thảy đã thay đổi và dù sao ông giám mục cũng đã chuyện trò với anh, cũng đã làm
anh xúc động, anh có muốn cũng không xóa điều đó được. Tâm trí anh đang ở vào
tình trạng như thế thì anh gặp Bé Giecve và cướp của nó đồng bốn mươi xu. Sao
lại thế! Thật anh không giải thích nổi; tác dụng cuối cùng, vùng vẫy sau rốt
của những ý nghĩ xấu xa mang từ nhà ngục về chăng? Một chút sức đẩy bên trong
còn sót lại, một thứ quán tính như người ta thường nói trong tĩnh học chăng?
Đúng là thế và có thể tệ hơn thế. Nói ngay không phải là anh đã ăn cướp, không
phải con người mà con vật trong anh, vì tập quán, vì bản năng mà làm cái việc
ngu xuẩn là đặt bàn chân lên trên hào bạc, trong lúc trí tuệ đang vật vã giữa
bao nhiêu ám ảnh mới mẻ, khó tả. Khi trí tuệ sực tỉnh và nhận ra hành động kia
của con vật, anh hoảng hốt giật lùi và rú lên ghê sợ.
Quả là
một hiện tượng kỳ lạ và chỉ có thể xảy ra trong tình hình bấy giờ. Bởi vì, khi
cướp đồng hào kia của đứa bé, anh đã làm một việc mà anh không còn đủ sức làm
nữa.
Dù sao
đi nữa, hành động xấu xa cuối cùng này cũng có ý nghĩa quyết định đối với anh.
Nó đã vụt qua cảnh ngổn ngang trong tâm trí anh, dẹp tan nó đi, rạch ra một bên
là những bóng đen dày đặc, một bên là ánh sáng, tác động lên tâm hồn anh trong
tình thế bấy giờ, như một chất hóa học tác động vào một dung dịch đục ngầu, làm
cho một nhân tố kết tủa và nhân tố kia trong lên.
Trước
tiên, chưa kịp có thì giờ suy nghĩ, xem xét lại mình, anh đâm hoảng và như
người tìm đường chạy trốn, anh cố sức tìm lại em bé để trả lại cho em đồng hào:
cho đến khi thấy cố bao nhiêu cũng vô ích, anh mới dừng lại tuyệt vọng. Và lúc
anh kêu lên: ta là một kẻ khốn nạn! Thì đúng là lúc anh vừa nhận ra mình là
người thế nào; anh đã rời xa con người cũ của mình đến mức có cảm tưởng mình
chỉ là một bóng ma, còn trước mắt mình là tên tù khổ sai Giăng VanGiăng đáng
tởm, nó lại bằng xương bằng thịt, tay cầm gậy, mình mặc áo tù, trong xác chứa
đầy các thứ đồ ăn trộm, bộ mặt lầm lì và cả quyết, trong óc đầy những tính toán
xấu xa.
Như chúng
tôi đã lưu ý, vì cùng khổ quá mà anh dễ xin ảo tưởng. Vừa rồi cũng như một sự
hiển hiện. Rõ ràng là anh nhìn thất Giăng VanGiăng, nhìn thấy bộ mặt đáng sợ ấy
trước mặt. Anh gần như đến lúc tự hỏi mình kẻ đó là ai và trong lòng lấy làm
kinh tởm.
Trí óc anh
bấy giờ như đang ở vào một thời khắc dữ dội, nhưng lại yên tĩnh một cách đáng
sợ. Anh như chìm sâu vào mơ màng, sự thật cuộc đời đều như tan biến. Không còn
thấy những sự vật xung quanh, mà lại thấy hiện ra bên ngoài nhiều dáng hình ở
trong đầu óc.
Có thể
nói là anh tự ngắm lấy mình, mặt đối mặt. Và ngay lúc ấy, trong cơn ảo giác,
anh lại trông thấy từ cõi xa bí ẩn, một thứ ánh sáng mà thoạt tiên anh tưởng là
một ngọn đuốc. Nhìn kỹ thêm thứ ánh sáng hiện lên trong lương tâm ấy, anh lại
thấy nó có hình người và ngọn đuốc kia là ông giám mục.
Ý thức
anh lần lượt nhìn hai con người đứng trước mặt mình, ông giám mục và tên Giăng
VanGiăng. Phải có đến lửa thiêng của vị này mới luyện dịu được tên kia. Do tác
dụng kỳ lạ của cơn say sưa này, anh càng mơ màng thì trước mặt anh, ông giám
mục càng to lên, sáng rỡ, còn Giăng VanGiăng thì bé lại và phai mờ đi. Đến một
lúc hắn chỉ còn mơ hồ như cái bóng ma. Đột nhiên hắn biến mất. Chỉ còn một mình
ông giám mục.
Tâm hồn
con người khốn khổ này, nhờ ông mà tràn trề ánh sáng lộng lẫy.
Giăng
VanGiăng khóc lâu lắm. Nước mắt ràn rụa, tiếng khóc nức nở, yếu đuối hơn đàn bà
và sợ hãi hơn trẻ con.
Nước mắt
tuôn ra, đầu óc dần dần sáng sủa lên, một thứ ánh sáng lạ lùng, vừa rạng rỡ lại
vừa kinh khủng. Cuộc đời dĩ vãng, cái tội ăn trộm bánh ngày xưa, cảnh sống tù
tội đằng đẵng mấy mươi năm, cái vẻ ngây độn bề ngoài, cõi lòng cứng rắn bên
trong, ngày phóng thích thấy vui lên, vì bao nhiêu kế hoạch trả thù đã xếp đặt
chuyện xảy ra ở nhà ông giám mục, cái việc vừa mới làm xong, tức việc ăn cướp
đồng hào của thằng bé, cái tội thực là hèn nhát, thực là xấu xa vì nó phạm vào
ngay sau lúc được ông giám mục tha thứ, tất cả những cái đó lần lượt hiện ra
trong óc anh rõ rệt, dưới một thứ ánh sáng anh chưa từng được thấy bao giờ. Anh
nhìn lại cuộc đời của anh mà ghê sợ. Anh nhìn lại linh hồn anh, thấy ghê tởm.
Tuy vậy, hình như dưới ánh sáng của Thiên đường, anh đang nhìn rõ mặt quỷ
Xatăng.
Anh khóc
như vậy bao nhiêu lần? Khóc rồi anh làm gì? Đi đâu? Về sau không ai biết cả.
Chỉ biết rằng, đêm hôm ấy, người chủ xe thường chở khách đi Grơnốp, đến Đinhơ
hồi ba giờ sáng, khi đi qua phố dinh giám mục, có thấy một người quì gối trên
thềm trong bóng tối, trước cửa nhà Đức Cha Biêngvơnuy. Hình như người ấy đang
cầu nguyện.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 3
TRONG NĂM 1817
Chương 1
NĂM 1817
Ngang
nhiên tự tại một cách đế vương và đầy kiêu hãnh. Lui thứ XVIII gọi năm 1817 là
năm thứ hai mươi niên hiệu mình. Hết thảy các hiệu tóc giả quét vôi màu thanh
thiên và vẽ hoa huệ đều mong chờ phấn thơm và con chim nhà vua trở lại. Cũng là
thời mà bá tước Linsơ chủ nhật nào cũng ngồi nơi ghế hội đồng nhà thờ Xanh
Giecmanh đê Pơrê, đánh bộ lễ phục đình thần, với chiếc băng đỏ và cái mũ dài và
trông nghiêng thì có cái vẻ uy nghi riêng của người đã có một hành động vang
dội. Hành động vang dội của ông Linsơlà thế này; ngày 12 tháng 3 năm 1814, lúc
ấy ông đang làm thị trưởng Bóocđô, ông đã giao hơi sớm quá thành phố này cho
công tước Ănggulem. Nhờ đó ông được làm thượng viện.
Năm 1817
cũng là năm đang thịnh hành cái mốt trẻ con năm sáu tuổi tùm hụp trong những
cát két da rộng có miếng che tai giông giống người Etkimô. Quân đội đều mặc
đồng phục trắng giống quân Áo; các trung đoàn đều gọi là dũng đoàn; các đơn vị
không gọi bằng con số mà bằng tên các quận; Napoleon đang ở Xanh Elen, chính
phủ Anh không cấp dạ xanh cho ông, nên ông cho lộn áo cũ để mặc.
Năm 1817
người ta chuộng tiếng hát của Penlơgrini, điệu múa của cô Bigôtini; Pôchiê bấy
giờ làm chúa tể; Ôđơri lúc ấy chưa có. Bà Xaki nối nghiệp Phôriôđô. Đang còn có
quân Phổ ở Pháp. Ông Đơlalô là một nhân vật. Chế độ chính thống vừa khẳng định
mình bằng cách chặt tay, rồi chặt đầu Pơlenhiê, Cácbonnô và Tônlơrông. Quận
công Tanlêrăng nghi lễ đại thần và tu sĩ Luy, bộ trưởng tài chính được chỉ
định, nhìn nhau cười cái cười nước đôi; cả hai đã làm lễ Liên hiệp 14 tháng 7
năm 1790 ở quảng trường Săng đơ Macxơ Tanlêrăng với tư cách giám mục, còn Luy
thì làm bồi tế.
Năm
1817, trong các lối đi của quảng trường ấy, còn nhìn thấy nhiều khúc gỗ to sơn
xanh, mang hình ảnh mờ mờ của những con phượng hoàng và những con ong mầu đã
nhạt. Những súc gỗ ấy nằm phơi ngoài mưa nắng và đang mục dần trong cỏ. Hai năm
trước đây, đó là chân bục của Hoàng đế ở quảng trường Tháng Năm. Rải rác trên
thân các súc gỗ hãy còn những chỗ sém do quân Áo đốt lửa nấu cơm trong khi đóng
dã ngoại gần Gơrô Caiu. Vài ba cây cột đó đã biến mất trong lửa dã ngoại ấy để
cho thân binh Phổ sưởi tay. Cuộc họp mặt Săng đơ Me có cái đặc biệt là họp vào
tháng sáu và ở quảng trường Săng đơ Macxơ.
Trong
năm 1817, hai cái nổi tiếng nhất: thuốc lá và hộp thuốc lá kiểu Hiến chương. Ở
Paris, cái vụ mới nhất làm người ta xôn xao là vụ Đôtăng nắm đầu lâu anh mình
vào bể nước ở Chợ Hoa. Ở bộ Hải quân người ta bắt đầu điều tra về thảm họa của
chiến hạm La Mêđuydơ cái tên sau này Sômaret bị ô nhục, còn Giôricô thì đầy
vinh dự. Đại tá Xenvơ sang Ai Cập rồi làm tỉnh trưởng luôn bên ấy. Lâu đài
Tecmơ, ở phố Hacpơ, có anh thợ đóng thùng đến dọn hàng ở đó. Trên sân thượng
của lầu bát giác ở Cơluyni còn thấy cái lầu ván là nơi dùng làm thiên văn đài
cho Matxiê, nhà thiên văn của hải quân dưới triều Lui XVI. Bà công tước Đuyra
họp ba bốn bạn trai trong phòng khuê của mình có bày nhiều ghế đẩu bọc xa tanh
màu da trời, đọc cho họ nghe cuốn truyện Urica chưa xuất bản.
Ở điện
Luvơrơ(Louvres)người ta cạo các chữ N. Cầu Austeclit bị truất mất tên, đổi
thành cầu Vườn ngự, cái hai lần khó hiểu, nó làm sai nghĩa của cái cầu
Austeclit lẫn cái vườn bách thảo. Louis XVIII, vừa lấy móng tay đánh dấu trong
khi đọc Oartxơ, vừa chú ý đến những bậc anh hùng được lên làm vua cũng như
những anh hùng guốc nhảy lên làm thái tử, nhưng trong bụng vẫn canh cánh hai
mối lo: Napoléon và Matuyranh Bơruynô.
Viện hàn
lâm treo giải thưởng về đề tài: Hạnh phúc trong học tập. Ông Benla công khai là
một nhà hùng biện. Dưới bóng ông đang nẩy mầm cái ông chánh án tương lai đơ
Bơrô, để làm đối tượng giễu cợt cho Pôn Lui Cuariê sau này. Có một anh
Satôbơriăng giả, tên là Macsănggi, trong khi chờ đợi có thể có một anh
Macsănggi giả, là d’Alanhcua. Cơled’ Anbơ và Malec Anden là những tuyệt tác; bà
Côtlanh được coi là nhà văn số một đương thời. Học viện Pháp để người xóa trong
danh sách tên viện sĩ Napoleon Bônapac. Một đạo dụ nhà vua đưa Ănggulem làm đại
đô đốc, thì nhất định thành phố Ănggulem, về pháp lý phải có đủ tư cách là một
hải cảng, không thế thì còn gì là uy quyền thiên tử? Hội đồng bộ trưởng thảo
luận vấn đề có nên cho phép những con tem vẽ hình người leo dây thường thấy
trên các áp phích của Phơrăngcôri mà trẻ con lêu lổng hay xúm lại xem ngoài
phố. Ông Pae, tác giả vở Anhedơ, người có khuôn mặt chữ điền với một nốt ruồi
trên má, chỉ huy các buổi hòa nhạc thân mật ở nhà bà hầu tước Xatxơnê phố
Vinlêvêc. Thiếu nữ đầu hát bài “Ẩn sĩ Xanh Aven”, lời của Etmông Giêrô. Anh lùn
vàng đổi thành Gương soi. Quán cà phê Lambơlanh về phe hoàng đế chống lại quán
cà phê Valoa về phe dòng Buốcbông (Bourbon). Một quận chúa Xivin vừa được gả
cho công tước Beri, ông này đã bị Luven rình từ trong bóng tối. Bà Xtan vừa mất
được một năm. Lính thị vệ huýt còi chê cô Mac. Các tờ báo lớn đều ra nhỏ xíu.
Khổ thu hẹp nhưng tự do thì rộng. Tờ Hợp hiến rất hợp hiến. Tờ Minecvơ gọi
Satôbơriăng là thăn bò nướng (tiếng Pháp: Chateaubriand- văn hào thế kỷ XIX đọc
như chateaubriant – thăn bò nướng). Bọn tư sản được dịp đem nhà văn hào ra cười
khoái chí. Trên mặt một số tờ báo tay sai, những tên bồi bút lên tiếng chửi
những người bị can năm 1815: Đavit không còn tài năng gì; Acnô không còn tài
trí gì; Cacnô không còn trung thực nữa; Xun không chiến thắng trận nào; đúng là
Napoléon không còn thiên tài nữa.
Mọi
người đều biết là thư từ cho người lưu vong gửi qua đường bưu điện chả mấy khi
tới tay họ, vì cảnh sát đã thành kính làm mấy cái nhiệm vụ chặn lại rồi.
Việc này
chẳng có gì mới: ngày xưa, Đêcác bị đày cũng đã phàn nàn rồi. Cho nên, khi
Đavit tỏ ý không bằng lòng trên một tờ báo Bỉ vì không nhận được thư từ gì
người ta gửi cho mình, thì báo chí bảo hoàng cho là chuyện khôi hài và nhân đó
mạt sát người biệt xứ. Nói: quân giết vua hay nói: người biểu quyết, nói: quân
địch hay nói: đồng minh, nói: Napoleon hay nói: Buyônapac, điều đó làm cho hai
người cách biệt nhau trời vự. Hết thảy mọi người hiểu biết đều đồng thanh cho
rằng kỷ nguyên cách mạng đã vĩnh viễn đóng lại với vua Lui XVIII mệnh danh là
“tác giả bất hủ của hiến chương”. Chỗ đầu Cầu mới, người ta chạm chữ Sống mãi
vào cái bệ đang chờ tượng Hăngri IV (Nguyên văn Latinh: Redivivus). Ông Piet
bắt đầu phác họa cái hội kín của mình để củng cố cho chế độ quân chủ, ở ngôi
nhà số 4 phố Têredơ. Các thủ lĩnh phái hữu bô bô trong các dịp quan trọng:
“Phải viết thư cho Bacô”. Các ông Canuyen, Ô Mahôny và Sappơđơlen, đã phần nào
được Đức ủng hộ, bắt đầu một vài nét cái mà sau này trở thành “âm mưu bờ sông”.
Kim Băng Đen về phần mình cũng tiến hành lập hội kín. Đơlavecđơri bắt tay với
Tơrôpgop. Ông Đơcadơ, một đầu óc ít nhiều thuộc cánh tự do, chiếm ảnh hưởng
lớn, Satôbơriăng, sáng sáng đứng trước cửa nhà số 27 phố Xanh Đôminic ( Saint
Dominique), bận quần bịt cả bàn chân, đi giày vải, đầu hoa râm trùm một cái
khăn lụa pha vải, mắt nhìn chăm chú vào gương soi, trước mắt cái hộp dụng cụ
chữa răng đầy đủ mở toang, vừa chải bộ răng xinh đẹp vừa đọc đoạn khác biệt
trong bộ Chế độ quân chủ theo Hiến chương cho người thư ký của mình, ông
Piloogiơ.
Giới phê
bình có uy tín tỏ ra thích Laphông hơn là Tanma. Ông Phêlêt ký bằng một chữ A,
ông Hốp man lại lấy tên là Z, Saclơ Nôđiê viết Têredơ Ôbe. Luật ly dị bị xóa
bỏ. Các trường ly xê đổi tên là Conlegiơ. Học trò các trường Conlegiơ, cổ áo
dính một hoa huệ vàng, đánh nhau chung quanh câu chuyện vui La Mã, cảnh sát
phản gián của hoàng gia tố giác với đức bà Hoàng muội chân dung của công tước
Ooclêăng, bày nhan nhản, ông này bận quân phục thiếu tướng khinh kỵ; thật là
rầy rà. Thành phố Paris bỏ tiền thếp vàng lại vòm cuốn điện Anhvalit. Những
người đứng đắn tự hỏi, trong trường hợp này, trong trường hợp khác, ông
Tơrarhcơlagơ làm gì. Ông Cơlôđen đơ Môngtan, trên nhiều điểm, khác xa ông
Côlôđen đơ Cutxecgơ. Ông Xalabery không bằng lòng diễn viên Pica có chân trong
Viện hàn lâm, nơi mà diễn viên Môlie không vào được; ông ta cho công diễn vở
Hai anh em Philibe ở nhà hát Ôđêông. Trước mặt nhà hát này, ở trên cao, một
dòng chữ đã gỡ đi nhưng vẫn còn trông thấy rõ: Rạp Hoàng Hậu.
Người ta
hoặc ủng hộ hoặc chống lại. Quynhê đơ Môngtaclô, Phaviê thì chia rẽ: Bavu thì
cách mạng. Ông hàng sách Pêlixiê xuất bản bộ Vônte, lấy tên là: Vônte toàn tập,
dưới có dòng chữ “Trong Viện hàn lâm Pháp”. “Như thế sẽ câu được khách”, nhà
xuất bản ngây thơ bảo thế. Dư luận rộng rãi cho ông Saclơ Lôixông là một thiên
tài của thời đại: ganh tị bắt đầu cắn rứt ông ta, đó là dấu hiệu thành công; và
người ta tặng ông câu thơ này:
Lôixông
mà có bay cao
Thiên hạ
trông vào vẫn rõ cẳng chân
Giáo chủ
Phếch không chịu từ chức, ông Pin đại giám mục ở Amadi, cai quản địa phận
Lyông. Thụy Sĩ và Pháp bắt đầu tranh chấp thung lũng Đappơ, sau bản báo cáo của
đại úy Đuyphua. Xanh Ximông, bị bỏ quên, đang xây đắp giấc mơ cao cả của mình.
Ở viện
hàn lâm khoa học có một anh Phuriê nổi tiếng mà về sau chẳng ai biết đến, ngược
lại, ở trong cái xó nào không rõ lại có một anh Phuriê khác vô danh nhưng hậu
thế lại nêu danh mãi mãi.
Huân
tước Bairơn bắt đầu xuất hiện. Một lời dẫn trong một bài thơ của Minlơvoa nói
đến ông ta với độc giả Pháp gọi là “Một huân tước Barông nào đó”. Đavit Đănggie
thí nghiệm nhào cẩm thạch.
Tu viện
trưởng Carông, chuyện trò với dăm ba học sinh chủng viện trong ngõ cụt
Phơidăngtin, khen ngợi một nhà tu hành không mấy ai biết là Phêlixitê Rôbe sau
này trở thành Lamenne.
Một vật
gì vừa hun khói vừa lạch bạch trên sông Xen như tiếng chó bơi, qua qua lại lại
trước cửa điện Tuylơri, từ cầu Ngự đến cầu Lui XV; đó là một thứ máy móc chẳng
tích sự gì, một thứ đồ chơi, một giấc mơ phiến của một anh phát minh vớ vẩn,
một huyễn tưởng: một chiếc tàu chạy bằng hơi nước. Dân Paris nhìn cái trò vô bổ
ấy với con mắt lạnh lùng.
Ông
Vôbơlăng đứng ra cải tổ Học viện Pháp bằng cách lật đổ, ra sắc lệnh phế truất
và tiến cử người hàng loạt, sau khi nổi tiếng đã đẻ được khá nhiều ông hàn thì
bản thân mình lại chẳng được vào chân hàn lâm nào cả.
Vùng
ngoại ô Xanh Giecman ( Saint germain)và khu Matxăng ( Maxent)đều mong ước được
ông Đơlavô làm quận trưởng cảnh sát vì ông nổi tiếng ngoan đạo. Đuypuytơren và
Rêcamiê cãi nhau ở giảng đường đại học Y khoa về tính thiêng liêng của Giêsu
đến nỗi đã giơ nắm tay dọa nhau. Quyviê vừa nhìn vào thiên Sáng thế vừa nhìn
vào thiên nhiên, cố sức làm vừa lòng các đầu óc phản động giả đạo đức bằng cách
làm cho các hóa thạch phù hợp với lời kinh thánh và cho lũ voi cổ vuốt ve
Môidơ. Ông Phơrăngxoa đơ Nơsalô, người có công vun xới cho hương hồn Pacmăngchiê,
tìm hết cách để mọi người lấy cái tên Pacmăngchiê để gọi khoai tây mà không
được (Parmentier là nhà nông học – thế kỷ XVII đã mang giống khoai tây từ Mỹ
vào nước Pháp và dạy trồng trọt, cải tạo giống- Neufchâteau muốn gọi khoai tây
là Parmentier- nhân dân vẫn gọi là pomme de terre có nghĩa là táo đất). Tu sĩ
Gơrêgoa, trước là giám mục, có chân trong quốc hội Quốc ước, thượng nghị sĩ,
được các nhà tranh luận bảo hoàng mệnh danh là “tên Gơrêgoa chết giẫm”. Cách
nói được mệnh danh là ông Roađê Cônla cho là từ tân tạo chứ trong ngôn ngữ
không có.
Người ta
còn nhìn rõ dưới nhịp thứ ba cầu Iêna cái phiến đá trắng, hai năm trước đây
dùng để bịt lỗ mìn mà Bơluyse cho đục để phá cầu.
Tòa án
lôi ra vành móng ngựa một anh chàng vừa thấy Bá tước Actoa bước vào nhà thờ Đức
bà, lại buột mồm nói tướng lên: Mẹ kiếp! Tớ tiếc cái thời tớ thấy Bônapac và
Tanma khoác tay nhau bước vào Ban Xôvagiơ (Talma: diễn viên kịch nổi tiếng cuối
thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX ở Pháp). Giọng lưỡi phiến loạn. Sáu tháng tù. Nhiều
tên phản bội phanh ngực ngạo nghễ: những kẻ chạy sang hàng ngũ giặc trước hôm
đánh nhau, chẳng giấu giếm gì món phần thưởng được ban và nhơn nhơn bộ mặt vô
số ngoài đường ban ngày với tất cả sự giầu sang của mình; những tên đào ngũ ở
Linhi, ở ngã tư, mà hành vi phản bội được trả công đang còn sờ sờ ra đấy, chúng
phô trương lòng trung thành với nhà vua một cách trắng trợn, chúng quên khuấy
cái câu ở bên nước Anh người ta để trên vách trong nhà tiêu công cộng: Nhớ cài
quần trước khi đứng lên.
Trên đây
là một mớ lộn xộn những gì nổi lên mờ mờ trong năm 1817 mà ngày nay không ai
còn nhớ cả. Lịch sử cũng không còn cách nào khác, nên phải bỏ qua hầu hết những
thứ tủn mủn như thế này. Nếu không thì nói bao giờ cho hết. Tuy nhiên những chi
tiết đó mà gọi là nhỏ nhặt thì không đúng, vì trong nhân loại không có việc gì
nhỏ hết, cũng như trong cây cối không có lá nào bé cả, cho nên nó đều có ích.
Chính diện mạo từng năm làm nên diện mạo thế kỷ.
Năm 1817
ấy, bốn chàng trai Paris đã bày “Một trò chơi ác”.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 3
Chương 2
HAI BỘ TỨ
Bốn
chàng trai Paris ấy quê quán mỗi người ở một tỉnh, kẻ ở Tulu, người Limô, người
thứ ba ở Caho, người thứ tư ở Môngtôbăng. Nhưng họ là sinh viên, mà đã là sinh
viên thì là trai thủ đô; học ở Paris và sinh ở Paris.
Bọn họ chẳng
có gì đặc sắc. Ai chả từng thấy những mẫu người tầm thường như thế; những con
người không tốt không xấu, không giỏi không dốt, không phải là thiên tài cũng
không ngu độn, nhưng đẹp phơi phới cái tuổi xuân hai mươi. Có thể gọi họ là bốn
chàng Ôtxca nào đó, vì bấy giờ những chàng Actuya chưa xuất hiện. Lời tình ca
đang réo rắt về Ôtxca: Hãy vì chàng mà đốt lên những hương trầm thơm nhất. Kìa
Ôtxca, Ôtxca đang đi tới, ta sắp nhìn thấy chàng! Người ta vừa mới rời Ôtxiăng.
Phép lịch sự đang theo một trong các xứ Xcăngđinavi và Calêđôni. Còn cái kiểu
Ănglê thuần túy thì về sau mới thịnh hành. Và anh chàng Aclơ đầu tiên,
Oenlinhtơn, thì hầu như vừa mới thắng trận Oateclô thôi.
Các
chàng Ôtxca ấy, một là Phêlit Tôlômiet, người Tuludơ; một là Lichtôliê, người Caho;
một là Phamơi, người Limôgiơ; và người cuối cùng là Balasơven, quê ở
Môngtôbăng. Tất nhiên mỗi chàng có một nhân tình. Balasơven yêu Phavurit, cô
nàng này có sang Anh nên mới gọi như vậy; Lichtôliê mê Đalia (hoa thược dược),
con người đã lấy tên một loài hoa đặt thành tên chơi của mình; Phamơi sùng bái
Dêphin, đúng là Giôdêphin nhưng gọi tắt; còn Tôlômiet thì đã có Phăngtin, gọi
cô là tóc vàng vì đầu tóc nàng óng ả như ánh mặt trời.
Bốn cô
thiếu nữ xinh đẹp, thơm tho, rực rỡ ấy hãy còn giữ được chút cốt cách con nhà
thơ, vì họ chưa rời bỏ hẳn đường chỉ mũi kim. Trên gương mặt các cô còn phảng
phất vẻ trong lành của người lao động; trong tâm hồn các cô còn thoang thoảng
mùi hương trinh thục chưa bay hết khi mới sa ngã một lần.
Trong
bốn cô, có một cô út và một chị cả. Chị cả tuổi cũng chỉ mới hai mươi ba. Quả
đáng tội ba cô chị có từng trải hơn, vô tư lự và phóng túng hơn. Cô út, cô
Phăngtin tóc vàng, lần đầu xây mộng.
Đalia,
Dêphin và nhất là Phavurit thì không thể nói như vậy được. Cô nào cũng có thiên
tình sử của mình, tuy mới bắt đầu nhưng cũng đã được vài ba đoạn. Người bạn
tình ở chương thứ nhất ấy là Ađôphơ, thì sang chương thứ hai đã là Anphôngxơ và
đến chương thứ ba thì lại hóa ra Guytxtavơ. Nghèo túng và ăn diện là hai tên
quân sư tai hại; một tên gắt mắng, một tên dỗ ngọt các cô gái bình dân xinh đẹp
thường nghe cả hai thì thầm bên tai mình, mỗi tên một cách. Và những ai giữ
mình không vững đều xiêu lòng. Từ đó sinh ra sa ngã và bị người ta ném đá, bị
người làm tình làm tội bằng cách đem so với cái rạng rỡ của con người trinh
bạch không với tới nổi. Chao ôi! Nếu Đức mẹ đồng trinh cũng đói khát?
Phavurit
đã ở bên Anh, vì thế Dêphin và Đalia phục nàng lắm. Từ lâu, nàng đã có chỗ ở
riêng. Cha nàng là một ông giáo già dạy toán, người cộc cằn và khoác lác, chưa
từng lấy vợ và dù tuổi già vẫn phải đi dạy giờ ở các tư gia. Hồi còn trẻ, một
hôm ông ta trông thấy chiếc áo dài của cô gái hầu phòng mắc vào miếng sắt chắn
than ở lò sưởi, sự việc ấy khiến ông dâm ra phải lòng cô gái. Kết quả sinh ra
Phavurit. Thỉnh thoảng Phavurit gặp bố mình, ông cụ chào con một cách trịnh
trọng.
Một buổi
sáng, một bà cụ có vẻ giả tu, vào nhà nàng và bảo: “Cô không biết tôi phải
không?” – Không. – “Ta là mẹ mày”. Xong bà ta mở tủ thức ăn, lôi các thứ ra
uống rồi ăn, lại cho khuân tới một chiếc đệm rồi ở lại luôn. Bà mẹ tính càu
nhàu và ngoan đạo ấy không bao giờ chuyện trò gì với Phavurit, có khi suốt mấy
giờ không nói một lời nào, nhưng sáng, trưa, tối, bữa nào cũng ăn như hùm như
hổ, ăn xong lại xuống ngồi lê ở nhà người gác cổng và nói xấu con gái mình.
Về
Đalia, cái gì đưa đẩy Đalia đến với Lichtôliê, chưa biết chừng đến với những
anh chàng khác nữa và đến cảnh ăn không ngồi rồi? Đó là bộ móng tay hồng quá
xinh xắn của nàng. Làm sao bắt nổi những ngón tay ấy lao động? Mà muốn giữ đức
hạnh thì không nên thương tiếc những bàn tay. Còn Dêphin, cái lối nói “Vâng,
thưa ông” tinh nghịch và mơn trớn của này đã làm Phamơi say đắm.
Bốn
chàng trai chơi với nhau nên bốn cô gái cũng trở thành bạn thân của nhau. Những
cuộc tình duyên như thế luôn luôn kéo theo những tình bạn như thế.
Khôn là
một đường, còn ngoan đạo lại là một đường. Chứng cớ là, sau khi đã dè dặt về
việc các cặp tạm bợ này ăn ở với nhau, vẫn phải cho là Phavurit, Dêphin và
Đalia là những cô gái khôn, còn Phăngtin là một cô gái ngoan.
Ngoan,
thiên hạ có cho thế là ngoan không? Còn Tôlômiet thì sao? Xalômông thì cho tình
yêu cũng dự phần trong đức hạnh. Chúng tôi chỉ xin nói tình yêu của Phăngtin là
mối tình đầu, mối tình duy nhất, mối tình chung thủy.
Phăngtin
là người duy nhất không bị xưng hô anh em chung chạ.
Phăngtin
là một bông hoa mọc lên từ trong quần chúng. Ở trong bóng tối dày đặc nơi đáy
sâu xã hội nhô lên, nàng quả là một người không tên tuổi, không ai biết. Nàng
sinh ở cảng Môngtơrơi. Cha mẹ là ai, ai biết? Không ai thấy nàng có cha mẹ.
Người ta gọi nàng là Phăngtin. Sao lại Phăngtin? Cũng không thấy nàng có tên
nào khác. Khi nàng sinh ra vẫn còn chế độ Đốc chính (Một chế độ chính trị ở
Pháp thời cộng hòa đệ nhất, sau cách mạng 1789. Trong chế độ này, quyền chấp chính
trung ương ở trong tay năm vị đốc chính). Nàng không có tên họ, vì nàng không
có gia đình. Nàng cũng không có tên thánh vì lúc bấy giờ làm gì còn nhà thờ
nữa. Thuở nàng còn là một con bé đi chân không trên hè phố, khách qua đường ai
muốn gọi tên nàng là gì thì gọi. Nàng hứng lấy một cái tên cũng như hứng nước
mưa từ trên trời rơi xuống. Người ta gọi nàng là con bé Phăngtin. Chẳng có ai
biết gì hơn nữa. Ấy, một sinh mệnh con người đã được bước vào đường đời như thế
đấy! Năm lên mười, Phăngtin rời bỏ thành phố đi ở cho một gia đình trung nông ở
ngoại thành. Đến mười lăm tuổi, nàng lên Paris để “sinh cơ lập nghiệp”.
Phăngtin rất đẹp. Nàng có giữ mình cho trong trắng mãi. Tóc nàng vàng óng; răng
nàng rất đều. Nàng cũng có vàng ngọc làm của riêng như ai, nhưng vàng của nàng
xếp trên mái tóc, ngọc của nàng giắt ở sau môi.
Nàng lao
động để sống. Và cũng để sống, vì trái tim cũng cần yêu, nên nàng yêu.
Nàng yêu
Tôlômiet, đây chỉ là một thói quen phong nguyệt nhưng đối với Phăngtin,
Phăngtin lại yêu say mê. Khu Latinh, nhan nhản những sinh viên và những cô thợ
lơi lả, là nơi chững kiến buổi đầu của mối tình thơ mộng ấy. Bao nhiêu cuộc
tình duyên đã buộc vào rồi lại cởi ra ở đây. Qua các nẻo đường ngóc ngách,
Phăngtin cũng đã lẩn tránh Tôlômiet mãi, nhưng lẩn tránh thế nào để cho rồi
cũng gặp nhau. Thật vậy! Có một cách tránh nhau mà chẳng khác gì tìm nhau.
Cho nên
rút cục, thiên tình sử vẫn bắt đầu.
Blasơven,
Lichtôliê, Phamơi, Tôlômiet họp thành một nhóm do Tôlômiet cầm đầu. Tôlômiet là
linh hồn của nhóm.
Tôlômiet
là điển hình cổ điển của anh sinh viên lớn tuổi. Hắn giàu, hằng năm có đến bốn
ngàn phơrăng lợi tức. Ai có một gia sản như thế tức thì trở thành một đầu đề để
bàn tán cho khu sinh viên. Tôlômiet là một tay ăn chơi đứng tuổi, vẻ người
trông đã sọm. Mặt hắn đã nhăn nheo, răng có vài chiếc rụng. Đầu hắn đã có dạng
hói, nhưng hắn vui vẻ: Ba mươi hói tóc, bốn mươi trọc lóc đầu gối. Ăn uống, hắn
đã thấy khó tiêu, một bên khóe thường chảy nước mắt. Tuổi xuân càng tàn, hắn
càng châm ngọn lửa hoan lạc. Răng hắn khuyết, những chuyện khôi hài của hắn
không thiếu; tóc hắn rụng, hắn càng nô đùa nhiều hơn; kém sức khỏe, hắn thay
bằng tính mỉa mai châm biếm. Con mắt ướt rượt nước mắt của hắn lại luôn luôn
cười cợt. Cơ thể hắn tiều tụy nhưng hắn hớn hở tươi cười. Tuổi thanh xuân của
hắn tàn tạ quá sớm, nhưng nom hắn vẫn đường hoàng, hắn tháo lui có trật tự,
tháo lui mà cười khanh khách, người ngoài chẳng ai biết đâu vào đâu. Trước hắn
đã viết một vở kịch rạp hát không nhận diễn. Một đôi khi hắn cũng làm mấy câu
thơ vớ vẩn.
Ngoài
ra, hắn còn hoài nghi tất cả, hoài nghi một cách cao đạo. Nhờ thế, hắn rất có
uy tín đối với bọn ngu hèn. Tóm lại, vì hói và mỉa đời, hắn được tôn làm trùm,
Iron là một chữ tiếng Anh có nghĩa là thép. Phải chăng Ironie từ tiếng ấy mà ra
(Ironie tiếng Pháp có nghĩa là tính mỉa mai, nói mát)
Một hôm
Tôlômiet kéo ba bạn ra một chỗ, giơ tay làm hiệu như một bậc tiên tri, rồi nói:
- Đã một
năm rồi, lũ các con Phăngtin, Đalia, Dêphin, Phavurit cứ vòi chúng ta làm quà
cho chúng một cái gì bất ngờ. Chúng mình cũng đã trịnh trọng hứa hẹn. Chúng nó
cứ nói đến mãi, nhất là với tớ. Ở Naplơ, các bà già, thường kêu gọi thánh
Giangviê: Hỡi gương mặt vàng vọt hãy làm phép lạ đi (Nguyên văn tiếng Ý: Faccia
gialluta, fa o miracolo). Ở đây chúng nó cũng thế. Chúng nó cứ nhắc đi nhắc lại
mãi: “Anh Tôlômiet, thế bao giờ anh đề ra được cái món bất ngờ ấy?” Phần thì ở
nhà cứ viết thư giục chúng mình mãi. Hai đầu đều lải nhải. Tớ, tớ cho là cơ hội
đã đến. Thế này này”.
Nói đến
đây, Tôlômiet hạ thấp giọng, bí mật thầm thì một chuyện gì chắc là thú vị lắm
cho nên bốn cái miệng đều toét ra cười khoái trá. Blasơven kêu lên:
- Đó mới
thật là một sáng kiến.
Cả bọn
kéo vào một quán rượu mịt mù khói thuốc lá tiếp tục bàn tính kế hoạch.
Kết quả
hội nghị là bốn chàng trai cùng mời bốn cô thiếu nữ dự một cuộc vui tưng bừng
ngày chủ nhật sau đấy.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 3
Chương 3
TAY TƯ VÀ TAY TƯ
Trai
sinh viên rủ gái lẳng lơ về đồng quê chơi như thế nào hồi bốn mươi lăm năm về
trước, ngày nay khó mà hình dung được. Những vùng chung quanh Paris nào còn như
xưa! Bộ mặt của cuộc sống ngoại thành đã hoàn toàn biến đổi từ nửa thế kỷ nay;
nơi ngày xưa xe bò lóc cóc thì nay đã có xe lửa; chỗ ngày xưa thuyền gỗ qua lại
thì nay đã có tàu thủy; ngày nay mà gọi Phêcăng thì cũng như xưa gọi Xanh Cơlu.
Với Paris năm 1862, ngoại ô là cả nước Pháp.
Bốn cặp
tình nhân rủ nhau tận hưởng mọi thú vui của đồng ruộng có thể có được hồi bấy
giờ. Lúc ấy vừa vào dịp nghỉ hè, bữa đó là một ngày mùa ấm áp, trong sáng. Hôm
trước, Phavurit, người độc nhất biết chữ, nhân danh cả bọn bốn chị em, viết cho
Tôlômiet như sau: “Đi sớm thú nắm”. Vì thế mọi người đều dậy từ năm giờ sáng.
Họ đáp xe ngựa đến Xanh Cơlu, nhìn dòng thác khô cạn và tặc lưỡi: “Chà, cái này
mà có nước thì chắc đẹp lắm đây”. Họ ăn sáng ở hiệu Đầu đen, nơi này lúc ấy
Catxtanh chưa đặt chân đến. Họ bỏ tiền chơi phi ngựa giật vòng, dưới các hàng
cây xen kẽ chỗ bể nước. Rồi leo lên tầng tháp Điôgien. Rồi quay số ăn bánh ngọt
đầu cầu Xevơrơ. Qua Puytô thì hái hoa từng bó. Đến Nơidi lại mua sáo thổi. Còn
bánh kẹp thì đến đâu cũng chén. Thật là sung sướng nhất đời.
Các cô
gái cười cười nói nói, ríu rít như một bầy chim sổ lồng. Thật như ngây như dại.
Chốc chốc các cô lại tát yêu một cái vào má các cậu con trai. Chao ôi! Cái tuổi
trẻ say mê! Những năm tháng vô vàn quí mến! Cánh chuồn rung động! Ôi! Anh bạn,
dù anh là ai anh có nhớ chăng? Đã lần nào anh băng qua bụi rậm, vừa đi vừa rẽ
cành để khỏi vướng vào mái tóc xinh của ai đang lần bước theo sau anh chưa? Đã
lần nào anh vừa cười vừa trượt trên triền cỏ ướt đẫm nước mưa cùng với người
anh yêu, mà nàng thì cầm tay anh giữ lại và kêu lên nũng nịu: “Trời ơi! Đôi
giày mới toanh của em! Anh xem kìa, nó ra hình thù gì thế này!”.
Xin nói
ngay là chuyện gặp mưa vừa thích vừa khó chịu như vậy không xảy ra với đám
người hớn hở này, mặc dù lúc ra đi, Phavurit đã trịnh trọng và lấy giọng từ mẫu
bảo mọi người: “Có sên bò ra lối đi, điềm trời mưa các con ạ”.
Cả bốn
cô đều xinh một cách kỳ lạ. Một nhà thơ cổ điển dễ thương, có tiếng hồi bấy giờ
là ông cụ Labut, trong tư thất của mình cũng đã có một Tây Thi, thế mà buổi
sáng hôm ấy, thơ thẩn dưới rặng dẻ vườn Xanh Cơlu trông thấy bốn cô đi ngang
qua lúc mười giờ, ông liền nhớ đến ba cô trong tranh “Ba mỹ miều” và kêu lên:
Thừa mất một. Phavurit, người yêu của Blasơven, cô chị cả hai mươi ba tuổi,
chạy lên trước. Nàng luồn cành nhảy, phóng bừa qua các bụi rậm, dẫn đầu cuộc
vui, hăng như một cô tiên núi. Dêphin và Đalia lại không rời nhau nửa bước.
Chẳng phải vì thân nhau mà chính vì cả hai đều hơi điệu như nhau. Điều tình cờ
là hai nàng đều đẹp, nhưng người nọ phải đứng bên cạnh người kia, người này bổ
sung cho người nọ thì sắc đẹp của mỗi người mới bật nổi thêm lên. Hai người kề
vai nhau, dáng điệu mơ màng. Dạo ấy những tập ảnh kỷ niệm (Nguyên văn tiếng
Anh: keepsakes) đầu tiên mới ra đời cái buồn vô cớ đang nảy nở trong chị em,
cũng như về sau cái sầu Bairơn lan tràn trong nam giới, cho nên đầu tóc của phụ
nữ cũng bắt đầu liễu rủ (Byron: thi hào Anh, thơ sôi nổi, đau thương. Bairơn
tình nguyện sang giúp sau cuộc khởi nghĩa của dân tộc Hy Lạp chống bọn thống
trị Thổ và hy sinh 1788-1824). Dêphin và Đalia thì đầu tóc đều uốn thành búp
cuộn tròn. Lichtôliê và Phamơi đang cãi nhau về các giáo sư của mình thì giảng
giải cho Phăngtin hiểu ông Đenvanhcua khác ông Blôngđô như thế nào.
Blasơven
thì có vẻ sinh ra chỉ để nâng tấm khăn san quàng lệch cho Phavurit ngày chủ
nhật.
Tôlômiet
đi sau rốt, dáng người cao hơn hết thảy cả bọn. Chàng hết sức vui vẻ nhưng ai
cũng cảm thấy ở chàng con người điều khiển; chàng vui tươi mà có cái gì độc
đoán đấy: chỗ làm dáng chủ yếu của chàng là cái quần chân tượng vải Nam Kinh
màu gạch non, có dây choàng từ bàn chân lên bằng đồng bện chéo: trên tay một
chiếc ba toong bằng mây to bự giá đến hai trăm phơrăng và trên môi một vật khá
kỳ lạ: một điếu xì gà. Chàng cho là chẳng có gì thiêng liêng sất và chàng chẳng
từ một thứ gì, kể cá hút thuốc. Anh em bảo: “Cái thằng Tôlômiet này, đặc biệt
thật. Coi cái quần nó có hắc không! Cừ khôi thật!”
Riêng
Phăngtin nàng vui thật sự. Hàm răng tuyệt mỹ của nàng, chắc hẳn Trời giao cho
cái chức năng là cười. Chiếc mũ rơm nhỏ đính quai dài và trắng, nàng thích cầm
tay hơn là đội. Mớ tóc dày vàng óng rất dễ sổ, nàng phải luôn luôn cặp lại, cái
mớ tóc thường xuyên như muốn bồng bồng, tung bay ấy, hình như đặt trên đầu nàng
tiên Galatê để cho nàng chạy dưới cánh liễu thì mới phải. Đôi môi hồng thỏ thẻ
như giọng oanh. Khóe miệng xếch lên, dáng say sưa, giống như các mặc giả thời
cổ, nhìn vào có vẻ gì như khêu gợi những ý nghĩ sỗ sàng; nhưng hàng mi dài đen
thẫm lại rủ cái bóng e ấp thùy mị xuống làn môi khóe miệng và cự tuyệt mọi cái
ồn ào ở những chỗ này. Cách ăn mặc của nàng như có cái gì bừng bừng và thánh
thót. Nàng mặc cái áo len màu hoa cà, chân đi đôi giày đế cao màu nâu đậm có
ánh sáng, mấy dây buộc đan thành những chữ X trên mặt bít tất trắng, mỏng và
thưa. Nàng khoác thêm một chiếc áo đuôi én bằng len mút, kiểu này là sáng kiến
của dân Macxây, họ đặt tên là áo “hé thử”, theo cách xuyên tạc ở ngoài phố của
chữ “hè thu” (Nguyên văn canezou, đọc xuyên tạc những chữ quinze aout), có
nghĩa là thời gian trời tối, ấm áp, đang trưa. Ba cô kia, như chúng tôi đã nói,
ít rụt rè hơn, thì đều mạnh dạn mặc áo hở vai, trên mũ lại đầy hoa: mùa hè,
cách ăn mặc như vậy trông có duyên thật nhưng cũng nhiều khiêu khích. Bên cạnh
lối trang điểm táo bạo ấy, chiếc áo hè thu trong suốt của Phăngtin tóc vàng vừa
kín đáo vừa e ấp, mở cũng như có mà khép cũng có, thật đáng coi như một sáng
tạo có ý nghĩa thách thức của khoa lịch sự. Và cái câu lạc bộ tình yêu có bà
chủ tịch là nữ tử tước đất Xét, có cặp mắt xanh màu nước biển, chắc hẳn sẽ tặng
giải thưởng làm đỏm cho cái áo hè thu ấy vì nó đóng góp nhiều cho sự tiết hạnh.
Té ra ở đời có khi thế: ngây thơ lại là thành thạo nhất.
Nhìn
Phăngtin đằng trước thì lộng lẫy, nhìn một bên thì thanh tao. Cặp mắt xanh thăm
thẳm, mi trên đầy đặn. Đôi chân thon và chắc, cổ tay cổ chân uyển chuyển. Nước
da trắng mịn, đây đó thoáng lộ những mạch máu màu da trời. Gò má thơ ngây tươi
mát, cái cổ tròn khỏe như tượng Giuynông, cái gáy chắc và mềm mại. Hai vai như do
bàn tay Cutxtu nhào nặn, giữa lõm một lúm đồng tiền đến là say sưa, có thể thấp
thoáng trông thấy dưới lần áo mỏng. Một nét vui tươi pha chút mơ mộng. Nhình
chung, mọi vẻ đều như tạc và vô cùng ý nhị. Ấy, Phăngtin như thế đó. Dưới mớ
quần áo vải vóc kia là một pho tượng và trong pho tượng là một tâm hồn.
Phăngtin
đẹp nhưng không hề biết mình đẹp. Họa chăng có một đôi người hay suy tưởng,
những đồ đệ âm thầm của cái đẹp, thường đem mọi vật ở đời so với cái tuyệt mỹ,
thì mới hé thấy cô thợ bé nhỏ này, qua cái duyên dáng trong suốt của người con
gái Paris, cái nét hài hòa thiêng liêng thời cổ. Cô gái hèn mọn này thế mà con
nòi. Nàng đẹp ở hai phương diện: phong cách và nhịp điệu. Phong cách là hình
thức lý tưởng còn nhịp điệu là sự vận động của lý tưởng ấy.
Chúng
tôi đã nói Phăngtin là niềm vui, nhưng Phăngtin là sự trinh bạch.
Kẻ nào
quan sát nàng một cách chu đáo sẽ thấy ở người nàng, từ tất cả cái say mê của
tuổi xuân, của nắng hạ, của tình yêu, đều toát lên một vẻ dè dặt, khiêm tốn
không gì thắng mổi. Nàng còn giữ chút ít ngạc nhiên. Chính cái ngạc chiên trong
trắng ấy là chỗ phân biệt Pxisê và Vệ nữ. Phăngtin có những ngón tay trắng và
thon của một đạo cô đang lấy trâm vàng cời tro giữ ngọn lửa thiêng. Dù nàng
chẳng hề từ chối một cái gì đối với Tôlômiet – cái điều ấy sẽ rõ – gương mặt
nàng lúc thảnh thơi vẫn muôn vàn băng tuyết. Đôi khi một thứ tự trọng nghiêm
chỉnh và hơi khắc nghiệt, bỗng dưng chiếm lấy người nàng. Vẻ vui tươi tự nhiên
biến mất, khuôn mặt đang rạng rỡ bỗng đổi sang trầm ngâm, rười rượi. Những lúc
ấy trông nàng, người ta phải lấy làm lạ lùng và ái ngại. Cái dáng nghiêm trang
đột ngột ấy, có khi nghiêm khắc rõ rệt, na ná như vẻ kiêu hãnh của một nữ thần.
Vừng trán, sống mũi, cái cằm có sự cân đối của đường nét, khác hẳn với sự cân
đối hình dáng, làm cho khuôn mặt nàng đều đặn, hài hòa. Ở quãng trống rất đặc
biệt giữa mũi và môi, nàng hãy còn giữ cái nếp kín đáo rất dễ thương, cái dấu
hiệu bí ẩn của sự tiết trinh. Chính cái nếp ấy đã từng khiến cho Bacbơrut đâm
phải lòng một tượng nữ thần Đian tìm thấy trong di chỉ Icôn.
Tình yêu
là tội lỗi: vâng – Nhưng Phăngtin lại là sự trong trắng nổi lên tội lỗi.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 3
Chương 4
TÔLÔMIET VUI QUÁ HÁT MỘT BÀI HÁT TÂY BAN NHA
Cả cái
ngày hôm ấy từ đầu chí cuối chỉ có bình minh. Vạn vật vui như hội. Vườn cảnh
Xanh Cơlu thơm ngát ngọn gió sông Xen nhẹ rung lá biếc, cành cây nhún nhẩy múa
may. Những con ong vàng xông lên cướp nhụy hoa nhài. Từng đàn bướm nô đùa trong
cỏ dại. Trong cảnh vườn ngự tôn nghiêm có cả một lũ chim trời du đãng.
Bốn cặp
thanh niên hòa mình trong ánh nắng, trong lúa đồng, trong hoa cỏ, cây lá và
cùng đua khoe thanh sắc.
Trong
khung cảnh thiên đường, họ nói, họ hát, họ chạy nhảy, họ săn bướm, họ hái hoa
bìm, họ dầm những đôi chân mang bít tất hồng vào cỏ ướt. Tươi lành, điên dại,
dễ dãi, các cô nhận đây đó những cái hôn của cả bọn, trừ Phăngtin, nàng vẫn giữ
cái dáng phản kháng âm thầm, cái vẻ mơ màng cách biệt, vì nàng yêu! Phavurit
bảo nàng: “Mày lúc nào cũng thế nào ấy!”
Họ vui
như thế đó. Những lứa đôi đang yêu và sung sướng mà đi qua nơi nào thì ở đó
thiên nhiên và sự sống dường như cũng bị lay động sâu xa và mọi vật đều sôi
trào âu yếm và ánh sáng. Ngày xưa có một nàng tiên chỉ vì thương những người
bạn tình mà làm ra cho họ bãi cỏ và chòm cây. Từ đó mà có cái trò muôn thuở
“ngồi bụi cây” của những cặp tình nhân, cái trò luôn luôn diễn đi diễn lại cũng
như trò “học trong bụi cây” (Nguyên văn: école buissonière, thành ngữ, có nghĩa
là trường trong bụi) luôn tồn tại chừng nào trên đời còn có bụi cây và học trò.
Cũng từ đó mà mùa xuân mới được các nhà tư tưởng mến yêu. Quí tộc xũng như dân
đen, quận công cũng như không nhà, trong triều cũng như ngoài quận, tất cả đều
làm tôi cho nàng tiên ấy. Người ta cười, người ta tìm nhau, trong không khí
dường như có ánh sáng thần tiên rực rỡ. Chao ơi! Con người biến đổi biết bao
khi người ta yêu! Một anh làm công quèn cũng tưởng mình như được lên tiên. Và
những lúc đùa reo đuổi bắt nhau trên nội cỏ, bất thần tóm được lưng nhau; lời
cục cằn thành điệu du dương, một ngữ khí, một âm thanh cũng tràn đầy yêu dấu;
những lúc một quả anh đào mồm nọ cướp của mồm kia, tất cả các phút giây ấy đều
rực sáng và đi vào cõi thần tiên chói lọi. Các cô thiếu nữ xinh tươi quả đã đem
tất cả hương sắc của mình ra phung phí một cách say sưa. Cảnh tượng đó người ta
tin là không bao giờ chấm dứt. Triết gia, thi sĩ, họa sĩ ngắm nhìn những cảnh
mê ly ấy mà đành chịu bất lực vì chúng nó chói lóa cả mắt. Oattô kêu: đây là
cảnh “Rủ nhau ra đảo tình yêu”; Lăngcơre, nhà họa sĩ bình dân, đành ngắm họ như
bay bổng tận mây xanh; Điđơrô thì dang tay chào đón tất cả các cuộc tình duyên
ấy, còn Đuyêchphê lại tả thêm vào cảnh đó mấy vị thầy mo.
Cơm trưa
xong cả bọn kéo nhau vào khu vườn ngự xem thứ cây lạ vừa mới đưa từ Ấn Độ sang.
Cây tên gì ngày nay chúng tôi không nhớ ra, chỉ biết là hồi đó cả Paris đều đến
Xanh Cơlu để xem. Giống cây kỳ dị ấy thân nhỏ, thong thong, trông rất xinh,
chẳng có chiếc lá nào, toàn một mớ vô số là cành cây rối bù, nhỏ như sợi chỉ,
phủ đầy một lượt không biết cơ man nào là hoa trắng li li, nom giống như một
đầu tóc rắc phấn trắng. Ngày nào cũng khối người vây quanh trầm trồ ngắm nghía.
Xem cây
xong, Tôlômiet vụt kêu lên: “Tớ cho các cậu đi lừa nhé!” Mặc cả với người cho
thuê lừa đâu vào đấy, cả bọn ngồi lừa trở về theo lối Văngvơ và Itxi. Đến Itxi
xảy ra một việc. Vườn cây, tài sản quốc gia, lúc ấy thuộc quyền sở hữu của
người chủ thầu quân nhu Buốcganh, hôm ấy ngẫu nhiên cổng lại mở toang. Họ đi
thẳng vào vườn, đến thăm hình nhà ẩn sĩ trong hang đá, vào phòng trưng bày các
loại gương, thử chiếu để xem các hiện tượng, các sắc màu kỳ lạ. Cái phòng trưng
bày khá nổi danh vì những hình ảnh khêu gợi dục tính này chẳng qua cũng là thứ
cần câu tiền rất xứng với một tay làm tiền trở thành triệu phú hoặc một tên bất
lương trở thành vị thần vườn tược. Họ cùng đến chơi đưa võng chỗ chiếc lưới
căng giữa hai cây dẻ. Các cô gái lần lượt leo lên võng. Tôlômiet cũng lần lượt
ru. Lưới võng đưa mạnh, chiếc váy cũng tung bay. Cả bọn phá lên cười. Cái cảnh
quần hồng phấp phới này, giá có Gơrơdơ thì nhà họa sĩ chúng ta cũng chộp được
một nếp xiêm trong quần thanh thú. Tôlômiet, cái anh chàng có ít nhiều máu Tây
Ban Nha trong người, vì Tuludơ có họ với một hành phố bên Tây Ban Nha là
Tôlôda, mà chàng thì là người Tuludơ, Tôlômiet vừa đưa võng vừa cất tiếng hát
theo điệu buồn buồn một bài dân ca cổ mà cảm hứng chắc bắt nguồn từ hình ảnh
một thiếu nữ xinh đẹp tung bay trên chiếc thừng chăng giữa hai hàng cây: (Trong
nguyên tác bài hát này lời bằng tiếng Tây Ba Nha)
Anh là
người ở quê xa
Vì tình
nên phải bôn ba với tình
Đu bay
tung váy cô mình
Da em
băng tuyết cho anh thẫn thờ
Hồn dâng
trong mắt ước mơ
Riêng
Phăngtin nàng từ chối không đu võng. Phavurit thầm thì giọng khá chua chát: “Tớ
không thích kiểu làm điệu như thế”.
Họ bỏ
lừa xuống thuyền. Lại một dịp vui mới. Họ ngồi thuyền qua sông Xen, rồi từ
Patxi đi bộ về quảng trường Ngôi Sao. Mọi người còn nhớ, họ thức dậy từ năm giờ
sáng, thế mà Phavurit cứ bảo: Mặc kệ, chủ nhật làm gì có mệt mỏi, ngày chủ nhật
cái mệt cũng nghỉ việc. Vào quãng ba giờ chiều, bốn cặp tình nhân, say mềm hạnh
phúc, còn chơi trò trượt dốc ở cái núi yên ngựa, một công trình xây đắp kỳ dị
nằm trên ngọn đồi Bôgiông, mà đường nét vòng vèo nhìn thấy nhấp nhô trên các
ngọn cây quảng trường Săng Êlidê.
Chốc
chốc Phavurit lại kêu:
- Thế
cái món bất ngờ đâu? Đây muốn xem cái bất ngờ ấy.
Tôlômiet
bảo:
- Hãy
đợi tí nữa!
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 3
Chương 5
Ở QUÁN BÔNGBACĐA
Chơi
chán ở núi yên ngựa, họ nghĩ đến cơm chiều và cả bọn tám người xem chừng đã mệt
giạt vào quán Bôngbacđa. Quán này là chi nhánh đặt ở Săng Êlidê của chủ hiệu ăn
nổi tiếng Bôngbacđa có cửa hàng chính ở phố Rivôli bên cạnh ngõ Đơlócmơ.
Một căn
buồng rộng, xấu xí, trong cùng có ngăn kê giường. Chủ nhật quán đông nghịt, cả
bọn đành phải bằng lòng một chỗ nghỉ chân vậy. Buồng cũng có hai cửa sổ có thể
đứng ngắm cảnh bến sông bên kia rặng cây. Ánh hè rực rỡ phớt qua khung cửa. Hai
cái bàn, một cái để mũ nón đàn ông, đàn bà lẫn lộn với các bó hoa sặc sỡ chất
cao như núi, một bàn bày loạn xạ nào thức ăn, nào đĩa không, nào chai cốc, nào
cốc bia, hồ rượu. Bốn cặp ngồi chung quanh. Trên bàn hơi lộn xộn, dưới bàn cũng
chút ít rối ren. Đúng như lời thơ Môlie:
Dưới bàn
ăn có tiếng gì kinh quá
Chân này
đạp, chân nọ khoèo, loạn xạ!
Âu, tới
bốn giờ rưỡi chiều thì cuộc vui diễn bắt đầu từ năm giờ sáng đã đưa đến chỗ đó.
Trời về chiều, mọi người bụng đã no nê.
Quảng
trường Săng Êlidê đầy nắng, người qua lại như mắc cửi, đúng là vinh quang, chỉ
gồm có bụi và ánh sáng. Mấy con ngựa cẩm thạch của Macli như đang hí và lồng
lộn trong bụi vàng. Xe tứ mã qua qua lại lại. Một đội vệ binh quân phục rực rỡ,
kèn đồng dẫn đầu, rẽ đường xuống đại lộ Nơidi. Lá cờ trắng, phơn phớt hồng
trong ánh hoàng hôn, phấp phới trên vòm nóc cung Tuylơri. Quảng trường Hòa hợp
nay lại lấy tên cũ là quảng trường Lui XV, người đi dạo đông nghịt. Nhiều người
ra vẻ đắc chí, lủng lẳng chiếc hoa huệ bằng bạc dính vào một cái dải bằng sa
trắng gợn vân. Cái dải trắng này mãi đến năm 1817 hãy còn thấy lác đác ở cúc áo
một số người. Đây đó một nhóm người qua đường dừng lại, vây quanh một toán em
gái nhỏ đang múa hát và vỗ tay tán thưởng. Các em gửi vào gió một điệu hát nổi
tiếng hồi bấy giờ của người phái Buốcbông dùng để mạt sát cái chính quyền Bách
nhật mà điệp khúc là:
Trả cho
ta bố xứ Găng của ta
Trả cho
ta bố ta
(Bố xứ
Găng tức là Lui XVIII. Trong thời kỳ bách nhật, Lui XVIII trốn ở Grand, một
thành phố thuộc nước Bỉ) Từng đám đông dân ngoại ô súng sính quần áo ngày lễ,
có người đeo cả hoa huệ như bọn thị dân, tản mát khắp các khu vườn hoa, chơi
trò phi ngựa giật vòng hoặc ngồi quay trên lưng ngựa gỗ. Nhiều kẻ khác đang
đánh chén. Một số là thợ nhà in đang học việc, mũ giấy đội đầu, từ xa đã nghe
tiếng họ cười. Tất cả đều hớn hở. Thật là một đời thái bình thịnh trị. Chính
hồi này quận trưởng cảnh sát Ăngơlet, trong bản mật tấu đặc biệt lên nhà vua về
tình hình các vùng ngoại ô Paris, đã kết thúc bằng những lời lẽ như sau: “Xét
cho kỹ, tâu bệ hạ, bọn người ấy chẳng có gì đáng sợ cả. Chúng nó vô lo và uể
oải như mèo. Bọn dân đen các tỉnh mới hay rầy rà chứ ở Paris thì không. Bọn
chúng bé nhỏ quá thể. Tâu bệ hạ, phải hai đứa chồng lên nhau thì mới cao bằng
một anh pháo thủ trong cấm binh. Chẳng phải lo ngại tí nào về phía bọn dân ngu
của thủ đô. Rất đáng để ý là từ năm mươi năm nay, vóc người họ cứ thấp dần và
ngày nay dân ngoại ô bé nhỏ hẳn đi so với hồi trước cách mạng. Chúng nó chẳng
có gì nguy hiểm. Tóm lại cái lũ chó đẻ ấy mà ngoan”.
Các ngài
quận trưởng cảnh sát thì làm sao mà tin được mèo có thể hóa thành sư tử! Ấy thế
mà có thật và đó là phép màu của dân chúng Paris. Còn giống mèo mà bá tước
Ăngơlet khinh bỉ đến nước ấy, thật ra lại được các nền cộng hòa thời đó tín
nhiệm. Trong mắt họ, mèo là hiện thân của tự do và để cho tượng thần Minecvơ
không cánh dựng ở Paris khỏi phải trơ vơ, họ dựng tiếp ở quảng trường Côranhtơ
tượng một con mèo khổng lồ bằng đồng hun. Ngành cảnh sát của chính quyền phục
hưng kể cũng ngây thơ, họ nhìn dân chúng Paris hơi quá “hồng”. Chẳng phải như
họ tưởng, dân chúng Paris không hề là “lũ chó đẻ, mà ngoan”. Dân Aten có vai
trò như thế nào trong người Hy Lạp thì dân Paris cũng có vai trò như vậy trong
người Pháp. Chẳng ai ngủ bì họ, chẳng ai thật tình phù phiếm và lười biếng như
họ, cũng chẳng ra vẻ hay quên bằng họ. Tuy vậy xin ai chớ tin vào đó: họ có vẻ
sinh ra để chẳng thèm lưu ý đến bất cứ cái gì, ấy thế mà khi có vấn đề vinh
quang nêu cao trước mắt thì họ có thể làm tất cả mọi việc hăng say, không ai
sánh kịp. Đưa giáo cho họ, họ sẽ làm nên ngày 10 tháng 8; đưa súng cho họ, họ
sẽ có Auxteclit. Napoleon lấy họ làm chỗ dựa. Đangtông coi họ là nguồn lực
lượng. Tổ quốc lâm nguy ư? Họ sẵn sàng nhập ngũ. Tự do lâm nguy ư? Họ sẵn sàng
cạy đường lấy đá. Coi chừng! Tóc họ có thể vì căm thù mà dựng ngược ; chiếc áo
lao động của họ có thể biến thành chiến bào. Hãy cẩn thận, bất kỳ phố xá ngõ
ngách nào họ cũng có thể biến thành thiên la địa võng bắt quân thù phải hạ
giáp. Cho nên đến lúc cần thì người dân ngoại ô ấy lại lớn lên, con người bé
nhỏ ấy lại đứng dậy, mắt họ nhìn sẽ dữ tợn, hơi thở họ sẽ như bão táp và từ
lồng ngực mỏng manh của họ sẽ tuôn ra đủ giông tố để xáo trộn từng dòng khe
mạch của dãy Anpơ. Chính nhờ người dân ngoại ô Paris mà cách mạng, xen lẫn vào
các đạo quân, chinh phục châu Âu. Họ hát, đó là họ vui- Cứ so điệu hát cho vừa
tầm với bản chất họ mà xem! Chỉ được lặp đi lặp lại có bài Cácmanhôn thì họ chỉ
lật đổ nổi Lui XVI, cho họ hát bài Macxâyde họ sẽ giải phóng cả thiên hạ.
Xong mấy
lời ghi chú trên đây bên lề bản báo cáo của Ănggơlet, xin trở lại với bốn cặp
tình. Như trên đã nói, bữa cơm chiều vừa xong.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 3
Chương 6
THƯƠNG YÊU NHAU
Chuyện
phiếm sau bữa cơm, chuyện phiếm về tình yêu đều như nhau, chẳng đâu vào đâu;
chuyện tình yêu thì như mây, chuyện sau bữa cơm thì như khói.
Phamơi
và Đalia khe khẽ hát; Tôlômiet tiếp tục uống rượu; Dêphin và Phăngtin kẻ cười
thành tiếng, người chỉ cười nụ. Lichtôliê lôi cái kèn gỗ mua ở Xanh Cơlu ra
thổi. Phavurit đưa mắt nhìn Blasơven một cách âu yếm và nói:
- Anh
Blasơven, em mê anh.
Thuận đà
Blasơven hỏi lại:
-
Phavurit này, nếu anh không yêu em nữa thì em làm thế nào?
Phavurit
kêu lên:
- Ấy,
đừng nói thế, dù là nói đùa! Em ấy à? Anh mà không yêu em, thì em tóm lấy anh,
em cấu này, em xé này, em thì trát tro vào mặt này và em gọi cảnh sát nhốt cổ
anh lại.
Blasơven
mỉm cười, cái cười khoái chí được nghe những lời nịnh nọt. Phavurit tiếp:
- Vâng,
em nhất định kêu cứu vệ binh! Em lồng lên phải biết ! Đồ chết tiệt!
Blasơven
sung sướng quá, ngả hẳn người trên ghế, nhắm mắt, kiêu hãnh:
Đalia
vừa ăn vừa nói nhỏ với Phavurit giữa tiếng ồn ào náo động:
- Mày
sùng bái anh Blasơven của mày thật hở?
Phavurit
vớ lại cái nĩa cầm lên, cũng đáp khe khẽ:
- Tao
ghét nó. Nó kiệt. Tao thích cái thằng bé trước ở cửa nhà tao kia. Cậu ấy thế mà
hay đáo để mày có biết cậu ta không? Trông có thớ diễn viên lắm. Tao rất thích
bọn diễn viên. Động thấy cậu ta về là bà cụ kêu lên: “Trời! Còn làm sao mà ở
yên được nữa hở trời! Nó lại sắp gào lên rồi kìa. Này con, con làm mẹ điếc tai
nhức óc ơi!” – Thì ra cu cậu chui vào nhà trong, tìm cái xó cái xỉnh nào trên
gác, leo lên được đến đâu là cứ leo, rồi thì hát hò, ngâm nga, ai còn biết làm
cái thứ quỉ gì, nhưng mà dưới nhà thì nghe rõ mồn một! Cậu ta lại còn chép đơn
chép từ gì cho một tay thừa lại mỗi ngày một phơrăng nữa kia. Bố cậu ta ngày
xưa là chân hát lễ trong nhà thờ Xanh Giăccơ ấy mà. Cậu ấy thế mà hay ra phết.
Một hôm thấy tao nhào bột làm bánh, cậu ta bảo: “Cô nàng ơi, cô nàng nhào luôn
bít tất tay cô mà làm bánh, tớ cũng xin ăn”, mày tính thế thì cậu ta yêu tao
biết chừng nào! Tao cho chỉ có nghệ sĩ mới nói được một lời như thế. Chà! Cậu
ta hay thật. Tao đang mê mệt vì cái thằng bé ấy đây. Cũng chả sao, tao cứ nói
Blasơven là tao sùng bái hắn ta. Tao nói dối tệ mày nhỉ! Dối thật!
Phavurit
ngừng một chốc, rồi nói tiếp:
- Đalia,
mày biết không, tao buồn lắm. Suốt hè chỉ có mưa, còn gió nữa, gió chẳng chịu
thôi gào thét, làm tao phát bực. Anh chàng Blasơven thì kiệt chết cha chết mẹ,
chợ búa gì khổ sở mới có chút ít bơtiboa, chả biết ăn cái gì. Tao buồn vô cớ
mày ạ, tao lên cơn xplin (spleen tiếng Anh, có nghĩa là bệnh buồn chán vô cớ)
như bên Anh họ nói ấy. Bơ sao mà đắt thế! À này, mày xem, đáng tởm không? Chúng
mình đi ăn uống ở một nơi có cái giường ngủ, kiểu này làm tao chán đời.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 3
Chương 7
TRIẾT LÝ CỦA TÔLÔMIET
Một vài
người hát, bọn còn lại thi nhau chuyện trò bô bô cả phòng ồn ào, huyên náo. Vừa
lúc ấy Tôlômiet chen vào:
- Này,
đừng có bạ gì nói nấy và nhanh như nhặt rau thế - anh chàng kêu lên – Suy nghĩ
một ít cho nó có vẻ chứ. Cứ cương mãi thì chả mấy chốc là trơ ra ngay. “Dục
tốc” là bất đạt. Xin quí vị hãy từ từ. Phải oai nghiêm khi nhậu nhẹt, mà chén
thì phải trầm tĩnh; xin các ngài yến ẩm từ từ cho. Đừng có vội. Cứ xem mùa xuân
kia kìa, mùa xuân mà vội thì có mà cháy đứt đuôi, nghĩa là chết cóng. Chú đào
chú mận nào mà hăng dấn lên một tí là đi đời. Bữa cơm ngon mà hăng quá thì cũng
chẳng còn gì là thú vui tao nhã. Không cần hăng, các vị ạ! Các nhà sành ăn xưa
nay đều cũng ý kiến như thế cả.
Một làn
sóng phản đối ngấm ngầm trong cả bọn, Blasơven nói trước:
-
Tôlômiet, xin cậu để yên cho chúng tớ.
Phamơi
tiếp:
- Đả đảo
độc tài!
Lichtôliê
hét:
- Quân
Bôngbacđa, ăn cho căng bụng và chơi cho hết ga!
- Tuần
lễ còn có chủ nhật chứ! – Phamơi nối lời.
- Chúng
tớ biết điều độ chứ, - Lichtôliê thêm.
-
Tôlômiet – Blasơven bảo – cậu xem tớ tỉnh táo đàng hoàng đây này.
- Cậu
tỉnh táo bảo hoàng chứ lị - Tôlômiet đáp.
Bấy giờ
bảo hoàng đang là cái mốt cho nên cậu chơi chữ tầm thường như thế lại có tác
dụng như hòn đá ném xuống ao. Ếch nhái đều câm bặt.
Tôlômiet
như người nắm lại được thế điều khiển, lên giọng kẻ cả:
- Các
bạn ạ, hãy bình tĩnh lại, không cần phải hoảng hốt dữ như thế trước câu đùa từ
trên trời rơi xuống ấy. Những cái từ trên trời rơi xuống như vậy không nhất
thiết phải được đón nhận nhiệt tình và trọng vọng. Trí tuệ bay bỗng thì vãi ra
cái trò bông lơn chơi chữ, còn câu đùa câu cợt thì bạ đâu rơi đó và trí óc đẻ
xong cái thứ vớ vẩn như vậy liền chui tụt lên mây xanh. Một vệt gì trăng trắng
mà giáng xuống mõm đá thì làm sao cấm được đại bàng bay lượn! Cút đi những ai
phỉ nhổ cái trò bông lơn chơi chữ! Tớ quí trọng nó là trong chừng mực nó được
việc, có thế thôi. Tớ biết tất cả cái gì tôn nghiêm hơn hết, cao cả hơn hết
trong nhân loại và có lẽ cả ngoài nhân loại, đều từng chơi chữ. Giêsu Cơrit đã
có một câu bông lơn chơi chữ về thánh Pie. Môidơ cũng về Idác, Etsin thì về
Pôlinit, Cơlêôpat thì Ôctavơ. Nên nhớ rằng câu bông lơn chơi chữ của Cơlêôpat
là có trước trận Actium và giá không có câu ấy thì chẳng ai còn nhớ đến thành
phố Tôrin, theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là cái thìa lớn. Các điều trên đây cũng
khá mất thì giờ rồi đấy, bây giờ thì xin trở lại lời khuyên ban nãy. Các người
anh em ạ, tớ nói lại, đừng hăng, đừng ồn ào, đừng thái quá, ngay trong lời hóm
hỉnh, vui đùa, trong say sưa, chơi chữ. Anh em nghe tớ, tớ thận trọng như
Amphiarot, tớ lại có một cái đầu hói của Xêda: Cái gì cũng có hạn (Nguyên văn
còn có câu La Tinh: Est modus la rebus chơi chữ theo lối rebus cũng phải có
hạn). Trò chơi vặt cũng thế. Mà ăn cũng thế. Các vị phu nhân, các vị thích bánh
kẹp nhân táo, được nhưng đừng ham ăn quá. Ăn bánh kẹp cũng phải có lương tri và
nghệ thuật. Chứng tham ăn sẽ trừng phạt kẻ ăn tham. Cái cổ làm khổ cái bụng.
Trời sinh chứng đầy bụng để dạy khôn cho dạ dày. Và, xin nhớ giùm cho điều này:
mỗi tính ham mê của chúng ta, kể cả yêu đương, đều có một cái dạ dày mà chúng
ta chớ nên cho chứa đầy quá. Bất kỳ cái gì cũng phải biết kịp thời chấm dứt,
phải biết kiềm chế mình lúc tình thế khẩn cấp, bụng còn thèm đấy nhưng phải
khóa cửa nhốt thèm thuồng, bắt giam thích thú, tự đưa mình đến bót cảnh sát. Kẻ
khôn ngoan là kẻ đến một lúc nào đó biết tự trói mình nhận lỗi. Xin các bạn hãy
tin tớ một tí. Chẳng gì tớ cũng võ vẽ học luật, các lần thi cử rõ ràng là thế
mà. Với lại tớ cũng biết vấn đề chung cứu và vấn đề đương cứu khác nhau như thế
nào: tớ cũng đã bảo vệ một luận án bằng tiếng La Tinh về các cách xử nhục hình
ở La Mã thời xưa, chưa kể hình như tớ sắp đỗ tiến sĩ, không nhất thiết vì thế
mà tớ phải là thằng ngu! Tớ khuyên các bạn nên ham mê cho chừng mực. Điều đó là
thật; cũng như tên tớ là Phêlit Tôlômiet, tớ không đùa đâu, tớ nói thật. Kẻ nào
lúc cần, biết xử trí một cách dũng cảm và từ bỏ chức vị cao sang của mình như
Xinla, hay Origien; kẻ ấy sung sướng thật!
Phavurit
lắng nghe rất chăm chú. Nàng nói:
-
Phêlit, chữ hay nhỉ! Mình thích cái tên ấy. Tiếng La Tinh đấy, có nghĩa là
thịnh vượng mà.
Tôlômiet
tiếp:
- Các
bạn vương hầu bá tước của tôi ơi! Các bạn có muốn miễn sắm giường cưới, cóc cần
tình yêu mà chẳng phải ngứa ngáy trong người tí nào không? Rất đơn giản. Bí
quyết chỉ có thế này: uống nước chanh, tập tành cho quá một tí, làm việc nhiều,
làm việc nặng cho mệt nhoài vào, đừng ngủ thức cho khuya, tọng vào các thứ nước
hơi, nước chát, ngâm các thứ đắng thứ cay vào, cứ thường kỳ nhịn đói thật
nghiêm, nhịn đói cho rạc người ra, rồi thì tắm nước lã, lấy lá thuốc nịt bụng,
buộc mảnh chì, bôi nước ôxyt chì, xát dấm pha loãng.
- Tớ thì
thích đàn bà hơn – Lichtôliê nói.
- Đàn
bà! – Tôlômiet đáp – đừng có tin đàn bà. Khốn thay cho những ai đặt lòng tin
vào trái tim bất thường của người đàn bà! Đàn bà là quanh co, quỉ quyệt. Họ
ghét rắn là vì họ ghen với kẻ cùng loại đó thôi. Rắn là cái cửa hiệu trước mặt
hiệu mình.
-
Tôlômiet, cậu say rồi – Blasơven kêu lên.
- Cóc
say! – Tôlômiet cãi.
- Vậy
thì phải vui lên – Blasơven bảo.
- Tớ
đồng ý – Tôlômiet đáp lại.
Chàng rót
đầy một cốc rượu rồi đứng lên:
- Hoan
hô rượu! Bây giờ, hỡi Bacchus, ta hãy uống đi (Nguyên văn: Nume te, Bacche
canam! Bacchus: Thần rượu, theo thần thoại Hy Lạp). Xin lỗi các cô, tôi nói
tiếng Tây Ban Nha. Chứng cớ đây này: dân xứ nào có cái đựng rượu xứ ấy. Thùng
phuy ở Cattidơ chứa mười sáu lít, thùng tô nô ở Alicăng chứa mười hai, ở Canari
đến hai mươi lăm, ở Balêa hai mươi sáu, cong chiếc ủng của sa hoàng Pie thì
những ba mươi. Ông vua Nga vĩ đại ấy, muôn năm ông ta, nhưng chiếc ủng của ông
ta còn vĩ đại hơn, vậy muôn năm chiếc ủng! Thưa các vị phu nhân, đây xin có một
lời khuyên tri kỷ, nếu các phu nhân thấy hay hay thì xin các phu nhân cứ nhầm
người láng giềng cho. Tình yêu bản chất nó là lang thang. Yêu đương chốc lát
thì chuyện gì ngồi chết một chỗ cho mụ người đi như một bõ già, gối chân gối
tay chai sần lên tất cả. Đã là chuyện ong bướm thì dại gì, cứ bay lượn vui vẻ!
Người ta bảo: nhầm là thuộc tính của tình yêu. Thưa các vị phu nhân, đây yêu
tất cả các vị. Dêphin ơi, à Giôdêphin ơi, con người vẻ mặt sau mà nhàu nát quá
thế, em sẽ đẹp bao nhiêu nếu em không bị lệch. Mặt em rất đẹp mà tưởng tượng
như có ai vô tình ngồi phịch lên trên em ơi! Còn Phavurit, hỡi hằng nga, tiên
nữ ơi! Các nàng có biết không? Một hôm Blasơven lội qua suối, anh thấy một cô
gái xinh đẹp xắn quần cao ống để hở cặp đùi lồ lộ. Cái màn đầu là lạ ấy, anh
chàng ta thích, thế là yêu. Nàng tiên nữ ấy tức là Phavurit. Phavurit ơi! Em có
đôi môi đẹp như tranh. Ngày xưa ở Hy Lạp có một họa sĩ tên là Ơphôriông. Ông ta
được mệnh danh là nhà họa sĩ vẽ môi. Chỉ có ông ấy mới xứng đáng được vẽ cặp
môi em. Tôi nói câu này nhé! Trước em, chẳng có ai xứng đáng là công trình sáng
tạo của Chúa cả. Em chính là người sinh ra để nhận quả táo như Vệ nữ hay để cắn
vào quả táo như Evơ. Có em, nhan sắc mới ra đời. Tôi vừa nói đến Evơ chứ gì? Em
là người sinh ra Evơ đó. Em đáng được cấp bằng phát minh ra con người đẹp vậy.
Phavurit ơi, tôi thôi không gọi em bằng em nữa, vì tôi đang từ lĩnh vực thơ ca
chuyển sang văn xuôi. Lúc nãy cô nhắc đến tên tôi, điều đó làm tôi cảm động
lắm; nhưng cho dù chúng ta là người như thế nào đi nữa, chúng ta cùng đừng tin
vào cái tên. Cái tên chẳng đúng tí nào. Tôi tên là “Thịnh vượng” nhưng tôi nào
có sung sướng. Chữ nghĩa hay lừa dối lắm. Đừng có nhắm mắt nghe nó chỉ bảo.
Thật là sai lầm, nếu viết thư đến thành phố Giăng để mua găng tay (Nguyên văn:
Gand và gant, đồng âm) và đến Lyông để mua ly cốc (Nguyên văn: Liège (thành
phố) và liêge điên điên, đồng âm). Cô Đalia ạ, tôi như cô tôi lấy tên là Hồng.
Hoa phải thơm, cũng như phụ nữ phải thông minh. Còn Phăngtin thì tôi chả dám
nói gì cả. Phăngtin là một cây nghĩ ngợi, một cây mơ mộng, một cây suy tưởng,
một cây cảm xúc: Phăngtin là một bóng ma có lốt người tiên nữ, có đức e lệ của
ni cô, nàng đi lạc vào cõi lả lơi và ẩn mình nơi ảo tưởng, nàng ca hát, nàng
cầu nguyện, nàng ngước nhìn mây xanh mà cũng chẳng biết mình trông thấy gì,
mình đang làm gì và cứ thế, mắt để trên trời cao, nàng thẩn thơ qua một khu
vườn ở đó chim chóc còn nhiều hơn trong thực tế! Phăngtin ơi! Em nên biết điều
này: anh Tôlômiet của em là một ảo tưởng đây. Thế nhưng nàng có nghe thấy đâu,
cô em tóc vàng chỉ sống với ảo mộng! Dù sao, ở nàng cái gì cũng tươi mát, thơm
tho, cũng son sẻ, dịu dàng như ánh ban mai, Phăngtin ơi! Em đáng được gọi là
thủy tiên hay bích ngọc, em là con người của xứ sở thần tiên.
Thưa các
vị phu nhân, tôi lại có một lời khuyên thứ hai: chớ có lấy chồng. Lấy chồng
cũng tỉ như ghép cây, may thì tốt, rủi thì xấu, chi bằng tránh cái rủi may là
hơn. Nhưng mà, ngốc! Tôi nói cái gì thế nhỉ! Tôi líu lưỡi mất rồi. Đàn bà, con
gái, làm sao mà chữa cho họ lành được cái bệnh “mống chuồn”! (Nói lái) Những
người hiểu biết như chúng ta có cái gì thì nói chứ làm sao ngăn các cô khâu đầm
khỏi mơ ước một ông chồng giàu sụ? Thôi, cũng được. Nhưng mà các vị này, các vị
nhớ cho: các vị ăn nhiều của ngọt quá. Phụ nữ các cô có mỗi một tội, các cô
nhấm nháp lắm thứ ngọt. Ôi! Cái giới gặm nhấm kia, những chiếc răng trắng nhỏ
xinh của các người ưa thích đường lắm. Các cô nghe cho rõ, đường là một chất
muối. Muối thì háo. Đường lại là loại háo nhất trong các chất muối. Nó hút chất
nước trong mạch máu; do đó sinh ra máu đông, máu ứ; sinh ra sưng, ra tấy trong
phổi và thế là chết. Có thế bệnh đái đường mới dẫn đến bệnh lao. Cho nên các cô
chớ có xơi của ngọt nếu các cô muốn sống lâu!
Bây giờ
tôi xin nói chuyện với các vị đàn ông. Thưa các vị, các vị cứ chinh đông tảo
bắc cho tôi. Các vị cứ cướp bóc người yêu của nhau đi, không cần ăn năn hối hận
gì cả. Cứ đánh chéo góc đi, trên tình trường chẳng có bạn với bè gì hết. Có gái
đẹp là có tranh chấp. Đánh đến cùng, không chừa, không tha chi cả! Gái đẹp là
một cớ gây ra chiến tranh: (Nguyên văn Latinh: Casus bell) có bao nhiêu cuộc
xung đột, quả tang là một người đàn bà đẹp! Xưa nay trong lịch sử các cuộc xâm
lược đều do cái váy của phụ nữ mà sinh ra cả. Đàn bà là quyền lợi của đàn ông.
Rômuylút, Guyôm, Xêda đến đâu đều chiếm lấy gái ở đó. Kẻ không được yêu thì như
con kên kên bay lượn trên nhân tình của kẻ khác. Tớ thì tớ hướng về những anh
chàng “phòng không” xấu số ấy mà tuyên bố như Bônapac tuyên bố một cách siêu
hùng trước quân đoàn Itali của mình: “Hỡi binh sĩ, các người thiếu thốn tất cả.
Những gì các người thiếu thốn, quân địch đều có”.
Tôlômiet
dừng lại như hết hơi. Blasơven bảo:
-
Tôlômiet, cậu nghỉ tí đã.
Cùng lúc
đó, Blasơven có Lichtôliê và Phamơi giúp sức, cất giọng xót thương hát một bài
hát thợ thuyền. Bài hát như ghép lung tung chữ nọ với chữ kia, có câu có vần
rất chỉnh mà có câu không, nội dung vô ý nghĩa như gió thổi cây lay. Những bài
hát như thế này, thợ thuyền vừa hút thuốc vừa đặt ra, cho nên nó cũng mau chóng
bay đi và tan biến như khói thuốc lá. Đây là một đoạn đáp lại bài hát kêu gọi
Tôlômiet:
Kìa các
bác gà tây
Tung
tiền cho tụi chân tay
Lo cho
cái ông Sấm sét
Được
phong Giáo hoàng ngày Tết
Nhưng
nào có được chi đâu
Sấm sét
nào phải thầy tu
Chân tay
ta đành tất tưởi
Mang
tiền trả các bác gà tây Nhưng bài hát chẳng hề khiến cho dòng cảm hứng của
Tôlômiet bớt sôi nổi. Chàng dốc cạn cốc rượu, rót đầy một cốc khác và nói tiếp:
- Đả đảo
triết lý! Các vị hãy quên đi các lời tôi vừa nói. Chúng ta đừng nên cố chấp,
đừng nên thận trọng, cũng đừng nên quá lành. Ta cứ vui chơi thoải mái đây!
Chúng mình phải biết ăn uống, biết ngông cuồng để bổ sung cho các bài luật học.
Bội thực và Đigext (Nguyên văn: Digesle, bộ sách luật tập hợp theo lệnh hoàng
đế Giuytxtiniêng). Giuytxtiniêng và chè chén phải như đôi vợ chồng. Ấy cái vui
nó ở sâu như vậy đó! Hỡi tạo vật! Hãy sống đi! Vũ trụ là một khối kim cương.
Tôi thấy mình sung sướng. Chim chóc hân hoan lạ. Đâu đâu cũng như ngày hội!
Chim họa mi réo rắt giọng danh ca. Nắng hè ơi! Ta chào người. Hỡi vườn
Luychxămbua xinh đẹp, hỡi những bàn tình ca bên gốc cây bờ cỏ! Hỡi những anh
lính mơ mộng! Hỡi những cô giữ trẻ xinh tươi, các cô vừa giữ trẻ thơ vừa chơi
trò thai nghén trẻ thơ! Giá không có các vòm cửa uốn cong của rạp Ôđêông thì
tôi thích những cánh đồng cỏ mênh mông ở Nam Mỹ biết bao nhiêu! Tâm hồn tôi
đang bay bổng trên những thảo nguyên, những rừng nguyên thủy tận bên trời. Chao
ôi! Cái gì cũng diễm lệ! Con ruồi vo ve trong ánh nắng. Mặt trời hắt hơi ra con
chim đỏ lửa. Phăngtin ơi, hôn anh đi!
Chàng ôm
nhầm phải Phavurit.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 3
Chương 8
NGỰA CHẾT HẾT CHUYỆN
Dêphin
bỗng dưng kêu lên:
- Ở hiệu
Êđông cơm ngon hơn ở Bôngbacđa.
- Tớ thích
đến Bôngbacđa hơn - Blasơven đáp.
- Ở đó
sang hơn. Phương đông hơn. Hãy nhìn phòng dưới nhà. Có gương trên tường đấy.
- Tớ
thích có gương trong đĩa hơn (Nguyên văn: glaces vừa có nghĩa là gương vừa có
nghĩa là kem) – Phavurit nói.
Blasơven
nhấn mạnh:
- Xem
dao này. Ở Bôngbacđa cán bạc, ở Êđông cán xương. Bạc thì quí hơn xương.
- Trừ
những ai có cái cằm bằng bạc - Tôlômiet chữa lại.
Lúc này
chàng đang nhìn vòm mái cung Anhvalit, qua cửa sổ quán Bôngbacđa.
Một phút
im lặng trong phòng:
- Này,
Tôlômiet – Phamơi nói to – ban nãy tớ và Lichtôliê vừa mới tranh luận đấy.
- Tranh
luận, khá đấy – Tôlômiet đáp – cãi cọ hay hơn.
- Chúng
tớ tranh cãi về triết học.
- Được.
- Đêcac
và Xpinôđa, cậu thích ai hơn?
- Tớ
thích Đêđôgiê - Tôlômiet đáp.
Tuyên bố
xong điều đó, chàng nhấp một hớp rượu rồi tiếp:
- Tớ
đồng ý phải sống. Trên đời này mọi sự chưa phải đã hết bởi vì người ta còn có
thể nói quấy nói quá được. Xin cám ơn các vị thần linh bất tử. Người ta nói dối
đấy người ta lại cười. Người ta khẳng định nhưng người ta lại nghi hoặc. Từ
kiểu tam đoạn luận bật ra những cái bất ngờ. Hay lắm. Dưới gầm trời này hãy còn
có người khéo biết dùng cái bất ngờ của ngụy biện! Thưa các vị phu nhân, rượu
mà các vị đang yên tĩnh nhấm nháp đây, là rượu Mađe, các vị nên biết, cái xứ sản
xuất ra nó, Curanđa Frera ở cheo leo cách mặt biển những ba trăm mười bảy sải!
Uống phải coi chừng! Ba trăm mười bảy sải chứ ít đâu! Và ông Bôngbacđa, nhà
hàng ăn cừ khôi, lại đem cho ta ba trăm mười bảy sải ấy đổi lấy có bốn phơrăng
rưỡi!
Phamơi
một lần nữa ngắt ngay:
-
Tôlômiet ơi, lời nói của cậu như là khuôn vàng thước ngọc cả. Vậy cậu thích nhà
văn nào nhất?
- Béc...
- Canh?
- Không,
Su (Berquin: nhà văn Pháp thế kỷ XVIII. Berchoux nhà thơ Pháp 1765-1839).Và
Tôlômiet tiếp tục:
- Hoan
hô Bôngbacđa! Ví thử ông ta làm sao mà dắt về cho tớ một vũ nữ Ai Cập hay Hy
Lạp thì có thua gì các nhà hàng ăn nổi tiếng ở các xứ đó? Tớ nói thế, các vị
phu nhân nhà ta có biết không? Ở các xứ ấy cũng có những ông Bôngbacđa như ở
ta. Đó là theo lời Apulê. À, té ra bao giờ cũng bấy nhiêu chuyện chẳng có gì
mới cả. Trong vòng tạo vật mọi cái đều cũ hết! Xalômông nói: Chẳng có gì mới
dưới ánh mặt trời. Viêcgin nói: Tình yêu là cái chung cho mọi người (Nguyên văn
Latinh). Cho nên công nhân gái thì theo sinh viên trai leo lên thuyền buồm ở
Xanh Cơlu, cũng như nàng Atxpađi cùng theo Pêricơlét trên hạm đội Xamôt. Xin có
một câu cuối cùng. Các vị có biết Atxpađi thế nào không? Atxpađi sống vào thời
buổi mà đàn bà coi như không có tâm hồn, thế mà nàng là một tâm hồn rực rỡ, vừa
hồng tươi vừa đỏ thẫm, còn nồng cháy hơn lửa, tươi mát hơn bình minh. Atxpađi
là nơi gặp gỡ giữa hai cực của người đàn bà: nàng vừa là gái đĩ vừa là nữ thần.
Xôcơrat cộng với Manông Lêcô. Nếu Pơrômêtê cần một gái ăn sương thì Atxpađi là
người sinh ra để đóng vai ấy.
Tôlômiet
đang đà thao thao, khó mà dừng lại được, nếu ngay lúc ấy một con ngựa không lăn
đùng ra vệ đường. Nghe đánh sầm một cái là cỗ xe cũng như diễn giả liền đứng
sững lại. Thì ra là một con ngựa cái già và gầy đến bật xương, đang kéo một
chiếc xe ba gác nặng. Đến trước quán Bôngbacđa, con vật kiệt sức, không chịu
bước đi nữa. Thấy lạ, một đám đông dồn lại. Người đánh xe nổi cáu, văng tục.
Anh ta vừa giơ roi quật như trời giáng xuống lưng con vật, vừa nghiến răng bật
ra tiếng chửi long trọng: “Con chó” thì con vật ngã quị luôn xuống đường, tắt
thở. Nghe tiếng người ồn ào ngoài đường, các thính giả vui tươi của Tôlômiet
bỗng ngoảnh nhìn ra ngoài. Tôlômiet nhân dịp chấm dứt bài diễn văn của mình
bằng mấy vần buồn buồn sau đây:
Trăm năm
trong cõi người ta
Số xe
phận ngựa cũng là như nhau
Trải qua
một cuộc khổ đau
Cái thân
ngựa khổ sống lâu được nào!
(Nguyên
văn tác giả nhại mấy câu thơ nổi tiếng của Malherbe) Phăngtin thở dài:
- Tội
nghiệp con ngựa!
Đalia
kêu ngay:
- Coi
kìa, cái con Phăngtin này nó lại đòi thương xót cả loài ngựa! Có ai mà ngốc như
thế hở trời!
Cùng lúc
ấy, Phavurit vòng tay sau gáy, ngả đầu, nhìn thẳng vào Tôlômiet và nói:
- Thế
nào? Còn cái món bất ngờ kia đâu?
- Chính
là lúc đây. Thưa các ngài, đã đến giờ làm cho các quí nương đây ngạc nhiên.
Thưa các vị phu nhân, các vị hãy vui lòng chờ chúng tôi một lát.
Blasơven
nói:
- Trò
này bắt đầu bằng một cái hôn.
Tôlômiet
thêm:
- Trên
trán.
Và mỗi
chàng trai trịnh trọng hôn lên trán tình nhân mình. Xong họ nối đuôi nhau đi ra
cửa, một ngón tay đặt lên môi. Thấy thế Phavurit vỗ tay:
- Chưa
gì đã vui rồi đấy.
Phăngtin
thỏ thẻ:
- Đừng
có đi lâu nhé. Chúng em chờ các anh đấy.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
QUYỂN 3
Chương 9
CUỘC VUI TÀN TRONG CẢNH VUI VẺ
Bọn con
gái còn lại một mình bèn đem nhau ra cửa sổ. Cứ hai người một, họ tì tay lên
bậc cửa, cúi nhòm ra ngoài và tán gẫu, nói chuyện truyền từ cửa này sang cửa
kia. Họ trông thấy bọn con trai từ quán Bôngbacđa khoác tay nhau đi ra. Chúng
quay lại, vẫy tay cười, rồi đi lẫn vào đám đông đầy bụi bặm của những ngày chủ
nhật ở quảng trường Săng Êlidê.
Phăngtin
gọi với theo:
- Đừng
đi lâu đấy nhé!
Dêphin
hỏi bạn:
- Không
biết rồi họ mang cái gì về cho chúng ta nhỉ?
- Chắc
là đẹp lắm – Đalia bảo.
Phavurit
thêm:
- Tớ thì
tớ muốn là một thứ đồ vàng.
Rồi họ
xao lãng, vì cảnh tấp nập ở phía bờ sông, trông qua màn lá những cây lớn bên
đường quá vui mắt. Lúc ấy đương là giờ khởi hành của các chuyến xe thư và hành
khách. Hầu hết các xe đi về nam và về tây đều qua Săng Êlidê. Phần lớn chạy dọc
bờ sông rồi theo cửa ô Patxy ra khỏi thành phố. Cứ mỗi phút, một cỗ xe lớn sơn
vàng và đen chở lặc lè, ầm ầm chạy qua, hình thù méo mó xộc xệch vì mang đầy
những hòm, những bọc, những va li, những đầu người thoáng hiện, thoáng khuất.
Đá lát đường nát vụn dưới bánh sắt. Cỗ xe dáng giận dữ xông qua giữa đám người,
như cả một cái lò bễ tóe lửa và bốc bụi lên như khói. Cảnh huyên náo làm cho
các cô thích chí. Phavurit reo:
- Nghe
loảng xoảng tợn nhỉ! Như từng đống xích sắt tung bay.
Có một
lúc, các cô trông thấy lờ mờ qua màn lá, một chiếc xe dừng lại một thoáng rồi
lại phóng lên. Phăngtin lấy làm lạ:
- Lạ
chửa! Em cứ tưởng xe chuyến thì chẳng bao giờ đỗ lại.
Phavurit
so vai:
- Cái
con bé Phăngtin này thật là kỳ! Tao đến phải đi coi mày như một của lạ. Chẳng
có cái gì là không làm cho mày ngạc nhiên. Đây nhé: tao là một hành khách; tao
dặn người đánh xe: tôi đi lên trước, tôi đón anh ở đường bờ sông. Xe đi, xe
trông thấy tao, xe đỗ lại cho tao lên. Ngày nào mà không có chuyện như thế! Em
chẳng hiểu gì việc đời cả, em ạ.
Một lát.
Bỗng Phavurit như tỉnh giấc:
- Ô này,
món quà bất ngờ đâu nhỉ?
Đalia
cũng nói:
- Ơ nhỉ!
Cái món bất ngờ ghê gớm ấy đâu?
Phăngtin:
- Các
anh ấy đi lâu thế:
Phăngtin
vừa buông xong tiếng thở dài thì người hầu bàn khi nãy vào, tay cầm cái gì như
là một phong thư:
Phavurit
mau miệng hỏi:
- Cái gì
thế?
- Các
ông ấy trước khi đi có để cái giấy này lại cho các bà.
- Sao
anh không đưa vào ngay?
- Vì các
ông ấy dặn là phải chờ một tiếng đồng hồ rồi hãy đưa.
Phavurit
giật tờ giấy trên tay người hầu bàn. Quả là một phong thư:
- Ô này!
Thư không đề địa chỉ. Nhưng lại có mấy chữ:
Đây là
món quà bất ngờ
Cô vội
vàng bóc thư mở ra đọc (cô biết đọc):
“Hỡi các
em yêu dấu!
Các em
nên biết rằng các anh có cha mẹ. Nói đến cha mẹ, các em chẳng hiểu là cái gì.
Dân luật giải thích ngây thơ nhưng đúng: cha mẹ là cha sinh mẹ đẻ. Ấy, cha mẹ
của bọn anh đương than vãn, các ông bà già ấy đương gọi các anh về, những con
người chất phác ấy mắng các anh là đồ phá gia chi tử. Các cụ mong các anh về,
các cụ hứa mổ bò ăn khao. Các anh vốn là những đứa có hiếu nên phải tuân lời.
Lúc các em đọc tờ giấy này cũng là lúc bốn con ngựa hăng máu đang chở bọn anh
về với các cụ. Bọn anh dùng chước “thừa cơ lẻn bước ra đi” như nhà thơ đã nói.
Các anh đi đây, các anh đi thẳng. Các anh tẩu bằng xe, các anh bay bằng cánh.
Chuyến xe Tulu đang kéo các anh ra khỏi vực thẳm, vực thẳm ấy chính là các em,
hỡi các cô bé xinh đẹp! Các anh trở về với cha mẹ, với bổn phận, với nề nếp.
Các anh phóng nước đại, tốc độ ba dặm một giờ. Tổ quốc muốn rằng các anh phải
như thiên hạ, nghĩa là cũng làm quận trưởng, cũng lấy vợ đẻ con, cũng làm lính
tuần phòng hay bộ trưởng. Các em nên tôn thờ các anh. Các anh đã tự hy sinh
đây. Các em hãy khóc các anh sơ qua một tí thôi, rồi liệu chong chóng tìm người
thay chân các anh. Nếu lá thư này vò xé lòng các em thì các em vò xé trả. Thôi,
vĩnh biệt nhé.
Trong
ngót hai năm, các anh đã làm cho các em sung sướng. Vậy đừng nên oán thán các
anh.
Ký tên:
Blasơven
Phamơi
Lichtôliê
Tôlômiet
Tái bút:
“Bữa cơm đã thanh toán” Bốn cô nhìn nhau.
Phavurit
lên tiếng trước:
- Thế
nào! Gọi là một trò hí kịch cũng phải đấy chứ!
Dêphin:
- Buồn
cười thật đấy!
Phavurit
lại nói:
- Đây
chắc là sáng kiến của anh chàng Blasơven. Nó làm cho mình càng say mê hắn. Cứ
hễ người ta đi thì mình lại đâm yêu người ta, chuyện đời là thế!
Đalia
cãi:
- Không
đâu. Chính là ý kiến của Tôlômiet. Khó gì mà không nhận thấy.
- Nếu
vậy thì – Phavurit lại nói – đả đảo Blasơven, hoan hô Tôlômiet!
Cả lũ
phá ra cười.
Phăngtin
cũng cười như các bạn.
Một giờ
sau, khi về đến buồng riêng, Phăngtin khóc. Đây là mối tình đầu của nàng, ta đã
biết. Phăngtin đã hiến thân hoàn toàn cho Tôlômiet như đối với một người chồng
và tội nghiệp, nàng đã có con.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 4
GỬI TRỨNG CHO ÁC
Chương 1
MỘT NGƯỜI MẸ GẶP MỘT NGƯỜI MẸ
Ở Môngphecmây,
gần Paris, khoảng đầu thế kỷ này, có một hàng cơm nhỏ ở ngõ Hàng Bánh, thứ hàng
cơm nhỏ ấy ngày nay không còn nữa. Vợ chồng chủ quán tên là Tênácđiê. Trước cửa
hàng có một tấm bảng đóng ngay vào tường, phía trên khung cửa. Trên bảng có vẽ
hình cái gì như là hai người cõng nhau, người trên đeo lon vàng cấp tướng với
nhiều sao bạc to. Nhiều vệt đỏ hình dung vệt máu. Chung quanh là khói, ý hẳn để
diễn tả một cảnh chiến trường. Dưới bảng đề chữ: Quán đội trưởng Oateclô.
Một cái
xe bò hay xe ba gác nằm trước một quán cơm thì có gì là lạ! Song cỗ xe, hay nói
cho đúng, mảnh xe cổ quái này, đỗ trước hàng cơm Đội trưởng Oateclô một chiều
xuân năm 1818 và chắn cả lối phố, thật đáng cho một nhà họa sĩ chú ý vì cái
khối của nó.
Đó là
nửa trước của một cỗ xe đại ở miền rừng dùng để chở gỗ. Cái nửa trước cỗ xe này
gồm có một trục sắt đặc tra vào một đòn dọc nặng, tất cả đặt trên hai bánh xe
to tướng. Toàn bộ trông thấp lùn, nặng nề, xấu xí. Người ta ngỡ đó là giàn đế
của một khẩu đại bác khổng lồ. Đường lắm ổ gà đã khiến cho bánh, vành, moa-ơ,
trục, đòn đều bết một lớp bùn vàng bẩn khó coi, tương tự như lớp vôi vàng người
ta tra quét lên tiền diện của nhà thờ lớn, bị bùn che lấp, sắt bị gỉ phủ kín.
Dưới trục xe lòng thòng một chiếc xích to bự, xứng đáng để xích Gôltal nếu hắn
là tù khổ sai. Trông cái xích ấy, người ta không nghĩ đến những súc gỗ nó chở
đi, mà nghĩ đến những con voi thái cổ có thể buộc vào ách. Nó có dáng của nhà
tù, nhà tù nhốt bọn khổng lồ dị thường. Hình như nó được cởi ra từ mình một
quái vật. Hôme có thể dùng nó trói Pôliphem còn Sêchxpia thì trói Calibăng.
Sao nửa
chiếc xe chở gỗ ấy lại nằm ở đây? Trước hết là để cho vướng lối; sau nữa là để
cho nó gỉ nát hẳn đi. Ở trong trật tự xã hội cũ kỹ của chúng ta, cũng có hàng
mớ những thứ tổ chức nằm vướng vất ở lối đi, ngay giữa trời như vậy cũng chẳng
có lý do tồn tại gì khác thế.
Dưới
trục xe có một cái xích sắt thòng xuống gần sát đất. Hai em bé gái ngồi trên
khoảng vòng cung ấy như ngồi trên một chiếc võng đu. Em lớn, chừng hai tuổi
rưỡi, em bé được độ mười tám tháng. Em bé ngồi trông rất đáng yêu. Một chiếc
khăn tay khéo buộc giữ cho chúng khỏi ngã. Có lẽ khi trông thấy chiếc dây xích
dễ sợ ấy, một bà mẹ đã tự nhủ: “à, có chỗ để cho con ta chơi đây!”
Áo quần
của hai đứa bé rất xinh và cũng cầu kỳ đôi chút. Trông các em hớn hở như hai
đóa hoa hồng giữa đống sắt gỉ. Mắt các em sáng rỡ, má các em tươi tắn như cười.
Một em tóc hạt dẻ, một em tóc nâu. Gương mặt ngây thơ của các em sáng lên vì
ngạc nhiên và sung sướng. Một bụi cây nở hoa gần đó tỏa hương thơm, làm cho
khách qua đường ngỡ là bay lên từ hai đứa bé. Em bé mười tám tháng ngây thơ
phơi cái bụng trần xinh xắn: rõ thật là vô ý nhưng cũng thật là ngây thơ trong
trắng. Hai cái đầu nhỏ nhắn như nặn bằng hạnh phúc, như tôi trong ánh sáng, nổi
lên giữa khung xe to tướng đen sì gỉ sắt, ghê gớm, chằng chịt những đường cong
đường gẫy, khom khom như một cửa hang. Cạnh đấy, bà mẹ ngồi xổm ở ngưỡng cửa đu
đưa võng con bằng một sợi dây dài. Người mụ không có vẻ gì đáng ưa, nhưng thấy
đôi mắt mụ như ôm ấp con, lo lắng sợ con ngã với bản năng của người mẹ, người
ta cũng cảm động. Các võng xích mỗi lần đu đưa lại kêu kin kít như giận dữ. Hai
em thích chí. Ánh nắng chiều cũng xen vào cuộc vui. Không gì kỳ thú bằng cái
cảnh ngẫu nhiên một cái xích sắt của bọn khổng lồ lại biến thành chiếc võng đào
của một đôi ngọc nữ.
Người
đàn bà vừa đưa võng ru con vừa hát một bản tình ca quen thuộc, giọng sai lạc:
“Âu phải
thế” chàng trai thỏ thẻ. Mải hát, mải ngắm con, mụ không chú ý gì đến hàng phố.
Có người đi đến gần mụ. Khi mụ vào đoạn đầu khúc hát thì có tiếng ai nói một
bên tai:
- Hai
cháu bé của bà trông xinh quá!
Với cô
Gin diễm lệ, đa tình
Mụ hát
tiếp câu ấy, trả lời cho khách lạ, rồi mới quay lại nhìn.
Một
người đàn bà đứng trước mặt mụ, cách vài bước. Chị ấy cũng bế một đứa con nhỏ.
Chị còn mang một cái đãy lớn có dáng nặng lắm.
Con của
chị đẹp như tiên đồng. Đó là một bé gái độ hai ba tuổi. Cách ăn mặc đỏm dáng
của nó có thể địch với hai đứa trẻ kia. Mũ nó viền đăng ten, áo ngoài có nhiều
ruy băng, dải mũ bằng hàng thượng hạng. Chiếc váy ngắn hếch lên để lộ cặp đùi
trắng, bụ bẫm và chắc nịch. Trông nó thật là hồng hào, mạnh khỏe. Ai cũng muốn
cắn vào hai bên má phinh phính như hai quả táo. Còn hai con mắt thì chưa thể
nói rõ được, chắc là to lắm và có hàng mi dài rất đẹp. Em đang ngủ.
Em ngủ
giấc ngủ tuyệt đối tin cậy của tuổi thơ. Tay mẹ là tay âu yếm, con nằm trong
tay mẹ cứ việc ngủ say sưa.
Người mẹ
trông nghèo nàn, buồn bã. Chị ăn mặc như một người thợ sắp quay trở về làm nông
dân. Chị còn trẻ lắm. Đẹp hay xấu? Có lẽ đẹp. Nhưng ăn mặc thế thì ai biết
được. Tóc của chị chắc chắn là tốt lắm; có một mớ óng vàng đổ xuống, còn bao
nhiêu nằm chạt trong chiếc mũ vải thô, xấu xí, chật hẹp, có dải buộc xuống dưới
cằm. Có răng đẹp thì người ta hãy cười để phô trương, nhưng chị không cười. Đôi
mắt hình như vừa ráo lệ chưa được bao lâu. Người chị xanh xao. Chị có dáng mệt
nhọc lắm và chừng như hơi đau yếu. Chị cúi nhìn đứa con đang ngủ trên tay với
cái nhìn riêng biệt của người mẹ nuôi lấy con. Một chiếc khăn tay xanh rộng, giống
như khăn thương binh, gấp chéo thành khăn quàng che lấp đường nét thân hình
chị. Bàn tay rám nắng của chị lấm tấm những vệt đỏ. Ngón trỏ đầy vết kim châm
sần sùi. Chị mặc một chiếc áo choàng nâu bằng len xấu, một chiếc áo dài vải thô
và đi đôi giầy lớn. Đó là Phăngtin.
Chính
Phăngtin. Thật khó nhìn ra. Nhưng nom cho kỹ nàng vẫn đẹp. Má bên phải của nàng
có một nếp nhăn buồn, có thể là một nét chán chường sớm hiện. Bộ cánh ngày nào,
bộ cánh nhẹ nhàng làm bằng là lụa, nơ, băng, may bằng vui tươi, điên dại, bằng
cung đàn, tiếng hát, bằng nhạc vàng và hoa xuân thơm ngát, bộ cánh ấy đã bay
biến. Những giọt sương hoa lộng lẫy như kim cương dưới ánh mặt trời cũng tan
biến như thế, để trơ lại cành cây đen sì.
Từ ngày
cái trò hí kịch diễn ra đến nay đã mười tháng qua. Trong thời gian mười tháng
ấy đã xảy ra những chuyện gì? Đoán cũng biết được.
Bị ruồng
bỏ, Phăngtin lâm vào cảnh túng bấn. Bạn bè cũng mất hút. Tình duyên với bọn đàn
ông đã dứt thì tình bạn giữa mấy cô cũng chẳng còn gì. Chỉ mười lăm ngày sau
giả sử có ai nhắc lại trước đây, họ là những chị em cố kết thì hẳn họ phải lấy
làm lạ lùng. Bởi vì còn lý do gì làm chị em với nhau nữa. Phăngtin còn trơ lại
một thân một mình. Cha cửa đứa bé đã bỏ đi, - than ôi! Những đỗ vỡ như thế có
bao giờ được hàn gắn! – thì cô ả thật quả bơ vơ; đã thế tính cần cù làm ăn đã
mất, mà thú ăn chơi đã trót bén mùi. Từ ngày dan díu với Tôlômiet, nàng coi
thường cái nghề hèn mọn của mình. Nàng đã bỏ bê khách hàng, khách hàng cũng hết
cần nàng. Tyệt lộ. Phăngtin võ vẽ đọc được chứ không biết viết: thuở nhỏ nàng
chỉ học ký tên. Nàng cậy người viết một bức thư cho Tôlômiet, tiếp theo là bức
thứ hai, rồi bức thứ ba, Tôlômiet không trả lời. Một hôm, Phăngtin thấy mấy mụ
láng giềng nhìn con mình mà bàn tán: “Ai người ta nhìn những đứa trẻ ấy là con?
Người ta nhún vai với chúng nó!” Nghe thấy thế nàng hình dung Tôlômiet nhún vai
với đứa con vô tội của mình và coi nó như một trò đùa. Lòng nàng thầm giận con
người tệ bạc ấy. Nhưng bây giờ biết tính sao đây? Tứ cố vô thân, chẳng còn biết
nương tựa vào đâu. Mặc dầu trót sa chân lỡ bước, song, như chúng ta đã biết,
bản chất của Phăngtin đoan trang và chính đính. Nàng cảm thấy khốn quẫn đến nơi
và không biết rồi còn tuột dốc đến đâu nữa. Cần phải dũng cảm! Nàng đã dũng cảm
và đã quyết tâm. Nàng có ý định quay về quê hương là Môngtơrơi, may ra gặp được
chỗ quen thuộc thu xếp công ăn việc làm cho. Phải, nhưng cần giấu giếm đoạn đời
sa ngã của mình. Nàng lờ mờ thấy trước một cuộc chia ly mới, còn đau đớn hơn
cuộc chia ly trước đây: lòng nàng se lại, nhưng đành phải quyết tâm. Phăngtin –
Chúng ta sẽ thấy – có cái can đảm cắn răng phấn đấu vì cuộc sống.
Nàng đã
cương quyết từ bỏ các thứ trang sức, thay áo hàng mặc áo vải. Những thứ áo lụa,
dải là, đăng ten, nàng đem chữa tất cả cho con, hiện nay là cái nguồn kiêu hãnh
độc nhất và thiêng liêng của nàng. Có cái gì nàng đem bán hết, được hai trăm
phơrăng. Trang trải công nợ vặt vãnh, trong lưng chỉ còn lại có tám mươi
phơrăng. Một buổi sáng ấm áp mùa xuân, người thiếu phụ hai mươi hai tuổi ấy từ
giã kinh thành, cõng con ra đi. Ai trông thấy cái cảnh bìu díu ấy cũng phải ái
ngại cho hai mẹ con nàng. Trên đời, người đàn bà ấy chỉ có đứa bé con ấy và đứa
bé con ấy cũng chỉ có người đàn bà ấy. Phăngtin cho con bú nên ngực nàng suy
yếu, nàng húng hắng ho.
Còn về Tôlômiet
thì sau này chúng ta không có dịp nói đến nữa. Chỉ cần biết rằng hai mươi năm
sau, dưới thời Lui Philip, hắn là một thừa lại lớn ở tỉnh nhỏ, có thế lực và
khá giàu có. Là một cử tri ngoan, một hội thẩm nghiêm khắc, hắn cũng đồng thời
là một tay ăn chơi như xưa.
Cả buổi
sáng đi bộ, thỉnh thoảng để nghỉ chân, nàng lên cái thứ xe nhỏ ở ngoại ô, trả
bốn xu đi một dặm. Giữa trưa Phăngtin đến Môngphecmây và nàng dừng lại ở ngõ
Hàng Bánh.
Khi đi
qua quán hàng Tênácđiê, nàng trông thấy hai đứa bé gái chơi say sưa trên chiếc
đu khổng lồ. Cảnh tượng vui vẻ ấy làm cho nàng lóa mắt, nàng phải dừng lại.
Có bùa
mê. Hai chị em bé gái ấy là bùa mê đối với bà mẹ ấy.
Phăngtin
đứng nhìn, trong lòng rất cảm động. Chỗ nào có thiên thần tức là chỗ ấy đã gần
thiên đường. Nàng tưởng như nhìn thấy trên nóc quán ăn chữ: ĐÂY huyền bí. Hai
đứa bé trông có vẻ sung sướng làm sao! Nàng nhìn mãi, nàng khen mãi. Lòng nàng
quá xúc động nên khi người mẹ ngừng lại giữa hai câu hát để lấy hơi thì nàng
không thể nhịn không nói cái câu mà chúng ta đã đọc:
- Hai
cháu bé của bà trông xinh quá!
Những
giống vật hung dữ đến đâu đi nữa khi thấy người ta vuốt ve con mình cũng hóa
hiền. Người mẹ nhìn lên và cảm ơn, rồi mời khách ngồi lên tấm ghế gỗ kê ở trước
cửa, còn mình thì vẫn ngồi nguyên ở bậc cửa. Hai người nói chuyện với nhau.
- Tôi là
bà Tênácđiê. Vợ chồng chúng tôi là chủ cái quán trọ này.
Rồi mụ
khe khẽ hát nốt đoạn bỏ dở:
Tướng
dòng chi sá hy sinh
Đất
thiêng phải xuất tinh binh bảo toàn.
Mụ
Tênácđiê là một mụ đàn bà tóc hung, to béo, vó người thô lỗ, nom ra tướng một
mụ vợ lính thất thế. Thế mà vì đọc nhiều tiểu thuyết, lúc nào mụ cũng làm ra
dàn ẻo lả mới thật là kỳ quặc. Trông mụ, người ta tưởng là một người đàn ông
làm duyên õng ẹo. Đó là kết quả của những cuốn tiểu thuyết quen thuộc của đám
gái hàng cơm. Mụ cũng còn trẻ, chỉ trạc ba mươi. Giả sử mụ đứng thẳng dậy chứ
không ngồi xổm thì có lẽ cái vóc người cao lớn, cái thân hình hộ pháp đáng làm
diễn viên cho rạp xiếc lưu động ấy đã làm cho khách phải giật mình, ngần ngại
mà không dám bày tỏ ý định. Số mệnh người ta thay đổi vì một người ngồi hay
đứng là như thế.
Khách kể
lại chuyện mình, có dối trá chút đỉnh:
Làm thợ,
chồng chết, ở Paris không có việc làm, phải đi nơi khác kiếm ăn, đi về quê nhà;
đi từ Paris lúc sáng, đi bộ mà lại cõng con nên cũng mệt, gặp chuyến xe đi
Vimômnlơ, đã đáp một chặng đường; từ đấy lại đi bộ đến Môngphecmây; đứa bé cũng
đi chút ít, đi ít thôi, nó còn bé lắm, rồi lại phải bế nó lên và “con chó con”
ngủ thiếp suốt dọc đường.
Nói đến
đây, nàng say sưa hôn con một cái, làm cho nó thức dậy. Nó mở mắt, đôi con mắt
to và xanh như mắt của mẹ nó và nhìn. Nhìn gì? Chẳng nhìn gì cả mà lại nhìn tất
cả, với cái vẻ trang trọng và có khi nghiêm nghị của con trẻ. Đó là sự huyền bí
của tuổi thơ ngây tươi sáng bên cạnh đạo đức xế chiều của chúng ta. Tựa hồ
chúng cảm thấy chúng là thiên thần mà biết chúng ta chỉ là bọn người tai phàm
mắt tục. Thế rồi đứa bé bật cười và mặc cho mẹ nó cố giữ lại, nó cứ tụt xuống
đất hết sức bướng bỉnh như mọi đứa trẻ thèm được chạy. Bỗng nó trông thấy hai
đứa kia trên dây đu, nó đững sững ngay lại, thè lưỡi ra khâm phục.
Mụ
Tênácđiê cởi chiếc khăn cho hai đứa con xuống, rồi nói:
- Ba con
cùng chơi với nhau đi.
Ở cái
tuổi ấy làm quen với nhau rất chóng. Chỉ phút sau, hai đứa trẻ nhà Tênácđiê đã
cùng với con bé mới đến chơi đào lỗ ở dưới đất, coi bộ thích chí lắm.
Con bé
mới đến tính thật là vui – Cái vui của đứa trẻ là phản ánh lòng hiền từ ở người
mẹ. Nó nhặt một que củi làm xẻng, mắm môi đào một cái hố chôn vừa một con ruồi.
Cái công việc đào huyệt ở tay trẻ con cũng hóa ra việc vui vẻ.
Hai
người đàn bà vẫn nói chuyện:
- Con bé
nhà bà tên gì?
- Côdét.
Côdét
tức là Ơphơradi. Con bé tên là Ơphơradi. Từ Ơphơradi, Phăngtin đã đổi thành
Côdét. Các bà mẹ, cũng như nhân dân, vẫn có tính dịu dàng âu yếm, cho nên đặt
đổi tên con theo tính ấy. Cách cải tên của họ làm cho các nhà tầm nguyên học
ngơ ngác. Chúng tôi biết có một bà nội đã tìm được cách biến tên cháu là
Têôđorơ thành Nhông.
- Con bà
lên mấy?
- Cháu
sắp lên ba.
- Thế
thì cũng bằng con cháu lớn nhà tôi.
Trong
lúc ấy ba đứa bé đương chụm đầu vào nhau, lo ngại và thích thú. Vì có một biến
cố xảy ra: một con giun to tưởng vừa ở dưới đất chui lên. Thế là ba đứa sợ và
lại mê mẩn nhìn.
Ba cái
trán sáng sủa kề gần nhau, trông giống ba cái đầu trong một vành hào quang.
Mụ
Tênácđiê nói lớn:
- Trẻ
con có khác, chóng thân với nhau thế! Ai chẳng bảo là ba chị em ruột.
Người mẹ
kia ý chừng chỉ chờ đón cái tia lửa ấy. Nàng nắm ngay lấy tay mụ Tênácđiê, nhìn
vào tận mắt mà hỏi:
- Bà có
bằng lòng giữ hộ con bé cho tôi không?
Mụ
Tênácđiê ngạc nhiên, làm một điệu bộ không ra nhận và cũng không ra không.
Mẹ Côdét
nói:
- Bà
hiểu cho, tôi không thể đem cháu về quê được. Công việc làm ăn của tôi buộc
phải thế. Có con mọn kè kè thì còn ai người ta dám mượn nữa. Ở cái xứ tôi họ gàn
dở như thế đấy. Có lẽ lòng trời run rủi cho tôi đi qua đây. Khi tôi thấy được
hai cháu bé của bà xinh đẹp, sạch sẽ thế, sung sướng thế, tôi rất xúc động. Tôi
tự nhủ: bà này chắc khéo nuôi con. Phải đấy. Chúng nó sẽ thành ba chị em. Với
lại, chỉ ít lâu thôi tôi sẽ trở lại. Bà trông giúp hộ con bé cháu nhé?
- Để còn
xem thế nào đã.
- Mỗi
tháng tôi trả cho bà sáu phơrăng đấy.
Đến đây
thì trong nhà hàng có tiếng đàn ông nói chõ ra: - Kém bảy phơrăng không được.
Và trả trước sáu tháng.
Mụ
Tênácđiê tính:
- Sáu
bảy, bốn mươi hai.
- Tôi
xin trả đủ.
Tiếng
đàn ông ở trong lại nói:
- Còn
phải thêm mười lăm phơrăng nữa để chi trước những món lặt vặt.
Mụ
Tênácđiê lại tính:
- Cộng
tất cả là năm mươi bảy phơrăng.
Và qua
những con số đó, mụ thì thầm hát:
“Âu phải
thế”! chàng trai thỏ thẻ...
- Tôi sẽ
đưa đủ, mẹ Côdét nói. Tôi có những tám mươi phơrăng. Tôi cũng còn đủ để về đến
quê nhà nếu chịu khó đi bộ. Tôi sẽ đi làm, khi dành dụm được ít nhiều, thế nào
tôi cũng đến đón cục vàng của tôi.
Tiếng
đàn ông hỏi thêm:
- Con bé
có xống áo gì không?
- Chồng
tôi đấy – mụ Tênácđiê bảo.
- Hẳn
chứ. Hòn ngọc của tôi sao lại không có xống áo. Tôi cũng đoán biết đấy là bác
giai rồi. Bộ cánh của con bé cừ ra phết đấy nhé! Một bộ cánh vô lý, cái gì cũng
từng tá! Loại áo hàng, áo lụa như một bà quí phái vậy. Tôi để cả trong đãy này.
Tiếng
đàn ông lại nói:
- Thế
thì phải để lại cho nó.
- Không
để lại, thì giữ làm gì? Có là điên mới để cho con trần truồng như nhộng ấy!
Lúc này
chủ quán mới ló mặt ra:
- Được
rồi.
Hai bên
điều đình xong. Người mẹ tối hôm ấy ngủ trọn lại nhà hàng, trao tiền và gửi
con. Sáng hôm sau nàng ra đi, thắt lại cái đãy bẹp hẳn và nhẹ bỗng vì đã bỏ hết
quần áo của con ra. Nàng mong rằng chỉ ít lâu sau sẽ trở lại. Người ta bình
tĩnh xếp đặt những chuyến ra đi như thế, nhưng bên trong người ta nát ruột nát
gan.
Một bà
hàng xóm nhà Tênácđiê gặp người mẹ ấy, về thuật lại:
- Tôi
mới gặp một người đàn bà vừa đi vừa khóc ở ngoài phố, thật là thương tâm.
Mẹ Côdét
vừa đi khỏi, chủ quán bảo vợ:
- Vừa
may, ngày mai phải trả món nợ một trăm mười phơrăng, mà tôi còn thiếu năm mươi
quan. Không có món này chưa biết mai đây xoay xở với lão mõ tòa làm sao? Mẹ mày
thật khéo đem hai đứa trẻ mài gài bẫy chuột.
- Mà có
định bẫy đâu!
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 4
Chương 2
VÀI NÉT PHÁC HỌA ĐẦU TIÊN VỀ HAI BỘ MẶT KHẢ NGHI
Con
chuột mắc bẫy chỉ là con chuột nhắt, nhưng với mèo thì đến chuột còm nó cũng
thích.
Vợ chồng
Tênácđiê là hạng người gì?
Hãy giới
thiệu chung ngay bằng vài nét, sau này sẽ bổ khuyết dần.
Những
ngữ ấy thuộc về cái tầng lớp vô thừa nhận gồm có những người thô lỗ giàu xổi
lên và những người khôn ngoan sa đọa. Tầng lớp này nằm giữa tầng lớp gọi là
trung gian và tầng lớp dưới. Nó hòa lẫn một vài thói hư của lớp dưới với hầu
hết những tật xấu của tầng lớp trung gian. Vì thế chúng không có nhiệt tình hào
hiệp của người thợ mà cũng vẫn thiếu cái tính ngăn nắp lương thiện của anh tư
sản thị dân.
Đó là
một hạng người lùn không vươn lên được. Khi bị một dục vọng nào hun đốt thì họ
dễ thành yêu quái. Con vợ bản chất thô bạo phũ phàng, còn thằng chồng thì là
một thằng khốn kiếp. Cả hai đứa đều có triển vọng tiến khôn cùng trong tội ác.
Trên đời có những con người giống như loài tôm tép chỉ muốn giật lùi và đi sâu
mãi vào trong bóng tối chứ không muốn tiến lên chút nào. Chúng càng có kinh
nghiệm càng thêm xấu xa, chúng tiến sâu vào con đường lầm lỗi, chúng đẫm mình
vào chỗ bùn đen ngày một dày đặc. Hai vợ chồng nhà ấy chính ở vào loại này.
Nhất là
vẻ mặt lão Tênácđiê thì phải làm cho thầy tướng băn khoăn. Có những người, ta
mới trông là phải ngờ vực, đoán thấy đời họ có một cái gì mờ ám. Chúng thậm
thọt lo sợ về phía sau lưng chúng và gầm ghè, dọa nạt đằng trước mặt. Chúng có
cái gì bí mật. Không ai có thể tin những hành động đã qua và bảo đảm những hành
động sắp tới của chúng. Cái nhìn của chúng có một cái gì đen tối có thể tố cáo
chúng. Nghe chúng nói một câu, thấy chúng làm một điệu bộ, người ta cũng phảng
phát thấy thân thế của chúng có nhiều điều bí ẩn cũng như tương lai còn nhiều
chuyện tối tăm.
Tên
Tênácđiê này theo lời hắn khoe, đã có lúc ở lính, đóng lon đội. Hắn có tham gia
các trận đánh năm 1815 và hình như cũng tỏ ra gan dạ. Để sau này rồi ta sẽ thấy
gan dạ thế nào. Cái biển treo trước cửa quán cơm có ý khoe một chiến công của
hắn. Hắn tự vẽ lấy, vì nghề gì hắn cũng biết qua một tí, có điều là rất tồi.
Lúc ấy
thời kỳ những tiểu thuyết cổ điển tuy vẫn tả những nhân vật quí phái nhưng đã
biến thành thứ văn chương dung tục, nung nấu tâm hồn đa tình của các chị gác
cổng Paris và một phần nào của các chị ngoại ô. Mụ Tênácđiê vừa đủ trí thông
minh để đọc những sách đó. Những tiểu thuyết ấy đã thành món ăn của mụ. Tim óc
mụ chìm ngập trong ấy. Vì thế, lúc còn xuân xanh, cả đến khi đứng tuổi, lúc nào
mụ cũng có cái dáng điệu trầm ngâm mơ mộng bên cạnh chồng. Thằng chồng thì xỏ
lá mà khá thông minh, hay chữ ở ngoài mép, thô lỗ nhưng lại tinh vi trong tình
ái, đối với phụ nữ thì có thái độ một tên quých lễ độ và lịch sự. Con vợ kém
thằng chồng chừng mười hai, mười lăm tuổi. Đến khi cái mái tóc rũ như lệ liễu
trong tiểu thuyết kia đã ngả màu hoa râm, khi người thiếu phụ đú đởn đã trở
thành một người đàn bà tai nghiệt, một con nặc nô rồi, thì mụ chỉ là một con mụ
béo xị, nanh ác với mớ tiểu thuyết nhảm trong đầu. Đừng tưởng đọc những sách
nhảm không hại! Vì sách nhảm, con gái đầu của mụ mang tên Epônin. Mụ toan gọi
con em là Guynna cho trọn bộ tiểu thuyết, may sao mụ lại nghĩ ngay đến một
quyển khác nên đặt tên nó là Adenma.
Cái thời
ấy kể cũng lạ, như là có một sự đảo ngược trong cách đặt tên. Thật ra, không
hẳn tất cả đều buồn cười và nông nổi. Như trên đây đã vạch ra, trong đó có màu
sắc tiểu thuyết, nhưng bên cạnh còn thấy dấu hiệu xã hội.Ngày nay, không hiếm
những anh dân cày có tên là Actơ, Anphơrê, Anphôngrơ, mà cũng có những bậc danh
gia tử đệ - nếu còn có những bậc danh gia tử đệ - lại lấy tên là Tômat, Pie hay
Giăccơ. Bình dân mà đặt tên văn hoa, còn quí tộc lại lấy tên quê mùa, cục mịch,
sự xáo trộn ấy chẳng có gì khác là một dư ba của phong trào bình đẳng. Ở đây
cũng như mọi chỗ khác, ảnh hưởng của luồng gió mới không gì ngăn cản nổi. Bên
dưới cái lộn xộn mặt ngoài ấy, là một sự kiện sâu xa, vĩ đại: cuộc các mạng
Pháp.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 4
Chương 3
SƠN CA
Muốn làm
giàu, độc ác cũng chưa đủ, cho nên hàng cơm của Tênácđiê ngày càng suy.
Nhờ có
cái khoản năm mươi bảy phơrăng của Phăngtin, Tênácđiê thanh toán chủ nợ và
tránh lôi thôi với mõ tòa. Tháng sau, hắn lại túng tiền. Mụ vợ đem sống áo của
Côdét đi Paris, cầm được sáu mươi phơrăng. Khi tiêu hết món tiền rồi, vợ chồng
Tênácđiê dần dần coi Côdét như một con bé nuôi làm phúc và đối xử với nó như
đứa ăn báo cô. Quần áo của nó đưa đi cầm cả rồi, nó phải mặc những đồ thải của
hai đứa con mụ chủ, váy cũ, áo rách, toàn đồ tã. Ăn thì thí cho rặt cơm thừa
canh cặn của cả nhà, có hơn con chó một chút nhưng kém con mèo. Vả lại thường
thì nó vẫn ăn chung với chúng ở gậm bàn, cũng được dùng một cái bát gỗ như
chúng.
Mẹ nó về
ở Môngtơrơi cứ mỗi tháng viết một phong thư, hay nói cho đúng là thuê viết một
phong thư để hỏi thăm con. Lần nào vợ chồng Tênácđiê cũng trả lời một điệu: con
bé hay ăn chóng nhớn lắm.
Khi số
tiền trả trước cho sáu tháng đã hết, từ tháng thứ bảy, Phăngtin đều đều tháng
nào cũng gửi bảy phơrăng. Nhưng chưa hết năm Tênácđiê đã nói: “Nó làm như thí
ăn cho mình không bằng! Có bảy phơrăng thì làm được trò trống gì?” Rồi hắn viết
thư đòi mười hai phơrăng. Mẹ thấy nói con ăn chơi mạnh khỏe lại chóng lớn thì
cũng bằng lòng và gửi số tiền mười hai phơrăng.
Đời có
kẻ hễ có yêu thì đồng thời phải có ghét. Mụ Tênácđiê yêu tha thiết hai đứa con
mình, cho nên mụ rất ghét con người ta. Thật là buồn khi thấy rằng tình yêu
thương của người mẹ mà cũng có thể có những mặt xấu! Khốn nạn, con Côdét ở nhà
mụ thì hết bao nhiêu chỗ, thế mà mụ làm như nó chiếm mất phần của con mụ, nó
thở tranh không khí của con mụ. Mụ ấy, cũng như nhiều đứa cùng giống, hằng ngày
đã hôn hít vuốt ve thì hằng ngày cũng phải chửi bới đánh đập. Nếu không có con
Côdét thì có lẽ mấy đứa con mụ dù được yêu dấu thế nào đi nữa, tất cũng có lúc
bị chửi bới đánh đập. Có Côdét ở đấy, Côdét đã gánh vác hộ chúng, chúng chỉ
lĩnh những hôn hít vuốt ve. Còn Côdét mỗi lần động chân động tay là một lần bị
phạt, bị mắng như tát nước vào mặt một cách thậm vô lý. Con bé hiền lành yếu ớt
không hiểu gì về cuộc đời, về Chúa, chỉ thấy mình quanh năm bị phạt, bị mắng,
bị hành hạ, bị đánh đập, mà ở cùng nhà, hai đứa nhỏ kia cũng như mình lại sướng
như tiên!
Mụ
Tênácđiê đã ác với Côdét, thì Epônin và Adenma cũng ác theo. Ở cái tuổi ấy, con
là dập khuôn của mẹ, chỉ khác là con nhỏ, mẹ to mà thôi.
Một năm
qua, rồi một năm nữa. Trong làng người ta bảo nhau:
- Vợ
chồng Tênácđiê thế mà phúc đức. Nhà đã không có lại còn nuôi thêm một con bé
người ta bỏ đi.
Ai cũng
tưởng Côdét là đứa con bị mẹ bỏ.
Lúc đó,
không biết gã Tênácđiê dò hỏi ở đâu mà biết được rằng Côdét chắc chắn là con
hoang nên mẹ nó phải giấu. Hắn bèn đòi phải đưa mười lăm phơrăng một tháng, nói
rằng con bé lớn rồi và ăn tốn lắm và dọa nếu không thì đuổi đi. Hắn gắt: “Đừng
có trêu vào tay ông! Ông thì ông ném con ranh con về giữa chỗ chúng mày lánh
mặt cho mà xem. Phải đưa thêm tiền cho ông”. Thế là Phăngtin phải trả đủ mười
lăm phơrăng.
Mỗi năm
con bé một lớn lên thì những nỗi đau khổ của nó cũng lớn theo.
Khi còn
bé tí, Côdét là cái bung xung của hai đứa con nhà chủ; đến lúc lớn lên được một
chút, nghĩa là chưa đầy năm tuổi, thì nó thành ra đứa đầy tớ cho cả nhà.
Năm
tuổi, ai tin được!
Than ôi,
thế mà quả có như vậy. Khổ cảnh xã hội có từ gì con trẻ!
Chúng ta
chẳng thấy vụ án Đuymôla vừa rồi đó sao? Tội phạm là một trẻ mồ côi nay đã biến
thành kẻ cướp. Cái tài liệu chính thức cho biết từ hồi lên năm em đã trơ vơ một
mình, không thân không thích, phải “lao động và ăn cắp để sống”.
Côdét
phải làm các việc vặt, phải quét tước các buồng và sân, cổng, rửa bát, có lúc
phải khiêng vác đồ nặng nữa. Gặp phải thời kỳ mẹ nó gửi tiền thất thường, trễ
đi vài tháng, vợ chồng Tênácđiê được thể lại càng hành hạ nó.
Nếu
Phăngtin trở lại Môngphecmây ba năm sau khi ra đi thì đến nàng cũng không thể
nhận ra con mình nữa. Con bé khi vào nhà ấy xinh tươi là thế, mà đến nay thì
gầy còm, xanh xao. Dáng đi lại rụt rè, sợ sệt, vợ chồng chúng nó bảo là “gian
hiểm”.
Chịu
đựng bất công lắm nên con bé hóa ra cảu nhảu, đói khổ quá nó hóa ra xấu xí. Cả
người con bé chỉ còn có đôi mắt là đẹp. Ai trông thấy đôi mắt ấy cũng phải
thương, vì càng to càng thấy mênh mông nỗi khổ.
Mùa rét,
chưa sáng con bé không đầy sáu tuổi ấy đã ra đường quét tước. Nó run lẩy bẩy
trong mấy miếng giẻ che thân. Hai bàn tay nhỏ xíu và đỏ nhừ ôm một cái chổi to
tướng, trong mỗi khóe mắt, một giọt lệ ngập ngừng. Thật đã não lòng!
Quanh đây
người ta gọi nó là con Sơn Ca. Người bình dân hay ví von, đặt cho nó cái tên
như thế vì con bé không lớn hơn con chim, run lẩy bẩy, lúc nào cũng sợ sệt,
giật mình, trong nhà và cả trong làng sáng tinh sương chưa có ai dậy, đã thấy
nó ở ngoài đường hay ra đồng rồi.
Nhưng
tội nghiệp Sơn ca này không bao giờ hót cả.
Xem tiếp:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét