NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 5: ĐÀN CHÓ PHẢI THẦM LẶNG TRONG CUỘC SĂN ĐUỔI TỐI TĂM
Chương 1
CHIẾN LƯỢC QUANH CO
Bạn đọc
nên chú ý một điểm trước khi đọc những trang tới và nhiều trang về sau nữa.
Tác giả
rất tiếc là phải nói đến bản thân mình, nhưng thấy cần phải nói. Đã bao năm
nay, tác giả xa Paris. Từ độ ấy, Paris có nhiều thay đổi. Paris ngày nay là một
thành phố mới, đối với tác giả hầu như xa lạ. Tác giả không cần nói mình yêu
Paris, Paris đã là quê hương tinh thần của tác giả. Paris đã qua bao nhiêu sự
phá hoại, bao nhiêu sự kiến thiết, cái thành phố Paris thừi tươi trẻ của mình,
cái thành phố Paris mà mình kính cẩn mang hình ảnh bên lòng, Paris ấy bây giờ
đây là một Paris của dĩ vãng. Bạn đọc hãy cho phép tác giả nói đến cái Paris
xưa ấy như là nó đương còn hiện tại. Có khi tác giả đưa bạn đến một khu vực nào
đó và nói: “ở con đường phố ấy có ngôi nhà thế kia” thì ngày nay phố chẳng có,
mà nhà cũng không. Bạn đọc sẽ soát lại xem nơi kia nơi nọ có còn như cũ không,
nếu chịu mất công. Riêng về phần tác giả, tác giả không quen thuộc với Paris
mới. Tác giả viết truyện này với ảo ảnh của Paris ngày xưa trước mắt, một ảo
ảnh muôn phần đáng quí. Thật dễ chịu biết bao nhiêu khi tác giả mơ tưởng là giờ
đây, vẫn còn dấu vết của những sự vật mình đã trông qua trong những ngày còn ở
quê cha đất tổ, là không phải mọi vật đều đã tan biến như mây khói. Ngày nào
còn đi đi lại lại ở quê hương thì anh còn tưởng rằng những con đường phố ấy,
những mái nhà, những cánh cửa ấy chẳng dính dáng gì đến anh, những cây cối ấy
giống như muôn nghìn cây cối khác, những ngôi nhà anh không bước chân vào ấy
chẳng có ích lợi gì cho anh, những phiến đá lát đường anh giẫm chân lên chỉ là
những phiến đá. Đến khi anh xa quê hương, anh mới nhận thấy những con đường kia
là thân thiết, anh nhớ những mái nhà, những cánh cửa ấy, anh thấy những bức
tường kia cần cho đời anh, những cây cối kia là bạn lòng của anh; những ngôi
nhà anh không đặt chân đến, bây giờ anh thấy thật ra anh đã vào ra hàng ngày và
những phiến đá lát đường, anh đã trải ruột gan, anh đã dội máu nóng của con tim
anh lên trên ấy. Đối với hình ảnh những nơi ấy mà anh không đến nữa, - có lẽ
không bao giờ anh còn được đến lại nữa, - đối với những hình ảnh ấy say mê một
cách xót xa. Những hình ảnh ấy đã đến mãi với anh, rầu rầu như một bóng mơ, nó
làm cho quê hương thiêng liêng hiển hiện trước mắt. Có thể nói đó là hình dung
của nước Pháp, anh yêu những hình ảnh ấy, anh gợi nó lên nguyên hình, như hệt
ngày xưa, anh bám chặt lấy nó, anh không muốn thay đổi một tí gì cả, bởi vì anh
quý chuộng vẻ mặt tổ quốc cũng như vẻ mặt mẹ anh.
Bởi thế
tác giả xin được phép nói về sự vật quá khứ như còn hiện tại, bạn đọc nhớ cho
và cho phép tác giả kể tiếp.
Giăng
VanGiăng rời bỏ ngay đại lộ và đi vào các đường phố. Ông cố rẽ ngoặt rất nhiều
bận, một đôi khi ông quay trở lại một quãng, đột ngột, để xem cho chắc là không
ai đuổi theo mình.
Đó là
mánh khóe của con nai bị săn đuổi. Cách ấy có nhiều cái lợi, cái thứ nhất là nó
đánh lừa người đi săn và chó săn bằng những vết chân chồng dấu ở những chỗ đất
mềm. Gặp trường hợp như thế, trong đạo săn bắn, người ta gọi lóng là con nai đã
trườn.
Đêm hôm
ấy là một đêm trăng tròn. Giăng VanGiăng thấy như thế rất lợi bởi vì mặt trăng
còn thấp, trong các đường phố bóng tối và ánh sáng in thành hai mảng Vangiăng
có thể tiến men theo các dãy phố, bên phía bóng tối và nhìn rõ ra phía sáng
trăng. Ông quen nghĩ rằng như thế thì ông cũng chẳng thấy gì bên phía bóng tối.
Và ông tin chắc rằng không có ai lần mò theo ông trong các ngõ ngách quanh phố
Pôlivô.
Côdét
không hỏi một câu nào cả, lặng lẽ di theo. Sáu năm đau khổ trong tuổi thơ ấu đã
rèn luyện cho nó một tâm hồn cam chịu. Vả lại nó đã làm quen với tính kỳ quặc
của Vangiăng, nó cũng quen thấy những cái bất ngờ của số mệnh. Hơn thế, có
Vangiăng, thì cd chẳng thấy có gì đáng sợ nữa.
Giăng
VanGiăng cũng không hơn gì Côdét, ông không biết mình đi đâu. Ông tin cậy Chúa
cũng như Côdét tin cậy ông. Ông cảm thấy bàn tay ông cũng đương ở trong tay một
người lớn hơn, một người vô hình, người ấy đương dắt dẫn ông đi. Ông không óc ý
định, không có chương trình, không dự tính. Ông cũng chưa tin chắc rằng đó là
Giave. Mà nếu có Giave thì chắc gì Giave đã nhận ra Giăng VanGiăng? Ông không
cải trang là gì? Người ta cho là ông đã chết rồi kia mà! Những mấy ngày gần đây
có những hiện tượng không thường. Thế là đủ cho Giăng VanGiăng quyết định không
trở về nhà Gorbô nữa. Ông tìm một cái hốc để trốn tạm như một con thú bị đuổi
khỏi hang, trong khi chưa tìm ra một xó nào để ở.
Giăng
VanGiăng qua lại lui tới quanh có trong khu phố Muphơta. Hàng phố ngủ sớm cả,
im lìm, như còn đương sống trong pháp chế trung cổ với cái luật giới nghiêm
khắc nghiệt. Ông qua lại nhiều đường phố chằng chịt, theo những chiến thuật cao
kỳ. Có những nhà trọ đây đó nhưng ông không vào vì nhà trọ không thích hợp với
ông. Ông tin chắc rằng nếu vạn nhất có gười nào theo dấu ông thì người ấy cũng
chưa mất dấu đâu.
Ông đi
qua phố Pôngtoa, ngang đồn cảnh sát ở số nhà 14, khi đồng hồ nhà thờ Đuymông đổ
mười một tiếng. Mấy phút sau vẫn theo linh tính ông quay mặt lại. Nhờ ánh đèn
trước cửa đồn cảnh sát, ông trông thấy rõ ràng có ba người theo chân ông, lần
lượt đi qua dưới ánh đèn, về phía bóng tối của đường phố. Một người trong bọn
đi vào cổng đồn. Người đi đầu trông dáng rất khả nghi. Ông bảo với Côdét:
- Đi đây
con.
Rồi ông
vội vã rời bỏ phố Pôngtoa. ( Pontoire)
Ông mở
một con đường cung đi vòng cổng Patơriắc đã đóng, bước sải qua phố Êpê Đơ Boa
và phốAcbalét và tiến vào phố Pốt.
Ở chỗ ấy
có một ngã tư ngày nay có trường Rônlanh (Roland). Phố mới Xanhtơ Giơnơvievơ
(Sainte Geneviève) bắt đầu từ ngã tư này. (Chẳng cần phải nói là phố mới Xanhtơ
Giơnơvievơ là một phố cổ và đến mười năm cũng không có một chuyến xe trạm qua
phố Pốt. Cái phố Pốt này hồi thế kỷ 13 con người làm đồ gốm và chính tên của nó
là phố Pô (Pô: pot, tiếng Pháp chỉ các thứ bình, lọ, vại bằng đất nung hay bằng
sắt. Pốt:( postes, tiếng Pháp nghĩa là trạm bưu điện).
Trăng rằm
dội ánh vằng vặc xuống ngã tư. Vangiăng nấp vào một cái cửa. Ông đồ rằng nếu
như bọn chúng còn theo dõi ông thì khi chúng đi qua dưới ánh trăng, ông sẽ trông
thấy chúng rõ mồn một.
Đúng như
ông đoán, không đầy ba phút sau, bọn ấy hiện ra, bây giờ là bốn người chứ không
phải ba nữa. Tên nào cũng cao lớn, cũng mặc áo khoác đen dài, đầu đội mũ tròn,
tay cầm gậy lớn. Hình vóc cao lớn và bàn tay hộ pháp của chúng trông cũng dễ sợ
như dáng đi hắc ám của chúng, chúng có vẻ là bốn con ma hóa trang làm người
thành thị.
Chúng
dừng lại giữa ngã tư và chụm đầu như thể hội ý. Chúng có vẻ do dự. Cái tên ra
dáng cầm đầu quay lại và chỉ rất nhanh về hướng vg đi. Một tên khác có vẻ nhất
quyết chỉ hướng ngược lại. Khi tên thứ nhất quay lại thì ánh trăng rọi vào ngay
mặt nó. Giăng VanGiăng (Jean Valjean) nhận ra quả thị là Giave. (Javert)
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 5 - Chương 2
MAY MÀ CẦU AUSTÉCLIT (Austerlitz) CÓ XE CỘ ĐI LẠI
Giăng
VanGiăng không còn phân vân gì nữa. Nhưng cũng may chính bọn chúng còn đương do
dự. VanGiăng lợi dụng sự do dự của chúng. Những phút chúng mất đi vì do dự như
thế lại rất có lợi cho ông. Ông ra khỏi chỗ nấp và tiến sâu vào phố Pốt, hướng
về khu vườn Bách thảo mà đi. Côdét bắt đầu đuối sức, ông phải ẵm nó trong tay
và cứ thế đi. Ngoài đường không một bóng người qua lại. Trời sáng trăng, người
ta cũng không đốt đèn phố.
VanGiăng
rảo bước đi lên.
Chỉ mấy
sải chân ông đã đến trước xưởng gốm Gôbơlê. Ánh trăng chiếu rõ những câu chiêu
hàng từ xưa khắc ở trước cửa xưởng:
Đây là
xưởng gốm
Của
Gôbơlê con,
Hãy đến
mua cong.
Chậu, bô
và hũ.
Cái gì
cũng đủ:
Ống máng,
gạch hoa…
Khách
hàng gần xa,
Đều tiếp
niềm nở.
Ông đi
qua phố Cơlê, đi khỏi giếng may Xanh Vichto, theo những phố thấp dọc vườn Bách
thảo và đến bờ sông. Đến đây ông dừng lại, quay đầu trông. Bờ sông vắng vẻ, phố
xá không bóng người. Đằng sau ông không có ai cả, ông thở ra nhẹ nhõm.
Ông tiến
đến cầu Austeclít.(Austerlitz)
Thuở ấy
thuế cầu chưa bỏ.
Ông đến
buồng người thương binh thu thuế, đưa một xu.
Người ấy
bảo:
- Phải
hai xu mới được. Ông bế một đứa bé đi dạo nên cứ phải trả hai xuất.
Ông trả
ngay hai xu và lấy một bực dọc vì có người để ý.
Đã đi
trốn thì phải trót lọt, trơn tru, không va vấp vào đâu.
Một cỗ xe
tải to đi qua cầu sông Xen (Seine)một lần với vàingười và cũng đi sang bờ bên
phải. Cái đó có lợi cho ông, ông lẩn trong bóng xe mà đi qua cầu.
Đến giữa
cầu Côdét thấy tê chân, đòi xuống đi. Ông để nó xuống và cầm tay nó dắt. Ông
vượt khỏi cầu thì thấy về bên phải có mấy công trường. Ông nhằm hướng đó mà đi.
Muốn đến khu vực công trường, phải liều lĩnh đi qua một khoảng trống sáng ngời
ánh trăng, nhưng ông không ngần ngại. Bọn người đuổi theo ông chắc chắn là mất
dấu rồi. Ông cho là đã thoát nạn. Ông tin là chúng nó sục tìm, nhưng không theo
dõi được nữa.
Một đường
phố nhỏ là phố Sơmanh Ve Xanh Angtoan chạy dài giữa hai công trường bọc vách.
Phố ấy hẹp và tối tăm, tuồng như xây dựng sẵn để chờ ông. Trước khi tiến vào,
ông ngoái nhìn lại đằng sau.
Ở vị trí
ông có thể trông rõ suốt chiều dài cầu Austeclít. Ông thấy có bốn bóng đen vừa
đi lên cầu. Bốn bóng đen ấy quay lưng về phía vườn Bách thảo và đi sang bờ
phải.
Bốn bóng
đen ấy chính là bốn tên đã đuổi theo ông, Giăng VanGiăng rùng mình kinh hãi y
như con thú chạy sổng vừa bị bắt gặp lại.
Ông còn
một hy vọng là lúc ông dắt tay Côdét đi qua khoảng đất trống vằng vặc ánh
trăng, có lẽ bọn ấy chưa lên cầu và như thế thì vẫn chưa nhìn thấy ông. Trong
trường hợp ấy, nếu ông đi vào con đường phố nhỏ trước mặt, nếu ông đến được khu
vực công trường rồi vùng ao đầm, vườn tược và những khoảnh đất chưa có nhà thì
ông thoát nạn.
Ông cảm
thấy đi vào cái phố nhỏ lặng lẽ ấy có thể yên thân được. Ông đi vào phố.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 5 - Chương 3
XEM BẢN ĐỒ PARIS NĂM 1727
Đi độ ba
trăm bước, Giăng VanGiăng đến một chỗ rẽ. Đường phố chia làm hai, một chệch về
bên trái, một chệch về bên phải như hai nhánh của một chữ Y. Chọn đường nào?
Ông không
do dự, rẽ về bên phải.
Tại sao
vậy?
Là vì
nhánh trái đi về ngả ngoại ô, tức là khu vực có người, còn nhánh phải đưa về
cánh đồng vắng.
VanGiăng
và Côdét không đi nhanh được nữa. Bước đi của Côdét làm chậm chân VanGiăng. Ông
lại ẵm nó. Nó gục đầu vào vai ông không nói một tiếng.
Chốc chốc
ông ngoái cổ nhìn lại: ông vẫn chú ý đi về mé bóng tối. Đằng sau ông, con đường
phố thẳng tuột, mấy lần nhìn lại, ông vẫn không thấy bóng dáng ai. Vẫn yên tĩnh
hoàn toàn, ông cũng có phần yên dạ. Nhưng khi ngoảnh lại lần sau cùng, thình
lình ông thấy như có vật gì động đậy ở đằng xa trong bóng tối. Ông không đi
nữa, ông lao mình lên phía trước. Ông hy vọng tìm thấy một lối ngang để lẩn vào
và làm cho săn người phải lạc hướng một lần nữa.
Cuối phố,
ông gặp một bức tường.
Nhưng bức
tường không chắn lối đi lên của ông. Bức tường ấy nằm dọc theo một ngõ phố
ngang ở cuối con đường phố ông vừa đi qua.
Đến đây
cũng phải dứt khoát chọn đường một lần nữa: đi bên phải hay bên trái?
Ông nhìn
về bê phải. Ngõ phố chạy dài một đoạn giữa những nhà xe và vựa một lúc rồi hết
lối. Ông nhìn thấy rõ ràng bức tường trắng nằm cuối ngõ.
Ông nhìn
sang bên trái. Ngõ phố bên ấy thông. Cách chỗ ông đứng chừng vài trăm bước, nó
đổ ra một phố to như một chi lưu đổ về sông cái. Lối thoát là ở phía ấy.
VanGiăng
vừa định rẽ sang bên trái để cố đi đến con đường phố lớn lờ mờ đầu kia thì cũng
vừa thấy ở góc phố ấy một vật gì lù lù như một pho tượng đen không nhúc nhích.
Đó hẳn là
một người nào người ta vừa cắt ra gác ở đấy. Người ấy đón lối đi và chờ Giăng
VanGiăng tới.
Giăng
VanGiăng lùi lại. Cái nơi mà Giăng VanGiăng đang đứng, giữa ô Xanh Angtoanơ và
khu La Rapê là một khu vực Paris bị đảo lộn hoàn toàn trong những cuộc xây dựng
mới, người thì cho là xấu đi, người thì cho là đẹp hẳn lên.
Đất trồng
trọt, xưởng gỗ đá, những ngôi nhà cũ đã biến hết. Bây giờ là những phố lớn mới,
những rạp hát ngoài trời, rạp xiếc, trường đua ngựa, những ga xe lửa, một cái
nhà tù Mada. Bộ mặt của tiến bộ như ta thấy đấy, cùng với món vạ của nó.
Cách đây
nửa thế kỷ, trong ngôn ngữ bình dân thông dụng, người ta cứ nhất định gọi Viện
khoa học là “Nhà tứ lộc”, Nhạc hí viện là Viện Phâyđô, thì cái nơi mà Giăng
VanGiăng vừa tới thì được gọi là Pơti Pichpuýt. Cổng Xanh Liacơ, cổng Paris,
cửa ô Xecgiăng, Lê Poócsơrông, La Galiôtơ, Lơ Xêlextanh, Lê Capuyxanh, Lơ Mêla,
La Buốcbơ, Lácbơtơ đơ Cơracôvi, La Pơtitơ Pôlônhơ, Lơ Pơti Pichpuýt. Đó là
những tên của Paris cổ, nổi lềnh bềnh trên Paris mới. Ký ức của nhân dân còn
bám vào những tàn tích của thời xưa.
Khu phố
Pơti Pichpuýt thực ra cũng chưa bao giờ thành hình hẳn hoi. Nó có cái vẻ mặt tu
viện của một thành phố Tây Ban Nha. Đường ít lát đá, phố xá lơ thơ. Ngoài hai
ba phố mà chúng tôi sẽ nói đến, toàn là tường cao và bãi vắng. Không có cửa
hàng, không có xe cộ, lác đác một ngọn đèn trong khung cửa sổ. Đèn lửa tắt hết
từ mười giờ đêm. Vườn tược, tu viện, xưởng gỗ đã, đầm, đìa, một vài cái nhà
thấp, rất hiếm và những bức tường lớn cao bằng nhà.
Đó là bộ
mặt của khu phố ấy một thế kỷ trước. Cách mạng đã bạc đãi nó, viên chức cộng
hòa của thành phố đã phá hủy, chọc chỗ này, đục chỗ kia. Gạch ngói, vôi vữa phá
hủy dồn đống đây đó.
Cách đây
nửa thế kỷ, khu phố cũ không còn gì mấy dưới những đường vạch ngang dọc của nhà
cửa mới. Ngày nay thì nó đã được xóa hẳn. Những bản đồ mới bây giờ không còn
ghi dấu vết của khu Pơti Pichpuýt, nhưng bản đồ năm 1727 của nhà xuất bản Đơni
Chiery ở Paris, phố Xanh Liacơ, đối diện với phố Đuy Pơlatơrơ và bản đồ của nhà
xuất bản Giăng Giranh ở Lyông, phố Mecxierơ, ở La Pơruyđăngxơ, vẫn còn ghi rõ
rệt khu phố này. Khu Pơti Pichpuýt như chúng tôi đã nói có một phố chữ Y, gồm
phố Sơmanh và Xanh Ăngtoanơ, tách ra thành hai nhánh, nhánh trái tên là phố nhỏ
Pichpuýt, nhánh phải là phố Pôlôngxô. Hai cái nhánh chữ Y ấy nối với nhau trên
ngọn bằng một cái gạch ngang, ấy là phố Đơroamuyrơ. Phố Pôlôngxô đến đây thì
hết, còn phố nhỏ Pichpuýt thì đi xa hơn nữa, ngược lên chợ Lơnoa. Người đi từ
bờ sông Xenơ tới đầu phố Pôlôngxô sẽ thấy phố Đơroamuyrơ ở bên tay trái; và đi
ngoặt thước thợ sẽ thấy bức tường dài của phố ấy trước mặt và bên phải thêm một
khúc cụt của phố Đơroamuyrơ, không có lối thoát, gọi là ngõ cụt Giăngrô.
Giăng
VanGiăng đang ở chỗ ấy.
Như chúng
tôi vừa nói ở trên, khi nhìn thấy cái bóng đứng gác ở góc phố Đơroamuyrơ và phố
nhỏ Pichpuýt. Giăng VanGiăng lùi lại. Chắc chắn là cái bóng đen ấy đang rình
ông.
Làm thế
nào bây giờ?
Quay trở
lại thì không kịp nữa. Cái vật động đậy trong bóng tối ở đàng sau ông mấy phút
trước đây, bây giờ ông đoán ra là Giave và đồng đội. Khi VanGiăng đến đầu này
đường phố, có lẽ Giave đã vào đầu kia. Cứ như thế thì chắc Giave rất thuộc cái
khu phố mắc cửi này và hắn đã cắt người chắn lối thoát rồi. Những điều ước đoán
chắc nịch ấy quay cuồng trong đầu óc khổ sở của VanGiăng, như một nắm bụi tung
trong gió lốc. Ông nhìn kỹ ngách Giăngrô; ngách bị nghẽn thật sự. Bóng sẫm của
người canh nằm sóng sượt trên mặt đường giãi ánh trăng. Đi lên tức là sa vào
người ấy. Quay trở lại sẽ rơi vào tay Giave. Giăng VanGiăng thấy mình như sa
vào một cái lưới đương từ từ thắt lại.
Thất
vọng, ông ngẩng lên nhìn trời.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 5 - Chương 4
MÒ MẪM ĐỂ TRỐN
Để hiểu
những điều xảy ra sau này, phải hình dung một cách chính xác cái ngõ Đơroamuyrơ
và đặc biệt cái góc tường ở bên tay trái. Khi người ta đi từ phố Pôlôngxô để
vào cái ngõ này. Ngõ Đơroamuyrơ bên tay phải, cho đến cái phố nhỏ Pichpuýt,
hoàn toàn chỉ có những ngôi nhà trông có vẻ nghèo, xấu, bên tay trái thì chỉ có
một ngôi nhà trông nghiêm nghị, gồm nhiều nhà ở, cứ cao dần lên, một hai tầng
gác cho đến phố nhỏ Pichpuýt, như thế là ngôi nhà này rất cao về phía phố nhỏ
Pichpuýt, còn về phía phố Pôlôngxô thì lại khá thấp và đến chỗ ấy, chỗ cái góc
tường mà chúng tôi đã nói đến, nó hạ thấp đến mức chỉ còn có một bức tường. Bức
tường này không chạy thẳng ra phố, nó thành một cái vách lùi vào trong mà hai
góc tường nhô ra, cho nó khuất đi, khiến cho hai người quan sát ở phố Pôlôngxô
và ở phố Đơroamuyrơ không trông thấy nó được.
Từ hai
góc tường này, bức tường kéo dài ra phố Pôlôngxô đến ngôi nhà số 48 và ra phố
Đơroamuyrơ, những đoạn tường này ngắn hơn nhiều, đến một ngôi nhà tối tăm mà
chúng tôi đã nói đến, ở một đầu hồi của nhà này, thành ra lại có một góc tường
lõm vào ở đây. Cái đầu hồi này trông u ám, chỉ có một cái cửa sổ, hay nói đúng
hơn, hai cánh cửa sổ bọc một tấm kẽm và lúc nào cũng đóng kín.
Tình hình
những địa điểm mà chúng tôi mô tả ở đây hoàn toàn chính xác và chắc chắn phải
gợi cho những người đã ở khu này trước kia một kỷ niệm rất rõ rệt.
Toàn bộ
bức vách lùi vào kia bị che bởi một cái gì như một cánh cổng lớn tiều tụy. Đó
là những tấm ván ghép vuông góc một cách thô sơ không ra hình thù gì, ván phía
trên rộng hơn ván phía dưới, bằng những nẹp sắt ngang. Bên cạnh có một cái cổng
cho xe ra vào, kích thước bình thường; mới đục ra, chắc chưa quá năm mươi năm.
Một cây
bồ đề xòe cành lá trên vách tường và phía phố Pôlôngxô lại có cây leo phủ kín.
Trong
giây phút nguy hiểm đang đe dọa Giăng VanGiăng, ngôi nhà tối tăm có vẻ hoang
vắng này hấp dẫn ông. Ông nhìn thoáng tất cả ngôi nhà và tự bảo, nếu vào được
ngôi nhà này thì có thể thoát nạn. Ông vụt nghĩ như vậy và hy vọng. Lưng chừng
bề mặt ngôi nhà quay ra phố Đơroamuyrơ này, ở tất cả các cửa sổ các tầng gác,
đều có những chậu hình phẫu bằng chì. Một cái ống chính chia thành nhiều nhánh
dẫn đến những chậu kia, như hình một cái cây. Những ống ấy với hàng trăm nhánh
cong queo của nó giống như những cành nho già trụi lá quằn quèo trước cửa những
vườn trại cũ.
Cái cây
kỳ quặc mọc trên tường ấy với những cành bằng tôn và bằng sắt là vật liệu đập
vào mắt Giăng VanGiăng. Ông đặt Côdét dựa vào một cái trụ bên đường, dặn em bé
ngồi im lặng và chạy tới chỗ cái ống sà xuống sát mặt đất. May ra có thể leo
lên từ đó và trèo vào trong nhà. Nhưng cái ống đã nát không dùng được nữa và
gắn rất lỏng lẻo vào tường. Vả lại tất cả những cửa sổ của ngôi nhà im lặng này
đều bịt gióng sắt dày, cả những cửa sổ sát mái cũng vậy và ánh trăng đang dọi
vào mặt này của ngôi nhà ấy, người theo dõi ở đầu phố đàng kia có thể nhìn thấy
Giăng VanGiăng trèo lên đấy. Rồi con Côdét thì làm sao? Làm thế nào đẩy Côdét
lên một mái nhà gác ba tầng?
Giăng
VanGiăng đành bỏ ý định leo lên theo cái ống kia và ông đi men theo tường để
trở về phố Pôlôngxô.
Khi tới
cái vách tường lùi vào, nơi ông đã đặt Côdét, ông nhận ra rằng ở đó không ai có
thể nhìn thấy ông. Như chúng tôi đã giải thích ở trên, ở chỗ này không ai có
thể nhìn thấy Giăng VanGiăng, dù người ấy đứng ở đâu. Thêm vào đó ông ta lại
đang ở trong bóng tối. Và ở đó có hai cái cửa, may ra có thể xô hai cái cửa ấy
mà vào. Bức tường trên có cây bồ đề và cây leo chắc là giáp với một cái vườn mà
ông có thể ẩn mình được, tuy rằng lúc này cây chưa có lá và ông có thể ở đấy
cho đến hết đêm.
Thời gian
trôi qua, cần phải hành động nhanh. Ông đẩy thử cái cổng xe và nhận ra ngay là
nó bị chặn ở cả hai phía trong và phía ngoài. Ông lại gần cổng lớn với nhiều hy
vọng hơn. Cái cổng đã mục nát, rất tồi tàn và vì nó rộng quá cho nên lại càng
không chắc, các tấm ván đã mục, các nẹp sắt – chỉ có ba nẹp thôi – đã rỉ hoen
cả. Ông tin là có thể chọc thủng cái cổng mọt ấy. Nhưng xem kỹ ông thấy cái
cổng ấy không phải là một cái cổng. Không có chốt, không có nẹp sắt, không có
khóa, không có kẽ hở ở giữa. Những nẹp sắt chạy ngang cả mặt cổng, không có chỗ
nào đứt quãng. Qua những lỗ hổng của những tấm ván ấy, nhìn thấy những viên đá
to, đá nhỏ gắn xi măng một cách xơ sài mà người qua đường cách đây mười năm còn
trông thấy. Cuối cùng ông kinh hoàng nhận ra rằng cái hình thức cổng ấy chỉ là
cái vỏ bên ngoài bằng gỗ của một bức tường xây. Có thể dễ dàng dứt đi một tấm
ván, nhưng người ta sẽ chạm trán với một bức tường.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 5 - Chương 5
NẾU ĐƯỜNG PHỐ THẮP ĐÈN KHÍ THÌ KHÔNG THỂ THẾ ĐƯỢC
Bây giờ
có tiếng động nặng nề, nhịp nhàng từ xa dội lại. Giăng VanGiăng ló đầu ra ngoài
góc phố nhìn thử thì thấy bảy tám tên lính xếp thành đội ngũ tiến vào phố
Pôlôngxô. Lưỡi lê sáng loáng, chúng tiến lên phía ông. Tên đi đầu vóc dáng cao
lên nom đúng là Giave. Chúng đi chậm chạp và thận trọng. Chúng thường hay đứng
lại. Rõ ràng là chúng soát xét từng nếp tường, từng hốc cửa, từng ngõ ngách.
Đây hẳn
là một đội lính tuần tra mà Giave gặp và trưng tập, điều ước đoán này chắc
không sai.
Hai tên
tùy tùng của Giave cũng đi trong hàng lính.
Tiếp theo
cái đà ấy và hay đứng lại như thế thì cũng phải mất mười lăm phút chúng mới đến
chỗ Giăng VanGiăng. Giây lát ấy thật hãi hùng. Chỉ còn mấy phút là Giăng
VanGiăng lại sa vào vực thẳm ghê rợn một lần thứ ba. Lần này thì vào ngục không
phải chỉ là vào ngục, mà còn có nghĩa là mất Côdét, là sống cái đời sống tối
tăm cô quạnh như ở trong mồ.
Chỉ còn
một cách khả dĩ thoát thân.
Giăng
VanGiăng có cái này là đặc biệt: có thể nói ông có hai bị: một bị đựng những ý
nghĩ hiền từ của một vị thánh, một bị nhốt những ngón tay tài lạ ghê gớm của
một tên tù khổ sai. Tùy lúc mà ông lục tìm trong bị này hay bị nọ.
Một trong
những ngón hay ấy là ngón leo trèo. Nhờ nhiều lần vượt ngục Tulông, ông đã trở
nên một tay thánh trong cái thuật leo khó tưởng tượng ấy, là leo độc bằng gân
cốt, không dây, không thang, không mấu. Ở một góc tường nào đấy, ông chỉ vận
dụng vai, gáy hông và gối, thỉnh thoảng mới nương vào một mảnh đá họa hoằn nhô
ra, cứ thế nếu cần, ông leo lên tầng thứ sáu của một ngôi lầu, theo cái thuật
đã làm góc sân nhà từ La Côngxiecgiơri ở Paris nổi tiếng và đáng sợ vì ở đó hai
mươi năm trước tên tù Batơmôlơ đã vượt ngục.
Trên bức
tường trước mặt, một cây bồ đề tỏa cành lá. Giăng VanGiăng nhìn tường, ước
lượng chiều cao khỏang sáu mét. Tường đâm vào chái của một ngôi nhà lớn, làm
thành một hình góc khay, nhưng người ta đã xây bịt đoạn dưới góc tường ấy bằng
một trụ vôi hình tam giác, có lẽ để cho bọn lang thang nghèo hèn khỏi vào ẩn
náu. Cách bít góc tường chống bọn lang thang như thế là chuyện thường ở Paris.
Cái trụ
vôi cao độ trên một mét rưỡi. Từ đỉnh trụ lên đến ngọn tường, khoảng cao chỉ
còn hơn bốn mét.
Trên
tường là một tảng đá bằng phẳng. Cái khó khăn là Côdét. Côdét trèo tường thế
nào được? Bỏ nó lại ư? Vangiăng không bao giờ tính đến chuyện ấy. Mang nó đi
thì leo làm sao! Leo tường theo kiểu lạ lùng ấy, leo một mình đã phải dùng hết
sức lực rồi. Nếu thêm một sức nặng nào nữa, trọng tâm sẽ chệch ra ngoài và
người leo sẽ nhào xuống.
Có một
cái dây thì giải quyết được, nhưng Vangiăng không có! Tìm đâu cho ra một mẩu
dây lúc nửa đêm ở phố Pôlôngxô? Lúc ấy Vangiăng sẵn sàng đổi cả một vương quốc
để lấy một sợi dây.
Trong
cảnh cùng đường, có những tia chớp có khi làm lòa mắt ta, có khi rọi sáng trí
ta. Con mắt tuyệt vọng của Vangiăng bắt gặp cây trụ đèm ở ngách Giăngrô.
Thuở ấy
đường phố chưa có đèn khí, đêm đến người ta thắp đèn lồng cách từng quãng; đèn
lồng buộc vào dây để kéo lên kéo xuống; dây chạy luồn vào một cái rãnh khoét
trong một giá tra vào trụ đèn và nằm ngang qua đường. Trục quay dây đặt vào một
hòm bằng sắt nhỏ dính liền với trụ, chìa khóa do người thắp giữ. Cái dây cũng
luồn trong một ống bằng kim khí.
Giăng
VanGiăng vận dụng hết nghị lực trong cuộc chiến đấu quyết liệt. Ông nhảy phóc
qua đường vào ngách Giăngrô, lấy mũi dao nhọn cạy hòm sắt ở trụ đèn. Một lát
sau ông trở lại chỗ Côdét với một cuộn dây. Các bác thánh xoay này, khi các bác
đương đầu với số mệnh thì các bác nhanh tay khiếp lắm!
Chúng tôi
đã nói là đêm ấy đèn đường không thắp. Đèn lồng ở ngách Giăngrô tất nhiên cũng
không thắp như mọi đèn khác, cho nên dù có đi sát một bên trụ đèn cũng không ai
thấy đèn treo không đúng chỗ.
Canh
khuya, cảnh lạ, bóng đêm mờ tối. Vangiăng bận rộn lo âu và có những cử động kỳ
dị, Côdét trông thấy cảnh tượng ấy bắt đầu lo lắng. Một đứa trẻ khác thì đã kêu
khóc từ lâu rồi, nhưng Côdét thì chỉ kéo áo Vangiăng. Đội tuần tra đến gần,
tiếng đi nghe càng rõ, Côdét khe khẽ nói:
- Cha ơi,
con sợ quá! Ai đi đấy?
- Im! Mụ
Tênácđiê đấy.
Côdét
rùng mình. Vangiăng nói tiếp:
- Đừng
nói gì cả. Để mặc cha. Mụ Tênácđiê chực bắt con đấy, nếu con kêu khóc thì mụ ấy
biết ngay.
Thế rồi
Vangiăng cởi cà vạt buộc quanh mình Côdét, phía dưới nách. Ông rất cẩn thận để
khỏi trượt da con bé. Rồi ông buộc múi vào đầu sợi dây, theo kiểu nút én của
người đi biển. Xong ông cắn đầu dây kia, cởi giày và bít tất ném qua tường rồi
trèo lên trụ vôi và bắt đầu leo lên tường vững vàng, chắc chắn như có nấc thang
để bước và để bám tay vào. Mọi công việc ông làm không vội vàng hấp tấp, nhưng
mỗi việc làm rồi là rồi, không làm lại. Trong giờ phút nguy nan như thế, khi
đội tuần tra của Giave có thể xuất hiện lúc nào không biết, sự tỉnh táo, sự
nhanh nhẹn và chính xác của ông thật là đáng phục. Không đầy nửa phút sau ông
đã quỳ trên ngọn tường.
Côdét
không nói không rằng, kinh ngạc nhìn lên. Cái tên Tênácđiê và lời dặn của
Vangiăng làm cho em khiếp đảm.
Thình
lình nó nghe Vangiăng gọi nho nhỏ trong họng:
- Côdét,
lại tựa lưng vào tường.
Côdét
ngoan ngoãn làm theo.
- Đừng
nói gì cả, đừng sợ.
Thế là
Côdét thấy người nhấc bổng lên khỏi mặt đất. Chưa hiểu đầu đuôi ra sao, em đã
lên đến ngọn tường.
Vangiăng
cõng Côdét sau lưng, dùng bàn tay trái giữ hai tay nó. Ông nằm bẹp trên ngọn
tường và trườn đi cho đến chỗ có mảnh tường xẻ. Như ông đã đoán, ở đấy có một
mái nhà đi từ ngọn hàng rào gỗ, nằm là là cành lá cây bồ đề và xuống thoai
thỏai đến cách mặt đất không cao lắm. Rất may là ngọn tường về phía này cao hơn
về phía ngoài phố nhiều. Giăng VanGiăng nhìn thấy mặt đất rất sâu ở dưới chân
tường.
Vangiăng
chuyền qua mái nhà, tay chưa rời khỏi mặt tường thì đã nghe tiếng la ó của đội
tuần tra. Giọng Giave vang dội:
- Soát
cái ngách cụt này. Phố Đơroamuyrơ đã bị chắn, phố nhỏ Pichpuýt cũng thế. Tôi
cam đoan hắn ở trong ngách này.
Bọn lính
xông vào ngách Giăngrô.
Trong khi
ấy Giăng VanGiăng theo mái nhà tụt xuống, tay vẫn giữ Côdét. Đến cây bồ đề, ông
bám lấy nhảy xuống đất. Từ đầu, Côdét không nói một tiếng, không biết vì gan
góc hay vì quá sợ hãi. Tay nó hơi bị trầy da.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 5 - Chương 6
BÍ MẬT BẮT ĐẦU
Giăng
VanGiăng như lọt vào một khu vườn rộng, cảnh tượng trông lạ lùng, buồn bã, một
thứ vườn hình như xếp đặt để ngắm vào những đêm trường hay ngày đông tháng giá.
Vườn hình bầu dục, phía sau có một hàng bạch dương. Ở mấy góc vườn có những lùm
cây đại thụ khá cao lên, ở giữa có một khoảng thoáng. Trong khoảng ấy có một
cây cổ thụ lẻ loi, rất lớn và vài cây ăn quả quằn quẹo và xù xì như những bụi
rậm, mấy khoảnh ray, một bể chứa cũ, một đám dưa bở, lồng bọc dưa loang loáng
dưới ánh trăng. Đây đó có vài chiếc ghế đá mốc thếch như rêu. Hàng cây nhỏ
thẳng đuột và đen sẫm đứng hai bên các lối đi một nửa phủ cỏ, một nửa phủ rêu
xanh.
Vangiăng
đã leo qua mái nhà để xuống đất. Cái nhà ấy bây giờ đứng lù lù bên cạnh ông
cùng với một đống củi bó. Sau đống củi có một pho tượng đá dựa vào tường, mặt
mũi sứt mẻ lờ mờ hiện ra trong bóng đêm.
Cái nhà
hình như đổ nát, các gian phòng đã dỡ ván. Có một gian chừng để dùng làm nhà
xe, bề bộn đồ đạc.
Mặt sau
tòa nhà phố Đơroamuyrơ mở vào vườn thành hai mặt châu vào nhau hình thước thợ.
Mặt sau còn ảm đạm hơn mặt trước nữa. Bao nhiêu cửa sổ đều chắn song sắt. Không
có ánh đèn. Ở các tầng trên có những lồng cu như ở nhà pha. Bóng một mặt nhà
ngả phủ lên mặt nhà kia và trải xuống đất như một tấm dạ đen.
Không
thấy có nhà nào khác nữa. Phía đằng sau vườn mờ mịt trong sương mù và đêm tối.
Nhưng người ta cũng nhìn thấy lờ mờ có những bức tường ngang dọc, tuồng như
đằng sau tường có trồng trọt những thứ gì nữa. Phía sau tường, san sát những
mái nhà thấp thấp ở phố Pôlôngxô.
Không thể
tưởng tượng có một cảnh nào cô quạnh và rợn người hơn cảnh vườn ấy. Không có
bóng người thì đã đành vì khuya khoắt như thế ai còn đi lại làm gì. Nếu chỉ
vắng bóng người thì cũng không cần nói, đằng này, hơn thế, người ta có cảm giác
là chỗ ấy không phải là chỗ để cho con người qua lại, dù là qua lại giữa ban
trưa.
Việc đầu
tiên của Giăng VanGiăng là tìm giầy mang vào, rồi cùng Côdét đi lẩn vào nhà xe,
bởi vì người đi trốn không bao giờ cho rằng mình trốn đã kín. Côdét thì cứ nghĩ
sợ mụ Tênácđiê nên cũng đồng tình chịu trốn. Nó run sợ và nép người vào Giăng
VanGiăng. Đội tuần tra đương sục sạo tìm kiếm trong ngách Giăngrô, tiếng huyên
náo dội vào trong vườn, đó là tiếng báng súng dộng vào đá, tiếng Giave thét gọi
bọn mật thám đứng gác và tiếng hắn nguyền rủa lầm bầm cái gì nghe không rõ.
Mười lăm
phút sau, cơn náo động bắt đầu xa dần. Từ lâu Vangiăng nín thở và để nhè nhẹ
bàn tay lên miệng Côdét.
Tuy vậy,
cảnh vắng vẻ ở đây hoàn toàn, sự náo động khủng khiếp bên ngoài dù gần cũng
không làm cho ai chột dạ. Tuồng như những bức tường kia xây bằng thứ đá điếc mà
Kinh thánh đã nói đến.
Bỗng
nhiên lại có tiếng vọng lên trong vắng lặng. Một thứ tiếng cao cả, thiêng
liêng, huyền diệu, nó làm cho lòng người kinh rợn. Đây là một bản hợp tụng
trong bóng tối, một bài kinh nhạc mê hồn trong cảnh vắng lặng của đêm sâu.
Giọng tụng này là giọng phụ nữ, nó là sự hòa hợp giữa giọng trong trẻo của
những người đồng trinh với giọng thơ ngây của các em bé. Thứ tiếng ấy không
phải là tiếng ở thế gian này, nó giống thứ tiếng mà trẻ sơ sinh hãy còn nghe
thấy và người nhắm mắt cũng bắt đầu nghe. Tiếng ấy vọng ra từ ngôi nhà tăm tối.
Có lẽ đây là khúc hợp xướng của thiên thần dịch lại trong bóng đêm để thay cho
tiếng náo động của lũ quỷ vừa bay xa.
Côdét và
Giăng VanGiăng vội vàng quì xuống.
Họ không
biết tiếng ấy là tiếng gì, họ không biết chỗ này là chỗ nào. Tuy vậy người
luống tuổi hối lỗi ấy và em bé trong trắng này, cả hai đều cảm thấy phải quì
xuống kính cẩn.
Tiếng ấy
vẫn không làm cho ngôi nhà bớt vắng lặng; nó là một khúc hát thiên đường trong
một tòa nhà không người ở.
Trong khi
nghe hát, Giăng VanGiăng quên hết mọi ưuphiền. Ông không thấy đêm tối, ông chỉ
thấy trời xanh. Ông cảm thấy hình như đôi cánh thiên thần ở trong người ông từ
từ mở ra.
Tiếng hát
dứt. Khúc hát ngân lên đã lâu chưa, Vangiăng không nói được. Những giờ ngây
ngất đắm say chỉ ngắn bằng giây phút.
Quang
cảnh đã trở lại yên lặng. Không còn gì ngoài phố, không còn gì trong vườn nữa.
Mối đe dọa, niềm an ủi cũng đều tan biến hết. Gió thổi trên ngọn tường, mấy cây
cỏ khô cọ vào nhau phát ra một tiếng động nhè nhẹ, thê lương.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 5 - Chương 7
BÍ MẬT CÒN TIẾP
Gió đêm
thổi lên hây hẩy, nghĩa là có thể đã đến một hai giờ khuya. Con bé Côdét vẫn im
lặng. Em ngồi xuống bên cạnh Vangiăng. Vangiăng tưởng em đã ngủ, cúi xuống
nhìn. Nhưng không, Côdét vẫn mở mắt thao láo. Vẻ mặt ưu tư nghĩ ngợi của em làm
cho Vangiăng thấy nhói trong tim. Em vẫn còn run bần bật.
- Con có
buồn ngủ không?
- Con rét
quá.
Một lát
sau em hỏi:
- Bà ấy
vẫn còn ở đây ư?
- Bà nào?
- Bà
Tênácđiê ấy mà.
Giăng
VanGiăng đã quên bẵng cái chuyện đem mụ Tênácđiê dọa cho Côdét im lặng.
- Ồ! Mụ
ấy đi rồi. Con đừng sợ gì nữa.
Côdét thở
ra nhẹ nhõm, như cất một gánh nặng trên ngực.
Đất ẩm
ướt, nhà xe trống trải, gió đêm càng khuya càng lạnh. Vangiăng cởi áo khoác
ngoài phủ lên mình Côdét.
- Thế này
con có thấy đỡ rét không?
- Ồ, đỡ
lắm cha ạ.
- Bây giờ
hãy đợi ở đây, cha đi một lát lại về ngay.
Ông ra
ngoài, đi men theo tòa nhà lớn để tìm một chỗ trú tốt hơn. Ông thấy nhiều cửa,
nhưng đều đóng cả. Ở các cửa sổ tầng dưới, cửa nào cũng có song sắt.
Khi ông
ra khỏi góc nhà, thì thấy có những cửa sổ cuốn có ánh đèn, ông kiễng chân dòm
vào. Tất cả các cửa sổ cuốn ấy là của một gian nhà rộng, lát đá tảng to, đầy
những vòm cuốn và cột trụ. Ánh sáng heo hắt làm cho từng mảng bóng tối lay động
trên nền, trên vách. Ánh sáng tỏa ra từ một chiếc đèn chong ở một xó. Không một
dáng người, không một tiếng động, gian phòng hoàn toàn vắng lặng.
Nhìn mãi
Vangiăng thấy ở nền nhà có vật gì như một người đang đắp vải liệm. Hình ấy nằm
sấp, mặt úp xuống đất, tay dang chữ thập, trong đó có cái dáng bất động của
người chết. Trên nền nhà, một vật gì ngoằn ngoèo, hình như cái hình thù ghê rợn
ấy có dây ở cổ.
Cảnh rùng
rợn càng tăng vì cả gian phòng chập chờn trong lù mù của ánh sáng.
Về sau,
Vangiăng thường nói là trong đời, ông đã thấy nhiều cảnh ghê rợn, nhưng ông
không bao giờ thấy có cái gì ghê rợn và kinh khủng bằng cái hình thù bí mật
đương thực hiện một phép huyền bí gì trong gian phòng mập mờ đêm hôm ấy. Nghĩ
rằng đó là người chết đã là khủng khiếp, nghĩ rằng có lẽ là người sống lại càng
khủng khiếp hơn.
Vangiăng
mạnh dạn dòm sát vào cửa kính để rình xem hình thù ấy có động đậy không. Ông
đứng một thời gian chừng như lâu lắm mà vẫn không thấy nó cử động.
Thình
lình ông cảm thấy khiếp sợ quá, vội bỏ chạy. Ông chạy một mạch về phía nhà xe,
không dám ngoái cổ lại. Ông có cảm giác là nếu ông quay đầu lại, ông sẽ thấy
cái thây ma ấy sải bước đuổi theo ông, hai tay ve vẩy.
Giăng
VanGiăng về đến nhà xe, thở hổn hển. Đầu gối ông muốn gấp lại, mồ hôi đầm đìa
sau lưng.
Nơi này
là nơi nào? Ai tưởng tượng được giữa Paris lại có một thứ mộ địa kiểu ấy? Cái
nhà kỳ quái này là nhà gì? Nó đầy rẫy những nhà bí ẩn của bóng đêm. Nó đem
giọng thiên thần kêu gọi linh hồn người ta trong đêm tối, rồi khi người ta đến,
nó lại cho người ta xem một cảnh tượng ghê rợn như thế kia. Nó hứa hẹn mở cửa
thiên đình xán lạn, nhưng nó lại mở cửa mộ địa tối tăm. Ấy thế mà rõ ràng là
một ngôi nhà nhìn ra đường có mang biển số. Đâu có phải là một giấc mơ! Giăng
VanGiăng phải sờ đến các phiến đá xây ngôi nhà ấy mới tin là mình không mơ ngủ.
Vừa rét,
vừa sợ, vừa lo, lại luôn luôn bị xúc động mạnh từ ban tối, Giăng VanGiăng thấy
như trong người lên cơn sốt và các ý nghĩ trên kia quay cuồng trong đầu óc ông.
Ông lại
gần Côdét. Côdét đã ngủ.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 5 - Chương 8
BÍ MẬT CÀNG TĂNG
Côdét gối
đầu lên một phiến đá và ngủ thiếp từ bao giờ.
Giăng
VanGiăng ngồi xuống bên cạnh ngắm nhìn nó. Càng nhìn, ông càng thấy trí óc dần
dần bình tĩnh và ông điềm nhiên suy nghĩ.
Ông tìm
thấy một sự thật, là Côdét mà còn ở đấy, còn ở bên cạnh ông, thì ông có cần cái
gì cũng là vì Côdét mà cần, có sợ cái gì cũng là vì Côdét mà sợ. Nó là ý nghĩa
của đời ông. Bỏ áo ra để đắp cho Côdét, ông vẫn không thấy rét, mặc dù trời
rét.
Trong cơn
suy nghĩ miên man, ông nghe văng vẳng một tiếng gì là lạ. Nó như một tiếng nhạc
rung từ trong vườn lại, nghe rất rõ, tuy chỉ văng vẳng thôi. Nó giống như tiếng
nhạc đồng buộc cổ những con cừu, con dê ăn đêm trên đồng cỏ.
Ông quay
lại. Nhìn ra, ông thấy có bóng ai trong vườn.
Một sinh
vật giống hình người đương đi giữa các luống dưa. Nó ngẩng lên, cúi xuống, dừng
lại đều đều như kéo một vật gì hay trải cái gì dưới đất. Hình như nó thọt chân.
Vangiăng
rùng mình. Lúc nào ông cũng run sợ như tất cả mọi người cùng khổ. Cái gì đối
với họ cũng là thù nghịch và khả nghi. Họ ngại ban ngày vì ban ngày họ dễ bị
nom thấy; họ ngại ban đêm vì ban đêm họ có thể bị tóm mà không hay. Lúc nãy,
Vangiăng rùng mình vì cảnh vườn vắng vẻ, bây giờ ông rùng mình vì vườn có bóng
người.
Hết lo sợ
vì tưởng tượng, ông lại lo sợ vì thực tại. Ông cho là bè lũ Giave còn lẩn quất
đâu đây và có lẽ chúng có cắt người ở lại quan sát. Cái người đi trong vườn này
mà thấy Giăng VanGiăng tất sẽ kêu có trộm và ông sẽ bị lộ. Nghĩ thế, Vangiăng
se sẽ ẳm Côdét lên, mang ra sau đống bàn ghế cũ nát ở xó nhà khuất nhất. Côdét
không cựa.
Từ trong
xó ấy, Vangiăng theo dõi hành tung người kia và thấy có điều rất lạ là tiếng
nhạc rung theo cử động của hắn. Hắn lại gần, tiếng nhạc nghe gần, hắn ra xa,
tiếng nhạc ngân xa. Khi hắn cử động nhanh thì cả một tràng nhạc rung theo cử
động. Khi hắn đứng lại, tiếng nhạc cũng im bặt… Thật quá rõ là người ấy đeo
nhạc trên người. Thế là thế nào? Người ấy là người gì mà đeo nhạc y như con bò,
con chiên vậy.
Vangiăng
vừa tự hỏi như thế vừa sờ tay Côdét. Tay em bé lặng ngắt, Vangiăng buột miệng
kêu: “Trời ơi!” – Ông gọi khe khẽ:
- Côdét,
con!
Côdét
không mở mắt.
Ông lay
mạnh em bé. Em bé vẫn không thức giấc. Vangiăng lẩm nhẩm:
- Có lẽ
nó chết chăng!
Ông đứng
phắt lên, toàn thân rung động.
Ông liên
miên nghĩ đến những điều rủi ro rùng rợn. Có những lúc những phỏng đoán ghê rợn
nhất như một đoàn cuồng quỉ bao vây và đột ám vào trí óc ta. Với những người ta
yêu quí, ta quá lo xa cho nên tưởng tượng ra những điều điên dại.
Ông sực
nhớ là người ngủ ngoài trời một đêm rét có thể chết được.
Con Côdét
xanh xao lại ngã sóng sượt dưới đất bên chân ông, không động đậy.
Vangiăng
cố nghe hơi thở của Côdét. Em vẫn thở, nhưng ông tưởng thấy hơi thở mỏng manh
như một sợi tơ và sắp đứt.
Làm thế
nào sưởi cho nó ấm lại? Làm thế nào cho nó tỉnh. Vangiăng chỉ lo có chừng ấy,
mọi nỗi lo ngại khác đã bay biến. Hoảng quá, ông bổ nhào ra khỏi nhà xe.
Phải làm
thế nào cho Côdét có giường nằm, có lửa sưởi trong mười lăm phút!
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 5 - Chương 9
NGƯỜI ĐEO NHẠC
Giăng
VanGiăng đi xăm xăm lại chỗ có người lạ. Ông rút cuộn giấy bạc trong túi ghi lê
ra, cầm lăm lăm trong tay.
Người kia
đương cúi, không trông thấy ông lại gần. Ông sải mấy bước đã đến bên hắn ta.
Ông hét:
- Một
trăm phơrăng.
Người kia
giật mình đánh thót một cái, ngẩng nhìn lên.
Vangiăng
tiếp:
- Cho tôi
trọ đêm nay, tôi biếu một trăm quan.
Trăng soi
ngời ngời vẻ mặt hoảng hốt của Vangiăng.
- Ô kìa!
Bác Mađơlen!
Con người
xa lạ trong đêm tối ở cái nơi không quen thuộc này, sao lại gọi cái tên ấy?
Vangiăng lùi lại.
Ông đã dự
kiến hết, nhưng việc này thật quá bất ngờ!
Người kia
là một ông già còm và thọt, ăn mặc từa tựa như nông dân. Ở đầu gối trái của
lão, có một tấm da bọc gối, trên ấy treo lủng lẳng một chiếc nhạc. Mặt lão
khuất bóng đêm, trông không rõ.
Lão cất
mũ run rẩy kêu:
- Trời
đất ơi! Làm sao bác lại ở đây, hở bác Mađơlen? Lạy Chúa! Bác vào bằng cái ngõ
nào thế? Bác từ trên trời rơi xuống đấy ư? Cái đó cũng không lạ, bác mà rơi thì
tất là phải từ trên trời rơi xuống. Ôi chao ơi! Sao bác ra cơ sự thế kia? Bác
không có cà vạt, không có mũ, không có áo ngoài. Bác có biết là tướng bác trông
dễ sợ lắm không, ai không quen bác mà gặp bác hôm nay tất phải chết khiếp. Chúa
cao cả ôi! Phải chăng là những bậc thánh ngày nay đều hóa điên cả? Thế nhưng
bác làm thế nào mà lọt vào chỗ này mới được chứ?
Lời tiếp
lời không ngớt, ông già ba hoa như một người nông dân nhưng không lộ ý gì đáng
ngại. Trong giọng nói của ông có sự kinh ngạc lẫn vẻ niềm nở thật thà. Vangiăng
hỏi:
- Ông là
ai? Nhà này là nhà gì?
- Ôi chao
ôi! Cái này mới thật là kỳ quặc! Tôi là người bác đưa vào làm ở đây và nhà này
là nhà bác đưa tôi vào làm, chứ còn người nào, nhà nào nữa! Mà thật vậy ư? Bác
không nhận ra tôi thật ư?
- Không.
Còn ông thì tại sao mà ông biết tôi?
- Bác đã
cứu sống tôi.
Ông già
ngoái đầu, ánh trăng soi rõ sống mặt. Vangiăng nhận ra ông già Phôsơlơvăng.
- Ô hay!
Bác đấy ư? Ờ phải, tôi nhận ra bác rồi.
- Quí hóa
chưa! – Ông già nói có vẻ trách móc.
- Thế bác
làm gì ở đây?
- Thì
đấy! Tôi che dưa bở.
Quả vậy,
ông Phôsơlơvăng đương lấy tranh rạ đậy lên mấy luống dưa. Từ lúc ra vườn dưa
đến giờ, ông đã trải được một số tranh rồi. Những cử động lạ lùng Vangiăng đã
trông thấy, chính là công việc che dưa.
Ông
Phôsơlơvăng nói tiếp:
- Tôi tự
bảo: trăng sáng thế này chắc là sắp rét giá, dưa sẽ bị lạnh, dễ ta phải mang áo
ra cho chúng.
Ông
Phôsơlơvăng vừa nhìn Vangiăng vừa cười hà hà nói tiếp:
- Gặp
phải bác, chắc bác cũng làm thế thôi! Nhưng bác làm thế nào mà vào được đây?
Thấy ông
già Phôsơlơvăng biết mình, dù là chỉ biết với cái tên Mađơlen, Giăng VanGiăng
cũng trở nên dè dặt thận trọng. Ông hỏi han ông già dồn dập. Vai trò thay đổi,
chính người khách lạ lại chất vấn chủ nhân:
- Bác đeo
cái nhạc gì ở đầu gối thế?
- Nhạc
này ư? Ấy, để cho họ biết mà tránh tôi.
- Thế
nào? Để cho họ tránh bác?
Ông
Phôsơlơvăng nheo mắt một cách khó tả:
- Ấy! Ở
trong nhà này chỉ có đàn bà, phần nhiều là thiếu nữ. Hình như họ cho là gặp tôi
là nguy hiểm thế nào ấy. Cho nên tôi phải đeo cái nhạc này để báo hiệu cho họ
biết: nghe tôi đến thì họ lẩn tránh đi.
- Nhà này
là nhà gì?
- Ô hay!
Bác biết lắm chứ.
- Không,
tôi không biết.
- Bác
giới thiệu cho tôi đến đây coi vườn mà lị!
- Bác cứ
coi như là tôi chưa biết gì hết và trả lời cho tôi.
- Thế thì
đây là nhà tu kín Pơti Pichpuýt.
Vangiăng
lần hồi nhớ lại việc cũ. Sự tình cờ, nghĩa là bàn tay Chúa đã ném ông vào chính
cái tu viện mà hai năm trước, ông đã giới thiệu lão Phôsơlơvăng vào làm, sau
khi lão này trở nên tàn tật vì xe kẹp. Ông lẩm nhẩm như nói một mình:
- Tu viện
Pơti Pichpuýt!
- Mà này,
bác Mađơlen, bác làm thế quái nào mà vào được tu viện này? Bác thì là bậc thánh
đấy, nhưng bác vẫn là đàn ông, mà đàn ông thì không được vào đây.
- Chứ còn
bác thì sao?
- Chỉ có
mình tôi đặc cách.
- Thế mà
tôi cứ phải ở lại trong này đấy!
- Ôi
trời! – Phôsơlơvăng kêu.
Giăng
VanGiăng nhích lại một bên ông già, nghiêm trang bảo:
- Ông
Phôsơlơvăng, tôi đã cứu ông.
- Ấy tôi
nhớ ra chuyện ấy trước bác kia.
- Ngày
nay ông có thể cứu tôi cũng như tôi đã cứu ông ngày trước.
Ông
Phôsơlơvăng đưa hai bàn tay nhăn nheo nắm lấy bàn tay rắn chắc của Vangiăng,
nghẹn ngào không nói. Mãi sau, ông mới kêu:
- Ôi! Tôi
mà báo bổ được phần nào thì quả thật là ơn Chúa. Tôi cứu được ông ư, ông thị
trưởng? Nếu thế thì ông cứ sai bảo lão già này đi. – Nét mặt ông Phôsơlơvăng
trở nên rạng rỡ lạ thường. Ông hỏi:
- Bác
định khiến tôi làm gì đây?
- Tôi sẽ
nói kỹ. Hiện giờ thì tôi muốn biết bác có một căn buồng không?
- Tôi có
một cái nhà nhỏ trơ trọi ở đầu kia, trong hóc khuất đằng sau cái nhà đổ nát ấy.
Nhà có ba buồng.
Thật vậy,
cái nhà nhỏ này khuất sau cái nhà cũ kỹ kia, không ai trông thấy. Vì thế
Vangiăng không biết có nó.
- Tốt
lắm. Bây giờ tôi nhờ bác hai việc.
- Việc
gì, ông thị trưởng?
- Thứ
nhất, bác không nói gì với ai hết về tung tích của tôi. Thứ hai là bác cũng
đừng tìm hiểu gì thêm về tôi.
- Được
rồi. Tôi tin bác làm việc gì cũng là việc lương thiện cả. Bao giờ bác cũng là
người con của Chúa nhân hậu. Với lại chính bác đã đưa tôi vào làm ở đây. Đây là
việc của bác. Bác cứ sai khiến.
- Được
rồi. Bây giờ thì bác đi với tôi, đến tìm đứa bé.
- Ơ! Có
một đứa bé!
Ông không
nói thêm gì nữa, lủi thủi bước theo Giăng VanGiăng như chó theo chủ.
Côdét được
sưởi lửa, đối má lại hồng hào và nửa giờ sau, em ngủ yên trên giường ông lão.
Giăng VanGiăng thì đã buộc lại cà vạt và mặc áo khoác. Chiếc mũ cũng đã tìm
thấy. Phôsơlơvăng cởi cái nịt gối đeo nhạc, mắc bên cạnh một cái giỏ treo, như
một vật trang trí trên tường. Hai người chống tay trên bàn ngồi sưởi lửa.
Phôsơlơvăng đem ra một ít bánh khô, một miếng bánh sữa, một chai rượu với hai
cái cốc. Ông để tay lên đùi Giăng VanGiăng, nói:
- Bác
Mađơlen ơi! Mãi bác mới nhìn ra tôi! Bác cứu sống người ta, rồi bác quên người
ta đi. Bậy thật! Người ta thì vẫn nhớ bác. Bác là một người bội bạc!
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 5 - Chương 10
VÌ SAO GIAVE ĐI KHÔNG VỀ RỒI
Những sự
việc – mà chúng ta vừa được thấy như là cái phía sau đó – đã xảy ra một cách
rất dễ hiểu.
Đêm hôm
sau cái hôm Giave bắt Giăng VanGiăng bên cạnh thi thể của Phăngtin, Vangiăng
vượt ngục Môngtơrơi. Sở cảnh sát dự đoán là anh ta vào Paris. Paris là một cái
vực xoáy trên cạn, một cái rốn xã hội, cái gì cũng chìm đắm, cũng mất tăm ở đấy
như trong rốn bể. Không có khu rừng nào che giấu con người ta kín đáo bằng cái
rốn người đông đặc ấy. Những kẻ đào tị, bất kỳ loại nào, cũng đều biết như thế.
Họ tìm đến Paris để trầm mình vào trong ấy vì có khi trầm mình là sống. Cảnh
sát cũng biết như thế, cho nên mất gì ở đâu, họ cũng vào Paris mà tìm. Cứ thế
họ tìm ông nguyên thị trưởng Môngtơrơi. Giave được gọi về Paris để giúp các
cuộc lùng xét. Quả Giave đã giúp một tay đắc lực vào việc nã bắt Giăng
VanGiăng. Nhờ thông minh và mẫn cán, Giave được ông bí thư sở cánh sát là
Sabuiê chú ý, Ông này là bí thư thời bá tước Ăngơlét làm giám đốc. Vả lại ông
Sabuiê cũng đã che chở cho Giave từ lâu. Ông thuyên chuyển viên thanh tra
Môngtơrơi về sở cảnh sát Paris. Ở Paris, Giave đã tỏ ra là người hữu ích trong
loại công việc này cũng lạ lùng.
Giave
không nghĩ đến Vangiăng nữa. Đối với bọn chó săn nhà nghề ấy, con sói đánh hơi
được hôm nay át mất hơi bám con sói ngày hôm qua. Tháng chạp năm 1823, tình cờ
Giave đọc một tờ báo, mặc dầu ít khi hắn đọc báo. Lần này Giave đọc báo là vì
hắn là một người bảo hoàng, hắn muốn biết chi tiết cái việc “hoàng thân đại
tướng” vào thành phố Bêiôn một cách vinh quang ntn. Đọc xong bài báo ấy, Giave
để ý đến tên một người ở cuối trang. Tên người ấy là Giăng VanGiăng, tin báo
nói tên khổ sai Giăng VanGiăng chết. Lời báo rõ ràng, dứt khoát khiến Giave
không nghi ngại gì hết. Hắn chỉ nói: “Nhà giam ấy mới thật là một nhà giam chắc
chắn”. Rồi hắn vứt tờ báo và không nghĩ đến chuyện ấy nữa.
Cách đây
ít lâu, sở cảnh sát Paris nhận được một báo cáo của sở cảnh sát quận Xen về
việc một đứa bé ở làng Môngphecmây bị bắt đi mất một cách rất lạ. Báo cáo nói
có một đứa bé độ bảy tám tuổi bị bắt trộm đem đi; trước đây mẹ đứa bé gửi nó
cho một người chủ quán nuôi hộ. Tên nó là Côdét, mẹ nó là Phăngtin; nghe nói
Phăngtin chết ở nhà thương phúc, không biết lúc nào và ở đâu. Giave thấy báo
cáo ấy đâm ra nghĩ ngợi.
Hắn rất
quen cái tên Phăngtin. Hắn nhớ ra hắn đã phì cười khi nghe Giăng VanGiăng xin
khoan cho ba ngày để đi mang đứa con của con đĩ ấy về; hắn cũng nhớ Vangiăng bị
bắt ở Paris đúng khi đáp chuyến xe đi Môngphecmây. Hơn nữa nhiều triệu chứng là
Vangiăng đi Môngphecmây lần ấy là lần thứ hai, đêm trước hắn đã đi Môngphecmây,
nhưng chỉ lùng quanh làng chứ chưa vào. Hắn ta đi Môngphecmây làm gì, người ta
không đoán ra. Bây giờ đây Giave mới hiểu: con của Phăngtin ở đấy, Vangiăng đến
tìm nó. Thế mà ngày nay con của Phăngtin bị một kẻ lạ mặt mang đi. Người lạ mặt
là Giăng VanGiăng chăng? Nhưng không, Vangiăng đã chết rồi. Tuy vậy Giave cũng
đáp xe đi Môngphecmây, chẳng nói cho ai biết.
Hắn đi là
để cho biết rõ đầu đuôi; đến đây hắn lại càng mù mịt.
Sự thật,
những ngày đầu, vợ chồng Tênácđiê mất ăn nổi cáu có nói lung tung. Việc mất con
Sơn ca thế là đồn đại xa gần. Có nhiều giả thuyết tung ra, thuyết cuối cùng là
Sơn ca bị bắt cóc. Vì thế nên đã có bản báo cáo của quận cảnh sát. Tuy vậy qua
cơn giận dữ lúc đầu, linh khiếu của Tênácđiê báo cho hắn biết rằng đụng tới ông
biện lý chẳng bao giờ có lợi. Hắn mà rêu rao kia nọ thì chỉ tổ làm cho con mắt
sáng quắc của công lý trước hết đâm vào nhiều công việc của chính hắn ta. Loại
cứ trước hết sợ ánh đèn người ta mang tới. Việc này mà động đến sở cảnh sát thì
món tiền nghìn rưởi quan ấy nuốt cũng không trôi, đừng có nói gì đến chuyện
khác. Hắn cắt đứt ngay câu chuyện và cấm vợ mách lẻo. Hắn làm bộ ngạc nhiên khi
người ta nói đến việc mất con Sơn ca. Hắn nói hắn thật không hiểu. Ừ thì lúc
đầu hắn cũng có phàn nàn làm sao người ra vội “bắt” con bé yêu đi như thế. Trìu
mến con bé đã quen, hắn cũng muốn giữ lại thêm vài ba hôm. Nhưng chính là “ông”
con Côdét thân đến đem nó về thì bảo làm sao được! Cái tiếng “ông con Côdét”
thế mà có hiệu lực, nó làm cho ai cũng tưởng thật. Đến Môngphecmây, Giave nghe
được chuyện này. “Ông con Côdét” đã đánh tan sự nghi ngờ của Giave về Giăng
VanGiăng.
Nhưng
Giave cũng hỏi Tênácđiê một đôi câu thăm dò ý tứ. Ông con Côdét là ai, tên gì?
Rất tự nhiên, Tênácđiê đáp: một phú ông. Tôi có xem giấy thông hành của ông ấy.
Tôi nhớ như tên là Guyôm Lămbe.
Lămbe là
một cái tên hiền lành. Giave yên tâm trở về Paris. Hắn tự bảo:
- Thằng
cha Giăng VanGiăng ấy đã chết đứt đi rồi. Mình quả là ngớ ngẩn.
Hắn lại
quên câu chuyện.
Vào tháng
ba năm 1824, một hôm hắn nghe nói đến một nhân vật kỳ quặc. Nhân vật ấy ở trong
giáo khu Xanh Mêđa. Người ta gọi hắn là “người ăn mày hay bố thí”. Họ nói hắn
sống về lợi tức công thải. Không ai biết tên hắn, hắn ở một mình với một con bé
tám tuổi con này cũng chỉ biết một điều là nguyên từ Môngphecmây đến.
Môngphecmây! Cái tên này vẫn lởn vởn trong trí óc Giave và làm cho hắn vểnh tai
cảnh giác. Một người hành khất già kiêm mật thám, nguyên là lao công trong nhà
thờ thường xin tiền của nhân vật ấy, cho Giave biết thêm một vài chi tiết.
Người ấy bảo cái nhân vật này khó lại gần lắm, tối đến hắn mới ra phố. Hắn
không nói chuyện với ai, trừ một đôi khi trao đổi với người nghèo đói. Không ai
bắt chuyện với hắn được. Hắn mạt một chiếc áo khoác vàng xấu xí nhưng đáng giá
mấy triệu vì khâu đầy giấy bạc. Chi tiết này làm cho Giave hết sức chú ý. Muốn
cho nhân vật kỳ quái ấy khỏi kinh sợ ddeer xem cho rõ mặt, một hôm Giave mượn
bộ đồ rách của ông hành khất già mặc vào mình, ngồi thay vào chỗ ông. Ở chỗ ấy,
lão hành khất già kiêm mật thám đêm đêm vẫn tụng và nom dòm những người qua
lại.
Đúng như
dự đoán, nhân vật khả nghi đến gần Giave và bố thí cho hắn. Lúc ấy Giave ngẩng
lên: Giăng VanGiăng nhận ra Giave, giật mình. Giave cũng giật mình vì nhận ra
Giăng VanGiăng.
Nhưng
Giave nghĩ rằng mình có thể nhận lầm. Cái tin Giăng VanGiăng chết đã chính thức
kia mà. Giave là người thận trọng, khi còn nghi ngại, Giave chẳng bắt ai.
Hắn theo
con mồi cho đến nhà Gorbô. Hắn gợi chuyện với bà già nấu ăn cho Vangiăng. Bà
già cũng bảo là chiếc áo khoác có khâu bạc triệu và kể luôn câu chuyện cái giấy
bạc một nghìn phơrăng chính mắt mụ đã nhìn thấy, tay mụ cũng đã mó vào! Giave
thuê gian buồng bên cạnh và ngay tối ấy hắn dọn đến. Hắn nghiêng tai bên cửa
Vangiăng để chờ nghe giọng nói của ông. Nhưng qua lỗ khóa, Vangiăng trông thấy
ánh đèn của hắn, cho nên không nói một tiếng. Giave chờ hoài công.
Ngày hôm sau,
Vangiăng dọn đi. Nhưng tiếng rơi của đồng năm phơrăng làm cho bà già chú ý. Bà
nghe tiếng tiền leng keng, đoán là Vangiăng dọn đi, vội vã báo với Giave. Đếm
đến, lúc Vangiăng ra đi, Giave đem theo hai người, cùng đnưgs rình sau bóng
cây.
Giave đã
xin người ở sở cảnh sát, nhưng hắn không nói là để bắt ai! Hắn giữ bí mật vì ba
lý do: trước hết nếu lộ một tí gì, Vangiăng sẽ đề phòng; sau nữa bắt được một
tên khổ sai lâu năm vượt ngục mà ai cũng đinh ninh là chết rồi, một tên tội
phạm mà hồ sơ tư pháp liệt ê vào hạng nguy hiểm nhất, bắt được một nhân vật như
thế là một kỳ công mà chắc chắn là bọn cảnh sát cũ ở đây không để dành cho một
tên mới đến như Giave; Giave rất sợ người ta phỗng tay trên con mồi của hắn, lý
do cuối cùng là Giave như một nghệ sĩ, hắn thích chuyện bất ngờ. Hắn chúa ghét
những thành tích không còn sốt dẻo vì bị người ta kháo trước nhiều quá. Hắn ưng
xây dựng tác phẩm trong bóng tối để rồi cuối cùng kéo bức màn cho tác phẩm hiện
ra thình lình trước mắt công chúng.
Giave lần
mò từ gốc cây nọ qua gốc cây kia, từ góc phố này đến góc phố khác để đuổi theo
Vangiăng. Không một phút nào hắn mất dấu con mồi. Ngay những lúc mà Vangiăng
tưởng là yên ổn nhất, Vangiăng cũng vẫn ở trong tầm con mắt vọ của Giave.
Tại sao
Giave không bắt Giăng VanGiăng? Tại vì hắn cong nghi ngại.
Bạn đọc
nên nhớ rằng thuở ấy cảnh sát rất lúng túng. Quyền tự do báo chí làm rầy cho họ
lắm. Báo chí đã tố cáo một vài vụ bắt bớ vô nguyên tắc, làm chấn động các nghị
viện, do đó sở cảnh sát đâm ra rụt rè.
Vi phạm
quyền tự do cá nhân bị coi là một sai lầm nghiêm trọng. Vì thế, người lính cảnh
sát rất sợ nhầm. Ông giám đốc sẵn sàng trách cứ họ, hễ nhầm lẫn là tức khắc bị
cách. Hãy tưởng tượng tiếng dội của một tin ngắn như thế này mà một tờ báo đăng
tin, tức khắc hai mươi tờ đăng lại: “Hôm qua một ông cụ già tóc bạc bị bắt giải
về trại giam của sở cảnh sát trong khi ông đi chơi với một em bé tám tuổi, cháu
ông. Người ta bảo ông là một tên khổ sai vượt ngục. Thật ra thì ông ấy là một
người tử tế, sống bằng lợi tức công thải”.
Cũng nên
nhớ rằng Giave còn có những nỗi băn khoăn của riêng lòng mình. Những lời dặn dò
của lương tâm cộng vào với những lời dặn dò của ông cảnh sát trưởng. Thật tình
là hắn còn nghi ngại lung lắm.
Giăng
VanGiăng quay lưng lại, bước đi trong bóng tối.
Dáng đi
của Giăng VanGiăng rất không bình thường chính Vangiăng cũng không biết. Đó là
vì ông buồn, ông lo, ông sợ hãi, ông chán nản, ngoài ra còn có cái đau xót phải
đương đêm trốn đi, nỗi lo lắng tìm đâu ra chỗ tạm trú, sự cần thiết phải bước
hết sức chậm để cho Côdét theo kịp. Tất cả những thứ ấy làm cho người Vangiăng
còm xuống, già cọm hẳn đi, đến nỗi Giave là hiện thân của cảnh sát cũng phải
nhầm. Giave thì không thể đến quá gần, mà bộ áo quần thầy giáo già luân lạc của
Vangiăng, cái việc Tênácđiê nói quả quyết người mang Côdét đi là ông nội của
nó, sau hết cái tin Vangiăng đã chết, tất cả cái ấy càng làm cho đầu óc Giave
hoang mang.
Có một
lúc hắn nảy ra cái ý hỏi giấy Vangiăng đột ngột. Nhưng cũng không lợi. Nếu
người ấy không phải là Giăng VanGiăng, cũng không phải là một ông già nhàn nhã
lương thiện, thì tất phải là một tên đầu trộm đuôi cướp, dính dáng trong cái
mạng nhện tội ác của thành phố Paris, một tên trùm lưu manh, đi bố thí cho
người nghèo để che mắt thiên hạ, một trò cũ rích. Hẳn nó phải có những tòng
phạm, những tay chân, những nhà phòng hờ để lẩn tránh khi cần đến. Cách nó tìm
những đường phố quanh co mà đi, đủ chứng tỏ nó không phải là một anh già chất
phác. Như thế thì bắt nó quá sớm cũng bằng “giết thịt con gà đẻ trứng vàng”.
Chờ một tí nữa thì có mất gì? Tên gian phi thoát lưới làm sao được!
Giave vừa
đi vừa suy nghĩ lung tung và đặt rất nhiều câu hỏi về con người bí mật ấy.
Mãi sau,
nhờ ánh đèn rất sáng của một quán rượu phố Pôngtoa, Giave mới nhìn ra đúng là
Giăng VanGiăng. Trên đời này có hai sinh vật có cái rung động ghê gớm: người mẹ
tìm thấy con và con hổ bắt lại được mồi. Giave thấy toàn thân rung động như
thế. Chạm tránh một người nguy hiểm như Vangiăng hắn thấy bọn hắn có ba người
là quá ít, hắn bèn xin thêm người ở đồn cảnh sát phố Pôngtoa. Trước khi mó vào
một cái cây gai góc, phải mang găng tay mới xong.
Việc dừng
lại xin người cùng với việc hội ý ở ngã tư suýt nữa làm cho chúng mất dấu
Vangiăng, Giave cúi đầu suy nghĩ như con chó săn dí mũi xuống lối đi để đánh
hơi con vật. Bản năng của hắn thật là linh diệu. Hắn đoán ngay ra Vangiăng thế
nào cũng vượt qua cầu để lấy con sông chắn những người đuổi theo mình. Hắn đến
thẳng cầu Austéclit. Chỉ hỏi người gác cầu một câu thôi là hắn rõ sự thật: “Bác
có thấy một người đi qua cầu cới một con bé không?” – “Tôi vừa bắt hắn trả hai
xu đấy!” Giave lên cầu kịp lúc ở bờ bên kia, Vangiăng dắt Côdét đi qua khoảng
trống vằng vặc ánh trăng. Hắn thấy Vangiăng vào phố Xanh Angtoan; hắn nghĩ đến
ngõ cụt Giăngrô nằm ở đó sẵn sàng như một cái bẫy và cái lối thoát độc nhất từ
phố Đơroamuyrơ ra ngõ phố Pichpuýt. Hắn lo đón ngách như những người săn: hắn
vội phái một tên thuộc hạ đi tắt đến chắn lối đi ra phố Đơroamuyrơ. Hắn trưng
tập một đội tuần tra trên đường về Binh xưởng và dắt theo hắn. Trong những ván
bài như thế, lính là con chủ. Vả lại muốn hạ một con lợn rừng, phải có cả cái
thông thạo của người thợ săn lẫn răng móng của một đàn chó.
Xếp đặt
xong đâu vào đấy, Giave yên trí rằng Vangiăng thế là bị nghẽn đường, ở bên phải
vấp vào ngách cụt Giăngrô, bên trái gặp người của hắn, đằng sau lưng thì có
chính hắn. Giave đương đuổi tới. Khoan khoái Giave hít một hồi thuốc lá.
Rồi hắn
muốn đùa giỡn một tý; giờ phút ấy là giờ phút khoái trác tàn ác nhất của hắn.
Hắn cứ để cho con mồi lao tới trước. Hắn biết là hắn đã nắm chắc con mồi, nhưng
hắn muốn hãy hoãn lại cái phút đưa tay ra tóm lấy nó. Biết nó đã bị bắt mà còn
thấy nó tung tăng hắn lấy làm sung sướng- Con nhện để cho con ruồi vùng vaayyx,
con mèo để cho con chuột chạy đi, con nhện, con mèo kia có những khoái cảm gì
thì Giave có những khoái cảm đó. Những cái vũng vẫy, những cử động không đưa
đến đâu hết của con vật bị bắt là nguồn nhục cảm gớm ghiếc cho móng vuốt của lũ
ăn thịt. Còn gì làm cho chúng say sưa bằng sự vùng vẫy ngột ngạt ấy.
Giave rất
khoái. Mắt lưới của hắn hết sức chắc chắn, thắng lợi đã rõ ràng, chỉ còn mỗi
việc nắm bàn tay tóm cổ con mồi.
Giave cho
rằng dù Vangiăng rất khỏe, dù Vangiăng cả gan và tuyệt vọng, Vangiăng cũng
không thể chống cự được, vì hắn có đông tùy tùng đến vậy.
Giave
tiến từng bước, hắn thăm dò soát xét mỗi một ngóc ngách nhỏ như lục túi mộh
thằng ăn cắp.
Thế mà
lúc đến giữa rốn lưới, hắn không tìm thấy con ruồi nữa.
Hãy tưởng
tượng xem Giave tức tối thế nào!
Hắn tra
hỏi người thuộc hạ canh giữ ở góc phố Pichpuýt. Người ấy vẫn canh giữ vị trí,
những không thấy Vangiăng đi qua.
Trong đạo
đi săn, cũng có lúc cả đàn chó đeo bên chân con nai mà con nai vẫn cứ chạy
thoát, khiến những tay săn bạc đầu trong nghề cũng không còn biết nói sao. Cả
Đuyviviê, Linhivin và Đêpơrê cũng bó tay. Trong một trường hợp không may như
vậy, Actônggiơ đã kêu lên:
“Phải đâu
là nai, nó là một con tinh đấy!”
Giave
cũng rất muốn kêu như thế.
Hắn thất
vọng gần như phát cuồng lên.
Napoleon
đã phạm lầm lỗi trong chiến dịch đánh Nga, Alêchxăng trong cuộc viễn chinh Ân
Độ, Xêda trong việc xâm lược châu Phi, Xiruýt trong chiến tranh Xiti; Giave
cũng có lẫm lỗi trong trận đánh Giăng VanGiăng. Lúc đầu, không quyết đoán người
đi trốn là Giăng VanGiăng là sai. Đúng lý ra, nhìn thấy lần đầu là phải cầm
chắc! Không bắt Vangiăng ngay trong nhà là sai. Ở phố Pôngtoa, Giave biết đích
xác là Vangiăng rồi, mà không bắt tức tốc là sai. Hội ý với người thuộc hạ giữa
ngã tư, dưới ánh trăng vằng vặc cũng là sai. Đã đành rằng hỏi han người thuộc
hạ là tốt, cũng như người đi săn thường tìm hiểu ý những con chó đuổi hay;
nhưng người đi săn lành nghề cũng không nên quá cẩn thận khi đuổi những con thú
đa nghi như con sói hoặc thằng tù khổ sai. Vì quá chăm cho đàn chó đuổi theo
đúng dấu, Giave đã làm cho con mồi đánh hơi được đoàn săn và phóng mất. Cái sai
lầm nghiêm trọng nhất của Giave là khi đã tìm lại được dấu của Vangiăng trên
cầu Austeclít, hắn còn muốn bố trí cái trò mèo bắt chuột ghê gớm mà thơ ngây
ấy. Hắn đánh giá tài năng của hắn quá cao, tưởng bắt hổ dễ như bắt chuột. Đồng
thời hắn cũng có phần tự ti: ấy là lúc hắn xin viện trợ. Cẩn thận đến nước ấy
thì thật là tai hại, là làm mất bao nhiêu thời giờ vàng ngọc. Giave phạm những
lỗi lầm ấy, nhưng Giave vẫn là người thám tử thông thạo và hợp cách nhất từ xưa
đến nay. Đúng hắn là một con chó hay, như người ta thường gọi trong săn bắn.
Ai mà
toàn thiện toàn mỹ được? Những nhà thao lược thiên tài nhất trong lịch sử cũng
còn có lúc lú lẫn.
Những
điều ngu muội lớn nhất thường cũng như những cái dây thừng to, tết bằng vô số
sợi nhỏ. Tách cái dây thừng ra từng sợi, tách rời những nhân tố nhỏ bé và quyết
định, bạn có thể biết được chúng rất dễ từng cái một và bạn sẽ bảo: Chỉ thế
thôi ư! Nhưng bện nó lại, quấn nó lại, nó sẽ ghê gớm. Đó là chuyện Atila do dự
giữa Mácxieeng ở đông và Valăngtinieeng ở tây, chuyện Aniban là đà ở Capu,
Đăngtông ngủ quên ở Acxi xuya Ôbơ.
Mặc dù
thế nào, khi thấy Vangiăng mất tích, Giave vẫn không rối trí. Hắn tính chắc là
Vangiăng còn lẩn quẩn đâu đấy chứ chưa thể cao bay xa chạy. Hắn bố trí người
rình, gác, hắn tổ chức những bẫy sập, hắn lùng ngang dọc trong khu phố suốt
đêm. Trước hết hắn nhaanjt hấy chiếc đèn lồng nằm không đúng chỗ, dây treo đèn
bị cắt… Đó là một tang chứng quý báu thật, nhưng cái tang chứng ấy lại làm cho
Giave lạc hướng.
Hắn chăm
chú tìm tòi lục soát quanh ngách Giăngrô. Ở trong ngách ấy, có những bức tường
thấp, sau tường là vườn tược; qua khỏi các khu vườn này thì đến nhiều đám đất
mênh mông bỏ hoang. Hắn nghĩ tất nhiên Vangiăng đào tẩu theo hướng ấy! Thật
vậy, nếu trước đấy, Vangiăng tiến sâu vào ngách Giăngrô thì hẳn ông đã chạy về
hướng ấy, và bây giờ đã bị nguy rồi. Bởi vì Giave thăm dò các khoảnh vườn và
các đám đất quanh đấy tỉ mỉ như tìm một cây kim rơi.
Sáng sớm
hôm sau, Giave đặt hai thuộc hạ khôn ngoan quan sát ở đấy, còn hắn thì lui về
sở, xấu hổ như một anh thám tử bị kẻ trộm lừa.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 6: NHÀ TU PƠTI PICHPUÝT
Chương 1
NGÕ PICHPUÝT, SỐ 62
Cái cổng
lớn số nhà 62, trong ngõ Pichpuýt, cách đây nửa thế kỷ, cũng giống như mọi cổng
lớn khác. Thường ngày, cổng vẫn hé mở, khiến ai cũng phải nhòm vào; nhìn vào
cũng không có gì thảm đạm lắm: một cái sân có tường bao quanh, phủ đầy lá nho
xanh, một khuôn mặt bác gác cổng đang đi thơ thẩn. Phía trong cùng, những chòm
cây to vươn lên khỏi bờ tường. Những khi vườn hé chút ánh nắng hay khuôn mặt
bác gác tươi cười vì có chút hơi men thì khách qua đường, ai cũng cảm thấy lòng
vui phơi phới. Thế mà ngôi nhà số 62 là một nơi vô cùng u uất, mà chúng ta đã
được nhìn qua.
Ngoài cửa
thì vui tươi, trong nhà thì chỉ nghe thấy tiếng cầu kinh và tiếng khóc.
Nào mấy
ai đã qua được bác gác mà vào nhà; muốn qua được bác, phải biết một câu thần
chú như kiểu “úm ba la mở cửa ta vào”; khi qua được bác, ta thử rẽ vào căn
phòng nhỏ ở phía tay phải; một cái thang gác chật hẹp giữa hai bức tường, chỉ
vừa đủ một người đi; màu vôi vàng sẫm thật dễ sợ; cầu thang đánh bóng, màu nâu.
Nếu ta có gan mạo hiểm leo lên, ta sẽ qua chỗ quặt đầu tiên, chỗ quặt thứ hai,
rồi ta đến một cái hành lang; vẫn cái màu vàng đùng đục, vẫn cái chân tường màu
sô-cô-la theo dõi ta. Hai cái cửa sổ xinh đẹp chiếu sáng xuống cầu thang và
chiếu vào hành lang. Đến một chỗ quặt thì hành lang tối sầm lại. Nếu ta cứ bước
thêm vài bước nữa, ta sẽ thấy một cái cửa bí mật, bí mật chính bởi vì nó không
đóng lại. Đẩy cửa vào thì là một căn buồng chừng ba mét vuông, lát đá hoa; lau
chùi sạch sẽ, lạnh lẽo, tường trải thứ giấy hoa xanh mười lăm xu một cuộn. Bên
trái, choán hết chiều ngang cái buồng, một cái cửa kính ô nhỏ để lọt vào một
thứ ánh sáng nhàn nhạt. Mắt nhìn không thấy một bóng người; tai nghe không thấy
một bước chân đi, không một tiếng thì thào. Tường trần trụi không bọc gì, buồng
không có đồ đạc, đến một cái ghế cũng không.
Nhìn mãi
mới thấy ở bức tường trước mặt một cái lỗ hình vuông, độ ba tấc vuông, chăng
một hàng chấn song sắt màu đen, đan chéo nhau, sần sùi, chắc chắn. Các song sắt
ngang dọc làm thành những hình vuông có thể nói những mắt lưới vuông đường
huyền năm sáu phân. Những bông hoa vẽ màu xanh trên tường cứ thản nhiên và đều
đặn kéo đến gần những ô sắt, không tỏ vẻ gì khiếp sợ và rối loạn. Ta có thể
tưởng tượng một con người gầy đét dù lọt ra, hay lọt vào qua lại ô vuông ấy,
thì những cái gióng sắt kia sẽ cản lại. Nó không để thân thể lọt qua, nhưng để
cho mắt lọt, nghĩa là tinh thần. Hình như người ta đã nghĩ đến điều đó vì ta
thấy họ đã đóng thêm một tấm thiếc vào tường ở phía sau một ít, tấm thiếc đục
hàng ngàng lỗ nhỏ li ti, nhỏ hơn lỗ môi hớt bọt.
Ở phía
dưới tấm thiếc có đục thủng một khe nhỏ như miệng hòm thư. Bên phải cái khe,
treo thòng lọng một mẩu dây để kéo chuông.
Cầm dây
giật, tức thì một tiếng nói ngay sát đấy làm ta phải rùng mình.
- Ai đấy.
Tiếng ấy
là tiếng đàn bà, một tiếng nói nhẹ nhàng, vì nhẹ nhàng quá nên nghe ra thảm
đạm.
Nơi này,
cũng phải biết một câu thần chú thì cửa mới mở. Nếu không, tiếng nói sẽ lại câm
lặng, bức tường im lìm, tưởng như phía bên kia tường chỉ có bóng tối khủng
khiếp nơi mộ địa.
Nếu ta
biết câu bí mật, tiếng nói kia sẽ tiếp:
- Rẽ sang
tay phải.
Nhìn sang
bức tường phía tay phải, đối diện với cửa sổ, ta thấy một cái cửa lắp kính, sơn
màu xám, bên trên là một khung kính. Nhấc cái chốt bước qua cửa, ta có cảm
tưởng hệt như khi ta bước chân vào cái buồng con ở rạp hát khi chấn song chưa
hạ xuống và đèn chưa thắp lên. Buồng này quả giống như một buồng con trong rạp
hát, chỉ có ánh sáng phía cửa kính tỏa xuống mờ mờ, hẹp, kê hai cái ghế cũ và
một cái đệm rơm đã xơ xác, đứng như một cái buồng rạp hát, phía trước có một
cái bàn nhỏ bằng gỗ đen. Phòng đó tứ bề có chấn song, nhưng không phải thứ chấn
song bằng gỗ thếp vàng trong rạp Ôpêra ở Paris, mà lại là một thứ chấn song sắt
khủng khiếp chằng chịt, đóng vào tường bằng những chốt to tướng trông như những
nắm tay.
Mấy phút
qua, khi mắt đã quen với thứ bóng tối mờ mờ như ở dưới hầm ấy, ta thử đi qua
lớp chấn song; nhưng được vài bước, lại có một hàng cửa ván đen ngòm chắn ngang
trước mặt. Cửa thì đầy những then ngang của hàng chấn song và lúc nào cũng đóng
im ỉm.
Một lát
sau, một tiếng nói từ sau cửa vọng ra gọi khách và hỏi:
- Tôi
đây, người cần gì ở tôi?
Tiếng nói
ấy là tiếng nói của một người thân mến, nhiều khi là tiếng nói của người yêu.
Không thấy bóng người. Đến một hơi thở cũng không nghe thấy. Hình như hồn ma
nào từ dưới mồ vọng lên chuyện trò với khách.
Có khi,
trong những trường hợp hiếm hoi, một cánh cửa mở ra trước mặt khách, hồn ma ấy
hiển hiện lên. Sau lưới sắt, bên trong cửa sổ, có một cái đầu, nhưng chỉ nhìn
thấy miệng và cằm, còn thì là một cái khăn voan đen kín mít. Thấp thoáng một
cái yếm đen, một hình người phủ mảnh vải liệm đen. Cái đầu ấy nói chuyện với
khách, nhưng không nhìn khách và chẳng bao giờ hé một nụ cười.
Ánh sáng
từ phía cửa sổ soi vào, khiến khách thấy cái đầu ấy trắng xóa, còn khách chỉ là
một cái bóng đen ngòm. Ánh sáng ấy có một ý nghĩa tượng trưng.
Qua lỗ
hổng, mắt khách chăm chăm nhìn vào khoảng tối âm u, tĩnh mịch. Tứ bề xung quanh
cái hình người mặc đồ tang, chỉ là một thứ không khí mơ hồ thăm thẳm. Mắt khách
chăm chú tìm tòi xem trong khoảng mơ hồ ấy có nhận được vật gì, ngoài bóng ma
không. Một lát sau mới nhận ra là chẳng trông thấy gì hết. Chỉ thấy đêm tối,
khoảng không trống rỗng, bóng đen mù mịt, một thứ sương mù quyện với hơi sương
lạnh lẽo ngoài bãi tha ma; và yên lặng ghê người, không thấy gì hết, không có
cả đến hơi thở dài não nuột; toàn là bóng tối, không thấy cả đến bóng ma vơ
vẩn.
Nơi ấy là
nhà tu kín.
Nhà tu ảm
đạm, khắc khổ này thuộc dòng thánh Becna, gọi là nhà tu “Chầu mình Thánh hàng
ngày”. Cái “buồng xem hát” vừa rồi, là phòng tiếp khách; tiếng nói đầu tiên với
khách là tiếng nói của một nữ tu giữ cửa, lúc nào cũng ngồi lặng thinh, ở phía
tường bên kia, gần cái cửa vuông nhỏ có hàng chấn song sắt và tấm thiếc đục
nhiều lỗ bảo vệ đến hai lần.
Cái phòng
khách bịt lưới sắt tối om, vì chỉ có một cửa sổ để lọt ánh sáng từ ngoài vào,
còn phía nhà tu thì không có. Con mắt trần tục không được nhìn vào nơi thiêng
liêng kia.
Tuy đây
là bóng tối, nhưng bên kia vẫn có ánh sáng. Trong cõi chết này vẫn có một cuộc
sống. Nhà tu này là nhà tu kín cổng cao tường nhất, nhưng ta cứ thử vào và đưa
bạn đọc vào để xem đời sống bên trong ra sao và thuật lại có chừng mực những
điều xưa nay chưa ai từng thấy, do đó cũng chưa kể bao giờ.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 6 - Chương 2
TIỂU TU VIỆN CỦA MÁCTANH VÉCGA
Cái tiểu
tu viện ấy, hồi 1824 đã có từ lâu ở ngõ Pichpuýt, là một tu viện của các nữ tu
sĩ Becnađin, thuộc dòng của Mactanh Vécga. Như thế là những tu sĩ ấy không phụ
thuộc vào tu viện Cơlécvô như những nam tu sĩ dòng Bênêđichtanh, nói khác đi là
họ không thờ thánh Xanh Bécna mà thờ thánh Xanh Bơnoa.
Ai đã đọc
một ít bộ sách lớn đều biết rằng Mactanh Vécga năm 1425 đã sáng lập một giáo
hội nữ tu sĩ Becnađin – bênêđichtin mà tu viện chính là Xalamăngcơ và tu viện
phụ là Ancala.
Hội nữ tu
ấy đã phát triển chi nhánh khắp các nước châu Âu theo đạo Giatô.
Ghép một
dòng tu này với một dòng tu khác là việc thường diễn ra trong nhà thờ La tinh.
Chỉ kể dòng thánh Bơnoa của Mactanh Vécga còn bốn giáo hội nữa: hai ở Ý, giáo
hội Mông Caxanh và giáo hội nữ thánh Giuyxtin đơ Pađu; hai ở Pháp, giáo hội ở
Cơluyni và giáo hội Xanh Môrơ và chín nhánh nữa: Valôngbơrôđa, Gơramông,
Xêlextanh, Camăngđan, Sáctơrơ, Uymiliê, Ôlivatơ, Xinvextơranh, cuối cùng là
Xitô, bởi vì chính cả Xitô, thân cây trổ ra nhiều nhánh, cũng chỉ là một nhánh
đối với thánh Bơnoa. Xitô được sáng lập từ thánh Rôbe, giáo sĩ ở Môlexmơ, trong
khu Lăngrơ, năm 1098. Chính là từ năm 529 con quỷ ác, về ẩn ở xa mạc Xuybiacô
(quỷ già, hắn muốn làm nhà ẩn dật chăng?) đã bị đuổi khỏi đền thờ cũ của
Apôlông bởi thánh Bơnoa, lúc bấy giờ mới mười bảy tuổi.
Sau luật
khổ hạnh của nữ tu sĩ dòng Cácmêlít, đi chân đất, đeo một tấm giáp mây trước
ngực và không bao giờ ngồi, luật khổ hạnh nghiêm khắc nhất là luật của dòng nữ
tu sĩ Becnađin – bênêđichtin của Mactanh Vécga. Họ mặc áo đen với một cái yếm
cứng lên đến tận cằm, theo đúng quyết nghị của thánh Bơnoa. Một cái áo dài
xecgiơ, ống tay rộng, một vuông len che mặt lón, cái yếm cứng lên đến tận cằm
và xén thẳng ngang ngực, cái băng trán che đến sát mắt, đó là y phục của họ.
Tất cả đều đen, trừ chiếc băng trán là trắng. Nữ tu sĩ tập sự cũng mặc như thế,
nhưng màu trắng. Những nữ tu sĩ đã tuyên thệ đeo thêm một chuỗi tràng hạt bên
hông.
Nữ tu sĩ
Becnađin – bênêđichtin của Mactanh Vécga thực hành “Chầu mình Thánh hàng ngày”,
cũng như những nữ tu sĩ Becnađin mang tên là nữ tu sĩ “Thánh thể”; đầu thế kỷ
này ở Paris có hai tu viện, một ở khu Tăngpơlơ, một ở phố Nơvơ Xanhtơ
Giơnơvievơ. Vả lại những nữ tu sĩ Becnađin – bênêđichtin của tu viện Pơti
Pichpuýt thuộc một dòng khác hẳn các nữ tu sĩ “Thánh thể” trong những nhà tu
kín ở phố Nơvơ Xanhtơ Giơnơvievơ và ở khu Tăngpơlơ. Có nhiều chỗ khác nhau
trong kỷ luật, khổ hạnh. Trong y phục các nữ tu sĩ Becnađin – bênêđichtin ở
Pơti Pichpuýt mặc yếm đen, các nữ tu sĩ theo “Thánh thể” ở phố Nơvơ Xanhtơ
Giơnơvievơ mặc yếm trắng và ở trên ngực còn đeo một cái mình thánh, cao tám
phân, bằng bạc mạ vàng hay bằng đồng mạ vàng. Nữ tu sĩ ở Pơti Pichpuýt không
đeo mình thánh. Việc Chầu mình thánh hàng ngày là một kỷ luật chung của tu viện
Pơti Pichpuýt và tu viện Tăngpơlơ, còn ngoài ra hai dòng hoàn toàn khác nhau.
Chỉ có sự giống nhau ấy trong kỷ luật hành lễ giữa các nữ tu sĩ Thánh thể và
các nữ tu sĩ Becnađin của Mactanh Vécga, cũng như có sự giống nhau trong học
tập và ngợi ca những điều thuộc thuở thơ ấu, đời sống và cái chết của Giêsu
Cơrít và thuộc về Đức mẹ đồng trinh giữa hai dòng rất xa nhau và có khi thù
địch nhau: phái Nhà nguyện Itali do Philip đơ Nêri lập ở Phơlorăngxơ và Nhà
nguyện Pháp do Pie đơ Bêruyn lập ở Paris. Dòng Nhà nguyện Paris tự cho là đứng
trên và Philip đơ Nêri chỉ là Thánh, còn Bêruyn là giáo chủ.
Ta hãy
quay về cái kỷ luật khổ hạnh Tây Ban Nha của Mactanh Vécga.
Các bà
Becnađin – bênêđichtin của dòng này cả năm đều kiêng ăn thịt, nhịn ăn những
ngày tuần chay và nhiều ngày khác do họ định riêng; đêm đêm sau giấc ngủ đầu
tiên, họ thức dậy từ một giờ cho đến ba giờ để đọc kinh và tụng bài kinh sớm.
Bốn mùa họ nằm trên ổ rơm, đắp chăn len thô, không tắm, không đốt lò sưởi, mỗi
thứ sáu tự lấy roi vọt đánh mình, giữ kỷ luật im lặng, chỉ nói với nhau trong
những giờ giải lao ngắn ngủi, mặc áo lót thô, suốt sáu tháng, từ ngày 14 tháng
9 là ngày suy tôn Thánh giá, cho đến ngày lễ Phục sinh. Sáu tháng thế là đã
giảm nhẹ rồi, kỷ luật bắt cả năm, nhưng cái áo lót mình thô ấy, trong những
ngày hè nóng bức, không sao chịu nổi, nó gây sốt và động kinh, nên phải hạn chế
việc mặc. Tuy có sự châm chước, ngày 14 tháng 9, khi các nữ tu sĩ bắt đầu mặc
cái áo ấy, họ cũng lên cơn sốt ba bốn ngày. Phục tùng, nghèo khó, trinh bạch,
suốt đời sống giữa bốn bức tường, đó là những lời nguyện của họ mà kỷ luật còn
làm nặng nề thêm nhiều.
Mẹ nhất
ba năm một lần được bầu lên bởi các mẹ gọi là “mẹ tư vấn” bởi vì các mẹ ấy được
có ý kiến, có thẩm quyền. Mẹ nhất chỉ được bầu lại hai lần, như thế nghĩa là
quyền hành của mẹ chỉ lâu nhất là chín năm.
Họ không
bao giờ được nhìn linh mục chủ lễ, có một tấm màn xecgiơ cao hơn hai mét rưỡi
che khuất. Khi giảng đạo, linh mục giảng đạo ở trong nhà nguyện, các mẹ phải
buông tấm khăn che mặt. Lúc nào cũng phải nói khẽ, đi thì mắt luôn nhìn xuống
và đầu cúi. Chỉ có một người đàn ông được vào trong tu viện, đó là vị tổng giám
mục địa phận.
Cũng có
một người đàn ông nữa, đó là người làm vườn. Những người ấy bao giờ cũng là một
ông già và để lúc nào ông già ấy cũng trơ trọi một mình trong vườn và để các nữ
tu sĩ biết trước mà tránh lão, người ta buộc vào đầu gối lão một chiếc nhạc
con.
Các bà
phải phục tùng mẹ nhất một cách tuyệt đối và thụ động. Đó là sự phục tùng theo
phép đạo với tất cả tinh thần nhẫn nhục của nó. Như phục tùng lệnh của Chúa
Cơrít (Từ đây đến hết đoạn tác giả có chua thành ngữ Latinh bên cạnh tiếng
Pháp), tuân theo cử chỉ, theo dấu hiệu, phục tùng tức khắc, một cách hân hoan,
một cách kiên nhẫn, hầu như một cách nhắm mắt, như cái đũa trong tay người thợ,
không được đọc, không được viết một tí gì nếu không được phép rõ rệt.
Lần lượt
mỗi bà phải làm cái họ gọi là đền tội. Đền tội tức là cầu nguyện để chuộc tất
cả các tội, tất cả các lỗi, tất cả các sự rối trật tự, tất cả các sự vi phạm,
tất cả các sự bất công, mà loài người đã phạm phải trên trái đất này. Suốt 12
giờ liền, từ 4 giờ chiều đến 4 giờ sáng, hay từ 4 sáng đến 4 giờ chiều, bà
phước đền tội quỳ trên phiến đá, trước Thánh thể, chắp hai tay và cổ buộc chiếc
dây thừng; khi mệt mỏi không chịu được nữa thì họ nằm rạp xuống, mặt áp đất,
hai cánh tay dang chữ thập, chỉ làm thế thôi để đỡ mệt mỏi. Trong cái tư thế
như vậy họ cầu nguyện cho tất cả những người phạm tội trong vũ trụ. Thật là cao
cả đến tuyệt vời.
Vì lễ cầu
nguyện ấy tiến hành trước một cái cột, trên có thắp một cây nến, nên người ta
gọi là lễ đền tội cũng được, hay đứng cột cũng được. Các bà vì tinh thần tự hạ,
lại thích cách gọi sau này đơn vị nó có hàm ý chịu tội, ý xả thân.
Đền tội
là một hành vi thu hút tất cả tâm hồn. Dù sấm nổ sau lưng, bà phước đứng cột
cũng không quay đầu lại.
Ngoài ra
lúc nào cũng có một nữ tu sĩ quỳ trước Thánh thể. Mỗi người quỳ như thế một
tiếng đồng hồ và thay phiên nhau như lính thay phiên gác. Đó là lễ Chầu mình
thánh hàng ngày.
Các mẹ
nhất và các mẹ hầu hết đều mang những cái tên có một ý nghĩa nghiêm trang đặc
biệt, gợi lại không phải những vị thánh hay các vị tử vì đạo, mà nhắc lại những
giai đoạn trong cuộc đời của Giêsu Cơrít, như mẹ Giáng sinh, mẹ Đồng Trinh, mẹ
Tiến dâng, mẹ Thương khó. Tuy vậy cũng không cấm mang tên các vị nữ thánh.
Khi ta
nhìn họ thì bao giờ cũng chỉ nhìn thấy cái mồm. Răng ai cũng vàng cả. Không bao
giờ có một cái bàn chải răng được vào trong tu viện. Đánh răng là bậc thang
trên cùng của một cái thang mà bậc cuối cùng là: mất linh hồn.
Họ không
bao giờ bảo của tôi. Họ không có cái gì riêng và cũng không được gắn bó với cái
gì cả. Cái gì họ cũng bảo là của chúng tôi, thí dụ như cái màn che mặt của
chúng tôi, cái chuỗi hạt của chúng tôi; giá nói đến cái áo lót mình họ cũng sẽ
bảo: cái áo lót mình của chúng tôi. Đôi khi họ cũng quyến luyến một cái gì nho
nhỏ. Quyển Kinh nhật khóa, một thánh tích, một cái ảnh thánh. Nhưng khi họ bắt
đầu thấy họ quyến luyến vật ấy thì họ đem cho đi ngay. Họ vẫn nhớ câu nói của
thánh Têredo trả lời một bà mệnh phụ, bà này khi sắp đi theo dòng tu của thánh
Têredo, đã thưa: “Cho phép con sai người đi mang đến cho con quyển thánh kinh
mà con thích lắm”. “Thế à! Thế ra bà còn thích một cái gì à. Thế thì bà đừng
vào đây với chúng tôi”.
Cấm không
ai được ở riêng ra một mình, có một chỗ ở riêng, một phòng riêng. Tuy phòng họ
lúc nào cũng mở cửa. Khi họ gặp nhau, một người nói: Ngợi khen thờ kính Thánh
thể rất thiêng liêng, người kia trả lời: Đời đời. Khi họ gõ cửa buồng nhau cũng
vậy. Vừa thấy tiếng gõ nhẹ, phía trong đã nghe một giọng êm dịu, vội vàng nói:
Đời đời. Với thói quen, điều này trở thành một việc làm như máy. Đôi khi người
này chưa kịp nói cái câu khá dài Ngợi khen và thờ kính Thánh thể rất thiêng
liêng thì người kia đã vội đáp: Đời đời.
Với dòng
tu Viđităngdin, thì người gõ cửa nói: Ave Maria, người trong buồng nói: Đầy
duyên phúc. Đó là lời chào của họ, cũng “đầy duyên” phúc thật (Chữ grâce tiếng
Pháp có hai nghĩa: ơn phúc và xinh đẹp, duyên dáng. Tác giả dùng nghĩa thứ hai
ở đây).
Mỗi giờ
chuông tu viện, sau hồi chuông báo giờ, lại đánh thêm ba tiếng. Nghe hiệu tiếng
ấy, tất cả mọi người: mẹ nhất, các mẹ tư vấn, các bà đã khấn nguyện, các bà
phục vụ, các bà tập sự, các bà còn đợi vào dòng, tất cả đang nói gì, đang làm
gì đều ngừng cả lại và tất cả đồng thanh nói, thí dụ nếu là năm giờ: Lúc năm
giờ và tất cả mọi giờ, ngợi ca và thờ kinh Thánh thể rất thiêng liêng. Nếu là
tám giờ: Lúc tám giờ và tất cả mọi giờ… và cứ thế tùy theo mỗi giờ.
Cái tập
tục nhằm mục đích bất cứ lúc nào, cũng cắt đứt dòng tư tưởng, để quy nó về với
Chúa, trong nhiều dòng tu đều có, chỉ có lời tụng là thay đổi, thí dụ như dòng
tu Giêsu Hài đồng thì người ta nói: Ở giờ này và tất cả mọi giờ lòng tôi luôn
nghĩ đến Chúa Giêsu!
Những bà
Becnađin – bênêđichtin dòng Mactanh Vécga từ năm mươi năm nay ở trong nhà tu
kín Pơti Pichpuýt, đều hát theo một điệu nguyện kinh trầm, điệu hát hành lễ cổ
truyền, lúc nào cũng đều đều, suốt các buổi lễ. Mỗi khi trong sách hát có một
dấu sao, họ đều dừng lại một lát và nói sẽ: Giêsu, Maria, Giôdép. Lễ cầu hồn
người chết, họ hát giọng thấp đến mức ít có giọng nữ nào thấp đến thế và tạo ra
một cảm giác xúc động và thê thảm.
Các nữ tu
sĩ Pơti Pichpuýt xây một cái hầm mộ ngay dưới nền bàn thờ chính để chôn người
chết của họ. Nhưng chính phủ, như họ nói, không cho phép đặt quan tài dưới đó.
Vì vậy khi họ chết cũng phải đưa xác ra ngoài tu viện. Điều đó làm họ buồn và
kinh sợ như phạm một tội nặng.
Họ xin
được chôn vào một giờ riêng trong nghĩa địa cũ Vôgira, ở một miếng đất xưa kia
là của dòng họ. Tuy nhiên ân huệ đó cũng chẳng an ủi họ được mấy.
Thứ năm
họ nghe lễ lớn, kinh chiều và các lễ khác, cũng như ngày chúa nhật. Họ còn làm
đầy đủ tất cả mọi lễ khác mà người ngoài đời hầu như hoàn toàn không biết,
những lễ mà trước kia nhà thờ Pháp đặt ra rất nhiều, nay ở Tây Ban Nha và Ý vẫn
còn giữ. Thì giờ họ ở trong nhà nguyện thật là vô tận, còn số kinh họ nguyện và
thời gian mỗi lần họ nguyện kinh chúng tôi chẳng thể nào nói đúng hơn là lời
nói hồn nhiên của một người trong bọn họ: “Những bà tập sự nguyện kinh thì thật
là ghê sợ, những bà mới vào dòng càng ghê sợ hơn và những bà đã khấn thì càng
ghê sợ hơn nữa”. Mỗi tuần một lần, tập hợp tất cả tu viện. Mẹ nhất chủ tọa, các
“mẹ tư vấn” tham dự. Mỗi bà phước, lần lượt ra quỳ trên phiến đá và trước mặt
cả mọi người, cất tiếng to xưng thú tất cả các lầm lỗi, các tội đã phạm trong
tuần. Các “mẹ tư vấn” trao đối với nhau sau mỗi lời thú tội và cất tiếng tuyên
bố những hình phạt.
Ngoài
việc thú tội công khai rộng rãi như vậy dành cho các lỗi hơi nặng, còn những
lỗi nhẹ thì có hình thức khác gọi là làm cunpơ. Làm cunpơ là quỳ áp bụng xuống
đất suốt buổi lễ, trước mặt mẹ nhất, cho đến khi mẹ nhất – mà bao giờ cũng phải
gọi là mẹ chúng tôi – gõ một tiếng nhỏ vào tay chiếc ghế ngồi của mẹ, báo cho
kẻ thú tội biết là được đứng dậy. Một tí gì cũng phải làm cunpơ. Đánh vỡ một
cái cốc, làm rách một khăn che mặt, vô tình đến dự lễ chậm vài giây, hát sai
một nốt ở nhà thờ… thế là đủ để làm cunpơ. Làm cunpơ là việc tự nhiên tự phát,
chính người phạm tội (dùng theo nghĩa từ nguyên của chữ cunpơ) tự xét xử mình
và tự trừng phạt mình. Những ngày lễ và ngày chủ nhật, có bốn mẹ hát nguyện
trước một cái giá sách bốn ngăn. Một hôm một mẹ xướng một bài tụng bắt đầu bằng
chữ Exê, nhưng mẹ lại không nguyện Exê mà lại hát to ba nốt nhạc ut, si, sol.
Vì sự lơ đãng ấy, mẹ phải làm cunpơ suốt buổi lễ. Lỗi càng thêm nặng vì cả tu
viện đã cười ồ.
Khi một
nữ tu sĩ được gọi lên phòng khách, dù là mẹ nhất, cũng phải buông khăn che mặt
để người ta chỉ trông thấy cái miệng thôi, như ta đã biết.
Chỉ có mẹ
nhất được tiếp xúc, nói chuyện với người ngoài. Những bà khác chỉ được gặp
người thật thân cận trong gia đình mình và cũng rất ít khi thôi. Nếu ngẫu nhiên
một người ngoài đến xin gặp một nữ tu sĩ mà họ đã biết hay yêu ngoài đời, thì
phải qua cả một cuộc thương thuyết. Nếu là một phụ nữ thì đôi khi còn được
phép. Nữ tu sĩ ấy đi ra và người đến thăm chỉ được nói chuyện qua khung cửa,
cánh cửa chỉ mở cho mẹ hay chị thôi. Tất nhiên không bao giờ người ta cho phép
một người đàn ông vào.
Đó là kỷ
luật của thánh Bơnca và thánh Vécga đã làm cho thêm nghiêm ngặt.
Những nữ
tu sĩ này không vui tươi, hồng hào như ở các dòng tu khác. Họ xanh xao và
nghiêm nghị. Từ 1825 đến 1830 có ba người đã hóa điên.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 6 - Chương 3
NHỮNG ĐIỀU NGHIÊM KHẮC
Đợi được
vào dòng ít nhất phải hai năm, nhiều khi bốn năm; thời gian tập sự phải bốn
năm. Rất hiếm có những bà được khấn nguyện trước tuổi hăm ba, hăm bốn. Dòng tu
Becnađin – bênêđichtin của Mactanh Vécga không nhận vào dòng mình những phụ nữ
góa chồng.
Ở trong
tu phòng, họ tự dằn vặt, tự đầy đọa xác thịt một cách lạ lùng mà không bao giờ
nói với ai. Ngày được chính thức khấn nguyện người nữ tu sĩ mặc những quần áo
đẹp nhất, đầu chít một vành hoa hồng trắng; người ta chải dầu thơm và tết tóc
cho bà, rồi bà quỳ xuống; người ta phủ lên mình bà một tấm màn đen và hát bài cầu
hồn. Bấy giờ các tu sĩ phân ra thành hai hàng, một hàng đi sát bà và nói với
một giọng rầu rĩ “Người chị em của chúng ta đã chết” và hàng người kia trả lời
với một giọng âm vang “Sống trong lòng Giêsu Cơrít”.
Thời kỳ
xảy ra câu chuyện này, trong tu viện có một nhà lưu trú. Nhà lưu trú dành cho
các con gái quý tộc, phần lớn là giàu; trong số đó có tiểu thư Xanhtơ Olerơ,
tiểu thư Đơ Bêlixen và một cô gái người Anh, mang cái tên nổi tiếng trong giới
công giáo là Tanbô. Những cô gái được các tu sĩ nuôi dạy trong bốn bức tường
kín, lớn lên với lòng ghê sợ xã hội và ghê sợ cuộc đời: một cô trong số đó có
lần nói với chúng tôi: “Chỉ nhìn thấy cái lề đường cũng đủ làm cho tôi ghê sợ
rùng mình từ gáy đến chân”. Các cô gái ấy mặc quần áo màu xanh, đội mũ chụp trắng
và mang một hình Chúa Thánh Thần bằng bạc hay đồng mạ vàng trước ngực. Vào một
số ngày lễ lớn, đặc biệt là vào ngày lễ Xanhtơ Mactơ, tu viện cho phép họ, coi
như là một đặc ân và một hạnh phúc lớn lao, mặc áo như các nữ tu sĩ, đi dự lễ
và thực hiện mọi biện pháp tắc của thánh Bơnoa suốt một ngày. Lúc đầu các tu sĩ
cho họ mượn quần áo đen của mình. Nhưng như thế có phần phàm tục nên mẹ nhất
cấm. Chỉ có các tu sĩ mới nhập dòng mới được phép mượn quần áo. Đáng chú ý là
những chuyện ấy, có lẽ được xem như bình thường và khuyến khích ở trong tu viện
vì một nhiệt tình truyền đạo và để cho các cô gái nhỏ ấy sớm ưa thích cái bộ áo
thiêng liêng, lại là một hạnh phúc thực sự và một điều giải trí đối với họ. Các
cô gái nhỏ ấy vui thích một cách hồn nhiên. Đó là một cái mới lạ, nó làm cho họ
thay đổi. Thật là những lý do thơ ngây của tuổi trẻ, không thể làm cho chúng
ta, những người lớn, trải đời, hiểu được cái sung sướng được cầm cái cần rẩy
nước thánh và đứng hàng giờ, tay bốn cùng hát tụng trước giá Kinh.
Những nữ
sinh lưu trú này, trừ phần kỷ luật khắc khổ, cũng phải theo hết các tập tục của
tu viện. Có cô đã trở về nhà và đi lấy chồng mấy năm rồi mà vẫn chưa bỏ được
thói quen nói vội vàng “đời đời” khi nghe có tiếng người gõ cửa. Cũng như các
nữ tu sĩ, những cô gái lưu trú chỉ được gặp người nhà ở phòng khách. Những bà
mẹ của họ cũng không được phép ôm hôn con. Đây là một ví dụ chứng tỏ sự nghiêm
ngặt ấy có thể đến mức như thế nào. Một hôm một cô gái có người mẹ đến thăm, đi
cùng với em gái cô, mới ba tuổi. Em bé khóc và muốn hôn chị. Không thể được. Cô
gái lưu trú chỉ xin phép cho em cô đưa bàn tay nhỏ qua chấn song để cô có thể
hôn bàn tay em. Điều này cũng bị từ chối gần như tàn nhẫn.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 6 - Chương 4
NHỮNG NIỀM VUI
Tuy vậy
những cô gái lưu trú ấy cũng đã để lại trong nhà tu nghiêm nghị này những kỷ
niệm tươi vui.
Có những
lúc tuổi trẻ chói sáng ngời ngời trong nhà tu kín này. Giờ ra chơi vừa điểm.
Một cánh cửa quay trên bản lề. Chim trên cành bảo nhau: đây! Các bạn nhỏ đây!
Tuổi trẻ vui tươi bỗng như nước phun lên, tràn ngập cái vườn có cây thập tự
giống như một tấm vải liệm. Những khuôn mặt rạng rỡ, những vầng trán trắng
tinh, những cặp mắt ngây thơ đầy ánh sáng tươi vui, tất cả các thứ ánh bình
minh tỏa ra giữa bóng đêm đen tối ấy. Sau những giờ nguyện kinh, những tiếng
chuông, những hồi chuông gọi, những tiếng chuông báo tử, những buổi lễ, bỗng
nhiên nổ tung ra cái tiếng ồn ào của các cô gái nhỏ và mỗi con ong mang mật của
nó đến. Chơi đùa, gọi nhau, túm năm, tụm ba, chạy nhảy, những hàng răng ngọc
ngà xinh xắn, bi bô ở từng góc. Những tấm màn che mặt, từ đằng xa, giám sát các
tiếng cười, bóng tối đang rình tia sáng. Nhưng mặc kệ, các em vẫn tươi vui,
sáng rỡ, nói nói cười cười. Bốn bức tường thê thảm ấy có những phút sáng ngời.
Như được
ánh chói của bao nhiêu vui tươi làm cho trắng lên, chúng đứng chứng kiến những
đàn ong kia bay lượn êm đềm. Đúng là một trận mưa hoa hồng đổ xuống một cảnh
tang tóc. Các em gái nhỏ bay lượn dưới con mắt của các bà tu sĩ. Cái nhìn của
nghiêm túc tuyệt đối không làm cho ngây thơ phải lúng túng. Nhờ có những em gái
nhỏ ấy mà giữa bao nhiêu giờ phút nghiêm khắc kia có một giờ thơ ngây. Các em
gái bé nhảy nhót, các em gái lớn nhảy múa. Ở nhà tu kín này trong nô đùa của
trẻ con như có trời xanh. Không gì tươi sáng và huy hoàng, đường bệ, như những
linh hồn tươi mát như hoa nở ấy. Omerơ cũng muốn đến đây cười đùa với Perô
(Homere: nhà thơ cổ đại Hy Lạp, tác giả những chiến hùng ca Iliat và Ođixê nổi
tiếng; Perrault: nhà thơ Pháp thế kỷ 17, tác giả những chuyện thần tiên nổi
tiếng viết cho trẻ con như chuyện Em bé tí hon) trong cái vườn đen tối này có
tuổi trẻ, có lành mạnh, có tiếng động, có tiếng kêu, có sự quay cuồng vui nhộn,
có thú vui, có hạnh phúc, có thể làm cho tất cả những bà cố của anh hùng ca, của
cổ tích, của ngai vàng, cũng như của lều tranh, từ Hêquýbơ đến Marơ Gơrăng,
phải vui cười, giảm hết vết nhăn trên mặt.
Trong cái
nhà này, có lẽ hơn bất cứ ở đâu, người ta được nghe nhiều những lời trẻ con lúc
nào cũng ý nhị làm cho mọi người cười và mơ mộng. Chính ở giữa bốn bức tường ảm
đạm này, một em gái nhỏ năm tuổi một hôm thốt lên câu này: “Mẹ ơi! Một chị lớn
vừa bảo con rằng chỉ còn phải ở đây 9 năm 10 tháng nữa thôi. Sung sướng quá
nhỉ!”
Cũng ở
đây người ta đã được nghe những câu đối thoại đáng ghi nhớ mãi mãi này:
Một mẹ tư
vấn: - Con ơi sao con khóc?
Em gái
nhỏ (sáu tuổi) nức nở: Con bảo Alixơ rằng con thuộc lịch sử Pháp. Alixơ cứ bảo
là con không thuộc, thế mà con thuộc thật.
Alixơ (em
lớn, chín tuổi): Không, nó không thuộc đâu.
Mẹ: Con
ơi! Thế nào là nó không thuộc?
Alixơ: Nó
bảo con là cứ mở quyển sử ra, bất cứ trang nào và hỏi nó một câu có ở trong
sách, nó sẽ trả lời được cho coi.
- Thế rồi
sao?
- Nó
không trả lời được.
- Xem
nào, con hỏi nó câu gì?
- Con đã
mở quyển sách như nó bảo và đã hỏi nó câu hỏi đầu tiên con thấy.
- Thế câu
hỏi ấy là câu hỏi gì?
- Như thế
này: Sau đó thì thế nào?
Cũng ở
đây, ta nghe thấy một lời nhận xét sâu sắc về một con vẹt hơi tham ăn của một
bà lưu trú:
- Con vẹt
này mới ngộ chứ. Nó ăn cái phần nhân trên bánh, như là người ấy.
Cũng ở
trên một viên đá lát nhà tu kín ấy, người ta đã nhặt được những lời thú tôi sau
đây của một kẻ phạm tội lên bảy tuổi chép trước vào giấy để khỏi quên.
“- Thưa
cha, con tự thú đã mắc tội hà tiện.
“- Thưa
cha, con tự thú đã mắc tội ngoại tình.
“- Thưa
cha, con tự thú đã mắc tội ngửa mặt lên nhìn đàn ông”.
Cũng ở
trên một chiếc ghế đá trong vườn này, một cái miệng hồng sáu tuổi đã đặt ra câu
chuyện nhỏ này mà những cặp mắt xanh bốn, năm tuổi nghe chăm chú:
- Ngày
xưa có ba con gà sống ở một xứ có nhiều hoa. Chúng nó hái hoa bỏ vào túi. Xong
rồi chúng nó hái lá để vào đồ chơi của chúng. Trong xứ ấy có một con chó sói và
ở đấy có nhiều rừng; con sói thì ở trong rừng. Và con sói đã ăn thịt mấy con gà
sống nhỏ.
Và còn
bài thơ nhỏ này nữa:
Xảy ra
câu chuyện đánh một gậy
Ấy là
Pôlisinen đã đánh cho con mèo một gậy
Chuyện ấy
không tốt cho Pôlisinen, chuyện ấy đã làm hại nó.
Thế là
một bà lớn bắt Pôlisinen bỏ tù.
Ở đấy có
một em bé gái bị bỏ rơi, được tu viện nhặt nuôi làm phúc. Khi em nghe các bạn
khác nói đến mẹ các bạn ấy, em ngồi trong xó thì thầm câu nói hiền dịu và xót
xa này:
- Em thì
khi em ra đời, mẹ em không có ở đây.
Có một nữ
tu sĩ phụ trách liên lạc với người ngoài to béo. Lúc nào người ta cũng thấy bà
lật đật - ở các hành lang với chùm chìa khóa, tên bà là Agatơ. Các em gái lớn,
hạng mười tuổi trở lên, đặt cho bà ấy cái tên Agatôcơlê (Agatheclas: đồng âm
với Agatthe aux cléc: Agatơ chữa khóa).
Nhà ăn,
một gian rộng, vuông, ánh sáng chỉ lọt qua một hành lang có cột, liền ngay với
vườn tu viện, thì lúc nào cũng tối và ẩm và như lời các trẻ nhỏ vẫn nói: đầy
những sâu bọ. Tất cả các góc nhà xung quanh đều có sâu bọ bò đến, do đó mỗi góc
có một cái tên riêng tiêu biểu trong ngôn ngữ của các cô gái nhỏ: có góc nhện,
góc sâu, góc bò cạp, góc dế; góc dế thì gần bếp và các em gái nhỏ rất thích góc
ấy. Ở đấy không lạnh bằng các chỗ khác. Những tên ấy, từ nhà ăn đã lan sang nhà
lưu trú và được dùng để phân biệt bốn “dân tộc” như ở trường Madaranh cũ. Mỗi
em gái đều thuộc một trong bốn “dân tộc” ấy tùy theo góc phòng em vẫn ngồi bữa
ăn. Một hôm Đức Tổng giám mục, trong một cuộc kiểm tra, thấy một em gái xinh,
hồng hào, với một bộ tóc vàng tuyệt đẹp, đi vào trong lớp ngài đang thăm. Ngài
hỏi một em gái lưu trú xinh xắn khác tóc đen, đang ngồi cạnh ngài:
- Em gái
nào đấy?
- Thưa
Đức giám mục, đấy là một con nhện.
- Thế à,
còn em kia?
- Một con
dế.
- Và em
này?
- Một con
sâu.
- Thực ư:
thế con cháu?
- Thưa
Đức giám mục, cháu là một con bò cạp.
Mỗi một
tu viện như tu viện này đều có những nét riêng biệt của nó. Đầu thế kỷ này,
Ecuen là một trong những cái nhà ấy, xinh tươi và nghiêm nghị, ở đó các cô gái
nhỏ lớn lên, dưới một bóng mát thiêng liêng. Ở Ecuen, những cô gái được xếp
hàng vào đám rước Mình Thánh, chia ra những “cô gái đồng trinh” những “cô gái hoa”.
Rồi còn những “cô gái lọng”, những “cô gái bình hương” là những cô cầm đài
lọng, những cô đốt hương trước Mình Thánh. Hoa thì các cô “gái hoa” được quyền
giữ lấy. Bốn “cô gái đồng trinh” đi đàng trước. Buổi sáng ngày lễ lớn ấy, người
ta thường nghe thấy ở trong phòng ngủ các em gái nhỏ hỏi nhau:
- Đứa nào
trinh đấy?
Bà
Căngpăng nhắc lại lời một em nhỏ bẩy tuổi nói với một em lớn mười sáu tuổi, cô
lớn đi đầu đám rước, còn cô nhỏ đứng ở đàng đuôi:
- Chị thì
trinh, còn em thì không trinh.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 6 - Chương 5
NHỮNG TRÒ GIẢI TRÍ
Phía trên
cửa vào phòng ăn, có viết bằng chứ lớn màu đen bài Kinh này mà người ta gọi là
Patơnôtơrơ trắng, nó có cái mầu nhiệm đưa thẳng người ta lên thiên đường:
“Patơnôtơrơ
trắng nhỏ, mà Chúa làm, mà Chúa đọc, mà Chúa đặt lên thiên đường. Buổi tối tôi
đi nằm, tôi trông thấy (nguyên văn) ba thiên thần nằm “ngị” ở giường tôi, một ở
chân giường, một ở đầu giường và ở giữa là Đức mẹ đồng trinh Maria. Đức Mẹ bảo
tôi cứ nằm “ngị” ở giường và đừng “ngị” gì. Chúa là cha tôi, Đức mẹ đồng trinh
là mẹ tôi, ba đấng tông đồ là anh tôi, ba nữ đồng trinh là chị tôi. Chiếc áo
lót đỡ mình Chúa khi Chúa ra đời bao bọc thân tôi. Thập tự giá Xanhtơ Mácgơritơ
vẽ trên ngực tôi. Đức Mẹ đồng trinh đi ra đồng, Chúa khóc lóc tìm “thấy” ngài
Xanh Giăng. Ngài Xanh Giăng, ngài ở đâu đến đấy? Tôi ở lễ Avê Xaluyxơ đến. Ngài
có trông “thấy” Chúa không? Có không? Chúa ở trong cây thập tự, hai chân buông
thõng hai tay đóng đanh, một chiếc mũ gai nhọn trắng trên đầu. Ai đọc ba lần lời
cầu nguyện này buổi chiều, ba lần buổi sớm, sẽ lên thiên đường chắc chắn”.
Năm 1827
lời nguyện ấy đã biến mất dưới ba lần vôi trắng. Bây giờ lời nguyện ấy cũng
đang mờ dần trong ký ức của vài người, hồi ấy là thiếu nữ, bây giờ là bà già.
Một cây
thập tự lớn treo ở tường, hoàn thành việc trang trí phòng ăn này, mà cái cửa sổ
ra vào duy nhất, như chúng tôi đã nói, mở ngay ra vườn. Hai chiếc bàn hẹp với
mỗi bên có ghế dài gỗ, làm thành hai dẫy dài song hành, đi từ đầu đến cuối
phòng ăn. Tường trắng, bàn đen; chỉ có hai màu tang đó thay đổi nhau trong các
tu viện. Các bữa cơm cũng có vẻ khắc khổ và thức ăn cho chính các trẻ lưu trú
cũng kham khổ. Một món thôi: thịt trộn rau, hay cá muối, thế là sang đấy. Cái
thực đơn thường ngày ngắn ngủi ấy dành riêng cho các cô gái lưu trú, cũng là
một biệt lệ. Các em nhỏ ăn và im lặng, dưới sự canh gác của mẹ trực tuần; nếu
có một con ruồi vô cớ bay vo ve trái phép tắc thì mẹ ấy mở và đóng ồn ào một
quyển sách bìa gỗ. Cái im lặng ấy có pha thêm những đoạn sự tích các vị thánh,
đọc to, trên một cái bàn nhỏ, ở dưới chân cây thánh giá. Người đọc là một học
trò lớn trực tuần. Từng quãng, từng quãng, đặt trên bàn không có khăn phủ,
những cái chậu đất đánh bóng để học trò rửa bát đĩa, hay đôi khi vứt thức ăn bỏ
đi, miếng thịt rắn hay miếng cá ươn. Làm như thế là bị trừng phạt. Người ta gọi
những cái chậu đất ấy là những “khoanh nước”.
Em nào
làm ồn phải thực hiện “chứ thập lưỡi”. Ở đâu? Ở dưới đất. Em đó liếm đất. Cát
bụi, kết thúc mọi vui sướng trên đời, có trách nhiệm trừng phạt những chiếc lá
nhỏ đáng thương của cánh hồng vi phạm tội líu lo.
Ở trong
tu viện có một quyển sách xưa nay chỉ in có một bản, mà người ta cấm đọc. Đó là
cuốn Kỷ luật của thánh Bơnoa. Thâm cung mà không con mắt ngoài đời nào được dòm
ngó tới “Nemo regulas seu constitutiones nostras, externis communicabit” (Châm
ngôn Latinh có nghĩa là: Không ai có quyền công bố cho nước ngoài biết hiến
pháp, luật lệ của ta).
Thế mà
các cô gái lưu trú một hôm lấy trộm được quyển sách ấy và họ đọc ngốn ngấu, đọc
liên tục, thỉnh thoảng phải dừng lại và đóng sập quyển sách vì sợ bị bắt gặp.
Tuy nhiên sự nguy hiểm lớn lao đó chỉ đem lại cho họ một sự thích thú xoàng.
Vài trang rất tối nghĩa về những tội của các cậu trai trẻ tuổi, đó là những
điều “lý thú nhất” mà các cô gái nhỏ này đọc được.
Họ chơi
đùa trên một lối đi trong vườn, hai bên có hàng cây ăn quả, khẳng khiu. Mặc dù
có sự canh gác rất nghiêm ngặt và những sự trừng phạt rất nặng nề, khi gió mạnh
rung cây, họ cũng có thể nhặt được một quả táo xanh, một quả mơ thối hay một quả
lê sâu. Bây giờ tôi nhường lời cho một bức thư mà tôi đang có ở trước mắt, một
bức thư viết cách đây đã 25 năm, của một cô gái lưu trú, bây giờ là bà công
tước…, một trong những phụ nữ lịch sự nhất ở Paris. Tôi xin kể nguyên văn:
“Chúng tôi cất giấu quả lê hay quả táo bằng mọi cách. Khi lên gác đeo màn che
mặt để chuẩn bị ăn tối, chúng tôi giấu nó dưới gối, đến lúc đi ngủ thì đem ra
ăn trong giường. Nếu không làm thế được thì ăn trong lúc đại tiểu tiện”. Đó là
một niềm khoái chá lớn nhất của họ.
Một lần, cũng
trong một dịp Đức Tổng giám mục đến thăm tu viện, một thiếu nữ, tiểu thư Busa,
có một chút máu Momôrăngxy đánh cuộc rằng sẽ xin Đức Tổng giám mục cho phép
nghỉ một ngày. Đó là một chuyện quái gở trong một tu viện nghiêm ngặt như vậy.
Người ta nhận cuộc, nhưng không một ai tin cả. Đến giây phút quyết định, khi
Đức Tổng giám mục đi ngang qua mặt các cô gái lưu trú, tiểu thư Busa, trước sự
hãi hùng của tất cả các bạn, ở trong hàng tiến ra và nói: “Thưa Đức Tổng giám
mục, con xin phép một ngày”. Tiểu thư Busa, tươi trẻ và cao, có gương mặt hồng
hồng xinh nhất trên đời. Đức Đức Tổng giám mục Đơ Kêlen cười và nói: “Con yêu
quý của cha, thế nào, một ngày thôi à! Cho con nghỉ ba ngày, con bằng lòng chứ?
Cha cho con nghỉ ba ngày”. Mẹ nhất không biết nói năng làm sao cả khi Đức Tổng
giám mục đã phán. Thật là một sự đảo lộn kỳ quặc trong tu viện. Nhưng các cô
gái lưu trú thì vui sướng hết sức. Ta hãy tưởng tượng cảnh xúc động.
Nhà tu
kín khắc khổ như thế mà bốn bức tường cũng vẫn không đủ kín để cho những đam mê
ngoài đời, những bi kịch, những tiểu thuyết không thể thâm nhập vào đây. Để
chứng minh điều này, chúng tôi chỉ ghi nhận ở đây và kể ngắn gọn một sự việc
thực, không ai phủ nhận được. Tuy nhiên, bản thân sự việc cũng không có một
quan hệ gì, dây dợ gì với câu chuyện kể trong bộ sách này. Chúng tôi chỉ kể lại
sự việc để độc giả hình dung được đầy đủ bộ mặt của tu viện này.
Thời kỳ
ấy, trong tu viện có một nhân vật bí mật không phải là tu sĩ, nhưng được đối xử
một cách rất kính trọng. Người ấy tên là bà Anbectin. Người ta không biết gì về
bà cả, chỉ biết là bà ấy điên và ở ngoài đời thì người ta coi như bà ấy đã chết
rồi. Trong uẩn khúc của việc này, theo dư luận thì có những xếp đặt cần thiết
để tiến hành một cuộc hôn nhân lớn.
Người phụ
nữ ấy chưa đầy 30 tuổi, da hơi nâu, khá đẹp, hai mắt đen to, nhìn lúc nào cũng
mơ màng. Bà ấy có trông thấy gì không? Không chắc đã trông thấy gì. Bà lướt nhẹ
qua hơn là bước chân đi. Bà không bao giờ nói một lời. Người ta không biết chắc
là bà có thở hay không. Đôi cánh mũi sát vào nhau xanh xao như người mới tắt
thở. Cầm tay bà như mó vào tuyết lạnh. Bà có cái dáng xinh đẹp lạ kỳ của một
bóng ma. Bà lướt chân vào đâu thì người bỗng thấy lạnh lạnh. Một hôm một bà
phước thấy bà đi qua, nói với một bà phước khác: - Bà ấy đi như người chết rồi.
Bà kia trả lời: - Có lẽ thế thật.
Người ta
kháo về bà ta hàng trăm chuyện. Bà ấy là điều tò mò vô tận của các cô gái lưu
trú. Ở trong nhà nguyện có một chỗ ngồi trên cao gọi là cửa mắt bò. Chính ở chỗ
ấy, chỉ có một cái lỗ hổng tròn, một mắt bò, bà ta vẫn ngồi một mình để dự các
buổi lễ, điều cấm đối với các bà xơ khác trong tu viện. Một hôm có một linh mục
cao cấp trẻ đến thuyết giáo: Công tước Rôăng, nghị sĩ thượng viện Pháp, sĩ quan
ngự lâm pháo thủ đỏ hồi năm 1815, khi ông còn là hoàng thân Lêông, chết năm
1830 với chức hồng y giáo chủ và Tổng giám mục địa phận Bơdăngxông. Hôm ấy là
lần đầu tiên ngài Đơ Rôăng truyền đạo ở tu viện Pơti Pichpuýt. Thường thường bà
Anbectinơ vẫn dự các buổi thuyết giáo một cách bình thản và im lặng hoàn toàn. Hôm
ấy khi trông thấy ngài Đơ Rôăng, bà nhổm người dậy và nói to trong cái yên lặng
của nhà nguyện: “Kìa Ôguyxtơ!”. Tất cả mọi người ngạc nhiên quay nhìn về phía
bà. Người giảng đạo ngước mắt lên, nhưng bà Anbectinơ lại ngồi xuống và trở về
với cái im lặng thường ngày của bà. Một hơi gió nhẹ của cuộc đời, một tia sáng
của sự sống thoáng qua giây lát trên khuôn mặt đã tắt và lạnh như băng, thế rồi
tất cả lại tan biến và người đàn bà điên ấy lại trở lại là một cái xác chết.
Nhưng hai
tiếng kia đã làm cho tất cả những ai có thể nói được trong tu viện đều bàn tán.
Bao nhiêu điều trong hai tiếng“Kìa Ôguyxtơ!” ấy, bao nhiêu bí ẩn phơi bày. Ngài
Đơăng tên tục là Ôguyxtơ thật. Và chắc là bà Anbectinơ thuộc một tầng lớp rất
cao sang, bởi vì bà quen ngài Đơ Rôăng và riêng bà cũng có một địa vị cao sang,
vì bà gọi một cách thân mật thế một vị quý tộc lớn như vậy. Giữa bà và ngài Đơ
Rôăng chắc có một dây liên lạc, có thể là họ hàng và chắc là gần gụi lắm, vì bà
biết cả tên “cúng cơm” của ngài Đơ Rôăng.
Hai bà
công tước nghiêm nghị, bà công tước Soadơn và bà công tước Xêrăng thường đến
thăm tu viện mà hai bà được vào vì có cái đặc quyền “Maganates mulieres” (Quyền
của những bà lớn).
Hai bà
đến làm cho các cô gái lưu trú rất sợ hãi. Khi hai bà già ấy đi qua, những cô
gái nhỏ đáng thương kia run lên và cúi gầm mặt.
Ngài Đơ
Rôăng vô tình không biết là các cô gái lưu trú thường để ý đến ngài. Lúc bấy
giờ, trong khi chờ đợi được phong giám mục, ngài mới được cử làm phụ tá cho Đức
Tổng giám mục Paris. Ngài Đơ Rôăng thường hay đến hát tụng trong các buổi lễ
trong nhà nguyện của tu viện Pơti Pichpuýt. Không một cô gái lưu trú nào được
thấy mặt ngài Đơ Rôăng vì tấm màn xécgiơ che khuất. Nhưng ngài có một giọng nói
êm dịu, thanh thanh mà các cô gái ấy có thể nhận ra và phân biệt được. Ngài đã
là một ngự lâm pháo thủ; người ta kể rằng ngài khéo làm dáng, với bộ tóc đẹp,
màu hung hạt dẻ uốn thành cuốn xung quanh đầu, ngài có một cái dây lưng rộng,
đen, rất đẹp và cái áo choàng đen của các cô gái nhỏ mười sáu tuổi ấy luôn luôn
vấn vương hình ảnh ngài.
Không có
một tiếng động nào bên ngoài vọng vào trong tu viện. Thế mà có một năm một
tiếng sáo đã len lỏi vào đây. Thật là một biến cố và các cô gái lưu trú hồi ấy
còn nhớ đến nay.
Có một
người thổi sáo ở quanh gần đấy. Cây sáo luôn luôn thổi một điệu, một điệu ngày
nay đã xa xưa lắm: “Nàng Đêtuynbê của ta ơi! Hãy đến đây ngự trị trên âm hồn
ta”. Một ngày hai ba lần điệu sáo ấy véo von.
Suốt mấy
tháng trời, các cô gái trẻ chú ý nghe tiếng sáo hàng giờ, các mẹ thì xôn xao,
các bộ óc làm việc mạnh, các hình phạt đổ xuống như mưa. Các cô gái lưu trú ít
nhiều ai cũng mê chàng thổi sáo bí mật. Mỗi cô đều mơ mình là nàng Đêtuynbê.
Tiếng sáo thì phía phố Đơroamuyrơ vọng tới. Các cô gái sẵn sàng cho tất cả, làm
tất cả mọi việc phiêu lưu, thử mọi biện pháp, để có thể trông thấy, dù chỉ một
giây thôi, hoặc thoáng “Chàng trai trẻ” chơi sáo cũng đã vô tình rỡn với tất cả
các tâm hồn ấy. Có cô gái lẻn ra ngoài, qua cái cổng sau và leo lên gác ba
trông ra phố Đơroamuyrơ để nhìn qua những kẽ hở gần mái. Cũng chẳng thấy gì.
Một cô gái giơ cánh tay lên trên đầu, qua song sắt cửa và phất một chiếc khăn
tay trắng. Hai cô táo bạo hơn nữa đã tìm cách trèo lên được mái nhà, liều mạng
và cuối cùng nhìn thấy “Chàng trai trẻ” ấy. Đó là một ông quý tộc già, xuất
cảnh trở về (Trong thời kỳ cách mạng 1789, giới quý tộc chống nước Pháp sang
sống lưu vong ở các nước phong kiến khác ở châu Âu) nay mù và sa sút. Ông ta
thổi sáo trong cái gác xép, sát mái nhà để giải muộn.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 6 - Chương 6
TU VIỆN NHỎ
Trong
phạm vị tu viện Pơti Pichpuýt có ba ngôi nhà riêng biệt hẳn với nhau: Đại tu
viện các nữ tu sĩ ở, nhà lưu trú của các cô học trò nhỏ và ngôi nhà vẫn gọi là
tiểu tu viện. Đây là một ngôi nhà có vườn, trong đó ở chung đụng tất cả cá tu
sĩ già của nhiều dòng tu, những người còn sót lạ của các nhà tu kín mà Cách
mạng đã xóa bỏ. Một tập hợp xáo trộn của tất cả các màu đen, xám, trắng của tất
cả các dòng hội, tất cả các loại có thể có, mà người ta có thể gọi – nếu được
phép ghép hai chữ này – một thứ tu viện Aclơcanh (Arlequin: tên một vai hề trên
sân khấu nước Ý ngày xưa, vẫn mặc một cái áo may bằng các mụn vải nhiều màu
chắp lại).
Từ ngày
lập Đế chế, những nữ tu sĩ phân tán, lạc loài đáng thương này đã được trở về
đây ẩn náu dưới cánh của các bà Becnađin – bênêđichtin. Nhà nước cho họ một phụ
cấp nhỏ. Các bà Pơti Pichpuýt đã sốt sắng đón họ về. Thật là một sự pha trộn kỳ
lạ. Mỗi người theo kỷ luật riêng của dòng mình. Đôi khi các cô học trò lưu trú
được phép, coi như một buổi giải trí lớn, đến thăm họ, vì vậy mà ký ức của các
cô gái trẻ này còn nhớ với nhiều kỷ niệm khác, kỷ niệm của các mẹ Xanh Badin,
mẹ Xanhtơ Scôlaxtin và mẹ Giacốp.
Một trong
những người ở đậu ấy đã gần như trở về nhà mình, đó là một nữ tu sĩ dòng Xanhtơ
Orơ, người duy nhất của dòng này còn sót lại. Tu viện Xanhtơ Orơ, từ đầu thế kỷ
mười tám chính là cái nhà Pơti Pichpuýt này, về sau trở thành sở hữu của các bà
Bênêđichtin của Mactanh Vécga. Con người rất ngoan đạo này tiều tụy, nghèo khổ
nên không mặc bộ áo trắng rực rỡ với cái yếm đỏ của dòng tu nữa, mà chỉ giữ bộ
áo đó mặc cho một người gỗ mà đôi khi bà vui vẻ phô cho mọi người xem và khi
chết bà để lại cho tu viện. Năm 1824, cả dòng tu ấy chỉ còn một người, ngày nay
chỉ còn lại một con nộm.
Ngoài các
mẹ đáng kính ấy, một vài phụ nữ già ngoài đời, cũng như bà Anbectin, đã được
phép mẹ nhất vào ngụ trong tiểu tu viện. Trong số những người này có bà Bôpho
Đôpun và bà nam tước Đuyphơrên. Một bà nữa mà ở tu viện người ta chỉ biết vì
cái tiếng ồn ào khi bà xỉ mũi. Các cô học trò đã đặt cho bà cái tên “Xỉ mũi
to”.
Vào những
năm 1820 hay 1821 bà Gienlixơ, hồi đó bà đang biên tập môt tập san định kỳ tên
là Dũng cảm, cũng xin vào lưu trú ở tu viện Pơti Pichpuýt, công tước Đooclêăng
giới thiệu bà. Cái tổ ong xôn xao lên; các mẹ tư vấn cũng run sợ. Vì bà
Gienlixơ đã từng viết tiểu thuyết. Nhưng bà bảo rằng bà là người đầu tiên ghét
những tiểu thuyết của bà, vả lại bà đã đến một cái tuổi say mê đạo ghê gớm.
Chúa phù hộ và nhờ ông hoàng kia nữa, bà được nhận vào ở tu viện. Nhưng chỉ sáu
tháng hay tám tháng sau bà xin ra, với lý do là vườn tu viện ít bóng mát. Các
bà tu sĩ thì rất mừng. Tuy đã rất già, bà Gienlixơ vẫn chơi thụ cầm và chơi rất
hay.
Khi ra đi
bà còn để lại dấu vết của bà trong phòng. Bà Gienlixơ mê tín và giỏi chữ
Latinh. Hai nét đó phác họa hình ảnh bà khá tốt. Chỉ cách đây vài năm, người ta
còn thấy dán ở trong một cái tủ nhỏ ở phòng bà, cái tủ bà vẫn cất tiền và đồ
trang sức, năm câu thơ chữ Latinh này mà chính tay bà đã viết bằng mực đỏ trên
giấy vàng, năm câu thơ mà bà cho là có phép làm cho kẻ trộm sợ hãi.
Những tội
khác nhau treo trên ba thân cây.
Dimas và
Gesmas quyền phép Chúa đứng trung gian.
Xét xử cả
Dismas kiêu hãnh và Gesmas thấp hèn.
Quyền
phép tối cao gìn giữ chúng ta và lợi ích chúng ta.
Hiến dâng
những thứ đó phải đâu là mất mát thiệt thòi.
(Nguyên
văn Latinh như sau:
Imparibus
meritis pendeat tria corpora ramls
Dismas et
Gesmas, media ét divina potestas
Alta
petie Dismas, infelix, imfima, Gesmas
Nos et
res nostras conservet summa potestas
Nos veus
dicas, ne tu furto tua perdas).
Những câu
thơ ấy viết theo tiếng Latinh thế kỷ thứ sáu nêu lên một vấn đề: có phải hai
tên kẻ trộm trên núi Canve tên là Dismas và Gesmas hay là Dismas và Gestas, như
thông thường người ta nói: cái chính tả mới này có thể không vừa ý ngài tử tước
De Gestas thế kỷ trước. Ngài tự xưng mình là dòng dõi của tên ăn trộm xấu xa
kia. Ngoài ra cái phép mầu nhiệm của những câu thơ ấy là một điều tin tưởng
chắc chắn đối với dòng Cứu thế.
Nhà thờ
của tu viện, xây dựng đặc biệt để ngăn cách hẳn đại tu viện với nhà lưu trú,
tất nhiên là nhà thờ chung của đại tu viện, tiểu tu viện và của nhà lưu trú. Cả
người ngoài cũng có thể vào lễ nhà thờ này bằng một lối cửa riêng mở ra ngoài
phố. Nhưng nhà thờ đã được xếp đặt để không một người nào trong tu viện có thể
nhìn được mặt một người ở ngoài. Ta hãy hình dung một cái nhà thờ mà sàn hát bị
một bàn tay khổng lồ kéo lên và gấp lại, nên không như ở trong các nhà thờ
thường là một gian tiếp sau bàn thờ, mà là một cái buồng hay cái hang tối ở bên
tay phải người đứng làm lễ. Gian buồng ấy được che lại bởi cái màn cao hơn hai
mét đã nói ở trên; trong bóng tối của cái màn ấy, hãy dồn xếp trên những chiếc
ghế gỗ, các bà tu sĩ hát kinh ở bên trái, những cô gái lưu trú bên phải, rồi
những bà phục vụ, những bà mới vào dòng ở trong cùng, thế là bạn có một hình
ảnh những nhà tu hành trong tu viện Pơti Pichpuýt trong một buổi lễ thánh. Cái
hang tối ấy, mà người ta vẫn gọi là sàn hát, thông sang nhà tu kín bằng một dãy
hành lang. Nhà thờ chỉ có cửa nhìn ra vườn. Mỗi lần các bà tu sĩ đi dự lễ, mà
kỷ luật bắt buộc phải yên lặng, thì người ngoài chỉ có thể biết được sự có mặt
của họ qua tiếng va chạm của cái gờ gỗ dưới ghế nhô lên hay hạ xuống.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 6 - Chương 7
VÀI HÌNH DÁNG CỦA CÁI BÓNG TỐI ẤY
Trong khoảng
thời gian sáu năm, từ 1819 đến năm 1825, mẹ nhất của tu viện là tiểu thư Đo
Bolomo, mà tên đạo là mẹ Inoxangto. Mẹ thuộc dòng họ Magorit de Bolomo tác giả
quyển sách: Sự tích các thánh dòng Xanh Bonoa, Mẹ đã được tái cử. Mẹ trạc sáu
mươi, người thấp béo, "Hát như một cái chĩnh rẻ", như nói trong một
bức thư mà chúng tôi đã nhắc đến, ngoài ra thì rất tốt, người duy nhất vui tính
trong tu viện mà cũng vì thế mà được kính mến.
Mẹ
Inoxangto thừa hưởng cái thông thái của bà tổ trong dòng họ Magorit, bà Dacier
của dòng tu (Anne Lefebvre Dacier, một phụ nữ thông thái giỏi tiếng Hy Lạp và
tiếng Latin, đã dịch các tác phẩm Iliade và Odyssec, 1656-1720). Mẹ giỏi văn
chương, uyên thâm, bác học, hiểu biết nhiều, lại là một sử gia kiểu riêng, một
bồ chữ Latin, một bồ chữ Hy Lạp, một bồ chữ Hebro, nên là một benedictan hơn là
một benedictin (những tu sĩ benedictin (nam) có truyền thống uyên thâm, bác
học).
Mẹ nhì là
một tu sĩ già, người Tây Ban Nha, hầu như lòa, gọi là mẹ Xineredo.
Những mẹ
tư vấn đáng kể là mẹ Xanhro Onomo thủ quỹ, mẹ Xanhto Gietoruydo, giáo nhất của
các bà mới nhập dòng; mẹ Xanhto Anggio, giáo nhì; mẹ Anongxiaxiong, giữ kho đồ
lễ của nhà thờ; mẹ Xanhto Oguyxtanh y tá, người duy nhất độc ác trong tu viện,
rồi đến mẹ Xanhto Mechtindo (tiểu thư Govanh), rất trẻ, có một giọng hát tuyệt
hay; mẹ Dedanggio (tiểu thư Dorue), trước đã ở tu viện Phio Dio và tu viện
Turedo, giữa hai tỉnh Gido và Manhi; mẹ Xanh Giodep (tiểu thư Gogoluydo); mẹ
Xanto Adelaide (tiểu thư Dovecnay); mẹ Midericoocdo (tiểu thư De Xiphuyato bị
lôi cuốn bởi khổ hạnh); mẹ Congpaxiong (tiểu thư Minchiero, sáu mươi tuổi còn
được nhập dòng, tuy là trái với điều lệ, rất giàu); mẹ Porevidangxo (tiểu thư
Do Lodiniero); mẹ Poredangtaxiong (tiểu thư Di Xinghenda) năm 1847 là mẹ nhất,
và cuối cùng mẹ Xanhto Xelinbo (chị của nhà điêu khắc Xeraki), sau đó hóa điên;
và mẹ Xanto7 Sangtan( tiểu thư De Xuydong) cũng hóa điên.
Trong số
những bà đẹp nhất còn có một thiếu nữ hai mươi ba tuổi rất xinh, người ở đảo
Buocbong, con cháu của Hiệp sĩ Rodo, nhưng ở đây tên là mẹ Axonxiong.
Mẹ Xanhto
Mechtindo phụ trách việc hát và đoàn hợp xướng của nhà thờ, thường huy động các
cô học trò lưu trú. Thường mẹ huy động cả một nhóm đầy đủ nghĩa là bảy em, từ
10 đến 16 tuổi thôi, giọng hát và tầm vóc hợp nhau, mẹ bảo đứng hát, xếp hàng
cạnh nhau, theo lứa tuổi, từ cô bé nhất đến cô lớn nhất, như là một bộ sáo
thiếu nữ, một thứ sáo sống của thần Păng, xếp bằng những thiên thần.
Trong các
bà phục vụ, những người mà các cô học trò lưu trú quý nhất là bà Xanhto
Ophoradi, bà Xanhto Magorit, bà Xanhto Macto có bệnh thần kinh và bà Xanh
Misen, có một cái mũi dài làm các học trò cười.
Tất cả
các bà đều rất hiền dịu đới với các em gái nhỏ ấy. Họ chỉ nghiêm khắc đối với
bản thân họ. Chỉ nhà lưu trú mới đốt lửa sưởi. Món ăn hàng ngày của nhà lưu trú
so với bữa ăn của tu viện là món ăn sang. Thêm vào đó trăm sự săn sóc khác.
Nhưng khi một em nhỏ đến gần một nữ tu sĩ và nói với bà, thì không bao giờ bà
trả lời.
Cái kỷ
luật im lặng ấy đã đem lại hậu quả là trong tu viện người ta lấy mất tiếng nói
của con người và trao cho những vật vô tri vô giác. Khi thì quả chuông của nhà
thờ lên tiếng, khi thì chiếc nhạc của người làm vườn. Một cái chuông rất kêu,
đặt bên cạnh bà gác và có thể nghe thấy bất cứ ở đâu trong tu viện, với những
nhịp khác nhau như một thứ máy viễn thoại; báo tất cả mọi hoạt động trong sinh
hoạt vật chất của tu viện. Nó cũng có thể dùng để gọi, khi cần, người này hay
người khác lên buồng khách; mỗi người, mỗi vật đều có tín hiệu riêng. Mẹ nhất là
một một, mẹ nhì là một và hai, sáu năm là giờ lên lớp. Thành ra học trò không
báo giờ bảo: vào lớp học, mà chỉ nói: đi sáu năm. Bốn bốn là tín hiệu của bà Do
Gienlixo. Tín hiệu này, nghe thấy luôn. Những người nào không phúc hậu, thương
người thì bảo: đồ quỷ bốn! Mười chín tiếng báo hiệu một sự việc lớn lao, đó là
việc mở cổng khóa, một tấm sắt ghê rợn lô nhô những chốt, chì quay trên bàn lễ
khi nào Đức Tổng Giám Mục đến tu viện.
Trừ Đức
Tổng Giám Mục và người làm vườn như chúng tôi đã nói, không có một người đàn
ông nào vào được tu viện. Các cô gái lưu trú còn được hai người nữa: cha tuyên
úy, giáo sĩ Banexo, già và xấu, mà các em có thể nhìn thấy qua sàn hát, qua một
chấn song sắt; người nữa là thầy dạy vẽ, ông Anxio mà bức thư chúng tôi sơ lược
nhắc đến đã gọi là ông Anxio và đặt tên là lão già còng kinh tởm.
Rõ ràng
là những người đàn ông này đều đã được chọn lọc.
Đó là cái
nhà tu kỳ lạ ấy.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 6 - Chương 8
SAU QUẢ TIM ĐÁ
(Nguyên
văn Latinh: Post corda lapides)
Sau khi
đã mô tả cái vẻ mặt tinh thần, cũng nên nói vài lời về hình dáng vật chất của
tu viện Pơti Pichpuýt. Độc giả cũng là mường tượng được ít nhiều.
Tu viện
Pơti Pichpuýt Xanh Angtoanơ chiếm hầu hết diện tích cái hình thang tạo nên do
các phố Pôlôngxô, Đơroamuyrơ, phố nhỏ Pichpuýt và cái ngõ cụt còn thấy ghi tên
Ômare trong các bản đồ cũ. Bốn phố này bao quanh các hình thang ấy, như một cái
hào. Tu viện gồm có mấy tòa nhà và một cái vườn. Ngôi nhà chính, nhìn toàn diện
là sự nối tiếp của nhiều ngôi nhà lai tạp, nếu đứng trên cao nhìn xuống thì
những ngôi nhà đó vẽ thành hình một cái giá treo cổ này là cả cái khúc nằm dài
theo phố Đơroamuyrơ, từ phố nhỏ Pichpuýt đến phố Pôlôngxô; gọng nhỏ của cột
treo cổ là cái mặt tiền của một nhà cao, màu xám, trông nghiêm nghị, có gióng
sắt nhìn ra phố nhỏ Pichpuýt: cái cổng lớn số nhà 62 ở cuối cái gọng nhỏ này.
Vào khoảng giữa mặt tiền ngôi nhà có một cái cửa cũ thấp, hình tò vò, bụi tro
đã làm bạc màu, đầy mạng nhện, chỉ mở một hai tiếng đồng hồ ngày chủ nhật và
trong những trường hợp hãn hữu đưa quan tài một nữ tu sĩ, ra ngoài tu viện. Đó
là cái cổng ra vào công khai của nhà thờ. Cái khuỷu của giá treo cổ là một gian
buồng vuông, nơi làm lễ mà các bà xơ gọi là Đêpăngxơ. Cái gọng dài là phòng ở
của bà mẹ, các bà và khu các bà mới vào dòng. Gọng ngắn là nhà bếp, nhà ăn,
song song với nhà tu kín và nhà thờ. Giữa cổng số nhà 62 và góc ngõ cụt Ômare
là nhà lưu trú của các cô gái nhỏ mà ngoài đường không trông thấy được. Diện
tích còn lại của hình thang là khu vườn, thấp hơn mặt đường phố Pôlôngxô rất
nhiều, thành ra những bức tường bao quanh nhìn từ bên trong cao hơn là từ bên
ngoài. Mặt vườn hơi nhô lên một ít ở giữa một mô đất, trên mô đất có một cây
thông đẹp, nhọn, hình chóp nón; từ cây thông ấy, như từ cái núm tròn của một
cái mộc, xuất phát bốn lối đi lớn và tám lối đi nhỏ, cứ hai lối nhỏ nằm giữa
hai lối lớn, thành ra nếu tu viện hình tròn thì bản đồ các lối đi sẽ là hình
một cái thập tự đặt trên một bánh xe. Các lối đi dài ngắn đều dẫn tới các bức
tường lô nhô, không đều, bao quanh khu vườn và đều có trồng phúc bồn tử. Cuối
vườn có một lối đi lớn trồng những cây bạch dương to, chạy từ ngôi nhà nát của
tu viện cũ ở góc phố Đơroamuyrơ đến ngôi nhà của tiểu tu viện, ở góc phố Ômare.
Trước mặt tu viện nhỏ có một khu vườn vẫn gọi là vườn nhỏ. Thêm vào đấy một cái
sân và tất cả những góc, những xó hình thành giữa các ngôi nhà, những bức tường
nhà giam, thêm vào toàn bộ viễn cảnh và xung quanh, cái dẫy mái nhà đen, bên
kia phố Pôlôngxô, thì có thể hình dung được trọn vẹn nhà tu Pơti Pichpuýt của
các bà Bênêđichtin cách đây bốn mươi lăm năm. Cái nhà tu thiêng liêng này đã
được dựng trên một bãi đánh cầu nổi tiếng từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVI mang cái
tên: Sòng bạc của mười một ngàn con quỉ.
Tất cả
những phố ấy là những phố cổ nhất của Paris. Những cái tên Đơroamuyrơ, Ômare
rất xưa; những đường phố mang những cái tên ấy lại còn xưa hơn. Ngõ Ômare trước
đã mang tên ngõ Môgu; phố Đơroamuyrơ từng mang tên phố Êglăngchiê (Eglantiers:
tầm xuân), vì Chúa đã làm cho nở hoa trước khi con người đẽo đá.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 6 - Chương 9
MỘT THẾ KỶ SAU TẤM MẠNG
Vì chúng
tôi đang kể lại một số chi tiết về lịch sử của tu viện Pơti Pichpuýt và đã mạnh
dạn trổ một cái cửa sổ để nhìn vào cái nhà kín đáo này, chúng tôi cũng xin độc
giả cho phép kể một chuyện nhỏ nữa, không liên quan đến cuốn sách này, nhưng
tiêu biểu và bổ ích vì chuyện ấy cho chúng ta hiểu rằng nhà tu kín này cũng có
những nhân vật độc đáo của nó.
Ở trong
tu viện ngày trước có một bà già một trăm tuổi ở nhà tu Phôngtơvơrô đến. Trước
cách mạng bà đã sống trong xã hội thượng lưu. Bà thường nhắc đến ngài Đơ
Mirơmexnin, thượng thư bộ Tư pháp dưới triều vua Lui XVI và một bà Chánh án mà
bà rất quen thuộc. Điều thích thú và tự hào của bà là luôn nhắc đến hai cái tên
ấy trong bất cứ câu chuyện nào. Bà nói rất nhiều điều kỳ diệu về tu viện
Phôngtơvơrô, bà bảo nó như là một thành phố và ở trong tu viện có cả những
đường phố.
Bà nói
giọng Pica làm cho các cô lưu trú buồn cười. Năm nào bà cũng khấn nguyện lại
một lần và khi làm lễ khấn nguyện, bà nói với vị linh mục chủ lễ: “Đức cha Xanh
Phơrăngxoa đã trao cho Đức cha Xanh Giuyliêng, Đức cha Xanh Giyliêng đã trao
cho Đức cha Xanh Ơđebơ, Đức cha Xanh Ơđebơ đã trao cho Đức cha Xanh Pơrôcôpơ…
và như thế con xin trao cho cha”. Các cô gái lưu trú tha hồ cười, không phải
cười thầm, mà cười sau tấm mạng che mặt. Những tiếng khúc khích đáng yêu nén
lại khiến các mẹ tư vấn cau mày.
Một lần
khác bà lão trăm tuổi ấy kể lại chuyện xưa. Bà bảo khi bà còn trẻ , các tu sĩ
dòng Becnađanh chẳng chịu thua bọn lính ngự lâm pháo thủ. Thật là một thế kỷ ồn
ào, nhưng đó là thế kỷ 18. Bà kể lại tục của xứ Săngpanhơ và xứ Buôcgônhơ uống
bốn thứ rượu. Trước cách mạng khi một nhà quyền quí, một vị thống chế, một ông
hoàng, một công tước, một ông nghị đi ngang qua một thành phố xứ Buôcgônhơ hay
xứ Săngpanhơ, thì phái đoàn thành phố đến chúc mừng và dâng rượu trong bốn cái
bát hình con thuyền bằng bạc, đựng bốn thứ rượu khác nhau. Bát thứ nhất ghi
Rượu khỉ, bát thứ hai: Rượu sư tử, bát thứ ba: Rượu cừu và bát thứ tư: Rượu
lợn. Bốn chữ ghi chú đó nói lên bốn bậc thang mà người say rượu lần lượt tụt
xuống. Độ say thứ nhất làm cho người ta vui cười, độ say thứ hai làm cho người
ta tức giận, độ say thứ ba làm cho người ta đần độn, độ say thứ tư làm cho
người ta hóa súc vật.
Bà giấu ở
trong một cái tủ luôn luôn khóa một vật bí mật mà bà quí lắm. Kỷ luật nhà tu
Phôngtơvơrô không cấm điều đó. Bà không cho ai xem vật quí ấy. Bà đóng cửa
phòng, kỷ luật của dòng tu cho phép và bà giấu mọi người, mỗi khi bà muốn ngắm
vật ấy. Nếu ngoài hành lang có tiếng người đi, tức thì bà đóng cửa tủ hết sức
nhanh với đôi bàn tay già yếu của bà. Nếu ai nhắc đến vật đó, thì bà im lặng
ngay, tuy bà xưa nay vẫn hay nói. Những người tò mò nhất cũng đành chịu thua
trước sự im lặng của bà và những người bền bỉ nhất cũng phải lùi trước quyết
tâm của bà. Chuyện ấy cũng là đầu đề bàn tán của tất cả những ai vô công rồi
nghề, hay buồn chán trong tu viện. Vật quí báu và bí mật ấy, cái kho tàng của
bà lão trăm tuổi ấy là cái gì? Chắc là một quyển thánh kinh, một chuỗi tràng
hạt đặc biệt, một thánh tích nào chăng? Người ta tha hồ phỏng đoán. Khi bà lão
chết, người ta chạy vội đến cái tủ, vội vượt cả lễ độ, người ta mở tủ và tìm
thấy vật đó, bọc trong ba lần vải như một hình thánh. Nó là một cái đĩa Phaăngđa
có vẽ hình những thần ái tình bay bổng lên trời và bị một đoàn dược sĩ đuổi
theo những ống tiêm khổng lồ. Cuộc săn đuổi này điểm xuyết không ít vẻ mặt cau
có và nhiều dáng điệu khôi hài: một thần ái tình xinh xắn đã bị xiên thủng,
giãy giụa, đập đôi cánh nhỏ, cố chạy thoát. Nhưng thằng hề kia cười một cách
quỉ quái, ghê rợn. Ý nghĩa: ái tình thua cơn đau bụng. Cái đĩa ngộ nghĩnh này,
cái đĩa có lẽ đã gợi cho Môlierơ một màn hài kịch năm 1845, vẫn hay còn bày bán
ở cửa hàng bán đồ cũ phố Bômácse.
Bà già
không muốn tiếp khách nào bên ngoài, bởi vì, theo ý bà, cái phòng tiếp khách
buồn quá.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 6 - Chương 10
NGUỒN GỐC DÒNG “CHẦU MÌNH THÁNH HẰNG NGÀY”
Vả lại
cái phòng khách gần như nhà mồ ấy mà chúng tôi đã phác họa, chỉ là một đặc điểm
riêng của tu viện này: phòng nói chuyện của các tu viện khác không nghiêm nghị
như vậy. Đặc biệt ở tu viện phố Tăngpơlơ, thực ra thì thuộc một dòng tu khác,
cửa ván đen được thay bằng những màn cửa màu nâu và cả phòng nói chuyện nữa là một
phòng khách có sàn gỗ, cửa sổ có viền sa trắng và ở trên tường có đủ tất cả các
thứ khung ảnh, một chân dung của một bà bênêđichtin mặt không có mạng che,
những tranh hoa sơn dầu và cả cái “Đầu Thổ” nữa (dụng cụ thể thao hình đầu một
người Thổ Nhĩ Kỳ, có lò xo, để đo sức đập của cánh tay).
Tu viện
phố Tăngpơlơ này trước là tu viện của các bà bênêđichtin dòng tu “Chầu mình
Thánh hàng ngày”, khác các bà bênêđichtin thuộc phái Xitô. Dòng tu “Chầu mình
Thánh hàng ngày” không lâu đời lắm, lịch sử của nó không quá hai trăm năm. Năm
1649 Thánh thể bị xúc pham hai lần, chỉ cách nhau vài ngày ở trong hai nhà thờ
thành phố Paris, nhà thờ Xanh Xuynpixơ và nhà thờ Xanh Giăng Gơrevơ, một sự xúc
phạm ghê gớm và hiếm thấy làm cho nhân dân cả thành phố xúc động. Đức giám mục
Xanh Giécmanh đê Pơrê đã phải ra lệnh tổ chức một đám rước thánh trọng thể có
đủ mặt các giáo sĩ địa hạt ngài và có Đức cha sứ thần tòa thánh làm lễ. Nhưng
sự chuộc tội ấy, đối với hai bà ngoan đạo đáng kính, bà Cuôctanh, hầu tước Đo
Búc và bà hầu tước Satôviơ thì vẫn không đủ. Việc xúc phạm đến “thánh thể rất
thiêng liêng”, tuy rằng chốc lát, vẫn luôn ám ảnh linh hồn mộ đạo của hai bà.
Đối với hai bà tội ấy chỉ có thể chuộc lại với một sự “Chầu mình Thánh hàng
ngày” trong một tu viện nữ: Cả hai bà, một bà năm 1652, một bà năm 1653, đã
tặng cho mẹ Catơrin đơ Bar, còn gọi là mẹ Thánh thể, nữ tu sĩ dòng bênêđichtin,
những số tiền lớn để lập, với mục đích sùng đạo ấy, một trưởng viện dòng Xanh
Bơnoa. Lệnh đầu tiên cho phép mẹ Catơrin đơ Bar lập tu viện do Đức cha Đơ Mê,
viện trưởng tu viện Xanh Giécmanh ký với điều kiện là những cô thiếu nữ “chỉ
được vào tu viện này nếu đem tới một lợi tức ba trăm phơrăng”, nghĩa là phải có
một cái vốn sáu ngàn phơrăng. Sau lệnh của Đức cha Xanh Giécmanh thì có sắc chỉ
cho phép của nhà vua và tất cả hiến chương, quy chế của tu viện với sắc chỉ của
nhà vua đều đã được đăng ký năm 1654 ở Viện quản lý tài chính quốc gia trong
Pháp viện nhà vua.
Đó là
nguồn gốc và sự công nhận chính thức của tu viện “Chầu mình Thánh hàng ngày” ở Paris.
Tu viện thứ nhất của dòng này được xây dựng hoàn toàn mới ở phố Caxetơ với tiền
của hai bà Đơ Buc và Đơ Satôviơ.
Dòng tu
này, như người đã biết, không phải cùng một dòng với các bà bênêđichtin gọi là
dòng Xitô. Dòng này thuộc tu viện trưởng Xanh Giécmanh đê Pơrê, cũng như các bà
Xacơrê Cơ thuộc sự chỉ huy của các bề trên Giêduytơ và các bà phúc thiện thuộc
sự chỉ huy của các bề trên dòng Ladarixtơ.
Dòng này
cũng khác hẳn dòng các bà Becnađin của tu viện Pơti Pichpuýt mà chúng tôi vừa
phác họa cảnh bên trong. Năm 1657 giáo hoàng Alêcxăngđơrơ VII đã cho phép trong
một thông lệnh đặc biệt, các bà Becnađin ở tu viện Pơti Pichpuýt “Chầu mình
Thánh hàng ngày” như các bà bênêđichtin dòng “Thánh thể”. Tuy vậy hai dòng tu
này vẫn đứng riêng rẽ.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - QUYỂN 6 - Chương 11
TU VIỆN PƠTI PICHPUÝT KHÔNG CÒN NỮA
Đầu thời
kỳ quân chủ phục hưng, tu viện Pơti Pichpuýt suy tàn, trong sự suy tàn chung
của cả dòng tu này sau thế kỷ 18, cùng với tất cả các dòng tu công giáo nói
chung. Chiêm ngưỡng cũng như cầu nguyện trời là một nhu cầu tinh thần của nhân
loại; nhưng cũng như tất cả cái gì mà cách mạng đã tác động đến, nhu cầu này
cũng sẽ thay đổi và từ chỗ chống lại sự tiến bộ xã hội, nó đã trở thành thuận
lợi cho sự tiến bộ ấy.
Tu viện
Pơti Pichpuýt vắng vẻ đi rất nhanh. Năm 1840 tu viện nhỏ không còn nữa. Nhà lưu
trú cũng không còn. Không còn những bà già, cũng không còn những cô gái bé.
Loại này thì chết. Loại kia thì đi. Volaverunt (Họ đã bay đi).
Kỷ luật
của dòng“Chầu mình Thánh hàng ngày” khắc khổ quá làm cho mọi người sợ: người ta
ngại không muốn vào dòng. Dòng không thêm được tín đồ. Năm 1848, đây đó còn một
vài bà phục vụ, nhưng xướng thánh kinh thì không còn ai. Trước đây bốn mươi năm
còn gần một trăm bà, cách đây mười lăm năm chỉ còn hai mươi tám. Bây giờ còn
được bao nhiêu? Năm 1847, mẹ nhất còn trẻ, điều này chứng tỏ là phạm vi những
người được chọn rút hẹp đi. Mẹ nhất chưa đầy bốn mươi tuổi. Càng vắng thì càng
mệt nhọc; công việc của mỗi người nặng nhọc hơn. Bây giờ người ta thấy đã đến
gần cái thời kỳ chỉ còn độ mươi mười hai đôi vai đau khổ và cúi khom để gánh
vác cái kỷ luật nặng nề của Xanh Bơnoa. Cái gánh nặng khắc nghiệt ấy vẫn nguyên
vẹn khi tu viện vắng vẻ cũng như lúc đông người. Nó nặng trĩu, nó đè bẹp con
người cho nên họ chết dần. Khi tác giả cuốn sách này còn ở Paris, hai bà đã
chết, một người hai mươi lăm tuổi, một người hai mươi ba tuổi. Bà này có thể
nói cái lời của Giuylia Anpinuyla:
“Tôi nằm
đây, tôi đã sống hai mươi ba năm tròn (Hic jaceo, vixi annos viginti et tres). Vì
sự suy đồi ấy mà tu viện đã thôi không đảm nhận việc giáo dục các cô gái nhỏ.
Chúng tôi
không thể đi qua cái nhà kỳ lạ này, cái nhà không ai biết, tối tăm, mà không
vào, không dắt theo những người cùng đi với chúng tôi, những người đang nghe
chúng tôi kể câu chuyện buồn thảm của Giăng VanGiăng, chắc cũng có một vài bạn
thấy là bổ ích cho họ. Chúng ta đã nhìn qua vào cái tu viện đầy rẫy những tục
hành đạo cũ kỹ mà rất mới lạ đối với chúng ta bây giờ. Đó là cái vườn cấm:
Hortus conclusus (Vườn cấm, vườn kín). Chúng ta đã kể chi tiết của nơi này một
cách tỉ mỉ và kính cẩn, trong chừng mực kính cẩn và tỉ mỉ có thể dung hòa nhau
được. Chúng tôi không hiểu được tất cả mọi điều, nhưng chúng tôi không thóa mạ
cái gì. Chúng tôi đứng ở giữa, cùng cách xa cái tung hô của Giôdep đơ Mextơrơ,
dẫn tới thần thánh hóa kẻ đao phủ và cái cười ngạo nghễ của Vonterơ chế giễu cả
cây thập tự.
Lý luận
không hợp lý của Vonterơ, nói qua một chút thôi; bởi vì Vonterơ cũng có thể bào
chữa cho Giêsu như đã bào chữa cho Calaxơ và đối với cả những ai không tin
tưởng ở những chuyện đầu thai của thần thánh thì ý nghĩa của thập tự giá là gì?
Là bậc hiền bị giết hại.
Ở thế kỷ
XIX ý thức tôn giáo trải qua một cuộc khủng hoảng. Người ta quên đi nhiều
chuyện, như thế là đúng, quý hồ là khi quên cái này thì học được cái khác. Đừng
để chỗ hổng trong trái tim con người. Có phá đổ, đó cũng là một việc tốt, nhưng
với điều kiện phải có xây dựng tiếp theo.
Trong khi
chờ đợi, ta hãy nghiên cứu những cái không còn nữa. Cần phải hiểu những cái đó,
dù chỉ để tránh những cái đó thôi. Những cái bắt chước quá khứ mang những tên
giả và dễ dàng tự nhận là tương lai. Cái bóng ma hiện về ấy là quá khứ đã trình
giấy thông hành giả. Chúng ta phải thấy cái bẫy đó và phải đề phòng. Quá khứ có
một bộ mặt; sự mê tín và một cái mặt nạ là sự giả dối. Ta hãy vạch rõ bộ mặt
kia và hãy giật bỏ cái mặt nạ nọ.
Còn các
tu viện, đó là một vấn đề phức tạp. Vấn đề văn minh: văn minh kết án các tu
viện; vấn đề tự do: tự do bảo vệ các tu viện.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 7: TRONG DẤU NGOẶC ĐƠN
Chương 1
NHÀ TU, Ý NIỆM
Quyển
sách này là một tấm thảm kịch mà nhân vật thứ nhất là vô biên.
Con người
là nhân vật thứ hai.
Thế rồi,
vì trên con đường của chúng ta có một nhà tu, chúng ta phải đi vào nhà tu ấy.
Vì sao? Bởi vì nhà tu, phương đông có, phương tây có, ngày xưa có, ngày nay
cũng có, đạo thiên nhiên, đạo Phật, đạo Hồi cũng như đạo Giatô cũng có. Nhà tu
là một bộ máy quang học mà con người dùng để soi vào vô biên.
Đây không
phải là chỗ khai triển quá mức độ một vài ý niệm, tuy vậy, mặc dầu gìn giữ
triệt để sự dè dặt, những giới hạn và cả niềm công phẫn, chúng tôi phải nói
rằng, mỗi khi gặp trong một con người cái vô biên, được hiểu đúng hay hiểu sai,
chúng tôi cũng cảm thấy một niềm tôn kính. Ở trong nhà thờ Do Thái, trong thánh
thất đạo Hồi, trong chùa Phật, trong miếu mạo của người da đỏ, ở đâu cũng có
một mặt xấu xa mà ta ghê tởm và một mặt cao siêu mà ta tôn thờ. Một sự chiêm
ngưỡng cho trí tuệ, một sự mơ mộng vô biên; ánh sáng phản chiếu của Chúa, trên
các bức tường nhân loại!
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 7: TRONG DẤU NGOẶC ĐƠN
Chương 2
NHÀ TU, SỰ KIỆN LỊCH SỬ
Đứng về
phương diện lịch sử, phương diện lý trí và chân lý chế độ nhà tu đều bị kết án.
Các nhà
tu, khi quá đông trong một nước, là những cái nút làm nghẽn giao thông, những
tổ chức kềnh càng vướng vít, những trung tâm lười biếng ở những chỗ phải có
những cơ sở lao động. Những nhà tu đối với tập thể rộng lớn của xã hội cũng như
tầm gửi mọc trên cây sồi, như cái mụn cóc mọc trên thân người. Nó mà phát
triển, phình ra, thì xã hội nghèo khổ đi. Chế độ nhà tu, tốt trong thời kỳ phát
triển đầu tiên của các nền văn minh, cần thiết để làm giảm bớt bằng tinh thần
cái phần tàn bạo, man rợ, trở thành có hại cho các dân tộc đang thời tráng
kiện. Và đến lúc nó đã lỏng lẻo và đi vào thời kỳ rời rã, vô kỷ luật, mà vẫn
được coi là những tấm gương, thì nó trở thành xấu xa vì tất cả những lý do đã
khiến nó có lợi ích trong thời kỳ trong sáng của nó.
Cái tục
tu kín đã hết thời. Các nhà tu kín, có ích trong giai đoạn sơ khai của công
việc giáo dục trong nền văn minh hiện đại, đã trở thành trở ngại cho sự lớn
mạnh và có hại cho sự phát triển của văn minh. Đứng về mặt tổ chức xã hội và
phương thức đào tạo con người, những nhà tu có bổ ích hồi thế kỷ thứ X, đã trở
thành phải ngờ vực ở thế kỷ XV và đến thế kỷ XIX thì đáng ghét. Cái bệnh phong
nhà tu ấy đã gặm gần đến tận xương tủy hai quốc gia rực rỡ: nước Ý và nước Tây
Ban Nha, một nước có ánh sáng, một nước là vinh quang chói lọi của cả châu Âu
trong nhiều thế kỷ. Thế mà ngày nay hai quốc gia nổi tiếng này mới bắt đầu phục
hồi nhờ cái chế độ điều dưỡng tốt lành và mạnh mẽ của 1789 (Cách mạng Pháp
1789).
Đặc biệt
nhà tu Tây Ban Nha thì thật thê thảm. Trong bóng tối, dưới những vòm đầy sương
mù, những mái tròn đầy bóng đen, sừng sững những bàn thờ đồ sộ như tháp Baben,
cao như những nhà thờ; trong nhà tu ấy có những dây xích lủng lẳng trong bóng
tối với những thập tự giá trắng khổng lồ; trong nhà tu ấy những tượng Giêsu
lớn, bằng ngà voi, trần truồng nằm trên gỗ mun đen; không chỉ rớm máu mà đầm
đìa máu; vừa ghê rợn, vừa huy hoàng, với khuỷu tay giơ xương, với bánh chè
chằng chịt, với những vết thương giơ thịt, đầu đội mũ gai bạc, đóng đanh vàng,
với những máu trên trán bằng ngọc hồng bảo và trong mắt những giọt nước mắt
bằng kim cương. Những hạt kim cương, những hạt hồng bảo như ướt, khiến cho
những con người, mặt che mạng, quỳ ở dưới, khóc trong bóng tối, những con người
mà lưng, sườn thâm tím bởi những mũi nhọn của chiếc dây lưng, của chiếc roi da,
mà đôi vú ép nát dưới mảnh giáp mây đan, đầu gối loét vì mãi quỳ cầu nguyện.
Những người phụ nữ ấy tưởng mình là vợ, những bóng ma tưởng mình là thiên thần.
Những người phụ nữ ấy có suy nghĩ không? Không. Có ước muốn không? Không. Có
yêu thương không? Không. Có sống không? Không. Thần kinh của họ đã trở thành
những khúc xương; xương của họ đã trở thành đá. Mạng che mặt của họ đan bằng
bóng đêm dày đặc. Hơi thở của họ dưới tấm mạng tương tự như hơi thở bi thảm của
cái chết. Mẹ nhất, một hồn ma, thần thánh hóa họ và khủng bố họ. Tinh thần
trinh khiết của Chúa ở đó, cứng nhắc dữ dội: những nhà tu xưa của Tây ban Nha
là thế đó. Hang ổ của sự tín ngưỡng kinh khiếp. Hang hầm của gái đồng trinh,
những chốn những nơi hung dữ.
Tây Ban
Nha gia tô còn La Mã hơn chính La Mã. Nhà tu kín Tây Ban Nha là nhà tu thuần
túy gia tô. Người ta thấy ở đó hơi hướng của phương đông. Đức Tổng giám mục là
một thứ kislar – aga của trời. Khóa chặt và rình mò cả cái cung cấm giam giữ
những linh hồn giành cho Chúa. Cô mụ là cung nữ, giáo sĩ là hoạn quan. Trong mơ
những cô gái sùng đạo được chọn hầu chăn gối Chúa. Ban đêm, người thanh niên
trẻ, đẹp, trần truồng, từ trên thập tự giá bước xuống và làm cho cả phòng tu
kín khoái lạc. Những bức tường cao ngăn cách nàng vương phi mộ đạo kia – mà
Chúa thượng là người bị đóng đanh trên cây thánh giá với mọi lạc thú của cuộc
đời. Một cái nhìn lọt ra ngoài là một sự thất tiết. Cái in paxơ thay thế cho
cái bọc da. Ở phương đông người ta ném xuống biển, ở phương tây người ta vùi
xuống đất, cả hai nơi, người phụ nữ quờ quạng đôi cánh tay: người này dìm giữa
dòng người, người kia vùi trong hố. Đây người chết chìm, kia người chết chôn.
Một cảnh song hành kinh khủng.
Những kẻ
bào chữa cho quá khứ, ngày nay không thể chối cãi những điều đó, đã giả tảng
cười xòa. Người ta đã phổ biến một biện pháp tiện lợi và lạ lùng, là bưng bít,
thủ tiêu tất cả những phát hiện của lịch sử, phủ nhận những điều bình luận của
triết học, lẩn tránh tất cả những sự việc làm cho họ lúng túng và tất cả những
chuyện đen tối. Một số người tinh ranh bảo: “Chỉ để khoa trương”. Một số thằng
khờ lặp lại: “Khoa trương”. Giăng Giắc Rútxô: khoa trương. Điđơrô: khoa trương.
Vonterơ nói về Calaxơ, La Barơ và Xiêcven: khoa trương. Tôi không biết gần đây
ai đã chứng minh rằng Taxitơ là một kẻ khoa trương, rằng bạo chúa Nêrông là một
nạn nhân và nhất là bảo phải rỏ nước mắt xót xa cho số phận “của gã Hôlôphecnơ
đáng thương”.
Những sự
việc không phải dễ đảo ngược, sự việc cứ kiên trì tự báo. Người viết quyển sách
này, chính mắt đã trông thấy cách Bơxuyxen tám dặm – nơi đó là dấu vết của thời
kỳ trung cổ mà ai cũng có thể mó tay được, ở nhà tu Đơvilơ, những cái hố “bỏ
quên” giữa cánh đồng cỏ, trước đây là sân nhà tu và ở bên bờ sông Đilơ, bốn cái
hầm đá, nửa ngầm sâu dưới đất nửa mặt nước. Đó là những in pace (Nguyên văn
Latinh: nơi yên nghỉ). Mỗi cái hầm ấy còn một mảnh cửa sắt, một hố xí và một
cái cửa sổ có gióng sắt, bên ngoài cao hơn mặt nước sáu tấc, bên trong cao hơn
mặt đất hai mét. Gần mét rưỡi nước chảy bên ngoài tường. Đất lúc nào cũng ẩm
ướt. Người ở trong cái in pace nằm ngay trên mặt đất ẩm ấy. Trong một cái hầm
có một khúc gông gắn vào tường, trong một cái hầm khác có một thứ hộp vuông làm
bằng bốn tấm đá, ngắn không đủ để nằm, thấp không đủ để đứng. Người ta bỏ vào
đó một con người và đậy lên một nắp đá. Tất cả cái đó có thực, sờ sờ trước mắt,
dưới tay. Có thực, những cái in pace ấy, những cái hầm ấy, những cái bản lề
sắt, những chiếc cùm, những cái cửa sổ cao, nước sông chảy bên cạnh ngang tầm,
cái hòm đá với nắp đá đóng kín như một cái mồ, chỉ khác ở chỗ xác ma ở đây là
người sống – cái đất bùn ấy, cái hố tiêu ấy, những bức tường rỉ nước ấy “khoa
trương làm sao!”
Nhà tu,
như trước kia ở Tây Ban Nha và bây giờ ở Tây tạng, đối với văn minh là một thứ
bệnh lao. Nó chặn đứng mạch sống. Nó làm cho dân số sụt hẳn đi, làm vãn người
đi. Vào nhà tu kín cũng như bị hoạn. Nhà tu kín đã là một tai họa ở châu Âu.
Phải thêm vào đó tất cả những áp bức kiềm chế lương tri, những vụ khấn nguyện
miễn cưỡng, chế độ phong kiến dựa vào chế độ nhà tu kín, chế độ trưởng nam dốc
vào nhà tu kín cái số con thừa trong gia đình, những cảnh tàn bạo ta vừa nói
đến, các cái in pace, những cái miệng gắn xi, những bộ óc bưng kín, bao nhiêu
trí tuệ thông minh xấu xố bị giam giữ trong lời khấn nguyện vĩnh viễn, cái trò
“mặc áo dòng” chôn sống những linh hồn đang sống. Cộng những nhục hình cá nhân
vào những suy đồi dân tộc, thì bất cứ bạn là người thế nào, bạn sẽ phải rùng
mình ghê tởm trước cái áo thầy tu và cái màn che mặt, hai tấm vải liệm do con
người sáng chế ra.
Thế mà ở
một vài điểm, ở một vài nơi, bất chấp triết học, bất chấp sự tiến bộ, cái tinh
thần nhà tu kín vẫn tồn tại dằng dai, giữa thế kỷ XIX và một sự tái khởi kỳ
quặc của khuynh hướng khổ hạnh đang làm cho chế độ cổ hủ cứ muốn tồn tại mãi
mãi giống như lọ nước hoa đã trở mùi vẫn đòi được thoa vào mái tóc, con cá ươn
vẫn muốn được người ăn, chiếc áo trẻ con vẫn đòi mặc vào cho người lớn và sự âu
yếm của những xác chết muốn trở về ôm hôn người sống.
Chiếc áo
cũ bảo: Đồ vô ơn, ta đã che chở cho người trong những ngày gió mưa, lạnh rét,
sao bây giờ người không thèm nhờ ta nữa? Con cá bảo: Ta từ biển khơi về đây.
Mùi hương hả bảo: Xưa ta là hoa hồng. Xác chết bảo: Ta đã yêu dấu các người. Tu
viện nói: “Ta đã làm cho các người văn minh hơn”.
Chỉ có
một câu trả lời cho tất cả những câu nói ấy: “Vâng, xưa kia!”
Mơ ước sự
tồn tại vô tận của những cái đã chết và quyền thống trị của những xác ướp, khôi
phục lại những nguyên lý đã tàn tạ, thếp vàng lại những cái khung đã nhạt, tô
đắp lại những nhà tu kín, ban phúc lại những hộp thánh vật, trang hoàng lại cho
những tà giáo, tiếp sức cho những cuồng tín, tra cán lại cho những cần rẩy nước
thánh và những thanh gươm, khôi phục chế độ nhà tu kín và chế độ quân phiệt,
tin tưởng rằng càng nhiều kẻ ăn bám thì xã hội loài người sẽ được cứu vớt, đặt
cái ách của quá khứ lên cổ hiện tại, thật là kỳ lạ. Thế mà cũng có những lý
thuyết gia bảo vệ những lý thuyết ấy. Họ cũng là những người thông thái, trí
tuệ lớn, họ sử dụng một biện pháp rất đơn giản: họ quét lên quá khứ một nước
sơn mà họ gọi là trật tự xã hội, quyền của Chúa, đạo lý, gia đình, tôn kính tổ
tiên, uy quyền xưa, truyền thống thiêng liêng, tôn giáo và họ bô bô lên khắp
nơi: Hãy coi đây, hỡi những người lương thiện, những người hiểu biết, hãy dùng
cái này. Cái kiểu lý luận ấy đã cũ rích. Những thầy cúng La Mã vẫn dùng, họ
quét vôi lên mình một con bò cái đen và tuyên bố: đây con bò cái trắng! Boc
cretatus (Tiếng Latinh).
Về phần
chúng tôi, đôi khi ở nơi này, ở nơi khác, chúng tôi tôn trọng quá khứ và bất cứ
ở đâu chúng tôi cũng giữ kín không động chạm đến quá khứ, chỉ cần là quá khứ đã
chết thì cứ nằm yên. Nếu nó cứ muốn sống lại thì chúng tôi đả phá nó và chúng
tôi cố gắng giết chết nó.
Dị đoan,
mê tín, nước đôi, giả đạo đức, thành kiến, những con trùng ấy mặc dù là trùng,
vẫn cố bám lấy cuộc sống, những cái hình dáng hơi khói ấy có cả nanh và cả
vuốt. Phải vật lộn với chúng, tuyên chiến với chúng và đánh chúng không ngừng,
vì đây là một cái tai họa oan nghiệt của nhân loại: là mãi mãi phải đánh với
những bóng ma. Bóng ma thì khó mà tóm được cổ, khó mà quật ngã.
Một nhà
tu kín ở nước Pháp, giữa cái giờ chính ngọ của thế kỷ 19, đó là một đàn cú đối
đầu với ánh sáng ban ngày. Một nhà tu kín, một tội phạm quả tang về khổ hạnh
giữa cái xã hội của 89 của 1830 và 1848 (Cách mạng 1789, 1830 và 1848). La Mã
nở rộ giữa Paris, quả là một điều lầm lẫn về thời đại. Bình thường, để làm tan
một lầm lẫn về thời đại, chỉ cần bảo nhắc lại cái số nghìn trong niên đại thôi.
Nhưng chúng ta không sống trong thời bình thường.
Hãy chiến
đấu!
Chiến đấu
nhưng có phân biệt. Bản chất của chân lý là không bao giờ cực đoan. Chân lý có
cần gì phải cường điệu. Có cái phải tiêu diệt, có cái chỉ cần soi sáng và nhìn
vào. Nhìn nghiêm chỉnh và độ lượng, có sức mạnh nào bằng! Không phải đem lửa
đến nơi chỉ cần có ánh sáng soi rọi.
Vậy nên,
vì sống ở thế kỷ 19, nói chung, chúng tôi phản đối chế độ tu kín khổ hạnh bất
cứ ở một dân tộc nào, bất cứ ở châu Á, ở châu Âu, ở Ấn Độ hay ở nước Thổ. Nói
nhà tu nghĩa là nói ao đầm lầy lội. Uế khí ở đây là dĩ nhiên và ao tù làm hại
vệ sinh; hơi nước bốc men làm các dân tộc lên cơn sốt, khô héo dần, những nhà
tu lan tràn khắp nơi trở thành mụn nhọt Ai Cập. Chúng ta không thể không rùng
mình kinh sợ khi nghĩ đến những nước mà bọn thầy tu, phakia và đecvisơ nhúc
nhúc như là sâu bọ.
Nói như
vậy xong, vẫn có vấn đề về tôn giáo. Vấn đề này có những mặt huyền bí hầu như
ghê gớm. Ta hãy nhìn thẳng vào vấn đề này.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 7: TRONG DẤU NGOẶC ĐƠN
Chương 3
TÔN TRỌNG QUÁ KHỨ VỚI ĐIỀU KIỆN NÀO
Nhà tu, như
trước kia ở Tây Ban Nha và bây giờ ở Tây tạng, đối với văn minh là một thứ bệnh
lao. Nó chặn đứng mạch sống. Nó làm cho dân số sụt hẳn đi, làm vãn người đi.
Vào nhà tu kín cũng như bị hoạn. Nhà tu kín đã là một tai họa ở châu Âu. Phải
thêm vào đó tất cả những áp bức kiềm chế lương tri, những vụ khấn nguyện miễn
cưỡng, chế độ phong kiến dựa vào chế độ nhà tu kín, chế độ trưởng nam dốc vào
nhà tu kín cái số con thừa trong gia đình, những cảnh tàn bạo ta vừa nói đến,
các cái in pace, những cái miệng gắn xi, những bộ óc bưng kín, bao nhiêu trí
tuệ thông minh xấu xố bị giam giữ trong lời khấn nguyện vĩnh viễn, cái trò “mặc
áo dòng” chôn sống những linh hồn đang sống. Cộng những nhục hình cá nhân vào
những suy đồi dân tộc, thì bất cứ bạn là người thế nào, bạn sẽ phải rùng mình
ghê tởm trước cái áo thầy tu và cái màn che mặt, hai tấm vải liệm do con người
sáng chế ra.
Thế mà ở
một vài điểm, ở một vài nơi, bất chấp triết học, bất chấp sự tiến bộ, cái tinh
thần nhà tu kín vẫn tồn tại dằng dai, giữa thế kỷ XIX và một sự tái khởi kỳ
quặc của khuynh hướng khổ hạnh đang làm cho chế độ cổ hủ cứ muốn tồn tại mãi
mãi giống như lọ nước hoa đã trở mùi vẫn đòi được thoa vào mái tóc, con cá ươn
vẫn muốn được người ăn, chiếc áo trẻ con vẫn đòi mặc vào cho người lớn và sự âu
yếm của những xác chết muốn trở về ôm hôn người sống.
Chiếc áo
cũ bảo: Đồ vô ơn, ta đã che chở cho người trong những ngày gió mưa, lạnh rét,
sao bây giờ người không thèm nhờ ta nữa? Con cá bảo: Ta từ biển khơi về đây.
Mùi hương hả bảo: Xưa ta là hoa hồng. Xác chết bảo: Ta đã yêu dấu các người. Tu
viện nói: “Ta đã làm cho các người văn minh hơn”.
Chỉ có
một câu trả lời cho tất cả những câu nói ấy: “Vâng, xưa kia!”
Mơ ước sự
tồn tại vô tận của những cái đã chết và quyền thống trị của những xác ướp, khôi
phục lại những nguyên lý đã tàn tạ, thếp vàng lại những cái khung đã nhạt, tô
đắp lại những nhà tu kín, ban phúc lại những hộp thánh vật, trang hoàng lại cho
những tà giáo, tiếp sức cho những cuồng tín, tra cán lại cho những cần rẩy nước
thánh và những thanh gươm, khôi phục chế độ nhà tu kín và chế độ quân phiệt,
tin tưởng rằng càng nhiều kẻ ăn bám thì xã hội loài người sẽ được cứu vớt, đặt
cái ách của quá khứ lên cổ hiện tại, thật là kỳ lạ. Thế mà cũng có những lý
thuyết gia bảo vệ những lý thuyết ấy. Họ cũng là những người thông thái, trí
tuệ lớn, họ sử dụng một biện pháp rất đơn giản: họ quét lên quá khứ một nước
sơn mà họ gọi là trật tự xã hội, quyền của Chúa, đạo lý, gia đình, tôn kính tổ
tiên, uy quyền xưa, truyền thống thiêng liêng, tôn giáo và họ bô bô lên khắp
nơi: Hãy coi đây, hỡi những người lương thiện, những người hiểu biết, hãy dùng
cái này. Cái kiểu lý luận ấy đã cũ rích. Những thầy cúng La Mã vẫn dùng, họ
quét vôi lên mình một con bò cái đen và tuyên bố: đây con bò cái trắng! Boc
cretatus (Tiếng Latinh).
Về phần
chúng tôi, đôi khi ở nơi này, ở nơi khác, chúng tôi tôn trọng quá khứ và bất cứ
ở đâu chúng tôi cũng giữ kín không động chạm đến quá khứ, chỉ cần là quá khứ đã
chết thì cứ nằm yên. Nếu nó cứ muốn sống lại thì chúng tôi đả phá nó và chúng
tôi cố gắng giết chết nó.
Dị đoan,
mê tín, nước đôi, giả đạo đức, thành kiến, những con trùng ấy mặc dù là trùng,
vẫn cố bám lấy cuộc sống, những cái hình dáng hơi khói ấy có cả nanh và cả
vuốt. Phải vật lộn với chúng, tuyên chiến với chúng và đánh chúng không ngừng,
vì đây là một cái tai họa oan nghiệt của nhân loại: là mãi mãi phải đánh với
những bóng ma. Bóng ma thì khó mà tóm được cổ, khó mà quật ngã.
Một nhà
tu kín ở nước Pháp, giữa cái giờ chính ngọ của thế kỷ 19, đó là một đàn cú đối
đầu với ánh sáng ban ngày. Một nhà tu kín, một tội phạm quả tang về khổ hạnh
giữa cái xã hội của 89 của 1830 và 1848 (Cách mạng 1789, 1830 và 1848). La Mã
nở rộ giữa Paris, quả là một điều lầm lẫn về thời đại. Bình thường, để làm tan
một lầm lẫn về thời đại, chỉ cần bảo nhắc lại cái số nghìn trong niên đại thôi.
Nhưng chúng ta không sống trong thời bình thường.
Hãy chiến
đấu!
Chiến đấu
nhưng có phân biệt. Bản chất của chân lý là không bao giờ cực đoan. Chân lý có
cần gì phải cường điệu. Có cái phải tiêu diệt, có cái chỉ cần soi sáng và nhìn
vào. Nhìn nghiêm chỉnh và độ lượng, có sức mạnh nào bằng! Không phải đem lửa
đến nơi chỉ cần có ánh sáng soi rọi.
Vậy nên,
vì sống ở thế kỷ 19, nói chung, chúng tôi phản đối chế độ tu kín khổ hạnh bất
cứ ở một dân tộc nào, bất cứ ở châu Á, ở châu Âu, ở Ấn Độ hay ở nước Thổ. Nói
nhà tu nghĩa là nói ao đầm lầy lội. Uế khí ở đây là dĩ nhiên và ao tù làm hại
vệ sinh; hơi nước bốc men làm các dân tộc lên cơn sốt, khô héo dần, những nhà
tu lan tràn khắp nơi trở thành mụn nhọt Ai Cập. Chúng ta không thể không rùng
mình kinh sợ khi nghĩ đến những nước mà bọn thầy tu, phakia và đecvisơ nhúc
nhúc như là sâu bọ.
Nói như
vậy xong, vẫn có vấn đề về tôn giáo. Vấn đề này có những mặt huyền bí hầu như
ghê gớm. Ta hãy nhìn thẳng vào vấn đề này.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 7: TRONG DẤU NGOẶC ĐƠN
Chương 4
NHÀ TU VỀ PHƯƠNG DIỆN NGUYÊN TẮC
Nhiều
người họp nhau và sống chung với nhau. Căn cứ trên quyền gì? Quyền tự do lập
hội.
Họ đóng
cửa ở trong nhà của họ. Theo quyền gì? Quyền của mọi người mở hay đóng cửa nhà
mình.
Họ không
đi ra ngoài. Theo quyền gì? Quyền tự do đi lại, trong đó vô hình chung có quyền
ở trong nhà của họ. Ở đấy, ở trong nhà họ, họ làm gì?
Họ nói
sẽ, họ luôn luôn nhìn xuống, họ lao động, họ từ bỏ cuộc đời xa hoa, từ bỏ thành
thị, những cái vui thể xác, lạc thú, hư danh, kiêu hãnh, quyền lợi riêng. Họ
mặc đồ len gai hay đồ vải thô. Không một ai trong bọn họ có cái gì là của
riêng. Khi vào đấy, kẻ giàu trở thành nghèo, của riêng họ có, họ đem cho mọi
người. Kẻ mà người ta vẫn gọi là quý phái, quý tộc, ngài lãnh chúa phong kiến,
ở đây bình đẳng với người nông dân. Buồng tu của mọi người đều giống nhau. Mọi
người đều húi tóc, đều mặc một thứ áo tu, đều ăn một thứ bánh đen, ngủ trên một
thứ ổ rơm và chết trên cùng một thứ tro. Cùng một cái bị trên lưng, cùng một
sợi dây thừng quanh cật. Nếu kỷ luật là đi đất, tất cả mọi người đều đi đất. Có
thể có một ông hoàng trong bọn họ, ông hoàng ấy cũng là cái bóng âm thầm như
những cái bóng người khác. Không còn tước vị gì nữa. Tên họ cũng mất, chỉ còn
có tên riêng thôi. Tất cả mọi người cúi đầu như nhau, dưới những cái tên rửa
tội bình đẳng. Họ đã thủ tiêu cái dây họ hàng ruột thịt và dựng lên trong tập
thể của họ cái dây họ hàng tinh thần. Họ không có họ hàng nào ngoài loài người
nói chung. Họ cứu giúp người nghèo, họ trông nom người ốm. Họ bầu lên những
người điều khiển họ. Họ xưng hô với nhau: anh tôi.
Bạn ngắt
lời tôi và kêu lên: thế là một nhà tu lý tưởng rồi.
Chỉ cần
là một nhà tu thôi, cũng đủ cho tôi phải chú ý rồi. Vì thế trong quyển trên của
bộ sách này tôi đã nói đến một nhà tu một cách kính cẩn. Nếu ta không nói đến
thời kỳ Trung cổ, không nói đến châu Á, không bàn đến vấn đề lịch sử và chính
trị, nếu chỉ nhìn vấn đề về phương diện thuần túy triết học, bỏ tất cả những
chuyện tranh cãi, vận động và với điều kiện là nhà tu dựa trên nguyên tắc hoàn
toàn tự giác và chỉ có những ngời tự nguyện gia nhập, thì tôi luôn luôn nhìn
tập thể nhà tu đó với một sự chú ý nghiêm chỉnh và kính cẩn về vài phương diện.
Ở đâu có sự sống chung là có công xã; và ở đâu có công xã là có công quyền. Nhà
tu là sản phẩm của công thức: bình đẳng, bác ái. Chao ôi! Tự do sao mà vĩ đại
thế! Ôi! Sự biến hóa huy hoàng biết bao! Chỉ cần Tự do là đủ để biến nhà tu
thành một chính thể cộng hòa.
Ta hãy
bàn tiếp:
Những
người đàn ông ấy, những người đàn bà ấy, sống bên trong bốn bức tường này, họ
mặc quần áo len thô, họ bình đẳng, họ gọi nhau là “anh em”. Hay lắm. Nhưng họ
còn làm cái gì khác nữa chứ?
Phải.
Cái gì?
Họ nhìn
ngắm bóng tối. Họ quỳ gối xuống. Họ chắp tay lại.
Thế là
nghĩa gì?
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 7: TRONG DẤU NGOẶC ĐƠN
Chương 5
SỰ CẦU NGUYỆN
Họ cầu
nguyện.
Cầu
nguyện ai?
Chúa
Trời.
Cầu
nguyện Chúa Trời. Cầu ấy có ý nghĩa gì?
Có cái vô
biên ở ngoài chúng ta không? Cái vô biên ấy có phải là nhất thể không, có tự nó
tồn tại không. Có vĩnh cửu không? Có phải nhất định nó có thể chất bởi vì nó là
vô biên và nếu nó thiếu thể chát thì nó bị giới hạn ở đấy? Có phải nhất định nó
có trí tuệ bởi vì nó là vô biên và nếu nó thiếu trí tuệ thì nó bị giới hạn ở
đấy? Cái vô biên ấy có gọi trong đầu óc ta ý niệm bản chất, trong khi ta chỉ
cho ta có ý niệm hiện tồn thôi không? Nói cách khác, có phải nó là cái tuyệt
đối mà ta là cái tương đối của cái tuyệt đối ấy?
Trong khi
có cái vô biên ở ngoài chúng ta, có một cái vô biên ở trong chúng ta không? Hai
cái vô biên ấy (ôi, cái số nhiều kinh khủng) có chồng khít lên nhau không? Cái
vô biên thứ hai có phải nằm liền sát dưới cái vô biên thứ nhất không? Nó có
phải là tấm gương, phản ảnh, tiếng vang, vực thẳm đồng tâm của một cái vực thẳm
khác không? Cái vô biên thứ hai là trí tuệ như cái vô biên thứ nhất không? Nó
có tư duy không? Nó có yêu không? Nó có ý chí không? Nếu cả hai cái vô biên đều
có trí tuệ, mỗi cái đều có một cái nguyên tố tự quyết và có một cái “tôi” trong
cái vô biên ở trên cũng như một cái “tôi” trong cái vô biên tầng dưới: cái
“tôi” tầng dưới là linh hồn, cái “tôi” tầng trên là Chúa. Thông qua tư duy, làm
cho cái vô biên tầng dưới tiếp xúc với cái vô biên tầng trên, thế là cầu
nguyện.
Ta đừng
tước đi của trí tuệ con người một cái gì cả… Hủy bỏ đi là không tốt! Phải cải
tạo và cải biến. Có những năng khiếu của con người hướng về Cõi vô tri: tư duy,
mơ mộng, cầu nguyện. Cõi vô tri là đại dương. Lương tri con người là cái gì? Là
địa bàn trong Cõi vô tri. Tư duy, mơ mộng, cầu nguyện, đó là những tia huyền
bí. Hãy tôn trọng những tia ấy. Những tia huy hoàngấy của linh hồn đi tới đâu?
Tới bóng tối, nghĩa là tới ánh sáng.
Cái vĩ
đại của chế độ dân chủ là không phủ định, không phủ nhận cái gì của nhân loại.
Bên cạnh quyền Người, ít ra có quyền của Linh hồn.
Chà đạp
những tín ngưỡng cuồng điên và tôn sùng vô biên, đó là luật đời. Chúng ta không
tự giới hạn chúng ta ở việc quỳ gối trước cái gốc cây “Tạo hóa” và chiêm ngưỡng
những cành lá mênh mông, đầy tinh tú của nó. Chúng ta có một bổn phận: rèn cặp
linh hồn con người bảo vệ cái huyền bí chống cái “phép màu”, tôn thờ cái điều
ta không thể hiểu và gạt bỏ cái vô lý, chỉ thừa nhận là không thể lý giải được
cái gì cần thiết, làm cho tín ngưỡng trở nên lành mạnh, dọn sạch hết mê tín dị
đoan chồng chất lên tôn giáo. Tóm lại bắt sâu cho cây của Chúa.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 7: TRONG DẤU NGOẶC ĐƠN
Chương 6
CẦU NGUYỆN LÀ MỘT ĐIỀU HAY TUYỆT ĐỐI
Còn cách
thức cầu nguyện, mọi cách thức đều tốt quý hồ là chân thành. Có thể mở ngược
sách nhưng hãy đi vào vô biên.
Chúng ta
biết là có một thứ triết học phủ nhận cái vô biên. Cũng có một thứ triết học,
xếp vào loại bệnh tật, phủ nhận mặt trời, cái triết học ấy tên gọi là mù.
Đem một
giác quan ta không có dựng lên thành một nguồn chân lý, chỉ người mù mới có cái
tự tin lạ lùng ấy. Kỳ lạ là cái triết học mò ấy lại lấy những dáng điệu kiêu
ngạo, trịnh trọng và thương hại người ta, khi đứng trước cái triết học nhìn
thấy Chúa. Người ta tưởng như nghe thấy một con chuột chũi kêu to: “Ôi! Thương
hại thay bọn họ với cái mặt trời của họ”.
Chúng ta
biết có những nhà triết học vô thần nổi tiếng và có uy thế mạnh. Những con
người này, nhờ cái sức mạnh tư duy của họ đã trở lại được với chân lý. Thực ra
họ cũng chưa tin hẳn họ là vô thần. Đối với họ cũng cần chỉ là một vấn đề định
nghĩa và trong tất cả mọi trường hợp, nếu họ không tin Chúa, vì họ là những trí
tuệ lớn, thì chính họ chứng minh là họ có Chúa.
Chúng ta
nghiêng mình chào họ là những nhà triết học nhưng vẫn phê bình nghiêm khắc
triết học của họ.
Ta hãy
bàn tiếp.
Điều đáng
phục nữa là họ dùng ngôn ngữ một cách rất tùy tiện. Một trường phái triết học
phương Bắc, cũng hơi bị sương mù bao phủ, đã tưởng làm được một cuộc cách mạng
trong sự hiểu biết của con người, bằng việc thay từ Sức mạnh bằng từ Ý muốn.
Nói rằng:
cái cây muốn mà không nói cái cây lớn lên, điều đó có vẻ như là sáng tạo phong
phú thật nếu người ta nói thêm: Vũ trụ muốn. Vì sao? Bởi vì có thể rút ra điều
này: cái cây muốn như thế nghĩa là cái cây có một “cái tôi”, vũ trụ muốn, vậy
thì có một Chúa.
Còn chúng
tôi, khác hẳn với trường phái này, chúng tôi không gạt bỏ cái gì trước khi cân
nhắc, đối với chúng tôi thì việc nhận là cái cây có ý chí, như trường phái ấy
thừa nhận, còn khó hơn là nhận rằng vũ trụ có một ý chí, điều mà trường phái ấy
phủ nhận.
Phủ nhận
ý chí của vô biên, nghĩa là Chúa, điều này chỉ có thể ý niệm được với điều kiện
là phủ nhận cái vô biên. Chúng tôi đã chứng minh điều đó.
Sự phủ
nhận vô biên đã dẫn thẳng tới chủ nghĩa hư không. Tất cả trở thành một “khái
niệm của trí tuệ”.
Với chủ
nghĩa hư không thì không thể bàn luận gì được. Bởi vì người theo chủ nghĩa hư
không không tin rằng người đối thoại của mình có thực và cũng không dám chắc
chắn là mình có thực nữa.
Theo quan
điểm ấy thì rất có thể rằng chính bản thân người ấy, đối với người ấy, cũng chỉ
là một “khái niệm của trí tuệ của người ấy” mà thôi!
Chỉ có
một điều là người ấy không nhận ra rằng tất cả những điều người ấy phủ nhận thì
người ấy lại thừa nhận gọn một cách trọn vẹn, bởi vì người ấy đã nêu lên cái
danh dự “trí tuệ”.
Nói tóm
lại, không có một con đường nào mở ra cho tư tưởng, trong một thứ triết học đưa
tất cả mọi vấn đề đến một chữ độc âm: - Không.
Đối với
chữ không ấy, chỉ có một tiếng trả lời: - Có.
Chủ nghĩa
hư không không có tác dụng gì.
Không có
hư không. Con số “không” không có – Tất cả đều là một cái gì đó. Chẳng có cái
gì lại không phải là gì cả. Con người sống bằng khẳng định hơn là sống bằng
“bánh mì”.
Nhìn ra
và vạch rõ, cả như thế cũng chưa đủ. Triết học phải là một năng lực. Nỗ lực và
kết quả của nó là cải thiện con người. Xôcrat phải nhập vào Ađam và sản sinh ra
Mác Oren. Nói cách khác là từ con người của phúc hạnh phải làm nảy ra con người
của sự hiểu biết. Phải đổi vườn Eden thành Lixê (Eden: vườn hạnh phúc, trong
Kinh thánh, nơi Chúa Trời đã cho giáng sinh người đàn ông đầu tiên Ađam và
người đàn bà đầu tiên Evơ; Lycde: nơi nhà triết học Hy lạp Aristote đến giảng
dạy cho môn đồ ở thành Athènes)? Khoa học phải là một liều thuốc bổ. Hưởng thụ,
ôi mục đích buồn thay và khát vọng yếu đuối thay! Con thú lo hưởng thụ. Tư duy,
đó là thắng lợi thực sự của linh hồn. Đưa tư duy cho con người đang khát, trao
cái khái niệm Chúa cho tất cả mọi người như một chất rượu bổ, làm cho lương tri
và khoa học hòa hợp như anh em trong tâm hồn họ, làm cho họ trở nên nhân nên
chính, bởi vì sự đối chiếu huyền bí ấy, đó mới là nhiệm vụ của triết học thực
sự. Luân lý là sự khai hoa của những chân lý. Chiêm duy dẫn đến hành động. Cái
tuyệt đối phải có tác dụng thực tế. Lý tưởng phải là cái gì thở được, uống được
và ăn được cho trí tuệ con người. Chính lý tưởng mới có quyền nói: “Hãy ăn đi!
Đây là thịt của ta, đây là máu của ta”. Hiểu biết là một sự giao cảm thiêng
liêng. Chỉ với điều kiện ấy nó mới không còn là một sự yêu say khoa học khô khan
không kết quả, để trở nên một phương thức duy nhất và cao đẹp tập hợp, đoàn kết
loài người và từ một triết học trở thành một tôn giáo.
Triết học
không nên là cái bao lơn, dựng trên huyền bí để nhìn vào huyền bí cho thoải
mái, không có tác dụng gì khác hơn là tạo thuận lợi cho tính tò mò.
Về phần
chúng tôi, chúng tôi chờ một dịp khác sẽ tiếp tục phát triển tư tưởng của chúng
tôi. Chúng tôi chỉ giới hạn ở điểm là chúng tôi không quan niệm con người là
một khởi điểm, tiến bộ là mục đích nếu thiếu hai cái sức mạnh này là hai động
lực: tin và yêu.
Tiến bộ
là mục đích, lý tưởng là điển hình.
Lý tưởng
là gì? Là Chúa.
Lý tưởng,
Tuyệt đối, Hoành chỉnh, Vô biên: những từ đồng nhất.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 7: TRONG DẤU NGOẶC ĐƠN
Chương 7
PHẢI THẬN TRỌNG KHI CẢNH CÁO
Lịch sử
và Triết học có những bổn phận muôn đời, đồng thời cũng là những bổn phận giản
dị: đả kích Caiphơ giám mục, Đơracông quan tòa, Tơrimanxion nhà lập pháp,
Tiberơ hoàng đế; điều đó rõ ràng, trực tiếp và trong suốt, không có một chút
bóng tối nào. Nhưng cái quyền sống riêng biệt, với tất cả những trở ngại và lạm
hành của nó, cần được xét nhận và kiêng nể. Chế độ nhà tu là một vấn đề của con
người.
Khi nói
đến những nhà tu, những nơi trú ngụ của lầm lỗi, nhưng cũng là của thơ ngây
trong trắng, của sai lạc nhưng cũng là của thiện chí, của ngu dốt nhưng cũng là
của tinh thần tận tụy hy sinh, của hình phạt nhưng cũng là của tinh thần tử vì
đạo, hầu như lúc nào cũng phải tỏ rõ tán thành hay phản đối.
Một nhà
tu là một sự mâu thuẫn. Mục đích là cứu vớt, biện pháp lại là hy sinh. Nhà tu
là sự ích kỷ tối cao dẫn tới sự nhẫn nhục tối sao. “Thoái vị để trị vì” hình
như là châm ngôn của chế độ nhà tu.
Ở nhà tu
kín người ta chịu đựng đau khổ để hưởng thụ, người ta ký một hối phiếu về cái chết.
Người ta chiết khấu ánh sáng trên thiên đường bằng đêm tối dưới mặt đất. Ở nhà
tu ta chịu đựng địa ngục để sớm lên thiên đường.
Nhận phủ
màn che mặt hoặc áo khoác nhà tu là một sự tự sát được trả giá với một cuộc
sống vĩnh viễn.
Chúng tôi
nghĩ rằng đối với một vấn đề như thế, sự chế giễu không thích hợp chút nào. Tất
cả ở đây đều là vấn đề nghiêm chỉnh, cái tốt cũng như cái xấu.
Người
chính trực có thể cau mày nhưng không bao giờ mỉm nụ cười nhạo báng. Giận dữ ở
đây có thể hiểu được, nhạo báng thì không.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 7: TRONG DẤU NGOẶC ĐƠN
Chương 8
LÒNG TIN, KỶ LUẬT
Xin nói
thêm vài lời.
Chúng ta
phê phán, kết án nhà thờ, khi nhà thờ đầy những mưu đồ ám muội; chúng ta khinh
bỉ cái tinh thần còn ham say thế tục, nhưng ở đâu chúng ta cũng kính trọng con
người suy tưởng.
Chúng tôi
cúi chào con người quỳ gối cầu nguyện. Một lòng tin, đó là cái cần thiết cho
con người. Tai họa cho ai không tin tưởng cái gì.
Không
phải là vô công rồi nghề khi người ta tư lự. Có cái lao động trông thấy và cái
lao động không trông thấy.
Chiêm duy
là cày đất, tư duy là hành động. Khoanh tay cũng là lao động, chắp tay là hành
động. Ngước nhìn trời cao là một sự nghiệp.
Talexơ
bốn năm ngồi im. Ông đã xây dựng nền triết học.
Đối với
chúng tôi tu sĩ không phải là những kẻ vô công rồi nghề và người ẩn dật không
phải là những kẻ lười biếng.
Suy nghĩ
về bóng tối là một điều nghiêm chỉnh. Không phủ nhận một điều gì những cái
chúng tôi vừa nói, chúng tôi nghĩ rằng luôn luôn nhớ tới nấm mồ là một điều cần
thiết đối với người sống. Về điểm này vị linh mục và nhà triết học, nhất trí
với nhau. Con người phải chết. Viện trưởng dòng Torapơ đã trả lời đích đáng
Oraxơ (Dòng Torapơ: dòng tu hết sức khổ hạnh, thế kỷ 12; Horace: nhà thơ La Mã
thế kỷ 1 trước công nguyên làm những bài thơ tươi vui ca ngợi hạnh phúc sống).
Để cho
cái chết luôn luôn ít nhiều có mặt trong cuộc sống là kỷ luật của con người
hiền triết và cũng là kỷ luật của người khổ hạnh. Về mặt này người tu khổ hạnh
và nhà hiền triết gặp nhau.
Có sự lớn
mạnh thể chất. Chúng ta muốn có sự lớn mạnh ấy. Cũng có sự cao cả tâm hồn.
Chúng ta thiết tha với sự cao cả ấy.
Những
người không suy nghĩ và nông nổi nói:
- Cần gì
đến những bộ mặt bất động ấy bên phía tín điều: họ dùng làm gì? Họ làm được gì?
Than ôi!
Đứng trước cái bóng tối bao bọc chúng ta và chờ đón chúng ta, không biết được
sự phân tán mênh mông kia sẽ làm chúng ta thành cái gì, chúng ta trả lời: Có lẽ
không có sự nghiệp nào cao cả hơn sự nghiệp của các linh hồn ấy. Và chúng ta
nói thêm: có lẽ không có việc làm nào có ích hơn.
Phải có
những con người luôn luôn cầu nguyện cho những con người không cầu nguyện bao
giờ.
Đối với
chúng tôi, vấn đề là có ba
o nhiêu
tư duy hòa vào cầu nguyện.
Lephiđơ
cầu nguyện, cái đó vĩ đại. Vonte tôn sùng, cái đó là đẹp: Đeo orexti Voltare
(Vonte đã làm Chúa xúc động).
Chúng tôi
là những người cho những bài truyền đạo là nghèo nàn và tin ở tính cao cả của
cầu nguyện.
Vả lại
trong cái giờ phút mà chúng ta đang trải qua lúc này, giờ phút may thay sẽ
không để lại hình dáng của nó trong thế kỷ XIX, trong cái giờ mà bao nhiêu
người trán cúi thấp tâm hồn không vươn cao, giữa bao nhiêu người lấy hưởng thụ
làm đạo lý và luôn luôn bận rộn vì những cái nhất thời và quái dạng của vật
chất, bất cứ ai lẩn tránh cuộc đời đều đáng kính. Nhà tu là một sự tự nguyện từ
chối hưởng thụ. Hy sinh vì một mục đích sai lầm cũng vẫn là hy sinh. Làm bổn
phận thì dù bổn phận đó có là một sai lầm cũng vẫn có cái vĩ đại nhất định.
Cứ xoay
quanh chân lý, nhận xét một cách vô tư và triệt để tất cả mọi phương diện, ta
phải thấy rằng nhà tu, nhìn riêng bản thân nó và trên lý tưởng, nhất là nhà tu
nữ - vì trong xã hội chúng ta người phụ nữ phải chịu đau khổ nhất và trong cái
cảnh tù đầy của nó, có hàm một sự phản kháng – nhà tu nữ có một vẻ uy nghiêm
nào đó, không thể bàn cãi được.
Cuộc sống
giam cầm khắc nghiệt và ảm đạm đến như thế, như chúng ta vừa mô tả một vài
đoạn, không phải là sự sống nữa vì không phải là tự do; nó không phải là nấm mồ
vì không phải là cảnh viên mãn tối hậu; nó là một nơi kỳ lạ, từ đó người ta
nhìn thấy, như đứng trên một ngọn núi cao, một bên cái vực thẳm ta đang sống,
một bên cái vực thẳm ta đang sống, một bên cái vực thẳm ta sẽ ở sau này; nó là
cái ranh giới nhỏ hẹp, mờ sương chia cách hai thế giới, cái ranh giới vừa được
chiếu sáng, vừa bị che tối vì cả hai cái thế giới ấy, ở đấy, ánh sáng yếu ớt
của cuộc sống hòa lẫn với những tia lờ mờ của cái chết; đó là nơi trnah tối
tranh sáng cạnh mồ.
Về phần
chúng tôi, chúng tôi không tin tưởng những điều mà các người phụ nữ đó tin
tưởng, như họ, chúng tôi cũng sống với tín ngưỡng, chúng tôi không bao giờ
không cảm thấy trong lòng một thứ ghê sợ thiêng liêng trìu mến, một niềm thương
hại pha lẫn thèm muốn khi chúng tôi nghĩ đến những con người cúc cung tận tụy
ấy, những con người vừa run sợ, vừa tin cậy, những linh hồn thấp bé và oai
nghiêm, dám sống trên bờ của huyền bí, trong sự chờ đợi giữa cuộc đời đã đóng
kín và cửa trời chưa mở, quay về một cái ánh sáng không trông thấy, chỉ được có
cái hạnh phúc là nghĩ rằng họ biết họ đang ở đâu, khao khát mong đợi vực thẳm
và huyền bí, mắt đăm đăm nhìn vào bóng tối, yên lặng, quỳ gối, say mê, rung
động cả tâm thần, đôi khi như được thấy luồng gió sâu xa của vĩnh cửu nhấc bổng
người lên.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 8: AI CHO CÁI GÌ, NGHĨA ĐỊA NHẬN CÁI ẤY
Chương 1
VÀO NHÀ TU BẰNG CÁCH NÀO?
Giăng
VanGiăng đã “rơi từ trên trời xuống cái nhà tu này”, như lời Phôsơlơvăng.
Ông đã
vượt qua cái tường vườn nhà tu làm nên góc phố Pôlôngxô. Tiếng hát giữa đêm
khuya mà ông tưởng là tiếng hát của thiên thần, chính là tiếng hát chầu lễ sớm
của nữ tu sĩ. Cái căn nhà lờ mờ trong bóng tối thực ra là nhà nguyện của nhà
tu. Còn cái bóng ma nằm phủ phục trên mặt đất chỉ là một nữ tu sĩ đang đền tội.
Tiếng nhạc lạ lùng chỉ là tiếng nhạc buộc vào đầu gối lão làm vườn Phôsơlơvăng.
Lúc Côdét
đã ngủ yên, Giăng VanGiăng và Phôsơlơvăng uống một hớp rượu vang và ăn một
miếng phó mát trước ngọn lửa rừng rực cháy; gian nhà chỉ có độc một cái giường
Côdét nằm, nên mỗi người nằm phịch xuống một bó rơm. Trước khi nhắm mắt ngủ,
Giăng VanGiăng nói với Phôsơlơvăng: “Từ nay, tôi phải ở lại đây với bác”. Câu
nói ấy cứ nhảy nhót trong đầu óc Phôsơlơvăng suốt đêm làm ông già không tài nào
ngủ được.
Thực ra
đêm ấy không ai chợp mắt lúc nào.
Giăng
VanGiăng thấy mình đã lộ tung tích và Giave đang theo mình từng bước; ông nghĩ
rằng không thể nào cùng Côdét trở về Paris được nữa, về thì nguy. Cơn gió số
mệnh vừa qua đã thổi ông đến nhà tu này, ông chỉ còn một ý nghĩ, là ở lại đây.
Đối với một con người khốn khổ trong hoàn cảnh này, nhà tu đây là một nơi nguy
hiểm nhất mà cũng là một nơi trú chắc chắn nhất! Nguy hiểm nhất, bởi vì nơi
này, không một người đàn ông nào được đặt chân tới, người ta mà bắt quả tang
Giăng VanGiăng ở đây, thì từ nhà tu đến nhà tù, chỉ có một bước; chắc chắn
nhất, bởi vì nếu được vào đây và được ở đây, thì ai còn đến đây tìm mình? Ở
được một nơi không ai được ở, tất là thoát thân.
Về phần
Phôsơlơvăng, ông cụ cũng suy nghĩ tợn. Thoạt tiên ông thú thật không thể nào
hiểu được đầu đuôi ra sao cả. Ông thị trưởng Mađơlen làm thế nào mà vượt tường
vào được đây? Không ai lại nhảy qua tường nhà tu bao giờ? Làm sao lại đèo thêm
cả một con bé nữa? Làm thế nào ôm một đứa bé mà leo được bức tường dựng đứng?
Đứa bé ấy là ai? Hai người từ đâu lại? Từ ngày Phôsơlơvăng vào nhà tu, ông
không nghe nói đến Môngtơrơi Xuya Me, ông không hề biết chuyện gì đã xảy ra ở
đó nữa. Trông vẻ mặt ông Mađơlen, thấy cũng không nên hỏi chuyện gì thêm; vả
lại, ông cụ tự bảo: “Ai lại gạn hỏi một bậc thánh bao giờ!”. Đối với ông cụ,
ông Mađơlen vẫn là ông Mađơlen đầy đủ uy tín ngày xưa. Nhưng, nghe qua mấy
tiếng Giăng VanGiăng buột miệng nói ra, ông cụ đoán là có lẽ gặp thời buổi khó
khăn, ông Mađơlen đã phá sản, bị chủ nợ săn bắt; hoặc ông là can phạm chính
trị, nên phải trốn tránh; nghĩ đến đấy, ông cụ thấy càng thích, bởi vì ông cũng
như nhiều nông dân miền Bắc trong thâm tâm vẫn có cảm tình với phái Bônapac.
Ông Mađơlen muốn tìm đến nhà tu mà trốn tránh, nên ông có muốn ở lại đây, điều
đó cũng dễ hiểu. Có điều không tài nào hiểu được, mặc dù lão đã nát óc suy
nghĩ, là làm thế nào mà ông vào được đây, mà lại đèo thêm một đứa bé. Ông nhìn
Giăng VanGiăng và con bé, mó vào người họ, chuyện trò với họ, thế mà vẫn không
thể tin được là chuyện có thật. Cái vô lý vừa đột nhập vào túp nhà lão
Phôsơlơvăng. Phôsơlơvăngcứ mò mẫm đoán mà vẫn thấy tối mò mò. Chỉ có một ý nghĩ
này là rõ rệt: “Ông Mađơlen đã cứu sống ta”. Chỉ một ý nghĩ xác đáng ấy cũng đủ
để ông già quyết định. Ông tự bảo: “Lúc ông Mađơlen chui xuống dưới gầm xe để
kéo mình ra, ông ấy có đắn đo như mình đâu!” Ông nhất quyết cứu cho được ông
Mađơlen.
Mặc dù
vậy, ông cụ vẫn tự đặt cho mình nhiều câu hỏi rồi lại tự trả lời mình: “Ông đã
cứu sống mình như thế, nhưng nếu ông là một thằng trộm cướp thì mình có cứu
không? Tất phải cứu. Nếu là một đứa giết người thì mình có cứu không? Cũng phải
cứu. Ông đã là một bậc thánh thì mình có cần cứu không? Càng phải cứu”.
Nhưng giữ
ông Mađơlen ở lại trong nhà tu là một chuyện khó khăn quá! Trước cái dự định
gần như ảo vọng ấy, Phôsơlơvăng không hề nao núng. Người nông dân đáng thương
miền Picacđi ấy chỉ có cái thiện ý, một tấm lòng hy sinh tận tụy và chút ít, sự
tinh ý cố hữu của nông dân, lần này dùng làm một việc hào hiệp. Ông quyết tâm
khắc phục tất cả những khó khăn không bờ bến và vượt qua những kỷ luật khắt khe
của nhà tu dòng thánh Bơnoa. Ông ta vốn suốt đời ích kỷ, nhưng lúc trở về già
gần kề miệng lỗ, lại què quặt, không còn sinh thú gì ở đời nữa, nên khi thấy
việc phúc đức thì lăn vào làm, như thể một người sắp chết thấy một cốc rượu ngon
chưa hề được uống bao giờ thì hăm hở cầm lấy mà nốc một hơi. Vả lại, bao nhiêu
năm trời, thở không khí trong nhà tu, ông ta như đã mất hết tính cố hữu, ông
thấy cần phải ra tay làm một việc phúc đức.
Thế là
ông cụ nhất quyết tận tụy hy sinh cho ông Mađơlen.
Chúng tôi
đã gọi Phôsơlơvăng là một người nông dân đáng thương miền Picacđi. Gọi như thế
đúng nhưng chưa đủ. Đến đây, tưởng cũng nên kể thêm chút ít về lai lịch lão.
Vốn ở nhà quê, nhưng đã có lần ông làm lục sự, nên sẵn tinh ý, ông lại có mánh
khóe; sẵn chất phác, ông lại thêm sâu sắc. Thế rồi, vì nhiều nguyên nhân, ông
thất bại nhiều lần, từ chân lục sự, ông trở thành bác đánh xe ngựa và lao động
chân tay. Nhưng mặc dù mắng chửi ngựa, quất ngựa vun vút, vì ngựa cần những thứ
ấy, hình như ông vẫn giữ được cốt cách của một ông lục sự. Ông bẩm sinh khá
thông minh; ông không ăn nói hay vui miệng chuyện trò. Nhiều người khác vẫn bảo
ông cụ ăn nói có vẻ như một ông tư sản. Phôsơlơvăng quả là thuộc cái hạng người
mà mấy chục năm nay người ta thường gọi một cách hỗn xược, vu vơ là hạng người
nửa tỉnh nửa quê mà những ẩn dụ của ngôn ngữ quý tộc đã ghi vào lý lịch người
bình dân: nửa nhà quê, nửa kẻ chợ, tiêu muối. Phôsơlơvăng mặc dù lăn lộn nhiều,
thất bại lắm, bây giờ còn trơ cái xác không, nhưng vẫn giữ được cái tính hồn
nhiên, phải gì làm nấy. Như thế là ông vẫn giữ được cái bản chất của con người
tốt. Ông có những tật xấu này khác, nhưng chỉ ở bề ngoài, những ai biết xem
tướng thì thấy nét mặt ông không có những nếp nhăn trên chỏm trán của hạng
người độc ác hoặc ngu độn.
Sáng tinh
mơ hôm ấy, sau khi đã nghĩ ngợi suốt một đêm ròng, ông Phôsơlơvăng mở mắt thì
thấy ông Mađơlen ngồi trên đệm rơm nhìn Côdét đang ngủ. Ông đứng nhỏm dậy hỏi:
- Bây giờ
bác đã ở đây rồi, thì bác liệu làm thế nào mà vào đây được? – Câu nói đầy đủ ý
nghĩa thức tỉnh Giăng VanGiăng đang mơ mơ màng màng.
Hai người
bèn bàn luận với nhau. Phôsơlơvăng nói:
- Trước
hết, bác đừng có bước chân ra khỏi cái buồng này. Cả cháu bé nữa. Bước một bước
ra ngoài, tất cả chúng ta đi đời cả.
- Đúng
thế.
- Bác
Mađơlen ạ, bác đến vừa dịp may… nghĩa là không may cho nhà tu, là có một bà nữ
tu sĩ ốm nặng. Thế là người ta ít nhòm ngó phía đằng này. Hình như bà ta sắp
chết. Phải cầu kinh bốn mươi tiếng đồng hồ. Họ bận cả. Cái bà sắp đi là một bậc
thánh. Thực ra ở đây chúng tôi là thánh hết! Chỉ có khác một điều là các bà ấy
thì nói: cái buồng của chúng tôi, còn tôi nói: túp lều của tôi. Người ta sắp
cầu nguyện cho người hấp hối, rồi cầu nguyện cho người chết. Thế là hôm nay ta
có thể yên ổn được; nhưng mai thì không thể nói trước được.
- Thế
nhưng cái nhà này ở một góc tường, trước mặt lại có cái đống gạch đổ nát, cây
cối um tùm, trên nhà tu nhìn xuống làm sao được?
- Lại
thêm các bà nữ tu sĩ không bao giờ đến gần đây.
- Thế
thì?
Cái chấm
hỏi đặt sau hai tiếng “thế thì” của Giăng VanGiăng có nghĩa: tôi tưởng như thế
thì còn sợ gì nữa? Phôsơlơvăng trả lời đúng chỗ hỏi:
- Có lũ
trẻ con.
- Lũ trẻ
con nào?
Phôsơlơvăng
vừa há mồm định giải thích thì chuông nhà tu buông một tiếng. Ông nói:
- Bà ấy
chết rồi. Tiếng chuông báo tử vừa đánh đấy.
Ông già
ra hiệu cho Giăng VanGiăng chú ý nghe.
Chuông
đánh tiếng thứ hai:
- Bác
Mađơlen, tiếng chuông báo chết lần thứ hai. Trong suốt hai mươi bốn tiếng đồng
hồ, cứ cách một phút, chuông lại đánh một tiếng, cho đến khi đưa xác ra khỏi
nhà thờ. Bác nghĩ xem, đến giờ chơi, bọn chúng nô đùa ghê lắm. Chỉ cần một quả
bóng lăn lại đây là bọn chúng xông vào tìm nhộn cả lên. Bọn thiên thần ấy
nghịch như quỷ.
Giăng
VanGiăng hỏi:
- Bọn nào
thế bác?
- Bọn trẻ
con. Đây, rồi chẳng mấy chốc, bác bị lộ ngay. Bọn chúng sẽ kêu lên: “A, có một
người đàn ông!” Nhưng hôm nay không có giờ chơi. Cầu kinh cả ngày. Bác nghe
chuông mà xem, cứ mỗi phút một tiếng. Tiếng chuông báo tử.
- Tôi
hiểu rồi bác Phôsơlơvăng ạ, ở đây có trẻ ở ký túc.
Và Giăng
VanGiăng nghĩ bụng:
- Thật
tiện cho Côdét ăn học.
Phôsơlơvăng
kêu lên:
- Trời,
bọn trẻ mà trông thấy bác, chúng sẽ thét lên mà chạy trốn cho mau. Ở trong này,
làm người đàn ông thì cũng giống như mắc bệnh dịch hạch. Bác xem, tôi đeo ở
chân một cái nhạc, chẳng khác gì một con thú dữ.
Giăng
VanGiăng mỗi lúc một thêm suy nghĩ. Ông lẩm bẩm một mình: “Nhà tu này sẽ cứu
được hai ông con mình”. Rồi ông cất tiếng nói:
- Phải,
cái khó là làm sao ở lại đây.
- Không,
là ra khỏi đây.
Giăng
VanGiăng cảm thấy như máu trào lên ngực:
- Ra khỏi
đây!
- Vâng,
phải ra khỏi đây rồi mới quay trở vào được.
Rồi
Phôsơlơvăng nói tiếp, sau một tiếng chuông rền rĩ bên ngoài.
- Không
thể để người ta thấy bác lù lù ở đây được. Bác vào đường nào! Tôi biết bác lắm
nên tôi cho là bác rơi ở trên trời xuống, chứ đối với các nữ tu sĩ thì họ cho
là bác phải vào đằng cổng kia.
Bỗng một
hồi chuông khá phức tạp của một chiếc chuông thứ hai. Phôsơlơvăng nói:
- À,
tiếng chuông gọi các mẹ tư vấn đi họp. Khi có người chết là họ họp. Bà ấy chết
lúc sáng tinh mơ. Thường họ chết vào lúc sáng tinh mơ. Nhưng này, bác vào lối
nào, thì nay bác có ra bằng lối ấy được không? Không phải hỏi thế mà chơi đâu,
bác vào lối nào chứ?
Giăng
VanGiăng xám xanh mặt lại. Nghĩ rằng phải leo tường ra cái lối khủng khiếp kia,
Giăng VanGiăng rùng mình ghê sợ. Ta vừa thoát khỏi một khu rừng đầy hùm beo,
thử tưởng tượng nay lại có người bạn khuyên mình trở lại khu rừng đó. Giăng
VanGiăng nghĩ đến một khu phố nhung nhúc những mật thám, những tên chỉ điểm
đang rình mò, những lính tuần, những bàn tay khủng khiếp lúc nào cũng sẵn sàng
tóm lấy cổ mình, còn Giave thì có lẽ đứng chờ ở một xó ngã tư đường. Ông nói:
- Không
thể được, bác Phôsơlơvăng ạ, cứ coi như tôi rơi từ trên trời xuống.
- Tôi tin
như vậy, tôi tin như vậy, bác chả cần nói. Đức Chúa Trời chắc muốn giữ lấy bác
để ngắm cho kỹ rồi lại thả bác ra. Chúa muốn đặt bác vào một nhà tu nam. Nhưng
rồi Chúa nhầm chỗ. Đấy, lại một tiếng chuông. Tiếng chuông này báo cho bác gác
cổng đi báo tòa thị chính cử ông y sĩ coi việc người chết đến đây để chứng
kiến. Đấy, lễ nghi cái chết phải như thế. Các bà ở đây nào có ưa gì cái việc
khám xét ấy. Là y sĩ thì chẳng tin gì cả. Họ lật tấm vải phủ diện lên; có khi
lật cả cái khác. Lần này, sao các bà ấy cho đi báo sớm thế. Chắc có việc gì.
Cháu bé vẫn ngủ. Cháu tên là gì nhỉ?
- Côdét.
- Con bác
à? Trông thì ai cũng bảo cháu gọi bằng ông, có phải không bác?
- Phải.
- Cho
cháu ra khỏi đây cũng dễ. Tôi ra vào có cái cửa riêng ăn liền với sân trước. Cứ
gõ cửa là bác gác mở. Tôi vẫn đeo cái giỏ đằng sau lưng: nhét cháu vào giỏ là
xong. Thế là cứ việc đi ra. Ai chả bảo là lão già Phôsơlơvăng đeo giỏ ra phố.
Bác nhớ dặn cháu đừng có cựa quậy. Tôi đậy tấm vải bạt lên trên. Đến nhà bà bạn
bán hoa quả ở phố Sơmanhve, tôi sẽ gửi cháu ở đấy. Bà ấy điếc, nhà có một chiếc
giường nhỏ. Tôi sẽ chõ vào tai bà mà thét nó là cháu gái tôi, nhờ bà trông hộ
một hôm. Thế rồi bác sẽ lại đem cháu vào đây. Tôi sẽ tìm hết cách đưa bác vào.
Nhưng bác có cách nào ra khỏi đây được không?
Giăng
VanGiăng lắc đầu:
- Làm sao
cho đừng một ai trông thấy tôi, có thế thôi. Bác thử xem có cách nào đưa tôi ra
như đưa Côdét được không. Cũng nằm trong giỏ đậy bạt.
Phôsơlơvăng
lấy ngón tay giữa gãi gãi dưới tai, tỏ vẻ vô cùng bối rối.
Một hồi
chuông thứ ba làm câu chuyện đứt quãng.
- Đấy,
ông y sĩ đi rồi đấy. Ông ấy xem xong, nói: “Bà ấy chết rồi, được”. Khi ông y sĩ
đã chuẩn bị tờ giấy thông hành lên thiên đường thì bọn tang lễ mang áo quan
đến. Nếu là một mẹ thì các mẹ liệm; nếu là một bà phước thì các bà phước liệm.
Xong đâu đó đến lượt tôi đóng áo quan. Ấy, cũng là một phần việc làm vườn. Kẻ
làm vườn cũng ít nhiều là người đào huyệt. Quan tài thì đặt trong một cái buồng
thấp ngoài nhà thờ, trông ra phố. Trừ ông y sĩ, không một người đàn ông nào
được bén mảng tới. Không kể tôi và những phu đòn, chúng tôi không được coi là
đàn ông. Tôi đóng quan tài ở đấy. Phu đòn đến khiêng ra, thế là xe tang quất
ngựa! Đấy, đường lên trời chỉ có thế. Lúc mang đến thì hòm không, lúc mang đi
thì hòm có. Đám ma là như thế. De profundis (Xin siêu độ, tiếng Latinh, đọc ở
cuối kinh cầu hồn).
Một tia
nắng sớm rọi ngang qua mặt Côdét đang ngủ say: miệng nó hé mở như một thiên
thần đang uống ánh sáng. Giăng VanGiăng nhìn nó từ lâu. Ông không nghe
Phôsơlơvăng nói nữa.
Không
được nghe, đấy không phải là một lý do để người ta không nói nữa. Lão làm vườn
trung hậu vẫn cứ việc lải nhải:
- Đào
huyệt ở nghĩa trang Vôgira. Cái nghĩa trang này, người ta bảo sắp bỏ đi. Nghĩa
trang cũ từ đời nào, không đúng luật lệ, không ra vẻ gì cả, sắp cho hưu đến
nơi. Kể cũng tiếc, vì nó được cái tiện. Ấy tôi có một người bạn làm ở đấy, lão
phu huyệt Métchiên ấy mà, các bà nữ tu sĩ ở đây hưởng biệt đãi là được chôn cất
vào lúc sẩm tối. Quận có cả một nghị định riêng cho các bà. Nhưng từ hôm qua
đến nay, sao lắm chuyện thế! Mẹ Cơruyxiphixiông thì chết, ông Mađơlen thì…
- Thì đã
chôn vùi.
Giăng
VanGiăng vừa nói vậy, vừa mỉm cười buồn bã. Phôsơlơvăng láy lại tiếng chôn vùi:
- Trời!
Nếu bác ở hẳn đây thì cũng chẳng khác gì chôn vùi.
Hồi
chuông thứ tư lại vang lên. Phôsơlơvăng vội vàng với cái đai bịt đầu gối có nhạc
treo trên tường, buộc vào chân:
- Lần này
đến lượt tôi. Mẹ nhất gọi tôi đấy. Được để tôi buộc đã. Còn bác, bác chớ có đi
đâu một bước đấy nhé, phải chờ tôi. Có cái gì lạ đây. Bác có đói thì lấy rượu,
bánh với phó mát mà ăn.
Rồi vừa
đi ông già vừa nói: “Nào thì đi, nào thì đi”.
Giăng
VanGiăng thấy lão cố sức lê nhanh cái chân thọt qua vườn, ghé mắt nhìn mấy
luống dưa.
Lão đi
đến đâu, nhạc rung đến đấy, khiến các bà phước chạy tán loạn. Chưa đầy mười
phút, lão đến một cái cửa, khe khẽ gõ một tiếng. Một giọng nói dịu dàng trả
lời: đời đời. Đời đời nghĩa là Cứ vào.
Cái cửa
này là cái cửa phòng dành riêng để tiếp lão làm vườn mỗi khi có việc. Phòng ấy
giáp với phòng họp của các mẹ. Phòng chỉ có độc một cái ghế tựa. Mẹ nhất ngồi
ghế đợi ông Phôsơlơvăng.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 8 - Chương 2
CỤ PHÔSƠLƠVĂNG ĐỨNG TRƯỚC KHÓ KHĂN
Có những
người, khi gặp hoàn cảnh khó khăn thì nét mặt trở thành băn khoăn và nghiêm
nghị, đó là do tính người như thế hoặc do nghề nghiệp, đặc biệt là ở những linh
mục và tu sĩ. Khi Phôsơlơvăng vào thì mẹ nhất cũng đang ở tình trạng ấy. Nét
mặt mẹ vừa băn khoăn vừa nghiêm nghị. Mẹ vốn có duyên và học thức rộng, thường
ngày tươi cười. Mẹ chính là tiểu thư Đơ Bơlêmơ tức mẹ Inôxăngtơ.
Ông già
làm vườn khúm núm chào và đứng lại ở cửa phòng. Mẹ nhất đang lần tràng hạt,
bỗng ngước mắt nhìn lên, nói:
- À! Lão
Phôvăng đấy à?
Trong nhà
tu này, người ta quen gọi là Phôvăng cho gọn.
Phôsơlơvăng
chào lại một lần nữa.
- Lão
Phôvăng ạ, tôi cho gọi lão.
- Bẩm mẹ,
con đến hầu mẹ.
- Tôi cần
nói chuyện với lão.
Phôsơlơvăng
cố lấy giọng mạnh bạo và tự mình cũng đâm sợ sự mạnh bạo ấy:
- Còn
con, con cũng định thưa với mẹ tôn quí một việc.
Mẹ nhất
nhìn lão:
- Thế ra
lão cũng có một việc cần báo với tôi?
- Cần cầu
xin với mẹ.
- Cứ nói
đi.
Phôsơlơvăng,
nguyên lục sự, thuộc vào hạng nông dân tự tín. Có khi dốt nát một cách khôn
khéo lại là một sức mạnh. Người ta không ngờ vực mình, do đó mà dễ thành công.
Hơn hai năm trời sống trong nhà tu, Phôsơlơvăng đã thành công. Suốt năm đơn
độc, làm việc trong khoảnh vườn, ông chẳng còn gì khác ngoài việc tò mò tìm
hiểu nhà tu. Nhìn xa những người đàn bà trùm khăn kín mít qua lại trước mặt,
ông chỉ thấy như những bóng đen lảng vảng. Ông già cố sức chăm chú để tìm hiểu,
nên những bóng ma ấy, dần dần lão đã thấy có da có thịt: những xác chết ấy có
một đời sống. Ông giống như người điếc mắt càng trông xa, hay như người mù nghe
rất thính. Ông đã biết tường tận mỗi hồi chuông nói gì trong nhà tu bí mật,
lặng lẽ này, nên ông không thấy có gì là lạ hết. Cái chuông ấy là một con nhân
sư (Nhân sư theo truyền thuyết Ai Cập là một con quái vật thường ra những câu
đố khó giải cho khách qua đường) rất khó hiểu nhưng đối với ông thì ngày ngày
nó thủ thỉ bên tai tất cả những điều bí mật trong tu viện. Biết bao nhiêu, ông càng
giấu kín bấy nhiêu. Đấy, bí quyết nghệ thuật của ông là ở chỗ ấy. Cả tu viện
tưởng ông ngây ngô, đần độn. Trong giáo hội, thì đây là một đức lớn. Các mẹ tư
vấn quý ông. Rõ là một anh tọc mạch câm. Ai cũng tin ông. Vả ông luôn luôn tôn
trọng nội quy, ông chỉ ra phố khi phải mua cái gì cần thiết lắm cho khu vườn
quả hay vườn rau. Hành tung kín đáo ấy cũng được đánh giá tốt. Tuy nhiên ông
vẫn khêu gợi cho hai người múa môi khua lưỡi: trong nhà tu thì là bác gác cổng,
thế là ông biết mọi chuyện trong phòng tiếp khách; ngoài nghĩa trang thì là bác
phu đào huyệt, thế là ông biết tất cả những chuyện lạ về tang ma. Như vậy, sống
giữa những người tu hành, ông có hai nguồn ánh sáng, một soi vào cảnh sống, một
soi vào cõi chết. Tuy biết vậy mà ông chẳng làm gì quá đáng bao giờ. Tất cả
thánh hội đều tin ở ông. Ông vừa già lại què, mắt mờ, hình như lại nghễnh ngãng
nữa, biết bao nét tốt! Khó lòng mà tìm được một người như ông Phôsơlơvăng.
Thế là
hôm nay, trước mắt mẹ nhất, tự biết mình được mọi người tin cậy, ông già ấy
mạnh dạn bắt đầu nói một câu chuyện quê mùa, dài dòng nhưng sâu sắc ý nghĩa.
Ông kể lể mãi về việc tuổi ông đã già, lại mang tật nó chứng kia; mỗi năm mỗi
yếu đi, mà công việc vườn tược mỗi ngày một nhiều; nào vườn thì rộng, nào phải
đêm hôm làm lụng, như đêm vừa qua, nhân có trăng, ông phải cặm củi trải rơm che
vườn dưa. Thế rồi ông kết thúc câu chuyện như sau: ông có một người em trai (mẹ
nhất cựa mình) – người em đã có tuổi (mẹ nhất cựa mình lần thứ hai, nhưng cựa
mình yên tâm) – nếu được phép, người em sẽ đến cùng với ông để giúp việc làm
vườn bởi vì hắn ta làm vườn rất giỏi, - thánh hội sẽ được công được việc. Còn
như nếu thánh hội từ chối thì ông bắt buộc và hết sức lấy làm tiếc là phải xin
nghỉ việc, nởi vì ông đã già nua lại tật bệnh, - người em ông lại có một đứa
cháu gái nhỏ sẽ mang theo, đứa bé sẽ được giáo dục trong lòng Chúa và sau này
biết đâu nó không trở thành một bà xơ trong nhà tu.
Ông vừa
dứt lời thì mẹ nhất ngừng tay lần tràng hạt, bảo:
- Từ giờ
đến chiều, lão có kiếm đâu được một thanh sắt to không?
- Để làm
gì ạ?
- Để bẩy.
- Bẩm mẹ,
được ạ.
Mẹ nhất
liền đứng dậy, không nói thêm nửa lời – mẹ sang buồng bên cạnh là buồng họp
hình như có các mẹ khác đang tụ tập ở đây. Phôsơlơvăng còn lại một mình trong
phòng.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 8 - Chương 3
MẸ INÔXĂNGTƠ
Mười lăm
phút trôi qua. Mẹ nhất trở lại phòng, ngồi trên chiếc ghế.
Trong
cuộc đối thoại, hai người đều có vẻ lo âu. Chúng tôi xin cố gắng ghi đúng câu
chuyện trao đổi như sau:
- Lão
Phôvăng ạ.
- Bẩm mẹ
dạy gì?
- Lão
biết nhà nguyện chứ?
- Hàng
ngày con vẫn được lên cái buồng nhỏ để nghe kinh và xem lễ.
- Thế lão
có vào sàn hát bao giờ không?
- Bẩm,
con có vào vài ba lần.
- Phải
bẩy một tảng đá.
- Bẩm có
nặng không ạ?
- Tảng đá
bên cạnh bàn thờ.
- Bẩm
tảng đá đậy cái hầm ấy à?
- Phải.
- Giá
được hai người đàn ông thì tốt quá.
- Mẹ
Atxăngxiông sẽ giúp lão một tay, bà ấy khỏe chẳng kém gì đàn ông.
- Đàn bà
thì chẳng bao giờ khỏe bằng đàn ông.
- Chúng
ta chỉ có một phụ nữ để giúp lão thôi. Bà ấy sẽ cố gắng, làm được chừng nào hay
chừng ấy. Linh mục Mabiông kể bốn trăm mười bảy thư của thánh Bécna, còn
Méclônuyt Hoócchiuyt chỉ được có ba trăm sáu mươi bảy, không vì thế mà tôi coi
nhẹ Méclônuyt Hoócchiuyt.
- Con
cũng vậy.
- Làm hết
sức mình là đáng quí rồi. Nhà tu đâu có phải là công trường.
- Và đàn
bà cũng chẳng phải là đàn ông. Chú em tôi nó khỏe lắm.
- Lão còn
có đòn để bẩy kia mà.
- Vâng,
phải có thứ chìa khóa ấy mới mở nổi cái loại cửa ghê gớm kia.
- Tảng đá
còn có cái vòng sắt nữa.
- Con sẽ
luồn đòn bẩy qua cái vòng ấy.
- Và tảng
đá xoay được.
- Bẩm mẹ,
được. Con sẽ mở hầm.
- Có bốn
mẹ sẽ đỡ việc lão.
- Thế mở
xong thì làm gì ạ?
- Rồi
phải đóng lại.
- Thế là
xong ạ?
- Chưa.
- Bẩm mẹ,
xin mẹ cứ dạy.
- Lão
Phôvăng ạ. Các mẹ tin lão lắm.
- Con xin
làm tất.
- Và phải
giữ kín tất.
- Bẩm
vâng.
- Mở cửa
hầm xong…
- Con sẽ
đóng lại.
- Nhưng
trước đó…
- Gì cơ
ạ?
- Phải
đưa xuống hầm một cái gì.
Im lặng
một lát. Mẹ nhất, hơi bĩu môi dưới ra như ngập ngừng, rồi nói:
- Lão
Phôvăng ạ.
- Lão
biết là có một mẹ vừa qua đời sáng nay chứ?
- Bẩm
không.
- Thế lão
không nghe thấy chuông báo à?
- Ở cuối
vườn chỗ con, chẳng nghe thấy gì hết.
- Thật à?
- Con
nghe được hồi chuông gọi con cũng đã khó nhọc lắm.
- Mẹ ấy
tịch lúc sáng sớm.
- Vả lại
sáng nay, gió không thổi về phía con.
- Đó là
mẹ Cơruyxiphixiông. Mẹ là một bậc thánh.
Mẹ nhất
ngừng lại nói, môi hơi mấp máy như để khẽ cầu nguyện, rồi lại tiếp:
- Ba năm
trước đây, chỉ thấy mẹ Cơruyxiphixiông cầu kinh thôi mà bà Đơ Bêtuym phải cải
quy đạo Cơ đốc, trước bà ta theo phái Giăngxênit!
- Ái chà!
Bẩm mẹ, bây giờ con mới nghe thấy chuông báo tử.
- Các mẹ
đã khiêng mẹ Cơruyxiphixiông sang buồng nhà xác, thông với nhà thờ.
- Bẩm
vâng.
- Ngoài
lão ra, không một người đàn ông nào được vào buồng ấy. Lão phải trông chừng
đấy, một người đàn ông nào vào thì chả ra làm sao đâu!
- Hơn
thế!
- Cái gì?
- Hơn
thế.
- Lão nói
gì vậy?
- Con
bảo: Hơn thế.
- Hơn thế
là hơn cái gì?
- Thưa mẹ
bề trên, con không nói hơn thế cái gì. Con nói hơn thế.
- Ta
chẳng hiểu lão nói gì cả. Tại sao lão nói hơn thế?
- Bẩm mẹ,
để nói như mẹ.
- Ta
không nói hơn thế.
- Mẹ
không nói như thế, nhưng con nói như thế để nói như mẹ.
Lúc ấy
chuông điểm 9 giờ.
Mẹ nhất
cầu nguyện:
“Chín giờ
sáng và tất cả mọi giờ, ngợi khen và thờ lạy thánh thể rất thiêng liêng”.
- Amen,
Phôsơlơvăng nói.
Chuông
điểm đúng lúc, nó cắt đứt cái chuyện “Hơn thế” nếu không thì mẹ nhất và
Phôsơlơvăng không làm thế nào gỡ được cái cuộn chỉ rối ấy.
Phôsơlơvăng
lau mồ hôi trán.
Mẹ nhất
lại lầm rầm khe khẽ trong miệng như khấn vái, rồi mẹ nói to:
- Lúc
sinh thời, mẹ Cơruyxiphixiông cải tôn biết bao nhiêu người. Mất đi, chắc hẳn mẹ
làm nhiều phép nhiệm mầu lắm.
- Bẩm,
hẳn mẹ sẽ làm nhiều phép nhiệm mầu.
Phôsơlơvăng
nói theo và cố gắng giữ hết sức để khỏi hớ lần nữa.
- Lão
Phôvăng ạ, tất cả giáo hữu đã được ban phúc qua mẹ Cơruyxiphixiông. Nhất định
không phải ai cũng được chết như giáo chủ Đơ Bêruyn trong lúc giảng kinh và gửi
hồn lên Chúa khi cầu nguyện Hone igitur oblationem (Vậy xin dâng của lễ này).
Tuy không được hạnh phúc ấy, mẹ Cơruyxiphixiông cũng chết một cách quí hóa. Cho
tới phút tắt thở mẹ vẫn tỉnh táo. Mẹ còn chuyện trò với chị em chúng ta, rồi mẹ
còn cầu kinh nữa. Mẹ đã cho chị em chúng ta những mệnh lệnh cuối cùng. Giá lão
là người sùng đạo hơn và giá lão cũng được vào buồng mẹ Cơruyxiphixiông lúc ấy,
thì mẹ chỉ sờ vào chân lão, lão đã khỏi tật. Mẹ mỉm miệng cười, tựa như phục
sinh trong lòng Chúa. Thật như có thiên đường trong cảnh chết ấy.
Phôsơlơvăng
tưởng như nghe thấy bài kinh cầu siêu chấm dứt. Lão nói:
- Amen.
- Lão
Phôvăng ạ, người chết muốn sao, ta phải làm như vậy.
Mẹ nhất
lần tràng hạt. Lão Phôsơlơvăng im lặng.
Bà lại
tiếp:
- Về vấn
đề này ta đã xin ý kiến nhiều vị giáo sĩ phục vụ và lo về cuộc sống trong đạo
và đã đạt được những kết quả rất tốt đẹp.
- Thưa mẹ
bề trên, ở đây nghe rõ tiếng chuông báo tử hơn là ở ngoài vườn.
- Vả
chăng mẹ Cơruyxiphixiông không phải là một người quá cố bình thường, mẹ là một
vị thánh.
- Bẩm
cũng như mẹ.
- Từ hai
mươi năm nay, mẹ vẫn nằm trong cái áo quan riêng của mẹ do giáo hoàng Pi VII
cho phép.
- Người
đã làm lễ đăng quang cho Hoàng… Bônapac.
Phôsơlơvăng
vốn tinh ranh là thế mà buột miệng nói theo điều ghi nhớ của mình như thế cũng
thật rầy. Cũng may mẹ nhất đang bận suy nghĩ không nghe thấy gì.
Mẹ nói
tiếp:
- Lão
Phôvăng.
- Bẩm mẹ
dạy?
- Thánh
Điôđorơ, tổng giám mục Capađôxơ, ngỏ ý muốn người ta chỉ ghi mộ mình một chữ
này: Acarú, nghĩa là con giun đất. Người ta đã làm theo ý thánh như vậy, có
phải không?
- Thưa mẹ
vâng.
- Thánh
Mêđôcanơ toàn thiện toàn phúc, viện trưởng ở Akila, muốn được chôn dưới một cái
giá treo cổ. Điều đó đã được thực hiện.
- Thưa
vâng.
- Thánh
Têrăngxơ, giám mục địa phận Pô trên cửa sông Tibơrơ vùng bờ bể, muốn người ta
khắc trên bia mình cái dấu ghi trên mả những đứa giết cha, mong rằng khách qua
đường ai cũng nhổ nước miếng trên mả mình. Điều đó cũng được thực hiện. Phải
tuân lệnh người chết.
- Cầu
Chúa cho như thế.
- Thi hài
của Bécna Ghiđôni, sinh ở nước Pháp, gần Rôdơ Abây, đã được đưa vào nhà thờ
dòng Đôminicanh ở Limôgiơ, theo lệnh của Người và mặc dù vua Caxtiơ phản đối,
tuy rằng Bécna Ghiđôni là giám mục Tuy ở Tây Ban Nha. Ai nói trái được.
- Nhất
định không ạ. Bẩm mẹ.
- Điều
này đã được Pơlăngtavít Đơ la Phôxơ chứng thực.
Mẹ lại
yên lặng lần thêm vài hạt nữa. Rồi mẹ nói tiếp:
- Lão
Phôvăng ạ. Phải chôn mẹ Cơruyxiphixiông trong chiếc quan tài mẹ vẫn nằm từ hai
mươi năm nay.
- Như thế
là phải ạ.
- Vẫn là
tiếp tục ngủ thôi.
- Con sẽ
đóng quan tài ấy lại?
- Phải.
- Còn
chiếc quan tài của sở thì để lại ạ?
- Đúng
thế.
- Con xin
tuân lời thánh hội muôn vàn tôn kính.
- Bốn mẹ
trong ban đồng ca sẽ giúp lão.
- Giúp
việc đóng quan tài ấy à? Bẩm mẹ chả cần ạ.
- Không.
Là nói giúp việc đưa quan tài xuống cơ.
- Xuống
đâu ạ?
- Xuống
hầm.
- Hầm nào
ạ?
- Hầm
dưới điện thờ.
Lão
Phôsơlơvăng giật nảy mình:
- Cái hầm
dưới bàn thờ ấy à?
- Đúng,
dưới bàn thờ.
- Nhưng…
- Có cái
thanh sắt để bẩy mà.
- Vâng,
nhưng…
- Luồn
thanh sắt vào cái vòng mà bẩy.
- Nhưng…
- Phải
tuân lệnh người đã chết. Mẹ Cơruyxiphixiông Chỉ có một nguyện vọng lớn nhất là
được chôn cất ở trong hầm mộ dưới bàn thờ nhà nguyện, không phải nằm nơi trần
tục. Mẹ muốn yên nghỉ ở nơi lúc sống mẹ thường vẫn cầu kinh. Mẹ đã nói thế, tức
là lệnh của mẹ vậy.
- Nhưng,
người ta cấm…
- Người
trần cấm, nhưng Chúa ra lệnh.
- Nhỡ lộ
việc thì sao?
- Chúng
ta tin ở lão.
- Con thì
sẽ lặng thinh như hòn đá trong vách này.
- Hội
đồng đã họp. Các mẹ tư vấn đang bàn và ta cũng vừa hỏi ý kiến xong, các mẹ đã
nhất quyết chôn mẹ Cơruyxiphixiông trong áo quan của mẹ, ở cái hầm mộ dưới bàn
thờ. Lão Phôsơlơvăng này, hãy nghĩ xem, nếu phép nhiệm màu mà diễn ra ở đây thì
thế nào? Vinh quang thay cho tu viện ta từ trong lòng Chúa. Phép mầu từ mộ mà
lên đấy.
- Nhưng,
bẩm chỉ sợ nhân viên ban vệ sinh…
- Về việc
mai táng. Thánh Bơnoa II đã chống lại hoàng đế Côngstăngtanh Pôgôna.
- Thế nhỡ
ông cầm…
- Một
trong bảy ông vua Đức xâm nhập các xứ Gôlơ dưới triều vua Côngstăng là Cônôdơme
đã chính thức công nhận quyền của người tu sĩ được chôn cất trong lòng đạo, tức
là dưới bàn thờ.
- Nếu ông
thanh tra quận…
- Trước
thánh giá, người trần tục không có quyền gì hết. Máctanh, giáo trưởng thứ mười
một dòng tu Sáctơrơ, đã nêu cái phương châm này cho dòng tu của mình: Stat crux
dum volvitur orbis (Tiếng Latinh: cây thánh giá đứng yên trong lúc trái đất
xoay vần).
Phôsơlơvăng
cầu:
- Amen.
Đó là đối
phó bất di bất dịch của lão mỗi khi nghe ai đọc tiếng Latinh.
Đối với
một người đã im lặng quá lâu thì gặp bất cứ ai cũng là một dịp để nói hết những
điều muốn nói. Nhà hùng biện Gimnatôrát hôm ở tù ra, trong người đầy ắp những
lưỡng đoạn luận và tam đoạn luận bị nén, đứng lại trước gốc cây đầu tiên gặp
trên đường và đem tất cả tài hùng biện ra để thuyết phục gốc cây đó. Mẹ nhất
thường ngày bị kỷ luật im lặng khống chế, bụng đầy những giáo điều, đứng dậy
nói thao thao như mở cống:
- Bên
phải ta là Bơnoa, bên trái là Bécna. Bécna là ai? Là tu viện trưởng đầu tiên
của Cơlécvô. Phôngtenơ đơ Buôcgônhơ là cái xứ sở được phúc Chúa vì là sinh quán
của ngài. Cha ngài là Têxơlanh và mẹ ngài là Aletơ. Ngài đã bắt đầu ở Xitô và
sau ở Cơlécvô. Ngài đã được phong viện trưởng do giám mục Ghiômơ đơ Săngpô địa
phận Salông suya Xônơ, ngài có bảy trăm tu sĩ tập sự và đã dựng 160 nhà tu.
Người đã đánh gục Abêla ở hội nghị Xăngxơ năm 1140 và Pierơ đơ Bơruy và Hăngri
môn đệ của Pierơ đơ Bơruy và một loại lầm đường khác, bọn Apôxtôlic; ngài đã
khuất phục Acnô đơ Bơrexơ, quật ngã như sét đánh linh mục Raun; tên đồ tể giết
dân Do Thái; ngài khống chế cả hội nghị Ranhxơ năm 1184, ngài làm cho Ginbe đơ
la Pôrê, giám mục Poachiê và Eông đơ Lêtôalơ bị kết án; ngài dàn xếp xích mích
của các vua chúa, chỉ bảo cho vua Lui Lơ Giơnơ, làm cố vấn cho giáo hoàng
Ơgienơ III, ghép vào quy chế giáo hội Lơtăngpơlơ, kêu gọi thập tự viễn chinh,
làm 250 phép màu trong đời mình và có lần 39 phép màu trong một ngày. Bơnoa là
ai? Là thánh tổ của Mông Caxanh, là người sáng lập thứ hai của Tính thiêng của
tu viện, là Badilơ của giáo hội phương Tây. Dòng đạo của người đã sản sinh 40
giáo hoàng, hai trăm giáo chủ, năm mươi thánh tổ, một nghìn sáu trăm tổng giám
mục, bốn nghìn sáu trăm giám mục, bốn hoàng đế, mười hai đế hậu, bốn mươi sáu
vua, bốn mươi mốt hoàng hậu, ba nghìn sáu trăm vị được phong thánh và tồn tại
từ một nghìn bốn trăm năm nay. Một bên thánh Bécna, một bên viên chức vệ sinh;
một bên thánh Bơnoa, một bên viên thanh tra lục lộ. Nhà nước, sở lộ chính, sở
tang tế, luật lệ cơ quan hành chính, chúng ta không biết. Bao nhiêu người sẽ
phẫn nộ trước sự đối xử với chúng tôi. Họ tước cả của chúng tôi các quyền hiến
dâng cát bụi của chúng tôi cho Giêsu Cơrít! Vệ sinh của các anh là một bịa đặc
của cách mạng. Chúa trời phụ thuộc viên cảnh sát trưởng! Thời thế như thế đấy.
Im đi thôi, lão Phôvăng!
Dưới trận
mưa rào ấy, Phôsơlơvăng rất lúng túng. Mẹ nhất nói tiếp:
- Ai mà
chối cãi được quyền chôn cất tu sĩ của các tu viện? Chỉ có bọn tà đạo và bọn
lạc đường phủ nhận nó thôi. Chúng ta đang sống trong một thời đại hỗn loạn ghê
gớm. Người ta không biết những điều phải biết mà lại biết những điều không nên
biết. Ngu muội và vô đạo. Trong thời đại này có những người lầm vị thánh Bécna
tối cao tối đại với Bécna gọi là “Bécna của những người Giatô nghèo”, một giáo
sĩ hiền từ ở thế kỷ XIII. Có kẻ phỉ báng đến nỗi liên hệ máy chém chém Lui Xvi
với thập tự giá đóng đinh Giêsu Cơrít. Lui XVI chỉ là một ông vua. Phải coi
chừng Chúa. Không còn cái gì công bằng, cái gì là bất công nữa. Người ta biết
tên Vonte mà không biết tên Xêda đơ Buy; thế mà Xêda đơ Buy là một bậc hằng
phúc, còn Vonte thì là một tên khốn khổ. Vị tổng giám mục cuối cùng, giáo chủ
Pêrigo, không biết cả rằng Sáclơ đơ Gôngđơren đã kế tục Bêruyn, Buôcgoanh đã kế
tục Gôngđơren, Giăng Phơrăngxoa Xơnôn kế tục Buôcgoanh và cha Xanhà tuơ Máctơ
kế tục Giăng Phơrăngxoa Xơnôn. Người ta nhớ tên linh mục Côtông, không phải vì
ông là một trong ba người đã góp phần sáng lập dòng Oratoarơ, mà là vì vua đạo
cải cách Hăngri IV đã hay văng tục với cái tên ông ấy. Còn Xanh Phơrăngxoa đơ
Xan người đời thích vì ngài ấy hay gian lận trong cờ bạc. Người ta đả kích tôn
giáo. Vì sao? Vì đã có những linh mục xấu, vì Xagite, giám mục Gap là anh em
của Xalôn, giám mục Ăngbơren và cả hai đã đi theo Mommon. Điều đó có làm sao?
Có phải vì thế mà Máctanh đơ Tua không phải là Thánh và không cắt đôi tấm áo
khoác cho một người nghèo? Người ta khủng bố các vị thánh, người ta nhắm mắt
trước chân lý. Đêm tối đã thành thói quen. Những con thú dữ tợn nhất là những
con thú mù. Chẳng ai nghĩ đến địa ngục! Ôi! Cái quần chúng xấu xa độc ác! Lệnh
vua bây giờ là lệnh của cách mạng. Người ta không còn biết phải làm gì cho
người chết. Cấm không được chết một cách tinh thành. Mồ mả là chuyện hành
chính. Ghê tởm quá. Giáo hoàng Xanh Lêông II đã gửi thông điệp đặc biệt, một
cho Pierơ Note, một cho vua của người Vidigốt, để phản đối và bác bỏ quyền hành
của quan thái thú và quyền vô thượng của Hoàng đế trong vấn đề tang lễ. Côchiê,
giám mục Xalông về vấn đề này đã đương đầu với Ôtông, công tước Buôcgônhơ. Các vị
thẩm phán xưa cũng đồng tình. Ngày xưa chúng tôi có quyền phát biểu về cả việc
đời. Viện trưởng tu viện Xitô, trưởng dòng, là thẩm phán chỉ định của tòa
thượng thẩm Buôcônhơ. Chúng tôi được toàn quyền xếp đặt những người chết của
chúng tôi. Cả thi hài của thánh Bơnoa chẳng chôn ở tu viện Phơlơry, còn gọi là
Xanh Bơnoa Xuya Loarơ ở đất Pháp là gì, mặc dù ngài chết trên đất Ý, ở Mông
Caxanh, ngày thứ bảy 21 tháng 3 băm 543? Tất cả những sự việc ấy là hiển nhiên
không chối cãi được. Ta ghét những kẻ cầu nguyện giả dối, ta thù những quân tà
đạo, nhưng ta còn thù ghét hơn kẻ nào nói trái những điều đó. Chỉ cần đọc lại
Acnun Viêng, Gabơrien Buyxơlanh, Tơritemơ, Môrôliquyt và Luych Đasơri.
Mẹ nhất
nghỉ để thở, rồi quay lại bảo Phôsơlơvăng:
- Lão
Phôvăng, thế là được chứ?
- Bẩm mẹ,
vâng, được ạ.
- Trông
cả ở lão được chứ?
- Con xin
tuân lệnh.
- Tốt
lắm!
- Con xin
hết lòng với tu viện.
- Được
rồi. Lão đóng quan tài. Các bà khiêng quan tài vào nhà nguyện. Cầu kinh xong họ
trở lại nhà tu. Khoảng giữa mười một giờ và nửa đêm, lão sẽ mang thanh sắt đến.
Việc gì cũng tiến hành hết sức bí mật. Ở nhà nguyện chỉ có bốn mẹ trong ban
đồng ca, mẹ Atxăngxông và lão thôi.
- Và bà
xơ đứng cọc.
- Bà ấy
sẽ không quay mặt lại.
- Bà ấy
sẽ nghe thấy.
- Bà ấy
không lắng tai nghe. Vả lại điều nhà tu kín biết thì người đời không biết.
Mẹ nhất
nghỉ một lần nữa rồi mới nói tiếp:
- Lão sẽ
cởi bỏ chiếc nhạc. Không cần để cho bà đứng cọc biết là có lão ở đấy.
- Bẩm mẹ
rất kính…
- Gì thế?
- Ông y
sĩ đến khám chưa ạ?
- Bốn giờ
rưỡi chiều hôm nay. Đã có hiệu chuông cho người đi báo. Thế ra lão không nghe
tiếng chuông hiệu lệnh nào cả ư?
- Con chỉ
chăm chú nghe hiệu chuông gọi con thôi.
- Cái đó
tốt, lão Phôvăng ạ.
- Bẩm mẹ
chắc phải kiếm cái đòn dễ đến vài mét.
- Kiếm
đâu được?
- Có song
sắt làm rào là có đòn. Ở góc vườn, con có chất cả một đống.
- Khoảng
mười một giờ mười lăm tối nay, chớ có quên.
- Bẩm mẹ
rất kính…
- Gì?
- Nếu có
công việc khác như thế này nữa thì chú em con rất khỏe. Khỏe như vâm!
- Lão
phải lo làm hết sức nhanh, càng nhanh càng hay.
- Con
không làm nhanh lắm được. Con có tật. Vì vậy nên cần có người giúp. Con thọt.
- Thọt
không phải là một tội lỗi. Có khi là một điều phúc cũng nên. Hoàng đế Hăngri
II, người đã chống lại ngụy giáo hoàng Gơrêgoa và khôi phục Bơnoa VIII có hai
biệt hiệu Vua thánh và Vua thọt.
Phôsơlơvăng
tai hơi nghễnh ngãng, lẩm bẩm:
- Đến hai
áo khoác, tốt quá nhỉ.
- Lão
Phôvăng này, ta đã nghĩ. Cho trọn một giờ đi. Không đến nỗi nhiều quá đâu. Lão
hãy có mặt bên cạnh bàn thờ chính với cái thanh sắt vào 11 giờ. Buổi lễ bắt đầu
lúc 12 giờ đêm. Mười lăm phút trước là phải xong xuôi hết cả.
- Con sẽ
làm hết sức để tỏ lòng nhiệt thành của con với tu viện. Dứt khoát như thế. Con
đóng nắp áo quan. Mười một giờ đúng con sẽ ở trong nhà nguyện. Các mẹ trong ban
đồng ca ở đấy rồi. Mẹ Axăngxiông cũng có mặt. Giá được hai người đàn ông thì
hay hơn. Nhưng thôi được, con sẽ mang thanh bẩy. Chúng con sẽ mở hầm mộ, đưa áo
quan xuống, rồi đậy lại nắp nhà mồ. Thế là xong, không còn dấu vết gì nữa.
Chính phủ sẽ không nghi ngờ gì. Thôi mẹ tôn kính, thế là xong xuôi cả phải
không ạ?
- Không.
- Còn cái
gì nữa ạ?
- Còn cái
quan tài trống.
Ngừng một
lát. Phôsơlơvăng nghĩ ngợi. Mẹ nhất nghĩ ngợi.
- Lão
Phôvăng này, làm thế nào với cái quan tài ấy?
- Cứ việc
mang đi chôn.
- Khiêng
trống không à?
Lại im
lặng. Lão Phôsơlơvăng vẫy vẫy bàn tay trái như muốn xua đuổi một ý nghĩ gì làm
cho lão lo sợ.
- Bẩm mẹ,
tay con đã đóng quan tài ấy lại; có ai được vào đấy đâu; thế rồi con cứ phủ tấm
vải che lên trên.
- Thế còn
bọn phu đòn, lúc họ khiêng quan tài lên xe, rồi lúc hạ huyệt, họ thấy nhẹ
không.
Ông
Phôsơlơvăng bỗng rủa to:
- Ôi
chao! Qu…!
Mẹ nhất
giơ tay làm dấu thánh và đăm đăm nhìn Phôsơlơvăng. Ông nghẹn cổ, nuốt vào cổ
mấy âm quỉ sứ.
Ông vội
vàng nghĩ ra một mưu kế để đánh lảng câu nguyền rủa:
- Bẩm mẹ,
con sẽ cho đất vào quan tài. Cũng sẽ nặng nặng như có người ấy.
- Phải
đấy. Đất thì cũng như người thôi. Thế là lão sẽ thu xếp cho xong việc cái quan
tài rỗng ấy nhé?
- Cứ để
mặc con.
Nét mặt
mẹ nhất từ nãy bối rối, lo âu bỗng trở nên sáng sủa. Bà ra hiệu cho kẻ bề dưới
được ra ngoài. Phôsơlơvăng đi ra phía cửa. Ông vừa định bước chân ra, thì bà
dịu dàng lên tiếng:
- Lão
Phôvăng, tôi bằng lòng lắm. Ngày mai, sau khi đưa tang, lão dẫn em lão đến đây,
bảo mang cả con bé lại nữa.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 8 - Chương 4
GIĂNG VANGIĂNG CÓ VẺ ĐÃ ĐỌC LẦU ÔTSTANH CATSTILEGIÔ
Người
thọt dẫu có bước nhanh thì cũng như người chột muốn liếc mắt nhìn ngang: không
làm sao đến đích cho nhanh được. Vả lại, tâm thần Phôsơlơvăng rối tung. Phải đến
mười lăm phút, ông mới lê được về đến căn nhà nơi góc vườn. Côdét đã dậy. Giăng
VanGiăng đặt nó ngồi bên đống lửa. Vừa lúc Phôsơlơvăng bước vào nhà thì Giăng
VanGiăng đang chỉ cái giỏ treo trên tường mà bảo:
- Con ạ,
con nghe kỹ đây này. Bây giờ hai bố con mình phải ra khỏi nhà này: ra rồi lại
trở vào, ở đây tha hồ sướng. Ông già này sẽ cho con vào giỏ để mang con ra. Con
đợi bố ở nhà một bà quen biết. Bố sẽ đến đón. Nhớ kỹ, con phải vâng lời mà nín
thin thít không thì mụ Tênácđiê lại đến bắt cho mà xem.
Côdét
nghiêm trang gật đầu.
Thấy
tiếng Phôsơlơvăng đẩy cửa, Giăng VanGiăng quay lại:
- Thế nào
bác?
- Xong
xuôi cả, thế mà lại chưa đâu vào đâu. Đã được phép đưa bác vào ở đây. Nhưng
phải đưa bác ra trước đã. Thế mới kẹt chứ! Cháu bé thì dễ lắm.
- Bác
mang cháu đi à?
- Cháu có
im được không?
- Bác cứ
tin ở tôi.
- Thế còn
bác, bác Mađơlen ơi?...
Sau một
lát yên lặng nặng nề, ông Phôsơlơvăng kêu lên:
- Bác vào
lối nào thì cứ lối ấy mà ra chứ sao!
Giăng
VanGiăng chỉ trả lời gọn lỏn như lần trước: “Không thể được”.
Phôsơlơvăng
lầm bầm như muốn nói một mình chứ không phải nói với Giăng VanGiăng:
- Có một
việc khác làm mình dằn vặt. Mình nói mình sẽ đổ đất vào. Ấy thế nhưng mà mình
nghĩ lại thấy đất mà thay cho xác chết thì chẳng giống tí nào. Không ổn đâu,
đất xê dịch, đất động đậy, người khiêng sẽ nhận thấy điều đó. Bác Mađơlen hiểu
chứ, bọn phu nhận thấy được chính phủ cũng sẽ nhận thấy.
Giăng
VanGiăng nhìn thẳng vào mắt lão và tưởng lão mê sảng.
Lão lại
nói:
- Bác ra
cách đếch nào bây giờ? Mai là phải xong xuôi cả. Mai tôi phải dẫn bác vào đây
rồi. Mẹ nhất chờ bác đấy.
Nói xong,
ông cắt nghĩa cho Giăng VanGiăng biết là được như thế, bởi vì ông đã giúp giáo
hội được một việc và người ta thưởng công cho ông ta: là ông cũng được dự phần
chôn cất mẹ Cơruyxiphixiông; là ông đóng áo quan và giúp việc hạ huyệt. Còn mẹ
Cơruyxiphixiông qua đời sáng nay, theo yêu cầu của mẹ, thì đặt trong quan tài
riêng mà bà vẫn nằm và chôn ngay trong hầm mộ dưới bàn thờ của nhà nguyện. Sở
cảnh sát cấm ngặt việc này. Nhưng mẹ Cơruyxiphixiông thuộc loại nữ tu sĩ muốn
gì cần phải được nấy. Mẹ nhất và các mẹ khác đều nhất định làm theo ý nguyện
của người đã chết, còn thì mặc kệ chính phủ. Lão Phôsơlơvăng này sẽ đóng cái
quan tài trong buồng riêng, rồi mở nắp hầm mộ ra mà chôn dưới hầm. Mẹ nhất đền
ơn ông lão bằng cách, cho người em lão và đứa cháu gái được ở trong nhà tu, ông
làm vườn, cháu đi học. Người em ấy, chính là ông Mađơlen, đứa cháu gái là
Côdét. Mẹ nhất bảo chiều mai phải dẫn hai người vào, sau cuộc đưa ma giả. Nhưng
làm thế nào để dẫn ông Mađơlen vào được, khi ông Mađơlen vẫn ở trong này. Đấy
là điều lúng túng thứ nhất; thứ hai là còn chiếc quan tài rỗng.
Giăng
VanGiăng hỏi:
- Cái
quan tài rỗng là thế nào?
- Cái
quan tài của Nhà nước ấy mà.
- Quan
tài nào? Nhà nước nào?
- Có một
mẹ chết. Người y sĩ thành phố đến khám và bảo có một mẹ chết. Thế là chính phủ
đưa một cái quan tài đến. Ngày hôm sau, chính phủ lại đưa xe và phu đòn đến để
đưa ra nghĩa trang. Phu đến, khiêng quan tài lên, sẽ thấy nhẹ bỗng.
- Cứ nhét
cái gì vào đấy.
- Một xác
chết à? Tôi làm gì có.
- Không.
- Thế cái
gì?
- Một
người sống.
- Ai cơ?
- Tôi.
Phôsơlơvăng
giật bắn người đứng dậy, như thể có pháo nổ ngay dưới ghế.
- Bác ấy
à?
- Chứ
sao?
Giăng
VanGiăng mỉm cười, - cái mỉm cười hãn hữu như một tia sáng trong bầu trời mùa
đông.
- Bác
Phôsơlơvăng này, bác chả vừa nói: Mẹ Cơruyxiphixiông chết, mà tôi chả nói thêm
“còn lão Mađơlen thì phải chôn đi” à? Thế mà thành sự thật đấy.
- Bác chỉ
hay nói bóng.
- Nói
thật đấy chứ. Phải ra khỏi đây phải không?
- Vâng.
- Tôi đã
bảo bác cũng phải kiếm cho tôi cái giỏ và tấm bạt.
- Thế
sao?
- Giỏ thì
giỏ gỗ thông, còn bạt thì là tấm chăn liệm đen.
- Không,
khăn trắng chứ. Đám tang các nữ tu sĩ tuyền trắng hết.
- Ừ thì
trắng.
- Bác
Mađơlen, bác thật khác người.
Thấy
những điều tưởng tượng như vậy, những điều tưởng tượng đó vốn chỉ là những phát
minh tự nhiên và táo bạo trong tù, vượt qua sự yên ổn thường nhật, can thiệp
vào nề nếp của tu viện, đó là những điều khiến lão Phôsơlơvăng kinh ngạc, đó là
những người qua đường nhìn thấy chim hải âu bắt cá trong rãnh nước phố Xanh
Đơni. Giăng VanGiăng nói tiếp:
- Cần
phải ra khỏi đây mà không bị lộ. Cách ấy cũng tiện. Nhưng tôi hỏi bác cái này.
Công việc tiến hành thế nào? Cái quan tài ấy để đâu?
- Cái
quan tài rỗng ấy à?
- Phải.
- Ở dưới
kia, dưới nhà xác. Quan tài đặt trên hai cái giá, phủ một cái chăn liệm.
- Quan
tài dài bao nhiêu?
- Hai
thước.
- Nhà xác
là thế nào?
- Đấy là
một buồng ở tầng nền, có một cửa sổ trông ra vườn, căng lưới sắt, muốn đóng cửa
phải đứng phía ngoài mà đóng; và có hai cửa ra vào, một thông với nhà tu, một
thông ra nhà thờ.
- Nhà thờ
nào?
- Nhà thờ
ngoài phố đấy, nhà thờ chung của dân.
- Bác có
chìa khóa hai cửa ấy không?
- Không.
Tôi chỉ giữ chìa khóa cửa vào nhà tu; còn chìa khóa cửa kia thì bác gác giữ.
- Lúc nào
thì bác gác mở cửa?
- Chỉ mở
một lần cho phu đòn vào khiêng quan tài xong lại đóng ngay.
- Ai đóng
quan tài?
- Tôi.
- Ai phủ
khăn liệm?
- Tôi.
- Chỉ có
một mình bác?
- Phải,
ngoài tôi và ông y sĩ của sở cảnh sát không người đàn ông nào được vào buồng
ấy. Trên tường, có viết hẳn hoi như thế.
- Đêm
nay, lúc nhà tu ngủ cả, bác có cách nào giấu tôi vào buồng ấy được không?
- Không:
nhưng có một cái kho hẹp thông với nhà xác, để dụng cụ chôn cất; có thể giấu
bác ở đấy được. Tôi giữ kho ấy, lại có chìa khóa.
- Mấy giờ
mai xe tang đến đưa quan tài đi?
- Độ ba
giờ chiều. Chôn ở nghĩa địa Vôgira, lúc sẩm tối. Cũng khá xa.
- Tôi sẽ
trốn trong buồng kho suốt đêm nay và buổi sáng sớm. Còn ăn uống thì thế nào. Bị
đói mất.
- Tôi sẽ
mang cái ăn đến cho bác.
- Thế là
đến hai giờ trưa, bác đến đóng quan tài của tôi lại.
Phôsơlơvăng
lùi lại một bước, bẻ khúc tay kêu răng rắc.
- Không
làm thế được.
- Có gì
đâu, cứ việc cầm búa mà nện cho đinh ăn phập vào tấm ván mà!
Điều đối
với Giăng VanGiăng thật giản dị thì Phôsơlơvăng lại thấy dị thường. Giăng
VanGiăng đã từng gặp nhiều khúc eo nguy hiểm hơn. Đã ở tù thì ai cũng biết cái
nghệ thuật tài tình là thu mình cho lọt tất cả những khe hở để mà trốn thoát.
Kẻ tù nhân bao giờ cũng mong vượt ngục, cũng như người ốm tất gặp lúc lên cơn,
một là sống hai là chết. Vượt ngục, tức là khỏi bệnh này. Muốn khỏi bệnh thì
làm gì chẳng phải làm? Để người ta đóng đinh lên quan tài mình nằm, rồi để
người ta khuân đi như khuân một kiện hàng, sống khá lâu trong cái hòm kín mít,
thở trong một nơi không có không khí, biết cách hà tiện hơi thở hàng mấy giờ
liền, biết cách chịu ngạt mà không chết; đấy là tất cả tài nghệ não lòng của
Giăng VanGiăng. Nhưng một cái áo quan đựng một người sống, mưu mẹo của một tù
nhân khổ sai cũng là mưu mẹo của một vị hoàng đế. Nếu tin lời linh mục Ôtstanh
Catstilêgiô, đây là cái mẹo của Sáclơ Canh dùng sau khi ông đã thoái vị để gặp
lại một lần cuối cùng La Pôlômbơ: bằng cách ấy người ta đã đưa nàng kia vào
trong tu viện Xanh Giuyt, rồi lại đưa ra.
Phôsơlơvăng
đã hơi hoàn hồn, ông nói:
- Làm thế
nào để thở được?
- Tôi thở
được.
- Trong
cái hòm ấy à? Tôi chỉ nghĩ đến cũng đủ chết ngạt rồi.
- Chắc là
bác có mũi khoan; bác khoan cho tôi mấy lỗ nhỏ quanh chỗ mồm và lúc đóng ván
thiên, bác chớ đóng khít quá.
- Được,
thế nhỡ bác ho hay hắt hơi thì sao?
- Đã đi
trốn thì không ho, cũng không hắt hơi.
Giăng
VanGiăng lại nói thêm:
- Bác ạ,
ta phải nhất quyết đi thôi: một là bị bắt ở đây hai là phải chui vào xe tang mà
ra.
Chắc ai
cũng nhận thấy giống mèo ưa cái thú dừng lại quẩn quanh giữa hai cánh cửa hé
mở. Ai chả bảo con mèo thì mày vào đi. Người cũng vậy, có những kẻ đứng trước
một khó khăn vừa chợt tới thì cũng hay lưỡng lự giữa hai thái độ, để đến nỗi có
khi số mệnh chợt ấp xuống nghiền nát mình và kết thúc sự kiện. Những kẻ quá
thận trọng, mặc dù cẩn thận như mèo và chính vì họ là mèo, đôi khi gặp nguy
hiểm hơn là những kẻ táo bạo. Phôsơlơvăng thuộc vào hạng người hay lưỡng lự như
thế. Nhưng dù sao, sự gan dạ của Giăng VanGiăng cũng thắng được ông. Ông lầm
bầm:
- Ngoài
cách ấy cũng không còn cách nào khác.
Giăng
VanGiăng lại nói:
- Tôi chỉ
ngại có một điều là ra ngoài nghĩa địa không biết công việc sẽ thế như nào.
- Ấy, cái
ấy tôi lại không lo. Nếu bác biết cách nằm trong quan tài vô sự, thì tôi, chắc
chắn là tôi sẽ lôi được bác lên khỏi huyệt. Cái lão đào huyệt, tôi quen thân,
lúc nào cũng say bí tỉ. Lão Métchiên ấy mà. Lão đào huyệt bỏ người chết trong
huyệt mà tôi thì tôi bỏ lão đào huyệt trong túi tôi. Công việc thế nào, để tôi
nói bác rõ. Đến nghĩa trang lúc sắp tối, khoảng bốn mươi nhăm phút trước khi
nghĩa trang đóng cổng. Xe tang đi đến tận huyệt; việc của tôi là phải đi theo
xe. Tôi sẽ bỏ túi một cái búa, một cái đục và một cái kìm. Lúc xe đỗ, bọn phu
đòn lấy thừng buộc quan tài lại, hạ bác xuống huyệt. Linh mục cầu kinh, làm
dấu, rẩy nước thánh rồi chuồn. Thế là chỉ còn tôi với lão Métchiên. Ấy, bạn nối
khố đấy nhé. Chỉ có hai điều, một là hắn say túy lúy, hai là không say. Không
say thì tôi chỉ bảo: “Này, quán Bông-quăng còn mở đấy, ra làm một tợp đi”. Thế
là cứ việc kéo hắn đi, rồi đổ rượu cho hắn say. Lão Métchiên thì chỉ một chốc
là say mềm vì lúc nào hắn cũng đã sẵn ngà ngà. Lúc ấy tôi sẽ đặt hắn nằm xuống
gầm bàn rồi lấy tấm thẻ của hắn để vào nghĩa trang một mình. Thế là chỉ còn một
mình tôi với bác. Còn nếu hắn đã say sẵn thì chỉ việc bảo: “Thôi, cút đi, không
ai khiến, mình làm hộ cho”. Hắn đi là tôi cứ việc kéo bác ở dưới hố lên.
Giăng
VanGiăng chìa bàn tay ra, ông Phôsơlơvăng ôm chầm lấy với tất cả tấm tình nồng
nàn, chất phác.
- Cứ thế,
bác Phôsơlơvăng nhé. Rồi ổn cả.
Phôsơlơvăng
nghĩ thầm:
- Miễn là
không gặp trở ngại gì. Không thì nguy lắm.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 8 - Chương 5
NGHIỆN RƯỢU CHƯA ĐỦ ĐỂ TRỞ THÀNH BẤT TỬ
Ngày hôm
sau, vào lúc xế chiều, khách bộ hành thưa thớt trên đại lộ hạt Mennơng ngả mũ
chào một chiếc xe tang kiểu cũ kỹ. Xe chạm trổ những đầu lâu, xương ống chân và
những giọt lệ. Trong xe, đặt một cái quan tài phủ chăn trắng có một chữ thập
đen lớn nằm dài trông như một xác chết, tay buông thõng. Theo sau là một cái xe
song mã, có một linh mục bận áo lễ ngắn và một chú bé giúp lễ đội mũ chụp màu
đỏ. Hai người phu đòn bận đồ xám viền đen đi hai bên chiếc xe tang. Phía sau là
một ông già mặc quần áo thợ đi khập khiễng. Đám tang đi về phía nghĩa trang
Vôgira.
Ở túi áo
ông già, thấy thò ra một cái cán búa, một lưỡi đục và hai cái kìm.
Nghĩa
trang Vôgira là một nghĩa trang đặc biệt ở Paris. Nó có những tập tục riêng,
lại có hai cổng, một cổng cho xe đi và một cổng xép. Trong xóm các cụ già cứ
quen lối gọi cũ là cổng ngựa và cổng bộ. Các mẹ trong nhà tu Pơti Pichpuýt được
chôn ở một khu riêng, chôn vào buổi tối. Khu này nguyên trước thuộc về giáo hội
của họ. Bởi vậy, những phu đào huyệt ở nghĩa trang này có công việc phải làm
thêm vào chiều tà nếu là mùa hè, vào đêm nếu là mùa đông, theo một kỷ luật
riêng. Các nghĩa trang ở Paris thời ấy, cứ tối đến là đóng cổng; đấy là lệnh
chung của thành phố nên nghĩa trang Vôgira cũng phải tuân theo. Cái cổng ngựa
và cổng bộ đều là cổng sắt, giáp liền với nhau. Kế liền đó là một cái chòi do
nhà kiến trúc Peronnê xây nên và để cho bác gác cổng ở. Cứ lúc mặt trời khuất
sau nóc nhà điện Anhvalit thì cánh cổng sắt lại nhất thiết quay rít trên bản
lề. Chẳng may lúc ấy có bác phu đào huyệt nào còn vẩn vơ trong nghĩa trang thì
chỉ có một cách duy nhất để ra ngoài là trình tấm thẻ do cơ quan trông nom việc
tang ma của nhà nước cấp phát. Có một cái hòm như hòm thư treo ở cửa sổ nhà bác
gác. Bác phu cứ việc ném cái thẻ của mình vào hòm, tức thì bác gác nghe thấy,
bác kéo cái dây và cổng bộ từ từ mở. Nếu có ai quên thì bác gác đôi khi đã vào
ngủ liền trở dậy ra nhận mặt, rồi mở khóa cổng. Người phu quên thẻ được ra
nhưng phải nộp mười lăm phơrăng tiền phạt.
Cái nghĩa
địa này với những cái độc đáo ngoại lệ không khớp với cảnh cân đối hành chính
cho nên người ta đã hủy bỏ nó ít lâu sau 1830. Nghĩa địa Môngpácnaxơ, cũng gọi
là nghĩa địa Nam thay thế cho nó và thừa hưởng cái quán rượu nổi tiếng sát vách
với nghĩa địa Vôgira. Quán rượu này trên mái có một quả thị vẽ sơn dầu trên một
tấm ván. Quán này quay một phía ra các dãy bán rượu, một phía ra các hàng mồ
mả, với mộ cái biển: Quán Bông-quăng (Auboncoing: quả mộc qua ngon).
Nghĩa
trang Vôgira có thể gọi là một nghĩa trang đã đến lúc tàn, không hợp thời nữa.
Cỏ hoa đã chết từ lâu chỉ còn rêu phong lan dần khắp chỗ. Những người có của
không thiết gì được chôn cất ở Vôgira. Vì nó mang cái dáng kẻ nghèo. Nghĩa
trang Pe Lasedơ thì nói gì! Được chôn ở Pe Lasedơ chẳng khác gì trong nhà có
bàn ghế gụ. Thanh lịch gặp nhau ở đấy. Còn nghĩa trang Vôgira là một nơi cổ
kính; vườn trồng theo kiểu cũ. Đường đi thẳng tắp, trồng nào hoàng dương, nào
tùng, nào bách, nào ô rô, với những ngôi mộ cổ dưới bóng thông già, cỏ mọc cao
vút. Chiều đến thì phong cảnh thê lương, nổi lên những đường nét vô cùng ảm
đạm.
Lúc xe
tang phủ khăn trắng có chữ thập đen đi vào đại lộ nghĩa trang Vôgira thì mặt
trời chưa khuất hẳn. Người khập khiễng sau xe tang chính là Phôsơlơvăng.
Việc chôn
cất mẹ Cơruyxiphixiông nơi hầm mộ dưới bàn thờ, việc đưa Côdét ra ngoài, việc
Giăng VanGiăng trốn vào nhà xác, tất cả mọi việc đều trôi chảy, không gặp khó
khăn gì.
Cũng nói
qua rằng việc chôn cất mẹ Cơruyxiphixiông dưới bàn thờ của tu viện, chúng tôi
coi là một điều vi phạm nhỏ thôi. Đây là một tội lỗi có vẻ như một nhiệm vụ.
Các bà nữ tu sĩ đã làm như vậy không những không chút xao xuyến gì mà lại còn
như được lương tâm tán thưởng. Trong nhà tu kín, cái gọi là “Chính phủ” thì chỉ
là một sự can thiệp vào quyền hành nhà tu, một sự can thiệp khó thừa nhận. Quy
tắc trước đã, còn luật pháp thì sau hẵng hay. Các ngươi hãy cứ làm ra luật này,
luật khác tha hồ, nhưng hãy giữ những luật pháp ấy cho các người. Thuế qua
đường trả cho nhà vua chỉ là phần thừa thuế nộp cho Chúa Trời. Một nguyên thủ
không có nghĩa lý gì đối với một nguyên tắc.
Phôsơlơvăng
kéo lê chân theo xe tang, lòng khấp khởi mừng thầm. Cả hai điều bí mật, cả hai
vụ mưu mô song sinh – một về các mẹ, một về Giăng VanGiăng, một mang quyền lợi
nhà tu, một chống lại kỷ luật nhà tu, - cả hai đều thành công. Giăng VanGiăng
thì bình tĩnh, cái bình tĩnh mãnh liệt ấy lan sang lão làm vườn. Phôsơlơvăng
chắc mẩm sẽ thành công đến đầu đến đũa. Chỉ còn một vài việc dễ như trở bàn
tay. Hai năm nay, ông đã từng làm cho Métchiên say rượu đến hàng chục lần, -
cái lão má phị, lành như cục đất, làm gì mà chẳng được, thật dễ như bỡn. Lừa
thế nào mà Métchiên chẳng mắc. Như xỏ mũi mà dắt. Lão Phôsơlơvăng hoàn toàn yên
tâm.
Lúc đám
tang vừa rẽ vào đại lộ nghĩa trang. Phôsơlơvăng sướng quá, nhìn xe tang rồi xoa
xoa hai bàn tay thô kệch, nói một mình:
- Thật là
một trò hề!
Bỗng xe
dừng lại, đã đến cổng. Phải trình giấy tờ. Người trông nom đám ma nói gì với
bác gác cổng. Trong lúc hai người nói chuyện với nhau, đám tang dừng lại một,
hai phút, bỗng có ai, một người lạ mặt, tiến đến đứng ngay sát Phôsơlơvăng,
đằng sau xe tang. Trông như một người thợ, hắn mặt một cái áo có túi to tướng,
tay xách một cái cuốc.
Phôsơlơvăng
nhìn kẻ lạ mặt, hỏi:
- Bác là
ai nhỉ?
Người kia
trả lời:
- Kẻ đào
huyệt.
Phôsơlơvăng
sửng sốt như kẻ vừa sống sót sau khi bị đạn đại bác bắn trúng ngực.
- Đào
huyệt à?
- Phải.
- Bác ấy
à?
- Phải.
- Ông
Métchiên cơ mà!
- Trước
thì thế.
- Trước
là thế nào?
- Ông ấy
chết rồi còn đâu!
Phôsơlơvăng
ngờ gì thì ngờ, chứ không thể ngờ được rằng một kẻ chôn người mà cũng phải
chết. Ấy, nhưng sự thật cứ thế; kẻ đào huyệt cũng chết như ai. Đào hố cho người
mãi, rồi cũng đến lúc mở cái hố cho mình.
Phôsơlơvăng
há hốc mồm. Ông cố lắp bắp mấy tiếng khe khẽ:
- Không
thể như thế!
- Thế mà
như thế đấy.
- Nhưng
ông Métchiên mới là người đào huyệt cơ mà?
Lão
Phôsơlơvăng gắng gượng nói, gần như đuối hơi.
- Sau hoàng
đế Napoleon là vua Lui XVIII. Sau Métchiên là Gơribiê. Bác nhà quê này, tôi là
Gơribiê.
Mặt
Phôsơlơvăng xám xanh lại; ông nhìn kỹ anh chàng Gơribiê. Một người cao lêu
nghêu gầy gò, xanh mét, thật là hình ảnh của tang ma. Hắn có vẻ là một người
thầy thuốc bất thành tài xoay ra đào huyệt.
Phôsơlơvăng
bật cười:
- Lắm
việc quái lạ thật. Lão Métchiên mà cũng chết. Lão Métchiên chết nhưng lão Lơnoa
vạn tuế! Bác biết lão Lơnoa là cái gì không? Cái vò vang đỏ thượng hảo hạng!
Cái vò rượu của Xuyrexnơ chính cống của Paris. Ái chà! Lão Métchiên chết rồi à.
Kể cũng tiếc. Lão biết cái thú sống ở đời lắm. Mà này bác, bác hẳn cũng biết
cái thú nhậu nhẹt phải không? Chốc, hai chúng mình làm một hớp rượu nhé.
Người kia
trả lời:
- Tôi
chân học trò, tôi đã học hết năm thứ tư. Tôi không uống rượu bao giờ.
Cái xe
tang lại từ từ lăn bánh trên con đường lớn trong nghĩa trang.
Phôsơlơvăng
đi chầm chậm lại. Ông càng khập khiễng, vì lòng rối như tơ vò, chứ đâu chỉ vì
chân mang tật.
Anh chàng
Gơribiê đi phía trước.
Phôsơlơvăng
lại ngắm kỹ cái thằng cha Gơribiê bất ngờ một lần nữa.
Hắn thuộc
loại người còn trẻ nhưng đã có vẻ già, gầy nhưng rất khỏe.
Phôsơlơvăng
gọi:
- Ông bạn
ơi!
Anh chàng
quay lại:
- Tôi là
người đào huyệt của nhà tu đây.
- Bạn
đồng nghiệp của tôi – hắn đáp.
Tuy ông
Phôsơlơvăng không có học thức nhưng ông rất tinh ý. Ông biết ngay là gặp phải
một tay cừ khôi, một anh chàng lém miệng.
Ông lầm
bầm:
- Thế là
lão Métchiên chết rồi.
Anh chàng
kia trả lời:
- Chết
đứt rồi. Chúa Trời đã tra sổ thiên tào, đến lượt Métchiên mà lị. Lão Métchiên
chết rồi.
Phôsơlơvăng
nhắc lại như cái máy:
- Chúa
Trời…
Anh kia
dõng dạc:
- Chúa
Trời. Các nhà triết học thì gọi là Thượng đế, các người Giacôbanh gọi là Đấng
cao cả.
Phôsơlơvăng
ấp úng:
- Chúng
mình làm quen với nhau đi thôi chứ!
- Quen
rồi còn gì. Ông là một nông dân. Tôi thì là người Paris.
- Chưa
cùng nhau uống chén rượu thì gọi là quen biết làm sao được. Có cạn chén mới cạn
lòng. Rồi bác cùng đi với tôi nhé. Chắc bác chẳng tiện từ chối.
- Nhưng
làm xong việc đã.
Phôsơlơvăng
nghĩ thầm: chết bỏ mẹ rồi.
Chỉ còn
một vài vành bánh xe nữa là đến con đường nhỏ đi vào khu mộ các mẹ.
Anh chàng
Gơribiê nói:
- Bác ạ,
tôi phải nuôi bảy đứa nhỏ. Chúng nó phải ăn, tất mình phải nhịn rượu.
Thế rồi
hắn nói thêm, ra vẻ đắc ý vì đã tìm được một câu nói ý vị:
- Chúng
nó no thì tôi khát, no, khát thù nhau.
Xe tang
lượn quanh lùm cây trắc bá, rời con đường lớn rẽ vào con đường nhỏ, rồi vào một
khu những mộ đất đầy cỏ dại. Đã đến sát huyệt.
Phôsơlơvăng
đi chậm lại, nhưng không sao giữ cái xe đi chậm lại được. Cũng may, đất thì
xốp, mưa lại nhiều nên bánh xe quánh những bùn, nặng nhọc lắm mới tiến lên
được.
Ông già
đến gần anh chàng kia, thì thầm:
- Có rượu
Acgiăngtơi ngon lắm.
- Cái bác
nhà quên này! Xin nhớ cái nghề chôn người này không phải là nghề tôi nhé. Ông
cụ nhà tôi trước gác cổng ở trường thiếu sinh quân. Ông cụ định cho tôi theo
nghề văn. Nhưng chẳng may, nhà gặp nạn, bị thua lỗ ở Sở giao dịch. Thế là tôi
bỏ nghề văn, nhưng vẫn viết mướn.
Phôsơlơvăng
thấy có cành cây mỏng mảnh có thể cứu mình, ông bám lấy:
- Thế bác
không phải làm nghề đào huyệt à?
- Cả hai;
ai cấm tôi kiêm nhiệm cả hai?
Ông
Phôsơlơvăng không hiểu “kiêm nghiệm” là gì. Ông nói:
- Đi uống
rượu đi.
Cần phải
chú ý điều này. Mặc dù Phôsơlơvăng đang rối bời cả ruột gan, khi ông rủ anh chàng
kia đi uống rượu, ông không nói rõ một điều là ai sẽ trả tiền. Cứ thói thường
thì Phôsơlơvăng là người rủ đi, còn Métchiên thì trả tiền. Bây giờ thì khác
rồi. Người đào huyệt mới gây ra một tình thế mới do đó cần thiết phải mời rượu
hắn. Nhưng tuy đứng ra mời, Phôsơlơvăng cứ lờ tít cái khoản ai trả tiền đi. Xúc
cảm thì xúc cảm, ông vẫn không thiết bỏ tiền ra trả bữa rượu.
Gơribiê
nói tiếp, miệng mỉm cười ra vẻ đàn anh:
- Phải ăn
đã chứ. Tôi xin vào kế vị cụ Métchiên. Khi đã được cắp quyển sách đế trường thì
phải sống cho ra nhà triết học chứ. Ngoài việc viết mướn, tôi lại bắt cánh tay
làm việc nữa. Cửa hàng viết của tôi ở ngoài chợ phố Xevơrơ. Bác biết chứ? Chợ Ô
ấy mà. Các chị nấu bếp ở Hội Hồng thập tự, chị nào cũng nhờ tay tôi cả. Các chị
nhờ tôi thảo thư tình gửi cho các chú quyền ở doanh trại. Sáng viết thư tình,
chiều đào huyệt. Đời là thế đấy, bác ạ.
Xe tang
vẫn tiến, Phôsơlơvăng vô cùng lo lắng, nhìn tứ phía chung quanh. Mồ hôi nhỏ
giọt từ vầng trán.
Anh chàng
kia lại tiếp:
- Thế
nhưng bắt cá hai tay cũng không xong. Một là chọn quản bút, hai là cái cuốc.
Cái cuốc làm bàn tay tôi hư đi.
Xe tang
dừng lại.
Chú bé
giúp lễ xuống trước, linh mục xuống sau.
Bánh xe
trước đã leo lên đống đất sát liền ngay miệng hố trống hốc.
Phôsơlơvăng
thất kinh, nhắc lại một câu nói trước:
- Thật là
một trò hề!
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 8 - Chương 6
GIỮA BỐN TẤM VÁN
Ai nằm
trong quan tài, ta đã biết: Giăng VanGiăng.
Giăng
VanGiăng xoay xở để cố sống trong quan tài; ông thở tạm được.
Thật là
lạ lùng, khi lòng người ta đã yên tĩnh thì mọi việc khác đều trôi chảy dễ dàng.
Tất cả những mưu chước mà Giăng VanGiăng nghĩ ra, đến nay đều thực hiện xuôi
thuận cả; từ hôm qua, mọi việc đều không vấp váp. Cũng như Phôsơlơvăng, ông
trông ở lão Métchiên. Ông không nghi ngại gì về sự kết thúc cả. Hoàn cảnh thì
vô cũng gay go mà tâm hồn ông lại vô cũng yên tĩnh.
Bốn tấm
ván tỏa ra một thứ yên lành khủng khiếp. Giăng VanGiăng nằm yên lặng, tưởng như
phảng phất một giấc yên nghỉ cuối cùng đang thấm dần vào người.
Nằm dưới
đáy quan tài, ông đã theo dõi được tất cả những diễn biến của tấn kịch kinh
khủng mà ông đóng cùng với cái chết.
Sau khi
Phôsơlơvăng đóng tấm ván thiên, Giăng VanGiăng cảm thấy người ta nhấc bổng mình
lên, rồi lăn đi. Lúc ít xóc hơn, tức là xe đã bỏ con đường đá mà đi vào con
đường đất, nghĩa là từ những phố nhỏ, rẽ ra đại lộ. Lúc nghe tiếng ù ù, ông
đoán là người ta qua cầu Austéclit. Lần nghỉ đầu tiên là đã đến nghĩa trang;
lần nghỉ thứ hai, ông tự bảo: Huyệt đây rồi.
Bỗng ông
nghe có bàn tay giữ lấy quan tài, rồi một tiếng cọ soàn soạt vào ván; ông biết
người ta buộc dây thừng quanh quan tài để dòng xuống hố.
Thế rồi
ông choáng váng cả người.
Có lẽ bọn
phu đòn và người đào huyệt đang thòng dây hạ huyệt, đầu đưa xuống trước. Lúc đã
thấy mình nằm thẳng lại và nằm yên chỗ, ông mới lại tỉnh táo như trước. Đến đáy
huyệt rồi.
Ông cảm
thấy lạnh lạnh.
Một giọng
nói trịnh tọng và lạnh toát ở trên. Ông nghe đọc thong thả, rõ mồn một những
tiếng Latinh mà không hiểu nghĩa:
- Qui
dormiunt in terroe pulvere, evigilabunt; alit in vitam oeternam, et alii in
opprobrium, ut videant semper (Để luôn thấy rằng những ai ngủ trong bụi đất sẽ
thức dậy, có người được hưởng sự sống vĩnh cửu và có kẻ bị sỉ nhục hổ thẹn).
Một tiếng
trẻ con nói:
- De
profundis (Từ vực sâu).
Tiếng nói
trịnh trọng tiếp:
- Requiem
oeternam dona ei Domine (Xin Chúa cho họ được nghỉ ngơi đời đời).
Tiếng nói
trẻ con trả lời:
- Et lux
perpetua luce tiei (Và được sự sáng chiếu soi mãi mãi).
Sau đó,
ông nghe thấy trên tấm ván thiên mấy tiếng lách tách như hạt mưa rơi. Có lẽ là
nước thánh.
Ông nghĩ
bụng: “Sắp xong rồi. Kiên nhẫn chút nữa thôi. Linh mục sắp về rồi. Bác
Phôsơlơvăng sẽ dẫn Métchiên đi uống rượu. Còn lại một mình mình. Thế rồi bác ta
trở lại một mình và ta sẽ chui ra. Chừng một tiếng đồng hồ nữa thôi”.
Cái giọng
trầm trầm lại cất lên:
-
Requisecat in pace (Cầu hồn yên nghỉ).
Và tiếng
chú bé:
- Amen.
Giăng
VanGiăng lắng tai nghe, thấy cái gì như bước chân xa dần, xa dần. Ông nghĩ
thầm:
- Họ đi
cả rồi. Còn trơ một mình mình.
Bất thần,
ông nghe thấy ngay trên đầu một tiếng như sét đánh.
Đó là một
xẻng đất hắt lên quan tài.
Rồi một
xẻng thứ hai rơi xuống.
Một cái
lỗ thông hơi bị lấp kín.
Xẻng đất
thứ ba rơi xuống.
Rồi xẻng
thứ tư.
Có những
thế lực ghê gớm thắng cả con người dũng mãnh nhất. Giăng VanGiăng ngất đi.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 8 - Chương 7
NGUỒN GỐC THÀNH NGỮ: KHÔNG ĐỂ MẤT THỂ
Đây là
việc xảy ra bên trên chiếc quan tài của Giăng VanGiăng.
Lúc xe
tang đã đi xa và thầy trò ông linh mục cũng đã lên xe đi rồi, Phôsơlơvăng vẫn
không rời mắt nhìn anh chàng Gơribiê. Ông thấy hắn cúi xuống, nắm lấy cán xẻng,
lưỡi xẻng đã cắm phập vào ụ đất.
Thế là
Phôsơlơvăng có một quyết định tối hậu. Ông đứng chắn giữa hắn ta và lỗ huyệt,
tay khoanh lại và nói:
- Tôi trả
tiền mà!
Anh chàng
kia ngạc nhiên nhìn ông trả lời:
- Cái gì
cơ?
Phôsơlơvăng
nhắc lại:
- Tôi trả
tiền mà!
- Tiền
gì?
- Tiền
rượu.
- Rượu
nào?
- Rượu
Acgiăngtơi.
- Rượu
Acgiăngtơi ở đâu?
- Ở quán
Bông-quăng.
- Thôi xê
ra.
Hắn hắt
một xẻng đất xuống quan tài.
Một tiếng
đùng đục ở dưới quan tài vọng lên. Phôsơlơvăng lảo đảo, suýt ngã chúi xuống
huyệt. Ông thét lên, tiếng khò khè như tắc thở:
- Bác ơi,
quán Bông-quăng sắp đóng cửa rồi.
Anh chàng
kia lại xúc đất vào xẻng. Phôsơlơvăng nói tiếp:
- Tôi trả
tiền.
Rồi nắm
lấy tay hắn ta:
- Bác ơi,
bác nghe tôi. Tôi là người đào huyệt ở nhà tu. Tôi đến giúp bác một tay. Lấp
cái huyệt này, để đến tối. (Không biết uống vào hắn có say không chứ?).
Anh chàng
kia bảo:
- Cái bác
này, nếu nhất định bắt uống thì uống, được. Nhưng chốc hẵng hay. Làm xong việc
đã. Chưa xong thì chưa uống.
Thế rồi
hắn vung xẻng đất. Phôsơlơvăng giữ tay hắn lại:
-
Acgiăngtơi thượng hảo hạng.
- Úi chà!
Cái bác này chỉ có mỗi nghề kéo chuông. Boong binh boong, bác chỉ biết từng ấy
tiếng, bác đến rầy rà.
Rồi hắn
hất xẻng đất thứ hai.
Phôsơlơvăng
lâm vào tình trạng mình không còn biết mình nói gì nữa.
- Cứ đi
đi, đã bảo tôi trả tiền mà lị.
- Phải
cho trẻ ngủ đã.
Hắn hắt
xẻng thứ ba.
Rồi hắn
lại cắm xẻng xuống đất, nói thêm:
- Bác
xem, đêm nay trời rét lắm; mình mà cứ bỏ mặc bà ấy ở đây không đắp cho bà ấy,
rồi bà ấy oán chết.
Lúc ấy
hắn cúi xuống xúc đất, túi áo hắn mở toang hoác.
Mắt
Phôsơlơvăng đang lơ láo bỗng dán chằm chằm vào cái túi áo anh chàng Gơribiê.
Mặt trời
chưa khuất hẳn! Hãy còn chút ánh sáng có thể nhận được vật gì trăng trắng trong
cái túi đang há hốc miệng.
Con mắt
Phôsơlơvăng ngời hẳn lên, như tất cả cái tinh anh của ông lão nông dân vùng
Picacđi đều tập trung vào đấy. Một ý nghĩ vừa thoáng qua.
Ông thò
tay vào túi hắn móc cái vật trăng trắng ở tận tít dưới đáy; hắn mải mê với xẻng
đất không hay biết gì hết!
Anh chàng
trút xẻng đất thứ tư xuống hố.
Lúc hắn
quay lại để xúc xẻng thứ năm thì Phôsơlơvăng điềm tĩnh nhìn hắn và bảo:
- Này bác
tân binh kia, có mang thẻ không đấy?
- Thẻ gì.
- Mặt
trời sắp lặn rồi.
- Lặn thì
lặn, mặt trời cứ việc trùm chăn mà đi ngủ đi.
- Cổng
nghĩa trang sắp đóng rồi đấy.
- Thế thì
sao?
- Bác có
mang thẻ không?
- À, cái
thẻ ấy à?
Hắn lục
túi áo.
Lục một
túi, rồi lục hai túi. Cả túi ghi lê nữa; cái thì xem xét kỹ lưỡng, cái thì lộn
hẳn ra. Hắn nói:
- Không,
không mang. Quên rồi chắc.
- Mười
lăm phơrăng phạt thôi.
Anh chàng
xanh mặt lại. Những người nước da tái nhợt, khi họ tái mặt thì màu da hóa xanh
lục.
Hắn kêu
lên:
- Trời
Ngọc hoàng thượng đế, nhật nguyệt hai vầng ơi! Mất toi mười lăm phơrăng phạt
rồi còn gì!
- Ba đồng
một trăm xu! – Phôsơlơvăng nói.
Anh chàng
buông rơi cái xẻng.
Bây giờ
mới đến lượt Phôsơlơvăng lên nước. Ông nói:
- Này chú
lính mới, chớ có thất vọng. Chả nên tự tử chú ạ. Chả nên lợi dụng cái hố này.
Mười lăm phơrăng chỉ là mười lăm phơrăng. Vả cũng còn có cách khỏi phải nộp
phạt. Tôi thì đã già, bác thì mới vào làm. Tôi biết đủ các cái mánh, cái khóe,
cái xoay, cái xở. Để tôi bảo giúp bác. Điều chắc là bây giờ mặt trời sắp lặn,
mặt trời đã xuống đến mái điện Anhvalit, chỉ năm phút nữa là nghĩa trang đóng
cổng.
- Đúng
thế.
- Năm
phút thì lấp thế đếch nào được, sâu bỏ mẹ ra ấy. Lại còn phải chạy từ đây ra
cổng cho kịp.
- Đúng
thế.
- Thế là
cứ việc nộp phạt mười lăm phơrăng.
- Mười
lăm phơrăng.
- Nhưng
vẫn còn thì giờ… Bác ở đâu nhỉ?
- Cách
cửa ô hai bước. Đi mất mười lăm phút. Phố Vôgira, số nhà 87.
- Đủ thì
giờ để vắt chân lên cổ mà chạy thì kịp ra cổng.
- Phải
rồi.
- Ra khỏi
cổng, bác phóng về nhà, lấy tấm thẻ rồi trở vào đây, lão gác sẽ mở cổng. Có thẻ
thì chả phải nộp gì hết. Thế là bác tha hồ mà đắp đất cho người chết. Còn tôi,
tôi canh xác chết hộ bác, nhỡ nó chạy trốn thì phiền.
- Thật
bác cứu sống tôi.
- Thôi
cút cho nhanh.
Anh chàng
vô cùng biết ơn, rung rung bàn tay ông Phôsơlơvăng rồi chạy biến.
Bóng hắn
khuất sau bụi rậm. Ông Phôsơlơvăng đợi đến lúc không còn nghe tiếng bước chân
nữa, mới cúi xuống huyệt khe khẽ gọi:
- Bác
Mađơlen ơi!
Không có
tiếng trả lời.
Phôsơlơvăng
rùng mình. Lão tụt vội xuống hố, nhảy lên phía đầu cái quan tài và hét lên:
- Bác có
đấy không?
Trong
quan tài, im lặng.
Phôsơlơvăng
run bắn lên đến không thở được nữa. Ông lấy cái đục và cái búa nậy tung nắp ván
thiên lên. Khuôn mặt Giăng VanGiăng mờ mờ trong bóng chiều tà, xanh nhợt, mắt
nhắm nghiền.
Tóc ông
Phôsơlơvăng dựng đứng cả dậy. Ông đứng lên rồi khuỵu xuống, lưng tựa vào thành
hố, suýt gục xuống chiếc quan tài. Ông nhìn Giăng VanGiăng.
Giăng
VanGiăng nằm sóng sượt, im lìm, da tím lại.
Phôsơlơvăng
nói thầm, khe khẽ như một hơi thở:
- Thế là
bác ấy chết rồi.
Ông đứng
dậy, khoanh riệt hai tay lại đến nỗi nắm tay cụng vào vai rồi kêu lên:
- Đây tôi
cứu bác ấy như thế này đây.
Rồi ông
già chất phác nức nở. Ông nói một mình – nói một mình là một việc rất tự nhiên,
ai cho độc thoại là giả tạo, chính là nói bậy, những cơn xúc động mãnh liệt
thường tự thốt lên thành lời thành tiếng:
- Chỉ tại
lão Métchiên thôi. Tại sao lão ta lại chết đi, cái lão ngốc ấy? Chưa chi đã vội
toi xác, ai khiến? Bác nằm trong quan tài rồi. Người ta đã khiêng bác ra đây,
đủ lễ rồi. Thế là hết. Đấy, đời là thế, còn có nghĩa lý gì. Trời ơi, bác
Mađơlen chết rồi. Thế còn con bé biết làm thế nào? Nói làm sao với bà hàng quả
ấy bây giờ? Một người như thế lại chết như thế, có thể thế được không hả trời?
Cứ nghĩ đến việc bác ấy chui xuống gầm cỗ xe ngựa! Bác Mađơlen ới, bác Mađơlen
ơi, tôi đã bảo là ngạt mất mà, bác có nghe tôi đâu, cái trò ác đã hoàn thành
đẹp đẽ thật. Bác ấy chết rồi. Không ai tốt bụng tốt dạ như bác ấy trong số
người nhân hậu của Chúa nhân từ. Còn đứa con bác. Thôi mình không về nhà đâu,
mình cứ ở đây. Mình đã làm một việc tai hại như thế! Thật là đứa già mà dại.
Nhưng làm sao mà bác ấy vào được nhà tu chứ? Bắt đầu từ ấy đấy. Ai lại làm thế
bao giờ! Bác Mađơlen ơi, bác Mađơlen ơi, ông Mađơlen ơi, ông thị trưởng ơi. Ông
ấy có nghe thấy gì đâu. Làm thế nào đây trời!
Ông
Phôsơlơvăng bứt đầu bứt tóc.
Phía xa
xa, trong lùm cây, có tiếng rít ken két. Cổng nghĩa trang đã đóng. Ông
Phôsơlơvăng cúi xuống nhìn Giăng VanGiăng, bỗng nảy người lên, lùi mãi về phía
sau, đến tận cuối huyệt. Hai con mắt Giăng VanGiăng mở trừng trừng nhìn ông.
Trông
thấy cái chết sợ thế nào thì trông thấy người sống lại cũng gần sợ như thế.
Phôsơlơvăng toàn thân cứng như đá, da tái xanh lại, mắt lấm la lấm lét nhìn.
Những xúc cảm mãnh liệt làm ông rối loạn cả tâm thần, ông không biết là ông
đang đứng trước người sống hay người chết. Ông nhìn Giăng VanGiăng đang nhìn
ông.
- Tôi vừa
thiếp đi.
Giăng
VanGiăng nói, rồi ngồi nhỏm dậy.
Phôsơlơvăng
ngã quị xuống:
- Lạy đức
mẹ đồng trinh! Bác làm tôi sợ quá.
Rồi ông
đứng dậy:
- Cảm ơn
bác, bác Mađơlen!
Giăng
VanGiăng chỉ ngất đi thôi. Ra ngoài hông khí ông hồi tỉnh dậy.
Sau cơn
khủng khiếp là nỗi vui tràn ngập. Cũng như Giăng VanGiăng, Phôsơlơvăng phải một
lúc mới hoàn hồn:
- Thế là
bác chưa chết. Bác tinh khôn thật. Gọi bác ghê lắm bác mới tỉnh lại đó. Lúc ấy
mắt bác nhắm nghiền, tôi bảo: bác bị chết ngạt rồi. Bác mà chết thật thì dễ tôi
phát điên cuống điên cuồng lên, điên vào loại phải cùm kia đấy. Tưởng đến phải
vào nhà thương điên thực sự. Bác mà chết thì không biết tôi sẽ ra sao. Còn con
bé cháu nữa. Nhà bà hàng hoa quả rồi chẳng hiểu xơ múi thế nào nữa. Vứt con bé
vào tay người ta, rồi bảo ông nó chết rồi. Rõ chuyện! Trời đất thiên địa ơi, rõ
chuyện! Bây giờ bác lại sống rồi, tuyệt quá!
Giăng
VanGiăng bảo:
- Tôi
thấy rét quá!
Câu nói
của Giăng VanGiăng làm Phôsơlơvăng trở về thực tế, thực tế khẩn cấp lúc ấy! Hai
người tuy đã hoàn hồn tỉnh lai, nhưng tâm thần vẫn còn rối loạn.
Phôsơlơvăng
nói to: - Ra ngay, mau lên.
Ông già
lục túi, lấy ra một cái bình:
- Làm một
tợp rượu đã.
Lúc nãy,
không khí làm cho Giăng VanGiăng hồi sinh, bây giờ thì men rượu làm cho ông
tỉnh táo ra. Ông uống một ngụm rượu mạnh, sức khỏe trở lại bình thường.
Ông chui
ra khỏi quan tài rồi cùng với Phôsơlơvăng đóng ván thiên lại.
Ba phút
sau hai người lên khỏi huyệt.
Phôsơlơvăng
vẫn điềm tĩnh, dáng điệu thong thả. Cổng nghĩa trang đã đóng. Không sợ anh
chàng Gơribiê trở lại nữa, cái “chú lính mới” ấy đang ở nhà, tha hồ mà tìm thẻ,
tìm làm sao được, nó đã nằm gọn lỏn trong túi áo Phôsơlơvăng. Không có thẻ,
đừng có hòng vào được nghĩa trang.
Phôsơlơvăng
cầm cái xẻng, còn Giăng VanGiăng cầm cuốc, hai người đắp mộ cho cái quan tài
rỗng.
Xong đâu
đấy, Phôsơlơvăng bảo Giăng VanGiăng:
- Thôi,
ta đi thôi. Tôi cầm cái xẻng, bác giữ lấy cái cuốc.
Trời tối
hẳn.
Giăng
VanGiăng cử động và bước đi thấy vướng ngượng. Nằm trong quan tài, ông hóa cứng
cả người và gần trở thành xác chết; ở giữa bốn tấm ván, các khớp xương dần dần
cứng lại như người chết thật. Phải làm tan băng giá nơi mộ địa.
Phôsơlơvăng
nói:
- Bác bị
cóng rồi… Tiếc rằng tôi thọt. Nếu không chúng ta lê gót đi đều.
- Úi chà,
đi mấy bước là dẻo chân ngay đấy mà!
Hai người
lại đi những con đường xe tang đi lúc nãy.
Đến cổng
sắt và cái chòi bác gác, Phôsơlơvăng tay cầm sẵn tấm thẻ của anh chàng kia,
liền bỏ thẻ vào hòm, bác gác chéo sợi dây và cổng mở. Hai người ra ngoài,
Phôsơlơvăng bảo:
- Thế là
tốt đẹp cả; mưu bác tài tình quá, bác Mađơlen ạ!
Họ vượt
qua cửa Vôgira thản nhiên, giản dị như ngàn người khác. Quanh nơi nghĩa trang,
còn giấy thông hành nào hơn là cái xẻng và cái cuốc.
Phố
Vôgira vắng tanh vắng ngắt.
Ông
Phôsơlơvăng vừa đi vừa ngước mắt nhìn dãy nhà bên phố. Ông nói:
- Bác
Mađơlen ạ, bác tinh mắt, bác chỉ cho tôi nhà số 87.
- Đây,
vừa đúng nhà này.
- Phố
chẳng có ai. Bác đưa tôi cái cuốc; đợi tôi vài phút nhé!
Phôsơlơvăng
vào căn nhà số 87, đi thẳng lên gác, ông cứ đi thẳng lên tận gác trên cùng; bản
năng bao giờ cũng chỉ cho người nghèo lên thẳng gác xép mái nhà. Trong bóng tối
mò mò, ông gõ vào cánh cửa một căn gác hẹp. Có tiếng trả lời:
- Cứ vào.
Tiếng ấy
là tiếng Gơribiê.
Phôsơlơvăng
đẩy cánh cửa. Cái gian gác xép này cũng giống như tất cả những gian buồng tồi
tàn khác, không có lấy một đồ đạc nào mà vẫn bề bộn. Một cái hòm đóng hàng, hay
là một cái áo quan – dùng làm tủ; một cái hũ đựng bơ dùng để chứa nước; một cái
ổ rơm làm giường; sàn gạch dùng thay bàn ghế. Trong một góc buồng, có một người
đàn bà gầy gò và trẻ con nhung nhúc một đống, ngồi yên trên một manh tải rách,
nguyên là mảnh thảm cũ. Tất cả căn buồng tồi tàn ấy còn giữ dấu vết một cuộc
xáo trộn bữa bãi. Tưởng như riêng nơi đây vừa trải qua một cơn động đất. Nắp
với vung bừa bãi; giẻ rách vứt tứ tung; bình xách nước thì vỡ, người đàn bà vừa
mới khóc, trẻ hình như mới phải một trận đòn. Đấy là những dấu vết của một vụ
soát xét kịch liệt, gắt gao. Rõ ràng là anh chàng đào huyệt đã ra công sức tìm
cái thẻ và đổ tội cho tất cả, từ cái bình nước đến người vợ. Hắn có vẻ tuyệt
vọng rồi.
Nhưng
Phôsơlơvăng còn mải nghĩ đến kết quả tốt đẹp của công việc, nên chẳng để ý gì
đến cái mặt không vui này của nó.
Ông bước
vào và nói:
- Tôi mang
trả bác cái cuốc với cái xẻng.
Gơribiê
sững sờ nhìn lão.
- Lão đấy
à?
- Sáng
mai, bác đến ông gác ở nghĩa trang mà nhận thẻ.
Rồi ông
đặt xẻng cuốc xuống sàn.
Gơribiê
hỏi:
- Thế là
thế nào?
- Nghĩa
là bác đánh rơi thẻ, lúc bác về tôi nhặt được ở dưới đất; tôi đã chôn xong
người ta. Đắp đất tử tế rồi. Tôi làm giùm bác, ngày mai bác ra ông gác mà lấy
thẻ, chả phải nộp phạt mười lăm phơrăng đâu. Chỉ có thế thôi, chú tân binh ạ.
Gơribiê
sung sướng quá reo lên:
- Cám ơn
bác quá. Lần sau để tôi trả tiền rượu.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 8 - Chương 8
VIỆC XÉT HỎI THÀNH CÔNG
Một tiếng
đồng hồ sau. Lúc trời đã tối như mực, hai người lớn và một đứa trẻ đến số nhà
62 phố Pichpuýt. Người cao tuổi nhất giơ cái búa, gõ cửa.
Ba người
ấy là Phôsơlơvăng, Giăng VanGiăng và Côdét.
Hai người
vừa đến nhà bà hàng hoa quả ở phố Sơmanhve, xin đón Côdét về, con bé gửi ở đấy
từ hôm qua. Suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ, con bé chẳng hiểu đầu đuôi câu
chuyện ra sao, nó chỉ ngấm ngầm run sợ. Cứ chưa khóc được là còn run. Nó chẳng
ăn uống gì mà cũng không chợp mắt lúc nào. Bà hàng hoa quả đáng mến hỏi hàng
trăm câu, nó cũng không trả lời một tiếng, nó chỉ rầu rĩ nhìn, lần nào cũng
thế. Nó chẳng hé răng để lộ một tí gì về những việc nó đã nghe thấy, trông thấy
từ hai hôm nay. Nó đoán là đang gặp một nạn lớn, trong thâm tâm, nó cảm thấy
rằng cần phải “ngoan”. Ai chẳng biết sức tác động vô cùng to lớn của mấy tiếng
nói như dọa nạt bên lỗ tai đứa bé con nhỏ dại chỉ biết có run sợ: “Chớ nói gì
hết”. Sợ thì câm. Vả lại, ai mà giữ bí mật giỏi hơn con trẻ!
Sau hai
mươi bốn giờ đồng hồ bi đát, khi nó lại được trông thấy Giăng VanGiăng, nó reo
lên một tiếng vui mừng. Những ai hay suy nghĩ, nghe tiếng reo vô cùng hớn hở ấy
sẽ đoán thấy đó là tiếng reo của kẻ vừa thoát khỏi vực sâu.
Phôsơlơvăng
là người của nhà tu nên hiểu hết các ám hiệu. Mọi cửa đều mở.
Thế là đã
giải quyết được hai việc ghê gớm: ra và vào.
Bác gác,
đã được dặn dò từ trước, mở cái cổng dành riêng cho người nhà, - cửa này thông
thẳng vào trong vườn, cách đây hai mươi năm, ở ngoài phố cũng trông thấy, nó ở
bức tường cuối sân, đối diện với cổng lớn. Người gác cổng đưa cả ba người ấy để
vào buồng khách đặc biệt mà tối hôm qua Phôsơlơvăng nhận mệnh lệnh của mẹ nhất.
Mẹ nhất
đợi họ, chuỗi hạt cầm trong tay. Một mẹ tư vấn, mặt phủ màn đứng bên cạnh. Một
ngọn nến lờ mờ tỏa ánh sáng yếu ớt.
Mẹ nhất
xem xét Giăng VanGiăng. Chả con mắt nào quan sát kỹ hơn con mắt nhìn xuống.
Xong bà
hỏi Giăng VanGiăng:
- Bác là
em à?
Phôsơlơvăng
trả lời:
- Bẩm
vâng ạ.
- Tên bác
là gì?
- Bẩm
Uyntim Phôsơlơvăng.
Ông ta
quả có một người em tên là Uyntim nay chết rồi.
- Bác ở
đâu?
Phôsơlơvăng
trả lời:
- Bẩm ở
Pichkinhi, gần Amiêng.
- Bao
nhiêu tuổi?
Phôsơlơvăng
trả lời:
- Bẩm năm
mươi ạ.
- Sinh
sống nghề gì?
Phôsơlơvăng
trả lời:
- Bẩm làm
vườn.
- Có
ngoan đạo không?
Phôsơlơvăng
trả lời:
- Bẩm
trong họ con, ai cũng ngoan đạo cả.
- Đứa bé
này là người nhà bác?
Phôsơlơvăng
trả lời:
- Bẩm mẹ,
vâng.
- Con bác
à?
Phôsơlơvăng
trả lời:
- Bẩm
cháu nội.
Mẹ tư vấn
khe khẽ bảo mẹ nhất:
- Bác ấy
ăn nói khá đấy ạ.
Giăng
VanGiăng chưa hề nói một lời.
Mẹ nhất
chăm chú nhìn Côdét rồi khẽ bảo bà mẹ bên cạnh:
- Ngày
sau, con bé này sẽ xấu xí.
Hai mẹ
thì thầm với nhau mấy phút trong góc phòng rồi mẹ nhất quay lại nói:
- Lão
Phôsơlơvăng ạ, kiếm một cái đai nhạc đầu gối nữa. Bây giờ cần hai cái.
Thế là
ngày hôm sau, người ta nghe thấy tiếng hai chiếc nhạc trong vườn. Các nữ tu sĩ
không thể không hé một góc tấm màn che mặt. Ở cuối vườn, dưới lùm cây, hai
người đàn ông đứng cạnh nhau đương đào đào xới xới; lão Phôsơlơvăng và một
người lạ. Một việc trọng đại. Không khí im bỗng xào xào những tiếng khẽ bảo
nhau: một người phụ việc làm vườn.
Các mẹ tư
vấn nói thêm: em trai lão Phôvăng.
Giăng
VanGiăng quả đã chính thức thụ chức: ông đeo một cái đai đầu gối bằng da và một
chiếc nhạc; ông đã là người của nhà tu. Tên ông là Uyntim Phôsơlơvăng.
Cái
nguyên nhân quyết định việc ông được vào làm ở nhà tu là câu nhận xét về Côdét
của mẹ nhất: con bé sẽ xấu xí.
Sau lời
dự đoán ấy, mẹ nhất tỏ lòng quyến luyến ngay con bé; bà cho nó ở cùng với bọn
trẻ làm phúc.
Việc ấy
chẳng có gì là khó hiểu cả. Vốn dĩ trong nhà tu không có gương soi những đàn bà
thì không cần gương cũng biết nét mặt mình. Những cô gái có nhan sắc thì khó
lòng mà tu được. Vốn từ xưa, càng xấu xí hơn là các cô xinh đẹp. Do đó là có sự
mến ưa đặc biệt những cô gái xấu xí.
Sau câu
chuyện lạ lùng trên, uy tín Phôsơlơvăng tăng lên nhiều lắm. Thắng lợi bề ba
mặt: Giăng VanGiăng cảm kích vì được lão cứu sống và cho nơi trú thân; Gơribê
thì tự bảo mình: nhờ lão mà ta thoát khoản phạt; nhà tu thì chôn cất được xác
mẹ Cơruyxiphixiông ở dưới bàn thờ, vừa trót lọt được vòng pháp luật vừa hợp ý
Chúa.
Một áo
quan có thi hài ở Pơti Pichpuýt, một áo quan rỗng ở nghĩa đại Vôriga. Trật tự
xã hội đã bị đảo lộn ghê gớm, nhưng không hay biết gì. Còn tu viện thì biết ơn
Phôsơlơvăng rất nhiều. Lão trở thành người phục vụ tốt nhất và người làm vườn
quý nhất! Lần Đức Tổng giám mục đến thăm tu viện ngay sau đó mẹ nhất đã kể
chuyện cho ngài nghe, thú tội thì ít mà khoe khoang thì nhiều. Đức Tổng giám mục
ở tu viện đã nói nhỏ với ý tán dương với ngài Đơ Latin, linh mục của đức ông
sau làm tổng giám mục Ranhxơ và giáo chủ. Sự khâm phục lão Phôsơlơvăng đi rất
xa, đến cả La Mã. Chúng tôi đã được đọc một lá thư nhỏ của Giáo hoàng Lêông XII
đương vị gửi cho một người bà con, sứ thần của Giáo hoàng ở Paris và cùng đội
tên Đơlagiăngga như ngài. Trong thư viết: “Hình như ở trong một cái tu viện ở
Paris có một lão làm vườn tuyệt tốt, một con người có thánh chất tên là
Phôvăng”. Những cái vinh quang kia, lão Phôsơlơvăng ở trong túp lều của lão
không hề hay biết gì. Lão vẫn ghép cây rẫy cỏ và che dưa, không biết gì về cái
tuyệt diệu và cái thánh chất của lão. Lão không biết gì về cái vinh dự của lão
cũng như con bò giống Đuyram hay Xuyray không hình dung được in trên tờ họa báo
“Tin tức Luân đôn” với lời chú thích: “Con bò đã được giải thưởng cuộc thi các
súc vật có sừng”.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 2 - CÔDÉT
QUYỂN 8 - Chương 9
NƠI CẤM ĐỊA
Ở nhà tu,
Côdét vẫn im lặng không nói hở điều gì.
Côdét một
cách tự nhiên tưởng mình là con gái Giăng VanGiăng. Nó chả biết gì hơn mà nói:
vả lại ví dụ nó có biết gì thì đố ai cạy răng nó ra được. Côdét cực khổ quá nên
cái gì nó cũng sợ, sợ cả nói, sợ cả thở. Nó đã từng thấy một lời nói cũng đủ
làm cả một trận sấm sét lôi đình đổ vào đầu nó. Từ ngày ở với Giăng VanGiăng,
nó mới bắt đầu hơi yên dạ. Nó cũng chóng quen với đời sống nhà tu. Nó chỉ tiếc
con Catơrin, nhưng không dám nói. Một hôm nó bảo Giăng VanGiăng: - Giá biết thế
này thì con đã mang nó theo.
Được ăn ở
trong nhà tu, Côdét phải mặc quần áo như các học sinh khác. Giăng VanGiăng xin
được phép mang bộ quần áo cũ của Côdét về nhà. Bộ ấy là bộ đồ tang đen nó mặc
hôm rời bỏ quán ăn Tênácđiê ra đi. Chưa cũ lắm. Giăng VanGiăng tìm ở đâu được
một cái vali, cốt để đựng bộ quần áo, đôi tất len với đôi giày. Ông bỏ trong
vali rất nhiều băng phiến và các thứ lá cây thơm chẳng thiếu gì ở các tu viện.
Ông để vali trên một cái ghế bên cạnh giường nằm, chìa khóa lúc nào cũng đeo
trên người.
Một hôm
Côdét hỏi ông:
- Bố ơi
cái hộp gì mà thơm thế?
Ông già
Phôsơlơvăng, ngoài cái tiếng tốt với mọi người như đã kể trên, mà chính ông
cũng không biết, còn được nhiều cái lợi khác: trước hết, lão thấy sung sướng
trong lòng; sau là nhờ có Giăng VanGiăng đỡ tay nên công việc nhẹ hẳn đi; sau
cùng, vốn nghiện thuốc lá, ngày nay lão hút gấp ba lần trước kia, mà khoái chá
hơn vô kể, vì tiền đã có ông Mađơlen trả.
Các bà
không thừa nhận cái tên Uyntim và gọi Giăng VanGiăng là lão Phôvăng kia.
Nếu các
bà có con mắt như con mắt của Giave, hẳn các bà rồi cũng nhận thấy rằng cứ khi
nào có việc hay ra phố mua thức gì dùng vào việc vườn tược thì bao giờ cũng lão
Phôsơlơvăng anh đi, lão Phôsơlơvăng già, lão Phôsơlơvăng có tật, lão què chân
ấy. Nhưng hoặc vì các bà mải nhìn lên Thượng đế, nên không có con mắt của người
thám tử, hoặc vì các bà thích rình mò nhau hơn, nên chẳng ai để ý đến việc ấy
cả.
Thực ra
Giăng VanGiăng cứ việc im tiếng, không động đậy thế mà tốt. Giave đã rình ở khu
ấy hơn một tháng trường.
Bây giờ,
cái nhà tu đối với Giăng VanGiăng như một hòn đảo, xung quanh là vực thẳm. Từ
nay, bốn bức tường là cả một thế giới. Trên đầu khoảng trời xanh khá rộng nên
lòng ông trong sáng; bên mình có Côdét nên ông thấy sung sướng.
Đời ông
lại bắt đầu êm ả.
Ông ở
chung với Phôsơlơvăng trong túp lều ở cuối vườn. Lều xây bằng vôi gạch vụn, năm
1845 hãy còn, gồm ba buồng, buồng nào cũng trống trơ chỉ có bốn bức vách.
Phôsơlơvăng nhất định nhường gian buồng to nhất cho Giăng VanGiăng, Vangiăng từ
chối thế nào cũng không được.
Trên
tường gian phòng ấy, ngoài hai cái đinh để treo cái dây buộc nhạc và cái sọt,
còn có một vật trang trí: đó là tờ tín phiếu của phe bảo hoàng hồi 1793, đóng
vào tường bên trên lò sưởi, nguyên văn ghi như sau:
Quân đội
công giáo hoàng gia
Theo chỉ
dụ hoàng thượng
Tín phiếu
mười đồng
Về quân nhu
cung cấp cho bộ đội
Thanh
toán ngày hòa bình
Đợt 3
STOFFET số 10390
Các tín
phiếu của quân Văngđêăng này đã được đóng trên tường do tay người làm vườn
trước, nguyên là lính suăng, hắn đã chết trong tu viện và Phôsơlơvăng đã thay
chân hắn.
Suốt ngày
Giăng VanGiăng cặm cụi ở ngoài vườn, làm được vô khối việc có ích. Xưa ông làm
nghề xén cây nên bây giờ làm vườn cũng thích. Ta còn nhớ, ông biết nhiều phương
pháp và những bí mật nhà nghề của việc trồng trọt. Hầu hết các cây quả trong
vườn trước mọc như cây dại. Bây giờ, ông xén, ông ghép nên cây nào cũng kết quả
ngon lành.
Côdét
hàng ngày được về chơi với ông một tiếng đồng hồ. Các bà thì buồn rười rượi còn
ông thì tốt, nên con bé cứ so sánh, lại càng thương yêu ông hơn. Đến giờ là nó
chạy ngay về nhà. Con bé vừa bước chân vào nhà, căn nhà như rạng rỡ cảnh thiên
đường. Giăng VanGiăng lòng tươi như hoa nở, ông càng cảm thấy đời sống đầy hạnh
phúc vì Côdét cũng thấy được sung sướng đó bên ông. Nỗi vui sướng của người ta
có cái quý là nó không như ánh sáng phản xạ bao giờ cũng mờ nhạt đi; Vangiăng
nhìn Côdét chơi đùa, chạy nhảy; cứ nghe nó cười là ông nhận ra ngay.
Bởi vì
bây giờ Côdét đã cười rồi.
Nét mặt
nó cũng đổi khác, nó không ủ ê như trước nữa. Tiếng cười cũng như mặt trời đuổi
tan giá lạnh trên nét mặt con người.
Côdét
không đẹp nhưng dễ thương biết mấy. Nó nói những điều dễ nghe, giọng nó dịu
dàng thơ ngây. Hết giờ chơi, Côdét về trường, Giăng VanGiăng nhìn cửa sổ lớp
học; và ban đêm thì ông trở dậy nhìn cửa sổ buồng ngủ.
Và Chúa
cũng có đường lối của Chúa. Tu viện cũng như Côdét duy trì và bổ sung trong
lòng Giăng VanGiăng tác dụng của giám mục Mirien. Có một điều chắc chắn là con
đường của đạo đức có một lối dẫn tới kiêu ngạo. Ở đây có sẵn một chiếc cầu do
quỷ dữ bắc. Giăng VanGiăng, vô tình, có lẽ đang ở khá gần cái lối này và cái
cầu này khi trời xui khiến ông rơi vào tu viện Pơti Pichpuýt. Khi trước, tự so
sánh mình với người thường và lòng kiêu ngạo nảy nở. Biết đâu đấy ông sẽ không
dần dà trở về với lòng hằn thù.
Tu viện
đã giữ ông lại trên cái dốc ấy. Đây là nơi cấm cố thứ hai mà ông thấy. Hồi tuổi
thơ, trong cái thời gian ông bước vào đời và về sau mới gần đây ông đã biết một
nơi cấm cố khác, kinh khủng, dễ sợ, với những kỷ luật khắc nghiệt mà ông vẫn
coi là những bất công của công lý và tội lỗi của luật pháp. Sau nhà tù khổ sai,
bây giờ ông gặp nhà tu kín. Nghĩ rằng ông đã trở thành một thành viên của nhà
tù khổ sai và bây giờ đang chứng kiến cảnh nhà tu kín, ông đối chiếu hai nơi đó
trong trí ông một cách tư lự hãi hùng.
Nhiều khi
ông tựa vào cán mai, chìm đắm trong những uẩn khúc của mơ mộng và không cùng.
Ông nhớ
lại những người bạn tù ngày xưa. Họ khốn khổ quá chừng: vừa mới tinh mơ đã dậy,
làm đến tối mịt mới về. Người ta có để cho họ chợp mắt được mấy chốc; ngủ thì
ngủ trên mấy tấm phản, đệm lót mỏng dính, kê trong những gian buồng trống trải,
suốt năm chỉ đốt củi vài tháng rét nhất. Áo thì áo choàng màu đỏ trông gớm
ghiếc. Nhờ ân trên, những ngày nóng nực, họ được mặc quần vải thô và những ngày
đông tháng giá, họ được khoác một cái áo kiểu áo phu xe bằng len. Chỉ những
ngày đi bệnh viện mới được hớp rượu, miếng thịt vào miệng. Họ không có tên nữa,
cứ số mà gọi, họ hầu như chỉ còn là những con số. Họ sống, mắt nhìn xuống,
tiếng nói se sẽ, đầu trọc lốc, sống trong tủi thẹn, dưới đòn roi.
Thế rồi
Giăng VanGiăng nghĩ đến những người hiện đang sống ở nhà tu, ngay trước mặt
ông.
Những con
người ấy cũng đầu trọc, mắt cúi gầm, tiếng nói se sẽ. Họ không sống trong tủi
thẹn, nhưng sống giữa những lời nhạo báng của người đời; lưng họ không lằn vết
gậy đòn, nhưng vai họ chín rạn vì những kỷ luật nặng nề. Đối với mọi người, tên
tuổi của họ cũng không còn nữa, chỉ còn những tên gọi khắc khổ. Họ không uống
rượu ăn thịt bao giờ; họ thường nhịn đói suốt từ sáng tinh mơ đến chiều. Họ
không mặc áo đỏ nhưng khoác cái khăn liệm bằng len màu đen, mùa hè thì loại
nặng, mùa đông thì loại nhẹ; họ không có quyền thay đổi áo quần gì hết. Sáu
tháng ròng, họ phải mặc cái áo trong bằng xécgiơ đến chết ngốt. Họ không ở
những gian buồng đốt lửa mấy tháng buốt lạnh nhất; buồng họ không bao giờ có
lửa. Giường họ không trải nệm mỏng manh mà trải rơm. Ngủ cũng không được ngủ;
đêm đêm, sau một ngày mệt nhọc, vừa đặt mình, chưa ấm chỗ, vừa chập chờn thiếp
đi trong giấc ngủ nặng nề, thì đã phải dậy, rồi vào nhà nguyện lạnh lẽo, âm u
cầu kinh hai chân quỳ trên nền đá. Có những ngày lần lượt mỗi người phải quỳ
mười hai giờ liền trên nền đá hay phủ phục xuống đất, hai tay gấp hình chữ
nhật.
Hạng
người trên toàn là đàn ông; hạng dưới toàn đàn bà.
Bọn đàn
ông đã làm gì? Họ cướp bóc, gian lận, đầu độc, đốt nhà, giết người, giết bố.
Còn bọn đàn bà? Họ không làm gì hết.
Một bên
giết người cướp của, gian lận, xảo trá, hung bạo, dâm dục, nghĩa là tất cả
những tội ác, tất cả những hành động hại người; một bên là trong trắng chỉ có
trong trắng mà thôi.
Vô tội
hoàn toàn, như được nhấc bổng lên trong một cuộc thăng thiên huyền bí, phần đạo
đức thì còn dính với đời, mà phần thiêng liêng thì đã vượt lên trời.
Một bên
thì thầm với nhau những mưu mô, tội lỗi, một bên mạnh dạn thú nhận những lầm
lạc. Tội lỗi thì ghê gớm, lầm lạc thì chẳng có gì! Một bên là uế khí ghê tởm,
một bên là mùi hương tuyệt vời. Một bên là dịch họa tinh thần, giam giữ, canh
gác dưới những mũi súng đại bác, gặm tiêu dần những kẻ mắc bệnh; một bên là
những linh hồn cùng cháy bùng thanh khiết trong một lò lửa. Kia là đêm tối dày
đặc; đây là một bóng tối, nhưng một bóng tối đầy ánh sáng, những ánh sáng chói
lọi hào quang.
Hai thế
giới nô lệ. Một bên còn có cơ hội giải phóng: pháp luật còn có tháng ngày hạn
định, lại còn có khả năng vượt ngục. Một bên là cả một cuộc đời vô cùng tận,
trong tương lai xa vời, chỉ còn một chút ánh sáng le lói của niềm hy vọng về tự
do là cái chết.
Những
người thứ nhất chỉ còn xiềng xích trói buộc. Những người sau, có lòng tín
ngưỡng trói buộc.
Trong nhà
tù, bốc lên cái gì? Một lời nguyền rủa tràn trề, tiếng răng nghiến lại, lòng
căm thù, lòng hiểm độc tuyệt vọng, một tiếng kêu phẫn nộ chống lại xã hội loài
người, một tiếng cười chua chát đắng cay hướng lên trời.
Còn ở nhà
tu? Chỉ có lời khấn nguyện và tấm lòng yêu Chúa.
Hai nơi
ấy thật giống nhau mà cũng thật khác nhau; hai hạng người khác nhau một vực một
trời lại cùng chung một nhiệm vụ là chuộc tội.
Giăng
VanGiăng hiểu vì sao những tù nhân phải chuộc tội, họ chuộc tội cho họ. Nhưng
ông không hiểu vì sao những nữ tu sĩ phải chuộc tội; những con người ấy không
tội tình gì, không một vết nhơ. Ông run sợ tự hỏi: chuộc tội gì? Chuộc tội nào?
Ông như
nghe thấy lương tâm ông trả lời lòng nhân đạo thiêng liêng nhất, sự đền tội cho
người.
Chúng tôi
gạt bỏ ở đây mọi lý thuyết của riêng mình. Chúng tôi chỉ là người kể chuyện.
Chúng tôi đứng ở quan điểm của Giăng VanGiăng và nói lên cảm tưởng của ông.
Ông được
nhìn thấy cái đỉnh cao cả của nhẫn nhục, cái đỉnh cao nhất mà đạo đức có thể
vươn tới được. Vô tội tha thứ tội lỗi cho người và đền tội thay cho người; sự
chịu đựng, sự thừa nhận tra khảo, sự đòi hỏi hình phạt của những tâm hồn không
hề sa ngã để cho những tâm hồn sa ngã thoát khỏi những đau khổ ấy. Lòng yêu
người hòa vào lòng kính Chúa, những vẫn đứng riêng và khẩn cầu. Những con người
yếu ớt mang cái khổ đau của kẻ bị trừng phạt và cái nụ cười của những người
được ban thưởng. Và ông nhớ rằng đã có lúc ông dám kêu ca.
Có khi
giữa đêm ông thức dậy để lắng nghe lời cầu nguyện tạ ơn Chúa của những con
người vô tội và bị đè nặng dưới bao nhiêu khắc khổ ấy và thấy lạnh toát trong
mạch máu khi nghĩ rằng những kẻ bị trừng phạt một cách chính đáng chỉ cất tiếng
nói lên để nguyền rủa trời và ông, một thằng khốn nạn, đã giơ nắm tay căm thù
lên cho Chúa.
Điều nổi
bật làm cho ông suy nghĩ sâu sắc như là một sự cảnh báo thầm của trời: trèo
tường, vượt rào, liều chết, bám, leo kinh khủng, ghê sợ, tất cả những cố gắng
ấy để khỏi cái nơi đền tội kia, ông cũng đã phải làm để vào cái nơi đền tội
này. Phải chăng là một biểu tượng của số mệnh?
Nhà tu
này cũng là một nhà tù, cũng thê thảm như cái nhà tù ông trốn khỏi, nhưng ông
không hề nghĩ rằng có sự giống nhau.
Giăng
VanGiăng như trông thấy lại những bức rào, những cái khóa, những chấn song sắt
để cầm giữ ai? Những thiên thần.
Những bức
tường cao vót trước kia ông thấy giam cầm hùm beo; nay nó bao bọc đàn cừu vô
tội.
Nơi đây,
người ta chuộc tội, chứ không bị trị tội. Thế nhưng nó khắc khổ hơn, ảo não
hơn, cay nghiệt hơn. Những cô trinh nữ còn bị đè nén nặng nề hơn bọn tù khổ
sai. Trước kia, một cơn gió lạnh buốt xương đã làm tê cóng tuổi thanh niên của
Giăng VanGiăng, cơn gió thổi qua cái hầm nuôi diều hâu căng lưới sắt, khóa xích
sắt; bây giờ, một cơn gió bấc tàn nhẫn hơn, đau đớn hơn, thổi qua chuồng chim
bồ câu.
Tại sao?
Nghĩ đến
tất cả những việc trên, toàn bộ tâm trí Giăng VanGiăng như chìm vào một nơi cao
siêu huyền bí. Lòng kiêu ngạo tan đi trong những suy nghĩ ấy. Ông tìm mọi cách
tự kiểm điểm mình; ông tự thấy yếu hèn và nhiều lần ông đã khóc. Tất cả những
gì đi và ở cuộc đời của ông từ sáu tháng nay đưa ông trở lại những lời khuyên
nhủ thiết tha của giám mục: Côdét dẫn dắt ông bằng tình người, tu viện bằng đức
nhún nhường.
Đôi khi
buổi chiều, lúc hoàng hôn, khi khu vườn vắng lặng, người ta thấy ông quỳ giữa
lối đi, bên cạnh nhà nguyện, trước cái cửa sổ mà ông nhòm qua đêm ông mới vào
đây. Ông quay mặt về phía bà đền tội đang phủ phục cầu nguyện và quỳ gối trước
bà ấy mà cầu nguyện.
Hình như
ông không dám quì hẳn trước mặt Chúa.
Tất cả
cảnh vật xung quanh, từ khu vườn yên tĩnh đến những bông hoa thơm ngát, những
đứa trẻ reo vui, những người đàn bà trang nghiêm, giản dị, nhà tu lặng lẽ, tất
cả thấm dần vào người ông. Tâm hồn ông cũng lặng lẽ như nhà tu này, cũng thơm
tho như những đóa hoa kia, cũng yên tình như khu vườn, giản dị như các người
đàn bà, vui tươi như đàn trẻ.
Vả ông
nghĩ là hai cái nhà của Chúa đã liên tiếp đón ông ở hai giai đoạn gay go của
đời ông, giai đoạn đầu khi tất cả mọi cửa đóng chặt và xã hội loài người xua
đuổi ông, giai đoạn thứ hai khi xã hội loài người lùng bắt ông và nhà tù khổ
sai chờ ông. Không có cái nhà trước, ông sẽ lại rơi vào tội lỗi, không có cái
nhà sau, ông lại rơi vào hình phạt. Cả trái tim ông dạt dào lòng biết ơn càng
yêu người thêm hơn nữa.
Năm tháng
cứ thế trôi qua. Côdét lớn dần.
Xem tiếp:
Xem tiếp:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét