XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Chủ Nhật, 24 tháng 2, 2019

HỘI CHỢ PHÙ HOA (Chương 1-12)



HỘI CHỢ PHÙ HOA
Hội Chợ Phù Hoa
Tác giả:William Makepeace Thackeray
Thể loại:Phương Tây
Trạng thái:Full
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Đánh giá: 6.0/10 từ 7 lượt
Thể loại: Kinh điển
Dịch giả: Trần Kiệm

Hội chợ phù hoa: Cuốn tiểu thuyết không có Anh hùng là một cuốn tiểu thuyết của William Makepeace Thackeray châm biếm xã hội vào đầu thế kỷ 19 ở Anh. Hội chợ phù hoa là một tiểu thuyết đa tuyến nói về xã hội quý tộc tư sản và số phận của con người với nhiều thành phần trong xã hội đó. Trục chính của truyện là cuộc đời của hai cô thiếu nữ là bạn học cùng lớp, cùng trường nhưng không cùng tầng lớp và cũng không cùng số phận.

***
Giữa đám người ồn ào với nước hoa, đăng-ten, đèn chùm, bàn tiệc… người ta dễ để ý thấy ánh mắt sắc sảo của cô nàng Rebecca xinh đẹp khát vọng được thay đổi số phận mình. Từ thân thế con nhà hạ tiện, là một cô giáo tập sự không hề dễ bảo, Rebecca không từ bất kì một thủ đoạn nào chen chân vào thế giới thượng lưu. Nhảy múa xung quanh cô là cả một xã hội quý tộc tham lam, vị kỉ, giả dối và hãnh tiến.

Trong phiên chợ phù hoa ấy, đạo đức khoác tấm áo thêu kim tuyến, nhưng lật lên chỉ thấy những thứ đê tiện và trần trụi… Trên hết, sự phù phiếm đã cuốn con người vào vòng xoáy cám dỗ và hút cạn những phẩm chất tốt đẹp, chỉ để lại những tính cách cặn bã và tham vọng mù quáng. Bạn đọc có thể giật mình: Hội chợ phù hoa chỉ nói về xã hội Anh thế kỉ XIX hay lột tả mọi xã hội của con người? Đọc Hội chợ phù hoa, ta sẽ phần nào nhận ra những phù phiếm, ảo ảnh của cuộc đời vốn chỉ là hư vô.

***

Thuật ngữ "hội chợ phù hoa" xuất phát từ câu chuyện ngụ ngôn Chuyến đi của người hành hương, do John Bunyan xuất bản vào năm 1678 ở dó có một hội chợ tổ chức trong làng có tên Vanity (Hội chợ phù hoa).


Cuốn tiểu thuyết đã được nhiều lần chuyển thể thành phim.

*********

THÔNG TIN KHÁC

Trong năm 1848 đã xảy ra một sự kiện có ảnh hưởng tốt tới "Hội chợ phù hoa". Nữ văn sĩ Charlotte Bronte cho tái bản tiểu thuyết "Jane Eyre" dưới bút danh Currel Bell (in lần đầu vào năm 1847 và rất ăn khách).

Trong lần in thứ hai, Bronte đã ghi lời đề tặng Thackeray với những câu đánh giá đầy phấn khích: "Tôi đã nhìn thấy ở ông một tài năng sâu sắc và quý hiếm hơn nhiều người đồng thời với ông nghĩ, bởi lẽ, ông có thể hơn người khác làm phục sinh xã hội chúng ta và khôi phục lại cái trật tự thế giới đang bị lung lay, và vì rằng cho tới nay, chưa có một nhà phê bình văn học nào tìm được cho ông những từ ngữ đánh giá đúng và đủ...". Đọc lời đề tặng đó, công chúng lại đổ xô đi tìm "Hội chợ phù hoa". Thành công đối với Thackeray đã trở thành không thể đảo ngược được.

Chương 1

Nhà đạo diễn vở kịch đang ngồi trên sân khấu trước tấm màn; nhìn xuống đám người hỗn độn chen chúc nhau trong Hội chợ, tự nhiên hắn cảm thấy một nỗi buồn tê tái xâm chiếm tâm hồn. Thiên hạ đang đua nhau mà ăn uống, mà chim chuột,rồi bỏ rơi nhau, mà cười mà khóc, rồi hút sách, lừa bịp, nhảy nhót, đấm đá nhau hoặc la cà đây đó.

Có những tay anh chị huých kẻ nọ đẩy người kia mà đi có những cậu công tử bột ra sức liếc tình đàn bà con gái. Có những chú đạo trích chuyên rờ túi thiên hạ, có những ông đội sếp soi mói nhìn ngó đó đây, này là mấy anh bán thuốc rong (trời đánh thánh vật mấy anh bán thuốc rong.) đang gân cổ lên mà quảng cáo thuốc trước quầy hàng của mình; kia là mấy bác nhà quê cứ há hốc mồm ra mà ngắm các cô vũ nữ bận áo sặc sỡ và mấy chú làm trò xiếc leo dây đáng thương mặt trát son đỏ bự, trong khi bọn kẻ cắp đứng đằng sau lưng cứ việc lách mấy ngón tay vào túi mà nẫng nhẹ ví mang đi.

Thưa vâng, chính là Hội chợ phù hoa đấy ạ; không phải là một chỗ đứng đắn và tuy rất ồn ào, nhưng cũng chẳng phải là một nơi vui vẻ gì đâu. Xin các vị hãy nhìn bộ mặt bọn đào kép và mấy chú hề lúc họ tan trò mà xem: anh chàng Tom Fool chùi lượt phấn son trát trên trên má rồi ngồi vào bàn ăn với vợ, lại cả chú Jack Puddings đang đứng sau tấm màn sân khấu kia nữa. Gần mở màn rồi; chú sắp ra trò, sẽ vừa lộn tùng phèo vừa kêu to mà hỏi thăm khắp mặt khán giả: “Các vị có được mạnh khỏe không? Tôi nghĩ rằng người nào có tính ưa suy tưởng, khi đi dạo chơi qua một nơi lắm trò vè như chỗ này, không nên để cho mình bị lôi cuốn trong cái vui vẻ của thiên hạ hoặc của chính mình. Đây đó có thể gặp một vài cảnh tượng hài hước hoặc kỳ thú khiến cho ta cảm động hoặc thú vị. Chỗ này là một thằng bé kháu khỉnh, đứng nuốt nước bọt trước quầy hàng bánh rán; một cô thiếu nữ xinh xinh đỏ ửng mặt lên bên cạnh người tình vừa thủ thỉ chuyện trò vừa chọn mua tặng vật cho mình ... Chỗ kia là anh chàng Tom Fool đang ngồi trong toa xe của rạp xiếc gậm khúc xương cùng với cái gia đình lương thiện sống bám vào nghề làm trò nhào lộn của anh ta... Nhưng cảm tưởng chung vẫn đáng buồn nhiều hơn là đáng vui. Về nhà, chúng ta trở lại nghiêm trang tư lự nhưng với một tâm trạng độ lượng hơn, rồi lại vùi đầu vào sách vở hoặc công việc làm ăn như cũ.

Về câu chuyện của Hội chợ phù hoa sắp kể đây, tôi không biết rút ra bài học luân lý nào khác ngoài mấy ý kiến trên. Có nhiều người coi Hội chợ hoàn toàn không phải là một chỗ đứng đắn, vẫn lánh xa, không cho gia đình và cả đầy tớ bén mảng tới. Rất có thể họ có lý. Nhưng cũng có nhiều người lại nghĩ khác; hoặc vì tính tình lười biếng, hoặc vì có lòng nhân đức, hoặc vì ưa châm biếm, thỉnh thoảng họ lại thích rẽ vào Hội chợ độ nửa tiếng đồng hồ, la cà đây đó xem các trò vui. Ở đây thì vô khối trò đủ mọi loại: những cuộc thử sức kinh người., những cảnh phi ngựa anh dũng tuyệt diệu, những cảnh sống thượng lưu quý phái, và những cảnh sống của tầng lớp thường thường bậc trung, có những trò chim chuột để cho người đa cảm thưởng thức, lại có những trò hài hước dí dỏm nhẹ nhàng.

Trò nào cũng có bài trí trang hoàng tử tế, tác giả xin bỏ tiền mua nến thắp, soi sáng thật rực rỡ. Vậy thì nhà đạo diễn vở kịch còn muốn nói gì nữa nhỉ? ... Hắn chỉ muốn ngỏ lời cảm tạ chư vi, vì qua các tỉnh lớn trong khắp nước Anh, vở kịch đã được khán giả chiếu cố hoan nghênh, và tới đâu cũng được giới ngôn luận, giới quý tộc và các tầng lớp thượng lưu có lòng quan tâm đến.

Cứ nghĩ rằng đám con rối của mình đã khiến được các vị tai mặt nhất trong nước hài lòng mà hắn lấy làm kiêu hãnh quá. Khán giả tuyên bố rằng cái con rối Becky nổi tiếng kia tay chân cử động thật khéo, khi giật dây nó làm trò cứ như thật. Con rối Amelia tuy được ít người thưởng thức hơn, nhưng cũng được nhà nghệ sĩ để hết tâm lực gọt khắc và trang điểm. Con rối Dobbin bề ngoài cử động như vụng về nhưng thật ra nhảy múa có vẻ tự nhiên coi thật thú vị; mấy đứa trẻ ra trò cũng được nhiều người lớn tán thưởng, và xin các vị hãy chú ý giùm cái “nhà quý tộc xấu thói” bận bộ áo lộng lẫy kia; dựng con rối ấy tốn kém vô khối đấy; tấn trò đặc biệt này diễn xong ma quỷ sẽ đến mang con rối ấy đi. Thế là nhà đạo diễn cúi rạp xuống chào các quý khách rồi lui vào hậu trường. Màn mở.

Luân Đôn, ngày 28 tháng 6 năm 1848.

CHISWICK MALL

Ấy là vào khoảng từ năm thứ 13 đến năm thứ 19 của thế kỷ này; vào một buổi sớm tháng sáu nắng tỏa rực rỡ, có một cái xe ngựa lớn, loại xe gia đình, do một cặp ngựa béo mập kéo, yên cương sáng nhoáng, chạy với tốc độ bốn dặm một giờ, đến trước cái cổng sắt lớn của trường học bà Pinkerton lập nên tại Chiswick Mall chuyên giáo dục các cô tiểu thư con nhà dòng dõi thì đỗ lại. Trên xe có một anh xà ích béo quay ngồi điều khiển; anh ta đeo tóc giả, đội một chiếc mũ vành bẻ tam giác. Xe dừng lại trước tấm biển đồng sáng choang trên có khắc tên bà Pinkerton thì một người hầu da đen ngồi cạnh bác xà ích béo tròn duỗi thẳng cặp chân vòng kiềng của hắn ra, với tay giật cái dây chuông trên cổng, và từ những ô cửa sổ bé tý trên mặt căn nhà gạch cổ kính đồ sộ, ít nhất có tới mười cái đầu con gái thò ra ngấp nghé nhìn. Mà nếu tinh ý ta còn nhận thấy cả cái mũi đỏ hỏn bé tý của cô Jemima Pinkerton, một thiếu nữ tốt bụng, đang lấp ló sau mấy chậu hoa phong vĩ thảo đặt trên thành cửa sổ phòng khách của bà Pinkerton.

Cô Jemima nói:

- Xe của nhà bà Sedley đấy chị ạ, Sambo, thằng hầu da đen vừa kéo chuông xong, bác xà ích mặc một cái áo chẽn đỏ mới quá.

Bà Pinkerton hỏi lại:

- Jemima, dì đã sửa soạn đầy đủ hành lý cần thiết cho cô Sedley lên đường chưa?

Bà Pinkerton trông rất đường bệ; bà là một Semiramis Hammersmith () bạn của nhà học giả Johnson, là người cộng tác với chính bà Chapone cơ đấy.

Cô Jemima đáp:

- Thưa chị, sáng hôm nay bọn hầu gái dậy từ bốn giờ; họ sửa soạn hành lý cho cô ấy xong rồi. Chúng em lại hái cho cô ấy cả mấy cành hoa.

- Jemima, phải gọi là một bó hoa, như thế nghe mới lịch sự - Vâng, một bó hoa to gần bằng cái đống rơm ấy. - Em cũng đã sắp sẵn hai chai nước hoa đinh hương cho bà Sedley, cả tờ giấy dặn cách pha nước ấy nữa. Em để tất cả trong chiếc hộp của Amelia.

- Jemima, dì đã sao lại một bản tờ kê học phí của cô Sedley rồi chứ? Thế thì tốt lắm ... chín mươi ba đồng bảng, bốn si-ling () tất cả. Dì đề ngoài phong bì gửi cho tôn ông John Sedley, rồi đóng dấu bức thư tôi viết cho Sedley phu nhân đây.

Đối với cô Jemima, thì một bức thư tự tay chị cô viết là một vật vô cùng đáng kính, như thể đó là thư của một vị quốc vương vậy. Chỉ khi nào các cô học trò của bà rời khỏi học hiệu, hoặc khi họ sắp sửa đi lấy chồng, người ta mới thấy bà Pinkerton đích thân viết thư gửi cho cha mẹ học trò của mình, không kể một lần đặc biệt nhân việc cô Birch bất hạnh bị chết về bệnh sốt phát ban. Và theo ý kiến của cô Jemima, nếu có điều gì có thể an ủi được bà Birch vì cái chết của cô con gái, thì chính là bài văn mộ đạo và hùng hồn của bà Pinkerton gửi đến để báo tin buồn. Lần này bức thư của bà Pinkerton viết lời lẽ như sau:

Mall Chiswick, ngày 15 tháng 6 , năm 18...

Thưa phu nhân,

Sau sáu năm cô Amelia Sedley lưu trú tại Mall, tôi rất hân hạnh và sung sướng thưa với phu nhân rằng bây giờ cô đã là một tiểu thư không phải là thiếu xứng đáng với một địa vị thích hợp trong xã hội thượng lưu lịch sự. Những đức tính đặc trưng cho một thiếu nữ lịch sự Anh quốc, cũng như những tài năng xứng đáng với dòng dõi và địa vị xã hội của một người như vậy sẽ không thiếu nơi cô Amelia Sedley đáng yêu. Cô có đức tính cần cù và ngoan ngoãn, khiến cho các giáo viên dậy cô rất mến. Tính tình dịu dàng đáng yêu của cô đã hấp dẫn tất cả các bạn đồng học, người nhiều tuổi hơn cũng như người còn kém tuổi.

Phu nhân sẽ thấy về khoa âm nhạc, khoa khiêu vũ, môn chính tả, hoặc trong mọi công việc thêu thùa kim chỉ, cô đã đạt được những điều các bạn đồng học thiết tha mong ước nhất. Riêng về môn địa lý thì cô còn nhiều thiếu sót; và trong khoảng thời gian ba năm sắp tới, mỗi ngày bốn tiếng đồng hồ, cô còn cần tập đeo bảng sau lưng () một cách thận trọng và chuyên cần: điều này rất cần, vì có vậy mới luyện được dáng điệu đường bệ tôn quý mà các cô tiểu thư lịch sự bây giờ đều phải có.

Còn về phương diện biết tôn trọng những nguyên tắc tôn giáo và luân lý thì phu nhân sẽ thấy cô Sedley rất xứng đáng với một học đường đã từng được cái vinh dự tiếp đón nhà từ điển học đại danh, và đã được Chapone phu nhân đỡ đầu. Rời khỏi Mall, cô Amelia đã đem theo cả tâm hồn của các bạn đồng học cũng như niềm thương mến của cô giáo dạy cô, người có cái vinh dự được ký tên dưới đây.

Kính chào phu nhân,

Người đầy tớ mang ơn và hèn hạ của bà.

Ký: Barbara Pinkerton.

Tái bút.

Cô Sharp cùng đi với cô Sedley. Xin đặc biệt yêu cầu phu nhân chỉ nên lưu cô Sharp ở lại khu phố Russell không quá mười ngày. Cô ta sắp đến giúp việc tại một gia đình quyền quý, gia đình này muốn rằng cô ta đến nhận việc sớm chừng nào hay chừng ấy.

Thảo xong bức thư, bà Pinkerton bắt đầu viết tên mình và tên cô Sedley vào trang đệm () của một cuốn từ điển Johnson... một quyển sách lý thú mà bất cứ khi nào có học trò rời khỏi Mall bà cũng tặng cho một cuốn. Trên bìa sách , lại có đính kèm một bản sao tờ giấy đề “mấy lời của cố học giả Samuel Johnson đáng kính gửi cô tiểu thư mới rời khỏi Pinkerton học hiệu, ở Mall”. Thực ra cái bà giáo bệ vệ này vẫn luôn mồm nhắc đến tên nhà làm từ điển; chính cũng nhờ có một buổi ông ta đến thăm bà mà bà hóa ra danh giá và làm ăn phát đạt.

Nghe thấy bà chị ra lệnh cho mình lấy cuốn từ điển trên mặt tủ xuống, cô Jemima bèn cầm xuống hai cuốn.

Bà Pinkerton vừa đề xong lời tặng vào cuốn thứ nhất, thì cô Jemima đưa bà cuốn thứ hai, dáng điệu hơi ngần ngại và có vẻ sợ sệt. Bà Pinkerton lạnh lùng hỏi lại, nghe rất đáng sợ:

- Này, dì Jemima, cuốn này để cho ai đấy?

- Để cho cô Sharp đấy ạ. Hôm nay cô ấy cũng ra trường.

Cô Jemima run bắn người lên trả lời, cả bộ mặt và cái cổ đã héo úa của cô bỗng đỏ rực lên. Cô quay lưng lại không dám nhìn bà chị.

Bà Pinkerton dằn mạnh từng tiếng:

- Này Jemima, dì có điên không đấy? Cất ngay quyển từ điển vào tủ. Từ nay trở đi, đừng có bao giờ được tự tiện như thế, nghe không.

- Dạ, thưa chị, cuốn sách chỉ đáng giá có vài hào chỉ, mà nếu cô Becky đáng thương ấy không được một cuốn thì cô ấy sẽ khổ tâm lắm.

Bà Pinkerton đáp:

- Mời cô Sedley lên đây ngay cho tôi.

Tội nghiệp cho cô Jemima; chẳng dám hé răng nói thêm một tiếng nào nữa, cô vội rảo bước đi ra, trong lòng hết sức hồi hộp vì sợ hãi.

Ông thân sinh ra cô Sedley là một thương gia ở Luân đôn, cũng là một tay giầu có. Còn cô Sharp chỉ là một cô học trò tập sự nghề dạy học; bà Pinkerton nghĩ rằng bà đã đối đãi với cô quá phải rồi, chẳng cần phải ban cho cái vinh dự được tặng cuốn từ điển khi cô từ biệt nhà trường.

Kể ra thư giới thiệu của các bà giáo thì cũng chẳng đáng tin cho lắm, chỉ có giá trị như những tấm bia trong nghĩa địa không hơn không kém, song thỉnh thoảng cũng có những người từ giã cõi đời này mà lại thực sự xứng đáng với những lời xưng tụng bác thợ đá khắc vào bia dựng trên nắm xương tàn của họ, nghĩa là một con chiên ngoan đạo, một người bố, người mẹ, người con, người vợ hoặc người chồng xứng đáng, và khi họ chết đi, quả thực có khiến cho thân nhân phải thương tiếc không sao nguôi được. Cho nên trong các trường học dạy con trai cũng như con gái, đôi khi cũng có một học sinh hết sức xứng đáng với những lời khen thưởng của người giáo viên vô tư. Thì cô Amelia Sedley chính là một tiểu thư thuộc loại học trò đặc biệt này.

Không những cô xứng đáng với lời ca tụng của bà Pinkerton, cô còn có nhiều đức tính đáng yêu khác mà cái bà già Minerva() long trọng kia không thể nhìn thấy, bởi lẽ giữa bà và cô học trò có một sự cách biệt về địa vị và tuổi tác.

Nghĩa là cô Sedley không phải chỉ có thể hát hay như một con sơn ca, hoặc như cô Billington, khiêu vũ giỏi chẳng thua gì Hillisberg hoặc Parisot, thêu thùa khéo léo và phát âm thì đúng giọng như trong từ điển, cô còn rất tốt bụng, luôn luôn tươi tỉnh dịu dàng, thùy mị và rộng lượng. Con người ấy ai đến gần cũng phải mến; từ chính bà Minerva trở xuống cho tới cô gái nghèo giữ việc bếp núc trong trường, cũng như cô gái con bà bán bánh quả chột mắt vẫn được phép mang hàng đến bán cho các cô tiểu thư ngụ học ở Mall mỗi tuần lễ một lần. Trong số hai mươi bốn nữ sinh lưu trú tại trường, cô Sedley có tới mười hai người bạn tâm tình chí thiết. Ngay cả cái bà Briggs vốn hay ghen ghét kia cũng không hề bao giờ nói xấu cô điều gì. Cả cô Saltire, con người cao kỳ và có thế lực (cháu gái bá tước Dexter), cũng đã công nhận rằng cô có bộ mặt thật đáng yêu. Còn như cái cô Swartz, người lai da đen sinh ở St. Kitt, tóc xoăn tít như lông cừu và rất giàu có ấy thì đã khóc sướt mướt hôm Amelia từ biệt nhà trường, đến nỗi người ta phải đi mời bác sĩ Floss đến chữa; ông này cho ngửi nước đái quỷ nhiều quá, xuýt nữa cô ta tắc thở. Sự quyến luyến của bà Pinkerton thì biểu lộ ra một cách điềm đạm và nghiêm trang, ta cứ đoán ra cũng rõ, do cương vị cao quý và những đức tính nổi bật của bà. Riêng cô Jemima đã nhiều lần tấm tức khóc mỗi lúc nghĩ đến việc Amelia ra đi; giá không vì sợ bà chị thì chắc cô ta đã khóc lóc đến là thảm thiết như cô gái triệu phú ở St. Kitt (cô này trả tiền học gấp đôi người khác). Nói cho đúng thì chỉ có bọn học sinh lưu trú mới có điều kiện xa xỉ trong sự sầu não như vậy. Cô Jemima chân thực kia còn bận quán xuyến bao nhiêu việc, nào là giấy má, nào là quét tước, khâu vá, rồi lại còn làm pa-tê, dọn bát đĩa, và trông coi người làm nữa. Nhưng nói đến cô ta làm gì? Có lẽ từ lúc này trở đi, chúng ta cũng chẳng còn bao giờ được nghe nhắc đến cô ta nữa đâu; và khi đôi cánh cổng sắt có chấn song hoa của nhà trường đã khép lại thì cô và cả bà chị ghê gớm của cô cũng thôi không còn xuất hiện lại trong cái thế giới nhỏ mọn của cuốn truyện này nữa.

Song bởi lẽ chúng ta còn gặp lại Amelia nhiều lần, nên ngay từ giờ phút quen thuộc đầu tiên này, nói ngay rằng cô thật là một cô em đáng yêu cũng chẳng có hại gì. Trong cuộc đời cũng như trong tiểu thuyết, (đặc biệt là trong tiểu thuyết) ta thường gặp những tên đốn mạt vào loại tồi tệ nhất; có được một người bạn đồng hành lúc nào cũng ở bên mình, mà lại là một người trong trắng và tốt bụng như thế là một nhân vật chính nên cũng không cần phải miêu tả hình dáng cô làm gì; thực ra thì tôi cũng e rằng mũi cô có phần hơi ngắn, còn má thì, nếu cô là một nhân vật chính, như vậy cũng khí tròn quá và đỏ quá (). Song được cái mặt cô lúc nào cũng tươi, nước da hồng hào khỏe mạnh, miệng cô luôn luôn nở một nụ cười duyên dáng nhất. Cô lại có đôi mắt sáng long lanh đầy tinh thần yêu đời, dĩ nhiên trừ trường hợp mắt cô đẫm lệ, mà cô cũng hay khóc lắm. Cái cô thiếu nữ vớ vẩn này thấy một con chim hoàng oanh chết cũng khóc, mà thấy một con chuột đột nhiên bị mèo vồ chết, cũng chảy nước mắt được; cô khóc cả khi đọc đoạn kết thúc một cuốn truyện, dẫu rằng đoạn kết rất ngớ ngẩn ... Còn như nặng lời với cô - giả thử có người nào nhẫn tâm mà làm như vậy - thì quả thật là tồi tệ, nói làm gì đến họ.

Ngay cả bà Pinkerton, người đàn bà khắc khổ trông như một vị thần ấy cũng chỉ rầy la cô một lần rồi thôi hẳn.

Tuy bà chẳng hiểu thế nào là sự mủi lòng cũng như bà mù tịt đối với khoa đại học, bà cũng ra lệnh đặc biệt cho tất cả các thầy giáo cô giáo trong trường phải đối đãi với cô Sedley một cách cực kỳ nhẹ nhàng, dường như sự phũ phàng trong cách cư xử là một điều sỉ nhục đối với cô.

Cho nên đến ngày chia tay, cô Sedley rất bối rối; giữa hai thói quen hay khóc và hay cười, cô không biết nên chọn đằng nào. Được về với gia đình cô cũng thích, nhưng phải từ biệt nhà trường cô cũng vô cùng sầu khổ. Đã từ ba hôm trước, em bé Laura Martin, một em bé mồ côi, cứ luẩn quẩn đi theo cô như một con chó nhỏ. Cô đã phải trao và phải nhận quà tặng ít nhất là mười bốn lần, lại đã phải trịnh trọng hứa mười bốn lần rằng sẽ viết thư hàng tuần đều đều. Cô Saltire bảo thế này: “Viết thư cho em thì cứ đề ngoài bì gửi cho ông nội em là bá tước Dexter tiên sinh nhé” (thực ra gia đình cô này cũng xác xơ chứ có gì đâu) . Còn cô Swartz, cô thiếu nữ tính tình sôi nổi, tóc xoăn tít như lông cừu nhưng rất rộng lượng và thân thiết ấy, thì bảo bạn: “Đừng có ngại tiền tem, ngày nào cũng phải viết thư cho em đấy”. Em bé mồ côi Laura Martin (em hãy còn đang tập viết tô) thì cứ nắm lấy tay cô bạn lớn tuổi, tha thiết nhìn vào mặt cô mà nói: “Chị Amelia ơi, bao giờ em viết thư cho chị, em sẽ gọi chị là “má” nhé. Nhất định anh chàng Jones, khi đọc cuốn sách này ở câu lạc bộ của anh ta, thế nào cũng tuyên bố rằng những chuyện vừa kể trên chẳng qua là những chuyện cực kỳ ngớ ngẩn tầm thường, vô vị, và tình cảm một cách quá đáng. Phải, ngay phút này, tôi cũng đã cụ thể nhìn thấy Jones (mặt hắn gần đỏ tía lên trước một tảng thịt cừu và một nửa chai rượu vang) đang rút bút chì ra gạch dưới mấy chữ “ngớ ngẩn, vô vị” v…v…rồi lại còn thêm ý kiến riêng “đúng vô cùng”. Phải lắm, hắn là một thiên tài kiêu kỳ, chỉ quen kính trọng những cái gì là lớn lao và anh hùng trong cuộc đời cũng như trong tiểu thuyết; thôi thì tốt nhất là biết hắn vậy, và đi chỗ khác.

Vậy thì nào hoa, nào tặng vật, và hòm xiểng, rồi hộp mũ, tất cả đồ đạc của cô Sedley đều đã được bác Sambo xếp cẩn thận lên xe rồi; cả một cái va ly bé tý xíu bằng da bò cũ, mưa nắng đã dãi dầu, trên có ghim cẩn thận một mảnh bìa ghi tên cô Sharp. Sambo tay sách chiếc va ly cứ nhăn răng ra mà cười mãi; bác xà ích lúc buộc lại nó cũng có một nụ cười mỉa mai đồng lõa... Giờ khởi hành đã đến. Nỗi đau đớn của phút ly biệt cũng giảm được nhiều phần, nhờ có bài diễn văn đáng phục của bà Pinkerton thuyết cho cô học trò nghe. Không phải vì bài diễn văn chia tay đã khiến cô Amelia đâm ra triết lý, hoặc nó đã có tác dụng làm cho cô có thái độ bình thản tức là kết quả của sự suy luận, nhưng vì bài diễn văn buồn, và kêu, và tẻ nhạt một cách không thể thương được, và chính vì nỗi sợ hãi bà giáo vẫn còn lù lù trước mắt nên đối diện với bà, cô Sedley không dám liều lĩnh để cho nỗi đau buồn riêng của mình được phát lộ ra một tý nào. Cũng như mọi dịp long trọng khác, mỗi khi có phụ huynh học sinh đến thăm trường, người ta đã dọn trong phòng khách một cái bánh mạch nha và một chai rượu vang. Mỗi người ăn một miếng bánh; cô Sedley bắt đầu được tự do lên đường. Truyện "Hội Chợ Phù Hoa " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

- Becky, em vào trong nhà chào bà Pinkerton đã chứ.

Cô Jemima bảo với một cô thiếu nữ đang đi xuống cầu thang gác như vậy. Cô này ôm trong tay chiếc hộp đựng đồ dùng của chính mình: chẳng ai buồn để ý đến cô ta. Cô Jemima rất ngạc nhiên thấy cô Sharp thản nhiên đáp lại rằng:

- Có lẽ cũng phải thế thật.

Sau khi cô Jemima đã gõ cửa và được phép vào thì cô Sharp tiến lên, dáng điệu rất ung dung, nói bằng tiếng Pháp thật đúng giọng: “Thưa bà, tôi đến để từ biệt bà”().

Bà Pinkerton không hiểu tiếng Pháp; bà chỉ điều khiển những người biết tiếng Pháp thôi. Nhưng bà cắn môi lại, ngẩng cao một cái mặt đáng khinh có cái mũi La-mã lên (trên đầu bà lại quấn một tấm khăn to tướng nom rất long trọng nữa) và đáp: “Cô Sharp, xin chào cô”. Bà Hammersmith Semiramis vừa nói vừa giơ một bàn tay lên vẫy để tỏ ý từ biệt, và cũng là để cho cô Sharp có dịp nắm lấy một ngón tay của bà giơ ra cốt cho cô được bắt.

Nhưng cô Sharp chỉ chắp hai tay lại, mỉm cười cúi chào một cách lạnh lùng: rõ ràng cô không chịu nhận cái vinh dự nói trên. Bà Semiramis thấy vậy tức giận quá sức, nguẩy đầu hất mạnh chiếc khăn một cái. Quả thấy đây là một cuộc chiến tranh nho nhỏ giữa cô con gái và bà già, mà bà già đã bị thất trận. Bà ôm lấy Amelia hôn mà nói: “Con ơi, cầu thượng đế ban phúc lành cho con”, đồng thời qua vai cô này, bà cau mặt lại nhìn cô Sharp. “Thôi đi đi, Becky”. Cô Jemima hãi quá, vừa nói vừa kéo cô gái đi ra ngoài; và cánh cửa phòng khách mãi mãi đóng lại sau lưng họ.

Rồi thì tiếp theo là cuộc chia tay ồn ào ở dưới sân; lời nói khôn tả xiết. Tất cả gia nhân đều tập trung trong gian nhà lớn... Tất cả những bè bạn thân thiết... tất cả các cô tiểu thư...và cả ông giáo dạy khoa khiêu vũ vừa mới đến xong. Thế rồi, nào là ôm ghì lấy nhau, nào là hôn hít, rồi thì khóc lóc, cứ túi bụi lên; lại còn những tiếng “hực, hức” thảm thiết vẳng ra từ trong căn phòng riêng của Swartz, cô học sinh lưu trú nữa. Thật không bút nào tả xiết; mà có viết ra thì người có tâm hồn đa cảm cũng không đành lòng mà đọc cho được. Vậy là xong cuộc ôm hôn từ biệt; họ chia tay nhau...nghĩa là cô Sedley chia tay cùng các bạn cô.

Riêng cô Sharp đã nín lặng chui vào trong xe từ mấy phút trước. Chẳng một ai buồn khóc vì phải từ giã cô này.

Bác Sambo chân vòng kiềng sập cửa xe đánh thình một cái sau lưng cô chủ đang khóc sướt mướt, rồi nhảy phốc lên đứng sau xe.

- Dừng lại đã !

Cô Jemima vừa kêu lên vừa chạy bổ ra cổng, tay cầm một gói nhỏ. Cô bảo với Amelia:

- Em yêu quý ơi, đây là mấy cái bánh xăng-uých; em cầm lấy đi đường đói thì ăn. Còn Becky, này Becky Sharp, đây là quyển sách tặng em, mà chị tôi...nghĩa là tôi…quyển từ điển Johnson ấy mà, em biết rồi chứ; em không thể từ biệt chúng tôi mà không được tặng quyển sách này. Thôi, tạm biệt nhé. Xà ích, đánh xe đi. Cầu chúa che chở cho các em!

Đoạn người thiếu nữ tốt bụng ấy lùi vào trong vườn, lòng dạt dào vì quá xúc động.

Nhưng kìa! Bác xà ích vừa đánh xe đi thì cô Sharp ló bộ mặt nhợt nhạt ra cửa sổ xe, quăng trả cuốn sách vào trong vườn.

Cô Jemima thấy thế xuýt chết ngất vì sợ hãi. Cô nói:

- Chao ôi? Chưa bao giờ tôi...gớm, mới táo bạo làm sao chứ!

Cô bị xúc động mạnh quá, không nói hết được ý cả hai câu trên. Chiếc xe bon bon chạy đi; hai cánh cổng lớn đóng chặt lại. Tiếng chuông reo vang báo hiệu bài học khiêu vũ bắt đầu. Cả cuộc đời đang mở rộng trước mặt hai cô thiếu nữ; và thế là vĩnh biệt Chiswick Mall.

Chương 2
SHARP VÀ AMELIA CHUẨN BỊ MỞ CUỘC TẤN CÔNG

Lúc đã thực hiện xong hành động dũng cảm vừa nói trong

- Cho đáng kiếp cuốn từ điển. Lạy chúa; thật may mà mình thoát khỏi Chiswick.

Trước hành vi khiêu khích vừa qua, cô Jemima bị xúc động mạnh thế nào thì cô Sedley hầu như cũng bị xúc động như vậy; ta cứ nghĩ xem, cô vừa mới rời khỏi nhà trường được có một phút, mà mới trong một phút thì làm sao bao nhiêu kỷ niệm ghi lại qua suốt sáu năm trời đã mất ngay được. Không những thế, đối với một số người thì những nỗi lo âu sợ hãi của tuổi hoa niên cứ vĩnh viễn tồn tại. Thí dụ, tôi có quen một ông già đáng kính đã sáu mươi tám tuổi; một buổi sáng, cùng ngồi ăn với nhau, ông cụ dáng điệu rất bồi hồi xúc động nói với tôi rằng:

- Ông ạ, đêm qua, tôi nằm mê thấy bị ông giáo Raine đánh cho một trận đòn.

Thì ra đêm hôm ấy trí tưởng tưởng đã đem ông lão sống lùi lại quá khứ những năm mươi lăm năm. Mãi đến bây giờ, đã sáu mươi tám tuổi đầu, ông lão vẫn còn sợ ông giáo Raine và cái roi y như hồi còn bé mới mười ba tuổi. Giả sử bây giờ, lúc ông lão đã sáu mươi tám tuổi, mà ông giáo kia lại hiện lên bằng xương bằng thịt, tay cầm cây roi to tướng, mà quát ông lão với cái giọng ghê gớm thế này: “Thằng kia, chìa mông ra đây...” nhỉ. Cho nên, cô Sedley thấy cái hành vi bất phục tòng kia mà kinh hãi quá. Cô ngồi yên lặng một lúc, cuối cùng hỏi bạn:

- Rebecca, sao chị có thể làm thế được?

Rebecca cười đáp lại:

- Thế nào, chị cho rằng bà Pinkerton sẽ xuất hiện và ra lệnh cho em phải quay lại cái ngục tối ấy chăng?

- Không phải thế, nhưng...

Cô Sharp vẫn có vẻ giận dữ nói tiếp:

- Em thù ghét cả cái nhà ấy; em ước gì không bao giờ còn phải nhìn thấy nó nữa. Em cầu cho nó bị chìm xuống tận đáy sông Thames, thật đấy. Mà nếu bà Pinkerton có chết đuối dưới sông, em cũng không thèm vớt đâu. Chao ôi! Em mà được nhìn thấy bà ta nổi lềnh bềnh trên dòng sông kia kìa, đủ cả khăn áo lệ bộ và cái mũi lõ của bà ta chõ lên trời như mũi tầu ấy, thì thú vị biết mấy!

- Xuỵt! Cô Sedley vội kêu.

Cô Rebecca vừa cười, vừa nói:

- Làm sao, chị sợ thằng hầu da đen này mách lẻo à? Cho nó về thách bà Pinkerton rằng em ghét bà ấy như đào đất đổ đi: em cầu cho nó mách; em còn ước sao có dịp cho bà ấy rõ sự thù ghét của em nữa cơ. Hai năm nay, đối với em, bà ấy chỉ có một thái độ khinh miệt, sỉ nhục. Bà ấy cư xử với em còn tệ hơn đối với bất cứ một con ở nào coi việc bếp núc. Ngoài chị ra, thử hỏi có ai là người coi em như bạn, có ai nói với em một lời tử tế. Em bị phân công chăm sóc đám con gái nhỏ học lớp dưới, và chuyên tập cho bọn lớn tuổi nói tiếng Pháp, đến nỗi em thành phát ngấy tiếng mẹ đẻ. Mà này, nói tiếng Pháp với bà Pinkerton thì thật là một trò khôi hài, có phải không? Tiếng Pháp bà ấy không biết lấy một chữ bẻ làm đôi, nhưng lại kiêu ngạo không chịu thú nhận. Em tin chắc chính vì vậy mà bà ta tống cổ em đi. Thôi, cũng cảm ơn Thượng đế vì em biết tiếng Pháp. “Nước Pháp vạn tuế! Hoàng đế vạn tuế! Bonaparte vạn tuế”() .

Cô Sedley lại kêu lên:

- Kìa Rebecca, Rebecca! Nói năng mới liều lĩnh chứ!

Quả thật từ trước tới nay, chưa bao giờ Rebecca ăn nói bậy bạ đến như vậy; vì hồi ấy, ở nước Anh ai nói “Bonaparte vạn tuế” thì cũng chẳng khác gì nói “Lucifer () vạn tuế”.

- Sao chị có thể...sao chị lại dám có những ý nghĩ trả thù xấu xa như thế?

- Sự trả thù có thể là xấu xa thật đấy, nhưng cũng là điều tự nhiên thôi. Em có phải là thiên thần đâu.

Mà nói cho đúng sự thực thì quả thật cô ta không phải là thiên thần. Qua câu chuyện ngắn ngủi hai người trao đổi với nhau trong khi chiếc xe ngựa lười biếng lăn bánh dọc theo bờ sông, ta thấy rằng có hai lần Rebecca cảm tạ Chúa trời; song lần thứ nhất, là vì Chúa trời đã giúp cô thoát khỏi tay mấy kẻ cô ghét cay ghét đắng! Và lần thứ nhì, là vì Chúa trời đã giúp cô làm cho kẻ thù của cô phải phần nào bối rối, lúng túng. Cả hai điều ấy không phải là những lý do đúng đắn để cảm tạ Chúa trời; mà những con người tính tình dịu dàng hiền hòa cũng không suy nghĩ thế. Vậy thì Rebecca chẳng hiền hòa, dịu dàng một chút xíu nào hết. Cô gái chán đời trẻ măng này bảo rằng cả loài người hành hạ cô; nhưng ta có thể tin chắc rằng kẻ nào bị cả loài người đối xử không ra gì, nhất định hoàn toàn xứng đáng với cách đối đãi như vậy. Cuộc đời là một tấm gương soi, nó phản chiếu lại chính bộ mặt của bất cứ kẻ nào ngó vào. Cau mặt với nó, nó sẽ cau mặt giả với ta ngay; và cười với nó, nó lại sẽ thành ngay người bạn vui tính tốt bụng của ta; các bạn thanh niên hãy xem đó mà lựa chọn. Có điều chắc chắn rằng nếu cả thế giới bỏ quên cô Sharp, thì cũng chưa hề bao giờ cô ta làm tốt điều gì cho ai. Ta cũng không thể mong có được hai mươi bốn cô thiếu nữ đều đáng yêu như nhân vật chính trong tập truyện này là cô Sedley (sở dĩ chọn cô này làm nhân vật chính, cũng vì cô tốt nết hơn cả; nếu không, có cái quái gì trên đời nào ngăn cấm chúng ta chọn cô Swartz, cô Crump hoặc cô Hopkins làm nhân vật chính?); không thể hy vọng rằng người đời ai cũng có được tính tình dịu dàng, khả ái như Amelia Sedley, ai cũng tìm mọi dịp khuất phục cái tính tàn nhẫn, hay cáu bẳn của Rebecca, và cũng biết dùng muôn vàn lời lẽ phải chăng và hành vi tốt đẹp mà vượt trên thái độ thù ghét loài người của cô này, dù là chỉ một lần.

Bố Rebecca là một họa sĩ, dạy vẽ trong trường của bà Pinkerton. Ông ta là một người thông minh, một người bạn vui vẻ, một ông vô tâm, hay mang công mắc nợ, và rất mê các tửu quán. Nốc rượu say, ông ta hay đánh vợ đánh con; rồi sớm hôm sau, đầu nhức như búa bổ, ông ta lại chửi vung lên rằng thiên hạ không biết trọng thiên tài, và xỉ vả cái bọn khốn nạn, tức là cái bọn đồng nghiệp họa sĩ của ông, một cách khá sáng suốt và nhiều khi rất là có lý. Ông ta sống một cách chật vật ở thị trấn Soho; nội một dặm quanh thị trấn này, ông ta mắc nợ tất cả mọi người. Vì vậy, ông ta bèn nghĩ rằng hoàn cảnh của mình thế này thì cưới phăng một người đàn bà Pháp trẻ tuổi làm vợ là tốt nhất; người này vốn làm nghề vũ nữ. Không bao giờ cô Sharp đả động đến cái nghề nghiệp hèn hạ của mẹ mình; trái lại, cô luôn luôn tuyên bố rằng cái bà hay “nhảy đập chân” () kia thuộc một dòng họ quý tộc vùng Gascony, và lấy làm hãnh diện hết sức vì được là con cháu dòng dõi đó.

Mà quái lạ thay, Rebecca càng lớn lên, thì các tổ tiên của cô cũng càng được tôn thêm về địa vị xã hội và về tiếng tăm.

Mẹ cô Rebecca cũng có được thụ hưởng một nền giáo dục nào đó ở đâu không biết; con gái bà nói tiếng Pháp rất đúng giọng, y như dân thành Paris vậy. Thời ấy điều này hầu như là một tài năng hiếm hoi; nhờ vậy, Rebecca được cái bà Pinkerton có tư tưởng bảo thủ kia mượn giúp việc.

Mẹ vừa chết, bố Rebecca lại bị bệnh tửu cuồng tấn công lần thứ ba; yên trí mình không thể qua khỏi được, ông ta bèn viết một bức thư lời lẽ thật thiết tha cảm động gửi cho bà Pinkerton, nhờ bà che chở cho con gái. Rồi ông ta nằm xuống mộ, sau khi đã bị hai viên mõ tòa cãi lộn nhau trên thi thể mình. Đặt chân vào Chiswick, Rebecca vừa tròn mười bảy tuổi; cô được theo chế độ lưu học sinh, được hưởng học bổng; nhiệm vụ của Rebecca là nói tiếng Pháp, như ta đã rõ; còn quyền lợi của cô là khỏi phải trả tiền; hàng năm lại được cấp thêm vài ghi-nê, và được mấy ông giáo dạy trong trường truyền thụ cho ít mảnh kiến thức.

Dáng người Rebecca bé nhỏ, mảnh mai, da tái tái, tóc màu vàng sẫm, mắt hay nhìn xuống; lúc nào Rebecca ngước nhìn lên, hai mắt thật là to, trông kỳ dị và rất hấp dẫn đến nỗi cậu công tử Crisp phải lòng cô chết mệt; cậu này vừa mới tốt nghiệp Oxford đại học đường, giữ chức mục sư dưới quyền cha xứ Chiswick là ngài Flowerdew. Một lần đến giảng đạo ở nhà thờ Chiswick, bị Rebecca ngồi dưới hàng ghế học trò liếc tình cậu Crisp trên bục giảng một cái; lập tức cậu này ngây người ra như mất hồn().

Anh chàng thanh niên si tình này thường ngồi hầu trà bà Pinkerton, vì được mẹ giới thiệu với bà. Cậu bèn nhờ mụ chột mắt bán táo làm bà tơ hồng gửi hộ “tình thơ nhất bức”, đại khái tỏ ý muốn tính cuộc trăm năm với Rebecca thì phải; bà Crisp được triệu ngay từ Buxton về; bà lập tức đưa cậu con cưng của mình đi chỗ khác. Tuy vậy, mỗi lúc nghĩ rằng cái chuồng chim bồ câu ở Chiswick này mà lại ủ ấp một con diều hâu ghê gớm đến thế, bà Pinkerton cứ thấy sốt cả ruột; giá không vì đã trót bị ràng buộc với Rebecca, bà đã tống cổ cô đi nơi khác rồi; bà cũng không thể hoàn toàn tin lời cô, mặc dầu cô một mực cãi rằng mình chưa hề trao đổi một lời nào với cậu Crisp, trừ hai lần, ngay trước mặt bà nhân khi cùng ngồi uống trà với bà và cậu ấy. Đứng cạnh nhiều cô khác trong trường có vóc người cao lớn, trông Rebecca như một đứa trẻ. Nhưng cô sớm có cái già dặn, cái từng trải đáng sợ của con nhà nghèo. Sau khi nói chuyện với Rebecca, khối bác chủ nợ của bố cô đành quay về không. Lại có vô số nhà thương gia được cô ta nịnh nọt khéo léo đâm ra vui tính lại đãi thêm một bữa ăn nữa. Thường Rebecca vẫn ngồi cạnh bố khi có khách - thấy con gái thông minh, ông bố lấy làm hãnh diện lắm - nên cô được nghe đủ mọi thứ chuyện của những vị khách “bừa bãi” này, hầu hết là những chuyện con gái không nên để lọt vào tai. Bởi thế Rebecca vẫn nói rằng mình chưa hề bao giờ là con gái, ngay khi mới lên tám tuổi đã là đàn bà rồi. Ôi chao, sao bà Pinkerton lại để cho một con chim nguy hiểm như thế lọt vào cái lồng của mình nhỉ?

Số là những khi bố Rebecca đưa cô đến Chiswick, bà giáo già yên trí cô là một thiếu nữ dịu dàng nhất thế giới, vì những bận ấy cô đóng vai một cô gái ngây thơ () khéo quá. Và chỉ mới có một năm trước ngày Rebecca được nhập trường, nhân cô vừa tròn mười sáu tuổi, bà Pinkerton bèn long trọng tặng cô một con búp bê, lại kèm theo cả một bài diễn văn ngắn. Thực ra, bà tịch thu con búp bê này của cô Swindle vì bà bắt được cô này ru trộm búp bê trong giờ học. Tối hôm ấy, sau buổi họp, hai bố con cô Rebecca tha hồ mà cười với nhau trên đường về nhà (chỉ khi nào có diễn văn thì các ông giáo trong trường mới được triệu tập tới dự đông đủ). Giá bà Pinkerton được nom thấy hình ảnh hài hước của chính bà, nghĩa là được thấy Rebecca làm cho con búp bê bắt chước dáng điệu bà như thế nào, có lẽ bà đến phát điên phát rồ lên vì tức giận mất. Becky vẫn thường giả vờ đối thoại với con búp bê; tại các phố Newman, Gerrard, và ở khu phố của Nghệ Sĩ, người ta thích thưởng thức cái trò vui ấy lắm lắm. Mấy anh chàng họa sĩ trẻ tuổi mỗi khi đến “nhậu nhẹt” với bậc đàn anh lười biếng, phóng đãng, song thông minh và vui tính của họ, lại hỏi thăm Rebecca rằng bà Pinkerton có nhà hay không; bà trở thành quen thuộc quá đối với họ, y như ông Lawrence hay Tổng thống West; khổ thân bà quá! Một lần Rebecca có hân hạnh được đến Chiswick chơi mấy ngày; lúc trở về nhà, cô đem theo cô Jemima, nghĩa là một con búp bê khác mà cô gọi là Jemy. Lúc chia tay, cái cô Jemima thực thà này đã tự tay làm và tặng Rebecca một số bánh ngọt và mứt đủ cho đến ba đứa trẻ ăn, lại cho thêm một đồng bảy siling, song tính ưa giễu cợt của Rebecca vẫn mạnh hơn lòng biết ơn; thế là cô em cũng bị hy sinh như bà chị.

Sau khi bố chết, Rebecca bị đưa về Mall ăn học. Ở đây phải phục tùng nguyên tắc cứng nhắc, cô thấy như bị nghẹt thở, bữa ăn phải cầu kinh, rồi giờ nào học, giờ nào đi chơi đều có quy định chung rõ ràng dứt khoát; cô cảm thấy hầu như không thể chịu đựng nổi nữa; cô nhớ tiếc cuộc sống trong cái xưởng vẽ ngày xưa ở Soho quá; hồi ấy tuy nghèo sơ xác nhưng thật tự do; đến nỗi tất cả mọi người, kể cả bản thân Becky nữa, đều tưởng rằng cô đang rầu rĩ gày mòn đi vì thương nhớ bố. Đêm đến, bọn đầy tớ gái thường nghe tiếng cô đi lại, khóc thút thít trong căn phòng riêng bé tý ở nhà dưới: nhưng cô khóc vì tức giận, chứ không phải vì buồn phiền. Trước kia cô cũng không khéo giả vờ lắm, nhưng bây giờ sự cô độc đã dạy cô giả dối rất tài.

Chưa bao giờ cô được gần gũi giới phụ nữ. Bố cô có nhiều tật xấu nhưng lại có tài; so với đám đàn bà con gái cô gặp ở đây thì câu chuyện của ông ta nghe thú vị hơn gấp nghìn lần. Thói phô trương trịnh trọng của bà hiệu trưởng già, tính vui vẻ nhưng ngớ ngẩn của cô em bà, những câu chuyện vớ vẩn và thói ngồi lê đôi mách của các cô học trò lớn, rồi cả cái điệu bộ đạo mạo cứng nhắc của mấy bà giáo...cô thấy khó chịu vì tất cả những chuyện ấy quá. Cô gái không may này lại cũng không có tâm hồn dịu dàng của một người mẹ, thành ra những tiếng trò chuyện ríu rít của bầy trẻ con mà cô có nhiệm vụ săn sóc cũng không thể khiến cô chú ý và an ủi được cô một phần nào. Tuy vậy cô cũng đã sống chung cùng họ hai năm trời; khi cô ra đi, chẳng một ai lấy điều đó làm phiền lòng. Riêng đối với Amelia Sedley, người thiếu nữ có tâm hồn dịu dàng kia, cô còn thấy gắn bó đôi chút; ai mà cảm thấy mình không gắn bó với Amelia cho được? Thấy các cô gái trẻ sống chung có hạnh phúc hơn mình, nhiều phen Rebecca uất lên vì ghen tức. Rebecca gièm một cô thế này: nó cậy mình là cháu ông bá tước, làm bộ làm tịch quá. Thiên hạ còng lưng xuống mà lạy con bé lai đen kia, chẳng qua vì nó có số vốn mười vạn đồng bảng? Mình còn thông minh gấp nghìn lần; lại xinh đẹp hơn nó; giầu có mà làm gì! So với cháu gái ông bá tước, mình có thua kém về mặt giáo dục đâu. Dòng với chả dõi?

Thế mà ở đây thiên hạ chả thèm để ý gì đến mình. Hồi mình còn ở nhà với bố, bọn đàn ông chẳng đã bỏ cả những cuộc hội họp khiêu vũ vui vẻ nhất cốt được gần mình một buổi tối là gì?

Thế là cô quyết định phải thoát khỏi chốn lao tù này bằng bất cứ cách nào; bây giờ phải bắt đầu hành động ngay cho quyền lợi của bản thân mình; lần đầu tiên Rebecca lập những chương trình xây dựng tương lai.

Vì vậy, cô hết sức lợi dụng những điều kiện học tập trong nhà trường; vốn đã có sẵn khả năng về môn âm nhạc và tiếng Pháp, nên cô tiến bộ rất nhanh trong khóa học ngắn ngủi thời đó coi như cần thiết cho những thiếu nữ con nhà dòng dõi. Cô tập âm nhạc rất chuyên cần. Một hôm, các bạn học đi chợ hết, riêng mình Rebecca ở lại nhà.

Nghe thấy cô chơi một bài nhạc hay quá, bà Minerva khôn ngoan tính toán ngay rằng có thể hà tiện món tiền thuê ông giáo dạy nhạc cho đám học trò bé được đấy, nên bảo bà riêng cô Sharp rằng từ nay trở đi cô sẽ dạy chúng về khoa âm nhạc.

Lần đầu tiên cô gái dám không tuân lệnh trên khiến cho bà hiệu trưởng ngạc nhiên quá. Rebecca nói thẳng:

- Bà mướn tôi để nói tiếng Pháp cho bọn trò nhỏ nghe, chứ không phải để dạy chúng âm nhạc và tiết kiệm hộ bà. Muốn tôi dạy chúng, bà trả tôi thêm tiền.

Bà Minerva đành chịu thua: dĩ nhiên từ bữa ấy, bà ghét cay ghét đắng Rebecca. Bà nói một cách rất có lý rằng: “Ba mươi lăm năm nay, lần này tôi mới có kẻ dám cưỡng lại quyền tôi ngay trong nhà này. Thì ra tôi nuôi ong tay áo” ().

Nghe bà lão đang suýt chết ngất vì ngạc nhiên nói vậy, cô Sharp đáp:

- “Nuôi ong tay áo...” lạ nhỉ? Bà nuôi tôi vì tôi được việc cho bà. Giữa bà và tôi, không làm gì có chuyện ơn huệ. Tôi thù ghét nơi này, tôi chỉ muốn đi chỗ khác. Ở đây tôi chỉ làm những việc gì tôi bắt buộc phải làm thôi.

Bà già hỏi lại cô ta rằng cô biết là đang nói với bà Pinkerton không; cũng vô ích. Rebecca cười vào giữa mặt bà lão; cái cười mỉa mai độc địa một cách đáng sợ, khiến bà hiệu trưởng suýt nữa phát điên. Cô nói:

- Bà hãy trả tiền công rồi cứ tống khứ tôi đi cũng được. Hoặc bà kiếm cho tôi một chân dạy trẻ trong một gia đình quyền quý nào đó, tùy ý bà.

Rồi cứ mỗi khi hai người cãi cọ nhau cô lại nói:

- Bà tìm việc làm cho tôi đi...tôi với bà chẳng ưa gì nhau đâu; tôi sẵn sàng rời bỏ nơi này.

Dẫu bà Pinkerton đáng kính có cái mũi La mã, lại đội cả khăn, vóc dáng to béo như một cái chum và từ xưa đến nay vẫn được coi như một bà hoàng không ai dám cưỡng lại, nhưng bà cũng không có đủ sức mạnh ý chí bằng cô gái bé nhỏ tập sự này. Chống lại cô hoặc muốn uy hiếp cô ư? Vô hiệu. Một lần bà định tâm mắng cô trước mặt mọi người, liền bị Rebecca tấn công lại bằng cách dùng tiếng Pháp trả lời; thế là bà lão thất bại to. Vậy rõ ràng muốn duy trì uy quyền của mình trong trường, nhất định phải tống cái quân phiến loạn, cái con quỷ cái, cái con rắn độc, cái quân quấy rối này đi nơi khác mới xong. Nghe nói gia đình tôn ông Pitt Crawley hồi này đang cần một người dạy trẻ, bà bèn giới thiệu ngay cô Sharp đến đảm nhiệm việc đó, mặc dầu cô là con rắn độc, là đồ quấy rối.

Bà nói:

- Quả thực, tôi không thể thấy cô Sharp có lỗi gì trong cách ăn ở, trừ đối với riêng tôi. Tôi phải công nhận rằng cô là người có tài năng đáng chú ý. Cô ta đi làm ở đâu rồi cũng sẽ gây được tín nhiệm cho phương pháp giáo dục của trường tôi.

Nhân việc giới thiệu này, bà hiệu trưởng đã làm lành với chính lương tâm mình. Thế là tờ hợp đồng bị hủy bỏ, và cô giáo tập sự được tự do. Cuộc đấu tranh vừa tả ở trên bằng một vài dòng, trong thực tế đã diễn ra suốt vài tháng trời. Cô Sedley bây giờ đã mười bảy tuổi, cũng sắp sửa ra trường; cô lại là bạn thân của Sharp. Bà Minerva vẫn nói: “Trong cách cư xử của Amelia, chỉ có mỗi điều đó là khiến bà giáo không được hài lòng”.

Trước khi Rebecca nhận nhiệm vụ dạy trẻ cho một gia đình tư nhân, cô được Amelia mời về chơi nhà một tuần.

Cuộc đời đã bắt đầu với hai cô thiếu nữ như vậy. Đối với Amelia, cuộc đời hoàn toàn mới mẻ, tươi tắn sáng sủa và vô cùng rực rỡ như hoa xuân. Đối với Rebecca cuộc đời không phải là hoàn toàn mới (Thật vậy, nếu muốn nói cho đúng sự thực về việc cậu Crisp, thì phải nghe lời mụ bán bánh quả. Mụ nói ý với người khác; người này lại cam kết với người khác nữa rằng câu chuyện giữa cậu Crisp và cô Sharp “ở trong còn lắm điều hay” chưa được công bố, rằng lá thư của cậu ấy là để trả lời một lá thư khác). Song về chuyện này, ai có thể nói cho thật đúng sự thực? Tóm lại, nếu Rebecca không phải là mới bắt đầu cuộc đời, thì cô ta đang bắt đầu lại cuộc đời vậy.

Lúc này hai cô thiếu nữ đã đi đến chỗ địa đầu thị trấn Kensington, có gióng gỗ chắn ngang. Một sĩ quan khinh vệ binh trẻ tuổi phóng ngựa qua, liếc nhìn Amelia tấm tắc khen: “Chao ôi, cô ả đẹp quá!”. Amelia nghe tiếng, tuy không quên mất bạn, nhưng cũng chấm khô nước mắt, đỏ ửng mặt lên và thấy lòng hân hoan. Trong khi xe đang lăn bánh đến công viên Russell thì hai cô đang chuyện trò tíu tít về căn phòng khách, về chuyện khi được giới thiệu với khách lạ, các cô thiếu nữ có nên đánh phấn và mặc váy phồng hay không, và không biết Amelia có cái vinh dự lớn lao ấy không: cô biết rằng mình sẽ được đến dự buổi dạ hội ở nhà viên thị trưởng.

Xe về đến nhà, Sambo đỡ Amelia Sedley nhảy xuống, trông cô vui sướng và xinh đẹp như bất cứ một cô thiếu nữ nào của thành phố Luân đôn rộng lớn này. Sambo và bác xà ích, cả hai đồng ý với nhau về điểm trên; cha mẹ cô cùng toàn thể gia nhân trong nhà cũng thấy như vậy. Họ đứng trong căn phòng lớn, người mỉm cười cúi rạp xuống, người nghiêng đầu chào cô tiểu chủ của họ.

Xin các bạn cứ yên trí rằng Amelia đã dẫn Rebecca đi xem tất cả các gian phòng trong nhà, lại mở mọi ngăn kéo riêng ra cho cô xem đồ vật đựng ở trong, rồi khoe với bạn nào là sách, đàn dương cầm, quần áo, vòng cổ, ghim băng, dây ăng ten và đủ các thứ lặt vặt khác nữa; cô cứ nài Rebecca phải nhận bằng được mấy cái nhẫn bằng bạch mã não và bằng ngọc Thổ-nhĩ-kỳ, cả một tấm áo bằng “voan” mỏng rất đẹp, lấy cớ rằng tấm áo này bây giờ cô mặc hơi chật mà bạn cô mặc thì vừa xinh; cô lại định tâm xin mẹ cho phép được khoe với bạn tấm khăn san bằng lụa Cashmere trắng của cô, vẫn để dành rất cẩn thận; Joseph anh trai cô đã mua từ Ấn Độ về cho em đã nói rất thành thực rằng: “Có một ông anh trai thực là thú vị”. Cô Amelia có tâm hồn hiền hậu dịu dàng thấy Rebecca côi cút trơ trọi giữa cuộc đời, không thân thích không bè bạn, lấy làm động tâm vô cùng, Amelia nói:

- Không sợ trơ trọi đâu, Rebecca ạ. Em sẽ là bạn của chị mãi mãi, em sẽ yêu quý chị như chị em ruột, thật đấy.

- À, nhưng chị có hai bác giầu có nuông chiều chị, muốn gì được nấy; hai bác yêu thương chị, điều này quý báu hơn cả. Ngày trước, cha em chả có gì cho em: suốt đời em chỉ có hai cái áo để mặc thay đổi. Chị lại còn một ông anh, một ông anh thân mến. Chắc chị quý anh ấy lắm nhỉ!

Amelia cười, không đáp.

- Thế nào, chị không quý anh ấy à? Chị bảo rằng ai chị cũng quý cơ mà?

- Dĩ nhiên, có chứ...nhưng...

- Nhưng sao?

- Nhưng hình như anh Joseph không chú ý lắm đến chuyện em có quý anh ấy hay không thì phải. Sau mười năm xa cách, gặp lại nhau, anh ấy chìa hai ngón tay cho em bắt! Anh ấy tốt lắm, nhưng ít khi chuyện trò với em. Có lẽ anh ấy quý cái tẩu của anh ấy hơn cả...

Amelia vội ngừng lại, vì cô nghĩ sao mình lại nói xấu anh mình nhỉ? Rồi tiếp:

- Hồi em còn bé anh ấy đối với em dịu dàng lắm. Khi anh ấy ra đi, em mới lên năm tuổi.

Rebecca hỏi:

- Anh ấy có giầu lắm không? Họ đồn rằng những ông Nabobb() ở Ấn Độ lắm của lắm.

- Chắc anh ấy thu hoạch đồng niên cũng lớn.

- Thế chị dâu của chị có đẹp không?

Amelia lại cười đáp:

- Ô, anh Joseph đã lấy vợ đâu.

Hình như cô đã nói chuyện này với Rebecca rồi, nhưng cô bạn trẻ tuổi có vẻ không nhớ ra. Cô nhất định cãi rằng lần này mình đã định bụng đến xem mặt các cháu giai, cháu gái thân yêu của Amelia. Anh Joseph chưa vợ, thế thì cô bực mình quá, vì cô yên trí rằng Amelia hơi ngạc nhiên thấy tính tình bạn đột nhiên dịu dàng hẳn đi; cô nói:

- Em cứ tưởng chị đã chán ngấy trẻ con hồi ở Chiswick rồi?

Kể ra thì mấy hôm nay cô Sharp chẳng nên tỏ bày những ý kiến mà người ta rất dễ dàng thấy là giả dối thì mới phải. Song ta nên nhớ rằng cô mới mười chín tuổi, chưa quen với nghệ thuật dối trá, con người ngây thơ đáng thương thay! Cô còn đang lấy bản thân mình ra để rút kinh nghiệm trong cuộc sống. Tất cả những câu hỏi tò mò trên, trong thâm tâm cô gái tinh quái này, chỉ có ý nghĩa đơn giản như sau: “Nếu anh Joseph Sedley giầu, lại chưa có vợ, sao mình không lấy quách anh ấy? Mình chỉ ở đây có nửa tháng thật, nhưng cứ thử một tý cũng chẳng sao cơ mà”. Thế là trong thâm tâm cô quyết định sẽ thực hiện việc thử thách quý hóa này. Cô bèn ra sức vuốt ve Amelia hơn, khi đeo chiếc vòng hồng mã não, cô hôn nó, thề rằng sẽ không bao giờ, không bao giờ rời bỏ nó. Chuông điểm giờ ăn, cô vòng tay ôm lưng bạn bước xuống thang gác, hệt kiểu những cô thiếu nữ con nhà quyền quý. Đến cửa phòng khách, cô bồi hồi quá, đến nỗi gần như không đủ can đảm bước vào. Cô bảo bạn:

- Chị thân yêu ơi, hãy sờ ngực em xem, sao tim đập mạnh thế này?

Amelia đáp:

Chương 3
REBECCA TRƯỚC KẺ ĐỊCH

Lúc hai cô thiếu nữ bước vào phòng thì thấy một người đàn ông đang ngồi đọc báo cạnh lò sưởi.

Người này to béo phục phịch mặc quần da nai thuộc, đi ủng cao, cổ áo đính bao nhiêu là đăng-ten che gần đến mũi; anh ta mặc một áo gi-lê có sọc đỏ, và một tấm áo khoác màu xanh da táo, có những chiếc khuy đồng to tướng bằng đồng “cơ-rao”, (ấy là lối phục sức buổi sớm theo “mốt” ăn diện của các cậu công tử hồi đó). Thấy hai cô hiện ra, anh chàng vội nhảy bật ra khỏi chiếc ghế bành, mặt mũi đỏ ra, và gần như giấu kín mặt mình trong đám đăng ten đính trên cổ áo. Amelia cười, nắm lấy hai ngón tay anh trai giơ ra nói:

- Em gái của anh đây mà. Em đã trở về nhà thực sự rồi đây nhé; còn đây là bạn em, chị Sharp. Em đã có lần nói chuyện với anh về chị ấy.

Cái đầu trong đám đăng ten vội lắc quầy quậy đáp:

- Có đâu? Bao giờ? Tôi xin thề...nghĩa là…vâng...thưa cô, gớm, trời lạnh quá.

Rồi anh ta vội cúi xuống ra sức mà cời lửa trong lò sưởi, mặc dầu tiết trời đang giữa tháng sáu.

Rebecca thì thầm hơi to với Amelia:

- Anh ấy đẹp trai quá nhỉ?

Amelia đáp:

- Chị thấy thế à? Em bảo với anh ấy nhé?

Sharp vội co người lại, như một con thú rừng sợ hãi nói.

- Ấy chớ, chị thân yêu; đừng đấy.

Lúc trước cô ta đã kính cẩn nghiêng mình chào cậu công tử một cách đúng kiểu gái trinh, đôi mắt e lệ cứ nhất định ngó chăm chăm xuống tấm thảm; không biết sao cô ta lại có dịp nhìn được mặt anh chàng.

Amelia nói với ông anh đang cời lửa:

- Anh ơi, cảm ơn anh cho em đôi khăn san đẹp quá. Có đẹp không, chị Rebecca?

- Ô, đẹp tuyệt trần đời.

Sharp đáp và đưa mắt nhìn từ tấm thảm sang đôi đèn trên lò sưởi.

Joseph vẫn tiếp tục loay hoay kỳ cạch với chiếc que cời và cái gắp than vừa phồng má thổi lửa phù phù, bộ mặt vàng khè không thể nào đỏ ửng hơn được. Cô em gái nói tiếp :

- Anh Joseph ạ, em không tặng anh được những quà đẹp đến thế đâu; nhưng hồi còn ở trường, em đã thêu cho anh một đôi quai đeo quần đẹp lắm cơ.

Ông anh vội kêu lên, vẻ mặt hoảng hốt thực sự.

- Trời ơi! Amelia, em định nói cái gì thế?

Anh chàng nhảy xổ tới với lấy cái dây chuông, lúng túng mãi không nắm được; trông điệu bộ anh chàng hiền lành lại càng thêm vẻ bối rối.

- Lạy chúa, nhìn hộ anh xem chiếc “bớc-ghi” () có ngoài cửa không. Không sao đợi được nữa; anh phải đi thôi. Cái thằng hầu khốn nạn. Anh phải đi đây.

Vừa lúc đó ông bố bước vào, vừa đi vừa lúc lắc mấy chiếc chìa khoá, rõ ra kiểu một ông nhà buôn người Anh.

Ông hỏi:

- Emmy, cái gì thế?

- Anh Joseph bảo con xem hộ cái...cái “bớc-ghi” có ngoài cửa không? Cái “bớc-ghi” là cái gì thế, ba?

Ông lão cũng ưa khôi hài đáp:

- Ấy là “cái xe một ngựa”.

Nghe bố nói, Joseph cười phá lên. Đang cười gặp ngay đôi mắt của Sharp, anh chàng tịt mất, y như bị một phát đạn chết đứng.

- Cô này là bạn của con à? Cô Sharp, tôi rất sung sướng được gặp cô. Cô và Emmy đang cãi nhau với Joseph hả; sao nó lại muốn bỏ đi?

Joseph đáp:

- Thưa cha, con đã hứa đi dùng cơm với Bonamy, bạn đồng sự của con.

- Ồ, thôi. Anh đã bảo với mẹ anh rằng anh ăn cơm ở nhà cơ mà?

- Nhưng…ai lại ăn mặc thế này?

- Cô Sharp, thử nhìn nó xem. Có phải nó diện cũng khá bảnh, có thể ăn cơm bất cứ đâu không?

- Dĩ nhiên - cô Sharp nhìn bạn và cả hai cùng phá ra cười làm cho ông già rất thú vị. Thấy câu nói đùa được tán thưởng, ông hỏi tiếp:

- Đã bao giờ cô trông thấy một đôi ủng như thế kia ở trường bà Pinkerton chưa?

Joseph kêu lên:

- Trời đất ơi!

- Đấy, đấy! Tôi đã làm nó phát tức lên đấy. Bà Sedley thân yêu của tôi ơi, tôi làm mếch lòng con trai bà đây này. Tôi vừa nhắc đến chiếc quần da nai thuộc của nó. Có phải không, cô Sharp. Thôi lại đây Joseph; lại đây làm quen với cô Sharp, rồi chúng ta đi ăn cơm thôi.

- Có món “pi-lô” () nấu đúng theo ý thích của anh, ba lại mang về một con cá chim ngon nhất Billingsgate.

- Xuống đi, xuống ăn thôi; anh dẫn cô Sharp xuống nhà. Tôi sẽ đi theo cùng hai cô tiểu thư này đây.

Ông bố nói vậy rồi khoác tay vợ và con gái vui vẻ bước ra khỏi phòng.

Nếu Rebecca Sharp đã quyết định trong thâm tâm phải chiếm bằng được trái tim của anh chàng đẹp trai hộ pháp kia thì, thưa các bà, tôi cho rằng ta không có quyền trách cô; vì tuy rằng nói chung các cô gái trẻ thường giao việc săn chồng cho các bà mẹ phụ trách hộ, và tiến hành một cách kín đáo phải chăng, nhưng ta phải nhớ rằng cô Sharp không có một người bà con nào thương yêu cô và đỡ đần hộ cô trong công việc tế nhị này. Nếu cô không đích thân lo lấy một tấm chồng, thì trong cái thế giới bao la này cũng chẳng có một ai cất hộ cho cô cái gánh lo ấy. Thử hỏi tại sao bọn gái trẻ hay đi lượn phố, nếu không phải vì họ có ước vọng cao quý được làm mẹ? Ai lùa họ tụ tập hàng đàn tại những bể bơi? Ai bắt họ khiêu vũ đến năm giờ sáng suốt mùa đông? Ai buộc họ phải chúi mũi vào mà tập đàn dương cầm để chơi những bài sonate, phải cầu kỳ học lấy độ bốn bài hát và chịu trả công ông thầy dạy nhạc những một ghi-nê một bài, và nếu họ có đôi cánh tay đẹp, đôi khuỷu tay sạch sẽ thì họ chơi thụ cầm? Ai bắt họ phải chụp những chiếc mũ có đính lông chim lên đầu nếu không phải vì muốn lấy những thứ cung tên vừa kể trên để “hạ” một anh chàng trẻ tuổi “đáng yêu” nào đó? Ai bắt các bậc cha mẹ đáng kính phải cho lật hết thảm, đảo lộn hết trật tự trong nhà và tiêu đến một phần năm số thu hoạch hàng năm vào những bữa tiệc có khiêu vũ và rượu sâm banh ướp đá? Chỉ vì họ thích thế, hoặc chỉ vì họ muốn con cái họ nhảy múa cho vui nhà vui cửa chăng? Xin thưa rằng họ muốn “cưới chồng” cho con gái đấy. Trong thâm tâm bà Sedley thực thà kia cũng đã sắp đặt đến nửa tá kế hoạch hạnh phúc cho cô Amelia của bà. Vậy thì dĩ nhiên cô Rebecca đáng yêu sống trơ trọi của chúng ta cũng phải nỗ lực kiếm cho mình một tấm chồng chứ. Cô cần có ngay một người chồng, còn cấp bách hơn cả bạn cô nữa. Trí tưởng tượng của cô khá phong phú; cô lại đã đọc qua truyện Nghìn lẻ một đêm và sách địa lý của Guthrie. Sự thực là trong khi đang mặc áo để dự tiệc, và sau khi đã hỏi Amelia xem anh cô này có giàu không, Rebecca đã xây dựng ngay một chiếc lâu đài huy hoàng nhất trên bãi cát rồi; trong tòa lâu đài đó cô sẽ là bà chúa, còn đức ông chồng thì đại khái là đóng vai phụ (vì cô cũng chưa nhìn kỹ anh ta, nên mặt anh ta thế nào cũng không thể tưởng tượng cho thực rõ được). Cô đã tự trang sức cho mình bằng đủ mọi thứ khăn san, khăn quấn đầu, vòng cổ bằng kim cương, và cô đã cưỡi trên lưng một con voi để đi thăm viếng ngoại giao viên phó vương Ấn Độ trong tiếng kèn hành khúc của nhạc binh. Những ảo ảnh thần tiên hấp dẫn biết bao? Riêng tuổi trẻ có quyền xây dựng cho ta những ảo ảnh ấy, và ngoài Rebecca, còn biết bao cô cậu trẻ tuổi giàu trí tưởng tượng đã để cho tâm hồn mình bay theo những giấc mộng ban ngày thú vị đó.

Joseph Sedley hơn Amelia những mười hai tuổi. Anh ta tòng sự tại sở hành chánh trong công ty Đông Ấn Độ. Vào khoảng thời gian đang xảy ra câu chuyện này, tên anh ta có ghi trong sổ danh bạ của khu Bengal thuộc Đông Ấn Độ, với tư cách là ủy viên tài phán () quận Boggley Wollah; ai cũng biết chức vụ này là một chức vụ đáng kính và tốt bổng. Muốn biết Joseph còn leo lên tận những chức vụ nào cao hơn, mời các bạn hãy giở tài liệu nói trên ra mà tra cứu Quận Boggley Wollah thuộc một vùng phong cảnh đẹp, song heo hút, nhiều đầm lầy và rừng rậm, nổi danh vì người ta hay đến đấy bắn rắn và nhiều khi gặp cả hổ. Thị trấn Ramgunge có cả một tòa án chỉ cách đó bốn mươi dặm; và xa hơn, khoảng ba mươi dặm nữa, là nơi đồn trú của một đội khinh kỵ binh. Joseph viết thư về kể chuyện với cha mẹ như vậy, khi anh ta nhận nhiệm vụ ủy viên tài phán. Anh ta đã sống khoảng tám năm trời, hoàn toàn trơ trọi giữa nơi phong cảnh kỳ thú này, năm thì mười họa mới gặp một người da trắng, không kể mỗi năm hai lần, khi đội kỵ binh đến để chuyển số thu hoạch của công ty về Calcutta.

May làm sao, hồi này anh ta lại đang đau gan, phải về Âu Châu chữa bệnh. Được về quê cha đất tổ anh ta thích lắm. Ở Luân Đôn, Joseph không sống chung với gia đình, mà thuê nhà riêng như một anh chàng chưa vợ yêu đời.

Trước khi sang Ấn Độ, Joseph còn bé quá chưa được nếm mùi cuộc sống thú vị của một chàng trai thành thị, cho nên khi về nước, anh ta lao vào những thú chơi ấy một cách thật say sưa. Joseph tự mình giong lấy xe khi đi chơi ở công viên, dùng bữa tại những tửu quán sang trọng (hồi ấy câu lạc bộ Đông phương chưa được tổ chức); anh ta thường lui tới các rạp hát theo phong tục đương thời, và mỗi khi đến rạp Opera lại hì hục mặc bằng được chiếc quần chẽn, và đội một chiếc mũ bẻ vành tam giác.

Khi quay về Ấn Độ, và mãi mãi sau này nữa, anh ta thường say sưa kể lại những thú vui trong khoảng thời gian sống ở Anh, và muốn bắt mọi người phải hiểu rằng anh ta và Brummel là hai con hươu đầu đàn thời đó. Song ở đây, Joseph cũng cô độc như ở giữa rừng rậm Boggley Wollah.

Hầu như anh ta chẳng quen thuộc ai ở kinh đô, và nếu không có ông bác sĩ, không có các viên thuốc xanh lè và cái bệnh đau gan làm bạn thì có lẽ anh ta đến chết vì cô độc.

Anh ta lười biếng, hay gắt song cũng vui tính (), và hễ thấy con gái là sợ co rúm người lại. Vì thế thỉnh thoảng anh ta mới lại thăm cha ở khu phố Russell; - ở đấy vui thì vui thật, nhưng những câu nói đùa của ông bố già hay bông lơn thường làm cho anh ta bị chạm tới “lòng tự ái”(). Thấy mình to béo, Joseph rất lấy làm lo nghĩ; thỉnh thoảng anh ta lại cố tìm mọi cách tống bớt cái đám mỡ thừa trong người, song thói lười biếng, và tính ưa ăn ngon lại sớm thắng ngay những sự cố gắng cải cách con người của anh ta; thế là đâu lại vào đấy; mỗi ngày đủ ba bữa. Chưa bao giờ Joseph ăn mặc cho được ra hồn, nhưng anh ta vất vả vô cùng trong việc trang điểm tấm thân phì nộn của mình, mỗi ngày mất vào đó vô khối thì giờ. Thằng hầu nhờ tủ áo của anh ta mà làm giàu; bàn rửa mặt của anh ta chất đầy những lọ sáp và nước hoa, y như của một bà già hay làm đỏm. Muốn cho thân thể thon hại, Joseph đã thử dùng đủ mọi thứ dây lưng, áo chẽn được sáng chế ra trong thời đó.

Cũng như đa số các ông béo phị, anh ta thích may áo bó thật khít lấy người, mà phải cắt kiểu nào cho thật trẻ trung, màu sắc phải thật rực rỡ mới được. Chiều đến “lên khung” đâu vào đấy anh ta mới giong xe đi chơi một mình ở tiệm ăn Piazza. Tính Joseph đỏm dáng như con gái, mà có lẽ tại anh ta đỏm dáng như con gái, nên mới sinh ra nhút nhát cũng quá đáng. Nếu Rebecca thắng được anh chàng ngay lúc mới đặt chân vào cuộc đời thì quả thật trí thông minh của cô ta không phải là tầm thường.

Miếng đòn đầu tiên đã tỏ ra vô cùng lợi hại. Khi cô bảo rằng Sedley đẹp trai lắm, cô biết thế nào Amelia cũng nói với mẹ; bà mẹ lại có thể kể với Joseph; biết đâu bà chẳng vui thích vì thấy con trai mình được khen. Bà mẹ nào mà chẳng thế. Giả thử bạn bảo với Sycorax rằng con trai mụ là Caliban () đẹp như thiên thần Apollo (), có nhẽ mụ cũng thích, dù rằng mụ là phù thủy.

Hình như Joseph cũng thoáng nghe thấy thì phải, Rebecca nói khá to - nhất định anh ta có nghe thấy; vốn vẫn tự cho mình là bảnh trai, Joe thấy lời khen ngợi làm rung động từng thớ thịt trong người, khiến cho nó căng lên vì khoái trá. Song anh ta lại chùn bước ngay vì nghĩ thầm: “Nhỡ cô ả nói xỏ mình thì sao?” Thế là anh ta vội nhảy đến kéo cái dây chuông để chuồn như ta đã biết. Vừa hay, những câu bỡn cợt của bố và những lời năn nỉ của mẹ khiến anh dừng lại chịu ngồi nguyên chỗ cũ.

Joseph dẫn cô thiếu nữ trẻ tuổi xuống gác dùng cơm mà trong bụng cứ phân vân, áy náy; “Không biết có thật cô ta cho mình là đẹp trai không, hay là nói thế để xỏ mình nhỉ?” Đã bảo rằng Joseph Sedley hay làm đỏm như con gái mà lại. Lạy Chúa tôi! Nhưng các cô gái lại đảo ngược câu nói khi kháo chuyện với nhau thế này: “Chị ta hay làm đỏm như một anh đàn ông”; mà họ nói vậy cũng rất có lý.

Đám mày râu chúng ta vốn rất ưa được tán tụng, lại cũng rất cầu kỳ trong cách phục sức, rất kiêu ngạo về những ưu điểm của bản thân, rất quan tâm đến sự hấp dẫn của chính mình, có kém gì bất cứ cô gái đỏm dáng nào trên đời này đâu?

Thế là hai người bước xuống thang gác; mặt Joe đỏ dừ; Rebecca thì tỏ ra rất kín đáo đôi mắt xanh của cô ta cứ nhìn chăm chú xuống đất. Cô ta mặc áo trắng, để lộ đôi vai trần trắng muốt như tuyết đọng; thật là một bức tranh của tuổi thanh xuân, của sự ngây thơ trong trắng yếu đuối, của sự giản dị kín đáo và trinh bạch. Rebecca nghĩ bụng:

- Mình phải rất điềm tĩnh và phải hết sức chú ý đến Ấn Độ mới được.

Chúng ta biết rằng bà Sedley đã nấu cho con trai một món ca-ry đúng theo sở thích của con. Trong bữa ăn, Rebecca được mời dùng một ít. Cô hỏi:

- Món gì đây nhỉ? Rồi đưa mắt van vỉ nhìn Joseph.

- Tuyệt lắm, má ạ. Ngon chẳng kém gì ca-ry con ăn ở Ấn Độ.

Joseph, mồm đầy những ca-ry mặt đỏ tía vì đã khoan khoái nốc bao nhiêu rượu.

Rebecca bèn nói:

- Ồ, nếu là một món ăn Ấn Độ thì em phải ăn thử một tý mới được. Em tin chắc rằng cái gì của Ấn Độ cũng phải tốt.

Ông cụ Sedley vừa cười vừa bảo:

- Con ơi, tiếp cô Sharp một ít ca-ry.

Lúc trước Rebecca chưa hề đụng đến món này. Ông cụ lại hỏi:

- Cô có thấy tốt như bất cứ thứ gì của Ấn Độ không?

Rebecca đang chết dở vì ớt cay nhưng cũng gượng đáp:

- Thưa, ngon tuyệt.

Joseph thú vị lắm, nói:

- Cô Sharp, dùng thử một chút “chi-ly” xem.

- Món “chi-ly” ạ? Xin vâng.

Rebecca đáp vậy, nhưng mồm vẫn cứ há ra vì cay.

Cô ta nghĩ bụng tên là “chi-ly” thì món ăn này chắc phải hơi lạnh (), và được tiếp một ít.

- Trông xanh và tươi quá nhỉ.

Vừa nói cô vừa ăn một miếng, không ngờ còn cay hơn ca-ri; không sao chịu đựng được nữa, cô bỏ chiếc đĩa xuống bàn, kêu lên:

- Nước! Lạy Chúa, cho tôi tí nước?

Ông cụ Sedley cười phá ra, (tính ông lão vốn thô kệch, quen như ở Phòng Hối đoái, thích đùa cợt tự do); ông nói:

- Tôi cam đoan với cô, chính cống Ấn Độ đấy. Sambo, lấy nước cho cô Sharp đây.

Joseph cũng cười theo; anh chàng cho trò đùa của cha là rất lý thú. Mấy người đàn bà chỉ hơi mỉm cười. Họ đang thương hại cô, Rebecca. Thật ra cô này muốn bóp cổ ông lão chết tươi, nhưng cô cố nuốt mối hận như cô đã nuốt món ca-ry ghê gớm lúc nãy. Lúc bắt đầu nói được nên lời, cô ta lấy bộ vui vẻ bảo:

- Tôi lại nhớ đến món ớt nàng Công chúa Ba-tư bỏ vào bánh kem trong truyện “Nghìn lẻ một đêm”. Ở Ấn Độ anh có cho ớt vào bánh kem không?

Ông cụ Sedley lại cười cho là Rebecca rất vui tính.

Nhưng Joseph chỉ đáp:

- Bánh kem hả cô? Ở Bengal, kem tồi lắm. Thường chúng tôi phải dùng sữa dê; thế mà, cô có biết không, dần dần tôi lại đâm thích cơ đấy.

Ông lão xen vào:

- Cô Sharp, bây giờ thì cô không thích mọi thứ Ấn Độ nữa chứ?

Lúc đám đàn bà con gái đã ra khỏi phòng, ông lão khôn ngoan bảo con trai:

- Này Joe coi chừng. Cô ả đang muốn chài anh đấy.

Joe khoái quá đáp:

- Dào ôi! Làm gì có chuyện ấy. Ba ạ, con còn nhớ ở Dumdum có con gái ông Cutler trong đội pháo binh sau này cô ta lấy lão Lance làm thày thuốc. Năm 1804 lão này làm cho con và thằng Mulligatawney suýt chết; cái thằng Mulligatawney quỷ sứ mà con nói chuyện với ba trước bữa ăn ấy mà; hắn đang làm quan tòa ở Budgebudge, năm năm nữa thế nào nó cũng vào được Quốc hội. Thật ấy, ba ạ: một lần đội pháo binh tổ chức một buổi dạ hội khiêu vũ. Quintin trong trung đoàn Hoàng gia thứ 14 bảo con: “Sedley, tớ cuộc với cậu mười ba ăn mười rằng thế nào con Sophy Cutler cũng câu được hoặc cậu hoặc thằng Mulligatawney trước mùa mưa đấy”. Con mới bảo: “Được rồi”; Ô kìa, ba ơi...gớm thứ rượu này ngon quá nhỉ? Hãng Adamson hay Carbonell thế này?

Chỉ có tiếng ngáy nhè nhẹ trả lời: ông lão buôn cổ phiếu thật thà đã ngủ say; thế là đoạn cuối câu chuyện của Joseph hôm ấy phải bỏ dở. Tuy vậy mà trước mặt đàn ông anh ta rất hay chuyện; anh ta đã kể câu chuyện thú vị này mấy chục lần cho bác sĩ Gôlôp nghe mỗi khi đến mua thuốc và nhờ ông thăm hộ lá gan.

Vốn đang mang bệnh, nên Joseph Sedley mỗi bữa trưa chỉ dùng có một chai rượu vang đỏ kèm một chai ma-đê- ra, và chỉ ăn gọi là có hai đĩa đầy dâu quả trộn kem, kèm theo thêm độ hai tá bánh nướng nhỏ nằm chỏng trơ trong một cái đĩa đặt gần anh ta. Và chắc anh ta đang tơ tưởng đến cô gái ở trên gác (vì các nhà tiểu thuyết vẫn có đặc quyền biết tất cả mọi sự). Anh chàng nghĩ bụng: “Cô bé kháu khỉnh, trông tươi quá, lại vui tính nữa. Lúc ăn cơm, mình nhặt hộ cô ta cái khăn tay, con mắt cô ta nhìn mình mới thú chứ. Lại đánh rơi khăn tay những hai lần. Ai đang hát trong phòng khách thế nhỉ? Ờ, hay là ta lên xem sao?” Nhưng tính dút dát kìm giữ anh chàng lại, không sao thắng nổi. Ông bố ngủ say rồi; mũ thì treo trong phòng lớn.

Ngoài phố Southampton, có một chiếc xe ngựa đỗ.

- Mình phải đi coi vở kịch “Bốn mươi thằng kẻ cắp”, và xem đào Decamp nhảy mới được.

Anh ta không đánh thức ông bố quý hóa dậy, kiễng chân đi rón rén trên mũi đôi ủng, cứ thế len lén biến mất.

Trong lúc Rebecca đang chơi dương cầm, Amelia ngó qua cửa sổ phòng khách bảo:

- Kìa, anh Joseph đi kìa!

Bà Sedley đáp:

- Tại cô Sharp làm cho nó sợ đấy. Cái thằng Joe đáng thương. Sao nó dút dát quá thế nhỉ?

Chương 4
CÁI TÚI LỤA XANH

Anh chàng Joe đáng thương mất vía đến hai ba ngày. Trong khoảng thời gian đó, anh ta không đi lại nhà bố mẹ, mà Rebecca cũng không nhắc đến tên anh chàng. Cô chỉ tỏ ra hết sức biết ơn và lễ độ với cô Sedley; được cô thiếu nữ tốt bụng này đưa đi thăm các quầy hàng tạp hóa, cô thích quá, và giả vờ làm như ngạc nhiên vô cùng khi được bước chân vào rạp hát. Một bữa, Amelia bị nhức đầu, nên không thể đến dự một buổi giải trí mà hai người đã được mời: Rebecca nhất định không chịu đi, nếu không có bạn đi cùng. “Kìa? Chị là người đầu tiên trong đời đã dạy cho đứa trẻ mồ côi đáng thương này biết thế nào là hạnh phúc và tình yêu...Bỏ chị ở nhà một mình? Không bao giờ!”

Thế rồi cô ngước đôi mắt xanh đẫm lệ nhìn lên trời. Bà Sedley không thể nào không nghĩ rằng bạn của con gái bà có một tâm hồn vô cùng quý hóa.

Nghe những câu khôi hài của ông Sedley, Rebecca cũng cười một cách nhiệt tình và kiên nhẫn; ông cụ lấy lắm thích và cảm động lắm. Không phải Rebecca chỉ gây được cảm tình với mấy người cầm đầu trong gia đình. Cô lấy lòng bà Blenkinsop bằng cách nhiệt liệt tán tụng phương pháp giữ món mứt quả được lâu ngày; công việc này đang tiến hành trong phòng riêng của bà quản gia; cô cứ một mực gọi Sambo là “ngài” và “ông Sambo”, làm cho bác gia nhân này thú vị quá. Cô ta lại xin lỗi chị hầu gái vì mình đã dám rung chuông làm phiền chị ta, lời lẽ thật ngọt ngào khiêm tốn, khiến cho bọn gia nhân dưới nhà ai cũng phải có cảm tình với cô như mọi người trên phòng khách. Truyện "Hội Chợ Phù Hoa " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Một lần, đang xem mấy bức tranh Amelia vẽ ở trường gửi về nhà, Rebecca nhìn thấy một bức, đột nhiên khóc nấc lên và rời khỏi phòng. Hôm ấy chính là ngày Joe Sedley đến chơi lần thứ hai.

Amelia vội chạy theo bạn xem vì sao bạn khóc; lát sau cô gái tốt bụng quay lại một mình; hình như chính cô cũng cảm động.

- Má biết không, ba chị ấy là giáo sư dạy vẽ ở Chiswick. Những chỗ đẹp nhất trong tranh của chúng con là ông ấy vẽ hộ đấy.

- Này con, má nhớ rõ đã nghe bà Pinkerton nói chuyện rằng ông ấy không vẽ, chỉ sửa lại thôi.

- Thế cũng gọi là sửa đấy mẹ ạ. Chị Rebecca nhìn đến bức tranh, đột nhiên nhớ đến người cha trước kia đã sửa lại bức tranh ấy, và đây...má coi, chị ấy...

Bà Sedley nói:

- Cô bé đáng thương tính tình đa cảm quá nhỉ?

Amelia tiếp:

- Má ạ. Con muốn giữ chị ấy ở chơi đây thêm một tuần nữa.

- Cô ấy cũng gớm chẳng kém cô Cutler tôi thường gặp ở Dumdum, nhưng đẹp hơn. Cô kia bây giờ lấy Lance, thầy thuốc nhà binh. Má có biết không, có lần Quintin ở trung đoàn 14 đánh cuộc với con rằng...

Amelia cười bảo anh:

- Anh Joseph, em nghe mãi chuyện ấy rồi, đừng kể nữa; anh bảo má viết thư cho cái ông Crawley gì gì ấy đi, để xin phép cho chị Rebecca...kìa chị ấy đến kia, khóc đỏ hoe cả mắt.

Rebecca bước vào với một nụ cười tươi tỉnh nhất, cầm lấy bàn tay bà Sedley giơ ra kính cẩn hôn, nói:

- Bây giờ cháu dễ chịu rồi. Tất cả mọi người tất với cháu quá, tất cả mọi người - cô ta cười nói thêm - trừ anh, anh Joseph ạ.

- Tôi? Trời đất ơi? Thượng đế ơi! Cô Sharp! Joseph kêu ầm lên, định đi ngay tức khắc.

- Vâng, sao anh ác thế, bắt em ăn cái món ghê gớm đầy hạt tiêu kia ngay giữa hôm em mới gặp anh lần đầu. Anh không quý em bằng chị Amelia nhé.

Amelia nói ngay:

- Tại anh ấy chưa quen thân với chị đấy.

Bà mẹ thêm:

- Bác thách bất cứ ai dám đối xử không tốt với cháu, cháu yêu quý ạ.

Joe đáp, vẻ mặt trang trọng:

- Món ca-ry tuyệt lắm, thật đấy; có điều, hôm nọ vắt ít chanh quá...phải, quá ít.

- Thế còn món “chi-ly”?

- Lạy Chúa, món ấy làm cho cô kêu ghê quá.

Joe nhớ lại câu chuyện, lại phá ra cười như nắc nẻ, rồi cũng như mọi lần, bỗng nhiên im bặt.

Lúc mọi người cùng xuống nhà dùng cơm, Rebecca nói:

- Lần sau em sẽ chú ý xem anh tiếp cho em món gì. Em không tin rằng đàn ông lại thích bắt những người con gái vô tội phải khổ sở.

- Thề có đức Chúa, cô Rebecca, không khi nào tôi muốn làm khổ cô đâu.

Rebecca đáp:

- Không, em biết anh chẳng bao giờ muốn thế.

Đoạn cô dịu dàng khẽ vịn bàn tay nhỏ nhắn của mình vào cánh tay Joe rồi lại vội vàng rụt lại, sợ hãi, và mới đầu nhìn thẳng vào mặt anh chàng trong khoảnh khắc, sau lại nhìn xuống tấm thảm. Cho nên tôi không hề muốn nói rằng quả tim Joe không đập thình thình trước cái nhìn vô tình, dút dát và dịu dàng của cô con gái giản dị này.

Đấy là một cách tấn công; có thể là mấy bà nào đó quen lịch sự, đứng đắn sẽ lên án cử chỉ ấy là thiếu chín chắn, nhưng các bạn coi, cô Rebecca đáng yêu nhưng đáng thương kia phải đích thân làm tất cả mọi việc cho mình.

Nếu người ta nghèo, không đủ tiền nuôi người ở, thì dẫu xưa nay vẫn quen thói đài các cũng đành phải quét nhà lấy vậy. Nếu có một cô gái quý tộc lại không có một bà mẹ để thu xếp hộ công việc với chàng trai trẻ, thế tất cô ta phải làm lấy. Nhưng may mắn thay, mấy cô gái cũng ít khi phải trực tiếp dùng đến khả năng của mình! Họ mà đã dùng đến, đố ta cưỡng lại được đấy. Chỉ cần họ ngỏ ý một chút xíu thôi, lập tức đàn ông quỳ ngay gối xuống rồi, đẹp hay xấu cũng chẳng khác gì nhau. Điều đó tôi coi là chân lý tuyệt đối. Một người đàn bà có nhan sắc, không có một cái tật gì quá quắt, là có thể muốn lấy ai tùy thích. Tuy nhiên, ta cũng còn cảm ơn trời rằng các cô nàng đáng yêu ấy giống như bầy gia súc trên cánh đồng; họ không biết hết quyền lực của chính họ. Nếu họ biết thì, ôi thôi, chúng ta chỉ còn là nô lệ!

Joseph vừa bước vào phòng ăn, vừa nghĩ thầm: Ôi chao! Mình lại bắt đầu cảm thấy đúng như hồi ở Dumdum, gần cô Cutler rồi đây.

Trong bữa ăn, cô Sharp đã luôn luôn gọi Joseph để hỏi về các món ăn, giọng nói nửa bỡn cợt, nửa nũng nịu; vào hồi này, cô ta đang ở giai đoạn thân mật nhất với gia đình, và hai cô thiếu nữ thì đang coi nhau như chị em ruột. Mấy cô gái non chưa chồng bao giờ chả thế, miễn là họ chỉ sống chung với nhau độ mươi ngày.

Dường như Amelia cũng có ý muốn khuyến khích việc thực hiện kế hoạch của Rebecca, nên mới nhắc người anh nhớ đến lời hứa nhân ngày lễ Phục sinh vừa qua. Cô vừa cười vừa nhắc anh rằng hồi cô còn ở trường, Joseph có hứa sẽ đưa cô đến Vauxhall chơi.

- Bây giờ có cả chị Rebecca cùng đi với chúng mình, thật phải lúc quá, anh ạ.

- Ô thế thì tuyệt!

Rebecca toan vỗ tay nhưng cô ngẫm lại vội im bặt đúng kiểu một cô thiếu nữ chín chắn.

Joe đáp:

- Đêm hôm nay chưa đi được.

- Thế thì mai vậy.

Bà Sedley nói:

- Mai ba và má không ăn ở nhà đâu.

Ông lão đáp:

- Bà Sedley, bà tưởng tôi đi à? Bà có tuổi, lại hom hem, đi ra ngoài ẩm ướt lạnh lẽo thế để bị cảm mà chết à?

Bà Sedley kêu lên:

- Nhưng các cô ấy phải có người đi cùng chứ?

Ông bố cười:

- Cho thằng Joe đi theo. Nó cũng lớn rồi đấy.

Nghe nói vậy Sambo đứng cạnh phá ra cười: anh chàng Joe béo cảm thấy gần như muốn giết phăng ngay ông cụ thân sinh.

Ông già tàn nhẫn vẫn tiếp:

- Cởi áo gi-lê mau. Vã nước vào mặt nó đi, cô Sharp; hay là khiêng nó lên gác; cu cậu đang ngất đi kia kìa. Thằng bé đáng thương quá? Khiêng nó lên gác; nó nhẹ như sợi bấc ấy thôi mà.

Joseph gầm lên:

-Ba còn nói nữa, con đến chết mất!

Ông bố ra lệnh:

- Sambo, gọi dẫn con voi của cậu Joe lại đây. Đưa ngay đến khu Hội chợ; Sambo.

Nhưng thấy Joe gần phát khóc vì giận, ông lão hay đùa thôi không cười nữa; ông giơ bàn tay cho con, nói:

- Joe ở phòng Hối đoái mọi chuyện đều tốt lành cả. Còn Sambo, đừng lo chuyện con voi nữa, hãy rót cho ta và cậu Joe một cốc sâm-banh. Ngay cả Boney () cũng không có được thứ rượu này trong nhà đâu nhé; nào con!

Nhờ cốc vại sâm banh, Joseph lấy lại được sự điềm tĩnh; và trước khi cạn hết chai rượu - với tư cách là bệnh nhân, anh ta chỉ uống có hai phần ba - Joe thuận dẫn hai cô thiếu nữ đi Vauxhall.

Ông cụ nói:

- Con gái là phải có đàn ông cùng đi, thế nào thằng Joe cũng bỏ mặc con Emmy trong đám đông, rồi nó sẽ chỉ chú ý đến Rebecca thôi. Bảo đứa nào lại hỏi xem George Osborne có đi không.

Không biết vì lý do gì nghe ông cụ sắp đặt như vậy, bà Sedley nhìn chồng cười. Mắt ông cụ long lanh có vẻ hóm hỉnh khó tả. Ông lão nhìn sang Amelia. Còn Amelia thì cúi đầu xuống, đỏ ửng mặt lên như chỉ có những cô gái mười bẩy tuổi mới biết đỏ mặt như vậy, và như chưa bao giờ trong đời mình cô Rebecca Sharp đỏ mặt thế, ít nhất là trừ trường hợp hồi cô ta mới lên tám, bị bà mẹ đỡ đầu bắt quả tang ăn vụng một miếng dăm bông trong chạn. Ông bố lại nói:

- Tốt hơn là Amelia viết một mảnh giấy, để cho George Osborne thấy rằng con gái ta học trường bà Pinkerton viết chữ đẹp thế nào. Con còn nhớ không, hồi viết thư nhắn nó tới vào “đêm thứ mười hai”, con đã viết “hai thiếu chữ “h”. ()

Amelia đáp:

- Đã lâu lắm rồi còn gì.

- Thế mà mới như hôm qua thôi, có phải không ông John?

Bà cụ hỏi chồng vậy. Đêm hôm ấy hai ông bà ngồi nói chuyện với nhau trong một căn phòng phía mặt trước ngôi nhà, trên gác hai, dưới một thứ màn quây tròn có riềm bằng vải Ấn Độ loại quý, mầu rực rỡ, lại lót một lần vải bông màu hồng dịu. Mé trong thứ màn quý này, kê một chiếc giường có đệm lông: trên giường có hai cái gối; trên gối có hai bộ mặt tròn đỏ, một cái mặt đội mũ ngủ có quai, một cái đội mũ vải bông thường, có tua. Nhân lúc đọc sách trước khi ngủ, bà Sedley cự ông chồng vì đã tàn nhẫn với thằng Joe đáng thương lúc tối:

- Ông Sedley, ông như thế thật ác quá, ai lại hành hạ thằng bé như thế.

Cái đầu đội mũ có tua cãi lại:

- Bà này, thằng Joe nó còn ưa đỏm dáng gấp mấy bà ngày xưa ấy; mà bà thì đã hay đỏm dáng quá rồi. Tuy vậy, ba mươi năm trước, vào năm một nghìn bảy trăm tám mươi...tám mươi mấy nhỉ?...Hồi đó có lẽ bà còn có quyền đỏm dáng đôi chút, tôi không chối điều đó. Nhưng tôi không thể chịu được thằng Joe với cái thói công tử bột của nó. Thật là quá quắt. Suốt ngày nó chỉ nghĩ đến cái thân hình nó, yên trí mình đẹp trai nhất thiên hạ. Rồi có nhiều chuyện rắc rối vì nó cho mà xem. Cô bạn nhỏ của con Emmy đang ra sức chài thằng bé đấy; điều đó rõ như ban ngày. Mà nếu cô ta không câu được nó thì đã có đứa khác. Giời sinh ra thằng này để làm mồi cho con gái, y như hàng ngày tôi phải đến phòng Hối đoái vậy. Bà ạ, phúc quá, nó còn chưa vác về cho chúng ta một nàng dâu da đen thôi. Nhưng bà cứ tin tôi, đứa con gái thứ nhất nào muốn chài nó là nó cắn câu ngay.

Bà Sedley nóng nảy đáp:

- Ngày mai tống khứ cái con bé láu cá ấy đi cho rảnh.

- Bà Sedley, con bé ấy trông cũng được đấy chứ. Mặt mũi cũng trắng trẻo, xinh xắn. Tôi chẳng biết thằng Joe lấy ai, cứ mặc nó chọn vợ lấy.

Rồi tiếng chuyện trò im bặt, chỉ còn vẳng ra thứ âm nhạc nhẹ nhàng nhưng kém thi vị của mấy cái lỗ mũi. Thỉnh thoảng chỉ nghe tiếng chuông nhà thờ đánh chuông báo giờ, và tiếng người gác điểm canh, mọi vật đều yên lắng trong căn nhà của tôn ông John Sedley, ở công viên Russell, làm việc tại phòng Hối đoạt.

Sáng hôm sau, bà cụ Sedley tốt bụng thôi không nghĩ đến chuyện thực hiện lời đe dọa tối hôm trước về việc đuổi cô Sharp đi nữa. Mặc dầu không có cái gì thiết tha, thông thường và cũng hợp lý hơn là lòng người mẹ vì thương con mà ghen với người khác, song bà cụ cũng không sao tưởng tượng được rằng cái cô giáo bé nhỏ tầm thường, biết ơn và dịu dàng kia lại dám ngưỡng vọng một nhân vật cao quý là ngài ủy viên tài phán của quận Boggley Wollah. Hơn nữa, lá thư xin phép gia hạn nghỉ cho cô gái đã gửi rồi, bây giờ đột ngột muốn mời cô ta đi cũng khó tìm được một lý do cho thỏa đáng.

Dường như mọi sự đều phụ họa mà giúp đỡ Rebecca, thời tiết cũng can thiệp để làm lợi cho cô (mặc dầu thoạt tiên cô cũng chưa biết cảm ơn thời tiết đã vì mình). Tối hôm mọi người dự định đi Vauxhall, George Osborne có đến ăn cơm; sau khi hai bậc cha mẹ đã đi dự tiệc cùng viên cố vấn hành chính Bản ở Highbury Barn, thì bỗng một cơn giông nổ ra; những hôm người ta định đi chơi Vauxhall vẫn hay xảy ra những cơn giông tai hại như vậy; mấy cô cậu bắt buộc phải ở nhà. Anh chàng Osborne có vẻ không lấy việc đó làm phiền lắm. Anh ta và Joseph ngồi tay đôi () trong phòng ăn, uống một ít rượu...vừa uống rượu, Sedley vừa kể vài câu chuyện hay nhất của anh ta về Ấn Độ - nếu chỉ có đàn ông với nhau anh chàng cũng rôm chuyện lắm. Một lúc sau, Amelia Sedley chủ tọa phòng khách. Cả bốn cô cậu đã qua một tối cực kỳ dễ chịu; họ nói rằng cơn giông vừa qua đã bắt họ phải hoãn việc đi chơi Vauxhall đến hôm khác; ấy thế mà lại hóa ra vui cơ đấy.

Osborne là con đỡ đầu của ông Sedley; đã hai mươi ba năm nay anh ta vẫn được coi là con cái trong gia đình. Mới chào đời được sáu tuần lễ, anh ta được ông John Sedley cho một cái chén bạc; khi được sáu tháng, lại thêm một cành san hô, có đính theo còi và chuông bằng vàng. Từ bé tới lớn, cứ đến lễ Giáng Sinh, George lại được ông cụ gửi quà cho đều đặn. Vì thế khi trở lại trường anh ta còn nhớ rõ bị Joseph Sedley nện cho một trận cẩn thận; hồi ấy Sedley là một cậu bé khỏe mạnh, hay gây gổ, còn George thì là một thằng oắt mới lên mười nhưng láo xược. Tóm lại George rất thân mật với gia đình này, vì từ nhỏ vẫn đi lại như người nhà và vẫn được cho quà bánh.

- Sedley, anh còn nhớ không, có bận tôi cắt đứt mất mấy cái tua ở đôi ủng của anh, anh phát khùng lên ghê quá; rồi cô hừm? Rồi Amelia cứu tôi thoát khỏi trận đòn, vì đã quỳ xuống khóc mà xin anh Joe đừng đánh cái thằng bé George nữa?

Joe vẫn nhớ như in câu chuyện trên, nhưng lại nói rằng mình quên bẵng mất rồi.

- Phải, anh còn nhớ không, trước khi sang Ấn Độ, anh có đi xe ngựa đến trường của ông Swishtail để thăm tôi, rồi vỗ vỗ vào đầu tôi, cho tôi một đồng nửa ghi nê? Trước tôi vẫn cứ nghĩ rằng anh phải cao tới bảy bộ, thế mà khi anh ở Ấn Độ về, tôi lấy làm lạ quá, vì thấy anh cũng chẳng cao hơn tôi.

Rebecca kêu lên, giọng vui thích:

-Anh Sedley đến tận trường để cho anh tiền cơ à? Tốt quá nhỉ.

-Vâng, mà tôi lại đã cắt mất tua ủng của anh ấy cơ chứ. Ở trường, trẻ con được tiền thì nhớ mãi, mà cũng không quên cả người cho.

Rebecca nói:

- Tôi thích những đôi ủng cao lắm.

Joe Sedley vốn rất tự hào về đôi chân của mình, lúc nào cũng xỏ vào đôi giầy được coi như một thứ đồ trang sức; nghe Rebecca nói anh ta khoái quá, nhưng vội rụt ngay chân cho vào gầm ghế.

George Osborne nói:

- Cô Sharp ạ, cô là nhà nghệ sĩ thông minh thế cô phải vẽ một bức tranh kỷ niệm về chuyện đôi ủng. Cô sẽ vẽ Sedley mặc quần da thuộc, một tay cầm chiếc ủng bị hỏng; còn tay kia túm lấy cổ áo tôi; Amelia sẽ quỳ ở bên cạnh giơ đôi tay bé nhỏ lên. Bức tranh sẽ mang một cái tên tượng trưng long trọng như là những nhãn sách ta vẫn thấy ở các quyển tập đọc.

Rebecca đáp:

- Em không có thì giờ vẽ ngay ở đây, nhưng em sẽ vẽ khi...khi nào em rời khỏi đây ra đi.

Cô hạ thấp giọng xuống, vẻ mặt rầu rĩ, đáng thương, đến nỗi ai cũng thấy xót cho cảnh ngộ của cô và cảm thấy nếu phải xa cô thì đáng buồn quá.

Amelia nói:

- Chị Rebecca thân yêu ơi, giá chị ở chơi với em thêm ít lâu nhỉ?

Rebecca lại càng buồn bã đáp:

- Để làm gì hở chị? Để khi xa nhau, riêng em càng buồn khổ thêm và càng không muốn xa chị ư?

Nói đoạn cô quay mặt đi. Amelia lại bắt đầu nhượng bộ cái tật trời sinh là thói hay khóc của mình; cô gái bé bỏng vớ vẩn này vẫn có cái nhược điểm ấy. George Osborne nhìn hai cô thiếu nữ, lộ vẻ tò mò, động tâm; còn Joe Sedley thì thở hắt ra từ cái lồng ngực to tướng của mình một cái gì giống như một tiếng thở dài; mắt lại tiếp tục nhìn xuống đôi ủng cao chí thiết của mình.

George nói:

- Cô Sedley...Amelia, ta chơi vài bản nhạc đi.

Lúc này anh ta cảm thấy có một sức gì kỳ lạ gần như không cưỡng lại được, nó xô mình muốn ôm ghì lấy cô thiếu nữ vào hai tay, và hôn cô ngay trước mặt mọi người; cô thiếu nữ nhìn anh chàng một lúc lâu; nếu bảo rằng lúc ấy hai người mới yêu nhau thì có lẽ tôi đã nói sai sự thực vì thực tế là đôi thanh niên nam nữ này đã được hai bên cha mẹ nuôi nấng từ bé cốt nhằm mục đích ấy; lễ ăn hỏi của đôi bên đã tuyên bố trong hai họ đến mười năm nay rồi.

Hai người bước lại gần cây đàn dương cầm kê ở cuối phòng khách, bao giờ đàn dương cầm cũng kê ở đấy . Chỗ này hơi tối nên Amelia, một cách tự nhiên nhất trần đời, đặt bàn tay mình vào bàn tay Osborne. Dĩ nhiên anh ta có thể nhìn rõ lối đi giữa những hàng ghế hơn cô nàng nhiều. Thế là họ bỏ Joseph Sedley và Rebecca ngồi với nhau ở phòng khách; Rebecca đang đan một cái túi lụa màu xanh. Cô nói:

- Chả cần phải hỏi, em cũng biết chuyện riêng gia đình nhà ta. Hai người vừa tiết lộ sự bí mật của họ rồi đấy.

Joseph đáp:

- Bao giờ anh ta thăng chức đại úy, tôi tin rằng công việc sẽ thu xếp xong. George Osborne là người tốt lắm.

Rebecca nói:

- Em gái anh cũng là một người đáng quý nhất đời. Sung sướng thay người đàn ông nào chinh phục được chị ấy Nói xong, cô Sharp thở dài thật to.

Khi nào một cặp trai gái chưa lập gia đình ngồi với nhau mà đụng chạm đến cái vấn đề tế nhị này, lập tức họ dễ dàng trở thành thân mật và ưa tâm sự với nhau. Chả cần phải kể lại câu chuyện đang diễn ra giữa Sedley và cô thiếu nữ. Cứ xem đoạn trên đủ biết câu chuyện ấy không có gì là đặc biệt dí dỏm hoặc hùng hồn. Trong những buổi gặp gỡ thân mật ít khi người ta chuyện trò với nhau theo kiểu này, không kể trong những tiểu thuyết kênh kiệu, giả tạo. Vì phòng bên đang chơi âm nhạc, dĩ nhiên họ phải nói chuyện se sẽ phải chăng thôi; tuy rằng đôi trai gái phòng bên cũng đang bận bịu với công việc riêng của họ, giá bên này có nói to, họ cũng chẳng để ý đến làm gì.

Hôm nay hầu như là lần đầu tiên trong đời, Sedley thấy mình nói chuyện với một người đàn bà mà không hề dút dát e dè một tý nào. Rebecca hỏi anh ta rất nhiều chuyện về Ấn Độ; được dịp, anh ta bèn tuôn ra vô khối chuyện lý thú về xứ đó, và về chính anh ta. Và kể lại những cuộc dạ hội ở phủ Toàn quyền và cách họ giữ cho không khí được mát lạnh trong mùa bức, thí dụ dùng chiếu cói và quạt, cùng nhiều phương pháp khác. Anh ta chỉ trích những sĩ quan Scotland được viên toàn quyền Minto che chở. Rồi anh ta kể một chuyện săn hổ, cả cái đoạn lão quản tượng điều khiển con voi của anh bị những con hổ nổi xung lên kéo ngã lăn khỏi lưng voi. Nghe kể chuyện dạ hội ở phủ Toàn quyền, Rebecca có vẻ thú vị lắm; mà nghe kể chuyện những ông sĩ quan hầu cận xứ Scotland cô phá ra cười và gọi Sedley là một người hay châm biếm độc ác; lúc nghe Joe kể chuyện con voi, cô thiếu nữ mới sợ hãi làm sao.

Cô nói:

- Anh Sedley thân yêu ơi, hãy vì thương bà cụ sinh ra anh, hãy vì các bạn của anh mà hứa rằng đừng bao giờ dự những cuộc săn khủng khiếp như thế nữa nhé.

Anh chàng vừa kéo cổ áo lên, vừa đáp:

- Dào ôi! Có nguy hiểm thế cuộc săn mới thú chứ.

Cả đời Joe mới đi săn hổ có một lần, đúng là lần có câu chuyện trên xảy ra; bữa ấy anh ta suýt chết...không phải vì hổ, mà vì sợ quá. Càng nói chuyện nhiều anh chàng càng đâm bạo, và lúc này đã có can đảm hỏi Rebecca rằng cô ta đan cái túi lụa xanh cho ai...Thấy mình trở thành thân mật duyên dáng thế, anh chàng đâm ra ngạc nhiên và khoan khoái ghê.

- Em đan cho người nào thích một cái túi.

Rebecca vừa đáp vừa nhìn anh chàng với đôi mắt rất tình tứ. Sedley đang sắp sửa nói một câu thật sự là hùng hồn, và đã bắt đầu: “Ô, cô Sharp...” thì bản nhạc đang chơi ở phòng bên chấm dứt làm cho anh ta nghe thấy tiếng mình rõ mồn một; anh chàng vội im bặt, rút khăn tay hỉ mũi rầm lên.

Osborne thì thầm với Amelia:

- Có bao giờ em nghe thấy anh Joe hùng biện không? Gớm, cô bạn em làm được một việc kỳ diệu thật.

- Thế thì càng tốt thôi.

Amelia đáp. Cô cũng giống như phần lớn đàn bà con gái hiểu biết tý chút, cũng sính đóng vai ông tơ bà nguyệt; giả thử Joseph có vợ đem theo về Ấn Độ thì cô cũng thích. Thêm nữa, qua mấy ngày sống gần gũi nhau, tình bạn giữa cô và Rebecca trở thành rất đằm thắm, cô đã khám phá ra vô số những đức tính đáng yêu ở bạn mình, mà hồi còn chung sống ở Chiswick cô không nhìn ra. Xưa nay cảm tình vẫn thường nảy nở mau chóng giữa các cô con gái chẳng khác gì cây thần trong truyện cổ tích chỉ một đêm đã mọc cao vút đến tận trời. Không nên trách họ, nếu sau ngày về nhà chồng, nỗi khát khao tình cảm () ấy nguội bớt.

Về điểm này, các nhà tâm lý học quen dùng những danh từ kêu rùm beng thường gọi là sự khát vọng vươn tới lý tưởng; thực ra chỉ có nghĩa là đàn bà con gái thường thường chỉ thỏa mãn khi nào đã lấy chồng đẻ con; khi ấy tình cảm của họ mới có nơi tập trung, còn trước kia thì nó bị tiêu phí vào những chuyện vặt vãnh mất cả.

Amelia đã dốc hết cả kho bài hát ít ỏi của mình lúc nãy, lại đã ở khá lâu trong phòng khách, cô thấy nên mời bạn mình hát. Cô bảo với Osborne thế này (dẫu biết rằng mình đang nói dối) :

- Giá anh nghe Rêbecca hát trước, thì anh sẽ không muốn nghe em hát đâu.

Osborne nói:

- Tuy vậy, tôi cũng xin báo cho cô Sharp biết rằng, dù đúng hay sai, tôi cũng cứ coi cô Amelia Sedley là người hát hay nhất thế giới.

Amelia đáp:

- Rồi anh xem.

Bây giờ Joseph Sedley đã tỏ ra lịch sự, mang mấy cây đèn đến chỗ cây dương cầm; Osborne nói ý rằng mình ngồi trong bóng tối nghe nhạc thấy thích hơn. Nhưng Amelia cười, không chịu cùng ngồi với anh chàng nữa. Thế là cả hai đi theo Joseph. Rebecca hát hay hơn bạn nhiều (dĩ nhiên, Osborne vẫn có quyền tự do giữ ý kiến riêng của mình); cô trổ hết tài năng và quả thực đã khiến Amelia rất ngạc nhiên vì chưa hề bao giờ thấy bạn hát hay đến thế. Rebecca hát một bài tiếng Pháp, Joseph nghe chẳng hiểu gì cả; George cũng thú thực mình không hiểu; đoạn cô lại hát vài “ca khúc” thông thường, đã trở thành “mốt” khoảng bốn mươi năm trước đây; đại khái nội dung nói đến những người lính thủy nước Anh, đức Hoàng đế, cô Susan đáng thương, cô Mary mắt biếc v.v... Người ta bảo rằng, về mặt nghệ thuật âm nhạc, những bài hát này cũng không hay ho gì, nhưng có nhiều đoạn êm ái kích thích cảm tình, thiên hạ nghe dễ hiểu hơn là cái thứ âm nhạc lai căng của những lagrime, sospiri, và felicita trong âm nhạc của Donizetti () đang thịnh hành bấy giờ.

Nội dung bài hát cuối cùng như sau:

Giữa đồng lạnh lẽo cô đơn

Mà cơn bão táp lại đang thét gầm.

Mái nhà kia, tạm trú chân...

Chú em côi cút lại gần nhìn xem.

Trong nhà ấm áp lửa than.

Lò càng rực cháy, gió thêm cóng người

Tuyết càng lạnh buốt rơi...rơi...

Trong nhà nhác thấy chú ngồi co ro,

Ngực thoi thóp, tay cứng đờ.

Ôn tồn bèn nhủ hãy cho chú vào;

Tươi cười, chào đón ngọt ngào.

Sớm mai trở dậy, nắng sao sáng lòa...

Lửa còn rực cháy trong lò

Chú em côi cút bây giờ về đâu!

Lạy trời xót kẻ cơ cầu,

Hãy nghe gió lộng rít cao trên đồi.

Nghĩa là bài hát đã lặp lại nội dung tình cảm của câu:

“Khi nào em đã ra đi...” Rebecca nói lúc nãy. Hãy đến câu cuối cùng, cái giọng trầm trầm của cô Sharp hơi run run, mọi người nghe đều hiểu rằng cô ý muốn nói đến việc mình ra đi và cảnh ngộ mồ côi đáng thương của mình. Vốn thích âm nhạc, lại có tâm hồn đa cảm, Joseph Sedley rất say sưa khi nghe Rebecca hát; nhất là đoạn kết làm anh ta cảm động vô cùng. Giá anh ta có đủ can đảm nhỉ. Giá mà George và cô Sedley ngồi lại văn phòng ăn như lúc nãy George đề nghị, thì cuộc đời trai chưa vợ của Joseph đã chấm dấu hết rồi, mà cuốn truyện này cũng không được viết ra nữa. Nhưng hát xong Rebecca rời cây đàn, đưa tay cho Amelia cầm và cả hai đi sang căn phòng khác tranh tối tranh sáng bên cạnh. Vừa lúc ấy Sambo bước vào, tay bưng một cái khay đầy những bánh sandwich, mứt quả, và mấy cái cốc, mấy cái bình sáng long lanh; lập tức sự chú ý của Joseph tập trung vào đó. Hai vợ chồng ông Sedley đi dự tiệc về thấy mấy cô cậu đang say sưa trò chuyện đến nỗi không nghe thấy tiếng xe ngựa đỗ.

Anh chàng Joseph đang nói:

- Cô Sharp thân yêu, mời cô dùng một thìa mứt cho lại sức sau khi đã cố gắng trổ hết tài năng tuyệt diệu.

Ông Sedley kêu lên:

- Hoan hô Joe ?

Thoạt nghe tiếng nói quen thuộc oang oang, Joe lập tức hoảng hốt, im bặt rồi vội vã bỏ đi. Anh ta không thức trằn trọc suốt đêm tự hỏi mình có yêu cô Sharp hay không; ái tình không bao giờ quấy rối được sự tiêu hóa hoặc giấc ngủ của Joseph Sedley. Nhưng anh ta nghĩ thầm: “Được nghe những bài hát như thế cũng tuyệt...thật là một con người phong nhã...nói tiếng Pháp còn hay gấp mấy so với chính Toàn quyền phu nhân...cô ta mà dự những buổi dạ hội ở Calcutta thì phải biết là nổi danh.

Joe lại tự nhủ: “Rõ ràng cô ả phải lòng mình rồi. Bọn thiếu nữ sang Ấn Độ có giàu có gì hơn cô ta kia chứ. Mình cứ “già kén” rồi đến kẹn “hom” mất. Nghĩ thế rồi Joe lăn quay ra ngủ lúc nào không biết.

Chẳng cần nói ta cũng rõ chính lúc ấy cô Sharp đang nằm trằn trọc nghĩ mãi không biết ngày mai anh ta có lại chơi hay không. Sáng hôm sau, y như có trời run rủi, Joseph Sedley lại mò đến trước giờ điểm tâm. Từ trước đến nay, chưa bao giờ anh ta ban cho căn nhà ở Công viên Russell vinh dự lớn lao này. George Osborne cũng có mặt ở đây rồi, Amelia đang bận viết thư cho một tá bạn còn ở lại Chiswick, Rebecca thì đang thêu nốt cái túi lụa. Nghe tiếng xe ngựa của Joe và trong lúc ngài cựu ủy viên tài phán quận Boggley Wollah đang ỳ ạch leo thang gác lên phòng khách sau khi đã gõ cửa thình lình, và gọi oang oang ngoài cửa một cách long trọng như thường lệ. Osborne và Amelia đưa mắt ra hiệu cho nhau cả đôi mỉm cười láu lỉnh nhìn sang Rebecca; cô này cúi xuống để cho những búp tóc xinh đẹp của mình rủ xuống cái túi đang đan, mặt đỏ lên...Lúc Joseph bước vào, trống ngực cô đập thình thình...Joseph thở phì phò đi ủng bóng nhoáng kêu cọt kẹt. Anh ta mặc một tấm áo mới, cổ áo là cứng, mặt đỏ vì trời bức và vì xúc động mạnh. Lúc này thật là khó xử cho cả mọi người; riêng Amelia còn lo lắng hơn cả người trong cuộc.

Sambo mở tung cửa, lên tiếng báo có ông Joseph đến chơi, đoạn vừa đi theo sau ngài ủy viên vừa nhăn răng cười, tay ôm hai bó hoa rất đẹp. Sớm nay anh chàng lịch sự đến mức ra tận vườn Covent mua hoa. Hai bó hoa không được to bằng hai đống rơm bọc trong giấy bóng như ngày nay các bà, các cô thường mang theo mình, nhưng hai cô thiếu nữ cũng rất sung sướng được Joseph tặng mỗi cô một bó, kèm theo một cái nghiêng mình cúi chào một cách thật trang trọng. Osborne kêu lên:

- Hoan hô Joe.

Amelia nói:

- Cảm ơn anh, anh Joseph thân mến.

Cô sẵn sàng hôn ông anh một cái, nếu ông anh cho phép (Tôi thì tôi nghĩ rằng được một con người đáng yêu như Amelia hôn, tôi sẵn sàng mua tất cả hoa trong vườn kính của ông Lee ngay lập tức).

- Chao ôi! Hoa đẹp tuyệt vời.

Rebecca reo lên, khẽ áp bó hoa vào mũi ngửi rồi ôm vào ngực, mắt ngước nhìn lên trần nhà, điệu bộ có vẻ say sưa vì sung sướng. Có lẽ thoạt tiên đã liếc nhìn ngay vào giữa bó hoa xem có “bức tình thư”() nào dắt trong ấy hay không, nhưng chả có thư từ gì cả.

Osborne cười hỏi:

- Ở Boggley Wollah, dân họ có biết dùng hoa để tỏ tình với nhau không nhỉ, Sedley?

Anh chàng đa tình đáp:

- Ôi dào, chuyện vớ vẩn? Tôi mua hoa ở hiệu Nathan đấy. Rất hân hạnh vì các cô vui lòng. Mà này, Amelia, anh có mua một quả dứa cùng với mấy bó hoa này; anh đã đưa cho Sambo. Để đấy tí nữa ta giải khát. Trời nóng nực, ăn cái ấy mát và ngon lắm.

Rebecca bảo rằng mình chưa bao giờ được ăn dứa, đang thèm được nếm một miếng. Câu chuyện tiếp tục như vậy; không rõ vì sao Osborne rời khỏi gian phòng, và cả Amelia cũng đi ra ngoài, có lẽ để bảo người nhà gọt dứa. Riêng Joe vẫn ngồi lại một mình với Rebecca. Cô thiếu nữ lại tiếp tục đan; sợi lụa xanh và đôi que đan sáng bóng động đậy nhanh thoăn thoắt dưới mấy ngón tay búp măng trắng muốt.

Ông ủy viên tài phán nói:

- Tối hôm qua, cô hát một bài hay quá, ha....a...ấy qua...a.. á? Cô Sharp thân mến ạ. Làm tôi gần phát khóc, tôi xin lấy danh dự mà nói thế.

- Tại anh có một tâm hồn đa cảm đấy, anh Joseph ạ. Em thấy tất cả mọi người trong gia đình ta ai cũng có tâm hồn đa cảm.

- Vì bài hát ấy mà đêm qua tôi không ngủ được. Sáng hôm nay tôi còn nhẩm lại lúc nằm trên giường, xin lấy danh dự mà thề, đúng như thế. Ông Gollop, bác sĩ của tôi, đến thăm tôi hồi mười một giờ (cô biết đấy, tôi vẫn có bệnh, ngày nào ông Gollop cũng phải lại thăm) thế mà chết chưa, tôi vẫn nằm trên giường hát huyên thuyên như...một con sơn ca.

- Ồ, anh vui tính quá. Anh hát cho em nghe một tý nhé.

- Tôi ấy à? Không, cô Sharp; cô Sharp thân mến ơi, cô hát đi cơ.

Rebecca thở dài:

- Anh Sedley ạ, bây giờ thì không được đâu. Em không bình tĩnh lắm, hát sao được. Vả lại, em còn phải đan xong cái túi này chứ. Anh Sedley, anh giúp em một tay nhé?

Thế là trước khi có đủ thì giờ hỏi xem giúp thế nào, ngài Joseph Sedley, tòng sự tại Công ty Đông Ấn Độ đã thấy mình ngồi tay đôi với một thiếu nữ, và đang nhìn cô ta với một vẻ tình tứ nhất trần đời; hai cánh tay anh chàng giơ ra trước mặt với một dáng điệu như cầu xin, còn hai bàn tay thì bị sợi lụa xanh cô nàng đang gỡ dần ra quấn chặt lấy. Lúc Osborne và Amelia bước vào để báo rằng món giải khát đã sẵn sàng, họ nhìn thấy đôi trai gái trong cảnh tượng thi vị như vậy. Cuộn sợi đã cuốn xong vào lõi, nhưng Joe vẫn chưa nói câu gì.

Amelia nắm chặt tay Rebecca bảo:

- Chị ạ, em chắc thế nào đêm nay anh ấy cũng ngỏ lời đấy.

Sedley cũng tự nhủ:

Đến Vauxhall mình phải đặt vấn đề mới được.

Chương 5
DOBBIN CỦA CHÚNG TA

Ai đã học qua trường học nổi tiếng của ông Swishtail ắt còn phải nhớ lâu chuyện cãi nhau giữa Dobbin và Cuff mà kết cục rất bất ngờ: Dobbin thường bị bọn trẻ con khinh miệt, chúng gọi là con khỉ Dobbin, con bú dù Dobbin và nhiều tên hiệu khác. Dobbin là một đứa trẻ hiền lành nhất, vụng về nhất, và có vẻ như đần độn nhất trong số học trò theo học trường ông Swishtail. Bố cậu bé buôn thực phẩm ở kinh đô, người ta lại đồn rằng ông Swishtail nhận cậu vào học trong trường theo “nguyên tắc đôi bên cùng có lợi”...nghĩa là bố cậu không phải trả học phí và sinh hoạt phí cho con trai bằng tiền mặt, mà trả bằng hiện vật. Ở trong trường, Dobbin bị xếp hạng gần bét; lúc nào cậu bé cũng đánh một bộ áo nhung kẻ nhem nhuốc, bộ xương to kếch gần như muốn thúc bật những hàng chỉ khâu mà tòi ra. Dobbin bị coi như đại diện cho một số cân chè, nến, đường, xà-phòng, và nho khô cùng nhiều thứ khác (tuy vậy, chỉ có một phần nhỏ là dùng để cung cấp cho nhu cầu của nhà trường). Cậu bé Dobbin sợ nhất cái ngày có một đứa học trò nhỏ trong trường, sau khi đã mò vào trong tỉnh chơi đủ mọi trò rồi, đã về đứng ở cổng trường mình xem cái xe ngựa của hãng “Dobbin và Rudge buôn thực phẩm và dầu-Phố Thames Luân đôn” dỡ hàng xuống giao cho nhà trường. Truyện "Hội Chợ Phù Hoa " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

Sau cảnh đó, cậu bé Dobbin mất ăn mất ngủ. Những đứa trẻ khác giễu cợt đến là tàn nhẫn; một thằng nói “Ê này, Dobbin, báo đăng tin mới đây đường lên giá rồi, mày ơi!” Một đứa khác tính toán: “Nếu một cân nến mỡ cừu giá bảy xu rưỡi thì Dobbin giá bao nhiêu?” Thế là cả đám trẻ con mất dạy đứng vây tròn xung quanh cười ồ lên: chúng đồng tình cho rằng nghề bán lẻ thực phẩm là một nghề đáng hổ thẹn, đáng bị những con nhà dòng dõi khinh bỉ.

Bị một thằng bé con đem ra làm trò cười. Dobbin bảo riêng nó rằng:

- Này, Osborne, bố mày cũng là lái buôn chứ **** gì.

Thằng bé kiêu hãnh đáp:

- Bố tao là con nhà dõng dõi, có xe ngựa riêng.

Cậu bé William Dobbin lui về mãi căn phòng xép xa tít cuối sân chơi, rầu rĩ đắng cay suốt nửa ngày chủ nhật.

Trong bọn chúng ta ai chẳng còn nhớ đã có những phút lo nghĩ đắng cay một cách trẻ con như thế? Ai là kẻ cảm thấy rõ sự bất công, biết tủi nhục trước một sự lăng mạ, hiểu rõ cái gì là xấu, và biết biểu lộ lòng biết ơn một cách đậm đà khi được săn sóc, bằng một đứa trẻ trung hậu? Thế mà biết bao tâm hồn dịu dàng ấy đã bị các ông giáo hành hạ, chà đạp chỉ vì một bài toán số học, hoặc một bài La-tinh sai mẹo. William Dobbin chịu chết không sao thuộc được những bài học vỡ lòng tiếng La-tinh trong cuốn văn phạm La- tinh tài tình của trường trung học Eton; vì thế cậu bé bị xếp cùng học với bọn học trò dốt nhất trường. Mỗi khi cùng xếp hàng với bọn học trò lớp bét trông như anh khổng lồ đi giữa bọn tí hon; mắt cậu bé lấm lét nhìn xuống đất, tay cắp quyển tập đọc quăn góc, mặc bộ quần áo nhung kẻ chật ních; cậu luôn luôn bị bọn trò bé mặt mũi hồng hào, đeo “tạp-dê” cợt nhạo. Học trò lớp nào cũng đem cậu ra làm trò cười. Bộ quần áo nhung đã chật chúng còn khâu cho chật thêm; chúng cắt đứt dây giường của cậu. Chúng xô đổ bàn ghế, làm cho cậu bé vấp ngã sứt gối, mà lần nào cũng đúng như thế. Chúng gửi cho cậu bé những gói kín, mở ra chỉ thấy có xà phòng và nếu là những thứ hàng bố cậu vẫn bán; không có một đứa học trò nào tha cột nhạo Dobbin; cậu bé kiên nhẫn chịu đựng tất cả, hoàn toàn câm nín và đau khổ.

Trái lại, Cuff là ông chúa con, và là cậu công tử trong trường ông Swistail. Nó mang trộm cả rượu vào trường, đánh cả trẻ con trong thành phố. Chiều thứ bảy, người hầu vẫn mang ngựa đến cho nó cưỡi về nhà. Trong buồng nó có một đôi ủng cao cổ; ngày nghỉ nó thường đi ủng đi săn. Nó có cả một chiếc đồng hồ báo thức bằng vàng, lại hít thuốc lá y như ông giáo. Nó đã đi xem hát ở “Opera”, biết rõ tài nghệ của từng nghệ sĩ, biết thích kép Kean hơn kép Kemble. Nó có thể trong một giờ, làm bốn mươi câu thơ tiếng La-tinh liền; lại làm được cả thơ bằng tiếng Pháp.

Còn có cái gì khác mà nó không biết, hoặc không thể biết nữa? Chúng nó còn bảo chính ông giáo cũng phải sợ thằng này.

Vậy thì Cuff, ông chúa tuyệt đối trong trường, cai trị hành hạ bọn bầy tôi, uy quyền thật sự lừng lẫy. Đứa thì phải đánh bóng giầy, đứa thì nướng bánh, những thằng khác thì phải lăn lộn vất vả suốt những buổi chiều mùa hè để nhặt bóng cho nó. Dobbin là cậu bé bị nó ghét nhất; nó luôn luôn giễu cợt đánh chửi cậu bé, và ít khi thèm hạ mình nói một lời nào với cậu này.

Một bữa, hai đứa có chuyện xích mích với nhau. Dobbin ngồi một mình trong phòng học, đang dò dẫm viết một lá thư gửi về nhà thì Cuff bước vào, nó sai cậu bé đi đâu ấy, hình như đi mua bánh rán thì phải.

Dobbin nói:

- Chịu thôi; tôi còn phải viết cho xong thư đã.

- Mày chịu thôi à?

Cuff vừa nói vừa giằng lấy tờ giấy, trong đó nhiều chữ viết nguệch ngoạc, nhiều chữ viết sai bét, nhưng không biết Dobbin đã phí bao tâm trí, sức lực và nước mắt mới viết nên được. Lá thư ấy cậu bé đáng thương viết cho mẹ, mà mẹ cậu rất quý con trai, mặc dầu bà chỉ là vợ một người bán thực phẩm, sống trong một căn nhà xép ở phố Thames.

- Mày chịu thôi? Tao muốn biết tại sao, hừ? Ngày mai mày viết thư cho bà lão Figs không được à?

- Đừng có gọi tên tục nhà tao ra.

Dobbin cáu lắm, đứng bật lên.

Con “hổ xám” trong trường quát to:

- Thế nào, ông, ông có đi không thì bảo?

Dobbin đáp:

- Bỏ lá thư xuống, người tử tế không đọc thư của kẻ khác.

Thằng kia nói:

- Được bây giờ mày có đi không?

- Không, tao không đi. Đừng có đánh tao, ông thì bóp nát mày ra bây giờ.

Dobbin gầm lên, nhảy xổ đến vớ lấy một lọ mực bằng chì; thấy dáng điệu Dobbin dữ tợn, Cuff ngừng lại, buông hai cánh tay áo xuống, thọc tay vào túi vừa cười khinh bỉ vừa đi mất. Nhưng từ bữa ấy, nó không bao giờ thèm dính dáng đến cậu bé con trai người bán thực phẩm nữa; tuy vậy, chúng ta cũng phải công bằng mà nhận rằng nó luôn luôn vẫn nói đến Dobbin với thái độ khinh bỉ sau lưng cậu.

Ít bữa sau, một buổi chiều nắng ráo, William Dobbin nằm dài dưới gốc cây trong sân trường đang đánh vần cuốn truyện “Nghìn lẻ một đêm” mà cậu rất thích, hoàn toàn cô đơn và gần như rất sung sướng, cách biệt tất cả đám học trò đang thả sức nô đùa. Cuff cũng đang đứng gần đó. Nếu thiên hạ cứ để mặc trẻ con sống một mình, nếu thầy giáo thôi đừng làm rầy chúng, nếu các bậc cha mẹ đừng cứ nhất định đòi uốn nắn sự suy nghĩ của chúng, và khống chế cả tình cảm của chúng - những tình cảm và ý nghĩ ấy vẫn là một sự bí mật đối với tất cả mọi người: (hỏi rằng bạn và tôi chúng ta biết được bao nhiêu về nhau, về con cái chúng ta, về ông cha chúng ta, về láng giềng chúng ta? Và những ý nghĩ của thằng bé hoặc con bé mà chúng ta cai quản có thể đẹp đẽ và thiêng liêng biết bao so với ý nghĩ của những con người đần độn và hư hỏng cai quản chúng?) - Nếu cha mẹ và thầy giáo hãy cứ để mặc trẻ con sống một mình thêm chút ít...thì chắc những chuyện tai hại sẽ bớt được nhiều, tuy rằng chúng có thể thâu lượm bớt đi đôi chút về mặt kiến thức ()...

Vậy thì William Dobbin lần ấy đang quên khuấy cả thế giới để đưa hồn mình bay bổng theo chàng thủy thủ Sindbad tới thung lũng Kim cương, hoặc cùng Hoàng tử Ahmed và nàng tiên Peribanou sống trong cái hang kỳ thú, nơi hoàng tử gặp nàng, và là nơi chính chúng ta cũng thèm được đến thăm. Bỗng có tiếng kêu thét lên làm cậu bừng tỉnh giấc mộng mê ly; hình như có thằng bé con nào khóc. Ngẩng mặt lên, Dobbin thấy Cuff đang bắt nạt một thằng bé con.

Chính là thằng bé đã làm cậu bực mình vì chuyện cái xe chở thực phẩm bữa nọ. Nhưng cậu không ưa thù vặt, ít nhất là đối với bọn trẻ còn bé bỏng. Cuff giơ cao cái gậy màu vàng, dùng để chơi “cric-két” quát thằng bé:

- Sao mày dám đánh vỡ chai của tao?

Thằng bé đã được lệnh phải leo qua bức tường bao quanh sân chơi (ngay đúng chỗ thuận tiện nhất, vì những mảnh chai cắm trên bờ tường đã bị cậy sạch và sẵn những lỗ hõm sâu trên mặt tường có thể leo được), phải chạy độ một phần tư dặm đường và mua chịu một chai rượu rum; rồi lại phải tìm mọi cách lọt qua mọi tai mắt của ông Swishtail leo qua tường đem về cho thằng Cuff. Lúc trèo qua tường vào sân, thằng bé trượt chân ngã, chiếc chai vỡ tan, rượu đổ sạch, bẩn hết quần. Thằng bé run rẩy đến đứng trước mặt ông trùm, run lẩy bẩy như mình phạm lỗi nặng, tuy hoàn toàn đáng thương và vô tội. Cuff lại quát:

Sao mày dám đánh vỡ chai? Thằng nhóc con ăn cắp? Mày uống hết rượu rồi giả vờ đánh vỡ chai phỏng? Chìa tay ra.

Chiếc gậy phang mạnh xuống bàn tay thằng bé nghe đến “bốp” một cái; một tiếng rên rỉ tiếp theo; Dobbin nhìn lên; thế là nàng tiên Peribanou và ông Hoàng Ahmed trốn biệt vào trong cái hang xa tắp. Con đại bàng vội đưa anh thủy thủ Sindbad bát ra khỏi thung lũng Kim cương bay vút lên chín tầng mây mất tăm; cuộc đời tầm thường hàng ngày lại hiện ra trước mắt cậu bé William thực thà: một thằng bé nhớn vô cớ bắt nạt một thằng bé con.

- Chìa nốt tay kia ra, ông ôn.

Cuff gầm lên với thằng bạn học bé tý, mặt rúm ró lại vì đau. Dobbin run bắn người, đứng phắt dậy trong bộ quần áo chật ních cũ kỹ.

- Thằng quỷ con, nhớ lấy nhé?

Cuff gầm lên; chiếc gậy lại phang xuống tay thằng bé.

Này, xin các bà dừng hãi; học trò ở trường công, đứa nào mà chẳng thế, rất có thể con cái các bà cũng bắt nạt đứa khác và cũng bị đứa khác bắt nạt như vậy. Chiếc gậy lại phang xuống; Dobbin đứng bật lên.

Không biết cậu bé nghĩ sao, vì trong các trường công, chuyện hành hạ trẻ con xảy ra như cơm bữa, y như ở Nga có lệ trừng phạt bằng gậy vậy. Cưỡng lại có thể bị coi là thiếu giáo dục. Hình như tâm hồn ngu độn của Dobbin công phẫn trước sự chuyên chế đó, hoặc có thể vì lâu nay Dobbin vẫn ủ ấp mối hận trong lòng, vẫn mong có dịp đọ sức cùng vị chúa tể “Hét ra lửa” hay bắt nạt kia, người có mọi thứ vinh quang, kiêu hãnh, địa vị huy hoàng, và kèn thổi trống giong, lính hầu đứng chào đủ cả. Không rõ cậu bé nghĩ sao, chỉ biết cậu đứng phắt dậy quát lên:

- Cuff, thôi ngay, đừng có đánh nó nữa, nếu không, tao…

- Nếu không thì mày làm gì? - Thấy bị ngăn cản Cuff rất ngạc nhiên - chìa tay ra mau, đồ chó con.

- Nếu không, tao sẽ đột cho mày một trận nhừ tử, từ bé chưa bao giờ mày được nếm đâu.

Dobbin trả lời vậy, và cậu bé con Osborne, mồm mếu xệch, nước mắt giàn giụa, ngước nhìn lên có vẻ lạ lùng, không tin rằng lại có người dám hiên ngang bênh vực cho mình; Cuff cũng lấy làm quái lạ không kém. Các bạn cứ tưởng tượng cố hoàng đế George đệ tam ngạc nhiên thế nào, khi người hay tin những thuộc địa Bắc Mỹ khởi loạn, các bạn cứ tưởng tượng thái độ của chàng Goliath xương đồng da thép, khi thấy anh David tý hon dám tiến lên đòi một cuộc tỷ thí, bạn sẽ hiểu ngay tâm trạng của ngài Reginald Cuff khi nghe lời thách thức trên.

- Được, sau giờ học mày sẽ biết.

Nó dọa thế, sau một phút im lặng và một cái nhìn như muốn nói: “Hãy sám hối đi; từ giờ đến chiều, hãy liệu mà giối giăng lại cho các bạn mày nhé”.

Dobbin đáp:

- Được tùy ý, Osborne, mày phải làm nhân chứng cho tao, nghe không.

Thằng Osborne đáp:

- Ừ thế cũng được.

Bố thằng bé có cả một cái xe ngựa riêng, cho nên nó có vẻ hơi ngượng vì kẻ bênh vực nó.

Giờ chiến đấu sắp tới. Osborne thấy hơi thẹn khi phải nói “Figs, đánh đi”. Suốt hai ba hiệp đầu của trận đấu hay ho này, không có lấy một đứa nào đứng xem nói câu ấy. Khởi đầu trận đánh, nhà đấu sĩ lão luyện Cuff nở một nụ cười khinh mạn, thoải mái, tươi tỉnh như đi dự dạ hội, tống những đòn vào địch thủ, và quật ngã Dobbin ba lần liền. Mỗi lần Dobbin ngã bọn trẻ lại reo ầm lên; đứa nào cũng sốt ruột mong có vinh dự được khúm núm chúc mừng người thắng trận.

Thằng Osborne vừa nâng đấu sĩ của mình dậy, vừa nghĩ thầm:

- Sau chuyến này, thế nào mình cũng bị ốm đòn.

Nó lại bảo Dobbin:

- Thôi, mày chịu thua đi thì hơn; Figs ạ, nó chỉ bắt nạt tao thôi mà, tao quen đi rồi.

Nhưng tay chân Figs đang run lên bần bật, mũi thở phì phò giận dữ lắm: cậu gạt người làm chứng oắt con của mình ra bên, xông vào đánh hiệp bốn. Ba lần trước Cuff bước vào hiệp đấu là chủ động tấn công ngay, không để cho Dobbin có thì giờ đỡ kịp, mà Dobbin cũng không biết đỡ những đòn đối phương liên tục nện vào mình: lần này Dobbin quyết định mình sẽ tấn công trước, ngay khi vào cuộc. Vốn thuận tay trái, Dobbin sử dụng luôn để tấn công, đấm trúng hai cái liền mạnh hết sức...một quả trúng mắt trái Cuff, một quả trúng giữa mũi La-mã đẹp đẽ của cu cậu. Lần này Cuff ngã quay, đám trẻ đứng vây quanh rất ngạc nhiên. Chú bé Osborne vỗ vào lưng đấu thủ của mình, ra vẻ một tay sành thưởng thức, nói:

- Được lắm, Dobbin; cứ chơi tay trái như thế cho tao.

Trận đánh tiếp tục, cánh tay trái của Figs lập chiến công liên tiếp, mỗi lần đấm là một lần Cuff ngã gục. Đến hiệp thứ sáu hầu như những đứa hò: “đánh đi, Dobbin” cũng nhiều như những đứa reo: “Đánh đi, Cuff”. Đến hiệp thứ mười hai thì nhà cựu vô địch đã kiệt lực, nói theo lối nhà nghề, đã mất hết bình tĩnh và sức mạnh để tấn công và phòng thủ; trái lại, Figs vẫn bình tĩnh như một tín đồ Thanh giáo. Mặt Cuff trắng bệch ra, mắt mở trừng trừng long lanh, môi dưới bị một chỗ rách, máu chảy ròng ròng; trông anh học trò trẻ tuổi này có một vẻ ma quái, dữ dội khiến bọn trẻ đứng gần như khiếp đảm. Song, tay địch thủ dũng mãnh của nó vẫn sửa soạn bắt đầu hiệp thứ mười ba.

Nếu tôi có được ngòi bút của một Napier, hoặc một Bell () tôi sẽ mô tả trận đấu sinh động hơn. Ấy là đợt tấn công cuối cùng của đội Vệ binh (tuy bấy giờ trận Waterloo chưa xảy ra)...ấy là đội quân của Ney () dàn trận đối diện với trái đồi Sainte La Haye, một vạn lưỡi lê tua tủa với hai mươi con diều hâu dữ dội. Ấy là tiếng thét của đội quân Anh lao xuống sườn đồi nhảy xổ vào vây tròn ấy địch quân trong một trận giáp lá cà khủng khiếp...Nói tóm lại Cuff bước vào hiệp đấu đầy can đảm, nhưng đã lảo đảo xiêu vẹo; Dobbin bèn bồi cho một quả đấm tay trái như thường lệ trúng mũi địch thủ, hạ nó đo ván lần cuối cùng. Figs nói:

- Lần này chắc gục hẳn.

Nhìn địch thủ nằm sóng soài trên mặt cỏ y như viên bi-a của Jack Spot lúc đã rơi trúng vào lỗ: quả nhiên, lúc sắp đánh hiệp sau, Reginald Cuff không còn đủ sức, mà cũng không muốn dậy nữa.

Bây giờ bọn trẻ con hò reo ầm ĩ để tán thưởng Dobbin tưởng như từ đầu trận đánh chúng vẫn đứng về phe cậu bé, làm cho ông Swishtail phải bỏ phòng làm việc chạy ra, không biết có chuyện gì mà ồn ào đến thế. Dĩ nhiên, ông dọa đánh đòn Dobbin. Nhưng Cuff lúc này đã hồi lại, đang chùi vết máu, vội vàng đứng dậy nói:

- Thưa thầy, lỗi tại con ạ, Dobbin không có lỗi.

- Tại con bắt nạt một thằng bé hơn con, anh ấy đánh con là phải ạ...

Câu nói cao thượng ấy không những đã cứu kẻ thắng trận thoát khỏi một trận đòn, mà còn trả lại cho thằng Cuff cái uy quyền đối với bọn trẻ con mà nó suýt mất vì cuộc thất trận vừa qua. Cậu bé Osborne viết thư về cho bố mẹ kể lại câu chuyện:

Sugarcane House, Richmond, Tháng 3...ngày 18...,

Má thân yêu...

Con chúc má mạnh khỏe, con rất sung sướng xin má gửi ngay cho con một cái bánh ga-tô và năm si-linh. Cuff và Dobbin vừa đánh nhau một trận. Má cũng biết đấy, Cuff là thằng trùm trong trường. Hai thằng đánh nhau mười ba hiệp. Cuff bị đo ván. Thế là bây giờ Cuff tụt xuống hàng hai. Chúng nó đánh nhau là tại con. Cuff đánh con vì con làm vỡ một chai sữa; Dobbin thấy thế không chịu được. Chúng con gọi nó là Figs vì bố nó bán thực phẩm - hiệu Figs và Rudge, phố Thames, khu City - Theo ý con, nó đã bênh con thì má nên mua trà và đường ở hiệu của bố nó. Thứ bẩy nào Cuff cũng về thăm nhà. Nhưng lần này không về được, vì hai mắt sưng tím bầm lại. Nó có con ngựa Pony trắng đến đón nó về nhà, lại có một thằng hầu mặc chế phục cưỡi một con la lông hung hung đi theo. Giá ba mua cho con một con ngựa để con cưỡi thì thú quá.

Con ngoan của má George Sedley Osborne.

T.B. - Con gửi cho bé Emmy một cái hôn. Con đang cắt cho nó một cái xe ngựa bằng bìa cứng, đừng gửi bánh khô, gửi cho con bánh quả, má nhé.

Sau trận đánh thắng vừa rồi, vai trò của Dobbin nổi bật trong trường. Cậu bé được hết thẩy bạn học vì nể, và cái tên Figs trước kia hàm ý chế nhạo, bây giờ đã trở thành phổ biến và đáng kính như bất cứ tên gọi đùa một đứa trẻ nào khác trong trường. George Osborne bảo: “Nói cho đúng, bố nó bán thực phẩm có phải là lỗi tại nó đâu”; tuy bé, nhưng Osborne vẫn được đám học trò nhỏ trong trường mến; ý kiến của cậu bé được toàn thể nhiệt liệt tán thưởng.

Chúng quyết nghị rằng chế nhạo Dobbin về dòng dõi là hèn. “ông Figs” trở thành một cái tên tốt đẹp, thân yêu; và anh trưởng tràng cũng không kể chuyện bôi xấu Dobbin nữa.

Tình hình dễ chịu hơn, nên tinh thần Dobbin cũng có thay đổi. Cậu bé tiến bộ trông thấy trong những môn học cổ điển. Đích thân cậu Cuff lẫm liệt kia giúp đỡ Dobbin học những câu thơ la-tinh; trước sự chiếu cố này. Dobbin chỉ biết đỏ mặt và ngạc nhiên. Trong những giờ chơi, Cuff còn luyện thêm cho Dobbin, giúp cậu bé từ lớp bét của bọn trẻ con leo lên lớp nhì, và được xếp một thứ hạng kha khá ở lớp này nữa. Bây giờ mới khám phá ra rằng tuy về môn học cổ điển thì dốt, nhưng về toán học Dobbin tiến bộ khác thường. Toàn thể mọi người rất hài lòng khi thấy cậu bé đứng thứ ba về đại số, và đến kỳ thi giữa mùa hè lại chiếm phần thưởng là một tập sách tiếng Pháp. Giá các bạn được nhìn thấy mặt bà mẹ Dobbin khi ông Swishtail trao quyển truyện Telemaque (truyện hay tuyệt!) cho Dobbin trước toàn thể học sinh trong trường và các vị phụ huynh; trong sách có ghi tặng Gulielmo Dobbin. Toàn thể học sinh vỗ tay tán thưởng. Không sao mà tả được cu cậu đỏ mặt, lúng túng, ngã xiêu vẹo và giẫm lên bao nhiêu là bàn chân bạn, lúc lĩnh thưởng xong trở về chỗ ngồi. Ông bố Dobbin tỏ vẻ kính nể con trai lần này là lần đầu; trước mặt mọi người, ông cho con trai hai ghi-nê. Số tiền này cậu bé tiêu gần hết để thết anh em trong trường một bữa ê hề; sau mấy ngày nghỉ, cậu trở lại trường, mặc một cái áo đuôi tôm.

Dobbin là một cậu bé quá khiêm tốn; cậu không nghĩ rằng tình thế thay đổi tốt đẹp như vậy là nhờ tính cao thượng rộng lượng của chính mình; vì một thói lệch lạc nào đó trong sự suy nghĩ, cậu lại cho rằng chính nhờ có Osborne, giúp đỡ săn sóc nên mới có cái may mắn trên; đối với Osborne, cậu yêu quý hết sức, chỉ có trẻ con mới quý nhau được như vậy...y như tâm tình của anh chàng Orson trong truyện thần tiên đối với kẻ thắng mình là chàng Valentine tuyệt diệu. Có thể nói Dobbin quỳ xuống chân Osborne mà thờ phục cậu bạn nhỏ. Ngay khi hai đứa chơi với nhau. Dobbin đã thầm kính phục Osborne rồi, bây giờ cậu là thằng hầu, là con chó, là anh chàng “Thứ sáu” () của Osborne. Cậu tin rằng Osborne có đủ mọi tài. Osborne xinh trai nhất, can đảm, hoạt động, thông minh nhất, rộng lượng nhất, trong số trẻ con trên đời này. Tiền riêng của cậu, hai đứa cùng tiêu; cậu mua cho Osborne đủ mọi thứ: dao con, hộp bút chì, con dấu bằng vàng, bánh bơ, còi và những cuốn truyện phiêu lưu có những tranh tô màu khổ to, vẽ những hiệp sĩ và bọn cướp; nhiều tranh có đề “William Dobbin tặng bạn nối khố là George Sedley Osborne công tử”. George tỏ vẻ rất nhã nhặn khi nhận vinh dự trên, thấy cũng xứng đáng với giá trị của mình.

Cho nên hôm trung úy Osborne đến công viên Russell để cùng đi chơi Vauxhall, anh ta đã nói với hai cô thiếu nữ và bà mẹ thế này:

- Bà Sedley, thưa bà, bà cho phép chúng con được tự do: con đã mời Dobbin bạn con đến dùng bữa ở đây, rồi cùng đi chơi Vauxhall. Tính anh ấy cũng dút dát như anh Joe .

- Nhút nhát! Xì!

Anh chàng béo, vừa đáp, vừa đưa cặp mắt chiến thắng nhìn sang cô Sharp.

Osborne cười, nói thêm:

- Anh ấy nhút nhát thật đấy. Nhưng Sedley, anh lịch sự hơn nhiều. Tôi gặp anh ấy ở Bedford, lúc đến đây tìm anh. Tôi đã bảo anh ấy rằng Amelia về nhà rồi, và chúng ta đang dự định tổ chức một buổi đi chơi tối; còn bà Sedley thì đã tha thứ cho anh ta về tội đánh vỡ cái bình rượu hồi còn nhỏ. Bà còn nhớ chuyện không may ấy không ạ? Bảy năm qua rồi.

Bà Sedley đáp:

- Làm bẩn hết cái áo lụa màu tím của bà Flamingo. Cái thằng vụng về quá. Mấy cô chị cũng chẳng khéo léo hơn mấy tý. Bà Dobbin hôm qua cũng đến Highbury chơi cùng ba cô con gái. Gớm, mặt với mũi.

Osborne láu lỉnh hỏi:

-Nhà ông cố vấn giàu lắm phải không, bà? Bà xem liệu mấy cô con gái, có cô nào con lấy làm vợ được không?

- Chỉ nói bậy thôi nào. Ai thèm rước cái mặt vàng khè của anh về làm của nợ, anh nói tôi xem?

- Mặt con mà vàng khè? Bà hãy chờ xem mặt Dobbin đã. Anh ta đã ba lần bị bệnh sốt rét, hai lần ở Nassau, một lần ở St. Kitts.

Bà Sedley đáp:

- Được được? Đối với chúng tôi, mặt anh thế là đủ vàng lắm rồi, có phải không, Emmy?

Amelia nghe mẹ nói chỉ đỏ mặt lên mỉm cười; vừa liếc nhìn bộ mặt tai tái xinh trai của Osborne, có điểm một hàng ria mép rất đẹp, đen nhánh, xoăn xoăn và bóng (anh chàng trẻ tuổi vẫn lấy làm hãnh diện vô cùng về bộ ria của mình), cô vừa nghĩ thêm rằng trong quân đội của đức Hoàng đế, và khắp cả thế giới nữa, đố tìm đâu ra một bộ mặt điển trai, hoặc một con người anh hùng như chàng Osborne của cô. Cô nói:

- Tôi chả để ý đến đại úy Dobbin da mặt thế nào, hoặc tính tình vụng về ra sao, có điều chắc là bao giờ tôi cũng quý anh ấy…Đấy là bởi Dobbin là bạn của Giorgiơ và đã bênh vực anh chàng. Osborne nói:

- Trong quân đội, không có người nào tốt hơn, không có sĩ quan nào giỏi hơn, mặc dầu anh ta không phải là một Adonis ().

Đoạn, anh chàng liếc nhìn bóng mình trong gương rất tự nhiên, nhưng thấy đôi mắt của Rebecca cũng đang chăm chú ngó mình, anh ta hơi đỏ mặt. Rebecca thầm nghĩ: “A, ông bạn xinh trai của tôi ơi (), tôi nắm được đúng tẩy của ngài rồi”. Gớm, con bé đến láu cá!

Tối hôm ấy: Amelia vừa đi vừa nhảy nhót bước vào phòng khách; cô mặc một chiếc áo voan trắng, sửa soạn đi chơi Vauxhall, miệng líu lo hát như một con sơn ca, trông tươi tắn như một đóa hồng... bỗng cô thấy một người đàn ông tiến về phía mình và cúi xuống chào một cách vụng về không thể tả được; anh ta người cao lớn, thô kệch, tay chân to tướng, tai rộng bè, bộ tóc đen hớt rất ngắn nên hai tai trông càng to; anh ta mặc bộ binh phục gớm ghiếc, và đội một chiếc mũ vành bẻ tam giác kiểu thời bấy giờ.

Chính là đại úy William Dobbin, thuộc trung đoàn bộ binh thứ...của Hoàng gia; trung đoàn của anh ta đóng ở vùng tây Âu. Vì bị sốt rét vàng da nên anh ta được về nước nghỉ, trong khi các bạn đồng ngũ vẫn còn ở lại để lập công.

Lúc đến, Dobbin đã gõ cửa, nhưng vì nhút nhát nên gõ khẽ quá, trên gác không ai nghe tiếng; nếu không, chắc chắn Amelia chẳng dám bạo dạn vừa đi vừa hát trong phòng. Cho nên cái giọng hát thanh thanh, ngọt ngào mới đi thẳng vào tâm hồn chàng đại úy và nằm lỳ tại đó. Lúc Amelia đưa bàn tay cho anh ta bắt, trước khi nắm lấy, anh ta ngừng lại, nghĩ thầm; “Hừ, có lẽ nào... thì ra cô chính là cô bé mặc áo hồng, tôi còn nhớ gặp mới hồi nào... cái bữa tôi đánh đổ bình rượu, vừa sau khi tôi được đề bạt? Cô chính là người mà Osborne nói chuyện định cưới làm vợ? Trông cô có vẻ tươi tắn lắm nhỉ; cái thằng láo lếu ấy thế mà may mắn ghê?” Những ý nghĩ trên vụt qua óc Dobbin trước khi anh đánh rơi chiếc mũ xuống đất vì vội cầm lấy bàn tay cô thiếu nữ.

Lai lịch anh chàng Dobbin từ khi rời bỏ nhà trường cho đến lúc chúng ta có cái may mắn gặp lại anh ta một lần nữa, nếu các bạn tinh ý thì cứ coi qua mấy trang trên cũng tạm rõ, mặc dầu chưa thật đầy đủ. Ông Dobbin, người bán thực phẩm bị khinh rẻ, đã thành ông cố vấn hành chính Dobbin…rồi cố vấn Dobbin lại trở thành đại tá Dobbin trong đội quân kinh kỵ của kinh đô, lúc này đang nóng lòng thèm được chiến đấu chống bọn Pháp xâm lược.

Đội quân của Dobbin đã được đức Hoàng đế và công tước York duyệt binh; trong đội quân này, ông bố Osborne mới chỉ là một bác hạ sĩ tầm thường; còn ông đại tá kiêm cố vấn hành chính thì đã được ban tước “Hiệp sĩ”. Con trai ông cũng tòng quân và chính Osborne cũng gia nhập cùng vào một trung đoàn đó. Họ đã chiến đấu ở vùng Tây Ấn() và Gia-nã-đại. Trung đoàn của họ vừa trở về nước, bây giờ Dobbin vẫn yêu quý Osborne như xưa, hồi cả hai còn là những cậu học sinh.

Mọi người cùng ngồi xuống dùng bữa. Họ nói với nhau về chuyện chiến tranh, chuyện chiến thắng, về Boney, về công tước Wellington, và về số tạp chí vừa ra. Đang thời buổi huy hoàng đó, cứ mỗi số tạp chí xuất bản lại có đăng một chiến công mới; hai chàng trẻ tuổi dũng cảm vẫn khát khao được thấy tên mình đăng trong bản danh sách vinh quang, và cùng rủa thầm số phận không may đã bắt họ chôn chân trong một trung đoàn đã không có vinh hạnh được mời đến gần trận địa danh dự. Nghe câu chuyện đầy hào hứng ấy cô Sharp thấy sôi nổi hẳn lên, nhưng cô Sedley thì sợ hãi đến gần như khiếp đảm. Joe cũng góp thêm vài câu chuyện săn hổ, anh ta kể nốt câu chuyện về cô Cutler và viên thầy thuốc Lance, tiếp Rebecca đủ mọi món ăn, và chính anh ta cũng vừa ăn lia lịa vừa nốc rượu vô hồi kỳ trận.

Lúc hai cô thiếu nữ rời khỏi phòng, Joe nhảy xổ ra mở cửa, với một dáng điệu vô cùng lịch sự và tình tứ... rồi lại quay vào bàn, tiếp tục rót lấy rượu vang hết cốc này đến cốc khác và nốc lấy nốc để một cách vội vàng. Osborne thì thầm với Dobbin:

- Cu cậu chuẩn bị đấy.

Cuối cùng đến giờ đi chơi Vauxhall, xe ngựa đã sẵn sàng.

Chương 6
VAUXHALL

Tôi cũng biết rằng câu chuyện tôi đang kể chẳng có gì là đặc sắc (tuy rằng sắp đến vài chương ghê gớm đây), và cũng xin bạn đọc rộng lượng nhớ cho rằng chúng ta đang nói chuyện về gia đình một người buôn cổ phiếu ở công viên Russell, mà họ thì đang đi chơi hoặc ăn điểm tâm, hoặc dùng cơm tối, hoặc nói chuyện, hoặc phải lòng nhau, chẳng khác gì thiên hạ trong cuộc sống hàng ngày vậy; cũng chưa có một sự kiện ghê gớm kỳ lạ nào đánh dấu bước tiến bộ trong những mối tình của họ. Câu chuyện đại khái như thế này.. . Osborne yêu Amelia; anh ta mời một người bạn cũ đến dùng bữa tối rồi đi chơi Vauxhall, còn Joe Sedley cũng yêu Rebecca. Hai người có lấy nhau không? Đó là vấn đề ta đang xét.

Chúng ta rất có thể giải quyết vấn đề một cách hoặc êm đềm, hoặc lãng mạn, hài hước. Giả thử ta đặt câu chuyện vào khung cảnh Quảng trường Grosvenor, cũng những tình tiết ấy…liệu có ai thèm nghe không? Giả thử ta kể rằng Vương tước Joseph Sedley yêu, và hầu tước Osborne cũng phải lòng công nương Amelia, mối tình được vị công tước cha nàng hoàn toàn đồng ý; hoặc ta không cho chuyện xảy ra trong tầng lớp đại quý tộc, mà đặt vào trong một khung cảnh hạ lưu nhất, thí dụ cái bếp của nhà ông Sedley chẳng hạn; bác da đen Sambo đã phải lòng chị đầu bếp ra sao (mà chắc chắn là có thể) và vì chị này, bác đã choảng nhau với anh xà ích... chú bé hầu rượu đã bị bắt quả tang ăn trộm một tảng vai cừu thế nào…rồi mụ hầu phòng cô Sedley mới mượn nhất định không chịu vào buồng ngủ nếu không có cây nến... những chuyện ấy có thể dựng lên cốt gây những trận cười khoái trá, và được mệnh danh là những cảnh đời thực. Hoặc giả, trái lại, nếu chúng ta ưa những cảnh hãi hùng, và cho anh nhân tình của mụ hầu phòng mới đến làm là một tên trộm nhà nghề; hắn cùng đồng đảng lọt vào nhà giết chết bác da đen Sambo ngay dưới chân ông chủ, cướp phăng cô Amelia còn mặt áo ngủ đem đi mất cho mãi đến tập ba của cuốn truyện mới thả cho về nếu thế, có lẽ chúng tôi đã có thể dễ dàng viết được một truyện rùng rợn; độc giả hẳn phải hồi hộp mà đọc ngấu nghiến những chương sách ghê gớm đó. Nhưng xin các bạn đọc đừng chờ đợi ở đây một cuốn truyện thuộc loại như vậy; đây chỉ là một câu chuyện gia đình và xin hãy bằng lòng với một chương kể chuyện Vauxhall, chương này ngắn ngủi lắm, đến nỗi không đáng gọi là một chương nữa.

Thế mà nó vẫn là một chương, lại là một chương quan trọng nữa cơ đấy. Trong đời sống hàng ngày, chẳng đã từng có những chương bé nhỏ, hình như không có nghĩa lý gì, song thật ra đã ảnh hưởng đến cả đoạn sau của cuộc đời chúng ta đấy sao?

Vậy thì chúng ta hãy cùng bước vào trong chiếc xe ngựa với bốn cô cậu ở Công viên Russell và thẳng đường đến Vauxhall. Joe và cô Sharp ngồi ở ghế trước, giữa có một chỗ ngồi để trống. Osborne ngồi trước mặt họ, bị ép giữa đại úy Dobbin và Amelia.

Trên xe, ai cũng yên trí đêm hôm ấy thế nào Joe cũng ngỏ ý hỏi Rebecca Sharp làm vợ. Ở nhà, hai bậc cha mẹ cũng tán thành việc bố trí này, tuy ta phải nói riêng với nhau rằng ông lão Sedley đối với con trai gần như có ý khinh bỉ. Ông bảo rằng con trai ông phù phiếm, ích kỷ, lười biếng, và đàn bà quá. Ông cụ không chịu được những điệu bộ công tử bột của anh chàng, và rất tức cười về những chuyện “huyên thiên xích đế” của cu cậu. Ông lão bảo:

- Tôi sẽ cho nó nửa cơ nghiệp này, ngoài ra nó còn khối của riêng nhưng tôi cam đoan rằng ví thử ngày mai, bà, tôi và em gái nó chết, nó sẽ nói: "Đội ơn Chúa", và cứ ăn cơm tối ngon miệng như thường; cho nên tôi không vạ gì mà lo lắng cho nó. Mặc xác nó lấy ai thì lấy; đó không phải là việc của tôi.

Trái lại, Amelia rất tán thành cuộc hôn nhân của anh trai, đúng như tính tình khôn ngoan của một thiếu nữ trẻ tuổi như cô ta. Có một hai lần Joe định nói một điều gì đó rất quan trọng với em gái, mà cô em cũng rất sẵn sàng lắng nghe ông anh thổ lộ nỗi lòng, song anh chàng béo ị lại không đủ can đảm ngỏ cái điều bí mật quan trọng ủ ấp sâu kín trong trái tim mình; anh ta chỉ thở dài thật to và quay đi làm cho cô em gái cũng đến phát chán.

Điều bí mật sâu kín ấy có tác dụng khiến cho tâm trí cô Amelia dịu dàng của chúng ta lúc nào cũng bồi hồi chờ đợi, cô không hề trao đổi với Rebecca về câu chuyện tế nhị này; nhưng bù lại cô đã thân mật kể đầu đuôi câu chuyện với bà quản gia Blenkinsop; bà này lại khéo léo buông vài lời bóng gió với chị hầu gái; rất có thể chị này đã hấp tấp mách lại với chị làm bếp; và chị làm bếp lại đem tin này phổ biến với những người bán thực phẩm cho gia đình. Cuối cùng việc hôn nhân của Joe trở thành câu chuyện người nào ở Công viên Rusell cũng biết cả.

Dĩ nhiên, bà Sedley cho rằng con trai bà đã hạ thấp phẩm giá mình vì muốn cưới con gái một nghệ sĩ làm vợ.

Song bà Blenkinsop nói:

- Lạy Chúa, bà ơi, xưa kia hồi bà mới làm bạn với ông Sedley, bà cũng chỉ bán thực phẩm, còn ông nhà ta thì làm thư ký cho một người buôn tín phiếu, vốn liếng làm gì được nổi năm trăm đồng. Thế mà bây giờ cũng mát mặt đáo để. Amelia hoàn toàn đồng ý; vì vậy bà Sedley vốn tính rộng lượng, dần dần cũng xiêu lòng.

Ông Sedley thì vẫn đứng trung lập, ông nói:

- Mặc kệ thằng Joe lấy ai thì lấy; đó không phải là việc của tôi. Con bé chẳng có đồng hồi môn nào; ngày xưa bà Sedley cũng thế. Nó có vẻ cũng vui tính và thông minh, có nhẽ cũng giữ gìn thằng Joe khỏi chơi bời được đấy. Vả lại lấy nó chả tốt hơn lấy một bà da đen để đẻ ra cho nhà này một tá cháu nội da màu "súc-cù-là" à?

Thế là mọi sự dường như đều mỉm cười với cái may mắn của Rebecca. Mỗi khi xuống nhà ăn cơm, cô lại khoác tay Joe đi, như là một điều dĩ nhiên; cô đã ngồi cạnh Joe trên chiếc xe riêng mui trần của anh ta (Joe thật là một con hươu đầu đàn lẫm liệt, vì anh ta ngồi rất bình thản trên xe tự điều khiển lấy đôi ngựa xám của mình). Tuy không ai nói một lời nào về cuộc hôn nhân này, song dường như ai cũng đã rõ chuyện. Rebecca chỉ thèm có một điều là Joe ngỏ ý với mình. Chao ôi! bây giờ cô ta mới cảm thấy mình thiếu một bà mẹ, một bà mẹ âu yếm dịu dàng, có thể giải quyết vấn đề chỉ trong mười phút đồng hồ, vì chỉ qua một câu chuyện riêng nho nhỏ, tế nhị, là có thể bắt anh con trai nhút nhát này bộc bạch tâm sự của mình.

Câu chuyện ở trong tình trạng như vậy đấy, khi chiếc xe chạy qua cầu Westminster.

Mọi người rời xe bước vào khu vườn của Hoàng gia vừa đúng lúc. Khi anh chàng Joe bệ vệ bước ra khỏi chiếc xe làm cho nó kêu cót két, đám đông đứng quanh reo cười ầm lên chào đón vị công tử béo phị; anh chàng đỏ mặt cắp tay Rebecca đi, trông dáng điệu càng thêm bệ vệ, hiên ngang.

Dĩ nhiên Amelia đã có George săn sóc. Trông cô hớn hở y như một cây hồng trong ánh nắng. George nói:

- Dobbin, tôi bảo này, anh trông hộ đám khăn san và đồ dùng nhé, thật may quá lại có anh.

Thế là trong khi George đi sóng đôi với Amelia, và Joe đang thót mình lại để chui qua cổng khu vườn có Rebecca cặp kè bên cạnh, thì anh chàng Dobbin thực thà đành vui lòng đưa tay nhận lấy đống khăn quàng và trả tiền vào cửa cho cả bọn.

Anh ta kín đáo đi sau lưng họ. Anh ta không muốn làm họ mất vui. Rebecca và Joe thì anh chẳng thiết để ý đến; nhưng anh cho rằng Amelia rất xứng đáng làm vợ anh chàng George Osborne hào hoa kia; cặp tình nhân đẹp đôi đạo bước bên nhau khiến cô thiếu nữ sung sướng và hơi bỡ ngỡ. Dobbin nhìn sự hào hứng hồn nhiên của Amelia với niềm hân hoan của một người cha. Có lẽ Dobbin cũng cảm thấy giá trên tay mình có cái gì khác ngoài mấy tấm khăn quàng thì vẫn hơn (người qua kẻ lại thấy chàng sĩ quan trẻ tuổi vụng về ôm một mớ khăn áo của đàn bà thì cứ cười) nhưng Wiliam Dobbin không hay tính toán vị kỷ; trong lúc bạn mình được sung sướng tại sao mình lại không hài lòng? Trong vườn có rất nhiều thú vui; nào là hàng vạn ngọn đèn thắp sáng trưng, nào là bọn nhạc công đội mũ vành tam giác chơi những bản nhạc mê hồn dưới mô hình một chiếc vỏ ốc mạ vàng treo giữa khu vườn, rồi bọn ca công hát những bài khôi hài và trữ tình nghe rất hấp dẫn, những điệu vũ dân gian do những người dân thành Luân Đôn vừa đàn ông vừa đàn bà trình bày... chỉ thấy nhảy, vỗ tay và cười ầm ĩ; có trống báo hiệu bà Saqui sắp sửa biểu diễn trò bám thang dây leo lên giời chơi với sao, lại có một vị ẩn sĩ lúc nào cũng ngồi tĩnh tọa trong một căn đạo am đèn thắp sáng trưng. Có bao nhiêu là lối đi tối om, rất thuận tiện cho những cặp tình nhân trẻ tuổi tâm sự cùng nhau; một bọn người mặc chế phục cũ kỹ, tồi tàn, bán những ca rượu mạnh, và trong những quán ăn lấp lánh ánh đèn, bọn thực khách sung sướng ngốn những mảnh dăm-bông mỏng dính... tất cả những thú vui ấy, cả anh chàng Simpson nữa, anh chàng ngớ ngẩn tốt bụng lúc nào cũng mỉm cười, và có thể nói là đang chủ tọa cả cuộc dạ hội... tất cả, đại úy Dobbin đều không buồn chú ý lấy may may.

Anh ta mang chiếc khăn quàng Casơmia trắng của Amelia trên tay đi loanh quanh, rồi đứng dưới chiếc mô hình vỏ ốc mạ vàng xem bà Salmon trình bày bài “Chiến tranh” của Borodino, một bản sử thi phổ nhạc giễu cợt con người hãnh tiến đảo Corse mới đây vừa bị đại bại ở Nga...

Lúc quay đi chỗ khác bỗng anh ta thử lẩm nhẩm hát…và thấy mình nhắc lại điệu hát của Amelia lúc cô bước xuống thang gác đi vào phòng ăn. Dobbin phá ra cười chế nhạo chính mình, vì sự thực anh ta hát cũng không hay hơn một con cú rúc.

Lẽ dĩ nhiên, ta phải hiểu rằng những con người trẻ tuổi của chúng ta đang sánh đôi từng cặp, từng cặp một, và đang long trọng hứa hẹn với nhau suốt tối nay sẽ không rời nhau, để mười phút sau đã chia tay nhau rồi. Người đi chơi ở Vauxhall vẫn thường chia tay nhau, nhưng họ sẽ gặp nhau lại lúc bữa ăn nửa đêm để kể cho nhau nghe những chuyện xảy ra từ lúc họ chia tay.

Đã có những chuyện gì xảy ra về Osborne và Amelia?

Đó là một điều bí mật. Nhưng xin bạn hãy yên trí rằng họ rất sung sướng và đối với nhau rất đứng đắn. Vì đã mười lăm năm nay, họ vẫn có thói quen đi chơi đông với nhau, nên cũng không ai cho đấy là chuyện mới lạ.

Song khi Rebecca Sharp và người bạn trai béo phị của cô đi mất hút vào trong một lối đi tối om - chỉ có độ mươi cặp khác cũng lạc lối đi vào đấy - thì cả hai cùng thấy rằng trường hợp của họ rất là tế nhị và “gay go”. Riêng cô Sharp nghĩ thầm, bây giờ hoặc là không bao giờ nữa chính là lúc phải khêu gợi cho những lời ngỏ tình còn đang mấp máy trên đôi môi nhút nhát của anh chàng Sedley kia phải bật ra.

Lúc nãy, hai người vừa đứng xem một toàn cảnh của thành phố Mạc-tư-khoa; có một anh chàng thô kệch bỗng giẫm phải chân cô Sharp, khiến cô này kêu thét lên, lùi lại, ngã ngay vào cánh tay Sedley; sự việc vừa rồi càng khiến cho anh chàng thêm dịu dàng thân mật, đến mức độ anh ta lại kể thêm ít nhất là lần thứ sáu rất nhiều chuyện Ấn Độ sở trường của anh. Rebecca nói:

- Em thèm được sang Ấn Độ quá?

- Cô thích thật không?

Sedley hỏi lại, giọng nói vô cùng dịu đàng, tình tứ, và chắc chắn sắp sửa nối theo câu hỏi khéo léo ấy bằng một câu hỏi khác êm ái hơn nhiều (vì anh ta lúc này đang thở phì phò như kéo bễ, và bàn tay cô Rebecca đặt gần mé ngực anh ta có thể đếm từng nhịp đập dồn dập của trái tim cu cậu), thì ôi, tai hại làm sao! Có tiếng chuông réo lên báo hiệu sắp bắn pháo hoa; thế là xung quanh người ta chen lấn nhau chạy ào ào: đôi tình nhân đành phải buông mình trôi theo dòng người cuồn cuộn.

Đại úy Dobbin dự định đến bữa ăn đêm sẽ lại tìm bọn họ; quả thật anh ta thấy những trò chơi ở Vauxhall chẳng thú vị gì mấy…Anh ta đã nện bước qua lại tới hai lần trước ngôi quán có hai cặp tình nhân trong đó, nhưng chẳng ai để ý đến anh ta. Trên bàn bày bát đĩa cho bốn người ăn.

Hai cặp tình nhân huyên thuyên trò chuyện những đâu đâu, trông thật là hạnh phúc; Dobbin hiểu rằng mình đã hoàn toàn bị bỏ quên như chưa hề bao giờ có mặt trên đời này.

Viên đại úy nhìn bốn người, vẻ hơi đăm chiêu, nói:

- Mình có ngồi đây cũng rất thừa (). Tốt hơn là đi ra nói chuyện với lão ẩn sĩ.

Anh chàng bèn rời xa cái đám ồn ào những tiếng người, tiếng động, tiếng thìa ra lách cách của bữa tiệc, lang thang đi vào một con đường tối om; đầu đường là chỗ ở của Chàng Cô đơn () quen thuộc bằng giấy bồi. Dobbin cũng không lấy gì làm vui lắm; mà thực thế, tôi đã biết, nhờ những kinh nghiệm bản thân, rằng trơ trọi một mình ở Vauxhall là một trò chơi tai hại nhất đối với một anh con trai chưa vợ.

Hai cặp tình nhân ngồi trong căn lều, hoàn toàn hạnh phúc họ chuyện trò với nhau sao mà thân mật và sung sướng thế. Joe đang lúc hăng say, hiên ngang dõng dạc ra lệnh cho bọn hầu bàn. Anh trộn rau xà-lách, mở sâm-banh, cắt thịt gà, và uống, và ăn phần lớn thức ăn trên bàn. Cuối cùng anh ta nhất định đòi bằng được một tô rượu mạnh. Ở Vauxhall ai mà không uống rượu mạnh: “Bồi, rượu mạnh đây!” Tô rượu mạnh này là nguồn gốc của tất cả câu chuyện này; mà tại sao nguyên nhân lại không phải là một tô rượu mạnh; nó cũng như bất cứ một cái gì khác chứ sao?

Xưa kia, chỉ vì một cốc thanh toan () mà nàng Rosamond kiều diễm kia phải đi vào nhà tu kín đấy thôi. Lại cũng vì một tô rượu vang mà Alexander đại đế đã phải chết, hoặc ít nhất cũng là theo lời ông Lempriere kể lại. Vậy thì chính cái tô rượu ấy đã ảnh hưởng đến vận mệnh của mọi nhân vật trong câu chuyện không có nhân vật này. Dẫu rằng hầu hết bọn họ không nếm một giọt rượu nào, tô rượu cũng vẫn ảnh hưởng đến đời sống của họ.

Hai cô thiếu nữ không uống rượu: Osborne cũng không thích nốt. Cuối cùng Joe anh chàng béo tham ăn, đã một mình tu sạch cả tô rượu; kết quả của việc nốc cả tô rượu mạnh là mới đầu anh ta vui vẻ một cách kỳ lạ, rồi sau sự vui vẻ ấy hầu như biến thành khó chịu. Bởi lẽ anh ta nói chuyện và cười đùa cứ bô bô lên, làm cho đến hàng tá người tò mò tụ tập xung quanh căn lều nghe; mấy người bạn cùng ngồi ngượng hết sức. Anh ta còn tình nguyện hát một bài (với cái giọng cao mà lè nhè đặc biệt của những ông say mềm), thế là có nhẽ hầu hết đám khán giả tụ tập quanh cái mô hình vỏ ốc mạ vàng đổ xô lại xem; họ vỗ tay rào rào tán thưởng. Một người nói: "Hoan hô anh béo!" Người khác: “Hát lại đi, Daniel Lambert!” Một người thứ ba kêu lên: “Trông chẳng khác gì hề leo dây” làm cho mấy cô thiếu nữ hoảng quá; Osborne tức lắm. Anh ta hét to:

- Anh Joe ta đứng dậy đi về thôi, tôi xin anh đấy.

Hai cô thiếu nữ đứng ngay lên.

- Khoan đã, này cô em be bé xinh xinh của tôi ơi!

Joe hò lên vậy và bạo dạn như một con sư tử ôm ghì ngang lưng Rebecca. Rebecca hoảng quá nhưng không sao gỡ ra được. Thiên hạ thấy thế càng cười tợn. Joe cứ tiếp tục nốc rượu và tán tỉnh, và hát. Rồi anh ta lại nháy mắt và mềm mại giơ cốc rượu vẫy chào mọi người đứng xem, thách thức tất cả mọi người hoặc bất cứ ai dám vào uống rượu thi với mình.

Osborne suýt nữa thì đấm ngã quay một anh chàng đi ủng định xông vào lợi dụng bữa rượu và hình như không sao tránh khỏi chuyện rắc rối. May quá, vừa lúc ấy Dobbin vẫn đi chơi loanh quanh trong vườn, bước vào trong quán ăn.

- Đi chỗ khác con khỉ.

Vừa nói Dobbin vừa huých bật một số đông người đứng xem ra ngoài; thấy cái mũ vành tam giác và điệu bộ hung hãn của Dobbin, họ sợ quá chạy mất, còn anh ta bước vào trong quán, có vẻ bị xúc động tợn.

- Trời ơi? Dobbin. Thế lúc nãy anh ở đâu?

Osborne vừa hỏi, vừa giằng lấy chiếc khăn quàng Casơmia trắng trong tay bạn trùm kín lấy Amelia.

- Anh ở đây liệu thu xếp và coi sóc anh Joe hộ nhé. Để tôi đưa hai cô ra xe.

Joe định đứng lên can thiệp, nhưng Osborne chỉ mới đưa một ngón tay ra gạt, anh ta đã ngã phịch xuống ghế, viên trung úy đưa hai cô thiếu nữ ra xe một cách an toàn. Thấy họ đi, Joe còn giơ tay hôn gửi theo, và nấc lên: “Cầu Chúa cho các bạn! Cầu Chúa cho các bạn?”. Đoạn Joe cầm tay đại úy Dobbin, khóc một cách rất đáng thương; anh chàng thú thực mối tình của mình với bạn: anh ta thờ phụng cô thiếu nữ vừa đi khỏi, anh ta hiểu rằng cử chỉ lỗ mãng vừa qua của mình đã làm cho cô thiếu nữ đau khổ vô cùng; anh ta muốn ngay hôm sau làm lễ cưới Rebecca ở nhà thờ Saint George, tại công viên Hanover; anh ta sẵn sàng đập cửa đánh thức cả đức giám mục Canterbury ở Lambeth; thề có trời đất, anh ta sẽ buộc đức giám mục phải tổ chức lễ cưới ngay lập tức. Đại úy Dobbin bèn lựa ý bạn, khôn khéo khuyên nên rời khỏi khu vườn hội, mau mau đến Lambeth kéo muộn. Lúc đã qua cổng, Dobbin dìu Joe Sedley lên xe rất dễ dàng, rồi đưa anh ta về nhà không xảy ra chuyện gì cả.

George Osborne cũng đã đưa hai cô thiếu nữ về nhà vô sự; lúc cửa đã đóng, đi ngang qua công viên Russell anh ta cười rũ rượi làm cho người gác lấy làm lạ quá. Amelia buồn bã nhìn cô bạn gái; cô dẫn bạn lên gác, hôn bạn và đi ngủ không nói thêm chuyện gì khác.

Rebecca thầm nghĩ: “Ngày mai chắc anh chàng phải tỏ tình. Anh chàng gọi mình là em thân yêu đến bốn lần tất cả; anh chàng còn nắm chặt tay mình trước mặt Amelia. Mai, hẳn anh chàng phải tỏ tình”. Cả Amelia cũng yên trí như thế. Tôi còn dám tin rằng cô nghĩ cả đến bộ áo phù dâu sẽ mặc, nghĩ đến những món quà cưới sẽ mừng người chị dâu xinh xắn bé nhỏ của mình, nghĩ cả đến buổi hôn lễ tiếp theo, trong đó có thể là chính cô sẽ đóng một vai chủ yếu vân vân và vân vân…

Ôi, người đời mới dại dột làm sao? Các người thật chưa hiểu hết cái tai hại của một tô rượu mạnh! Uống rượu mạnh, sáng hôm sau nhức đầu như búa bổ. Về cái chân lý này, tôi có thể lấy tư cách là đàn ông mà cam đoan như vậy; trên đời này không có một bệnh nhức đầu nào như nhức đầu vì rượu mạnh ở Vauxhall. Đã hai mươi năm nay, mà tôi còn nhớ rõ hiệu quả của hai cốc rượu... hai cốc rượu vang... chỉ có hai thôi, xin lấy danh dự mà thề như vậy; thế mà Joseph Sedley đang bị đau gan, lại đã nốc ít nhất là một phần tư lít cái thứ nước khủng khiếp ấy.

Sớm hôm sau, trong khi Rebecca chắc mẩm bình minh của hạnh phúc đang rạng rỡ đón chào mình, thì Sedley cũng đang rên rỉ vì đau đớn đến nỗi không bút nào tả xiết. Không may, hồi ấy người ta chưa chế ra nước xô-đa. Các vị thực khách nào trót quá chén đêm hôm trước, chỉ có mỗi một thứ bia để uống cho giã rượu. George Osborne thấy ngài cựu ủy viên tài phán quận Boggley Wollah đang rền rĩ trên chiếc ghế xô-fa, trước mặt có chai bia. Dobbin đã có mặt trong phòng; suốt đêm hôm trước, anh ta đã tận tình săn sóc ông bạn nạn nhân của đêm vừa qua. Hai viên sĩ quan nhìn xuống vị lưu linh ngồi rũ rượi; đưa mắt nháy nhau, cùng mỉm một nụ cười thương hại đáng sợ. Cả bác hầu riêng của Sedley là người xưa nay rất đứng đắn, lúc nào cũng lặng lẽ, trông quan trọng như một ông chủ đòn đám ma, mà nhìn ông chủ bất hạnh của mình suýt nữa cũng không giữ được bản tính thường ngày.

Lúc Osborne trèo lên thang, bác ta thì thầm riêng với khách:

- Ngài ạ, đêm qua ông Sedley thật điên dại khác thường, ông tôi định đánh bác xà ích giong chiếc xe ngựa thuê. Ông đại úy phải dìu ông tôi lên thang gác như bế đứa trẻ con ấy.

Bác Brush vừa nói, vừa thoáng mỉm cười; nhưng lập tức bác ta vội lấy lại vẻ mặt nghiêm trang, lặng lẽ, bí ẩn thường ngày, khi bác mở cửa phòng khách và báo: “Ngài Hosbin”.

Sau khi đã liếc nhìn nạn nhân của mình, anh chàng trẻ tuổi vui tính này hỏi:

- Thế nào, Sedley, làm sao thế? Không gẫy cái xương nào chứ? Dưới nhà có một tên xà ích, một bên mắt tím bầm, đầu quấn băng chằng chịt, đang thề sống thề chết rằng thế nào cũng kiện anh tại tòa.

Sedley yếu ớt hỏi:

- Anh nói cái gì?...Ai kiện ?

- Vì đêm qua anh choảng nó một trận - đúng không, Dobbin? Gớm, ông đánh ghê thế, chẳng kém gì Molyneux. Bác gác cổng kể lại rằng chưa bao giờ thấy ai bị đánh ngã chết giấc như vậy. Hỏi Dobbin mà xem.

Đại úy Dobbin cũng nói :

- Quả thật, anh có đánh nhau với tên xà ích, và anh đánh cũng hăng lắm.

Cả cái anh chàng mặc áo trắng ở Vauxhall nữa; Joe đấm nó khiếp quá! Các cô ấy kêu ầm cả lên? Lạy Chúa, trông thấy anh tôi vui quá; tôi cứ nghĩ bọn “dân thường” các anh nhút nhát, nhưng Joe ạ, tôi chịu không bao giờ dám dây với anh lúc say rượu đấy.

- Tôi mà đã cáu lên thì tôi cũng khiếp lắm, tôi biết thế.

Vẫn ngồi trên ghế xô-fa, Joe vừa đáp vừa nhăn mặt trông thảm quá mà lại tức cười, làm cho viên đại úy không thể giữ lịch sự được nữa; anh ta và Osborne cùng phá ra cười như nắc nẻ.

Thấy vui, Osborne tàn nhẫn trêu thêm. Anh ta vẫn cho Joe là người đần độn. Chợt nhớ đến câu chuyện tình duyên giữa Joe và Rebecca, anh ta cũng không lấy gì làm thích lắm, vì chẳng lẽ người anh vợ tương lai của George Osborne, thuộc trung đoàn thứ…lại hạ mình xuống lấy vơ váo một đứa con gái chẳng ra thế nào…một cô giáo dạy trẻ cà mèng sao? Osborne nói:

- Ông mà đánh trúng hả, ông bạn đáng thương của tôi? Ông mà cũng khiếp lắm à? Ông có đứng được vững đâu. Đêm qua ông làm cho tất cả thiên hạ cười vỡ bụng ở công viên, mà chính ông thì khóc…ông cứ bè nhè, bè nhè…có nhớ hôm qua hát bài gì không?

- Bài gì cơ? Joe hỏi.

- Một bài hát trữ tình, rồi gọi cô Rosa, Rebecca…tên cô ta là gì nhỉ, cái cô bạn gái của Amelia ấy mà, cái “cô em bé bé xinh xinh” của anh ấy mà.

Và anh chàng tàn nhẫn nắm lấy tay Dobbin, diễn lại tấn trò đêm trước; diễn viên chính ngồi đấy hoảng quá; Dobbin thương tình xin George tha cho cô, anh ta cũng mặc.

Lúc hai người ra về để cho bác sĩ Gollop săn sóc người ốm, Dobbin trách bạn; Osborne đáp:

- Tại sao tôi lại phải tha cho anh ta? Anh ta có quyền hành quái quỉ gì mà dám lên mặt chủ nhân và làm trò cho thiên hạ cười cả chúng mình ở Vauxhall? Cái cô học trò bé con đang liếc tình và “chài” anh ta là ai vậy? Thôi đi, không có cô ta, gia đình này cũng đã đủ hèn hạ lắm rồi: Kể ra một cô dạy trẻ cũng tạm được; nhưng tôi muốn chị dâu tôi là một vị phu nhân thì vẫn hơn. Tính tôi khoáng đạt, nhưng tôi cũng có cái kiêu hãnh chính đáng của tôi chứ; tôi hiểu địa vị của tôi, vậy cô ta cũng nên biết địa vị của cô ta. Tôi sẽ làm nhục cái ông béo ị đần độn ấy cho mà xem; tôi sẽ khiến anh ta không còn dám dở trò ngu ngốc quá đáng ra nữa, cho nên tôi mới bảo anh ta nên dè chừng, vì tôi sợ cô ta sẽ tấn công anh chàng trước.

Dobbin bán tín bán nghi, song cũng đáp:

- Cho rằng anh biết nhiều đi. Xưa nay anh vẫn đứng về phái Tory (), và gia đình anh là một gia đình lâu đời nhất ở Anh, song...

- Anh cứ theo tôi đến thăm các cô ấy, và cứ việc đích thân tán tỉnh cô Sharp xem.

Viên trung úy ngắt lời bạn, song Dobbin từ chối không đi cùng Osborne, khi hàng ngày anh này đến Russell thăm hai cô thiếu nữ.

Lúc George từ phố Holborn đi xuống phố Southampton, anh ta bật cười, vì nhìn vào nhà ông Sedley, thấy ở hai tầng khác nhau, có hai cái đầu cùng ngó ra. Thì ra cô Amelia ngồi trên bao lơn phòng khám đang băn khoăn ngóng về phía bên kia công viên, chỗ Osborne ở, để tìm bóng viên trung úy; còn cô Rebecca ngồi trong căn phòng nhỏ của mình ở tầng trên cũng đang nóng ruột chờ cái thân hình to béo của Joseph lù lù hiện ra.

Osborne bảo Amelia:

- Chị An đang ngồi trên chòi cao, nhưng chẳng có ai đi tới cả.()

Anh ta cười, lấy làm thú vị vì câu nói đùa của mình, rồi tả lại bằng những lời lẽ hài hước nhất tình trạng đáng thương của anh trai cô Amelia.

Cô thiếu nữ đáp, vẻ mặt hết sức buồn bã:

- George ạ, em thấy anh cười như vậy thật tàn ác quá.

Nhưng thấy cô thiếu nữ rầu rĩ âu sầu, George càng buồn cười khỏe, cứ yên trí rằng trò đùa của mình là lý thú.

Lúc cô Sharp xuống nhà, anh ta liến thoắng giễu cợt cô này về chuyện sắc đẹp của cô khiến anh chàng béo ị chết mê chết mệt.

- Chao ôi, cô Sharp ạ. Giá cô nhìn thấy anh ấy sớm hôm nay...đang rên rỉ trong bộ áo ngủ hoa sặc sỡ...lăn lộn trên chiếc ghế xô-fa, giá cô trông thấy anh ấy thè lưỡi ra cho ông thầy thuốc Gollop coi bệnh...

Cô Sharp hỏi:

- Thấy ai cơ?

- Ai? Còn ai nữa? Chẳng phải Dobbin thì là ai. Đêm qua, chúng ta đã quan tâm đến anh ấy nhiều quá đấy.

Emmy đỏ bừng mặt lên đáp:

- Hôm qua, chúng mình xử tệ với anh ấy quá thật.

- Em... em quên bẵng mất anh ấy đấy. Osborne vẫn còn cười tiếp:

- Em quên là dĩ nhiên. Ai mà nhớ luôn luôn đến Dobbin được: Amelia, em biết đấy. Có ai nhớ được không, cô Sharp?

Cô Sharp lắc đầu kiêu hãnh đáp:

- Trừ lúc anh ấy đánh đổ cốc rượu vang trong bữa ăn, tôi chưa hề chú ý đến sự có mặt của đại úy Dobbin lấy một phút.

Osborne đáp:

- Tốt lắm, cô Sharp ạ. Tôi sẽ bảo với anh ấy thế.

Nghe anh này nói, cô Sharp tự nhiên bắt đầu cảm thấy thù ghét anh chàng sĩ quan trẻ tuổi; thực ra anh ta cũng hoàn toàn vô tình không có ý định gây ra sự thù ghét ấy. Rebecca nghĩ thầm: “Có lẽ hắn đang giễu cợt mình đây; chắc lúc nãy hắn nói về chuyện mình với Joseph. Không biết có phải hắn đã làm cho anh chàng sợ không. Có lẽ anh chàng không dám đến rồi”. Mắt cô bỗng mờ đi và tim cô sao mà đập nhanh quá sức. Rebecca cố mỉm cười một cách ngây thơ nhất đời, nói:

- Anh chỉ được cái bộ hay nói đùa thôi, anh George ạ. Mời anh cứ nói trêu đi. Tôi chẳng có ai bênh vực đâu.

Đoạn cô lảng đi chỗ khác. Amelia nhìn George Osborne có ý trách móc; anh này cảm thấy hơi hối hận vì đã đối xử tàn nhẫn một cách không cần thiết với người con gái trơ trọi kia; anh ta đáp:

- Amelia thân yêu ơi, em tốt bụng quá. Em không hiểu lòng dạ người đời. Anh thì anh hiểu. Còn cô Sharp, cô bạn nhỏ của em, cô ta cần biết phận mình mới được.

- Anh cho rằng anh Joe sẽ...

- Anh thề rằng anh không biết gì, em yêu ạ. Anh ấy có thể lấy, hoặc cũng có thể không. Anh có phải là ông chủ của anh ấy đâu. Chỉ biết rằng anh ấy là một người ngớ ngẩn, phù phiếm, và đêm qua đã đặt cô em yêu quý bé bỏng của anh vào trong một hoàn cảnh khó xử và đáng giận. “Cô em be bé xinh xinh” yêu quý nhất đời của anh ạ.

Lúc George ra về, anh ta vẫn chưa hết cười, điệu bộ trông đến khôi hài, làm cho Emmy cũng phải cười theo.

Suốt ngày hôm ấy Joe không tới. Nhưng Amelia không ngại về chuyện ấy; cô thiếu nữ đã khôn khéo phái ngay thằng nhỏ phụ việc bác Sambo đến nhà Joseph để lấy mấy cuốn sách anh trai đã hứa cho mượn, nhân tiện hỏi thăm sức khỏe của ông anh. Bác Brush, người hầu của Joe ra trả lời rằng chủ bác ốm, vừa có bác sĩ lại thăm bệnh xong.

Amelia nghĩ hôm sau thế nào anh chàng cũng lại, nhưng không có can đảm nói một lời nào về chuyện này với Rebecca, mà suốt buổi tối hôm ấy, sau cái đêm ở Vauxhall, chính Rebecca cũng không hề đả động đến chuyện này.

Hôm sau nữa, lúc hai chị em đang ngồi trên ghế xô-fa định bụng làm một việc gì, viết thư hoặc đọc sách chẳng hạn, thì thấy Sambo bước vào phòng; bác vẫn cười cười như mọi khi, nách cắp một gói gì, còn tay cầm một chiếc khay trên có đặt một phong thư. Sambo nói:

- Thưa cô, có thư của ông Joe .

Amelia bóc lá thư mà run quá. Thư viết thế này:

Em Amelia nhân yêu, Anh gửi cho em cuốn “Đứa bé mồ côi trong rừng”. Hôm qua anh mệt quá, không lại được. Hôm nay, anh đi Cheltenham. Nên tiện, em xin lỗi cô Sharp đáng mến hộ anh về cử chỉ của anh ở Vauxhall; em xin cô ấy tha lỗi cho anh, và vui lòng quên tất cả mọi lời anh nói trong lúc bị kích thích bởi bữa rượu tai hại ấy. Sức khỏe của anh bị ảnh hưởng ghê gớm quá; khi nào bình phục, anh sẽ lập tức đi chơi Scotland độ vài tháng.

Anh thân mến của em.

Joe Sedley

Đây là lời tuyên án tử hình. Thế là hết. Amelia không dám nhìn thẳng vào Rebecca; cô này đang tái mặt đi, mắt mở to chờ đợi. Amelia chỉ bỏ lá thư vào lòng bạn, rồi đứng dậy lên gác về phòng riêng nằm khóc tấm tức.

Bà quản gia Blenkinsop tìm đến an ủi; Amelia gục đầu vào vai bà thút thít khóc và cũng cảm thấy dễ chịu hẳn đi.

- Đừng buồn, cô ạ. Trước tôi không muốn nói chuyện ấy với cô, nhưng trong nhà ta không một ai ưa cô ấy, trừ lúc cô ấy mới đến thì không kể. Chính mắt tôi trông thấy cô ấy đọc trộm những thư riêng của bà. Pinner nói rằng lúc nào cũng thấy cô ấy lúi húi bên cạnh những hộp đựng đồ vặt và những ngăn kéo của cô; cô ấy lục ngăn kéo của tất cả mọi người; chị Pinner cam đoan rằng cô ấy đã lấy cuộn ru băng trắng của cô bỏ vào hộp riêng của mình.

Amelia nói:

- Tôi cho cô ấy đấy, tôi cho đấy.

Nhưng bà Blenkinsop vẫn chưa hết nghi ngờ cô Sharp. Bà ta bảo chị hầu gái:

- Chị Pinner ạ, tôi không ưa mấy cô giáo dạy trẻ lắm đâu. Họ hay lên mặt, làm điệu làm bộ như các bà hoàng ấy, mà tiền lương của họ thì nào có hơn gì tôi và chị.

Bây giờ trong nhà ai ai cũng thấy rõ thế nào Rebecca cũng phải ra đi, trừ cô Amelia tội nghiệp. Từ trên đến dưới (vẫn trừ một người), ai cũng đồng ý rằng cô ta càng đi sớm càng hay. Amelia vội lục lọi mọi ngăn kéo, ngăn tủ, túi và cái hộp đồ vặt... soát lại hết các bộ áo, khăn san, giẻ vụn, cuộn chỉ, dây đăng-ten, bí tất lụa v.v... lựa thứ này, chọn thứ khác, xếp thành một đống nhỏ để tặng Rebecca. Ông Sedley, trước đã hứa cho con gái một số ghi-nê bằng số tuổi của cô.. . Amelia bèn đến xin cha; ông nhà buôn người Anh rộng lượng ấy, cho Rebecca số tiền đó vì cô chắc bạn mình đang túng, trong khi mình chẳng thiếu một thứ gì.

Cô lại bảo George Osborne góp thêm vào một món quà; anh chàng trẻ tuổi vốn là tay hào phóng như bất cứ chàng trẻ tuổi nào trong quân đội, rất sẵn sàng đi ngay đến phố Bond, mua một chiếc mũ và một tấm áo da ngắn đẹp nhất mà có tiền là có thể mua được. Amelia rất hãnh diện khi ôm chiếc hộp đựng mũ áo đến tặng Rebecca; cô nói:

- Chị Rebecca thân mến ơi, đây là quà của anh George tặng chị đây. Anh ấy chọn hàng khéo quá! Chẳng ai chọn khéo được như anh ấy.

Rebecca đáp:

- Chẳng có ai thật. Em mang ơn anh ấy quá. Nhưng cô thầm nghĩ: “Đúng là George Osborne đã ngăn trở cuộc tình duyên của mình”. Mà chính cô ta yêu George Osborne cũng vì thế.

Rebecca sửa soạn ra đi với thái độ rất bình tĩnh; cô nhận tất cả mọi vật Amelia tặng mình, sau khi cũng đã ngần ngại và miễn cưỡng một cách vừa đủ. Cô nói rằng mình biết ơn bà Sedley suốt đời, song cũng không đến làm phiền bà cụ nhiều quá, vì bà cụ ở vào hoàn cảnh khó xử, rõ ràng có ý tránh mặt không muốn gặp cô. Lúc ông Sedley đưa biếu túi tiền, Rebecca hôn tay ông cụ, xin phép được coi cụ là người bạn, người cha đỡ đầu thân thiết nhất của cô trong tương lai. Cô cư xử coi cảm động quá, làm cho ông cụ suýt nữa thì viết tặng thêm cô một tờ ngân phiếu hai chục đồng. Nhưng ông lão lại kịp kìm giữ tình cảm của mình lại. Xe ngựa đã chờ sẵn để đưa ông đi dùng bữa; ông hối hả đi còn dặn Rebecca rằng: “Con yêu mến ơi, cầu Chúa ban phúc lành cho con; khi nào có việc ra tỉnh, con nhớ lại chơi nhé. Giong xe đến tòa Quốc hội, James!”.

Cuối cùng là cuộc chia tay giữa Rebecca và Amelia; tôi muốn che một tấm màn lên trên cảnh tượng này. Nhưng sau cái màn kịch mà một người thì vô tình, còn một người thì đóng trò tuyệt khéo...sau khi những sự vuốt ve, những dòng nước mắt thảm thiết, cả ống thuốc giải cảm và những tình cảm thiêng liêng nhất đã được đem ra sử dụng...

Amelia chia tay cùng Rebecca; cô này luôn miệng thề sẽ yêu quý bạn mình mãi mãi…mãi mãi và mãi mãi.

Chương 7
CRAWLEY Ở TRẠI CRAWLEY BÀ CHÚA

Trong số những cái tên đáng kính nhất bắt đầu bằng chữ C có ghi trong cuốn Niên giám của Triều đình vào năm 18…có tên Tôn ông Pitt Crawley, nam tước ở phố Great Gaunt, chủ trại Crawley bà chúa ở Hants. Cái tên đáng kính này còn được ghi suốt trong một thời gian hàng mấy chục năm liền trong cuốn danh bạ của Quốc hội, cạnh tên nhiều vị tai mắt khác thay phiên nhau ngồi đại diện cho nhân dân các đơn vị bầu cử.

Về lai lịch đơn vị bầu cử Crawley Bà chúa, thiên hạ đồn rằng Nữ hoàng Elizabeth có dừng lại dùng bữa sáng tại trại Crawley, nhân một buổi ngư chơi qua tỉnh. Ngài Crawley thời đó, một nhà quý tộc bảnh trai, có bộ râu rất đẹp và cặp giò khá xinh, có dâng Bà chúa một thứ rượu bia Hampshire rất ngon. Nữ hoàng rất hài lòng, lập tức nâng trại Crawley lên hàng một đơn vị bầu cử, được quyền có hai đại biểu thay mặt trong Quốc hội. Thế là từ buổi thăm viếng lịch sử đó, trại này mang cái tên Crawley Bà Chúa cho mãi đến ngày nay. Và thời gian trôi qua, đưa đến bao đổi thay cho những quốc gia, những thành thị, những tỉnh lỵ cho nên Crawley Bà chúa không còn đông đúc dân cư như hồi sinh thời bà chúa Bess () nữa…đơn vị bầu cử này đã lâm vào tình trạng người ta thường mệnh danh là điêu tàn…tuy vậy, tôn ông Pitt Crawley cũng vẫn nói một cách rất đúng lý, theo lối nói lịch sự của ông ta rằng: “Điêu tàn? Mẹ kiếp…nhờ nó, hàng năm tôi còn kiếm được một nghìn năm trăm đồng đấy ạ”.

Tôn ông Pitt Crawley (đặt theo tên vị đại biểu Quốc hội lừng danh) là con trai của nam tước Walpole Crawley. Hồi đang tòng sự tại văn phòng cơ mật dưới triều hoàng đế George đệ nhị, ngài bị truy tố về tội thụt két, cũng như một số lớn các vị tai mắt lương thiện thời ấy. Cũng không cần phải nói thêm rằng Walpole Crawley là con trai John Churchill Crawley đặt theo tên vị chỉ huy quân đội đanh tiếng lẫy lừng dưới triều nữ hoàng Anh. Trên cành cây gia phả treo ở trong phòng danh dự tại trại Crawley Bà chúa còn thấy tên Charles Stuart, sau lại có tên là Crawley Lẻo-khoẻo, con trai của cụ Crawley, sống vào thời Hoàng đế James đệ nhất; và cuối cùng là tôn ông Crawley thời nữ hoàng Elizabeth được nêu đứng hàng đầu, mặc đủ giáp trụ lại có cả bộ râu ba chòm. Như lệ thường, người ta vẽ một cái cây từ trong bộ áo chèn nhô ra; trên những cành lớn có ghi những tên quan trọng vừa kể trên. Sát kề tên tôn ông Pitt Crawley nam tước (tức là nhân vật trong tập ký ức này), có tên người em là Bute Crawley (hồi đức cha mới sinh, thì ngài nghị sĩ quốc hội đã bị thất sủng rồi) đức cha cai quản giáo đường Crawley Snailby, cùng nhiều tên đàn ông đàn bà khác trong họ Crawley. Mới đầu tôn ông Pitt lấy vợ là cô Grizzel, con gái thứ sáu của nhà quý tộc Mungo Binkie, em họ ngài Dundas. Người vợ này đẻ được hai đứa con trai, là Pitt (đặt tên theo ý đức cha con trời hơn là theo ý ông bố) và Rawdon Crawley, theo tên người bạn của hoàng tử xứ Wales mà hoàng đế George đệ tứ hoàn toàn quên bẵng mất. Vợ chết được một thời gian khá lâu, tôn ông Pitt mới dẫn cô Rosa đến bàn thờ Chúa làm lễ cưới. Cô là con gái ông Dawson ở Mudbury; cô ăn ở với chồng, sinh được hai người con gái, tức là hai cô học trò cô Rebecca lĩnh trách nhiệm dạy bảo bây giờ; ta coi đó đủ biết cô thiếu nữ này đang bước vào một gia đình danh giá, và sắp sửa tiếp xúc với một xã hội còn có tính chất thượng lưu hơn nhiều, so với cái gia đình tầm thường ở Công viên Russell mà cô vừa từ giã. Rebecca tiếp được giấy mời đến nhận việc, viết trên một mảnh phong bì cũ, gồm mấy dòng chữ như sau:

Tôn ông Pitt Crawley yêu cầu cô Sharp phải đem hành lý có mặt tại đây hôm thứ ba, hôm đó tôi về trại Crawley Bà chúa sớm.

Phố Great Gaunt

Chưa bao giờ Rebecca được gặp một vị nam tước. Sau lúc từ biệt Amelia, khi đã đếm cẩn thận số ghi-nê ông Sedley bỏ trong cái túi biếu mình, cô lấy một cái khăn tay chấm khô nước mắt (cô chờ khi chiếc xe ngựa đã đi khuất ở góc phố mới thôi lau nước mắt). Theo sự hiểu biết của mình, Rebecca bắt đầu phác ra trong trí tưởng tượng hình ảnh một vị nam tước. Cô nghĩ thầm: “Không biết ông ta có đeo một ngôi sao không nhỉ” Hay là chỉ có các bá tước mới được đeo sao? Nhưng chắc ông ta phải mặc một bộ áo chầu thật đẹp, có tua hoa, hơi rắc phấn trên tóc, giống như ông Wroughton ở công viên Covent. Có thể ông ta rất kiêu kỳ; mình sẽ bị đối xử một cách miệt thị. Thôi thì cũng đành nhẫn nhục mà chịu đựng số phận hẩm hiu vậy...ít nhất, mình cũng sẽ được sống cùng những người danh giá, không phải là cái bọn thị dân tầm thường. Cô bỗng nhớ lại những người bạn của mình ở công viên Rusell với ý nghĩ triết lý chua cay kia, giống như con chó sói nghĩ về giàn nho trong một câu chuyện ngụ ngôn cũ vậy.

Chiếc xe đã đi qua công viên Gaunt, và bắt đầu đi vào phố Great Gaunt; cuối cùng xe dừng lại trước một căn nhà đồ sộ âm u, đứng giữa hai căn nhà cũng đồ sộ và âm u; trước mỗi căn nhà này đều có treo một bộ huy hiệu quý tộc mé trên cửa sổ phòng khách.

Nhà cửa ở phố Great Gaunt bao giờ cũng âm u như vậy.

Cửa sổ tầng dưới tòa nhà của tôn ông Pitt đều đóng kín mít; chỉ có mé cửa phòng ăn là hơi hé mở; rèm che được bọc bằng giấy báo cũ rất cẩn thận. Thằng hầu John một mình đánh xe cho Rebecca, không thèm bước xuống giật chuông.

Hắn nhờ một thằng bé bán sữa đi qua làm hộ mình công việc ấy. Tiếng chuông réo lên, có một cái đầu từ trong khe cửa sổ phòng ăn thò ra. Một người ra mở cửa; người này mặc quần áo màu nâu nhạt, khoác một tấm áo ngoài cũ bẩn, một chiếc khăn cũ rích, bẩn thỉu quấn xung quanh cái cổ lông lá của hắn; trán hói bóng; mặt đỏ; đôi mắt sáng nhấp nháy; cái mồm lúc nào cũng hơi nhe răng ra như đang cười.

John cứ ngồi yên trên xe, hỏi sõng:

- Đây là nhà tôn ông Pitt Crawley, hả?

Người đứng ở cửa sổ gật đầu đáp:

- Phải.

John bảo:

- Thế thì bỏ mấy cái va-ly xuống.

Người gác cửa đáp:

- Anh bỏ xuống lấy chứ.

- Anh không thấy tôi bận giữ ngựa à? Này, anh bạn, lại đây giúp một tay, rồi cô đây sẽ cho tiền uống bia.

John vừa nói vừa cười như ngựa hý; bây giờ quan hệ giữa Rebecca và gia đình Sedley đã hết, hắn không coi trọng cô ta nữa, và cũng vì lúc ra đi, cô ta không cho bọn đầy tớ đồng xu nào.

Người hói trán bỏ hai tay đút trong túi quần ra, bước xuống đường, xốc cái va-ly của cô Sharp lên vai, vác vào trong nhà. Cô Sharp nói:

- Cầm hộ cái làn và cái khăn san, rồi mở cửa xe ra.

Cô ta xuống xe, có vẻ tức giận, bảo thằng hầu:

- Tôi sẽ viết thư kể cho cụ Sedley biết anh hỗn vời tôi thế nao.

Tên hầu đáp:

- Ấy chớ. Tôi mong rằng cô không bỏ quên cái gì chứ? Mấy cái áo của cô Amelia, cô đã đem theo đủ chưa?...Chị hầu của cụ bà suýt nữa thì được hưởng. Chúc cô mặc vừa xinh. Này Jim, đóng cửa xe lại, bác đừng có tưởng bở - vừa nói John vừa chìa ngón tay cái về phía cô Sharp - cô ta đá lắm, đá lắm. Đoạn thằng hầu của ông Sedley đánh xe đi. Sự thực hắn là nhân tình của chị hầu gái vừa nói trên; thấy người yêu bị nẫng tay trên mất món đồ, hắn lấy làm uất lắm.

Người đi ghệt bảo Rebecca vào trong phòng ăn; cô thấy căn phòng này trang hoàng không được vui mắt như những căn phòng ăn của các gia đình sang trọng ở thôn quê. Hình như những căn phòng này cũng biết trung thành với chủ, thấy chủ vắng nhà cũng biết ủ dột, âu sầu. Tấm thảm Thổ-nhĩ-kỳ được cuốn gọn, nằm rầu rĩ bên cạnh chiếc tủ chè; những bức tranh trên tường cũng giấu mặt sau những tờ giấy cũ màu nâu bọc ngoài; ngọn đèn treo trên trần cũng được bưng kín trong một cái túi vải Hà-lan màu nâu, trông đến sợ. Riềm cửa sổ thì ẩn mình dưới đủ mọi thứ giấy bọc tồi tàn. Chiếc tượng bán thân bằng đá cẩm thạch tạc hình ngài Walpole Crawley từ trong một góc tối đang chăm chú ngó xuống sàn nhà trơ trọi và đôi que cời than lau dầu cẩn thận; trong chiếc khay đựng danh thiếp nằm trên mặt lò sưởi cũng chẳng có gì. Chiếc tủ chè đứng trốn đằng sau cuộn thảm; dọc theo mặt tường, một hàng ghế nằm úp vào nhau chổng vó lên trần nhà. Đối diện với pho tượng, trong một xó tối, có một chiếc tủ đựng thìa đĩa trông cổ lỗ, tồi tàn, khoá chặt, kê trên một cái bàn nước.

Tuy nhiên, cạnh chiếc lò sưởi cũng có một cái bàn tròn, hai chiếc ghế làm bếp; một bộ que cời than cũ kỹ, và trên ngọn lửa cháy lom đom có đặt một cái chảo. Trên bàn bày một miếng bánh phết bơ, đặt cạnh một cây đèn bằng sắt tây; một chai rượu bia đen nhỏ nằm trong cái thùng đựng rượu bên cạnh.

- Cô ăn cơm rồi chứ? Đối với cô món ăn thế này chắc nguội quá. Cô có muốn uống một chút bia không?

Cô Sharp đường hoàng hỏi:

- Tôn ông Pitt Crawley đâu?

- Hi hi! Chính tôi là tôn ông Pitt Crawley đây. Nhớ rằng cô còn nợ tôi một cốc rượu, công vác cái va-ly hộ cô đấy. Hi hi! Hỏi Tinker xem có đúng không nào. Xin giới thiệu: Bà Tinker; đây: cô Sharp. Cô đây là cô giáo dạy trẻ; bà đây là người làm công nhật.

- Hô hô!

Người đàn bà được giới thiệu là bà Tinker lúc này mới bước ra, tay cầm một chiếc tẩu và một tập giấy thuốc lá: cụ Pitt sai bà ta đi lấy những thứ ấy một phút trước khi Sharp bước vào. Bà này đưa cho cụ Pitt, cụ đã ngồi xuống chiếc ghế cạnh lò sưởi, nói:

- Còn tiền lẻ đâu? Tôi đưa cho mụ ba xu rưỡi cơ mà? Còn tiền lẻ đâu,mụ Tinker?

Mụ Tinker ném đồng trinh xuống bàn:

- Đây! Chỉ có các vị nam tước mới chi ly từng trinh như thế thôi chứ.

Ông đại biểu của dân đáp:

- Mỗi ngày một đồng kẽm, một năm thành bảy si-linh. Bảy si-linh một năm tức là bằng tiền lời của bảy ghi-nê. Này, mụ Tinker, hãy để dành cẩn thận những đồng kẽm của mụ, thế nào cũng sinh sôi nảy nở thành vô khối ghi-nê cho coi.

Mụ Tikơ càu nhàu nói:

- Này cô ơi, cô có thể yên trí rằng đây chính thực là tôn ông Pitt Crawley đấy, bởi vì cụ ấy so kè từng đồng kẽm một. Rồi cô sẽ hiểu rõ cụ ấy ngay thôi, không lâu dài.

Lão già quý tộc nói gần như với một vẻ lễ độ:

- Cô Sharp ơi, mà đừng có ghét tôi vì thế nhé. Tôi cần phải công bằng, trước khi có thể hào phóng.

Mụ Tinker vẫn làu nhàu: .

- Suốt đời cụ ấy có bao giờ chịu rời đồng kẽm nào ra đâu.

- Không bao giờ, không bao giờ; thế thì trái với nguyên tắc xử thế của tôi mất. Tinker, nếu mụ cũng muốn thì đi lấy thêm một cái ghế trong bếp ra đây, ta đi ăn thôi.

Đoạn ngài nam tước thò một cái nĩa vào trong chảo, xiên một miếng dạ dày bò và một củ hành lôi ra; lão cắt làm hai phần thật đều; lão với mụ Tinker, mỗi người một phần.

- Cô Sharp có hiểu không, khi nào tôi đi vắng, thì mụ Tinker lấy tiền công; khi nào tôi về tỉnh thì mụ ăn với tôi. Hô, hô, may quá; cô Sharp lại không đói; phải không Tinker?

Đoạn cả hai cúi xuống dùng nốt bữa ăn thanh đạm. Ăn xong, tôn ông Pitt Crawley bắt đầu hút tẩu thuốc; khi trời đã tối mịt, lão mới thắp cây nến cắm trên cái chân đèn bằng sắt tây lên, rồi móc trong cái túi kếch xù ra một nắm giấy má to tướng bắt đầu đọc, đoạn xếp thứ tự lại.

- Cô em ạ. Tôi về đây có việc pháp luật. Vì vậy ngày mai ngẫu nhiên mới may mắn được có một người bạn đồng hành xinh đẹp thế này chứ.

- Cụ ấy lúc nào mà chẳng bận việc pháp luật.

Mụ Tikơn vừa nói vừa nhấc cái thùng đựng chai rượu bia lên.

Lão nam tước bảo:

- Uống đi, cứ uống đi. Phải, cô em ạ, mụ Tinker nói đúng lắm. Tôi đã bại mà cũng đã thắng trong nhiều vụ tranh chấp về pháp luật, nhiều vô kể. Rồi cô xem vụ Crawley nam tước kiện Snaffle kết cục ra sao. Tôi sẽ cho hắn chết mất ngáp, nếu không tôi không phải là thằng Pitt Crawley.

Lại còn vụ Podder cùng một người khác kiện Crawley nam tước, rồi vụ Kiểm soát viện ở Snaily cũng kiện Crawley nam tước. Chúng không thể chứng minh đấy là đất công. Tôi thách bọn chúng đấy; đất này là của tôi. Nó không còn thuộc quyền sở hữu của thị trấn này y như nó không phải là của cô hay của mụ Tinker vậy. Dầu có tốn đến hàng nghìn ghi-nê, tôi cũng phải đánh bại chúng kỳ được. Coi giấy má đây này, cô em; cô muốn xem không? Cứ xem đi. Cô viết chữ có đẹp không? Bao giờ về Crawley Bà chúa, cô sẽ giúp tôi được nhiều việc đấy; cứ yên trí, cô Sharp ạ. Bây giờ mụ góa ấy chết rồi, tôi cần một người giúp việc.

Tinker chêm vào:

- Mụ ấy tồi chẳng kém gì ông chủ. Mụ bóp hầu bóp cổ bọn cung cấp hàng. Trong có bốn năm, thay tới bốn mươi tám lần người làm.

Lão nam tước chỉ đáp:

- Bà ấy rất tần tiện, tần tiện lắm. Nhưng bà ấy đối với tôi cũng quý báu lắm, đỡ được cho tôi một người quản gia nữa.

Và cô gái mới đến rất thú vị thấy câu chuyện cứ cái đà thân mật như vậy mà tiếp tục một hồi lâu. Không biết tính tình cụ Pitt Crawley tốt hay xấu. Nhưng có điều lão tỏ ra không hề muốn giấu giếm điều gì. Lão luôn luôn nói chuyện về mình, khi thì dùng cả cái giọng thô bỉ tục tằn nhất của vùng Hampshire, có lúc lại dùng lối ăn nói lịch sự của người quen xã giao. Lão dặn cô Sharp năm giờ sáng hôm sau phải chuẩn bị sẵn sàng, rồi chúc cô ta ngon giấc.

Lão bảo:

- Đêm nay, cô ngủ với mụ Tinker. Giường rộng lắm, hai người nằm cũng vừa. Crawley phu nhân đã chết trên giường ấy đấy Chúc cô yên giấc.

Nói xong, lão Pitt đi ngủ. Mụ Tinker trịnh trọng cầm cây nến, dẫn Rebecca trèo lên những bậc thang gác lạnh lẽo, xây bằng đá, đi qua những khung cửa lớn của một căn phòng khách lạnh lẽo; những tay nắm trên những cánh cửa trong gian phòng này cũng đều bọc giấy kín; cuối cùng hai người đi đến phòng ngủ, nơi Crawley phu nhân trước kia đã ngủ giấc ngủ cuối cùng của đời bà. Các bạn có thể tưởng tượng được căn phòng trông tối tăm và tang tóc thế nào, không những vì Crawley phu nhân đã chết ở đó mà còn vì hồn ma của bà ta hình như vẫn còn quanh quất đâu đây. Thế mà Rebecca cứ chạy đây chạy đó trong phòng, tự nhiên thoải mái như không; cô ta ngó vào trong những chiếc tủ áo đồ sộ, những chiếc tủ chè, rồi lại kéo thử những ngăn kéo đã khóa chặt. Trong khi mụ làm công cầu kinh, cô ta lại quay ra ngắm nghía những bức tranh rầu rĩ và những đồ trang điểm.

Mụ gái già nói:

- Tôi chẳng thể nào nằm ngủ trên cái giường kia nếu chưa cầu kinh cho linh hồn thật nhẹ nhàng.

Rebecca đáp:

Giường rộng lắm, đủ chỗ cho cả bà và tôi cùng nửa tá ma quỷ nữa đấy. Bà Tinker thân mến ơi, bà kể cho tôi nghe về Crawley phu nhân, về tôn ông Crawley, và tất cả mọi người trong gia đình đi.

Nhưng cô ả tò mò cũng không nịnh khéo được mụ Tinker.

Mụ bảo cô ta rằng giường là nơi để ngủ, không phải là chỗ nói chuyện, rồi nằm xuống ngáy như kéo gỗ, chỉ có những người vô tội mới ngáy to được đến thế. Rebecca thì cứ trằn trọc mãi, không sao ngủ được; cô nghĩ đến ngày hôm sau, cô nghĩ đến cuộc đời mới sắp bước chân vào, và những sự may mắn có thể gặp được trong cuộc đời ấy. Trên cây đèn, ngọn nến cháy vật vờ. Bóng đen của chiếc lò sưởi phủ kín một nửa chiếc khung thêu cũ kỹ mủn nát mà Crawley phu nhân trước kia vẫn dùng, chắc hẳn thế, và che lấp cả bức tranh gia đình nhỏ vẽ mấy đứa trẻ, một đứa mặc quần áo học sinh, đứa kia mặc một tấm áo chèn đỏ theo kiểu nhà binh. Lúc sắp ngủ, Rebecca quyết định đến đêm sẽ nằm mơ thấy thằng bé con ấy.

Bốn giờ sáng hôm sau, một buổi sáng mùa hạ rực hồng khiến cho cái bộ mặt vốn rầu rĩ của phố Great Gaunt cũng phải trở thành tươi tắn, mụ Tinker trung thành đánh thức người bạn cùng giường dậy, bảo cô ta sửa soạn đi là vừa.

Mụ tháo then, mở khóa cửa lớn ngoài căn phòng chính (tiếng lách cách, xủng xoảng làm cho những tiếng động còn ngái ngủ của dẫy phố phải choàng giật mình); đoạn mụ bước ra phố, đi về phía Đại lộ Oxford gọi một cái xe ngựa. Chẳng cần phải chú ý lắm đến số xe cũng không cần biết rằng bác xà-ích từ sớm tinh mơ đã giong xe đi loanh quanh phố Swallow, hy vọng một cậu công tử nào từ tiệm rượu lảo đảo về nhà, hẳn phải nhờ đến tay bác và đang lúc say sưa, chắc thế nào cũng trả công hậu hĩnh.

Và cũng chẳng cần nói thêm rằng, nếu thật bác xà ích đang nuôi hy vọng nói trên, thì bác đã thất vọng một cách thảm hại; vì ngài nam tước đáng kính của chúng ta thuê bác giong xe cho mình về khu City đã nhất định không chịu trả đắt hơn một xu.

Bác Jehu tha hồ van xin rồi gắt gỏng, vô ích; bác ta bèn quẳng mấy cái hộp của cô Sharp xuống cạnh cổng, tuyên bố rằng bác sẽ kiện tại tòa để đòi thêm tiền. Một bác xà ích khác xen vào:

- Thôi, tốt hơn là cứ đi đi. Cụ Pitt Crawley đấy.

Lão nam tước kêu lên tán thành:

- Đúng thế, bác Joe ạ. Tôi muốn xem đứa nào làm gì tôi tốt nào.

- Tôi cũng thế.

Joe nhăn nhó đáp, đoạn mang hành lý của lão nam tước chất lên nóc xe.

Lão nghị sĩ quốc hội bảo người xà ích:

- Dành cho tôi chỗ ngồi đằng trước đấy, nhà lãnh đạo ạ.

- Bẩm cụ, vâng.

Bác xà ích vừa đáp vừa giơ tay lên vành mũ, tuy trong thâm tâm tưởng phát điên lên được (bác đã nhận lời dành chỗ ngồi ấy cho một cậu công tử trẻ tuổi sinh viên trường đại học Cambridge, đang hy vọng thế nào cũng được một đồng cơrao); bác xếp cho cô Sharp một chỗ mé sau trong chiếc xe có thể nói sẽ đưa cô ta đi vào một cuộc đời mới rộng lớn.

Anh chàng trẻ tuổi ở Cambridge vắt năm cái áo của mình lên thành xe phía trước; anh ta cáu quá, nhưng thấy Rebecca chui ra khỏi xe, trèo lên ngồi cạnh thì cơn bực mình của anh ta biến đi ngay…Anh ta lấy một tấm áo choàng kiểu Benjamin của mình phủ lên vai cô thiếu nữ, và từ lúc đó anh trở nên rất vui tính…một ông sang trọng bị bệnh suyễn, và một bà vẻ mặt khó đăm đăm cứ lấy danh dự thiêng liêng của bà ra mà thề mãi rằng xưa nay chưa hề đi đâu bằng xe thuê bao giờ (bao giờ đi xe ngựa thuê mà chả gặp một bà như thế, than ôi, bây giờ xe ngựa đâu cả rồi?). Lại có một bà goá béo ụt ịt tay cầm một chai rượu mạnh cùng hai người kia trèo lên xe ngồi vào ghế…Anh coi cửa đòi tiền; ông sang trọng cho sáu xu, bà goá cho năm đồng trinh nhờn nhờn như dính mỡ...cuối cùng, chiếc xe ngựa chuyển bánh...lúc thì chạy dọc theo những con đường tối tăm của khu Aldersgate, lúc thì đi ngang qua nhà thờ St. Paul có cái vòm mái màu xanh, rồi nhanh nhẹn chui qua cổng Fleet Market; chiếc cổng này cùng khu Hội chợ bây giờ đã lui vào bóng tối của dĩ vãng rồi. Một lúc sau xe chạy qua hiệu “Con gấu trắng” ở Piccadilly; sương sớm từ những khu vườn chợ ở Knightsbridge tỏa lên mờ mịt, rồi lại đi qua Turnhamgreen, Brentwood, Bagshot...ta chẳng cần nhắc lại làm gì. Nhưng ngày xưa, kẻ viết những dòng này cũng đã có dịp qua cùng một con đường, trong cùng một thời tiết sáng sủa như trong chuyện, không thể nào nghĩ lại mà không cảm thấy đôi chút ngậm ngùi nhớ tiếc một cách êm đềm. Con đường và những chuyện vặt xảy ra hàng ngày của nó còn đâu nữa. Còn đâu nữa những Chelsea hay Greenwich và những bác xà ích thực thà mũi đỏ như cà chua? Không biết những anh chàng tốt bụng ấy bây giờ đâu cả rồi? Anh chàng Wenller còn sống hay đã chết rồi? Và cả những quán rượu, cả những người hầu bàn dọn ăn trong đó, những khoanh thịt bò nguội cả cái anh bồi ngựa lùn tè có cái mũi tái xanh, xách cái thùng nước kêu lanh canh, bây giờ anh ta ở đâu, hoặc con cháu anh ta ở đâu? Đối với những thiên tài lớn hiện nay đang còn quấn tã- những người sẽ viết truyện cho con cháu yêu quý của các vị độc giả coi thì những nhân vật và sự việc trên đây sẽ có tính chất truyền kỳ chẳng khác gì chuyện Nineveh, hoặc Sư tử tâm () hoặc Jack Sheppard. Đối với họ, chuyến xe ngựa sẽ thành tiểu thuyết…chuyện một bày bốn con ngựa lồng cũng ly kỳ như chuyện Bucephalus hay chuyện Bess Hắc-y.

Gớm, lông ngựa bóng nhẫy; mấy anh bồi ngựa cất áo ngắn đi; thế là ngựa đi, thế ngựa phi nước đại; chao ôi, đuôi chúng cứ vẫy tít lên, lúc đến trạm nghỉ; mấy con ngựa yên lặng đi vào trong sân quán rượu, lưng bốc hơi. Than ôi? Còn bao giờ chúng ta được nghe tiếng xà ích rúc còi lúc nửa đêm, và được trông thấy cánh cổng ghép bằng gỗ vát nhọn mở tung ra nữa? Thôi, chúng ta cũng chẳng nên nghĩ ngợi lan man nữa, hãy đến Crawley Bà chúa xem cô Rebecca làm ăn ra sao?

Chương 8
RIÊNG VÀ KÍN

Cô Rebecca Sharp gửi cô Amelia Sedley, khu Quảng trường Russell, Luân-đôn (miễn bưu phí - Pitt Crawley).

Chị Amelia dịu dàng thân yêu nhất đời của em.

Em cầm bút biên thư cho chị thân yêu mà trong lòng lẫn lộn vừa mừng vừa tủi! Ôi! Ngày hôm nay khác ngày hôm qua biết bao nhiêu. Bây giờ, em cô đơn quá, chẳng có ai bầu bạn; mới hôm qua, em còn như được sống trong khung cảnh gia đình, bên cạnh một người chị dịu dàng mà em suốt đời quý mến.

Em không muốn kể lại chị nghe suốt cái đêm ác nghiệt em phải xa lìa chi, em đã buồn khổ, khóc lóc thế nào. Từ ngày thứ ba, chị đã bước vào một cuộc sống đầy hoan lạc và hạnh phúc, bên cạnh bà mẹ hiền, và người quân nhân trẻ tuổi chung tình của chị. Suốt đêm em nằm nghĩ đến chị, tưởng tượng cảnh chị đang khiêu vũ ở Perkins, và chắc chắn chị là người thiếu nữ đẹp nhất trong buổi dạ hội.

Thằng hầu đánh cái xe ngựa cũ kỹ đưa em đến căn nhà của cụ Pitt Crawley ở tỉnh; thằng Joe đối xử với em thô lỗ, hỗn xước quá chị ạ. (than ôi, sỉ nhục kẻ nghèo khổ và không may này thì dễ dàng quá !); nó giao em cho cụ Pitt. Đêm hôm ấy, em ngủ trong một cái giường cổ lỗ, tối tăm cùng với mụ già làm công cũng có vẻ âm thầm giữ việc dọn đẹp nhà cửa. Suốt đêm em không chợp mắt được lấy một phút chị ạ.

Cụ Pít không giống những vị nam tước mà hai chị em ngốc nghếch chúng mình tưởng tượng hồi hay đọc truyện “Cecilia” ở Chiswick đâu. Không có người nào khác hẳn bá tước Orville như lão ta. Chị cứ tưởng tượng một người có tuổi lùn, béo phị, thô lỗ, và bẩn kinh người, quần áo cũ rích, đi đôi ghệt tồi tàn, ngậm một chiếc tẩu khủng khiếp, và lại tự mình nấu lấy bữa ăn gớm ghiếc của mình trong cái chảo! Lão có cái giọng nói nhà quê lắm, và lại hay văng tục với mụ làm công, văng tục với cả thằng xà-ích đánh xe ngựa thuê chở chúng em đến cái quán chỗ xe đỗ, phần lớn ngày hôm nay, tuy đi xe mà em phải ngồi ngoài trời.

Mới sáng tinh mơ, mụ làm công đã đánh thức em dậy; đến cái quán, em được vào ngồi trong xe. Nhưng khi xe chạy đến một chỗ gọi là Leakington, thì trời bắt đầu mưa to, chị có thể tin được không?...Em bị bắt buộc ra ngồi ngoài trời, bởi vì cụ Pitt cũng là chủ xe, và lúc ấy có một hành khách đi Mudbury muốn vào ngồi trong xe; thế là em phải ngồi ngoài trời mưa, may quá, một chàng trẻ tuổi học ở Cambridge đại học đường có đem theo mấy tấm áo choàng, anh ta thương tình lấy một cái che cho em.

Chàng trẻ tuổi sang trọng này và người hầu hình như biết rõ vụ Pitt thì phải; họ thi nhau mà giễu cợt lão. Họ đồng ý với nhau đặt tên cho lão là “lão vắt cổ chày ra nước” nghĩa là hà tiện, bủn xỉn quá lắm. Họ nói chuyện rằng không bao giờ lão cho ai tiền (em vốn ghét cái tính bần tiện ấy); chàng trẻ tuổi sang trọng ấy còn bảo em rằng sở dĩ trong khoảng hai chặng đường cuối cùng xe đi rất chậm, là vì có cụ Pitt ngồi cạnh bác xà ích, mà đôi ngựa kéo xe trong đoạn đường này lại là của cụ. Anh sinh viên trẻ tuổi nói: lúc nào tôi cầm cương anh có muốn tôi quất vài roi cho nó chóng đến Squashmore không? Bác xà ích đáp: “cậu Jack ạ, cậu cứ quất cẩn thận cho tôi”. Em hiểu ý nghĩa của câu nói; và biết cậu Jack định cầm cương ngựa để trả thù lão, em cũng cười.

Thế cũng có một cái xe đóng hai cặp ngựa rất đẹp chờ chúng em ở Mudbury, cách trại Crawley Bà chúa bốn dặm. Chúng em bắt đầu đi vào trong phạm vi khu vườn riêng của lão nam tước. Một con đường rộng thênh thang rất đẹp cách tòa nhà chính đến một dặm. Người đàn bà ở căn nhà cạnh cổng lớn vội vái chào chúng em lia lịa (mé trên những cột trụ ở cổng có tạc hình một con rắn và một con chim bồ câu, đỡ chiếc huy hiệu riêng của gia đình Crawley) đoạn mở tung hai cánh cổng sắt cũ có chạm trổ ra, trông giống như những cánh cổng ở cái chỗ Chiswick khốn kiếp. Cụ Pitt bảo em: “Con đường lớn này dài một dặm. Cây trồng ở đây trị giá có tới sáu ngàn đồng bạc gỗ. Cũng là một món tiền đấy chứ?”. Lão nói “đường lớn” là “đàng nớn” và “món tiền” là “món tờn”, buồn cười quá. Lão cho ông Hodson, một người tá điền của lão ở Mudbury, lên ngồi trên xe; hai người nói với nhau toàn những chuyện “quyền trữ”, chuyện bán đấu giá, chuyện tháo nước úng, chuyện khai thác, và bao nhiêu là chuyện trong nghề làm ruộng, làm trại...em chịu không hiểu nổi. Một người là Xam Mang săn trộm bị bắt, một người là Pơtơbailê đã bị đưa vào nhà tê bần rồi. Cụ Pitt nói: “Cho nó đáng kiếp, nó và gia quyến đã lừa tôi trong cái trại này có tới một trăm năm mươi năm nay”. Hình như có người tá điền cũ nào đó không trả được nợ thì phải.

Giá cụ Pitt nói “nó và gia đình nó” thì đúng hơn, nhưng các vị nam tước giàu có cần gì để ý đến văn phạm như mấy cô giáo dạy tư nghèo đói!

Xe đang đi, em chợt nhìn thấy một cái nóc nhà thờ rất đẹp vươn lên sau mấy cây du trong vườn trại. Phía trước hàng cây này, giữa một bãi cỏ xanh xung quanh rải rác mấy căn nhà nhỏ, có một nếp nhà cổ quét vôi đỏ, trên nóc nhà ló ra nhiều ông khói lò sưởi lớn bị che kín dưới giàn lá trường xuân, ánh nắng chiếu vào cửa sổ sáng lấp lánh.

Em hỏi: “Thưa cụ, kia là nhà thờ riêng của nhà ta?”

- Phải, kệ mẹ nó! (cụ Pitt đáp vậy; chị ạ, lão lại càng dùng những tiếng thô bỉ hơn trước): Này Hodson, Buty ra sao? Buty là Bute, tên em tôi, cô ạ...lão mục sư em tôi ấy mà. Tôi thường gọi hắn là Buty, là đồ con chó, ha! ha! .

Hodson cũng cười theo, rồi lấy vẻ mặt trầm ngâm gật gù cái đầu nói: “Cháu sợ rằng ông ấy dạo này khá hơn, cụ Pitt ạ. Hôm qua, ông ấy cưỡi con ngựa non ra đồng thăm lúa của chúng ta đấy”.

- Làm thế nào mà truất “mẹ” nó cái khoản thuế thập phân của hắn đi (lão lại cứ dùng mãi cái tiếng thô bỉ ấy). Ma men chưa vật chết hắn à. Hắn sông dai như cụ gì mấy nhỉ? À, cụ Bành tổ.

Ông Hodsonlại cười:

- Bọn thanh niên mới ở trường về nghỉ, họ đánh John Scroggins một trận nhừ tử, suýt chết.

Cụ Pitt gầm lên:

- Đánh người phụ gác của tao!

Ông Hodson đáp:

- Anh ta săn trộm trong trại của ông mục sư, thưa cụ.

Cụ Pitt phát điên lên, thề rằng hễ bao giờ bắt được họ săn trộm trong phạm vi trại mình, lão sẽ bắt họ đi đầy; lão thề độc như vậy. Rồi lão nói: “Tao đã bán quyền kế thừa cai quản rồi, Hodson ạ, bọn con cái nó đừng có hy vọng”.

Ông Hodson bảo rằng lão nói chí phải. Nghe chuyện, em đoán rằng hai anh em đang có hiềm khích...Anh em, chị em ruột thường vẫn thế. Chị còn nhớ hai chị em cô Scratchleys ở Chiswick không? Họ cãi nhau, đánh nhau cứ như cơm bữa và cô Mary Box đấm cô Louisa mới ghê chứ.

Vừa lúc ấy, thấy trong rừng có hai thằng bé con đang nhặt củi khô, cụ Pitt ra lệnh cho ông Hodson nhảy tót xuống xe cầm một cái roi xông tới. Lão nam tước hét: Hodson, quật đi; đánh mất mạng cho tao, rồi đem chúng nó vào trong nhà kia, đồ mất dạy. Tao nhất định sẽ bỏ tù chúng nó chắc chắn như tên tao là Pitt vậy? Em nghe thấy tiếng roi của ông Hodson quật vun vút xuống vai mấy em bé đang gào khóc lạy van. Cụ Pitt thấy hai em bé đã bị nhốt cẩn thận rồi mới đánh xe vào trong nhà.

Toàn thể gia nhân đã sẵn sàng đón chào chúng em và…

Chị thân mến ạ, đêm qua đang viết dở lá thư cho chị, thì có tiếng đập thình thình ở cửa, làm em phải ngừng bút; ai đấy, đố chị đoán ra được? Cụ Pitt Crawley đội mũ ngủ, mặc áo ngủ, chết người không! Trông thấy lão, em sợ quá lùi lại thì lão bước thẳng vào phòng, cầm lấy cây nến, nói: “Cô Becky, quá mười một giờ, không được phép thắp nến. Tối cũng mặc, lên giường mà ngủ đi, đồ nỡm non (lão gọi em như vậy đấy): nhớ kỹ, cứ đến mười một giờ thì phải đi ngủ; nếu không đêm nào tôi cũng vào tắt nến đấy”. Nói xong, lão và bác hầu phòng Horrocks vừa đi ra vừa cười. Dĩ nhiên em chẳng dám khuyến khích họ đến thăm như vậy. Đêm đêm, họ thả rông hai con chó nòi to kếch xù; chúng rít và sủa trăng suốt đêm qua. Lão Pitt bảo: “Tôi đặt tên con chó này là Gorer, nó đã cắn chết một người; nó khỏe lắm, vật nổi cả bò tót, còn con mẹ tôi đặt tên là Flora. Nhưng bây giờ tôi đổi tên nó là Aroarer, vì nó già quá rồi, không cắn được nữa, Hô! Hô!”

Tòa nhà chính của trại Crawley Bà chúa là một ngôi nhà cổlỗxây bằng gạch đỏ, trông thật đáng ghét, có những ống khói lò sưởi to tướng, tường hồi xây theo kiểu thời nữ hoàng Bess. Trước nhà, có một cái nền gạch, mé bên có dựng bức tượng con rắn và con bồ câu tiêu biểu cho gia đình; mọi cửa lớn phòng khách đều nom ra sân. Ôi chao, chị ạ, phòng khách chính to quá mà cũng tôi như gian phòng khách lớn trong lâu đài Udolpho ấy. Có một cái lò sưởi kếch xù, giá ta nhét một nửa cái trường của bà Pinkerton vào cũng vừa; chiếc giàn sắt cũng to, có thể dùng để quay ít nhất là một con bò cũng được. Quanh phòng, treo la liệt hình vẽ các thế hệ của dòng họ Crawley, có người râu ria xồm xoàm, cổ đeo đăng-ten hoa; có người đeo bộ tóc giả rậm rạp, ngón chân cái thò ra ngoài giày; có người mặc bộ áo chèn và áo ngoài dài lượt thượt và cứng nhắc, trông ngay đườn đưỡn như cái cột, có người tóc uốn xoăn lại thành từng chùm nhỏ và dài; chị ạ, cuối phòng có cái cầu thang lớn bằng gỗ sồi đen, trông đến sợ. Hai bên có nhiều cửa lớn, phía trên mỗi cửa có treo một cái đầu hươu. Những cửa này mở sang gian phòng chơi bi-a, phòng sách, phòng khách lớn sơn vàng, và những căn phòng phụ dùng ngồi chơi buổi sáng. Em đoán dưới nhà phải có ít nhất là ba chục phòng ngủ. Nữ hoàng Elizabeth đã từng ngủ trên một cái giường ở đây. Sáng nay, mấy cô học trò mới của em đã dẫn em đi xem qua tất cả những căn phòng đẹp đẽ ấy.

Màn cửa buông im ỉm, phòng nào cũng tối om, Bước vào phòng nào, em cũng sợ phải nhìn thấy một cái bóng ma lù lù hiện ra, lúc có ánh sáng soi vào. Phòng học của chúng em ở tầng hai, một đầu ăn thông sang phòng ngủ của em, một đầu ăn thông sang phòng ngủ của hai cô con gái ông chủ. Rồi đến những gian phòng riêng của ông Pitt, thường gọi là ông Crawley, tức là con trai cả, rồi đến những gian phòng riêng của ông Rawdon Crawley...ông này cũng là một sĩ quan như người ta, thường sống trong trại lính. Ở đây thì không thiếu buồng, giá tất cả mọi người ở công viên Russell dọn đến cũng vẫn còn thừa chỗ.

Em đến độ nửa giờ, thì chuông báo giờ ăn bắt đầu điểm.

Em cùng hai đứa học trò xuống nhà (chúng gầy nhom, hai con nhóc con mặt mũi chẳng ra sao, đứa lên mười đứa lên tám). Em vận chiếc áo lụa quý báu của chị (mà con mẹ Pinner đáng ghét cứ hằn học mãi vì chị cho em). Họ coi em như người trong gia đình, trừ những ngày tiếp khách, khi ấy em và hai cô tiểu thư ăn ở trên gác. Vâng, đã nghe tiếng chiếc chuông to báo giờ ăn điểm; chúng em tề tựu đủ mặt trong gian phòng khách, chỗ Crawley phu nhân đang ngồi. Bà này là bà hai, mẹ đẻ ra hai cô con gái. Bà là con gái một nhà buôn sắt, cuộc hôn nhân này hồi ấy được coi là môn đăng hộ đối lắm.

Nom bà ta thì hình như xưa kia cũng đẹp, mà đôi mắt hình như đã khóc nhiều vì sắc đẹp tàn tạ của mình. Người bà ta gầy, nước da tai tái; hai vai dô cao lên; lúc nào bà ta cũng im lặng. Còn chồng của bà là ông Crawley cũng có mặt trong phòng, ăn mặc chỉnh tề, trông long trọng như một ông chủ cho thuê đòn đám ma. Ông ta người gầy, xấu trai, nước da cũng tái, ít nói; chân thì khẳng kheo, ngực lép kẹp, râu tóc một màu xám xịt như màu rơm khô. Trông ông ta giống hệt bà mẹ trong bức tranh treo trên lò sưởi...tức là bà Griselda trong gia đình Binkie.

Crawley phu nhân bước lên cầm lấy tay em, nói:

- Anh Crawley ạ, đây là cô giáo mới đấy, gọi là cô Sharp.

- Ô!

Ông Crawley vừa nói vừa vươn cổ ra nhìn, rồi lại cúi xuống đọc một bài xã thuyết. Crawley phu nhân lại nói, đôi mắt trông như lúc nào cũng đẫm lệ.

- Tôi mong rằng cô sẽ dịu dàng đối với các em.

Cô con gái lớn nói:

- Kìa, má, dĩ nhiên cô ấy dịu dàng. Con chỉ nhìn thoáng qua cũng đủ biết cô này không đáng sợ.

- Thưa phu nhân, bữa ăn đã dọn xong.

Anh hầu vào báo; anh ta mặc toàn đồ đen, cổ quấn một cái đăng ten hoa to tướng, trông giông như cái đăng-ten hoa ở cổng hoàng Elizabeth trong bức tranh treo ngoài gian phòng lớn. Phu nhân cầm tay ông Crawley dẫn đầu đi sang phòng ăn; còn em đi sau, hai tay dắt hai cô học trò.

Cụ Pitt đã ngồi sẵn ở đó, tay cầm một cái cốc bạc. Lão vừa mới ở trong hầm rượu ra, cũng ăn mặc rất chỉnh tề, nghĩa là lão đã cởi bỏ đôi ủng, để lộ đôi chân ngắn ngủn đi bí tất len đen. Mặt bàn bày la liệt đĩa cổ, đĩa hoa quả cổ, bình đựng dấm cổ, bằng vàng có, bằng bạc có, sáng choang trông y như trong cửa hiệu Rundell và Bridge vậy. Mọi thứ trên bàn ăn đều bằng bạc, hai bên bàn có hái thằng hầu, tóc đỏ bận chế phục màu vàng thanh, đứng túc trực.

Ông Crawley đọc một đoạn kinh dài, cụ Pitt nói “A men”. Người nhà bắt đầu nhấc những cái vung lớn bằng bạc úp trên các đĩa ăn đem đi.

Lão nam tước nói:

- Betsy, hôm nay có cái gì ăn thế?

Crawley phu nhân đáp:

- Hình như có cháo thịt cừu, ông ạ.

Anh hầu bàn trịnh trọng đáp:

- Mouton aux navets (xin các bạn đọc là mu-tông-ô-na-vê); món súp thì có potage de mouton à l’Écossaise. Các món phụ gồm pommes de terre au naturel và choufleur à l’eau ().

Lão nam tước đáp:

- Thịt cừu vẫn là thịt cừu; ngon tuyệt đấy a. Horrocks, con cừu nào đấy, thịt bao giờ?

- Bẩm cụ, thịt một con cừu mặt đen, giống Scotch. Chúng con thịt hôm thứ ba.

- Có ai mua miếng nào không?

- Bẩm cụ, lão Steel ở Mudbury lấy cái thân và hai đùi; nhưng bẩm cụ, hắn bảo rằng con này non quá, chỉ được cái nhiều lông, thịt gầy lắm.

Ông Crawley nói:

- Mời cô dùng một chút súp...cô...à, cô Blunt.()

Cụ Pít nói:

- Món cháo Scotch ngon tuyệt, cô ạ, tuy rằng họ đặt tên bằng tiếng Pháp.

Ông Crawley kiêu ngạo đáp:

- Thưa ba, con tin rằng trong giới thượng lưu vẫn có phong tục đặt tên các món ăn như ta vừa gọi.

Hai tên hầu mặc áo vàng bưng món “mouton aux navets” ra đựng trong những đĩa ăn súp bằng bạc. Đoạn bọn con gái chúng em được uống rượu bia pha nước lã đựng trong cốc uống vang. Em không sành về rượu bia, nhưng có điều chắc chắn là em thích uống nước lã hơn. Trong khi đang ăn, cụ Pitt tìm dịp hỏi về mấy cái vai cừu. Bà vợ đáp:

- Có lẽ dưới nhà bếp họ ăn rồi.

- Cái con lợn đen nhớn nòi xứ Kent bây giờ chắc béo lắm đấy nhỉ?

- Bẩm cụ, béo múp míp.

Bác quản lý trả lời rất trịnh trọng: nghe nói, cụ Pitt và cả hai cô con gái cũng cười rũ rượi.

Ông Crawley nói:

- Cô Crawley, Rose Crawley, tôi không hài lòng vì cái cười rất không đúng chỗ của cô.

Lão nam tước đáp:

- Đừng để ý đến chuyện ấy, ngài ơi; thứ bảy, ta sẽ hỏi thằng chăn lợn xem thế nào. John Horrocks, sáng thứ bảy giết một con, nghe. Cô Sharp thích ăn thịt lợn phải không cô.

Em nhớ rằng suốt bữa ăn, câu chuyện quanh quẩn chỉ có thế. Ăn xong, họ đặt trước mặt cụ Pitt một cốc lớn nước nóng, và một chai…hình như rượu rum thì phải. Bác Horrocks rót cho em và hai cô con gái mấy cốc rượu vang: phu nhân cũng dùng một cốc đầy. Lúc chúng em rời khỏi phòng ăn, phu nhân lấy trong ngăn kéo ra một mảnh len đan to tướng dài vô tận; còn hai cô con gái bắt đầu giở một cỗ bài “xì” cáu ghét ra chơi với nhau. Chỉ thắp có mỗi một ngọn nến nhưng cắm trên một cái giá nến cổ bằng bạc. Phu nhân hỏi em vài câu chuyện sau đó em có quyền lựa chọn cách giải trí, hoặc đọc một cuốn sách giảng đạo, hoặc đọc bài xã thuyết về đạo luật đánh thuế lúa mì mà ông Crawley đọc trước bữa ăn.

Chúng em cứ ngồi thế đến một tiếng đồng hồ, cho tới khi nghe có tiếng chân bước. Phu nhân hốt hoảng nói:

- Cất bài đi, các cô. Cô Sharp, bỏ quyển sách của Crawley xuống.

Vừa cất xong các thứ thì ông Crawley bước vào, ông ta nói:

- Này, hai cô. Ta tiếp tục cuộc thảo luận hôm qua chứ. Lần lượt mỗi cô sẽ đọc một trang, để cho cô...a, cô Short có dịp nghe xem thế nào.

Thế là hai cô gái đáng thương phải đánh vần nốt bài giảng đạo ghê gớm dài dằng dặc đọc ở nhà thờ Bethesda ở Liverpool, bài văn này biện hộ cho việc truyền giáo cho những người Inđiên ở Chickasaw. Chị xem, một buổi tối như thế có thú vị không?

Đến mười giờ, phu nhân sai bọn đày tớ mời cụ Pitt và toàn bộ gia nhân đi cầu kinh. Cụ Pitít bước vào đầu tiên, mặt đỏ tía dáng đi hơi chếnh choáng. Sau cụ là bác quản lý, hai thằng hầu mặc áo vàng, người hầu riêng của ông Crawley, ba người nữa sặc mùi phân ngựa, và bốn người đàn bà....trong số này có một người mặc quá nhiều quần áo, lúc khuỵu đầu gối xuống lễ cứ gườm gườm nhìn em như nhìn kẻ thù.

Ông Crawley diễn thuyết và giải thích một hồi, đoạn chúng em cầm nến đi ngủ. Thế là sau đó em ngồi viết thư cho chị và bị cản trở như chị đã rõ, chị Amelia thân yêu ạ.

Chúc chị ngon giấc. Hôn chị hàng nghìn, hàng nghìn, hàng nghìn lần.

Thứ bẩy - Sáng nay, lúc năm giờ, em nghe tiếng con lợn đen con kêu rống lên. Hôm qua Rose và Violet đã dẫn em ra xem chuồng lợn, chuồng ngựa, cũi chó, rồi đi thăm người làm vườn; bác này đang hái quả mang ra chợ bán; hai cô con gái cứ nằn nì xin một chùm nho trồng trong “nhà cây”, nhưng bác làm vườn bảo cụ Pitt đã đếm từng quả rồi; bác mà cho ai quả nào thì cứ gọi là mất việc.

Hai cô con gái vớ được một con ngựa non trên bãi cỏ, hỏi em có muốn cưỡi không, rồi cả hai leo lên cưỡi ngựa, thằng bồi ngựa vội kêu ầm lên chạy đến kéo hai đứa đi.

Lúc nào cũng thấy Crawley phu nhân ngồi đan len. Đêm nào cụ Pitt cũng say mèm; hình như cụ uống tay đôi với bác quản lý Horrocks thì phải. Tối nào ông Crawley cũng đọc kinh, và sáng ra thì hoặc ở tịt trong phòng riêng, hoặc cưỡi ngựa đi Mudbury lo công việc hàng quận, vào những ngày thứ tư và thứ năm, ông ta hay đi Squashmore để giảng đạo cho bọn tá điền.

Em xin gửi lời kính chúc hai bác, ông anh của chị đã khỏi say rượu chưa. Ôi, chị thân mến, chị thân mến ơi! Đàn ông phải hết sức tránh xa rượu chè lắm lắm đấy!

Mãi mãi là em của chị Rebecca.

Xét cho cùng thì tôi nghĩ rằng cô Amelia của chúng ta ở công viên Russell phải ly biệt cùng cô Sharp, lại là một việc tốt. Rebecca là người rất kỳ lạ, buồn cười. Cái cách cô ta kể chuyện bà nam tước đáng thương khóc lóc vì sắc đẹp tàn tạ, và chuyện ông con trai có bộ “râu tóc xám xịt màu rơm” thật giỏi, chứng tỏ nhất định cô ta phải rất thạo đời.

Nguyên một việc đang quỳ mà cô ta còn nghe được những chuyện khác hay ho hơn là mấy cái dải đăng ten của cô Horrocks, cũng đủ bắt cả tôi và bạn ngạc nhiên. Song cũng yêu cầu bạn đọc nhớ cho rằng chuyện này có tên là Hội chợ phù hoa; mà Hội chợ phù hoa thì chính là một nơi toàn những chuyện ngu xuẩn, vô nghĩa lý, toàn những chuyện giả dối huênh hoang. Trong khi ấy nhà đạo đức đứng trước tấm màn sân khấu (đúng là hình ảnh của kẻ hèn này) còn đang tuyên bố rằng nhất định không chịu đội mũ đi hia, mà vẫn chỉ mặc bộ áo nhà nghề có hai tai dài của người làm trò hề; song các bạn thấy không, người ta nhìn thấy sự thật thế nào, bắt buộc phải nói y như vậy, dầu phải khoác tấm áo choàng có đính nhạc, hay được đội mũ vành vểnh lên của quan lớn; và dĩ nhiên, việc ấy sẽ đẻ ra lắm chuyện khó chịu.

Tôi nghe nói có một anh ở tỉnh Naples chuyên nghề kể chuyện rong, một bữa thao thao bất tuyệt trước một đám đông thính giả lười biếng vô tích sự gần bờ biển; đang kể chuyện mấy con người quá tồi tệ, anh ta bỗng nổi khùng với đám nhân vật mình bịa ra, đến nỗi cử tọa cũng không nhịn được; và cả diễn giả, cả thính giả cùng lên tiếng ầm ĩ chửi rủa cái con quỷ dữ trong chuyện; thế rồi chiếc mũ đi vòng quanh trước mặt mọi người, và những đồng bajochi mưa xuống tới tấp, giữa tiếng cười tán thưởng của tất cả công chúng.

Trái lại, ở những nhà hát nhỏ tại Paris không những chúng ta chỉ nghe thấy khán giả hét: “A, thằng đểu?A, đồ quỷ!”() và ngồi ngay tại chỗ chửi rủa vai bạo chúa trên sân khấu; mà ngay cả các diễn viên cũng nhất định từ chối không chịu sắm những vai “phản diện”, thí dụ đóng vai “những tên người Anh đểu giả”() những tên “Cossacks tàn nhẫn” chẳng hạn, và còn gì nữa? Thà chịu rút lương mà được sắm vai những người dân Pháp trung thực, họ cũng thích.

Tôi nêu lại hai câu chuyện song song để các bạn đọc thấy rằng không phải vì mục đích lý tài mà kẻ thủ vở này đang muốn trình bày những nhân vật tồi tệ để vùi dập họ. Chính vì hắn ta thực tâm khinh ghét chúng, không thể nhịn được, đành phải dùng những lời thô tiếng nặng thích hợp để cho dịu bớt nỗi căm chất chứa trong lòng.

Tôi xin báo để các “bạn quý” biết trước rằng tôi sắp kể một câu chuyện xấu xa đau lòng và cũng là một tội ác phức tạp... song, tôi tin rằng chuyện cũng khá lý thú. Xin cam đoan rằng bọn lưu manh này không phải là những tay “mèng”. Đi đến những chỗ sang trọng ta cũng phải biết ăn nói lịch sự... nhưng khi đã trở về những nơi thôn quê lặng lẽ thì ta nên yên lặng. Trong một cái thùng giặt, mà lại có bão táp thì thực là vô lý. Những chuyện ấy ta để dành cho đại dương hùng vĩ và đêm tối quạnh hiu. Tấu trò sắp diễn đây cũng chỉ rất nhẹ nhàng. Những kẻ khác...

Song ta không nên nói trước.

Khi đưa các nhân vật ra trò với tư cách là một con người, và một người anh em trong nghề, tôi xin phép không những chỉ giới thiệu họ mà còn thỉnh thoảng được rời sân khấu bước xuống dẫn giải thêm vài lời về họ; nếu họ tốt, xin được phép yêu mến và bắt tay họ; nếu họ tồi, xin được phép che tay áo mà cười; còn nếu chúng đểu quá thì xin được dùng những tiếng thô bạo nhất mà sự lễ độ có thể cho phép để chửi vào mặt chúng.

Ngoài ra chắc các bạn tưởng rằng chính tôi đã phì cười trước cảnh cầu kinh mà cô Sharp cũng cảm thấy là hài hước, cũng chính tôi phải cười cợt một cách thú vị trước hình ảnh lão nam tước già nua lảo đảo say mèm như Silenus ().Thế mà người cười lại là một kẻ không biết kính trọng điều gì ngoài sự giàu có. Không biết nể nang cái gì ngoài sự thành công. Sống và làm ăn phát đạt trong cuộc đời là những con người có tên là...Vô tín ngưỡng, Vô hy vọng, Vô từ tâm. Các bạn thân mến ơi, ta phải ráng hết sức mà choảng cho chúng một trận. Bọn chúng vô khối thằng làm nên khá giả mà thực ra chỉ là bọn lang băm và làm trò hề. Chính trong khi đấu tranh với chúng và lột mặt nạ bọn chúng mà chúng ta được một mẻ cười đấy.

Chương 9

NHỮNG NHÂN VẬT TRONG GIA ĐÌNH

Tôn ông Pitt Crawley là một triết gia, có khuynh hướng về cái gọi là tầng lớp hạ lưu. Lần thứ nhất lão làm bạn với con gái nhà quý tộc Binkie là do cha mẹ lựa chọn.

Đúng như lão vẫn thường nói khi vợ còn sống, mụ này thật là một con mẹ ranh thượng lưu đanh đá đáng ghét, đến nỗi giá mụ chết, thì lão thà bị treo cổ còn hơn vớ được một mụ vợ thứ hai cũng là con nhà nòi như thế, quả nhiên sau khi mụ vợ về chầu giời, lão giữ đúng lời hứa, chọn ngay cô Rose Dawson làm vợ kế, cô này là con gái ông John Thomas Dawson, buôn sắt Ở Mudbury. Được bước lên địa vị Crawley phu nhân, cô Rosa thật là một người đàn bà sung sướng!

Ta hãy xem hạnh phúc của cô có những chi tiết gì. Đầu tiên, cô bỏ rơi anh chàng Peter Butt, chàng tình nhân trẻ tuổi; bị thất tình, anh này đâm ra buôn lậu, đi săn bắn trộm, và làm hàng nghìn việc bậy bạ khác. Rồi cô lại xích mích với tất cả đám bạn bè hồi còn con gái - vì nhiệm vụ bắt phải thế. Crawley phu nhân làm sao có thể hạ mình tiếp đãi bọn này được... mà chính cô cũng không thể tìm thấy trong giới thượng lưu mình mới bước vào một người nào chịu vồ vập trọng vọng cô. Đời nào người ta chịu làm thế? Ngài Huddleston có ba cô con gái; cả ba cùng hy vọng trở thành Crawley phu nhân. Tôn ông Giles Wapshot tự coi là bị sỉ nhục vì con gái của gia đình Wapshot không được lựa chọn; các vị nam tước khác trong quận cũng rất công phẫn trước cuộc hôn nhân thiếu đăng đối () của bạn họ. Còn bọn thường dân thì ta không cần chú ý, mặc họ thì thào gièm pha vụng trộm với nhau.

Tôn ông Pitt vẫn thường nói lão “đếch cần” bất cứ đứa nào trong bọn ấy. Lão vớ được cô Rosa xinh xắn, thế là đủ; mà khi người đàn ông đã được thỏa mãn sở thích thì còn cần gì hơn? Bởi thế, đêm nào lão cũng nốc rượu vang, để thỉnh thoảng lại đánh cô Rosa xinh đẹp của lão một trận, để bỏ mặc cô ở Hampshire lẻ loi trong cuộc đời mông mênh, không một ai bè bạn mỗi khi lão đi Luân-đôn nhân dịp họp Quốc hội. Ngay đến bà Bute Crawley là vợ viên mục sư cũng không thèm đến thăm cô; bà ta bảo rằng không đời nào chịu hạ mình đến chơi với con gái một lão nhà buôn.

Cô chỉ được tạo hóa ban cho cái lộc duy nhất là đôi má hồng và nước da trắng, ngoài ra không có được tính tình gì đặc biệt; cô không có tài năng, kém trí tuệ, lại vô công rồi nghề, không biết giải trí là gì, mà cũng không có cả cái tính đanh đá, nanh nọc thường thấy ở những người đàn bà hoàn toàn ngu độn; bởi thế cô vợ kế cũng không giữ chặt được cảm tình của cụ Pitt mấy tý. Đẻ được hai đứa con, thì đôi má cũng nhạt màu hồng, nước da cũng bớt vẻ tươi, cô trở thành một cái máy không hơn không kém trong gia đình nhà chồng, không khác gì cây đàn dương cầm của Crawley phu nhân đã quá cố.

Cô có nước da sáng nên hay bận áo màu nhạt giống như đa số những người đàn bà tóc vàng khác; cô ưa mặc kiểu áo dài màu xanh nước biển, hoặc màu thanh thiên.

Đêm ngày, lúc nào cũng thấy cô ngồi đan len, hoặc làm một công việc khác tương tự; chỉ trong có ít năm mà cô đã đan được cho mỗi chiếc giương ở trại Crawley một cái khăn trải giương. Cô lại có riêng một mảnh vườn nhỏ mà hình như cô rất thích; nhưng ngoài mảnh vườn đó ra, cô chẳng còn biết yêu, biết ghét cái gì khác. Khi bị chồng đối xử thô bạo, cô cứ ỳ ra; lúc nào bị chồng đánh thì chỉ khóc. Cô cũng không đủ bạo gan để uống rượu cho khuây khỏa, suốt ngày chỉ đi lang thang trong nhà mà rên rỉ, chân đi đôi giầy vẹt gót, trên đầu đầy những cặp giấy uốn tóc quăn. Ôi! Hội chợ phù hoa! Hội chợ phù hoa! Có thể xưa kia cô ta là một thiếu nữ nhí nhảnh; Peter Butt và Rosa rất có thể là một đôi vợ chồng hạnh phúc sống trong một cái trại ấm cúng, trong một khung cảnh gia đình thân mật, và cùng chung sức vật lộn với cuộc sống, cùng chung hưởng phần vui thú, lo lắng, hy vọng với nhau. Song trong Hội chợ phù hoa, một địa vị và một cái xe tứ mã vẫn là những thứ đồ chơi quý báu hơn là hạnh phúc. Giả thử Harry đệ bát hoặc Con yêu Râu xanh còn sống đến bây giờ và muốn lấy đến người vợ thứ mười, các bạn có cho rằng hắn không thể nào cưới nổi người con gái đẹp nhất được vào chầu trong Hoàng cung kỳ này không?

Chúng ta đoán ra cũng biết rằng hai cô con gái cũng không lấy gì làm ưa lắm cái tính đần độn lỳ xỳ của mẹ. Chúng thích la cà trong đám đầy tớ và ở ngoài chuồng ngựa hơn. May sáo, bác làm vườn người xứ Scotch lại có một người vợ tốt và mấy đứa con rất ngoan, cho nên chúng cũng được gần gũi những người đứng đắn và cũng được dạy dỗ tử tế, trước khi cô Sharp tới, đấy là nền giáo dục duy nhất chúng được thụ hưởng.

Việc mượn cô Sharp là do sự phản kháng của Crawley, người bạn và người che chở duy nhất của Crawley phu nhân () và người duy nhất được người đàn bà này thấy có đôi chút cảm tình gắn bó, ngoài hai đứa con gái của bà ta. Pitt Crawley mang dòng máu của gia đình quý tộc Binkie là họ bên mẹ; anh ta là một nhà quý tộc rất có nhã độ và đường hoàng.

Khi đến tuổi trưởng thành, anh ta rời trường đại học của Nhà chung về nhà, và bắt đầu chấn chỉnh lại cái trật tự bị lỏng lẻo trong gia đình, bất kể ý kiến của bố, mà lão bố thì rất nể con trai. Tính anh ta kiểu cách đến mức máy móc, thà chịu chết đói chứ không bao giờ dùng bữa mà thiếu chiếc cà vạt quàng ở cổ. Có một lần vừa ở trường về, bác quản lý Horrocks đưa cho anh ta một lá thư, nhưng quên không đặt vào một cái khay; anh ta trừng mắt nhìn Horrocks, mắng cho một trận mất mặt, đến nỗi về sau cứ đứng trước mặt anh ta là Horrocks đã run rồi. Cả nhà đều phải cúi mình trước anh ta. Bữa nào anh ta ở nhà, thì Crawley phu nhân phải cất những cặp giấy uốn tóc trên đầu đi sớm hơn thường lệ: đôi ghệt lấm bùn bê bết của cụ Pitt cũng biến mất. Tuy cái lão già xấu tính ấy vẫn chưa chừa hết mọi thói hư cũ, nhưng ít nhất trước mặt con trai, lão cũng không dám nốc rượu rum pha nước lã bí tỷ, và khi sai bảo gia nhân cũng phải ăn nói dè dặt, lịch sự hơn. Bọn đầy tớ cũng nhận thấy rằng nếu anh con trai có mặt trong phòng, thì lão Pitt không bao giờ văng tục với Crawley phu nhân.

Chính anh ta đã dạy bác quản lý nói: “Bẩm phu nhân, bữa ăn đã dọn”, và chính anh ta đã nhất định đòi khoác cánh tay phu nhân đi sang phòng ăn. Ít khi anh ta nói chuyện với bà này, nhưng hễ đã nói thì bao giờ cũng rất đường hoàng lễ độ; không bao giờ anh ta chịu để bà rời khỏi phòng mà không đứng dậy một cách rất là đường hoàng để tự tay mở cửa, và cúi chào một cách vô cùng lịch. Ở trường trung học Eton, bạn bè gọi anh ta là “cô Crawley”; và tôi cũng rất buồn rầu mà thưa rằng ở trường, anh ta bị em giai là Rawdon đánh luôn rất đau. Sức học thì không được xuất sắc nhưng bù vào chỗ thiếu tài, anh ta có cái nết cần cù kéo lại suốt tám năm học trong trường, chưa hề bao giờ anh ta bị phạt, điều ta thường nghĩ khó lòng một anh học trò nào thoát khỏi.

Lên đại học, dĩ nhiên anh ta được chú ý. Ở đây anh ta đã sửa soạn bước vào xã hội thượng lưu, và được ông ngoại là bá tước Binkie hướng dẫn và che chở. Anh ta rất chăm chỉ học khoa hùng biện lối cổ và lối mới; trong những cuộc hội họp thảo luận, anh ta rất chịu khó phát biểu. Cách ăn nói thì khá lưu loát, chải chuốt; giọng nói tuy nhỏ nhẻ, nhung anh ta cũng rất thú vị khi được ăn nói kiểu cách; có điều bao giờ ý kiến anh ta phát biểu cũng hoàn toàn cũ rích nhạt phèo và phải đèo thêm một quyến rũ chứng bằng tiếng Latinh mới xong. Ấy thế mà anh ta vẫn cứ thất bại như thường, không rõ tại sao, mặc dù cái lối tầm thường mà anh ta dùng, lẽ ra phải đưa bất cứ người nào đến thành công mới đúng. Bè bạn đều bảo rằng anh ta nắm chắc phần thưởng về thơ trong tay, thế mà cũng cứ hỏng. Ra khỏi trường đại học, anh ta làm thư ký riêng cho bá tước Binkie, sau được bổ làm tùy viên đại sứ quán ở Pumpernickel. Anh ta thực hiện nhiệm vụ này một cách xứng đáng, rất thăm gửi về cho ngài Tổng trưởng Ngoại giao đương thời những tin tức về món pa-tê của tỉnh Strasburg. Sau mười năm trời giữ chức vụ tùy viên sứ quán (nghĩa là sau ngày bá tước Binkie tạ thế khá lâu), anh ta thấy việc thăng thưởng của mình quá chậm, bèn khinh bỉ mà rời khỏi trường ngoại giao, và trở về sống cuộc đời một nhà quý tộc thôn quê.

Khi về nước Anh, anh ta có viết một bài xã thuyết về đảo Malt (vốn có nhiều tham vọng, anh ta đưa ra mắt công chúng), và tham dự một phần quan trọng trong vấn đề giải phóng người đa đen. Về sau, anh ta trở thành bạn của ông Wilberforce là người được anh ta rất kính phục về quan điểm chính trị. Anh ta được nổi tiếng nhân việc trao đổi thư từ với linh mục Silas Hornblower về phái đoàn truyền giáo Ashantee. Mỗi năm anh ta đều có mặt ở Luân-đôn, nếu không phải trong thời kỳ Quốc hội họp, thì ít nhất cũng là về tháng năm, khi có những buổi hội nghị tôn giáo ở thôn quê anh ta là một quan tòa, thường đi lại thăm hỏi và thuyết giáo cho cái đám người thiếu nền giáo dục của nhà thờ. Người ta đồn rằng anh ta đã tán tỉnh công nương Jane Sheepshanks là con gái thứ ba của công tước Southdown; cô này có cô chị là công nương Emily, tác giả mấy cuốn truyện: “Cái kim chỉ nam của người thủy thủ” và “Người đàn bà bán táo ở Finchley”.

Cô Sharp không cốt vẽ một bức tranh khôi hài khi miêu tả những cảnh xảy ra ở trại Crawley Bà chúa đâu. Crawley bắt buộc bọn đầy tớ phải lễ bái kính Chúa, và (cũng may thay) bắt cả ông bố phải làm theo. Anh ta chủ tọa một nhóm giáo hữu độc lập ở xứ đạo Crawley; ông chú mục sư bực mình lắm, nhưng ông bố lại rất thú. Có đâu một hai lần cụ Pitt đích thân tới dự; việc này khiến cho tại nhà thờ xứ đạo Crawley nổ ra mấy bài giảng đạo cổ lỗ kiểu gô-tíc của lão nam tước già. Thực ra, cụ Pitt thực thà nhà ta có đủ sức chịu đựng nổi những bài diễn văn đó đâu; thường thường suốt giờ giảng đạo lão ngồi ngủ gật.

Crawley quan tâm đến hạnh phúc của dân tộc và của cái giáo hữu Gia-tô giáo đến mức chỉ mong ông bố nhường lại cho mình chân nghị sĩ ở Quốc hội; nhưng ông lão vẫn không muốn. Dĩ nhiên cả hai bố con cùng khôn cả; họ tính toán rằng không dại gì mà bỏ món tiền một nghìn rưởi đồng được hưởng hàng năm là tiền bán chân nghị sĩ thứ hai (ông Quadroon vẫn giữ chân nghị sĩ này, lại kèm theo quyền tự do hoạt động về vấn đề buôn nô lệ). Quả thật là tình trạng tài sản của gia đình cũng đang gặp hồi lúng túng, số thu hoạch nói trên của thị trấn cũng rất cần thiết cho việc chi tiêu ở Crawley Bà chúa. Món tiền phạt quá nặng mà Walpole Crawley, đệ nhất nam tước, phải nộp vì tội thụt két hồi còn làm việc tại văn phòng cơ mật viện vẫn chưa thu lại được đủ. Ngài Walpole xưa là người ham thú vui, tiêu tiền như rác (alieni appetens, sui profusus () Crawley thường nhắc, và thở dài); sinh thời, ông ta vẫn được khắp quận yêu mến vì tính rượu chè be bét và tính hào phóng sẵn sàng tiếp đãi mọi người ở Crawley Bà chúa. Hồi đó, hầm rượu của gia đình đầy những rượu vang đỏ burgundy, trong nhà lại nuôi rất nhiều chó săn và ngựa để cưỡi đi săn. Trong trại Crawley Bà chúa, bây giờ ngựa phải đi cày, hay kéo chiếc xe ngựa Trafangar; bữa cô Sharp về đây, cô đã đi chiếc xe do một đôi ngựa nuôi trong trại kéo. Lão Pitt tuy thô tục thật, nhưng ở địa phương lão lại là người rất chú ý bảo vệ giá trị của mình, ít khi lão đi ra ngoài mà không dùng xe tứ mã; và lúc ăn cơm bao giờ cũng phải có ba thằng hầu đứng túc trực, dầu bữa ăn chỉ có thịt cừu luộc. Nếu chỉ cần hà tiện mà đủ giầu, thì cụ Pitt rất có thể đã giầu nứt đố đổ vách... nếu chỉ là một ông thầy kiện tỉnh lẻ, vốn liếng không ngoài bộ óc, thì rất có thể lão đã dùng bộ óc ấy mà kiếm được khối lời, và cũng có thể nhờ đó mà có uy tín ảnh hưởng lớn. (Nhưng không may, lão lại là con nhà dòng dõi và có một gia sản lớn tuy đang gặp khó khăn; cả hai thứ đã chẳng giúp ích cho lão thì chớ, lại làm hại lão. Tính lão ưa chuyện kiện tụng, mỗi năm tốn phí vào đó tới hàng mấy ngàn đồng. Lão vẫn thường cho là mình rất khôn ngoan, không bao giờ chịu bị bọn thầy kiện tầm thường bịt mắt, nên lão cứ giao tất cả công việc kiện cáo cho đến một tá bọn thư lại trung gian lo hộ, mặc dầu lão chẳng tin cậy anh nào. Là một điền chủ sắc sảo, nhưng lão toàn vớ phải bọn tá điền vỡ nợ; lão vốn là một người làm ruộng hà tiện, chỉ vãi hạt giống xuống đất một cách bất đắc dĩ mới cho lão thu hoạch, trong khi mùa màng của những chủ trại biết hào phóng khác lại rất tốt. Lão lại còn kinh doanh nhiều việc khác; làm mỏ, mua cổ phần kênh đào, nuôi ngựa kéo xe thuê, ký hợp đồng với chính phủ, tóm lại lão là tay kinh doanh quan trọng nhất trong quận.

Lão thuê những người lương thiện làm việc khai thác đá gra-nit nhưng không chịu trả tiền công, vì vậy nên bốn người đốc công bỏ trốn sang Mỹ, đem theo cả két bạc. Mỏ than của lão không được săn sóc chu đáo, nước ngập hết; chính phủ ném trả lão tờ hợp đồng về việc tiêu thụ thịt bò ôi, còn như về việc cho thuê ngựa kéo xe thì chủ xe trong cả nước đều biết lão chết nhiều ngựa nhất, vì toàn là ngựa mua rẻ và cho ăn đói. Tính lão không kiêu ngạo, trái lại rất bình dân. Có thể nói lão ưa trò chuyện với một bác nông dân hoặc một tay lái ngựa hơn là tiếp đãi một nhà quý tộc giống như cái ông lớn con trai của lão. Lão thích uống rượu, văng tục, và bỡn cợt với bọn con gái nông dân.

Lão không hề cho ai một đồng trinh, hoặc làm một việc phúc đức nào bao giờ, nhưng ai cũng biết lão sởi lởi, vui tính; lão có thể hôm nay ngồi bỡn cợt và uống rượu với một tá điền, ngày mai đuổi cổ thẳng cánh, hoặc có thể vẫn đùa cợt với người đã phạm tội săn trộm trong trại của lão mà lão đang bắt đi đầy... đối với phụ nữ lão có nhã nhặn hay không, cứ xem cách lão đối đãi với Rebecca cũng rõ. Tóm lại trong giới quý tộc và nghị sĩ toàn nước Anh, không có một người nào xảo quyệt bần tiện, ích kỷ, ngu xuẩn, và nổi tiếng xấu xa như lão. Bàn tay vấy máu của cụ Pitt Crawley chỉ thấy thọc vào túi áo người khác, không bao giờ thọc vào túi áo của chính mình. Vậy nên chúng ta, những người vẫn kính trọng giới quý tộc nước Anh, rất đau lòng mà bắt buộc phải công nhận đủ ngần ấy thói xấu ở một người có tên ghi trong tập Debrett ().

Nguyên nhân quan trọng khiến cho Crawley được bố vì nể là một vấn đề tiền nong. Số là lão nam tước nợ con trai một món tiền lớn, đó là tiền riêng của mẹ anh ta để lại; lão không muốn trả nợ con, vì xưa nay lão vẫn có tính thù ghét sự trả tiền cho bất cứ ai và chỉ khi nào bị cưỡng bách thì lão mới chịu thanh toán nợ, Cô Sharp đã tính rằng (dưới đây chúng ta sẽ thấy cô tìm được cách biết mọi việc bí mật của gia đình) nếu trả nợ thì mỗi năm lão phải tốn hàng nghìn đồng. Nhưng lão không chịu bỏ mất sở thích của mình: lão có cái thú man rợ là bắt bọn người khốn khổ đáng thương kia phải chờ đợi; lão chạy khắp các tòa án tìm đủ mọi cách hoãn ngày trả tiền. Lão bảo: “Nếu phải trả nợ thì người ta làm nghị sĩ Quốc hội để làm cái quái gì?” Vậy ra cái cương vị thượng nghị sĩ quả thật có ích cho lão không phải ít.

Hội chợ phù hoa...Hội chợ phù hoa! Tại đây có một thằng đọc không thông, cũng không chịu tập đọc... có những thói quen và tính xảo quyệt của một thằng biển lận, suốt đời chỉ có một lẽ sống là đi lừa vặt thiên hạ, chỉ biết đến những sở thích, những tình cảm, những thú vui bẩn thỉu, bần tiện; vậy mà không rõ tại sao hắn có đủ cả địa vị, danh vọng và quyền lực, lại là một bậc tai mặt trong xứ, một cây cột trụ của nhà nước? Hắn giữ địa vị bảo an đại quan và đi xe ngựa mạ vàng. Các vị tổng trưởng và các chính khách đều phải nịnh nọt hắn: và trong Hội chợ phù hoa hắn chiếm một địa vị cao hơn cả những người tài năng lỗi lạc nhất, hoặc những người đạo đức trong sạch nhất.

Cụ Pitt có một người em gái khác mẹ không lấy chồng; bà này thừa hưởng một gia sản của mẹ để lại. Lão nam tước đề nghị cầm tài sản của mình cho em rể để vay món tiền ấy, nhưng bà Crawley () không thuận; bà ưng giữ chặt số tiền hơn. Tuy nhiên, bà cũng đã ngỏ ý sẵn sàng chia gia tài của bà cho đứa con trai thứ của cụ Pitt; cũng đã có một lần bà trả nợ cho Rawdon Crawley hồi anh ta còn đi học cũng như khi anh ta nhập ngũ. Do đó, mỗi khi đến thăm trại Crawley Bà chúa, bà Crawley được trọng vọng vô cùng.

Cái tài khoản kếch xù của bà ở nhà băng có thể khiến bà đi bất cứ đâu cũng được người ta trọng vọng. Mới biết nhờ có cái tài khoản ở nhà băng mà giá trị một bà quý tộc già được tăng thêm bao nhiêu phần? Nếu bà ấy lại là một người thân trong gia đình (rất có thể mỗi độc giả cũng có hàng nửa tá người thân như vậy đấy) thì những thói xấu của bà ấy đối với ta cũng trở thành đáng yêu biết bao; thật là một bà cụ già nhân hậu tất bụng. Anh chủ trẻ tuổi hãng Hobbs và Dobbs sẽ mỉm cười mà dẫn bà bước ra chiếc xe ngựa, trên thành xe có sơn hình quả trám () và có một anh xà ích béo quay thở phì phà phì phò! Rồi khi bà cụ đến thăm, ta lại có dịp giới thiệu địa vị của bà với bè bạn. Chúng ta bảo thế này (mà cũng chí lý): ước gì bà MacWhirter ký cho một chữ vào cái ngân phiếu năm ngàn đồng nhỉ”. Vợ chúng ta thêm: “Năm nghìn thì bà cụ coi mùi gì”. Khi ông khách hỏi bạn rằng bà MacWhirter phải chăng có họ với gia đình, bạn cứ điềm nhiên như không đáp: “Tôi gọi bà cụ bằng cô ruột đấy”. Vợ bạn luôn luôn gửi quà cáp tặng bà cụ để tỏ tình quý mến; mấy đứa con gái bạn thì cứ ra công mà đan những túi len, những mặt gối và những khăn ủ chân cho “bà cụ”.

Mỗi khi “bà cụ” đến thăm thì đốt ngay lửa thật ấm trong lò sưởi, tuy rằng hàng ngày vợ bạn vẫn phải chịu lạnh mỗi khi thay áo! Trong suốt thời gian “bà cụ” ở chơi, gia đình bận tíu tít, nhà cửa nom sạch sẽ, ấm cúng, rộn ràng như có thết tiệc mà vào những ngày khác không bao giờ được như vậy. Ngay chính bạn, ông bạn quý ơi, bạn cũng quên mất giấc ngủ trưa sau bữa ăn, và đột nhiên thấy mình rất ham đánh bài (mặc dầu bạn thua luôn). Bạn ăn cơm rất ngon...ngày nào cũng có thịt thú rừng; rượu Malmsey- Madeira, cá mua tận Luân đôn mang về thì không bao giờ thiếu.

Cả bọn tôi tớ trong bếp cũng được dự phần hào phóng: không rõ vì sao, trong thời gian anh xà ích béo của bà MacWhirter ở chơi, rượu bia như nặng phân hơn ngày thường, và trong phòng đầy tớ (nơi chị hầu gái ăn cơm), việc tiêu thụ trà và đường không hề bị nhòm ngó đến bao giờ. Có đúng thế không, hay là sai? Tôi xin nhờ những tầng lớp trung lưu làm chứng hộ. Ôi, hỡi những đấng thiêng liêng có từ tâm, ước gì các người ban cho tôi một bà cô già, một bà cô ở vậy không có chồng...một bà cô có đủ cả xe ngựa có sơn hình quả trám, và có bộ tóc màu cà phê nhạt...Các con tôi sẽ tha hồ đan túi len cho bà cụ; cả Julia cùng tôi sẽ sẵn sàng hầu hạ bà cụ. Một viễn tưởng êm đẹp làm sao. Song cũng là một giấc mơ hão huyền làm sao?

Chương 10

CÔ SHARP BẮT ĐẦU KẾT BẠN

Bây giờ cô Rebecca đã bắt đầu được công nhận là người trong cái gia đình dễ thương có những nhân vật vừa giới thiệu ở chương trên; vậy thì lẽ dĩ nhiên, cũng như lời cô nói, cô phải có bổn phận ăn ở tốt với những vị ân nhân của mình, và phải cố gắng hết sức để được họ tin cậy.

Đức tính biết hàm ơn nơi một cô gái côi cút không người che chở, ai không phải mến phục; và nếu trong sự tính toán của cô ta có phần nào ích kỷ, ai dám bảo rằng khôn khéo như thế là vô lý? Cô gái trơ trọi kia sẽ đáp : “Tôi bơ vơ một mình trong đời này; ngoài những thứ phải làm việc mới được hưởng, tôi không còn hy vọng vào cái gì khác.

Con bé Amelia má đỏ kia làm gì có được lấy một nửa cái khôn ngoan của tôi? Vậy mà nó có những một vạn đồng tiền vốn, tương lai chắc chắn; còn con Rebecca đáng thương này (mặt tôi còn xinh hơn mặt nó nhiều chứ) thì chỉ có thể trông mong vào trí thông minh của mình. Được lắm, để rồi xem trí thông minh của tôi có thể đảm bảo cho tôi một đời sống đường hoàng hay không; rồi sẽ có ngày tôi chứng tỏ cho con bé Amelia kia biết rằng tôi hơn hẳn nó cho mà xem. Không phải là tôi ghét Amelia đâu: ai ghét bỏ được một con người vô tội, tốt bụng như thế...Có điều tôi vẫn ước ao sao có ngày tôi chiếm được một địa vị cao hơn nó trong đời, mà tại sao không thể được?” Cô bạn giầu trí tưởng tượng của chúng ta đang xây dựng cho mình những mộng tưởng về tương lai như vậy đấy... Việc gì chúng ta phải tức giận về chuyện trong những tòa lâu đài xây trên cát của cô ta, người trú ngụ chính chỉ là một đức ông chồng?

Các cô thiếu nữ trẻ tuổi không tơ tưởng đến chuyện chồng con thì còn nghĩ đến chuyện gì kia chứ? Hỏi rằng các bà mẹ của họ còn lo chuyện gì khác nữa? Rebecca sẽ bảo: “Tôi phải tự mình làm mẹ lấy cho mình”; đồng thời, nghĩ lại câu chuyện không may giữa cô và Joe Sedley, cô không khỏi hơi thấy đau nhói trong lòng vì thất bại.

Cho nên cô bèn khôn ngoan quyết định sẽ củng cố địa vị của mình cho vững vàng trong trại Crawley Bà chúa; nhằm mục đích ấy, cô quyết tâm kết giao với bất cứ ai sống quanh mình mà có thể can thiệp vào đời sống của cô ở đây.

Thấy Crawley phu nhân không thuộc loại này, hơn nữa bà ta lại là người rất thụ động, không có chút cá tính gì, không có chút ảnh hưởng gì trong gia đình, Rebecca thấy ngay mình không cần phải tranh thủ cảm tình của bà...mà nói cho đúng cũng không thể tranh thủ được. Cô thường nói chuyện với hai đứa học trò về “bà mẹ đáng thương” của chúng; đối với bà này cô vẫn cư xử rất lễ độ song lạnh nhạt; cô chỉ đặc biệt quan tâm đến những người còn lại trong gia đình.

Cô lấy được cảm tình của hai cô bé học trò rất dễ; phương pháp cô dùng cũng rất đơn giản: không cần bắt chúng phải nhồi sọ quá nhiều, trái lại, cứ để mặc chúng tha hồ muốn tự giáo dục ra sao tùy sở thích; bởi vì còn có phương pháp tự học. Cô học trò lớn tính hay đọc truyện; trong cái tủ sách cổ kính của trại Crawley Bà chúa có vô khối tiểu thuyết lăng nhăng xuất bản từ thế kỷ trước, tiếng Anh có, tiếng Pháp có (hồi bị sa thải, ngài bí thư văn phòng cơ mật viện đã mua khá nhiều) ; ngoài Rebecca cũng chẳng có ai rờ đến, cho nên cô ta có điều kiện vừa cho chơi mà vừa dạy được vô khối điều hay cho cô bé Rose Crawley.

Rebecca và cô bé Rose cả hai cùng đọc nhiều tiểu thuyết rất hay của Pháp và Anh, trong số đó có nhiều cuốn của vị học giả Smollett, của nhà văn lỗi lạc Henry Fielding, hoặc của ông Crebillon - nhà tiểu thuyết tài hoa, giầu trí tưởng tượng, người được thi sĩ bất hủ Gray tán tụng hết sức - và của ngài Voltaire lừng danh thế giới viết nên. Có lần Crawley hỏi hai cô em gái đọc sách gì, cô giáo dạy trẻ bèn đáp: “Smollett”. Crawley bằng lòng lắm, nói: “Ờ, Smollett.” Ông ta viết sách sử nhạt nhẽo hơn ông Hume, nhưng chắc chắn không nguy hiểm bằng. Em đang đọc lịch sử phải không?” Cô Rose đáp: “Vâng”. Cô không dám thú thực rằng cô đang đọc truyện lịch sử của Humphrey Clinker. Một lần khác, thấy em gái đọc một tập kịch tiếng Pháp, anh ta có vẻ giận; nhưng cô giáo vội thanh minh rằng mình cốt luyện cho học trò tập dùng những thổ ngữ trong tiếp Pháp khi nói chuyện; thế là anh ta tỏ vẻ rất hài lòng. Là một nhà ngoại giao, Crawley rất kiêu hãnh vì mình nói thạo tiếng Pháp (anh ta vẫn còn là người ưa xã giao); được cô giáo dạy tư trẻ tuổi luôn mồm tán tụng, anh chàng lấy làm khoái lắm.

Trái lại cô Violet có những sở thích thô bạo, ngỗ nghịch hơn chị nhiều: gà mái đẻ trứng ở chỗ kín đáo đến đâu, cô ta cũng tìm được. Cô biết trèo cây để lấy trứng chim. Được cưỡi lên lưng ngựa con non và chạy rông khắp cánh đồng như Camila thì cô khoái nhất. Cô này được ông bố cưng hơn cả, mà bọn bồi ngựa cũng quý. Anh bếp chiều cô bé, nhưng cũng sợ nhất, vì giấu lọ mứt ở đâu cũng không thoát khỏi mắt cô bé, hễ tìm thấy là lấy ăn liền...hai chị em đánh nhau luôn. Bắt được Violet phạm lỗi gì, cô Sharp không mách Crawley phu nhân, vì thế nào bà này cũng nói lại với cụ Pitt, hoặc tai hại hơn mách lại với Crawley; cô chỉ hứa rằng nếu Violet biết ngoan ngoãn và yêu quý cô giáo, thì sẽ không mách mẹ.

Đối với Crawley, bao giờ cô Sharp cũng tỏ ra lễ độ và phục tùng. Gặp những đoạn văn tiếng Pháp cô không hiểu - tuy mẹ cô ta là người Pháp - thì cô đem hỏi anh ta, và hoàn toàn được hài lòng. Ngoài việc giúp cô đọc những chuyện thông thường, anh ta còn tỏ ra tất bụng hơn giúp cô chọn lọc những sách đứng đắn khác, và thường hay trò chuyện với cô. Cô tỏ ý vô cùng khâm phục những bài diễn văn anh ta đọc trong Hội tương tế Quashimaboo; cô rất quan tâm đến bài xã luận của anh ta về vấn đề mạch nha nấu rượu bia. Một buổi tối nghe anh ta thuyết giáo, cô cảm động đến phát khóc, nói: “Ôi, thưa ngài, xin cảm tạ ngài” đoạn ngước mắt nhìn lên trời, làm cho anh chàng thỉnh thoảng cũng phải cảm động mà chiếu cố bắt tay cô một cái. Nhà quý tộc kính Chúa ấy tự nhủ: “Thế mới biết con nhà dòng dõi cũng có khác. Cô Sharp tỏ ra thông cảm với lời nói của ta biết bao, trong khi ở đây không một ai xúc động. Đối với họ, ta kín đáo quá...tế nhị quá...Phải bình dân hóa cách phô diễn mới được...nhưng cô ấy vẫn hiểu. Thân mẫu cô ấy thuộc dòng họ Montmorency kia mà”.

Hình như cô Sharp quả thật cũng có liên quan đến dòng họ nổi danh kia về bên ngoại thì phải. Dĩ nhiên cô không nói với ai rằng mẹ cô xưa là vũ nữ, nói thế có thể làm cho anh chàng Crawley rất sùng đạo kia không ưa cô.

Đã có biết bao nhiêu phụ nữ quý tộc lưu vong ra ngoại quốc bị cuộc cách mạng khủng khiếp kia làm cho khuynh gia bại sản? Trong khoảng mấy tháng đầu sống trong gia đình, cô đã bịa ra vô số chuyện về các vị tổ tiên của mình.

Ngẫu nhiên Crawley thấy có vài câu chuyện trong tập sách của ông D’Hozier, có trong tủ sách của gia đình; điều đó càng khiến anh ta thêm tin lời cô nói là thật, và yên trí Rebecca là con nhà dòng dõi. Chắc chúng ta đoán rằng (mà hẳn Rebecca cũng nghĩ thế) Crawley tò mò hỏi lai lịch, lại mò mẫm tìm tòi những chuyện ấy trong sách, ý hẳn anh chàng chú ý đến cô?...Không đâu, đó chẳng qua là vì tình bạn thân mật. Ở trên, ta chẳng đã nói rằng Crawley có gắn bó với công nương Jane Sheepshanks là gì?

Có một hai bận anh ta bắt được Rebecca đánh bài với cụ Pitt. Anh ta bảo trò chơi ấy không hợp ý Chúa, tốt hơn cô ta nên dùng thì giờ để đọc truyện “Gia tài của Thrum” hoặc truyện “Bà thợ giặt mù ở Moorfields”, hoặc một số cuốn sách đứng đắn nào khác. Nhưng cô Sharp đáp rằng xưa kia mẹ cô cũng thường hay chơi bài cùng vị bá tước già và đức cha xứ Cornet () thế là cô bào chữa được cái chuyện chơi bài và những trò giải trí trần tục khác.

Không phải cô giáo dạy trẻ chỉ biết dùng cách chơi bài để lấy lòng lão nam tước già; cô còn dùng nhiều mánhkhoé khác để tỏ ra có ích cho chủ. Cô đọc rất kiên nhẫn tất cả mọi thứ giấy tờ về việc kiện tụng; công việc này cụ Pitt đã hứa sẽ giao cho cô ngay từ khi cô chưa đến Crawley Bà chúa. Cô lại tình nguyện chép hộ rất nhiều thư từ của lão và khéo léo sửa chữa các lỗi chính tả cho thích hợp với lối viết bấy giờ.

Cô tỏ ra rất quan tâm đến tất cả mọi việc có liên quan đến tài sản, đến trại, đến vườn cảnh, vườn cây, đến chuồng ngựa. Cô đã trở thành một người bạn rất thú vị đến nỗi ít khi lão nam tước đi bách bộ tiêu cơm sau bữa ăn sáng mà không có cô đi kèm (dĩ nhiên, có cả hai cô con gái nữa). Những lúc này, cô góp ý kiến với lão về việc nên tỉa bớt cây ở bụi rậm này, nên đào đất trồng hoa ở chỗ kia, cô bàn với lão về chuyện gặt hái, hoặc về chuyện nên dùng ngựa để kéo xe hay để cày. Chưa đầy một năm, cô đã được lão nam tước hoàn toàn tin cậy; và trong bữa ăn, những chuyện trước kia lão thường trao đổi với bác quản lý Horrocks, bây giờ gần như lão chỉ nói với cô Sharp. Những khi Crawley đi vắng, Becky gần như thành bà chủ trong nhà; nhưng ở các địa vị mới mẻ và tôn quý này, cô vẫn cư xử với thái độ khôn ngoan nhã nhặn không bao giờ làm mếch lòng những kẻ có quyền chỗ bếp núc và nơi chuồng ngựa; đối với họ, bao giờ cô cũng đối đãi hết sức nhã nhặn, ngọt ngào. Cô đã thay đổi hoàn toàn, khác hẳn cô gái kiêu ngạo mà nhút nhát, bất mãn như ta thấy hồi nọ. Sự thay đổi ấy chứng tỏ cô ta rất mực khôn khéo, thực tâm muốn hối cải, và có một sự nỗ lực về tinh thần rất đáng chú ý. Cô Rebecca của chúng ta áp dụng cái chiến thuật chiều chuộng và nhã nhặn mới mẻ này có phải vì thực tâm hay không, đọc đoạn dưới chúng ta sẽ rõ. Một cô gái mới hai mươi mốt tuổi đầu khó lòng mà thực hiện một chiến thuật đạo đức giả cho trót lọt trong suốt một năm trời đằng đẵng. Nhưng xin các bạn độc giả nhớ hộ rằng, tuy tuổi còn non, nhưng Rebecca đã già dặn nhiều về kinh nghiệm sống: nếu thiên hạ đã không phát hiện rằng cô là một người đàn bà rất thông minh thì chẳng hóa ra tôi viết truyện này vô ích lắm sao?

Hai anh em trai trong gia đình Crawley giống như “mặt trăng và mặt trời”, không bao giờ cùng có mặt một lúc trong nhà...họ “thù ghét nhau một cách thân mật”. Thật thế, Rawdon Crawley, anh chàng sĩ quan ngự lâm, rất ghét cái nhà ấy; ít khi anh ta về nhà, trừ mỗi năm một lần khi có bà cô đến thăm.

Bà quý tộc già này có một đức tính quý hóa nhất, ta đã biết. Bà có số vốn bảy vạn đồng, và gần như đã nhận cho Rawdon hưởng gia tài. Bà ghét cay ghét đắng thằng cháu cả, coi anh ta như một thằng con trai xuẩn ngốc. Đổi lại, ông cháu cũng không ngần ngại tuyên bố rằng linh hồn của bà cô chắc chắn sẽ bị mất, không gì cứu vãn nổi; đồng thời anh ta cũng tin rằng số phận của em trai khi sang thế giới bên kia rồi cũng không khá hơn mấy tí. Crawley thường bảo: “Bà cụ là một người vô tín ngưỡng nhất thế giới; bà ấy đi lại với bọn vô thần, và bọn Pháp. Cứ nghĩ đến cái hoàn cảnh đáng ghê của bà ấy mà tôi rợn cả người. Gần kề miệng lỗ như bà ấy thì cũng nên từ bỏ những sự phù hoa, phóng túng, bừa bãi, điên rồ đi mới phải”. Thực ra chỉ tại bà quý tộc già đã nhất định không chịu nghe anh ta thuyết giáo buổi tối; và khi bà lão đến chơi trại Crawley Bà chúa một mình, anh ta bắt buộc phải chấm dứt những cuộc kinh Chúa sớm hơn lệ thường. Ông bố bảo con trai:

- Pitt, khi nào có cô Crawley đến chơi, đừng có giảng đạo nữa, cô đã viết thư bảo rằng cô không chịu nổi cái trò thuyết giáo ấy đâu.

- Ô thưa ba, thế còn bọn tôi tớ?

- Kệ mẹ chúng nó, cho chúng nó chết treo đi.

Cụ Pitt đáp vậy; và anh con trai nghĩ rằng nếu bọn gia nhân không được hưởng sự giáo dục của anh ta thì rồi sẽ xảy ra lắm điều không hay. Cụ Pitt thấy con trai phản đối, bèn bảo:

- Ô hay, Pitt, thôi đi? Anh lại ngốc đến nỗi để cho mỗi năm mất toi món tiền ba ngàn đồng à?

Crawley vẫn cãi:

- Thưa ba, lại đem tiền của ra so với linh hồn con người ta được ư?

- Anh định nói rằng tại bà lão không chịu cho anh hưởng gia tài chứ gì?

Ai mà biết được có phải Crawley định nói thế thật hay không.

Kể ra bà lão Crawley này cũng là một người không ra gì.

Bà ta có một căn nhà nhỏ rất ấm cúng ở công viên Lane.

Suốt mùa rét ở Luân-đôn, bà ăn nhiều quá, uống khỏe quá nên đến mùa nực bà về Harrowgate hoặc Cheltenham nghỉ mát. Trong số những bà gái già thì bà Crawley là người hiếu khách và vui tính nhất; cứ theo lời bà thì xưa kia bà cũng có nhan sắc (Chúng ta ai chẳng biết rằng hết thảy mọi bà già xưa kia đều đã từng là mỹ nhân). Bà lại là một người hay chữ (), hồi ấy là một người thuộc phe cấp tiến.

Bà đã từng sang Pháp (họ đồn rằng bà đã ấp ủ một mối tình tuyệt vọng đối với St. Just); và từ đó về sau, bà rất mê tiểu thuyết Pháp, ưa món ăn Pháp, thích rượu Pháp. Bà ham đọc Voltaire, thuộc Rousseau làu làu, bàn đến chuyện ly dị tự nhiên như không, lại kịch liệt bênh vực cho quyền lợi của giới phụ nữ. Bà treo chân dung ông Fox trong tất cả các phòng. Hồi nhà chính khách này còn ở phe đối lập, tôi không được rõ lắm về chuyện bà có cùng tiếp tay chiến đấu với ông này hay không, chỉ biết khi ông này lên cầm quyền, bà đã đưa cụ Pitt và ông bạn đồng viện đại biểu cho Crawley Bà chúa đến yết kiến, mặc dầu cụ Pitt vẫn rất có thể tự mình tìm đến lấy, không phải phiền đến sự giúp đỡ của bà lão thực thà này. Chẳng cần nói rằng sau khi nhà chính khách thuộc đảng Whig đã quá cố, cụ Pitt bắt buộc phải thay đổi quan điểm chính trị.

Hồi Rawdon Crawley còn ít tuổi, bà lão đáng quý ấy đã rất thích cậu bé; bà gửi cậu vào học trường đại học Cambridge (đối lập với trường Oxford, nơi cậu anh theo học) và sau hai năm học tập, khi chàng thanh niên bị ban giám đốc đệ nhất đại học đường kia yêu cầu rời khỏi trường, thì bà lại mua cho anh ta một chức sĩ quan trong đội quân bảo vệ hoàng gia. Anh chàng sĩ quan trẻ tuổi này quả thực là một tay “ăn chơi” khét tiếng, một tay công tử bột lừng danh. Thời ấy, đấu quyền Anh, săn chuột, chơi quả lăn, hay giong xe tứ mã là những “mốt” chơi phổ biến trong giới quý tộc nước Anh; anh ta chịu học đòi tất cả những thú chơi quý phái ấy. Vì thuộc quân đội chính quốc, do nhiệm vụ phải luôn luôn tập hợp xung quanh Hoàng tử nhiếp chính (), nên anh ta chưa có dịp trổ tài đảm lược trong việc chinh chiến ở ngoại quốc bao giờ; nhưng Rawdon Crawley cũng đã dự ba trận tỷ thí tay đôi đổ máu (tính anh ta vốn rất mê đánh bạc) và đã tỏ ra là tay biết coi khinh cái chết.

- Rồi sau cái chết thì sẽ ra sao?

Crawley vẫn nói thế, và ngước đôi mắt xanh lè nhìn lên trần nhà. Anh ta thường lo lắng cho linh hồn của em trai cũng như vẫn lo lắng cho linh hồn của những người bất đồng ý kiến với mình. Nhiều bậc đạo mạo vẫn tự cho mình được hưởng cái thú vui như thế đấy.

Còn cái bà Crawley ngu dại lãng mạn kia, sau những cuộc tỷ thí của “ông cháu cưng”, vẫn cứ bỏ tiền ra trả nợ đậy như thường, cũng chẳng thèm để lọt vào tai lấy một tiếng thầm thì bàn tán về đức hạnh của anh ta. Bà vẫn bảo: “Trăng đến rằm trăng tròn (), nó còn khá bằng vạn cái thằng đạo đức giả hay rên rỉ là anh nó kia”.

Chương 11
MỘT CHƯƠNG KHÁ LÀ TRỮ TÌNH

Ngoài những con người chân thực sống ở trại Crawley (mà tính mộc mạc và trong sạch kiểu thôn quê của họ cho thấy rằng cuộc sống thôn dã hơn hẳn cuộc sống ở thành thị), chúng tôi thấy cần giới thiệu với các bạn đọc cả những người thân của họ sống gần đây, trong nhà thờ, tức là vợ chồng ông Bute Crawley.

g quận mà lão rất thân, thế nào từ cách nhà thờ đến dăm bảy dặm đường các bạn cũng có thể nhìn thấy con ngựa cái màu hạt dẻ với đôi mục kỉnh của lão. Giọng lão khá trong, lão hay hát bài “Gió nồm, trời vẩn mây”, và khi lấy giọng cho mọi người đồng ca thì ai cũng tán thưởng.

Khi cưỡi ngựa đi săn, lão khoác một tấm áo thày tu màu muối tiêu, và lại là một trong những tay câu cá cừ nhất toàn quận.

Bà Bute Crawley, vợ lão tu sĩ, là một người đàn bà nhỏ nhắn, nhanh nhẹn; bà thường viết hộ những bài giảng đạo cho đức cha rất thánh. Vốn ưa quanh quẩn ở nhà suốt ngày cùng hai cô con gái, cho nên trong phạm vi nhà thờ bà độc quyền cai trị; bà rất khôn ngoan cho phép ông chồng được tha hồ tự do tung hoành ở ngoài. Ông ta mặc ý đi về, muốn ăn ở nhà bạn bè bao nhiêu bữa tùy sở thích, vì tính bà Bute Crawley vốn tần tiện, rất thuộc giá rượu. Kể từ khi bà ta vớ được cậu mục sư trẻ tuổi ở Crawley Bà chúa (bà là con nhà gia thế, con gái cố trung tá Hector McTavish; bà và cụ bà thân sinh xưa đã “câu” mãi mới được Bute ở Harrowgate). Bà vẫn là một người vợ đảm đang tiết kiệm.

Nhưng dầu bà có quán xuyến đến đâu, lão chồng cũng vẫn mang công mắc nợ như thường. Nguyên món tiền nợ tiền ăn tại ký túc xá trường đại học hồi bố lão ta còn sống cũng đã phải mất mười năm mới trả hết. Đến năm 179 ... vừa thoát nạn trả nợ, lão đã đánh cuộc một trăm đồng ăn một rằng con Kangaru không thắng, song nó lại đoạt giải Derby.

Từ đó lão mục sư bắt buộc phải vay nợ trả lãi cắt cổ, gỡ mãi không xong. Thỉnh thoảng bà em khác mẹ cũng có gửi giúp một trăm đồng, nhưng lẽ dĩ nhiên lão hy vọng nhất vào việc bà này từ giã cõi trần... tức là lúc: “Bỏ mẹ rồi (lão hay nói thế), Matilda phen này mất đứt về tay tôi nửa số tài sản của mụ nhé”.

Thế là lão nam tước và ông em có đủ mọi cớ mà hai anh em ruột có thể có để xích mích với nhau. Trong rất nhiều việc làm ăn của gia đình, cụ Pitt vẫn có thế hơn. Không những ông Pitt con không săn bắn, mà còn dựng một căn nhà nguyện riêng ngay trước mũi ông chú; còn Rawdon thì, ta đã biết, sắp sửa vớ được cái gia tài kếch xù của bà cô. Những chuyện tranh chấp như thế, những việc tính toán sống chết... những cuộc chiến đấu lặng lẽ giành món chiến lợi phẩm là cái gia tài... vẫn khiến cho anh em ruột càng thêm thương mến lẫn nhau trong Hội chợ phù hoa.

Chính tôi đã được biết một nhà kia, hai anh em yêu thương nhau suốt nửa thế kỷ rồi bỗng thù nhau chỉ vì một tờ giấy bạc năm đồng; cho nên không thể nào không thấy tình yêu đối với con người quả thật là một điều đẹp đẽ và lâu bền...

Vậy thì một người như Rebecca đến trại Crawley Bà chúa, cũng như việc cô ta dần dần chiếm được cảm tình của tất cả mọi người ở đây, không thể nào lọt ra ngoài con mắt của bà Bute Crawley được. Bà Bute biết rõ cả những chuyện vặt bên trại như cái thăn bò ăn bao nhiêu hôm mới hết, lần này phải giặt bao nhiêu quần áo bẩn, mé tường phía nam có bao nhiêu quả đào, khi bị mệt bà chủ uống bao nhiêu liều thuốc...Những chuyện như thế đối với một số người ở thôn quê là những chuyện rất quan trọng... Vậy thì, bà Bute không thể bỏ qua cô giáo dạy trẻ mà không chịu dò hỏi kẽ tóc chân tơ về lai lịch và tính tình của cô này. Giữa đám đầy tớ bên trại và bên nhà thờ vẫn luôn luôn có một mối cảm tình mật thiết. Các bạn đồng nghiệp bên trại sang chơi bên bếp nhà thờ bao giờ cũng được tiếp đãi một cốc rượu; về khoản này anh em bên trại vốn không được dồi dào ... cho nên bà tu sĩ có thể biết đích xác mỗi một thùng rượu bia bên trại nấu bằng bao nhiêu lúa mạch...mối quan hệ giữa giới đày tớ bên trại và bên nhà thờ càng ngày càng mật thiết cũng như giữa các vị chủ nhân vậy.

Và thông qua con đường ấy, gia đình nọ biết rõ ràng từng công việc của gia đình kia. Chuyện này có thể coi được như dĩ nhiên, bởi vì nếu bạn và em bạn ăn ở với nhau tốt, thì em bạn làm gì hà tất bạn phải chú ý; song nếu hai người xích mích với nhau thì ngay việc em bạn đi, về, bạn cũng rõ, y như bạn là mật thám theo dõi vậy.

Đến trại được ít lâu, Rebecca đã chiếm được một chỗ trong những tài liệu của bà Bute Crawley hàng ngày ghi về hoạt động bên trại. Nội dung những tài liệu ấy đại khái như sau: “Con lợn đen bị thịt rồi...nặng x cân...thăn đem muối... pa-tê thịt lợn và chân giò ăn bữa trưa...ông Cramp ở Mudbury đến bàn với cụ Pitt về việc bỏ tù John Blackmore...Pitt họp mọi người để giảng đạo (có ghi đủ tên người đến dự nghe) ... Mụ kia vẫn bình thường... hai cô con gái chơi với cô giáo.

Tài liệu còn cung cấp thêm : ... “cô giáo : ... “cô giáo mới là một người quản lý rất hiếm có...Cụ Pitt rất “cưng” cô này... cả ông Crawley cũng vậy... ông ta đọc cả sách đạo cho cô nghe” ...

- Cái quân côi cút khốn nạn!

Bà Bute Crawley bé nhỏ, nóng nảy, năng nổ mặt đen ấy giận quá thốt lên như vậy.

Cuối cùng, tài liệu cho biết “cô giáo đã được lòng khắp mọi người, cô viết thư hộ cụ Pitt, lo việc cho cụ, tính toán tiền nong giúp cụ...còn được tin cậy hơn bất cứ ai trong nhà, kể cả phu nhân; ông Crawley và các cô...”; đọc đến đây bà Bute Crawley tuyên bố Rebecca là một con ** xảo quyệt, chắc đang ngấm ngầm mưu toan chuyện gì ghê gớm lắm đây. Cứ thế, mọi việc xảy ra bên trại trở thành đầu đề bàn tán bên bàn thờ, và đôi mắt sắc của bà Bute luôn luôn theo dõi tất cả mọi diễn biến bên doanh trại của đối phương...và còn nhiều hơn cả mọi sự có thực nữa.

Bà Bute Crawley gửi bà Pinkerton, Mall, Chiswick.

Thánh đường, Crawley Bà chúa, ngày...tháng chạp.

Quý bà thân mến,

Từ ngày tôi được thụ hưởng sự giáo dục quý báu vô giá của bà tới nay kể đã bao nhiêu năm rồi nhưng tôi vẫn không sao quên được mối tình yêu kính nồng thắm đối với bà Pinkerton, và Chiswick thân yêu. Mong rằng bà vẫn mạnh khỏe. Công việc xã hội và nhiệm vụ giáo dục hàng chục năm nữa vẫn cần đến sự có mặt của bà Pinkerton. Bà bạn tôi là Fuddleston phu nhân có nói chuyện rằng muôn tìm một cô giáo để trông nom mấy cô con gái (tôi nghèo quá, không đủ tiền nuôi cô giáo dạy con tôi); tôi bảo: “Ngoài con người tài năng không ai sánh kịp là bà Pinkerton, còn ai đáng hỏi ý kiến hơn ?” Nói tóm lại, thưa bà, trong số học sinh tại quý trường, liệu có cô nào đảm đương tốt trách nhiệm trên tại nhà bà bạn tôi được chăng? Tôi xin cam kết rằng bà bạn tôi nhất định không mượn ai làm cô giáo ngoài người được bà lựa chọn.

Nhà tôi thường hay nói rằng ông ấy thích tất cả những thứ gì của trường bà Pinkerton. Tôi thiết tha mong mỏi có dịp được giới thiệu nhà tôi và hai cháu với người bạn thân của tôi thời còn trẻ, và là người đã từng được vị từ điển học đại danh của nước ta hâm mộ. Nếu bà có dịp đi qua Hampshire, ông Crawley nhà tôi nhờ tôi thưa rằng rất hy vọng được bà chiếu cố đến các thánh thất quê mùa của chúng tôi Đó là tệ xá của...

Người bạn thân thiết của bà Macta Crawley

T.B. Vị nam tước anh ruột ông Crawley nhà tôi cùng chúng tôi, than ôi! Vẫn không được hòa thuận như lẽ ra những con chiên ngoan đạo phải như vậy. Ông ấy mới mượn một cô giáo để dạy hai cô con gái; tôi nghe nói cô ta có cái may mắn đã được giáo dục ở Chiswick. Tôi được nghe phong thanh nhiều tin tức về cô ta; vì tôi rất quý hai đứa cháu gái tôi...tuy hai nhà có sự bất hòa, nhưng tôi vẫn mong được coi chúng như con đẻ... và vì tôi rất muốn chú ý đến bất cứ cô học trò nào đã được bà dạy dỗ, cho nên, thưa bà Pinkerton thân mến, xin bà cho tôi được rõ lai lịch của cô thiếu nữ ấy; vì nhớ đến bà, tôi rất muốn kết bạn với cô ta.

M. C.

Bà Pinkerton gửi bà Bute Crawley Johnson Haox,

Chiswick, tháng chạp năm 18...

Bà bạn thân mến, Tôi có hân hạnh nhận được thư bà, vội viết thư trả lời ngay. Được có người hưởng ứng công việc giáo dục của chúng tôi, nặng nề, là việc giáo dục con trẻ. Càng hân hạnh hơn được biết cô Martha MacTavish nhí nhảnh và giỏi giang, cô học trò xuất sắc ngày xưa của tôi, nay đã là bà Bute Crawley. Tôi rất sung sướng hiện được chăm sóc rất nhiều con em của những người xưa đã là bạn đồng học của bà...nếu như các cháu gái yêu quý nhà ta ưng để cho tôi săn sóc việc học tập thì thật là hân hạnh.

Nhân tiện xin gửi lời kính chào Fuddleston phu nhân và rất hân hạnh được giới thiệu (bằng thư) với phu nhân hai cô bạn gái của tôi là cô Tuffin và cô Hawky.

Cả hai cô đều hoàn toàn đủ tư cách dạy các ngoại ngữ Hy-lạp, La-tinh và tiếng Do Thái thông dụng, các môn toán học và lịch sử, các ngoại ngữ Tây-ban-nha, Pháp, Ý, và môn địa lý, âm nhạc (thanh nhạc và nhạc khí), có thể khiêu vũ không cần phải có thầy bên cạnh hướng dẫn, lại thạo cả những kiến thức về khoa học tự nhiên. Cả hai đều sử dụng quả địa cầu rất khéo. Không những thế, cô Tuffin là con gái của cố đức cha Thomas Tuffin (cựu sinh viên học đường Corpus, Cambridge) còn dạy được cả tiếng Sy-ri, và cả khoa Hiến pháp thường thức nữa. Song, vì cô ta mới có mười tám tuổi, lại rất xinh đẹp, nên có lẽ cô ta không tiện giúp việc tại gia đình ngài Huddleston Fuddleston.

Trái lại, cô Letitia Hawky không được xinh lắm, đã hai mươi chín tuổi, mặt rỗ nhằng nhịt, dáng đi hơi khập khiễng, tóc đỏ, mắt hơi hiếng một chút. Cả hai cô đều ngoan đạo và hạnh kiểm tốt như nhau. Dĩ nhiên về tiền thù lao thì tùy theo tài năng của họ.

Xin trọng kính chào đức cha Bute Crawley.

Kẻ đầy tớ trung thành và phục tùng nhất của bà.

Barbara Pinkerton.

T.B. Cái cô Sharp mà bà nói chuyện là cô giáo dạy tư trong gia đình tôn ông Pitt Crawley, nam tước, nghị sĩ quốc hội: trước kia cô ta là học trò của tôi; tôi không có điều gì phàn nàn về cô ta. Mặc dù bề ngoài cô ta coi không được dễ chịu lắm, song không thuộc tạo hóa theo ý ta được. Tiếng tăm của bố mẹ cô ta cũng không được tốt lắm (bố cô ta xưa là một họa sĩ, đã nhiều phen phá sản; còn mẹ cô ta, điều này tôi biết mà sợ quá, là một vũ nữ ở rạp Opera); tuy nhiên cô ta có rất nhiều khả năng, và tôi cũng không ân hận rằng đã nuôi dạy cô ta hoàn toàn vì lòng nhân từ.

Người ta giới thiệu với tôi mẹ cô ta là một nữ bá tước người Pháp, vì trốn tránh những sự khủng khiếp của cuộc cách mạng mà phải lưu vong ra nước ngoài, nhưng tôi khám phá ra chính thức bà ấy chỉ là một kẻ hạ tiện, tính tình đồi bại; điều tôi sợ nhất là tính tình bà mẹ có thể, một lúc nào đó, có tính chất gia truyền, và phát lộ ra ở cô con gái mà tôi coi là quân bỏ đi. Nhưng cho đến bây giờ, cách ăn ở của cô ta cũng đứng đắn (tôi tin vậy), và tôi yên trí rằng sẽ không có chuyện gì xảy ra làm thay đổi tính tình cô ta trong phạm vi gia đình lịch sự và thượng lưu của ngài Pitt Crawley danh tiếng.

Cô Rebecca Sharp gửi cô Amelia Sedley.

Đã mấy tuần nay, em chưa viết được thư thăm chị Amelia thân mến, vì những chuyện vặt vãnh hàng ngày ở “trại Chán ngấy” (em vừa đặt tên thế đấy) chẳng đáng kể chị nghe; chị để ý làm quái gì đến củ cải kỳ này thu hoạch nhiều hay ít, con lợn béo cân nặng mười ba hay mười bốn ston hoặc bầy gia súc ăn củ cải đường, có béo hay không. Từ bữa viết thư cho chị, ngày nào cũng giống như ngày nào. Trước bữa ăn sáng, đi bách bộ một lượt với cụ Pitt cùng chiếc nạng của lão, ăn sáng xong, dạy học (cũng gọi là dạy học!) trong phòng học, rồi cùng cụ Pitt đọc và viết về những chuyện thày kiện, chuyện cho tương lai, chuyện mỏ than, kênh đào (em đã thành thư ký của lão rồi đấy); cơm trưa xong, nghe ông Crawley thuyết lý, hoặc đánh bài với lão nam tước; mặc em chọn cách giải trí, nam tước phu nhân chỉ nhìn một cách thản nhiên. Hình như dạo này bà ta đẹp ra vì mới ốm, và do đó mới có thêm một vị khách đến trại, tức là một ông bác sĩ trẻ tuổi. Phải, chị ạ, đàn bà còn trẻ, không bao giờ cần phải tuyệt vọng. Ông bác sĩ trẻ tuổi có bắn tin với một người bạn của chị rằng nếu em muốn trở thành bà Glauber thì sẽ được sẵn sàng đón tiếp để trang điểm thêm cho bộ mặt của phòng thuốc. Em mới bảo cái ông trơ tráo ấy rằng ông đã có cái chày mạ vàng và cái cối tán thuốc, nhà cửa thế cũng đẹp chán rồi. Như thể em sinh ra là để làm vợ một ông thày thuốc nhà quê ấy không bằng! Bị cự tuyệt tàn nhẫn, ông Glauber giận lắm, bèn trở về nhà uống một cốc nước lạnh, và thế là khỏi hẳn bệnh tương tư. Cụ Pitt rất tán thành quyết định của em; giá bị mất cô thư ký bé bỏng chắc cụ buồn phiền lắm đấy. Em tin rằng lão ma bùn ấy quý em cũng chẳng hơn gì lão vẫn hay quý báu người khác. Lấy chồng, phải, mà lại lấy một ông lang nhà quê, sau này...không, không làm sao người ta có thể quên ngay những chuyện cũ nhanh chóng như vậy; nhưng thôi, em chả nói nữa. Chúng ta hãy trở lại câu chuyện ở “Trại chán ngấy”.

Khoảng ít lâu nay, không còn phải là “Trại chán ngấy” nữa rồi. Chị ạ, bà Crawley đến chơi, mang theo đủ cả ngựa béo, đầy tớ béo, chó béo...tức là cái bà lớn Crawley giầu nứt đố đổ vách, có bảy vạn đồng bạc vốn đặt lãi đồng niên năm phần trăm...bà ta (hoặc đúng hơn là món tiền ấy) được hai ông anh trai thi nhau thờ phụng. Bà lão đáng quý hình như bị bệnh chóng mặt thì phải; thảo nào hai ông săn sóc bà em chu đáo gớm. Họ tranh nhau đưa gối cho bà tựa, đưa cà phê cho bà uống. Bà cụ bảo: “Khi nào tôi về quê thì tôi không cần đem vú già Briggs đi theo vì , cô ạ, ở đây hai ông anh tôi là vú già, một đôi vú già giỏi việc ra phết”.

Bà ta cũng hay khôi hài lắm.

Bà Crawley mà về quê chơi thì cả trại tưng bừng hẳn lên, và ít nhất là trong một tháng, tưởng như ngài Walpone xưa kia sống lại. Chúng em tha hồ dự tiệc và đi chơi bằng xe bốn ngựa...bọn hầu giở những bộ chế phục mới nhất màu vàng thanh ra mặc. Chúng em uống rượu vang và rượu sâm banh thỏa thích y như từ xưa đến nay hàng ngày vẫn quen uống như thế. Trong phòng học, được phép thắp nến, và lại được đặt cả lửa để sưởi. Crawley phu nhân phải lấy trong tủ một bộ áo màu xanh lá đậu đẹp nhất ra mặc; còn hai cô học trò của em thì vứt đôi giày nặng chình chịch và bộ áo kép chật ních bằng vải ta-tăng rũ rích đi, mặc áo choàng bằng voan, đi tất lụa, đúng kiểu tiểu thư con gái các vị nam tước. Hôm qua, Rose đến tìm em, trông thương hại quá...con lợn giống Wiltshire (cô bé thích con lợn này lắm) húc cô ta ngã, và dẫm lên trên làm hỏng cả bộ áo lụa hoa lila đẹp lắm...giá việc này xảy ra độ một tuần lễ trước, thế nào cụ Pitt cũng chửi rầm lên, cũng béo tai cô bé khốn khổ và bắt cô ta phải ăn bánh nhạt uống nước lã ít nhất là một tháng. Nhưng lão chỉ bảo: “Này, bao giờ cô mày về tỉnh rồi, ta sẽ bảo cho”, rồi cười, y như coi chuyện ấy là không đáng quan tâm. Mong rằng trước khi bà Crawley về cơn giận của lão cũng qua đi. Em mong thế vì em quý Rose lắm. Thế mới biết đồng tiền khéo giúp người ta hòa thuận với nhau thật!

Xem cách ăn ở của hai anh em nhà Crawley- em muốn nói cụ Pitt và ông em cố đạo - chứ không phải hai anh em ông Crawley kia đâu; mới lại thấy bà Crawley và món tiền bảy vạn đồng còn có thêm một tác dụng rất hay nữa: quanh năm họ ghét nhau như đào đất đổ đi, vậy mà đến lễ Giáng sinh, họ lại quý nhau như vàng. Năm ngoái, em đã viết thư kể cho chị rõ chuyện ông thày tu đáng ghét hay thi ngựa ấy vẫn có thói thích lải nhải thuyết giáo với chúng em ở nhà thờ, mà cụ Pitt thì cứ ngáy khò khò để trả lời. Khi bà Crawley đến chơi thì chẳng hề nghe thấy nói có chuyện gì xích mích... Bên trại sang thăm bên nhà thờ, và ngược lại.Vị mục sư và ngài nam tước bàn những chuyện nuôi lợn chuyện săn trộm, chuyện làm ăn trong quận một cách hỷ hả nhất đời, chén chú chén anh với nhau không hề to tiếng. Em chắc rằng. .. nhất định là bà Crawley không muốn thấy hai người xích mích với nhau, và thề rằng bà sẽ cho gia đình nhà Crawley ở Shropshire mà thông minh ra, thì em chắc sẽ vớ được món tiền ấy. Nhưng chết cái lão Crawley ở Shropshire kia cũng là thày tu, giống ông anh họ ở Hampshire; một lần đưa ra mấy câu đạo đức quá, bị bà Crawley ghét cay ghét đắng tức tốc bỏ đi ngay (chả là bà giận mấy ông cháu đằng này, bèn sang đấy chơi); chắc lão kia cũng muốn giở trò giảng đạo trong nhà hắn.

Lúc bà Crawley đến chơi, sách giảng đạo của chúng em phải cất kín một chỗ, còn ông Pitt, người bị bà ta ghét cay đắng thì tự thấy nên lánh mặt ra tỉnh chơi. Mặt khác cái anh chàng công tử trẻ tuổi... “tay chơi” , gọi thế mới đúng...tức là đại úy Crawley lại mò tới, có lẽ chị cũng muốn biết qua anh chàng là người thế nào.

Phải, anh ta là một cậu công tử trẻ tuổi, cao lớn. Người cao đến sáu bộ, tiếng nói oang oang, văng tục luôn mồm, thích quát tháo đầy tớ vậy mà họ quý anh ta ra phết, anh ta vốn rất rộng rãi về chuyện tiền nong, cho nên sai bọn đầy tớ gì chúng cũng làm ngay. Tuần trước một viên mõ tòa và người thừa sai từ Luân-đôn xuống để bắt anh chàng đại úy; họ đang lần mò ngoài bức tường bao quanh vườn cảnh thì bị bọn gác bắt được, suýt nữa bị giết, chúng đánh cho một trận, đem trấn nước, và sắp sửa đem bắn về tội săn trộm, thì lão nam tước can thiệp tha cho.

Em thấy rõ anh chàng đại úy này rất khinh bố đẻ, anh ta gọi bố là lão xuẩn, lão bần tiện, lão nhà quê, và nhiều tên hiệu khác hay ho nữa. Đối với phụ nữ, anh chàng khét tiếng một cách đáng sợ. Anh ta đem cả ngựa săn về nhà, chơi bời với bọn tai mắt trong quận; anh ta tùy thích mời ai ăn tiệc thì mời, cụ Pitt không dám từ chối sợ bà Crawleyphậtý, sau này sẽ mất phần trong tờ di chúc khi bà ta chết về bệnh chóng mặt. Có nên kể chị nghe chuyện anh chàng đại úy tán tỉnh em thế nào không nhỉ? Em cứ kể, chuyện hay lắm. Một buổi tối, chúng em tổ chức khiêu vũ. Có tôn ông Giles Wapshot cùng hai cô con gái và không rõ bao nhiêu người khác nữa tới dự. Thế rồi em nghe thấy anh chàng bảo: “Lạy Chúa, cô ta trông kháu khỉnh quá”, ấy là muôn ám chỉ đứa đầy tớ thấp kém của chị đấy. Anh ta lại chiếu cố nhảy với em hai điệu nhảy dân gian. Anh ta cười cười nói nói rất thoải mái vui vẻ với những nhà quý tộc trẻ tuổi, uống rượu, đánh cuộc, cưỡi ngựa, và nói chuyện cùng họ về việc săn bắn. Nhưng anh ta bảo bọn con gái nhà quê “buồn” lắm; kể ra em thấy anh ta nói cũng không sai. Giá chị được thấy đối với em họ kênh kiệu thế nào nhỉ! Trong khi họ khiêu vũ, em cứ phải ngồi nín thinh chơi dương cầm. Nhưng đêm hôm nọ, anh ta ở phòng ăn bước ra, mặt hơi đỏ; thấy em bị đối đãi như vậy, anh ta lớn tiếng tuyên bố rằng em nhảy giỏi nhất đám, và thề độc rằng thế nào cũng phải mượn vài người nhạc công ở Mudbury về.

- Để tôi chơi một điệu nhảy dân gian cho. Bà Bute Crawley nhanh nhảu nói (bà này đã có tuổi, mặt đen, quấn khăn, hơi hơi gù, mắt thì hấp ha hấp háy); Rebecca đáng thương của chị cùng anh chàng đại úy vừa nhảy xong một bài thì, chị có biết không, bà ta lại ban cho em cái hân hạnh là khen em nhảy đẹp! Thật chưa bao giờ có chuyện lạ như vậy. Cái bà Buten Crawley kiêu ngạo ấy là em họ bá tước Tiptoff, bà này đã không thèm hạ mình xuống mà đến thăm Crawley phu nhân, trừ trường hợp có bà em chồng ở tỉnh về chơi. Thật đáng thương cho Crawley phu nhân! Phần lớn khoảng thời gian những buổi họp mặt vui vẻ như thế bà ta phải nằm trên gác uống thuốc.

Tự nhiên bà Bute thân thiết với em quá. Bà ta bảo: “Cô Sharp thân yêu, sao cô không đưa hai em nó sang bên nhà thờ. Các em, nó bên này thích được chơi với hai chị nó lắm đấy”. Em biết bà ta có ý định gì rồi. ông Clementi thật đã không uổng công dạy em chơi đàn dương cầm; bà Bute định lợi dụng em dạy đàn cho con bà đấy; em cứ là đi guốc vào bụng bà ta; nhưng rồi em cũng sang...em quyết định sẽ làm vừa lòng bà ta;. .. Đó là nhiệm vụ của một cô giáo dạy trẻ nghèo không bè bạn, không người che chở, phải không chị ? Bà vợ nhà tu sĩ khen mãi rằng học trò của em rất tấn tới; bà ta nghĩ rằng em cảm động lắm, chắc thế...cái bà nhà quê giản dị ấy mới đáng thương chứ.... Làm như em chú ý đến học trò lắm đấy!

Chị Amelia thân yêu ơi, em mặc cái áo voan Ấn Độ và cái áo lụa hồng chị cho, họ bảo tôn vẻ người lên nhiều lắm. Bây giờ cũng đã cũ lắm rồi, nhưng chị cũng rõ đấy, con gái nhà nghèo chúng em lấy tiền đâu ra mà may áo mới (). Chị sung sướng thật chỉ cần đánh xe ngựa trên phố St. James, thế là muốn mua thứ gì thì bác mua cho ngay. Thôi, tạm biệt chị.

Thân mến.

Rebecca.

T.B. Hai chị em cô Blackbrooks (con gái đô đốc Blackbrooks) là hai cô tiểu thư trẻ, đẹp, mặc toàn áo may ở Luân đôn; giá chị được nom thấy mặt hai cô lúc đại úy Rawdon chọn mời em cùng nhảy. Em vẽ họ dưới đây này, giống họ như hệt. Thôi, tạm biệt, tạm biệt.

Bà Bute Crawley giả dối với Rebecca, nhưng cô gái thông minh này cũng biết thừa. Lúc đã được Rebecca hứa sẽ sang thăm bên nhà thờ, bà bèn vận động với bà già Crawley, con người vô cùng thế lực, để bà này khuyên bảo cụ Pitt. Bà già tốt bụng này vốn ham vui, lại ưng mọi người xung quanh cũng vui vẻ sung sướng như mình, bằng lòng ngay; bà sẵn sàng nối lại mối dây hòa thuận thân thiết giữa hai anh em ruột. Hai bên thỏa thuận rằng từ rày trở đi con trẻ hai nhà sẽ sang chơi với nhau: và dĩ nhiên sự hòa thuận chỉ bền trong phạm vi thời gian bà cụ già còn cầm cán cân hòa giải.

Trên đường về nhà, khi qua vườn cảnh, nhà tu sĩ hỏi vợ:

- Sao bà lại đi mời cái thằng Rawdon Crawley chó má ấy ăn cơm làm gì? Sao mà tôi ghét nó thế. Nó khinh bọn quê mùa chúng mình như bọn mọi đen ấy. Chưa moi được những chai rượu gắn si vàng của tôi ra uống thì nó chưa yên đâu; mười si-linh một chai đấy, mẹ kiếp! Mà tính tình nó mới khiếp chứ...cờ bạc như ranh...rượu chè be bét...hư hỏng đủ mọi phương diện. Có lần nó đấu súng bắn chết một người đấy. Công nợ thì ngập mặt. Mà nó đã nẫng tay trên mất của mình phần lớn gia tài của bà Crawley cơ chứ. Bà lão bảo rằng (nói đến đây, vị tu sĩ nắm quả đấm giơ lên mặt trăng, lẩm bẩm cái gì như thề độc, rồi buồn rầu tiếp) sẽ ghi vào tờ di chúc cho nó năm vạn đồng. Thế là không còn được lấy ba vạn để chia nhau.

Bà vợ thầy tu đáp:

- Tôi nghe bà ấy cũng sắp “ngoẻo” đến nơi rồi. Lúc ăn cơm xong, tôi thấy mặt bà ấy đỏ quá. Tôi phải nới bớt dải áo hộ.

Ông thày tu đáng kính nói khe khẽ:

- Bà ấy uống bảy cốc sâm-banh; mà cái lão anh mình nó muốn đầu độc mình chắc, sâm-banh gì mà tởm thế...nhưng bọn các bà có biết cái quái gì...

Bà Bute Crawley đáp:

- Phải, chúng tôi thì còn biết gì.

Ông thày tu lại tiếp:

- Ăn cơm xong, bà ấy uống rượu mạnh, lại uống cà-phê pha với ca-cao. Cho tôi một tờ giấy năm đồng bắt tôi uống một cốc tôi cũng xin chịu. Nó kích thích tim thì có mà chết đứt. Đố bà ấy chịu nổi; bà Crawley ấy...thế nào cũng ngoẻo... xương thịt Matilda chỉ một năm nữa là đi đứt.

Hai vợ chồng ông thầy tu vừa đi vừa trịnh trọng tính toán với nhau, đồng thời nghĩ đến những món nợ, nghĩ đến con trai là Jim nội trú ở trường đại học, và Frank ở Woolwich, cùng bốn cô con gái; bốn cô này chẳng cô nào trông ra hồn người, một xu dính túi không có, chỉ nhòm vào tờ di chúc tương lai của bà cô.

Im lặng một lúc…

- Pitt lại khốn nạn đến mức bán trước quyền kế thừa cai quản à? Cái thằng con trưởng, cái thằng dát như cáy ấy lại đang nhấp nhổm vào Quốc hội cơ đấy.

Bà vợ đáp:

- Lão Pitt Crawley thì còn từ cái gì. Mình phải xin bà Crawley bắt lão hứa lo việc ấy cho thằng James mới được.

Ông em quý nói:

- Lão Pitt thì “trăm voi chẳng được bát nước xáo”. Xưa lão đã hứa rằng khi ông cụ mất đi, lão sẽ trả hết tiền phí tổn nội trú ở trường đại học cho tôi; lão hứa sẽ xây thêm một gian phụ cho nhà thờ; lão còn hứa cho tôi đám ruộng của thằng Jibb, và cái bãi cỏ sáu ây-cơ...nói cứ như rồng như phượng ấy! Lại cũng chính cái thằng con trai lão.. . cái thằng chó đểu, bài bạc, bịp bợm, sát nhân ấy, tức là thằng Rawdon Crawley, nó vớ được phần gia tài to nhất của bà Matilda. Chúa nào chứng cho chúng nó. Cái quân chó má ấy nó có đủ mọi thói xấu trên đời, không kể thói đạo đức giả là thói xấu thằng anh nó giữ độc quyền.

Bà vợ bảo:

- Xuỵt, im đi ông lão. Chúng mình đang ở trên đất của lão Pitt đấy.

- Bà Crawley, tôi đã nói là hắn có đủ mọi thói xấu. Bà đừng có chèn tôi. Thế nó không bắn chết đại úy Marker là gì? Chẳng phải nó bóc lột nhà quý tộc trẻ tuổi Dovedale ở quán “Cây dừa” thì là ai? Nó hay thằng nào ngăn cản cuộc đánh nhau giữa là thằng Bill Soame và Cheshire Trump, làm cho tôi mất toi bốn mươi đồng bạc tiền đánh cuộc. Bà còn lạ gì những chuyện ấy. Còn về chuyện trai gái thì bà còn nhớ có lần ngay trong phòng xử kiện, trước mặt tôi...

Bà vợ đáp:

- Ông Crawley ơi; thôi, tôi van ông, đừng giở những chuyện ấy ra với tôi nữa.

Lão thầy tu cáu quá, nói:

- Thế mà bà đi mời cái thằng khốn nạn ấy đến nhà? Chính bà đã đẻ ra một lũ con, lại là vợ một tu sĩ của Nhà thờ Anh quốc. Trời đất ơi!

Vợ lão cười khinh bỉ đáp:

- Ông Bute Crawley, ông ngu xuẩn lắm.

- Được lắm, thưa bà. Ngu xuẩn hay không...Martha ạ, tôi không nói rằng tôi khôn ngoan được như bà; không phải thế. Nhưng tôi không muốn nhìn mặt thằng Rawdon, rõ chưa? Tôi sẽ đi thăm Huddleston xem con chó mực của lão rồi đi thăm bà Crawley. Tôi sẽ bỏ ra năm mươi đồng đánh cuộc con Lancelot chạy thi sẽ ăn đứt con chó kia, hoặc bất cứ con chó Anh nào khác. Nhưng nhất định tôi không nhìn mặt cái thằng Rawdon Crawley chó má.

Bà vợ đáp:

- Ông Crawley ơi, ông lại say như mọi khi rồi.

Sáng hôm sau, lúc lão thầy tu ngủ dậy gọi lấy rượu bia để “súc miệng”, bà vợ nhắc lão nhớ lại dự định đi thăm ngài Huddleston Fuddleston vào hôm thứ bảy: Lão yên trí thế nào cũng được một đêm say sưa nên trù tính sáng chủ nhật sẽ phi ngựa trở về nhà thờ sớm cho kịp giờ làm lễ. Thế mới biết bọn con chiên trong xứ đạo Crawley sung sướng thật, vì ông cha xứ của họ chẳng thua gì nhà quý tộc chúa đất.

Chưa ở chơi được bao lâu mà bà Crawley, cái bà lão dửng mỡ người kinh đô ấy, đã bị ma lực của cô Rebecca quyến rũ, như cô đã quyến rũ bao nhiêu tâm hồn trong trắng khác ta đã biết. Một hôm, cùng giong xe ngựa đi chơi theo lệ thường, bà thấy cần ra lệnh cho “cô giáo bé bỏng” theo mình về chơi Mudbury. Trong cuộc đi chơi, Rebecca đã chinh phục được bà; cô đã làm được cho bà này cười bốn bận, và khiến bà rất vui lòng suốt bữa đó. Cụ Pitt định tổ chức một bữa tiệc long trọng mời khắp mặt các nhà quý tộc trong vùng đến dự. Bà Crawley nói với cụ Pitt:

- Sao lại không để cho cô Sharp dự tiệc? Này bác, bác nghĩ tôi có thể bàn chuyện giáo dục con trẻ với Fuddleston phu nhân hoặc thảo luận về pháp luật với cái con ngỗng là lão Giles Wapshot được chăng? Tôi muốn để cô ta cùng dự tiệc. Nếu không đủ chỗ thì bảo Crawley phu nhân ở trên gác. Nhưng còn cô Sharp...chết chưa? Cả hàng quân, chỉ có mình cô ta nói chuyện còn nghe được!

Dĩ nhiên, sau cái mệnh lệnh dứt khoát ấy thì cô giáo dạy trẻ Sharp được lệnh ra cùng ngồi dự tiệc ở dưới nhà.

Rồi đến khi ngài Huddleston, dáng điệu hết sức trang trọng kiểu cách, khoác tay bà Crawley bước vào phòng ăn, và sắp sửa ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh, thì bà già này bỗng kêu lên the thé:

- Becky Sharp? Cô Sharp! Lại đây, ngồi cạnh tôi cho vui; để ngài Huddleston ngồi cạnh Wapshot phu nhân cũng được.

Tan tiệc, khách khứa đã lên xe ngựa ra về cả, bà Crawley vẫn chưa thỏa mãn, còn bảo:

- Becky, lên phòng trang điểm của tôi nhé; chúng ta sẽ nói xấu bọn họ nghe chơi với nhau.

Mà thật, ngồi riêng với nhau, đôi bạn tri kỷ đã làm đúng như lời. ông lão Huddleston lúc đang ăn tiệc cứ luôn mồm thở phì phà phì phò. Còn ngài Giles Wapshot thì có lối húp “xúp” kêu cứ òm ọp; bà vợ mắt trái làm sao cứ hấp ha hấp háy; những nét đặc biệt ấy cũng như những câu chuyện buổi tối Becky rí rỏm tả lại rất tài: nào là chuyện chính trị, chuyện chiến tranh, chuyện họp Quốc hội, chuyện đua ngựa và bao nhiêu là chuyện quan trọng nhạt nhẽo mà cái bọn quyền quý xứ quê vẫn thích nói với nhau. Còn bộ áo của hai cô con gái nhà Wapshot và cái mũ vàng nổi danh của Fuddleston phu nhân thì bị cô Sharp “xé rách tơi tả”; bà thính giả nghe chuyện khoái trá vô cùng. Bà bảo:

- Cô em ơi, cô thật là một báu vật () vô song. Ước gì cô đi được Luân đôn với tôi nhỉ. Nhưng tôi không thể đem cô ra làm trò cười như đối với mụ Briggs được; không, không... cô gớm lắm, cô quá thông minh...phải không, Firkin?

Bà Firkin đang chải mấy sợi tóc lơ thơ còn bám vào sọ bà Crawley ngẩng phắt mặt lên đáp một cách hết sức mỉa mai: “Dạ, cô ấy thông minh lắm ạ”; nói cho đúng thì bà Firkin cũng có tính ghen ghét, đó là cái nguyên tắc xử thế chung của tất cả mọi người đàn bà lương thiện.

Sau bữa cự tuyệt ngài Huddleston Fuddleston, bà Crawley ra lệnh cho Rawdon Crawley ngày nào cũng phải khoác tay dẫn bà vào phòng ăn; Cô Becky thì ôm chiếc gối đi theo sau...hoặc cô khoác tay bà, còn Rawdon ôm gối cũng được. Bà bảo:

- Chúng mình phải ngồi cạnh nhau mới xong; cô em ạ, khắp quận này chỉ có ba chúng ta là những con chiên ngoan đạo tư duy nhất thôi đấy.

- Nếu quả thế thì đạo chúa trong quận Hants cũng đang “xuống” quá thật.

Bà Crawley không phải chỉ biết “ngoan đạo” một cách lý thú như thế, bà còn là người có nhiều tư tưởng hết sức tự do; bà luôn luôn tìm cơ hội phát triển những tư tưởng áy một cách rất tự nhiên. Bà thường bảo Rebecca:

- Này cô em, dòng dõi là cái gì? Cô cứ trông ông Pitt, anh tôi và gia đình Huddleston; họ sinh cơ lập nghiệp ở đây từ triều vua Henry đệ nhị đấy. Cô cứ trông lão Bute đáng thương với cái chức mục sư kia... trong bọn họ có người nào thông minh và có giáo dục bằng cô không? Bằng cô à bọn họ so với mụ Briggs người hầu của tôi, và bác Bowls, quản gia của tôi, cũng chưa bằng ấy chứ. Cô em đáng yêu ạ, cô là một người hoàn toàn...một quý vật, dứt khoát thế đấy... Trí tuệ nửa vùng này góp lại cũng không bằng được cô đâu. Nếu quả thật con người ta có phúc là có phận thì cô phải làm một bà công tước mới xứng... Không, ở đời không cần có những bà công tước làm gì: nhưng cô không nên chịu thua kém ai; cô em ạ, tôi coi cô ngang hàng tôi về mọi phương diện đấy, và...kìa cô, bỏ hộ tôi thêm ít than vào lò với, cô sửa lại chiếc áo dài này hộ tôi nhé; cô tài may vá lắm, chẳng ai bằng.

Cứ thế, bà lão nhân từ thường nhờ cô ta đưa thư giúp mình, chải tóc hộ, và đêm đêm đọc tiểu thuyết Pháp để bà nghe, cho đến lúc bà ngủ say mới thôi.

Vào thời đó, một số độc giả có tuổi chắc còn nhớ, giới quyền quý đang rất sôi nổi bàn tán về hai việc xảy ra, khiến cho theo lời vài tờ báo, mấy ông quý tộc áo () có việc làm ăn. Viên hạ sĩ cầm cờ Shafton trốn biệt tích cùng công nương Barbara Fitzurse là con gái và người thừa kế của bá tước Bruin; còn ông Vere Vane, là một nhà quý tộc tuổi đã tứ tuần, tính tình xưa nay vẫn đứng đắn, lại là chủ một gia đình đông con, đột nhiên quái gở thay, bỏ nhà đi theo bà Rougemont, một đào hát già đã sáu mươi nhăm cái xuân xanh?

Bà Crawley nói:

- Tôi thích nhất là những người biết noi gương sáng của Quận công Nelson. Ông ta chết vì một người đàn bà. Làm tài trai phải biết sống như vậy mới đáng mặt. Tôi vẫn ưa những cuộc hôn nhân táo bạo ... điều tôi thú nhất là một nhà quý tộc lấy con gái một người thợ xay bột làm vợ, y như bá tước Flowerdale ngày xưa ấy...làm cho bọn đàn bà tức điên lên... Này cô em, ước gì có một nhà tai mặt nào đi trốn với cô nhỉ; trông cô cũng xinh đấy chứ?

Rebecca đáp:

- Đi trốn với hai anh phu trạm? Ồ, thú vị ấy.

- Và điều thứ hai tôi thích là một anh con trai nghèo xác xơ đi trốn với một cô con gái nhà giàu. Tôi đang mong cho thằng Rawdon đi trốn với đứa nào thì hay.

- Đi trốn với một người giầu, hay một người nghèo?

- Ồ khỉ lắm! Tôi mà không cho nó tiền thì một xu dính túi nó cũng không có . Nó công nợ ngập mặt ()... Nó cần gây dựng lại cơ nghiệp; nó phải mở mặt ra với thiên hạ chứ!

Rebecca hỏi:

- Ông ấy có thông minh không ạ?

- Thông minh ấy à? Nó còn có biết cái quái gì ngoài chuyện ngựa nghẽo, chuyện trung đoàn, chuyện săn bắn, ăn chơi; nhưng phải làm sao cho nó làm nên. .. thằng bé hư đốn một cách đáng yêu quá. Cô có biết chuyện nó bắn chết một người, và bắn thủng mũ một ông già vì đã xúc phạm đến nó không? Cả trung đoàn quý nó lắm. Ở phố Wattier và ở quán “Cây dừa” nữa, bọn trai trẻ coi nó như ông trùm ().

Khi cô Rebecca Sharp viết thư kể lại cuộc dạ hội ở trại Crawley Bà chúa cho cô bạn thân nghe cô cũng tả cả cái cung cách đại úy Crawley đã đề cao mình lần đầu tiên thế nào; nhưng không rõ tại sao, cô không miêu tả đầy đủ câu chuyện trên. Trước đó, đã nhiều lần viên đại úy đặc biệt săn sóc đến cô; có đến năm sáu lần, anh chàng tìm cách gặp cô trong lúc đang đi bách bộ chơi; có đến hàng năm chục lần, viên đại úy mắt sáng lên khi gặp cô đi qua hành lang. Có những buổi tối, lúc Becky hát, viên đại úy cứ bám lấy cây đàn dương cầm của cô đến hàng chục bận (phu nhân lúc này ở trên gác vì mệt, cũng chả ai để ý đến bà ta) .

Anh chàng đại úy đã gửi cho cô nhiều bức thư, tức là những lá thư hay ho nhất mà anh chàng sĩ quan ngự lâm thô lỗ kia có thể nghĩ ra đánh vần mà viết nổi (nhưng đối với đàn bà thì sự đần độn cũng cứ thành công như mọi đức tính khác). Khi anh ta luồn lá thư đầu tiên vào mấy tờ nhạc lúc cô đang hát, thì cái cô giáo bé nhỏ này đứng ngay dậy nhìn thẳng vào mặt anh chàng, lấy điệu bộ kiểu cách cầm lấy mảnh giấy hình tam giác quạt mát rồi ném tọt vào ngọn lửa lò sưởi; đoạn cô ta cúi chào anh chàng một cái sát tận đất, rồi về chỗ cũ, bắt đầu hát vui vẻ hơn trước.

Bà Crawley ăn trưa xong đang lim dim ngủ thấy bài hát đứt đoạn, vội hỏi.

- Cái gì đấy?

- Tại có một lỗi nhạc đấy ạ.

Cô Sharp vừa đáp vừa cười; Rawdon Crawley giận tưởng phát điên lên được.

Thấy bà Crawley tỏ ra chiều chuộng cô giáo mới một cách quá rõ ràng, bà Bute Crawley không những không ghen ghét mà còn đon đả chào mời cô ta sang chơi bên nhà thờ; bà mời cả anh chàng Rawdon Crawley là kẻ kình địch với chồng bà về khoản lãi năm phần trăm của bà lão nữa. Tốt đẹp vậy thay? Bà Bute Crawley và ông cháu đi lại thăm nom nhau rất thân mật. Anh chàng này bỏ cả săn bắn, bỏ cả những thú vui ở nhà Fuddleston; anh ta không cùng ăn với bọn quân nhân đồn trú tại Mơtbơry nữa...Bây giờ, anh ta thú nhất là đi lang thang sang địa phận nhà thờ Crawley...

Bà Crawley cũng sang đấy chơi, cả hai đứa bé cũng đi với cô Sharp, vì mẹ chúng ốm. Một buổi tối kia, có hai người sóng đôi ra về với nhau, không có bà Crawley cùng đi - vì bà ưng đi xe ngựa hơn. Cuộc đi chơi dưới ánh trăng qua cánh đồng của nhà thờ, qua cái cổng nhỏ thông vào một khu vườn hẹp, xuyên qua đám cây cối rậm rạp tối om, ngược theo con đường cái lớn dẫn về trại Crawley Bà chúa, thật vô cùng hấp dẫn đối với hai con người vốn ưa những phong cảnh kỳ thú, là viên đại úy và cô Rebecca.

Cô này nước đôi mắt biếc sáng lấp lánh nhìn lên trời noi:

- Ôi, những ngôi sao, những ngôi sao kia! Khi tôi nhìn sao trên trời tôi cảm thấy như mình đã thoát tục.

Anh chàng cao hứng cũng đáp:

- Ồ à hừm...vâng, cô Sharp ạ, tôi cũng thế đấy.

Cô bèn hút thử một điếu, điệu bộ nom thật nhí nhảnh; cô khẽ thở phù khói ra, khẽ kêu rú lên, và khẽ cười khúc khích, rồi trả điếu thuốc đại cho viên đại úy. Anh chàng đưa tay lên xoắn bộ ria, lập tức rít một hơi dài làm cho đốm lửa sáng rực lên dưới lùm cây rậm tối, và thề độc:

“Trời ơi ... Ồ ... à ... đây là điếu thuốc ngon nhất đời tôi đấy...à. Trí thông minh cũng như lối chuyện trò của anh chỉ hay ho và lý thú đối với một anh lính ngự lâm thô lỗ mà thôi.

Còn cụ Pitt già nua kia thì đang ngồi uống rượu bia và hút tẩu thuốc cùng bác John Horrocks, bàn chuyện sắp thịt một con cừu khi lão vẫn liếc qua cửa sổ rình đôi trai gái, và văng tục mà bảo rằng nếu không vì nể bà cụ Crawley thì lão đã quẳng cả thằng Rawdon lẫn hành lý ra cửa cho đáng kiếp cái thằng khốn nạn.

Bác Horrocks cũng nhận xét:

- Hắn quả thật là tồi; cái thằng lính hầu Flethers của hắn còn đểu hơn nữa; nó lục tung cả phòng của bà quản gia lên để mò ăn mò rượu, làm như bố người ta không bằng.

Ngừng lại một lúc, bác thêm:

- Nhưng cụ ạ, cháu coi cô Sharp cũng xứng đôi với cậu ta đấy chứ...

Thật ra thì cô ta cũng xứng đôi...với cả bố lẫn con.

Chương 12
MỘT CHƯƠNG KHÁ LÀ TRỮ TÌNH

Chúng ta hãy tạm rời chốn Thiên đường Accady và những người bạn đáng yêu đang cùng sống với những đức tính nơi thôn ổ của họ, để quay về Luân-đôn, xem cô Amelia bây giờ ra sao.

“Tôi để ý đến cô ta làm quái gì” một người vô danh nào đó viết như vậy trong một bức thư gắn xi màu hồng, nét chữ xinh xinh. “Cô ta nhạt nhẽo, vô vị lắm”, và còn thêm một vài nhận xét tốt bụng đại khái như thế, có nhẽ tôi chẳng nên nhắc lại những ý kiến ấy ở đây làm gì, vì thực ra đó chính là những lời lẽ tán tụng vô cùng tốt đẹp đối với Amelia.

Qua những kinh nghiệm sống, hẳn các bạn đọc đáng quý cũng đã có dịp được nghe thấy những nhận xét tương tự từ miệng những cô bạn gái tốt bụng: các cô ấy vẫn thường ngạc nhiên tại sao bạn lại có thể nghĩ rằng cô Smith đẹp mê hồn, hoặc chẳng biết cái gì có thể xui viên thiếu tá John tỏ tình với cái cô Thomson ngớ ngẩn, lúc nào cũng cười một cách vô vị kia; cô ta có gì đáng chú ý đâu, chỉ được cái bộ mặt búp bê bằng sáp. Mà thật ra thì một cặp má hồng, một đôi mắt biếc là cái quái gì? Mấy nhà luân lý học hỏi thế, và ngỏ ý rằng những năng khiếu của thiên tài, một tâm hồn phong phú, sự hiểu biết thấu đáo các vấn đề của Mangnall, và những kiến thức về thực vật học và địa chất học xứng đáng với một bà mệnh phụ, cái tài khéo làm thơ, khéo hát những bài sonate thơ kiểu Herz, và vân vân...đối với đàn bà, những thứ đó còn quý hơn cái sắc đẹp thoảng qua, nó sẽ chỉ trong ít năm là phai lạt. Nếu được nghe đàn bà bàn về cái vô tích sự và cái đặc điểm “sớm nở tối tàn” của sắc đẹp âu cũng là một điều lý thú.

Người ta vẫn cho rằng đạo đức là điều đẹp đẽ hơn nhiều, và cũng là điều những con người bất hạnh không được trời phú cho một bộ mặt xinh xắn thường phải tâm tâm niệm niệm trong suốt cuộc đời họ còn đeo đẳng; và rất có thể đối với các phu nhân thì những đức tính anh hùng của nữ giới còn vinh quang và đẹp đẽ hơn nhiều so với một người đàn bà nội trợ dịu dàng, trẻ trung, tươi tỉnh, thật thà, hiền hậu, mà nam giới vẫn có khuynh hướng chuộng hơn...

Nhưng loại đàn bà thứ hai, những con người kém cỏi ấy, cũng nên tự an ủi rằng rốt cuộc thì đàn ông chúng tôi vẫn mến phục họ; mặc kệ những lời ngăn ngừa phản đối của mấy ông bạn quý, chúng tôi vẫn còn cứ tiếp tục đến cùng những sai lầm và dại dột điên cuồng ấy. Riêng phần tôi, tôi vẫn thường được những người tôi rất kính trọng căn dặn rằng: “Cô Brown chỉ là một con bé vô vị; còn cô White chỉ được có mỗi bộ mặt kháu khỉnh xinh xinh(); bà Black thì chả có điều gì đáng nói”: nhưng trái lại, chính tôi đã được trò chuyện rất thú vị cùng bà Black (dĩ nhiên, thưa bà, những chuyện ấy tôi sẽ không tiết lộ); tôi đã thấy đàn ông xúm xít quanh chỗ cô White ngồi, còn bọn trẻ tuổi thì đánh lộn nhau để được khiêu vũ với cô Brown; do đó tôi đang muốn nghĩ rằng được nữ giới khinh bỉ, thật là vinh dự lớn cho một người đàn bà vậy.

Những cô thiếu nữ quen biết Amelia đã ban cho cô cái vinh dự ấy một cách khá đầy đủ. Thí dụ như mấy chị em nhà Osborne là chị em gái của George, cũng như mấy cô nhà Dobbin; họ không đồng ý với nhau được về điểm nào bằng điểm nhất trí chê bai Amelia; họ cho rằng cô không có được tài đức gì đáng kể. Thấy mấy ông anh của họ cứ khen mãi cô ta đáng yêu, họ lấy làm ngạc nhiên quá. “Chúng mình nên đối tốt với chị ấy”, hai cô Osborne bảo nhau. Hai chị em là một cặp thiếu nữ xinh xắn, lông mày rậm, có đầy đủ cô giáo, thầy giáo dạy tư và thợ trang sức giỏi nhất phục vụ cho họ. Hai cô đối đãi với Amelia tốt quá, săn sóc cô ta cẩn thận quá và cũng với thái độ quá bề trên đến nỗi ngồi với họ cô gái bé bỏng đáng thương này không thể nói được gì nữa, và cứ nhìn bề ngoài, thì quả là ngốc nghếch đúng như họ vẫn nghĩ. Cô đã cố gắng yêu mến họ, vì họ sắp là chị em chồng của cô. Có lẽ những buổi sáng đằng đẵng cô ngồi chơi với họ, cũng như những buổi chiều tẻ nhạt trang nghiêm. Cô đã cùng họ đi chơi trên cái xe ngựa đồ sộ là xe riêng của gia đình họ, cùng bà Wirt, bà giáo lý dạy tư của họ, một bà gái già gầy như que củi.

Họ bỏ tiền mua vé mời cô đi dự những buổi hòa nhạc cổ điển, những đêm ca nhạc, và đưa cô đến nhà thờ St. Paul xem những đứa bé mồ côi; ở đây cô lo sợ mấy cô bạn quá đến nỗi cũng không dám xúc động trước bài đồng ca của các em bé. Nhà họ ở rất đầy đủ tiện nghi; bàn làm việc của ông bố rất đẹp, rất sang, khách khứa ra vào ai cũng có vẻ sang trọng, quý phái; họ tỏ ra hết sức tự trọng; họ có chỗ ngồi riêng đẹp nhất ở Hội bảo vệ trẻ mồ côi; mọi tập quán của họ thì tẻ nhạt và hình thức đến không thể chịu nổi. Cứ sau mỗi lần cô đến thăm viếng chấm dứt, cô Jane Osborne, cô Maria Osborne và bà giáo gái già Wirt lại hỏi nhau, càng ngày càng ngạc nhiên hơn: “Người như thế thì có cái quái gì mà George mê nhỉ?”

Tại sao thế ắt có bạn đọc tò mò hỏi vậy. Tại sao Amelia được rất nhiều bạn ở trường yêu mến, mà bước vào đời lại bị giới mình, cái giới phụ nữ hay xoi mói, ghét bỏ như vậy?

Thưa quý ngài thân mến, ấy là vì ở trường bà Pinkerton, không có ai là đàn ông, chỉ có một ông giáo dạy khiêu vũ thì lại già mất rồi; hẳn ngài không muốn các cô thiếu nữ kia xúm xít bám chặt lấy ông lão chứ? Thấy George, anh chàng đẹp trai, cứ ăn sáng xong là biến đi mất và mỗi tuần ăn cơm ở ngoài có tới sáu bảy lần, thì cô em và cô chị bỏ rơi lẽ dĩ nhiên cũng phần nào cảm thấy khó chịu. Lúc anh chàng Bullock trẻ tuổi (trong ngân hàng Hulker, Bullock và công ty, phố Lombard), người đã sáu tháng nay vẫn đeo đuổi cô Maria, bây giờ lại mời cô Amelia nhảy điệu cotillon, có dễ ngài cho rằng ý trung nhân của anh ta thích đấy hẳn?

Thế mà cô này bảo rằng mình rất vui lòng, y như một con người ngây thơ và rộng lượng. “Em thấy anh quý chị Amelia, em bằng lòng lắm”, sau cuộc nhảy, cô say sưa bảo Bullock như vậy. “Chị ấy là vị hôn thê của anh George nhà em đấy; chị ấy cũng chả có gì đáng chú ý, nhưng được cái tốt bụng và thành thực lắm; ở nhà chúng em ai cũng quý chị ấy quá”. Cô bé quý hóa! Ai mà tính toán nỗi niềm, thương mến của cô ta có chiều sâu bao lăm trong cái tiếng “quá” kia?

Bà Wirt và hai cô thiếu nữ thân thiết ấy luôn luôn hết sức làm cho tâm trí George Osborne bị ám ảnh bởi ý tưởng anh ta đang chịu đựng một sự hy sinh vĩ đại, và cái việc anh ta lao vào yêu cô Amelia say sưa thật là một hành động rộng lượng đầy tính chất lãng mạn; cuối cùng tôi cũng không rõ hẳn có phải anh chàng đã cho mình là một trong số những người đáng chú ý nhất trong quân đội Anh quốc và một cách thoải mái, đành lòng chịu đựng được yêu hay không.

Sáng nào anh ta cũng bỏ nhà ra đi; một tuần lễ thì ăn cơm ngoài tới sáu ngày, cô chị và cô em cứ yên trí là những dịp ấy anh chàng si tình đang bám lấy dải váy của cô Sedley; thiên hạ cứ tưởng anh ta đang quỳ dưới chân Amelia, nhưng đâu phải lúc nào anh ta cũng quanh quẩn bên người yêu.

Có nhiều lần đại úy Dobbin đến chơi tìm bạn, thì cô Osborne (cô này chú ý tới viên đại úy lắm, rất thích nghe anh ta kể chuyện chiến trận, và thích hỏi thăm sức khỏe của bà mẹ yêu quý của anh ta) vẫn vừa cười, vừa chỉ về phía bên kia Công viên bảo: “Ồ, anh muốn tìm George thì phải đến gia đình Sedley chứ. Từ sáng đến tối, chúng em có nhìn thấy mặt cậu ấy đâu”. Nghe câu nói ngọt ngào, viên đại úy chỉ cười xòa một cách khó hiểu và lảng sang chuyện khác ngay; đúng như một con người lịch thiệp hoàn toàn, anh ta đề cập đến những chuyện vặt vãnh, đại khái chuyện ca nhạc ở Opera, chuyện buổi dạ hội mới rồi của Hoàng tử ở điện Carlton, hoặc chuyện thời tiết... tóm lại là những chuyện thông thường vẫn nói trong phòng khách.

Viên đại úy đi rồi, cô Maria bảo cô Jane:

- Cái anh chàng được chị cưng ấy, rõ chẳng biết cái quái gì; chị có thấy lúc ta bảo George bận “làm nhiệm vụ”, anh ta đỏ mặt thế nào không?

Cô chị lắc đầu đáp:

- Maria, thật đáng thương cho Frederick Bullock không có được đôi chút e lệ như anh ta đấy.

- E lệ? Vụng về thì có, chị Jane ạ. Em chẳng muốn Frêđêric giẫm chân lên làm thủng đuôi áo voan của em, như đại úy Dobbin giẫm lên áo chị ở nhà bà Perkin ấy.

- Giẫm lên áo cô! Hi, hi ! Sao lại giẫm lên được? Anh ta chẳng đã khiêu vũ với Amelia là gì?

Thực ra, đại úy Dobbin đờ mặt và luống cuống vì nhớ lại một trường hợp mà anh thấy không cần thiết kể lại cho hai cô thiếu nữ nghe làm gì. Một bữa, anh ta lại chơi gia đình Sedley, dĩ nhiên, lấy cớ đến tìm George; George đi vắng, chỉ có một mình cô bé Amelia đáng thương đang ngồi cạnh cửa sổ phòng khách, vẻ mặt như hơi rầu rĩ; sau vài chuyện bâng quơ, cô này đánh bạo hỏi rằng có thật tin đồn trung đoàn sắp được điều động ra ngoại quốc là đúng không? Và ngày hôm ấy đại úy Dobbin có gặp Osborne lần nào không?

Trung đoàn chưa bị điều động đi đâu hết, mà đại úy Dobbin cũng không gặp George. Viên đại úy đáp rằng chắc anh ta đang ở nhà với cô chị và cô em gái, rồi đề nghị để mình đi tìm George. Thế là cô thiếu nữ dịu dàng đưa tay cho anh ta, tỏ ý biết ơn; anh ta vội đi ngang qua Công viên, nhưng Amelia cứ đợi, đợi mãi nhưng chẳng thấy tăm hơi George đâu.

Cô thiếu nữ bé bỏng dịu dàng đáng thương quá. Cô ta cứ tiếp tục hy vọng, hồi hộp, khát khao và tin tưởng. Các bạn thấy cuộc đời Amelia chẳng có gì đáng miêu tả lắm.

Trong đời cô không có mấy cái mà bạn gọi là những chuyện đặc biệt. Ngày nào cũng chỉ có một chuyện...”Bao giờ thì anh ấy đến chơi nhỉ?” Khi ngủ cũng như lúc thức, chỉ có một ý nghĩ ám ảnh trong đầu. Lúc Amelia hỏi Dobbin về tin tức của George thì tôi tin rằng anh ta đang chơi bi-a với đại úy Cannon ở phố Swallow; George vốn là tay ham vui, thích bè bạn đàn đúm, và rất giỏi trong mọi thú chơi cần đến sự khéo léo.

Một lần, đã ba hôm không không thấy George lại chơi, Amelia đội mũ tìm đến thẳng nhà gia đình Osborne; cô em chồng tương lai hỏi:

- Kìa? Chị lại bỏ mặc anh em mà lại đây ư? Hai người giận nhau phải không, chị Amelia? Nói chuyện chúng em nghe nào?

- Làm gì ra có chuyện giận nhau. Ai mà giận anh ấy được? Amelia nước mắt đầm đìa trả lời. Cô chỉ muốn lại để để thăm hai cô bạn quý thôi; đã lâu quá, chưa gặp nhau. Hôm ấy cô có vẻ ngờ nghệch và vụng về hơn mọi khi; lúc cô buồn bã ra đi, cô Osborne và bà giáo dạy tư trố mắt nhìn theo lại càng ngạc nhiên hơn bao giờ hết, không hiểu Giơrgiơ yêu Amelia về nỗi gì.

Họ ngạc nhiên là phải. Làm sao Amelia có thể ngăn cản không cho những cặp mắt đen láy táo bạo của hai cô gái kia soi mói vào tâm hồn bé bỏng, nhút nhát của mình cho được? Cô ta co mình lại, tự giấu giếm vậy là tốt nhất. Tôi biết, hai cô Osborne rất có tài khi phê bình một cái khăn quàng Casơmia, hay một cái si-líp sa-tanh màu hồng, hoặc khi cô Turner nhuộm cái áo cũ màu đỏ thẫm và chữa thành một cái áo ngoài ngắn, khi cô Pickford phá tấm áo khoác lông chồn để làm cái bao tay và các dải áo. Thì tôi cam đoan rằng không có gì sánh kịp trí thông minh của hai cô thiếu nữ nói trên. Nhưng ở đời có những thứ tinh tế hơn là lông thú và sa-tanh, hơn tất cả các kho châu báu của Solomon, và hơn cả tủ áo của Nữ vương thành Sheba () nữa. Đó là những vật mà nhiều người sành sỏi cũng không tìm được vẻ đẹp. Có những bông hoa dịu dàng kín đáo ẩn trong những chỗ râm mát, yên tĩnh, bạn dừng lại ngắm thì thấy tươi tắn, thơm tho; lại cũng có những bông hoa lớn như cái chậu một dùng để trang hoàng vườn cảnh, tưởng như mặt trời nom xuống cũng phải chói mắt. Cô Sedley không phải là loại hoa mặt trời này; và có thể nói rằng cô là một đóa hoa violet khác thường, to bằng đóa thược dược kép.

Không, cuộc đời của một thiếu nữ từ nhỏ được ấp ủ trong tổ ấm của gia đình không thể có những tình tiết gay go của những nhân vật tiểu thuyết thông thường. Cạm bẫy hoặc tên đạn có thể giết chết những con chim già bay lượn ngoài tổ; những con chim này có thể thoát khỏi móng vuốt của bày chim ưng lượn trên trời, hoặc bị chúng xâu xé, nhưng những con chim non trong tổ ấm thì vẫn sống một cuộc đời không thi vị nhưng êm đềm giữa những sợi lông mềm và những cọng rơm tơ êm ái, cho tới khi nào đến lượt chúng cất cánh bay bổng. Trong khi Becky Sharp đang bay lượn, chuyền trên những nhánh cây non giữa bao nhiêu là cạm bẫy, tha hồ mổ thức ăn một cách khoan khoái, thì Amelia vẫn còn sống trong cảnh gia đình ấm cúng ở khu phố Russell. Nếu cô có bước ra ngoài đời, thì đã có người giàu kinh nghiệm hướng dẫn. Hình như cũng không có sự không may nào đe dọa cô hoặc đe dọa cái gia đình giầu có, đầm ấm trong đó cô đang được nâng niu che chở. “Má” thì sáng vẫn bận rộn việc gia đình; hàng ngày bà vẫn ngồi xe ngựa đi chơi, và vẫn giữ cái lệ thú vị là đi thăm các gian hàng, mua bán vặt vãnh, tức là cái thú giải trí, hoặc nếu các bạn thích thì gọi là cái nghề cũng được, của những bà nhà giàu ở Luân đôn. Còn “ba” thì vẫn điều khiển những công việc bí mật gì ấy trong khu City, hồi đó là một nơi hoạt động sôi nổi, trong khi khắp Âu Châu chiến tranh đang gào thét và bao vương quốc đang ngả nghiêng, trong khi tờ nhật báo “tin tức” có đến hàng vạn độc giả đặt mua, trong khi hôm nay bạn nghe tin có một trận đánh ở Victoria, ngày mai đã có tin Mạc-tư-khoa bị đốt, hoặc luôn luôn đang giờ ăn trưa nghe thấy bác rao tin thổi tù và ở khu phố Russell báo rằng “Trận Lepdich...sáu mươi vạn quân tham chiến... nước Pháp đại bại... hai mươi vạn người chết”.

Có một đôi lần ông Sedley trở về nhà vẻ mặt trầm ngâm; ta không lấy làm lạ thấy những tin tức như trên khuấy động mọi trái tim và tất cả mọi Phòng Hối đoái của Âu Châu.

Trong thời gian đó ở khu phố Russell, Bloomsbury, mọi sự vẫn cứ tiến hành y như không có chuyện gì xảy ra ở Âu Châu. Cuộc thoái quân ở Lepdich không hề làm giảm số bữa ăn hàng ngày của bác Sambo trong phòng ăn của đầy tớ; quân đồng minh ồ ạt tiến vào nước Pháp, song tiếng chuông báo giờ ăn vẫn cứ đúng năm giờ chiều là vang lên như thường lệ. Tôi cho rằng cô Amelia đáng thương chẳng buồn quan tâm đến Brienne và Montmirail (), hoặc đến chiến tranh. Cô Amelia vẫn chắp hai tay lại cầu kinh...và ôi, sung sướng thay! Cô vẫn say sưa lao mình vào trong cánh tay của George Osborne làm cho những người có mặt phải ngạc nhiên vì thấy cô tỏ tình quá lộ liễu. Thực tế thì hòa bình đã trở lại, Âu Châu qua cơn sóng gió, sắp được nghỉ ngơi; tên dân đảo Corxơ () đã bị lật đổ và trung đoàn của trung úy Osborne không còn lo phải điều động đi tham chiến nữa. Cô Amelia lý luận như vậy. Vận mệnh của cả Âu Châu đối với cô tức là trung úy Osborne. Tai họa đe dọa người yêu đã qua, cô hát bài Te Deum (). Anh ta là Âu Châu của cô, là Hoàng đế của cô, là những vị quốc trưởng đồng minh của cô, và là vị Hoàng tử nhiếp chính của cô. Đối với cô Osborne là mặt trời, mặt trăng và theo ý tôi, cô tin rằng cuộc dạ hội hoa đăng vĩ đại tổ chức ở Hoàng cung chào mừng các vị hoàng đế, chính nhằm mục đích đặc biệt chào mừng trung úy George Osborne của cô vậy.

Chúng ta đã nói đến những mánh khóe, đến thói vụ lợi cá nhân và sự nghèo túng, đó là những ông thầy đã giáo dục cô Becky Sharp. Đối với Amelia thì tình yêu là bà giáo giỏi nhất; dưới sự dạy dỗ của bà giáo ai cũng biết tiếng này, cô thiếu nữ đã tấn tới phi thường. Trong khoảng mười lăm hay mười tám tháng, ngày nào cô cũng chăm chỉ học tập dưới sự hướng dẫn của bà, cô ta đã nắm được bao điều bí mật mà bà Wirt và hai cô thiếu nữ mắt đen láy, ngay cả chính bà Pinkerton ở Chiswick nữa cũng không thể hiểu nổi! Thật vậy, những người đàn bà không chồng kênh kiệu và đáng kính ấy biết sao được. Đối với bà Wirt và bà Pinkerton sự say đắm tình tứ không thành vấn đề nữa rồi: tôi sẽ chẳng dám hé môi nói về một chuyện như vậy ở các bà. Cô Maria Osborne thật ra cũng có gắn bó với Frederick Augustus Bullock, trong hãng Bullock và Bullock. Nhưng cuộc tình duyên của cô rất đáng kính; đối với cô, lấy lão Bullock cha hay lấy anh Bullock con làm chồng cũng thế thôi vì, như mọi cô thiếu nữ gia giáo khác, tâm trí cô chỉ bận bịu vì một ngôi nhà ở Công viên Lane, một ngôi nhà nghỉ mát ở Wimbledon, một cái xe ngựa thật là đẹp, một đôi ngựa thật là to, và hai thằng hầu thật là béo, cùng một phần tư số thực lãi đồng niên của hãng Bullock và Bullock; Frederick Augustus chỉ là người đại diện cho tất cả những khoản đó.

Giả thử hồi ấy người ta đã nghĩ lấy vòng hoa cam để tượng trưng cho sự trinh bạch của thiếu nữ (tục này du nhập vào nước ta từ Pháp, nơi tệ bán con gái phổ biến trong việc hôn nhân) thì tôi tin rằng cô Maria rất có thể đội cái vòng hoa trong trắng đó mà bước lên xe hoa ngồi bên cạnh ông già đầu hói, mũi cà chua, bị bệnh thống phong, tức là ông lão Bullock; và cô cũng sẽ kín đáo mà sống trọn cuộc đời đẹp đẽ của mình, vô cùng hạnh phúc.., Chết một nỗi, ông già lại có vợ mất rồi, cho nên cô đành yêu anh con trai vậy. Những bông hoa cam thơm tho tươi tắn làm sao! Hôm nọ, tôi thấy cô Trotter đầu mang vòng hoa cam, líu díu bước lên xe hoa trước nhà thờ St George, ở quảng trường Hanover, có bá tước Methuselah lóc cóc theo sau. Cô e lệ, kín đáo kéo màn che kín cửa xe...Con người ngây thơ đáng yêu thay!

Có đến một nửa số xe ngựa trong Hội chợ phù hoa bị huy động trong việc cưới xin này.

Cô Amelia không được giáo dục lối yêu đương như vậy.

Chỉ trong khoảng một năm trời, cô bé ngoan ngoãn đã trở thành một thiếu nữ ngoan ngoãn...nghĩa là khi được ngày lành tháng tốt, cô sẽ trở thành một người vợ ngoan ngoãn.

Cô gái trẻ trung này đặt hết tâm hồn vào sự gắn bó với chàng sĩ quan thanh niên trong quân đội hoàng gia mà ta đã biết qua (có lẽ cha mẹ cô cũng đã dại dột khuyến khích, giúp đỡ cô trong những sự tơ tưởng lãng mạn như vậy); ngay phút đầu tiên mỗi khi ngủ dậy, cô đã nghĩ đến người yêu rồi; tên anh ta được nhắc đến sau cùng trong lúc cô cầu kinh. Chưa bao giờ cô gặp một con người thông minh, đẹp trai như anh chàng. Con người cưỡi ngựa mới đẹp làm sao, khiêu vũ mới giỏi làm sao; nói chung, thật là một người anh hùng. Cứ ca tụng mãi lối cúi chào của Hoàng tử, so với George thì còn kém xa. Cô đã được nhìn mặt ông Brummell mà thiên hạ khen nức nở; đem một người như thế mà so sánh với chàng George của cô! Trong số những anh kép đẹp trai ở rạp Opera (hồi ấy có nhiều anh kép ở rạp Opera rất xinh trai), chẳng ai có thể bì được với George.

Có khiêm tốn lắm thì anh ta cũng phải là một hoàng tử trong thần thoại. Thế mà, ôi, cao quý vậy thay? Chàng đã hạ mình xuống để lọt vào mắt xanh hình ảnh một cô Cinderella thấp kém như cô. Nếu bà Pinkerton là người thân tín của Amelia, chắc thế nào bà cũng đã tìm cách kiềm chế sự say mê mù quáng của cô, nhưng bạn cứ tin rằng việc ấy cũng chẳng có kết quả lắm đâu. Ở một số phụ nữ, sự say mê ấy là do bản năng; có những người trời sinh ra để tính toán, và có những người trời sinh ra để yêu; mong rằng các bạn chưa vợ đọc những dòng này hãy chọn loại nào thích hợp với mình nhất.

Mải say sưa trong tình yêu, Amelia quên khuấy mất mười hai cô bạn thân ở Chiswick một cách vô cùng tàn nhẫn, như những con người ích kỷ thông thường khác. Cô chỉ chuyên tâm chú ý vào có một chuyện. Cô Saltire tai thì lạnh lùng quá, không tâm tình được; cô cũng không sao đem tâm sự của mình ra ngỏ với cô Swartz, cô gái triệu phú tóc quăn người đảo St. Kitt. Những ngày lễ, em bé Laura Martin thường đến chơi với cô; tôi tin rằng cô đã chọn Laura làm bạn tâm tình của mình, và hứa bao giờ lấy chồng sẽ đem Laura về ở chung; cô đã ngỏ với Laura rất nhiều điều thuộc về chuyện yêu đương đắm say; đối với cô bé, những điều ấy hẳn mới lạ và bổ ích. Chao ôi, tôi e rằng cô Emmy đáng thương, tâm trí không được bình thường cho lắm.

Cha mẹ cô đã làm gì để giữ cho quả tim bé nhỏ kia khỏi đập quá nhanh? Ông lão Sedley hình như không hề chú ý đến câu chuyện. Gần đây ông càng có vẻ đăm chiêu hơn, suốt ngày vùi đầu vào những công việc ở khu City.

Bà Sedley thì vốn tính dễ dãi, không hay soi mói, thành ra bà cũng không cảm thấy khó chịu vì chuyện yêu đương của con gái. Joe thì đi vắng anh ta đang bị một người đàn bà góa Ai len ở Cheltenham tấn công. Một mình Amelia ở nhà... ôi, nhiều khi cô thấy sao căn nhà rộng rãi, trống trải quá, vì George còn bận việc trong đội Ngự lâm kỵ binh, không thể xin phép rời khỏi Chatham về luôn được; vả lại khi nào về tỉnh anh ta cũng còn thăm viếng bè bạn, cô chị và cô em gái ở nhà hoặc đi chơi bời đây đó (người như anh ta là một vật trang sức cho bất cứ một cuộc hội họp nào); khi anh ta trở về trung đoàn thì lại mệt mỏi quá rồi, không muốn viết những bức thư dài nữa. Tôi biết rõ chỗ cô ta giấu tập thư của George; tôi có thể lén lút ra vào phòng riêng của Iachimo... Như Iachimo? Không như vậy tồi quá.

Tôi chỉ muốn làm mặt trăng để được ngó vào tấm giường một cách vô tội, nơi lòng tin, sắc đẹp và sự thơ ngây đang nằm mơ mộng.

Song, nếu những lá thư của Osborne đều cộc lốc một cách rất nhà binh thì ta phải thú thực rằng, giả sử phải đem in cả những lá thư cô Sedley gửi cho Osborne, ắt phải kéo dài cuốn truyện này thành rất nhiều tập, ngay những bạn đọc đa cảm nhất cũng không thể chịu nổi. Không những cô viết kín đặc hàng trang giấy lớn, mà còn dùng những thủ thuật rất lạ; cô chép nguyên văn hàng trang thơ vào lá thư một cách không hề thương xót; cô gạch dưới nhiều chữ, nhiều câu một cách say sưa sôi nổi; tóm lại, cô bộc lộ hết những dấu hiệu về đời sống tâm tưởng hàng ngày của mình. Cô không phải là một nhân vật trong tiểu thuyết thành ra thư cô viết có những đoạn lặp đi lặp lại. Nhiều khi cô viết sai cả ngữ pháp, làm thơ thì hết sức tự do về quy tắc. Song, thưa các bà, nếu thỉnh thoảng các bà không được phép bấm dây tơ lòng mà không cần tuân theo nhạc luật, nếu vì các bà không thuộc lầu cách phân biệt thế nào là “ngắt đoạn ba”, thế nào là “ngắt đoạn bốn” mà không được đàn ông yêu, thì Thi ca có lẽ cũng đến tiêu ma, và các ông giáo thì cũng đến chết đói thảm hạm).


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét