Hội Chợ Phù Hoa
Tác giả:William Makepeace
Thackeray
Thể loại:Phương Tây
Trạng thái:Full
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Đánh giá: 6.0/10 từ 7 lượt
Thể loại: Kinh điển
Dịch giả: Trần Kiệm
Hội chợ phù hoa: Cuốn tiểu
thuyết không có Anh hùng là một cuốn tiểu thuyết của William Makepeace
Thackeray châm biếm xã hội vào đầu thế kỷ 19 ở Anh. Hội chợ phù hoa là một tiểu
thuyết đa tuyến nói về xã hội quý tộc tư sản và số phận của con người với nhiều
thành phần trong xã hội đó. Trục chính của truyện là cuộc đời của hai cô thiếu
nữ là bạn học cùng lớp, cùng trường nhưng không cùng tầng lớp và cũng không
cùng số phận.
***
Giữa đám người ồn ào với
nước hoa, đăng-ten, đèn chùm, bàn tiệc… người ta dễ để ý thấy ánh mắt sắc sảo
của cô nàng Rebecca xinh đẹp khát vọng được thay đổi số phận mình. Từ thân thế
con nhà hạ tiện, là một cô giáo tập sự không hề dễ bảo, Rebecca không từ bất kì
một thủ đoạn nào chen chân vào thế giới thượng lưu. Nhảy múa xung quanh cô là
cả một xã hội quý tộc tham lam, vị kỉ, giả dối và hãnh tiến.
Trong phiên chợ phù hoa ấy,
đạo đức khoác tấm áo thêu kim tuyến, nhưng lật lên chỉ thấy những thứ đê tiện
và trần trụi… Trên hết, sự phù phiếm đã cuốn con người vào vòng xoáy cám dỗ và
hút cạn những phẩm chất tốt đẹp, chỉ để lại những tính cách cặn bã và tham vọng
mù quáng. Bạn đọc có thể giật mình: Hội chợ phù hoa chỉ nói về xã hội Anh thế
kỉ XIX hay lột tả mọi xã hội của con người? Đọc Hội chợ phù hoa, ta sẽ phần nào
nhận ra những phù phiếm, ảo ảnh của cuộc đời vốn chỉ là hư vô.
***
Thuật ngữ "hội chợ phù
hoa" xuất phát từ câu chuyện ngụ ngôn Chuyến đi của người hành hương, do
John Bunyan xuất bản vào năm 1678 ở dó có một hội chợ tổ chức trong làng có tên
Vanity (Hội chợ phù hoa).
Cuốn tiểu thuyết đã được
nhiều lần chuyển thể thành phim.
*********
THÔNG TIN KHÁC
Trong năm 1848 đã xảy ra một
sự kiện có ảnh hưởng tốt tới "Hội chợ phù hoa". Nữ văn sĩ Charlotte
Bronte cho tái bản tiểu thuyết "Jane Eyre" dưới bút danh Currel Bell
(in lần đầu vào năm 1847 và rất ăn khách).
Trong lần in thứ hai, Bronte
đã ghi lời đề tặng Thackeray với những câu đánh giá đầy phấn khích: "Tôi
đã nhìn thấy ở ông một tài năng sâu sắc và quý hiếm hơn nhiều người đồng thời
với ông nghĩ, bởi lẽ, ông có thể hơn người khác làm phục sinh xã hội chúng ta
và khôi phục lại cái trật tự thế giới đang bị lung lay, và vì rằng cho tới nay,
chưa có một nhà phê bình văn học nào tìm được cho ông những từ ngữ đánh giá
đúng và đủ...". Đọc lời đề tặng đó, công chúng lại đổ xô đi tìm "Hội
chợ phù hoa". Thành công đối với Thackeray đã trở thành không thể đảo
ngược được.
Chương 1
Nhà
đạo diễn vở kịch đang ngồi trên sân khấu trước tấm màn; nhìn xuống đám người
hỗn độn chen chúc nhau trong Hội chợ, tự nhiên hắn cảm thấy một nỗi buồn tê tái
xâm chiếm tâm hồn. Thiên hạ đang đua nhau mà ăn uống, mà chim chuột,rồi bỏ rơi
nhau, mà cười mà khóc, rồi hút sách, lừa bịp, nhảy nhót, đấm đá nhau hoặc la cà
đây đó.
Có
những tay anh chị huých kẻ nọ đẩy người kia mà đi có những cậu công tử bột ra
sức liếc tình đàn bà con gái. Có những chú đạo trích chuyên rờ túi thiên hạ, có
những ông đội sếp soi mói nhìn ngó đó đây, này là mấy anh bán thuốc rong (trời
đánh thánh vật mấy anh bán thuốc rong.) đang gân cổ lên mà quảng cáo thuốc
trước quầy hàng của mình; kia là mấy bác nhà quê cứ há hốc mồm ra mà ngắm các
cô vũ nữ bận áo sặc sỡ và mấy chú làm trò xiếc leo dây đáng thương mặt trát son
đỏ bự, trong khi bọn kẻ cắp đứng đằng sau lưng cứ việc lách mấy ngón tay vào
túi mà nẫng nhẹ ví mang đi.
Thưa
vâng, chính là Hội chợ phù hoa đấy ạ; không phải là một chỗ đứng đắn và tuy rất
ồn ào, nhưng cũng chẳng phải là một nơi vui vẻ gì đâu. Xin các vị hãy nhìn bộ
mặt bọn đào kép và mấy chú hề lúc họ tan trò mà xem: anh chàng Tom Fool chùi
lượt phấn son trát trên trên má rồi ngồi vào bàn ăn với vợ, lại cả chú Jack
Puddings đang đứng sau tấm màn sân khấu kia nữa. Gần mở màn rồi; chú sắp ra
trò, sẽ vừa lộn tùng phèo vừa kêu to mà hỏi thăm khắp mặt khán giả: “Các vị có
được mạnh khỏe không? Tôi nghĩ rằng người nào có tính ưa suy tưởng, khi đi dạo
chơi qua một nơi lắm trò vè như chỗ này, không nên để cho mình bị lôi cuốn trong
cái vui vẻ của thiên hạ hoặc của chính mình. Đây đó có thể gặp một vài cảnh
tượng hài hước hoặc kỳ thú khiến cho ta cảm động hoặc thú vị. Chỗ này là một
thằng bé kháu khỉnh, đứng nuốt nước bọt trước quầy hàng bánh rán; một cô thiếu
nữ xinh xinh đỏ ửng mặt lên bên cạnh người tình vừa thủ thỉ chuyện trò vừa chọn
mua tặng vật cho mình ... Chỗ kia là anh chàng Tom Fool đang ngồi trong toa xe
của rạp xiếc gậm khúc xương cùng với cái gia đình lương thiện sống bám vào nghề
làm trò nhào lộn của anh ta... Nhưng cảm tưởng chung vẫn đáng buồn nhiều hơn là
đáng vui. Về nhà, chúng ta trở lại nghiêm trang tư lự nhưng với một tâm trạng
độ lượng hơn, rồi lại vùi đầu vào sách vở hoặc công việc làm ăn như cũ.
Về
câu chuyện của Hội chợ phù hoa sắp kể đây, tôi không biết rút ra bài học luân
lý nào khác ngoài mấy ý kiến trên. Có nhiều người coi Hội chợ hoàn toàn không
phải là một chỗ đứng đắn, vẫn lánh xa, không cho gia đình và cả đầy tớ bén mảng
tới. Rất có thể họ có lý. Nhưng cũng có nhiều người lại nghĩ khác; hoặc vì tính
tình lười biếng, hoặc vì có lòng nhân đức, hoặc vì ưa châm biếm, thỉnh thoảng
họ lại thích rẽ vào Hội chợ độ nửa tiếng đồng hồ, la cà đây đó xem các trò vui.
Ở đây thì vô khối trò đủ mọi loại: những cuộc thử sức kinh người., những cảnh
phi ngựa anh dũng tuyệt diệu, những cảnh sống thượng lưu quý phái, và những
cảnh sống của tầng lớp thường thường bậc trung, có những trò chim chuột để cho
người đa cảm thưởng thức, lại có những trò hài hước dí dỏm nhẹ nhàng.
Trò
nào cũng có bài trí trang hoàng tử tế, tác giả xin bỏ tiền mua nến thắp, soi
sáng thật rực rỡ. Vậy thì nhà đạo diễn vở kịch còn muốn nói gì nữa nhỉ? ... Hắn
chỉ muốn ngỏ lời cảm tạ chư vi, vì qua các tỉnh lớn trong khắp nước Anh, vở
kịch đã được khán giả chiếu cố hoan nghênh, và tới đâu cũng được giới ngôn
luận, giới quý tộc và các tầng lớp thượng lưu có lòng quan tâm đến.
Cứ
nghĩ rằng đám con rối của mình đã khiến được các vị tai mặt nhất trong nước hài
lòng mà hắn lấy làm kiêu hãnh quá. Khán giả tuyên bố rằng cái con rối Becky nổi
tiếng kia tay chân cử động thật khéo, khi giật dây nó làm trò cứ như thật. Con
rối Amelia tuy được ít người thưởng thức hơn, nhưng cũng được nhà nghệ sĩ để
hết tâm lực gọt khắc và trang điểm. Con rối Dobbin bề ngoài cử động như vụng về
nhưng thật ra nhảy múa có vẻ tự nhiên coi thật thú vị; mấy đứa trẻ ra trò cũng
được nhiều người lớn tán thưởng, và xin các vị hãy chú ý giùm cái “nhà quý tộc
xấu thói” bận bộ áo lộng lẫy kia; dựng con rối ấy tốn kém vô khối đấy; tấn trò
đặc biệt này diễn xong ma quỷ sẽ đến mang con rối ấy đi. Thế là nhà đạo diễn
cúi rạp xuống chào các quý khách rồi lui vào hậu trường. Màn mở.
Luân
Đôn, ngày 28 tháng 6 năm 1848.
CHISWICK
MALL
Ấy
là vào khoảng từ năm thứ 13 đến năm thứ 19 của thế kỷ này; vào một buổi sớm
tháng sáu nắng tỏa rực rỡ, có một cái xe ngựa lớn, loại xe gia đình, do một cặp
ngựa béo mập kéo, yên cương sáng nhoáng, chạy với tốc độ bốn dặm một giờ, đến
trước cái cổng sắt lớn của trường học bà Pinkerton lập nên tại Chiswick Mall
chuyên giáo dục các cô tiểu thư con nhà dòng dõi thì đỗ lại. Trên xe có một anh
xà ích béo quay ngồi điều khiển; anh ta đeo tóc giả, đội một chiếc mũ vành bẻ
tam giác. Xe dừng lại trước tấm biển đồng sáng choang trên có khắc tên bà
Pinkerton thì một người hầu da đen ngồi cạnh bác xà ích béo tròn duỗi thẳng cặp
chân vòng kiềng của hắn ra, với tay giật cái dây chuông trên cổng, và từ những
ô cửa sổ bé tý trên mặt căn nhà gạch cổ kính đồ sộ, ít nhất có tới mười cái đầu
con gái thò ra ngấp nghé nhìn. Mà nếu tinh ý ta còn nhận thấy cả cái mũi đỏ hỏn
bé tý của cô Jemima Pinkerton, một thiếu nữ tốt bụng, đang lấp ló sau mấy chậu
hoa phong vĩ thảo đặt trên thành cửa sổ phòng khách của bà Pinkerton.
Cô
Jemima nói:
-
Xe của nhà bà Sedley đấy chị ạ, Sambo, thằng hầu da đen vừa kéo chuông xong,
bác xà ích mặc một cái áo chẽn đỏ mới quá.
Bà
Pinkerton hỏi lại:
-
Jemima, dì đã sửa soạn đầy đủ hành lý cần thiết cho cô Sedley lên đường chưa?
Bà
Pinkerton trông rất đường bệ; bà là một Semiramis Hammersmith () bạn của nhà
học giả Johnson, là người cộng tác với chính bà Chapone cơ đấy.
Cô
Jemima đáp:
-
Thưa chị, sáng hôm nay bọn hầu gái dậy từ bốn giờ; họ sửa soạn hành lý cho cô
ấy xong rồi. Chúng em lại hái cho cô ấy cả mấy cành hoa.
-
Jemima, phải gọi là một bó hoa, như thế nghe mới lịch sự - Vâng, một bó hoa to
gần bằng cái đống rơm ấy. - Em cũng đã sắp sẵn hai chai nước hoa đinh hương cho
bà Sedley, cả tờ giấy dặn cách pha nước ấy nữa. Em để tất cả trong chiếc hộp
của Amelia.
-
Jemima, dì đã sao lại một bản tờ kê học phí của cô Sedley rồi chứ? Thế thì tốt
lắm ... chín mươi ba đồng bảng, bốn si-ling () tất cả. Dì đề ngoài phong bì gửi
cho tôn ông John Sedley, rồi đóng dấu bức thư tôi viết cho Sedley phu nhân đây.
Đối
với cô Jemima, thì một bức thư tự tay chị cô viết là một vật vô cùng đáng kính,
như thể đó là thư của một vị quốc vương vậy. Chỉ khi nào các cô học trò của bà
rời khỏi học hiệu, hoặc khi họ sắp sửa đi lấy chồng, người ta mới thấy bà
Pinkerton đích thân viết thư gửi cho cha mẹ học trò của mình, không kể một lần
đặc biệt nhân việc cô Birch bất hạnh bị chết về bệnh sốt phát ban. Và theo ý
kiến của cô Jemima, nếu có điều gì có thể an ủi được bà Birch vì cái chết của
cô con gái, thì chính là bài văn mộ đạo và hùng hồn của bà Pinkerton gửi đến để
báo tin buồn. Lần này bức thư của bà Pinkerton viết lời lẽ như sau:
Mall
Chiswick, ngày 15 tháng 6 , năm 18...
Thưa
phu nhân,
Sau
sáu năm cô Amelia Sedley lưu trú tại Mall, tôi rất hân hạnh và sung sướng thưa
với phu nhân rằng bây giờ cô đã là một tiểu thư không phải là thiếu xứng đáng
với một địa vị thích hợp trong xã hội thượng lưu lịch sự. Những đức tính đặc
trưng cho một thiếu nữ lịch sự Anh quốc, cũng như những tài năng xứng đáng với
dòng dõi và địa vị xã hội của một người như vậy sẽ không thiếu nơi cô Amelia
Sedley đáng yêu. Cô có đức tính cần cù và ngoan ngoãn, khiến cho các giáo viên
dậy cô rất mến. Tính tình dịu dàng đáng yêu của cô đã hấp dẫn tất cả các bạn
đồng học, người nhiều tuổi hơn cũng như người còn kém tuổi.
Phu
nhân sẽ thấy về khoa âm nhạc, khoa khiêu vũ, môn chính tả, hoặc trong mọi công
việc thêu thùa kim chỉ, cô đã đạt được những điều các bạn đồng học thiết tha
mong ước nhất. Riêng về môn địa lý thì cô còn nhiều thiếu sót; và trong khoảng
thời gian ba năm sắp tới, mỗi ngày bốn tiếng đồng hồ, cô còn cần tập đeo bảng
sau lưng () một cách thận trọng và chuyên cần: điều này rất cần, vì có vậy mới
luyện được dáng điệu đường bệ tôn quý mà các cô tiểu thư lịch sự bây giờ đều
phải có.
Còn
về phương diện biết tôn trọng những nguyên tắc tôn giáo và luân lý thì phu nhân
sẽ thấy cô Sedley rất xứng đáng với một học đường đã từng được cái vinh dự tiếp
đón nhà từ điển học đại danh, và đã được Chapone phu nhân đỡ đầu. Rời khỏi
Mall, cô Amelia đã đem theo cả tâm hồn của các bạn đồng học cũng như niềm
thương mến của cô giáo dạy cô, người có cái vinh dự được ký tên dưới đây.
Kính
chào phu nhân,
Người
đầy tớ mang ơn và hèn hạ của bà.
Ký:
Barbara Pinkerton.
Tái
bút.
Cô
Sharp cùng đi với cô Sedley. Xin đặc biệt yêu cầu phu nhân chỉ nên lưu cô Sharp
ở lại khu phố Russell không quá mười ngày. Cô ta sắp đến giúp việc tại một gia
đình quyền quý, gia đình này muốn rằng cô ta đến nhận việc sớm chừng nào hay
chừng ấy.
Thảo
xong bức thư, bà Pinkerton bắt đầu viết tên mình và tên cô Sedley vào trang đệm
() của một cuốn từ điển Johnson... một quyển sách lý thú mà bất cứ khi nào có
học trò rời khỏi Mall bà cũng tặng cho một cuốn. Trên bìa sách , lại có đính
kèm một bản sao tờ giấy đề “mấy lời của cố học giả Samuel Johnson đáng kính gửi
cô tiểu thư mới rời khỏi Pinkerton học hiệu, ở Mall”. Thực ra cái bà giáo bệ vệ
này vẫn luôn mồm nhắc đến tên nhà làm từ điển; chính cũng nhờ có một buổi ông
ta đến thăm bà mà bà hóa ra danh giá và làm ăn phát đạt.
Nghe
thấy bà chị ra lệnh cho mình lấy cuốn từ điển trên mặt tủ xuống, cô Jemima bèn
cầm xuống hai cuốn.
Bà
Pinkerton vừa đề xong lời tặng vào cuốn thứ nhất, thì cô Jemima đưa bà cuốn thứ
hai, dáng điệu hơi ngần ngại và có vẻ sợ sệt. Bà Pinkerton lạnh lùng hỏi lại, nghe
rất đáng sợ:
-
Này, dì Jemima, cuốn này để cho ai đấy?
-
Để cho cô Sharp đấy ạ. Hôm nay cô ấy cũng ra trường.
Cô
Jemima run bắn người lên trả lời, cả bộ mặt và cái cổ đã héo úa của cô bỗng đỏ
rực lên. Cô quay lưng lại không dám nhìn bà chị.
Bà
Pinkerton dằn mạnh từng tiếng:
-
Này Jemima, dì có điên không đấy? Cất ngay quyển từ điển vào tủ. Từ nay trở đi,
đừng có bao giờ được tự tiện như thế, nghe không.
-
Dạ, thưa chị, cuốn sách chỉ đáng giá có vài hào chỉ, mà nếu cô Becky đáng
thương ấy không được một cuốn thì cô ấy sẽ khổ tâm lắm.
Bà
Pinkerton đáp:
-
Mời cô Sedley lên đây ngay cho tôi.
Tội
nghiệp cho cô Jemima; chẳng dám hé răng nói thêm một tiếng nào nữa, cô vội rảo
bước đi ra, trong lòng hết sức hồi hộp vì sợ hãi.
Ông
thân sinh ra cô Sedley là một thương gia ở Luân đôn, cũng là một tay giầu có.
Còn cô Sharp chỉ là một cô học trò tập sự nghề dạy học; bà Pinkerton nghĩ rằng
bà đã đối đãi với cô quá phải rồi, chẳng cần phải ban cho cái vinh dự được tặng
cuốn từ điển khi cô từ biệt nhà trường.
Kể
ra thư giới thiệu của các bà giáo thì cũng chẳng đáng tin cho lắm, chỉ có giá
trị như những tấm bia trong nghĩa địa không hơn không kém, song thỉnh thoảng
cũng có những người từ giã cõi đời này mà lại thực sự xứng đáng với những lời
xưng tụng bác thợ đá khắc vào bia dựng trên nắm xương tàn của họ, nghĩa là một
con chiên ngoan đạo, một người bố, người mẹ, người con, người vợ hoặc người
chồng xứng đáng, và khi họ chết đi, quả thực có khiến cho thân nhân phải thương
tiếc không sao nguôi được. Cho nên trong các trường học dạy con trai cũng như
con gái, đôi khi cũng có một học sinh hết sức xứng đáng với những lời khen
thưởng của người giáo viên vô tư. Thì cô Amelia Sedley chính là một tiểu thư
thuộc loại học trò đặc biệt này.
Không
những cô xứng đáng với lời ca tụng của bà Pinkerton, cô còn có nhiều đức tính
đáng yêu khác mà cái bà già Minerva() long trọng kia không thể nhìn thấy, bởi
lẽ giữa bà và cô học trò có một sự cách biệt về địa vị và tuổi tác.
Nghĩa
là cô Sedley không phải chỉ có thể hát hay như một con sơn ca, hoặc như cô
Billington, khiêu vũ giỏi chẳng thua gì Hillisberg hoặc Parisot, thêu thùa khéo
léo và phát âm thì đúng giọng như trong từ điển, cô còn rất tốt bụng, luôn luôn
tươi tỉnh dịu dàng, thùy mị và rộng lượng. Con người ấy ai đến gần cũng phải
mến; từ chính bà Minerva trở xuống cho tới cô gái nghèo giữ việc bếp núc trong
trường, cũng như cô gái con bà bán bánh quả chột mắt vẫn được phép mang hàng
đến bán cho các cô tiểu thư ngụ học ở Mall mỗi tuần lễ một lần. Trong số hai
mươi bốn nữ sinh lưu trú tại trường, cô Sedley có tới mười hai người bạn tâm
tình chí thiết. Ngay cả cái bà Briggs vốn hay ghen ghét kia cũng không hề bao
giờ nói xấu cô điều gì. Cả cô Saltire, con người cao kỳ và có thế lực (cháu gái
bá tước Dexter), cũng đã công nhận rằng cô có bộ mặt thật đáng yêu. Còn như cái
cô Swartz, người lai da đen sinh ở St. Kitt, tóc xoăn tít như lông cừu và rất
giàu có ấy thì đã khóc sướt mướt hôm Amelia từ biệt nhà trường, đến nỗi người
ta phải đi mời bác sĩ Floss đến chữa; ông này cho ngửi nước đái quỷ nhiều quá,
xuýt nữa cô ta tắc thở. Sự quyến luyến của bà Pinkerton thì biểu lộ ra một cách
điềm đạm và nghiêm trang, ta cứ đoán ra cũng rõ, do cương vị cao quý và những
đức tính nổi bật của bà. Riêng cô Jemima đã nhiều lần tấm tức khóc mỗi lúc nghĩ
đến việc Amelia ra đi; giá không vì sợ bà chị thì chắc cô ta đã khóc lóc đến là
thảm thiết như cô gái triệu phú ở St. Kitt (cô này trả tiền học gấp đôi người
khác). Nói cho đúng thì chỉ có bọn học sinh lưu trú mới có điều kiện xa xỉ
trong sự sầu não như vậy. Cô Jemima chân thực kia còn bận quán xuyến bao nhiêu
việc, nào là giấy má, nào là quét tước, khâu vá, rồi lại còn làm pa-tê, dọn bát
đĩa, và trông coi người làm nữa. Nhưng nói đến cô ta làm gì? Có lẽ từ lúc này
trở đi, chúng ta cũng chẳng còn bao giờ được nghe nhắc đến cô ta nữa đâu; và
khi đôi cánh cổng sắt có chấn song hoa của nhà trường đã khép lại thì cô và cả
bà chị ghê gớm của cô cũng thôi không còn xuất hiện lại trong cái thế giới nhỏ
mọn của cuốn truyện này nữa.
Song
bởi lẽ chúng ta còn gặp lại Amelia nhiều lần, nên ngay từ giờ phút quen thuộc
đầu tiên này, nói ngay rằng cô thật là một cô em đáng yêu cũng chẳng có hại gì.
Trong cuộc đời cũng như trong tiểu thuyết, (đặc biệt là trong tiểu thuyết) ta
thường gặp những tên đốn mạt vào loại tồi tệ nhất; có được một người bạn đồng
hành lúc nào cũng ở bên mình, mà lại là một người trong trắng và tốt bụng như
thế là một nhân vật chính nên cũng không cần phải miêu tả hình dáng cô làm gì;
thực ra thì tôi cũng e rằng mũi cô có phần hơi ngắn, còn má thì, nếu cô là một
nhân vật chính, như vậy cũng khí tròn quá và đỏ quá (). Song được cái mặt cô
lúc nào cũng tươi, nước da hồng hào khỏe mạnh, miệng cô luôn luôn nở một nụ
cười duyên dáng nhất. Cô lại có đôi mắt sáng long lanh đầy tinh thần yêu đời,
dĩ nhiên trừ trường hợp mắt cô đẫm lệ, mà cô cũng hay khóc lắm. Cái cô thiếu nữ
vớ vẩn này thấy một con chim hoàng oanh chết cũng khóc, mà thấy một con chuột
đột nhiên bị mèo vồ chết, cũng chảy nước mắt được; cô khóc cả khi đọc đoạn kết
thúc một cuốn truyện, dẫu rằng đoạn kết rất ngớ ngẩn ... Còn như nặng lời với
cô - giả thử có người nào nhẫn tâm mà làm như vậy - thì quả thật là tồi tệ, nói
làm gì đến họ.
Ngay
cả bà Pinkerton, người đàn bà khắc khổ trông như một vị thần ấy cũng chỉ rầy la
cô một lần rồi thôi hẳn.
Tuy
bà chẳng hiểu thế nào là sự mủi lòng cũng như bà mù tịt đối với khoa đại học,
bà cũng ra lệnh đặc biệt cho tất cả các thầy giáo cô giáo trong trường phải đối
đãi với cô Sedley một cách cực kỳ nhẹ nhàng, dường như sự phũ phàng trong cách
cư xử là một điều sỉ nhục đối với cô.
Cho
nên đến ngày chia tay, cô Sedley rất bối rối; giữa hai thói quen hay khóc và
hay cười, cô không biết nên chọn đằng nào. Được về với gia đình cô cũng thích,
nhưng phải từ biệt nhà trường cô cũng vô cùng sầu khổ. Đã từ ba hôm trước, em
bé Laura Martin, một em bé mồ côi, cứ luẩn quẩn đi theo cô như một con chó nhỏ.
Cô đã phải trao và phải nhận quà tặng ít nhất là mười bốn lần, lại đã phải
trịnh trọng hứa mười bốn lần rằng sẽ viết thư hàng tuần đều đều. Cô Saltire bảo
thế này: “Viết thư cho em thì cứ đề ngoài bì gửi cho ông nội em là bá tước
Dexter tiên sinh nhé” (thực ra gia đình cô này cũng xác xơ chứ có gì đâu) . Còn
cô Swartz, cô thiếu nữ tính tình sôi nổi, tóc xoăn tít như lông cừu nhưng rất
rộng lượng và thân thiết ấy, thì bảo bạn: “Đừng có ngại tiền tem, ngày nào cũng
phải viết thư cho em đấy”. Em bé mồ côi Laura Martin (em hãy còn đang tập viết
tô) thì cứ nắm lấy tay cô bạn lớn tuổi, tha thiết nhìn vào mặt cô mà nói: “Chị
Amelia ơi, bao giờ em viết thư cho chị, em sẽ gọi chị là “má” nhé. Nhất định
anh chàng Jones, khi đọc cuốn sách này ở câu lạc bộ của anh ta, thế nào cũng
tuyên bố rằng những chuyện vừa kể trên chẳng qua là những chuyện cực kỳ ngớ
ngẩn tầm thường, vô vị, và tình cảm một cách quá đáng. Phải, ngay phút này, tôi
cũng đã cụ thể nhìn thấy Jones (mặt hắn gần đỏ tía lên trước một tảng thịt cừu
và một nửa chai rượu vang) đang rút bút chì ra gạch dưới mấy chữ “ngớ ngẩn, vô
vị” v…v…rồi lại còn thêm ý kiến riêng “đúng vô cùng”. Phải lắm, hắn là một thiên
tài kiêu kỳ, chỉ quen kính trọng những cái gì là lớn lao và anh hùng trong cuộc
đời cũng như trong tiểu thuyết; thôi thì tốt nhất là biết hắn vậy, và đi chỗ
khác.
Vậy
thì nào hoa, nào tặng vật, và hòm xiểng, rồi hộp mũ, tất cả đồ đạc của cô
Sedley đều đã được bác Sambo xếp cẩn thận lên xe rồi; cả một cái va ly bé tý
xíu bằng da bò cũ, mưa nắng đã dãi dầu, trên có ghim cẩn thận một mảnh bìa ghi
tên cô Sharp. Sambo tay sách chiếc va ly cứ nhăn răng ra mà cười mãi; bác xà
ích lúc buộc lại nó cũng có một nụ cười mỉa mai đồng lõa... Giờ khởi hành đã
đến. Nỗi đau đớn của phút ly biệt cũng giảm được nhiều phần, nhờ có bài diễn
văn đáng phục của bà Pinkerton thuyết cho cô học trò nghe. Không phải vì bài
diễn văn chia tay đã khiến cô Amelia đâm ra triết lý, hoặc nó đã có tác dụng
làm cho cô có thái độ bình thản tức là kết quả của sự suy luận, nhưng vì bài
diễn văn buồn, và kêu, và tẻ nhạt một cách không thể thương được, và chính vì
nỗi sợ hãi bà giáo vẫn còn lù lù trước mắt nên đối diện với bà, cô Sedley không
dám liều lĩnh để cho nỗi đau buồn riêng của mình được phát lộ ra một tý nào.
Cũng như mọi dịp long trọng khác, mỗi khi có phụ huynh học sinh đến thăm
trường, người ta đã dọn trong phòng khách một cái bánh mạch nha và một chai
rượu vang. Mỗi người ăn một miếng bánh; cô Sedley bắt đầu được tự do lên đường.
Truyện "Hội Chợ Phù Hoa " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc
(LuongSonBac.com)
-
Becky, em vào trong nhà chào bà Pinkerton đã chứ.
Cô
Jemima bảo với một cô thiếu nữ đang đi xuống cầu thang gác như vậy. Cô này ôm
trong tay chiếc hộp đựng đồ dùng của chính mình: chẳng ai buồn để ý đến cô ta.
Cô Jemima rất ngạc nhiên thấy cô Sharp thản nhiên đáp lại rằng:
-
Có lẽ cũng phải thế thật.
Sau
khi cô Jemima đã gõ cửa và được phép vào thì cô Sharp tiến lên, dáng điệu rất
ung dung, nói bằng tiếng Pháp thật đúng giọng: “Thưa bà, tôi đến để từ biệt
bà”().
Bà
Pinkerton không hiểu tiếng Pháp; bà chỉ điều khiển những người biết tiếng Pháp
thôi. Nhưng bà cắn môi lại, ngẩng cao một cái mặt đáng khinh có cái mũi La-mã
lên (trên đầu bà lại quấn một tấm khăn to tướng nom rất long trọng nữa) và đáp:
“Cô Sharp, xin chào cô”. Bà Hammersmith Semiramis vừa nói vừa giơ một bàn tay
lên vẫy để tỏ ý từ biệt, và cũng là để cho cô Sharp có dịp nắm lấy một ngón tay
của bà giơ ra cốt cho cô được bắt.
Nhưng
cô Sharp chỉ chắp hai tay lại, mỉm cười cúi chào một cách lạnh lùng: rõ ràng cô
không chịu nhận cái vinh dự nói trên. Bà Semiramis thấy vậy tức giận quá sức,
nguẩy đầu hất mạnh chiếc khăn một cái. Quả thấy đây là một cuộc chiến tranh nho
nhỏ giữa cô con gái và bà già, mà bà già đã bị thất trận. Bà ôm lấy Amelia hôn
mà nói: “Con ơi, cầu thượng đế ban phúc lành cho con”, đồng thời qua vai cô
này, bà cau mặt lại nhìn cô Sharp. “Thôi đi đi, Becky”. Cô Jemima hãi quá, vừa
nói vừa kéo cô gái đi ra ngoài; và cánh cửa phòng khách mãi mãi đóng lại sau
lưng họ.
Rồi
thì tiếp theo là cuộc chia tay ồn ào ở dưới sân; lời nói khôn tả xiết. Tất cả
gia nhân đều tập trung trong gian nhà lớn... Tất cả những bè bạn thân thiết...
tất cả các cô tiểu thư...và cả ông giáo dạy khoa khiêu vũ vừa mới đến xong. Thế
rồi, nào là ôm ghì lấy nhau, nào là hôn hít, rồi thì khóc lóc, cứ túi bụi lên;
lại còn những tiếng “hực, hức” thảm thiết vẳng ra từ trong căn phòng riêng của
Swartz, cô học sinh lưu trú nữa. Thật không bút nào tả xiết; mà có viết ra thì
người có tâm hồn đa cảm cũng không đành lòng mà đọc cho được. Vậy là xong cuộc
ôm hôn từ biệt; họ chia tay nhau...nghĩa là cô Sedley chia tay cùng các bạn cô.
Riêng
cô Sharp đã nín lặng chui vào trong xe từ mấy phút trước. Chẳng một ai buồn
khóc vì phải từ giã cô này.
Bác
Sambo chân vòng kiềng sập cửa xe đánh thình một cái sau lưng cô chủ đang khóc
sướt mướt, rồi nhảy phốc lên đứng sau xe.
-
Dừng lại đã !
Cô
Jemima vừa kêu lên vừa chạy bổ ra cổng, tay cầm một gói nhỏ. Cô bảo với Amelia:
-
Em yêu quý ơi, đây là mấy cái bánh xăng-uých; em cầm lấy đi đường đói thì ăn.
Còn Becky, này Becky Sharp, đây là quyển sách tặng em, mà chị tôi...nghĩa là
tôi…quyển từ điển Johnson ấy mà, em biết rồi chứ; em không thể từ biệt chúng
tôi mà không được tặng quyển sách này. Thôi, tạm biệt nhé. Xà ích, đánh xe đi.
Cầu chúa che chở cho các em!
Đoạn
người thiếu nữ tốt bụng ấy lùi vào trong vườn, lòng dạt dào vì quá xúc động.
Nhưng
kìa! Bác xà ích vừa đánh xe đi thì cô Sharp ló bộ mặt nhợt nhạt ra cửa sổ xe,
quăng trả cuốn sách vào trong vườn.
Cô
Jemima thấy thế xuýt chết ngất vì sợ hãi. Cô nói:
-
Chao ôi? Chưa bao giờ tôi...gớm, mới táo bạo làm sao chứ!
Cô
bị xúc động mạnh quá, không nói hết được ý cả hai câu trên. Chiếc xe bon bon
chạy đi; hai cánh cổng lớn đóng chặt lại. Tiếng chuông reo vang báo hiệu bài
học khiêu vũ bắt đầu. Cả cuộc đời đang mở rộng trước mặt hai cô thiếu nữ; và
thế là vĩnh biệt Chiswick Mall.
Chương 2
SHARP VÀ AMELIA CHUẨN BỊ MỞ CUỘC TẤN CÔNG
Lúc đã thực hiện xong hành động dũng cảm vừa
nói trong
- Cho đáng kiếp cuốn từ điển. Lạy chúa; thật
may mà mình thoát khỏi Chiswick.
Trước hành vi khiêu khích vừa qua, cô Jemima bị
xúc động mạnh thế nào thì cô Sedley hầu như cũng bị xúc động như vậy; ta cứ
nghĩ xem, cô vừa mới rời khỏi nhà trường được có một phút, mà mới trong một
phút thì làm sao bao nhiêu kỷ niệm ghi lại qua suốt sáu năm trời đã mất ngay
được. Không những thế, đối với một số người thì những nỗi lo âu sợ hãi của tuổi
hoa niên cứ vĩnh viễn tồn tại. Thí dụ, tôi có quen một ông già đáng kính đã sáu
mươi tám tuổi; một buổi sáng, cùng ngồi ăn với nhau, ông cụ dáng điệu rất bồi
hồi xúc động nói với tôi rằng:
- Ông ạ, đêm qua, tôi nằm mê thấy bị ông giáo
Raine đánh cho một trận đòn.
Thì ra đêm hôm ấy trí tưởng tưởng đã đem ông
lão sống lùi lại quá khứ những năm mươi lăm năm. Mãi đến bây giờ, đã sáu mươi
tám tuổi đầu, ông lão vẫn còn sợ ông giáo Raine và cái roi y như hồi còn bé mới
mười ba tuổi. Giả sử bây giờ, lúc ông lão đã sáu mươi tám tuổi, mà ông giáo kia
lại hiện lên bằng xương bằng thịt, tay cầm cây roi to tướng, mà quát ông lão
với cái giọng ghê gớm thế này: “Thằng kia, chìa mông ra đây...” nhỉ. Cho nên,
cô Sedley thấy cái hành vi bất phục tòng kia mà kinh hãi quá. Cô ngồi yên lặng
một lúc, cuối cùng hỏi bạn:
- Rebecca, sao chị có thể làm thế được?
Rebecca cười đáp lại:
- Thế nào, chị cho rằng bà Pinkerton sẽ xuất
hiện và ra lệnh cho em phải quay lại cái ngục tối ấy chăng?
- Không phải thế, nhưng...
Cô Sharp vẫn có vẻ giận dữ nói tiếp:
- Em thù ghét cả cái nhà ấy; em ước gì không
bao giờ còn phải nhìn thấy nó nữa. Em cầu cho nó bị chìm xuống tận đáy sông
Thames, thật đấy. Mà nếu bà Pinkerton có chết đuối dưới sông, em cũng không
thèm vớt đâu. Chao ôi! Em mà được nhìn thấy bà ta nổi lềnh bềnh trên dòng sông
kia kìa, đủ cả khăn áo lệ bộ và cái mũi lõ của bà ta chõ lên trời như mũi tầu
ấy, thì thú vị biết mấy!
- Xuỵt! Cô Sedley vội kêu.
Cô Rebecca vừa cười, vừa nói:
- Làm sao, chị sợ thằng hầu da đen này mách lẻo
à? Cho nó về thách bà Pinkerton rằng em ghét bà ấy như đào đất đổ đi: em cầu
cho nó mách; em còn ước sao có dịp cho bà ấy rõ sự thù ghét của em nữa cơ. Hai
năm nay, đối với em, bà ấy chỉ có một thái độ khinh miệt, sỉ nhục. Bà ấy cư xử
với em còn tệ hơn đối với bất cứ một con ở nào coi việc bếp núc. Ngoài chị ra,
thử hỏi có ai là người coi em như bạn, có ai nói với em một lời tử tế. Em bị
phân công chăm sóc đám con gái nhỏ học lớp dưới, và chuyên tập cho bọn lớn tuổi
nói tiếng Pháp, đến nỗi em thành phát ngấy tiếng mẹ đẻ. Mà này, nói tiếng Pháp
với bà Pinkerton thì thật là một trò khôi hài, có phải không? Tiếng Pháp bà ấy
không biết lấy một chữ bẻ làm đôi, nhưng lại kiêu ngạo không chịu thú nhận. Em
tin chắc chính vì vậy mà bà ta tống cổ em đi. Thôi, cũng cảm ơn Thượng đế vì em
biết tiếng Pháp. “Nước Pháp vạn tuế! Hoàng đế vạn tuế! Bonaparte vạn tuế”() .
Cô Sedley lại kêu lên:
- Kìa Rebecca, Rebecca! Nói năng mới liều lĩnh
chứ!
Quả thật từ trước tới nay, chưa bao giờ Rebecca
ăn nói bậy bạ đến như vậy; vì hồi ấy, ở nước Anh ai nói “Bonaparte vạn tuế” thì
cũng chẳng khác gì nói “Lucifer () vạn tuế”.
- Sao chị có thể...sao chị lại dám có những ý
nghĩ trả thù xấu xa như thế?
- Sự trả thù có thể là xấu xa thật đấy, nhưng
cũng là điều tự nhiên thôi. Em có phải là thiên thần đâu.
Mà nói cho đúng sự thực thì quả thật cô ta
không phải là thiên thần. Qua câu chuyện ngắn ngủi hai người trao đổi với nhau
trong khi chiếc xe ngựa lười biếng lăn bánh dọc theo bờ sông, ta thấy rằng có hai
lần Rebecca cảm tạ Chúa trời; song lần thứ nhất, là vì Chúa trời đã giúp cô
thoát khỏi tay mấy kẻ cô ghét cay ghét đắng! Và lần thứ nhì, là vì Chúa trời đã
giúp cô làm cho kẻ thù của cô phải phần nào bối rối, lúng túng. Cả hai điều ấy
không phải là những lý do đúng đắn để cảm tạ Chúa trời; mà những con người tính
tình dịu dàng hiền hòa cũng không suy nghĩ thế. Vậy thì Rebecca chẳng hiền hòa,
dịu dàng một chút xíu nào hết. Cô gái chán đời trẻ măng này bảo rằng cả loài
người hành hạ cô; nhưng ta có thể tin chắc rằng kẻ nào bị cả loài người đối xử
không ra gì, nhất định hoàn toàn xứng đáng với cách đối đãi như vậy. Cuộc đời
là một tấm gương soi, nó phản chiếu lại chính bộ mặt của bất cứ kẻ nào ngó vào.
Cau mặt với nó, nó sẽ cau mặt giả với ta ngay; và cười với nó, nó lại sẽ thành
ngay người bạn vui tính tốt bụng của ta; các bạn thanh niên hãy xem đó mà lựa
chọn. Có điều chắc chắn rằng nếu cả thế giới bỏ quên cô Sharp, thì cũng chưa hề
bao giờ cô ta làm tốt điều gì cho ai. Ta cũng không thể mong có được hai mươi
bốn cô thiếu nữ đều đáng yêu như nhân vật chính trong tập truyện này là cô
Sedley (sở dĩ chọn cô này làm nhân vật chính, cũng vì cô tốt nết hơn cả; nếu
không, có cái quái gì trên đời nào ngăn cấm chúng ta chọn cô Swartz, cô Crump
hoặc cô Hopkins làm nhân vật chính?); không thể hy vọng rằng người đời ai cũng
có được tính tình dịu dàng, khả ái như Amelia Sedley, ai cũng tìm mọi dịp khuất
phục cái tính tàn nhẫn, hay cáu bẳn của Rebecca, và cũng biết dùng muôn vàn lời
lẽ phải chăng và hành vi tốt đẹp mà vượt trên thái độ thù ghét loài người của
cô này, dù là chỉ một lần.
Bố Rebecca là một họa sĩ, dạy vẽ trong trường
của bà Pinkerton. Ông ta là một người thông minh, một người bạn vui vẻ, một ông
vô tâm, hay mang công mắc nợ, và rất mê các tửu quán. Nốc rượu say, ông ta hay
đánh vợ đánh con; rồi sớm hôm sau, đầu nhức như búa bổ, ông ta lại chửi vung
lên rằng thiên hạ không biết trọng thiên tài, và xỉ vả cái bọn khốn nạn, tức là
cái bọn đồng nghiệp họa sĩ của ông, một cách khá sáng suốt và nhiều khi rất là
có lý. Ông ta sống một cách chật vật ở thị trấn Soho; nội một dặm quanh thị
trấn này, ông ta mắc nợ tất cả mọi người. Vì vậy, ông ta bèn nghĩ rằng hoàn
cảnh của mình thế này thì cưới phăng một người đàn bà Pháp trẻ tuổi làm vợ là
tốt nhất; người này vốn làm nghề vũ nữ. Không bao giờ cô Sharp đả động đến cái
nghề nghiệp hèn hạ của mẹ mình; trái lại, cô luôn luôn tuyên bố rằng cái bà hay
“nhảy đập chân” () kia thuộc một dòng họ quý tộc vùng Gascony, và lấy làm hãnh
diện hết sức vì được là con cháu dòng dõi đó.
Mà quái lạ thay, Rebecca càng lớn lên, thì các
tổ tiên của cô cũng càng được tôn thêm về địa vị xã hội và về tiếng tăm.
Mẹ cô Rebecca cũng có được thụ hưởng một nền
giáo dục nào đó ở đâu không biết; con gái bà nói tiếng Pháp rất đúng giọng, y
như dân thành Paris vậy. Thời ấy điều này hầu như là một tài năng hiếm hoi; nhờ
vậy, Rebecca được cái bà Pinkerton có tư tưởng bảo thủ kia mượn giúp việc.
Mẹ vừa chết, bố Rebecca lại bị bệnh tửu cuồng
tấn công lần thứ ba; yên trí mình không thể qua khỏi được, ông ta bèn viết một
bức thư lời lẽ thật thiết tha cảm động gửi cho bà Pinkerton, nhờ bà che chở cho
con gái. Rồi ông ta nằm xuống mộ, sau khi đã bị hai viên mõ tòa cãi lộn nhau
trên thi thể mình. Đặt chân vào Chiswick, Rebecca vừa tròn mười bảy tuổi; cô
được theo chế độ lưu học sinh, được hưởng học bổng; nhiệm vụ của Rebecca là nói
tiếng Pháp, như ta đã rõ; còn quyền lợi của cô là khỏi phải trả tiền; hàng năm
lại được cấp thêm vài ghi-nê, và được mấy ông giáo dạy trong trường truyền thụ
cho ít mảnh kiến thức.
Dáng người Rebecca bé nhỏ, mảnh mai, da tái
tái, tóc màu vàng sẫm, mắt hay nhìn xuống; lúc nào Rebecca ngước nhìn lên, hai
mắt thật là to, trông kỳ dị và rất hấp dẫn đến nỗi cậu công tử Crisp phải lòng
cô chết mệt; cậu này vừa mới tốt nghiệp Oxford đại học đường, giữ chức mục sư
dưới quyền cha xứ Chiswick là ngài Flowerdew. Một lần đến giảng đạo ở nhà thờ
Chiswick, bị Rebecca ngồi dưới hàng ghế học trò liếc tình cậu Crisp trên bục
giảng một cái; lập tức cậu này ngây người ra như mất hồn().
Anh chàng thanh niên si tình này thường ngồi
hầu trà bà Pinkerton, vì được mẹ giới thiệu với bà. Cậu bèn nhờ mụ chột mắt bán
táo làm bà tơ hồng gửi hộ “tình thơ nhất bức”, đại khái tỏ ý muốn tính cuộc
trăm năm với Rebecca thì phải; bà Crisp được triệu ngay từ Buxton về; bà lập
tức đưa cậu con cưng của mình đi chỗ khác. Tuy vậy, mỗi lúc nghĩ rằng cái
chuồng chim bồ câu ở Chiswick này mà lại ủ ấp một con diều hâu ghê gớm đến thế,
bà Pinkerton cứ thấy sốt cả ruột; giá không vì đã trót bị ràng buộc với
Rebecca, bà đã tống cổ cô đi nơi khác rồi; bà cũng không thể hoàn toàn tin lời
cô, mặc dầu cô một mực cãi rằng mình chưa hề trao đổi một lời nào với cậu
Crisp, trừ hai lần, ngay trước mặt bà nhân khi cùng ngồi uống trà với bà và cậu
ấy. Đứng cạnh nhiều cô khác trong trường có vóc người cao lớn, trông Rebecca
như một đứa trẻ. Nhưng cô sớm có cái già dặn, cái từng trải đáng sợ của con nhà
nghèo. Sau khi nói chuyện với Rebecca, khối bác chủ nợ của bố cô đành quay về
không. Lại có vô số nhà thương gia được cô ta nịnh nọt khéo léo đâm ra vui tính
lại đãi thêm một bữa ăn nữa. Thường Rebecca vẫn ngồi cạnh bố khi có khách -
thấy con gái thông minh, ông bố lấy làm hãnh diện lắm - nên cô được nghe đủ mọi
thứ chuyện của những vị khách “bừa bãi” này, hầu hết là những chuyện con gái
không nên để lọt vào tai. Bởi thế Rebecca vẫn nói rằng mình chưa hề bao giờ là
con gái, ngay khi mới lên tám tuổi đã là đàn bà rồi. Ôi chao, sao bà Pinkerton
lại để cho một con chim nguy hiểm như thế lọt vào cái lồng của mình nhỉ?
Số là những khi bố Rebecca đưa cô đến Chiswick,
bà giáo già yên trí cô là một thiếu nữ dịu dàng nhất thế giới, vì những bận ấy
cô đóng vai một cô gái ngây thơ () khéo quá. Và chỉ mới có một năm trước ngày
Rebecca được nhập trường, nhân cô vừa tròn mười sáu tuổi, bà Pinkerton bèn long
trọng tặng cô một con búp bê, lại kèm theo cả một bài diễn văn ngắn. Thực ra,
bà tịch thu con búp bê này của cô Swindle vì bà bắt được cô này ru trộm búp bê
trong giờ học. Tối hôm ấy, sau buổi họp, hai bố con cô Rebecca tha hồ mà cười
với nhau trên đường về nhà (chỉ khi nào có diễn văn thì các ông giáo trong
trường mới được triệu tập tới dự đông đủ). Giá bà Pinkerton được nom thấy hình
ảnh hài hước của chính bà, nghĩa là được thấy Rebecca làm cho con búp bê bắt
chước dáng điệu bà như thế nào, có lẽ bà đến phát điên phát rồ lên vì tức giận
mất. Becky vẫn thường giả vờ đối thoại với con búp bê; tại các phố Newman,
Gerrard, và ở khu phố của Nghệ Sĩ, người ta thích thưởng thức cái trò vui ấy
lắm lắm. Mấy anh chàng họa sĩ trẻ tuổi mỗi khi đến “nhậu nhẹt” với bậc đàn anh lười
biếng, phóng đãng, song thông minh và vui tính của họ, lại hỏi thăm Rebecca
rằng bà Pinkerton có nhà hay không; bà trở thành quen thuộc quá đối với họ, y
như ông Lawrence hay Tổng thống West; khổ thân bà quá! Một lần Rebecca có hân
hạnh được đến Chiswick chơi mấy ngày; lúc trở về nhà, cô đem theo cô Jemima,
nghĩa là một con búp bê khác mà cô gọi là Jemy. Lúc chia tay, cái cô Jemima
thực thà này đã tự tay làm và tặng Rebecca một số bánh ngọt và mứt đủ cho đến
ba đứa trẻ ăn, lại cho thêm một đồng bảy siling, song tính ưa giễu cợt của
Rebecca vẫn mạnh hơn lòng biết ơn; thế là cô em cũng bị hy sinh như bà chị.
Sau khi bố chết, Rebecca bị đưa về Mall ăn học.
Ở đây phải phục tùng nguyên tắc cứng nhắc, cô thấy như bị nghẹt thở, bữa ăn
phải cầu kinh, rồi giờ nào học, giờ nào đi chơi đều có quy định chung rõ ràng
dứt khoát; cô cảm thấy hầu như không thể chịu đựng nổi nữa; cô nhớ tiếc cuộc
sống trong cái xưởng vẽ ngày xưa ở Soho quá; hồi ấy tuy nghèo sơ xác nhưng thật
tự do; đến nỗi tất cả mọi người, kể cả bản thân Becky nữa, đều tưởng rằng cô
đang rầu rĩ gày mòn đi vì thương nhớ bố. Đêm đến, bọn đầy tớ gái thường nghe
tiếng cô đi lại, khóc thút thít trong căn phòng riêng bé tý ở nhà dưới: nhưng
cô khóc vì tức giận, chứ không phải vì buồn phiền. Trước kia cô cũng không khéo
giả vờ lắm, nhưng bây giờ sự cô độc đã dạy cô giả dối rất tài.
Chưa bao giờ cô được gần gũi giới phụ nữ. Bố cô
có nhiều tật xấu nhưng lại có tài; so với đám đàn bà con gái cô gặp ở đây thì
câu chuyện của ông ta nghe thú vị hơn gấp nghìn lần. Thói phô trương trịnh
trọng của bà hiệu trưởng già, tính vui vẻ nhưng ngớ ngẩn của cô em bà, những
câu chuyện vớ vẩn và thói ngồi lê đôi mách của các cô học trò lớn, rồi cả cái
điệu bộ đạo mạo cứng nhắc của mấy bà giáo...cô thấy khó chịu vì tất cả những
chuyện ấy quá. Cô gái không may này lại cũng không có tâm hồn dịu dàng của một
người mẹ, thành ra những tiếng trò chuyện ríu rít của bầy trẻ con mà cô có
nhiệm vụ săn sóc cũng không thể khiến cô chú ý và an ủi được cô một phần nào.
Tuy vậy cô cũng đã sống chung cùng họ hai năm trời; khi cô ra đi, chẳng một ai
lấy điều đó làm phiền lòng. Riêng đối với Amelia Sedley, người thiếu nữ có tâm
hồn dịu dàng kia, cô còn thấy gắn bó đôi chút; ai mà cảm thấy mình không gắn bó
với Amelia cho được? Thấy các cô gái trẻ sống chung có hạnh phúc hơn mình,
nhiều phen Rebecca uất lên vì ghen tức. Rebecca gièm một cô thế này: nó cậy
mình là cháu ông bá tước, làm bộ làm tịch quá. Thiên hạ còng lưng xuống mà lạy
con bé lai đen kia, chẳng qua vì nó có số vốn mười vạn đồng bảng? Mình còn
thông minh gấp nghìn lần; lại xinh đẹp hơn nó; giầu có mà làm gì! So với cháu
gái ông bá tước, mình có thua kém về mặt giáo dục đâu. Dòng với chả dõi?
Thế mà ở đây thiên hạ chả thèm để ý gì đến
mình. Hồi mình còn ở nhà với bố, bọn đàn ông chẳng đã bỏ cả những cuộc hội họp
khiêu vũ vui vẻ nhất cốt được gần mình một buổi tối là gì?
Thế là cô quyết định phải thoát khỏi chốn lao
tù này bằng bất cứ cách nào; bây giờ phải bắt đầu hành động ngay cho quyền lợi
của bản thân mình; lần đầu tiên Rebecca lập những chương trình xây dựng tương
lai.
Vì vậy, cô hết sức lợi dụng những điều kiện học
tập trong nhà trường; vốn đã có sẵn khả năng về môn âm nhạc và tiếng Pháp, nên
cô tiến bộ rất nhanh trong khóa học ngắn ngủi thời đó coi như cần thiết cho
những thiếu nữ con nhà dòng dõi. Cô tập âm nhạc rất chuyên cần. Một hôm, các
bạn học đi chợ hết, riêng mình Rebecca ở lại nhà.
Nghe thấy cô chơi một bài nhạc hay quá, bà
Minerva khôn ngoan tính toán ngay rằng có thể hà tiện món tiền thuê ông giáo
dạy nhạc cho đám học trò bé được đấy, nên bảo bà riêng cô Sharp rằng từ nay trở
đi cô sẽ dạy chúng về khoa âm nhạc.
Lần đầu tiên cô gái dám không tuân lệnh trên
khiến cho bà hiệu trưởng ngạc nhiên quá. Rebecca nói thẳng:
- Bà mướn tôi để nói tiếng Pháp cho bọn trò nhỏ
nghe, chứ không phải để dạy chúng âm nhạc và tiết kiệm hộ bà. Muốn tôi dạy
chúng, bà trả tôi thêm tiền.
Bà Minerva đành chịu thua: dĩ nhiên từ bữa ấy,
bà ghét cay ghét đắng Rebecca. Bà nói một cách rất có lý rằng: “Ba mươi lăm năm
nay, lần này tôi mới có kẻ dám cưỡng lại quyền tôi ngay trong nhà này. Thì ra
tôi nuôi ong tay áo” ().
Nghe bà lão đang suýt chết ngất vì ngạc nhiên
nói vậy, cô Sharp đáp:
- “Nuôi ong tay áo...” lạ nhỉ? Bà nuôi tôi vì
tôi được việc cho bà. Giữa bà và tôi, không làm gì có chuyện ơn huệ. Tôi thù
ghét nơi này, tôi chỉ muốn đi chỗ khác. Ở đây tôi chỉ làm những việc gì tôi bắt
buộc phải làm thôi.
Bà già hỏi lại cô ta rằng cô biết là đang nói
với bà Pinkerton không; cũng vô ích. Rebecca cười vào giữa mặt bà lão; cái cười
mỉa mai độc địa một cách đáng sợ, khiến bà hiệu trưởng suýt nữa phát điên. Cô
nói:
- Bà hãy trả tiền công rồi cứ tống khứ tôi đi
cũng được. Hoặc bà kiếm cho tôi một chân dạy trẻ trong một gia đình quyền quý
nào đó, tùy ý bà.
Rồi cứ mỗi khi hai người cãi cọ nhau cô lại
nói:
- Bà tìm việc làm cho tôi đi...tôi với bà chẳng
ưa gì nhau đâu; tôi sẵn sàng rời bỏ nơi này.
Dẫu bà Pinkerton đáng kính có cái mũi La mã,
lại đội cả khăn, vóc dáng to béo như một cái chum và từ xưa đến nay vẫn được
coi như một bà hoàng không ai dám cưỡng lại, nhưng bà cũng không có đủ sức mạnh
ý chí bằng cô gái bé nhỏ tập sự này. Chống lại cô hoặc muốn uy hiếp cô ư? Vô
hiệu. Một lần bà định tâm mắng cô trước mặt mọi người, liền bị Rebecca tấn công
lại bằng cách dùng tiếng Pháp trả lời; thế là bà lão thất bại to. Vậy rõ ràng
muốn duy trì uy quyền của mình trong trường, nhất định phải tống cái quân phiến
loạn, cái con quỷ cái, cái con rắn độc, cái quân quấy rối này đi nơi khác mới
xong. Nghe nói gia đình tôn ông Pitt Crawley hồi này đang cần một người dạy
trẻ, bà bèn giới thiệu ngay cô Sharp đến đảm nhiệm việc đó, mặc dầu cô là con
rắn độc, là đồ quấy rối.
Bà nói:
- Quả thực, tôi không thể thấy cô Sharp có lỗi
gì trong cách ăn ở, trừ đối với riêng tôi. Tôi phải công nhận rằng cô là người
có tài năng đáng chú ý. Cô ta đi làm ở đâu rồi cũng sẽ gây được tín nhiệm cho
phương pháp giáo dục của trường tôi.
Nhân việc giới thiệu này, bà hiệu trưởng đã làm
lành với chính lương tâm mình. Thế là tờ hợp đồng bị hủy bỏ, và cô giáo tập sự
được tự do. Cuộc đấu tranh vừa tả ở trên bằng một vài dòng, trong thực tế đã
diễn ra suốt vài tháng trời. Cô Sedley bây giờ đã mười bảy tuổi, cũng sắp sửa
ra trường; cô lại là bạn thân của Sharp. Bà Minerva vẫn nói: “Trong cách cư xử
của Amelia, chỉ có mỗi điều đó là khiến bà giáo không được hài lòng”.
Trước khi Rebecca nhận nhiệm vụ dạy trẻ cho một
gia đình tư nhân, cô được Amelia mời về chơi nhà một tuần.
Cuộc đời đã bắt đầu với hai cô thiếu nữ như
vậy. Đối với Amelia, cuộc đời hoàn toàn mới mẻ, tươi tắn sáng sủa và vô cùng
rực rỡ như hoa xuân. Đối với Rebecca cuộc đời không phải là hoàn toàn mới (Thật
vậy, nếu muốn nói cho đúng sự thực về việc cậu Crisp, thì phải nghe lời mụ bán
bánh quả. Mụ nói ý với người khác; người này lại cam kết với người khác nữa
rằng câu chuyện giữa cậu Crisp và cô Sharp “ở trong còn lắm điều hay” chưa được
công bố, rằng lá thư của cậu ấy là để trả lời một lá thư khác). Song về chuyện
này, ai có thể nói cho thật đúng sự thực? Tóm lại, nếu Rebecca không phải là
mới bắt đầu cuộc đời, thì cô ta đang bắt đầu lại cuộc đời vậy.
Lúc này hai cô thiếu nữ đã đi đến chỗ địa đầu
thị trấn Kensington, có gióng gỗ chắn ngang. Một sĩ quan khinh vệ binh trẻ tuổi
phóng ngựa qua, liếc nhìn Amelia tấm tắc khen: “Chao ôi, cô ả đẹp quá!”. Amelia
nghe tiếng, tuy không quên mất bạn, nhưng cũng chấm khô nước mắt, đỏ ửng mặt
lên và thấy lòng hân hoan. Trong khi xe đang lăn bánh đến công viên Russell thì
hai cô đang chuyện trò tíu tít về căn phòng khách, về chuyện khi được giới
thiệu với khách lạ, các cô thiếu nữ có nên đánh phấn và mặc váy phồng hay
không, và không biết Amelia có cái vinh dự lớn lao ấy không: cô biết rằng mình
sẽ được đến dự buổi dạ hội ở nhà viên thị trưởng.
Xe về đến nhà, Sambo đỡ Amelia Sedley nhảy
xuống, trông cô vui sướng và xinh đẹp như bất cứ một cô thiếu nữ nào của thành
phố Luân đôn rộng lớn này. Sambo và bác xà ích, cả hai đồng ý với nhau về điểm
trên; cha mẹ cô cùng toàn thể gia nhân trong nhà cũng thấy như vậy. Họ đứng
trong căn phòng lớn, người mỉm cười cúi rạp xuống, người nghiêng đầu chào cô
tiểu chủ của họ.
Xin các bạn cứ yên trí rằng Amelia đã dẫn
Rebecca đi xem tất cả các gian phòng trong nhà, lại mở mọi ngăn kéo riêng ra
cho cô xem đồ vật đựng ở trong, rồi khoe với bạn nào là sách, đàn dương cầm,
quần áo, vòng cổ, ghim băng, dây ăng ten và đủ các thứ lặt vặt khác nữa; cô cứ
nài Rebecca phải nhận bằng được mấy cái nhẫn bằng bạch mã não và bằng ngọc
Thổ-nhĩ-kỳ, cả một tấm áo bằng “voan” mỏng rất đẹp, lấy cớ rằng tấm áo này bây
giờ cô mặc hơi chật mà bạn cô mặc thì vừa xinh; cô lại định tâm xin mẹ cho phép
được khoe với bạn tấm khăn san bằng lụa Cashmere trắng của cô, vẫn để dành rất
cẩn thận; Joseph anh trai cô đã mua từ Ấn Độ về cho em đã nói rất thành thực
rằng: “Có một ông anh trai thực là thú vị”. Cô Amelia có tâm hồn hiền hậu dịu
dàng thấy Rebecca côi cút trơ trọi giữa cuộc đời, không thân thích không bè
bạn, lấy làm động tâm vô cùng, Amelia nói:
- Không sợ trơ trọi đâu, Rebecca ạ. Em sẽ là
bạn của chị mãi mãi, em sẽ yêu quý chị như chị em ruột, thật đấy.
- À, nhưng chị có hai bác giầu có nuông chiều
chị, muốn gì được nấy; hai bác yêu thương chị, điều này quý báu hơn cả. Ngày
trước, cha em chả có gì cho em: suốt đời em chỉ có hai cái áo để mặc thay đổi.
Chị lại còn một ông anh, một ông anh thân mến. Chắc chị quý anh ấy lắm nhỉ!
Amelia cười, không đáp.
- Thế nào, chị không quý anh ấy à? Chị bảo rằng
ai chị cũng quý cơ mà?
- Dĩ nhiên, có chứ...nhưng...
- Nhưng sao?
- Nhưng hình như anh Joseph không chú ý lắm đến
chuyện em có quý anh ấy hay không thì phải. Sau mười năm xa cách, gặp lại nhau,
anh ấy chìa hai ngón tay cho em bắt! Anh ấy tốt lắm, nhưng ít khi chuyện trò
với em. Có lẽ anh ấy quý cái tẩu của anh ấy hơn cả...
Amelia vội ngừng lại, vì cô nghĩ sao mình lại
nói xấu anh mình nhỉ? Rồi tiếp:
- Hồi em còn bé anh ấy đối với em dịu dàng lắm.
Khi anh ấy ra đi, em mới lên năm tuổi.
Rebecca hỏi:
- Anh ấy có giầu lắm không? Họ đồn rằng những
ông Nabobb() ở Ấn Độ lắm của lắm.
- Chắc anh ấy thu hoạch đồng niên cũng lớn.
- Thế chị dâu của chị có đẹp không?
Amelia lại cười đáp:
- Ô, anh Joseph đã lấy vợ đâu.
Hình như cô đã nói chuyện này với Rebecca rồi,
nhưng cô bạn trẻ tuổi có vẻ không nhớ ra. Cô nhất định cãi rằng lần này mình đã
định bụng đến xem mặt các cháu giai, cháu gái thân yêu của Amelia. Anh Joseph
chưa vợ, thế thì cô bực mình quá, vì cô yên trí rằng Amelia hơi ngạc nhiên thấy
tính tình bạn đột nhiên dịu dàng hẳn đi; cô nói:
- Em cứ tưởng chị đã chán ngấy trẻ con hồi ở
Chiswick rồi?
Kể ra thì mấy hôm nay cô Sharp chẳng nên tỏ bày
những ý kiến mà người ta rất dễ dàng thấy là giả dối thì mới phải. Song ta nên
nhớ rằng cô mới mười chín tuổi, chưa quen với nghệ thuật dối trá, con người
ngây thơ đáng thương thay! Cô còn đang lấy bản thân mình ra để rút kinh nghiệm
trong cuộc sống. Tất cả những câu hỏi tò mò trên, trong thâm tâm cô gái tinh
quái này, chỉ có ý nghĩa đơn giản như sau: “Nếu anh Joseph Sedley giầu, lại
chưa có vợ, sao mình không lấy quách anh ấy? Mình chỉ ở đây có nửa tháng thật,
nhưng cứ thử một tý cũng chẳng sao cơ mà”. Thế là trong thâm tâm cô quyết định
sẽ thực hiện việc thử thách quý hóa này. Cô bèn ra sức vuốt ve Amelia hơn, khi
đeo chiếc vòng hồng mã não, cô hôn nó, thề rằng sẽ không bao giờ, không bao giờ
rời bỏ nó. Chuông điểm giờ ăn, cô vòng tay ôm lưng bạn bước xuống thang gác,
hệt kiểu những cô thiếu nữ con nhà quyền quý. Đến cửa phòng khách, cô bồi hồi
quá, đến nỗi gần như không đủ can đảm bước vào. Cô bảo bạn:
- Chị thân yêu ơi, hãy sờ ngực em xem, sao tim
đập mạnh thế này?
Amelia đáp:
Chương 3
REBECCA TRƯỚC KẺ ĐỊCH
Lúc hai cô thiếu nữ bước vào phòng thì thấy một
người đàn ông đang ngồi đọc báo cạnh lò sưởi.
Người này to béo phục phịch mặc quần da nai
thuộc, đi ủng cao, cổ áo đính bao nhiêu là đăng-ten che gần đến mũi; anh ta mặc
một áo gi-lê có sọc đỏ, và một tấm áo khoác màu xanh da táo, có những chiếc
khuy đồng to tướng bằng đồng “cơ-rao”, (ấy là lối phục sức buổi sớm theo “mốt”
ăn diện của các cậu công tử hồi đó). Thấy hai cô hiện ra, anh chàng vội nhảy
bật ra khỏi chiếc ghế bành, mặt mũi đỏ ra, và gần như giấu kín mặt mình trong
đám đăng ten đính trên cổ áo. Amelia cười, nắm lấy hai ngón tay anh trai giơ ra
nói:
- Em gái của anh đây mà. Em đã trở về nhà thực
sự rồi đây nhé; còn đây là bạn em, chị Sharp. Em đã có lần nói chuyện với anh
về chị ấy.
Cái đầu trong đám đăng ten vội lắc quầy quậy
đáp:
- Có đâu? Bao giờ? Tôi xin thề...nghĩa
là…vâng...thưa cô, gớm, trời lạnh quá.
Rồi anh ta vội cúi xuống ra sức mà cời lửa
trong lò sưởi, mặc dầu tiết trời đang giữa tháng sáu.
Rebecca thì thầm hơi to với Amelia:
- Anh ấy đẹp trai quá nhỉ?
Amelia đáp:
- Chị thấy thế à? Em bảo với anh ấy nhé?
Sharp vội co người lại, như một con thú rừng sợ
hãi nói.
- Ấy chớ, chị thân yêu; đừng đấy.
Lúc trước cô ta đã kính cẩn nghiêng mình chào
cậu công tử một cách đúng kiểu gái trinh, đôi mắt e lệ cứ nhất định ngó chăm
chăm xuống tấm thảm; không biết sao cô ta lại có dịp nhìn được mặt anh chàng.
Amelia nói với ông anh đang cời lửa:
- Anh ơi, cảm ơn anh cho em đôi khăn san đẹp
quá. Có đẹp không, chị Rebecca?
- Ô, đẹp tuyệt trần đời.
Sharp đáp và đưa mắt nhìn từ tấm thảm sang đôi
đèn trên lò sưởi.
Joseph vẫn tiếp tục loay hoay kỳ cạch với chiếc
que cời và cái gắp than vừa phồng má thổi lửa phù phù, bộ mặt vàng khè không
thể nào đỏ ửng hơn được. Cô em gái nói tiếp :
- Anh Joseph ạ, em không tặng anh được những
quà đẹp đến thế đâu; nhưng hồi còn ở trường, em đã thêu cho anh một đôi quai
đeo quần đẹp lắm cơ.
Ông anh vội kêu lên, vẻ mặt hoảng hốt thực sự.
- Trời ơi! Amelia, em định nói cái gì thế?
Anh chàng nhảy xổ tới với lấy cái dây chuông,
lúng túng mãi không nắm được; trông điệu bộ anh chàng hiền lành lại càng thêm
vẻ bối rối.
- Lạy chúa, nhìn hộ anh xem chiếc “bớc-ghi” ()
có ngoài cửa không. Không sao đợi được nữa; anh phải đi thôi. Cái thằng hầu
khốn nạn. Anh phải đi đây.
Vừa lúc đó ông bố bước vào, vừa đi vừa lúc lắc
mấy chiếc chìa khoá, rõ ra kiểu một ông nhà buôn người Anh.
Ông hỏi:
- Emmy, cái gì thế?
- Anh Joseph bảo con xem hộ cái...cái “bớc-ghi”
có ngoài cửa không? Cái “bớc-ghi” là cái gì thế, ba?
Ông lão cũng ưa khôi hài đáp:
- Ấy là “cái xe một ngựa”.
Nghe bố nói, Joseph cười phá lên. Đang cười gặp ngay đôi mắt của Sharp, anh
chàng tịt mất, y như bị một phát đạn chết đứng.
- Cô này là bạn của con à? Cô Sharp, tôi rất sung sướng được gặp cô. Cô và
Emmy đang cãi nhau với Joseph hả; sao nó lại muốn bỏ đi?
Joseph đáp:
- Thưa cha, con đã hứa đi dùng cơm với Bonamy, bạn đồng sự của con.
- Ồ, thôi. Anh đã bảo với mẹ anh rằng anh ăn cơm ở nhà cơ mà?
- Nhưng…ai lại ăn mặc thế này?
- Cô Sharp, thử nhìn nó xem. Có phải nó diện cũng khá bảnh, có thể ăn cơm
bất cứ đâu không?
- Dĩ nhiên - cô Sharp nhìn bạn và cả hai cùng phá ra cười làm cho ông già
rất thú vị. Thấy câu nói đùa được tán thưởng, ông hỏi tiếp:
- Đã bao giờ cô trông thấy một đôi ủng như thế kia ở trường bà Pinkerton
chưa?
Joseph kêu lên:
- Trời đất ơi!
- Đấy, đấy! Tôi đã làm nó phát tức lên đấy. Bà Sedley thân yêu của tôi ơi,
tôi làm mếch lòng con trai bà đây này. Tôi vừa nhắc đến chiếc quần da nai thuộc
của nó. Có phải không, cô Sharp. Thôi lại đây Joseph; lại đây làm quen với cô
Sharp, rồi chúng ta đi ăn cơm thôi.
- Có món “pi-lô” () nấu đúng theo ý thích của anh, ba lại mang về một con
cá chim ngon nhất Billingsgate.
- Xuống đi, xuống ăn thôi; anh dẫn cô Sharp xuống nhà. Tôi sẽ đi theo cùng
hai cô tiểu thư này đây.
Ông bố nói vậy rồi khoác tay vợ và con gái vui vẻ bước ra khỏi phòng.
Nếu Rebecca Sharp đã quyết định trong thâm tâm phải chiếm bằng được trái
tim của anh chàng đẹp trai hộ pháp kia thì, thưa các bà, tôi cho rằng ta không
có quyền trách cô; vì tuy rằng nói chung các cô gái trẻ thường giao việc săn
chồng cho các bà mẹ phụ trách hộ, và tiến hành một cách kín đáo phải chăng,
nhưng ta phải nhớ rằng cô Sharp không có một người bà con nào thương yêu cô và
đỡ đần hộ cô trong công việc tế nhị này. Nếu cô không đích thân lo lấy một tấm
chồng, thì trong cái thế giới bao la này cũng chẳng có một ai cất hộ cho cô cái
gánh lo ấy. Thử hỏi tại sao bọn gái trẻ hay đi lượn phố, nếu không phải vì họ
có ước vọng cao quý được làm mẹ? Ai lùa họ tụ tập hàng đàn tại những bể bơi? Ai
bắt họ khiêu vũ đến năm giờ sáng suốt mùa đông? Ai buộc họ phải chúi mũi vào mà
tập đàn dương cầm để chơi những bài sonate, phải cầu kỳ học lấy độ bốn bài hát
và chịu trả công ông thầy dạy nhạc những một ghi-nê một bài, và nếu họ có đôi
cánh tay đẹp, đôi khuỷu tay sạch sẽ thì họ chơi thụ cầm? Ai bắt họ phải chụp
những chiếc mũ có đính lông chim lên đầu nếu không phải vì muốn lấy những thứ
cung tên vừa kể trên để “hạ” một anh chàng trẻ tuổi “đáng yêu” nào đó? Ai bắt
các bậc cha mẹ đáng kính phải cho lật hết thảm, đảo lộn hết trật tự trong nhà
và tiêu đến một phần năm số thu hoạch hàng năm vào những bữa tiệc có khiêu vũ
và rượu sâm banh ướp đá? Chỉ vì họ thích thế, hoặc chỉ vì họ muốn con cái họ
nhảy múa cho vui nhà vui cửa chăng? Xin thưa rằng họ muốn “cưới chồng” cho con
gái đấy. Trong thâm tâm bà Sedley thực thà kia cũng đã sắp đặt đến nửa tá kế
hoạch hạnh phúc cho cô Amelia của bà. Vậy thì dĩ nhiên cô Rebecca đáng yêu sống
trơ trọi của chúng ta cũng phải nỗ lực kiếm cho mình một tấm chồng chứ. Cô cần
có ngay một người chồng, còn cấp bách hơn cả bạn cô nữa. Trí tưởng tượng của cô
khá phong phú; cô lại đã đọc qua truyện Nghìn lẻ một đêm và sách địa lý của
Guthrie. Sự thực là trong khi đang mặc áo để dự tiệc, và sau khi đã hỏi Amelia
xem anh cô này có giàu không, Rebecca đã xây dựng ngay một chiếc lâu đài huy hoàng
nhất trên bãi cát rồi; trong tòa lâu đài đó cô sẽ là bà chúa, còn đức ông chồng
thì đại khái là đóng vai phụ (vì cô cũng chưa nhìn kỹ anh ta, nên mặt anh ta
thế nào cũng không thể tưởng tượng cho thực rõ được). Cô đã tự trang sức cho
mình bằng đủ mọi thứ khăn san, khăn quấn đầu, vòng cổ bằng kim cương, và cô đã
cưỡi trên lưng một con voi để đi thăm viếng ngoại giao viên phó vương Ấn Độ
trong tiếng kèn hành khúc của nhạc binh. Những ảo ảnh thần tiên hấp dẫn biết
bao? Riêng tuổi trẻ có quyền xây dựng cho ta những ảo ảnh ấy, và ngoài Rebecca,
còn biết bao cô cậu trẻ tuổi giàu trí tưởng tượng đã để cho tâm hồn mình bay
theo những giấc mộng ban ngày thú vị đó.
Joseph Sedley hơn Amelia những mười hai tuổi. Anh ta tòng sự tại sở hành
chánh trong công ty Đông Ấn Độ. Vào khoảng thời gian đang xảy ra câu chuyện
này, tên anh ta có ghi trong sổ danh bạ của khu Bengal thuộc Đông Ấn Độ, với tư
cách là ủy viên tài phán () quận Boggley Wollah; ai cũng biết chức vụ này là
một chức vụ đáng kính và tốt bổng. Muốn biết Joseph còn leo lên tận những chức
vụ nào cao hơn, mời các bạn hãy giở tài liệu nói trên ra mà tra cứu Quận
Boggley Wollah thuộc một vùng phong cảnh đẹp, song heo hút, nhiều đầm lầy và
rừng rậm, nổi danh vì người ta hay đến đấy bắn rắn và nhiều khi gặp cả hổ. Thị
trấn Ramgunge có cả một tòa án chỉ cách đó bốn mươi dặm; và xa hơn, khoảng ba
mươi dặm nữa, là nơi đồn trú của một đội khinh kỵ binh. Joseph viết thư về kể
chuyện với cha mẹ như vậy, khi anh ta nhận nhiệm vụ ủy viên tài phán. Anh ta đã
sống khoảng tám năm trời, hoàn toàn trơ trọi giữa nơi phong cảnh kỳ thú này,
năm thì mười họa mới gặp một người da trắng, không kể mỗi năm hai lần, khi đội
kỵ binh đến để chuyển số thu hoạch của công ty về Calcutta.
May làm sao, hồi này anh ta lại đang đau gan, phải về Âu Châu chữa bệnh.
Được về quê cha đất tổ anh ta thích lắm. Ở Luân Đôn, Joseph không sống chung
với gia đình, mà thuê nhà riêng như một anh chàng chưa vợ yêu đời.
Trước khi sang Ấn Độ, Joseph còn bé quá chưa được nếm mùi cuộc sống thú vị
của một chàng trai thành thị, cho nên khi về nước, anh ta lao vào những thú
chơi ấy một cách thật say sưa. Joseph tự mình giong lấy xe khi đi chơi ở công
viên, dùng bữa tại những tửu quán sang trọng (hồi ấy câu lạc bộ Đông phương
chưa được tổ chức); anh ta thường lui tới các rạp hát theo phong tục đương
thời, và mỗi khi đến rạp Opera lại hì hục mặc bằng được chiếc quần chẽn, và đội
một chiếc mũ bẻ vành tam giác.
Khi quay về Ấn Độ, và mãi mãi sau này nữa, anh ta thường say sưa kể lại
những thú vui trong khoảng thời gian sống ở Anh, và muốn bắt mọi người phải
hiểu rằng anh ta và Brummel là hai con hươu đầu đàn thời đó. Song ở đây, Joseph
cũng cô độc như ở giữa rừng rậm Boggley Wollah.
Hầu như anh ta chẳng quen thuộc ai ở kinh đô, và nếu không có ông bác sĩ,
không có các viên thuốc xanh lè và cái bệnh đau gan làm bạn thì có lẽ anh ta
đến chết vì cô độc.
Anh ta lười biếng, hay gắt song cũng vui tính (), và hễ thấy con gái là sợ
co rúm người lại. Vì thế thỉnh thoảng anh ta mới lại thăm cha ở khu phố
Russell; - ở đấy vui thì vui thật, nhưng những câu nói đùa của ông bố già hay
bông lơn thường làm cho anh ta bị chạm tới “lòng tự ái”(). Thấy mình to béo,
Joseph rất lấy làm lo nghĩ; thỉnh thoảng anh ta lại cố tìm mọi cách tống bớt
cái đám mỡ thừa trong người, song thói lười biếng, và tính ưa ăn ngon lại sớm
thắng ngay những sự cố gắng cải cách con người của anh ta; thế là đâu lại vào
đấy; mỗi ngày đủ ba bữa. Chưa bao giờ Joseph ăn mặc cho được ra hồn, nhưng anh
ta vất vả vô cùng trong việc trang điểm tấm thân phì nộn của mình, mỗi ngày mất
vào đó vô khối thì giờ. Thằng hầu nhờ tủ áo của anh ta mà làm giàu; bàn rửa mặt
của anh ta chất đầy những lọ sáp và nước hoa, y như của một bà già hay làm đỏm.
Muốn cho thân thể thon hại, Joseph đã thử dùng đủ mọi thứ dây lưng, áo chẽn
được sáng chế ra trong thời đó.
Cũng như đa số các ông béo phị, anh ta thích may áo bó thật khít lấy người,
mà phải cắt kiểu nào cho thật trẻ trung, màu sắc phải thật rực rỡ mới được.
Chiều đến “lên khung” đâu vào đấy anh ta mới giong xe đi chơi một mình ở tiệm
ăn Piazza. Tính Joseph đỏm dáng như con gái, mà có lẽ tại anh ta đỏm dáng như
con gái, nên mới sinh ra nhút nhát cũng quá đáng. Nếu Rebecca thắng được anh
chàng ngay lúc mới đặt chân vào cuộc đời thì quả thật trí thông minh của cô ta
không phải là tầm thường.
Miếng đòn đầu tiên đã tỏ ra vô cùng lợi hại. Khi cô bảo rằng Sedley đẹp
trai lắm, cô biết thế nào Amelia cũng nói với mẹ; bà mẹ lại có thể kể với
Joseph; biết đâu bà chẳng vui thích vì thấy con trai mình được khen. Bà mẹ nào
mà chẳng thế. Giả thử bạn bảo với Sycorax rằng con trai mụ là Caliban () đẹp
như thiên thần Apollo (), có nhẽ mụ cũng thích, dù rằng mụ là phù thủy.
Hình như Joseph cũng thoáng nghe thấy thì phải, Rebecca nói khá to - nhất
định anh ta có nghe thấy; vốn vẫn tự cho mình là bảnh trai, Joe thấy lời khen
ngợi làm rung động từng thớ thịt trong người, khiến cho nó căng lên vì khoái
trá. Song anh ta lại chùn bước ngay vì nghĩ thầm: “Nhỡ cô ả nói xỏ mình thì
sao?” Thế là anh ta vội nhảy đến kéo cái dây chuông để chuồn như ta đã biết.
Vừa hay, những câu bỡn cợt của bố và những lời năn nỉ của mẹ khiến anh dừng lại
chịu ngồi nguyên chỗ cũ.
Joseph dẫn cô thiếu nữ trẻ tuổi xuống gác dùng cơm mà trong bụng cứ phân
vân, áy náy; “Không biết có thật cô ta cho mình là đẹp trai không, hay là nói
thế để xỏ mình nhỉ?” Đã bảo rằng Joseph Sedley hay làm đỏm như con gái mà lại.
Lạy Chúa tôi! Nhưng các cô gái lại đảo ngược câu nói khi kháo chuyện với nhau
thế này: “Chị ta hay làm đỏm như một anh đàn ông”; mà họ nói vậy cũng rất có
lý.
Đám mày râu chúng ta vốn rất ưa được tán tụng, lại cũng rất cầu kỳ trong
cách phục sức, rất kiêu ngạo về những ưu điểm của bản thân, rất quan tâm đến sự
hấp dẫn của chính mình, có kém gì bất cứ cô gái đỏm dáng nào trên đời này đâu?
Thế là hai người bước xuống thang gác; mặt Joe đỏ dừ; Rebecca thì tỏ ra rất
kín đáo đôi mắt xanh của cô ta cứ nhìn chăm chú xuống đất. Cô ta mặc áo trắng,
để lộ đôi vai trần trắng muốt như tuyết đọng; thật là một bức tranh của tuổi
thanh xuân, của sự ngây thơ trong trắng yếu đuối, của sự giản dị kín đáo và trinh
bạch. Rebecca nghĩ bụng:
- Mình phải rất điềm tĩnh và phải hết sức chú ý đến Ấn Độ mới được.
Chúng ta biết rằng bà Sedley đã nấu cho con trai một món ca-ry đúng theo sở
thích của con. Trong bữa ăn, Rebecca được mời dùng một ít. Cô hỏi:
- Món gì đây nhỉ? Rồi đưa mắt van vỉ nhìn Joseph.
- Tuyệt lắm, má ạ. Ngon chẳng kém gì ca-ry con ăn ở Ấn Độ.
Joseph, mồm đầy những ca-ry mặt đỏ tía vì đã khoan khoái nốc bao nhiêu
rượu.
Rebecca bèn nói:
- Ồ, nếu là một món ăn Ấn Độ thì em phải ăn thử một tý mới được. Em tin
chắc rằng cái gì của Ấn Độ cũng phải tốt.
Ông cụ Sedley vừa cười vừa bảo:
- Con ơi, tiếp cô Sharp một ít ca-ry.
Lúc trước Rebecca chưa hề đụng đến món này. Ông cụ lại hỏi:
- Cô có thấy tốt như bất cứ thứ gì của Ấn Độ không?
Rebecca đang chết dở vì ớt cay nhưng cũng gượng đáp:
- Thưa, ngon tuyệt.
Joseph thú vị lắm, nói:
- Cô Sharp, dùng thử một chút “chi-ly” xem.
- Món “chi-ly” ạ? Xin vâng.
Rebecca đáp vậy, nhưng mồm vẫn cứ há ra vì cay.
Cô ta nghĩ bụng tên là “chi-ly” thì món ăn này chắc phải hơi lạnh (), và
được tiếp một ít.
- Trông xanh và tươi quá nhỉ.
Vừa nói cô vừa ăn một miếng, không ngờ còn cay hơn ca-ri; không sao chịu
đựng được nữa, cô bỏ chiếc đĩa xuống bàn, kêu lên:
- Nước! Lạy Chúa, cho tôi tí nước?
Ông cụ Sedley cười phá ra, (tính ông lão vốn thô kệch, quen như ở Phòng Hối
đoái, thích đùa cợt tự do); ông nói:
- Tôi cam đoan với cô, chính cống Ấn Độ đấy. Sambo, lấy nước cho cô Sharp
đây.
Joseph cũng cười theo; anh chàng cho trò đùa của cha là rất lý thú. Mấy
người đàn bà chỉ hơi mỉm cười. Họ đang thương hại cô, Rebecca. Thật ra cô này
muốn bóp cổ ông lão chết tươi, nhưng cô cố nuốt mối hận như cô đã nuốt món
ca-ry ghê gớm lúc nãy. Lúc bắt đầu nói được nên lời, cô ta lấy bộ vui vẻ bảo:
- Tôi lại nhớ đến món ớt nàng Công chúa Ba-tư bỏ vào bánh kem trong truyện
“Nghìn lẻ một đêm”. Ở Ấn Độ anh có cho ớt vào bánh kem không?
Ông cụ Sedley lại cười cho là Rebecca rất vui tính.
Nhưng Joseph chỉ đáp:
- Bánh kem hả cô? Ở
Bengal, kem tồi lắm. Thường chúng tôi phải dùng sữa dê; thế mà, cô có biết
không, dần dần tôi lại đâm thích cơ đấy.
Ông lão xen vào:
- Cô Sharp, bây giờ thì cô không thích mọi thứ
Ấn Độ nữa chứ?
Lúc đám đàn bà con gái đã ra khỏi phòng, ông
lão khôn ngoan bảo con trai:
- Này Joe coi chừng. Cô ả đang muốn chài anh
đấy.
Joe khoái quá đáp:
- Dào ôi! Làm gì có chuyện ấy. Ba ạ, con còn
nhớ ở Dumdum có con gái ông Cutler trong đội pháo binh sau này cô ta lấy lão
Lance làm thày thuốc. Năm 1804 lão này làm cho con và thằng Mulligatawney suýt
chết; cái thằng Mulligatawney quỷ sứ mà con nói chuyện với ba trước bữa ăn ấy
mà; hắn đang làm quan tòa ở Budgebudge, năm năm nữa thế nào nó cũng vào được
Quốc hội. Thật ấy, ba ạ: một lần đội pháo binh tổ chức một buổi dạ hội khiêu
vũ. Quintin trong trung đoàn Hoàng gia thứ 14 bảo con: “Sedley, tớ cuộc với cậu
mười ba ăn mười rằng thế nào con Sophy Cutler cũng câu được hoặc cậu hoặc thằng
Mulligatawney trước mùa mưa đấy”. Con mới bảo: “Được rồi”; Ô kìa, ba ơi...gớm
thứ rượu này ngon quá nhỉ? Hãng Adamson hay Carbonell thế này?
Chỉ có tiếng ngáy nhè nhẹ trả lời: ông lão buôn
cổ phiếu thật thà đã ngủ say; thế là đoạn cuối câu chuyện của Joseph hôm ấy
phải bỏ dở. Tuy vậy mà trước mặt đàn ông anh ta rất hay chuyện; anh ta đã kể
câu chuyện thú vị này mấy chục lần cho bác sĩ Gôlôp nghe mỗi khi đến mua thuốc
và nhờ ông thăm hộ lá gan.
Vốn đang mang bệnh, nên Joseph Sedley mỗi bữa
trưa chỉ dùng có một chai rượu vang đỏ kèm một chai ma-đê- ra, và chỉ ăn gọi là
có hai đĩa đầy dâu quả trộn kem, kèm theo thêm độ hai tá bánh nướng nhỏ nằm chỏng
trơ trong một cái đĩa đặt gần anh ta. Và chắc anh ta đang tơ tưởng đến cô gái ở
trên gác (vì các nhà tiểu thuyết vẫn có đặc quyền biết tất cả mọi sự). Anh
chàng nghĩ bụng: “Cô bé kháu khỉnh, trông tươi quá, lại vui tính nữa. Lúc ăn
cơm, mình nhặt hộ cô ta cái khăn tay, con mắt cô ta nhìn mình mới thú chứ. Lại
đánh rơi khăn tay những hai lần. Ai đang hát trong phòng khách thế nhỉ? Ờ, hay
là ta lên xem sao?” Nhưng tính dút dát kìm giữ anh chàng lại, không sao thắng
nổi. Ông bố ngủ say rồi; mũ thì treo trong phòng lớn.
Ngoài phố Southampton, có một chiếc xe ngựa đỗ.
- Mình phải đi coi vở kịch “Bốn mươi thằng kẻ
cắp”, và xem đào Decamp nhảy mới được.
Anh ta không đánh thức ông bố quý hóa dậy,
kiễng chân đi rón rén trên mũi đôi ủng, cứ thế len lén biến mất.
Trong lúc Rebecca đang chơi dương cầm, Amelia
ngó qua cửa sổ phòng khách bảo:
- Kìa, anh Joseph đi kìa!
Bà Sedley đáp:
- Tại cô Sharp làm cho nó sợ đấy. Cái thằng Joe
đáng thương. Sao nó dút dát quá thế nhỉ?
Chương 4
CÁI TÚI LỤA XANH
Anh chàng Joe đáng thương mất vía đến hai ba
ngày. Trong khoảng thời gian đó, anh ta không đi lại nhà bố mẹ, mà Rebecca cũng
không nhắc đến tên anh chàng. Cô chỉ tỏ ra hết sức biết ơn và lễ độ với cô
Sedley; được cô thiếu nữ tốt bụng này đưa đi thăm các quầy hàng tạp hóa, cô thích
quá, và giả vờ làm như ngạc nhiên vô cùng khi được bước chân vào rạp hát. Một
bữa, Amelia bị nhức đầu, nên không thể đến dự một buổi giải trí mà hai người đã
được mời: Rebecca nhất định không chịu đi, nếu không có bạn đi cùng. “Kìa? Chị
là người đầu tiên trong đời đã dạy cho đứa trẻ mồ côi đáng thương này biết thế
nào là hạnh phúc và tình yêu...Bỏ chị ở nhà một mình? Không bao giờ!”
Thế rồi cô ngước đôi mắt xanh đẫm lệ nhìn lên
trời. Bà Sedley không thể nào không nghĩ rằng bạn của con gái bà có một tâm hồn
vô cùng quý hóa.
Nghe những câu khôi hài của ông Sedley, Rebecca
cũng cười một cách nhiệt tình và kiên nhẫn; ông cụ lấy lắm thích và cảm động
lắm. Không phải Rebecca chỉ gây được cảm tình với mấy người cầm đầu trong gia
đình. Cô lấy lòng bà Blenkinsop bằng cách nhiệt liệt tán tụng phương pháp giữ
món mứt quả được lâu ngày; công việc này đang tiến hành trong phòng riêng của
bà quản gia; cô cứ một mực gọi Sambo là “ngài” và “ông Sambo”, làm cho bác gia
nhân này thú vị quá. Cô ta lại xin lỗi chị hầu gái vì mình đã dám rung chuông
làm phiền chị ta, lời lẽ thật ngọt ngào khiêm tốn, khiến cho bọn gia nhân dưới
nhà ai cũng phải có cảm tình với cô như mọi người trên phòng khách. Truyện
"Hội Chợ Phù Hoa " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Một lần, đang xem mấy bức tranh Amelia vẽ ở
trường gửi về nhà, Rebecca nhìn thấy một bức, đột nhiên khóc nấc lên và rời
khỏi phòng. Hôm ấy chính là ngày Joe Sedley đến chơi lần thứ hai.
Amelia vội chạy theo bạn xem vì sao bạn khóc;
lát sau cô gái tốt bụng quay lại một mình; hình như chính cô cũng cảm động.
- Má biết không, ba chị ấy là giáo sư dạy vẽ ở
Chiswick. Những chỗ đẹp nhất trong tranh của chúng con là ông ấy vẽ hộ đấy.
- Này con, má nhớ rõ đã nghe bà Pinkerton nói
chuyện rằng ông ấy không vẽ, chỉ sửa lại thôi.
- Thế cũng gọi là sửa đấy mẹ ạ. Chị Rebecca
nhìn đến bức tranh, đột nhiên nhớ đến người cha trước kia đã sửa lại bức tranh
ấy, và đây...má coi, chị ấy...
Bà Sedley nói:
- Cô bé đáng thương tính tình đa cảm quá nhỉ?
Amelia tiếp:
- Má ạ. Con muốn giữ chị ấy ở chơi đây thêm một
tuần nữa.
- Cô ấy cũng gớm chẳng kém cô Cutler tôi thường
gặp ở Dumdum, nhưng đẹp hơn. Cô kia bây giờ lấy Lance, thầy thuốc nhà binh. Má
có biết không, có lần Quintin ở trung đoàn 14 đánh cuộc với con rằng...
Amelia cười bảo anh:
- Anh Joseph, em nghe mãi chuyện ấy rồi, đừng
kể nữa; anh bảo má viết thư cho cái ông Crawley gì gì ấy đi, để xin phép cho
chị Rebecca...kìa chị ấy đến kia, khóc đỏ hoe cả mắt.
Rebecca bước vào với một nụ cười tươi tỉnh
nhất, cầm lấy bàn tay bà Sedley giơ ra kính cẩn hôn, nói:
- Bây giờ cháu dễ chịu rồi. Tất cả mọi người
tất với cháu quá, tất cả mọi người - cô ta cười nói thêm - trừ anh, anh Joseph
ạ.
- Tôi? Trời đất ơi? Thượng đế ơi! Cô Sharp!
Joseph kêu ầm lên, định đi ngay tức khắc.
- Vâng, sao anh ác thế, bắt em ăn cái món ghê
gớm đầy hạt tiêu kia ngay giữa hôm em mới gặp anh lần đầu. Anh không quý em
bằng chị Amelia nhé.
Amelia nói ngay:
- Tại anh ấy chưa quen thân với chị đấy.
Bà mẹ thêm:
- Bác thách bất cứ ai dám đối xử không tốt với
cháu, cháu yêu quý ạ.
Joe đáp, vẻ mặt trang trọng:
- Món ca-ry tuyệt lắm, thật đấy; có điều, hôm
nọ vắt ít chanh quá...phải, quá ít.
- Thế còn món “chi-ly”?
- Lạy Chúa, món ấy làm cho cô kêu ghê quá.
Joe nhớ lại câu chuyện, lại phá ra cười như nắc
nẻ, rồi cũng như mọi lần, bỗng nhiên im bặt.
Lúc mọi người cùng xuống nhà dùng cơm, Rebecca
nói:
- Lần sau em sẽ chú ý xem anh tiếp cho em món
gì. Em không tin rằng đàn ông lại thích bắt những người con gái vô tội phải khổ
sở.
- Thề có đức Chúa, cô Rebecca, không khi nào
tôi muốn làm khổ cô đâu.
Rebecca đáp:
- Không, em biết anh chẳng bao giờ muốn thế.
Đoạn cô dịu dàng khẽ vịn bàn tay nhỏ nhắn của
mình vào cánh tay Joe rồi lại vội vàng rụt lại, sợ hãi, và mới đầu nhìn thẳng
vào mặt anh chàng trong khoảnh khắc, sau lại nhìn xuống tấm thảm. Cho nên tôi
không hề muốn nói rằng quả tim Joe không đập thình thình trước cái nhìn vô
tình, dút dát và dịu dàng của cô con gái giản dị này.
Đấy là một cách tấn công; có thể là mấy bà nào
đó quen lịch sự, đứng đắn sẽ lên án cử chỉ ấy là thiếu chín chắn, nhưng các bạn
coi, cô Rebecca đáng yêu nhưng đáng thương kia phải đích thân làm tất cả mọi
việc cho mình.
Nếu người ta nghèo, không đủ tiền nuôi người ở,
thì dẫu xưa nay vẫn quen thói đài các cũng đành phải quét nhà lấy vậy. Nếu có
một cô gái quý tộc lại không có một bà mẹ để thu xếp hộ công việc với chàng
trai trẻ, thế tất cô ta phải làm lấy. Nhưng may mắn thay, mấy cô gái cũng ít
khi phải trực tiếp dùng đến khả năng của mình! Họ mà đã dùng đến, đố ta cưỡng
lại được đấy. Chỉ cần họ ngỏ ý một chút xíu thôi, lập tức đàn ông quỳ ngay gối
xuống rồi, đẹp hay xấu cũng chẳng khác gì nhau. Điều đó tôi coi là chân lý
tuyệt đối. Một người đàn bà có nhan sắc, không có một cái tật gì quá quắt, là
có thể muốn lấy ai tùy thích. Tuy nhiên, ta cũng còn cảm ơn trời rằng các cô
nàng đáng yêu ấy giống như bầy gia súc trên cánh đồng; họ không biết hết quyền
lực của chính họ. Nếu họ biết thì, ôi thôi, chúng ta chỉ còn là nô lệ!
Joseph vừa bước vào phòng ăn, vừa nghĩ thầm: Ôi
chao! Mình lại bắt đầu cảm thấy đúng như hồi ở Dumdum, gần cô Cutler rồi đây.
Trong bữa ăn, cô Sharp đã luôn luôn gọi Joseph
để hỏi về các món ăn, giọng nói nửa bỡn cợt, nửa nũng nịu; vào hồi này, cô ta
đang ở giai đoạn thân mật nhất với gia đình, và hai cô thiếu nữ thì đang coi
nhau như chị em ruột. Mấy cô gái non chưa chồng bao giờ chả thế, miễn là họ chỉ
sống chung với nhau độ mươi ngày.
Dường như Amelia cũng có ý muốn khuyến khích
việc thực hiện kế hoạch của Rebecca, nên mới nhắc người anh nhớ đến lời hứa
nhân ngày lễ Phục sinh vừa qua. Cô vừa cười vừa nhắc anh rằng hồi cô còn ở
trường, Joseph có hứa sẽ đưa cô đến Vauxhall chơi.
- Bây giờ có cả chị Rebecca cùng đi với chúng
mình, thật phải lúc quá, anh ạ.
- Ô thế thì tuyệt!
Rebecca toan vỗ tay nhưng cô ngẫm lại vội im
bặt đúng kiểu một cô thiếu nữ chín chắn.
Joe đáp:
- Đêm hôm nay chưa đi được.
- Thế thì mai vậy.
Bà Sedley nói:
- Mai ba và má không ăn ở nhà đâu.
Ông lão đáp:
- Bà Sedley, bà tưởng tôi đi à? Bà có tuổi, lại
hom hem, đi ra ngoài ẩm ướt lạnh lẽo thế để bị cảm mà chết à?
Bà Sedley kêu lên:
- Nhưng các cô ấy phải có người đi cùng chứ?
Ông bố cười:
- Cho thằng Joe đi theo. Nó cũng lớn rồi đấy.
Nghe nói vậy Sambo đứng cạnh phá ra cười: anh
chàng Joe béo cảm thấy gần như muốn giết phăng ngay ông cụ thân sinh.
Ông già tàn nhẫn vẫn tiếp:
- Cởi áo gi-lê mau. Vã nước vào mặt nó đi, cô
Sharp; hay là khiêng nó lên gác; cu cậu đang ngất đi kia kìa. Thằng bé đáng
thương quá? Khiêng nó lên gác; nó nhẹ như sợi bấc ấy thôi mà.
Joseph gầm lên:
-Ba còn nói nữa, con đến chết mất!
Ông bố ra lệnh:
- Sambo, gọi dẫn con voi của cậu Joe lại đây.
Đưa ngay đến khu Hội chợ; Sambo.
Nhưng thấy Joe gần phát khóc vì giận, ông lão
hay đùa thôi không cười nữa; ông giơ bàn tay cho con, nói:
- Joe ở phòng Hối đoái mọi chuyện đều tốt lành
cả. Còn Sambo, đừng lo chuyện con voi nữa, hãy rót cho ta và cậu Joe một cốc
sâm-banh. Ngay cả Boney () cũng không có được thứ rượu này trong nhà đâu nhé;
nào con!
Nhờ cốc vại sâm banh, Joseph lấy lại được sự
điềm tĩnh; và trước khi cạn hết chai rượu - với tư cách là bệnh nhân, anh ta
chỉ uống có hai phần ba - Joe thuận dẫn hai cô thiếu nữ đi Vauxhall.
Ông cụ nói:
- Con gái là phải có đàn ông cùng đi, thế nào
thằng Joe cũng bỏ mặc con Emmy trong đám đông, rồi nó sẽ chỉ chú ý đến Rebecca
thôi. Bảo đứa nào lại hỏi xem George Osborne có đi không.
Không biết vì lý do gì nghe ông cụ sắp đặt như
vậy, bà Sedley nhìn chồng cười. Mắt ông cụ long lanh có vẻ hóm hỉnh khó tả. Ông
lão nhìn sang Amelia. Còn Amelia thì cúi đầu xuống, đỏ ửng mặt lên như chỉ có
những cô gái mười bẩy tuổi mới biết đỏ mặt như vậy, và như chưa bao giờ trong
đời mình cô Rebecca Sharp đỏ mặt thế, ít nhất là trừ trường hợp hồi cô ta mới
lên tám, bị bà mẹ đỡ đầu bắt quả tang ăn vụng một miếng dăm bông trong chạn.
Ông bố lại nói:
- Tốt hơn là Amelia viết một mảnh giấy, để cho
George Osborne thấy rằng con gái ta học trường bà Pinkerton viết chữ đẹp thế
nào. Con còn nhớ không, hồi viết thư nhắn nó tới vào “đêm thứ mười hai”, con đã
viết “hai thiếu chữ “h”. ()
Amelia đáp:
- Đã lâu lắm rồi còn gì.
- Thế mà mới như hôm qua thôi, có phải không
ông John?
Bà cụ hỏi chồng vậy. Đêm hôm ấy hai ông bà ngồi
nói chuyện với nhau trong một căn phòng phía mặt trước ngôi nhà, trên gác hai,
dưới một thứ màn quây tròn có riềm bằng vải Ấn Độ loại quý, mầu rực rỡ, lại lót
một lần vải bông màu hồng dịu. Mé trong thứ màn quý này, kê một chiếc giường có
đệm lông: trên giường có hai cái gối; trên gối có hai bộ mặt tròn đỏ, một cái
mặt đội mũ ngủ có quai, một cái đội mũ vải bông thường, có tua. Nhân lúc đọc
sách trước khi ngủ, bà Sedley cự ông chồng vì đã tàn nhẫn với thằng Joe đáng
thương lúc tối:
- Ông Sedley, ông như thế thật ác quá, ai lại
hành hạ thằng bé như thế.
Cái đầu đội mũ có tua cãi lại:
- Bà này, thằng Joe nó còn ưa đỏm dáng gấp mấy
bà ngày xưa ấy; mà bà thì đã hay đỏm dáng quá rồi. Tuy vậy, ba mươi năm trước,
vào năm một nghìn bảy trăm tám mươi...tám mươi mấy nhỉ?...Hồi đó có lẽ bà còn
có quyền đỏm dáng đôi chút, tôi không chối điều đó. Nhưng tôi không thể chịu
được thằng Joe với cái thói công tử bột của nó. Thật là quá quắt. Suốt ngày nó
chỉ nghĩ đến cái thân hình nó, yên trí mình đẹp trai nhất thiên hạ. Rồi có
nhiều chuyện rắc rối vì nó cho mà xem. Cô bạn nhỏ của con Emmy đang ra sức chài
thằng bé đấy; điều đó rõ như ban ngày. Mà nếu cô ta không câu được nó thì đã có
đứa khác. Giời sinh ra thằng này để làm mồi cho con gái, y như hàng ngày tôi
phải đến phòng Hối đoái vậy. Bà ạ, phúc quá, nó còn chưa vác về cho chúng ta
một nàng dâu da đen thôi. Nhưng bà cứ tin tôi, đứa con gái thứ nhất nào muốn
chài nó là nó cắn câu ngay.
Bà Sedley nóng nảy đáp:
- Ngày mai tống khứ cái con bé láu cá ấy đi cho
rảnh.
- Bà Sedley, con bé ấy trông cũng được đấy chứ.
Mặt mũi cũng trắng trẻo, xinh xắn. Tôi chẳng biết thằng Joe lấy ai, cứ mặc nó
chọn vợ lấy.
Rồi tiếng chuyện trò im bặt, chỉ còn vẳng ra
thứ âm nhạc nhẹ nhàng nhưng kém thi vị của mấy cái lỗ mũi. Thỉnh thoảng chỉ
nghe tiếng chuông nhà thờ đánh chuông báo giờ, và tiếng người gác điểm canh,
mọi vật đều yên lắng trong căn nhà của tôn ông John Sedley, ở công viên
Russell, làm việc tại phòng Hối đoạt.
Sáng hôm sau, bà cụ Sedley tốt bụng thôi không
nghĩ đến chuyện thực hiện lời đe dọa tối hôm trước về việc đuổi cô Sharp đi
nữa. Mặc dầu không có cái gì thiết tha, thông thường và cũng hợp lý hơn là lòng
người mẹ vì thương con mà ghen với người khác, song bà cụ cũng không sao tưởng
tượng được rằng cái cô giáo bé nhỏ tầm thường, biết ơn và dịu dàng kia lại dám
ngưỡng vọng một nhân vật cao quý là ngài ủy viên tài phán của quận Boggley
Wollah. Hơn nữa, lá thư xin phép gia hạn nghỉ cho cô gái đã gửi rồi, bây giờ
đột ngột muốn mời cô ta đi cũng khó tìm được một lý do cho thỏa đáng.
Dường như mọi sự đều phụ họa mà giúp đỡ
Rebecca, thời tiết cũng can thiệp để làm lợi cho cô (mặc dầu thoạt tiên cô cũng
chưa biết cảm ơn thời tiết đã vì mình). Tối hôm mọi người dự định đi Vauxhall,
George Osborne có đến ăn cơm; sau khi hai bậc cha mẹ đã đi dự tiệc cùng viên cố
vấn hành chính Bản ở Highbury Barn, thì bỗng một cơn giông nổ ra; những hôm
người ta định đi chơi Vauxhall vẫn hay xảy ra những cơn giông tai hại như vậy;
mấy cô cậu bắt buộc phải ở nhà. Anh chàng Osborne có vẻ không lấy việc đó làm
phiền lắm. Anh ta và Joseph ngồi tay đôi () trong phòng ăn, uống một ít
rượu...vừa uống rượu, Sedley vừa kể vài câu chuyện hay nhất của anh ta về Ấn Độ
- nếu chỉ có đàn ông với nhau anh chàng cũng rôm chuyện lắm. Một lúc sau,
Amelia Sedley chủ tọa phòng khách. Cả bốn cô cậu đã qua một tối cực kỳ dễ chịu;
họ nói rằng cơn giông vừa qua đã bắt họ phải hoãn việc đi chơi Vauxhall đến hôm
khác; ấy thế mà lại hóa ra vui cơ đấy.
Osborne là con đỡ đầu của ông Sedley; đã hai
mươi ba năm nay anh ta vẫn được coi là con cái trong gia đình. Mới chào đời
được sáu tuần lễ, anh ta được ông John Sedley cho một cái chén bạc; khi được
sáu tháng, lại thêm một cành san hô, có đính theo còi và chuông bằng vàng. Từ
bé tới lớn, cứ đến lễ Giáng Sinh, George lại được ông cụ gửi quà cho đều đặn.
Vì thế khi trở lại trường anh ta còn nhớ rõ bị Joseph Sedley nện cho một trận
cẩn thận; hồi ấy Sedley là một cậu bé khỏe mạnh, hay gây gổ, còn George thì là
một thằng oắt mới lên mười nhưng láo xược. Tóm lại George rất thân mật với gia
đình này, vì từ nhỏ vẫn đi lại như người nhà và vẫn được cho quà bánh.
- Sedley, anh còn nhớ không, có bận tôi cắt đứt
mất mấy cái tua ở đôi ủng của anh, anh phát khùng lên ghê quá; rồi cô hừm? Rồi
Amelia cứu tôi thoát khỏi trận đòn, vì đã quỳ xuống khóc mà xin anh Joe đừng
đánh cái thằng bé George nữa?
Joe vẫn nhớ như in câu chuyện trên, nhưng lại
nói rằng mình quên bẵng mất rồi.
- Phải, anh còn nhớ không, trước khi sang Ấn
Độ, anh có đi xe ngựa đến trường của ông Swishtail để thăm tôi, rồi vỗ vỗ vào
đầu tôi, cho tôi một đồng nửa ghi nê? Trước tôi vẫn cứ nghĩ rằng anh phải cao
tới bảy bộ, thế mà khi anh ở Ấn Độ về, tôi lấy làm lạ quá, vì thấy anh cũng
chẳng cao hơn tôi.
Rebecca kêu lên, giọng vui thích:
-Anh Sedley đến tận trường để cho anh tiền cơ
à? Tốt quá nhỉ.
-Vâng, mà tôi lại đã cắt mất tua ủng của anh ấy
cơ chứ. Ở trường, trẻ con được tiền thì nhớ mãi, mà cũng không quên cả người
cho.
Rebecca nói:
- Tôi thích những đôi ủng cao lắm.
Joe Sedley vốn rất tự hào về đôi chân của mình,
lúc nào cũng xỏ vào đôi giầy được coi như một thứ đồ trang sức; nghe Rebecca
nói anh ta khoái quá, nhưng vội rụt ngay chân cho vào gầm ghế.
George Osborne nói:
- Cô Sharp ạ, cô là nhà nghệ sĩ thông minh thế
cô phải vẽ một bức tranh kỷ niệm về chuyện đôi ủng. Cô sẽ vẽ Sedley mặc quần da
thuộc, một tay cầm chiếc ủng bị hỏng; còn tay kia túm lấy cổ áo tôi; Amelia sẽ
quỳ ở bên cạnh giơ đôi tay bé nhỏ lên. Bức tranh sẽ mang một cái tên tượng
trưng long trọng như là những nhãn sách ta vẫn thấy ở các quyển tập đọc.
Rebecca đáp:
- Em không có thì giờ vẽ ngay ở đây, nhưng em
sẽ vẽ khi...khi nào em rời khỏi đây ra đi.
Cô hạ thấp giọng xuống, vẻ mặt rầu rĩ, đáng
thương, đến nỗi ai cũng thấy xót cho cảnh ngộ của cô và cảm thấy nếu phải xa cô
thì đáng buồn quá.
Amelia nói:
- Chị Rebecca thân yêu ơi, giá chị ở chơi với
em thêm ít lâu nhỉ?
Rebecca lại càng buồn bã đáp:
- Để làm gì hở chị? Để khi xa nhau, riêng em
càng buồn khổ thêm và càng không muốn xa chị ư?
Nói đoạn cô quay mặt đi. Amelia lại bắt đầu
nhượng bộ cái tật trời sinh là thói hay khóc của mình; cô gái bé bỏng vớ vẩn
này vẫn có cái nhược điểm ấy. George Osborne nhìn hai cô thiếu nữ, lộ vẻ tò mò,
động tâm; còn Joe Sedley thì thở hắt ra từ cái lồng ngực to tướng của mình một
cái gì giống như một tiếng thở dài; mắt lại tiếp tục nhìn xuống đôi ủng cao chí
thiết của mình.
George nói:
- Cô Sedley...Amelia, ta chơi vài bản nhạc đi.
Lúc này anh ta cảm thấy có một sức gì kỳ lạ gần
như không cưỡng lại được, nó xô mình muốn ôm ghì lấy cô thiếu nữ vào hai tay,
và hôn cô ngay trước mặt mọi người; cô thiếu nữ nhìn anh chàng một lúc lâu; nếu
bảo rằng lúc ấy hai người mới yêu nhau thì có lẽ tôi đã nói sai sự thực vì thực
tế là đôi thanh niên nam nữ này đã được hai bên cha mẹ nuôi nấng từ bé cốt nhằm
mục đích ấy; lễ ăn hỏi của đôi bên đã tuyên bố trong hai họ đến mười năm nay
rồi.
Hai người bước lại gần cây đàn dương cầm kê ở
cuối phòng khách, bao giờ đàn dương cầm cũng kê ở đấy . Chỗ này hơi tối nên
Amelia, một cách tự nhiên nhất trần đời, đặt bàn tay mình vào bàn tay Osborne.
Dĩ nhiên anh ta có thể nhìn rõ lối đi giữa những hàng ghế hơn cô nàng nhiều.
Thế là họ bỏ Joseph Sedley và Rebecca ngồi với nhau ở phòng khách; Rebecca đang
đan một cái túi lụa màu xanh. Cô nói:
- Chả cần phải hỏi, em cũng biết chuyện riêng
gia đình nhà ta. Hai người vừa tiết lộ sự bí mật của họ rồi đấy.
Joseph đáp:
- Bao giờ anh ta thăng chức đại úy, tôi tin
rằng công việc sẽ thu xếp xong. George Osborne là người tốt lắm.
Rebecca nói:
- Em gái anh cũng là một người đáng quý nhất
đời. Sung sướng thay người đàn ông nào chinh phục được chị ấy Nói xong, cô
Sharp thở dài thật to.
Khi nào một cặp trai gái chưa lập gia đình ngồi
với nhau mà đụng chạm đến cái vấn đề tế nhị này, lập tức họ dễ dàng trở thành
thân mật và ưa tâm sự với nhau. Chả cần phải kể lại câu chuyện đang diễn ra
giữa Sedley và cô thiếu nữ. Cứ xem đoạn trên đủ biết câu chuyện ấy không có gì
là đặc biệt dí dỏm hoặc hùng hồn. Trong những buổi gặp gỡ thân mật ít khi người
ta chuyện trò với nhau theo kiểu này, không kể trong những tiểu thuyết kênh
kiệu, giả tạo. Vì phòng bên đang chơi âm nhạc, dĩ nhiên họ phải nói chuyện se
sẽ phải chăng thôi; tuy rằng đôi trai gái phòng bên cũng đang bận bịu với công
việc riêng của họ, giá bên này có nói to, họ cũng chẳng để ý đến làm gì.
Hôm nay hầu như là lần đầu tiên trong đời,
Sedley thấy mình nói chuyện với một người đàn bà mà không hề dút dát e dè một
tý nào. Rebecca hỏi anh ta rất nhiều chuyện về Ấn Độ; được dịp, anh ta bèn tuôn
ra vô khối chuyện lý thú về xứ đó, và về chính anh ta. Và kể lại những cuộc dạ
hội ở phủ Toàn quyền và cách họ giữ cho không khí được mát lạnh trong mùa bức,
thí dụ dùng chiếu cói và quạt, cùng nhiều phương pháp khác. Anh ta chỉ trích
những sĩ quan Scotland được viên toàn quyền Minto che chở. Rồi anh ta kể một
chuyện săn hổ, cả cái đoạn lão quản tượng điều khiển con voi của anh bị những
con hổ nổi xung lên kéo ngã lăn khỏi lưng voi. Nghe kể chuyện dạ hội ở phủ Toàn
quyền, Rebecca có vẻ thú vị lắm; mà nghe kể chuyện những ông sĩ quan hầu cận xứ
Scotland cô phá ra cười và gọi Sedley là một người hay châm biếm độc ác; lúc
nghe Joe kể chuyện con voi, cô thiếu nữ mới sợ hãi làm sao.
Cô nói:
- Anh Sedley thân yêu ơi, hãy vì thương bà cụ
sinh ra anh, hãy vì các bạn của anh mà hứa rằng đừng bao giờ dự những cuộc săn
khủng khiếp như thế nữa nhé.
Anh chàng vừa kéo cổ áo lên, vừa đáp:
- Dào ôi! Có nguy hiểm thế cuộc săn mới thú
chứ.
Cả đời Joe mới đi săn hổ có một lần, đúng là lần
có câu chuyện trên xảy ra; bữa ấy anh ta suýt chết...không phải vì hổ, mà vì sợ
quá. Càng nói chuyện nhiều anh chàng càng đâm bạo, và lúc này đã có can đảm hỏi
Rebecca rằng cô ta đan cái túi lụa xanh cho ai...Thấy mình trở thành thân mật
duyên dáng thế, anh chàng đâm ra ngạc nhiên và khoan khoái ghê.
- Em đan cho người nào thích một cái túi.
Rebecca vừa đáp vừa nhìn anh chàng với đôi mắt
rất tình tứ. Sedley đang sắp sửa nói một câu thật sự là hùng hồn, và đã bắt
đầu: “Ô, cô Sharp...” thì bản nhạc đang chơi ở phòng bên chấm dứt làm cho anh
ta nghe thấy tiếng mình rõ mồn một; anh chàng vội im bặt, rút khăn tay hỉ mũi
rầm lên.
Osborne thì thầm với Amelia:
- Có bao giờ em nghe thấy anh Joe hùng biện
không? Gớm, cô bạn em làm được một việc kỳ diệu thật.
- Thế thì càng tốt thôi.
Amelia đáp. Cô cũng giống như phần lớn đàn bà
con gái hiểu biết tý chút, cũng sính đóng vai ông tơ bà nguyệt; giả thử Joseph
có vợ đem theo về Ấn Độ thì cô cũng thích. Thêm nữa, qua mấy ngày sống gần gũi
nhau, tình bạn giữa cô và Rebecca trở thành rất đằm thắm, cô đã khám phá ra vô
số những đức tính đáng yêu ở bạn mình, mà hồi còn chung sống ở Chiswick cô
không nhìn ra. Xưa nay cảm tình vẫn thường nảy nở mau chóng giữa các cô con gái
chẳng khác gì cây thần trong truyện cổ tích chỉ một đêm đã mọc cao vút đến tận
trời. Không nên trách họ, nếu sau ngày về nhà chồng, nỗi khát khao tình cảm ()
ấy nguội bớt.
Về điểm này, các nhà tâm lý học quen dùng những
danh từ kêu rùm beng thường gọi là sự khát vọng vươn tới lý tưởng; thực ra chỉ
có nghĩa là đàn bà con gái thường thường chỉ thỏa mãn khi nào đã lấy chồng đẻ
con; khi ấy tình cảm của họ mới có nơi tập trung, còn trước kia thì nó bị tiêu
phí vào những chuyện vặt vãnh mất cả.
Amelia đã dốc hết cả kho bài hát ít ỏi của mình
lúc nãy, lại đã ở khá lâu trong phòng khách, cô thấy nên mời bạn mình hát. Cô
bảo với Osborne thế này (dẫu biết rằng mình đang nói dối) :
- Giá anh nghe Rêbecca hát trước, thì anh sẽ
không muốn nghe em hát đâu.
Osborne nói:
- Tuy vậy, tôi cũng xin báo cho cô Sharp biết
rằng, dù đúng hay sai, tôi cũng cứ coi cô Amelia Sedley là người hát hay nhất
thế giới.
Amelia đáp:
- Rồi anh xem.
Bây giờ Joseph Sedley đã tỏ ra lịch sự, mang
mấy cây đèn đến chỗ cây dương cầm; Osborne nói ý rằng mình ngồi trong bóng tối
nghe nhạc thấy thích hơn. Nhưng Amelia cười, không chịu cùng ngồi với anh chàng
nữa. Thế là cả hai đi theo Joseph. Rebecca hát hay hơn bạn nhiều (dĩ nhiên,
Osborne vẫn có quyền tự do giữ ý kiến riêng của mình); cô trổ hết tài năng và
quả thực đã khiến Amelia rất ngạc nhiên vì chưa hề bao giờ thấy bạn hát hay đến
thế. Rebecca hát một bài tiếng Pháp, Joseph nghe chẳng hiểu gì cả; George cũng
thú thực mình không hiểu; đoạn cô lại hát vài “ca khúc” thông thường, đã trở
thành “mốt” khoảng bốn mươi năm trước đây; đại khái nội dung nói đến những
người lính thủy nước Anh, đức Hoàng đế, cô Susan đáng thương, cô Mary mắt biếc
v.v... Người ta bảo rằng, về mặt nghệ thuật âm nhạc, những bài hát này cũng
không hay ho gì, nhưng có nhiều đoạn êm ái kích thích cảm tình, thiên hạ nghe dễ
hiểu hơn là cái thứ âm nhạc lai căng của những lagrime, sospiri, và felicita
trong âm nhạc của Donizetti () đang thịnh hành bấy giờ.
Nội dung bài hát cuối cùng như sau:
Giữa đồng lạnh lẽo cô đơn
Mà cơn bão táp lại đang thét gầm.
Mái nhà kia, tạm trú chân...
Chú em côi cút lại gần nhìn xem.
Trong nhà ấm áp lửa than.
Lò càng rực cháy, gió thêm cóng người
Tuyết càng lạnh buốt rơi...rơi...
Trong nhà nhác thấy chú ngồi co ro,
Ngực thoi thóp, tay cứng đờ.
Ôn tồn bèn nhủ hãy cho chú vào;
Tươi cười, chào đón ngọt ngào.
Sớm mai trở dậy, nắng sao sáng lòa...
Lửa còn rực cháy trong lò
Chú em côi cút bây giờ về đâu!
Lạy trời xót kẻ cơ cầu,
Hãy nghe gió lộng rít cao trên đồi.
Nghĩa là bài hát đã lặp lại nội dung tình cảm
của câu:
“Khi nào em đã ra đi...” Rebecca nói lúc nãy.
Hãy đến câu cuối cùng, cái giọng trầm trầm của cô Sharp hơi run run, mọi người
nghe đều hiểu rằng cô ý muốn nói đến việc mình ra đi và cảnh ngộ mồ côi đáng
thương của mình. Vốn thích âm nhạc, lại có tâm hồn đa cảm, Joseph Sedley rất
say sưa khi nghe Rebecca hát; nhất là đoạn kết làm anh ta cảm động vô cùng. Giá
anh ta có đủ can đảm nhỉ. Giá mà George và cô Sedley ngồi lại văn phòng ăn như
lúc nãy George đề nghị, thì cuộc đời trai chưa vợ của Joseph đã chấm dấu hết
rồi, mà cuốn truyện này cũng không được viết ra nữa. Nhưng hát xong Rebecca rời
cây đàn, đưa tay cho Amelia cầm và cả hai đi sang căn phòng khác tranh tối
tranh sáng bên cạnh. Vừa lúc ấy Sambo bước vào, tay bưng một cái khay đầy những
bánh sandwich, mứt quả, và mấy cái cốc, mấy cái bình sáng long lanh; lập tức sự
chú ý của Joseph tập trung vào đó. Hai vợ chồng ông Sedley đi dự tiệc về thấy
mấy cô cậu đang say sưa trò chuyện đến nỗi không nghe thấy tiếng xe ngựa đỗ.
Anh chàng Joseph đang nói:
- Cô Sharp thân yêu, mời cô dùng một thìa mứt
cho lại sức sau khi đã cố gắng trổ hết tài năng tuyệt diệu.
Ông Sedley kêu lên:
- Hoan hô Joe ?
Thoạt nghe tiếng nói quen thuộc oang oang, Joe
lập tức hoảng hốt, im bặt rồi vội vã bỏ đi. Anh ta không thức trằn trọc suốt
đêm tự hỏi mình có yêu cô Sharp hay không; ái tình không bao giờ quấy rối được
sự tiêu hóa hoặc giấc ngủ của Joseph Sedley. Nhưng anh ta nghĩ thầm: “Được nghe
những bài hát như thế cũng tuyệt...thật là một con người phong nhã...nói tiếng
Pháp còn hay gấp mấy so với chính Toàn quyền phu nhân...cô ta mà dự những buổi
dạ hội ở Calcutta thì phải biết là nổi danh.
Joe lại tự nhủ: “Rõ ràng cô ả phải lòng mình
rồi. Bọn thiếu nữ sang Ấn Độ có giàu có gì hơn cô ta kia chứ. Mình cứ “già kén”
rồi đến kẹn “hom” mất. Nghĩ thế rồi Joe lăn quay ra ngủ lúc nào không biết.
Chẳng cần nói ta cũng rõ chính lúc ấy cô Sharp
đang nằm trằn trọc nghĩ mãi không biết ngày mai anh ta có lại chơi hay không.
Sáng hôm sau, y như có trời run rủi, Joseph Sedley lại mò đến trước giờ điểm
tâm. Từ trước đến nay, chưa bao giờ anh ta ban cho căn nhà ở Công viên Russell
vinh dự lớn lao này. George Osborne cũng có mặt ở đây rồi, Amelia đang bận viết
thư cho một tá bạn còn ở lại Chiswick, Rebecca thì đang thêu nốt cái túi lụa.
Nghe tiếng xe ngựa của Joe và trong lúc ngài cựu ủy viên tài phán quận Boggley
Wollah đang ỳ ạch leo thang gác lên phòng khách sau khi đã gõ cửa thình lình,
và gọi oang oang ngoài cửa một cách long trọng như thường lệ. Osborne và Amelia
đưa mắt ra hiệu cho nhau cả đôi mỉm cười láu lỉnh nhìn sang Rebecca; cô này cúi
xuống để cho những búp tóc xinh đẹp của mình rủ xuống cái túi đang đan, mặt đỏ
lên...Lúc Joseph bước vào, trống ngực cô đập thình thình...Joseph thở phì phò
đi ủng bóng nhoáng kêu cọt kẹt. Anh ta mặc một tấm áo mới, cổ áo là cứng, mặt
đỏ vì trời bức và vì xúc động mạnh. Lúc này thật là khó xử cho cả mọi người;
riêng Amelia còn lo lắng hơn cả người trong cuộc.
Sambo mở tung cửa, lên tiếng báo có ông Joseph
đến chơi, đoạn vừa đi theo sau ngài ủy viên vừa nhăn răng cười, tay ôm hai bó
hoa rất đẹp. Sớm nay anh chàng lịch sự đến mức ra tận vườn Covent mua hoa. Hai
bó hoa không được to bằng hai đống rơm bọc trong giấy bóng như ngày nay các bà,
các cô thường mang theo mình, nhưng hai cô thiếu nữ cũng rất sung sướng được
Joseph tặng mỗi cô một bó, kèm theo một cái nghiêng mình cúi chào một cách thật
trang trọng. Osborne kêu lên:
- Hoan hô Joe.
Amelia nói:
- Cảm ơn anh, anh Joseph thân mến.
Cô sẵn sàng hôn ông anh một cái, nếu ông anh
cho phép (Tôi thì tôi nghĩ rằng được một con người đáng yêu như Amelia hôn, tôi
sẵn sàng mua tất cả hoa trong vườn kính của ông Lee ngay lập tức).
- Chao ôi! Hoa đẹp tuyệt vời.
Rebecca reo lên, khẽ áp bó hoa vào mũi ngửi rồi
ôm vào ngực, mắt ngước nhìn lên trần nhà, điệu bộ có vẻ say sưa vì sung sướng.
Có lẽ thoạt tiên đã liếc nhìn ngay vào giữa bó hoa xem có “bức tình thư”() nào
dắt trong ấy hay không, nhưng chả có thư từ gì cả.
Osborne cười hỏi:
- Ở Boggley Wollah, dân họ có biết dùng hoa để
tỏ tình với nhau không nhỉ, Sedley?
Anh chàng đa tình đáp:
- Ôi dào, chuyện vớ vẩn? Tôi mua hoa ở hiệu
Nathan đấy. Rất hân hạnh vì các cô vui lòng. Mà này, Amelia, anh có mua một quả
dứa cùng với mấy bó hoa này; anh đã đưa cho Sambo. Để đấy tí nữa ta giải khát.
Trời nóng nực, ăn cái ấy mát và ngon lắm.
Rebecca bảo rằng mình chưa bao giờ được ăn dứa,
đang thèm được nếm một miếng. Câu chuyện tiếp tục như vậy; không rõ vì sao
Osborne rời khỏi gian phòng, và cả Amelia cũng đi ra ngoài, có lẽ để bảo người
nhà gọt dứa. Riêng Joe vẫn ngồi lại một mình với Rebecca. Cô thiếu nữ lại tiếp
tục đan; sợi lụa xanh và đôi que đan sáng bóng động đậy nhanh thoăn thoắt dưới
mấy ngón tay búp măng trắng muốt.
Ông ủy viên tài phán nói:
- Tối hôm qua, cô hát một bài hay quá,
ha....a...ấy qua...a.. á? Cô Sharp thân mến ạ. Làm tôi gần phát khóc, tôi xin
lấy danh dự mà nói thế.
- Tại anh có một tâm hồn đa cảm đấy, anh Joseph
ạ. Em thấy tất cả mọi người trong gia đình ta ai cũng có tâm hồn đa cảm.
- Vì bài hát ấy mà đêm qua tôi không ngủ được.
Sáng hôm nay tôi còn nhẩm lại lúc nằm trên giường, xin lấy danh dự mà thề, đúng
như thế. Ông Gollop, bác sĩ của tôi, đến thăm tôi hồi mười một giờ (cô biết
đấy, tôi vẫn có bệnh, ngày nào ông Gollop cũng phải lại thăm) thế mà chết chưa,
tôi vẫn nằm trên giường hát huyên thuyên như...một con sơn ca.
- Ồ, anh vui tính quá. Anh hát cho em nghe một
tý nhé.
- Tôi ấy à? Không, cô Sharp; cô Sharp thân mến
ơi, cô hát đi cơ.
Rebecca thở dài:
- Anh Sedley ạ, bây giờ thì không được đâu. Em
không bình tĩnh lắm, hát sao được. Vả lại, em còn phải đan xong cái túi này
chứ. Anh Sedley, anh giúp em một tay nhé?
Thế là trước khi có đủ thì giờ hỏi xem giúp thế
nào, ngài Joseph Sedley, tòng sự tại Công ty Đông Ấn Độ đã thấy mình ngồi tay
đôi với một thiếu nữ, và đang nhìn cô ta với một vẻ tình tứ nhất trần đời; hai
cánh tay anh chàng giơ ra trước mặt với một dáng điệu như cầu xin, còn hai bàn
tay thì bị sợi lụa xanh cô nàng đang gỡ dần ra quấn chặt lấy. Lúc Osborne và
Amelia bước vào để báo rằng món giải khát đã sẵn sàng, họ nhìn thấy đôi trai
gái trong cảnh tượng thi vị như vậy. Cuộn sợi đã cuốn xong vào lõi, nhưng Joe
vẫn chưa nói câu gì.
Amelia nắm chặt tay Rebecca bảo:
- Chị ạ, em chắc thế nào đêm nay anh ấy cũng
ngỏ lời đấy.
Sedley cũng tự nhủ:
Đến Vauxhall mình phải đặt vấn đề mới được.
Chương 5
DOBBIN CỦA CHÚNG TA
Ai đã học qua trường học nổi tiếng của ông
Swishtail ắt còn phải nhớ lâu chuyện cãi nhau giữa Dobbin và Cuff mà kết cục
rất bất ngờ: Dobbin thường bị bọn trẻ con khinh miệt, chúng gọi là con khỉ
Dobbin, con bú dù Dobbin và nhiều tên hiệu khác. Dobbin là một đứa trẻ hiền
lành nhất, vụng về nhất, và có vẻ như đần độn nhất trong số học trò theo học
trường ông Swishtail. Bố cậu bé buôn thực phẩm ở kinh đô, người ta lại đồn rằng
ông Swishtail nhận cậu vào học trong trường theo “nguyên tắc đôi bên cùng có
lợi”...nghĩa là bố cậu không phải trả học phí và sinh hoạt phí cho con trai
bằng tiền mặt, mà trả bằng hiện vật. Ở trong trường, Dobbin bị xếp hạng gần
bét; lúc nào cậu bé cũng đánh một bộ áo nhung kẻ nhem nhuốc, bộ xương to kếch
gần như muốn thúc bật những hàng chỉ khâu mà tòi ra. Dobbin bị coi như đại diện
cho một số cân chè, nến, đường, xà-phòng, và nho khô cùng nhiều thứ khác (tuy
vậy, chỉ có một phần nhỏ là dùng để cung cấp cho nhu cầu của nhà trường). Cậu
bé Dobbin sợ nhất cái ngày có một đứa học trò nhỏ trong trường, sau khi đã mò
vào trong tỉnh chơi đủ mọi trò rồi, đã về đứng ở cổng trường mình xem cái xe
ngựa của hãng “Dobbin và Rudge buôn thực phẩm và dầu-Phố Thames Luân đôn” dỡ
hàng xuống giao cho nhà trường. Truyện "Hội Chợ Phù Hoa " được copy
từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)
Sau cảnh đó, cậu bé Dobbin mất ăn mất ngủ.
Những đứa trẻ khác giễu cợt đến là tàn nhẫn; một thằng nói “Ê này, Dobbin, báo
đăng tin mới đây đường lên giá rồi, mày ơi!” Một đứa khác tính toán: “Nếu một
cân nến mỡ cừu giá bảy xu rưỡi thì Dobbin giá bao nhiêu?” Thế là cả đám trẻ con
mất dạy đứng vây tròn xung quanh cười ồ lên: chúng đồng tình cho rằng nghề bán
lẻ thực phẩm là một nghề đáng hổ thẹn, đáng bị những con nhà dòng dõi khinh bỉ.
Bị một thằng bé con đem ra làm trò cười. Dobbin
bảo riêng nó rằng:
- Này, Osborne, bố mày cũng là lái buôn chứ
**** gì.
Thằng bé kiêu hãnh đáp:
- Bố tao là con nhà dõng dõi, có xe ngựa riêng.
Cậu bé William Dobbin lui về mãi căn phòng xép
xa tít cuối sân chơi, rầu rĩ đắng cay suốt nửa ngày chủ nhật.
Trong bọn chúng ta ai chẳng còn nhớ đã có những
phút lo nghĩ đắng cay một cách trẻ con như thế? Ai là kẻ cảm thấy rõ sự bất
công, biết tủi nhục trước một sự lăng mạ, hiểu rõ cái gì là xấu, và biết biểu
lộ lòng biết ơn một cách đậm đà khi được săn sóc, bằng một đứa trẻ trung hậu?
Thế mà biết bao tâm hồn dịu dàng ấy đã bị các ông giáo hành hạ, chà đạp chỉ vì
một bài toán số học, hoặc một bài La-tinh sai mẹo. William Dobbin chịu chết
không sao thuộc được những bài học vỡ lòng tiếng La-tinh trong cuốn văn phạm
La- tinh tài tình của trường trung học Eton; vì thế cậu bé bị xếp cùng học với
bọn học trò dốt nhất trường. Mỗi khi cùng xếp hàng với bọn học trò lớp bét
trông như anh khổng lồ đi giữa bọn tí hon; mắt cậu bé lấm lét nhìn xuống đất,
tay cắp quyển tập đọc quăn góc, mặc bộ quần áo nhung kẻ chật ních; cậu luôn
luôn bị bọn trò bé mặt mũi hồng hào, đeo “tạp-dê” cợt nhạo. Học trò lớp nào
cũng đem cậu ra làm trò cười. Bộ quần áo nhung đã chật chúng còn khâu cho chật
thêm; chúng cắt đứt dây giường của cậu. Chúng xô đổ bàn ghế, làm cho cậu bé vấp
ngã sứt gối, mà lần nào cũng đúng như thế. Chúng gửi cho cậu bé những gói kín,
mở ra chỉ thấy có xà phòng và nếu là những thứ hàng bố cậu vẫn bán; không có
một đứa học trò nào tha cột nhạo Dobbin; cậu bé kiên nhẫn chịu đựng tất cả,
hoàn toàn câm nín và đau khổ.
Trái lại, Cuff là ông chúa con, và là cậu công
tử trong trường ông Swistail. Nó mang trộm cả rượu vào trường, đánh cả trẻ con
trong thành phố. Chiều thứ bảy, người hầu vẫn mang ngựa đến cho nó cưỡi về nhà.
Trong buồng nó có một đôi ủng cao cổ; ngày nghỉ nó thường đi ủng đi săn. Nó có
cả một chiếc đồng hồ báo thức bằng vàng, lại hít thuốc lá y như ông giáo. Nó đã
đi xem hát ở “Opera”, biết rõ tài nghệ của từng nghệ sĩ, biết thích kép Kean
hơn kép Kemble. Nó có thể trong một giờ, làm bốn mươi câu thơ tiếng La-tinh
liền; lại làm được cả thơ bằng tiếng Pháp.
Còn có cái gì khác mà nó không biết, hoặc không
thể biết nữa? Chúng nó còn bảo chính ông giáo cũng phải sợ thằng này.
Vậy thì Cuff, ông chúa tuyệt đối trong trường,
cai trị hành hạ bọn bầy tôi, uy quyền thật sự lừng lẫy. Đứa thì phải đánh bóng
giầy, đứa thì nướng bánh, những thằng khác thì phải lăn lộn vất vả suốt những
buổi chiều mùa hè để nhặt bóng cho nó. Dobbin là cậu bé bị nó ghét nhất; nó
luôn luôn giễu cợt đánh chửi cậu bé, và ít khi thèm hạ mình nói một lời nào với
cậu này.
Một bữa, hai đứa có chuyện xích mích với nhau.
Dobbin ngồi một mình trong phòng học, đang dò dẫm viết một lá thư gửi về nhà
thì Cuff bước vào, nó sai cậu bé đi đâu ấy, hình như đi mua bánh rán thì phải.
Dobbin nói:
- Chịu thôi; tôi còn phải viết cho xong thư đã.
- Mày chịu thôi à?
Cuff vừa nói vừa giằng lấy tờ giấy, trong đó
nhiều chữ viết nguệch ngoạc, nhiều chữ viết sai bét, nhưng không biết Dobbin đã
phí bao tâm trí, sức lực và nước mắt mới viết nên được. Lá thư ấy cậu bé đáng
thương viết cho mẹ, mà mẹ cậu rất quý con trai, mặc dầu bà chỉ là vợ một người
bán thực phẩm, sống trong một căn nhà xép ở phố Thames.
- Mày chịu thôi? Tao muốn biết tại sao, hừ?
Ngày mai mày viết thư cho bà lão Figs không được à?
- Đừng có gọi tên tục nhà tao ra.
Dobbin cáu lắm, đứng bật lên.
Con “hổ xám” trong trường quát to:
- Thế nào, ông, ông có đi không thì bảo?
Dobbin đáp:
- Bỏ lá thư xuống, người tử tế không đọc thư
của kẻ khác.
Thằng kia nói:
- Được bây giờ mày có đi không?
- Không, tao không đi. Đừng có đánh tao, ông
thì bóp nát mày ra bây giờ.
Dobbin gầm lên, nhảy xổ đến vớ lấy một lọ mực
bằng chì; thấy dáng điệu Dobbin dữ tợn, Cuff ngừng lại, buông hai cánh tay áo
xuống, thọc tay vào túi vừa cười khinh bỉ vừa đi mất. Nhưng từ bữa ấy, nó không
bao giờ thèm dính dáng đến cậu bé con trai người bán thực phẩm nữa; tuy vậy,
chúng ta cũng phải công bằng mà nhận rằng nó luôn luôn vẫn nói đến Dobbin với
thái độ khinh bỉ sau lưng cậu.
Ít bữa sau, một buổi chiều nắng ráo, William
Dobbin nằm dài dưới gốc cây trong sân trường đang đánh vần cuốn truyện “Nghìn
lẻ một đêm” mà cậu rất thích, hoàn toàn cô đơn và gần như rất sung sướng, cách
biệt tất cả đám học trò đang thả sức nô đùa. Cuff cũng đang đứng gần đó. Nếu
thiên hạ cứ để mặc trẻ con sống một mình, nếu thầy giáo thôi đừng làm rầy
chúng, nếu các bậc cha mẹ đừng cứ nhất định đòi uốn nắn sự suy nghĩ của chúng,
và khống chế cả tình cảm của chúng - những tình cảm và ý nghĩ ấy vẫn là một sự
bí mật đối với tất cả mọi người: (hỏi rằng bạn và tôi chúng ta biết được bao
nhiêu về nhau, về con cái chúng ta, về ông cha chúng ta, về láng giềng chúng
ta? Và những ý nghĩ của thằng bé hoặc con bé mà chúng ta cai quản có thể đẹp đẽ
và thiêng liêng biết bao so với ý nghĩ của những con người đần độn và hư hỏng
cai quản chúng?) - Nếu cha mẹ và thầy giáo hãy cứ để mặc trẻ con sống một mình
thêm chút ít...thì chắc những chuyện tai hại sẽ bớt được nhiều, tuy rằng chúng
có thể thâu lượm bớt đi đôi chút về mặt kiến thức ()...
Vậy thì William Dobbin lần ấy đang quên khuấy
cả thế giới để đưa hồn mình bay bổng theo chàng thủy thủ Sindbad tới thung lũng
Kim cương, hoặc cùng Hoàng tử Ahmed và nàng tiên Peribanou sống trong cái hang
kỳ thú, nơi hoàng tử gặp nàng, và là nơi chính chúng ta cũng thèm được đến
thăm. Bỗng có tiếng kêu thét lên làm cậu bừng tỉnh giấc mộng mê ly; hình như có
thằng bé con nào khóc. Ngẩng mặt lên, Dobbin thấy Cuff đang bắt nạt một thằng
bé con.
Chính là thằng bé đã làm cậu bực mình vì chuyện
cái xe chở thực phẩm bữa nọ. Nhưng cậu không ưa thù vặt, ít nhất là đối với bọn
trẻ còn bé bỏng. Cuff giơ cao cái gậy màu vàng, dùng để chơi “cric-két” quát
thằng bé:
- Sao mày dám đánh vỡ chai của tao?
Thằng bé đã được lệnh phải leo qua bức tường
bao quanh sân chơi (ngay đúng chỗ thuận tiện nhất, vì những mảnh chai cắm trên
bờ tường đã bị cậy sạch và sẵn những lỗ hõm sâu trên mặt tường có thể leo
được), phải chạy độ một phần tư dặm đường và mua chịu một chai rượu rum; rồi
lại phải tìm mọi cách lọt qua mọi tai mắt của ông Swishtail leo qua tường đem
về cho thằng Cuff. Lúc trèo qua tường vào sân, thằng bé trượt chân ngã, chiếc
chai vỡ tan, rượu đổ sạch, bẩn hết quần. Thằng bé run rẩy đến đứng trước mặt
ông trùm, run lẩy bẩy như mình phạm lỗi nặng, tuy hoàn toàn đáng thương và vô
tội. Cuff lại quát:
Sao mày dám đánh vỡ chai? Thằng nhóc con ăn
cắp? Mày uống hết rượu rồi giả vờ đánh vỡ chai phỏng? Chìa tay ra.
Chiếc gậy phang mạnh xuống bàn tay thằng bé
nghe đến “bốp” một cái; một tiếng rên rỉ tiếp theo; Dobbin nhìn lên; thế là
nàng tiên Peribanou và ông Hoàng Ahmed trốn biệt vào trong cái hang xa tắp. Con
đại bàng vội đưa anh thủy thủ Sindbad bát ra khỏi thung lũng Kim cương bay vút
lên chín tầng mây mất tăm; cuộc đời tầm thường hàng ngày lại hiện ra trước mắt
cậu bé William thực thà: một thằng bé nhớn vô cớ bắt nạt một thằng bé con.
- Chìa nốt tay kia ra, ông ôn.
Cuff gầm lên với thằng bạn học bé tý, mặt rúm
ró lại vì đau. Dobbin run bắn người, đứng phắt dậy trong bộ quần áo chật ních
cũ kỹ.
- Thằng quỷ con, nhớ lấy nhé?
Cuff gầm lên; chiếc gậy lại phang xuống tay
thằng bé.
Này, xin các bà dừng hãi; học trò ở trường
công, đứa nào mà chẳng thế, rất có thể con cái các bà cũng bắt nạt đứa khác và
cũng bị đứa khác bắt nạt như vậy. Chiếc gậy lại phang xuống; Dobbin đứng bật
lên.
Không biết cậu bé nghĩ sao, vì trong các trường
công, chuyện hành hạ trẻ con xảy ra như cơm bữa, y như ở Nga có lệ trừng phạt
bằng gậy vậy. Cưỡng lại có thể bị coi là thiếu giáo dục. Hình như tâm hồn ngu
độn của Dobbin công phẫn trước sự chuyên chế đó, hoặc có thể vì lâu nay Dobbin
vẫn ủ ấp mối hận trong lòng, vẫn mong có dịp đọ sức cùng vị chúa tể “Hét ra
lửa” hay bắt nạt kia, người có mọi thứ vinh quang, kiêu hãnh, địa vị huy hoàng,
và kèn thổi trống giong, lính hầu đứng chào đủ cả. Không rõ cậu bé nghĩ sao,
chỉ biết cậu đứng phắt dậy quát lên:
- Cuff, thôi ngay, đừng có đánh nó nữa, nếu
không, tao…
- Nếu không thì mày làm gì? - Thấy bị ngăn cản
Cuff rất ngạc nhiên - chìa tay ra mau, đồ chó con.
- Nếu không, tao sẽ đột cho mày một trận nhừ
tử, từ bé chưa bao giờ mày được nếm đâu.
Dobbin trả lời vậy, và cậu bé con Osborne, mồm
mếu xệch, nước mắt giàn giụa, ngước nhìn lên có vẻ lạ lùng, không tin rằng lại
có người dám hiên ngang bênh vực cho mình; Cuff cũng lấy làm quái lạ không kém.
Các bạn cứ tưởng tượng cố hoàng đế George đệ tam ngạc nhiên thế nào, khi người
hay tin những thuộc địa Bắc Mỹ khởi loạn, các bạn cứ tưởng tượng thái độ của
chàng Goliath xương đồng da thép, khi thấy anh David tý hon dám tiến lên đòi
một cuộc tỷ thí, bạn sẽ hiểu ngay tâm trạng của ngài Reginald Cuff khi nghe lời
thách thức trên.
- Được, sau giờ học mày sẽ biết.
Nó dọa thế, sau một phút im lặng và một cái
nhìn như muốn nói: “Hãy sám hối đi; từ giờ đến chiều, hãy liệu mà giối giăng
lại cho các bạn mày nhé”.
Dobbin đáp:
- Được tùy ý, Osborne, mày phải làm nhân chứng
cho tao, nghe không.
Thằng Osborne đáp:
- Ừ thế cũng được.
Bố thằng bé có cả một cái xe ngựa riêng, cho
nên nó có vẻ hơi ngượng vì kẻ bênh vực nó.
Giờ chiến đấu sắp tới. Osborne thấy hơi thẹn
khi phải nói “Figs, đánh đi”. Suốt hai ba hiệp đầu của trận đấu hay ho này,
không có lấy một đứa nào đứng xem nói câu ấy. Khởi đầu trận đánh, nhà đấu sĩ
lão luyện Cuff nở một nụ cười khinh mạn, thoải mái, tươi tỉnh như đi dự dạ hội,
tống những đòn vào địch thủ, và quật ngã Dobbin ba lần liền. Mỗi lần Dobbin ngã
bọn trẻ lại reo ầm lên; đứa nào cũng sốt ruột mong có vinh dự được khúm núm
chúc mừng người thắng trận.
Thằng Osborne vừa nâng đấu sĩ của mình dậy, vừa
nghĩ thầm:
- Sau chuyến này, thế nào mình cũng bị ốm đòn.
Nó lại bảo Dobbin:
- Thôi, mày chịu thua đi thì hơn; Figs ạ, nó
chỉ bắt nạt tao thôi mà, tao quen đi rồi.
Nhưng tay chân Figs đang run lên bần bật, mũi
thở phì phò giận dữ lắm: cậu gạt người làm chứng oắt con của mình ra bên, xông
vào đánh hiệp bốn. Ba lần trước Cuff bước vào hiệp đấu là chủ động tấn công
ngay, không để cho Dobbin có thì giờ đỡ kịp, mà Dobbin cũng không biết đỡ những
đòn đối phương liên tục nện vào mình: lần này Dobbin quyết định mình sẽ tấn
công trước, ngay khi vào cuộc. Vốn thuận tay trái, Dobbin sử dụng luôn để tấn
công, đấm trúng hai cái liền mạnh hết sức...một quả trúng mắt trái Cuff, một
quả trúng giữa mũi La-mã đẹp đẽ của cu cậu. Lần này Cuff ngã quay, đám trẻ đứng
vây quanh rất ngạc nhiên. Chú bé Osborne vỗ vào lưng đấu thủ của mình, ra vẻ
một tay sành thưởng thức, nói:
- Được lắm, Dobbin; cứ chơi tay trái như thế
cho tao.
Trận đánh tiếp tục, cánh tay trái của Figs lập
chiến công liên tiếp, mỗi lần đấm là một lần Cuff ngã gục. Đến hiệp thứ sáu hầu
như những đứa hò: “đánh đi, Dobbin” cũng nhiều như những đứa reo: “Đánh đi,
Cuff”. Đến hiệp thứ mười hai thì nhà cựu vô địch đã kiệt lực, nói theo lối nhà
nghề, đã mất hết bình tĩnh và sức mạnh để tấn công và phòng thủ; trái lại, Figs
vẫn bình tĩnh như một tín đồ Thanh giáo. Mặt Cuff trắng bệch ra, mắt mở trừng
trừng long lanh, môi dưới bị một chỗ rách, máu chảy ròng ròng; trông anh học
trò trẻ tuổi này có một vẻ ma quái, dữ dội khiến bọn trẻ đứng gần như khiếp
đảm. Song, tay địch thủ dũng mãnh của nó vẫn sửa soạn bắt đầu hiệp thứ mười ba.
Nếu tôi có được ngòi bút của một Napier, hoặc
một Bell () tôi sẽ mô tả trận đấu sinh động hơn. Ấy là đợt tấn công cuối cùng
của đội Vệ binh (tuy bấy giờ trận Waterloo chưa xảy ra)...ấy là đội quân của
Ney () dàn trận đối diện với trái đồi Sainte La Haye, một vạn lưỡi lê tua tủa
với hai mươi con diều hâu dữ dội. Ấy là tiếng thét của đội quân Anh lao xuống
sườn đồi nhảy xổ vào vây tròn ấy địch quân trong một trận giáp lá cà khủng
khiếp...Nói tóm lại Cuff bước vào hiệp đấu đầy can đảm, nhưng đã lảo đảo xiêu
vẹo; Dobbin bèn bồi cho một quả đấm tay trái như thường lệ trúng mũi địch thủ,
hạ nó đo ván lần cuối cùng. Figs nói:
- Lần này chắc gục hẳn.
Nhìn địch thủ nằm sóng soài trên mặt cỏ y như
viên bi-a của Jack Spot lúc đã rơi trúng vào lỗ: quả nhiên, lúc sắp đánh hiệp
sau, Reginald Cuff không còn đủ sức, mà cũng không muốn dậy nữa.
Bây giờ bọn trẻ con hò reo ầm ĩ để tán thưởng
Dobbin tưởng như từ đầu trận đánh chúng vẫn đứng về phe cậu bé, làm cho ông
Swishtail phải bỏ phòng làm việc chạy ra, không biết có chuyện gì mà ồn ào đến
thế. Dĩ nhiên, ông dọa đánh đòn Dobbin. Nhưng Cuff lúc này đã hồi lại, đang
chùi vết máu, vội vàng đứng dậy nói:
- Thưa thầy, lỗi tại con ạ, Dobbin không có
lỗi.
- Tại con bắt nạt một thằng bé hơn con, anh ấy
đánh con là phải ạ...
Câu nói cao thượng ấy không những đã cứu kẻ
thắng trận thoát khỏi một trận đòn, mà còn trả lại cho thằng Cuff cái uy quyền
đối với bọn trẻ con mà nó suýt mất vì cuộc thất trận vừa qua. Cậu bé Osborne
viết thư về cho bố mẹ kể lại câu chuyện:
Sugarcane House, Richmond, Tháng 3...ngày
18...,
Má thân yêu...
Con chúc má mạnh khỏe, con rất sung sướng xin
má gửi ngay cho con một cái bánh ga-tô và năm si-linh. Cuff và Dobbin vừa đánh
nhau một trận. Má cũng biết đấy, Cuff là thằng trùm trong trường. Hai thằng đánh
nhau mười ba hiệp. Cuff bị đo ván. Thế là bây giờ Cuff tụt xuống hàng hai.
Chúng nó đánh nhau là tại con. Cuff đánh con vì con làm vỡ một chai sữa; Dobbin
thấy thế không chịu được. Chúng con gọi nó là Figs vì bố nó bán thực phẩm -
hiệu Figs và Rudge, phố Thames, khu City - Theo ý con, nó đã bênh con thì má
nên mua trà và đường ở hiệu của bố nó. Thứ bẩy nào Cuff cũng về thăm nhà. Nhưng
lần này không về được, vì hai mắt sưng tím bầm lại. Nó có con ngựa Pony trắng
đến đón nó về nhà, lại có một thằng hầu mặc chế phục cưỡi một con la lông hung
hung đi theo. Giá ba mua cho con một con ngựa để con cưỡi thì thú quá.
Con ngoan của má George Sedley Osborne.
T.B. - Con gửi cho bé Emmy một cái hôn. Con
đang cắt cho nó một cái xe ngựa bằng bìa cứng, đừng gửi bánh khô, gửi cho con
bánh quả, má nhé.
Sau trận đánh thắng vừa rồi, vai trò của Dobbin
nổi bật trong trường. Cậu bé được hết thẩy bạn học vì nể, và cái tên Figs trước
kia hàm ý chế nhạo, bây giờ đã trở thành phổ biến và đáng kính như bất cứ tên
gọi đùa một đứa trẻ nào khác trong trường. George Osborne bảo: “Nói cho đúng,
bố nó bán thực phẩm có phải là lỗi tại nó đâu”; tuy bé, nhưng Osborne vẫn được
đám học trò nhỏ trong trường mến; ý kiến của cậu bé được toàn thể nhiệt liệt
tán thưởng.
Chúng quyết nghị rằng chế nhạo Dobbin về dòng
dõi là hèn. “ông Figs” trở thành một cái tên tốt đẹp, thân yêu; và anh trưởng
tràng cũng không kể chuyện bôi xấu Dobbin nữa.
Tình hình dễ chịu hơn, nên tinh thần Dobbin
cũng có thay đổi. Cậu bé tiến bộ trông thấy trong những môn học cổ điển. Đích
thân cậu Cuff lẫm liệt kia giúp đỡ Dobbin học những câu thơ la-tinh; trước sự
chiếu cố này. Dobbin chỉ biết đỏ mặt và ngạc nhiên. Trong những giờ chơi, Cuff
còn luyện thêm cho Dobbin, giúp cậu bé từ lớp bét của bọn trẻ con leo lên lớp
nhì, và được xếp một thứ hạng kha khá ở lớp này nữa. Bây giờ mới khám phá ra
rằng tuy về môn học cổ điển thì dốt, nhưng về toán học Dobbin tiến bộ khác
thường. Toàn thể mọi người rất hài lòng khi thấy cậu bé đứng thứ ba về đại số,
và đến kỳ thi giữa mùa hè lại chiếm phần thưởng là một tập sách tiếng Pháp. Giá
các bạn được nhìn thấy mặt bà mẹ Dobbin khi ông Swishtail trao quyển truyện
Telemaque (truyện hay tuyệt!) cho Dobbin trước toàn thể học sinh trong trường
và các vị phụ huynh; trong sách có ghi tặng Gulielmo Dobbin. Toàn thể học sinh
vỗ tay tán thưởng. Không sao mà tả được cu cậu đỏ mặt, lúng túng, ngã xiêu vẹo
và giẫm lên bao nhiêu là bàn chân bạn, lúc lĩnh thưởng xong trở về chỗ ngồi.
Ông bố Dobbin tỏ vẻ kính nể con trai lần này là lần đầu; trước mặt mọi người,
ông cho con trai hai ghi-nê. Số tiền này cậu bé tiêu gần hết để thết anh em
trong trường một bữa ê hề; sau mấy ngày nghỉ, cậu trở lại trường, mặc một cái
áo đuôi tôm.
Dobbin là một cậu bé quá khiêm tốn; cậu không
nghĩ rằng tình thế thay đổi tốt đẹp như vậy là nhờ tính cao thượng rộng lượng
của chính mình; vì một thói lệch lạc nào đó trong sự suy nghĩ, cậu lại cho rằng
chính nhờ có Osborne, giúp đỡ săn sóc nên mới có cái may mắn trên; đối với
Osborne, cậu yêu quý hết sức, chỉ có trẻ con mới quý nhau được như vậy...y như
tâm tình của anh chàng Orson trong truyện thần tiên đối với kẻ thắng mình là
chàng Valentine tuyệt diệu. Có thể nói Dobbin quỳ xuống chân Osborne mà thờ
phục cậu bạn nhỏ. Ngay khi hai đứa chơi với nhau. Dobbin đã thầm kính phục
Osborne rồi, bây giờ cậu là thằng hầu, là con chó, là anh chàng “Thứ sáu” ()
của Osborne. Cậu tin rằng Osborne có đủ mọi tài. Osborne xinh trai nhất, can
đảm, hoạt động, thông minh nhất, rộng lượng nhất, trong số trẻ con trên đời
này. Tiền riêng của cậu, hai đứa cùng tiêu; cậu mua cho Osborne đủ mọi thứ: dao
con, hộp bút chì, con dấu bằng vàng, bánh bơ, còi và những cuốn truyện phiêu
lưu có những tranh tô màu khổ to, vẽ những hiệp sĩ và bọn cướp; nhiều tranh có
đề “William Dobbin tặng bạn nối khố là George Sedley Osborne công tử”. George
tỏ vẻ rất nhã nhặn khi nhận vinh dự trên, thấy cũng xứng đáng với giá trị của
mình.
Cho nên hôm trung úy Osborne đến công viên
Russell để cùng đi chơi Vauxhall, anh ta đã nói với hai cô thiếu nữ và bà mẹ
thế này:
- Bà Sedley, thưa bà, bà cho phép chúng con
được tự do: con đã mời Dobbin bạn con đến dùng bữa ở đây, rồi cùng đi chơi
Vauxhall. Tính anh ấy cũng dút dát như anh Joe .
- Nhút nhát! Xì!
Anh chàng béo, vừa đáp, vừa đưa cặp mắt chiến
thắng nhìn sang cô Sharp.
Osborne cười, nói thêm:
- Anh ấy nhút nhát thật đấy. Nhưng Sedley, anh
lịch sự hơn nhiều. Tôi gặp anh ấy ở Bedford, lúc đến đây tìm anh. Tôi đã bảo
anh ấy rằng Amelia về nhà rồi, và chúng ta đang dự định tổ chức một buổi đi
chơi tối; còn bà Sedley thì đã tha thứ cho anh ta về tội đánh vỡ cái bình rượu
hồi còn nhỏ. Bà còn nhớ chuyện không may ấy không ạ? Bảy năm qua rồi.
Bà Sedley đáp:
- Làm bẩn hết cái áo lụa màu tím của bà
Flamingo. Cái thằng vụng về quá. Mấy cô chị cũng chẳng khéo léo hơn mấy tý. Bà
Dobbin hôm qua cũng đến Highbury chơi cùng ba cô con gái. Gớm, mặt với mũi.
Osborne láu lỉnh hỏi:
-Nhà ông cố vấn giàu lắm phải không, bà? Bà xem
liệu mấy cô con gái, có cô nào con lấy làm vợ được không?
- Chỉ nói bậy thôi nào. Ai thèm rước cái mặt
vàng khè của anh về làm của nợ, anh nói tôi xem?
- Mặt con mà vàng khè? Bà hãy chờ xem mặt
Dobbin đã. Anh ta đã ba lần bị bệnh sốt rét, hai lần ở Nassau, một lần ở St.
Kitts.
Bà Sedley đáp:
- Được được? Đối với chúng tôi, mặt anh thế là
đủ vàng lắm rồi, có phải không, Emmy?
Amelia nghe mẹ nói chỉ đỏ mặt lên mỉm cười; vừa
liếc nhìn bộ mặt tai tái xinh trai của Osborne, có điểm một hàng ria mép rất
đẹp, đen nhánh, xoăn xoăn và bóng (anh chàng trẻ tuổi vẫn lấy làm hãnh diện vô
cùng về bộ ria của mình), cô vừa nghĩ thêm rằng trong quân đội của đức Hoàng
đế, và khắp cả thế giới nữa, đố tìm đâu ra một bộ mặt điển trai, hoặc một con
người anh hùng như chàng Osborne của cô. Cô nói:
- Tôi chả để ý đến đại úy Dobbin da mặt thế
nào, hoặc tính tình vụng về ra sao, có điều chắc là bao giờ tôi cũng quý anh
ấy…Đấy là bởi Dobbin là bạn của Giorgiơ và đã bênh vực anh chàng. Osborne nói:
- Trong quân đội, không có người nào tốt hơn,
không có sĩ quan nào giỏi hơn, mặc dầu anh ta không phải là một Adonis ().
Đoạn, anh chàng liếc nhìn bóng mình trong gương
rất tự nhiên, nhưng thấy đôi mắt của Rebecca cũng đang chăm chú ngó mình, anh
ta hơi đỏ mặt. Rebecca thầm nghĩ: “A, ông bạn xinh trai của tôi ơi (), tôi nắm
được đúng tẩy của ngài rồi”. Gớm, con bé đến láu cá!
Tối hôm ấy: Amelia vừa đi vừa nhảy nhót bước
vào phòng khách; cô mặc một chiếc áo voan trắng, sửa soạn đi chơi Vauxhall,
miệng líu lo hát như một con sơn ca, trông tươi tắn như một đóa hồng... bỗng cô
thấy một người đàn ông tiến về phía mình và cúi xuống chào một cách vụng về
không thể tả được; anh ta người cao lớn, thô kệch, tay chân to tướng, tai rộng
bè, bộ tóc đen hớt rất ngắn nên hai tai trông càng to; anh ta mặc bộ binh phục
gớm ghiếc, và đội một chiếc mũ vành bẻ tam giác kiểu thời bấy giờ.
Chính là đại úy William Dobbin, thuộc trung
đoàn bộ binh thứ...của Hoàng gia; trung đoàn của anh ta đóng ở vùng tây Âu. Vì
bị sốt rét vàng da nên anh ta được về nước nghỉ, trong khi các bạn đồng ngũ vẫn
còn ở lại để lập công.
Lúc đến, Dobbin đã gõ cửa, nhưng vì nhút nhát
nên gõ khẽ quá, trên gác không ai nghe tiếng; nếu không, chắc chắn Amelia chẳng
dám bạo dạn vừa đi vừa hát trong phòng. Cho nên cái giọng hát thanh thanh, ngọt
ngào mới đi thẳng vào tâm hồn chàng đại úy và nằm lỳ tại đó. Lúc Amelia đưa bàn
tay cho anh ta bắt, trước khi nắm lấy, anh ta ngừng lại, nghĩ thầm; “Hừ, có lẽ
nào... thì ra cô chính là cô bé mặc áo hồng, tôi còn nhớ gặp mới hồi nào... cái
bữa tôi đánh đổ bình rượu, vừa sau khi tôi được đề bạt? Cô chính là người mà
Osborne nói chuyện định cưới làm vợ? Trông cô có vẻ tươi tắn lắm nhỉ; cái thằng
láo lếu ấy thế mà may mắn ghê?” Những ý nghĩ trên vụt qua óc Dobbin trước khi
anh đánh rơi chiếc mũ xuống đất vì vội cầm lấy bàn tay cô thiếu nữ.
Lai lịch anh chàng Dobbin từ khi rời bỏ nhà
trường cho đến lúc chúng ta có cái may mắn gặp lại anh ta một lần nữa, nếu các
bạn tinh ý thì cứ coi qua mấy trang trên cũng tạm rõ, mặc dầu chưa thật đầy đủ.
Ông Dobbin, người bán thực phẩm bị khinh rẻ, đã thành ông cố vấn hành chính
Dobbin…rồi cố vấn Dobbin lại trở thành đại tá Dobbin trong đội quân kinh kỵ của
kinh đô, lúc này đang nóng lòng thèm được chiến đấu chống bọn Pháp xâm lược.
Đội quân của Dobbin đã được đức Hoàng đế và
công tước York duyệt binh; trong đội quân này, ông bố Osborne mới chỉ là một
bác hạ sĩ tầm thường; còn ông đại tá kiêm cố vấn hành chính thì đã được ban
tước “Hiệp sĩ”. Con trai ông cũng tòng quân và chính Osborne cũng gia nhập cùng
vào một trung đoàn đó. Họ đã chiến đấu ở vùng Tây Ấn() và Gia-nã-đại. Trung
đoàn của họ vừa trở về nước, bây giờ Dobbin vẫn yêu quý Osborne như xưa, hồi cả
hai còn là những cậu học sinh.
Mọi người cùng ngồi xuống dùng bữa. Họ nói với
nhau về chuyện chiến tranh, chuyện chiến thắng, về Boney, về công tước
Wellington, và về số tạp chí vừa ra. Đang thời buổi huy hoàng đó, cứ mỗi số tạp
chí xuất bản lại có đăng một chiến công mới; hai chàng trẻ tuổi dũng cảm vẫn
khát khao được thấy tên mình đăng trong bản danh sách vinh quang, và cùng rủa
thầm số phận không may đã bắt họ chôn chân trong một trung đoàn đã không có
vinh hạnh được mời đến gần trận địa danh dự. Nghe câu chuyện đầy hào hứng ấy cô
Sharp thấy sôi nổi hẳn lên, nhưng cô Sedley thì sợ hãi đến gần như khiếp đảm.
Joe cũng góp thêm vài câu chuyện săn hổ, anh ta kể nốt câu chuyện về cô Cutler
và viên thầy thuốc Lance, tiếp Rebecca đủ mọi món ăn, và chính anh ta cũng vừa
ăn lia lịa vừa nốc rượu vô hồi kỳ trận.
Lúc hai cô thiếu nữ rời khỏi phòng, Joe nhảy xổ
ra mở cửa, với một dáng điệu vô cùng lịch sự và tình tứ... rồi lại quay vào
bàn, tiếp tục rót lấy rượu vang hết cốc này đến cốc khác và nốc lấy nốc để một
cách vội vàng. Osborne thì thầm với Dobbin:
- Cu cậu chuẩn bị đấy.
Cuối cùng đến giờ đi chơi Vauxhall, xe ngựa đã
sẵn sàng.
Chương 6
VAUXHALL
Tôi cũng biết rằng câu chuyện tôi đang kể chẳng
có gì là đặc sắc (tuy rằng sắp đến vài chương ghê gớm đây), và cũng xin bạn đọc
rộng lượng nhớ cho rằng chúng ta đang nói chuyện về gia đình một người buôn cổ
phiếu ở công viên Russell, mà họ thì đang đi chơi hoặc ăn điểm tâm, hoặc dùng
cơm tối, hoặc nói chuyện, hoặc phải lòng nhau, chẳng khác gì thiên hạ trong cuộc
sống hàng ngày vậy; cũng chưa có một sự kiện ghê gớm kỳ lạ nào đánh dấu bước
tiến bộ trong những mối tình của họ. Câu chuyện đại khái như thế này.. .
Osborne yêu Amelia; anh ta mời một người bạn cũ đến dùng bữa tối rồi đi chơi
Vauxhall, còn Joe Sedley cũng yêu Rebecca. Hai người có lấy nhau không? Đó là
vấn đề ta đang xét.
Chúng ta rất có thể giải quyết vấn đề một cách
hoặc êm đềm, hoặc lãng mạn, hài hước. Giả thử ta đặt câu chuyện vào khung cảnh
Quảng trường Grosvenor, cũng những tình tiết ấy…liệu có ai thèm nghe không? Giả
thử ta kể rằng Vương tước Joseph Sedley yêu, và hầu tước Osborne cũng phải lòng
công nương Amelia, mối tình được vị công tước cha nàng hoàn toàn đồng ý; hoặc
ta không cho chuyện xảy ra trong tầng lớp đại quý tộc, mà đặt vào trong một khung
cảnh hạ lưu nhất, thí dụ cái bếp của nhà ông Sedley chẳng hạn; bác da đen Sambo
đã phải lòng chị đầu bếp ra sao (mà chắc chắn là có thể) và vì chị này, bác đã
choảng nhau với anh xà ích... chú bé hầu rượu đã bị bắt quả tang ăn trộm một
tảng vai cừu thế nào…rồi mụ hầu phòng cô Sedley mới mượn nhất định không chịu
vào buồng ngủ nếu không có cây nến... những chuyện ấy có thể dựng lên cốt gây
những trận cười khoái trá, và được mệnh danh là những cảnh đời thực. Hoặc giả,
trái lại, nếu chúng ta ưa những cảnh hãi hùng, và cho anh nhân tình của mụ hầu
phòng mới đến làm là một tên trộm nhà nghề; hắn cùng đồng đảng lọt vào nhà giết
chết bác da đen Sambo ngay dưới chân ông chủ, cướp phăng cô Amelia còn mặt áo
ngủ đem đi mất cho mãi đến tập ba của cuốn truyện mới thả cho về nếu thế, có lẽ
chúng tôi đã có thể dễ dàng viết được một truyện rùng rợn; độc giả hẳn phải hồi
hộp mà đọc ngấu nghiến những chương sách ghê gớm đó. Nhưng xin các bạn đọc đừng
chờ đợi ở đây một cuốn truyện thuộc loại như vậy; đây chỉ là một câu chuyện gia
đình và xin hãy bằng lòng với một chương kể chuyện Vauxhall, chương này ngắn
ngủi lắm, đến nỗi không đáng gọi là một chương nữa.
Thế mà nó vẫn là một chương, lại là một chương
quan trọng nữa cơ đấy. Trong đời sống hàng ngày, chẳng đã từng có những chương
bé nhỏ, hình như không có nghĩa lý gì, song thật ra đã ảnh hưởng đến cả đoạn
sau của cuộc đời chúng ta đấy sao?
Vậy thì chúng ta hãy cùng bước vào trong chiếc
xe ngựa với bốn cô cậu ở Công viên Russell và thẳng đường đến Vauxhall. Joe và
cô Sharp ngồi ở ghế trước, giữa có một chỗ ngồi để trống. Osborne ngồi trước
mặt họ, bị ép giữa đại úy Dobbin và Amelia.
Trên xe, ai cũng yên trí đêm hôm ấy thế nào Joe
cũng ngỏ ý hỏi Rebecca Sharp làm vợ. Ở nhà, hai bậc cha mẹ cũng tán thành việc
bố trí này, tuy ta phải nói riêng với nhau rằng ông lão Sedley đối với con trai
gần như có ý khinh bỉ. Ông bảo rằng con trai ông phù phiếm, ích kỷ, lười biếng,
và đàn bà quá. Ông cụ không chịu được những điệu bộ công tử bột của anh chàng,
và rất tức cười về những chuyện “huyên thiên xích đế” của cu cậu. Ông lão bảo:
- Tôi sẽ cho nó nửa cơ nghiệp này, ngoài ra nó
còn khối của riêng nhưng tôi cam đoan rằng ví thử ngày mai, bà, tôi và em gái
nó chết, nó sẽ nói: "Đội ơn Chúa", và cứ ăn cơm tối ngon miệng như
thường; cho nên tôi không vạ gì mà lo lắng cho nó. Mặc xác nó lấy ai thì lấy;
đó không phải là việc của tôi.
Trái lại, Amelia rất tán thành cuộc hôn nhân
của anh trai, đúng như tính tình khôn ngoan của một thiếu nữ trẻ tuổi như cô
ta. Có một hai lần Joe định nói một điều gì đó rất quan trọng với em gái, mà cô
em cũng rất sẵn sàng lắng nghe ông anh thổ lộ nỗi lòng, song anh chàng béo ị
lại không đủ can đảm ngỏ cái điều bí mật quan trọng ủ ấp sâu kín trong trái tim
mình; anh ta chỉ thở dài thật to và quay đi làm cho cô em gái cũng đến phát
chán.
Điều bí mật sâu kín ấy có tác dụng khiến cho
tâm trí cô Amelia dịu dàng của chúng ta lúc nào cũng bồi hồi chờ đợi, cô không
hề trao đổi với Rebecca về câu chuyện tế nhị này; nhưng bù lại cô đã thân mật
kể đầu đuôi câu chuyện với bà quản gia Blenkinsop; bà này lại khéo léo buông
vài lời bóng gió với chị hầu gái; rất có thể chị này đã hấp tấp mách lại với
chị làm bếp; và chị làm bếp lại đem tin này phổ biến với những người bán thực
phẩm cho gia đình. Cuối cùng việc hôn nhân của Joe trở thành câu chuyện người
nào ở Công viên Rusell cũng biết cả.
Dĩ nhiên, bà Sedley cho rằng con trai bà đã hạ
thấp phẩm giá mình vì muốn cưới con gái một nghệ sĩ làm vợ.
Song bà Blenkinsop nói:
- Lạy Chúa, bà ơi, xưa kia hồi bà mới làm bạn
với ông Sedley, bà cũng chỉ bán thực phẩm, còn ông nhà ta thì làm thư ký cho
một người buôn tín phiếu, vốn liếng làm gì được nổi năm trăm đồng. Thế mà bây
giờ cũng mát mặt đáo để. Amelia hoàn toàn đồng ý; vì vậy bà Sedley vốn tính
rộng lượng, dần dần cũng xiêu lòng.
Ông Sedley thì vẫn đứng trung lập, ông nói:
- Mặc kệ thằng Joe lấy ai thì lấy; đó không
phải là việc của tôi. Con bé chẳng có đồng hồi môn nào; ngày xưa bà Sedley cũng
thế. Nó có vẻ cũng vui tính và thông minh, có nhẽ cũng giữ gìn thằng Joe khỏi
chơi bời được đấy. Vả lại lấy nó chả tốt hơn lấy một bà da đen để đẻ ra cho nhà
này một tá cháu nội da màu "súc-cù-là" à?
Thế là mọi sự dường như đều mỉm cười với cái
may mắn của Rebecca. Mỗi khi xuống nhà ăn cơm, cô lại khoác tay Joe đi, như là
một điều dĩ nhiên; cô đã ngồi cạnh Joe trên chiếc xe riêng mui trần của anh ta
(Joe thật là một con hươu đầu đàn lẫm liệt, vì anh ta ngồi rất bình thản trên
xe tự điều khiển lấy đôi ngựa xám của mình). Tuy không ai nói một lời nào về
cuộc hôn nhân này, song dường như ai cũng đã rõ chuyện. Rebecca chỉ thèm có một
điều là Joe ngỏ ý với mình. Chao ôi! bây giờ cô ta mới cảm thấy mình thiếu một
bà mẹ, một bà mẹ âu yếm dịu dàng, có thể giải quyết vấn đề chỉ trong mười phút
đồng hồ, vì chỉ qua một câu chuyện riêng nho nhỏ, tế nhị, là có thể bắt anh con
trai nhút nhát này bộc bạch tâm sự của mình.
Câu chuyện ở trong tình trạng như vậy đấy, khi
chiếc xe chạy qua cầu Westminster.
Mọi người rời xe bước vào khu vườn của Hoàng
gia vừa đúng lúc. Khi anh chàng Joe bệ vệ bước ra khỏi chiếc xe làm cho nó kêu
cót két, đám đông đứng quanh reo cười ầm lên chào đón vị công tử béo phị; anh
chàng đỏ mặt cắp tay Rebecca đi, trông dáng điệu càng thêm bệ vệ, hiên ngang.
Dĩ nhiên Amelia đã có George săn sóc. Trông cô
hớn hở y như một cây hồng trong ánh nắng. George nói:
- Dobbin, tôi bảo này, anh trông hộ đám khăn
san và đồ dùng nhé, thật may quá lại có anh.
Thế là trong khi George đi sóng đôi với Amelia,
và Joe đang thót mình lại để chui qua cổng khu vườn có Rebecca cặp kè bên cạnh,
thì anh chàng Dobbin thực thà đành vui lòng đưa tay nhận lấy đống khăn quàng và
trả tiền vào cửa cho cả bọn.
Anh ta kín đáo đi sau lưng họ. Anh ta không
muốn làm họ mất vui. Rebecca và Joe thì anh chẳng thiết để ý đến; nhưng anh cho
rằng Amelia rất xứng đáng làm vợ anh chàng George Osborne hào hoa kia; cặp tình
nhân đẹp đôi đạo bước bên nhau khiến cô thiếu nữ sung sướng và hơi bỡ ngỡ.
Dobbin nhìn sự hào hứng hồn nhiên của Amelia với niềm hân hoan của một người
cha. Có lẽ Dobbin cũng cảm thấy giá trên tay mình có cái gì khác ngoài mấy tấm
khăn quàng thì vẫn hơn (người qua kẻ lại thấy chàng sĩ quan trẻ tuổi vụng về ôm
một mớ khăn áo của đàn bà thì cứ cười) nhưng Wiliam Dobbin không hay tính toán
vị kỷ; trong lúc bạn mình được sung sướng tại sao mình lại không hài lòng?
Trong vườn có rất nhiều thú vui; nào là hàng vạn ngọn đèn thắp sáng trưng, nào
là bọn nhạc công đội mũ vành tam giác chơi những bản nhạc mê hồn dưới mô hình
một chiếc vỏ ốc mạ vàng treo giữa khu vườn, rồi bọn ca công hát những bài khôi
hài và trữ tình nghe rất hấp dẫn, những điệu vũ dân gian do những người dân
thành Luân Đôn vừa đàn ông vừa đàn bà trình bày... chỉ thấy nhảy, vỗ tay và
cười ầm ĩ; có trống báo hiệu bà Saqui sắp sửa biểu diễn trò bám thang dây leo
lên giời chơi với sao, lại có một vị ẩn sĩ lúc nào cũng ngồi tĩnh tọa trong một
căn đạo am đèn thắp sáng trưng. Có bao nhiêu là lối đi tối om, rất thuận tiện
cho những cặp tình nhân trẻ tuổi tâm sự cùng nhau; một bọn người mặc chế phục
cũ kỹ, tồi tàn, bán những ca rượu mạnh, và trong những quán ăn lấp lánh ánh
đèn, bọn thực khách sung sướng ngốn những mảnh dăm-bông mỏng dính... tất cả
những thú vui ấy, cả anh chàng Simpson nữa, anh chàng ngớ ngẩn tốt bụng lúc nào
cũng mỉm cười, và có thể nói là đang chủ tọa cả cuộc dạ hội... tất cả, đại úy
Dobbin đều không buồn chú ý lấy may may.
Anh ta mang chiếc khăn quàng Casơmia trắng của
Amelia trên tay đi loanh quanh, rồi đứng dưới chiếc mô hình vỏ ốc mạ vàng xem
bà Salmon trình bày bài “Chiến tranh” của Borodino, một bản sử thi phổ nhạc
giễu cợt con người hãnh tiến đảo Corse mới đây vừa bị đại bại ở Nga...
Lúc quay đi chỗ khác bỗng anh ta thử lẩm nhẩm
hát…và thấy mình nhắc lại điệu hát của Amelia lúc cô bước xuống thang gác đi
vào phòng ăn. Dobbin phá ra cười chế nhạo chính mình, vì sự thực anh ta hát
cũng không hay hơn một con cú rúc.
Lẽ dĩ nhiên, ta phải hiểu rằng những con người
trẻ tuổi của chúng ta đang sánh đôi từng cặp, từng cặp một, và đang long trọng
hứa hẹn với nhau suốt tối nay sẽ không rời nhau, để mười phút sau đã chia tay
nhau rồi. Người đi chơi ở Vauxhall vẫn thường chia tay nhau, nhưng họ sẽ gặp
nhau lại lúc bữa ăn nửa đêm để kể cho nhau nghe những chuyện xảy ra từ lúc họ
chia tay.
Đã có những chuyện gì xảy ra về Osborne và
Amelia?
Đó là một điều bí mật. Nhưng xin bạn hãy yên
trí rằng họ rất sung sướng và đối với nhau rất đứng đắn. Vì đã mười lăm năm
nay, họ vẫn có thói quen đi chơi đông với nhau, nên cũng không ai cho đấy là
chuyện mới lạ.
Song khi Rebecca Sharp và người bạn trai béo
phị của cô đi mất hút vào trong một lối đi tối om - chỉ có độ mươi cặp khác
cũng lạc lối đi vào đấy - thì cả hai cùng thấy rằng trường hợp của họ rất là tế
nhị và “gay go”. Riêng cô Sharp nghĩ thầm, bây giờ hoặc là không bao giờ nữa
chính là lúc phải khêu gợi cho những lời ngỏ tình còn đang mấp máy trên đôi môi
nhút nhát của anh chàng Sedley kia phải bật ra.
Lúc nãy, hai người vừa đứng xem một toàn cảnh
của thành phố Mạc-tư-khoa; có một anh chàng thô kệch bỗng giẫm phải chân cô
Sharp, khiến cô này kêu thét lên, lùi lại, ngã ngay vào cánh tay Sedley; sự
việc vừa rồi càng khiến cho anh chàng thêm dịu dàng thân mật, đến mức độ anh ta
lại kể thêm ít nhất là lần thứ sáu rất nhiều chuyện Ấn Độ sở trường của anh.
Rebecca nói:
- Em thèm được sang Ấn Độ quá?
- Cô thích thật không?
Sedley hỏi lại, giọng nói vô cùng dịu đàng,
tình tứ, và chắc chắn sắp sửa nối theo câu hỏi khéo léo ấy bằng một câu hỏi
khác êm ái hơn nhiều (vì anh ta lúc này đang thở phì phò như kéo bễ, và bàn tay
cô Rebecca đặt gần mé ngực anh ta có thể đếm từng nhịp đập dồn dập của trái tim
cu cậu), thì ôi, tai hại làm sao! Có tiếng chuông réo lên báo hiệu sắp bắn pháo
hoa; thế là xung quanh người ta chen lấn nhau chạy ào ào: đôi tình nhân đành
phải buông mình trôi theo dòng người cuồn cuộn.
Đại úy Dobbin dự định đến bữa ăn đêm sẽ lại tìm
bọn họ; quả thật anh ta thấy những trò chơi ở Vauxhall chẳng thú vị gì mấy…Anh
ta đã nện bước qua lại tới hai lần trước ngôi quán có hai cặp tình nhân trong
đó, nhưng chẳng ai để ý đến anh ta. Trên bàn bày bát đĩa cho bốn người ăn.
Hai cặp tình nhân huyên thuyên trò chuyện những
đâu đâu, trông thật là hạnh phúc; Dobbin hiểu rằng mình đã hoàn toàn bị bỏ quên
như chưa hề bao giờ có mặt trên đời này.
Viên đại úy nhìn bốn người, vẻ hơi đăm chiêu,
nói:
- Mình có ngồi đây cũng rất thừa (). Tốt hơn là
đi ra nói chuyện với lão ẩn sĩ.
Anh chàng bèn rời xa cái đám ồn ào những tiếng
người, tiếng động, tiếng thìa ra lách cách của bữa tiệc, lang thang đi vào một
con đường tối om; đầu đường là chỗ ở của Chàng Cô đơn () quen thuộc bằng giấy
bồi. Dobbin cũng không lấy gì làm vui lắm; mà thực thế, tôi đã biết, nhờ những
kinh nghiệm bản thân, rằng trơ trọi một mình ở Vauxhall là một trò chơi tai hại
nhất đối với một anh con trai chưa vợ.
Hai cặp tình nhân ngồi trong căn lều, hoàn toàn
hạnh phúc họ chuyện trò với nhau sao mà thân mật và sung sướng thế. Joe đang
lúc hăng say, hiên ngang dõng dạc ra lệnh cho bọn hầu bàn. Anh trộn rau
xà-lách, mở sâm-banh, cắt thịt gà, và uống, và ăn phần lớn thức ăn trên bàn.
Cuối cùng anh ta nhất định đòi bằng được một tô rượu mạnh. Ở Vauxhall ai mà
không uống rượu mạnh: “Bồi, rượu mạnh đây!” Tô rượu mạnh này là nguồn gốc của
tất cả câu chuyện này; mà tại sao nguyên nhân lại không phải là một tô rượu
mạnh; nó cũng như bất cứ một cái gì khác chứ sao?
Xưa kia, chỉ vì một cốc thanh toan () mà nàng
Rosamond kiều diễm kia phải đi vào nhà tu kín đấy thôi. Lại cũng vì một tô rượu
vang mà Alexander đại đế đã phải chết, hoặc ít nhất cũng là theo lời ông
Lempriere kể lại. Vậy thì chính cái tô rượu ấy đã ảnh hưởng đến vận mệnh của
mọi nhân vật trong câu chuyện không có nhân vật này. Dẫu rằng hầu hết bọn họ
không nếm một giọt rượu nào, tô rượu cũng vẫn ảnh hưởng đến đời sống của họ.
Hai cô thiếu nữ không uống rượu: Osborne cũng
không thích nốt. Cuối cùng Joe anh chàng béo tham ăn, đã một mình tu sạch cả tô
rượu; kết quả của việc nốc cả tô rượu mạnh là mới đầu anh ta vui vẻ một cách kỳ
lạ, rồi sau sự vui vẻ ấy hầu như biến thành khó chịu. Bởi lẽ anh ta nói chuyện
và cười đùa cứ bô bô lên, làm cho đến hàng tá người tò mò tụ tập xung quanh căn
lều nghe; mấy người bạn cùng ngồi ngượng hết sức. Anh ta còn tình nguyện hát
một bài (với cái giọng cao mà lè nhè đặc biệt của những ông say mềm), thế là có
nhẽ hầu hết đám khán giả tụ tập quanh cái mô hình vỏ ốc mạ vàng đổ xô lại xem;
họ vỗ tay rào rào tán thưởng. Một người nói: "Hoan hô anh béo!" Người
khác: “Hát lại đi, Daniel Lambert!” Một người thứ ba kêu lên: “Trông chẳng khác
gì hề leo dây” làm cho mấy cô thiếu nữ hoảng quá; Osborne tức lắm. Anh ta hét
to:
- Anh Joe ta đứng dậy đi về thôi, tôi xin anh
đấy.
Hai cô thiếu nữ đứng ngay lên.
- Khoan đã, này cô em be bé xinh xinh của tôi
ơi!
Joe hò lên vậy và bạo dạn như một con sư tử ôm
ghì ngang lưng Rebecca. Rebecca hoảng quá nhưng không sao gỡ ra được. Thiên hạ
thấy thế càng cười tợn. Joe cứ tiếp tục nốc rượu và tán tỉnh, và hát. Rồi anh
ta lại nháy mắt và mềm mại giơ cốc rượu vẫy chào mọi người đứng xem, thách thức
tất cả mọi người hoặc bất cứ ai dám vào uống rượu thi với mình.
Osborne suýt nữa thì đấm ngã quay một anh chàng
đi ủng định xông vào lợi dụng bữa rượu và hình như không sao tránh khỏi chuyện
rắc rối. May quá, vừa lúc ấy Dobbin vẫn đi chơi loanh quanh trong vườn, bước
vào trong quán ăn.
- Đi chỗ khác con khỉ.
Vừa nói Dobbin vừa huých bật một số đông người
đứng xem ra ngoài; thấy cái mũ vành tam giác và điệu bộ hung hãn của Dobbin, họ
sợ quá chạy mất, còn anh ta bước vào trong quán, có vẻ bị xúc động tợn.
- Trời ơi? Dobbin. Thế lúc nãy anh ở đâu?
Osborne vừa hỏi, vừa giằng lấy chiếc khăn quàng
Casơmia trắng trong tay bạn trùm kín lấy Amelia.
- Anh ở đây liệu thu xếp và coi sóc anh Joe hộ
nhé. Để tôi đưa hai cô ra xe.
Joe định đứng lên can thiệp, nhưng Osborne chỉ
mới đưa một ngón tay ra gạt, anh ta đã ngã phịch xuống ghế, viên trung úy đưa
hai cô thiếu nữ ra xe một cách an toàn. Thấy họ đi, Joe còn giơ tay hôn gửi
theo, và nấc lên: “Cầu Chúa cho các bạn! Cầu Chúa cho các bạn?”. Đoạn Joe cầm
tay đại úy Dobbin, khóc một cách rất đáng thương; anh chàng thú thực mối tình
của mình với bạn: anh ta thờ phụng cô thiếu nữ vừa đi khỏi, anh ta hiểu rằng cử
chỉ lỗ mãng vừa qua của mình đã làm cho cô thiếu nữ đau khổ vô cùng; anh ta
muốn ngay hôm sau làm lễ cưới Rebecca ở nhà thờ Saint George, tại công viên
Hanover; anh ta sẵn sàng đập cửa đánh thức cả đức giám mục Canterbury ở
Lambeth; thề có trời đất, anh ta sẽ buộc đức giám mục phải tổ chức lễ cưới ngay
lập tức. Đại úy Dobbin bèn lựa ý bạn, khôn khéo khuyên nên rời khỏi khu vườn
hội, mau mau đến Lambeth kéo muộn. Lúc đã qua cổng, Dobbin dìu Joe Sedley lên
xe rất dễ dàng, rồi đưa anh ta về nhà không xảy ra chuyện gì cả.
George Osborne cũng đã đưa hai cô thiếu nữ về
nhà vô sự; lúc cửa đã đóng, đi ngang qua công viên Russell anh ta cười rũ rượi
làm cho người gác lấy làm lạ quá. Amelia buồn bã nhìn cô bạn gái; cô dẫn bạn
lên gác, hôn bạn và đi ngủ không nói thêm chuyện gì khác.
Rebecca thầm nghĩ: “Ngày mai chắc anh chàng
phải tỏ tình. Anh chàng gọi mình là em thân yêu đến bốn lần tất cả; anh chàng
còn nắm chặt tay mình trước mặt Amelia. Mai, hẳn anh chàng phải tỏ tình”. Cả
Amelia cũng yên trí như thế. Tôi còn dám tin rằng cô nghĩ cả đến bộ áo phù dâu
sẽ mặc, nghĩ đến những món quà cưới sẽ mừng người chị dâu xinh xắn bé nhỏ của
mình, nghĩ cả đến buổi hôn lễ tiếp theo, trong đó có thể là chính cô sẽ đóng
một vai chủ yếu vân vân và vân vân…
Ôi, người đời mới dại dột làm sao? Các người
thật chưa hiểu hết cái tai hại của một tô rượu mạnh! Uống rượu mạnh, sáng hôm
sau nhức đầu như búa bổ. Về cái chân lý này, tôi có thể lấy tư cách là đàn ông
mà cam đoan như vậy; trên đời này không có một bệnh nhức đầu nào như nhức đầu
vì rượu mạnh ở Vauxhall. Đã hai mươi năm nay, mà tôi còn nhớ rõ hiệu quả của
hai cốc rượu... hai cốc rượu vang... chỉ có hai thôi, xin lấy danh dự mà thề
như vậy; thế mà Joseph Sedley đang bị đau gan, lại đã nốc ít nhất là một phần
tư lít cái thứ nước khủng khiếp ấy.
Sớm hôm sau, trong khi Rebecca chắc mẩm bình
minh của hạnh phúc đang rạng rỡ đón chào mình, thì Sedley cũng đang rên rỉ vì
đau đớn đến nỗi không bút nào tả xiết. Không may, hồi ấy người ta chưa chế ra
nước xô-đa. Các vị thực khách nào trót quá chén đêm hôm trước, chỉ có mỗi một
thứ bia để uống cho giã rượu. George Osborne thấy ngài cựu ủy viên tài phán
quận Boggley Wollah đang rền rĩ trên chiếc ghế xô-fa, trước mặt có chai bia.
Dobbin đã có mặt trong phòng; suốt đêm hôm trước, anh ta đã tận tình săn sóc
ông bạn nạn nhân của đêm vừa qua. Hai viên sĩ quan nhìn xuống vị lưu linh ngồi
rũ rượi; đưa mắt nháy nhau, cùng mỉm một nụ cười thương hại đáng sợ. Cả bác hầu
riêng của Sedley là người xưa nay rất đứng đắn, lúc nào cũng lặng lẽ, trông
quan trọng như một ông chủ đòn đám ma, mà nhìn ông chủ bất hạnh của mình suýt
nữa cũng không giữ được bản tính thường ngày.
Lúc Osborne trèo lên thang, bác ta thì thầm
riêng với khách:
- Ngài ạ, đêm qua ông Sedley thật điên dại khác
thường, ông tôi định đánh bác xà ích giong chiếc xe ngựa thuê. Ông đại úy phải
dìu ông tôi lên thang gác như bế đứa trẻ con ấy.
Bác Brush vừa nói, vừa thoáng mỉm cười; nhưng
lập tức bác ta vội lấy lại vẻ mặt nghiêm trang, lặng lẽ, bí ẩn thường ngày, khi
bác mở cửa phòng khách và báo: “Ngài Hosbin”.
Sau khi đã liếc nhìn nạn nhân của mình, anh
chàng trẻ tuổi vui tính này hỏi:
- Thế nào, Sedley, làm sao thế? Không gẫy cái
xương nào chứ? Dưới nhà có một tên xà ích, một bên mắt tím bầm, đầu quấn băng
chằng chịt, đang thề sống thề chết rằng thế nào cũng kiện anh tại tòa.
Sedley yếu ớt hỏi:
- Anh nói cái gì?...Ai kiện ?
- Vì đêm qua anh choảng nó một trận - đúng
không, Dobbin? Gớm, ông đánh ghê thế, chẳng kém gì Molyneux. Bác gác cổng kể
lại rằng chưa bao giờ thấy ai bị đánh ngã chết giấc như vậy. Hỏi Dobbin mà xem.
Đại úy Dobbin cũng nói :
- Quả thật, anh có đánh nhau với tên xà ích, và
anh đánh cũng hăng lắm.
Cả cái anh chàng mặc áo trắng ở Vauxhall nữa;
Joe đấm nó khiếp quá! Các cô ấy kêu ầm cả lên? Lạy Chúa, trông thấy anh tôi vui
quá; tôi cứ nghĩ bọn “dân thường” các anh nhút nhát, nhưng Joe ạ, tôi chịu
không bao giờ dám dây với anh lúc say rượu đấy.
- Tôi mà đã cáu lên thì tôi cũng khiếp lắm, tôi
biết thế.
Vẫn ngồi trên ghế xô-fa, Joe vừa đáp vừa nhăn
mặt trông thảm quá mà lại tức cười, làm cho viên đại úy không thể giữ lịch sự
được nữa; anh ta và Osborne cùng phá ra cười như nắc nẻ.
Thấy vui, Osborne tàn nhẫn trêu thêm. Anh ta vẫn cho Joe là người đần độn. Chợt
nhớ đến câu chuyện tình duyên giữa Joe và Rebecca, anh ta cũng không lấy gì làm
thích lắm, vì chẳng lẽ người anh vợ tương lai của George Osborne, thuộc trung
đoàn thứ…lại hạ mình xuống lấy vơ váo một đứa con gái chẳng ra thế nào…một cô
giáo dạy trẻ cà mèng sao? Osborne nói:
- Ông mà đánh trúng hả, ông bạn đáng thương của tôi? Ông mà cũng khiếp lắm
à? Ông có đứng được vững đâu. Đêm qua ông làm cho tất cả thiên hạ cười vỡ bụng
ở công viên, mà chính ông thì khóc…ông cứ bè nhè, bè nhè…có nhớ hôm qua hát bài
gì không?
- Bài gì cơ? Joe hỏi.
- Một bài hát trữ tình, rồi gọi cô Rosa, Rebecca…tên cô ta là gì nhỉ, cái
cô bạn gái của Amelia ấy mà, cái “cô em bé bé xinh xinh” của anh ấy mà.
Và anh chàng tàn nhẫn nắm lấy tay Dobbin, diễn lại tấn trò đêm trước; diễn
viên chính ngồi đấy hoảng quá; Dobbin thương tình xin George tha cho cô, anh ta
cũng mặc.
Lúc hai người ra về để cho bác sĩ Gollop săn sóc người ốm, Dobbin trách
bạn; Osborne đáp:
- Tại sao tôi lại phải tha cho anh ta? Anh ta có quyền hành quái quỉ gì mà
dám lên mặt chủ nhân và làm trò cho thiên hạ cười cả chúng mình ở Vauxhall? Cái
cô học trò bé con đang liếc tình và “chài” anh ta là ai vậy? Thôi đi, không có
cô ta, gia đình này cũng đã đủ hèn hạ lắm rồi: Kể ra một cô dạy trẻ cũng tạm
được; nhưng tôi muốn chị dâu tôi là một vị phu nhân thì vẫn hơn. Tính tôi
khoáng đạt, nhưng tôi cũng có cái kiêu hãnh chính đáng của tôi chứ; tôi hiểu
địa vị của tôi, vậy cô ta cũng nên biết địa vị của cô ta. Tôi sẽ làm nhục cái
ông béo ị đần độn ấy cho mà xem; tôi sẽ khiến anh ta không còn dám dở trò ngu
ngốc quá đáng ra nữa, cho nên tôi mới bảo anh ta nên dè chừng, vì tôi sợ cô ta
sẽ tấn công anh chàng trước.
Dobbin bán tín bán nghi, song cũng đáp:
- Cho rằng anh biết nhiều đi. Xưa nay anh vẫn đứng về phái Tory (), và gia
đình anh là một gia đình lâu đời nhất ở Anh, song...
- Anh cứ theo tôi đến thăm các cô ấy, và cứ việc đích thân tán tỉnh cô
Sharp xem.
Viên trung úy ngắt lời bạn, song Dobbin từ chối không đi cùng Osborne, khi
hàng ngày anh này đến Russell thăm hai cô thiếu nữ.
Lúc George từ phố Holborn đi xuống phố Southampton, anh ta bật cười, vì
nhìn vào nhà ông Sedley, thấy ở hai tầng khác nhau, có hai cái đầu cùng ngó ra.
Thì ra cô Amelia ngồi trên bao lơn phòng khám đang băn khoăn ngóng về phía bên
kia công viên, chỗ Osborne ở, để tìm bóng viên trung úy; còn cô Rebecca ngồi
trong căn phòng nhỏ của mình ở tầng trên cũng đang nóng ruột chờ cái thân hình
to béo của Joseph lù lù hiện ra.
Osborne bảo Amelia:
- Chị An đang ngồi trên chòi cao, nhưng chẳng có ai đi tới cả.()
Anh ta cười, lấy làm thú vị vì câu nói đùa của mình, rồi tả lại bằng những
lời lẽ hài hước nhất tình trạng đáng thương của anh trai cô Amelia.
Cô thiếu nữ đáp, vẻ mặt hết sức buồn bã:
- George ạ, em thấy anh cười như vậy thật tàn ác quá.
Nhưng thấy cô thiếu nữ rầu rĩ âu sầu, George càng buồn cười khỏe, cứ yên
trí rằng trò đùa của mình là lý thú.
Lúc cô Sharp xuống nhà, anh ta liến thoắng giễu cợt cô này về chuyện sắc
đẹp của cô khiến anh chàng béo ị chết mê chết mệt.
- Chao ôi, cô Sharp ạ. Giá cô nhìn thấy anh ấy sớm hôm nay...đang rên rỉ
trong bộ áo ngủ hoa sặc sỡ...lăn lộn trên chiếc ghế xô-fa, giá cô trông thấy
anh ấy thè lưỡi ra cho ông thầy thuốc Gollop coi bệnh...
Cô Sharp hỏi:
- Thấy ai cơ?
- Ai? Còn ai nữa? Chẳng phải Dobbin thì là ai. Đêm qua, chúng ta đã quan
tâm đến anh ấy nhiều quá đấy.
Emmy đỏ bừng mặt lên đáp:
- Hôm qua, chúng mình xử tệ với anh ấy quá thật.
- Em... em quên bẵng mất anh ấy đấy. Osborne vẫn còn cười tiếp:
- Em quên là dĩ nhiên. Ai mà nhớ luôn luôn đến Dobbin được: Amelia, em biết
đấy. Có ai nhớ được không, cô Sharp?
Cô Sharp lắc đầu kiêu hãnh đáp:
- Trừ lúc anh ấy đánh đổ cốc rượu vang trong bữa ăn, tôi chưa hề chú ý đến
sự có mặt của đại úy Dobbin lấy một phút.
Osborne đáp:
- Tốt lắm, cô Sharp ạ. Tôi sẽ bảo với anh ấy thế.
Nghe anh này nói, cô Sharp tự nhiên bắt đầu cảm thấy thù ghét anh chàng sĩ
quan trẻ tuổi; thực ra anh ta cũng hoàn toàn vô tình không có ý định gây ra sự
thù ghét ấy. Rebecca nghĩ thầm: “Có lẽ hắn đang giễu cợt mình đây; chắc lúc nãy
hắn nói về chuyện mình với Joseph. Không biết có phải hắn đã làm cho anh chàng
sợ không. Có lẽ anh chàng không dám đến rồi”. Mắt cô bỗng mờ đi và tim cô sao
mà đập nhanh quá sức. Rebecca cố mỉm cười một cách ngây thơ nhất đời, nói:
- Anh chỉ được cái bộ hay nói đùa thôi, anh George ạ. Mời anh cứ nói trêu
đi. Tôi chẳng có ai bênh vực đâu.
Đoạn cô lảng đi chỗ khác. Amelia nhìn George Osborne có ý trách móc; anh
này cảm thấy hơi hối hận vì đã đối xử tàn nhẫn một cách không cần thiết với
người con gái trơ trọi kia; anh ta đáp:
- Amelia thân yêu ơi, em tốt bụng quá. Em không hiểu lòng dạ người đời. Anh
thì anh hiểu. Còn cô Sharp, cô bạn nhỏ của em, cô ta cần biết phận mình mới
được.
- Anh cho rằng anh Joe sẽ...
- Anh thề rằng anh không biết gì, em yêu ạ. Anh
ấy có thể lấy, hoặc cũng có thể không. Anh có phải là ông chủ của anh ấy đâu.
Chỉ biết rằng anh ấy là một người ngớ ngẩn, phù phiếm, và đêm qua đã đặt cô em
yêu quý bé bỏng của anh vào trong một hoàn cảnh khó xử và đáng giận. “Cô em be
bé xinh xinh” yêu quý nhất đời của anh ạ.
Lúc George ra về, anh ta vẫn chưa hết cười,
điệu bộ trông đến khôi hài, làm cho Emmy cũng phải cười theo.
Suốt ngày hôm ấy Joe không tới. Nhưng Amelia
không ngại về chuyện ấy; cô thiếu nữ đã khôn khéo phái ngay thằng nhỏ phụ việc
bác Sambo đến nhà Joseph để lấy mấy cuốn sách anh trai đã hứa cho mượn, nhân
tiện hỏi thăm sức khỏe của ông anh. Bác Brush, người hầu của Joe ra trả lời
rằng chủ bác ốm, vừa có bác sĩ lại thăm bệnh xong.
Amelia nghĩ hôm sau thế nào anh chàng cũng lại,
nhưng không có can đảm nói một lời nào về chuyện này với Rebecca, mà suốt buổi
tối hôm ấy, sau cái đêm ở Vauxhall, chính Rebecca cũng không hề đả động đến
chuyện này.
Hôm sau nữa, lúc hai chị em đang ngồi trên ghế
xô-fa định bụng làm một việc gì, viết thư hoặc đọc sách chẳng hạn, thì thấy
Sambo bước vào phòng; bác vẫn cười cười như mọi khi, nách cắp một gói gì, còn tay
cầm một chiếc khay trên có đặt một phong thư. Sambo nói:
- Thưa cô, có thư của ông Joe .
Amelia bóc lá thư mà run quá. Thư viết thế này:
Em Amelia nhân yêu, Anh gửi cho em cuốn “Đứa bé
mồ côi trong rừng”. Hôm qua anh mệt quá, không lại được. Hôm nay, anh đi
Cheltenham. Nên tiện, em xin lỗi cô Sharp đáng mến hộ anh về cử chỉ của anh ở
Vauxhall; em xin cô ấy tha lỗi cho anh, và vui lòng quên tất cả mọi lời anh nói
trong lúc bị kích thích bởi bữa rượu tai hại ấy. Sức khỏe của anh bị ảnh hưởng
ghê gớm quá; khi nào bình phục, anh sẽ lập tức đi chơi Scotland độ vài tháng.
Anh thân mến của em.
Joe Sedley
Đây là lời tuyên án tử hình. Thế là hết. Amelia
không dám nhìn thẳng vào Rebecca; cô này đang tái mặt đi, mắt mở to chờ đợi.
Amelia chỉ bỏ lá thư vào lòng bạn, rồi đứng dậy lên gác về phòng riêng nằm khóc
tấm tức.
Bà quản gia Blenkinsop tìm đến an ủi; Amelia
gục đầu vào vai bà thút thít khóc và cũng cảm thấy dễ chịu hẳn đi.
- Đừng buồn, cô ạ. Trước tôi không muốn nói
chuyện ấy với cô, nhưng trong nhà ta không một ai ưa cô ấy, trừ lúc cô ấy mới
đến thì không kể. Chính mắt tôi trông thấy cô ấy đọc trộm những thư riêng của
bà. Pinner nói rằng lúc nào cũng thấy cô ấy lúi húi bên cạnh những hộp đựng đồ
vặt và những ngăn kéo của cô; cô ấy lục ngăn kéo của tất cả mọi người; chị
Pinner cam đoan rằng cô ấy đã lấy cuộn ru băng trắng của cô bỏ vào hộp riêng
của mình.
Amelia nói:
- Tôi cho cô ấy đấy, tôi cho đấy.
Nhưng bà Blenkinsop vẫn chưa hết nghi ngờ cô
Sharp. Bà ta bảo chị hầu gái:
- Chị Pinner ạ, tôi không ưa mấy cô giáo dạy
trẻ lắm đâu. Họ hay lên mặt, làm điệu làm bộ như các bà hoàng ấy, mà tiền lương
của họ thì nào có hơn gì tôi và chị.
Bây giờ trong nhà ai ai cũng thấy rõ thế nào
Rebecca cũng phải ra đi, trừ cô Amelia tội nghiệp. Từ trên đến dưới (vẫn trừ
một người), ai cũng đồng ý rằng cô ta càng đi sớm càng hay. Amelia vội lục lọi
mọi ngăn kéo, ngăn tủ, túi và cái hộp đồ vặt... soát lại hết các bộ áo, khăn
san, giẻ vụn, cuộn chỉ, dây đăng-ten, bí tất lụa v.v... lựa thứ này, chọn thứ
khác, xếp thành một đống nhỏ để tặng Rebecca. Ông Sedley, trước đã hứa cho con
gái một số ghi-nê bằng số tuổi của cô.. . Amelia bèn đến xin cha; ông nhà buôn
người Anh rộng lượng ấy, cho Rebecca số tiền đó vì cô chắc bạn mình đang túng,
trong khi mình chẳng thiếu một thứ gì.
Cô lại bảo George Osborne góp thêm vào một món
quà; anh chàng trẻ tuổi vốn là tay hào phóng như bất cứ chàng trẻ tuổi nào
trong quân đội, rất sẵn sàng đi ngay đến phố Bond, mua một chiếc mũ và một tấm
áo da ngắn đẹp nhất mà có tiền là có thể mua được. Amelia rất hãnh diện khi ôm
chiếc hộp đựng mũ áo đến tặng Rebecca; cô nói:
- Chị Rebecca thân mến ơi, đây là quà của anh
George tặng chị đây. Anh ấy chọn hàng khéo quá! Chẳng ai chọn khéo được như anh
ấy.
Rebecca đáp:
- Chẳng có ai thật. Em mang ơn anh ấy quá.
Nhưng cô thầm nghĩ: “Đúng là George Osborne đã ngăn trở cuộc tình duyên của
mình”. Mà chính cô ta yêu George Osborne cũng vì thế.
Rebecca sửa soạn ra đi với thái độ rất bình
tĩnh; cô nhận tất cả mọi vật Amelia tặng mình, sau khi cũng đã ngần ngại và miễn
cưỡng một cách vừa đủ. Cô nói rằng mình biết ơn bà Sedley suốt đời, song cũng
không đến làm phiền bà cụ nhiều quá, vì bà cụ ở vào hoàn cảnh khó xử, rõ ràng
có ý tránh mặt không muốn gặp cô. Lúc ông Sedley đưa biếu túi tiền, Rebecca hôn
tay ông cụ, xin phép được coi cụ là người bạn, người cha đỡ đầu thân thiết nhất
của cô trong tương lai. Cô cư xử coi cảm động quá, làm cho ông cụ suýt nữa thì
viết tặng thêm cô một tờ ngân phiếu hai chục đồng. Nhưng ông lão lại kịp kìm
giữ tình cảm của mình lại. Xe ngựa đã chờ sẵn để đưa ông đi dùng bữa; ông hối
hả đi còn dặn Rebecca rằng: “Con yêu mến ơi, cầu Chúa ban phúc lành cho con;
khi nào có việc ra tỉnh, con nhớ lại chơi nhé. Giong xe đến tòa Quốc hội,
James!”.
Cuối cùng là cuộc chia tay giữa Rebecca và
Amelia; tôi muốn che một tấm màn lên trên cảnh tượng này. Nhưng sau cái màn
kịch mà một người thì vô tình, còn một người thì đóng trò tuyệt khéo...sau khi
những sự vuốt ve, những dòng nước mắt thảm thiết, cả ống thuốc giải cảm và
những tình cảm thiêng liêng nhất đã được đem ra sử dụng...
Amelia chia tay cùng Rebecca; cô này luôn miệng
thề sẽ yêu quý bạn mình mãi mãi…mãi mãi và mãi mãi.
Chương 7
CRAWLEY Ở TRẠI CRAWLEY BÀ CHÚA
Trong số những cái tên đáng kính nhất bắt đầu
bằng chữ C có ghi trong cuốn Niên giám của Triều đình vào năm 18…có tên Tôn ông
Pitt Crawley, nam tước ở phố Great Gaunt, chủ trại Crawley bà chúa ở Hants. Cái
tên đáng kính này còn được ghi suốt trong một thời gian hàng mấy chục năm liền
trong cuốn danh bạ của Quốc hội, cạnh tên nhiều vị tai mắt khác thay phiên nhau
ngồi đại diện cho nhân dân các đơn vị bầu cử.
Về lai lịch đơn vị bầu cử Crawley Bà chúa,
thiên hạ đồn rằng Nữ hoàng Elizabeth có dừng lại dùng bữa sáng tại trại
Crawley, nhân một buổi ngư chơi qua tỉnh. Ngài Crawley thời đó, một nhà quý tộc
bảnh trai, có bộ râu rất đẹp và cặp giò khá xinh, có dâng Bà chúa một thứ rượu
bia Hampshire rất ngon. Nữ hoàng rất hài lòng, lập tức nâng trại Crawley lên
hàng một đơn vị bầu cử, được quyền có hai đại biểu thay mặt trong Quốc hội. Thế
là từ buổi thăm viếng lịch sử đó, trại này mang cái tên Crawley Bà Chúa cho mãi
đến ngày nay. Và thời gian trôi qua, đưa đến bao đổi thay cho những quốc gia,
những thành thị, những tỉnh lỵ cho nên Crawley Bà chúa không còn đông đúc dân
cư như hồi sinh thời bà chúa Bess () nữa…đơn vị bầu cử này đã lâm vào tình
trạng người ta thường mệnh danh là điêu tàn…tuy vậy, tôn ông Pitt Crawley cũng
vẫn nói một cách rất đúng lý, theo lối nói lịch sự của ông ta rằng: “Điêu tàn?
Mẹ kiếp…nhờ nó, hàng năm tôi còn kiếm được một nghìn năm trăm đồng đấy ạ”.
Tôn ông Pitt Crawley (đặt theo tên vị đại biểu
Quốc hội lừng danh) là con trai của nam tước Walpole Crawley. Hồi đang tòng sự
tại văn phòng cơ mật dưới triều hoàng đế George đệ nhị, ngài bị truy tố về tội
thụt két, cũng như một số lớn các vị tai mắt lương thiện thời ấy. Cũng không
cần phải nói thêm rằng Walpole Crawley là con trai John Churchill Crawley đặt
theo tên vị chỉ huy quân đội đanh tiếng lẫy lừng dưới triều nữ hoàng Anh. Trên
cành cây gia phả treo ở trong phòng danh dự tại trại Crawley Bà chúa còn thấy
tên Charles Stuart, sau lại có tên là Crawley Lẻo-khoẻo, con trai của cụ
Crawley, sống vào thời Hoàng đế James đệ nhất; và cuối cùng là tôn ông Crawley
thời nữ hoàng Elizabeth được nêu đứng hàng đầu, mặc đủ giáp trụ lại có cả bộ
râu ba chòm. Như lệ thường, người ta vẽ một cái cây từ trong bộ áo chèn nhô ra;
trên những cành lớn có ghi những tên quan trọng vừa kể trên. Sát kề tên tôn ông
Pitt Crawley nam tước (tức là nhân vật trong tập ký ức này), có tên người em là
Bute Crawley (hồi đức cha mới sinh, thì ngài nghị sĩ quốc hội đã bị thất sủng
rồi) đức cha cai quản giáo đường Crawley Snailby, cùng nhiều tên đàn ông đàn bà
khác trong họ Crawley. Mới đầu tôn ông Pitt lấy vợ là cô Grizzel, con gái thứ
sáu của nhà quý tộc Mungo Binkie, em họ ngài Dundas. Người vợ này đẻ được hai
đứa con trai, là Pitt (đặt tên theo ý đức cha con trời hơn là theo ý ông bố) và
Rawdon Crawley, theo tên người bạn của hoàng tử xứ Wales mà hoàng đế George đệ
tứ hoàn toàn quên bẵng mất. Vợ chết được một thời gian khá lâu, tôn ông Pitt
mới dẫn cô Rosa đến bàn thờ Chúa làm lễ cưới. Cô là con gái ông Dawson ở
Mudbury; cô ăn ở với chồng, sinh được hai người con gái, tức là hai cô học trò
cô Rebecca lĩnh trách nhiệm dạy bảo bây giờ; ta coi đó đủ biết cô thiếu nữ này
đang bước vào một gia đình danh giá, và sắp sửa tiếp xúc với một xã hội còn có
tính chất thượng lưu hơn nhiều, so với cái gia đình tầm thường ở Công viên
Russell mà cô vừa từ giã. Rebecca tiếp được giấy mời đến nhận việc, viết trên
một mảnh phong bì cũ, gồm mấy dòng chữ như sau:
Tôn ông Pitt Crawley yêu cầu cô Sharp phải đem
hành lý có mặt tại đây hôm thứ ba, hôm đó tôi về trại Crawley Bà chúa sớm.
Phố Great Gaunt
Chưa bao giờ Rebecca được gặp một vị nam tước.
Sau lúc từ biệt Amelia, khi đã đếm cẩn thận số ghi-nê ông Sedley bỏ trong cái
túi biếu mình, cô lấy một cái khăn tay chấm khô nước mắt (cô chờ khi chiếc xe
ngựa đã đi khuất ở góc phố mới thôi lau nước mắt). Theo sự hiểu biết của mình,
Rebecca bắt đầu phác ra trong trí tưởng tượng hình ảnh một vị nam tước. Cô nghĩ
thầm: “Không biết ông ta có đeo một ngôi sao không nhỉ” Hay là chỉ có các bá
tước mới được đeo sao? Nhưng chắc ông ta phải mặc một bộ áo chầu thật đẹp, có
tua hoa, hơi rắc phấn trên tóc, giống như ông Wroughton ở công viên Covent. Có
thể ông ta rất kiêu kỳ; mình sẽ bị đối xử một cách miệt thị. Thôi thì cũng đành
nhẫn nhục mà chịu đựng số phận hẩm hiu vậy...ít nhất, mình cũng sẽ được sống
cùng những người danh giá, không phải là cái bọn thị dân tầm thường. Cô bỗng
nhớ lại những người bạn của mình ở công viên Rusell với ý nghĩ triết lý chua
cay kia, giống như con chó sói nghĩ về giàn nho trong một câu chuyện ngụ ngôn
cũ vậy.
Chiếc xe đã đi qua công viên Gaunt, và bắt đầu
đi vào phố Great Gaunt; cuối cùng xe dừng lại trước một căn nhà đồ sộ âm u,
đứng giữa hai căn nhà cũng đồ sộ và âm u; trước mỗi căn nhà này đều có treo một
bộ huy hiệu quý tộc mé trên cửa sổ phòng khách.
Nhà cửa ở phố Great Gaunt bao giờ cũng âm u như
vậy.
Cửa sổ tầng dưới tòa nhà của tôn ông Pitt đều
đóng kín mít; chỉ có mé cửa phòng ăn là hơi hé mở; rèm che được bọc bằng giấy
báo cũ rất cẩn thận. Thằng hầu John một mình đánh xe cho Rebecca, không thèm
bước xuống giật chuông.
Hắn nhờ một thằng bé bán sữa đi qua làm hộ mình
công việc ấy. Tiếng chuông réo lên, có một cái đầu từ trong khe cửa sổ phòng ăn
thò ra. Một người ra mở cửa; người này mặc quần áo màu nâu nhạt, khoác một tấm
áo ngoài cũ bẩn, một chiếc khăn cũ rích, bẩn thỉu quấn xung quanh cái cổ lông
lá của hắn; trán hói bóng; mặt đỏ; đôi mắt sáng nhấp nháy; cái mồm lúc nào cũng
hơi nhe răng ra như đang cười.
John cứ ngồi yên trên xe, hỏi sõng:
- Đây là nhà tôn ông Pitt Crawley, hả?
Người đứng ở cửa sổ gật đầu đáp:
- Phải.
John bảo:
- Thế thì bỏ mấy cái va-ly xuống.
Người gác cửa đáp:
- Anh bỏ xuống lấy chứ.
- Anh không thấy tôi bận giữ ngựa à? Này, anh
bạn, lại đây giúp một tay, rồi cô đây sẽ cho tiền uống bia.
John vừa nói vừa cười như ngựa hý; bây giờ quan
hệ giữa Rebecca và gia đình Sedley đã hết, hắn không coi trọng cô ta nữa, và
cũng vì lúc ra đi, cô ta không cho bọn đầy tớ đồng xu nào.
Người hói trán bỏ hai tay đút trong túi quần
ra, bước xuống đường, xốc cái va-ly của cô Sharp lên vai, vác vào trong nhà. Cô
Sharp nói:
- Cầm hộ cái làn và cái khăn san, rồi mở cửa xe
ra.
Cô ta xuống xe, có vẻ tức giận, bảo thằng hầu:
- Tôi sẽ viết thư kể cho cụ Sedley biết anh hỗn
vời tôi thế nao.
Tên hầu đáp:
- Ấy chớ. Tôi mong rằng cô không bỏ quên cái gì
chứ? Mấy cái áo của cô Amelia, cô đã đem theo đủ chưa?...Chị hầu của cụ bà suýt
nữa thì được hưởng. Chúc cô mặc vừa xinh. Này Jim, đóng cửa xe lại, bác đừng có
tưởng bở - vừa nói John vừa chìa ngón tay cái về phía cô Sharp - cô ta đá lắm,
đá lắm. Đoạn thằng hầu của ông Sedley đánh xe đi. Sự thực hắn là nhân tình của
chị hầu gái vừa nói trên; thấy người yêu bị nẫng tay trên mất món đồ, hắn lấy
làm uất lắm.
Người đi ghệt bảo Rebecca vào trong phòng ăn;
cô thấy căn phòng này trang hoàng không được vui mắt như những căn phòng ăn của
các gia đình sang trọng ở thôn quê. Hình như những căn phòng này cũng biết
trung thành với chủ, thấy chủ vắng nhà cũng biết ủ dột, âu sầu. Tấm thảm
Thổ-nhĩ-kỳ được cuốn gọn, nằm rầu rĩ bên cạnh chiếc tủ chè; những bức tranh
trên tường cũng giấu mặt sau những tờ giấy cũ màu nâu bọc ngoài; ngọn đèn treo
trên trần cũng được bưng kín trong một cái túi vải Hà-lan màu nâu, trông đến
sợ. Riềm cửa sổ thì ẩn mình dưới đủ mọi thứ giấy bọc tồi tàn. Chiếc tượng bán
thân bằng đá cẩm thạch tạc hình ngài Walpole Crawley từ trong một góc tối đang
chăm chú ngó xuống sàn nhà trơ trọi và đôi que cời than lau dầu cẩn thận; trong
chiếc khay đựng danh thiếp nằm trên mặt lò sưởi cũng chẳng có gì. Chiếc tủ chè
đứng trốn đằng sau cuộn thảm; dọc theo mặt tường, một hàng ghế nằm úp vào nhau
chổng vó lên trần nhà. Đối diện với pho tượng, trong một xó tối, có một chiếc
tủ đựng thìa đĩa trông cổ lỗ, tồi tàn, khoá chặt, kê trên một cái bàn nước.
Tuy nhiên, cạnh chiếc lò sưởi cũng có một cái
bàn tròn, hai chiếc ghế làm bếp; một bộ que cời than cũ kỹ, và trên ngọn lửa
cháy lom đom có đặt một cái chảo. Trên bàn bày một miếng bánh phết bơ, đặt cạnh
một cây đèn bằng sắt tây; một chai rượu bia đen nhỏ nằm trong cái thùng đựng
rượu bên cạnh.
- Cô ăn cơm rồi chứ? Đối với cô món ăn thế này
chắc nguội quá. Cô có muốn uống một chút bia không?
Cô Sharp đường hoàng hỏi:
- Tôn ông Pitt Crawley đâu?
- Hi hi! Chính tôi là tôn ông Pitt Crawley đây.
Nhớ rằng cô còn nợ tôi một cốc rượu, công vác cái va-ly hộ cô đấy. Hi hi! Hỏi
Tinker xem có đúng không nào. Xin giới thiệu: Bà Tinker; đây: cô Sharp. Cô đây
là cô giáo dạy trẻ; bà đây là người làm công nhật.
- Hô hô!
Người đàn bà được giới thiệu là bà Tinker lúc
này mới bước ra, tay cầm một chiếc tẩu và một tập giấy thuốc lá: cụ Pitt sai bà
ta đi lấy những thứ ấy một phút trước khi Sharp bước vào. Bà này đưa cho cụ
Pitt, cụ đã ngồi xuống chiếc ghế cạnh lò sưởi, nói:
- Còn tiền lẻ đâu? Tôi đưa cho mụ ba xu rưỡi cơ
mà? Còn tiền lẻ đâu,mụ Tinker?
Mụ Tinker ném đồng trinh xuống bàn:
- Đây! Chỉ có các vị nam tước mới chi ly từng
trinh như thế thôi chứ.
Ông đại biểu của dân đáp:
- Mỗi ngày một đồng kẽm, một năm thành bảy
si-linh. Bảy si-linh một năm tức là bằng tiền lời của bảy ghi-nê. Này, mụ
Tinker, hãy để dành cẩn thận những đồng kẽm của mụ, thế nào cũng sinh sôi nảy
nở thành vô khối ghi-nê cho coi.
Mụ Tikơ càu nhàu nói:
- Này cô ơi, cô có thể yên trí rằng đây chính
thực là tôn ông Pitt Crawley đấy, bởi vì cụ ấy so kè từng đồng kẽm một. Rồi cô
sẽ hiểu rõ cụ ấy ngay thôi, không lâu dài.
Lão già quý tộc nói gần như với một vẻ lễ độ:
- Cô Sharp ơi, mà đừng có ghét tôi vì thế nhé.
Tôi cần phải công bằng, trước khi có thể hào phóng.
Mụ Tinker vẫn làu nhàu: .
- Suốt đời cụ ấy có bao giờ chịu rời đồng kẽm
nào ra đâu.
- Không bao giờ, không bao giờ; thế thì trái
với nguyên tắc xử thế của tôi mất. Tinker, nếu mụ cũng muốn thì đi lấy thêm một
cái ghế trong bếp ra đây, ta đi ăn thôi.
Đoạn ngài nam tước thò một cái nĩa vào trong
chảo, xiên một miếng dạ dày bò và một củ hành lôi ra; lão cắt làm hai phần thật
đều; lão với mụ Tinker, mỗi người một phần.
- Cô Sharp có hiểu không, khi nào tôi đi vắng,
thì mụ Tinker lấy tiền công; khi nào tôi về tỉnh thì mụ ăn với tôi. Hô, hô, may
quá; cô Sharp lại không đói; phải không Tinker?
Đoạn cả hai cúi xuống dùng nốt bữa ăn thanh
đạm. Ăn xong, tôn ông Pitt Crawley bắt đầu hút tẩu thuốc; khi trời đã tối mịt,
lão mới thắp cây nến cắm trên cái chân đèn bằng sắt tây lên, rồi móc trong cái
túi kếch xù ra một nắm giấy má to tướng bắt đầu đọc, đoạn xếp thứ tự lại.
- Cô em ạ. Tôi về đây có việc pháp luật. Vì vậy
ngày mai ngẫu nhiên mới may mắn được có một người bạn đồng hành xinh đẹp thế này
chứ.
- Cụ ấy lúc nào mà chẳng bận việc pháp luật.
Mụ Tikơn vừa nói vừa nhấc cái thùng đựng chai
rượu bia lên.
Lão nam tước bảo:
- Uống đi, cứ uống đi. Phải, cô em ạ, mụ Tinker
nói đúng lắm. Tôi đã bại mà cũng đã thắng trong nhiều vụ tranh chấp về pháp
luật, nhiều vô kể. Rồi cô xem vụ Crawley nam tước kiện Snaffle kết cục ra sao.
Tôi sẽ cho hắn chết mất ngáp, nếu không tôi không phải là thằng Pitt Crawley.
Lại còn vụ Podder cùng một người khác kiện
Crawley nam tước, rồi vụ Kiểm soát viện ở Snaily cũng kiện Crawley nam tước.
Chúng không thể chứng minh đấy là đất công. Tôi thách bọn chúng đấy; đất này là
của tôi. Nó không còn thuộc quyền sở hữu của thị trấn này y như nó không phải
là của cô hay của mụ Tinker vậy. Dầu có tốn đến hàng nghìn ghi-nê, tôi cũng
phải đánh bại chúng kỳ được. Coi giấy má đây này, cô em; cô muốn xem không? Cứ
xem đi. Cô viết chữ có đẹp không? Bao giờ về Crawley Bà chúa, cô sẽ giúp tôi
được nhiều việc đấy; cứ yên trí, cô Sharp ạ. Bây giờ mụ góa ấy chết rồi, tôi
cần một người giúp việc.
Tinker chêm vào:
- Mụ ấy tồi chẳng kém gì ông chủ. Mụ bóp hầu
bóp cổ bọn cung cấp hàng. Trong có bốn năm, thay tới bốn mươi tám lần người
làm.
Lão nam tước chỉ đáp:
- Bà ấy rất tần tiện, tần tiện lắm. Nhưng bà ấy
đối với tôi cũng quý báu lắm, đỡ được cho tôi một người quản gia nữa.
Và cô gái mới đến rất thú vị thấy câu chuyện cứ
cái đà thân mật như vậy mà tiếp tục một hồi lâu. Không biết tính tình cụ Pitt
Crawley tốt hay xấu. Nhưng có điều lão tỏ ra không hề muốn giấu giếm điều gì.
Lão luôn luôn nói chuyện về mình, khi thì dùng cả cái giọng thô bỉ tục tằn nhất
của vùng Hampshire, có lúc lại dùng lối ăn nói lịch sự của người quen xã giao.
Lão dặn cô Sharp năm giờ sáng hôm sau phải chuẩn bị sẵn sàng, rồi chúc cô ta
ngon giấc.
Lão bảo:
- Đêm nay, cô ngủ với mụ Tinker. Giường rộng
lắm, hai người nằm cũng vừa. Crawley phu nhân đã chết trên giường ấy đấy Chúc
cô yên giấc.
Nói xong, lão Pitt đi ngủ. Mụ Tinker trịnh
trọng cầm cây nến, dẫn Rebecca trèo lên những bậc thang gác lạnh lẽo, xây bằng
đá, đi qua những khung cửa lớn của một căn phòng khách lạnh lẽo; những tay nắm
trên những cánh cửa trong gian phòng này cũng đều bọc giấy kín; cuối cùng hai
người đi đến phòng ngủ, nơi Crawley phu nhân trước kia đã ngủ giấc ngủ cuối
cùng của đời bà. Các bạn có thể tưởng tượng được căn phòng trông tối tăm và
tang tóc thế nào, không những vì Crawley phu nhân đã chết ở đó mà còn vì hồn ma
của bà ta hình như vẫn còn quanh quất đâu đây. Thế mà Rebecca cứ chạy đây chạy
đó trong phòng, tự nhiên thoải mái như không; cô ta ngó vào trong những chiếc
tủ áo đồ sộ, những chiếc tủ chè, rồi lại kéo thử những ngăn kéo đã khóa chặt.
Trong khi mụ làm công cầu kinh, cô ta lại quay ra ngắm nghía những bức tranh
rầu rĩ và những đồ trang điểm.
Mụ gái già nói:
- Tôi chẳng thể nào nằm ngủ trên cái giường kia
nếu chưa cầu kinh cho linh hồn thật nhẹ nhàng.
Rebecca đáp:
Giường rộng lắm, đủ chỗ cho cả bà và tôi cùng
nửa tá ma quỷ nữa đấy. Bà Tinker thân mến ơi, bà kể cho tôi nghe về Crawley phu
nhân, về tôn ông Crawley, và tất cả mọi người trong gia đình đi.
Nhưng cô ả tò mò cũng không nịnh khéo được mụ
Tinker.
Mụ bảo cô ta rằng giường là nơi để ngủ, không
phải là chỗ nói chuyện, rồi nằm xuống ngáy như kéo gỗ, chỉ có những người vô
tội mới ngáy to được đến thế. Rebecca thì cứ trằn trọc mãi, không sao ngủ được;
cô nghĩ đến ngày hôm sau, cô nghĩ đến cuộc đời mới sắp bước chân vào, và những
sự may mắn có thể gặp được trong cuộc đời ấy. Trên cây đèn, ngọn nến cháy vật
vờ. Bóng đen của chiếc lò sưởi phủ kín một nửa chiếc khung thêu cũ kỹ mủn nát mà
Crawley phu nhân trước kia vẫn dùng, chắc hẳn thế, và che lấp cả bức tranh gia
đình nhỏ vẽ mấy đứa trẻ, một đứa mặc quần áo học sinh, đứa kia mặc một tấm áo
chèn đỏ theo kiểu nhà binh. Lúc sắp ngủ, Rebecca quyết định đến đêm sẽ nằm mơ
thấy thằng bé con ấy.
Bốn giờ sáng hôm sau, một buổi sáng mùa hạ rực
hồng khiến cho cái bộ mặt vốn rầu rĩ của phố Great Gaunt cũng phải trở thành
tươi tắn, mụ Tinker trung thành đánh thức người bạn cùng giường dậy, bảo cô ta
sửa soạn đi là vừa.
Mụ tháo then, mở khóa cửa lớn ngoài căn phòng
chính (tiếng lách cách, xủng xoảng làm cho những tiếng động còn ngái ngủ của
dẫy phố phải choàng giật mình); đoạn mụ bước ra phố, đi về phía Đại lộ Oxford
gọi một cái xe ngựa. Chẳng cần phải chú ý lắm đến số xe cũng không cần biết
rằng bác xà-ích từ sớm tinh mơ đã giong xe đi loanh quanh phố Swallow, hy vọng
một cậu công tử nào từ tiệm rượu lảo đảo về nhà, hẳn phải nhờ đến tay bác và
đang lúc say sưa, chắc thế nào cũng trả công hậu hĩnh.
Và cũng chẳng cần nói thêm rằng, nếu thật bác
xà ích đang nuôi hy vọng nói trên, thì bác đã thất vọng một cách thảm hại; vì
ngài nam tước đáng kính của chúng ta thuê bác giong xe cho mình về khu City đã
nhất định không chịu trả đắt hơn một xu.
Bác Jehu tha hồ van xin rồi gắt gỏng, vô ích;
bác ta bèn quẳng mấy cái hộp của cô Sharp xuống cạnh cổng, tuyên bố rằng bác sẽ
kiện tại tòa để đòi thêm tiền. Một bác xà ích khác xen vào:
- Thôi, tốt hơn là cứ đi đi. Cụ Pitt Crawley
đấy.
Lão nam tước kêu lên tán thành:
- Đúng thế, bác Joe ạ. Tôi muốn xem đứa nào làm
gì tôi tốt nào.
- Tôi cũng thế.
Joe nhăn nhó đáp, đoạn mang hành lý của lão nam
tước chất lên nóc xe.
Lão nghị sĩ quốc hội bảo người xà ích:
- Dành cho tôi chỗ ngồi đằng trước đấy, nhà
lãnh đạo ạ.
- Bẩm cụ, vâng.
Bác xà ích vừa đáp vừa giơ tay lên vành mũ, tuy
trong thâm tâm tưởng phát điên lên được (bác đã nhận lời dành chỗ ngồi ấy cho
một cậu công tử trẻ tuổi sinh viên trường đại học Cambridge, đang hy vọng thế
nào cũng được một đồng cơrao); bác xếp cho cô Sharp một chỗ mé sau trong chiếc
xe có thể nói sẽ đưa cô ta đi vào một cuộc đời mới rộng lớn.
Anh chàng trẻ tuổi ở Cambridge vắt năm cái áo
của mình lên thành xe phía trước; anh ta cáu quá, nhưng thấy Rebecca chui ra
khỏi xe, trèo lên ngồi cạnh thì cơn bực mình của anh ta biến đi ngay…Anh ta lấy
một tấm áo choàng kiểu Benjamin của mình phủ lên vai cô thiếu nữ, và từ lúc đó
anh trở nên rất vui tính…một ông sang trọng bị bệnh suyễn, và một bà vẻ mặt khó
đăm đăm cứ lấy danh dự thiêng liêng của bà ra mà thề mãi rằng xưa nay chưa hề
đi đâu bằng xe thuê bao giờ (bao giờ đi xe ngựa thuê mà chả gặp một bà như thế,
than ôi, bây giờ xe ngựa đâu cả rồi?). Lại có một bà goá béo ụt ịt tay cầm một
chai rượu mạnh cùng hai người kia trèo lên xe ngồi vào ghế…Anh coi cửa đòi
tiền; ông sang trọng cho sáu xu, bà goá cho năm đồng trinh nhờn nhờn như dính
mỡ...cuối cùng, chiếc xe ngựa chuyển bánh...lúc thì chạy dọc theo những con
đường tối tăm của khu Aldersgate, lúc thì đi ngang qua nhà thờ St. Paul có cái
vòm mái màu xanh, rồi nhanh nhẹn chui qua cổng Fleet Market; chiếc cổng này
cùng khu Hội chợ bây giờ đã lui vào bóng tối của dĩ vãng rồi. Một lúc sau xe
chạy qua hiệu “Con gấu trắng” ở Piccadilly; sương sớm từ những khu vườn chợ ở
Knightsbridge tỏa lên mờ mịt, rồi lại đi qua Turnhamgreen, Brentwood,
Bagshot...ta chẳng cần nhắc lại làm gì. Nhưng ngày xưa, kẻ viết những dòng này
cũng đã có dịp qua cùng một con đường, trong cùng một thời tiết sáng sủa như
trong chuyện, không thể nào nghĩ lại mà không cảm thấy đôi chút ngậm ngùi nhớ
tiếc một cách êm đềm. Con đường và những chuyện vặt xảy ra hàng ngày của nó còn
đâu nữa. Còn đâu nữa những Chelsea hay Greenwich và những bác xà ích thực thà
mũi đỏ như cà chua? Không biết những anh chàng tốt bụng ấy bây giờ đâu cả rồi?
Anh chàng Wenller còn sống hay đã chết rồi? Và cả những quán rượu, cả những
người hầu bàn dọn ăn trong đó, những khoanh thịt bò nguội cả cái anh bồi ngựa
lùn tè có cái mũi tái xanh, xách cái thùng nước kêu lanh canh, bây giờ anh ta ở
đâu, hoặc con cháu anh ta ở đâu? Đối với những thiên tài lớn hiện nay đang còn
quấn tã- những người sẽ viết truyện cho con cháu yêu quý của các vị độc giả coi
thì những nhân vật và sự việc trên đây sẽ có tính chất truyền kỳ chẳng khác gì
chuyện Nineveh, hoặc Sư tử tâm () hoặc Jack Sheppard. Đối với họ, chuyến xe
ngựa sẽ thành tiểu thuyết…chuyện một bày bốn con ngựa lồng cũng ly kỳ như
chuyện Bucephalus hay chuyện Bess Hắc-y.
Gớm, lông ngựa bóng nhẫy; mấy anh bồi ngựa cất
áo ngắn đi; thế là ngựa đi, thế ngựa phi nước đại; chao ôi, đuôi chúng cứ vẫy
tít lên, lúc đến trạm nghỉ; mấy con ngựa yên lặng đi vào trong sân quán rượu,
lưng bốc hơi. Than ôi? Còn bao giờ chúng ta được nghe tiếng xà ích rúc còi lúc
nửa đêm, và được trông thấy cánh cổng ghép bằng gỗ vát nhọn mở tung ra nữa?
Thôi, chúng ta cũng chẳng nên nghĩ ngợi lan man nữa, hãy đến Crawley Bà chúa
xem cô Rebecca làm ăn ra sao?
Chương 8
RIÊNG VÀ KÍN
Cô Rebecca Sharp gửi cô Amelia Sedley, khu
Quảng trường Russell, Luân-đôn (miễn bưu phí - Pitt Crawley).
Chị Amelia dịu dàng thân yêu nhất đời của em.
Em cầm bút biên thư cho chị thân yêu mà trong
lòng lẫn lộn vừa mừng vừa tủi! Ôi! Ngày hôm nay khác ngày hôm qua biết bao
nhiêu. Bây giờ, em cô đơn quá, chẳng có ai bầu bạn; mới hôm qua, em còn như
được sống trong khung cảnh gia đình, bên cạnh một người chị dịu dàng mà em suốt
đời quý mến.
Em không muốn kể lại chị nghe suốt cái đêm ác
nghiệt em phải xa lìa chi, em đã buồn khổ, khóc lóc thế nào. Từ ngày thứ ba,
chị đã bước vào một cuộc sống đầy hoan lạc và hạnh phúc, bên cạnh bà mẹ hiền,
và người quân nhân trẻ tuổi chung tình của chị. Suốt đêm em nằm nghĩ đến chị,
tưởng tượng cảnh chị đang khiêu vũ ở Perkins, và chắc chắn chị là người thiếu
nữ đẹp nhất trong buổi dạ hội.
Thằng hầu đánh cái xe ngựa cũ kỹ đưa em đến căn
nhà của cụ Pitt Crawley ở tỉnh; thằng Joe đối xử với em thô lỗ, hỗn xước quá
chị ạ. (than ôi, sỉ nhục kẻ nghèo khổ và không may này thì dễ dàng quá !); nó
giao em cho cụ Pitt. Đêm hôm ấy, em ngủ trong một cái giường cổ lỗ, tối tăm
cùng với mụ già làm công cũng có vẻ âm thầm giữ việc dọn đẹp nhà cửa. Suốt đêm
em không chợp mắt được lấy một phút chị ạ.
Cụ Pít không giống những vị nam tước mà hai chị
em ngốc nghếch chúng mình tưởng tượng hồi hay đọc truyện “Cecilia” ở Chiswick
đâu. Không có người nào khác hẳn bá tước Orville như lão ta. Chị cứ tưởng tượng
một người có tuổi lùn, béo phị, thô lỗ, và bẩn kinh người, quần áo cũ rích, đi
đôi ghệt tồi tàn, ngậm một chiếc tẩu khủng khiếp, và lại tự mình nấu lấy bữa ăn
gớm ghiếc của mình trong cái chảo! Lão có cái giọng nói nhà quê lắm, và lại hay
văng tục với mụ làm công, văng tục với cả thằng xà-ích đánh xe ngựa thuê chở
chúng em đến cái quán chỗ xe đỗ, phần lớn ngày hôm nay, tuy đi xe mà em phải
ngồi ngoài trời.
Mới sáng tinh mơ, mụ làm công đã đánh thức em
dậy; đến cái quán, em được vào ngồi trong xe. Nhưng khi xe chạy đến một chỗ gọi
là Leakington, thì trời bắt đầu mưa to, chị có thể tin được không?...Em bị bắt
buộc ra ngồi ngoài trời, bởi vì cụ Pitt cũng là chủ xe, và lúc ấy có một hành
khách đi Mudbury muốn vào ngồi trong xe; thế là em phải ngồi ngoài trời mưa,
may quá, một chàng trẻ tuổi học ở Cambridge đại học đường có đem theo mấy tấm
áo choàng, anh ta thương tình lấy một cái che cho em.
Chàng trẻ tuổi sang trọng này và người hầu hình
như biết rõ vụ Pitt thì phải; họ thi nhau mà giễu cợt lão. Họ đồng ý với nhau
đặt tên cho lão là “lão vắt cổ chày ra nước” nghĩa là hà tiện, bủn xỉn quá lắm.
Họ nói chuyện rằng không bao giờ lão cho ai tiền (em vốn ghét cái tính bần tiện
ấy); chàng trẻ tuổi sang trọng ấy còn bảo em rằng sở dĩ trong khoảng hai chặng
đường cuối cùng xe đi rất chậm, là vì có cụ Pitt ngồi cạnh bác xà ích, mà đôi
ngựa kéo xe trong đoạn đường này lại là của cụ. Anh sinh viên trẻ tuổi nói: lúc
nào tôi cầm cương anh có muốn tôi quất vài roi cho nó chóng đến Squashmore
không? Bác xà ích đáp: “cậu Jack ạ, cậu cứ quất cẩn thận cho tôi”. Em hiểu ý
nghĩa của câu nói; và biết cậu Jack định cầm cương ngựa để trả thù lão, em cũng
cười.
Thế cũng có một cái xe đóng hai cặp ngựa rất
đẹp chờ chúng em ở Mudbury, cách trại Crawley Bà chúa bốn dặm. Chúng em bắt đầu
đi vào trong phạm vi khu vườn riêng của lão nam tước. Một con đường rộng thênh
thang rất đẹp cách tòa nhà chính đến một dặm. Người đàn bà ở căn nhà cạnh cổng
lớn vội vái chào chúng em lia lịa (mé trên những cột trụ ở cổng có tạc hình một
con rắn và một con chim bồ câu, đỡ chiếc huy hiệu riêng của gia đình Crawley)
đoạn mở tung hai cánh cổng sắt cũ có chạm trổ ra, trông giống như những cánh
cổng ở cái chỗ Chiswick khốn kiếp. Cụ Pitt bảo em: “Con đường lớn này dài một
dặm. Cây trồng ở đây trị giá có tới sáu ngàn đồng bạc gỗ. Cũng là một món tiền
đấy chứ?”. Lão nói “đường lớn” là “đàng nớn” và “món tiền” là “món tờn”, buồn
cười quá. Lão cho ông Hodson, một người tá điền của lão ở Mudbury, lên ngồi
trên xe; hai người nói với nhau toàn những chuyện “quyền trữ”, chuyện bán đấu
giá, chuyện tháo nước úng, chuyện khai thác, và bao nhiêu là chuyện trong nghề
làm ruộng, làm trại...em chịu không hiểu nổi. Một người là Xam Mang săn trộm bị
bắt, một người là Pơtơbailê đã bị đưa vào nhà tê bần rồi. Cụ Pitt nói: “Cho nó
đáng kiếp, nó và gia quyến đã lừa tôi trong cái trại này có tới một trăm năm
mươi năm nay”. Hình như có người tá điền cũ nào đó không trả được nợ thì phải.
Giá cụ Pitt nói “nó và gia đình nó” thì đúng
hơn, nhưng các vị nam tước giàu có cần gì để ý đến văn phạm như mấy cô giáo dạy
tư nghèo đói!
Xe đang đi, em chợt nhìn thấy một cái nóc nhà
thờ rất đẹp vươn lên sau mấy cây du trong vườn trại. Phía trước hàng cây này,
giữa một bãi cỏ xanh xung quanh rải rác mấy căn nhà nhỏ, có một nếp nhà cổ quét
vôi đỏ, trên nóc nhà ló ra nhiều ông khói lò sưởi lớn bị che kín dưới giàn lá
trường xuân, ánh nắng chiếu vào cửa sổ sáng lấp lánh.
Em hỏi: “Thưa cụ, kia là nhà thờ riêng của nhà
ta?”
- Phải, kệ mẹ nó! (cụ Pitt đáp vậy; chị ạ, lão
lại càng dùng những tiếng thô bỉ hơn trước): Này Hodson, Buty ra sao? Buty là
Bute, tên em tôi, cô ạ...lão mục sư em tôi ấy mà. Tôi thường gọi hắn là Buty,
là đồ con chó, ha! ha! .
Hodson cũng cười theo, rồi lấy vẻ mặt trầm ngâm
gật gù cái đầu nói: “Cháu sợ rằng ông ấy dạo này khá hơn, cụ Pitt ạ. Hôm qua,
ông ấy cưỡi con ngựa non ra đồng thăm lúa của chúng ta đấy”.
- Làm thế nào mà truất “mẹ” nó cái khoản thuế
thập phân của hắn đi (lão lại cứ dùng mãi cái tiếng thô bỉ ấy). Ma men chưa vật
chết hắn à. Hắn sông dai như cụ gì mấy nhỉ? À, cụ Bành tổ.
Ông Hodsonlại cười:
- Bọn thanh niên mới ở trường về nghỉ, họ đánh
John Scroggins một trận nhừ tử, suýt chết.
Cụ Pitt gầm lên:
- Đánh người phụ gác của tao!
Ông Hodson đáp:
- Anh ta săn trộm trong trại của ông mục sư,
thưa cụ.
Cụ Pitt phát điên lên, thề rằng hễ bao giờ bắt
được họ săn trộm trong phạm vi trại mình, lão sẽ bắt họ đi đầy; lão thề độc như
vậy. Rồi lão nói: “Tao đã bán quyền kế thừa cai quản rồi, Hodson ạ, bọn con cái
nó đừng có hy vọng”.
Ông Hodson bảo rằng lão nói chí phải. Nghe
chuyện, em đoán rằng hai anh em đang có hiềm khích...Anh em, chị em ruột thường
vẫn thế. Chị còn nhớ hai chị em cô Scratchleys ở Chiswick không? Họ cãi nhau,
đánh nhau cứ như cơm bữa và cô Mary Box đấm cô Louisa mới ghê chứ.
Vừa lúc ấy, thấy trong rừng có hai thằng bé con
đang nhặt củi khô, cụ Pitt ra lệnh cho ông Hodson nhảy tót xuống xe cầm một cái
roi xông tới. Lão nam tước hét: Hodson, quật đi; đánh mất mạng cho tao, rồi đem
chúng nó vào trong nhà kia, đồ mất dạy. Tao nhất định sẽ bỏ tù chúng nó chắc
chắn như tên tao là Pitt vậy? Em nghe thấy tiếng roi của ông Hodson quật vun
vút xuống vai mấy em bé đang gào khóc lạy van. Cụ Pitt thấy hai em bé đã bị
nhốt cẩn thận rồi mới đánh xe vào trong nhà.
Toàn thể gia nhân đã sẵn sàng đón chào chúng em
và…
Chị thân mến ạ, đêm qua đang viết dở lá thư cho
chị, thì có tiếng đập thình thình ở cửa, làm em phải ngừng bút; ai đấy, đố chị
đoán ra được? Cụ Pitt Crawley đội mũ ngủ, mặc áo ngủ, chết người không! Trông
thấy lão, em sợ quá lùi lại thì lão bước thẳng vào phòng, cầm lấy cây nến, nói:
“Cô Becky, quá mười một giờ, không được phép thắp nến. Tối cũng mặc, lên giường
mà ngủ đi, đồ nỡm non (lão gọi em như vậy đấy): nhớ kỹ, cứ đến mười một giờ thì
phải đi ngủ; nếu không đêm nào tôi cũng vào tắt nến đấy”. Nói xong, lão và bác
hầu phòng Horrocks vừa đi ra vừa cười. Dĩ nhiên em chẳng dám khuyến khích họ
đến thăm như vậy. Đêm đêm, họ thả rông hai con chó nòi to kếch xù; chúng rít và
sủa trăng suốt đêm qua. Lão Pitt bảo: “Tôi đặt tên con chó này là Gorer, nó đã
cắn chết một người; nó khỏe lắm, vật nổi cả bò tót, còn con mẹ tôi đặt tên là
Flora. Nhưng bây giờ tôi đổi tên nó là Aroarer, vì nó già quá rồi, không cắn
được nữa, Hô! Hô!”
Tòa nhà chính của trại Crawley Bà chúa là một
ngôi nhà cổlỗxây bằng gạch đỏ, trông thật đáng ghét, có những ống khói lò sưởi
to tướng, tường hồi xây theo kiểu thời nữ hoàng Bess. Trước nhà, có một cái nền
gạch, mé bên có dựng bức tượng con rắn và con bồ câu tiêu biểu cho gia đình;
mọi cửa lớn phòng khách đều nom ra sân. Ôi chao, chị ạ, phòng khách chính to
quá mà cũng tôi như gian phòng khách lớn trong lâu đài Udolpho ấy. Có một cái
lò sưởi kếch xù, giá ta nhét một nửa cái trường của bà Pinkerton vào cũng vừa;
chiếc giàn sắt cũng to, có thể dùng để quay ít nhất là một con bò cũng được.
Quanh phòng, treo la liệt hình vẽ các thế hệ của dòng họ Crawley, có người râu
ria xồm xoàm, cổ đeo đăng-ten hoa; có người đeo bộ tóc giả rậm rạp, ngón chân
cái thò ra ngoài giày; có người mặc bộ áo chèn và áo ngoài dài lượt thượt và
cứng nhắc, trông ngay đườn đưỡn như cái cột, có người tóc uốn xoăn lại thành
từng chùm nhỏ và dài; chị ạ, cuối phòng có cái cầu thang lớn bằng gỗ sồi đen,
trông đến sợ. Hai bên có nhiều cửa lớn, phía trên mỗi cửa có treo một cái đầu
hươu. Những cửa này mở sang gian phòng chơi bi-a, phòng sách, phòng khách lớn
sơn vàng, và những căn phòng phụ dùng ngồi chơi buổi sáng. Em đoán dưới nhà
phải có ít nhất là ba chục phòng ngủ. Nữ hoàng Elizabeth đã từng ngủ trên một
cái giường ở đây. Sáng nay, mấy cô học trò mới của em đã dẫn em đi xem qua tất
cả những căn phòng đẹp đẽ ấy.
Màn cửa buông im ỉm, phòng nào cũng tối om,
Bước vào phòng nào, em cũng sợ phải nhìn thấy một cái bóng ma lù lù hiện ra,
lúc có ánh sáng soi vào. Phòng học của chúng em ở tầng hai, một đầu ăn thông
sang phòng ngủ của em, một đầu ăn thông sang phòng ngủ của hai cô con gái ông
chủ. Rồi đến những gian phòng riêng của ông Pitt, thường gọi là ông Crawley,
tức là con trai cả, rồi đến những gian phòng riêng của ông Rawdon Crawley...ông
này cũng là một sĩ quan như người ta, thường sống trong trại lính. Ở đây thì không
thiếu buồng, giá tất cả mọi người ở công viên Russell dọn đến cũng vẫn còn thừa
chỗ.
Em đến độ nửa giờ, thì chuông báo giờ ăn bắt
đầu điểm.
Em cùng hai đứa học trò xuống nhà (chúng gầy
nhom, hai con nhóc con mặt mũi chẳng ra sao, đứa lên mười đứa lên tám). Em vận
chiếc áo lụa quý báu của chị (mà con mẹ Pinner đáng ghét cứ hằn học mãi vì chị
cho em). Họ coi em như người trong gia đình, trừ những ngày tiếp khách, khi ấy
em và hai cô tiểu thư ăn ở trên gác. Vâng, đã nghe tiếng chiếc chuông to báo
giờ ăn điểm; chúng em tề tựu đủ mặt trong gian phòng khách, chỗ Crawley phu
nhân đang ngồi. Bà này là bà
hai, mẹ đẻ ra hai cô con gái. Bà là con gái một nhà buôn sắt, cuộc hôn nhân này
hồi ấy được coi là môn đăng hộ đối lắm.
Nom bà ta thì hình như xưa kia cũng đẹp, mà đôi mắt hình như đã khóc nhiều
vì sắc đẹp tàn tạ của mình. Người bà ta gầy, nước da tai tái; hai vai dô cao
lên; lúc nào bà ta cũng im lặng. Còn chồng của bà là ông Crawley cũng có mặt
trong phòng, ăn mặc chỉnh tề, trông long trọng như một ông chủ cho thuê đòn đám
ma. Ông ta người gầy, xấu trai, nước da cũng tái, ít nói; chân thì khẳng kheo,
ngực lép kẹp, râu tóc một màu xám xịt như màu rơm khô. Trông ông ta giống hệt
bà mẹ trong bức tranh treo trên lò sưởi...tức là bà Griselda trong gia đình
Binkie.
Crawley phu nhân bước lên cầm lấy tay em, nói:
- Anh Crawley ạ, đây là cô giáo mới đấy, gọi là cô Sharp.
- Ô!
Ông Crawley vừa nói vừa vươn cổ ra nhìn, rồi lại cúi xuống đọc một bài xã
thuyết. Crawley phu nhân lại nói, đôi mắt trông như lúc nào cũng đẫm lệ.
- Tôi mong rằng cô sẽ dịu dàng đối với các em.
Cô con gái lớn nói:
- Kìa, má, dĩ nhiên cô ấy dịu dàng. Con chỉ nhìn thoáng qua cũng đủ biết cô
này không đáng sợ.
- Thưa phu nhân, bữa ăn đã dọn xong.
Anh hầu vào báo; anh ta mặc toàn đồ đen, cổ quấn một cái đăng ten hoa to
tướng, trông giông như cái đăng-ten hoa ở cổng hoàng Elizabeth trong bức tranh
treo ngoài gian phòng lớn. Phu nhân cầm tay ông Crawley dẫn đầu đi sang phòng
ăn; còn em đi sau, hai tay dắt hai cô học trò.
Cụ Pitt đã ngồi sẵn ở đó, tay cầm một cái cốc bạc. Lão vừa mới ở trong hầm
rượu ra, cũng ăn mặc rất chỉnh tề, nghĩa là lão đã cởi bỏ đôi ủng, để lộ đôi
chân ngắn ngủn đi bí tất len đen. Mặt bàn bày la liệt đĩa cổ, đĩa hoa quả cổ,
bình đựng dấm cổ, bằng vàng có, bằng bạc có, sáng choang trông y như trong cửa
hiệu Rundell và Bridge vậy. Mọi thứ trên bàn ăn đều bằng bạc, hai bên bàn có
hái thằng hầu, tóc đỏ bận chế phục màu vàng thanh, đứng túc trực.
Ông Crawley đọc một đoạn kinh dài, cụ Pitt nói “A men”. Người nhà bắt đầu
nhấc những cái vung lớn bằng bạc úp trên các đĩa ăn đem đi.
Lão nam tước nói:
- Betsy, hôm nay có cái gì ăn thế?
Crawley phu nhân đáp:
- Hình như có cháo thịt cừu, ông ạ.
Anh hầu bàn trịnh trọng đáp:
- Mouton aux navets (xin các bạn đọc là mu-tông-ô-na-vê); món súp thì có
potage de mouton à l’Écossaise. Các món phụ gồm pommes de terre au naturel và
choufleur à l’eau ().
Lão nam tước đáp:
- Thịt cừu vẫn là thịt cừu; ngon tuyệt đấy a. Horrocks, con cừu nào đấy,
thịt bao giờ?
- Bẩm cụ, thịt một con cừu mặt đen, giống Scotch. Chúng con thịt hôm thứ ba.
- Có ai mua miếng nào không?
- Bẩm cụ, lão Steel ở Mudbury lấy cái thân và
hai đùi; nhưng bẩm cụ, hắn bảo rằng con này non quá, chỉ được cái nhiều lông,
thịt gầy lắm.
Ông Crawley nói:
- Mời cô dùng một chút súp...cô...à, cô
Blunt.()
Cụ Pít nói:
- Món cháo Scotch ngon tuyệt, cô ạ, tuy rằng họ
đặt tên bằng tiếng Pháp.
Ông Crawley kiêu ngạo đáp:
- Thưa ba, con tin rằng trong giới thượng lưu
vẫn có phong tục đặt tên các món ăn như ta vừa gọi.
Hai tên hầu mặc áo vàng bưng món “mouton aux
navets” ra đựng trong những đĩa ăn súp bằng bạc. Đoạn bọn con gái chúng em được
uống rượu bia pha nước lã đựng trong cốc uống vang. Em không sành về rượu bia,
nhưng có điều chắc chắn là em thích uống nước lã hơn. Trong khi đang ăn, cụ
Pitt tìm dịp hỏi về mấy cái vai cừu. Bà vợ đáp:
- Có lẽ dưới nhà bếp họ ăn rồi.
- Cái con lợn đen nhớn nòi xứ Kent bây giờ chắc
béo lắm đấy nhỉ?
- Bẩm cụ, béo múp míp.
Bác quản lý trả lời rất trịnh trọng: nghe nói,
cụ Pitt và cả hai cô con gái cũng cười rũ rượi.
Ông Crawley nói:
- Cô Crawley, Rose Crawley, tôi không hài lòng
vì cái cười rất không đúng chỗ của cô.
Lão nam tước đáp:
- Đừng để ý đến chuyện ấy, ngài ơi; thứ bảy, ta
sẽ hỏi thằng chăn lợn xem thế nào. John Horrocks, sáng thứ bảy giết một con,
nghe. Cô Sharp thích ăn thịt lợn phải không cô.
Em nhớ rằng suốt bữa ăn, câu chuyện quanh quẩn
chỉ có thế. Ăn xong, họ đặt trước mặt cụ Pitt một cốc lớn nước nóng, và một
chai…hình như rượu rum thì phải. Bác Horrocks rót cho em và hai cô con gái mấy
cốc rượu vang: phu nhân cũng dùng một cốc đầy. Lúc chúng em rời khỏi phòng ăn,
phu nhân lấy trong ngăn kéo ra một mảnh len đan to tướng dài vô tận; còn hai cô
con gái bắt đầu giở một cỗ bài “xì” cáu ghét ra chơi với nhau. Chỉ thắp có mỗi
một ngọn nến nhưng cắm trên một cái giá nến cổ bằng bạc. Phu nhân hỏi em vài
câu chuyện sau đó em có quyền lựa chọn cách giải trí, hoặc đọc một cuốn sách
giảng đạo, hoặc đọc bài xã thuyết về đạo luật đánh thuế lúa mì mà ông Crawley
đọc trước bữa ăn.
Chúng em cứ ngồi thế đến một tiếng đồng hồ, cho
tới khi nghe có tiếng chân bước. Phu nhân hốt hoảng nói:
- Cất bài đi, các cô. Cô Sharp, bỏ quyển sách
của Crawley xuống.
Vừa cất xong các thứ thì ông Crawley bước vào,
ông ta nói:
- Này, hai cô. Ta tiếp tục cuộc thảo luận hôm
qua chứ. Lần lượt mỗi cô sẽ đọc một trang, để cho cô...a, cô Short có dịp nghe
xem thế nào.
Thế là hai cô gái đáng thương phải đánh vần nốt
bài giảng đạo ghê gớm dài dằng dặc đọc ở nhà thờ Bethesda ở Liverpool, bài văn
này biện hộ cho việc truyền giáo cho những người Inđiên ở Chickasaw. Chị xem,
một buổi tối như thế có thú vị không?
Đến mười giờ, phu nhân sai bọn đày tớ mời cụ
Pitt và toàn bộ gia nhân đi cầu kinh. Cụ Pitít bước vào đầu tiên, mặt đỏ tía
dáng đi hơi chếnh choáng. Sau cụ là bác quản lý, hai thằng hầu mặc áo vàng,
người hầu riêng của ông Crawley, ba người nữa sặc mùi phân ngựa, và bốn người
đàn bà....trong số này có một người mặc quá nhiều quần áo, lúc khuỵu đầu gối
xuống lễ cứ gườm gườm nhìn em như nhìn kẻ thù.
Ông Crawley diễn thuyết và giải thích một hồi,
đoạn chúng em cầm nến đi ngủ. Thế là sau đó em ngồi viết thư cho chị và bị cản
trở như chị đã rõ, chị Amelia thân yêu ạ.
Chúc chị ngon giấc. Hôn chị hàng nghìn, hàng
nghìn, hàng nghìn lần.
Thứ bẩy - Sáng nay, lúc năm giờ, em nghe tiếng
con lợn đen con kêu rống lên. Hôm qua Rose và Violet đã dẫn em ra xem chuồng
lợn, chuồng ngựa, cũi chó, rồi đi thăm người làm vườn; bác này đang hái quả
mang ra chợ bán; hai cô con gái cứ nằn nì xin một chùm nho trồng trong “nhà
cây”, nhưng bác làm vườn bảo cụ Pitt đã đếm từng quả rồi; bác mà cho ai quả nào
thì cứ gọi là mất việc.
Hai cô con gái vớ được một con ngựa non trên
bãi cỏ, hỏi em có muốn cưỡi không, rồi cả hai leo lên cưỡi ngựa, thằng bồi ngựa
vội kêu ầm lên chạy đến kéo hai đứa đi.
Lúc nào cũng thấy Crawley phu nhân ngồi đan
len. Đêm nào cụ Pitt cũng say mèm; hình như cụ uống tay đôi với bác quản lý
Horrocks thì phải. Tối nào ông Crawley cũng đọc kinh, và sáng ra thì hoặc ở tịt
trong phòng riêng, hoặc cưỡi ngựa đi Mudbury lo công việc hàng quận, vào những
ngày thứ tư và thứ năm, ông ta hay đi Squashmore để giảng đạo cho bọn tá điền.
Em xin gửi lời kính chúc hai bác, ông anh của
chị đã khỏi say rượu chưa. Ôi, chị thân mến, chị thân mến ơi! Đàn ông phải hết
sức tránh xa rượu chè lắm lắm đấy!
Mãi mãi là em của chị Rebecca.
Xét cho cùng thì tôi nghĩ rằng cô Amelia của
chúng ta ở công viên Russell phải ly biệt cùng cô Sharp, lại là một việc tốt.
Rebecca là người rất kỳ lạ, buồn cười. Cái cách cô ta kể chuyện bà nam tước
đáng thương khóc lóc vì sắc đẹp tàn tạ, và chuyện ông con trai có bộ “râu tóc
xám xịt màu rơm” thật giỏi, chứng tỏ nhất định cô ta phải rất thạo đời.
Nguyên một việc đang quỳ mà cô ta còn nghe được
những chuyện khác hay ho hơn là mấy cái dải đăng ten của cô Horrocks, cũng đủ
bắt cả tôi và bạn ngạc nhiên. Song cũng yêu cầu bạn đọc nhớ cho rằng chuyện này
có tên là Hội chợ phù hoa; mà Hội chợ phù hoa thì chính là một nơi toàn những
chuyện ngu xuẩn, vô nghĩa lý, toàn những chuyện giả dối huênh hoang. Trong khi
ấy nhà đạo đức đứng trước tấm màn sân khấu (đúng là hình ảnh của kẻ hèn này)
còn đang tuyên bố rằng nhất định không chịu đội mũ đi hia, mà vẫn chỉ mặc bộ áo
nhà nghề có hai tai dài của người làm trò hề; song các bạn thấy không, người ta
nhìn thấy sự thật thế nào, bắt buộc phải nói y như vậy, dầu phải khoác tấm áo
choàng có đính nhạc, hay được đội mũ vành vểnh lên của quan lớn; và dĩ nhiên,
việc ấy sẽ đẻ ra lắm chuyện khó chịu.
Tôi nghe nói có một anh ở tỉnh Naples chuyên
nghề kể chuyện rong, một bữa thao thao bất tuyệt trước một đám đông thính giả
lười biếng vô tích sự gần bờ biển; đang kể chuyện mấy con người quá tồi tệ, anh
ta bỗng nổi khùng với đám nhân vật mình bịa ra, đến nỗi cử tọa cũng không nhịn
được; và cả diễn giả, cả thính giả cùng lên tiếng ầm ĩ chửi rủa cái con quỷ dữ
trong chuyện; thế rồi chiếc mũ đi vòng quanh trước mặt mọi người, và những đồng
bajochi mưa xuống tới tấp, giữa tiếng cười tán thưởng của tất cả công chúng.
Trái lại, ở những nhà hát nhỏ tại Paris không
những chúng ta chỉ nghe thấy khán giả hét: “A, thằng đểu?A, đồ quỷ!”() và ngồi
ngay tại chỗ chửi rủa vai bạo chúa trên sân khấu; mà ngay cả các diễn viên cũng
nhất định từ chối không chịu sắm những vai “phản diện”, thí dụ đóng vai “những
tên người Anh đểu giả”() những tên “Cossacks tàn nhẫn” chẳng hạn, và còn gì
nữa? Thà chịu rút lương mà được sắm vai những người dân Pháp trung thực, họ
cũng thích.
Tôi nêu lại hai câu chuyện song song để các bạn
đọc thấy rằng không phải vì mục đích lý tài mà kẻ thủ vở này đang muốn trình
bày những nhân vật tồi tệ để vùi dập họ. Chính vì hắn ta thực tâm khinh ghét
chúng, không thể nhịn được, đành phải dùng những lời thô tiếng nặng thích hợp
để cho dịu bớt nỗi căm chất chứa trong lòng.
Tôi xin báo để các “bạn quý” biết trước rằng
tôi sắp kể một câu chuyện xấu xa đau lòng và cũng là một tội ác phức tạp...
song, tôi tin rằng chuyện cũng khá lý thú. Xin cam đoan rằng bọn lưu manh này
không phải là những tay “mèng”. Đi đến những chỗ sang trọng ta cũng phải biết
ăn nói lịch sự... nhưng khi đã trở về những nơi thôn quê lặng lẽ thì ta nên yên
lặng. Trong một cái thùng giặt, mà lại có bão táp thì thực là vô lý. Những
chuyện ấy ta để dành cho đại dương hùng vĩ và đêm tối quạnh hiu. Tấu trò sắp
diễn đây cũng chỉ rất nhẹ nhàng. Những kẻ khác...
Song ta không nên nói trước.
Khi đưa các nhân vật ra trò với tư cách là một
con người, và một người anh em trong nghề, tôi xin phép không những chỉ giới
thiệu họ mà còn thỉnh thoảng được rời sân khấu bước xuống dẫn giải thêm vài lời
về họ; nếu họ tốt, xin được phép yêu mến và bắt tay họ; nếu họ tồi, xin được
phép che tay áo mà cười; còn nếu chúng đểu quá thì xin được dùng những tiếng
thô bạo nhất mà sự lễ độ có thể cho phép để chửi vào mặt chúng.
Ngoài ra chắc các bạn tưởng rằng chính tôi đã
phì cười trước cảnh cầu kinh mà cô Sharp cũng cảm thấy là hài hước, cũng chính
tôi phải cười cợt một cách thú vị trước hình ảnh lão nam tước già nua lảo đảo
say mèm như Silenus ().Thế mà người cười lại là một kẻ không biết kính trọng
điều gì ngoài sự giàu có. Không biết nể nang cái gì ngoài sự thành công. Sống
và làm ăn phát đạt trong cuộc đời là những con người có tên là...Vô tín ngưỡng,
Vô hy vọng, Vô từ tâm. Các bạn thân mến ơi, ta phải ráng hết sức mà choảng cho
chúng một trận. Bọn chúng vô khối thằng làm nên khá giả mà thực ra chỉ là bọn
lang băm và làm trò hề. Chính trong khi đấu tranh với chúng và lột mặt nạ bọn
chúng mà chúng ta được một mẻ cười đấy.
Chương 9
NHỮNG NHÂN VẬT TRONG GIA ĐÌNH
Tôn ông Pitt Crawley là một triết gia, có
khuynh hướng về cái gọi là tầng lớp hạ lưu. Lần thứ nhất lão làm bạn với con
gái nhà quý tộc Binkie là do cha mẹ lựa chọn.
Đúng như lão vẫn thường nói khi vợ còn sống, mụ
này thật là một con mẹ ranh thượng lưu đanh đá đáng ghét, đến nỗi giá mụ chết,
thì lão thà bị treo cổ còn hơn vớ được một mụ vợ thứ hai cũng là con nhà nòi
như thế, quả nhiên sau khi mụ vợ về chầu giời, lão giữ đúng lời hứa, chọn ngay
cô Rose Dawson làm vợ kế, cô này là con gái ông John Thomas Dawson, buôn sắt Ở
Mudbury. Được bước lên địa vị Crawley phu nhân, cô Rosa thật là một người đàn
bà sung sướng!
Ta hãy xem hạnh phúc của cô có những chi tiết
gì. Đầu tiên, cô bỏ rơi anh chàng Peter Butt, chàng tình nhân trẻ tuổi; bị thất
tình, anh này đâm ra buôn lậu, đi săn bắn trộm, và làm hàng nghìn việc bậy bạ
khác. Rồi cô lại xích mích với tất cả đám bạn bè hồi còn con gái - vì nhiệm vụ
bắt phải thế. Crawley phu nhân làm sao có thể hạ mình tiếp đãi bọn này được...
mà chính cô cũng không thể tìm thấy trong giới thượng lưu mình mới bước vào một
người nào chịu vồ vập trọng vọng cô. Đời nào người ta chịu làm thế? Ngài Huddleston
có ba cô con gái; cả ba cùng hy vọng trở thành Crawley phu nhân. Tôn ông Giles
Wapshot tự coi là bị sỉ nhục vì con gái của gia đình Wapshot không được lựa
chọn; các vị nam tước khác trong quận cũng rất công phẫn trước cuộc hôn nhân
thiếu đăng đối () của bạn họ. Còn bọn thường dân thì ta không cần chú ý, mặc họ
thì thào gièm pha vụng trộm với nhau.
Tôn ông Pitt vẫn thường nói lão “đếch cần” bất
cứ đứa nào trong bọn ấy. Lão vớ được cô Rosa xinh xắn, thế là đủ; mà khi người
đàn ông đã được thỏa mãn sở thích thì còn cần gì hơn? Bởi thế, đêm nào lão cũng
nốc rượu vang, để thỉnh thoảng lại đánh cô Rosa xinh đẹp của lão một trận, để
bỏ mặc cô ở Hampshire lẻ loi trong cuộc đời mông mênh, không một ai bè bạn mỗi
khi lão đi Luân-đôn nhân dịp họp Quốc hội. Ngay đến bà Bute Crawley là vợ viên
mục sư cũng không thèm đến thăm cô; bà ta bảo rằng không đời nào chịu hạ mình
đến chơi với con gái một lão nhà buôn.
Cô chỉ được tạo hóa ban cho cái lộc duy nhất là
đôi má hồng và nước da trắng, ngoài ra không có được tính tình gì đặc biệt; cô
không có tài năng, kém trí tuệ, lại vô công rồi nghề, không biết giải trí là
gì, mà cũng không có cả cái tính đanh đá, nanh nọc thường thấy ở những người
đàn bà hoàn toàn ngu độn; bởi thế cô vợ kế cũng không giữ chặt được cảm tình của
cụ Pitt mấy tý. Đẻ được hai đứa con, thì đôi má cũng nhạt màu hồng, nước da
cũng bớt vẻ tươi, cô trở thành một cái máy không hơn không kém trong gia đình
nhà chồng, không khác gì cây đàn dương cầm của Crawley phu nhân đã quá cố.
Cô có nước da sáng nên hay bận áo màu nhạt
giống như đa số những người đàn bà tóc vàng khác; cô ưa mặc kiểu áo dài màu
xanh nước biển, hoặc màu thanh thiên.
Đêm ngày, lúc nào cũng thấy cô ngồi đan len,
hoặc làm một công việc khác tương tự; chỉ trong có ít năm mà cô đã đan được cho
mỗi chiếc giương ở trại Crawley một cái khăn trải giương. Cô lại có riêng một
mảnh vườn nhỏ mà hình như cô rất thích; nhưng ngoài mảnh vườn đó ra, cô chẳng
còn biết yêu, biết ghét cái gì khác. Khi bị chồng đối xử thô bạo, cô cứ ỳ ra;
lúc nào bị chồng đánh thì chỉ khóc. Cô cũng không đủ bạo gan để uống rượu cho
khuây khỏa, suốt ngày chỉ đi lang thang trong nhà mà rên rỉ, chân đi đôi giầy
vẹt gót, trên đầu đầy những cặp giấy uốn tóc quăn. Ôi! Hội chợ phù hoa! Hội chợ
phù hoa! Có thể xưa kia cô ta là một thiếu nữ nhí nhảnh; Peter Butt và Rosa rất
có thể là một đôi vợ chồng hạnh phúc sống trong một cái trại ấm cúng, trong một
khung cảnh gia đình thân mật, và cùng chung sức vật lộn với cuộc sống, cùng
chung hưởng phần vui thú, lo lắng, hy vọng với nhau. Song trong Hội chợ phù
hoa, một địa vị và một cái xe tứ mã vẫn là những thứ đồ chơi quý báu hơn là
hạnh phúc. Giả thử Harry đệ bát hoặc Con yêu Râu xanh còn sống đến bây giờ và
muốn lấy đến người vợ thứ mười, các bạn có cho rằng hắn không thể nào cưới nổi
người con gái đẹp nhất được vào chầu trong Hoàng cung kỳ này không?
Chúng ta đoán ra cũng biết rằng hai cô con gái
cũng không lấy gì làm ưa lắm cái tính đần độn lỳ xỳ của mẹ. Chúng thích la cà
trong đám đầy tớ và ở ngoài chuồng ngựa hơn. May sáo, bác làm vườn người xứ
Scotch lại có một người vợ tốt và mấy đứa con rất ngoan, cho nên chúng cũng
được gần gũi những người đứng đắn và cũng được dạy dỗ tử tế, trước khi cô Sharp
tới, đấy là nền giáo dục duy nhất chúng được thụ hưởng.
Việc mượn cô Sharp là do sự phản kháng của
Crawley, người bạn và người che chở duy nhất của Crawley phu nhân () và người
duy nhất được người đàn bà này thấy có đôi chút cảm tình gắn bó, ngoài hai đứa
con gái của bà ta. Pitt Crawley mang dòng máu của gia đình quý tộc Binkie là họ
bên mẹ; anh ta là một nhà quý tộc rất có nhã độ và đường hoàng.
Khi đến tuổi trưởng thành, anh ta rời trường
đại học của Nhà chung về nhà, và bắt đầu chấn chỉnh lại cái trật tự bị lỏng lẻo
trong gia đình, bất kể ý kiến của bố, mà lão bố thì rất nể con trai. Tính anh
ta kiểu cách đến mức máy móc, thà chịu chết đói chứ không bao giờ dùng bữa mà
thiếu chiếc cà vạt quàng ở cổ. Có một lần vừa ở trường về, bác quản lý Horrocks
đưa cho anh ta một lá thư, nhưng quên không đặt vào một cái khay; anh ta trừng
mắt nhìn Horrocks, mắng cho một trận mất mặt, đến nỗi về sau cứ đứng trước mặt
anh ta là Horrocks đã run rồi. Cả nhà đều phải cúi mình trước anh ta. Bữa nào
anh ta ở nhà, thì Crawley phu nhân phải cất những cặp giấy uốn tóc trên đầu đi
sớm hơn thường lệ: đôi ghệt lấm bùn bê bết của cụ Pitt cũng biến mất. Tuy cái
lão già xấu tính ấy vẫn chưa chừa hết mọi thói hư cũ, nhưng ít nhất trước mặt
con trai, lão cũng không dám nốc rượu rum pha nước lã bí tỷ, và khi sai bảo gia
nhân cũng phải ăn nói dè dặt, lịch sự hơn. Bọn đầy tớ cũng nhận thấy rằng nếu
anh con trai có mặt trong phòng, thì lão Pitt không bao giờ văng tục với
Crawley phu nhân.
Chính anh ta đã dạy bác quản lý nói: “Bẩm phu
nhân, bữa ăn đã dọn”, và chính anh ta đã nhất định đòi khoác cánh tay phu nhân
đi sang phòng ăn. Ít khi anh ta nói chuyện với bà này, nhưng hễ đã nói thì bao
giờ cũng rất đường hoàng lễ độ; không bao giờ anh ta chịu để bà rời khỏi phòng
mà không đứng dậy một cách rất là đường hoàng để tự tay mở cửa, và cúi chào một
cách vô cùng lịch. Ở trường trung học Eton, bạn bè gọi anh ta là “cô Crawley”;
và tôi cũng rất buồn rầu mà thưa rằng ở trường, anh ta bị em giai là Rawdon
đánh luôn rất đau. Sức học thì không được xuất sắc nhưng bù vào chỗ thiếu tài,
anh ta có cái nết cần cù kéo lại suốt tám năm học trong trường, chưa hề bao giờ
anh ta bị phạt, điều ta thường nghĩ khó lòng một anh học trò nào thoát khỏi.
Lên đại học, dĩ nhiên anh ta được chú ý. Ở đây
anh ta đã sửa soạn bước vào xã hội thượng lưu, và được ông ngoại là bá tước
Binkie hướng dẫn và che chở. Anh ta rất chăm chỉ học khoa hùng biện lối cổ và
lối mới; trong những cuộc hội họp thảo luận, anh ta rất chịu khó phát biểu.
Cách ăn nói thì khá lưu loát, chải chuốt; giọng nói tuy nhỏ nhẻ, nhung anh ta
cũng rất thú vị khi được ăn nói kiểu cách; có điều bao giờ ý kiến anh ta phát
biểu cũng hoàn toàn cũ rích nhạt phèo và phải đèo thêm một quyến rũ chứng bằng
tiếng Latinh mới xong. Ấy thế mà anh ta vẫn cứ thất bại như thường, không rõ
tại sao, mặc dù cái lối tầm thường mà anh ta dùng, lẽ ra phải đưa bất cứ người
nào đến thành công mới đúng. Bè bạn đều bảo rằng anh ta nắm chắc phần thưởng về
thơ trong tay, thế mà cũng cứ hỏng. Ra khỏi trường đại học, anh ta làm thư ký
riêng cho bá tước Binkie, sau được bổ làm tùy viên đại sứ quán ở Pumpernickel.
Anh ta thực hiện nhiệm vụ này một cách xứng đáng, rất thăm gửi về cho ngài Tổng
trưởng Ngoại giao đương thời những tin tức về món pa-tê của tỉnh Strasburg. Sau
mười năm trời giữ chức vụ tùy viên sứ quán (nghĩa là sau ngày bá tước Binkie tạ
thế khá lâu), anh ta thấy việc thăng thưởng của mình quá chậm, bèn khinh bỉ mà
rời khỏi trường ngoại giao, và trở về sống cuộc đời một nhà quý tộc thôn quê.
Khi về nước Anh, anh ta có viết một bài xã
thuyết về đảo Malt (vốn có nhiều tham vọng, anh ta đưa ra mắt công chúng), và
tham dự một phần quan trọng trong vấn đề giải phóng người đa đen. Về sau, anh
ta trở thành bạn của ông Wilberforce là người được anh ta rất kính phục về quan
điểm chính trị. Anh ta được nổi tiếng nhân việc trao đổi thư từ với linh mục
Silas Hornblower về phái đoàn truyền giáo Ashantee. Mỗi năm anh ta đều có mặt ở
Luân-đôn, nếu không phải trong thời kỳ Quốc hội họp, thì ít nhất cũng là về
tháng năm, khi có những buổi hội nghị tôn giáo ở thôn quê anh ta là một quan
tòa, thường đi lại thăm hỏi và thuyết giáo cho cái đám người thiếu nền giáo dục
của nhà thờ. Người ta đồn rằng anh ta đã tán tỉnh công nương Jane Sheepshanks
là con gái thứ ba của công tước Southdown; cô này có cô chị là công nương
Emily, tác giả mấy cuốn truyện: “Cái kim chỉ nam của người thủy thủ” và “Người đàn
bà bán táo ở Finchley”.
Cô Sharp không cốt vẽ một bức tranh khôi hài
khi miêu tả những cảnh xảy ra ở trại Crawley Bà chúa đâu. Crawley bắt buộc bọn
đầy tớ phải lễ bái kính Chúa, và (cũng may thay) bắt cả ông bố phải làm theo.
Anh ta chủ tọa một nhóm giáo hữu độc lập ở xứ đạo Crawley; ông chú mục sư bực
mình lắm, nhưng ông bố lại rất thú. Có đâu một hai lần cụ Pitt đích thân tới
dự; việc này khiến cho tại nhà thờ xứ đạo Crawley nổ ra mấy bài giảng đạo cổ lỗ
kiểu gô-tíc của lão nam tước già. Thực ra, cụ Pitt thực thà nhà ta có đủ sức
chịu đựng nổi những bài diễn văn đó đâu; thường thường suốt giờ giảng đạo lão
ngồi ngủ gật.
Crawley quan tâm đến hạnh phúc của dân tộc và
của cái giáo hữu Gia-tô giáo đến mức chỉ mong ông bố nhường lại cho mình chân
nghị sĩ ở Quốc hội; nhưng ông lão vẫn không muốn. Dĩ nhiên cả hai bố con cùng
khôn cả; họ tính toán rằng không dại gì mà bỏ món tiền một nghìn rưởi đồng được
hưởng hàng năm là tiền bán chân nghị sĩ thứ hai (ông Quadroon vẫn giữ chân nghị
sĩ này, lại kèm theo quyền tự do hoạt động về vấn đề buôn nô lệ). Quả thật là
tình trạng tài sản của gia đình cũng đang gặp hồi lúng túng, số thu hoạch nói
trên của thị trấn cũng rất cần thiết cho việc chi tiêu ở Crawley Bà chúa. Món
tiền phạt quá nặng mà Walpole Crawley, đệ nhất nam tước, phải nộp vì tội thụt
két hồi còn làm việc tại văn phòng cơ mật viện vẫn chưa thu lại được đủ. Ngài
Walpole xưa là người ham thú vui, tiêu tiền như rác (alieni appetens, sui
profusus () Crawley thường nhắc, và thở dài); sinh thời, ông ta vẫn được khắp
quận yêu mến vì tính rượu chè be bét và tính hào phóng sẵn sàng tiếp đãi mọi
người ở Crawley Bà chúa. Hồi đó, hầm rượu của gia đình đầy những rượu vang đỏ
burgundy, trong nhà lại nuôi rất nhiều chó săn và ngựa để cưỡi đi săn. Trong
trại Crawley Bà chúa, bây giờ ngựa phải đi cày, hay kéo chiếc xe ngựa
Trafangar; bữa cô Sharp về đây, cô đã đi chiếc xe do một đôi ngựa nuôi trong
trại kéo. Lão Pitt tuy thô tục thật, nhưng ở địa phương lão lại là người rất
chú ý bảo vệ giá trị của mình, ít khi lão đi ra ngoài mà không dùng xe tứ mã;
và lúc ăn cơm bao giờ cũng phải có ba thằng hầu đứng túc trực, dầu bữa ăn chỉ
có thịt cừu luộc. Nếu chỉ cần hà tiện mà đủ giầu, thì cụ Pitt rất có thể đã
giầu nứt đố đổ vách... nếu chỉ là một ông thầy kiện tỉnh lẻ, vốn liếng không
ngoài bộ óc, thì rất có thể lão đã dùng bộ óc ấy mà kiếm được khối lời, và cũng
có thể nhờ đó mà có uy tín ảnh hưởng lớn. (Nhưng không may, lão lại là con nhà
dòng dõi và có một gia sản lớn tuy đang gặp khó khăn; cả hai thứ đã chẳng giúp
ích cho lão thì chớ, lại làm hại lão. Tính lão ưa chuyện kiện tụng, mỗi năm tốn
phí vào đó tới hàng mấy ngàn đồng. Lão vẫn thường cho là mình rất khôn ngoan,
không bao giờ chịu bị bọn thầy kiện tầm thường bịt mắt, nên lão cứ giao tất cả
công việc kiện cáo cho đến một tá bọn thư lại trung gian lo hộ, mặc dầu lão
chẳng tin cậy anh nào. Là một điền chủ sắc sảo, nhưng lão toàn vớ phải bọn tá
điền vỡ nợ; lão vốn là một người làm ruộng hà tiện, chỉ vãi hạt giống xuống đất
một cách bất đắc dĩ mới cho lão thu hoạch, trong khi mùa màng của những chủ
trại biết hào phóng khác lại rất tốt. Lão lại còn kinh doanh nhiều việc khác;
làm mỏ, mua cổ phần kênh đào, nuôi ngựa kéo xe thuê, ký hợp đồng với chính phủ,
tóm lại lão là tay kinh doanh quan trọng nhất trong quận.
Lão thuê những người lương thiện làm việc khai
thác đá gra-nit nhưng không chịu trả tiền công, vì vậy nên bốn người đốc công
bỏ trốn sang Mỹ, đem theo cả két bạc. Mỏ than của lão không được săn sóc chu
đáo, nước ngập hết; chính phủ ném trả lão tờ hợp đồng về việc tiêu thụ thịt bò
ôi, còn như về việc cho thuê ngựa kéo xe thì chủ xe trong cả nước đều biết lão
chết nhiều ngựa nhất, vì toàn là ngựa mua rẻ và cho ăn đói. Tính lão không kiêu
ngạo, trái lại rất bình dân. Có thể nói lão ưa trò chuyện với một bác nông dân
hoặc một tay lái ngựa hơn là tiếp đãi một nhà quý tộc giống như cái ông lớn con
trai của lão. Lão thích uống rượu, văng tục, và bỡn cợt với bọn con gái nông
dân.
Lão không hề cho ai một đồng trinh, hoặc làm
một việc phúc đức nào bao giờ, nhưng ai cũng biết lão sởi lởi, vui tính; lão có
thể hôm nay ngồi bỡn cợt và uống rượu với một tá điền, ngày mai đuổi cổ thẳng
cánh, hoặc có thể vẫn đùa cợt với người đã phạm tội săn trộm trong trại của lão
mà lão đang bắt đi đầy... đối với phụ nữ lão có nhã nhặn hay không, cứ xem cách
lão đối đãi với Rebecca cũng rõ. Tóm lại trong giới quý tộc và nghị sĩ toàn
nước Anh, không có một người nào xảo quyệt bần tiện, ích kỷ, ngu xuẩn, và nổi
tiếng xấu xa như lão. Bàn tay vấy máu của cụ Pitt Crawley chỉ thấy thọc vào túi
áo người khác, không bao giờ thọc vào túi áo của chính mình. Vậy nên chúng ta,
những người vẫn kính trọng giới quý tộc nước Anh, rất đau lòng mà bắt buộc phải
công nhận đủ ngần ấy thói xấu ở một người có tên ghi trong tập Debrett ().
Nguyên nhân quan trọng khiến cho Crawley được
bố vì nể là một vấn đề tiền nong. Số là lão nam tước nợ con trai một món tiền
lớn, đó là tiền riêng của mẹ anh ta để lại; lão không muốn trả nợ con, vì xưa
nay lão vẫn có tính thù ghét sự trả tiền cho bất cứ ai và chỉ khi nào bị cưỡng
bách thì lão mới chịu thanh toán nợ, Cô Sharp đã tính rằng (dưới đây chúng ta
sẽ thấy cô tìm được cách biết mọi việc bí mật của gia đình) nếu trả nợ thì mỗi
năm lão phải tốn hàng nghìn đồng. Nhưng lão không chịu bỏ mất sở thích của
mình: lão có cái thú man rợ là bắt bọn người khốn khổ đáng thương kia phải chờ
đợi; lão chạy khắp các tòa án tìm đủ mọi cách hoãn ngày trả tiền. Lão bảo: “Nếu
phải trả nợ thì người ta làm nghị sĩ Quốc hội để làm cái quái gì?” Vậy ra cái
cương vị thượng nghị sĩ quả thật có ích cho lão không phải ít.
Hội chợ phù hoa...Hội chợ phù hoa! Tại đây có
một thằng đọc không thông, cũng không chịu tập đọc... có những thói quen và
tính xảo quyệt của một thằng biển lận, suốt đời chỉ có một lẽ sống là đi lừa
vặt thiên hạ, chỉ biết đến những sở thích, những tình cảm, những thú vui bẩn
thỉu, bần tiện; vậy mà không rõ tại sao hắn có đủ cả địa vị, danh vọng và quyền
lực, lại là một bậc tai mặt trong xứ, một cây cột trụ của nhà nước? Hắn giữ địa
vị bảo an đại quan và đi xe ngựa mạ vàng. Các vị tổng trưởng và các chính khách
đều phải nịnh nọt hắn: và trong Hội chợ phù hoa hắn chiếm một địa vị cao hơn cả
những người tài năng lỗi lạc nhất, hoặc những người đạo đức trong sạch nhất.
Cụ Pitt có một người em gái khác mẹ không lấy
chồng; bà này thừa hưởng một gia sản của mẹ để lại. Lão nam tước đề nghị cầm
tài sản của mình cho em rể để vay món tiền ấy, nhưng bà Crawley () không thuận;
bà ưng giữ chặt số tiền hơn. Tuy nhiên, bà cũng đã ngỏ ý sẵn sàng chia gia tài
của bà cho đứa con trai thứ của cụ Pitt; cũng đã có một lần bà trả nợ cho
Rawdon Crawley hồi anh ta còn đi học cũng như khi anh ta nhập ngũ. Do đó, mỗi
khi đến thăm trại Crawley Bà chúa, bà Crawley được trọng vọng vô cùng.
Cái tài khoản kếch xù của bà ở nhà băng có thể
khiến bà đi bất cứ đâu cũng được người ta trọng vọng. Mới biết nhờ có cái tài
khoản ở nhà băng mà giá trị một bà quý tộc già được tăng thêm bao nhiêu phần?
Nếu bà ấy lại là một người thân trong gia đình (rất có thể mỗi độc giả cũng có
hàng nửa tá người thân như vậy đấy) thì những thói xấu của bà ấy đối với ta
cũng trở thành đáng yêu biết bao; thật là một bà cụ già nhân hậu tất bụng. Anh
chủ trẻ tuổi hãng Hobbs và Dobbs sẽ mỉm cười mà dẫn bà bước ra chiếc xe ngựa,
trên thành xe có sơn hình quả trám () và có một anh xà ích béo quay thở phì phà
phì phò! Rồi khi bà cụ đến thăm, ta lại có dịp giới thiệu địa vị của bà với bè
bạn. Chúng ta bảo thế này (mà cũng chí lý): ước gì bà MacWhirter ký cho một chữ
vào cái ngân phiếu năm ngàn đồng nhỉ”. Vợ chúng ta thêm: “Năm nghìn thì bà cụ
coi mùi gì”. Khi ông khách hỏi bạn rằng bà MacWhirter phải chăng có họ với gia
đình, bạn cứ điềm nhiên như không đáp: “Tôi gọi bà cụ bằng cô ruột đấy”. Vợ bạn
luôn luôn gửi quà cáp tặng bà cụ để tỏ tình quý mến; mấy đứa con gái bạn thì cứ
ra công mà đan những túi len, những mặt gối và những khăn ủ chân cho “bà cụ”.
Mỗi khi “bà cụ” đến thăm thì đốt ngay lửa thật
ấm trong lò sưởi, tuy rằng hàng ngày vợ bạn vẫn phải chịu lạnh mỗi khi thay áo!
Trong suốt thời gian “bà cụ” ở chơi, gia đình bận tíu tít, nhà cửa nom sạch sẽ,
ấm cúng, rộn ràng như có thết tiệc mà vào những ngày khác không bao giờ được
như vậy. Ngay chính bạn, ông bạn quý ơi, bạn cũng quên mất giấc ngủ trưa sau
bữa ăn, và đột nhiên thấy mình rất ham đánh bài (mặc dầu bạn thua luôn). Bạn ăn
cơm rất ngon...ngày nào cũng có thịt thú rừng; rượu Malmsey- Madeira, cá mua
tận Luân đôn mang về thì không bao giờ thiếu.
Cả bọn tôi tớ trong bếp cũng được dự phần hào
phóng: không rõ vì sao, trong thời gian anh xà ích béo của bà MacWhirter ở
chơi, rượu bia như nặng phân hơn ngày thường, và trong phòng đầy tớ (nơi chị
hầu gái ăn cơm), việc tiêu thụ trà và đường không hề bị nhòm ngó đến bao giờ.
Có đúng thế không, hay là sai? Tôi xin nhờ những tầng lớp trung lưu làm chứng
hộ. Ôi, hỡi những đấng thiêng liêng có từ tâm, ước gì các người ban cho tôi một
bà cô già, một bà cô ở vậy không có chồng...một bà cô có đủ cả xe ngựa có sơn
hình quả trám, và có bộ tóc màu cà phê nhạt...Các con tôi sẽ tha hồ đan túi len
cho bà cụ; cả Julia cùng tôi sẽ sẵn sàng hầu hạ bà cụ. Một viễn tưởng êm đẹp
làm sao. Song cũng là một giấc mơ hão huyền làm sao?
Chương 10
CÔ SHARP BẮT ĐẦU KẾT BẠN
Bây giờ cô Rebecca đã bắt đầu được công nhận là
người trong cái gia đình dễ thương có những nhân vật vừa giới thiệu ở chương
trên; vậy thì lẽ dĩ nhiên, cũng như lời cô nói, cô phải có bổn phận ăn ở tốt
với những vị ân nhân của mình, và phải cố gắng hết sức để được họ tin cậy.
Đức tính biết hàm ơn nơi một cô gái côi cút
không người che chở, ai không phải mến phục; và nếu trong sự tính toán của cô
ta có phần nào ích kỷ, ai dám bảo rằng khôn khéo như thế là vô lý? Cô gái trơ
trọi kia sẽ đáp : “Tôi bơ vơ một mình trong đời này; ngoài những thứ phải làm
việc mới được hưởng, tôi không còn hy vọng vào cái gì khác.
Con bé Amelia má đỏ kia làm gì có được lấy một
nửa cái khôn ngoan của tôi? Vậy mà nó có những một vạn đồng tiền vốn, tương lai
chắc chắn; còn con Rebecca đáng thương này (mặt tôi còn xinh hơn mặt nó nhiều
chứ) thì chỉ có thể trông mong vào trí thông minh của mình. Được lắm, để rồi
xem trí thông minh của tôi có thể đảm bảo cho tôi một đời sống đường hoàng hay
không; rồi sẽ có ngày tôi chứng tỏ cho con bé Amelia kia biết rằng tôi hơn hẳn
nó cho mà xem. Không phải là tôi ghét Amelia đâu: ai ghét bỏ được một con người
vô tội, tốt bụng như thế...Có điều tôi vẫn ước ao sao có ngày tôi chiếm được
một địa vị cao hơn nó trong đời, mà tại sao không thể được?” Cô bạn giầu trí
tưởng tượng của chúng ta đang xây dựng cho mình những mộng tưởng về tương lai
như vậy đấy... Việc gì chúng ta phải tức giận về chuyện trong những tòa lâu đài
xây trên cát của cô ta, người trú ngụ chính chỉ là một đức ông chồng?
Các cô thiếu nữ trẻ tuổi không tơ tưởng đến
chuyện chồng con thì còn nghĩ đến chuyện gì kia chứ? Hỏi rằng các bà mẹ của họ
còn lo chuyện gì khác nữa? Rebecca sẽ bảo: “Tôi phải tự mình làm mẹ lấy cho
mình”; đồng thời, nghĩ lại câu chuyện không may giữa cô và Joe Sedley, cô không
khỏi hơi thấy đau nhói trong lòng vì thất bại.
Cho nên cô bèn khôn ngoan quyết định sẽ củng cố
địa vị của mình cho vững vàng trong trại Crawley Bà chúa; nhằm mục đích ấy, cô quyết
tâm kết giao với bất cứ ai sống quanh mình mà có thể can thiệp vào đời sống của
cô ở đây.
Thấy Crawley phu nhân không thuộc loại này, hơn
nữa bà ta lại là người rất thụ động, không có chút cá tính gì, không có chút
ảnh hưởng gì trong gia đình, Rebecca thấy ngay mình không cần phải tranh thủ
cảm tình của bà...mà nói cho đúng cũng không thể tranh thủ được. Cô thường nói
chuyện với hai đứa học trò về “bà mẹ đáng thương” của chúng; đối với bà này cô
vẫn cư xử rất lễ độ song lạnh nhạt; cô chỉ đặc biệt quan tâm đến những người
còn lại trong gia đình.
Cô lấy được cảm tình của hai cô bé học trò rất
dễ; phương pháp cô dùng cũng rất đơn giản: không cần bắt chúng phải nhồi sọ quá
nhiều, trái lại, cứ để mặc chúng tha hồ muốn tự giáo dục ra sao tùy sở thích;
bởi vì còn có phương pháp tự học. Cô học trò lớn tính hay đọc truyện; trong cái
tủ sách cổ kính của trại Crawley Bà chúa có vô khối tiểu thuyết lăng nhăng xuất
bản từ thế kỷ trước, tiếng Anh có, tiếng Pháp có (hồi bị sa thải, ngài bí thư
văn phòng cơ mật viện đã mua khá nhiều) ; ngoài Rebecca cũng chẳng có ai rờ
đến, cho nên cô ta có điều kiện vừa cho chơi mà vừa dạy được vô khối điều hay
cho cô bé Rose Crawley.
Rebecca và cô bé Rose cả hai cùng đọc nhiều
tiểu thuyết rất hay của Pháp và Anh, trong số đó có nhiều cuốn của vị học giả
Smollett, của nhà văn lỗi lạc Henry Fielding, hoặc của ông Crebillon - nhà tiểu
thuyết tài hoa, giầu trí tưởng tượng, người được thi sĩ bất hủ Gray tán tụng
hết sức - và của ngài Voltaire lừng danh thế giới viết nên. Có lần Crawley hỏi
hai cô em gái đọc sách gì, cô giáo dạy trẻ bèn đáp: “Smollett”. Crawley bằng
lòng lắm, nói: “Ờ, Smollett.” Ông ta viết sách sử nhạt nhẽo hơn ông Hume, nhưng
chắc chắn không nguy hiểm bằng. Em đang đọc lịch sử phải không?” Cô Rose đáp:
“Vâng”. Cô không dám thú thực rằng cô đang đọc truyện lịch sử của Humphrey
Clinker. Một lần khác, thấy em gái đọc một tập kịch tiếng Pháp, anh ta có vẻ
giận; nhưng cô giáo vội thanh minh rằng mình cốt luyện cho học trò tập dùng
những thổ ngữ trong tiếp Pháp khi nói chuyện; thế là anh ta tỏ vẻ rất hài lòng.
Là một nhà ngoại giao, Crawley rất kiêu hãnh vì mình nói thạo tiếng Pháp (anh
ta vẫn còn là người ưa xã giao); được cô giáo dạy tư trẻ tuổi luôn mồm tán
tụng, anh chàng lấy làm khoái lắm.
Trái lại cô Violet có những sở thích thô bạo,
ngỗ nghịch hơn chị nhiều: gà mái đẻ trứng ở chỗ kín đáo đến đâu, cô ta cũng tìm
được. Cô biết trèo cây để lấy trứng chim. Được cưỡi lên lưng ngựa con non và
chạy rông khắp cánh đồng như Camila thì cô khoái nhất. Cô này được ông bố cưng
hơn cả, mà bọn bồi ngựa cũng quý. Anh bếp chiều cô bé, nhưng cũng sợ nhất, vì
giấu lọ mứt ở đâu cũng không thoát khỏi mắt cô bé, hễ tìm thấy là lấy ăn
liền...hai chị em đánh nhau luôn. Bắt được Violet phạm lỗi gì, cô Sharp không
mách Crawley phu nhân, vì thế nào bà này cũng nói lại với cụ Pitt, hoặc tai hại
hơn mách lại với Crawley; cô chỉ hứa rằng nếu Violet biết ngoan ngoãn và yêu
quý cô giáo, thì sẽ không mách mẹ.
Đối với Crawley, bao giờ cô Sharp cũng tỏ ra lễ
độ và phục tùng. Gặp những đoạn văn tiếng Pháp cô không hiểu - tuy mẹ cô ta là
người Pháp - thì cô đem hỏi anh ta, và hoàn toàn được hài lòng. Ngoài việc giúp
cô đọc những chuyện thông thường, anh ta còn tỏ ra tất bụng hơn giúp cô chọn
lọc những sách đứng đắn khác, và thường hay trò chuyện với cô. Cô tỏ ý vô cùng
khâm phục những bài diễn văn anh ta đọc trong Hội tương tế Quashimaboo; cô rất
quan tâm đến bài xã luận của anh ta về vấn đề mạch nha nấu rượu bia. Một buổi
tối nghe anh ta thuyết giáo, cô cảm động đến phát khóc, nói: “Ôi, thưa ngài,
xin cảm tạ ngài” đoạn ngước mắt nhìn lên trời, làm cho anh chàng thỉnh thoảng
cũng phải cảm động mà chiếu cố bắt tay cô một cái. Nhà quý tộc kính Chúa ấy tự
nhủ: “Thế mới biết con nhà dòng dõi cũng có khác. Cô Sharp tỏ ra thông cảm với
lời nói của ta biết bao, trong khi ở đây không một ai xúc động. Đối với họ, ta
kín đáo quá...tế nhị quá...Phải bình dân hóa cách phô diễn mới được...nhưng cô
ấy vẫn hiểu. Thân mẫu cô ấy thuộc dòng họ Montmorency kia mà”.
Hình như cô Sharp quả thật cũng có liên quan
đến dòng họ nổi danh kia về bên ngoại thì phải. Dĩ nhiên cô không nói với ai
rằng mẹ cô xưa là vũ nữ, nói thế có thể làm cho anh chàng Crawley rất sùng đạo
kia không ưa cô.
Đã có biết bao nhiêu phụ nữ quý tộc lưu vong ra
ngoại quốc bị cuộc cách mạng khủng khiếp kia làm cho khuynh gia bại sản? Trong
khoảng mấy tháng đầu sống trong gia đình, cô đã bịa ra vô số chuyện về các vị
tổ tiên của mình.
Ngẫu nhiên Crawley thấy có vài câu chuyện trong
tập sách của ông D’Hozier, có trong tủ sách của gia đình; điều đó càng khiến
anh ta thêm tin lời cô nói là thật, và yên trí Rebecca là con nhà dòng dõi.
Chắc chúng ta đoán rằng (mà hẳn Rebecca cũng nghĩ thế) Crawley tò mò hỏi lai
lịch, lại mò mẫm tìm tòi những chuyện ấy trong sách, ý hẳn anh chàng chú ý đến
cô?...Không đâu, đó chẳng qua là vì tình bạn thân mật. Ở trên, ta chẳng đã nói
rằng Crawley có gắn bó với công nương Jane Sheepshanks là gì?
Có một hai bận anh ta bắt được Rebecca đánh bài
với cụ Pitt. Anh ta bảo trò chơi ấy không hợp ý Chúa, tốt hơn cô ta nên dùng
thì giờ để đọc truyện “Gia tài của Thrum” hoặc truyện “Bà thợ giặt mù ở
Moorfields”, hoặc một số cuốn sách đứng đắn nào khác. Nhưng cô Sharp đáp rằng
xưa kia mẹ cô cũng thường hay chơi bài cùng vị bá tước già và đức cha xứ Cornet
() thế là cô bào chữa được cái chuyện chơi bài và những trò giải trí trần tục
khác.
Không phải cô giáo dạy trẻ chỉ biết dùng cách
chơi bài để lấy lòng lão nam tước già; cô còn dùng nhiều mánhkhoé khác để tỏ ra
có ích cho chủ. Cô đọc rất kiên nhẫn tất cả mọi thứ giấy tờ về việc kiện tụng;
công việc này cụ Pitt đã hứa sẽ giao cho cô ngay từ khi cô chưa đến Crawley Bà
chúa. Cô lại tình nguyện chép hộ rất nhiều thư từ của lão và khéo léo sửa chữa
các lỗi chính tả cho thích hợp với lối viết bấy giờ.
Cô tỏ ra rất quan tâm đến tất cả mọi việc có
liên quan đến tài sản, đến trại, đến vườn cảnh, vườn cây, đến chuồng ngựa. Cô
đã trở thành một người bạn rất thú vị đến nỗi ít khi lão nam tước đi bách bộ
tiêu cơm sau bữa ăn sáng mà không có cô đi kèm (dĩ nhiên, có cả hai cô con gái
nữa). Những lúc này, cô góp ý kiến với lão về việc nên tỉa bớt cây ở bụi rậm
này, nên đào đất trồng hoa ở chỗ kia, cô bàn với lão về chuyện gặt hái, hoặc về
chuyện nên dùng ngựa để kéo xe hay để cày. Chưa đầy một năm, cô đã được lão nam
tước hoàn toàn tin cậy; và trong bữa ăn, những chuyện trước kia lão thường trao
đổi với bác quản lý Horrocks, bây giờ gần như lão chỉ nói với cô Sharp. Những
khi Crawley đi vắng, Becky gần như thành bà chủ trong nhà; nhưng ở các địa vị
mới mẻ và tôn quý này, cô vẫn cư xử với thái độ khôn ngoan nhã nhặn không bao
giờ làm mếch lòng những kẻ có quyền chỗ bếp núc và nơi chuồng ngựa; đối với họ,
bao giờ cô cũng đối đãi hết sức nhã nhặn, ngọt ngào. Cô đã thay đổi hoàn toàn,
khác hẳn cô gái kiêu ngạo mà nhút nhát, bất mãn như ta thấy hồi nọ. Sự thay đổi
ấy chứng tỏ cô ta rất mực khôn khéo, thực tâm muốn hối cải, và có một sự nỗ lực
về tinh thần rất đáng chú ý. Cô Rebecca của chúng ta áp dụng cái chiến thuật
chiều chuộng và nhã nhặn mới mẻ này có phải vì thực tâm hay không, đọc đoạn
dưới chúng ta sẽ rõ. Một cô gái mới hai mươi mốt tuổi đầu khó lòng mà thực hiện
một chiến thuật đạo đức giả cho trót lọt trong suốt một năm trời đằng đẵng.
Nhưng xin các bạn độc giả nhớ hộ rằng, tuy tuổi còn non, nhưng Rebecca đã già
dặn nhiều về kinh nghiệm sống: nếu thiên hạ đã không phát hiện rằng cô là một
người đàn bà rất thông minh thì chẳng hóa ra tôi viết truyện này vô ích lắm
sao?
Hai anh em trai trong gia đình Crawley giống
như “mặt trăng và mặt trời”, không bao giờ cùng có mặt một lúc trong nhà...họ
“thù ghét nhau một cách thân mật”. Thật thế, Rawdon Crawley, anh chàng sĩ quan
ngự lâm, rất ghét cái nhà ấy; ít khi anh ta về nhà, trừ mỗi năm một lần khi có
bà cô đến thăm.
Bà quý tộc già này có một đức tính quý hóa
nhất, ta đã biết. Bà có số vốn bảy vạn đồng, và gần như đã nhận cho Rawdon
hưởng gia tài. Bà ghét cay ghét đắng thằng cháu cả, coi anh ta như một thằng
con trai xuẩn ngốc. Đổi lại, ông cháu cũng không ngần ngại tuyên bố rằng linh
hồn của bà cô chắc chắn sẽ bị mất, không gì cứu vãn nổi; đồng thời anh ta cũng
tin rằng số phận của em trai khi sang thế giới bên kia rồi cũng không khá hơn
mấy tí. Crawley thường bảo: “Bà cụ là một người vô tín ngưỡng nhất thế giới; bà
ấy đi lại với bọn vô thần, và bọn Pháp. Cứ nghĩ đến cái hoàn cảnh đáng ghê của
bà ấy mà tôi rợn cả người. Gần kề miệng lỗ như bà ấy thì cũng nên từ bỏ những
sự phù hoa, phóng túng, bừa bãi, điên rồ đi mới phải”. Thực ra chỉ tại bà quý
tộc già đã nhất định không chịu nghe anh ta thuyết giáo buổi tối; và khi bà lão
đến chơi trại Crawley Bà chúa một mình, anh ta bắt buộc phải chấm dứt những
cuộc kinh Chúa sớm hơn lệ thường. Ông bố bảo con trai:
- Pitt, khi nào có cô Crawley đến chơi, đừng có
giảng đạo nữa, cô đã viết thư bảo rằng cô không chịu nổi cái trò thuyết giáo ấy
đâu.
- Ô thưa ba, thế còn bọn tôi tớ?
- Kệ mẹ chúng nó, cho chúng nó chết treo đi.
Cụ Pitt đáp vậy; và anh con trai nghĩ rằng nếu
bọn gia nhân không được hưởng sự giáo dục của anh ta thì rồi sẽ xảy ra lắm điều
không hay. Cụ Pitt thấy con trai phản đối, bèn bảo:
- Ô hay, Pitt, thôi đi? Anh lại ngốc đến nỗi để
cho mỗi năm mất toi món tiền ba ngàn đồng à?
Crawley vẫn cãi:
- Thưa ba, lại đem tiền của ra so với linh hồn
con người ta được ư?
- Anh định nói rằng tại bà lão không chịu cho
anh hưởng gia tài chứ gì?
Ai mà biết được có phải Crawley định nói thế
thật hay không.
Kể ra bà lão Crawley này cũng là một người
không ra gì.
Bà ta có một căn nhà nhỏ rất ấm cúng ở công
viên Lane.
Suốt mùa rét ở Luân-đôn, bà ăn nhiều quá, uống
khỏe quá nên đến mùa nực bà về Harrowgate hoặc Cheltenham nghỉ mát. Trong số những
bà gái già thì bà Crawley là người hiếu khách và vui tính nhất; cứ theo lời bà
thì xưa kia bà cũng có nhan sắc (Chúng ta ai chẳng biết rằng hết thảy mọi bà
già xưa kia đều đã từng là mỹ nhân). Bà lại là một người hay chữ (), hồi ấy là
một người thuộc phe cấp tiến.
Bà đã từng sang Pháp (họ đồn rằng bà đã ấp ủ
một mối tình tuyệt vọng đối với St. Just); và từ đó về sau, bà rất mê tiểu
thuyết Pháp, ưa món ăn Pháp, thích rượu Pháp. Bà ham đọc Voltaire, thuộc
Rousseau làu làu, bàn đến chuyện ly dị tự nhiên như không, lại kịch liệt bênh
vực cho quyền lợi của giới phụ nữ. Bà treo chân dung ông Fox trong tất cả các
phòng. Hồi nhà chính khách này còn ở phe đối lập, tôi không được rõ lắm về
chuyện bà có cùng tiếp tay chiến đấu với ông này hay không, chỉ biết khi ông
này lên cầm quyền, bà đã đưa cụ Pitt và ông bạn đồng viện đại biểu cho Crawley
Bà chúa đến yết kiến, mặc dầu cụ Pitt vẫn rất có thể tự mình tìm đến lấy, không
phải phiền đến sự giúp đỡ của bà lão thực thà này. Chẳng cần nói rằng sau khi
nhà chính khách thuộc đảng Whig đã quá cố, cụ Pitt bắt buộc phải thay đổi quan
điểm chính trị.
Hồi Rawdon Crawley còn ít tuổi, bà lão đáng quý
ấy đã rất thích cậu bé; bà gửi cậu vào học trường đại học Cambridge (đối lập
với trường Oxford, nơi cậu anh theo học) và sau hai năm học tập, khi chàng
thanh niên bị ban giám đốc đệ nhất đại học đường kia yêu cầu rời khỏi trường,
thì bà lại mua cho anh ta một chức sĩ quan trong đội quân bảo vệ hoàng gia. Anh
chàng sĩ quan trẻ tuổi này quả thực là một tay “ăn chơi” khét tiếng, một tay
công tử bột lừng danh. Thời ấy, đấu quyền Anh, săn chuột, chơi quả lăn, hay
giong xe tứ mã là những “mốt” chơi phổ biến trong giới quý tộc nước Anh; anh ta
chịu học đòi tất cả những thú chơi quý phái ấy. Vì thuộc quân đội chính quốc,
do nhiệm vụ phải luôn luôn tập hợp xung quanh Hoàng tử nhiếp chính (), nên anh
ta chưa có dịp trổ tài đảm lược trong việc chinh chiến ở ngoại quốc bao giờ;
nhưng Rawdon Crawley cũng đã dự ba trận tỷ thí tay đôi đổ máu (tính anh ta vốn
rất mê đánh bạc) và đã tỏ ra là tay biết coi khinh cái chết.
- Rồi sau cái chết thì sẽ ra sao?
Crawley vẫn nói thế, và ngước đôi mắt xanh lè
nhìn lên trần nhà. Anh ta thường lo lắng cho linh hồn của em trai cũng như vẫn
lo lắng cho linh hồn của những người bất đồng ý kiến với mình. Nhiều bậc đạo
mạo vẫn tự cho mình được hưởng cái thú vui như thế đấy.
Còn cái bà Crawley ngu dại lãng mạn kia, sau
những cuộc tỷ thí của “ông cháu cưng”, vẫn cứ bỏ tiền ra trả nợ đậy như thường,
cũng chẳng thèm để lọt vào tai lấy một tiếng thầm thì bàn tán về đức hạnh của
anh ta. Bà vẫn bảo: “Trăng đến rằm trăng tròn (), nó còn khá bằng vạn cái thằng
đạo đức giả hay rên rỉ là anh nó kia”.
Chương 11
MỘT CHƯƠNG KHÁ LÀ TRỮ TÌNH
Ngoài những con người chân thực sống ở trại
Crawley (mà tính mộc mạc và trong sạch kiểu thôn quê của họ cho thấy rằng cuộc
sống thôn dã hơn hẳn cuộc sống ở thành thị), chúng tôi thấy cần giới thiệu với
các bạn đọc cả những người thân của họ sống gần đây, trong nhà thờ, tức là vợ
chồng ông Bute Crawley.
g quận mà lão rất thân, thế nào từ cách nhà thờ
đến dăm bảy dặm đường các bạn cũng có thể nhìn thấy con ngựa cái màu hạt dẻ với
đôi mục kỉnh của lão. Giọng lão khá trong, lão hay hát bài “Gió nồm, trời vẩn
mây”, và khi lấy giọng cho mọi người đồng ca thì ai cũng tán thưởng.
Khi cưỡi ngựa đi săn, lão khoác một tấm áo thày
tu màu muối tiêu, và lại là một trong những tay câu cá cừ nhất toàn quận.
Bà Bute Crawley, vợ lão tu sĩ, là một người đàn
bà nhỏ nhắn, nhanh nhẹn; bà thường viết hộ những bài giảng đạo cho đức cha rất
thánh. Vốn ưa quanh quẩn ở nhà suốt ngày cùng hai cô con gái, cho nên trong
phạm vi nhà thờ bà độc quyền cai trị; bà rất khôn ngoan cho phép ông chồng được
tha hồ tự do tung hoành ở ngoài. Ông ta mặc ý đi về, muốn ăn ở nhà bạn bè bao
nhiêu bữa tùy sở thích, vì tính bà Bute Crawley vốn tần tiện, rất thuộc giá
rượu. Kể từ khi bà ta vớ được cậu mục sư trẻ tuổi ở Crawley Bà chúa (bà là con
nhà gia thế, con gái cố trung tá Hector McTavish; bà và cụ bà thân sinh xưa đã
“câu” mãi mới được Bute ở Harrowgate). Bà vẫn là một người vợ đảm đang tiết
kiệm.
Nhưng dầu bà có quán xuyến đến đâu, lão chồng
cũng vẫn mang công mắc nợ như thường. Nguyên món tiền nợ tiền ăn tại ký túc xá
trường đại học hồi bố lão ta còn sống cũng đã phải mất mười năm mới trả hết.
Đến năm 179 ... vừa thoát nạn trả nợ, lão đã đánh cuộc một trăm đồng ăn một
rằng con Kangaru không thắng, song nó lại đoạt giải Derby.
Từ đó lão mục sư bắt buộc phải vay nợ trả lãi
cắt cổ, gỡ mãi không xong. Thỉnh thoảng bà em khác mẹ cũng có gửi giúp một trăm
đồng, nhưng lẽ dĩ nhiên lão hy vọng nhất vào việc bà này từ giã cõi trần... tức
là lúc: “Bỏ mẹ rồi (lão hay nói thế), Matilda phen này mất đứt về tay tôi nửa
số tài sản của mụ nhé”.
Thế là lão nam tước và ông em có đủ mọi cớ mà
hai anh em ruột có thể có để xích mích với nhau. Trong rất nhiều việc làm ăn
của gia đình, cụ Pitt vẫn có thế hơn. Không những ông Pitt con không săn bắn,
mà còn dựng một căn nhà nguyện riêng ngay trước mũi ông chú; còn Rawdon thì, ta
đã biết, sắp sửa vớ được cái gia tài kếch xù của bà cô. Những chuyện tranh chấp
như thế, những việc tính toán sống chết... những cuộc chiến đấu lặng lẽ giành
món chiến lợi phẩm là cái gia tài... vẫn khiến cho anh em ruột càng thêm thương
mến lẫn nhau trong Hội chợ phù hoa.
Chính tôi đã được biết một nhà kia, hai anh em
yêu thương nhau suốt nửa thế kỷ rồi bỗng thù nhau chỉ vì một tờ giấy bạc năm
đồng; cho nên không thể nào không thấy tình yêu đối với con người quả thật là
một điều đẹp đẽ và lâu bền...
Vậy thì một người như Rebecca đến trại Crawley
Bà chúa, cũng như việc cô ta dần dần chiếm được cảm tình của tất cả mọi người ở
đây, không thể nào lọt ra ngoài con mắt của bà Bute Crawley được. Bà Bute biết
rõ cả những chuyện vặt bên trại như cái thăn bò ăn bao nhiêu hôm mới hết, lần
này phải giặt bao nhiêu quần áo bẩn, mé tường phía nam có bao nhiêu quả đào,
khi bị mệt bà chủ uống bao nhiêu liều thuốc...Những chuyện như thế đối với một
số người ở thôn quê là những chuyện rất quan trọng... Vậy thì, bà Bute không
thể bỏ qua cô giáo dạy trẻ mà không chịu dò hỏi kẽ tóc chân tơ về lai lịch và
tính tình của cô này. Giữa đám đầy tớ bên trại và bên nhà thờ vẫn luôn luôn có
một mối cảm tình mật thiết. Các bạn đồng nghiệp bên trại sang chơi bên bếp nhà
thờ bao giờ cũng được tiếp đãi một cốc rượu; về khoản này anh em bên trại vốn
không được dồi dào ... cho nên bà tu sĩ có thể biết đích xác mỗi một thùng rượu
bia bên trại nấu bằng bao nhiêu lúa mạch...mối quan hệ giữa giới đày tớ bên
trại và bên nhà thờ càng ngày càng mật thiết cũng như giữa các vị chủ nhân vậy.
Và thông qua con đường ấy, gia đình nọ biết rõ
ràng từng công việc của gia đình kia. Chuyện này có thể coi được như dĩ nhiên,
bởi vì nếu bạn và em bạn ăn ở với nhau tốt, thì em bạn làm gì hà tất bạn phải
chú ý; song nếu hai người xích mích với nhau thì ngay việc em bạn đi, về, bạn
cũng rõ, y như bạn là mật thám theo dõi vậy.
Đến trại được ít lâu, Rebecca đã chiếm được một
chỗ trong những tài liệu của bà Bute Crawley hàng ngày ghi về hoạt động bên
trại. Nội dung những tài liệu ấy đại khái như sau: “Con lợn đen bị thịt
rồi...nặng x cân...thăn đem muối... pa-tê thịt lợn và chân giò ăn bữa
trưa...ông Cramp ở Mudbury đến bàn với cụ Pitt về việc bỏ tù John
Blackmore...Pitt họp mọi người để giảng đạo (có ghi đủ tên người đến dự nghe)
... Mụ kia vẫn bình thường... hai cô con gái chơi với cô giáo.
Tài liệu còn cung cấp thêm : ... “cô giáo : ...
“cô giáo mới là một người quản lý rất hiếm có...Cụ Pitt rất “cưng” cô này... cả
ông Crawley cũng vậy... ông ta đọc cả sách đạo cho cô nghe” ...
- Cái quân côi cút khốn nạn!
Bà Bute Crawley bé nhỏ, nóng nảy, năng nổ mặt
đen ấy giận quá thốt lên như vậy.
Cuối cùng, tài liệu cho biết “cô giáo đã được
lòng khắp mọi người, cô viết thư hộ cụ Pitt, lo việc cho cụ, tính toán tiền
nong giúp cụ...còn được tin cậy hơn bất cứ ai trong nhà, kể cả phu nhân; ông
Crawley và các cô...”; đọc đến đây bà Bute Crawley tuyên bố Rebecca là một con
** xảo quyệt, chắc đang ngấm ngầm mưu toan chuyện gì ghê gớm lắm đây. Cứ thế,
mọi việc xảy ra bên trại trở thành đầu đề bàn tán bên bàn thờ, và đôi mắt sắc
của bà Bute luôn luôn theo dõi tất cả mọi diễn biến bên doanh trại của đối
phương...và còn nhiều hơn cả mọi sự có thực nữa.
Bà Bute Crawley gửi bà Pinkerton, Mall,
Chiswick.
Thánh đường, Crawley Bà chúa, ngày...tháng
chạp.
Quý bà thân mến,
Từ ngày tôi được thụ hưởng sự giáo dục quý báu
vô giá của bà tới nay kể đã bao nhiêu năm rồi nhưng tôi vẫn không sao quên được
mối tình yêu kính nồng thắm đối với bà Pinkerton, và Chiswick thân yêu. Mong
rằng bà vẫn mạnh khỏe. Công việc xã hội và nhiệm vụ giáo dục hàng chục năm nữa
vẫn cần đến sự có mặt của bà Pinkerton. Bà bạn tôi là Fuddleston phu nhân có
nói chuyện rằng muôn tìm một cô giáo để trông nom mấy cô con gái (tôi nghèo
quá, không đủ tiền nuôi cô giáo dạy con tôi); tôi bảo: “Ngoài con người tài
năng không ai sánh kịp là bà Pinkerton, còn ai đáng hỏi ý kiến hơn ?” Nói tóm
lại, thưa bà, trong số học sinh tại quý trường, liệu có cô nào đảm đương tốt
trách nhiệm trên tại nhà bà bạn tôi được chăng? Tôi xin cam kết rằng bà bạn tôi
nhất định không mượn ai làm cô giáo ngoài người được bà lựa chọn.
Nhà tôi thường hay nói rằng ông ấy thích tất cả
những thứ gì của trường bà Pinkerton. Tôi thiết tha mong mỏi có dịp được giới
thiệu nhà tôi và hai cháu với người bạn thân của tôi thời còn trẻ, và là người
đã từng được vị từ điển học đại danh của nước ta hâm mộ. Nếu bà có dịp đi qua
Hampshire, ông Crawley nhà tôi nhờ tôi thưa rằng rất hy vọng được bà chiếu cố
đến các thánh thất quê mùa của chúng tôi Đó là tệ xá của...
Người bạn thân thiết của bà Macta Crawley
T.B. Vị nam tước anh ruột ông Crawley nhà tôi
cùng chúng tôi, than ôi! Vẫn không được hòa thuận như lẽ ra những con chiên
ngoan đạo phải như vậy. Ông ấy mới mượn một cô giáo để dạy hai cô con gái; tôi
nghe nói cô ta có cái may mắn đã được giáo dục ở Chiswick. Tôi được nghe phong
thanh nhiều tin tức về cô ta; vì tôi rất quý hai đứa cháu gái tôi...tuy hai nhà
có sự bất hòa, nhưng tôi vẫn mong được coi chúng như con đẻ... và vì tôi rất
muốn chú ý đến bất cứ cô học trò nào đã được bà dạy dỗ, cho nên, thưa bà
Pinkerton thân mến, xin bà cho tôi được rõ lai lịch của cô thiếu nữ ấy; vì nhớ
đến bà, tôi rất muốn kết bạn với cô ta.
M. C.
Bà Pinkerton gửi bà Bute Crawley Johnson Haox,
Chiswick, tháng chạp năm 18...
Bà bạn thân mến, Tôi có hân hạnh nhận được thư
bà, vội viết thư trả lời ngay. Được có người hưởng ứng công việc giáo dục của
chúng tôi, nặng nề, là việc giáo dục con trẻ. Càng hân hạnh hơn được biết cô
Martha MacTavish nhí nhảnh và giỏi giang, cô học trò xuất sắc ngày xưa của tôi,
nay đã là bà Bute Crawley. Tôi rất sung sướng hiện được chăm sóc rất nhiều con
em của những người xưa đã là bạn đồng học của bà...nếu như các cháu gái yêu quý
nhà ta ưng để cho tôi săn sóc việc học tập thì thật là hân hạnh.
Nhân tiện xin gửi lời kính chào Fuddleston phu
nhân và rất hân hạnh được giới thiệu (bằng thư) với phu nhân hai cô bạn gái của
tôi là cô Tuffin và cô Hawky.
Cả hai cô đều hoàn toàn đủ tư cách dạy các
ngoại ngữ Hy-lạp, La-tinh và tiếng Do Thái thông dụng, các môn toán học và lịch
sử, các ngoại ngữ Tây-ban-nha, Pháp, Ý, và môn địa lý, âm nhạc (thanh nhạc và
nhạc khí), có thể khiêu vũ không cần phải có thầy bên cạnh hướng dẫn, lại thạo
cả những kiến thức về khoa học tự nhiên. Cả hai đều sử dụng quả địa cầu rất
khéo. Không những thế, cô Tuffin là con gái của cố đức cha Thomas Tuffin (cựu
sinh viên học đường Corpus, Cambridge) còn dạy được cả tiếng Sy-ri, và cả khoa
Hiến pháp thường thức nữa. Song, vì cô ta mới có mười tám tuổi, lại rất xinh
đẹp, nên có lẽ cô ta không tiện giúp việc tại gia đình ngài Huddleston
Fuddleston.
Trái lại, cô Letitia Hawky không được xinh lắm,
đã hai mươi chín tuổi, mặt rỗ nhằng nhịt, dáng đi hơi khập khiễng, tóc đỏ, mắt
hơi hiếng một chút. Cả hai cô đều ngoan đạo và hạnh kiểm tốt như nhau. Dĩ nhiên
về tiền thù lao thì tùy theo tài năng của họ.
Xin trọng kính chào đức cha Bute Crawley.
Kẻ đầy tớ trung thành và phục tùng nhất của bà.
Barbara Pinkerton.
T.B. Cái cô Sharp mà bà nói chuyện là cô giáo
dạy tư trong gia đình tôn ông Pitt Crawley, nam tước, nghị sĩ quốc hội: trước
kia cô ta là học trò của tôi; tôi không có điều gì phàn nàn về cô ta. Mặc dù bề
ngoài cô ta coi không được dễ chịu lắm, song không thuộc tạo hóa theo ý ta
được. Tiếng tăm của bố mẹ cô ta cũng không được tốt lắm (bố cô ta xưa là một
họa sĩ, đã nhiều phen phá sản; còn mẹ cô ta, điều này tôi biết mà sợ quá, là
một vũ nữ ở rạp Opera); tuy nhiên cô ta có rất nhiều khả năng, và tôi cũng
không ân hận rằng đã nuôi dạy cô ta hoàn toàn vì lòng nhân từ.
Người ta giới thiệu với tôi mẹ cô ta là một nữ
bá tước người Pháp, vì trốn tránh những sự khủng khiếp của cuộc cách mạng mà
phải lưu vong ra nước ngoài, nhưng tôi khám phá ra chính thức bà ấy chỉ là một
kẻ hạ tiện, tính tình đồi bại; điều tôi sợ nhất là tính tình bà mẹ có thể, một
lúc nào đó, có tính chất gia truyền, và phát lộ ra ở cô con gái mà tôi coi là
quân bỏ đi. Nhưng cho đến bây giờ, cách ăn ở của cô ta cũng đứng đắn (tôi tin
vậy), và tôi yên trí rằng sẽ không có chuyện gì xảy ra làm thay đổi tính tình
cô ta trong phạm vi gia đình lịch sự và thượng lưu của ngài Pitt Crawley danh
tiếng.
Cô Rebecca Sharp gửi cô Amelia Sedley.
Đã mấy tuần nay, em chưa viết được thư thăm chị
Amelia thân mến, vì những chuyện vặt vãnh hàng ngày ở “trại Chán ngấy” (em vừa
đặt tên thế đấy) chẳng đáng kể chị nghe; chị để ý làm quái gì đến củ cải kỳ này
thu hoạch nhiều hay ít, con lợn béo cân nặng mười ba hay mười bốn ston hoặc bầy
gia súc ăn củ cải đường, có béo hay không. Từ bữa viết thư cho chị, ngày nào
cũng giống như ngày nào. Trước bữa ăn sáng, đi bách bộ một lượt với cụ Pitt
cùng chiếc nạng của lão, ăn sáng xong, dạy học (cũng gọi là dạy học!) trong
phòng học, rồi cùng cụ Pitt đọc và viết về những chuyện thày kiện, chuyện cho
tương lai, chuyện mỏ than, kênh đào (em đã thành thư ký của lão rồi đấy); cơm
trưa xong, nghe ông Crawley thuyết lý, hoặc đánh bài với lão nam tước; mặc em
chọn cách giải trí, nam tước phu nhân chỉ nhìn một cách thản nhiên. Hình như
dạo này bà ta đẹp ra vì mới ốm, và do đó mới có thêm một vị khách đến trại, tức
là một ông bác sĩ trẻ tuổi. Phải, chị ạ, đàn bà còn trẻ, không bao giờ cần phải
tuyệt vọng. Ông bác sĩ trẻ tuổi có bắn tin với một người bạn của chị rằng nếu
em muốn trở thành bà Glauber thì sẽ được sẵn sàng đón tiếp để trang điểm thêm
cho bộ mặt của phòng thuốc. Em mới bảo cái ông trơ tráo ấy rằng ông đã có cái
chày mạ vàng và cái cối tán thuốc, nhà cửa thế cũng đẹp chán rồi. Như thể em
sinh ra là để làm vợ một ông thày thuốc nhà quê ấy không bằng! Bị cự tuyệt tàn
nhẫn, ông Glauber giận lắm, bèn trở về nhà uống một cốc nước lạnh, và thế là
khỏi hẳn bệnh tương tư. Cụ Pitt rất tán thành quyết định của em; giá bị mất cô
thư ký bé bỏng chắc cụ buồn phiền lắm đấy. Em tin rằng lão ma bùn ấy quý em
cũng chẳng hơn gì lão vẫn hay quý báu người khác. Lấy chồng, phải, mà lại lấy
một ông lang nhà quê, sau này...không, không làm sao người ta có thể quên ngay
những chuyện cũ nhanh chóng như vậy; nhưng thôi, em chả nói nữa. Chúng ta hãy
trở lại câu chuyện ở “Trại chán ngấy”.
Khoảng ít lâu nay, không còn phải là “Trại chán
ngấy” nữa rồi. Chị ạ, bà Crawley đến chơi, mang theo đủ cả ngựa béo, đầy tớ
béo, chó béo...tức là cái bà lớn Crawley giầu nứt đố đổ vách, có bảy vạn đồng
bạc vốn đặt lãi đồng niên năm phần trăm...bà ta (hoặc đúng hơn là món tiền ấy)
được hai ông anh trai thi nhau thờ phụng. Bà lão đáng quý hình như bị bệnh
chóng mặt thì phải; thảo nào hai ông săn sóc bà em chu đáo gớm. Họ tranh nhau
đưa gối cho bà tựa, đưa cà phê cho bà uống. Bà cụ bảo: “Khi nào tôi về quê thì
tôi không cần đem vú già Briggs đi theo vì , cô ạ, ở đây hai ông anh tôi là vú
già, một đôi vú già giỏi việc ra phết”.
Bà ta cũng hay khôi hài lắm.
Bà Crawley mà về quê chơi thì cả trại tưng bừng
hẳn lên, và ít nhất là trong một tháng, tưởng như ngài Walpone xưa kia sống
lại. Chúng em tha hồ dự tiệc và đi chơi bằng xe bốn ngựa...bọn hầu giở những bộ
chế phục mới nhất màu vàng thanh ra mặc. Chúng em uống rượu vang và rượu sâm
banh thỏa thích y như từ xưa đến nay hàng ngày vẫn quen uống như thế. Trong
phòng học, được phép thắp nến, và lại được đặt cả lửa để sưởi. Crawley phu nhân
phải lấy trong tủ một bộ áo màu xanh lá đậu đẹp nhất ra mặc; còn hai cô học trò
của em thì vứt đôi giày nặng chình chịch và bộ áo kép chật ních bằng vải
ta-tăng rũ rích đi, mặc áo choàng bằng voan, đi tất lụa, đúng kiểu tiểu thư con
gái các vị nam tước. Hôm qua, Rose đến tìm em, trông thương hại quá...con lợn
giống Wiltshire (cô bé thích con lợn này lắm) húc cô ta ngã, và dẫm lên trên
làm hỏng cả bộ áo lụa hoa lila đẹp lắm...giá việc này xảy ra độ một tuần lễ
trước, thế nào cụ Pitt cũng chửi rầm lên, cũng béo tai cô bé khốn khổ và bắt cô
ta phải ăn bánh nhạt uống nước lã ít nhất là một tháng. Nhưng lão chỉ bảo:
“Này, bao giờ cô mày về tỉnh rồi, ta sẽ bảo cho”, rồi cười, y như coi chuyện ấy
là không đáng quan tâm. Mong rằng trước khi bà Crawley về cơn giận của lão cũng
qua đi. Em mong thế vì em quý Rose lắm. Thế mới biết đồng tiền khéo giúp người
ta hòa thuận với nhau thật!
Xem cách ăn ở của hai anh em nhà Crawley- em
muốn nói cụ Pitt và ông em cố đạo - chứ không phải hai anh em ông Crawley kia
đâu; mới lại thấy bà Crawley và món tiền bảy vạn đồng còn có thêm một tác dụng
rất hay nữa: quanh năm họ ghét nhau như đào đất đổ đi, vậy mà đến lễ Giáng
sinh, họ lại quý nhau như vàng. Năm ngoái, em đã viết thư kể cho chị rõ chuyện
ông thày tu đáng ghét hay thi ngựa ấy vẫn có thói thích lải nhải thuyết giáo
với chúng em ở nhà thờ, mà cụ Pitt thì cứ ngáy khò khò để trả lời. Khi bà
Crawley đến chơi thì chẳng hề nghe thấy nói có chuyện gì xích mích... Bên trại
sang thăm bên nhà thờ, và ngược lại.Vị mục sư và ngài nam tước bàn những chuyện
nuôi lợn chuyện săn trộm, chuyện làm ăn trong quận một cách hỷ hả nhất đời,
chén chú chén anh với nhau không hề to tiếng. Em chắc rằng. .. nhất định là bà
Crawley không muốn thấy hai người xích mích với nhau, và thề rằng bà sẽ cho gia
đình nhà Crawley ở Shropshire mà thông minh ra, thì em chắc sẽ vớ được món tiền
ấy. Nhưng chết cái lão Crawley ở Shropshire kia cũng là thày tu, giống ông anh
họ ở Hampshire; một lần đưa ra mấy câu đạo đức quá, bị bà Crawley ghét cay ghét
đắng tức tốc bỏ đi ngay (chả là bà giận mấy ông cháu đằng này, bèn sang đấy
chơi); chắc lão kia cũng muốn giở trò giảng đạo trong nhà hắn.
Lúc bà Crawley đến chơi, sách giảng đạo của
chúng em phải cất kín một chỗ, còn ông Pitt, người bị bà ta ghét cay đắng thì
tự thấy nên lánh mặt ra tỉnh chơi. Mặt khác cái anh chàng công tử trẻ tuổi...
“tay chơi” , gọi thế mới đúng...tức là đại úy Crawley lại mò tới, có lẽ chị
cũng muốn biết qua anh chàng là người thế nào.
Phải, anh ta là một cậu công tử trẻ tuổi, cao
lớn. Người cao đến sáu bộ, tiếng nói oang oang, văng tục luôn mồm, thích quát
tháo đầy tớ vậy mà họ quý anh ta ra phết, anh ta vốn rất rộng rãi về chuyện
tiền nong, cho nên sai bọn đầy tớ gì chúng cũng làm ngay. Tuần trước một viên
mõ tòa và người thừa sai từ Luân-đôn xuống để bắt anh chàng đại úy; họ đang lần
mò ngoài bức tường bao quanh vườn cảnh thì bị bọn gác bắt được, suýt nữa bị
giết, chúng đánh cho một trận, đem trấn nước, và sắp sửa đem bắn về tội săn
trộm, thì lão nam tước can thiệp tha cho.
Em thấy rõ anh chàng đại úy này rất khinh bố
đẻ, anh ta gọi bố là lão xuẩn, lão bần tiện, lão nhà quê, và nhiều tên hiệu
khác hay ho nữa. Đối với phụ nữ, anh chàng khét tiếng một cách đáng sợ. Anh ta
đem cả ngựa săn về nhà, chơi bời với bọn tai mắt trong quận; anh ta tùy thích
mời ai ăn tiệc thì mời, cụ Pitt không dám từ chối sợ bà Crawleyphậtý, sau này
sẽ mất phần trong tờ di chúc khi bà ta chết về bệnh chóng mặt. Có nên kể chị
nghe chuyện anh chàng đại úy tán tỉnh em thế nào không nhỉ? Em cứ kể, chuyện
hay lắm. Một buổi tối, chúng em tổ chức khiêu vũ. Có tôn ông Giles Wapshot cùng
hai cô con gái và không rõ bao nhiêu người khác nữa tới dự. Thế rồi em nghe
thấy anh chàng bảo: “Lạy Chúa, cô ta trông kháu khỉnh quá”, ấy là muôn ám chỉ
đứa đầy tớ thấp kém của chị đấy. Anh ta lại chiếu cố nhảy với em hai điệu nhảy
dân gian. Anh ta cười cười nói nói rất thoải mái vui vẻ với những nhà quý tộc
trẻ tuổi, uống rượu, đánh cuộc, cưỡi ngựa, và nói chuyện cùng họ về việc săn
bắn. Nhưng anh ta bảo bọn con gái nhà quê “buồn” lắm; kể ra em thấy anh ta nói
cũng không sai. Giá chị được thấy đối với em họ kênh kiệu thế nào nhỉ! Trong
khi họ khiêu vũ, em cứ phải ngồi nín thinh chơi dương cầm. Nhưng đêm hôm nọ,
anh ta ở phòng ăn bước ra, mặt hơi đỏ; thấy em bị đối đãi như vậy, anh ta lớn
tiếng tuyên bố rằng em nhảy giỏi nhất đám, và thề độc rằng thế nào cũng phải
mượn vài người nhạc công ở Mudbury về.
- Để tôi chơi một điệu nhảy dân gian cho. Bà
Bute Crawley nhanh nhảu nói (bà này đã có tuổi, mặt đen, quấn khăn, hơi hơi gù,
mắt thì hấp ha hấp háy); Rebecca đáng thương của chị cùng anh chàng đại úy vừa
nhảy xong một bài thì, chị có biết không, bà ta lại ban cho em cái hân hạnh là
khen em nhảy đẹp! Thật chưa bao giờ có chuyện lạ như vậy. Cái bà Buten Crawley
kiêu ngạo ấy là em họ bá tước Tiptoff, bà này đã không thèm hạ mình xuống mà
đến thăm Crawley phu nhân, trừ trường hợp có bà em chồng ở tỉnh về chơi. Thật
đáng thương cho Crawley phu nhân! Phần lớn khoảng thời gian những buổi họp mặt
vui vẻ như thế bà ta phải nằm trên gác uống thuốc.
Tự nhiên bà Bute thân thiết với em quá. Bà ta
bảo: “Cô Sharp thân yêu, sao cô không đưa hai em nó sang bên nhà thờ. Các em,
nó bên này thích được chơi với hai chị nó lắm đấy”. Em biết bà ta có ý định gì
rồi. ông Clementi thật đã không uổng công dạy em chơi đàn dương cầm; bà Bute
định lợi dụng em dạy đàn cho con bà đấy; em cứ là đi guốc vào bụng bà ta; nhưng
rồi em cũng sang...em quyết định sẽ làm vừa lòng bà ta;. .. Đó là nhiệm vụ của
một cô giáo dạy trẻ nghèo không bè bạn, không người che chở, phải không chị ?
Bà vợ nhà tu sĩ khen mãi rằng học trò của em rất tấn tới; bà ta nghĩ rằng em
cảm động lắm, chắc thế...cái bà nhà quê giản dị ấy mới đáng thương chứ.... Làm
như em chú ý đến học trò lắm đấy!
Chị Amelia thân yêu ơi, em mặc cái áo voan Ấn
Độ và cái áo lụa hồng chị cho, họ bảo tôn vẻ người lên nhiều lắm. Bây giờ cũng
đã cũ lắm rồi, nhưng chị cũng rõ đấy, con gái nhà nghèo chúng em lấy tiền đâu
ra mà may áo mới (). Chị sung sướng thật chỉ cần đánh xe ngựa trên phố St.
James, thế là muốn mua thứ gì thì bác mua cho ngay. Thôi, tạm biệt chị.
Thân mến.
Rebecca.
T.B. Hai chị em cô Blackbrooks (con gái đô đốc
Blackbrooks) là hai cô tiểu thư trẻ, đẹp, mặc toàn áo may ở Luân đôn; giá chị
được nom thấy mặt hai cô lúc đại úy Rawdon chọn mời em cùng nhảy. Em vẽ họ dưới
đây này, giống họ như hệt. Thôi, tạm biệt, tạm biệt.
Bà Bute Crawley giả dối với Rebecca, nhưng cô
gái thông minh này cũng biết thừa. Lúc đã được Rebecca hứa sẽ sang thăm bên nhà
thờ, bà bèn vận động với bà già Crawley, con người vô cùng thế lực, để bà này
khuyên bảo cụ Pitt. Bà già tốt bụng này vốn ham vui, lại ưng mọi người xung
quanh cũng vui vẻ sung sướng như mình, bằng lòng ngay; bà sẵn sàng nối lại mối
dây hòa thuận thân thiết giữa hai anh em ruột. Hai bên thỏa thuận rằng từ rày
trở đi con trẻ hai nhà sẽ sang chơi với nhau: và dĩ nhiên sự hòa thuận chỉ bền
trong phạm vi thời gian bà cụ già còn cầm cán cân hòa giải.
Trên đường về nhà, khi qua vườn cảnh, nhà tu sĩ
hỏi vợ:
- Sao bà lại đi mời cái thằng Rawdon Crawley
chó má ấy ăn cơm làm gì? Sao mà tôi ghét nó thế. Nó khinh bọn quê mùa chúng
mình như bọn mọi đen ấy. Chưa moi được những chai rượu gắn si vàng của tôi ra
uống thì nó chưa yên đâu; mười si-linh một chai đấy, mẹ kiếp! Mà tính tình nó
mới khiếp chứ...cờ bạc như ranh...rượu chè be bét...hư hỏng đủ mọi phương diện.
Có lần nó đấu súng bắn chết một người đấy. Công nợ thì ngập mặt. Mà nó đã nẫng
tay trên mất của mình phần lớn gia tài của bà Crawley cơ chứ. Bà lão bảo rằng
(nói đến đây, vị tu sĩ nắm quả đấm giơ lên mặt trăng, lẩm bẩm cái gì như thề
độc, rồi buồn rầu tiếp) sẽ ghi vào tờ di chúc cho nó năm vạn đồng. Thế là không
còn được lấy ba vạn để chia nhau.
Bà vợ thầy tu đáp:
- Tôi nghe bà ấy cũng sắp “ngoẻo” đến nơi rồi. Lúc ăn cơm xong, tôi thấy
mặt bà ấy đỏ quá. Tôi phải nới bớt dải áo hộ.
Ông thày tu đáng kính nói khe khẽ:
- Bà ấy uống bảy cốc sâm-banh; mà cái lão anh mình nó muốn đầu độc mình chắc,
sâm-banh gì mà tởm thế...nhưng bọn các bà có biết cái quái gì...
Bà Bute Crawley đáp:
- Phải, chúng tôi thì còn biết gì.
Ông thày tu lại tiếp:
- Ăn cơm xong, bà ấy uống rượu mạnh, lại uống cà-phê pha với ca-cao. Cho
tôi một tờ giấy năm đồng bắt tôi uống một cốc tôi cũng xin chịu. Nó kích thích
tim thì có mà chết đứt. Đố bà ấy chịu nổi; bà Crawley ấy...thế nào cũng
ngoẻo... xương thịt Matilda chỉ một năm nữa là đi đứt.
Hai vợ chồng ông thầy tu vừa đi vừa trịnh trọng tính toán với nhau, đồng
thời nghĩ đến những món nợ, nghĩ đến con trai là Jim nội trú ở trường đại học,
và Frank ở Woolwich, cùng bốn cô con gái; bốn cô này chẳng cô nào trông ra hồn
người, một xu dính túi không có, chỉ nhòm vào tờ di chúc tương lai của bà cô.
Im lặng một lúc…
- Pitt lại khốn nạn đến mức bán trước quyền kế thừa cai quản à? Cái thằng
con trưởng, cái thằng dát như cáy ấy lại đang nhấp nhổm vào Quốc hội cơ đấy.
Bà vợ đáp:
- Lão Pitt Crawley thì còn từ cái gì. Mình phải xin bà Crawley bắt lão hứa
lo việc ấy cho thằng James mới được.
Ông em quý nói:
- Lão Pitt thì “trăm voi chẳng được bát nước xáo”. Xưa lão đã hứa rằng khi
ông cụ mất đi, lão sẽ trả hết tiền phí tổn nội trú ở trường đại học cho tôi;
lão hứa sẽ xây thêm một gian phụ cho nhà thờ; lão còn hứa cho tôi đám ruộng của
thằng Jibb, và cái bãi cỏ sáu ây-cơ...nói cứ như rồng như phượng ấy! Lại cũng
chính cái thằng con trai lão.. . cái thằng chó đểu, bài bạc, bịp bợm, sát nhân
ấy, tức là thằng Rawdon Crawley, nó vớ được phần gia tài to nhất của bà
Matilda. Chúa nào chứng cho chúng nó. Cái quân chó má ấy nó có đủ mọi thói xấu
trên đời, không kể thói đạo đức giả là thói xấu thằng anh nó giữ độc quyền.
Bà vợ bảo:
- Xuỵt, im đi ông lão. Chúng mình đang ở trên đất của lão Pitt đấy.
- Bà Crawley, tôi đã nói là hắn có đủ mọi thói xấu. Bà đừng có chèn tôi.
Thế nó không bắn chết đại úy Marker là gì? Chẳng phải nó bóc lột nhà quý tộc
trẻ tuổi Dovedale ở quán “Cây dừa” thì là ai? Nó hay thằng nào ngăn cản cuộc
đánh nhau giữa là thằng Bill Soame và Cheshire Trump, làm cho tôi mất toi bốn
mươi đồng bạc tiền đánh cuộc. Bà còn lạ gì những chuyện ấy. Còn về chuyện trai
gái thì bà còn nhớ có lần ngay trong phòng xử kiện, trước mặt tôi...
Bà vợ đáp:
- Ông Crawley ơi; thôi, tôi van ông, đừng giở những chuyện ấy ra với tôi
nữa.
Lão thầy tu cáu quá, nói:
- Thế mà bà đi mời cái thằng khốn nạn ấy đến nhà? Chính bà đã đẻ ra một lũ
con, lại là vợ một tu sĩ của Nhà thờ Anh quốc. Trời đất ơi!
Vợ lão cười khinh bỉ đáp:
- Ông Bute Crawley, ông ngu xuẩn lắm.
- Được lắm, thưa bà. Ngu xuẩn hay không...Martha ạ, tôi không nói rằng tôi
khôn ngoan được như bà; không phải thế. Nhưng tôi không muốn nhìn mặt thằng
Rawdon, rõ chưa? Tôi sẽ đi thăm Huddleston xem con chó mực của lão rồi đi thăm
bà Crawley. Tôi sẽ bỏ ra năm mươi đồng đánh cuộc con Lancelot chạy thi sẽ ăn
đứt con chó kia, hoặc bất cứ con chó Anh nào khác. Nhưng nhất định tôi không
nhìn mặt cái thằng Rawdon Crawley chó má.
Bà vợ đáp:
- Ông Crawley ơi, ông lại say như mọi khi rồi.
Sáng hôm sau, lúc lão thầy tu ngủ dậy gọi lấy rượu bia để “súc miệng”, bà
vợ nhắc lão nhớ lại dự định đi thăm ngài Huddleston Fuddleston vào hôm thứ bảy:
Lão yên trí thế nào cũng được một đêm say sưa nên trù tính sáng chủ nhật sẽ phi
ngựa trở về nhà thờ sớm cho kịp giờ làm lễ. Thế mới biết bọn con chiên trong xứ
đạo Crawley sung sướng thật, vì ông cha xứ của họ chẳng thua gì nhà quý tộc
chúa đất.
Chưa ở chơi được bao lâu mà bà Crawley, cái bà lão dửng mỡ người kinh đô
ấy, đã bị ma lực của cô Rebecca quyến rũ, như cô đã quyến rũ bao nhiêu tâm hồn
trong trắng khác ta đã biết. Một hôm, cùng giong xe ngựa đi chơi theo lệ
thường, bà thấy cần ra lệnh cho “cô giáo bé bỏng” theo mình về chơi Mudbury.
Trong cuộc đi chơi, Rebecca đã chinh phục được bà; cô đã làm được cho bà này
cười bốn bận, và khiến bà rất vui lòng suốt bữa đó. Cụ Pitt định tổ chức một
bữa tiệc long trọng mời khắp mặt các nhà quý tộc trong vùng đến dự. Bà Crawley
nói với cụ Pitt:
- Sao lại không để cho cô Sharp dự tiệc? Này bác, bác nghĩ tôi có thể bàn
chuyện giáo dục con trẻ với Fuddleston phu nhân hoặc thảo luận về pháp luật với
cái con ngỗng là lão Giles Wapshot được chăng? Tôi muốn để cô ta cùng dự tiệc.
Nếu không đủ chỗ thì bảo Crawley phu nhân ở trên gác. Nhưng còn cô Sharp...chết
chưa? Cả hàng quân, chỉ có mình cô ta nói chuyện còn nghe được!
Dĩ nhiên, sau cái mệnh lệnh dứt khoát ấy thì cô giáo dạy trẻ Sharp được
lệnh ra cùng ngồi dự tiệc ở dưới nhà.
Rồi đến khi ngài Huddleston, dáng điệu hết sức trang trọng kiểu cách, khoác
tay bà Crawley bước vào phòng ăn, và sắp sửa ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh, thì
bà già này bỗng kêu lên the thé:
- Becky Sharp? Cô Sharp! Lại đây, ngồi cạnh tôi cho vui; để ngài Huddleston
ngồi cạnh Wapshot phu nhân cũng được.
Tan tiệc, khách khứa đã lên xe ngựa ra về cả, bà Crawley vẫn chưa thỏa mãn,
còn bảo:
- Becky, lên phòng trang điểm của tôi nhé; chúng ta sẽ nói xấu bọn họ nghe
chơi với nhau.
Mà thật, ngồi riêng với nhau, đôi bạn tri kỷ đã làm đúng như lời. ông lão
Huddleston lúc đang ăn tiệc cứ luôn mồm thở phì phà phì phò. Còn ngài Giles
Wapshot thì có lối húp “xúp” kêu cứ òm ọp; bà vợ mắt trái làm sao cứ hấp ha hấp
háy; những nét đặc biệt ấy cũng như những câu chuyện buổi tối Becky rí rỏm tả
lại rất tài: nào là chuyện chính trị, chuyện chiến tranh, chuyện họp Quốc hội,
chuyện đua ngựa và bao nhiêu là chuyện quan trọng nhạt nhẽo mà cái bọn quyền
quý xứ quê vẫn thích nói với nhau. Còn bộ áo của hai cô con gái nhà Wapshot và
cái mũ vàng nổi danh của Fuddleston phu nhân thì bị cô Sharp “xé rách tơi tả”;
bà thính giả nghe chuyện khoái trá vô cùng. Bà bảo:
- Cô em ơi, cô thật là một báu vật () vô song. Ước gì cô đi được Luân đôn
với tôi nhỉ. Nhưng tôi không thể đem cô ra làm trò cười như đối với mụ Briggs
được; không, không... cô gớm lắm, cô quá thông minh...phải không, Firkin?
Bà Firkin đang chải mấy sợi tóc lơ thơ còn bám vào sọ bà Crawley ngẩng phắt
mặt lên đáp một cách hết sức mỉa mai: “Dạ, cô ấy thông minh lắm ạ”; nói cho
đúng thì bà Firkin cũng có tính ghen ghét, đó là cái nguyên tắc xử thế chung
của tất cả mọi người đàn bà lương thiện.
Sau bữa cự tuyệt ngài Huddleston Fuddleston, bà Crawley ra lệnh cho Rawdon
Crawley ngày nào cũng phải khoác tay dẫn bà vào phòng ăn; Cô Becky thì ôm chiếc
gối đi theo sau...hoặc cô khoác tay bà, còn Rawdon ôm gối cũng được. Bà bảo:
- Chúng mình phải ngồi cạnh nhau mới xong; cô em ạ, khắp quận này chỉ có ba
chúng ta là những con chiên ngoan đạo tư duy nhất thôi đấy.
- Nếu quả thế thì đạo chúa trong quận Hants cũng đang “xuống” quá thật.
Bà Crawley không phải chỉ biết “ngoan đạo” một cách lý thú như thế, bà còn
là người có nhiều tư tưởng hết sức tự do; bà luôn luôn tìm cơ hội phát triển
những tư tưởng áy một cách rất tự nhiên. Bà thường bảo Rebecca:
- Này cô em, dòng dõi là cái gì? Cô cứ trông ông Pitt, anh tôi và gia đình
Huddleston; họ sinh cơ lập nghiệp ở đây từ triều vua Henry đệ nhị đấy. Cô cứ
trông lão Bute đáng thương với cái chức mục sư kia... trong bọn họ có người nào
thông minh và có giáo dục bằng cô không? Bằng cô à bọn họ so với mụ Briggs
người hầu của tôi, và bác Bowls, quản gia của tôi, cũng chưa bằng ấy chứ. Cô em
đáng yêu ạ, cô là một người hoàn toàn...một quý vật, dứt khoát thế đấy... Trí
tuệ nửa vùng này góp lại cũng không bằng được cô đâu. Nếu quả thật con người ta
có phúc là có phận thì cô phải làm một bà công tước mới xứng... Không, ở đời
không cần có những bà công tước làm gì: nhưng cô không nên chịu thua kém ai; cô
em ạ, tôi coi cô ngang hàng tôi về mọi phương diện đấy, và...kìa cô, bỏ hộ tôi
thêm ít than vào lò với, cô sửa lại chiếc áo dài này hộ tôi nhé; cô tài may vá
lắm, chẳng ai bằng.
Cứ thế, bà lão nhân từ thường nhờ cô ta đưa thư giúp mình, chải tóc hộ, và
đêm đêm đọc tiểu thuyết Pháp để bà nghe, cho đến lúc bà ngủ say mới thôi.
Vào thời đó, một số độc giả có tuổi chắc còn nhớ, giới quyền quý đang rất
sôi nổi bàn tán về hai việc xảy ra, khiến cho theo lời vài tờ báo, mấy ông quý
tộc áo () có việc làm ăn. Viên hạ sĩ cầm cờ Shafton trốn biệt tích cùng công
nương Barbara Fitzurse là con gái và người thừa kế của bá tước Bruin; còn ông
Vere Vane, là một nhà quý tộc tuổi đã tứ tuần, tính tình xưa nay vẫn đứng đắn, lại
là chủ một gia đình đông con, đột nhiên quái gở thay, bỏ nhà đi theo bà
Rougemont, một đào hát già đã sáu mươi nhăm cái xuân xanh?
Bà Crawley nói:
- Tôi thích nhất là những người biết noi gương sáng của Quận công Nelson.
Ông ta chết vì một người đàn bà. Làm tài trai phải biết sống như vậy mới đáng
mặt. Tôi vẫn ưa những cuộc hôn nhân táo bạo ... điều tôi thú nhất là một nhà
quý tộc lấy con gái một người thợ xay bột làm vợ, y như bá tước Flowerdale ngày
xưa ấy...làm cho bọn đàn bà tức điên lên... Này cô em, ước gì có một nhà tai
mặt nào đi trốn với cô nhỉ; trông cô cũng xinh đấy chứ?
Rebecca đáp:
- Đi trốn với hai anh phu trạm? Ồ, thú vị ấy.
- Và điều thứ hai tôi thích là một anh con trai nghèo xác xơ đi trốn với
một cô con gái nhà giàu. Tôi đang mong cho thằng Rawdon đi trốn với đứa nào thì
hay.
- Đi trốn với một người giầu, hay một người nghèo?
- Ồ khỉ lắm! Tôi mà không cho nó tiền thì một xu dính túi nó cũng không có
. Nó công nợ ngập mặt ()... Nó cần gây dựng lại cơ nghiệp; nó phải mở mặt ra
với thiên hạ chứ!
Rebecca hỏi:
- Ông ấy có thông minh không ạ?
- Thông minh ấy à? Nó còn có biết cái quái gì ngoài chuyện ngựa nghẽo,
chuyện trung đoàn, chuyện săn bắn, ăn chơi; nhưng phải làm sao cho nó làm nên.
.. thằng bé hư đốn một cách đáng yêu quá. Cô có biết chuyện nó bắn chết một
người, và bắn thủng mũ một ông già vì đã xúc phạm đến nó không? Cả trung đoàn
quý nó lắm. Ở phố Wattier và ở quán “Cây dừa” nữa, bọn trai trẻ coi nó như ông
trùm ().
Khi cô Rebecca Sharp viết thư kể lại cuộc dạ hội ở trại Crawley Bà chúa cho
cô bạn thân nghe cô cũng tả cả cái cung cách đại úy Crawley đã đề cao mình lần
đầu tiên thế nào; nhưng không rõ tại sao, cô không miêu tả đầy đủ câu chuyện
trên. Trước đó, đã nhiều lần viên đại úy đặc biệt săn sóc đến cô; có đến năm
sáu lần, anh chàng tìm cách gặp cô trong lúc đang đi bách bộ chơi; có đến hàng
năm chục lần, viên đại úy mắt sáng lên khi gặp cô đi qua hành lang. Có những
buổi tối, lúc Becky hát, viên đại úy cứ bám lấy cây đàn dương cầm của cô đến
hàng chục bận (phu nhân lúc này ở trên gác vì mệt, cũng chả ai để ý đến bà ta)
.
Anh chàng đại úy đã gửi cho cô nhiều bức thư, tức là những lá thư hay ho
nhất mà anh chàng sĩ quan ngự lâm thô lỗ kia có thể nghĩ ra đánh vần mà viết
nổi (nhưng đối với đàn bà thì sự đần độn cũng cứ thành công như mọi đức tính
khác). Khi anh ta luồn lá thư đầu tiên vào mấy tờ nhạc lúc cô đang hát, thì cái
cô giáo bé nhỏ này đứng ngay dậy nhìn thẳng vào mặt anh chàng, lấy điệu bộ kiểu
cách cầm lấy mảnh giấy hình tam giác quạt mát rồi ném tọt vào ngọn lửa lò sưởi;
đoạn cô ta cúi chào anh chàng một cái sát tận đất, rồi về chỗ cũ, bắt đầu hát
vui vẻ hơn trước.
Bà Crawley ăn trưa xong đang lim dim ngủ thấy bài hát đứt đoạn, vội hỏi.
- Cái gì đấy?
- Tại có một lỗi nhạc đấy ạ.
Cô Sharp vừa đáp vừa cười; Rawdon Crawley giận tưởng phát điên lên được.
Thấy bà Crawley tỏ ra chiều chuộng cô giáo mới một cách quá rõ ràng, bà
Bute Crawley không những không ghen ghét mà còn đon đả chào mời cô ta sang chơi
bên nhà thờ; bà mời cả anh chàng Rawdon Crawley là kẻ kình địch với chồng bà về
khoản lãi năm phần trăm của bà lão nữa. Tốt đẹp vậy thay? Bà Bute Crawley và
ông cháu đi lại thăm nom nhau rất thân mật. Anh chàng này bỏ cả săn bắn, bỏ cả
những thú vui ở nhà Fuddleston; anh ta không cùng ăn với bọn quân nhân đồn trú
tại Mơtbơry nữa...Bây giờ, anh ta thú nhất là đi lang thang sang địa phận nhà
thờ Crawley...
Bà Crawley cũng sang đấy chơi, cả hai đứa bé cũng đi với cô Sharp, vì mẹ
chúng ốm. Một buổi tối kia, có hai người sóng đôi ra về với nhau, không có bà
Crawley cùng đi - vì bà ưng đi xe ngựa hơn. Cuộc đi chơi dưới ánh trăng qua
cánh đồng của nhà thờ, qua cái cổng nhỏ thông vào một khu vườn hẹp, xuyên qua
đám cây cối rậm rạp tối om, ngược theo con đường cái lớn dẫn về trại Crawley Bà
chúa, thật vô cùng hấp dẫn đối với hai con người vốn ưa những phong cảnh kỳ
thú, là viên đại úy và cô Rebecca.
Cô này nước đôi mắt biếc sáng lấp lánh nhìn lên trời noi:
- Ôi, những ngôi sao, những ngôi sao kia! Khi tôi nhìn sao trên trời tôi
cảm thấy như mình đã thoát tục.
Anh chàng cao hứng cũng đáp:
- Ồ à hừm...vâng, cô Sharp ạ, tôi cũng thế đấy.
Cô bèn hút thử một điếu, điệu bộ nom thật nhí nhảnh; cô khẽ thở phù khói
ra, khẽ kêu rú lên, và khẽ cười khúc khích, rồi trả điếu thuốc đại cho viên đại
úy. Anh chàng đưa tay lên xoắn bộ ria, lập tức rít một hơi dài làm cho đốm lửa
sáng rực lên dưới lùm cây rậm tối, và thề độc:
“Trời ơi ... Ồ ... à ... đây là điếu thuốc ngon nhất đời tôi đấy...à. Trí
thông minh cũng như lối chuyện trò của anh chỉ hay ho và lý thú đối với một anh
lính ngự lâm thô lỗ mà thôi.
Còn cụ Pitt già nua kia thì đang ngồi uống rượu bia và hút tẩu thuốc cùng
bác John Horrocks, bàn chuyện sắp thịt một con cừu khi lão vẫn liếc qua cửa sổ
rình đôi trai gái, và văng tục mà bảo rằng nếu không vì nể bà cụ Crawley thì
lão đã quẳng cả thằng Rawdon lẫn hành lý ra cửa cho đáng kiếp cái thằng khốn
nạn.
Bác Horrocks cũng nhận xét:
- Hắn quả thật là tồi; cái thằng lính hầu
Flethers của hắn còn đểu hơn nữa; nó lục tung cả phòng của bà quản gia lên để
mò ăn mò rượu, làm như bố người ta không bằng.
Ngừng lại một lúc, bác thêm:
- Nhưng cụ ạ, cháu coi cô Sharp cũng xứng đôi
với cậu ta đấy chứ...
Thật ra thì cô ta cũng xứng đôi...với cả bố lẫn
con.
Chương 12
MỘT CHƯƠNG KHÁ LÀ TRỮ TÌNH
Chúng ta hãy tạm rời chốn Thiên đường Accady và
những người bạn đáng yêu đang cùng sống với những đức tính nơi thôn ổ của họ,
để quay về Luân-đôn, xem cô Amelia bây giờ ra sao.
“Tôi để ý đến cô ta làm quái gì” một người vô
danh nào đó viết như vậy trong một bức thư gắn xi màu hồng, nét chữ xinh xinh.
“Cô ta nhạt nhẽo, vô vị lắm”, và còn thêm một vài nhận xét tốt bụng đại khái
như thế, có nhẽ tôi chẳng nên nhắc lại những ý kiến ấy ở đây làm gì, vì thực ra
đó chính là những lời lẽ tán tụng vô cùng tốt đẹp đối với Amelia.
Qua những kinh nghiệm sống, hẳn các bạn đọc
đáng quý cũng đã có dịp được nghe thấy những nhận xét tương tự từ miệng những
cô bạn gái tốt bụng: các cô ấy vẫn thường ngạc nhiên tại sao bạn lại có thể
nghĩ rằng cô Smith đẹp mê hồn, hoặc chẳng biết cái gì có thể xui viên thiếu tá
John tỏ tình với cái cô Thomson ngớ ngẩn, lúc nào cũng cười một cách vô vị kia;
cô ta có gì đáng chú ý đâu, chỉ được cái bộ mặt búp bê bằng sáp. Mà thật ra thì
một cặp má hồng, một đôi mắt biếc là cái quái gì? Mấy nhà luân lý học hỏi thế,
và ngỏ ý rằng những năng khiếu của thiên tài, một tâm hồn phong phú, sự hiểu
biết thấu đáo các vấn đề của Mangnall, và những kiến thức về thực vật học và
địa chất học xứng đáng với một bà mệnh phụ, cái tài khéo làm thơ, khéo hát
những bài sonate thơ kiểu Herz, và vân vân...đối với đàn bà, những thứ đó còn
quý hơn cái sắc đẹp thoảng qua, nó sẽ chỉ trong ít năm là phai lạt. Nếu được
nghe đàn bà bàn về cái vô tích sự và cái đặc điểm “sớm nở tối tàn” của sắc đẹp
âu cũng là một điều lý thú.
Người ta vẫn cho rằng đạo đức là điều đẹp đẽ
hơn nhiều, và cũng là điều những con người bất hạnh không được trời phú cho một
bộ mặt xinh xắn thường phải tâm tâm niệm niệm trong suốt cuộc đời họ còn đeo
đẳng; và rất có thể đối với các phu nhân thì những đức tính anh hùng của nữ
giới còn vinh quang và đẹp đẽ hơn nhiều so với một người đàn bà nội trợ dịu
dàng, trẻ trung, tươi tỉnh, thật thà, hiền hậu, mà nam giới vẫn có khuynh hướng
chuộng hơn...
Nhưng loại đàn bà thứ hai, những con người kém
cỏi ấy, cũng nên tự an ủi rằng rốt cuộc thì đàn ông chúng tôi vẫn mến phục họ;
mặc kệ những lời ngăn ngừa phản đối của mấy ông bạn quý, chúng tôi vẫn còn cứ
tiếp tục đến cùng những sai lầm và dại dột điên cuồng ấy. Riêng phần tôi, tôi
vẫn thường được những người tôi rất kính trọng căn dặn rằng: “Cô Brown chỉ là
một con bé vô vị; còn cô White chỉ được có mỗi bộ mặt kháu khỉnh xinh xinh();
bà Black thì chả có điều gì đáng nói”: nhưng trái lại, chính tôi đã được trò
chuyện rất thú vị cùng bà Black (dĩ nhiên, thưa bà, những chuyện ấy tôi sẽ
không tiết lộ); tôi đã thấy đàn ông xúm xít quanh chỗ cô White ngồi, còn bọn
trẻ tuổi thì đánh lộn nhau để được khiêu vũ với cô Brown; do đó tôi đang muốn
nghĩ rằng được nữ giới khinh bỉ, thật là vinh dự lớn cho một người đàn bà vậy.
Những cô thiếu nữ quen biết Amelia đã ban cho
cô cái vinh dự ấy một cách khá đầy đủ. Thí dụ như mấy chị em nhà Osborne là chị
em gái của George, cũng như mấy cô nhà Dobbin; họ không đồng ý với nhau được về
điểm nào bằng điểm nhất trí chê bai Amelia; họ cho rằng cô không có được tài
đức gì đáng kể. Thấy mấy ông anh của họ cứ khen mãi cô ta đáng yêu, họ lấy làm
ngạc nhiên quá. “Chúng mình nên đối tốt với chị ấy”, hai cô Osborne bảo nhau.
Hai chị em là một cặp thiếu nữ xinh xắn, lông mày rậm, có đầy đủ cô giáo, thầy
giáo dạy tư và thợ trang sức giỏi nhất phục vụ cho họ. Hai cô đối đãi với
Amelia tốt quá, săn sóc cô ta cẩn thận quá và cũng với thái độ quá bề trên đến
nỗi ngồi với họ cô gái bé bỏng đáng thương này không thể nói được gì nữa, và cứ
nhìn bề ngoài, thì quả là ngốc nghếch đúng như họ vẫn nghĩ. Cô đã cố gắng yêu
mến họ, vì họ sắp là chị em chồng của cô. Có lẽ những buổi sáng đằng đẵng cô
ngồi chơi với họ, cũng như những buổi chiều tẻ nhạt trang nghiêm. Cô đã cùng họ
đi chơi trên cái xe ngựa đồ sộ là xe riêng của gia đình họ, cùng bà Wirt, bà
giáo lý dạy tư của họ, một bà gái già gầy như que củi.
Họ bỏ tiền mua vé mời cô đi dự những buổi hòa
nhạc cổ điển, những đêm ca nhạc, và đưa cô đến nhà thờ St. Paul xem những đứa
bé mồ côi; ở đây cô lo sợ mấy cô bạn quá đến nỗi cũng không dám xúc động trước
bài đồng ca của các em bé. Nhà họ ở rất đầy đủ tiện nghi; bàn làm việc của ông
bố rất đẹp, rất sang, khách khứa ra vào ai cũng có vẻ sang trọng, quý phái; họ
tỏ ra hết sức tự trọng; họ có chỗ ngồi riêng đẹp nhất ở Hội bảo vệ trẻ mồ côi;
mọi tập quán của họ thì tẻ nhạt và hình thức đến không thể chịu nổi. Cứ sau mỗi
lần cô đến thăm viếng chấm dứt, cô Jane Osborne, cô Maria Osborne và bà giáo
gái già Wirt lại hỏi nhau, càng ngày càng ngạc nhiên hơn: “Người như thế thì có
cái quái gì mà George mê nhỉ?”
Tại sao thế ắt có bạn đọc tò mò hỏi vậy. Tại
sao Amelia được rất nhiều bạn ở trường yêu mến, mà bước vào đời lại bị giới
mình, cái giới phụ nữ hay xoi mói, ghét bỏ như vậy?
Thưa quý ngài thân mến, ấy là vì ở trường bà
Pinkerton, không có ai là đàn ông, chỉ có một ông giáo dạy khiêu vũ thì lại già
mất rồi; hẳn ngài không muốn các cô thiếu nữ kia xúm xít bám chặt lấy ông lão
chứ? Thấy George, anh chàng đẹp trai, cứ ăn sáng xong là biến đi mất và mỗi
tuần ăn cơm ở ngoài có tới sáu bảy lần, thì cô em và cô chị bỏ rơi lẽ dĩ nhiên
cũng phần nào cảm thấy khó chịu. Lúc anh chàng Bullock trẻ tuổi (trong ngân
hàng Hulker, Bullock và công ty, phố Lombard), người đã sáu tháng nay vẫn đeo
đuổi cô Maria, bây giờ lại mời cô Amelia nhảy điệu cotillon, có dễ ngài cho
rằng ý trung nhân của anh ta thích đấy hẳn?
Thế mà cô này bảo rằng mình rất vui lòng, y như
một con người ngây thơ và rộng lượng. “Em thấy anh quý chị Amelia, em bằng lòng
lắm”, sau cuộc nhảy, cô say sưa bảo Bullock như vậy. “Chị ấy là vị hôn thê của
anh George nhà em đấy; chị ấy cũng chả có gì đáng chú ý, nhưng được cái tốt
bụng và thành thực lắm; ở nhà chúng em ai cũng quý chị ấy quá”. Cô bé quý hóa!
Ai mà tính toán nỗi niềm, thương mến của cô ta có chiều sâu bao lăm trong cái
tiếng “quá” kia?
Bà Wirt và hai cô thiếu nữ thân thiết ấy luôn
luôn hết sức làm cho tâm trí George Osborne bị ám ảnh bởi ý tưởng anh ta đang
chịu đựng một sự hy sinh vĩ đại, và cái việc anh ta lao vào yêu cô Amelia say
sưa thật là một hành động rộng lượng đầy tính chất lãng mạn; cuối cùng tôi cũng
không rõ hẳn có phải anh chàng đã cho mình là một trong số những người đáng chú
ý nhất trong quân đội Anh quốc và một cách thoải mái, đành lòng chịu đựng được
yêu hay không.
Sáng nào anh ta cũng bỏ nhà ra đi; một tuần lễ
thì ăn cơm ngoài tới sáu ngày, cô chị và cô em cứ yên trí là những dịp ấy anh
chàng si tình đang bám lấy dải váy của cô Sedley; thiên hạ cứ tưởng anh ta đang
quỳ dưới chân Amelia, nhưng đâu phải lúc nào anh ta cũng quanh quẩn bên người
yêu.
Có nhiều lần đại úy Dobbin đến chơi tìm bạn,
thì cô Osborne (cô này chú ý tới viên đại úy lắm, rất thích nghe anh ta kể
chuyện chiến trận, và thích hỏi thăm sức khỏe của bà mẹ yêu quý của anh ta) vẫn
vừa cười, vừa chỉ về phía bên kia Công viên bảo: “Ồ, anh muốn tìm George thì
phải đến gia đình Sedley chứ. Từ sáng đến tối, chúng em có nhìn thấy mặt cậu ấy
đâu”. Nghe câu nói ngọt ngào, viên đại úy chỉ cười xòa một cách khó hiểu và
lảng sang chuyện khác ngay; đúng như một con người lịch thiệp hoàn toàn, anh ta
đề cập đến những chuyện vặt vãnh, đại khái chuyện ca nhạc ở Opera, chuyện buổi
dạ hội mới rồi của Hoàng tử ở điện Carlton, hoặc chuyện thời tiết... tóm lại là
những chuyện thông thường vẫn nói trong phòng khách.
Viên đại úy đi rồi, cô Maria bảo cô Jane:
- Cái anh chàng được chị cưng ấy, rõ chẳng biết
cái quái gì; chị có thấy lúc ta bảo George bận “làm nhiệm vụ”, anh ta đỏ mặt
thế nào không?
Cô chị lắc đầu đáp:
- Maria, thật đáng thương cho Frederick Bullock
không có được đôi chút e lệ như anh ta đấy.
- E lệ? Vụng về thì có, chị Jane ạ. Em chẳng
muốn Frêđêric giẫm chân lên làm thủng đuôi áo voan của em, như đại úy Dobbin
giẫm lên áo chị ở nhà bà Perkin ấy.
- Giẫm lên áo cô! Hi, hi ! Sao lại giẫm lên
được? Anh ta chẳng đã khiêu vũ với Amelia là gì?
Thực ra, đại úy Dobbin đờ mặt và luống cuống vì
nhớ lại một trường hợp mà anh thấy không cần thiết kể lại cho hai cô thiếu nữ
nghe làm gì. Một bữa, anh ta lại chơi gia đình Sedley, dĩ nhiên, lấy cớ đến tìm
George; George đi vắng, chỉ có một mình cô bé Amelia đáng thương đang ngồi cạnh
cửa sổ phòng khách, vẻ mặt như hơi rầu rĩ; sau vài chuyện bâng quơ, cô này đánh
bạo hỏi rằng có thật tin đồn trung đoàn sắp được điều động ra ngoại quốc là
đúng không? Và ngày hôm ấy đại úy Dobbin có gặp Osborne lần nào không?
Trung đoàn chưa bị điều động đi đâu hết, mà đại
úy Dobbin cũng không gặp George. Viên đại úy đáp rằng chắc anh ta đang ở nhà
với cô chị và cô em gái, rồi đề nghị để mình đi tìm George. Thế là cô thiếu nữ
dịu dàng đưa tay cho anh ta, tỏ ý biết ơn; anh ta vội đi ngang qua Công viên,
nhưng Amelia cứ đợi, đợi mãi nhưng chẳng thấy tăm hơi George đâu.
Cô thiếu nữ bé bỏng dịu dàng đáng thương quá.
Cô ta cứ tiếp tục hy vọng, hồi hộp, khát khao và tin tưởng. Các bạn thấy cuộc
đời Amelia chẳng có gì đáng miêu tả lắm.
Trong đời cô không có mấy cái mà bạn gọi là
những chuyện đặc biệt. Ngày nào cũng chỉ có một chuyện...”Bao giờ thì anh ấy
đến chơi nhỉ?” Khi ngủ cũng như lúc thức, chỉ có một ý nghĩ ám ảnh trong đầu.
Lúc Amelia hỏi Dobbin về tin tức của George thì tôi tin rằng anh ta đang chơi
bi-a với đại úy Cannon ở phố Swallow; George vốn là tay ham vui, thích bè bạn
đàn đúm, và rất giỏi trong mọi thú chơi cần đến sự khéo léo.
Một lần, đã ba hôm không không thấy George lại
chơi, Amelia đội mũ tìm đến thẳng nhà gia đình Osborne; cô em chồng tương lai
hỏi:
- Kìa? Chị lại bỏ mặc anh em mà lại đây ư? Hai
người giận nhau phải không, chị Amelia? Nói chuyện chúng em nghe nào?
- Làm gì ra có chuyện giận nhau. Ai mà giận anh
ấy được? Amelia nước mắt đầm đìa trả lời. Cô chỉ muốn lại để để thăm hai cô bạn
quý thôi; đã lâu quá, chưa gặp nhau. Hôm ấy cô có vẻ ngờ nghệch và vụng về hơn
mọi khi; lúc cô buồn bã ra đi, cô Osborne và bà giáo dạy tư trố mắt nhìn theo
lại càng ngạc nhiên hơn bao giờ hết, không hiểu Giơrgiơ yêu Amelia về nỗi gì.
Họ ngạc nhiên là phải. Làm sao Amelia có thể ngăn cản không cho những cặp
mắt đen láy táo bạo của hai cô gái kia soi mói vào tâm hồn bé bỏng, nhút nhát
của mình cho được? Cô ta co mình lại, tự giấu giếm vậy là tốt nhất. Tôi biết,
hai cô Osborne rất có tài khi phê bình một cái khăn quàng Casơmia, hay một cái
si-líp sa-tanh màu hồng, hoặc khi cô Turner nhuộm cái áo cũ màu đỏ thẫm và chữa
thành một cái áo ngoài ngắn, khi cô Pickford phá tấm áo khoác lông chồn để làm
cái bao tay và các dải áo. Thì tôi cam đoan rằng không có gì sánh kịp trí thông
minh của hai cô thiếu nữ nói trên. Nhưng ở đời có những thứ tinh tế hơn là lông
thú và sa-tanh, hơn tất cả các kho châu báu của Solomon, và hơn cả tủ áo của Nữ
vương thành Sheba () nữa. Đó là những vật mà nhiều người sành sỏi cũng không
tìm được vẻ đẹp. Có những bông hoa dịu dàng kín đáo ẩn trong những chỗ râm mát,
yên tĩnh, bạn dừng lại ngắm thì thấy tươi tắn, thơm tho; lại cũng có những bông
hoa lớn như cái chậu một dùng để trang hoàng vườn cảnh, tưởng như mặt trời nom
xuống cũng phải chói mắt. Cô Sedley không phải là loại hoa mặt trời này; và có
thể nói rằng cô là một đóa hoa violet khác thường, to bằng đóa thược dược kép.
Không, cuộc đời của một thiếu nữ từ nhỏ được ấp ủ trong tổ ấm của gia đình
không thể có những tình tiết gay go của những nhân vật tiểu thuyết thông
thường. Cạm bẫy hoặc tên đạn có thể giết chết những con chim già bay lượn ngoài
tổ; những con chim này có thể thoát khỏi móng vuốt của bày chim ưng lượn trên
trời, hoặc bị chúng xâu xé, nhưng những con chim non trong tổ ấm thì vẫn sống
một cuộc đời không thi vị nhưng êm đềm giữa những sợi lông mềm và những cọng
rơm tơ êm ái, cho tới khi nào đến lượt chúng cất cánh bay bổng. Trong khi Becky
Sharp đang bay lượn, chuyền trên những nhánh cây non giữa bao nhiêu là cạm bẫy,
tha hồ mổ thức ăn một cách khoan khoái, thì Amelia vẫn còn sống trong cảnh gia
đình ấm cúng ở khu phố Russell. Nếu cô có bước ra ngoài đời, thì đã có người
giàu kinh nghiệm hướng dẫn. Hình như cũng không có sự không may nào đe dọa cô
hoặc đe dọa cái gia đình giầu có, đầm ấm trong đó cô đang được nâng niu che
chở. “Má” thì sáng vẫn bận rộn việc gia đình; hàng ngày bà vẫn ngồi xe ngựa đi
chơi, và vẫn giữ cái lệ thú vị là đi thăm các gian hàng, mua bán vặt vãnh, tức
là cái thú giải trí, hoặc nếu các bạn thích thì gọi là cái nghề cũng được, của
những bà nhà giàu ở Luân đôn. Còn “ba” thì vẫn điều khiển những công việc bí
mật gì ấy trong khu City, hồi đó là một nơi hoạt động sôi nổi, trong khi khắp
Âu Châu chiến tranh đang gào thét và bao vương quốc đang ngả nghiêng, trong khi
tờ nhật báo “tin tức” có đến hàng vạn độc giả đặt mua, trong khi hôm nay bạn
nghe tin có một trận đánh ở Victoria, ngày mai đã có tin Mạc-tư-khoa bị đốt,
hoặc luôn luôn đang giờ ăn trưa nghe thấy bác rao tin thổi tù và ở khu phố
Russell báo rằng “Trận Lepdich...sáu mươi vạn quân tham chiến... nước Pháp đại
bại... hai mươi vạn người chết”.
Có một đôi lần ông Sedley trở về nhà vẻ mặt trầm ngâm; ta không lấy làm lạ
thấy những tin tức như trên khuấy động mọi trái tim và tất cả mọi Phòng Hối
đoái của Âu Châu.
Trong thời gian đó ở khu phố Russell, Bloomsbury, mọi sự vẫn cứ tiến hành y
như không có chuyện gì xảy ra ở Âu Châu. Cuộc thoái quân ở Lepdich không hề làm
giảm số bữa ăn hàng ngày của bác Sambo trong phòng ăn của đầy tớ; quân đồng
minh ồ ạt tiến vào nước Pháp, song tiếng chuông báo giờ ăn vẫn cứ đúng năm giờ
chiều là vang lên như thường lệ. Tôi cho rằng cô Amelia đáng thương chẳng buồn
quan tâm đến Brienne và Montmirail (), hoặc đến chiến tranh. Cô Amelia vẫn chắp
hai tay lại cầu kinh...và ôi, sung sướng thay! Cô vẫn say sưa lao mình vào
trong cánh tay của George Osborne làm cho những người có mặt phải ngạc nhiên vì
thấy cô tỏ tình quá lộ liễu. Thực tế thì hòa bình đã trở lại, Âu Châu qua cơn
sóng gió, sắp được nghỉ ngơi; tên dân đảo Corxơ () đã bị lật đổ và trung đoàn
của trung úy Osborne không còn lo phải điều động đi tham chiến nữa. Cô Amelia
lý luận như vậy. Vận mệnh của cả Âu Châu đối với cô tức là trung úy Osborne.
Tai họa đe dọa người yêu đã qua, cô hát bài Te Deum (). Anh ta là Âu Châu của
cô, là Hoàng đế của cô, là những vị quốc trưởng đồng minh của cô, và là vị
Hoàng tử nhiếp chính của cô. Đối với cô Osborne là mặt trời, mặt trăng và theo
ý tôi, cô tin rằng cuộc dạ hội hoa đăng vĩ đại tổ chức ở Hoàng cung chào mừng
các vị hoàng đế, chính nhằm mục đích đặc biệt chào mừng trung úy George Osborne
của cô vậy.
Chúng ta đã nói đến những mánh khóe, đến thói vụ lợi cá nhân và sự nghèo
túng, đó là những ông thầy đã giáo dục cô Becky Sharp. Đối với Amelia thì tình
yêu là bà giáo giỏi nhất; dưới sự dạy dỗ của bà giáo ai cũng biết tiếng này, cô
thiếu nữ đã tấn tới phi thường. Trong khoảng mười lăm hay mười tám tháng, ngày
nào cô cũng chăm chỉ học tập dưới sự hướng dẫn của bà, cô ta đã nắm được bao
điều bí mật mà bà Wirt và hai cô thiếu nữ mắt đen láy, ngay cả chính bà
Pinkerton ở Chiswick nữa cũng không thể hiểu nổi! Thật vậy, những người đàn bà
không chồng kênh kiệu và đáng kính ấy biết sao được. Đối với bà Wirt và bà
Pinkerton sự say đắm tình tứ không thành vấn đề nữa rồi: tôi sẽ chẳng dám hé
môi nói về một chuyện như vậy ở các bà. Cô Maria Osborne thật ra cũng có gắn bó với
Frederick Augustus Bullock, trong hãng Bullock và Bullock. Nhưng cuộc tình
duyên của cô rất đáng kính; đối với cô, lấy lão Bullock cha hay lấy anh Bullock
con làm chồng cũng thế thôi vì, như mọi cô thiếu nữ gia giáo khác, tâm trí cô
chỉ bận bịu vì một ngôi nhà ở Công viên Lane, một ngôi nhà nghỉ mát ở
Wimbledon, một cái xe ngựa thật là đẹp, một đôi ngựa thật là to, và hai thằng
hầu thật là béo, cùng một phần tư số thực lãi đồng niên của hãng Bullock và
Bullock; Frederick Augustus chỉ là người đại diện cho tất cả những khoản đó.
Giả thử hồi ấy người ta đã nghĩ lấy vòng hoa
cam để tượng trưng cho sự trinh bạch của thiếu nữ (tục này du nhập vào nước ta
từ Pháp, nơi tệ bán con gái phổ biến trong việc hôn nhân) thì tôi tin rằng cô
Maria rất có thể đội cái vòng hoa trong trắng đó mà bước lên xe hoa ngồi bên
cạnh ông già đầu hói, mũi cà chua, bị bệnh thống phong, tức là ông lão Bullock;
và cô cũng sẽ kín đáo mà sống trọn cuộc đời đẹp đẽ của mình, vô cùng hạnh
phúc.., Chết một nỗi, ông già lại có vợ mất rồi, cho nên cô đành yêu anh con
trai vậy. Những bông hoa cam thơm tho tươi tắn làm sao! Hôm nọ, tôi thấy cô
Trotter đầu mang vòng hoa cam, líu díu bước lên xe hoa trước nhà thờ St George,
ở quảng trường Hanover, có bá tước Methuselah lóc cóc theo sau. Cô e lệ, kín
đáo kéo màn che kín cửa xe...Con người ngây thơ đáng yêu thay!
Có đến một nửa số xe ngựa trong Hội chợ phù hoa
bị huy động trong việc cưới xin này.
Cô Amelia không được giáo dục lối yêu đương như
vậy.
Chỉ trong khoảng một năm trời, cô bé ngoan
ngoãn đã trở thành một thiếu nữ ngoan ngoãn...nghĩa là khi được ngày lành tháng
tốt, cô sẽ trở thành một người vợ ngoan ngoãn.
Cô gái trẻ trung này đặt hết tâm hồn vào sự gắn
bó với chàng sĩ quan thanh niên trong quân đội hoàng gia mà ta đã biết qua (có
lẽ cha mẹ cô cũng đã dại dột khuyến khích, giúp đỡ cô trong những sự tơ tưởng
lãng mạn như vậy); ngay phút đầu tiên mỗi khi ngủ dậy, cô đã nghĩ đến người yêu
rồi; tên anh ta được nhắc đến sau cùng trong lúc cô cầu kinh. Chưa bao giờ cô
gặp một con người thông minh, đẹp trai như anh chàng. Con người cưỡi ngựa mới
đẹp làm sao, khiêu vũ mới giỏi làm sao; nói chung, thật là một người anh hùng.
Cứ ca tụng mãi lối cúi chào của Hoàng tử, so với George thì còn kém xa. Cô đã
được nhìn mặt ông Brummell mà thiên hạ khen nức nở; đem một người như thế mà so
sánh với chàng George của cô! Trong số những anh kép đẹp trai ở rạp Opera (hồi
ấy có nhiều anh kép ở rạp Opera rất xinh trai), chẳng ai có thể bì được với
George.
Có khiêm tốn lắm thì anh ta cũng phải là một
hoàng tử trong thần thoại. Thế mà, ôi, cao quý vậy thay? Chàng đã hạ mình xuống
để lọt vào mắt xanh hình ảnh một cô Cinderella thấp kém như cô. Nếu bà
Pinkerton là người thân tín của Amelia, chắc thế nào bà cũng đã tìm cách kiềm
chế sự say mê mù quáng của cô, nhưng bạn cứ tin rằng việc ấy cũng chẳng có kết
quả lắm đâu. Ở một số phụ nữ, sự say mê ấy là do bản năng; có những người trời
sinh ra để tính toán, và có những người trời sinh ra để yêu; mong rằng các bạn
chưa vợ đọc những dòng này hãy chọn loại nào thích hợp với mình nhất.
Mải say sưa trong tình yêu, Amelia quên khuấy
mất mười hai cô bạn thân ở Chiswick một cách vô cùng tàn nhẫn, như những con
người ích kỷ thông thường khác. Cô chỉ chuyên tâm chú ý vào có một chuyện. Cô
Saltire tai thì lạnh lùng quá, không tâm tình được; cô cũng không sao đem tâm
sự của mình ra ngỏ với cô Swartz, cô gái triệu phú tóc quăn người đảo St. Kitt.
Những ngày lễ, em bé Laura Martin thường đến chơi với cô; tôi tin rằng cô đã
chọn Laura làm bạn tâm tình của mình, và hứa bao giờ lấy chồng sẽ đem Laura về
ở chung; cô đã ngỏ với Laura rất nhiều điều thuộc về chuyện yêu đương đắm say;
đối với cô bé, những điều ấy hẳn mới lạ và bổ ích. Chao ôi, tôi e rằng cô Emmy
đáng thương, tâm trí không được bình thường cho lắm.
Cha mẹ cô đã làm gì để giữ cho quả tim bé nhỏ
kia khỏi đập quá nhanh? Ông lão Sedley hình như không hề chú ý đến câu chuyện.
Gần đây ông càng có vẻ đăm chiêu hơn, suốt ngày vùi đầu vào những công việc ở
khu City.
Bà Sedley thì vốn tính dễ dãi, không hay soi
mói, thành ra bà cũng không cảm thấy khó chịu vì chuyện yêu đương của con gái.
Joe thì đi vắng anh ta đang bị một người đàn bà góa Ai len ở Cheltenham tấn
công. Một mình Amelia ở nhà... ôi, nhiều khi cô thấy sao căn nhà rộng rãi,
trống trải quá, vì George còn bận việc trong đội Ngự lâm kỵ binh, không thể xin
phép rời khỏi Chatham về luôn được; vả lại khi nào về tỉnh anh ta cũng còn thăm
viếng bè bạn, cô chị và cô em gái ở nhà hoặc đi chơi bời đây đó (người như anh
ta là một vật trang sức cho bất cứ một cuộc hội họp nào); khi anh ta trở về
trung đoàn thì lại mệt mỏi quá rồi, không muốn viết những bức thư dài nữa. Tôi
biết rõ chỗ cô ta giấu tập thư của George; tôi có thể lén lút ra vào phòng
riêng của Iachimo... Như Iachimo? Không như vậy tồi quá.
Tôi chỉ muốn làm mặt trăng để được ngó vào tấm
giường một cách vô tội, nơi lòng tin, sắc đẹp và sự thơ ngây đang nằm mơ mộng.
Song, nếu những lá thư của Osborne đều cộc lốc
một cách rất nhà binh thì ta phải thú thực rằng, giả sử phải đem in cả những lá
thư cô Sedley gửi cho Osborne, ắt phải kéo dài cuốn truyện này thành rất nhiều
tập, ngay những bạn đọc đa cảm nhất cũng không thể chịu nổi. Không những cô
viết kín đặc hàng trang giấy lớn, mà còn dùng những thủ thuật rất lạ; cô chép
nguyên văn hàng trang thơ vào lá thư một cách không hề thương xót; cô gạch dưới
nhiều chữ, nhiều câu một cách say sưa sôi nổi; tóm lại, cô bộc lộ hết những dấu
hiệu về đời sống tâm tưởng hàng ngày của mình. Cô không phải là một nhân vật
trong tiểu thuyết thành ra thư cô viết có những đoạn lặp đi lặp lại. Nhiều khi
cô viết sai cả ngữ pháp, làm thơ thì hết sức tự do về quy tắc. Song, thưa các
bà, nếu thỉnh thoảng các bà không được phép bấm dây tơ lòng mà không cần tuân
theo nhạc luật, nếu vì các bà không thuộc lầu cách phân biệt thế nào là “ngắt
đoạn ba”, thế nào là “ngắt đoạn bốn” mà không được đàn ông yêu, thì Thi ca có
lẽ cũng đến tiêu ma, và các ông giáo thì cũng đến chết đói thảm hạm).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét