NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 5
XUỐNG DỐC
Chương 1
QUÁ TRÌNH CẢI TIẾN NGHỀ LÀM THỦY TINH ĐEN
Cái
người đàn bà bỏ con đó, theo lời bàn tán của người phố Môngphecmây, hiện bây
giờ ra sao? Ở đâu? Làm gì?
Phăngtin
đem Côdét gửi vợ chồng Tênácđiê rồi lại lên đường đến Môngtơrơi.
Người
ta vẫn còn nhớ là lúc ấy vào năm 1818.
Phăngtin
rời bỏ tỉnh nhà ra đi đã được mười năm: Môngtơrơi đã thay đổi nhiều. Nàng thì
hết vận hạn này đến vận hạn khác ngày một lụn bại, nhưng tỉnh quê của nàng thì
cứ thịnh vượng dần mãi lên.
Nguyên
do là hai năm trước, ở đây đã có một biến chuyển công nghiệp, một sự kiện quan
trọng ở tỉnh nhỏ.
Chi
tiết này quan trọng, chúng tôi thấy cần phải nói rõ, có khi phải nhấn mạnh nữa.
Từ lâu
đời, đất Môngtơrơi vẫn có nghề riêng là làm huyền Ănglê giả và đồ thủy tinh đen
như của Đức. Công nghệ đó sống vất vưởng vì nguyên liệu đắt đỏ ảnh hưởng đến
nhân công. Vào khoảng Phăngtin trở về quê nhà, nghề làm đồ huyền và thủy tinh
đen tự nhiên biến đổi một cách kỳ diệu. Số là khoảng cuối năm 1815 có người
không biết từ đâu đến Môngtơrơi tìm cách làm ăn. Người ấy nghĩ ra được một
phương pháp mới, lấy cánh kiến thay cho nhựa làm nguyên liệu và trong cách làm
vòng đeo tay đã dùng cốt bằng tôn kháp lại chứ không phải hàn liền. Thay đổi
nhỏ ấy đã có giá trị như một cuộc cách mạng.
Thật
thế, sự thay đổi nhỏ nhặt ấy đã làm cho giá nguyên liệu giảm xuống phi thường.
Do đó, một là tiền công thợ được tăng, lợi cho dân tỉnh, hai là phương pháp chế
tạo cải tiến, lợi cho người tiêu thụ, ba là đã rất rẻ mà tiền lãi còn gấp ba
trước, lợi cho chủ xưởng.
Như
thế là một sáng kiến đã đem lại ba kết quả.
Chưa
đầy ba năm, người phát minh kia trở nên giàu có, đó là một điều hay, anh lại
còn làm cho mọi người chung quanh mình cũng được giàu có, điều đó lại càng hay
hơn. Người ấy không phải là dân bản hạt. Chẳng ai biết quê quán anh ta ở đâu.
Cũng chẳng ai biết lúc thiếu thời anh ta sinh sống như thế nào.
Nghe
nói lúc mới đến Môngtơrơi, lưng vốn anh ta chẳng là bao, chỉ độ mấy trăm
phơrăng là cùng.
Lưng
vốn chỉ có thế nhưng anh ta khai thác được sáng kiến ấy, lại làm ăn có ngăn nắp
và có suy nghĩ nên không bao lâu anh đã làm giàu cho mình, lại làm giàu cho cả
xứ.
Lúc
anh ta mới đến, anh ăn mặc, đi đứng, nói năng như một dân thợ.
Nghe
đâu anh ta lủi thủi vào thị xã Môngtơrơi nhỏ bé này một buổi chiều tối tháng
chạp, lưng đeo ba lô, tay cầm một chiếc gậy gai. Giữa lúc ấy thì một đám cháy
lớn xảy ra ở ngay hội đồng thị chính. Chẳng quản nguy hiểm, anh ta đã lăn xả
vào đám cháy cứu được hai đứa trẻ. Hai trẻ lại chính là con viên đại úy cảnh
sát trưởng. Thành ra không ai nghĩ đến việc xét giấy thông hành của anh ta. Sau
đó người ta biết tên anh ta. Người ta gọi là bác Mađơlen.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 5
Chương 2
ÔNG MAĐƠLEN
Bác
Mađơlen là một người tuổi độ năm mươi, có vẻ đăm chiêu và lại hảo tâm. Người ta
chỉ biết có thế.
Nhờ
người ấy chấn chỉnh công nghệ làm nghề huyền nên nghề ấy phát triển nhanh
chóng. Đất Môngtơrơi trở thành một trung tâm thương mại phồn thịnh. Người Tây
Ban Nha tiêu thụ nhiều huyền, hàng năm đặt mua một số hàng rất lớn. Môngtơrơi
hầu như cạnh tranh cả với Luân Đôn và Béc Lin về xuất khẩu huyền. Số tiền lời
của bác Mađơlen lên nhanh đến nỗi chỉ mới năm sau, bác ta đã dựng được một nhà
máy khá lớn, ngăn làm hai xưởng rộng cho đàn ông và đàn bà làm riêng. Ai túng
đói cứ tìm đến đó, chắc chắn sẽ có việc làm và có cơm ăn. Bác Mađơlen chỉ đòi
hỏi đàn ông phải lương thiện, có chí, đàn bà phải nết na đứng đắn và mọi người
đều phải ngay thẳng thật thà.
Bác
cho đàn ông đàn bà làm việc riêng cũng là cho đàn bà con gái có thể giữ được
đức hạnh. Về khoản này, không ai lay chuyển được bác. Có lẽ đó là điểm độc nhất
của bác có phần cố chấp. Bác nghiêm khắc như vậy rất có lý, vì ở Môngtơrơi có
nhiều trại lính, cơ hội hư hỏng thật chẳng thiếu gì. Tóm lại, đối với người dân
Môngtơrơi, bác trước là một ân nhân sau là một vị cứu tinh. Trước kia, ở đây
đời sống tẻ ngắt, nay thì chỗ nào cũng làm ăn nhộn nhịp, không khí vui tươi
lành mạnh. Một sự giao lưu tấp nập thổi nhiệt tình và thâm nhập khắp nơi. Không
còn cảnh thất nghiệp, nghèo đói nữa. Không có cái túi áo xấu xí nào là không
xủng xoảng ít tiền, không có nhà tranh tồi tàn nào là không có tiếng cười vui.
Bác
thu dụng tất cả mọi người. Bác chỉ yêu cầu một điều: đàn ông phải lương thiện,
đàn bà phải đứng đắn.
Bác
Mađơlen làm nên giàu có giữa cảnh lao động tấp nập mà bác đã tạo ra và hiện
đứng làm trụ cột. Nhưng có một điều lạ là bác không lấy việc làm ra tiền làm
mục đích chính như tất cả những người kinh doanh khác. Hình như bác ta nghĩ đến
người khác nhiều hơn. Người ta biết rằng đến năm 1820 bác ta đã để ra được một
món tiền là sáu mươi ba vạn phơrăng gửi ở ngân hàng Laphít. Nhưng trước lúc để
ra số tiền đó thì bác đã chi cho dân trong thành phố và những người nghèo khó
đến hơn một triệu rồi.
Nhà
thương trước kia thiếu thốn, bác ta quyên thêm cho mười giường bệnh nữa. Tỉnh
Môngtơrơi có hai khu: khu thượng và khu hạ, là chỗ bác ta ở, chỉ có một nhà
trường đặt trong một căn nhà nát sắp đổ, bác dựng hai trường mới: một trường
con gái và một trường con trai. Hai thầy giáo ở đây được bác trả thêm một khoản
phụ cấp gấp đôi số lương ít ỏi của chính phủ. Có người lấy làm ngạc nhiên thì
bác bảo: “Hai hạng công chức quan trọng nhất của nhà nước là vú nuôi trẻ và thầy
dậy học”. Bác còn bỏ tiền ra lập một nhà phúc, có lẽ khắp nước Pháp chưa đâu có
và một quỹ cứu tế cho thợ già yếu và tàn tật.
Xưởng
công nghệ của bác trở thành một trung tâm, chung quanh đó mọc lên một khu phố
của những người nghèo khổ quây quần lấy bác. Bác tổ chức ở đây một phòng phát
thuốc làm phúc.
Buổi
đầu, thấy bác bắt tay vào việc, những kẻ tử tế nói: “Tay này định làm giàu
đây”. Đến khi thấy bác lo làm giàu cho cả xứ trước rồi mới nghĩ đến mình sau,
những người ấy lại nói: “Anh này muốn địa vị”. Điều này càng có vẻ có lý khi
người ta thấy bác cũng đi dạo và chủ nhật nào bác cũng đi lễ đều đặn. Chừng nào
đó bác còn là người ngoan đạo nữa, mà hồi này người ta trọng người ngoan lắm.
Tình hình này làm ông dân biểu trong hạt quen nhìn đâu cũng thấy kình địch, chả
mấy chốc đâm lo. Ông ta trước kia có chân trong viện lập pháp của đế chế và
cùng một quan niệm về tôn giáo với một nhà tu hành bấy giờ được phong quận công
là Fusê (Fouché: nguyên là linh mục theo cách mạng Pháp, rồi đế chế, được cử
làm Bộ trưởng an ninh và phong công tước. Khi thấy Napoleon suy, hắn giao thiệp
với giặc ngoài, nổi tiếng vì xảo quyệt, tàn bạo, tham lam, cơ hội và phản
phúc), ông này vừa là bạn vừa là kẻ tác thành cho ông ta. Trong chỗ bạn bè kín
miệng với nhau, ai nói đến Chúa Trời thì ông ta cười khảy một cách nhẹ nhàng.
Nhưng khi thấy nhà công nghiệp giàu có Mađơlen theo mọi người đi đọc kinh sớm,
ông ta lại đánh hơi ông này có thể nay mai ra tranh cử với mình nên quyết tâm
cho hơn hẳn. Ông ta mời riêng một linh mục dòng Tên làm cha xưng tội, ông ta
lại đi nhà thờ dự lễ thật sớm và luôn cả lễ chiều. Thời bấy giờ tham vọng biểu
hiện bằng cuộc chạy đua đi lễ. Thành thử vì ông ta hoảng hốt mà kẻ nghèo và
Chúa lại được nhờ, bởi vì ông dân biểu đáng kính nhà ta bỏ tiền đặt thêm hai giường
nữa ở bệnh viện, vị chi mười hai giường.
Năm
1819, một sáng nọ có dư luận là ông tỉnh trưởng đã tiến cử bác Mađơlen làm thị
trưởng thành phố Môngtơrơi, để tưởng lệ công lao của bác và nhà vua cũng sắp bổ
nhiệm bác. Những người trước kia cho bác là một “tay địa vị” chộp ngay lấy cơ
hội và reo lên mừng rỡ: “Đó thấy chưa? Nói có đúng không?” tiếng đồn ầm cả
thành phố. Miệng người thế mà có căn cứ. Vài ngày sau thì chỉ dụ bổ nhiệm đăng
lên công báo. Nhưng hôm sau, bác Mađơlen từ chối.
Cũng
năm ấy, những mặt hàng sản xuất theo phương pháp do bác sáng chế được đem trưng
bày ở cuộc triển lãm công nghiệp. Căn cứ vào báo cáo của hội đồng giám khảo,
nhà vua tặng thưởng bác huân chương bắc đẩu bội tinh. Lại một phen đồn đại. Coi
nhé! Huân chương anh ta mới thích cơ! Nhưng bác lại từ chối.
Quả
thật bác là người khó hiểu. Những kẻ hiền lành bí quá, phán liều: “Dẫu sao thì
cũng là một loại giang hồ bạt tử thôi”.
Cả
tỉnh được nhờ bác ta nhiều, những người nghèo đói hoàn toàn nhờ bác ta mà được
no ấm. Công đức như thế nên dù thế nào mặc lòng, cuối cùng người ta cũng phải
kính nể. Hiền như thế thì dù thế nào người ta cũng đem lòng yêu. Nhất là thợ
thuyền làm trong xưởng thì thật quý mến bác ta: Bác ta nhận sự quí mến của họ
một cách trang trọng nhưng trong sự trang trọng ấy có phảng phất vẻ u hoài.
Khi ai
nấy đều biết rằng bác giàu rồi thì đám tai mắt hàng tỉnh vồn vã chào hỏi bác và
gọi: “Ông Mađơlen”. Thợ thuyền và trẻ con cứ gọi ông là bác Mađơlen, điều ấy
mới thật sự làm ông vui sướng. “Xã hội” vẫy tay kêu gọi ông. Những phòng khách
kiểu cách ở đất Môngtơrơi có lẽ không đời nào tiếp anh thợ lúc ban đầu, thì bây
giờ mở toang cửa để chờ đón nhà triệu phú. Người ta săn đón ông bằng đủ mọi
cách. Ông vẫn lãng tránh.
Lần
này, những kẻ hiền lành không tiếc lời: “Tay ấy là dân hạ đẳng ngu dốt. Chẳng
biết là con cái nhà ai. Chẳng biết cách giao thiệp trong giới thượng lưu đâu.
Và hình như mù chữ thì phải”.
Trước
kia, thấy ông làm ra tiền, họ bảo ông là một chú lái buôn. Khi thấy ông đem
tiền ra rắc vãi thì họ bảo ông là một thằng địa vị. Khi thấy ông từ chối địa vị
thì họ bảo là một đứa giang hồ bạt tử. Bây giờ thấy ông lảng tránh các xã hội
thượng lưu thì họ bảo là một thằng thất phu.
Đến
năm 1820, nghĩa là năm năm sau khi ông đến Môngtơrơi, công đức của ông ở đất đó
to lớn quá, nguyện vọng của nhân dân nhất trí quá, nên triều đình một lần nữa
lại cử ông làm thị trưởng thành phố. Lần này ông cũng lại từ chối. Viên tỉnh
trưởng nhất định không chịu, hàng thân hào yêu cầu ông, nhân dân van xin ông
ngay giữa phố, sự yêu cầu khẩn khoản quá nên cuối cùng ông phải nhận. Có người
thấy một bà già dân nghèo đứng ngay giữa cửa mà quát ông một cách gần như giận
dữ: “Một ông thị trưởng tốt là lợi cho dân lắm chứ. Có dịp làm điều hay cho dân
chúng sao bác lại từ chối hở?” Hình như câu nói ấy đã làm cho ông dứt khoát
nhận lời.
Ông
lên bậc thang danh vọng thế là lần thứ ba. Bác Mađơlen đã thành ông Mađơlen.
Ông Mađơlen nay thành ông thị trưởng.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 5
Chương 3
TIỀN GỬI NGÂN HÀNG LAPHIT
Bao
giờ ông Mađơlen cũng giữ tác phong giản dị như những ngày mới đến. Mắt nghiêm
chỉnh, tóc hoa râm, da rám nắng như một người thợ nhưng vẻ mặt thì đăm chiêu
như một triết gia. Thường ngày ông đội mũ rộng vành, mặc áo phủ ngoài bằng dạ
thô, gài cúc lên đến cổ, ông giữ chức thị trưởng song ngoài giờ làm việc công,
ông ở riêng một mình, không hay vui chuyện. Ông lẩn tránh sự vồ vập của kẻ
khác, gặp ai ông chào qua, rồi tháo ngay. Ông mỉm cười để khỏi phải nói chuyện
và giúp đỡ để khỏi phải mỉm cười. Đám phụ nữ gọi ông là “một con gấu lành”. Ông
chỉ thích đi dạo chơi ở ngoài đồng.
Ông ăn
cơm một mình, mắt không rời quyển sách lúc nào cũng để trước mặt. Ông có một tủ
sách khá đầy đủ. Ông rất ưa đọc sách; sách là những người bạn ít chuyện, tin
cậy được. Càng giàu thì càng nhàn, ông dùng thì giờ nhàn rỗi để học tập. Người
ta thấy rằng mỗi năm, cách ăn nói của ông mỗi thêm lịch sự, tinh tế và dễ ưa.
Khi đi
dạo chơi, ông thường mang theo một khẩu súng nhưng ít khi dùng đến. Thảng có
bắn một phát thì ông bắn nhất định trúng, ai cũng khiếp ông bắn cừ. Chẳng bao
giờ ông giết một con vật vô hại, chẳng bao gờ ông bắn một con chim nhỏ.
Ông đã
luống tuổi mà người ta đồn ông khỏe lắm. Ai cần đến việc gì ông cũng sẵn sàng
giúp một tay; nâng một con ngựa quỳ lên, đẩy một chiếc xe sa lầy, nắm sừng giữ
lại một con bò đực sổng. Ở nhà ra đi, túi ông đầy tiền hào, lúc quay về thì hết
nhẵn. Ông đi qua thôn nào lũ trẻ con rách rưới cũng vui mừng chạy theo và quấn
lấy ông như một đàn ruồi.
Người
ta đoán là trước kia ông đã làm nghề nông, cho nên mới có nhiều những kinh
nghiệm quí để mách bảo cho người làm ruộng như thế. Ông bày cho họ rưới nước
muối lên ván kho để trừ sâu lúa mì, treo hoa oóc vi ô trên tường và trên mái
nhà để trừ mọt. Ông có những bí quyết để trừ tiệt nhiều giống cỏ làm hại lúa.
Ông biết cách nhốt một con chuột chù trong chuồng thỏ để chuột cống thấy hôi
phải lãng tránh, không vào ăn thỏ con.
Một
hôm thấy người ta bận rộn nhổ dền gai, ông nhìn đống cây nhổ đã héo khô mà bảo:
- Hỏng
rồi! Ấy, cây này nên biết cách thì cũng dùng được. Lá dền gai non là một thứ
rau rất tốt. Thân cây già có thể tước sợi như gai hay đay, vải dền cũng tốt như
vải gai đấy. Cây dền bằm đi gà vịt thích ăn, xay dập thì bò dê lại càng ưa lắm.
Hạt dền rắc vào cỏ khô, đem cho thú vật ăn thêm mượt lông. Đun rễ dền pha với
muối thì thành một nước nhuộm màu vàng trông rất đẹp đấy. Dền còn là một thức
lương khô tốt cho súc vật, có thể cắt hai bận. Thế mà dền có đòi hỏi công phu
gì mấy? Một ít đây thôi, chứ không phải trồng trọt, không phải chăm nom. Chỉ có
điều là hạt chín đến đâu rơi rụng đến đó nên khó hái. Thế thôi, chịu mất công
một chút thì dền gai sẽ có ích. Người ta đã bỏ phế nó, cho nên nó hóa ra cỏ
dại. Rồi người ta buộc phải giết nó. Bao nhiêu con người cũng giống như thứ dền
gai ấy.
Ông
ngừng một lát rồi nói thêm:
- Các
bác ạ, các bác nên nhớ lấy điều này, là không có cỏ dại, cũng như không có
người xấu. Chỉ có những người không biết trồng trọt chăm nom mà thôi.
Trẻ
con thích ông vì ông biết lấy cọng rơm và sọ dừa làm ra các thứ đồ chơi xinh
xinh.
Thiên
hạ thích đi xem rửa tội, còn ông, ông hay đến viếng các đám tang. Cho nên, đi
qua nhà thờ, hễ thấy trước cửa có treo vải đen là ông đi vào ngay. Cảnh góa bụa
đau thương của kẻ khác cuốn hút ông vì ông có lòng thương người đằm thắm. Ông
đến, ông hòa mình với bạn bè, thân quyến đang đau buồn, với các nhà tu hành
đang cầu kinh rầu rầu, thảm thiết. Những bài ca điếu vong ấy, chứa đầy viễn ảnh
về một thế giới nào khác. Dường như ông muốn lấy những bài ca ấy làm cơ sở để
suy tưởng. Mắt nhìn lên cao, tâm trí như theo cõi vô biên huyền bí, ông lắng
nghe những giọng buồn buồn kia đang như réo rắt trên bờ vực sâu của cõi chết
tối tăm.
Ông
làm vô khối việc thiện mà giấu giếm như người ta làm việc ác. Đợi nhá nhem tối
ông mới lẻn vào nhà người ta, rón rén trèo lên thang gác. Có anh kiết xác đi cả
ngày, tối chui về ổ, ngạc nhiên thấy cửa ngõ nhiều khi bị ẩy ra, trong lúc đi
vắng. Tưởng có trộm, anh tức tối. Khi vào trong nhà, anh trông thấy một đống
tiền vàng ai bỏ quên trên bàn. Tên kẻ trộm lẻn vào nhà đó là bác Mađơlen.
Tính
ông ân cần nhưng sao buồn buồn thế nào ấy. Dân chúng bảo: “Ông này quả là một
người giàu mà không kiêu, một người sung sướng mà không vui”.
Đôi
người nói liều rằng ông ta là một nhân vật bí hiểm và quả quyết rằng chẳng ai
được vào phòng ông bao giờ, phòng ông đúng là một chỗ ở của đạo sĩ, có bình cát
chắp cánh và trang hoàng bằng những ống xương chân bắt chéo và những cái đầu
lâu. Người ta truyền nhau điều này dữ quá, đến nỗi có mấy thiếu phụ sang trọng
và láu lỉnh, một hôm phải kéo nhau đến nhà ông, đòi xem: “Thưa ông thị trưởng,
xin ông cho chúng tôi xem phòng ở của ông, người ta bảo nó là một cái hang”.
Ông mỉm cười và ngay lập tức đưa các bà vào “cái hang ấy”. Các bà tò mò nhà ta
thật đã được một mẻ hẫng. “Cái hang” chỉ là một căn buồng bàn ghế hẳn hoi có
điều là loại bàn ghế gỗ xấu xí và chung quanh tường đều phủ bằng thứ giấy rẻ
tiền. Các bà nhà ta xoi mói mãi chỉ để ý thấy có một cặp chân đèn hình dáng rất
cổ đặt trên lò sưởi và có vẻ là bằng bạc.
Mặc dù
vậy, người ta vẫn cứ tiếp tục truyền nhau là chẳng ai được vào căn phòng ấy và
nó chẳng khác gì một cái động ẩn sĩ, một cái gác mơ mòng, một hang tối, một
ngôi mộ.
Thiên
hạ còn thì thầm với nhau rằng ông có những món tiền rất lớn gửi ở ngân hàng
Laphit với điều kiện là muốn lấy ra lúc nào cũng được. Với điều kiện ấy, bất kỳ
lúc nào ông cũng có thể đến nhà ngân hàng, ký một tờ giấy biên nhận, thế là rút
ra ngay hai, ba triệu, công việc làm xong trong mười phút. Thực ra, số tiền
hai, ba triệu người ta đồn ấy chỉ là sáu mươi ba hoặc sáu mươi tư vạn phơrăng
mà thôi.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 5
Chương 4
ÔNG MAĐƠLEN ĐỂ TANG
Đầu
năm 1821, các báo chí đăng tin ông giám mục thành Đinhơ là Mirien, tục gọi là
Đức Cha Biêngvơnuy tạ thế trong phép đạo, hưởng thọ tám mươi hai tuổi.
Các
báo bỏ qua một chi tiết là ông giám mục bị mù đã mấy năm trước khi mất. Ông bị
mù nhưng có bà em bên cạnh nên ông vẫn yên tâm.
Trong
cuộc đời chẳng có gì hoàn bị này, mù lòa mà được kính yêu là một hình thức hạnh
phúc lạ lùng và ý nhị nhất. Hỏi có hạnh phúc nào sánh bằng luôn luôn có bên
mình một người đàn bà, một cô gái, một cô em, một con người đáng yêu, họ có mặt
vì ta cần đến họ và vì họ không thể không có ta? Bằng biết ta không thể thiếu
được đối với kẻ ta rất cần? Có hạnh phúc nào hơn thường xuyên đo được lòng
thương yêu của họ đối với ta bằng ngày giờ họ có mặt bên ta và tự bảo: “Họ bỏ
hết thì giờ để chăm nom ta, ấy là ta chiếm hết trái tim họ?” Có gì sung sướng
hơn nhìn được ý nghĩ họ khi không nhìn được gương mặt, biết lòng trung thành
của họ đối với ta hãy còn sáng chói khi cả vũ trụ trước mắt ta đã tối sầm lại?
Rồi cảm thấy tà áo họ sột soạt nhẹ nhàng như đôi cánh đang vỗ bay, nghe thấy
được họ đi lại, ra vào, nói năng, ca hát và nghĩ rằng ta là trung tâm chú ý của
những những bước đi ấy, những lời nói, những câu hát ấy, hằng giây hằng phút
chứng tỏ rằng ta có sức hấp dẫn, càng tàn tật ta càng có quyền lực và tuy phải
sống trong bóng tối nhưng chính lại nhờ bóng tối mà ta trở thành ngôi sao cho
họ châu tuần chung quanh, thử hỏi trên đời được bao nhiêu niềm vui sánh kịp?
Hạnh
phúc lớn nhất trong đời ta là tin chắc mình được yêu, được yêu vì bản thân
mình, được yêu bất chấp cả mình! Ông giám mục mù mà có được niềm tin ấy. Bởi vì
trong cơn hoạn nạn ông đã được đỡ đần chăm sóc, ông đã được trìu mến vuốt ve.
Cho nên ông có thiếu thốn gì đâu! Ánh sáng ông cũng không mất vì ông đã có tình
yêu, một thứ tình yêu cao quí biết bao, vì nó là của một trái tim vô vàn đức
hạnh. Hễ đã tin chắc thì không còn mù được nữa. Tâm hồn dò dẫm đi tìm một tâm
hồn và đã tìm ra. Tâm hồn đã tìm được, đã từng qua thử thách, đó là một người
đàn bà. Ta cần một bàn tay nâng đỡ chăng? Có bàn tay của người. Một ai hôn nhẹ
lên trán ta? Đó là môi người. Ta nghe một hơi thở ngay cạnh ta, đó là người.
Người cho ta tất cả, từ lòng thương yêu, đến niềm kính mến. Người có bao giờ
rời ta, người đem tấm lòng nâng niu chiều chuộng cứu giúp ta, đem tấm thân liễu
yếu mà vững như thành đồng cho ta làm chỗ dựa, người như đấng cứu tinh ta sờ
được trên tay và ôm được trong lòng, chao ôi, ta ôm được người hay ta ôm được
Chúa! Vui sướng biết là bao! Còn trái tim ta, đóa hoa âm thầm của trời cao,
trái tim ta đang nở ra một cách huyền bí. Có cho ta tất cả ánh sáng trên đời ta
cũng không đánh đổi cái bóng âm thầm ấy.
Người
đàn bà kia, tâm hồn thiên thần kia đang còn đó, luôn luôn còn đó; có xa thì rồi
lại gần; có tan đi trong mộng thì rồi lại hiện về trong cảnh thực. Ta thấy như
hơi ấm từng bước từng bước lại gần ta, đó là người đến. Ta thấy tâm hồn ta xiết
bao thanh tĩnh, xiết bao vui thú, say sưa, ta thấy ta như mặt trời đang chói
đang chói sáng trong đêm. Lại còn muôn vàn những chăm lo tỉ mỉ, những cái không
đâu mà vô cùng to lớn trong cảnh trống không. Những uyển chuyển du dương của
giọng đàn bà dịu dàng khôn tả vỗ như ru, như thay thế cho hết thảy những gì
trong vũ trụ nay không còn trông thấy nữa. Không phải bàn tay âu yếm mà tâm hồn
âu yếm. Không trông thấy gì, mà lại thấy được yêu thương. Thật là một cảnh
thiên đường trong bóng tối.
Ông
giám mục đã từ thiên đường này mà bước sang thiên đường kia. Tin buồn ấy được
đăng lại trên tờ báo tỉnh Môngtơrơi. Hôm sau, ông Mađơlen bận đồ đen ra đường,
trên mũ có cái băng tang.
Mọi
người chú ý đến chuyện đó và bàn tán xôn xao. Người ta cho đó là một tia sáng
rọi vào lai lịch ông Mađơlen. Chắc ông phải có họ hàng gì với ông giám mục đáng
kính! Đám thượng lưu bảo nhau ở phòng khách. “Lão để tang ông giám mục thành
Đinhơ”. Điều đó làm tăng uy tín của ông nhiều và tự nhiên thấy họ kính nể ông
khác trước. Cái xã hội quí tộc nhỏ xíu ở các tỉnh nhỏ ấy thôi không làm cao với
ông vì ông có họ với một vị giám mục. Gặp họ, ông Mađơlen thấy mình được các bà
già nghiêng chào cẩn thận hơn và những bà trẻ niềm nở hơn. Một buổi tối, một bà
phu nhân có tuổi cho mình có quyền thóc mách vì có tuổi, hỏi ông:
- Ông
thị trưởng là em họ cụ cố giám mục thành Đinhơ đấy à?
- Thưa
bà không ạ.
- Ông
để trở cụ giám kia mà? (để tang)
- Vì
là hồi nhỏ tôi ở hầu trong nhà cụ.
Người
ta còn nhận thấy một điều nữa là mỗi khi có một thằng bé Xavoa nào đến trong
vùng hỏi thông ống khói thì ông Mađơlen cho gọi vào hỏi han tên họ và cho tiền.
Bọn trẻ Xavoa bảo nhau qua lại nơi ấy rất đông.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 5
Chương 5
CHÂN TRỜI CÓ DẠNG CHỚP
Lâu
dần, những sự chống đối cũng tiêu tan hết. Lúc đầu, ông Mađơlen cũng bị người
ta bôi nhọ, vu khống như thói thường đối với những người thành đạt trong xã
hội, nhưng một thời gian thì chỉ còn những câu ác ý và sau đó thì là những lời
nói kháy, nói mỉa, cuối cùng thì tất cả đều biến hết. Đối với ông, mọi người
đều một lòng kính yêu sâu sắc.
Vào
khoảng năm 1821, người ta đã nói tới ông thị trưởng Môngtơrơi với tất cả sự
thành kính cũng như người ta đã nói tới ông giám mục thành Đinhơ vào khoảng năm
1815. Trong vòng mười dặm, nhân dân đều đến nhờ ông dạy bảo. Ông hòa giải những
đám xích mích, ông ngăn ngừa những sự kiện tụng, ông giúp những kẻ thù làm lành
với nhau. Ai cũng muốn nhờ ông phân xử hộ. Lòng chính trực của ông là một bộ
luật tự nhiên.
Sự tôn
sùng truyền từ người này sang người khác, trong sáu bảy năm đã lan tràn dần ra
khắp xứ.
Cả
tỉnh chỉ có một người nhất quyết không chịu nhiễm sự sùng bái ấy. Mặc cho ông
Mađơlen làm gì thì làm hắn một mực không phục, tựa hồ như có một thứ linh khiếu
nào vững chắc và khó lung lạc cho hắn luôn cảnh giác và đề phòng.
Ở
những con người nào đó hình như có một bản năng thú vật thật sự, thuần nhất,
không thể pha trộn. Nó giúp con người biết lánh cái này và biết ưa cái kia,
biết phân biệt dứt khoát bản chất này với bản chất nọ. Nó làm cho con người
không do dự, không bối rối, không chịu im lặng và cũng không bao giờ chịu thay
đổi ý kiến. Con người dựa vào nó mà tin mình luôn luôn sáng suốt, không sao có
thể sai lầm, mọi người phải nghe mình chứ mình không bao giờ chịu nghe ai, dù
đó là lời khuyên của trí tuệ, lời phản kháng của lý trí. Và mặc dù số mệnh có
sắp đặt con người ở địa vị xã hội nào, thì bản năng này cũng giúp cho loại
người này đánh hơi thấy kẻ gian, cũng như chó ngửi thấy hơi mèo, sư tử đoán
biết có cáo.
Đó là
một người cao lớn, mặc áo ngoài màu xám, cầm một chiếc can to tướng và đội cái
mũ cụp vành. Nhiều khi thấy ông Mađơlen đi ngoài phố điềm tĩnh, ân cần, được
mọi người trìu mến, hắn quay ngoắt lại, nhìn đăm đăm theo ông mãi cho đến khi
khuất. Lúc ấy hắn khoanh hai tay lại, lắc lư cái đầu chầm chậm, dùng môi dưới
đẩy môi trên lên tận mũi. Cái nhăn nhó này có ý nghĩa:
- Quái
thật, người này là ai? Rõ ràng ta đã gặp hắn ở đâu rồi. Dẫu sao ta cũng không
mắc lừa hắn.
Con
người ấy với cái vẻ nghiêm nghị gần như đe dọa, là hạng người nhác thấy một lần
đã phải chú ý.
Tên
hắn là Giave. Hắn làm việc ở sở cảnh sát.
Ở
Môngtơrơi hắn giữ một chức vụ nặng nề nhưng ích lợi, là chức thanh tra mật
thám. Hắn không được chứng kiến những bước đầu kinh doanh của ông Mađơlen.
Giave được giữ chức ấy là nhờ có quan thầy là ông Sabuiê, bí thư của ông bộ
trưởng, bá tước Angơle, lúc bấy giờ là giám đốc sở cảnh sát Paris. Khi Giave
đến Môngtơrơi thì người chủ xưởng đã trở thành triệu phú và bác Mađơlen đã trở
thành ông Mađơlen rồi.
Có
những tên sĩ quan cảnh sát trông tướng mạo khác biệt, trong đó có cái vẻ vừa
hèn hạ vừa oai nghiêm. Giave có cái tướng mạo ấy nhưng không có vẻ hèn.
Nếu
linh hồn mà nhìn thấy được thì chắc rằng người ta sẽ nhận ra một điều kỳ lạ là
mỗi con người lại ứng với một con vật, cũng như người ta sẽ nhìn được dễ dàng
cái chân lý mà nhà tư tưởng chỉ mới hé thấy qua, là từ con sò đến chim phượng
hoàng, từ con lợn đến con hổ, tất cả các loại thú đều chứa đựng trong con người
và mỗi một con người đều chứa đựng một con vật. Có khi nhiều con vật một lần.
Thú
vật chẳng qua là hình dáng của đức hay tật xấu chúng ta, lang thang trước mắt
chúng ta, là bóng ma trông thấy được của linh hồn. Chúa bày ra cho chúng ta xem
để chúng ta suy nghĩ. Chỉ có một điều thú vật chỉ là những cái bóng nên Chúa
không muốn cho có thể cải tạo chúng được. Vả chăng cải tạo để làm gì? Trái lại,
linh hồn chúng ta là những cái có thật, có cứu cánh riêng biệt, cho nên Chúa đã
ban cho trí thông minh, nghĩa là khả năng thụ giáo. Một linh hồn dù xấu đến đâu
đi nữa, một nền giáo dục xã hội tốt cũng luôn luôn có thể rút ra từ đây một cái
gì có ích.
Tất
nhiên trên đây chỉ giới hạn trong phạm vi cuộc sống trần tục bên ngoài mà nói,
chứ không có ý kiến gì về vấn đề kiếp trước kiếp sau của các sinh vật không
phải là người. Cái tôi nhìn thấy trước mắt không cho phép nhà tư tưởng phủ nhận
cái tôi tiềm tàng. Chỉ xin có lời dè dặt như vậy, và thôi.
Bây
giờ, nếu mọi người chấp nhận chốc lát cái điều chúng tôi vốn đinh ninh là trong
bất cứ người nào cũng có một con vật, thì chúng ta sẽ nói được rất dễ dàng tay
nhân viên an ninh Giave là con người như thế nào.
Nông
dân vùng Atxtuyri quả quyết rằng lứa nào sói đẻ cũng có lẫn một con chó, đẻ ra
là sói mẹ cắn chết ngay, nếu không lớn lên chó sẽ ăn thịt hết sói con.
Con
chó do sói đẻ ấy, cho nó một cái mặt người, thì đó là Giave.
Giave
đẻ ra ở trong ngục, mẹ là một mụ bói bài tây, cha là một tên tù khổ sai phục
dịch chiến hạm. Lớn lên, hắn tự cho là ở ngoài rìa xã hội sống như mọi người.
Hắn nghiệm ra rằng có hai hạng người luôn luôn phải ở ngoài vòng xã hội, đó là
những người xâm phạm nó và những người bảo vệ nó; hắn chỉ còn có một đường là
chọn trong hai hạng người ấy. Đồng thời hắn tự thấy có một bản lĩnh cứng nhắc,
đứng đắn và thẳng thắn, pha thêm một ác cảm cao độ đối với giống người du đãng
trong ấy vốn có cha mẹ hắn. Vì thế, hắn vào làm cảnh sát.
Hắn đã
thành công. Bốn mươi tuổi, hắn là thanh tra. Lúc thiếu thời hắn đã là lính canh
ngục ở miền Nam.
Trước
lúc đi sâu vào câu chuyện, hãy đồng ý với nhau về cái nghĩa của từ mặt người sẽ
đem dùng với Giave dưới đây.
Cái
mặt người ấy ở Giave như sau:
Mũi
Giave tẹt, có hai lỗ sâu hoắm; hai bên má hắn có hai chòm râu rậm mọc ngược lên
đến chân mũi. Lần đầu nhìn hai cái rừng ấy và hai cái hang ấy, ai cũng thấy khó
chịu. Khi hắn cười, - nghĩa là họa hoằn lắm và dễ sợ lắm – thì đôi môi mỏng
dính dang ra, phơi bày nào răng nào lợi. Lúc ấy, chung quanh cái mũi là cả một
vệt nhăn nhúm man rợ, trông như mõm ác thú. Giave mà nghiêm nét mặt thì là một
con chó dữ. Khi cười hắn lại là một con cọp. Lại còn cái trán hẹp, cái hàm
bạnh, tóc tỏa xuống tận chân lông mày, giữa hai con mắt lúc nào cũng có một nếp
nhíu trông như luôn luôn giận dữ, cặp mắt tối tăm, khó hiểu, miệng thì mím lại
một cách khắc nghiệt đáng sợ, cả người hắn toát ra một thứ quyền uy tàn ác.
Người
ấy trong tâm lý có hai ý thức rất đơn giản và có thể coi là tốt, nhưng vì hắn
cường điệu lên quá cho nên lại thành xấu. Hắn tuyệt đối phục tòng cấp trên và
thù ghét mọi hành động nổi loạn. Đối với hắn, trộm cắp, giết người, tất cả các
tội trọng đều là những hình thức nổi loạn. Hắn tin tưởng tuyệt đối và mù quáng
ở tất cả những người có giữ một chức vụ trong bộ máy nhà nước, từ ông thủ tướng
đến bác tuần phiên. Hắn lại khinh bỉ, thù hằn và ghê tởm tất cả những ai trót
một lần phạm vào luật pháp. Tính hắn rất là cực đoan và không khoan thứ một
ngoại lệ nào: “Đứa phạm tội thì trọn đời mãn kiếp là đồ bỏ đi. Không mong gì
chúng được”.
Hắn
rất tán thành ý kiến của bọn cực đoan đã cho phép luật trần gian có quyền lực
dúi người xuống địa ngục và đã bày ra một cảnh Thập điện ở chỗ dưới cùng của xã
hội chúng ta.
Lúc
nào hắn cũng khắc khổ, nghiêm nghị, tư lự, kiêu hãnh mà hạ mình như những người
cuồng tín. Cái nhìn của hắn xoáy vào da thịt người ta như một mũi khoan, vừa
lạnh lùng, vừa xoi mói. Cả cuộc đời của hắn thu gọn trong hai chữ: tỉnh táo và
canh phòng. Hắn thẳng như mực tàu ở một nhiệm vụ ngoắt ngéo nhất, hắn biết công
việc của hắn có ích cho người ta, hắn tôn thờ chức vụ của hắn, hắn làm mật thám
một cách kính cẩn như người ta làm mục sư. Vô phúc cho kẻ nào rơi vào tay hắn!
Ví thử cha hắn vượt ngục, hắn cũng cứ bắt; mẹ hắn phạm pháp, hắn cũng cứ tố
cáo. Hắn làm các công việc ấy một cách đắc ý như người ta làm việc thiện. Thêm
vào đó, một đời sống khổ hạnh, cô độc, quên mình, trong sạch, không bao giờ vui
đùa. Hắn là hiện thân của nhiệm vụ cứng rắn, của an ninh khắc nghiệt, là một
anh lính canh phòng không nể nang, là một thứ lương thiện đáng sợ, là một tên
tố giác lạnh lùng, là công lý dưới mặt mũi một hung thần.
Tất cả
con người Giave thể hiện sự rình mò, lén lút. Hồi bấy giờ, trên mặt báo chí của
phái siêu bảo hoàng thường thấy gia vị những bài về lịch sử vũ trụ của một trường
phái thần bí! Giá những bài ấy đề cập đến Giave thì chắc hẳn sẽ cho hắn là một
biểu tượng. Không thấy trán vì cái mũ sùm sụp; không thấy mắt vì lông mày rậm,
không thấy cằm vì chiếc khăn quàng quấn kín cổ, không thấy tay vì tay thọc vào
túi áo rộng, không thấy gậy giấu dưới áo. Nhưng khi cần thì đột nhiên mọi cái
ấy từ trong bóng tối xông ra như một đoàn quân phục kích: cái trán hẹp và gồ,
con mắt ác, cái cằm khiếp người, hai bàn tay hộ pháp và chiếc dùi cui tướng.
Những
lúc rỗi rãi, mà Giave ít khi rỗi, hắn có đọc sách tuy ghét sách vở. Bởi thế hắn
không đến nỗi là người dốt lắm. Cứ nghe văn nói cầu kỳ của hắn thì biết.
Hắn
không có một tật xấu gì, như ta đã nói. Khi nào đắc ý, hắn tự thưởng cho mình
một mồi thuốc lá. Hắn còn có chút gần nhân loại là ở chỗ đó.
Giave
là sự kinh hoàng của bọn người mà hồ sơ tư pháp gọi chung là hạng lưu manh.
Nghe đến tên Giave là họ tháo chạy, nhìn thấy mặt Giave là họ chết đứng.
Đó là
con người ghê gớm.
Giave
như một con mắt luôn dán lên người ông Mađơlen. Nghi ngờ và thóc mách. Ông
Mađơlen cũng nhận thấy thế, nhưng hình như ông coi thường cái đó. Ông chẳng hề
hỏi Giave; ông không tìm hắn cũng không lánh hắn, làm như không chú ý gì đến
cái nhìn khó chịu và nặng nề của hắn. Ông đối xử với Giave cũng thoải mái và tử
tế như đối với mọi người.
Vì mấy
câu Giave lỡ lời nói hở, người ta đoán hắn đang bí mật dò xét hành tung trước
kia của ông Mađơlen. Sự tò mò của hắn vừa là do bản năng, vừa là có ý thức. Có
khi hắn nói úp mở là có người đã điều tra ở một nơi nào đó về một gia đình nào
đó đã mất hút. Một lần, hắn lẩm bẩm nói một mình: “Ta chắc nắm được nó rồi!”
Rồi hắn nghĩ ngợi rất lung trong ba ngày liền, không nói năng gì cả. Hình như
cái đầu mối hắn tưởng như nắm được lại đứt mất hay sao ấy!
Thật
ra, trong con người, không có một năng khiếu nào là tuyệt đối không bao giờ lầm
lẫn. Điều này là sự điều chỉnh cần thiết đối với những từ có nghĩa là quá tuyệt
đối. Tính chất của bản năng là có thể loạng choạng, lạc đường, mất dấu. Nếu
không bản năng đã hợp lý trí và vật đã hơn người! Giave tất nhiên có ngại ngùng
trước thái độ bình tĩnh hoàn toàn và rất thản nhiên của ông Mađơlen.
Thế mà
một hôm cái điệu bộ lạ lùng của hắn đã làm ông Mađơlen chột dạ. Câu chuyện ấy
như thế này.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 5
Chương 6
CỤ PHÔSƠLƠVĂNG
Sáng
hôm ấy, ông Mađơlen đi qua một phố nhỏ không lát đá. Ông nghe tiếng ồn ào và
thấy có đám đông. Đến nơi thì là một ông lão tên là Phôsơlơvăng bị cỗ xe đè lên
người vì con ngựa kéo xe ngã quỵ.
Lão
Phôsơlơvăng là một trong số rất ít người còn nuôi ác cảm với Mađơlen.
Phôsơlơvăng nguyên là thư ký văn khố và là một nông dân biết chữ nghĩa. Lúc ông
Mađơlen đến Môngtơrơi, lão đang kinh doanh buôn bán nhưng bắt đầu thua lỗ.
Thấy
cái anh thợ quèn ở đâu đến ấy làm giàu vùn vụt còn lão, hạng chủ, lại cứ lụn
bại dần, lão đâm ghét cay ghét đắng ông Mađơlen. Lão không bỏ lỡ một dịp nào có
thể làm hại ông. Sau Phôsơlơvăng bị vỡ nợ, tuổi già, vợ con chẳng có ai, cơ
nghiệp chỉ còn lại có cỗ xe và con ngựa, lão phải đánh xe chở thuê để nuôi
thân.
Hôm ấy
con ngựa bị gẫy hai bên đùi không thể đứng dậy được. Lão bị chẹt dưới gầm xe
giữa hai bánh. Khốn khổ lão ngã xuống thế nào mà cả cỗ xe đè lên ngực lão. Xe
thì xếp đầy hàng nặng. Lão đương kêu rên thảm thiết. Mọi người đã thử kéo lão
ra nhưng vô hiệu. Vả lại, chỉ chuyển sai một cái, xê dịch vụng về một tí hoặc
đẩy không đúng chỗ là giết chết lão ngay. Muốn gỡ cho lão, chỉ còn mỗi một cách
là nâng cái xe từ dưới lên. Giave cũng vừa đến đấy lúc xảy ra tai nạn; hắn đã
sai người đi tìm một cái kích.
Ông
Mađơlen đến, mọi người kính cẩn dạt ra. Lão Phôsơlơvăng vẫn kêu:
- Ai
cứu tôi với. Ai là người tốt bụng làm phúc cứu gìa này.
Ông
Mađơlen hỏi các người đứng quanh đó:
- Có
kích không?
Một
người nông dân đáp:
- Đã
có đi mượn rồi.
- Phải
chờ bao lâu?
- Chỗ
gần nhất là ở phố Phơlasô, có anh thợ đóng móng ngựa. Nhưng thế nào cũng phải
mất mười lăm phút là ít.
Ông
Mađơlen kêu lên:
- Mười
lăm phút ư!
Hôm
trước trời vừa mưa, đường đất lầy nhão, nên cái xe cứ lún dần xuống và ép ngực
ông già. Trong năm phút nữa chắc chắn là lão sẽ gãy hết xương sườn.
Ông
Mađơlen quay lại:
-
Không thể đợi mười lăm phút được đâu!
- Cũng
phải đợi chứ biết làm thế nào?
- Đợi
thì không kịp mất! Các bác không trông thấy xe mỗi lúc một lún sâu xuống đấy à?
- Có
thấy chứ ạ!
- Thế
này nhé. Ở dưới gầm xe còn vừa đủ chỗ cho một người chui vào lấy lưng nẩy xe
lên. Chỉ cần nửa phút thôi đủ kéo ông lão ra. Ở đây ai có lòng thương người và
có sức khỏe? Tôi xin biếu đồng năm lu-i vàng.
Không
ai nhúc nhích.
- Mười
đồng.
Mọi
người cúi mặt. Có ai lầm bầm:
- Phải
là người khỏe ghê gớm lắm mới làm nổi.
-
Không khéo lại chết bẹp theo nữa!
Ông
Mađơlen lại bảo:
- Thế
nào? Hai mươi đồng vàng đấy!
Vẫn im
lặng. Có ai nói:
-
Không phải là người ta không có bụng tốt.
Ông
Mađơlen quay lại, trông thấy Giave. Lúc mới đến, ông không trông thấy hắn,
Giave nói tiếp:
- Chỉ
thiếu sức khỏe thôi. Lấy lưng mà nâng một cái xe nặng thế này, phi người nào có
sức khỏe ghê gớm thì ai làm nổi.
Rồi
hắn nhìn chòng chọc vào mặt ông Mađơlen và nhấn từng tiếng:
- Thưa
ông Mađơlen, bình sinh tôi chỉ biết có mỗi một người có thể làm nổi cái việc
ông nói đó.
Ông
Mađơlen giật mình.
Giave
thản nhiên nói tiếp, mắt không rời ông Mađơlen:
- Đó
là một tên tù khổ sai.
- Thế
à?
- Ở
nhà lao Tu-lông.
Ông
Mađơlen tái mặt.
Cỗ xe
từ từ lún xuống. Lão Phôsơlơvăng vừa rên vừa rú:
- Tôi
chết chẹt mất! Tôi gẫy xương ức rồi! Cho cái kích! Hay gì cũng được… Trời ôi!
Ông
Mađơlen nhìn quanh lượt nữa:
-
Không có ai muốn lấy hai mươi đồng vàng và cứu sống ông lão tội nghiệp này ư?
Không
một ai cựa quậy. Giave lại nói:
- Suốt
đời tôi chỉ biết có một người thay nổi cái kích. Đó là tên khổ sai kia.
Ông
lão ở dưới xe kêu lên:
- Trời
ơi! Nó nghiến bẹp tôi rồi!
Ông
Mađơlen ngẩng đầu gặp con mắt vọ của Giave chòng chọc nhìn mình. Ông quay nhìn
những người nông dân im ỉm và ông mỉm cười buồn bã. Rồi chẳng nói chẳng rằng,
ông quì sụp xuống. Mọi người chưa kịp kêu lên lấy một tiếng thì ông đã luồn
người vào dưới gầm xe. Phút chờ đợi lặng lẽ và khủng khiếp.
Người
ta thấy ông Mađơlen nằm rạp người sát đất ở dưới cỗ xe nặng. Hai lần ông lấy hết
sức nhổm hai khuỷu tay và hai đầu gối sát nhau nhưng vô hiệu. Ở ngoài người ta
kêu ầm lên: “Bác Mađơlen! Chui ra thôi!” Lão Phôsơlơvăng cũng bảo: “Ông
Mađơlen, ông ra đi! Trời bắt tôi chết, ông thấy đó, để mặc tôi! Kẻo lại chết
bẹp cả đôi bây giờ!” Ông Mađơlen không trả lời.
Công
chúng phập phồng lo ngại. Đôi bánh xe cứ lún dần mãi xuống. Đã đến lúc ông
Mađơlen có muốn chui ra cũng không được nữa.
Bỗng
nhiên cỗ xe to lớn chuyển mình rồi nhích lên từ từ, nâng đôi bánh lên khỏi hố
lầy được non nửa. Có tiếng người hổn hển kêu: “Mau lên! Hộ một tay!” Đó là ông
Mađơlen đang cố sức lần cuối.
Ai nấy
xô lại. Một người tận tâm đã làm mọi người thấy khỏe lên và hóa ra can đảm. Hai
mươi cánh tay lực lưỡng bốc hẳn cỗ xe lên.
Lão
Phôsơlơvăng thoát chết.
Ông
Mađơlen đứng dậy, mặt tái mét, mồ hôi nhễ nhại, quần áo rách tơi và bê bét
những bùn. Người ta cảm động rơi nước mắt. Lão Phôsơlơvăng ôm gối mà hôn và gọi
ông là đức Chúa lòng lành. Còn ông Mađơlen thì nét mặt thật là khó tả; vừa đau
đớn vừa lộ một vẻ thoải mái cao cả. Cặp mắt của ông bình tĩnh nhìn lại mắt
Giave từ trước vẫn đăm đăm trên người ông.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 5
Chương 7
PHÔSƠLƠVĂNG THÀNH NGƯỜI LÀM VƯỜN Ở PARIS
Lão
Phôsơlơvăng ngã bị sai mất một bên bánh chè. Ông Mađơlen sai người vực lão về
bện xá dành riêng cho thợ. Bệnh xá nằm ngay trong nhà máy, có hai bà phước phụ
trách. Hôm sau, khi thức dậy, lão thấy trên đầu giường có một tờ bạc một nghìn
phơrăng và mấy chữ của ông Mađơlen: “Tôi mua lại ông cỗ xe và con ngựa”. Cỗ xe
thì gẫy nát và con ngựa đã chết.
Phôsơlơvăng
khỏi bệnh nhưng đầu gối thành tật. Ông Mađơlen nhờ các bà sơ và cha xứ giới
thiệu và thu xếp cho lão vào làm vườn ở một tu viện nữ ở khu Xanh Antoan tại
Paris.
Sau đó
ít lâu, ông Mađơlen được cử làm thị trưởng. Lần đầu tiên Giave thấy ông mang
phù hiệu của người đứng đầu chính quyền địa phương, hắn như một con chó dữ đánh
thấy hơi sói trong người ông chủ mình. Từ đấy hắn cố tránh mặt ông. Khi nào
công việc quá cần thiết đòi hỏi hắn gặp ông, hắn tỏ ra rất tôn kính.
Đất
Môngtơrơi được phồn thịnh là nhờ có ông Mađơlen. Ngoài những dấu hiệu phồn
thịnh bên ngoài ai cũng trông thấy, còn có một điểm khó thấy nhưng không kém ý
nghĩa. Đó là một dấu hiệu rất chắc chắn. Lúc nhân dân chật vật, công ăn việc
làm thiếu thốn, sự buôn bán đình trệ, thì thuế má thu khó khăn, vì người ta
không có tiền đóng nên dây dưa và chi phí của nhà nước về việc thu thuế rất
lớn. Khi có công ăn việc làm, mọi người no đủ, thì thuế má thu được dễ dàng và
phí tổn ít. Có thể nói phí tổn thu thuế là cái nhiệt biểu để lấy độ thịnh suy
của nền kinh tế ở một vùng. Trong bảy năm, các khoản kinh phí thu thuế ở
Môngtơrơi giảm đi được ba phần tư. Vì thế Vilen, Bộ trưởng Bộ tài chính, thường
nêu Môngtơrơi làm gương cho các tỉnh khác.
Đó là
tình hình trong xứ khi Phăngtin trở về quê cũ. Không ai còn nhớ đến chị. May
thay, cánh cổng xưởng ông Mađơlen lại như một tấm lòng bạn. Khi chị đến xin
việc thì được nhận ngay vào làm ở khu phụ nữ. Công việc chưa quen, chị làm tất
nhiên không khéo, vì thế đồng lưong công nhật cũng không là bao nhiêu. Tuy vậy
cũng tạm đủ sống, thế là được rồi.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 5
Chương 8
MỤ VITUYẾCNIÊNG TIÊU BA MƯƠI LĂM PHƠRĂNG VỀ KHOẢN ĐẠO ĐỨC
Phăngtin
thấy có việc làm ăn thì cũng vui được một độ. Sống lương thiện bằng hai bàn tay
lao động, đó quả là một ân huệ trời ban. Lòng ham thích lao động trở lại với
chị. Chị sắm một cái gương và sung sướng ngắm cái vẻ tươi trẻ, mái tóc óng ả,
hàm răng xinh đẹp của mình. Chị quên nhiều nỗi cay cực trước đây, chị chỉ còn
nghĩ đến con Côdét của chị và tương lại hứa hẹn. Chị thấy sung sướng rồi. Chị
thuê một căn phòng, mua chịu một ít đồ đạc, hẹn lĩnh công trả dần, đó cũng là
một tí tàn tích còn sót lại của các sống bừa bãi trước kia.
Không
thể nói là mình đã có chồng, chị cũng không dám nói là có con.
Những
tháng đầu, chị gửi tiền về trả vợ chồng nhà Tênácđiê sòng phẳng. Vốn chỉ biết
ký mấy chữ tên, chị phải thuê người viết thư hộ.
Chị
thuê viết thư luôn, làm nhiều người để ý. Ở bên xưởng đàn bà người ta bắt đầu
xì xào rằng Phăngtin “hay gửi thư” và “có vẻ khả nghi”.
Thiên
hạ càng hay thóc mách những chuyện không can dự đến họ.
- Tại
sao ông kia lại cứ tối tối mới lần mò đến nhỉ? Sao ông nọ cứ thứ năm thì không
móc chìa khóa ở chỗ mọi bữa? Và ông ta lại cứ chọn phố nhỏ mà đi? Sao bà này
lúc nào cũng xuống xe trước khi về đến nhà? Sao cô kia còn khối giấy viết thư
đã mua thêm cặp nữa?… Có người vì muốn khám phá những loại bí mật như trên,
những việc hoàn toàn không dính dấp đến họ, đã tiêu phí nhiều tiền của, thời
giờ, công sức hơn là làm mười việc từ thiện. Họ tò mò không vì gì cả, tò mò cho
vui, tò mò chỉ vì thích tò mò thôi. Họ theo dõi cậu kia, cô nọ hàng ngày, đứng
rình hàng giờ ở góc phố, xó tường, mặc đêm tối, mặc mưa phùn, gió rét. Họ cho
tiền những đứa đem thư, đãi rượu anh xe, người ở, mua chuộc cô sen, bà vú, lấy
lòng những người coi cổng. Để làm gì? Chẳng làm gì cả. Chỉ do cuồng ý muốn
trông, muốn biết, muốn thông tỏ việc người. Chỉ do cái ngứa ngáy của tật mách
lẻo. Nhiều khi biết được điều bí mật của người ta, thóc mách nói đi nói lại, phơi
trần nó ra ánh sáng là đưa người ta tới đổ vỡ, đấu gươm, phá sản, gia đình tan
nát, thân thể điêu linh. Gây họa như thế chỉ để khoái bụng là đã khám phá ra
được mọi việc. Hại người ta vì tật thóc mách chẳng vì lợi ích gì! Thật đáng
buồn.
Có
những kẻ chỉ vì ngứa miệng ba hoa mà hóa ra độc ác. Họ tán gẫu trong phòng
khách, họ thóc mách ở hành lang. Chuyện của họ giống như những lò sưởi xấu,
phải bỏ vào rất nhiều củi. Củi ở đây là người khác, người chung quanh.
Thế là
bọn ấy có Phăngtin.
Đã
vậy, Phăngtin lại bị chúng ghen ghét vì chị có mớ tóc vàng, hàm răng trắng.
Họ
nhận ra rằng, ở xưởng, đang làm với các chị em Phăngtin thường quay mặt đi gạt
thầm một giọt nước mắt. Những lúc ấy chị nhớ đến con và biết đâu lại không nhớ
cả đến tình xưa người cũ.
Thì ra
cắt đứt với dĩ vãng đen tối là một việc vô cùng khó khăn và đau đớn.
Họ
nhận thấy rằng chị gửi thư ít nhất mỗi tháng hai lần, gửi mãi cho một người và
thư có dán tem. Họ lần mò tìm biết được địa chỉ: “Ông Tênácđiê, chủ quán ở
Môngphecmây”. Họ đưa người viết mướn đến quán rượu gợi chuyện, lão già viết
mướn ấy cứ “tửu nhập là ngôn xuất”. Do đấy họ biết Phăngtin có con. “Cũng lại
phường mèo mã gà đồng thôi”. Họ bảo với nhau thế. Có một con mụ lắm chuyện thân
hành đi đến tận Môngphecmây, thăm hỏi vợ chồng Tênácđiê, rồi trở về khoe: “Tôi
mất ba mươi lăm quan, nhưng từ nay thì yên trí. Tôi đã trông thấy đứa bé!”
Con mụ
ấy là một con yêu quái. Tên nó là mụ Vituyếcniêng. Nó là người canh cổng đức
hạnh cho mọi người. Tuổi đã năm mươi sáu vừa già vừa xấu. Giọng nói the thé,
tính tình đồng bóng. Điều lạ là mụ cũng có thời son trẻ. Hồi ấy, ngay năm 93,
mụ lấy một thầy tu bỏ tu đi theo cách mạng. Người mụ khô, cứng, gai góc, sắc
nhọn, gần như độc ác, mặc dù mụ rất thương nhớ ông chồng thầy tu đã để mụ góa
bụa và đã nghe lời ông mà tu tỉnh sửa chữa đi rất nhiều. Có thể nói mụ như cây
gai tua tủa mà chiếc áo cứng của ông thầy tu đã chà xát qua lại làm gãy bớt đi
nhiều. Đến thời Quân chủ phục hưng, mụ dốc tâm đóng vai một mụ già ngoan đạo,
quyết chí đến mức các cha cố cũng phải bỏ qua cho mụ.
Chính
mụ Vituyếcniêng này đã đi Môngphecmây về và nói: “Tôi đã trông thấy đứa bé!”
Công
việc rõ là thóc mách ấy cũng phải mất nhiều thì giờ. Phăngtin vào xưởng làm
được một năm thì một buổi sáng, người nữ giám thị đưa cho chị năm mươi phơrăng
nói là của ông thị trưởng biếu chị. Người giám thị cho chị biết là chị không
được làm ở xưởng nữa và theo lời dặn của ông thị trưởng khuyên chị nên đi xứ
khác.
Lúc ấy
cũng là lúc mà vợ chồng Tênácđiê trước đã tăng tiền tháng từ sáu lên mười hai
phơrăng, nay lại đòi lên mười lăm phơrăng.
Phăngtin
nghe thấy thế cũng bằng sét đánh. Chị không thể bỏ đi đâu được vì còn nợ tiền
nhà, tiền bàn ghế. Năm mươi phơrăng không đủ để trả món nợ ấy. Chị lúng búng
nói mấy câu van nài. Người giám thị bắt chị phải ra ngay khỏi xưởng. Vả lại
Phăngtin cũng chỉ là một người thợ tầm thường thôi. Xấu hổ còn nhiều hơn là
thất vọng, chị từ giã xưởng làm việc, đi về nhà. Vậy ra cái việc xấu của chị
bây giờ ai cũng biết!
Chị
thấy không còn đủ sức nói một lời gì nữa. Có người khuyên chị tìm đến ông thị
trưởng mà van xin; chị không dám đi. Ông ta cho chị năm mươi phơrăng vì ông là
người tốt, còn ông ta đuổi chị ra khỏi xưởng vì ông là người chính trực. Chị
cúi đầu trước cái lệnh ấy.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 5
Chương 9
MỤ VITUYẾCNIÊNG THÀNH CÔNG
Cái mụ
góa của ông thầy tu ấy mà được việc. Thật ra ông Mađơlen không biết gì về
chuyện đó cả.
Những
chuyện như thế thường thấy trong đời, do bao nhiêu sự việc chồng chéo nhau mà
sinh ra.
Ông
Mađơlen vốn không mấy khi lui tới chỗ phân xưởng phụ nữ. Ông giao bộ phận này
cho một bà cao tuổi mà không chồng, do cha xứ giới thiệu. Ông tin cậy người nữ
giám thị ấy và bà này cũng là người đứng đắn, cương quyết, công bằng, liêm
chính, giàu lòng từ thiện. Nhưng lòng từ thiện của bà ấy là thứ từ thiện chỉ
biết bố thí mà không biết thông cảm cảnh ngộ và dung thứ lỗi lầm. Ông Mađơlen
giao cho bà ta định đoạt mọi việc. Những người tốt nhất cũng nhiều khi bắt buộc
phải ủy một phần quyền hành của mình cho người khác. Cũng vì sẵn có quyền tối cao
đó và tinh tưởng là mình làm đúng, cho nên bà giám thị đã thẩm tra, xét xử, lên
án và thi hành bản án Phăngtin.
Còn
như số tiền năm mươi phơrăng thì bà ta trích ở quỹ ông Mađơlen giao cho để giúp
đỡ các chị công nhân, không phải báo cáo lại.
Phăngtin
đi xin ở mướn. Chị đi hết nhà này qua nhà khác mà chẳng có ai chịu mướn. Chị
không thể bỏ đi đâu được. Lão lái đã bán chịu đồ đạc cho chị, - mà đồ đạc đâu
có ra hồn đồ đạc – dọa chị là hễ chị bước ra khỏi đất ấy, thì lão sẽ đi thưa
chị là người ăn cắp. Lão chủ nhà mà chị còn nợ tiền buồng bảo: “Chị vừa trẻ lại
vừa đẹp làm gì mà không trả được nợ?” Chị đem số năm mươi phơrăng chia ra trả
cho hai bên ấy và hoàn lại ba phần tư đồ đạc. Chị chỉ giữ vài thứ quá cần
thiết. Thất nghiệp, tay không, chị chỉ còn độc một chiếc giường và mang nợ
quãng một trăm phơrăng.
Chị
nhận khâu thuê sơ mi lính bằng vải thô kiến được mười hai xu một ngày. Thế mà
mỗi một khoản con chị cũng đã phải chi mất mười xu rồi. Đây là thời kỳ gửi tiền
trả cho nhà Tênácđiê thất thường.
May
sao cái bà già thường ngày vẫn đốt đèn cho chị lúc chị về khuya, lại dạy cho
chị cách sống trong nghèo khổ. Biến lối sống với rất ít tiền, còn lối sống
không có một trinh, một chữ. Đó là hai cái buồng: một buồng mập mờ, một buồng
tối om.
Mùa
đông Phăngtin tập bỏ hẳn lò sưởi. Phăngtin dứt được với con chim nuôi chơi, nó
ăn hai ngày một trinh hạt kê, chị học cách lấy váy làm chăn và lấy chăn làm
váy, cách ghé cửa sổ để ăn cơm dưới ánh đèn hàng xóm cho đỡ tốn nến nhà mình.
Có ai biết với một xu, những con người yếu hèn sống già đời trong cảnh khốn
cùng và lương thiện, đã tiêu dùng được những việc gì. Phải biết là tài tình!
Thật là tài tình. Phăngtin đã học được cái tài đó, vì thế chị cũng bớt thất
vọng phần nào.
Dạo
ấy, chị nói với một bà láng giềng: - “Chà! Tôi nghĩ rằng cứ ngày ngủ năm giờ,
còn thì ngồi mà khâu may, chẳng gì cũng kiếm được tạm đủ cơm ăn. Vả lại, đã
buồn cả ruột thì ăn cũng chẳng là bao. Ôi chao! Những sự đau đớn và lo âu phiền
muộn cộng với ít bánh mì, thế cũng đủ sống rồi”.
Trong
cảnh cùng quẫn ấy, nếu có con bé bên cạnh thì hạnh phúc biết bao nhiêu. Chị
nghĩ đến việc đưa con về. Nhưng về thế nào được! Về để cùng nhịn đói nhịn khát
ư? Vả lại, còn thiếu tiền của Tênácđiê thì sao? Lấy gì mà trả? Còn tiền ăn
đường đào đâu ra?
Bà già
dìu dắt Phăngtin trong cảnh nghèo nàn đó là một bà già nhân hậu, tên là
Macgơrít. Bà một lòng ngoan đạo, thờ Chúa, bà nghèo nhưng hảo tâm với người
khốn khổ và cả với người giàu sang. Bà chỉ biết viết một chữ tên và tin Chúa,
đó mới thực là tri thức chân chính.
Có rất
nhiều những người đạo đức như thế ở các bậc thang thấp nhất trong xã hội. Một
ngày kia họ sẽ lên trên, lên trời. Đời sống như thế ắt phải có hậu.
Những
ngày đầu mất việc, Phăngtin xấu hổ quá không dám đi đâu cả. Mỗi khi ra phố, chị
cảm thấy ai cũng trông theo chị mà chỉ trỏ. Ai cũng giương mắt nhìn chị mà
không thèm chào hỏi: sự khinh bỉ chua chát, lạnh lùng của kẻ qua đường xoáy vào
thịt da, tâm hồn chị, buốt như ngọn gió bấc.
Ở tỉnh
nhỏ, người đàn bà xấu số thấy như mình đứng trần truồng trước những lời chế
giễu và con mắt tò mò của mọi người. Ở Paris còn được một điều là chẳng ai biết
đến ai; sự vô danh che thân ta như là quần áo. Chao ôi! Chị ao ước được về
Paris biết bao! Nhưng không có cách.
Rồi
chị cũng phải quen với sự kinh bỉ cũng như đã quen với cảnh túng đói. Lâu dần
chị cũng dứt khoát. Hai ba tháng sau, chị rũ bỏ sự hổ thẹn, đi lại ngoài phố
như không có chuyện gì xảy ra. Chị thầm bảo: “Cóc cần!” Và chị đi lại, đầu
ngẩng cao, nụ cười ngao ngán. Chị cảm thấy mình đương hóa ra trâng tráo.
Đôi
khi mụ Vituyếcniêng tựa cửa nhìn chị đi qua. Mụ nhận thấy cảnh cùng đồ của chị.
Mụ lấy làm khoái chí vì đã làm cho ngữ ấy không thể lộn sòng được. Cái khoái
chí của lũ độc ác sao mà đen tối thế!
Phăngtin
lao lực quá nên suy yếu đi, bệnh ho khan càng tăng. Chị thường bảo bà Macgơrít:
- Bà
thử sờ xem, tay tôi nóng chửa!
Tuy
thế, mỗi buổi sáng, khi chiếc lược sún chải vào mớ tóc vàng buông xõa óng như
tơ, thì trong giây phút chị lại cảm thấy vui vui, vì đẹp.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 5
Chương 10
HẬU QUẢ CỦA THÀNH CÔNG
Phăngtin
bị đuổi ra khỏi xưởng vào một ngày cuối đông. Từ độ ấy, một mùa hè đã qua, rồi
mùa đông lại trở về. Ngày ngắn, chị làm việc được ít. Mùa đông không có hơi ấm,
không có ánh sáng, không có canh trưa, buổi chiều và buổi sáng liền nhau, lúc
nào cũng có sương mù, lúc nào cũng như hoàng hôn, cửa kính mờ xám, không trông
rõ ra ngoài nữa. Cả bầu trời như một cái cửa thông hơi dưới hầm, cả ngày bưng
bít như trong một cái hũ. Mặt trời trông thiểu não như một người nghèo. Cái mùa
ghê gớm! Nó biến nước trời và lòng người thành đá. Bọn chủ nợ giày vò Phăngtin.
Tiền
chị kiếm ra quá ít ỏi. Nợ càng ngày càng nhiều. Thấy tiền gửi thất thường, vợ
chồng Tênácđiê luôn luôn viết thư thôi thúc. Lời thư làm cho chị khổ tâm, bưu
phí làm cho chị cạn túi. Một lần, chúng viết thư nói rằng trời rét thế mà con
Côdét của chị trần truồng rách rưới; cần sắm cho nó một cái váy len, vậy phải
gửi ngay cho chúng mười phơrăng. Phăngtin nhận thư, cả ngày cầm trong tay đến
nhàu nát. Buổi chiều chị đến một hiệu cắt tóc ở phố. Chị bỏ lược, mớ tóc vàng
óng ả đổ xuống đến ngang lưng. Người thợ cạo trầm trồ:
- Ôi!
Tóc đẹp quá!
Phăngtin
hỏi:
- Ông
trả tôi bao nhiêu?
- Mười
phơrăng.
- Ông
cắt đi.
Chị
mua một cái váy len gửi cho vợ chồng Tênácđiê. Nhận được váy, vợ chồng chúng
tức điên ruột. Chúng muốn Phăngtin đưa tiền kia. Chúng đem váy mặc cho Epônin,
con Sơn ca đáng thương thì vẫn rét run cầm cập.
Phăngtin
nghĩ: “Con ta không rét nữa. Ta đã lấy tóc ta dệt cho con mặc rồi”. Chị đội mũ
chụp nhỏ để giấu cái đầu trụi tóc, tuy thế vẫn còn xinh.
Lòng
người đàn bà ấy đang chịu những giày vò đen tối. Khi chị thấy không chải chuốt
được nữa, chị đâm thù ghét tất cả. Cả đến ông Mađơlen mà chị cũng như tất cả
mọi người, vẫn kính phục xưa kia, chị cũng phát ghét, ghét cay đắng, ghét hơn
ai hết, vì chị đã lặp đi lặp lại quá nhiều lần rằng ông đã đuổi chị, làm cho
chị khốn khổ đến thế. Những khi đi qua xưởng cũ có thợ thuyền đứng trông, chị
vờ cười và hát to lên.
Một bà
thợ già một hôm trông thấy chị cười và hát như thế, bảo: “Cái chị này rồi cũng
chả ra gì”.
Phăngtin
lòng đầy uất hận, bắt nhân tình bừa với một người, chẳng cân nhắc gì, người đầu
tiên mà chị gặp, một người mà chị không yêu, như muốn trêu tức mọi người vậy:
người ấy là một thằng khốn nạn, một tên gảy đàn hành khất, một đứa vô nghề nghiệp
nghèo khốn. Hắn đánh đập chị rồi chán chị, bỏ chị dễ dàng cũng như khi chị bắt
nhân tình với hắn. Phăngtin vẫn yêu quí đứa con hết sức. Chị càng sa đọa, cuộc
đời chị càng đen tối, thì hình ảnh đứa con thơ ngây yêu dấu lại càng sáng chói
trong tâm hồn chị. Chị tự bảo: “Bao giờ ta giàu, thì ta sẽ đón Côdét của ta về
với ta”, và chị cười sung sướng. Chứng ho cũ của chị vẫ không khỏi, lưng lại
thường toát mồ hôi lạnh.
Một
hôm, chị nhận được một bức thư của vợ chồng Tênácđiê như sau: “Côdét mắc một
chứng bệnh đang phát triển ở địa phương, người ta gọi là bệnh sốt ban. Cần
nhiều thứ thuốc đắt tiền để chữa, chúng tôi chạy chữa đến sạt nghiệp, bây giờ
thì chúng tôi không còn tiền nữa. Trong vòng tám ngày, nếu chị không gửi cho
bốn mươi phơrăng thì coi như con bé đi đứt”. Phăngtin cười rộ lên như điên và
nói với bà láng giềng:
- A,
họ quí hóa thật! Bốn mươi phơrăng, có thế thôi! Nghĩa là hai đồng vàng! Đào đâu
ra? Họ thật ngớ ngẩn, những người nhà quê ấy họ ngớ ngẩn thật!
Nhưng
rồi chị lại đi ra phía cầu thang, ghé cửa sổ đọc lại bức thư. Và chị xuống
thang gác, chạy ra phố, vừa chạy vừa nhảy vừa cười khanh khách.
Có
người gặp chị hỏi:
- Có
gì mà chị vui sướng thế hở?
Chị
trả lời:
- Ở
nhà quê họ vừa viết thư cho tôi. Thật là ngu ngốc. Họ đòi tôi gửi bốn mươi
phơrăng. Nhà quê thật!
Khi đi
qua quãng trường, chị thấy có đám đông xúm quanh một chiếc xe kiểu rất lạ. Trên
sàn xe có một người đàn ông mặc áo đỏ đang nói huyên thuyên. Đó là một anh
chàng nhổ răng dạo, đang giới thiệu với mọi người những hàm răng giả trọn vẹn,
những ống thuốc đánh răng, những “nha thống thủy”, “nha thống tán”.
Phăngtin
len vào đám đông và cũng cười như mọi người. Bài diễn thuyết của tên nhổ răng
dạo đầy những tiếng lóng dành cho bọn vô lại và những chữ khó hiểu để cho khách
tử tế. Thấy Phăngtin cười, hắn bỗng kêu lên:
- Cái
chị đang cười kia, răng chị đẹp quá! Nếu chị bán cho tôi hai cái bàn cuốc của
chị thì tôi trả cho chị mỗi cái một đồng vàng.
Phăngtin
hỏi:
- Hai
cái bàn cuốc của tôi là cái gì?
- Hai
cái bàn cuốc là hai cái răng cửa hàm trên ấy – anh nhổ răng nói.
Phăngtin
kêu:
- Nói
gì mà nghe ghê rợn thế!
Một mụ
già móm đứng cạnh nói lẩm bẩm:
- Hai
đồng vàng cơ à! Thật là sướng nhé!
Phăngtin
bịt tai chạy trốn để khỏi nghe giọng nói khàn khàn của anh chàng ấy đuổi theo:
- Nghĩ
kỹ đi chị ơi! Hai đồng vàng được khối việc đấy. Nếu vừa ý, tối nay đến tìm tôi
ở quán Tilắc nhớ.
Phăngtin
về đến nhà, còn lẩm bẩm tức giận. Chị kể chuyện lại cho bà Macgơrít:
- Bà
thử nghĩ xem có nghe được không? Sao lại có thằng cha đáng ghét thế! Sao người
ta lại để cho những đứa như vậy đi dạo khắp nơi? Bẻ hai cái răng cửa của tôi à?
Thế rồi mặt mũi của tôi sẽ ghê gớm như thế nào? Tóc còn mọc lại chứ răng thì
bao giờ! Gớm cái đồ yêu quái! Thà tôi đâm đầu từ tầng gác thứ năm xuống vỉa hè
còn hơn. Hắn bảo tôi là tối nay hắn ở quán Tilắc.
Bà
Macgơrít hỏi:
- Thế
hắn trả bao nhiêu?
- Hai
đồng vàng.
- Thế
là bốn mươi phơrăng.
-
Vâng, thế là bốn mươi phơrăng – Phăngtin nhắc lại.
Chị
yên lặng, trầm ngâm rồi giở việc ra làm. Mười lăm phút sau, chị bỏ đồ khâu đấy
và chạy ra cầu thang đọc lại cái thư Tênácđiê. Khi trở vào, chị hỏi bà Macgơrít
ngồi khâu bên cạnh:
- Bà
nhỉ, sốt phát ban là gì nhỉ, bà có biết không?
- Có,
đó là một thứ bệnh.
- Chữa
bệnh này cần nhiều thuốc lắm phải không?
- Ồ,
những thứ thuốc ghê gớm lắm!
- Bệnh
ấy đau ở đâu nhỉ?
- Nó
đau như thế đấy.
- Trẻ
con hay mắc, phải không?
- Nhất
là trẻ con, dễ mắc lắm.
- Có
chết được không hở bà.
- Chết
lắm chứ lị.
Phăngtin
lại đi ra để đọc bức thư một lần nữa ở cầu thang.
Đến
tối, nàng ra phố và người ta thấy nàng đi về phía phố Paris là phố các quán
cơm.
Hôm
sau, trời chưa sáng, khi bà Macgơrít sang phòng Phăngtin để cũng ngồi khâu
chung một ngọn nến thì bà ta thấy Phăngtin ngồi trên giường, mặt tái nhợt, lạnh
lẽo, ghê rợn. Nàng không ngủ. Chiếc mũ chụp rơi xuống đầu gối, ngọn nến cháy cả
đêm sắp tàn.
Trước
cảnh tượng bất thường ấy, bà Macgơrít kinh ngạc đứng sững ở ngưỡng cửa như một
pho tượng gỗ. Bà kêu:
- Lạy
Chúa! Cây nến cháy hết cả như thế kia! Có tai biến gì xảy ra, hở chị Phăngtin?
Rồi bà
nhìn Phăngtin đang quay cái đầu trọc lốc về phía bà.
Mới
một hôm mà Phăngtin đã già đi đến mười tuổi.
- Lạy
Chúa! Chị Phăngtin, chị làm sao vậy?
- Có
gì đâu. Tôi vui thì có. Con tôi sẽ không chết về cái bệnh ác nghiệt ấy vì có
thuốc rồi. Tôi rất hài lòng.
Phăngtin
nói thế và chỉ cho bà Macgơrít hai đồng tiền vàng chói ngời trên mặt bàn.
- Ôi
Chúa ơi! Cả một cái gia sản như thế! Chị làm gì mà có được những đồng tiền vàng
ấy?
- Có
đấy ạ?
Phăngtin
trả lời thế thôi và cười. Ngọn nến chiếu rõ mặt chị. Nụ cười rớm máu. Một ít
nước dãi đỏ dính ở hai mép và ở miệng chị có một lỗ hổng đen! Hai cái răng đã
bẻ đi rồi.
Phăngtin
gửi bốn mươi phơrăng ấy cho Tênácđiê. Thật ra thì vợ chồng Tênácđiê đã đánh lừa
nàng để lấy tiền, Côdétkhông ốm.
Phăngtin
ném gương qua cửa sổ. Từ lâu nàng không ở cái phòng ở tầng hai nữa mà lên ở
trên gác xép sát mái nhà, chỉ cài bằng một cái then con, một cái xó mà gác mái
chếch lên mặt sàn, ra vào đụng đầu. Kẻ nghèo khổ chui vào buồng mình ở cũng như
đi sâu vào số mệnh, càng vào càng phải cúi rạp lưng xuống. Phăngtin không có
giường nữa, nàng chỉ có một mảnh giẻ rách gọi là chăn, một cái đệm vứt xuống
sàn và một chiếc ghế nát. Cây hồng con nàng vẫn trông đã chết khô trong một góc
buồng. Trong góc khác có một cái cóng đựng bơ hay dùng đựng nước: mùa rét nước
đông lại, mỗi lần như thế, mặt nước để lại một vành băng trong lòng cóng.
Phăngtin đã không cần biết xấu hổ là gì, đến nay nàng cũng không thiết làm dáng
nữa. Đến thế là hết. Nàng đội những cái mũ chụp bẩn đi ra phố. Vị bận hay vì
chán chường, nàng để mặc cho quần áo rách nát, không vá víu nữa. Khi gót bít
tất thủng, nàng gấp vào trong giày làm cho bít tất có những nếp dăn dọc. Nàng
đụp cái coóc xê cũ nát bằng những mụn vải bở, hễ cựa một cái là toạc ra. Chủ nợ
luôn mè nheo, không để cho nàng yên lúc nào. Ở ngoài đường cũng thấy họ, về nhà
cứ đến cầu thang lại đã thấy họ. Đêm nào nàng cũng nghĩ ngợi và khóc lóc. Mắt
nàng sáng quắc lên; nàng luôn luôn đau nhói ở phía trên bả vai bên trái. Nàng
ho nhiều. Nàng thù ông Mađơlen lắm, nhưng nàng không than thở. Nàng khâu mười bảy
giờ một ngày. Nhưng một tên chủ thầu nhà pha lãnh thuê tù phụ nữ khâu giá rẻ,
nên công khâu thuê ở ngoài cũng bị hạ xuống, chỉ được chín xu một ngày. Làm
việc mười bảy giờ mà chỉ được chín xu! Bọn chủ nợ lại càng nghiệt ngã hơn bao
giờ hết. Người bán đồ cũ của nàng đã bắt lại gần hết đồ đạc, thế mà lúc nào hắn
cũng hỏi nàng: “Cái quân này lúc nào mày trả nợ tao?” Người ta còn muốn gì nữa,
hở trời! Nàng thấy mình như một con vật bị người ta săn bắt và đương hóa nên
hung tợn vì bị đuổi cùng đường. Cũng lúc ấy, nhà Tênácđiê viết thư bảo nàng là
chúng đã kiên nhẫn lắm rồi, đã tốt hết sức rồi, phải gửi ngay cho chúng một
trăm phơrăng. Gửi ngay, nếu không chúng sẽ tống cổ Côdét ra cửa mặc cho rét
mướt, mặc cho lang thang, mặc cho vừa thoát khỏi cái bệnh ghê gớm, mặc cho đứa
bé muốn ra sao thì ra, có phải chết đường chết chợ cũng đành.
Phăngtin
tự bảo: “Một trăm phơrăng! Tìm đâu ra một việc làm công nhật năm phơrăng? –
Thôi! Đành bán nốt vậy.”
Thế là
người đàn bà xấu số ấy đi làm gái điếm.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 5
Chương 11
CHÚA GIẢI THOÁT CHÚNG TA
(Nguyên
văn La tinh: Chritus nos liboravit)
Chuyện
của Phăngtin là chuyện gì vậy? Chuyện xã hội mua một người nô lệ.
Mua
của ai? Của cùng khổ.
Của
đói khát, của rét mướt, của cô đơn, của hắt hủi, của trơ trụi. Cảnh mua bán quá
thương tâm: một mẩu bánh đánh đổi một linh hồn. Cùng khổ đem bán, xã hội nhận
mua. Luật Chúa thiêng liêng điều khiển văn minh thế giới, nhưng luật Chúa chưa
đi sâu vào văn minh. Người bảo việc mãi nô không còn ở châu Âu. Nói thế là lầm.
Nó vẫn tồn tại, nhưng nó chỉ làm khổ người phụ nữ. Đó là chế độ mãi dâm.
Nó đè
nặng lên người phụ nữ tức là đè nặng lên duyên dáng, yếu hèn, sắc đẹp, tình mẹ.
Đó là một điều nhục nhã lớn cho bọn đàn ông.
Đến
bước đường bi đát ấy, Phăngtin chẳng còn gì là cô Phăngtin ngày xưa nữa. Trở
thành bùn dơ, nàng cũng hóa ra đá lạnh. Ai chạm phải nàng cũng cảm thấy buốt
tay. Nàng là kẻ qua đường, chịu đựng anh và không biết anh là ai. Nàng ô uế,
nhưng mà nghiêm nghị. Nàng đã đoạn tuyệt với cuộc đời, với xã hội. Cái gì có
thể xảy đến cũng đã xảy đến với nàng rồi. Nàng đã nhận tất chịu tất, thử thách
tất, đau khổ tất, mất tất, khóc thương tất. Bây giờ thì nàng cam chịu với dáng
lạnh lùng, cũng như cái chết có dáng một giấc ngủ. Nàng không lẩn tránh cái gì
nữa cả. Nàng không kiêng sợ cái gì nữa cả. Mưa rào cứ tuôn xuống người nàng đi,
biển cả cứ giội lên người nàng! Sá gì! Nàng đã là một tấm giẻ đẫm nước.
Ấy là
nàng tưởng thế. Nhưng thật là sai lầm khi tưởng tượng rằng mình dốc cạn hết
đắng cay của vận mệnh và đạt tới được chỗ tận cũng của bất kỳ một cảnh huống
nào.
Hỡi
ơi! Những vận mệnh bị xô dồn như thế là thế nào nhỉ? Họ bị đầy đi đâu? Vì sao
lại thế?
Ai
biết điều ấy tức là rõ cái tối tăm huyền bí.
Chỉ có
một kẻ biết. Đó là Chúa.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 5
Chương 12
GÃ BAMATABOA VÔ CÔNG RỒI NGHỀ
Ở tỉnh
nhỏ, nhất là ở Môngtơrơi, có một hạng thanh niên mỗi năm gặm nhấm một ngàn rưỡi
phơrăng lợi tức cùng một kiểu cách như các cậu công tử ở Paris tiêu hai mươi
vạn phơrăng. Đó là một hạng người vô nghĩa: không sinh lực, ăn bám, vô dụng, có
chút ít ruộng đất và nhiều cái dại dột cộng với một ít thông minh. Vào các
phòng khách lịch sự thì họ là người cục súc, mà ở quán rượu thì họ tự cho là
quí tộc. Mở miệng thì nào là “đồng cỏ của tôi” nào là “rừng của tôi, điền tốt
nhà tôi”. Họ huýt còi các cô đào trong rạp để lên mặt ta là người thông thạo,
họ gây gổ với sĩ quan để tỏ rằng mình cũng là khách kiếm mã. Họ cũng đi săn,
hút thuốc lá, ngáp vặt, uống rượu, đánh bi a, đứng xem người ta lên xuống xe,
la cà chốn cao lâu tửu điếm. Họ có một con chó để gặm xương dưới bàn và một cô
nhân tình để dọn cơm lên bàn cũng ăn. Họ tính toán chi li từng xu, họ học đòi
theo thời trang không phải lối, họ có những kiểu cách thị thành rởm. Cứ thế họ
sống già đời ngu độn, không lao động, chẳng ích gì cho đời mà cũng chẳng hại
bao nhiêu.
Phêrit
Tôlômiet mà chỉ ở tỉnh nhà, chẳng biết Paris là gì cả, thì sẽ có một kiểu người
như thế.
Nếu họ
giàu có hơn nữa thì người ta cho họ là kẻ sang trọng, mà nghèo kiết hơn nữa thì
là đứa ăn hại. Thật ra họ chỉ là một bọn vô công rồi nghề. Trong đám, có kẻ
bặng nhặng, có kẻ chán chường có kẻ vẩn vở và có kẻ lố bịch.
Thời
ấy, bộ cánh của một gã sang trọng là một cái cổ áo, một cái cà vạt to, một
chiếc đồng hồ có dây lủng lẳng đồ chơi, ba cái gi lê mặc chồng lên nhau, mỗi
cái một màu, cái xanh trong cùng rồi đến cái đỏ, một cái áo màu ô liu thân
ngắn, đuôi xòe, đính hai hàng cúc bạc dày sít nhau, chạy lên tận vai, một cái
quần cũng màu ô liu nhưng nhạt hơn, đường may ở hai ống thêm những ngấn thêu cho
đẹp, từ một đến mười một nhấn một bên, chứ không bao giờ quá và luôn luôn là số
lẻ. Thêm vào đó còn có đôi giày cao cổ gắn cá sắt ở gót, cái mũ cao, hẹp vành,
mớ tóc bờm xơm, cây ba toong to tướng và những câu bông lơn, bông phèng luôn
luôn trên cửa miệng. Đặc biệt hơn cả là bộ cựa giày và bộ râu trên mép. Bấy giờ
râu mép là dấu hiệu tư sản thị dân, còn cựa sắt có nghĩa là người đi bộ (Cựa
sắt tra vào gót giày những người cưỡi ngựa, để thúc ngựa).
Gã
sang trọng tỉnh lẻ dùng cựa càng dài và tỉa bộ ria càng dữ.
Bấy
giờ các nước cộng hòa Nam Mỹ đang chống lại ách thống trị của vua Tây Ban Nha.
Bôiliva đang lãnh đạo quân cách mạng chống lại Môridô, tướng của nhà vua. Nhân
đó, mũ hẹp vành là bảo hoàng và có tên là Môridô, còn những người phái tự do
thì đội mũ rộng vành gọi là Bôiliva.
Khoảng
đầu giêng năm 1823, nghĩa là tám chín tháng sau những việc vừa kể, vào buổi tối
một ngày mưa tuyết, một chàng công tử, một gã vô công rồi nghề kiểu trên, ăn
mặc đúng thời trang, lại choàng một áo khoác thật ấm, đang tiêu khiển bằng cách
trêu nghịch một gái điếm. Ả này đang lảng vảng trước tiệm cà phê sĩ quan. Ả bận
áo mỏng để hở ngực và vai, trên đầu giắt hoa. Tay công tử hút thuốc lá, cái mốt
bấy giờ là thế.
Mỗi
lần người gái điếm lượn qua thì hắn lại phà khói xì gà vào mặt ả và văng ra
những lời trêu chọc mà hắn cho là hóm hỉnh: “Sao mày xấu như ma lem thế! – Hãy
che mặt đi, con kia! – Mày là con móm!”… Tay công tử ấy tên là Bamataboa. Người
đàn bà trông như con ma dại trát phấn đi đi lại lại trên tuyết, không trả lời,
không thèm nhìn hắn. Ả cứ yên lặng đi, lại, cách năm phút lại đến hứng những
lời chế giễu một lần, y như một tên lính bị phạt đòn qua lại dưới trận mưa roi.
Thấy châm chọc không kết quả, anh chàng đâm tức, bèn rình lúc chị kia quay lưng
lại, khẽ rón rén đi theo, nhịn cười cúi xuống bốc một nắm tuyết bỏ tọt vào lưng
áo hở vai của chị ta; chị rú lên một tiếng, nhảy chồm lên như một con báo, xông
vào cào cấu nát mặt thằng nghịch ác, miệng chửi rủa những lời ghê gớm nhất.
Tiếng chửi rủa khàn khàn vì rượu văng ra từ một cái mồm đen ngòm thiếu cái
răng, trông đến gớm. Người đàn bà ấy là Phăngtin.
Nghe
náo động, bọn sĩ quan trong tiệm kéo cả ra ngoài, người đi đường cũng đứng lại,
tụ tập thành đám đông vây quanh lấy đám đánh nhau mà cười, mà la ó, mà vỗ tay.
Trong đám đánh nhau túi bụi như một cơn lốc, nhìn kỹ mới thấy một anh đàn ông
đương chơi vơi, mũ lăn dưới đất, một chị đàn bà vừa đấm, vừa đá, vừa rú thét,
đầu trần, không răng, không tóc, mặt tái nhợt vì giận, nom thật ghê gớm.
Bỗng
một người cao lớn từ đám đông tiến thẳng ra, tóm ngực áo xa tanh đầy bùn của
người đàn bà, ra lệnh:
- Đi
theo ta!
Người
đàn bà ngẩng lên. Tiếng thét bỗng nhiên nghẽn trong cổ. Hai con mắt chị đờ ra.
Mặt chị đang tái nhợt bỗng hóa ra tái xanh và chị run lên vì kinh sợ. Chị đã
nhận ra người ấy là Giave.
Cậu
công tử nhân lúc lộn xộn chuồn mất.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN 5
Chương 13
GIẢI QUYẾT MẤY VẤN ĐỀ CẢNH SÁT THÀNH PHỐ
Giave
rẽ đám đông, rảo cẳng đi về phía sở cảnh sát ở đầu phố, kéo người đàn bà khốn
nạn lếch thếch theo sau. Chị ta để mặc cho hắn lôi đi như người mất hồn. Cả hai
không ai nói một người. Bọn người đi xem, thích thú cực độ, kéo theo sau, vừa
đi vừa pha trò. Cảnh khổ não cùng cực vẫn là cơ hội cho những lời bông đùa tục
tĩu.
Buồng
giấy sở cảnh sát là một gian nhà thấp có lò sưởi, có bót lính bảo vệ, cửa trông
ra đường kính có song sắt. Giave mở cửa đưa Phăngtin vào trong nhà rồi đóng cửa
lại, làm cho bọn tò mò thất vọng. Họ kiễng chân nghển cổ nhìn qua tấm kính mờ
chỗ bót gác, để xem cho được. Anh tò mò giống như anh tham ăn. Được xem cũng
như được nuốt.
Phăngtin
vào đến buồng giấy, ngồi phệt xuống một xó không dám rỉ răng, không cựa quậy,
thu bốn vó y như con chó sợ đòn.
Viên
đội coi ở đây mang lại một cây nến đặt lên bàn.
Giave
ngồi xuống, rút trong túi ra một tờ tín chỉ rồi bắt đầu viết.
Pháp
luật chúng ta đã giao những phụ nữ này cho cảnh sát được toàn quyền xử lý. Nó
muốn làm thế nào thì làm, muốn phạt thế nào cũng được. Nó tự ý tước đi hai thứ
đáng buồn mà họ gọi là nghề nghiệp và tự do của họ. Giave lạnh như tiền. Bộ mặt
đĩnh đạc của hắn không biểu lộ chút tình cảm nào hết. Song hắn suy nghĩ chăm
chú và nghiêm túc lắm. Đó là lúc hắn thi hành cái quyền lực đặc mệnh đáng sợ
của hắn, với mọi sự thận trọng của một lương tâm nghiêm khắc, tuy không có ai
kiểm soát. Lúc ấy hắn cảm thấy chiếc ghế đẩu cảnh sát viên của hắn là một công
đường. Hắn đang ngồi xử án. Hắn luận án và hắn kết tội. Hắn vận dụng tất cả
những kiến thức của hắn để làm cho tròn cái việc nghiêm trọng ấy. Càng xét việc
đứa gái đĩ ấy, hắn càng thấy phẫn nộ. Không nghi ngờ gì hết, hắn vừa chứng kiến
một tội ác. Thật thế, trước mặt hắn, ngay ngoài phố, một ả vô lại đã lăng mạ xã
hội, đã xúc phạm xã hội trong con người một vị nghiệp chủ - cử tri. Một ả gái
điếm dám xúc phạm một nhà tư sản. Cảnh ấy, chính mắt hắn, chính Giave, đã nhìn
thấy. Hắn yên lặng cắm cúi viết.
Viết
xong, hắn ký tên, gấp tờ giấy lại đưa cho viên đội gác mà bảo:
- Lấy
ba người giải con này vào nhà giam.
Rồi
quay sang phía Phăngtin:
- Mày
đi tù sáu tháng.
Phăngtin
rụng rời, kêu:
- Sáu
tháng! Sáu tháng ở tù! Sáu tháng mỗi ngày chỉ được bảy xu! Thế thì Côdét rồi ra
làm sao? Con ơi! Con! Ông thanh tra ơi, tôi còn nợ nhà Tênácđiê những một trăm
phơrăng nữa, ông có biết cho không?
Chị ta
lết dưới sàn gạch lấm bùn giầy bọn lính, chị chắp tay, cứ quì lê đầu gối đi và
kêu van:
- Ông
Giave ơi, ông sinh phúc cho. Tôi cam đoan với ông rằng không phải lỗi ở tôi.
Nếu ông được chứng kiến ngay từ lúc đầu thì ông đã rõ! Tôi xin thề trước mặt
Chúa là không phải lỗi ở tôi. Chính cái nhà ông tư sản ấy, nào tôi có quen biết
gì đâu, ông ấy bốc tuyết bỏ vào lưng tôi. Khi lũ tôi đi đường không động chạm
gì đến ai, thì người ta có quyền gì lấy tuyết nhét vào lưng chúng tôi như thế?
Tôi bị cóng lạnh. Tôi lại đang ốm dở, ông xem đấy! Với lại trước đó ông ấy cứ
nhạo báng tôi mãi. Nào là: mày xấu lắm! Nào là: mày không có răng! Tôi cũng
biết là tôi không có răng thật. Tôi có làm gì đâu. Tôi tự nhủ: vị này bông đùa
thôi. Tôi có giở ngón gì với ông ấy đâu. Tôi không nói không rằng. Giữa lúc ấy
thì ông ta nhét tuyết vào người tôi. Thưa ông Giave, thưa ông thanh tra phúc
đức! Quanh đây lại không có ai làm chứng cho tôi là đã trông thấy đúng như thế
ư? Có lẽ tôi cũng có trái vì đã nóng giận. Nhưng ông minh xét cho, trong lúc
bất thần như thế, ai mà bình tĩnh được. Ai mà không phát bẳn lên. Vả lại bất
thình lình không ngờ có người bỏ một vật lạnh như thế vào trong lưng thì ai mà
nín được! Tôi cũng biết làm bẹp cái mũ dạ của ông ấy là trái rồi. Làm sao ông
ấy lại bỏ đi ngay không để cho tôi xin lỗi! Trời ơi! Xin lỗi ông ấy thì xin chứ
sao. Ông Giave ơi, xin ông tha cho tôi lần này, lần hôm nay thôi. Ông ơi, ông
không biết cho rằng ở trong tù mỗi ngày chỉ kiếm được có bảy xu – cái đó hẳn là
không phải lỗi ở nhà nước – nhưng chỉ kiếm được có bảy xu mà ông tưởng tượng
xem, tôi phải trả nợ những một trăm phơrăng, không có thì họ tống cổ con tôi
đi. Ôi trời ơi! Tôi không thể để con tôi ở với tôi được. Cái nghề tôi làm xấu
xa lắm! Ôi, Côdét con ơi, con yêu quý của mẹ, rồi con sẽ ra sao, hỡi con chó
tội nghiệp của mẹ? Thưa ông, tôi nói bọn nhà Tênácđiê, bọn bán quán, bọn nhà
quê, chẳng có nhân nghĩa gì. Chúng nó chỉ biết tiền với tiền. Đừng bỏ tù tôi,
ông ơi! Ông biết cho, nếu tôi ở tù thì con bé sẽ bị đuổi ngay ra đường muốn ra
sao thì ra, giữa mùa đông tháng giá thế này. Ông thương cháu bé bỏng với, ông
Giave phúc đức ơi. Nếu nó nhớn nhau một tí, thì kệ nó tự đi mà kiếm ăn lấy,
nhưng nó còn bé dại lắm, chưa biết gì đâu. Tôi vốn không phải là con người hư
thân mất nết. Không phải tại tôi siêng ăn nhác làm gì. Sở dĩ tôi phải uống rượu
là vì khốn khổ quá. Tôi có ưa rượu đâu, song uống vào cho nó quên lãng đi. Khi
tôi còn được sung sướng, ai mở tủ tôi mà xem thì biết rằng tôi không phải là kẻ
đỏm dáng bơ thờ gì đâu. Tôi trước có quần áo, nhiều lắm. Ông Giave ơi! Ông rủ
lòng thương tôi với, ông!
Người
gập lại làm đôi. Phăngtin vừa nói, vừa khóc nức nở, nước mắt ràn rụa, áo xoạc
đến ngực, hai tay vặn vào nhau, thỉnh thoảng ho khan từng cơn ngắn; chị nói lắp
bắp hổn hển, giọng yếu đuối như người hấp hối. Sự đau khổ cùng cực có khi như
một ánh sáng thần diệu và ghê gớm làm đổi nét mặt con người. Phăngtin lúc ấy
trở lại đẹp đẽ. Nhiều khi chị dừng nói, ôm lấy gấu áo của Giave mà hôn một cách
thiết tha.
Trước
cảnh tượng ấy, dầu sắt đá cũng phải chuyển, nhưng quả tim gỗ của tên mật thám
không lay chuyển tí nào.
-
Thôi, ta đã nghe rồi. Mày đã nói hết chưa? Bây giờ thì đi. Đi tù sáu tháng. Dẫu
Chúa cứu thế xuống đây cũng không làm thế nào được!
Phăngtin
nghe đến cái câu tận từ: “Dẫu Chúa cứu thế cũng không làm thế nào được!” thì
hiểu rằng hắn đã nhất quyết như thế rồi.
Chị
ngã sụp xuống, miệng lắp bắp:
- Tha
cho tôi!
Giave
quay lưng đi.
Bọn
lính túm tay chị.
Trước
đấy mấy phút có một người vào trong buồng giấy mà không ai để ý. Người ấy đã
khép cửa và tựa lưng vào cửa, đứng nghe những lời van xin tuyệt vọng của
Phăngtin. Đến khi bọn lính túm lấy chị đàn bà khốn nạn, chị ta không chịu đứng
dậy, thì người ấy bước ra khỏi chỗ tối, bảo:
-
Khoan đã.
Giave
nhìn lên và nhận ra ông Mađơlen. Hắn bỏ mũ chào, dáng lúng túng như có ý bực
mình:
- Thưa
ông thị trưởng, xin lỗi ngài…
Mấy
tiếng “Ông thị trưởng” làm cho Phăngtin như bị điện giật. Chị vươn đứng lên đột
ngột như ma từ dưới mồ, lấy tay gạt mấy người lính ra, tiến thẳng đến trước mặt
ông Mađơlen, những người chung quanh không giữ kịp. Chị nhìn trừng trừng vào
mặt ông, bộ dạng như con dại:
- A!
Vậy ra mày là ông thị trưởng!
Chị
cười lên khanh khách và nhổ một cái vào mặt ông.
Ông
Mađơlen lau mặt, rồi nói:
- Ông
thanh tra Giave, ông hãy thả người đàn bà này ra.
Giave
tưởng mình sắp hóa điên. Cùng một lúc liền, hắn có những cảm xúc mãnh liệt và
dồn dập chưa từng thấy. Mắt trông thấy một đứa gái điếm nhổ vào mặt một ông thị
trưởng, đó là một điều quái gở, chỉ nghĩ là việc ấy có thể xảy ra thôi cũng đủ
là bất kính rồi. Mặt khác, trí óc hắn lờ mờ liên hệ hình ảnh thật của ả gái
điếm với hình ảnh ước đoán về ông thị trưởng kia, do đấy hắn kinh hoàng thấy
rằng việc đại xúc phạm của Phăngtin vừa rồi cũng không có gì là lạ. Nhưng đến
khi hắn thấy ông thị trưởng ấy, ông quan ấy, bình tĩnh chùi mặt và nói: Hãy thả
người đàn bà này ra thì hắn choáng váng kinh khủng. Hắn đứng ngây ra không biết
nói gì, không biết nghĩ thế nào. Chưa bao giờ kinh ngạc đến như thế, hắn nghẹn
mồm như bị câm.
Lời
ông Mađơlen làm cho Phăngtin ngạc nhiên không kém. Chị giơ cánh tay trần nắm
lấy quả nắm cửa lò sưởi, như người sắp ngã. Và chị ngơ ngác nhìn quanh, miệng
lẩm bẩm như nói một mình:
- Thả
ra! Thả tôi ra à! Để cho tôi khỏi phải đi tù sáu tháng! Ai nói như vậy đó? Có
thật có người nói như thế không? Tôi nghe lầm chăng? Chắc chẳng phải cái thằng
thị trưởng trời đánh kia! Ông Giave nhân đức ơi, có phải ông bảo thả tôi ra
không? Trời ơi! Ông ơi! Tôi xin nói ông rõ rồi ông để tôi đi nhé! Cái thằng thị
trưởng trời đánh này, cái thằng chó đểu già thị trưởng này, chính nó đã làm tôi
trăm phần điêu đứng. Thưa ông Giave, ông nghĩ mà xem! Hắn đã đuổi tôi! Chỉ vì
một lũ đàn bà mạt kiếp đã xầm xì trong xưởng. Thế có phải là kinh tởm không? Ai
lại đi đuổi một đứa con gái nghèo khổ cần cù làm ăn! Bị đuổi tôi không kiếm đủ
tiền nuôi con, cho nên mọi sự bất hạnh xảy đến. Tiện đây có một điều mà các ông
sở cảnh sát nên để ý cải thiện, là đừng để bọn thầu khoán trong nhà tù làm hại
bọn người nghèo. Ông ơi, tôi trình bày để ông rõ, công may sơ mi đang là mười
hai xu thì hạ xuống còn chín xu. Thành ra không thể sống được và phải mặc cho
đời ra sao thì ra. Tôi còn con Côdét, túng thì phải tính nên hóa ra người hư.
Bây giờ thì ông đã hiểu bao nhiêu tai ách của tôi đều do cái thằng thị trưởng
ăn mày này đây ra cả. Tôi có xéo bẹp cái mũ dạ của ông tư sản trước tiệm cà phê
sĩ quan. Nhưng ông ta đã ném tuyết làm hỏng cái áo dài của tôi. Nghề chị em
chúng tôi, cả bộ cánh chỉ có chiếc áo lụa để diện buổi tối thôi, Ông xem, tôi
có cố làm hại ai bao giờ đâu, có phải không thưa ông Giave. Tôi thấy chán vạn
đứa hung ác hơn tôi, thế mà chúng nó được sung sướng hơn tôi nhiều. Ông Giave
ơi! Có phải ông bảo người ta thả tôi ra không? Đúng thế chứ? Xin ông cứ cho
điều tra, ông hỏi chủ nhà tôi mà xem, bây giờ tôi đã trả tiền nhà sòng phẳng,
ai cũng sẽ công nhận tôi là người thật thà. Ôi! Trời ơi, xin ông tha lỗi, tôi
vô ý cầm phải quả nắm cửa lò sưởi làm khói bay ra ngoài.
Ông
Mađơlen chăm chú nghe nàng nói. Vừa nghe, ông vừa cho tay vào túi áo ghi lê lấy
ra một cái ví, nhưng mở ra lại là ví không, nên ông lại bỏ vào túi. Ông hỏi
Phăngtin:
- Chị
nói chị còn nợ bao nhiêu nữa?
Đang
hướng về phía Giave, Phăngtin quay lại:
- Tao
nói với mày đấy à?
Rồi
nàng nói với bọn lính:
- Này
các bác, các bác có trông thấy tôi nhổ vào mặt nó thế nào không? À! Tên thị
trưởng già khốn nạn kia, mày đến đây để dọa tao đó, có phải không? Nhưng tao
thì tao không sợ mày đâu. Tao chỉ sợ ông Giave thôi. Tao kính sợ ông Giave phúc
đức thôi.
Nói
thế rồi chị quay về phía tên thanh tra mật thám:
- Thưa
ông, nói thế thì nói, cũng phải cho công bằng chứ! Ông thanh tra ơi, tôi biết
ông là người công minh. Đầu đuôi câu chuyện có gì đâu. Một người đàn ông đùa,
bốc một dúm tuyết nhét vào lưng người đàn bà, việc ấy làm cho bọn sĩ quan cười.
Đúng! Họ cũng phải đùa giỡn chứ. Mà đám chị em chúng tôi cũng là để mua vui cho
thiên hạ. Về phần ông thì ông cũng phải giữ gìn trật tự chứ. Cho nên ông đến
ông lôi con mẹ đàn bà có lỗi đi. Nhưng ông vốn là người nhân từ, khi nghĩ lại,
ông bảo thả tôi ra. Thế là ông thương đến cháu bé lắm đấy, vì rằng sáu tháng ở
tù thì ai nuôi con cho tôi. Thế nhưng chớ có ai dại dột một lần nữa, con khốn!
Lạy ông, tôi không dám thế nữa, ông Giave! Từ giờ thì ai muốn làm gì tôi thì
làm, tôi không dám cựa quậy nữa. Nhưng ông ạ, hôm nay tôi trót làm toáng lên vì
tôi cóng quá. Tôi không dè có cái vốc tuyết của ông ấy ở trong bụng. Tôi đã
trình ông rõ là tôi đang ốm, tôi ho, trong dạ dày tôi có cái cục gì nóng như
lửa. Ông lang bảo tôi phải chữa ngay đi. Đây này, ông sờ vào mà xem. Ông cứ đưa
tay đây, đừng sợ, ở chỗ này này.
Phăngtin
không khóc nữa, giọng chị mơn trớn vuốt ve. Chị nắm bàn tay to kệch của Giave
áp vào chỗ ngực trắng mịn của chị, vừa nhìn hắn vừa cười.
Bỗng
chị nắn lại sống áo lôi thôi, kéo cái gấu váy đã hếch lên tận đầu gối vì chị
quì bò từ nãy. Rồi tiến ra phía cửa, chị gật đầu thân mật nói nhỏ với bọn lính
canh:
- Các
chú quyền ạ, ông thanh tra bảo thả cho tôi, tôi đi đây.
Chị
đặt tay lên then cửa, chỉ một bước nữa thôi là chị ở ngoài đường.
Cho
đến lúc ấy Giave vẫn đứng yên, mắt nhìn xuống đất. Hắn ngây ra như một pho
tượng đặt không phải chỗ, ở giữa quang cảnh đó. Nghe tiếng động cửa, hắn vụt
tỉnh lại, ngẩng đầu lên với vẻ quyền hành vô thượng. Uy quyền càng ở người địa
vị thấp càng đáng sợ. Uy quyền ở loài thú dữ và hung tợn, uy quyền ở người hèn
hạ thì không có gì khủng khiếp hơn. Giave thét:
- Đội
trưởng! Anh không trông thấy con ấy nó đi ra à! Ai bảo anh để nó đi?
- Tôi
bảo – ông Mađơlen.
Phăngtin
nghe tiếng Giave thét thì rụng rời buông then cửa, như một tên kẻ cắp bị bắt
thả rơi vật đã lấy. Đến khi nghe tiếng ông Mađơlen thì chị quay lại. Từ đấy chị
đứng yên lặng, không dám thở mạnh, con mắt hết nhìn Giave lại nhìn ông Mađơlen
tùy theo người này hay người kia nói.
Có lẽ
Giave đã bị “trật bản lề” nên mới thét mắng viên đội như thế, mặc dầu đã có lời
ông thị trưởng truyền thả cho Phăngtin. Có lẽ hắn quên rằng có ông thị trưởng ở
đây chăng? Có lẽ bụng bảo dạ rằng không có thể một “nhà cầm quyền” lại ra một
cái lệnh như thế, hắn nghĩ chắc ông thị trưởng đã lầm lẫn, muốn thế này lại nói
ra thế khác chăng? Hay là đã hơn hai tiếng đồng hồ chứng kiến những sự việc
ngược đời quá đỗi, hắn nghĩ cần phạt quyết liệt, người thấp phải nắm lấy quyền
cao, người mật thám phải lên làm quan tòa, người cảnh binh phải quan án. Đến
nước này thì hắn phải đại diện cho luật pháp, đạo đức, an ninh, đại diện cho
nhà nước, đại diện cho tất cả xã hội nói chung.
Dẫu
sao, khi ông Mađơlen nói “tôi bảo” thì viên thanh tra mật thám Giave quay lại
phía ông thị trưởng. Mặt hắn tái ngắt, môi tím lại, toàn thân rung khe khẽ, vẻ
người nghiêm lạnh, con mắt thất vọng và giọng hắn, lạ chửa, rắn rỏi tuy mắt hắn
nhìn xuống:
- Thưa
ông thị trưởng, không thể thế được.
- Sao
vậy?
- Cái
con khốn nạn này đã lăng mạ một người sang trọng.
Ông
Mađơlen ôn tồn, đấu dịu:
- Ông
thanh tra Giave này! Ông là một người chính trực, cho nên tôi sẵn lòng giải thích
cử chỉ của tôi. Sự thật là thế này. Khi ông đưa người đàn bà này đi thì tôi
cũng vừa đến chỗ đó, hãy còn thấy đám đông đứng bàn tán, Tôi có hỏi đầu đuôi và
biết rằng chính anh tư sản có lỗi, lấy lẽ công bình mà nói thì phải bắt anh ta
mới đúng.
Giave
gượng gạo:
- Con
khốn kiếp lại vừa xúc phạm đến ông thị trưởng.
- Đó
là chuyện riêng của tôi. Riêng tôi bị nhục, chắc vậy. Thế thì xử trí thế nào
cũng tùy tôi thôi.
- Tôi
xin ngài thị trưởng tha lỗi cho tôi. Điều nhục ấy không phải thuộc riêng ngài
mà là thuộc luật pháp.
- Ông
thanh tra Giave, luật pháp cao nhất là lương tâm con người. Tôi đã nghe người
đàn bà này nói. Tôi hiểu những việc tôi làm.
- Thưa
ông thị trưởng, tôi thì tôi chẳng hiểu gì những việc tôi trông thấy.
- Thế
thì ông hãy cứ chấp hành mệnh lệnh.
- Tôi
chấp hành nhiệm vụ. Nhiệm vụ của tôi buộc phải giam tù con này sáu tháng.
Ông
Mađơlen ngọt ngào:
- Ông
nghe đây. Người này sẽ không phải tù một ngày nào.
Thấy
lời nói kiên quyết, Giave dám nhìn ngay vào mặt ông thị trưởng, nhưng vẫn giữ
giọng hết sức tôn kính mà nói:
- Tôi
thật lấy làm khổ tâm vô cùng vì phải cưỡng lại lệnh của ông thị trưởng. Đây
cũng là lần thứ nhất trong đời tôi. Xin ngài hạ cố cho phép tôi trình rằng việc
này đúng là thuộc quyền hạn chúng tôi. Tôi xin theo ý ngài thị trưởng, chỉ xét
việc anh tư sản bị xúc phạm thôi. Tôi có mặt tại đấy. Chính cái con này nó đã
nhảy xổ túm lấy ông Bamataboa. Ông Bamataboa là cử tri (Ở chế độ tư bản ngày
xưa phải đóng thuế sản nghiệp đến một mức nào đó hoặc có một chức cị cao trong
xã hội mới được đi bầu. Thời điểm tác giả viết tác phẩm này, số cử tri rất là
hạn chế) và là chủ tòa nhà to đẹp có bao lơn ở góc phố, nhà ba tầng gác dựng
toàn bằng đá tảng. Ấy! Ở đời có lắm việc như thế! Bẩm ngài thị trưởng, dù sao
đi nữa thì việc này cũng chỉ là một vụ vi cảnh ngoài đường, thuộc phạm vi xét
xử của chúng tôi. Vì thế tôi phải giam giữ con mụ Phăngtin.
Tức là
ông Mađơlen khoanh tay trước ngực và nói với một giọng nghiêm khắc chưa ai
trong thành phố từng nghe thấy:
- Sự
việc ông nói đây là một vụ vi phạm luật cảnh sát thành phố. Chiếu theo các điều
khoản 9, 11, 15 và 66 trong luật hình sự tố tụng thì quyền thẩm phán vụ ấy là ở
tôi. Vậy tôi ra lệnh thả người đàn bà này ra.
Giave
cố sức lần cuối:
-
Nhưng, thưa ngài…
- Còn
về ông thời tôi nhắc lại điều 81 trong đạo luật ngày 13 tháng 12 năm 1799 về
việc bắt giam người trái phép.
-
Không nói gì cả…
-
Nhưng mà…
- Đi
ra – ông Mađơlen truyền lệnh.
Giave
đứng nhận miệng đòn đánh từ trước mặt, vào giữa ngực, y như một người lính Nga
(Người lính Nga dưới chế độ sa hoàng thường bị bắt đứng nghiêm mà nhận đòn).
Hắn cúi rạp xuống tận đất chào ông thị trưởng rồi đi ra.
Phăngtin
đứng tránh ra một bên và kinh hoàng nhìn hắn đi qua trước mặt.
Tâm
trạng của chị cũng đảo lộn lạ lùng. Chị vừa được thấy có hai thế lực đối kháng giành
giật con người chị. Dưới mắt chị, có hai người đương đối chọi nhau, hai người
cùng nắm trong tay đời sống của chị, tự do của chị, cả linh hồn của chị và đứa
con của chị. Một bên thì muốn xô chị vào chỗ tối tăm, một bên thì muốn kéo chị
ra ngoài ánh sáng. Con mắt kinh hoàng của chị như nhìn thấy cuộc đấu phóng đại
lên và hai người hiện ra to lớn như hai hộ pháp: một là ông Thiện, một là ông
Ác. Ông Thiện đã thắng ông Ác. Cái ý nghĩ đã làm cho chị rung giận từ đầu đến
chân là vị thiên thần che chở cho chị lại chính là cái người mà chị hằng ghét
cay ghét đắng, cái ông thị trưởng mà chị cho là đã gây ra mọi oan trái, ông
Mađơlen. Hơn nữa chị lăng mạ ông ta một cách quá quắt như thế, lại chính là lúc
ông ta cứu chị! Chị trông lầm, nghe lầm hay chăng? Từ đây chị phải thay đổi tất
cả tâm hồn đi hay sao?... Chị không biết, chị run rẩy. Chị càng nghe càng bối
rối, càng nhìn càng kinh hoàng. Mỗi lời nói của ông Mađơlen mỗi lần tiêu dần
bóng u ám của sự hằn thù trong lòng chị và nẩy nở ra một cái gì đầm ấm, nó vừa
là niềm vui mừng, lòng tin tưởng và tình yêu thương.
Khi
Giave ra khỏi buồng rồi, ông Mađơlen quay sang phía chị, nói chuyện với chị.
Giọng ông chậm rãi khó khăn như cố cầm nước mắt:
- Tôi
đã nghe cô nói. Những chuyện xảy ra trước kia, tôi có biết gì đâu. Tôi tin là
cô nói thật, tôi cảm thấy là thật. Tôi cũng chẳng biết là cô đã nghỉ việc ở
xưởng tôi. Tại sao lúc ấy cô không đến tìm tôi? Thôi, bây giờ thế này: tôi trả
nợ cho cô; tôi cho người đi đón con cô về đây, hay là cô đến ở với nó, tùy ý
cô. Cô muốn ở lại đây, hay là ở Paris, hay ở đâu nữa cũng được. Tôi sẽ trông
nom cho cả hai mẹ con. Cô muốn làm nữa hay nghỉ việc cũng được. Cần bao nhiêu
tiền tôi sẽ đưa. Cô sẽ lại sống cuộc đời lương thiện khi cô đã được ấm no sung
sướng. Hơn thế, qua những lời cô nói, nếu là thật cả - tôi tin là thật cả - thì
cô vẫn là nười trinh chính và thanh cao trước Chúa, cô nghe rõ chưa? Tội
nghiệp!
Những
lời ấy, con người đang khốn khổ như Phăngtin nghe làm sao cho nổi. Được sống
với con Côdét! Hết cái kiếp sống nhơ nhuốc này! Được sống tự do, đầy đủ, sung
sướng, lương thiện cùng với con Côdét! Giữa cảnh cùng cực, chị nhìn thấy hiện
ra tất cả những mộng ước thiên đường! Chị ngây người nhìn ông Mađơlen và chỉ
kịp bật lên mấy tiếng khóc nức nở: Hu! Hu! Hu! Hai ống chân khuỵu xuống, chị
quì trước mặt ông Mađơlen. Ông ta chưa kịp ngăn, chị đã vồ lấy tay ông mà hôn.
Rồi
chị ngất đi
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN VI
GIAVE
Chương 1
BẮT ĐẦU YÊN NGHỈ
Ông
Mađơlen sai người vực Phăngtin về bệnh xá thợ thuyền đặt ngay ở nhà riêng của
ông. Ông giao chị cho hai bà xơ trông nom. Đặt chị vào giường nằm thì chị lên
cơn sốt nặng. Một phần đêm chị mê sảng, nói huyên thuyên. Nhưng sau tồi chị
cũng ngủ yên.
Mãi
đến trưa hôm sau, Phăngtin mới tỉnh dậy. Nghe có tiếng người thở ở đầu giường,
chị vạch màn trông ra thì thấy ông Mađơlen đang đứng yên nhìn vật gì ở trên đầu
giường. Con mắt của ông đầy vẻ trắc ẩn, lo âu và hình như cầu khẩn. Chị trông
theo thì thấy ông đương chăm chắm nhìn cây thánh giá đóng ở trên tường.
Trong
tâm trí Phăngtin, hình ảnh ông Mađơlen đã khác trước. Trông ông như có ánh hào
quang tỏa ra. Ông mê mải như đang cầu nguyện. Chị nhìn ông một lúc lâu không
dám lên tiếng, mãi sau chị mới khẽ hỏi:
- Thưa
ông, ông làm gì đấy?
Ông
Mađơlen đứng ở đó đã một tiếng đồng hồ. Ông chờ Phăngtin tỉnh dậy. Ông nắm lấy
tay chị, nghe mạch rồi hỏi:
- Cô
thấy trong mình thế nào?
- Thưa
khá. Tôi ngủ được. Hình như khỏe hơn nhiều. Chắc không việc gì.
Bây
giờ ông mới trả lời câu hỏi đầu tiên của chị, làm như vừa mới nghe ra:
- Tôi
cầu nguyện Chúa khổ nạn ở trên kia.
Trong
thâm tâm ông muốn nói thêm: vì người đàn bà khổ nạn dưới này.
Cả đêm
hôm qua và sáng hôm nay ông Mađơlen đi dò hỏi về việc Phăngtin. Bây giờ ông
biết rõ tất cả những tình tiết thương tâm trong đời chị. Ông nói tiếp:
- Cô
là một người mẹ đau khổ. Thôi, không nên thở than nữa, cũng nhờ thế mà ngày nay
cô mới hưởng quả phúc. Loài người làm nên thiên thần như thế đó. Không phải lỗi
ở họ: họ có biết cách gì khác hơn đâu. Cô xem đấy, cảnh địa ngục cô vừa thoát
khỏi chính là tầng thứ nhất của thiên đường. Phải qua đó trước.
Ông
thở dài não nuột. Còn Phăngtin thì nhìn vào ông mỉm cười một nụ cười huyền
diệu, tuy có khuyết hai chiếc răng.
Cũng
trong đêm ấy, Giave viết một bức thư. Sáng sớm hôm sau hắn thân hành đến tận
nhà bưu điện Môngtơrơi để gửi. Thư gửi đi Paris, đề: “Kính đệ ông Sabuiê, bí
thư của ông giám đốc sở cảnh sát”.
Cũng
vì câu chuyện ở bót cảnh vệ đồn đại ra ngoài nên bà phụ trách bưu chính và một
vài người thóc mách trông thấy phong thư và nhận ra chữ Giave thì đoán là hắn đệ
đơn xin từ chức.
Về
phần ông Mađơlen, ông viết thư ngay cho vợ chồng Tênácđiê, Phăngtin nợ chúng
một trăm hai mươi phơrăng, ông gửi cho chúng ba trăm. Ông bảo chúng trừ đi các
khoản còn lại thì dùng làm chi phí để đưa con Côdét đến Môngtơrơi, mẹ nó đang ốm
cần được gặp nó.
Bức
thư làm cho Tênácđiê lóa mắt. Hắn bảo vợ:
- Mẹ
kiếp, chớ buông con bé ra! Ai ngờ con chim sâu lại sắp hóa ra con bò sữa. Tao
đoán ra rồi. Chắc lại có thằng ngốc dại gái nào ăn phải bùa con mẹ nó đây chứ
gì!
Nó
phúc đáp bằng một tờ kê nợ năm trăm linh mấy phơrăng, làm rất khéo. Tờ kê có
đính hóa đơn không ai có thể ngờ vực, một cái của thầy thuốc, một cái của hiệu
bào chế. Cộng trên ba trăm phơrăng. Đó là những đơn thật trong dịp hai đứa con
nó bị ốm một trận lớn chứ con Côdét có đau ốm gì. Vấn đề là ở chỗ khéo chữa tên
đi. Dưới tờ khai, Tênácđiê ghi chú: tạm nhận ba trăm phơrăng.
Ông
Mađơlen lập tức gửi thêm ba trăm phơrăng với mấy chữ: “Đưa con Côdét sang
ngay”. Thấy thế, Tênácđiê lại bảo:
-
Trời! Thế này thì lại càng phải giữ chịt lấy con bé.
Bệnh
tình của Phăngtin vẫn không đỡ. Chị vẫn nằm ở nhà thương.
Khi
nhận săn sóc cho “thứ gái đĩ ấy” các bà xơ có ý ghê tởm. Ai đã xem những bức
khắc chìm ở Remxơ chắc còn nhớ hình các trinh nữ đoan chính bĩu môi trước những
chị em lẳng lơ. Còn các việc thời cổ thì những đạo cô thanh tâm khinh bỉ những
hạng người lang chạ từ xưa chẳng qua là những phản ứng tự nhiên của lòng tự
trọng sâu xa của phụ nữ. Các bà xơ cũng phản ứng như vậy nhưng mãnh liệt hơn vì
các bà là những kẻ đi đạo Chúa. Nhưng chỉ vài ngày sau, Phăngtin đã lấy được
cảm tình của các bà. Chị ăn nói dịu ngọt và khiêm tốn, nhất là tấm lòng mẹ của
chị đã làm cho các bà cảm động. Một hôm các bà nghe thấy chị nói giữa cơn sốt
nặng: “Tôi là một người tội lỗi, song lúc nào con tôi được đến với tôi thì tức
là Chúa đã tha thứ cho tôi. Khi trước tôi còn là con người hư hỏng, tôi không
dám đem con Côdét về nhà, tôi không nỡ để con tôi phải nhìn tôi ngơ ngác và
buồn rầu. Thế nhưng lại chính vì chút máu rơi ấy mà thân tôi nên nông nỗi này.
Chính vì thế mà Chúa tha thứ cho tôi. Bao giờ con Côdét ở đây, lúc ấy là lúc
tôi chịu phúc Chúa ban cho. Tôi sẽ nhìn nó, nhìn cái mặt ngây thơ vô tội ấy thì
lòng tôi cũng hồ hởi ra. Nó không biết gì hết. Nó đương còn là thiên thần, phải
không các bà xơ? Ở vào tuổi ấy, cánh thiên thần đã rụng đâu!”
Ông
Mađơlen mỗi ngày đến thăm Phăngtin hai lần, lần nào chị cũng hỏi:
- Con
Côdét sắp về chưa?
Ông
trả lời:
- Có
lẽ sáng mai. Tôi nhờ đón nó đây, không sớm thì chiều thôi.
Nét
mặt xanh xao của người mẹ rạng rỡ lên:
- Ôi chao
ôi! Tôi sẽ sung sướng biết là chừng nào!
Như
trên đã nói, bệnh tình của Phăngtin không thuyên giảm, trái lại mỗi ngày một
thêm trầm trọng. Nắm tuyết giá lạnh áp vào giữa hai xương bả vai làm cho mồ hôi
không thoát ra được, do đó chứng bệnh âm ỉ xưa nay bùng phát ra dữ dội. Người
ta bắt đầu chữa bệnh phổi cho chị theo một phương pháp đang còn thí nghiệm.
Thầy
thuốc nghe ngực Phăngtin rồi lắc đầu. Ông Mađơlen hỏi:
- Thế
nào?
- Hình
như người này có đứa con, chị muốn được thấy mặt?
-
Vâng.
- Nếu
vậy ông nên mau cho tìm con chị về.
Ông
Mađơlen giật mình:
Phăngtin
hỏi:
- Thầy
thuốc bảo thế nào, thưa ông?
Ông
Mađơlen gượng cười:
- Ông
ấy bảo phải tìm ngay cháu bé về đây. Có nó cô sẽ khỏe ngay.
- Ồ,
thật thế đấy! Nhưng không hiểu vì lẽ gì mà vợ chồng Tênácđiê cứ giữ mãi con
Côdét thế nhỉ? Trời ơi! Nó sắp về rồi. Thôi, lần này thì hạnh phúc chẳng còn xa
xôi gì nữa!
Nhưng
tên Tênácđiê nhất định “không chịu buông con bé”. Nó viện đủ mọi lý do, chẳng
đâu vào đâu cả! Nào là con Côdét ươn mình, như thế thì trời mùa đông thế này
không thể lên đường được, nào là còn mấy món nợ vặt kêu réo quá, nó đang lục
tìm các hóa đơn...
Ông
Mađơlen bảo:
- Tôi
phải cho người đi mang con Côdét về mới được. Nếu cần tôi sẽ đi lấy.
Phăngtin
bèn đọc cho ông viết một bức thư rồi chị ký xuống dưới:
Ông
Tênácđiê,
Ông
giao con Côdét cho người này. Người ta sẽ trả đủ những khoản vặt vãnh còn
thiếu. Trân trọng kính chào ông.
Giữa
lúc ấy lại xảy ra một biến cố nghiêm trọng. Cuộc đời của chúng ta như gọt trong
một khối đá huyền bí, dù chúng ta có dày công mài giũa thế nào đi nữa, dạng vân
đen của số mệnh cũng vẫn mãi mãi hiện lên.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN VI
Chương 2
THẾ NÀO MÀ GIĂNG LẠI HÓA RA SĂNG
Một
buổi sáng, ông Mađơlen ở trong phòng giấy, đang giải quyết nốt mấy việc khẩn
thiết của tòa thị chính, phòng khi ông phải đích thân đi Môngphecmây. Có người
báo viên thanh tra cảnh sát Giave xin vào yết kiến. Nghe thấy nói đến Giave,
ông Mađơlen không nén được một cảm giác khó chịu. Từ ngày xảy ra việc lôi thôi
ở sở cảnh sát, Giave càng lánh mặt ông và ông cũng không gặp hắn lần nào nữa.
- Cho
vào.
Giave
bước vào.
Ông
Mađơlen vẫn ngồi bên lò sưởi, tay cầm bút, mắt để vào tập hồ sơ mà ông vừa giở
từng tờ vừa phê chú. Đó là những biên bản vi cảnh. Ông không bỏ công việc vì
Giave. Thấy nói đến hắn, ông không thể không nghĩ thương cho Phăngtin, cho nên
ông làm mặt lạnh.
Giave
chào ông thị trưởng rất cung kính. Ông ngồi quay lưng về phía hắn, tay không
ngừng ghi chú.
Giave
bước lên hai ba bước và yên lặng chờ.
Người
thầy tướng nào đã theo dõi tâm linh Giave, biết Giave là con người man rợ phục
vụ văn minh, là sự hỗn hợp kỳ dị của người La Mã và người Spác (Người La Mã
cương nghị, tôn trọng nhiệm vụ; người Spác anh dũng và khắc khổ), của người
thầy tu và anh cai lính, là tên gián điệp không nói dối, thằng mật thám trong
sạch, người ấy lại từng biết hắn có thành kiến ngầm từ lâu với ông Mađơlen và
đã xung đột với ông về vụ Phăngtin, nếu người thầy tướng ấy lúc bấy giờ lại
trông thấy Giave thì hẳn phải tự hỏi: “Có việc gì xảy ra thế?”
Ai đã
biết rõ Giave là người ngay thẳng, minh bạch, thành thực, liêm khiết, nghiêm
khắc và ác liệt tất đoán ra là hắn vừa mới sống qua một diễn biến nội tâm lớn
lao. Giave không có ý nghĩ gì mà không hiện ngay lên nét mặt. Hắn cũng như
những người cục khác, dễ bốc nóng và cũng dễ lành. Nhưng không bao giờ lại thấy
vẻ mặt hắn kỳ lạ và bất ngờ như lúc này. Lúc vào, hắn cúi chào ông Mađơlen, nét
mặt không có chút gì là hờn oán, giận dỗi và nghi ngờ gì nữa. Hắn dừng lại cách
ghế ông vài bước và hắn đứng yên. Dáng điệu của hắn rất là phục tòng. Hắn vừa
thô kệch, vừa thật thà, vừa nghiêm lạnh, như một người chưa bao giờ dịu ngọt,
nhưng luôn nhẫn nại. Hắn đứng chờ, hắn không nói, không nhúc nhích chân tay;
hắn khúm núm một cách thành khẩn và kiên trì một cách bình tĩnh, mặc cho ông
thị trưởng lúc nào muốn quay lưng lại thì quay, tay hắn cầm mũ, mắt nhìn xuống,
dáng người hắn vừa giống anh lính đứng trước người sĩ quan, vừa giống tên tội
phạm đứng trước quan tòa. Bao nhiêu tính tình cũng như bao nhiêu ý nghĩ người
ta thường gán cho hắn nay không thấy một tý gì cả. Khuôn mặt kín và thật như đá
của hắn đượm một vẻ buồn bã vô hạn. Tất cả con người hắn là sự biểu hiện của sự
hạ mình, sự kiên quyết và sự cam chịu can đảm.
Mãi
sau, ông thị trưởng bỏ bút quay lại:
- Thế
nào? Cái gì đó? Có việc gì thế, ông Giave?
Giave
đứng lặng một hồi. Khi hắn trả lời thì giọng hắn trang nghiêm mà buồn buồn,
nhưng vẫn thật thà đơn giản:
- Bẩm
ông thị trưởng, có một việc vi phạm nặng.
- Việc
gì?
- Bẩm
có một viên chức cấp dưới vô lễ đối với quan trên, vô lễ rất nặng. Bổn phận tôi
là báo cáo việc ấy với ngài.
- Viên
chức cấp dưới ấy là ai thế?
- Là
tôi.
- Là
ông?
- Thế
vị quan trên kia là ai?
- Thưa
ông, là ngài thị trưởng.
Ông
Mađơlen ngồi thẳng người lên. Giave vẫn nghiêm khắc cúi mặt nói tiếp:
- Thưa
ông, tôi đến xin ông tư lên cấp trên cách chức tôi.
Ông
Mađơlen kinh ngạc, há miệng toan nói, Giave không để ông nói, vẫn tiếp:
- Tôi
biết thế nào ông cũng hỏi sao tôi không xin từ chức, nhưng từ chức còn nhẹ quá.
Từ chức còn là danh giá. Tôi đã phạm lỗi phải chịu trừng phạt, nhà nước phải
đuổi tôi về mới đúng.
Ngừng
một tí, hắn lại nói:
- Thưa
ông, hôm nọ ông nghiêm khắc với tôi một cách bất công. Hôm nay thì xin ông lấy
công tâm mà nghiêm khắc cho.
Ông
Mađơlen kêu lên:
- Thế
nào mới được chứ? Cái gì mà lý sự khó hiểu thế? Như thế nghĩa là thế nào? Ông
xúc phạm tôi ở chỗ nào? Ông đã làm gì tôi? Ông có lỗi gì đối với tôi? Ông tự
buộc tội ông, yêu cầy thay ông...
- Đuổi
về.
- Ừ
thì đuổi về, đúng đấy. Nhưng tôi không hiểu gì cả?
- Thưa
ông thị trưởng, để tôi xin nói rõ.
Giave
thở dài não ruột. Vẫn buồn rầu, vẫn nghiêm nghị hắn nói:
- Thưa
ông, cách đây sáu tuần lễ, cái ngày có chuyện lôi thôi về người gái điếm ấy,
tôi giận quá nên đi tố cáo ông.
- Tố
cáo!
-
Vâng, tố cáo với ông giám đốc cảnh sát Paris.
Ông
Mađơlen vốn cũng như Giave không mấy khi cười nghe thấy thế cũng phải phì cười.
- Tố
cáo thị trưởng đã xâm phạm quyền hạn của cảnh sát?
-
Không. Tố cáo ngài là một tên tù khổ sai cũ.
Mặt
ông thị trưởng tái nhợt.
Giave
vẫn cúi đầu nói tiếp:
- Tôi
cho là như thế. Từ lâu tôi tưởng tượng ra như vậy. Dáng người giống nhau, việc
ông hỏi han tìm tòi ở Phavơrôn, cái sức khỏe của ông, chuyện ông cứu
Phôsơlơvăng, tài bắn súng của ông, bước đi hơi khập khiễng của ông và còn gì
nữa, biết bao nhiêu thứ! Toàn là nhảm nhí! Thế mà tôi đã đồ rằng ông là một
thằng tên là Giăng VanGiăng...
- Một
thằng tên là?... Ông nói tên là gì?
-
Giăng VanGiăng. Một thằng tù khổ sai mà tôi được biết hai mươi năm trước đây,
khi tôi còn là cai ngục ở Tulông. Mãn hạn tù, hình như tên Giăng VanGiăng lại
ăn trộm ở nhà một ông giám mục. Rồi hắn lại cầm khí giới cướp giật một thằng bé
Xavoa giữa đường cái quan. Đã tám năm nay hắn trốn biệt, không biết bằng cách
nào, tìm mãi không ra. Tôi thì cứ tưởng là... Thế rồi tôi làm thật! Cũng là do
tôi giận. Tôi đã tố cáo ông với người giám đốc cảnh sát.
Ông
Mađơlen từ nãy lại cầm tập hồ sơ xem. Hoàn toàn bình thản, ông hỏi:
- Thế
người ta bảo làm sao?
- Là
tôi điên.
- Thật
ư?
-
Người ta nói có lý, tôi điên thật.
- Cũng
may là ông tự biết.
- Bẩm
không biết thế nào được, người ta đã bắt được chính tên Giăng VanGiăng rồi!
Tờ
giấy ông Mađơlen đương cầm lìa khỏi tay. Ông ngẩng lên nhìn chằm chằm vào mặt
Giave, nói giọng khó tả:
- À!
Giave
vẫn nói:
- Thưa
ngài, đầu đuôi thế này. Nghe như ở miền này, về phía Aidi Lơhôclôsê có một
thằng cha gọi là Săngmachiơ. Hắn nghèo khổ lắm, không ai để ý. Cái ngữ ấy chẳng
biết chúng sống bằng cách nào. Mùa thu gần đây, lão Săngmachiơ bị bắt về tội
trộm táo ở vườn nhà tên... thôi cũng không cần nhớ làm gì. Đã xét nghiệm là
trộm có trèo tường, bẻ cây. Người ta bắt lão Săngmachiơ, tay lão còn cầm một
cành táo. Người ta giam lão lại. Đến đây mới chỉ là một vụ thường phạm thôi.
Nhưng rồi mới biết quả thật có lưới Trời! Vì nhà giam đổ nát, quan dự thẩm cho
đưa Săngmachiơ về nhà lao Arát. Ở nhà lao Arát có tên Bơrơvê vốn là tù khổ sai
mãn hạn, nay không biết về tội gì lại phải giam. Hắn tỏ ra biết hối cải nên
được lấy lên coi cổng. Thưa ngài, vừa giải tên Săngmachiơ đến thì tên Bơrơvê đã
kêu ngay lên: “Ô này! Tớ biết thằng này mà! Cùng bọn khổ sai trước cả đây. Nhìn
tớ xem nào! Cậu là Giăng VanGiăng!” Săngmachiơ làm bộ ngớ ngẩn:
-
Giăng VanGiăng! Giăng VanGiăng nào nhỉ?
-
Thôi, đừng vờ vịt nữa. Mày chính là Giăng VanGiăng! Mày trước có ở ngục Tulông.
Đã hai mươi năm nay rồi. Bọn mình ở với nhau mãi mà!
Thằng
Săngmachiơ chối. Ối chà! Còn lạ gì. Người ta điều tra, người ta xoắn vào chuyện
ấy và người ta tìm ra thế này:
Trước
đây khoảng ba mươi năm. Tên Săngmachiơ làm nghề xén cây ở nhiều nơi, nhất là
Phavơrôn. Đến đây thì mất dấu vết nó. Mãi bao nhiêu năm sau mới thấy lại nó ở
Ôvécnhơ, rồi ở Paris; nó khai rằng ở đấy nó làm nghề chữa xe và có một đứa con
gái làm thợ giặt, nhưng chẳng có bằng chứng gì cả. Rồi nó đến ở xứ này. Thế còn
Giăng VanGiăng trước khi vào tù vì tội trộm thì làm nghề gì? Cũng xén cây. Ở
đâu? Cũng Phavơrôn. Lại còn một sự kiện nữa: Thằng Giăng VanGiăng ấy, tên thánh
nó là Giăng và tên mẹ nó là Machiơ. Có lạ gì! Đi tù về nó lấy tên họ mẹ để đổi
tên nó thành Giăng Machiơ cho dễ trốn tránh. Thế rồi nó đến ở Ôvecnhơ. Ở đấy
tiếng Giăng giọng địa phương đọc ra Săng, cho nên mới gọi là Săngmachiơ. Nó cứ
để vậy và thế là nó hóa ra Săngmachiơ. Thưa ngài vẫn theo dõi câu chuyện đấy
chứ? Người ta cho hỏi ở Phavơrôn, gia đình Giăng VanGiăng không còn ai. Chẳng
biết là phiêu bạt đi đâu. Bẩm, ngài còn lạ gì, ở các tầng lớp hạ lưu ấy, những
chuyện cả một gia đình tiêu biến đi không phải là hiếm. Tìm mãi mà chẳng thấy
gì. Cái hạng ấy nếu không là bùn nhơ thì cũng là tro bụi thôi. Vả lại đầu mối
câu chuyện cách đây ba mươi năm, ở Phavơrôn không còn ai biết Giăng VanGiăng
nữa. Người ta hỏi ở Tulông. Ngoài tên Bơrơvê chỉ còn hai tên khổ sai nữa có
biết Giăng VanGiăng, hai thằng khổ sai chung thân Côsơpay và Sơniđiơ. Lôi hai
thằng ấy đem đi nhận diện. Gặp nhau, chúng nó nhận ra ngay. Cả ba đều nói đó là
Giăng VanGiăng. Cũng tuổi ấy, năm mươi tư, cũng vóc người ấy, cũng dáng điệu
ấy. Nghĩa là đích thị nó. Giữa lúc ấy thì tôi gửi giấy tố cáo ngài ở vụ cảnh
sát Trung ương. Họ trả lời rằng tôi mất trí bởi vì tên Giăng VanGiăng hiện đang
bị giam cứu tại Arát. Ngài tưởng tượng xem tôi ngạc nhiên thế nào, vì tôi cứ
đinh ninh rằng đã nắm cổ tên Giăng VanGiăng ở đây rồi! Tôi bèn viết thư cho ông
dự thẩm. Ông ta cho đòi tôi đến và đem tên Săngmachiơ ra đối chứng...
- Kết
quả là thế nào?
Giave
thẳng thắn và buồn rầu nói:
- Thưa
ngài, chân lý vẫn là chân lý. Tôi bực lắm, nhưng quả thật thằng ấy là Giăng
VanGiăng rồi. Tôi cũng nhận ra nó.
Ông
Mađơlen khe khẽ hỏi:
- Ông
có chắc không?
Giave
cười một cách đau đớn, tỏ ra mình chắc chắn cả mười phần.
-
Thưa, chắc.
Hắn
đứng lặng một lát, dáng suy nghĩ, ngón tay tự nhiên mân mê đĩa mùn cưa thấm mực
để trên bàn. Hắn nói tiếp:
- Hơn
thế nữa, bây giờ tôi được nhìn mặt chính tên Giăng VanGiăng rồi, tôi không hiểu
làm sao trước kia tôi lại có thể lầm được. Thưa ông thị trưởng, xin ông tha lỗi
cho tôi.
Kiêu
hãnh như hắn mà chịu van xin khuất phục một người sáu tuần lễ trước đây đã làm
hắn mất thể diện trước mặt bọn lính gác và đã quát đuổi hắn ra khỏi cửa, Giave
tỏ ra là người chân chất và có nhân cách, nhưng hắn đâu có biết thế. Ông
Mađơlen không để ý tới lời cầu xin ấy, ông hỏi đột ngột:
- Thế
người ấy khai thế nào?
- À
vâng, thưa ngài, câu chuyện ấy thành nghiêm trọng. Nếu phải là Giăng VanGiăng
thì là tái phạm. Trèo tường, bẻ táo, nếu là do một đứa trẻ thì chỉ là một vụ
phá phách ranh mãnh, nếu là một người lớn thì là một tội trừng trị; nếu lại là
một tên khổ sai thì chính là một tội đại hình. Có leo trèo, có lấy cắp, có cả.
Thế là không phải việc của tòa án trừng trị nữa, mà phải đến tòa đại hình.
Không phải chỉ mấy ngày phạt giam mà là đi khổ dịch chung thân ở hải thuyền.
Với lại còn cái vụ thằng xứ Xavoa, tôi mong thế nào rồi cũng vạch ra. Ối chà!
Còn là lắm chuyện làm cho phải vùng vẫy hoảng lên. Vâng, phải vùng hoảng nếu là
một đứa khác. Nhưng Giăng VanGiăng là một thằng xảo quyệt. Ấy! Tôi nhận đích ra
nó cũng còn chính vì điểm ấy nữa. Kẻ khác thì thấy nóng đến đít, đã cuống quít
lên, kêu trời kêu đất như chiếc ấm nước reo trên bếp lửa, đã thề sống thề chết
là không phải Giăng VanGiăng... nhưng hắn thì có vẻ không hiểu, hắn chỉ nói:
“Tôi là Săngmachiơ, tôi chỉ biết có chừng ấy!” Hắn làm bộ kinh ngạc, hắn giả vờ
ngu si, thế mới khôn chứ. Ối chà! Thằng ấy láu đấy! Nhưng không sao, tang chứng
đã rành rành ra đấy. Bốn người nhận được mặt nó. Thằng bợm già tránh sao khỏi
tội. Việc đưa ra tòa đại hình Arát. Tôi sắp đi làm chứng nay mai. Tôi đã được
giấy tống đạt.
Ông
Mađơlen đã quay vào bàn giấy, cầm tập hồ sơ điềm nhiên xem từng tờ, vừa đọc vừa
viết như bận rộn lắm.
Ông
nói với Giave:
- Được
rồi ông Giave ạ. Thực ra, tôi cũng chẳng cần biết các chi tiết ấy làm gì. Chúng
ta mất thì giờ vô ích. Chúng ta còn nhiều việc khẩn cấp hơn. Ông Giave, ông đến
ngay nhà bà Buydôpiê bán thuốc lá ở góc phố Xanh Xôn. Ông bảo bà ấy đệ đơn kiện
tên đánh xe Sêtnêlông. Tên ấy là một đứa vũ phu, nó suýt để xe đè chết hai mẹ
con bà ta. Phải trừng phạt nó mới được. Rồi ông đến nhà ông Sacxenlê ở phố
Săngpinhi xem việc ông ta thưa người hàng xóm để ống máng nước mưa chảy sang
làm hỏng cả nền nhà ông ta như thế nào. Đoạn ông đến khám và lập biên bản về
mấy vụ vi cảnh mà người ta mới báo cáo cho tôi, ở phố Guybua, tại nhà quả phụ
Đôri và ở phố Garơ tại nhà bà Lư Bôtxê. Nhưng có lẽ tôi giao cho ông nhiều việc
quá. Ông sắp đi vắng cơ mà? Có phải ông vừa bảo là tám chín hôm nữa phải đi
Arát về việc ấy không?
- Thưa
ông, phải đi sớm hơn.
- Hôm
nào nhỉ?
- Bẩm
hình như tôi đã trình với ông là đến mai tòa sẽ xử và nội đêm nay tôi phải đáp
xe đi ngay.
Ông
Mađơlen khẽ rùng mình:
- Xử
mấy hôm mới xong?
- Chỉ
một ngày là cùng. Chậm lắm là tối mai tuyên án. Nhưng tôi không cần chờ tuyên
án, vì án ấy thế nào mà chẳng thành, khai xong, tôi về ngay.
- Được
rồi.
Ông
Mađơlen nói thế và giơ tay ra hiệu cho Giave lui ra.
Giave
đứng yên.
- Bẩm,
xin lỗi ngài.
- Gì
đó nữa?
- Thưa
ông thị trưởng, còn việc nữa xin nhắc ông.
- Việc
gì vậy?
- Việc
cách chức tôi.
Ông
Mađơlen đứng dậy:
- Ông
Giave ông là một người có nhân cách, tôi quí trọng ông. Ông phóng đại sự sai
lầm của ông. Huống hồ việc này cũng lại là một vụ xúc phạm đối với riêng tôi
thôi. Ông Giave ạ, ông đáng được thăng chức chứ không phải giáng đâu. Tôi muốn
lưu ông lại.
Giave
giương mắt nhìn ông Mađơlen. Trong con người trong sạch, người ta như thấy cái
lương tâm của hắn không sáng suốt cho lắm, nhưng đoan chính và cương trực. Hắn
bình tĩnh nói:
- Thưa
ông thị trưởng, tôi không thể ưng thuận như thế được.
- Một
lần nữa, tôi nói việc ấy chỉ can cập riêng tôi.
Vẫn
theo đuổi ý nghĩ riêng của mình, Giave nói tiếp:
- Bảo
là phóng đại thì tôi không phóng đại. Đấy, tôi nghĩ như thế này. Tôi đã nghi
ngờ ngài rất vô lý. Cái ấy không hề gì. Bọn chúng tôi vẫn có quyền được nghi
ngờ mặc dầu nghi ngờ người trên mình là quá lạm. Nhưng trong cơn nóng giận, để
báo thù, tôi đã tố giác ngài là một tên tù khổ sai, mặc dù chẳng có bằng cứ. Tố
cáo một người đáng tôn kính, một ông thị trưởng, một quan thẩm phán là tù khổ
sai, điều ấy mới là nặng. Nặng lắm. Tôi là viên chức chính quyền mà tôi lại xúc
phạm vào chính quyền bằng cách xúc phạm ngài! Giả sử dưới quyền tôi có kẻ nào
đó không xứng đáng làm viên chức nữa và tống cổ đi. Thế thì phải tính thế nào đối
với tôi chứ? Bẩm ông thị trưởng, cho tôi nói một lời nữa. Trong đời tôi, tôi
thường nghiêm khắc, nghiêm khắc với người khác. Thật là đúng. Tôi làm thế là
phải. Bây giờ nếu tôi không tự nghiêm khắc với tôi thì những việc tôi làm trước
là đúng nay sẽ hóa ra không đúng nữa. Có lẽ nào tôi lại vị nể tôi hơn kẻ khác?
Không thể được. Thế nào! Tôi chỉ biết trừng trị người ta mà không biết tự trừng
trị mình à? Chẳng hóa ra mình là thằng khốn nạn! Chẳng hóa ra những đứa đã gọi
tôi là “Thằng Giave bần tiện” lại có lý hay sao? Bẩm ngài thị trưởng, tôi không
cầu mong ngài xử tốt đối với tôi. Cái tốt ấy khi ngài xử với kẻ khác đã làm cho
tôi bất bình, cho nên tôi cũng không muốn ngài đối xử tốt với tôi. Cái tốt nó
xử cho đứa gái điếm hơn ông tư sản, anh cảnh sát hơn ông thị trưởng, kẻ ở dưới
hơn người ở trên, cái tốt ấy tôi cho là cái tốt xấu. Cứ tốt với nhau kiểu ấy
thì xã hội sẽ tan rã mất! Ôi chao! Tốt thì dễ, công bằng mới là khó! Ấy, nếu
ngài mà quả là cái tên tù tôi đoán thì không bao giờ tôi thương hại đâu! Nếu mà
thế, thì ngài đã biết tay tôi! Thưa ông thị trưởng, tôi xử với người ta thế nào
thì tôi phải xử với tôi thế ấy. Những khi tôi trừng trị kẻ làm sằng, khi tôi
đàn áp bọn gian phi, tôi thường tự nhủ: “Còn mày đấy, nếu mày cũng làm láo,
cũng phạm lỗi thì đừng có hòng thoát!” Tôi đã làm láo, tôi đi bắt được tôi phạm
lỗi! Cho chết! Đuổi, cách, tống cổ về! Đúng lắm. Tôi có hai cánh tay khỏe, tôi
về cày cuốc cũng được không sao. Thưa ông thị trưởng, việc quan phải thế để răn
người. Tôi yêu cầu chỉ có thế, là cách chức viên thanh tra Giave.
Giọng
hắn vừa khiêm nhượng vừa kiêu hãnh, vừa thất vọng vừa tin tưởng khiến cho con
người lương thiện khác thường thấy trở thành vĩ đại một cách kỳ quặc.
Ông
Mađơlen bảo: “Để tôi xét sau” và chìa tay cho Giave.
Giave
giật lùi và phản khán:
- Thưa
ông thị trưởng, xin lỗi ông, không thể thế được. Một ông thị trưởng không bắt
tay một tên mật thám.
Hắn
lẩm bẩm nói thêm:
- Mật
thám, đúng thế. Một khi ta đã lạm quyền cảnh sát thì ta chỉ còn là một thằng
mật thám thôi.
Hắn
cúi rạp xuống chào ông Mađơlen rồi đi ra cửa. Đến cửa hắn quay lại mắt vẫn nhìn
xuống:
- Thưa
ngài thị trưởng, tôi xin cứ làm việc cho đến khi có người thay thế.
Hắn đi
ra. Ông Mađơlen ngồi mơ màng lắng nghe bước chân rắn rỏi, vững chắc của Giave
xa dần ở ngoài hành lang.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN VII
VỤ ÁN SĂNGMACHIƠ
Chương 1
BÀ XƠ XEMPƠLIT
Những
sự việc sắp kể sau đây không phải ở Môngtơrơi người ta đều biết. Nhưng chút ít
phong thanh cũng đã để lại trong thành phố này một ấn tượng hết sức đặc biệt.
Vì thế chúng tôi thấy phải kể tỉ mỉ, chi tiết, nếu không sách này sẽ có thiếu
sót lớn. Trong các chi tiết ấy có đôi ba cái có vẻ vô lý nhưng xin cứ giữ
nguyên cho đúng sự thật.
Buổi
chiều hôm tiếp Giave, ông Mađơlen đến thăm Phăngtin như thường lệ.
Trước
khi vào gặp bệnh nhân, ông cho mời bà xơ Xempơlit đến gặp ông.
Hai bà
phước trông coi bệnh xá, bà xơ Pecpêtuy và bà xơ Xempơlit đều là những nhà tu
hành từ thiện.
Bà xơ
Pecpêtuy là một người đàn bà nhà quê giống bao nhiêu người đàn bà quê khác, một
bà phước thô vụng, vào cửa Chúa cũng như vào chợ. Bà đi tu cũng như người ta đi
làm người nấu bếp. Hạng người như thế kể ra cũng không hiếm. Các dòng tu thường
sẵn sàng đón nhận thứ đồ gốm nặng nề, cục kịch đó để dễ nắn theo khuôn khổ của
dòng mình. Thực ra những người quê mùa ấy lại cần thiết cho những công việc
nặng nhọc ở tu hành, việc biến đổi cũng chẳng vấp váp gì và cũng chẳng cần công
phu là mấy. Ở làng bên hay ở nhà tu kín, cái căn bản dốt nát vẫn giống nhau nên
anh nhà quê có thể biến ngay thành nhà tu hành dễ dàng như đã được chuẩn bị
sẵn. Cái áo lao động nới rộng ra một tý là có ngay cái áo tu hành vậy.
Bà
Pecpêtuy là một người đẫy đà, quê ở Martin, gần xứ Pôngtoa. Bà nói giọng địa
phương, lại luôn mồm cầu kinh và luôn mồm lẩm bẩm. Thuốc thang cho bệnh nhân bà
cũng tùy người, xem mặt. Ai ngoan đạo thì chén thuốc bà sắc nhiều đường, ai giả
dối thì bà cho ít. Đối với người ốm thì bà biết dịu dàng. Đối với người sắp
chết thì bà càu nhàu cau có ném Chúa vào mặt người ta, còn cầu nguyện cho người
sắp chết thì giọng giận dữ, nặng chình chịch, chẳng chút tôn trọng giờ phút lâm
chung của họ. Tính bà lại táo tợn và ngay thẳng. Da mặt lúc nào cũng đỏ gay.
Bà xơ
Xempơlit người lại trắng như bạch lạp. Hai bà đứng với nhau thì y như cây bạch
lạp đặt cạnh cây nến mở bò. Thánh Vanhxăng đơ Pôn đã khéo ghi lại một cách tài
tình hình ảnh các bà phước bằng những lời thật đẹp, ca ngợi cuộc đời phụng sự
đầy kham khổ nhưng tự do, tự nguyện của các bà ấy: “Các bà sẽ coi nhà người
bệnh là nhà tù, căn phòng trọ là buồng cấm, nhà thờ chung trong xứ là nhà
nguyện, đường phố hoặc nhà thương là nơi tu kín. Tường lũy, song sắt là ở nơi
các bà kính vâng lời Chúa, và chiếc khăn che mặt cho các bà chính là đức khiêm
tốn của các bà trước mọi người”. Bà xơ Xempơlit là hình ảnh vô cùng sinh động
của lý tưởng ấy. Tuổi tác bà không ai có thể đoán đúng được. Hình như lúc trẻ
bà cũng không ra trẻ và bây giờ bà có vẻ chẳng bao giờ già được nữa. Bà thật là
một con người – tôi không dám nói là một người đàn bà – điềm đạm, khắc khổ,
tiếp xúc với người thì dễ dãi nhưng lạnh lùng và chẳng bao giờ nói điều gì sai
sự thật. Bà dịu dàng đến mức tưởng như là mỏng mảnh dễ vỡ, thế mà lại rắn chắc
hơn cả sắt đá. Bà săn sóc bệnh nhân với những ngón tay búp măng thanh khiết. Có
thể nói trong lời ăn tiếng nói của bà có cả sự yên lặng! Bà chỉ nói đủ cái gì
đáng nói. Giọng nói của bà lại có cái gì an ủi, có thể đem lại sự tin tưởng
trong một phòng xưng tội và say mê trong một phòng tiếp khách. Con người thanh
tao ấy mà chịu được chiếc áo vải thô, chắc vì chiếc áo thô kệch đó nhắc nhủ
mình thường xuyên nhớ đến Trời, đến Chúa. Có một chi tiết cần nhấn mạnh là bà
không bao giờ nói dối, không bao giờ vì một lợi ích gì dù là vô can đối với
mình đi nữa, bà lại chịu nói một lời trái với sự thật, sự thật thiêng liêng. Đó
là đặc tính của bà, đó cũng là đặc điểm nổi bật trong đức hạnh của bà trong
dòng tu, bà gần như nổi tiếng vì cái nết trung thực không gì lay chuyển đó.
Cha
Xica nói về bà trong một bức thư gửi cho người điếc – câm Matxiơ như sau: -
Chúng ta dù thành thật, ngay thẳng trong trắng đến đâu, cũng không khỏi có tí
bợn trong lòng vì một đôi lần nói dối vặt vãnh, không hại gì. Nhưng bà thì dứt
khoát không. Thật ra, có cái gọi là dối vặt vãnh, vô hại không? Nói dối là
tuyệt đối sai rồi. Vậy thì có thể nào nói dối tí chút được; đã dối là dối, dối
là đi theo ma quỷ rồi. Vì quỷ Xa – tăng còn có tên là Lừa dối. Bà ta nghĩ vậy
và đã nghĩ vậy nên làm vậy. Vì thế mà người bà ta trắng như trên đã nói. Màu
trắng sáng ngời cả trên môi và trên nét mặt làm cho nụ cười cũng trắng mà mắt
nhìn cũng trắng. Lương tâm bà trong suốt như gương không tí mạng nhện không mảy
bụi nào. Bước vào dòng thánh Vanhxăng đơ Pôn bà lấy tên Xempơlit là có dụng ý
riêng. Là vì đó là tên của một bà thánh. Bà này là người có tiếng trung thực,
thà chịu khoét hai vú chứ nhất định không chịu nói sai quê quán của mình; giá
đừng nhận là sinh ở Xiracuydơ, mà nói sinh ở Xôgiét thì bà ấy đã khỏi bị giết.
Bà xơ Xempơlit lấy tên bà này làm tên thánh của mình thật là xứng đáng.
Hồi
mới bước vào nhà dòng, bà có hai tật xấu là ham ăn quà và thích nhận thư từ.
Hai tật xấu ấy về sau dần dần bà sửa chữa được. Sách vở bà chỉ đọc mỗi một
quyển kinh bằng chữ La – tinh in chữ thật lớn. La – tinh thì bà không hiểu gì
nhưng quyển sách thì bà hiểu.
Người
đàn bà từ tâm ấy cảm thấy Phăngtin là con người mà đức hạnh tiềm tàng, nên đem
lòng thương và hết sức chăm sóc cho riêng chị.
Ông
Mađơlen gọi bà ra một nơi dặn dò bà trông nom cho Phăngtin, giọng nói của ông
có vẻ lạ lùng khiến về sau bà nhớ mãi. Nói chuyện xong với bà xơ, ông lại gần
Phăngtin.
Ngày
nào Phăngtin cũng chờ ông Mađơlen đến thăm như người ta chờ một tia sáng mặt
trời ấm áp và tươi vui.
Chị
bảo các bà xơ:
- Tôi
chỉ sống lúc có ông thị trưởng ở đây thôi.
Hôm ấy
chị sốt nhiều. Vừa thấy ông Mađơlen chị hỏi ngay:
-
Côdét đâu?
Ông
cười đáp:
- Nay
mai.
Ông
đến thăm Phăngtin cũng như mọi ngày. Có điều hôm ấy ông ở lại lâu đến cả giờ
chứ không phải nửa giờ như mọi bận. Làm cho Phăngtin hết sức vui mừng. Ông dặn
đi dặn lại mọi người đừng để cho chị phải thiếu một thứ gì. Có lúc người ta
thấy mặt ông sa sầm nhưng hiểu ngay đó là tại ông thầy thuốc vừa ghé tai ông
nói nhỏ:
- Chị
ấy yếu đi nhiều.
Sau đó
ông trở về thị sảnh và người hầu việc thấy ông chăm chú xem xét bản đồ giao
thông toàn quốc trong phòng, rồi lấy giấy ghi vài chữ số bằng bút chì.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN VII
Chương 2
SỰ TINH Ý CỦA NGƯỜI CHỦ XE XCÔPHƠLE
Ông đi
từ thị sảnh đến đầu tỉnh, tìm vào nhà một người cho thuê xe ngựa. Lão ta người
xứ Phơlăngđơrơ tên là Xcôphơle.
Con
đường gần nhất là qua một phố ít người đi lại, ở đấy có nhà riêng ông cha xứ.
Cha là người đạo đức đáng kính và hay giúp đỡ ý kiến cho mọi người. Lúc ông
Mađơlen đi ngang qua nhà cha xứ, ngoài đường chỉ có một người đi. Người ấy thấy
như thế này: ông đã đi quá chỗ ấy bỗng dừng lại, đứng im một lúc rồi quay về
trước cửa nhà cha xứ. Ông giơ tay nắm lấy chày gõ cửa, giơ lên rồi lại đứng im,
suy nghĩ. Một chốc sau, đáng lẽ đập chày gọi cửa, ông lại nhẹ nhàng bỏ chày ra,
rồi vội vã đi thẳng, thong thả như ban nãy.
Ông
Mađơlen đến nhà lão Xcôphơle, thấy lão chữa bộ yên ngựa.
- Ông
Xcôphơle ơi, ông có con ngựa nào không?
- Thưa
ngài, ngựa nhà tôi con nào cũng hay cả. Nhưng ngài cho thế nào là ngựa hay mới
được chứ?
- Là
ngựa đi nổi hai mươi dặm một ngày.
- Ối
chà, những hai mươi dặm!
-
Phải.
- Đóng
vào xe?
-
Phải.
- Đi
một chuyến như thế rồi thì phải nghỉ bao lâu?
- Hôm
sau cần thì phải còn sức đi nữa.
- Cũng
lại đi trở về con đường ấy?
-
Phải.
- Chà!
Chà! Lại những hai mươi dặm!
Ông
Mađơlen móc túi lấy tờ giấy có ghi bút chì cho chủ ngựa xem. Trong giấy có ghi
mấy con số 5, 5, 8 rưỡi.
- Ông
thấy không? Tổng cộng mười chín rưỡi, coi như là hai mươi dặm.
- Thưa
ngài, tôi có thể thỏa mãn yêu cầu của ngài. Tôi có con ngựa bạch thấp bé. Chắc
ngài đã có một đôi lần trông thấy nó rồi. Giống ngựa miền Bulonne hạ đấy. Nó
hăng vô cùng. Trước người ta định dùng làm ngựa cưỡi. Nhưng nó có chứng cất
hậu, ai cưỡi cũng bị nó quăng xuống đất. Người ta tưởng nó bất kham, chẳng ai
biết dùng để làm gì. Thế là tôi mua và đem đóng nó vào xe. Bẩm té ra đúng ý cu
cậu, cu cậu trở nên hiền lành như con gái và phi nhanh như gió. Ấy thế mà chớ
dại trèo lên lưng cu cậu, cu cậu không để người ta cưỡi đâu. Ai chẳng có tham
vọng riêng. Bắt kéo xe thì được, đem ra cưỡi thì không. Con ngựa này hình như
nó đã tự bảo như thế thật đấy.
- Vậy
nó đi được chứ?
- Hai
mươi dặm của ngài, tôi cho là nó đi chưa đến tám tiếng đồng hồ đâu. Mà cứ luôn
luôn nước kiệu lớn đấy. Nhưng phải có những điều kiện như thế này.
- Ông
cứ nói.
- Điều
thứ nhất, đến nửa đường, ngài cho nó nghỉ xả hơi độ một giờ và cho nó ăn, lúc
nó ăn ngài phải phải đứng đó kẻo bọn làm công ở quán trọ nó ăn bớt, vì tôi thấy
các quán trọ, lúa ngựa thường hay bị bọn làm công lấy đổi rượu uống chứ ngựa
thì chẳng mấy khi được ăn.
- Tôi
sẽ đứng đó.
- Điều
thứ hai là… Bẩm xe để chính ngài dùng phải không?
-
Phải.
- Bẩm
thế ngài có biết cầm cương không?
- Có.
- Vậy
thì ngài đi không thôi, đừng mang theo hành lý để cho ngựa kéo được nhẹ.
- Đồng
ý.
-
Nhưng ngài không đem theo ai thì xin ngài chịu khó đứng coi ngựa ăn.
- Được
rồi.
- Ngài
trả cho ba mươi phơrăng một ngày, kể cả ngày nghỉ. Không kém một trinh. Còn
tiền lúa ngựa ăn thì về phần ngài chịu.
Ông
Mađơlen mở túi lấy ra ba đồng tiền vàng Napoleon đặt lên bàn:
- Tôi
đặt tiền trước cho hai ngày.
- Điều
thứ tư, đường trường như thế mà dùng cỗ xe có mui thì e nặng quá làm nhọc ngựa.
Xin ngài bằng lòng dùng cỗ xe nhẹ của tôi đây.
- Tôi
bằng lòng.
- Xe
thì nhẹ nhưng không có mui.
-
Không hề gì.
- Ngài
có nhớ bây giờ đang là mùa đông không?
Ông
Mađơlen không đáp. Chủ ngựa lại nói:
- Và
trời đang lạnh lắm đấy.
Ông
Mađơlen vẫn không nói gì. Xcôphơle tiếp:
- Lại
có thể có mưa nữa.
Ông
Mađơlen ngẩng lên bảo:
- Sáng
mai, bốn giờ rưỡi, ông mang xe và ngựa đến trước cửa nhà tôi.
- Xin
y hẹn. – Lão Xcôphơle lấy móng tay cạo cạo cái vết đen trên mặt bàn, rồi nói
tiếp với cái vẻ vô tình mà dân Flamăng thường khéo xen vào cái tinh khôn của
họ: “À! Từ nãy đến giờ tôi quên không nghĩ đến. Ngài thị trưởng chưa cho tôi
biết ngài đi đâu. Vậy ngài đi đâu thế?”
Từ lúc
bắt đầu câu chuyện, lão đã băn khoăn về việc đó rồi nhưng không hiểu sao lão
chưa dám nói.
Ông
Mađơlen nói:
- Ngựa
của ông hai chân trước có khỏe không?
- Bẩm
khỏe lắm. Nhưng đến chỗ dốc thì ngài thong thả cho nó nhờ một tí. Con đường
ngài đi có nhiều dốc không?
- Đừng
quên sáng mai đến đằng nhà tôi đúng bốn giờ rưỡi sáng nhé! – ông Mađơlen trả
lời thế rồi bước ra.
Lão
chủ ngựa “đực người” ra đúng như lời lão tự nhận sau đó. Ông thị trưởng ra khỏi
được ba bốn phút thì lại thấy mở cửa: vẫn là ông ta.
Trông
ông có vẻ lanh lùng và tư lự.
- Này
ông Xcôphơle, con ngựa và cái xe ông cho tôi thuê thứ nọ mang thứ kia, cả đôi
đáng giá bao nhiêu?
Chủ
ngựa cười ha hả:
- Thứ
nọ kéo thứ kia chứ, bẩm ngài.
- Cũng
được! Thế bao nhiêu?
- Bẩm
ngài muốn mua lại hay sao?
-
Không. Nhưng cứ phòng xa, tôi muốn đặt tiền ký quỹ cho ông. Khi tôi về, ông trả
lại cho tôi. Cái xe và con ngựa ông định giá bao nhiêu?
- Bẩm
ngài năm trăm phơrăng.
- Tiền
đây.
Ông
Mađơlen để tờ giấy bạc lên bàn rồi đi ra, lần này không trở lại nữa.
Lão
Xcôphơle bứt đầu bứt tai tiếc rẻ mãi sao không nói một nghìn phơrăng. Thật ra
cả cỗ xe và con ngựa chỉ đáng giá một trăm ê – qui thôi.
Lão
gọi vợ ra kể lại đầu đuôi câu chuyện. “Quái cái nhà ông này đi đâu thế nhỉ?” Vợ
chồng bàn nhau. Vợ nói: “Ông ấy đi Paris”. Chồng bảo: “Không phải”. Ông thị
trưởng bỏ quên mảnh giấy có ghi bút chì trên lò sưởi; lão cầm lấy cố đoán xem.
“Năm, sáu và tám rưỡi? Có lẽ đây là những trạm trên đường thiên lý”. Lão quay
lại bảo vợ: “Tìm ra rồi. – Thế nào? – Từ đây đến Hetxdanh năm dặm, từ Hetxdanh
đến Xanh Pôn sáu dặm, từ Xanh Pôn đến Arát tám dặm rưỡi. Ông ấy đi Arát”.
Lúc ấy
ông Mađơlen về đến nhà.
Lúc
trở về, ông đi theo con đường khác dài hơn, không đi ngang qua cửa nhà cha xứ
nữa. Hình như ông sợ nó cám dỗ. Đến nhà, ông lên ngay phòng riêng và đóng cửa lại.
Việc đó cũng thường thôi, vì có hôm ông cũng đi nghỉ sớm được. Tuy thế, mụ gác
cổng, đồng thời cũng là người hầu hạ duy nhất của ông, cũng để ý nhận thấy ông
tắt đèn từ lúc tám rưỡi, nên gặp người thủ quỹ về sau đi qua, mụ thuật chuyện
lại và thêm:
- Ông
thị trưởng ốm đau gì phải không? Tôi coi bộ ông ta làm sao ấy.
Người
thủ quỹ ở ngay bên phòng dưới ông Mađơlen. Chẳng để ý gì đến lời mụ gác cổng,
hắn đi nằm và ngủ ngay. Vào khoảng nửa đêm, hắn giật mình thức giấc. Trong giấc
ngủ hắn nghe như có tiếng động ở tầng trên. Hắn lắng tai nghe. Có tiếng chân
người đi đi lại lại. Nghe kỹ thì là tiếng giầy của ông Mađơlen. Hắn kinh ngạc
vì thường thì trước giờ ông dậy, trong phòng ông không bao giờ có tiếng động.
Một lúc sau lại hình như có tiếng tủ mở ra rồi khép lại. Có tiếng bàn ghế dịch
đi rồi im lặng, rồi lại có tiếng chân bước. Hắn ngồi nhổm dậy, tỉnh hẳn, nhìn
qua cửa kính sang phía tường trước mặt thấy có ánh sáng đo đỏ ở cửa sổ nào
chiếu ra. Cứ cái hướng ánh sáng ấy thì đúng là cái cửa sổ phòng ngủ của ông
Mađơlen. Ánh sáng lung linh hình như là có ai đốt cái gì chứ không phải thắp
đèn. Bóng sáng không in hình nẹp cửa kính, như thế nghĩa là cửa kính không
đóng. Trời rét thế này mà mở toang cả cửa sổ cũng là một điều lạ. Hắn quay qua
ngủ lại. Một vài giờ sau, hắn lại thức giấc. Vẫn cái bước chân chậm chạp đều
đều đi lại ngay ở trên đầu hắn.
Ánh
sáng chiếu sang bức tường vẫn còn, nhưng bây giờ nó mờ mờ và êm ả như ánh sáng
một ngọn đèn hay một ngọn nến. Cửa sổ vẫn mở toang.
Sau
đây là những việc xảy ra trong phòng ông Mađơlen.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN VII
Chương 3
MỘT TRẬN BÃO TÁP TRONG ĐẦU
Chắc
độc giả đã đoán ra ông Mađơlen chính là Giăng VanGiăng(Jean Valjean) rồi. Chúng
ta đã có lần nhìn sâu vào lương tâm ông; bây giờ lại nhìn vào đấy một lần nữa.
Làm việc này khó mà bình thản, khó mà không run sợ. Vì có gì ghê rợn bằng cái
việc quan chiêm đó!
Một
con người, dù là con người không đáng kể đi nữa, đem tâm hồn họ mà viết thành
bài ca, thì đó là thiên hùng ca hay nhất, trọn vẹn nhất đúc lại trên mọi thiên
hùng ca. Ôi! Tâm hồn con người, bao nhiêu thứ mơ ước hão huyền, bao nhiêu thứ
lòng tham, ý định, chất chồng ở đấy! Bao nhiêu giấc mơ nung nấu, bao nhiêu ý
nghĩ sâu xa ẩn nấp ở đấy! Ngụy biện: thanh minh ngự trị ở đấy, dục vọng xô xát
nhau cũng ở đấy. Vào lúc một con người đang suy nghĩ, thử bỏ qua vẻ mặt lạnh
lùng mà nhìn vào trong bóng tối, vào tâm hồn của họ mà xem. Bên ngoài có vẻ yên
tĩnh mà ở đấy chính là những tráng sĩ khổng lồ đang đánh nhau như trong thơ
Hôme, những rồng những rắn quần nhau bên cạnh vô số bóng ma như trong sách
Mintơn, những vòng nọ vòng kia chật ních những linh hồn như trong tưởng tượng
của Đăngtơ. Lương tâm là một cõi vô biên ghê rợn. Con người ai cũng có và phải
lấy đó để suy xét tất cả những ý muốn nảy ra trong óc và tất cả những hành vi
trải qua trong cuộc đời!
Ngày
xưa có kẻ đã đứng trước cửa một nơi kia nhưng vì cửa rùng rợn quá mà ngập
ngừng. Nhưng thôi, cứ vào vậy. Từ khi Giăng VanGiăng gặp thằng bé Giecve, câu
chuyện đã xảy ra như thế nào, độc giả biết cả rồi, không cần phải nói thêm
nhiều. Chỉ biết từ hôm ấy trở đi, Vangiăng đã thành một con người khác. Ông
giám mục muốn Vangiăng trở nên như thế nào, Vangiăng đã làm y như thế. Không
phải là một sự thay đổi, mà thật tình là một sự lột xác.
Vangiăng
tìm cách mai danh ẩn tích, bán món đồ đạc của ông giám mục đi, chỉ giữ có đôi
chân đèn làm kỷ niệm. Vangiăng lén lút từ tỉnh này sang tỉnh khác, đi suốt nước
Pháp đến cảng Môngtơrơi. Ở đây Vangiăng nảy ra sáng kiến đã nói trên kia và làm
được những việc như đã biết, khiến cho mình thành người không ai bắt nổi và
không ai dám ngờ tới. Vangiăng yên tâm ở Môngtơrơi, sung sướng thấy mình không
quên bài học đau buồn của dĩ vãng và cuộc đời mình về sau đã rửa sạch được vết
nhơ của nửa đời mình ngày trước. Đời Vangiăng từ nay yên ổn: ông vững lòng và
hy vọng. Bây giờ ông chỉ lo có hai điều là giấu kỹ tên tuổi và sống một cuộc
đời được thừa nhận, thoát bàn tay người đời và trở về với Chúa. Hai ý nghĩ ấy
gắn liền với nhau thành một trong tâm trí Vangiăng. Cả hai quyết liệt chiếm hết
tâm trí và chi phối tất cả hành động của Vangiăng. Thường thì hai ý nghĩ ấy
thống nhất để định cho Vangiăng cách xử thế, làm cho Vangiăng ưa cảnh sống tối
tăm, biến Vangiăng thành người trung hậu, giản dị và cũng khuyên Vangiăng những
lời giống nhau. Nhưng đôi khi cũng có mâu thuẫn. Lúc đó con người mà tất cả
vùng Môngtơrơi gọi là ông Mađơlen đã hy sinh ý nghĩ thứ nhất cho ý nghĩ thứ
hai, hy sinh sự an toàn của mình cho đạo đức. Cho nên, mặc dầu phải hết sức đề
phòng và giữ gìn. Vangiăng vẫn giữ đôi chân đèn của ông giám mục, để tang cho
ông ấy, cho gọi và hỏi han tất cả những trẻ người xứ Xavoa đi ngang qua tỉnh,
điều tra về các gia đình ở Phavơrôn và sứ cứu mạng cho lão Phôsơlơvăng, chẳng
kể gì đến những lời bóng gió đáng lo ngại của Giave. Hình như Vangiăng đã theo
gương những bậc hiền nhân quân tử và nghĩa vụ đầu tiên của ông không phải là vì
mình.
Tuy
vậy cũng phải nói rằng chưa bao giờ có việc như thế xảy ra. Chưa bao giờ hai ý
nghĩ ấy, hiện ngự trị con người đáng thương mà ta đang kể lại cuộc đời đau khổ
đây, lại xung đột nhau kịch liệt đến thế. Giave vào buồng giấy ông, vừa thoạt
nói mấy lời, ông đã lờ mờ hiểu ngay câu chuyện và đã thấy nó sâu xa. Lúc đột
nhiên nghe đọc đến cái tên đã chôn vùi mấy lớp, ông như sững sờ choáng váng, vì
thấy số mệnh sao lại có điều kỳ dị kinh khủng đến thế. Qua phút sững sờ ông
giật mình, cái giật mình báo hiệu những cuộc biến đổi lớn. Bỗng dưng ông cúi
đầu như cây cối trước cơn giông, như người lính trước trận xung phong. Ông thấy
như mây đen, sấm sét đang kéo trên đầu mình. Nghe Giave nói, ông liền nghĩ đến
việc đi ngay, chạy ngay đi tự tố cáo để cứu lão Săngmachiơ và ngồi tù thay cho
lão. Lòng ông đau như dao cắt. Nhưng rồi ý nghĩ ấy qua đi, ông tự bảo mình:
“Sao lại thế!” ông cố nén cái cử chỉ hào hiệp ban đầu ấy đi và lùi bước, không
dám dũng cảm.
Tất
nhiên, sau khi nghe những lời đáng tôn kính của ông giám mục, qua bao nhiêu năm
hối cải và nhẫn nhục, giữa lúc đang bắt tay vào việc chuộc tội một cách hiệu
quả đáng lẽ người ấy, mặc dầu đứng trước một nỗi băn khoăn ghê gớm như lần này,
nhất định không chịu chùn chân chút nào, cứ thẳng bước đến chỗ vực thẳm mà dưới
đáy thì lại là trời, được như thế thì hay biết bao nhiêu. Nhưng nào có được
thế. Chỉ biết là phải kể ra đây tất cả những diễn biến trong tâm hồn con người
ấy. Và cũng chỉ kể được cái gì đã xảy ra thôi. Ban đầu ông bị bản năng sống còn
lôi cuốn ông vội tập trung mọi ý nghĩ lại, cố nén cơn xúc động, để ý đến sự có
mặt của Giave, mối nguy cơ lớn cho ông, hoãn những điều đã quyết định với cái
liều lĩnh của người đang sợ hãi, thận trọng đến mệt óc trong mọi việc sắp làm
và lấy cái thái độ bình tĩnh như người võ sĩ cúi nhặt lá mộc đánh rơi vậy.
Cả
buổi tối hôm ấy, tâm trạng ông cứ như thế. Trong lòng rối như tơ vò mà bề ngoài
vẫn cứ điềm nhiên, bình thản. Ông chỉ thực hiện những “biện pháp bảo lưu” thôi
(Danh từ chuyên môn về tư pháp). Tất cả như mơ hồ và lộn xộn trong đầu óc ông.
Lòng phân vân đến nỗi ông không thể có được một ý kiến gì cho rõ rệt. Ngay cả
bản thân ông, ông cũng không hiểu như thế nào cả. Chỉ biết rằng mình vừa bị một
vố nặng, ông vẫn đến thăm Phăngtin ở phòng bệnh như mọi khi và nấn ná ở lại lâu
hơn. Lòng thương người khiến ông thấy cần phải làm như thế và ông ủy thác chị
cho hai bà xơ một cách cặn kẽ phòng khi ông phải vắng mặt. Ông mơ hồ nghĩ rằng
có lẽ cần phải đi Arát, nhưng chẳng có ý gì quả quyết cả. Ông lại tự bảo như
mình thì còn sợ gì ai nghi ngờ nữa, có tới đó cũng không hại gì, lại được xem
sự thể ra làm sao. Và ông đã đến thuê xe ngựa của lão Xcôphơle, cũng là cách
chuẩn bị đề phòng mọi sự bất trắc, thế thôi.
Tối
hôm ấy, ông ăn cơm khá ngon miệng.
Vào
phòng nghỉ, ông bình tâm suy nghĩ lại.
Ông
nhận định lại tình hình và thấy thật là phi lý. Phi lý đến nỗi giữa lúc suy
nghĩ vẩn vơ như thế mà cũng hình như có mối lo sợ gì khó tả, buộc ông phải đứng
dậy ra đóng chặt cửa và cài then thật kỹ. Ông sợ còn có cái gì nó vào nữa. Ông
chặn ngang cửa để chống lại với cái có thể đến.
Một
lát sau, ông tắt nến đi. Ánh sáng làm ông khó chịu.
Hình
như người ta có thể trông thấy ông được.
Người
ta, là ai?
Khổ thay!
Ông muốn đuổi nó ra ngoài thì nó đã vào, ông muốn che mắt nó thì nó đã nhìn
ông, nó là lương tâm ông.
Mà
lương tâm ông tức là Chúa.
Dù
sao, lúc đầu ông vẫn còn ảo tưởng, cho mình thế là yên chí, chỉ có một mình
mình thôi. Cửa đã cài then không ai còn làm gì nổi mình; đèn đã tắt đi rồi, còn
ai trông thấy mình nữa. Bây giờ ông mới nhìn kỹ vào mình. Gian phòng tối om.
Ông tỳ khuỷu tay xuống bàn. Đưa bàn tay đỡ trán, ngồi suy nghĩ.
“Ta
nghĩ đến đâu rồi? – Ta không mơ ngủ chứ? – Họ đã nói gì với ta? Có thật ta đã
gặp tên Giave và nó đã nói với ta như thế không? Tên Săngmachiơ là thế nào? –
Nó giống ta ư? – Có thể thế được không? Hôm qua ta còn được thảnh thơi và có
ngờ đâu sự thể thế này! Hôm qua, giờ này ta đang làm gì nhỉ? – Việc này nó thế
nào? – Kết cục rồi ra sao? – Làm thế nào bây giờ?”
Đấy,
trong lòng ông xốn xang như thế đấy. Đầu óc không còn sức suy nghĩ minh bạch
nữa, các ý nghĩ cứ xô đi như làn sóng, ông đưa hai tay ôm lấy đầu như để giữ
lại. Tình trạng bời bời ấy làm cho tâm trí và nghị lực ông bị đảo lộn cả, ông
muốn tìm một cái gì đích xác, muốn có một sự quyết định, nhưng chỉ thấy có lo
sợ. Đầu nóng bừng bừng. Ông ra cửa sổ, mở toang cả hai cánh ra. Trên trời không
một bóng sao. Ông lại vào bàn ngồi.
Một
giờ đồng hồ trôi qua như thế. Dần dần một vài đầu mối bắt đầu hiện ra và cấu
kết lại trong ý nghĩ, làm ông thấy hé ra một cách chính xác thực tế của cảnh
ngộ mình tuy chưa được bao quát song đã chắc chắn được đôi ba điều.
Ông
bắt đầu nhận ra rằng dù cảnh ngộ ấy có kỳ dị bấp bênh đến đâu đi nữa, ông cũng
hoàn toàn làm chủ được tình thế.
Vì lẽ
ấy, ông lại càng thấy thêm lo sợ...
Các
việc ông làm đều nhằm mục đích sửa mình một cách nghiêm khắc, theo lời răn của
Chúa. Nhưng đặt mục đích ấy qua một bên thì tất cả những điều ông làm, cầm bằng
như ông đào một hố sâu để chôn chặt tên mình. Điều ông sợ nhất trong những lúc
ông trầm ngâm tự vấn hoặc trong những đêm trằn trọc không ngủ, là có ai đọc đến
tên ấy. Ông nghĩ rằng nếu việc ấy xảy ra thì mọi sự coi như hỏng hết: cái tên
ấy mà hiện ra thì nó sẽ làm tiêu tan cuộc đời mới của ông, và biết đâu nó lại
không làm tiêu tan cả tâm hồn mới của ông nữa? Chỉ mới nghĩ việc ấy có thể xảy
ra là ông đã rùng mình.
Giả dụ
những lúc ấy có người đến nói với ông như thế này: có lúc cái tên ấy sẽ vang
đến bên tai, cái tên Giăng VanGiăng ghê tởm ấy sẽ từ trong bóng tối hiện ra
sừng sững trước mặt, những luồng ánh sáng vĩ đại lâu nay đã xóa sạch cái màn bí
mật chung quanh ông, bỗng dưng sáng rực hẳn lên, làm cho mọi người chói mờ
không trông thấy gì. Cái tên vì thế không còn gì đáng sợ, cái màn bị xé lại
tăng thêm sự bí mật, cái phút tưởng như trời sa đất sụt kia lại là phút làm cho
nền móng ngôi nhà thêm vững. Và sự việc kỳ lạ kia chỉ đưa đến kết quả làm cho
cuộc đời ông càng thêm sáng tỏ đồng thời càng thêm khó hiểu, cái bóng ma Giăng
VanGiăng đem đặt bên ông tư sản Mađơlen đáng kính, chỉ làm cho ông càng thêm
vinh dự, càng thêm được kính mến, được yên tĩnh hơn giờ hết. Giả sử có ai nói
với ông như vậy, ông cũng sẽ lắc đầu và cho là vô lý. Thế mà tất cả những cái
đó vừa xảy ra, tất cả những cái không thể có đã có và Chúa đã cho phép các thứ
viển vông kia trở thành sự thật!
Suy
nghĩ mãi cũng thấy sáng sủa dần ra. Mỗi lúc ông mỗi nhận rõ thêm cái thế của
mình lúc này.
Ông
thấy mình như vừa tỉnh một giấc mơ và đương trượt dần trên một con đường dốc
trong đêm tối, đến bên bờ một cái vực sâu, cả người run lên mà không sao lui
trở lại được. Ông nhìn thấy rõ ràng trong bóng tối ấy có một người lạ mặt mà số
mệnh tưởng lầm là ông và đương đem xô xuống vực thay cho ông. Trong hai người,
hoặc ông hoặc người kia phải có một người ngã xuống thì vực mới khép lại được.
Ông cứ
để cho việc xảy đến ra sao thì ra là yên. Giờ thì rõ ràng lắm rồi. Ông tự thú
điều này: - Chỗ của ông ở trong nhà lao vẫn còn bỏ trống. Dù ông có muốn làm
thế nào đi nữa, nó vẫn cứ chờ ông. Tội cướp tiền của thằng bé Giecve đã đưa ông
trở vào đó, cho nên cái chỗ bỏ trống ấy, nó cứ chờ ông, lôi kéo ông, cho đến
khi ông phải vào mới nghe. Đó là việc không thể tránh được, thế nào cũng phải
tới. Và ông lại nghĩ:
- Hiện
giờ ông đã có một người thay thế. Nghe đâu tên Săngmachiơ nào đó đã vô phúc gặp
phải cái không may ấy. Còn ông thì từ nay trong nhà lao đã có tên Săngmachiơ
thế chân, ngoài xã hội thì ông là Mađơlen, ông không còn phải lo gì nữa, quý hồ
ông cứ để cho người đời đem cái tấm bia chung thân ô nhục kia đè lên đầu ông
Săngmachiơ; cái tấm bia ấy giống như cái nắp mồ, đã sập xuống một lần thì thôi,
không bao giờ còn nâng lên được nữa...
Tất cả
những cái đó quá mãnh liệt, qua lạ đời. Trong người ông như có một chuyển động
gì khó tả, ít khi thấy nảy ra trong một đời người. Hình như lương tâm đang vùng
lên quằn quại, khuấy động tất cả những gì đáng nghi ngờ của trái tim. Hình như
trong đáy sâu của cõi lòng có một tiếng cười phá đang vang lên, mà ý nghĩa gồm
đủ mỉa mai vui mừng, lẫn thất vọng.
Bỗng
ông thắp nến lên, tự bảo mình:
- Ơ
hay, ta sợ cái gì chứ? Sao ta lại phải nghĩ ngợi phân vân như thế? Ta đã thoát
nạn rồi. Xong cả rồi. Trước kia thì còn cái cửa bỏ ngỏ để dĩ vãng có thể lọt
được vào cuộc sống hiện tại. Cái cửa ấy, giờ đã xây bịt lại rồi! Một cách vĩnh
viễn! Cái thằng Giave ấy, lâu nay nó làm ta lo lắng, nó theo dõi ta khắp nơi,
cái linh tính đáng sợ của nó hình như đã đoán được ra ta, mà đoán được ra rồi
chứ còn gì nữa! Cái tên chó săn đáng tởm ấy nó rình ta từng bước, nay thì nó
lạc hướng rồi, lo chạy theo con đường khác rồi, nó sẽ để cho ta yên, nó đã nắm
được tên Giăng VanGiăng của nó rồi! Hình như nó lại muốn bỏ nơi đây mà đi! Và
cái chuyện này xảy ra ta có biết đâu! Ta có can dự gì đến đó đâu! Nhưng mà này!
Trong chuyện này có cái gì gọi là đáng trách được không! Những người gặp ta
chắc sẽ tưởng ta gặp nạn lớn! Chung quy lại, nếu có ai gặp tai họa phen này thì
chẳng phải lỗi ở ta chỗ nào cả. Thôi thì cũng là tại trời cả. Có lẽ trời muốn
như thế thật. Ta có quyền gì xáo trộn việc trời đã xếp đặt? Ta cầu mong gì bây
giờ? Tại sao ta cứ chực xen vào việc này? Can dự gì đến ta đâu. Ơ hay! Ta không
bằng lòng hay sao? Mà ta đòi hỏi cái gì chứ? Cái mục đích lâu nay ta theo đuổi,
cái điều hằng đếm ta mơ ước, điều mà ta đem cầu nguyện với trời là sự an toàn,
thì ta đạt được rồi! Ý Chúa là như vậy. Ta còn làm gì trái nổi ý Chúa được. Mà
tại sao ý Chúa lại muốn như thế? Chính là để ta tiếp tục cái việc ta mới bắt
đầu, để ta làm điều thiện, để ta có thể một ngày kia nêu tấm gương sáng cho
người khác, để người ta thấy rằng kẻ đã biết hối quá, đã biết tu tỉnh thì cũng
sẽ được hưởng phần hạnh phúc! Thật lạ, ta không hiểu tại sao ban nãy ta không
dám vào nói hết câu chuyện với ông cha xứ đáng kính ấy, như một người xưng tội.
Chắc hỏi ý kiến ông, ông cũng sẽ trả lời như ta nghĩ thôi. Nhất định rồi, cứ
mặc cho công việc tiếp diễn! Để yên cho Chúa định đoạt!
Đó là
lời ông tự nhủ. Lời nói vang lên từ tận đáy lòng khi ông cúi nhìn xuống cái có
thể gọi là vực thẳm của lòng ông. Sau đó ông đứng lên, đi bách bộ trong phòng –
thôi, đừng nghĩ đến việc đó nữa. Quyết định rồi mà! Nhưng trong lòng vẫn không
thấy vui.
Trái
lại nữa.
Người
ta không sao ngăn trí óc trở lại với một ý nghĩ, cũng như không sao ngăn sóng
bể lui ra rồi lại xô trở vào bờ. Với người thủy thủ, đó là thủy triều. Với kẻ
có tội, đó là lòng hối hận. Chúa khuấy động linh hồn con người cũng như làm cho
đại dương nổi sóng vậy.
Chỉ
một lát sau, dù đã cố sức quên đi, ông lại phải trở lại với cuộc đối thoại đau
khổ lúc trước, mình nói rồi mình lại nghe. Nói lên những điều mình không muốn
nói tới, rồi phải nghe những điều mình không muốn để vào tai. Đành để cho một
sức gì huyền bí nó lôi cuốn và ra lệnh: “Nghĩ đi!” như nó đã ra lệnh cho một kẻ
có tội trước đây khác trước đây hai nghìn năm! “Đi đi”.
Trước
khi kể tiếp xin nhấn mạnh một nhận xét cần thiết để mọi người hiểu đầy đủ câu
chuyện.
Loài
người biết suy nghĩ, ai cùng từng trải qua những phút mình nói với mình. Ngôn
ngữ thật không bao giờ huyền diệu tuyệt vời, bằng khi ở bên trong con người, nó
như con thoi chuyển từ trí tuệ đến lương tâm rồi từ lương tâm quay về với trí
tuệ. Những chữ “ông nói”, “ông kêu lên” thường gặp trong chương này, chính phải
hiểu theo nghĩa ấy. Người ta tự nói với mình, tự bảo với mình, tự kêu lên với
mình. Thật là ầm ĩ: cái gì trong ta cũng nói, chỉ miệng là không. Nhưng sự im
lặng chung quanh không hề lúc nào bị ngắt quãng. Bao nhiêu hiện thực của tâm
hồn, không trông thấy, không sờ mó được, nhưng vẫn là những hiện thực.
Ông
hỏi mình suy tính đến đâu rồi. Ông tự vấn xem “quyết định như thế”, thì rồi ra
sao? Ông tự thú, công việc xếp đặt như thế là bất nhân. Cái lối để mặc cho công
việc xảy ra, phải để yên cho Chúa định đoạt là một lối rõ ràng ghê tởm. Cứ để
mặc cho số mệnh và người đời nhầm lẫn, không ngăn cản nó lại, yên lặng để phụ
họa với nó, không làm gì cả, tức là mình đã làm tất cả đấy! Đó là một việc gian
giảo đốn mạt nhất! Đó là một tội ác khốn nạn, hèn hạ, hiểm độc, đáng khinh,
đáng tởm!
Suốt
tám năm, lần này là lần đầu con người đáng thương ấy mới lại thất cái vị cay
đắng của một ý nghĩ xấu và của một hành động xấu. Ông kinh tởm, khạc nhổ nó đi.
Ông
tiếp tục tự vấn. Ông nghiêm khắc tự hỏi mình định nói gì với câu “mục đích đã
đạt”? Ông nhận rằng đời mình có một mục đích thực, nhưng mục đích gì? Giấu tên
giấu tuổi à? Che mắt bọn cảnh sát à? Chẳng lẽ đã làm những việc như mình đã
làm, là chỉ vì một điều nhỏ mọn như thế? Thế không còn mục đích nào khác, cao
cả, chân chính nữa sao? Cứu vớt lấy linh hồn, chứ không phải thể xác. Trở lại
thành người ngay thẳng và nhân từ. Thành con người chính trực! Đó có phải là
điều mình ước mong và là điều độc nhất mình ước mong không? Đó có phải là điều
ông giám mục khuyên bảo không? Đoạn tuyệt với dĩ vãng à? Trời ơi! Có đoạn tuyệt
đâu, thế là nối lại đấy, bằng một hành động khốn nạn đấy! Thế là trở lại thành
một thằng ăn cắp đáng khinh ghét nhất! Mình đã ăn cắp cái sinh mệnh của người
ta, cả cuộc đời, cả sự yên ổn, cả cái chỗ đứng của người ta dưới ánh sáng mặt
trời! Mình thành một tên sát nhân! Không phải giết bằng gươm đao, mà giết bằng
tinh thần một con người khốn nạn. Buộc người ta phải chịu một cái chết thê
thảm, cái chết dần chết mòn, chết không mồ không mả, ngay giữa cảnh thanh thiên
bạch nhật, tức là cảnh tù ngục. Trái lại, ra thú đi, cứu cho người ta khỏi cái
tai ách bị lầm lẫn ghê gớm, lấy lại cái tên cũ, theo nghĩa vụ mà trở lại thằng
khổ sai Giăng VanGiăng, đấy mới thực là hoàn thành cái việc tái tạo và vĩnh
viễn thoát khỏi chốn địa ngục là nơi mà mình mới vừa bước chân ra khỏi. Vào tù
lại, trông thì như là sa trở vào địa ngục, nhưng thực tế thì thoát khỏi! Phải
làm như thế mới đúng! Nếu không thì bao nhiêu điều đã làm đều coi như không có.
Cả sự nghiệp trước thành vô ích, cả cuộc đời hối lỗi đều bỏ đi, mình chỉ còn tự
bảo mình một lời: ích gì? Ông thấy hình như có ông giám mục ở trước mặt. Ông
giám mục đã mất, nên nay lại hiện ra rõ rệt. Ông đang nhìn đăm đăm và bảo rằng
ông thị trưởng Mađơlen có tiếng là đạo đức, té ra lại thật là bỉ ổi, còn tên tù
Giăng VanGiăng thì sẽ lại trong sạch, đáng quý biết bao. Người đời chỉ trông
thấy cái mặt nạ của ta, nhưng ông giám mục thì nom thấy rõ được mặt thật. Người
đời chỉ nom thấy cuộc sống bên ngoài của ta, nhưng ông giám mục thì trông suốt
đến cả lương tâm. Thế thì phải đi Arát, giải thoát cho Giăng VanGiăng giả kia
và tố giác tên Giăng VanGiăng thật! Than ơi! Đó là sự hy sinh cao cả nhất, một
cuộc chiến thắng thương tâm nhất, cái bước sau cùng khó khăn nhất. Nhưng cần
phải bước qua cái bước ấy. Đau đớn thay là số mệnh! Muốn thành người trong sạch
trước mặt Chúa, lại phải chịu làm kẻ ô nhục trước mặt người đời!
“Dứt
khoát rồi, phải theo con đường ấy! Phải làm bổn phận của mình. Phải cứu người
ấy”.
Ông
cao giọng nói to câu ấy mà không biết.
Ông
giở sổ sách ra, kiểm soát lại và sắp xếp cho gọn ghẽ. Ông lấy bó văn tự mượn nợ
của những người buôn bán nhỏ túng thiếu ném vào lửa. Ông viết một bức thư, niêm
phong lại và đề ngoài phong bì: “Gửi ông Laphít chủ ngân hàng phố Actoa,
Paris”.
Ông mở
ngăn bàn giấy lấy ra một cái ví đựng một ít giấy bạc và tờ thông hành ông vừa
dùng đi bầu cử trong năm ấy.
Ai
trông thấy ông làm các việc ấy mà nét mặt không thôi trầm ngâm tư lự, chắc thừa
hiểu trong bụng ông đang suy nghĩ nhiều lắm. Chốc chốc, thấy môi ông hơi mấp
máy; có lúc ông lại ngước nhìn chăm chú vào một chỗ nào đó trên vách, dường như
ở đó có cái gì phải hỏi han, phải làm cho sáng tỏ.
Viết
xong một bức thư, ông bỏ cả thư và ví vào túi áo rồi lại đứng dậy đi bách bộ.
Dòng
suy nghĩ của ông không hề chệch hướng. Ông vẫn thấy rất rõ bổn phận của ông
được viết thành chữ sáng, đang rực chói trước mắt; nhìn đến đâu cũng thấy dòng
chữ ấy: - Đi ngay! Đến mà khai đi! Thú đi!
Trước
nay có hai ý nghĩ coi như hai nguyên tắc chi phối cuộc đời ông: cất giấu họ tên
và tu dưỡng tâm tính. Lần này là đầu tiên ông thấy hai ý nghĩ ấy cựa quậy như
những hình bằng xương bằng thịt và hiện ra khác nhau rành rọt, cách biệt hẳn
nhau. Một ý trong đó hoàn toàn đúng, còn ý kia thì có thể trở thành xấu; ý này
là vị tha, ý nọ là cá nhân! Đây là vì đồng loại, đó là vì bản thân; cái này bắt
nguồn từ ánh sáng, cái kia bước ra từ bóng đen.
Hai
lực lượng ấy tranh chấp nhau và ông là người chứng kiến. Ông suy nghĩ chừng nào
thì nó lại lớn lên chừng ấy và bây giờ thì nó to như núi; một bên là nữ thần,
một bên là nữ khổng lồ, hai bên quần nhau trong người ông, trong cái cõi vô biên
vô tận, lẫn lộn vừa ánh sáng vừa bóng tối như trên đây đã nói.
Người
ông hoảng hốt nhưng ông có cảm tưởng như phía ý nghĩ đúng thắng thế và ông đang
đi đến một bước quyết định cho lương tâm và cho số phận nữa đây. Trước kia ông
giám mục đã mở đầu cho ông giai đoạn đầu của cuộc đời mới, đến nay thì lão
Săngmachiơ này lại đánh dấu cho giai đoạn thứ hai. Cơn khủng hoảng to lớn đã
qua, trận thử thách gian nan lại đến.
Cơn
sốt trong người một lúc đã nguôi nguôi, nay dần dần trở lại. Muôn nghìn ý nghĩ
thoáng qua đầu nhưng chỉ làm cho ông vững tâm thêm trong quyết định của mình.
Ông tự
bảo: “Mình xét việc quá ư nóng vội, cái lão Săngmachiơ ấy, xét cho cùng cũng
chẳng có gì đáng để ý, và thật ra lão có ăn trộm thật”. Rồi ông lại tự trả lời:
“Ví thử lão ta có trộm táo đi nữa thì cũng chỉ một tháng tù. Từ đó đến khổ sai
còn xa biết mấy. Với lại biết đâu đấy? Lão có ăn trộm thật không? Có gì làm
bằng? Cái tên Giăng VanGiăng đã làm chết lão, hình như người ta chẳng còn cần
bằng chứng gì nữa. Các vị chưởng lý của nhà vua chẳng hay làm như thế là gì?
Lão ta vốn là tù khổ sai, thì nhất định lão ta có ăn trộm”.
Lúc
khác ông lại nghĩ rằng, sau khi ông ra tự thú, rất có thể người ta sẽ chiếu cố
đến hành vi dũng cảm của ông, xét đến cuộc đời lương thiện của ông trong bảy
năm qua và công lao của ông đóng góp cho xứ sở lâu nay, mà tha bổng cho ông.
Nhưng giả thiết ấy tan mau như khói. Ông mỉm cười chua chát mà nhớ ra rằng ông
cướp đồng hào của bé Giecve là mắc vào tội tái phạm, việc này nhất định sẽ bị
lôi ra và như thế, đúng theo hình luật, ông sẽ bị khép vào tội khổ sai chung
thân.
Ông
xua tan mọi thứ ảo tưởng kia đi. Tách mình dần ra khỏi cuộc đời thấp hèn và đi
tìm cho mình sự an ủi và sức mạnh ở một nơi khác. “Nhất định ta phải làm theo
bổn phận ta”, ông tự bảo: “Làm xong bổn phận chắc gì đã khổ hơn là trốn tránh
không làm?” Nếu ông cứ để mặc kệ và ông cứ ở Môngtơrơi, thì uy tín của ông,
tiếng tăm của ông, những cống hiến của ông cho xã hội, lòng thương người, đức
tính gần gũi mọi người, cuộc sống trong sạch, thậm chí sự giàu có của ông, rồi
lòng kính yêu, trọng vọng của mọi người, tất cả những cái đó dường như pha trộn
tội ác. Và những thứ cao quí kia mà lẫn cái vật ghê tởm này thì mùi vị sẽ ra
làm sao nữa! Trái lại, nếu ông dám hy sinh, thì dù thân có ở lao tù, xiềng
xích, người có phải khổ sai tạp dịch, chẳng bao giờ được nghỉ ngơi mà luôn luôn
bị quở phạt, dù đến thế đi nữa thì trong mỗi bước gian truân ấy vẫn bật lên một
ánh sáng thần tiên!
Nhưng
cuối cùng ông lại tự nhủ rằng sự việc hình như phải thế, số phận của ông trên trời
đã định sẵn, ông không có quyền xáo trộn mọi thứ trên cao đã sắp đặt, mà chỉ
được phép lựa chọn mà thôi: hoặc bên ngoài đạo đức mà bên trong nhục nhã hoặc
bên trong cao quí mà bên ngoài nhục nhã.
Dằn
vặt mãi với bao ý nghĩ bi thảm, lòng can đảm của ông vẫn vững vàng, nhưng trí
óc ông cảm thấy mệt mỏi. Bất giác ông bắt đầu nghĩ đến những điều khác, những
điều không dính dáng gì đến việc kia.
Mạch
hai bên thái dương đập dữ dội. Ông vẫn đi đi lại lại không ngừng. Đồng hồ điểm
mười hai giờ phía thị sảnh, rồi phía nhà thờ. Ông tẩn mẩn đếm theo từng tiếng
hai cái đồng hồ ở hai nơi rồi lại so sánh tiếng chuông với nhau. Ông sực nhớ
mấy hôm trước ông thấy ở một cửa hàng đồ sắt một cái chuông cũ trên có đề cái
tên: Angtoan Anhbanh đơ Rômanhvin.
Ông
thấy lạnh, bèn đến bên lò nhóm một ít lửa, nhưng quên không nghĩ đến việc đóng
cửa sổ lại.
Một
lúc lâu, ông thấy đầu óc mình trở lại mụ mẫm. Phải cố gắng hết sức mới nhớ ra
được mình đã nghĩ những gì trước lúc chuông đồng hồ đánh mười hai tiếng. Cuối
cùng ông nhớ ra được và tự nhủ:
“À
phải, lúc nãy ta đã quyết định đem ta ra tố cáo mà”. Bỗng ông sực nghĩ đến
Phăngtin.
“Ờ
nhỉ! Còn người đàn bà tội nghiệp này nữa!”
Đến
đây một cơn khủng hoảng khác lại nổ ra. Phăngtin bỗng nhiên hiện ra trong tâm
trí như đem đến một tia sáng bất ngờ. Mọi vật xung quanh hình như không còn cái
cảnh sắc như trước nữa. Ông kêu lên: à, mà sao từ nãy đến giờ ta chỉ nghĩ đến
mình ta? Ta chỉ tính toán đến những điều vừa ý ta thôi! Hoặc là cứ yên lặng,
hoặc là ra tự thú, - ẩn núp cho yên thân hay là cứu vớt lấy linh hồn, - làm một
ông thị trưởng đáng khinh mà được tôn trọng hay là một thằng tù khổ sai ô nhục
mà lại đáng kính, đó vẫn là chuyện của ta, luôn luôn là của ta, độc một mình
ta! Nhưng trời ơi! Đó chỉ là chuyện ích kỷ! Hình thức này hay hình thức khác đi
nữa, cũng chỉ là ích kỷ. Sao ta không nghĩ đến người khác một tí? Nghĩ đến
người khác là điều thiện đầu tiên. Nào, thử xét lại xem. Để riêng ta ra, quên
hẳn ta đi, thì rồi sẽ ra sao? – Ta mà ra tự thú nhé! Thì họ bắt ta, họ thả tên
Săngmachiơ ra, họ đưa ta đi đày, vậy là phải rồi. Rồi sao nữa? Ở đây sẽ xảy ra
những việc gì? À, ở đây có cả một vùng, một thành phố, những xưởng may, một nền
công nghiệp, có bao nhiêu là thợ thuyền, đàn ông, đàn bà, người già, trẻ con,
những người thật đáng thương! Ta đã xây dựng nên tất cả, ta đã nuôi sống cho
tất cả, chỗ nào có khói tỏa trên mái nhà là do chính tay ta đã đem củi cho mà
đốt, đem thịt cho mà nấu; nhờ ta có sự no ấm, có sự giao lưu, có tiền của;
trước ta, nào có gì đâu; ta đã phục hưng lại; làm sống lại; làm cho sầm uất,
làm cho phồn thịnh, làm cho nhộn nhịp, làm cho giàu có cả một xứ; ta mà thiếu
đi là thiếu cả một linh hồn. Ta mà cất ta đi thì sẽ chết hết thảy – Lại còn
người đàn bà kia đã chịu bao nỗi đau khổ, đã có bao điều đáng quí trong bước sa
ngã! Cuộc đời đau khổ của chị đều do ta vô tình gây ra cả. Lại còn đứa bé mà ta
định tìm về, ta đã hứa hẹn với mẹ nó nữa! Đối với chị, ta lại không có chút gì
để đền bù hay sao? Ta mà không còn ở đây nữa thì rồi sẽ ra sao? Người mẹ tất
chết. Đứa con rồi ra sao thì ra. Đấy, nếu ta đi tự thú, thì rồi sẽ như thế đấy.
“Hay
là ta đừng đi thú tội nữa? Xem nào, hay là đừng đi?”
Tự hỏi
xong câu ấy, ông ngừng lại như có một chút rụt rè, run sợ. Nhưng phút ấy chỉ
thoáng qua. Ông lại bình tĩnh tự trả lời:
-
Được, lão ta đi tù khổ sai, điều đó có thật, nhưng có sao đâu, lão ta ăn trộm
kia mà! Ta có cố tình nói lão không ăn trộm thì lão cũng đã ăn trộm rồi! Còn
ta, ta ở đây ta tiếp tục công việc của ta. Mười năm nữa ta sẽ có mười triệu, ta
sẽ đem mười triệu ấy rải ra khắp xứ. Ta chẳng giữ gì cho ta cả, có tiền hay
không có tiền, điều ấy có hề gì? Có phải vì ta mà ta làm việc đâu? Khi ấy mọi
người cứ càng sung túc lên, các đồng nghiệp bừng dậy và kích thích nhau, công
xưởng nhà máy đông lên, mọi gia đình, hàng trăm, hàng nghìn gia đình được sung
sướng; dân chúng trong vùng đông lên, những chỗ này mới là trại của tá điền, sẽ
có làng xóm mọc lên, những chỗ nay còn hoang vu sẽ có trại tá điền xuất hiện.
Bấy giờ đói nghèo không còn nữa và cùng với đói nghèo cũng mất luôn những tệ
nạn trụy lạc, đĩ điếm, trộm cắp, giết người, tất cả những tật xấu, thói hư, tất
cả những tội ác! Ấy, cả một vùng sẽ trở nên giàu có và lương thiện! Và người mẹ
tội nghiệp ấy có đủ điều kiện để nuôi con mình.
Ơ kìa,
ta đã điên, ta đã quá vô lý, tại sao lại nói đến chuyện đi tự thú? Thật đấy,
phải suy nghĩ cho kỹ, chớ có hấp tấp. Quái nhỉ! Chỉ vì ta muốn làm một kẻ vĩ
nhân, một người nghĩa khí – trò tuồng thôi! Chỉ vì muốn tránh hình phạt cho một
tên trộm cắp vu vơ, chắc là ngốc nghếch nữa, - hình phạt có lẽ hơi quá đáng,
tuy về căn bản là đúng, - mà lại để cho cả một xứ phải điêu tàn! Để cho một
người đàn bà đáng thương phải chết ở phòng bệnh! Một đứa nhỏ phải chết đường
chết chợ như chó chết. A, thật là tàn nhẫn! Mẹ không được thấy mặt con! Con
không được biết có mẹ! Như thế chỉ vì một thằng lưu manh già đáng đi đày, không
vì tội ăn trộm táo này thì rồi cũng vì tội khác! Thật là những tư tưởng đạo đức
hão, đi gỡ tội cho kẻ phạm tội để hy sinh những người vô tội! Mà lão thì còn
sống được vài năm nữa là cùng và có vào tù thì cũng chẳng khổ hơn chui rúc ở
túp nhà nát. Hy sinh tất cả nhân dân một vùng, bao nhiêu người mẹ, bao nhiêu
người vợ, bao nhiêu trẻ con, để đi cứu một lão già lang thang. Cả con Côdét tội
nghiệp chỉ còn trông mong có ta, chắc là lúc này nó đang rét tím người ở cái xó
lều của vợ chồng Tênácđiê. Lũ này cũng là đồ chó chết đấy! Như thế là ta đã
trốn nhiệm vụ đối với những con người khổ sở ấy! Ta lại nỡ tự đi thú à? Sao ta
lại định làm cái việc khờ dại thế? Cứ cho là xấu xa hẳn đi! Thí dụ coi đó là
một điều bất nhân, mà lương tâm ta rồi đây sẽ trách mắng. Vì lợi ích của kẻ
khác, mà chỉ mình mình, chịu trách mắng, chỉ mình mình chịu làm điều xấu xa để
thiệt riêng cho linh hồn mình, thì như thế mới gọi là bác ái, mới gọi là đạo
đức chứ.”
Ông
lại đứng lên, đi đi lại lại. Lần này ông thấy như được thỏa mãn. Tìm kim cương
phải đi sâu vào lòng đất, cũng như tìm chân lý phải đi sâu vào ý nghĩ. Dường
như ông đã đi vào những tầng sâu như vậy và sau một thời gian khá lâu mò mẫm ở
những nơi tối nhất , ông đã tìm ra được một trong những hạt kim cương ấy, một
trong những chân lý ấy và ông đang giữ trong tay, ngắm nghía, sung sướng đến
lóa mắt.
“Phải
- ông nghĩ - như thế mới phải. Ta đã đi đúng đường, ta phải nắm được cách giải
quyết. Mọi sự rồi ra cũng phải có một chỗ để mà dựa chứ. Ta đã quyết định rồi.
Cứ để mặc! Không lung lay nữa, không lùi nữa. Đó là vì lợi ích của mọi người,
không phải lợi ích của riêng ta. Hiện nay ta là ông Mađơlen, ta cứ giữ là
Mađơlen. Còn đứa nào là Giăng VanGiăng thì mặc xác nó. Giăng VanGiăng không
phải là ta nữa. Ta không biết hắn là ai, hắn ta là gì ta cũng không hiểu nữa.
Bây giờ ai là Giăng VanGiăng thì kẻ ấy cứ mà lo liệu lấy, chẳng can cập gì đến
ta. Cái tên ấy bây giờ như là một định mệnh, nó đang phất phơ trong đêm tối, nó
có dừng lại và giáng xuống đầu ai cũng thây kệ nó!” Ông soi mặt vào cái gương
con trên lò sưởi và nói: Té ra quyết định xong thực nhẹ cả mình! Bây giờ ta
thấy khác hẳn lúc nãy.
Ông đi
dăm bước nữa rồi đứng sững lại:
-
Thôi, ta đã quyết thì dù có sao đi nữa cũng không nên trù trừ làm gì. Còn nhiều
dây nhợ giữa ta với cái tên Giăng VanGiăng này đây. Phải cắt đứt nó đi! Ngay
trong phòng này có mấy đồ vật có thể buộc tội ta, có những thứ vô tri có thể
lên tiếng làm chứng chống lại ta. Thôi dứt khoát phải thủ tiêu tất cả.
Ông
lục túi lấy bọc tiền, mở ra lấy chiếc chìa khóa con. Ông tra vào một cái ổ khóa
bé tí lờ mờ lẩn vào giữa những nét vẽ tối sầm phủ lên mặt giất dán tường. Một
khoảng trống trong tường hiện ra. Đó là một thứ tủ giả ẩn vào một bên là góc
tường, một bên là lò sưởi. Trong lòng tủ giấu mấy cái quần áo rách, cái áo bành
tô cũ và cây gậy to hai đầu bịt sắt. Ai đã được thấy Giăng VanGiăng hồi tháng
10 năm 1915 khi đi qua Đinhơ sẽ nhận ra được ngay những đồ cũ nát tồi tàn đó.
Ông đã
giữ gì những đồ vật ấy. Cũng như giữ gìn cả đôi đèn nến bằng bạc để luôn nhớ
đến ngày mình bắt đầu làm lại cuộc đời mình. Song ông lại giấu những thứ mang
từ nhà tù ra, còn đôi đèn của ông giám mục thì ông đem bày ở giữa nhà.
Ông
nhìn trộm ra cửa, sợ cửa đã cài then mà vẫn còn có thể mở được. Rồi không thèm
liếc nhìn đến những thứ đồ vật mà bao lâu nay ông bất chấp cả nguy hiểm giữ gìn
một cách thành kính, ông vội vàng hấp tấp ôm cả đống quần áo, ba lô, gậy gộc
kia vất cả vào đống lửa.
Ông
khép cái tủ giả lại. Để được cẩn mật hơn – kể cẩn mật cũng vô ích, vì trong ấy
không còn gì nữa – ông cũng cứ đẩy một cái bàn vào góc tường để che chỗ ấy đi.
Mấy
phút sau, ánh lửa đỏ bập bùng chiếu sáng cả gian phòng và bức tường trước mặt.
Tất cả đều bắt lửa. Cây gậy nổ lách tách và bắn tàn ra đến tận giữa phòng. Cái
ba lô đựng quần áo rách cháy thành tro, để lộ một cái gì sang sáng, cúi xuống
thì có thể thấy rõ là một đồng hào. Chắc là đồng bốn mươi xu ăn cướp của thằng
bé Giecve.
Nhưng
ông không nhìn chỗ lửa cháy, mà cứ đi bách bộ đều đều. Bỗng ông thấy đôi chân
đèn có ánh lửa làm lóe sáng ở trên lò sưởi.
- Kìa,
dấu vết Giăng VanGiăng hãy còn rành rành ở cái này đây, phải hủy nốt đi chứ.
Ông
bèn cầm lấy đôi chân đèn. Đống lửa hãy còn đủ để làm cho nó mềm đi, dễ nắn
thành một cục không còn phân biệt được hình thù gì nữa.
Ông
cúi xuống sưởi một lúc, thấy ấm áp dễ chịu. Ông nói: - “Lửa ấm quá!” Rồi lấy
một cây đèn cời than. Chỉ một phút nữa thôi là hai cây nến sẽ nằm giữa đống
lửa. Lúc ấy ông nghe hình như trong mình có tiếng gọi:
-
Giăng VanGiăng! Giăng VanGiăng!
Ông
rợn cả người, hoảng hốt như đang nghe một cái gì ghê gớm. Tiếng gọi tiếp:
- Ừ,
phải đấy, làm nốt đi! Đã làm thì làm cho trót! Hủy những cây đèn này đi! Thủ
tiêu vật ỷ niệm này đi! Quên ông giám mục đi! Quên hết đi! Mặc xác thằng Săngmachiơ
cho nó chết! Hừ! Giỏi đấy. Mày tự khen mày đi! Thế là giải quyết rồi, nhất định
rồi, xong rồi. Thế là người ấy, ông già ấy sẽ bị bắt, bị kết án thay cho mày và
sẽ phải mang kiếp sống đầy ô nhục và khủng khiếp. Mà ông ta có hiểu đầu đuôi ra
làm sao đâu, có lẽ ông ta cũng chẳng làm gì nên tội; ông ta chỉ bị oan. Chính
cái tên mày đã làm nên tai vạ. Chính cái tên này đã đè trĩu lên người ta như
một tội lỗi nặng nề. Được đấy. Còn mày thì mày cứ ở yên mà làm người lương
thiện. Cứ vẫn làm ông thị trưởng đáng kính trọng, trông nom những trẻ mồ côi.
Cứ sống sung sướng đạo đức để cho mọi người ca ngợi. Trong khi ấy, trong khi ở
đây mày sống vui tươi và ánh sáng thì có kẻ phải mặc áo tù, phải đeo tên mày
trong cảnh ô nhục, phải mang xiềng cho mày ở chốn ngục hình! Ừ! Thật khéo xếp
đặt đấy. Đồ khốn nạn!
Mồ hôi
chảy ướt cả trán. Ông giương mắt ngơ ngác nhìn đôi đèn. Những tiếng nói bên
trong vẫn chưa dứt. Nó tiếp tục:
-
Giăng VanGiăng! Sao đấy, chung quanh mày sẽ có bao nhiêu tiếng nói làm ầm lên,
kêu to lên để ca tụng công đức của mày. Nhưng có một tiếng nói không ai nghe
thấy cả, nó sẽ nguyền rủa mày trong bóng tối. Mày nghe đây, đồ khốn kiếp! Bao
nhiêu lời ca tụng ấy chưa lên đến trời đã rơi rụng hết, chứ lời nguyền rủa kia
sẽ lên được tới tai Chúa.
Tiếng
nói ấy từ trong đáy lương tâm mà ra. Ban đầu còn nhỏ, nhưng dần dần rõ lên và
ghê rợn như văng vẳng ngay bên tai. Hình như nó đã thoát khỏi người ông và bây
giờ ông nghe nó từ bên ngoài nói lại. Câu sau cùng nghe rõ mồn một, khiến ông
sợ hãi ngơ ngác nhìn quanh phòng và quát hỏi:
- Có
ai ở đây không?
Rồi
ông bật cười, cái cười ngây ngô của đứa ngốc:
- Mình
rõ khỉ! Có ai vào đây được nữa.
Có
người thật đấy, nhưng là người mà con mắt trần không thể nhìn thấy được.
Ông
đặt đôi đèn lên lò sưởi.
Ông
trở lại điệu bách bộ đều đều và buồn thảm khiến cho con người đang ngủ ở bên
trong ông bị kinh động và choàng tỉnh dậy. Ông thấy vừa dễ chịu vừa có gì say
say. Hình như vào những lúc bối rối nhất người ta lại muốn cử động nhiều may ra
trong khi đi lại có thể tìm thấy một lời khuyên răn, mách bảo trong những gì
mình gặp. Ông đi đi lại lại như thế một hồi và không biết mình đã suy nghĩ đến
đâu.
Ông đã
lần lượt có hai quyết định khác nhau, nhưng bây giờ thì ông đâm sợ cả hai. Bởi
vì cái nào xem ra cũng chẳng hay ho gì đối với ông. – Trời ôi! Sao mà trớ trêu!
Sao lại sinh ra cái chuyện lão Săngmachiơ này! Chúa như đã cho theo một con
đường để đi tới tốt lành, nay bỗng dưng cũng trên con đường ấy lại bị xô xuống
vực!
Có lúc
ông thử nhìn về tương lai. Tự thú, tự nộp mình, trời ơi! Một niềm chán nản mênh
mông như chiếm lấy tâm hồn ông. Biết bao nhiêu điều ông phải từ bỏ, biết bao
nhiêu điều ông phải nhận lại! Ông phải từ giã cuộc sống tốt lành, trong sạch,
tươi sáng biết bao! Từ giã luôn cả tự do, vinh dự, cả lòng tôn kính của mọi người!
Ông sẽ không còn được đi dạo ngoài đồng, sẽ không còn được nghe chim hót đầu
xuân, sẽ không còn có dịp được cho tiền trẻ, ông sẽ không còn có dịp được trông
thấy những cặp mắt dịu dàng nhìn ông với lòng biết ơn và thương mến. Ông sẽ rời
khỏi ngôi nhà do ông dựng lên, rời khỏi căn phòng này, căn phòng nhỏ hẹp này!
Sao lúc này cái gì cũng đáng yêu! Ông cũng sẽ không còn được đọc những cuốn
sách này, ông cũng sẽ không còn được ngồi viết ở cái bàn con bằng gỗ xấu này!
Bà gác cổng, người giúp việc duy nhất của ông, mỗi sáng sẽ không còn mang cà
phê cho ông nữa. Thay vào tất cả những cái này, trời đất ơi! Là nhà giam, là
gông xiềng, là áo tù, là xà lim, là phản gỗ, tất cả những thứ ghê người mà ông
đã từng được nếm mùi vị! Lại vào lúc tuổi đã cao và lúc ông đã có địa vị như
hiện nay! Giá như còn trẻ thì lại là một nhẽ! Đằng này, có tuổi, mà bất kỳ ai
cũng gọi thằng nọ thằng kia, lúc nào cũng bị cai tù lục soát được, đánh đập
được, rồi phải xỏ chân vào giày đanh, sáng sáng chiều chiều phải chìa chân cho
thợ sắt nện chiếc búa tạ vào xiềng để kiểm tra, phải cúi đầu chịu đựng những
cặp mắt tò mò của những người xa lạ, lắng nghe bọn lính ngục chỉ mình mà nói:
“Tên đó chính cái tên Giăng VanGiăng ghê gớm đã từng làm thị trưởng ở
Môngtơrơi!”. Rồi chiều đến, cả người rã rời, mồ hôi nhễ nhại, chiếc mũ xanh trễ
xuống tận mắt, từng cặp một cùng bạn tù lại leo lên chiếc thang dây của cái nhà
lao bồng bềnh trên mặt nước, dưới làn roi của tên cai ngục! Trời ơi là khổ! Có
thể nào số mệnh lại độc ác như một sinh vật có trí tuệ và tai quái như lòng dạ
con người!
Ông
vùng vẫy hết cách nhưng không sao thoát khỏi cái song quan luận ở sâu dưới sự
nghĩ ngợi hoặc ở lại thiên đương nhưng trở thành quỉ dữ! Hoặc bước xuống địa
ngục nhưng lại trở nên thiên thần!
Biết
làm thế nào, hở trời! Biết làm thế nào?
Cơn
giày vò đau khổ, vất vả bao nhiêu ông mới thoát khỏi, lại một lần nữa ùn ùn kéo
đến. Mọi ý nghĩ lại rối tinh lên. Trong lòng như thất vọng nên trí óc như thảng
thốt, không còn suy nghĩ gì được nữa. Cái tên Rômanhvinh cùng hai câu thơ trong
một bài hát nghe tự ngày nào lại văng vẳng bên tai. Trong trí ông Rômanhvinh là
một khu rừng nhỏ gần Paris, trai gái yêu nhau đến đó hái hoa vào buổi đầu xuân.
Ông
lảo đảo ở thân thể cũng như cả trong đầu óc. Ông bước chệch choạng như đứa trẻ
được thả cho đi một mình.
Có lúc
ông cố sức cưỡng mệt mỏi, để lấy lại cái sáng suốt của mình. Một lần sau cùng,
ông cố đặt lại và giải quyết dứt khoát vấn đề đã làm ông mệt mỏi đến gần như
kiệt sức. Có nên đi tự thú không? Có nên yên lặng ngậm miệng không?
Ông cũng
không phân biệt được cái gì rõ ràng cả. Những lý lẽ thoáng qua trong óc từ nãy
đến giờ đều thành mờ ảo, lung linh và lần lượt tan dần đi như mây khói. Song
ông cảm thấy dù mình có quyết định bề nào đi nữa thì trong người mình cũng có
cái gì đó sẽ chết đi, nhất định là thế, không cách nào tránh được. Mình đang sa
vào huyệt, cái bên trái hay bên phải gì cũng thế. Mình đang hấp hối đây, không
biết là hạnh phúc của mình hay đạo đức của mình hấp hối. Trời! Thế là tất cả
bao nhiêu băn khoăn lưỡng lự đều ùa lại chiếm lấy tâm hồn ông. Từ chập tối đến
giờ chẳng thấy ông tiến được chút nào.
Ấy,
con người khốn khổ ấy đã để tâm hồn mình vật vã trong kinh hoàng như vậy đó.
Mười tám thế kỷ trước con người bất hạnh này, đấng thần bí hiện thân của tất cả
những thanh cao và đau khổ của nhân loại cũng đã trải qua một cơn dằn vặt.
Trong khi các rặng ô liu run rẩy trước gió của vô biên phũ phàng, người cũng đã
có lúc ngập ngừng khá lâu, đưa tay gạt cái cốc đáng sợ tràn đầy bóng tối và đêm
đen trong những cõi thẳm sâu đầy tinh tú.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN VII
Chương 4
NHỮNG HÌNH THÁI CỦA KHỔ ĐAU TRONG GIẤC NGỦ
Chuông
đồng hồ đánh thức ba giờ. Tính ra ông đi lại mãi trong phòng như thế đã năm
tiếng đồng hồ, không hề nghỉ. Bây giờ ông mới ngồi phịch xuống ghế.
Ông
thiếp đi và chiêm bao.
Giấc
mơ này cũng như phần lớn các giấc mơ khác chỉ có cái gì đau xót và rủi ro đã
dính líu đến tình cảnh thực tại, nhưng nó đã để lại cho ông một ấn tượng thật
sâu xa. Sau này ông phải ghi lại là vì thế. Nhưng dù giấc chiêm bao ấy như thế
nào, câu chuyện đêm nay của ông cũng sẽ không đầy đủ nếu ta bỏ qua không nhắc
đến giấc chiêm bao ấy. Chẳng qua đó cũng là câu chuyện bông lông của một tâm
hồn đang đau ốm.
Đây là
một trong những giấy tờ tự tay ông viết mà nay còn giữ được. Chúng tôi nghĩ cần
lục sao ra đây một cách đầy đủ. Bài ấy ghi như sau. Ngoài bìa có mấy chữ: Giấc
chiêm bao của ta đêm hôm ấy.
“Ta
đang đi giữa một vùng nông thôn. Một vùng đồng nội buồn vì chẳng có màu xanh
của cây cỏ. Ta cũng không có cảm giá là đã sáng hay đang đêm.
Ta thơ
thẩn dạo chơi với em ta, đứa em trai của thời thơ dại, lâu nay ta không bao giờ
nghĩ đến và ta cũng đã bẵng quên, hầu như không còn nhớ đến nữa.
Chúng
tôi nói chuyện với nhau. Chúng tôi cũng gặp nhiều kẻ qua đường. Chúng tôi nói
chuyện về một cô láng giềng ngày xưa. Từ ngày cô ra ở cạnh đường, cô thường để
cửa sổ mở rộng trong khi làm việc. Chúng tôi nói chuyện với nhau nhưng hơi thấy
lành lạnh vì cái cửa sổ mở toang ấy.
Trên
cánh đồng chẳng có một bóng cây.
Một
người đàn ông đi ngang gần chúng tôi. Hắn ta trần truồng, toàn thân xám như
tro, cưỡi một con ngựa màu đất. Trên đầu hắn chẳng có sợi tóc nào, chỉ thấy có
cái sọ và các mạch máu xanh. Trên tay hắn cầm một cái que mềm như một cành nho
nhưng nặng như thỏi sắt. Hắn cưỡi ngựa đi qua, chẳng nói với chúng tôi một lời
nào.
Em ta
bảo: Chúng mình đi vào con đường trũng này đi. Trước mắt chúng tôi là một lối
đi thụt sâu xuống, chẳng bụi bờ, rêu rác gì. Ở đấy cái gì cũng xam xám màu đất,
cả nền trời cũng vậy. Đi được vài bước, ta hỏi thì chẳng có tiếng trả lời. Ra
em ta đã biến đâu mất. Ta đi vào một làng trước mặt. Ta có cảm tưởng đó là làng
Rômanhvin (tại sao là Rômanhvin) (Ngoặc đơn này là tự tay Giăng VanGiăng ghi –
chú thích ở nguyên bản). Con đường đầu tiên ta bước chân đến thật vắng vẻ. Ta rẽ
qua một con đường nữa. Chỗ ngã ba hai đường gặp nhau, một người đàn ông đang
đứng sát bờ tường. Ta hỏi: đây là xứ gì? Đây là đâu thế này? Người ấy không
đáp. Ta trông thấy một ngôi nhà cửa mở, ta bước vào.
Căn
phòng đầu tiên vắng vẻ. Ta đi vào căn thứ hai. Đằng sau cánh cửa, một người đàn
ông đang đứng sát vách. Ta hỏi: đây là nhà ai? Đây là đâu thế này? Người ấy
không đáp. Quanh nhà có vườn.
Ta rời
ngôi nhà đi thẳng ra vườn. Vườn vắng vẻ. Một người đàn ông đang đứng sau gốc
cây đầu tiên. Ta hỏi: vườn gì thế này? Đây là đâu thế này? Người ấy không đáp.
Ta đi
vẩn vơ trong làng và bỗng nhiên nhận ra đây lại là một thành phố. Phố xá đều
vắng ngắt. Cửa ngõ đều mở toang. Chẳng có bóng một sinh vật nào đi trên đường
phố, qua lại trong nhà, dạo chơi các vườn, nhưng đằng sau mỗi góc tường, mỗi
cánh cửa, mỗi gốc cây lại có một người lặng thinh đứng đó. Và mỗi lúc cũng chỉ
thấy có một người. Họ lặng lẽ nhìn ta đi qua.
Ta rời
khỏi thành phố, bước đi trên cánh đồng.
Một
chốc sau quay lại thấy một đám đông người đi theo sau ta. Ta nhận ra đó là
những người ta đã gặp trong phố. Trên đầu họ trông rất lạ. Họ không ra vẻ gì
vội vã nhưng họ đi nhanh hơn ta. Bước chân họ im lìm và không một tiếng động.
Trong chốc lát đám người ấy bắt kịp ta và bao quanh lấy ta. Người nào người nấy
gương mặt đều một màu đất.
Bấy
giờ, người đầu tiên ta gặp và hỏi đường khi vào trong phố, mới lên tiếng hỏi
ta: Anh đi đâu? Anh không biết là anh chết đã lâu rồi sao?
Ta há
mồm định nói thì chợt thấy xung quanh ta chẳng còn ai nữa.”
Lúc
tỉnh dậy, ông thấy trong mình lạnh ngắt. Một luồng gió lạnh như gió sớm thổi
vào đẩy quanh đôi cánh cửa bỏ ngỏ. Lửa trong lò sưởi đã tắt ngấm từ bao giờ.
Ngọn nến cháy gần tàn. Bên ngoài hãy còn tối đen như mực.
Ông
đứng dậy đi ra phía cửa sổ. Trên trời vẫn không có sao. Từ trên cửa sổ ông
trông thấy cả dưới sân và đường phố. Có tiếng gì bỗng nhiên lộp côp trên mặt
đất khiến ông chú ý nhìn xuống.
Ông
trông thấy hai ngôi sao đỏ đang lập lòe trong bóng tối một cách kỳ dị. Lúc ấy
tâm thần ông còn đương bàng hoàng chưa tỉnh hẳn giấc mơ. Ông tự nhủ:
- Kìa,
trời không sao. Bây giờ lại có sao ở dưới đất.
Phút
loạng choạng ấy tan ngay. Một tiếng động như tiếng động ban nãy làm ông tỉnh
hẳn. Ông nhìn kỹ và nhận ra hai ngôi sao ấy là đôi đèn xe; một cỗ xe ngựa nhỏ
không mui, một con ngựa trắng. Tiếng lộp cộp ông nghe ban nãy chính là tiếng
chân ngựa trên đường lát đá.
- Xe
nào thế nhỉ? Ai mà đến đây sớm thế?
Lúc ấy
có tiếng gõ khẽ ở cửa buồng. Ông run từ đầu đến chân và hét:
- Ai
đấy?
Có
tiếng trả lời:
- Thưa
ông, tôi đây.
Ông
nhận ra tiếng bà gác cổng.
- Chứ
cái gì thế?
- Thưa
ông sắp năm giờ rồi.
- Thì
việc gì đến tôi?
- Thưa
ông có xe rồi.
- Xe
nào?
- Bẩm
xe ngựa.
- Xe
ngựa nào?
- Thế
ông không cho gọi một cái xe ngựa à?
-
Không.
- Sao
anh đánh xe lại bảo đến gọi ông thị trưởng?
- Anh
đánh xe nào?
- Anh
đánh xe nhà ông Xcôphơle.
- Ông
Xcôphơle?
Cái
tên ấy làm ông giật mình như có tia chớp lòe ngay trước mặt.
- A,
phải ông Xcôphơle.
Giá bà
gác cổng nhìn thấy ông lúc đây, chắc mụ phải hoảng kinh. Lặng yên một lúc lâu.
Ông trân trân nhìn ngọn nến và lấy ngón tay vê những giọt sáp nóng bỏng chảy
xuống chung quanh. Bà già vẫn đứng đợi.
Mụ
mạnh bạo hỏi lại:
- Bẩm,
thế tôi phải trả lời người ta như thế nào?
- Bảo
là được rồi, tôi xuống ngay.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
QUYỂN VII
Chương 5
GẬY CHỌC BÁNH XE
Thuở
ấy công việc bưu chính từ Arát đi Môngtơrơi Xuya Me còn dùng loại xe thư nho
nhỏ thời đế chế. Đó là những chiếc xe ngựa nhẹ, hai bánh, trong lót da vàng,
dưới có lò xo ống, hai chỗ ngồi, một cho nhân viên bưu chính, một cho hành
khách. Bánh xe trang bị những moa-ơ dài thườn thượt rất đáng sợ làm cho các
loại xe khỏe phải tránh xa. Loại xe này hiện nay bên Đức còn thấy dùng. Thư từ
giấy má để vào một cái thùng bầu dục dài gắn chặt vào sau xe. Thùng sơn màu
đen, còn xe thì màu vàng.
Ngày
nay, chẳng có gì giống loại xe ấy. Hình thù nó có cái gì kỳ dị, gù gù, nhất là
lúc đứng xa trông nó đi qua và bò trên đường cái ở chân trời, thì hệt như con
mối, thân hình đàng trước có một tí mà kéo theo đàng sau một cái mông to tướng.
Tuy thế tốc độ của nó cũng khá nhanh.
Đêm
nào cũng thế, chuyến xe thư Arát đợi chuyến xe từ Paris đến mới khởi hành vào
khoảng một giờ sáng thì chỉ gần năm giờ sáng đã đến Môngtơrơi Xuya Me.
Đêm
hôm ấy, cái xe thư từ Hétđanh xuôi Môngtơrơi, lúc qua chỗ rẽ đầu phố để tiến
vào trong tỉnh, lại đâm phải một cỗ xe nhỏ không mui có một con ngựa bạch kéo
đang đi ngược trở lại. Trên cỗ xe nhỏ có một người ngồi khoác chiếc áo tơi.
Bánh xe của chiếc xe nhỏ bị húc khá mạnh. Người tải xe như thét người kia dừng
lại, song y không nghe thấy, cứ phóng nhanh.
- Nhà
anh này đi đâu mà vội đến thế nhỉ?
Con
người vội vàng đó chính là người mà ta vừa thấy quằn quại một cách đáng thương
trên kia.
Ông ấy
đi đâu thế? Chính ông cũng không biết. Sao lại vội vàng thế? Cũng không biết
nốt. Ông cứ nhắm đằng trước đi bừa. Đi đâu? Chắc là đi Arát. Hay là đi nơi khác
cũng nên. Có lúc ông cảm thấy như thế và rùng mình.
Ông đi
vào đêm tối, như vào một hang sâu. Có cái gì nó đẩy, nó lôi cuốn. Tâm trạng ông
lúc ấy ra sao, không ai nói được nhưng rồi ai cũng sẽ hiểu cả. Trong đời người
ta, ai mà chẳng có một lần vào qua cái hang tối tăm của huyền bí?
Thật
ra ông chưa giải quyết gì, chưa định đoạt gì, mà cũng chưa quyết định gì, chưa
làm gì cả. Chưa có một mệnh lệnh lương tâm nào cho thật dứt khoát. Chưa bao giờ
như lúc này ông lại thấy mình hoàn toàn giống lúc đầu, lúc chưa bước vào suy
nghĩ.
Tại
sao ông lại đi Arát?
Ông
nhớ lại những lời ông tự nhủ lúc đi thuê xe của lão Xcôphơle:
-
Chuyến này đi kết quả thế nào mặc dù, nhưng được trông tận mắt, nghe tận tai,
được tự mình xét đoán việc mình, cũng chẳng có hại gì. Biết rõ cái gì đã xảy
ra, vẫn là cẩn thận hơn. – Không được quan sát và nghiên cứu thì quyết định thế
nào được. - Ở xa thấy cái gì cũng cho là trái núi được cả. Rút cục lúc đã thấy
thằng cha Săngmachiơ cũng là tuồng khốn nạn thôi, thì lương tâm sẽ nhẹ nhõm đi,
ông sẽ để mặc nó đi tù thay mình. – Thật ra sẽ có cả Giave và những tên Bơrơvê,
Sơniđiơ, Côsơpay, những tù khổ sai có quen biết trước, nhưng bây giờ chắc hẳn
là không thể nhận ra ông được nữa. – Chà khéo lẩn thẩn! – Thằng Giave bây giờ
thì đâu còn dám nghi ngờ ông nữa. – Mọi sự đoán phỏng đồ chừng lại càng cứ đinh
ninh. – Vậy thì còn ngại gì nữa.
Chắc
chắn đây là một bước không may, nhưng rồi ông sẽ vượt qua. – Cuối cùng dù có
xấu xa đến đâu đi nữa, đời ông ông cũng đang nắm trong tay, ông đang làm chủ.
Và ông bám riết lấy ý này.
Thực
ra trong thâm tâm, ông nghĩ giá đừng đi Arát thì hơn, tuy vậy ông vẫn cứ đi.
Vừa
suy nghĩ, ông vừa ra roi. Con ngựa vẫn chạy đều nước kiệu, mỗi giờ đúng hai dặm
rưỡi.
Xe
càng tiến, ông càng thấy lòng mình như có gì lùi lại. Trời hừng sáng thì ông đã
ra đến ngoài đồng rộng. Thị xã Môngtơrơi Xuya Me đã ở tít sau lưng. Ông nhìn
chân trời trắng dần ra. Ông nhìn nhưng chẳng trông thấy gì, mọi hình dáng lạnh
lẽo của buổi sớm mùa đông đang hiện ra trước mắt. Sáng sớm cũng như chiều hôm
vẫn có những bóng kỳ dị của nó. Ông không trông thấy, cũng chẳng hay biết gì,
nhưng những hình cây, bóng núi thấm đen kia như thấm vào người ông làm cho tình
trạng hỗn loạn ác liệt trong tâm hồn ông càng thêm não nề, rùng rợn.
Mỗi
lần xe đi qua gần một ngôi nhà chơ vơ hai bên đường, ông lại tự bảo mình:
“Trông đó thế mà có người đang ngủ!”
Tiếng
vó ngựa đi nước kiệu, tiếng nhạc ngựa, tiếng xe rít dưới mặt đường, hóa thành
một thứ âm thanh dịu dịu, đều đều. Người vui nghe cũng hay hay, nhưng kẻ buồn
lại thấy vô cùng ảo não. Sáng rõ thì đến Hétđanh. Ông dừng lại trước một quán
cơm cho ngựa nghỉ lấy hơi và mua lúa cho ngựa ăn.
Con
ngựa ấy, cứ như lời lão Xcôphơle là một giống ngựa nhỏ xứ Bulône, đầu lớn, bụng
to, cổ nhỏ, nhưng được cái ức nở, hông rộng, đùi nhỏ và gân guốc, chân chắc
nịch; giống ngựa này trông thì xấu dáng, nhưng dai sức và không bệnh tật. Đi
một lèo hai giờ những năm dặm mà mông không có một giọt mồ hôi.
Ông
không xuống xe. Người bồi ngựa ở quán hàng mang lúa cho ngựa ăn bỗng dưng cúi
xuống ngắm chiếc bánh xe bên trái:
- Đi
xa mà xe thế này, hở ông?
Ông
đang mơ màng nghĩ đâu đẩu, chỉ hỏi:
- Sao
vậy?
- Ông
từ xa đến ư?
- Cách
đây năm dặm.
- Chà!
- Tại
sao anh lại: chà?
Người
bồi ngựa lại cúi xuống, lặng yên một lúc, nhìn kỹ chiếc bánh xe rồi ngẩng đầu
lên:
- Bánh
như thế này thì đã đi năm dặm thì có thể được, chứ cứ thế này mà đi nữa thì
chắc không đến một phần tư dặm nữa đâu.
Ông
vội nhảy xuống đất:
- Anh
bảo sao?
- Tôi
bảo rằng ông đi những năm dặm được mà cả người lẫn ngựa không lăn xuống cái hố
sâu nào bên đường cái, thì là chuyện lạ thật. Này, ông nhìn xem.
Quả
thật bánh xe đã bị hư nặng.
Cái xe
thư đã va vào làm nứt hai cái căm xe và toác mất cái trục, khiến cái đanh ốc
đầu trục long cả ra.
- Ở
đây có thợ chữa xe nào không anh?
- Thưa
ông, có chứ.
- Nhờ
anh đi gọi giúp cho một tí.
- Ông
ấy ở ngay kia, cách mấy bước thôi. Này bác Buốcgaya!
Bác
Buốcgaya, thợ chữa xe đang đứng ngay trước cửa hàng. Bác đến xem cái bánh xe
rồi nhăn mặt lại như một nhà giải phẫu nhìn một cái chân gẫy.
- Bác
có thể chữa ngay cái bánh xe này được không?
-
Thưa, được.
- Bao
giờ thì xong để lại đi được?
- Đến
mai.
- Đến
mai?
- Phải
một ngày thẳng thắt mới xong. Ông vội lắm hay sao?
- Vội
lắm. Có gì cũng một giờ nữa tôi phải đi ngay.
- Thưa
ông, không thể được đâu.
- Ông
lấy bao nhiêu tôi cũng trả.
- Bao
nhiêu cũng chịu.
- Nếu
thế thì hai giờ vậy.
- Nội
ngày hôm nay thì không được. Phải thay hai cái nan và cái trục. Thế nào cũng
phải đến mai ông mới đi được.
- Việc
của tôi không thể chờ đến mai được. Hay là đừng chữa nữa. Thay cái bánh xe ấy
đi có được không?
- Thay
thế nào?
- Bác
làm nghề chữa xe phải không?
- Thưa
ông, hẳn thế.
- Thế
bác không có cái bánh xe nào để lại cho tôi được à? Thay bánh khác đi được
ngay.
- Một cái
bánh xe dự trữ?
-
Phải.
- Làm
gì có bánh xe làm sẵn cho cái xe của ông. Bánh xe phải có đôi. Ngẫu nhiên thì
làm gì có hai chiếc bằng y nhau được.
- Nếu
vậy thì bán cho tôi cả đôi vậy.
- Thưa
ông, có phải bánh xe nào cũng vừa với trục nào đâu.
- Cứ
lắp thử xem.
-
Thưa, vô ích. Tôi chỉ bán có bánh xe bò thôi. Đây là một nơi quê mùa ông ạ.
- Bác
có cỗ xe ngựa nào cho thuê không?
Chỉ
nhìn qua, bác thợ chữa xe cũng biết là xe cho thuê. Bác nhún vai:
- Xe
người ta cho thuê mà ông làm như thế à? Có xe tôi cũng không cho ông thuê đâu.
- Thế
thì bán vậy.
- Nói
thế, chứ tôi cũng không có.
- Sao!
Không có cả đến cái xe tập tàng à? Xe nào tôi đi cũng được, đấy ông coi.
- Đây
là nơi quê mùa. Trong chái nhà tôi cũng có một cỗ xe song mã cũ, của một ông tư
sản ngoài tỉnh gửi giữ hộ mà chẳng bao giờ ông ta dùng đến. Tôi cũng muốn cho
ông thuê, có thiệt hại gì đến tôi đâu! Nhưng đừng để cho người có xe trông
thấy. Vả lại đó là một cỗ xe song mã, phải đóng hai ngựa.
- Tôi
lấy ngựa trạm.
- Ông
đi đâu?
- Đi
Arát.
- Và
ông muốn tới nơi nội hôm nay sao?
-
Chính thế.
- Đi
bằng ngựa trạm?
- Chứ
sao.
- Bốn
giờ sáng mới tới nơi cũng được chứ?
- Nhất
định không được.
- Vì
rằng cần phải nói để ông biết là hễ lấy ngựa trạm... Ông có giấy thông hành
không?
- Có.
- Thế
này nhé, có đi bằng ngựa trạm đi nữa, sáng mai ông mới đến Arát. Đây là con
đường đi tắt. Trong các trạm cái gì cũng thiếu thốn, ngựa ở cả ngoài đồng. Vì
đang mùa dùng cày lớn cần nhiều ngựa, nên ở đâu cũng đem ra dùng hết, cả ngựa
trạm cũng thế. Đến mỗi trạm ông phải chờ ít nhất là ba tiếng đồng hồ. Mà ngựa
chỉ đi bước một vì đường lắm chỗ lên dốc quá.
-
Thôi, tôi cưỡi ngựa vậy. Tháo hộ tôi cỗ xe. Quanh đây hẳn là có thể mua được
một cỗ yên.
- Yên
thì có. Nhưng con ngựa này có chịu để cho cưỡi không?
- Ừ
nhỉ, bác nhắc tôi mới nhớ ra. Nó không chịu để cưỡi thật.
- Làm
thế nào?
-
Nhưng có thể thuê được một con ngựa khác ở làng chứ?
- Một
con ngựa để đi một mạch đến Arát!
-
Phải.
- Cần
một con ngựa như thế thì ở vùng này không có đâu. Nếu có thì ông phải mua chứ
người ta biết ông là ai mà cho thuê. Nhưng làm gì có mà mua với thuê; ông trả
đến năm trăm phơrăng, một nghìn cũng không có đâu.
- Làm
thế nào bây giờ?
- Tôi
bảo thật nhé! Tốt hơn hết là để tôi chữa cho ông cái bánh xe và mai ông hãy đi.
- Mai
thì chậm mất.
- Chà!
- Chứ
không còn chuyến xe thư đi Arát à? Lúc nào nó qua đây?
- Tối
mai. Hai chuyến xe thư đều chạy ban đêm cả, chuyến xuôi cũng như chuyến ngược.
- Thế
nào?
- Chữa
một cái bánh xe mà phải những một ngày à?
- Một
ngày mà phải làm cật lực cơ đấy.
- Nếu
hai người thì sao?
- Có
mười người cũng thế thôi.
- Hay
là lấy dây thừng mà buộc nan hoa lại.
- Nan
hoa thì được, Nhưng trục xe thì sao? Còn cái vành bánh cũng chẳng ra sao nữa.
-
Trong làng còn có ai cho thuê xe không?
Anh
bồi ngựa và bác thợ chữa xe lắc đầu một lượt:
-
Không.
Ông
bỗng thấy trong lòng vui vẻ vô cùng.
Trong
việc này hẳn là có trời run rủi. Trời đã làm gẫy bánh xe để ông phải dừng lại ở
dọc đường. Sự việc xảy ra như có vẻ buộc ông đầu hàng. Sự việc xảy ra như có vẻ
buộc ông đầu hàng, nhưng ông không chịu. Ông vẫn cố hết sức để đi cho đến nơi.
Ông đã thành thực và cẩn thận tìm hết phương này đến phương khác. Ông không
quản rét mướt, nhọc mệt và tốn kém. Không có điều gì để ông tự chê trách được
mình. Không đi được xa hơn nữa có phải là ở tại ông đâu. Ông không có tội lỗi
gì hết, lương tâm ông có muốn như thế đâu, đó là tại lòng trời. Ông thở đánh
phào một cái. Từ hôm ông tiếp chuyện Giave, lần này là lần dầu ông thấy mình
thật khoan khoái và nhẹ nhàng.
Cái
bàn tay bóp ngặt trái tim ông gần một ngày một đêm nay, bây giờ hình như ông
mới thấy nó chịu buông ra.
Ông
thấy Chúa như đã đứng về phía ông và cho biết rõ ý Chúa. Ông nghĩ mình đã cố
gắng hết sức mình rồi. Bây giờ thì ông có thể bình tâm mà quay trở về.
Nếu
câu chuyện chỉ có hai người nói với nhau trong phòng trọ, không một ai chứng
kiến, không một ai nghe thấy, thì có lẽ cũng chỉ kể đến thế thôi và chắc không
còn phải kể thêm những việc xảy ra sau đây nữa. Nhưng câu chuyện lại nói với
nhau ở giữa đường phố. Mà có người bàn bạc với nhau ở ngoài đường thì y như là
có ngay đám đông xúm quanh lại nghe. Thiên hạ bao giờ cũng thích xem. Trong khi
ông hỏi người thợ chữa xe, có hai ba người qua đường cũng dừng lại. Nghe được
một lúc, một thằng bé, chẳng ai để ý đến, bỗng len ra khỏi đám đông và chạy vụt
đi.
Vừa
lúc ông cân nhắc xong định quay trở lại, thằng bé dắt một bà già đến.
Bà già
nói:
- Thưa
ông, thằng con tôi có nói là ông muốn thuê một cái xe phải không?
Câu
nói bình thường ấy ở miệng một bà già đi theo một đứa trẻ con, làm ông toát mồ
hôi. Cái bàn tay vừa buông ông, bây giờ ông lại thấy hiện ra trong bóng tối,
chực túm lấy ông trở lại. Ông đáp:
-
Phải, bà lão ạ! Tôi đang hỏi thuê một cái xe.
Rồi
ông lại vội nói luôn:
-
Nhưng ở đây không ai có.
- Có
đấy – Bà già nói.
- Ở
đâu thế? – Người chữa xe hỏi.
- Ở
nhà tôi.
Ông
giật mình. Cái bàn tay tàn khốc đã lại túm lấy ông.
Bà già
quả có một cái xe tồi đan bằng song, vẫn bỏ ở nhà trại. Người chữa xe và người
bồi ngựa sợ mất món khách liền chen vào:
- Xe
với pháo gì thứ ấy. Trục không lò xo. Các tấm ván ngồi cũng có dây da treo vào
thành xe đấy, nhưng để mãi ngoài mưa nắng, bánh xe đã han rỉ cả. Cũng chẳng đi
xa hơn được cái xe của ông đâu. Thật là một cái xe tã. Ông chẳng nên đi chút
nào...
Điều
đó có thật; nhưng cái xe tồi ấy, cái xe tã ấy, cái vật ấy gọi là gì thì gọi vẫn
lăn được với hai bánh và có thể tới Arát.
Ông
trả theo giá họ đòi. Ông để lại cái xe độc mã cho thợ chữa, hẹn khi về sẽ lấy.
Xong ông bảo dắt con ngựa trắng đóng vào cái xe mới thuê và lên đường.
Lúc xe
chuyển bánh ông phải tự nhận với mình là một phút trước đây đã thoáng có ý vui
mừng mình sẽ không đi đến mơi mình đã định. Ông xem xét lại nỗi vui mừng ấy,
trong lòng thấy chừng như nổi giận và cho mình thậm vô lý. Tại sao lại vui nếu
phải quay trở lại? Dù sao, đi đây là hoàn toàn tự nguyện, chẳng ai ép buộc cả.
Và
đúng như thế, ông mong chỉ gặp những điều ông ao ước, nhưng nào được như vậy.
Xe vừa
ra khỏi Hetđanh ông nghe có tiếng gọi to:
“Đỗ
lại! Đỗ lại!” Ông dừng xe lại một cách đột ngột dường như trong tay cương vẫn
có cái gì run rẩy, co giật tựa như đang có một ước vọng gì. Té ra là thằng bé
con bà cụ già.
- Thưa
ông – Nó nói – Tôi đã giúp ông chạy ra chiếc xe.
- Thì
sao?
- Ông
chưa thưởng gì cho tôi cả.
Vồn là
người ai xin cũng cho và cho rất dễ dàng, thế mà lần này ông lại nghĩ là thằng
bé đòi hỏi một cách vô lý, hầu như trâng tráo. Ông bảo:
- À,
mày hả, nhãi con? Chẳng cho mày gì sất!
Ông ra
roi giục ngựa và tế thẳng.
Ông đã
dừng lại ở Hetđanh quá nhiều giờ nên muốn đi cho chóng để bù lại. Con ngựa nhỏ
nhưng hăng, sức một mà như hai. Bấy giờ đang độ tháng hai, trời mới mưa, đường
xấu lắm. Xe không phải là xe tốt, vừa nặng vừa xóc. Lại phải leo những dốc là
dốc. Phải mất bốn tiếng mới đi được từ Hetđanh đến Xanh Pôn. Bốn giờ đi được có
năm dặm.
Đến
Xanh Pôn gặp hàng quán, ông cho tháo ngựa dắt vào tàu.
Ông y
hẹ với lão Xcôphơle đích thân đứng lại trông người ta cho ngựa ăn. Trong trí
lại vẩn vơ nhiều ý nghĩ buồn rầu, lộn xộn. Vợ người chủ quán bước vào hỏi:
-
Thưa, ông có dùng cơm chăng?
- Ừ,
phải đấy, tôi cũng đang đói bụng.
Ông
theo người đàn bà mặt mũi tươi tỉnh, vui vẻ ấy đi vào một căn phòng thấp kê một
dãy bàn phủ vải nhựa.
-
Nhanh nhan lên, tôi vội, cần phải đi ngay.
Một
người ở gái to béo, người Phơlamăng, tất tả bày bàn. Ông ngồi nhìn thấy trong
người dễ chịu.
- À ra
thế, ta chưa ăn tí gì cả.
Cơm
dọn ra. Ông vồ lấy mẩu bánh, cắn một miếng rồi từ từ đặt xuống bàn và không
đụng đến nữa. Ông bảo người phu xe đang ăn ở bên cạnh:
- Sao
mà bánh của họ đắng thế nhỉ?
Người
kia vốn là một người Đức nên không hiểu ông nói gì.
Ông
trở vào tàu ngựa.
Một
giờ sau, ông ra khỏi Xanh Pôn và đi về phía Tanhcơ, là nơi chỉ còn cách Arát có
năm dặm.
Trên
quãng đường này, ông làm gì? Nghĩ gì? Cũng như buổi sớm nay ông nhìn các rặng
cây, các mái rạ, những thửa ruộng gieo trồng xong, những phong cảnh biến đi và
tan vỡ ở mỗi khuỷu đường. Nhìn như vậy có khi cũng làm cho tâm hồn khuây khỏa,
đỡ nghĩ ngợi. Muôn vật diễn ra trước mắt, cái nào cũng mới thấy lần đầu nhưng
cũng là lần chót, hỏi có gì buồn và sâu sắc bằng! Đi đường là vừa sinh ra lại
vừa chết đi từng giờ từng phút. Có lẽ trong chỗ mơ hồ nhất của tâm trí mình,
ông đã đem so sánh những phong cảnh đổi thay trước mắt kia với cuộc đời. Mọi sự
trên đời đều như mãi mãi kéo nhau chạy qua trước mắt ta. Tối và sáng lẫn lộn:
sáng lóe đó rồi mờ đó. Người ta nhìn, người ta vội vã bước nhanh, người ta giơ
tay giữ lại cái đang trôi qua. Mỗi một sự biến xảy ra là một chỗ ngoặt. Và
thình lình tuổi già kéo đến. Người ta có cảm tưởng như bị một cái xóc, rồi
chung quanh đều tối om, chỉ nhận ra được một cái cửa thôi; con ngựa ủ rũ của
cuộc đời lâu nay lếch thếch kéo mình đi bỗng nhiên dừng lại và loáng thoáng có
kẻ nào lờ mờ xa lạ đang mở ngựa ra trong bóng tối.
Tháng
đông ngày ngắn. Trời xẩm tối. Lũ trẻ con đi học về, nhìn người khách này vừa
đến Tanhcơ. Xe không dừng lại. Vừa ra khỏi đầu làng, người phu lục lộ đang rải
đá trên đường, ngước lên nói:
- Con
ngựa này mệt lắm rồi.
Quả
thực, lúc bấy giờ, con ngựa chỉ còn đi được bước một. Người phu lục lộ lại hỏi:
- Ông
đi Arát phải không?
-
Phải.
- Cứ
cái điệu này mà đi thì không tới sớm được đâu.
Ông
kìm cương lại hỏi:
- Từ
đây đi Arát còn bao nhiêu đường nữa?
- Gần
những bảy dặm.
- Sao
thế? Trong sách của bưu chính ghi chỉ có năm dặm một phần tư kia mà.
- A!
Chắc ông không biết là đường đang chữa? Chỉ đi khỏi đây độ mười lăm phút là
nghẽn đường, không thể đi xa hơn được.
- Thế
à?
- Ông
rẽ sang trái theo con đường đi Carăngxi; ông qua sông và đi đến Căngbơlanh thì
ông rẽ sang phải, đấy là đường đi từ Môngxanh Têloa đến Arát.
-
Nhưng trời tối rồi, tôi lạc đường mất.
- Ông
không phải là người vùng này sao?
-
Không.
- Đã
thế, đường đi lại ngang tắt. Ông này, tôi khuyên ông câu này nhé! Ngựa của ông
nhọc lắm rồi, ông nên trở lại Tanhcơ. Ở đấy có chỗ trọ tốt. Nghỉ lại, mai hãy
đi Arát.
- Tôi
phải đến đấy ngay tối nay.
- Thế
thì lại khác. Ông vẫn cứ nên trở lại quán trọ và tìm thêm con ngựa nữa. Người
giữ ngựa sẽ theo dẫn đường cho.
Ông
nghe người phu lục lộ quay trở lại. Và nửa giờ sau kèm thêm một con ngựa tốt,
lại phóng xe trở qua chỗ đó. Người giữ ngựa đóng vai đánh xe, ngồi ở một bên càng
xe. Ông cảm thấy mình đã để mất quá nhiều thì giờ.
Trời
đã tối mịt.
Rẽ
sang con đường ngang thì lại càng thảm hại, bánh xe hết lọt xuống ổ gà này lại
rơi vào ổ gà khác. Ông bảo người đánh xe:
- Cứ
cho đi nước kiệu nhé, tiền thưởng gấp đôi đấy.
Xe
vồng lên một cái mạnh. Chiếc đòn ngang buộc ngựa gãy đôi.
- Thưa
ông, gãy mất đòn ngang rồi. Biết đóng ngựa cách nào bây giờ? Đường này xấu quá.
Trời lại tối nữa. Hay là ông trở lại Tanhcơ nghỉ, mai đi Arát cũng đến được
sớm, chẳng ngại gì.
Ông
chỉ trả lời:
- Chú
có mẩu thừng và con dao nào không?
- Thưa
có.
Ông
chặt một cành cây làm đòn ngang.
Vì thế
lại mất thêm hai mươi phút nữa, nhưng sau đó ông lại cho ngựa phóng nhanh hơn.
Cánh đồng tối mịt. Sương mù từng đám là là trên các ngọn đồi và lên cao dần như
khói. Trên cao, mây có những rạng sáng trắng mờ mờ. Gió bể thổi mạnh làm cho
bốn phía chân trời nghe có tiếng ầm ầm như có ai đang xô đẩy bàn ghế. Trong
cảnh vật thoáng thấy lờ mờ, cái gì trông cũng có dáng hãi hùng. Bao nhiêu vật
đang rùng mình trong cảnh đêm gió lộng này!
Ông
thấy hơi lạnh thấm vào người. Từ tối hôm qua ông chưa có hột cơm nào vào bụng.
Ông mơ hồ nhớ lại cái đêm ông đi giữa cánh đồng rộng ngoại thành Đinhơ. Đã tám
năm mà hình như mới hôm qua.
Có
tiếng chuông điểm giờ ở nhà thờ nào đằng xa. Ông hỏi người đánh xe:
- Mấy
giờ thế nhỉ?
- Thưa
ông bảy giờ. Tám giờ tới Arát. Chỉ còn ba dặm nữa thôi.
Lúc ấy
ông mới chợt nghĩ ra một điều và lấy làm lạ sao không nghĩ đến sớm hơn: có lẽ
vất vả thế này cũng vô ích; không biết tòa xử vào mấy giờ, điều ấy đáng lẽ phải
hỏi đã chứ. Thật là gàn dở, cứ phóng bừa lên trước, không suy tính xem có ích
lợi gì không. Rồi ông nhẩm tính trong bụng: Thường thì phiên tòa đại hình bắt
đầu xử từ chín giờ sáng, mà việc này cũng chóng thôi; ăn trộm táo thì xử mấy
tí; rồi chỉ còn vấn đề lý lịch nữa thôi; bốn năm người khai chứng: luật sư cũng
chẳng có gì lắm để nói; đến nơi thì có lẽ đã xong đâu vào đấy cả rồi.
Người
đánh xe cứ ra roi. Xe đã qua sông và làng Môngxanh Têloa lùi lại ra sau xa.
Đêm
mỗi lúc một tối thêm.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN VII
Chương 6
BÀ XƠ XEMPƠLÍT ĐƯỢC THỬ THÁCH
Giữa
lúc ấy Phăngtin đang vui.
Đêm
trước chị ngủ không yên. Ho xé phổi, sốt tăng gấp bội, suốt đêm mộng mị. Buổi
sáng lúc thầy thuốc vào thăm chị còn đương cơn mê sảng. Ông ta có vẻ lo ngại và
dặn hễ ông Mađơlen đến thì cho gọi ông ta ngay.
Cả
buổi sáng, chị rầu rĩ ít nói, tay gập gập cái khăn trải giường, miệng lẩm bẩm
tính như đang ước lượng từng chặng đường. Hai con mắt sâu hoắm nhìn trừng
trừng. Cái nhìn không còn tinh thần, song chốc chốc lại sáng lên, long lanh như
ngôi sao. Hình như khi một giờ u ám nào đó sắp đến thì ánh sáng trên trời lại
lùa vào những cặp mắt đã tắt hết ánh sáng của trần gian!
Mỗi
lần bà xơ Xempơlit hỏi chị thấy trong người thế nào, chị lại trả lời vẻn vẹn
một câu:
- Đỡ
nhiều rồi. Tôi muốn gặp ông Mađơlen.
Mấy
tháng trước, khi Phăngtin vừa mất sự e lệ cuối cùng, sự xấu hổ cuối cùng và
niềm vui cuối cùng thì chị là cái bóng của chị; đến nay thì chị đã hóa ra cái
bóng ma của chị. Sự đớn đau thể xác đã hoàn thành sự nghiệp đau khổ của tinh
thần. Con người hăm lăm tuổi ấy thế mà trán nhăn, má chảy, cánh mũi lép kẹp,
răng lồi, mặt chì, cổ xương xẩu, xương vai nhô lên, tay chân khẳng khiu, nước
da sạm, trong mớ tóc vàng lại lẫn nhiều sợi bạc. Than ôi! Bệnh hoạn làm nên
tuổi già là thế đấy!
Đến
trưa, thầy thuốc lại đến, dặn dò về thuốc thang rồi hỏi ông thị trưởng đã sang
thăm chưa và lắc đầu.
Ông
Mađơlen ngày nào cũng đến thăm Phăngtin vào lúc ba giờ chiều. Ông luôn giữ đúng
giờ, đúng giờ khắc cũng là dấu hiệu của sự tốt bụng.
Gần
đến hai giờ rưỡi, chị bắt đầu bồn chồn. Chỉ hai mươi phút đồng hồ, chị hỏi bà
xơ đến hơn mười lần:
- Thưa
bà, mấy giờ rồi?
Chuông
đồng hồ đánh ba giờ. Đến tiếng thứ ba, Phăngtin lúc thường khó nhọc lắm mới trở
mình được, bỗng dưng ngồi nhổm dậy. Chị lẩy bẩy, chắp hai bàn tay xương xẩu,
vàng bủng lại, thở dài một tiếng như cất một cái gì đang đè xuống lồng ngực.
Chị quay lại nhìn ra cửa.
Không
có ai vào, cửa vẫn đóng chặt.
Chị
ngồi như thế đến mười lăm phút, mắt dán chặt vào cánh cửa, yên lặng, nhịn thở.
Bà xơ chẳng dám hỏi han gì.
Đồng
hồ nhà dưới điểm ba giờ mười lăm. Phăngtin gieo mình xuống gối. Chị vẫn không
nói năng gì, ngón tay trở lại gấp gấp cái khăn trải giường.
Nửa
giờ qua, rồi một giờ. Vẫn chẳng có ai đến cả. Mỗi lần chuông đồng hồ điểm giờ,
chị lại ngồi nhổm dậy, nhìn ra cửa, rồi lại nằm phịch xuống.
Ai
cũng nhìn thấy chị muốn gì, nhưng chị không hề nói đến tên ai cả, không phàn
nàn, không oán trách. Chỉ có ho một cách ghê sợ. Hình như có cái gì ảm đạm sa
xuống người chị. Mặt chị tái nhợt, môi tím ngắt. Có lúc lại nhếch mép mỉm cười.
Chuông
năm giờ. Bấy giờ bà xơ nghe thấy chị thì thầm một mình:
- Mai
thì tôi đi rồi mà hôm nay ông ấy lại chẳng đến thì có hại không?
Bà xơ
Xempơlit cũng ngạc nhiên tại sao ông Mađơlen mãi chưa đến.
Phăngtin
nhìn lên đỉnh màn như cố nhớ lại điều gì. Bỗng chị cất tiếng hát, giọng yếu ớt
như hơi thở:
Dạo
chơi khắp phố ngoại thành,
Ta mua
bao thứ xinh, xinh tuyệt vời!
Xanh,
xanh biếc, hồng, hồng tươi,
Tôi
yêu tôi quí những người tôi yêu.
Hôm
qua bên bếp lửa nghèo,
Đức Mẹ
mỹ miều ghé lại nhà tôi.
Bảo
rằng: “Ta thể tình người,
Đem
cho đứa bé như lời người xin”.
- Em
ơi, ra phố nhanh lên,
Mua ta
cuộn chỉ, cây kim, xấp hàng.
Dạo
chơi qua khắp phố phường,
Tôi
mua bao thứ phi thường là xinh,
Bên lò
sưởi
Đặt
chiếc nôi
Nơ
xanh đỏ
Nôi
đẹp tươi.
Ví
trời có đổi
Ngôi
sao sáng ngời,
Tôi
cũng không thích
Bằng
đứa con tôi,
Đức mẹ
phúc đức!
Ơn mẹ
không nguôi.
- Cô
ơi! Vải làm gì đây?
Vải
mua cho bé, cắt may đi nào!
Xanh,
xanh biếc, hồng, hồng tươi
Tôi
yêu tôi quí những người tôi yêu.
- Giặt
vải đi,
- Giặt
ở đâu?
- Giặt
ở ngoài sông
Mà
đừng làm bẩn,
Mà
đừng làm hỏng,
Rồi
may chiếc váy
Có dây
đeo vai,
Để tôi
thêu thùa,
Để tôi
thêu hoa.
- Cô
ơi! Bé có còn đâu,
Áo
quần chi nữa mà khâu vải này?
- Em
ơi! Đã thế em may
Cho ta
tấm áo liệm thây ta cùng,
Dạo
chơi khắp phố ngoại thành,
Ta mua
bao thứ xinh xinh tuyệt vời!
Xanh,
xanh biếc, hồng, hồng tươi
Tôi
yêu tôi quí những người tôi yêu.
Bài
hát ấy là một bài ru con đã cũ lắm. Trước kia chị thường hát để ru con bé
Côdét, nhưng năm nay nay vắng con, chị không nghĩ đến nữa. Hôm nay, chị lại hát
giọng buồn thảm và êm ru làm cho đến cả người tu hành cũng phải khóc. Bà xơ đã
từng quen với khắc khổ cũng cảm thấy có một giọt lệ ứa lên khóe mắt.
Đồng
hồ đánh sáu giờ. Phăngtin như không nghe thấy gì, chị không chú ý đến quanh
mình nữa. Bà xơ Xempơlit sai một bà hộ lý đi hỏi bà gác cổng nhà máy xem ông
thị trưởng đã về chưa và ông có sang ngay bên nhà thương không.
Một
lát sau bà hộ lý trở về.
Phăngtin
vẫn nằm yên, như đang theo đuổi những ý nghĩ riêng. Bà hộ lý khe khẽ kể lại cho
bà xơ: ông thị trưởng đi đâu từ trước sáu giờ sáng ấy. Trời rét như thế này mà
chỉ dùng một cỗ xe không mui đóng một con ngựa bạch. Mà lại đi một mình, không
ai đánh xe cho cả. Chả biết ông ấy đi đường nào. Có người nói là thấy ông ấy rẽ
sang con đường đi Arát, có người nói là gặp ông ấy ở con đường đi Paris. Lúc ra
đi ông ấy vẫn dịu dàng nhỏ nhẹ như mọi ngày, chỉ dặn bà canh cổng là tối nay
ông ấy chưa về thôi.
Trong
khi hai người quay lưng lại phía giường thì thào với nhau, kẻ hỏi người đoán
như thế, thì Phăngtin nhanh nhẹn nhỏm dậy, quì xuống giường, chống hai tay nắm
chặt vào chiếc gối dài, nhô đầu lên khỏi diềm màn, cố ý lắng nghe. Người mắc
bệnh nội thương, thân hình gầy gộc như xác chết mà có khi đột nhiên cử động nhẹ
nhàng như người khỏe mạnh là thế! Bỗng chị kêu lên:
- Ra
các bà đang nói chuyện về ông Mađơlen! Sao lại nói thầm? Ông ấy đang làm gì?
Sao không thấy ông ấy đến?
Tiếng
nói gay gắt, khàn khàn, nghe như tiếng đàn ông. Hai người đàn bà sợ hãi quay
lại.
Phăngtin
kêu lên:
- Trả
lời tôi đi!
Người
hộ lý ấp úng:
- Bà
gác cổng bảo rằng hôm nay ông không đến được.
Bà xơ
dỗ dành:
- Con
ạ, cứ bình tĩnh nằm xuống đi.
Phăngtin
vẫn cứ quì. Chị nói to, giọng như đòi hỏi thảm thiết:
- Ông
ấy không đến được? Sao vậy? Các bà có biết vì lẽ gì không? Các bà vừa thì thầm
với nhau đấy. Tôi muốn biết rõ mà.
Người
hộ lý ghé vào tai bà xơ:
- Bà
cứ bảo ông đang bận họp hội đồng thành phố!
Bà xơ
hơi đỏ mặt: người hộ lý vừa xui bà nói dối. Nhưng bà biết nói thật với Phăngtin
cũng là một điều tai hại; có thể làm cho bệnh tình của chị thêm nguy kịch,
trong lúc chị đang ốm nặng như thế này. Bà trấn tĩnh ngay được, đưa mắt nhìn
chị, bình yên và buồn rầu:
- Ông
thị trưởng đi vắng.
Phăngtin
ngồi xổm lên, đôi mắt sáng quắc. Một nỗi vui sướng rạng rỡ hiện lên trên nét
mặt đau đớn.
- Đi
rồi à? Ông đi đón con Côdét đấy! – Chị thét lên.
Rồi
chị giơ hai tay lên trời, vẻ mặt vô cùng sung sướng. Đôi mắt chị mấp máy. Chị
lẩm bẩm cầu nguyện.
Cầu
nguyện xong, chị nói:
- Bà
xơ ơi, tôi lại xin nằm xuống nghỉ. Bây giờ ai bảo gì tôi cũng xin theo. Lúc nãy
tôi thật không phải, tôi xin lỗi bà, tôi đã nói to; nói to như thế là không
nên, tôi cũng biết thế, nhưng bà biết cho tôi quá mà! Chúa Trời thật nhân từ,
ông Mađơlen thật nhân từ, bà ơi, ông ấy đi Môngphecmây đón con Côdét nhà tôi
đấy.
Chị
nằm xuống cùng bà xơ sửa lại cái gối, rồi hôn vào chiếc thánh giá nhỏ bằng bạc
bà xơ cho chị, mà chị đang đeo trên cổ.
- Con
ạ, bây giờ thì cố nằm yên mà nghỉ, không nên nói nữa.
Phăngtin
giơ bàn tay ướt lạnh ra nắm bàn tay bà xơ. Bà xót xa khi thấy bàn tay chị đầy
mồ hôi.
- Ông
ấy đi Paris sáng nay rồi. Mà thực ra không cần phải qua Paris làm gì.
Môngphecmây từ đây đến thì ở xế về bên trái. Bà có nhớ hôm qua, khi nói đến
Côdét ông ấy có bảo tôi: “Nó sắp tới, nó sắp tới” không? Ông ấy muốn dành cho
tôi một cái vui bất ngờ mà! Bà ạ, ông ấy bảo tôi ký một cái giấy cho vợ chồng
Tênácđiê để đón con bé về. Họ không còn nói được vào đâu nữa bà nhỉ? Họ phải
trả con Côdét thôi. Vì đã trả đủ tiền cho họ rồi mà. Trả tiền rồi mà còn giữ
con tôi lại thì có nhà chức trách. Bà xơ ơi, bà để tôi nói, bà đừng ra hiệu bắt
tôi im. Tôi sung sướng quá. Tôi đỡ lắm rồi. Tôi lại thấy đói, muốn ăn đây. Đã
gần năm năm rồi không được trông thấy cháu. Bà ơi, bà không thể biết được lòng
mẹ thương con như thế nào! Rồi bà xem, cháu nó kháu lắm kia. Bà có biết không,
ngón tay nó thon thon, hồng hồng xinh đáo để. Đôi bàn tay ấy sẽ đẹp lắm. Mới
đầy năm mà hai bàn tay trông mới dễ ghét chứ! Đẹp thế đấy! Giờ có lẽ nó đã lớn
lắm. Bảy tuổi rồi còn gì. Một cô tiểu thư! Tôi vẫn gọi cháu là Côdét, nhưng
chính tên nó là Ơphơradi kia... Trời ơi! Hằng bao nhiêu năm mà không nhìn gì
đến con cái thế cũng không phải. Phải hiểu rằng đời người có vĩnh viễn đâu! Ồ!
Ông thị trưởng lại đi hộ tôi, thực ông ấy tốt bụng quá! Trời rét lắm phải
không? Ông ấy có đem áo khoác chứ? Mai thì ông ấy về, phải không bà? Mai thì
vui như hội, bà nhỉ? Sáng mai bà nhớ nhắc tôi đội mũ có đăng-ten nhé!
Môngphecmây là một vùng rộng lắm đấy. Trước tôi đã đi bộ qua đó. Cũng xa lắm.
Nhưng nay thì đã có xe đi nhanh hơn nhiều. Mai thì ông ấy về với Côdét. Đây đến
Môngphecmây mấy cây số bà nhỉ?
Bà xơ
chẳng rõ xa gần thế nào, đáp:
- Ờ,
tôi chắc là đến mai thì ông ấy về.
- Mai!
Mai tôi sẽ được thấy Côdét? Bà xơ ơi, bà xem đây này, tôi khỏi bệnh rồi. Tôi
mừng đến điên đây này. Ai muốn, tôi nhảy múa cho mà xem.
Cách
nhau có mười lăm phút, ai trông thấy Phăngtin lúc nãy và lúc này cũng phải lấy
làm lạ. Giờ thì da dẻ chị hồng hào hẳn ra, tiếng nói nhanh nhảu tự nhiên, nét
mặt tươi tỉnh. Có lúc lại cười và lẩm bẩm một mình. Cái mừng của người mẹ có
khác gì cái mừng của con trẻ!
Bà xơ
bảo chị:
-
Thôi, giờ thì thích rồi nhé! Nghe tôi, đừng nói chuyện nữa.
Phăngtin
đặt đầu xuống gối thì thầm:
- Ừ,
nằm xuống sắp được gặp con rồi, phải ngoan lên nhé! Bà xơ Xempơlit nói phải. Ở
đây ai cũng phải cả.
Chị
nằm yên không động đậy, không quay ngang quay ngửa nữa. Mắt mở to nhìn khắp
nơi, dáng sung sướng, chị không nói gì nữa.
Bà xơ
buông cửa màn, mong chị sẽ ngủ thiếp đi.
Vào
khoảng giữa bảy và tám giờ, thầy thuốc đến. Thấy im lặng, ông tưởng chị ngủ,
rón bước vào đến gần bên giường. Ông mở hé cửa màn. Dưới ánh đèn chong, chị
đang mở to hai mắt, bình tĩnh nhìn ông. Chị hỏi:
- Thưa
ông, có phải người ta sẽ cho cháu cái giường để cháu ngủ cạnh tôi không?
Y sĩ
tưởng chị nói sảng. Chị tiếp:
- Ông
nhìn hộ xem, còn đủ chỗ đấy chứ!
Ông
gọi riêng bà phước ra một chỗ hỏi bà về câu chuyện của Phăngtin. Bà cắt nghĩa
rằng nhân việc ông Mađơlen đi vắng một hai ngày, chị ta nghĩ rằng ông thị
trưởng đi Môngphecmây, vì chưa rõ thực hư thế nào nên bà tưởng cũng không cần
cho chị biết là chị lầm. Với lại biết đau đoán như chị ta lại không đúng. Ông
thầy thuốc cũng đồng ý ngay.
Ông
đến gần Phăngtin. Chị lại nói:
- Ông
này, có như thế, sáng dậy tôi mới hỏi han con chó con được và ban đêm, không
ngủ tôi mới nằm nghe nó ngủ được, nó thở nhẹ nhàng làm sao, cứ nghe cũng đủ
khoan khoái cho tôi rồi.
- Chị
đưa tay đây, tôi xem – người thầy thuốc bảo.
Chị
vừa giơ tay vừa cười nói:
- A,
này! Rõ ràng là ông chưa được biết nhỉ! Tôi khỏi rồi mà. Mai thì con Côdét nó
về đây.
Ông
thầy thuốc ngạc nhiên. Trông chị khá lên thật, thở đã dễ dàng. Mạch đi đã thấy
mạnh. Một thứ sinh lực gì làm cho con người kiệt quệ nay hồi tỉnh lại.
Chị
nói tiếp:
- Thưa
ông, có phải bà xơ nói ông là ông thị trưởng đã đi tìm con bé?
Ông ta
bảo phải giữ thật yên lặng và hết sức tránh những cảm xúc mạnh. Ông dặn cho
uống nước Canh-ki-na nguyên chất sắc lên và nếu ban đêm còn sốt nữa thì cho
uống thuốc an thần. Ra về ông ta còn dặn bà xơ:
- Khá
rồi đấy. Nếu phúc ngày mai ông thị trưởng đem con chị ta về thật thì biết đâu
đấy? – Có những bệnh chuyển biến rất lạ, người ta đã thấy có kẻ mừng quá mà
khỏi bệnh thật. Bệnh này là nội thương mà nặng lắm rồi. Nhưng biết đâu được
những cái chuyện huyền bí ấy! Có lẽ cứu được chị ta cũng nên
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN VII
Chương 7
VỪA ĐẾN ĐÃ CHUẨN BỊ ĐI NGAY
Gần
tám giờ, chiếc xe đi trên đường khi nãy mới tiến qua cánh cổng lớn của nhà trạm
tỉnh Arát. Người hành khách ta theo dõi từ lâu, bấy giờ bước xuống xe. Ông lơ
đãng trả lời những câu mời mọc săn đón của bọn hàng quán, cho người đánh ngựa
đưa con ngựa thuê sau về, dắt con ngựa bạch nhỏ xuống tàu ngựa. Rồi ông đẩy cửa
bước vào một cái phòng chơi bi-a ở tầng dưới, kéo ghế ngồi, tì tay lên bàn.
Quãng đường ông tính bốn tiếng. Nghĩ cho phải thì không phải lỗi tại ông và ông
cũng thấy vui vui vì sự đến muộn đó.
Mụ chủ
quán bước vào.
- Ông
khách có ngủ lại không? Có ăn cơm tối không?
Ông
lắc đầu.
-
Người hầu ngựa nói rằng ngựa của ông nhọc lắm.
Bây
giờ ông mới lên tiếng.
- Sáng
mai nó có thể lại đi ngay được không?
- Ồ
thưa ông phải để cho nó nghỉ hai ngày là ít.
- Có
phải bàn giấy nhà trạm cũng ở ngay đây không?
- Thưa
phải.
Mụ chủ
quán dẫn ông đến chỗ bàn giấy. Ông đưa giấy thông hành ra và hỏi xem có thể đi
xe thư về Môngtơrơi Xuya Me ngay đêm nay được không? Vừa may chỗ bên cạnh người
chuyển thư hãy còn. Ông trả tiền và giữ chỗ ấy. Người thư ký dặn ông:
- Thưa
ông, phải có mặt ở đây đúng một giờ sáng để xe chạy.
Xong
xuôi, ông bước ra khỏi khách sạn, đi về phía các phố.
Ông
chưa đến Arát bao giờ, đường phố lại tối, nên cứ đi liều.
Hình
như ông cố tình không muốn hỏi thăm đường ai cả. Ông qua con sông Cơranhsông
rồi lạc vào một khu toàn những phố nhỏ ngóc ngách.
Một
người hàng phố cầm đèn đi qua. Lưỡng lự mãi, ông mới nhìn trước sau như sợ có
người nghe thấy và quyết định hỏi:
- Thưa
ông, nhờ ông trỏ dùm cho tòa án ở chỗ nào.
Người
hàng phố đã có tuổi đáp:
- Ông
không phải là người tỉnh này à? Vậy ông theo tôi, tôi cũng đi về phía tòa án
đấy, chỗ tỉnh đường mà. Hiện nay tòa án đang sửa chữa, chỗ xử án tạm đặt ở tỉnh
đường đây.
-
Phiên tòa đại hình cũng xử ở đấy à?
- Tất
nhiên. Đây này, tỉnh đường ngày nay nguyên là dinh giám mục trước thời cách
mạng đó. Rồi năm 1872 ông Côngdiê làm giám mục có cho xây thêm một phòng khá
rộng. Nay phiên tòa lập ở đó.
Đi nửa
đường, người ấy lại nói thêm:
- Nếu
ông muốn xem thì hơi muộn. Thường thì các phiên toàn tan từ sáu giờ kia.
Lúc
đến chỗ công viên, người ấy trỏ cho ông bốn cửa sổ dài còn sáng đèn ở mặt trước
một ngôi nhà to lù lù trong bóng tối.
- May
cho ông, vừa đến kịp. Ông có trông thấy bốn cái cửa sổ sáng kia không? Chỗ tòa
đại hình đấy. Còn đèn sáng, tất là chưa xử xong. Có lẽ việc kéo dài nên tòa họp
cả phiên tối. Ông cần biết việc ấy sao? Có phải là một vụ đại hình không? Ông
đến làm chứng à?
- Tôi
không có việc gì ở phiên tòa cả. Tôi cần gặp ông luật sư.
- Thế
thì lại khác. Kia, cửa tòa kia. Người lính gác ở đấy. Ông cứ đi lối cầu thang
lớn.
Ông
làm y theo lời người hàng phố chỉ dẫn. Một lúc sau, ông bước vào một phòng rất
đông người. Đây đó từng nhóm luật sư mặc áo dài đứng lẫn vào đám đông, đang thì
thào với nhau.
Cái
cảnh những người mặc áo dài đen tụm năm tụm ba ở ngoài phòng án để to nhỏ với
nhau vẫn làm cho người ta se lòng lại. Những lời họ nói chẳng mấy khi là những
lời nhân từ và thương xót. Thường chỉ là những câu kết án nghĩ trước. Ai đang
mơ màng qua đó, cũng tưởng đây là những tổ ong ghê rợn, chứa những bầy ma quái
vo ve đang cùng nhau dựng nên đủ mọi kiến trúc tăm tối. Căn buồng rộng chỉ có
một ngọn đèn. Trước kia đây là cái phòng đợi trong tòa giám mục; nay dùng làm
chỗ tạm nghỉ. Một cái cửa lớn hai cánh đóng chặt ngăn với phòng xử án.
Trong
phòng ánh sáng mập mờ, nên ông không ngần ngại hỏi ngay một luật sư mới vừa bắt
gặp:
- Thưa
ông, xử đến đâu rồi?
- Xong
rồi.
- Xong
rồi!
Ông
nhắc lại bằng một giọng khác thường, khiến người luật sư phải quay lại.
- Thưa
ông, tôi hỏi khí không phải, ông là người nhà người ta phải không?
-
Không, tôi không quen ai ở đây cả. Thế có kết án không?
- Có
chứ. Có cách nào khác được đâu.
- Khổ
sai?... Chung thân.
Ông
hỏi câu nữa, giọng nhỏ đi, chú ý mới nghe rõ:
- Lý
lịch đã được xác định rồi à?
Người
trạng sư đáp: Lý lịch gì? Có gì mà phải xác định lý lịch. Vụ án thực giản dị.
Mụ ấy đã giết con, tang chứng đầy đủ. Tòa xét không phải là chủ tâm trước nên
mới kết án chung thân.
- Thế
là một người đàn bà?
- Còn
là gì nữa, mụ Limôđanh mà! Ông định nói việc nào?
-
Không. Nhưng xong rồi sao phòng xử còn đèn sáng thế?
- Xử
đến việc khác, đã bắt đầu được hai giờ rồi.
- Việc
gì nữa?
- Ờ,
việc này cũng rõ ràng lắm. Tên này là một tên đói khát, một tên tù khổ sai đi
đày về, tái phạm về tội ăn trộm. Tôi chẳng nhớ tên nó là gì nữa. Trông mặt nó
thực là tay đại bợm. Cứ cái bộ mặt ấy cũng đủ tống cổ nó đi đày khổ sai rồi.
- Thưa
ông, có cách gì vào được phòng xử án không?
- Có
lẽ cũng khó đấy. Trong phòng đông lắm. Nhưng tòa vừa nghỉ, có nhiều người ra,
khi nào tòa tiếp tục, ông thử vào xem.
- Vào
lối nào?
- Lối
cửa lớn này.
Người
luật sư bỏ đi nơi khác. Trong phút chốc ông thấy trăm ngàn nỗi cảm xúc ùa đến
một lần làm cho lòng ông rối bời. Lời nói của người ngoài cuộc kia đâm thẳng
vào tim ông có lúc như mũi kim lạnh buốt, có lúc lại như lưỡi dao cháy bỏng.
Khi
ông được biết là tòa xử chưa xong, ông thở đánh phào một cái. Song ông cũng
không thể nói rõ thở phào như thế là vì ông bằng lòng hay là vì ông đau đớn.
Ông
đến gần mấy đám đông người nghe xem họ nói gì. Phiên tòa này xử nhiều việc lắm,
ông Chánh án phải đưa ra xử hôm nay cho xong hai vụ án giản dị và chóng vánh
này. Bắt đầu là vụ giết con, giờ đến vụ tên tù khổ sai, tên tái phạm, tên “ngựa
quen đường cũ”. Thằng này có ăn trộm táo, song chứng cứ chưa chắc chắn; điều
chắc chắn là nó đã từng đi đày ở Tulông. Cái ấy mới nguy cho nó. Vả tòa đã hỏi
cung nó rồi, chứng cứ cũng khai cả rồi; chỉ còn luật sư cãi và công tố buộc
tội; nhưng chắc đến nửa đêm mới xong. Thằng ấy thì thế nào cũng bị rồi; ông
chưởng lý tài lắm, không kẻ nào bị ông buộc tội mà thoát được! – Ông lại là
người tài hoa, biết cả làm thơ kia đấy.
Một
người mõ tòa đứng gần cửa vào buồng xử án. Ông lại gần hỏi:
- Thưa
ông, sắp mở cửa chưa?
- Cửa
không mở nữa đâu.
- Sao
thế? Sắp xử lại rồi mà không mở cửa à? Có phải tòa đang nghỉ không?
- Tòa
vừa mới tiếp tục, nhưng không mở nữa.
- Tại
sao?
- Tại
trong phòng chật cả rồi.
- Sao?
Không còn lấy một chỗ à?
-
Không còn chỗ nào. Cửa đóng rồi. Không ai vào được cả.
Im
lặng một lúc, người mõ tòa lại bảo:
- Cũng
còn hai ba chỗ nữa sau ghế ông chánh án, nhưng ông chánh án chỉ dành cho những
vị khách quen thôi.
Nói
xong hắn quay đi.
Ông
cúi đầu bước đi, qua phòng đợi, thong thả từng bậc một xuống cầu thang, dáng
ngập ngừng. Chừng như ông đang tự hỏi xem nên làm gì. Cuộc tranh đấu bản thân
gay go từ hôm qua đến nay vẫn chưa dứt và cứ mỗi lúc lại bắt sang một tình tiết
mới. Xuống đến chân cầu thang, ông đứng tựa vào lan can, khoanh tay lại. Bỗng
ông mở cúc áo ngoài, rút ví ra, lấy bút chì và mảnh giấy ghé vào chỗ đèn sáng
viết vội vàng dòng chữ như sau: Ông Mađơlen thị trưởng Môngtơrơi Xuya Me. Rồi
ông bước nhanh lên thang gác, rẽ đám đông, đến thẳng trước mặt người mõ tòa,
đưa cho hắn mảnh giấy và dõng dạc bảo:
- Đem
cái này vào cho ông Chánh án.
Người
mõ tòa cầm lấy mảnh giấy nhìn qua rồi đi vào.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN VII
Chương 8
ĐẶC CÁCH ĐƯỢC VÀO
Ông
không ngờ rằng ông thị trưởng Môngtơrơi Xuya Me té ra cũng là người có chút
tiếng tăm. Từ bảy năm nay, cái tiếng đạo đức của ông đã lan ra khắp vùng
Bulônhơ hạ, cuối cùng vượt cả khuôn khổ một miền nhỏ, truyền sang hai ba tỉnh
xung quanh. Việc ông đứng ra chấn hưng nghề làm đồ huyền đã là một công đức to
lớn đối với thị trấn ấy. Ngoài ra nội bốn mươi mốt thị xã trong quận không xã
nào không đội ơn ông. Khi cần, ông lại biết cách giúp công nghiệp những quận
khác phát triển sản xuất. Ông đã dùng uy tín và tiền bạc của mình để nâng đỡ và
giúp cho xưởng làm vải màn ở Bulônhơ, nhà máy lanh sợi ở Phơrêvăng và nhà máy
dệt chạy bằng sức nước ở Bubê. Đi đến đâu cũng thấy người ta nói đến cái tên
Mađơlen một cách thành kính. Hai thành phố Arát và Đue cũng phải ghen tị với
cái thị trấn Môngtơrơi Xuya Me nhỏ bé mà có được một ông thị trưởng như thế.
Ông
chánh án phiên tòa Đại hình ở Arát hôm ấy, vốn là hội thẩm của tòa án Đue cũng
được biết như ai cái tên quen thuộc được mọi người tôn kính sâu sắc ấy. Khi
người mõ tòa khẽ mở cái cửa thông từ phòng hội nghị sang chỗ xử án, đến chỗ sau
ghế cúi đưa mảnh giấy có dòng chữ vừa rồi và nói: “Ông này muốn dự buổi xử án”
thì ông chánh án đột ngột có một cử chỉ tôn kính, ông cầm bút viết mấy chữ vào
quãng dưới mảnh giấy rồi trao lại cho người mõ tòa và nói: “Mời ông ấy vào”.
Cái
người khổ sở mà ta đang thuật chuyện đây, lúc ấy vẫn giữ nguyên ở bên cửa với
cái dáng điệu không thay đổi từ khi người mõ tòa cầm giấy đi. Ông đang mơ màng
thì thoáng nghe có người nói với mình: “Thưa ngài, tôi xin dẫn đường hầu ngài”.
Thì ra vẫn là anh mõ tòa khi nãy đã ngoảnh mặt làm lơ với ông và bây giờ lại
cúi rạp xuống mà thưa gửi. Hắn trao cho ông mảnh giấy. Ông giở ra và nhân có
đèn sáng, ông đọc: “Chánh án tòa đại hình kính chào ông Mađơlen”.
Ông vò
nát tờ giấy trong tay. Mấy dòng chữ dường như có dư vị gì lạ lùng và cay đắng.
Ông đi theo người mõ tòa. Mấy phút sau ông đã ở trong một căn phòng tường lát
ván đầy vẻ nghiêm trang. Trên chiếc bàn phủ dạ xanh, hai cây nến đang cháy
sáng. Bên tai ông còn văng vẳng lời người mõ vừa bước ra khỏi phòng: “Thưa ngài
đây là phòng hội nghị; ngài cứ xoay cái núm bằng đồng kia thì vào ngay phòng
xử, đằng sau ghế ông Chánh án”. Trong trí nhớ ông, những lời ấy lẫn lộn với
hình ảnh mơ hồ của những hành lang chật chội, những cầu thang tối om ông vừa đi
qua.
Người
mõ tòa để ông ở lại trong phòng một mình. Giờ quyết định đã đến. Ông cố tĩnh
tâm mà không được. Chính những khi cần suy nghĩ nhất về cái thực tế bi thảm ở
đời thì những dây tư tưởng nó lại đứt lung tung trong đầu óc. Ông hiện ở ngay
giữa chỗ mà bọn quan tòa đang thảo luận kết án. Ông lặng yên ngẩn người nhìn
căn phòng tĩnh mịch mà ghê gớm: đây là chỗ làm cho tan nát biết bao nhiêu cuộc
đời; đây là chỗ chốc nữa tên ông sẽ vang lên; đây là chỗ lúc này số mệnh đã dẫn
ông đến. Ông nhìn bức tường rồi lại nhìn vào mình và ngạc nhiên sao lại là cái
phòng ấy và sao lại chính là ông.
Một
ngày một đêm rồi ông chưa ăn miếng gì, đi đường xe xóc vật vã thế mà ông không
thấy gì cả; hình như là ông đã mất hết cảm giác.
Ông
lại gần tấm khung kính đen treo trên tường trong lồng một bức thư bút của ông
Pátsơ, đô trưởng Paris kiêm bộ trưởng, đề ngày 9 tháng 6 năm II, có lẽ đề nhầm,
trong đó ông Pátsơ gửi cho Ủy ban cách mạng danh sách các bộ trưởng và đại biểu
quốc hội bị họ giam giữ. Giá có ai nhìn thấy và theo dõi lúc bấy giờ, chắc phải
cho bức thư đối với ông có nhiều điều kỳ lạ vì thấy ông nhìn đăm đăm vào đấy và
đọc đi đọc lại hai ba lần. Có điều đọc mà không biết mình đọc và cũng không để
ý mình đọc những gì.
Ông
đang nghĩ đến Phăngtin và Côdét.
Đương
vơ vẩn như thế, ông quay lại và chợt trông thấy cái núm cửa bằng đồng mà ông đã
quên khuấy đi mất. Mắt ông dừng lại trên núm cửa và như dán hẳn vào đấy. Cái
nhìn ban đầu còn bình tĩnh sau hóa ra đăm chiêu, sợ hãi và dần dần nhuốm vẻ
hoảng hốt. Mồ hôi toát ra ở kẽ tóc và chảy dài xuống hai bên thái dương.
Có một
lúc, ông ra vẻ quả quyết và như chống lại với mình. Ông có một cử chỉ rất khó
tả nhưng nó nói lên rõ ràng: “Ô hay! Ai bắt ta mới được chứ?” Rồi ông quay phứt
lại, nom thấy cái cửa vừa đi qua để vào đây ông đến mở cửa và bỏ ra ngoài. Ông
đã ra ngoài đi trong một lối hẹp nhỏ và dài, ngóc ngách khắp nơi, lủng củng
thang bậc của ghi-sê. Dọc lối đi có mấy ngọn đèn tù mù như đèn trong phòng
người ốm. Đó là lối ông vừa qua để vào phòng. Ông vừa thở vừa nghe đằng trước
đằng sau không có một tiếng động; ông vụt chạy trốn như có người đuổi theo.
Qua
khỏi mấy chỗ rẽ, ông lại nghe ngóng nữa. Chung quanh vẫn yên lặng và tối mù.
Ông mệt thở không ra hơi, lảo đảo phải dựa vào tường. Đá tường lạnh ngắt, mồ
hôi trên trán cũng lạnh ngắt, ông rùng mình đứng thẳng người lên. Ông đứng một
mình trong bóng tối. Người ông run lên vì rét có lẽ cũng vì cớ khác nữa. Ông
lại suy nghĩ.
Đã
nghĩ cả đêm, lại nghĩ cả ngày, trong lòng chỉ nghe có một tiếng kêu: “Than ôi!”
Mười
lăm phút qua. Sau cùng ông cúi đầu xuống, thở dài não ruột, buông thõng hai tay
xuống và đi trở lại, ông đi rất chậm, bước đi quá mệt nhọc, chẳng khác nào có
người đuổi theo ông và bắt ông lại. Ông trở vào phòng hội nghị. Vật trông thấy
trước nhất là cái núm cửa phòng xử án. Cái núm cửa bằng đồng tròn tròn nhẵn
nhụi, bóng loáng trông như một ngôi sao ghê rợn. Ông nhìn vào núm cửa trông
chẳng khác gì con cừu đang nhìn vào mắt hổ. Mắt ông không rời khỏi nắm cửa.
Chốc chốc ông lại bước lên một bước, tiến đến gần cánh cửa. Giá ông tỉnh táo để
ý, chắc đã nghe như có tiếng ồn ào lộn xộn từ phòng bên vẳng sang. Bỗng nhiên
không hiểu vì sao, ông đã đứng ngay bên cửa. Ông đưa bàn tay run rẩy xiết cứng
núm cửa. Cửa mở.
Ông đã
ở trong phòng xử án.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN VII
Chương 9
NƠI NGƯỜI TA ĐÃ BẮT ĐẦU TIN CHẮC
Ông
nhích bước vào, thuận tay khép cửa lại rồi đứng yên nhìn quang cảnh trước mắt.
Gian phòng khá rộng. Ánh đèn không đủ sáng. Trong phòng lúc huyên náo, lúc lại
yên lặng như tờ. Cả bộ máy xử án của tòa Đại hình đương phơi bày ra giữa đám
đông với vẻ uy nghi tầm thường và ghê rợn.
Ở một
đầu buồng, nơi ông đang đứng là chỗ đám quan tòa ngồi nhấm móng tay hoặc lim
dim con mắt, đang lơ đãng trong những áo thụng đen đã bạc màu. Đầu kia là đám
dân chúng, quần áo rách rưới, bọn luật sư đứng ngồi đủ kiểu, mấy người lính nét
mặt lương thiện và cứng rắn. Tường lát gỗ lâu ngày đã hoen ố, cái trần nhà bụi
bặm, những chiếc bàn trải dạ xanh đã ngả màu vàng, những cánh cửa đen xì vết
tay người, những cây đèn vách tỏa nhiều khói hơn là ánh sáng. Mấy cây nến cắm
trên các chân đèn bằng đồng đặt trên bàn. Quang cảnh tăm tối, ghê tởm, thảm
đạm. Người ta có cảm tưởng như có gì vừa nghiêm nghị vừa cao cả. Bởi vì ở đây
như thấy có mặt cái việc to tát của loài người là luật pháp, cũng như cái việc
vĩ đại của Chúa Trời là công lý.
Chẳng
một ai trong đám đông chú ý đến ông cả. Bao nhiêu con mắt đang đổ dồn về một
phía, chỗ một chiếc ghế dài bằng gỗ dựa vào tường trước một cái cửa nhỏ, ở mé
bên trái ông Chánh án. Trên ghế có một người ngồi giữa hai tên lính sen đầm,
ánh đèn chung quanh soi rõ mồn một.
Người
ấy chính là người trên kia.
Không
đợi phải tìm, ông đã trông thấy ngay người ấy, tự nhiên mắt ông hướng vào chỗ
đó, như đã biết trước người ấy ngồi ở đâu rồi.
Ông
tưởng như mình đã trông thấy chính mình. Người có già đi, mặt mũi không hẳn là
giống như đúc, song dáng điệu và hình thù thì không khác gì cả. Cũng bộ tóc lởm
chởm ấy, con mắt dữ tợn và lấm lét, cũng cái áo bành tô ấy. Y như cái hôm trước
vào thành Đinhơ, lòng đầy căm hờn và trí óc chất chứa không biết bao nhiêu ý
nghĩ ghê gớm đã góp nhặt trong mười chín năm trời ở nơi tù ngục.
Ông
rùng mình và tự bảo: Trời ơi! Rồi ta trở lại như thế kia hay sao!
Cái
người ấy trạc sáu mươi tuổi, trông vẻ người có cái gì cục mịch, ngớ ngẩn và
kinh hoàng.
Nghe
tiếng mở cửa, người ta nhích lại để ông đi vào. Ông chánh án quay lại nhìn,
biết ngay là ông thị trưởng ở Môngtơrơi Xuya Me bèn gật đầu chào. Ông công tố
viên đã nhiều lần đến Môngtơrơi vì công vụ cũng nhận ra ông và chào ông. Riêng
ông chỉ hơi thoáng thấy những cử chỉ đó thôi. Ông như bị thôi miên và nhìn
thẳng ra trước mặt.
Cảnh
mấy ông quan tòa, một anh lục sự, mấy anh lính sen đầm, một lũ người hiếu kỳ
một cách tàn ác, ông đã được thấy một lần rồi, cách đây hai mươi bảy năm. Những
cảnh tai ương ấy, giờ ông lại thấy nó. Nó ở ngay trước mắt, nó cử động, nó tồn
tại. Không phải vì nhớ mà tưởng thấy, không phải một ảo ảnh của trí tưởng
tượng. Rõ ràng là những quan tòa có thật, những lính sen đầm có thật, một đám
đông và những con người ấy, có xương có thịt hẳn hoi. Thôi thế là xong, ông lại
thấy hiện ra và sống lại xung quanh ông những hình ảnh ghê rợn của dĩ vãng với
tất cả vẻ đáng sợ của sự thực phũ phàng.
Mọi sự
việc đó mở toang hoác trước mặt ông.
Ông
hoảng kinh nhắm mắt lại, kêu thầm trong trí. “Không bao giờ!”
Cái
trò số mệnh bày ra khiến ông hoang mang cả tâm trí gần như phát điên lên, cái
trò ấy thật là bi đát: mình đứng đây mà rõ ràng người ngồi kia cũng là mình.
Cái người đang bị đem xử kia, ai cũng gọi là Giăng VanGiăng!
Trước
mắt ông là một cảnh tượng lạ lùng khó nói. Hình như đó là một màn kịch diễn lại
cái phút ghê tởm nhất của đời ông. Mọi thứ đều y như thế, cũng cảnh bày biện
như vậy, cũng vào giờ đêm như vậy, cũng gần bấy nhiêu bộ mặt quan tòa, lính
tráng, công chúng. Chỉ có cây thánh giá trên đầu ông Chánh án là khác xưa vì
thuở ấy các tòa án chưa có thánh giá. Hồi ấy, khi người ta xử ông, Chúa Trời
vắng mặt.
Đằng
sau có một cái ghế, ông ngồi phịch xuống, kinh hoàng vì nghĩ rằng người ta có
thể trông thấy mình. Ngồi yên rồi, nhờ có chồng hồ sơ trên bàn thẩm phán, ông
giấu được mặt mình và có thể nhìn khắp gian phòng không sợ ai trông thấy cả.
Dần dần ông định thần lại và trở về với thực tế xung quanh. Một lúc lâu ông mới
bình tĩnh để nghe rõ được mọi việc.
Trong
số các hội thẩm thấy có ông Bamataboa.
Ông
đưa mắt tìm Giave nhưng không thấy. Hàng ghế của các người làm chứng lấp sau
cái bàn của viên lục sự. Vả lại như trên đã nói, trong phòng đèn thắp không
được sáng.
Lúc
ông mới vào, luật sư của bị cáo vừa cãi xong. Ai nấy đương hết sức chú ý theo
dõi việc xét xử ấy đã kéo dài ba tiếng đồng hồ rồi. Trong ba tiếng đồng hồ ấy
tội trạng người kia dần dần hiện ra có cơ sở. Và người đi xem nhận thấy gánh
nặng của cái vẻ thật ghê gớm ấy dần dần đè bẹp một con người, một tên vô danh,
một hạng người khốn nạn, hoàn toàn ngớ ngẩn hoặc là hết sức tinh khôn.
Người
ấy, như ta đã biết, là một tên lang thang bị bắt tại một cánh đồng, tay còn cầm
một cành táo có quả chín, bẻ cây táo trong vườn gần đấy gọi là vườn Pierông.
Người ấy là ai thế?
Một
cuộc điều tra được mở ra. Chứng tá vừa cung khai xong.
Ý kiến
mọi người thống nhất. Cuộc thảo luận đã làm lóe nhiều ánh sáng. Người ta buộc
tội như sau: “Chúng ta đưa ra đây không phải chỉ là một tên ăn cắp hoa quả, một
tên trộm vặt, mà chúng ta đã bắt được một thằng cường đạo, một đứa trốn án quản
thúc, một tên khổ sai đi đày, một kẻ gian ác tối nguy hiểm, một thằng lưu manh
tên là Giăng VanGiăng mà pháp luật đã truy nã từ lâu. Tên này cách đây tám năm,
khi ra khỏi nhà tù Tulông đã phạm tội cướp đường có khí giới, chặn lấy tiền của
một đứa bé tên là Giecve. Tội này trong hình luật điều thứ 383 có ghi rõ. Tòa
sẽ truy tố sau, khi nào có đủ bằng chứng về lý lịch của nó. Nó lại vừa phạm tội
ăn trộm. Thế là tái phạm. Xin hãy kết án nó về cái tội mới, còn cái tội cũ sẽ
xin xử sau”.
Nghe
bị buộc tội như thế, lại thấy các chứng tá đều khai như nhau, bị cáo ngạc nhiên
lắm. Khi thì hắn hoa tay lắc đầu, ra hiệu không phải, khi thì hắn chỉ nhìn lên
trần nhà. Hắn nói năng khó nhọc, trả lời lúng túng, nhưng từ đầu đến chân, cả
người hắn đều chối cãi tất cả. Hắn như một thằng ngốc nghếch đứng trước cả một
đoàn người khôn ngoan xếp thành thế trận tấn công hắn và như một kẻ xa lạ đứng
giữa một xã hội đang túm bắt hắn. Mà câu chuyện đối với hắn rồi đây có phải là
vừa đâu! Mỗi lúc lại thêm chứng cớ. Hắn lo lắm, nhưng mọi người lại còn lo hơn
khi thấy lời buộc tội kinh khủng đè nặng lên đầu hắn. Ngoài tội đi đày, không
chừng lại đến tội tử hình, nếu lý lịch được chứng minh và nếu việc ăn cướp
thằng bé Giecve lại bị kết án chồng lên thêm nữa. Người đó là thứ người gì? Cái
lầm lì của nó là nghĩa làm sao? Ngu ngốc thật hay là xảo trá? Nó hiểu quá đi
rồi hay là nó không hiểu gì cả? Quần chúng ngồi xem không ai đồng ý với ai, bọn
quan tòa cũng không nhất trí. Trong vụ án này có phần ly kỳ mà cũng có phần làm
cho người ta kinh hoảng, tấn bi kịch không những ảm đạm mà còn có gì tăm tối
nữa.
Người
biện hộ cãi cũng khéo. Thứ tiếng địa phương ông ta nói, một thời gian khá lâu,
đã làm nên ngôn ngữ hùng biện của tòa án mà giới luật sư đâu cũng dùng. Loại
ngôn ngữ ấy ngày nay đã thành cổ điển và chỉ nghe thấy ở cửa miệng các luật sư
công tố viên, nó thích hợp với các ngài vì nó kêu, nó nghiêm trang và oai vệ.
Trong ngôn ngữ ấy chồng được gọi là phu, vợ là phụ; Paris thì thay bằng trung
tâm văn hiến, vua là hoàng thượng, giám mục là sứ giả thánh đường, công tố viên
là phát ngôn hùng hồn của luật pháp, lời cãi của trạng sư là những giọng điệu
biện hộ, triều đại Lui XIV là thế kỷ vĩ đại, nhà hát là đền nữ thần Menpômen,
dòng họ nhà vua là kim chi ngọc diệp, buổi hòa nhạc là nhạc đội, tướng tư lệnh
trong tỉnh là nhà quân sự trứ danh... Rồi học trò chủng viện lại gọi là những
nhà tu hành thiếu niên, những sai lầm của báo chí là sự xảo quyệt xuất tiết độc
tố vào cơ thể báo chương... Luật sư ấy bắt đầu bằng việc giải thích việc ăn
trộm táo, - dùng lời văn hoa mỹ mà nói chuyện ăn trộm kể cũng khó đấy, nhưng
phải nhớ rằng ông Bốtxuyê ngày xưa, trong bài văn tế có lần phải nhắc đến con
gà mái mà còn nói lên được những lời châu ngọc nữa là! Luật sư giãi bày rằng
việc ăn trộm táo không có bằng cớ đích xác. Khách hàng của ông – mà ông cứ nhất
định gọi là Săngmachiơ – có ai trông thấy hắn trèo tường hay bẻ cây cối đâu.
Người ta bắt được hắn tay cầm cành táo (mà ông ta thích gọi là nhánh hơn) nhưng
hắn nói là thấy rớt ở dưới đất nên nhặt lấy thôi. Lấy gì làm bằng mà bảo hắn
khai man? Chắc chắn là có kẻ trèo tường bẻ táo thấy động thì vứt lại đó; chắc
chắn là có kẻ ăn trộm. Nhưng lấy gì làm bằng mà bảo đứa ăn trộm đó là
Săngmachiơ? Chỉ có một điều. Cái tư cách là khổ sai về. Luật sư phải nhận là
khó chối vì chứng cứ rành rành. Bị cáo có ở Phavơrôn; bị cáo làm nghề xén cây:
cái tên Săngmachiơ rất có thể do chữ Giăng Machiơ mà ra; những điều ấy đều đúng
cả, sau nữa có bốn người làm chứng đều nhận ngay được hắn và quả quyết Săngmachiơ
là tên tù khổ sai Giăng VanGiăng. Để chống lại những điều tố cáo ấy, những
chứng cớ ấy, luật sư chỉ còn biết dựa vào lời chối cãi của khách hàng mình, lời
phủ nhận có lợi cho mình. Nhưng giả thử hắn là Giăng VanGiăng thật, thì cái đó
có phải là bằng chứng hắn ăn trộm táo không? Nói hắn ta ăn trộm táo chỉ là một
mối nghi ngờ, không phải là một chứng cớ hẳn hoi. Đành rằng bị cáo đã dùng một
phương pháp tự bào chữa tồi, điều này trạng sư biện hộ cũng phải thật thà công
nhận như thế. Đó là cách khăng khăng chối cãi tất cả, nhất định mình không ăn
trộm, mình không là tù khổ sai. Luật sư có khuyên lão ta nên thú nhận mình là
tù khổ sai đi thì có thể có lợi hơn và chắc chắn là sẽ được tòa án thương tình
và rộng lượng; nhưng bị cáo nhất định chối, nghĩ rằng có thể tránh được tất cả
nếu không thú nhận gì hết. Thật là sai lầm. Nhưng phải chăng cũng nên lưu ý đến
việc lão ta ít thông minh? Lão ta rõ ràng là ngu đần. Bao nhiêu năm đầy đọa
trong tù, bao nhiêu khổ sở ngoài tù đã làm cho lão ta mụ người đi... Lão ta tự
bào chữa một cách vụng về, có phải đó là lẽ để kết tội lão ta không? Còn vụ
thằng Giecve thì trạng sư chẳng phải bàn cãi đến vì chẳng dính líu gì đến đây
cả.
Luật
sư kết luận xin tòa hễ nhận đích hắn là Giăng VanGiăng thì chỉ phạt vi cảnh đối
với kẻ vi phạm án quản thúc chứ đừng khép vào tội ghê gớm của người tù khổ sai
tái phạm.
Công
tố viên đáp lại lời biện hộ, lời lẽ kịch liệt mà vẫn văn hoa. Các ông công tố
bao giờ mà chả thế!
Ông tỏ
lời khen ngợi đức tính “trung thực” của luật sư và khai thác tính “trung thực”
ấy một cách tài tình. Chỗ nào mà luật sư chịu nhượng bộ là ông ta nhằm vào đấy
để đánh vào bị cáo. Luật sư có vẻ công nhận bị cáo là Giăng VanGiăng. Công tố
viên ghìm lấy điều ấy, cho là một việc quả nhiên: người ấy đích là Giăng
VanGiăng. Điểm này như thế coi là đã xác định và được dùng làm căn cứ buộc tôi,
không còn chối cãi lôi thôi gì nữa.
Đến
đây, ông đi ngược lên nguồn gốc và nguyên nhân của việc phạm tội và lên giọng
hùng hổ kết án trường phái lãng mạn là vô luân lý. Trường phái này hồi ấy mới ra
đời và được các nhà phê bình của hai tờ “Lá cờ” và “Nhật báo” mệnh danh là
“Trường phái quỷ sứ”. Ông đổ cho ảnh hưởng của thứ văn chương xấu xa ấy – không
hẳn là đổ bứa – cái tội đã gây ra vụ trộm của tên Săngmachiơ hay nói đúng hơn,
của Giăng VanGiăng.
Xong
tràng khái luận ấy, ông mới nói đến Giăng VanGiăng thật sự. Giăng VanGiăng là
người thế nào? Ông mô tả Giăng VanGiăng. Hắn là một con quỷ sứ mà địa ngục đã
khạc ra... Cách mô tả này có mẫu mực trong cách kể của Teramen (Trong vở kịch
Phèdre của Racine thế kỷ XVII, nhân vật Théraméne, thầy của Hipplyte đã thuật
lại cái chết của chàng một cách văn hoa và dài dòng). Cách kể của Teramen thì
chẳng ích gì cho vở bi kịch, nhưng lại thường xuyên rất được việc cho các nhà
hùng biện của tòa án.
Cử tọa
và hội thẩm viên rùng mình. Mô tả xong, ông lại tiếp theo cái đà hùng biện đáng
để cho ngày hôm sau tờ công báo địa phương hết lời ca ngợi: chính cái tên như
thế... vừa là lưu manh, vừa là hành khất, vô nghề nghiệp... – cái tên đã quen
với những hành động tội lỗi của đời cũ, lại sống mấy mươi năm trong tù mà chẳng
sửa chữa được gì, chứng có là việc chặn đường ăn cướp thằng bé Giecve... –
chính cái tên như thế bị bắt quả tang ăn trộm trên đường cái, cách chỗ hắn trèo
tường có mấy bước, trên tay còn giữ vật vừa ăn trộm xong, mà còn dám chối cả
quả tang, chối việc ăn trộm, chối việc trèo tường, chối tất cả, chối đến cả tên
họ, cả lý lịch! Ngoài hàng trăm chứng cớ mà chúng tôi không nhắc lại làm gì, có
bốn người đã nhận mặt y: ông Giave, thanh tra cảnh sát đáng tin cậy và ba tên
trước kia là bạn tù của y, những tên tù khổ sai Bơrơvê, Sơniđiơ và Côsơpay.
Trước sự nhất trí mãnh liệt ấy, y chống chế như thế nào? Y chỉ có chối. Thật là
đồ lì lợm! Thưa các ngài hội thẩm, yêu cầu các ngài cầm cân nảy mực…
Trong
khi ông công tố nói thì bị cáo ngồi nghe, miệng cứ há hốc ra như vừa ngạc nhiên
vừa vẻ thán phục. Hắn lấy làm lạ lùng sao lại có người ăn nói được như thế.
Thỉnh thoảng khi lời buộc tội đến chỗ “hăng hái” nhất, những chỗ lời hùng biện
không thể kìm hãm nổi, đã nổ thành một tràng những tính từ tóa mạ, đổ xuống đầu
bị cáo như một cơn bão táp, hắn chỉ biết thong thả lắc đầu từ trái sang phải
rồi lại từ phải sang trái. Đó là cử chỉ minh oan buồn rầu và lặng lẽ của hắn từ
lúc bắt đầu xử đến giờ. Hai ba lần khán giả ngồi gần nhất nghe hắn nói nho nhỏ
“rõ ràng không hỏi ông Balu là như thế đó!” Ông công tố lưu ý ban hội thẩm rằng
dáng điệu ngớ ngẩn của hắn là dáng điệu có tính toán trước, nó chứng tỏ không
phải là sự ngu ngốc mà là sự tinh khôn, ranh mãnh, thói quen lừa gạt pháp luật,
chính cái dáng điệu ấy đã bóc trần “bản chất xấu xa nhất” của tên này.
Ông
kết luận tách vụ cướp thằng bé Giecve để lại sau, rồi đòi xử thật nghiêm khắc.
Người ta còn nhớ đó là án khổ sai chung thân. Luật sư biện hộ đứng dậy, bắt đầu
khen “ông công tố” về những “lời châu ngọc” của ngài, rồi mới cố chống đỡ thêm,
những lý lẽ nghe chừng đuối dần, chỗ tựa lung lay lắm.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN VII
Chương 10
PHƯƠNG PHÁP CHỐI CÃI
Đã đến
lúc kết thúc cuộc tranh cãi. Ông Chánh án gọi bị cáo đứng dậy và theo thủ tục
hỏi: “Anh còn muốn nói thêm điều gì để bào chữa cho anh nữa không”. Hắn đứng
sững như không nghe thấy gì, hai tay cứ mân mê cái mũ vải bẩn thỉu đến ghê tởm.
Ông
Chánh án nhắc lại câu hỏi một lần nữa.
Lần
này hắn nghe rõ. Hình như hắn đã hiểu. Hắn có cái cử chỉ một người vừa bừng
tỉnh dậy. Hắn đưa mắt nhìn chung quanh một lượt, nhìn đám đông, nhìn bọn sen
đầm, nhìn ông luật sư biện hộ, những ông hội thẩm, các quan tòa. Hắn để nắm tay
to tướng lên chỗ vành gỗ trước mặt, nhìn quanh lượt nữa rồi bỗng nhiên nhìn
thẳng vào ông công tố, cất tiếng nói. Người ta có cảm tưởng là một hỏa sơn phun
lửa. Hình như bao nhiêu lời nói đều muốn xô cả ra ngoài miệng một lúc, lủng
củng, dồn dập, xô đẩy nhau, lẫn lộn. Hắn nói:
- Tôi
xin nói như thế này. Rằng tôi trước làm nghề chữa xe ở Paris. Chính ngay ở hiệu
ông Balu. Công việc nặng nhọc lắm. Cái nghề chữa xe bao giờ cũng phải làm ở
ngoài trời, trong sân, chủ tốt mới cho làm trong nhà trại, có bao giờ được ở
trong xưởng cửa ngõ tử tế, vì cần phải có chỗ rộng, các ông ạ. Mùa đông rét
mướt quá phải đập vào cánh tay cho đỡ cóng, nhưng mà chủ không muốn thế, bảo
mất thời giờ. Cầm, nắn sắt trong sắt trong lúc giá đóng ngay trong kẽ đá lát
sân, khổ lắm! Làm nghề ấy nó chóng già người đi. Chưa đến tuổi đã lụ khụ như
ông lão rồi. Đến bốn mươi tuổi là kiệt sức. Tôi thì tôi đã năm mươi ba, nhiều
gian truân lắm. Mà bọn thợ thuyền thì tai ác lắm! Thấy ai già yếu thì động một
tí chúng gọi là con cốc gìa, con bò già! Tôi chỉ còn kiếm được mỗi ngày ba mươi
xu; họ cố tình trả công rẻ mạt, họ lấy nê là mình già yếu mà. Tôi đã vậy, trước
kia tôi lại còn đứa con gái làm nghề thợ giặt ở bến sông, nó cũng kiếm phần nó
được một ít. Cả hai cha con ngày ấy làm ăn cũng tiềm tiệm đủ. Nó làm cũng cực
nhọc lắm. Suốt ngày ngâm nửa mình trong bể giặt. Trời mưa, trời tuyết, gió bấc
vun vút vào mặt như cắt thịt cũng mặc. Trời lạnh nước đóng thành băng cũng phải
giặt. Lắm khách không có nhiều quần áo, đưa giặt chờ lấy ngay, nếu không làm
thì mất khách. Gỗ ván ghép chẳng ra sao nên nước rỉ ra khắp chỗ. Áo quần ướt
ngoài ướt trong, tất cả. Rét đến thấu xương. Con bé nó cũng có làm ở nhà giặt
Con Đỏ, ở đấy có vòi nước, nên khỏi dầm vào bể. Mở vòi là giặt, rồi quay ra sau
lưng mà xát. Làm việc chỗ kín nên ít lạnh hơn. Nhưng lại có hơi nước nóng cũng
đáng sợ, vì nó xông lên hại mắt lắm.
Làm
đến bảy giờ tối mới về, nhọc mệt lắm phải đi nằm ngay. Chồng nó lại còn đánh
đập cho nữa. Nó chết rồi. Chúng tôi chẳng biết gì là sung sướng. Thật là một
con bé đảm đang, không đi hội hè nhảy nhót bao giờ, ngoan ngoãn dễ bảo, tôi nhớ
có một ngày thứ ba béo, nó đi ngủ lúc tám giờ. Thế đấy. Tôi nói thật đấy. Các
ông cứ cho hỏi mà xem. À, đi hỏi? Tôi ngốc thật! Paris như một cái hố thẳm. Ai
mà biết được lão Săngmachiơ là ai? Nhưng mà tôi bảo cứ hỏi ông Balu, cứ đến hỏi
ông Balu. Ngoài ra, tôi không hiểu các ông muốn gì tôi.
Hắn
lặng im và đứng sững đó. Hắn đã nói một thôi, nói to và nhanh. Giọng hắn xẵng
và khàn khàn, có vẻ thực thà nhưng có pha tức giận và dữ tợn. Một lần hắn ngừng
nói để chào một người nào đó trong đám đông. Bao nhiêu những lời hắn nói ra như
để cho mọi người cùng đinh ninh với hắn, hắn như vứt ra lung tung trước mặt,
thành từng tràng như những cơn nấc. Mỗi lời hắn lại kèm thêm điệu bộ của thợ
rừng bửa củi. Khi hắn dứt lời thì cử tòa cười rộ lên. Hắn nhìn đám đông thấy
người ta cười, không hiểu sao, cũng cười theo.
Thật
là quái gở.
Ông
Chánh án vốn là người có ý tứ và tốt bụng bèn lên tiếng.
Ông
nhắc “các ông hội thẩm” rằng “cái ông Balu, chủ nhà hàng chữa xe mà bị cáo khai
đã làm công ở đó, có khai ra cũng vô ích vì hắn đã vỡ nợ và bỏ đi, không biết
nay ở đâu rồi”. Quay về phía bị cáo, ông khuyên hắn nghe cho kỹ điều ông sắp
nói rồi tiếp:
- Anh
đang ở vào cái cảnh ngộ cần phải suy nghĩ cho chín. Anh đang bị nghi có nhiều
tội có thể bị án nặng lắm đấy. Bị cáo, vì anh mà tôi hỏi tại anh một lần cuối
cùng, anh phải phân giải rõ ràng hai điều này: thứ nhất, anh có trèo tường vào
trong trại Pierông bẻ cành và ăn trộm táo, nghĩa là phạm tội ăn trộm có trèo
tường, có hay không? Thứ hai, anh có phải tên tù khổ sai Giăng VanGiăng đi đày
về, phải không?
Bị cáo
lắc đầu có vẻ tự tin, như đã thực hiểu và biết là mình phải trả lời như thế
nào. Hắn há miệng quay về phía ông Chánh án và nói:
-
Trước hết…
Rồi
hắn nhìn cái mũ, nhìn cái trần nhà và lặng im.
Ông
công tố giọng nghiêm khắc:
- Bị
cáo, coi chừng đấy! Anh không trả lời gì vào câu hỏi người ta hỏi anh. Lúng
túng thế là gian rồi. Đích anh không phải là tên Săngmachiơ mà là tên tù khổ
sai Giăng VanGiăng, trước còn đội tên Giăng Machiơ là họ đằng mẹ nữa. Anh đã đến
đất Ôvécnhơ, anh sinh ra ở Phavơrôn và làm nghề xén cây ở đấy. Đích là anh đã
trèo tường ăn trộm táo chín ở trong trại Pierông. Các ông hội thẩm sẽ nhận xét
những việc ấy.
Bị cáo
đã ngồi xuống. Thấy ông công tố nói thế, hắn lại đứng phắt dậy:
- Ông,
ông độc ác thực! Tôi định nói thế này. Ban nãy tôi chưa nghĩ ra. Tôi không trộm
cắp gì cả. Tôi nghèo đến nỗi nhiều hôm không có cái ăn. Tôi ở Ayli đến. Trời
vừa mưa to xong, vùng tôi đi qua đều một màu vàng đục. Hồ ao cũng tràn đầy. Hai
bên đường chỉ còn những ngọn cỏ li ti lòi lên mặt cát. Tôi thấy một cành cây
gẫy rơi dưới đất. Trên cành có quả táo. Tôi nhặt lên, có ngờ nó lại mang tai vạ
đến cho mình đâu. Đã ba tháng nay tôi bị giam và bị người ta dằn vặt đủ điều.
Thế mà tôi không nói gì được, họ vu vạ cho tôi và bảo tôi: “Trả lời đi!” Viên
sen đầm thương hại tôi, thích vào khuỷu tay, khẽ giục tôi: “Trả lời đi chứ!”
Tôi thì tôi không biết cách nói, tôi có học hành gì đâu, tôi nghèo khổ lắm. Đấy
là chỗ các ông không xét cho tôi. Tôi không trộm cắp, tôi thấy rơi ở đường thì
tôi nhặt. Ông bảo là Giăng VanGiăng, Giăng Machiơ! Tôi có biết những người ấy
là ai đâu! Đấy là bọn nhà quê. Tôi làm công cho ông Balu ở phố Nhà thương. Tôi
tên là Săngmachiơ. Các ông biết được cả chỗ tôi sinh kể cũng tài thật. Chính
tôi, tôi cũng không biết. Có phải ai cũng được cha mẹ đẻ ra trong nhà trong cửa
đâu. Được thế thì hay quá. Tôi tin rằng cha mẹ tôi cũng là hạng cầu bơ cầu bất
thôi. Thật ra tôi cũng chả biết. Lúc bé người ta gọi tôi là Bé, giờ lớn người
ta gọi tôi là Lão. Tên cúng cơm của tôi là thế đó. Các ông muốn cho việc ấy ra
thế nào thì mặc ý. Tôi có ở Ôvécnhơ, tôi có ở Phavơrôn thì cũng được. Thế thì
làm sao? Có lẽ nào đã ở Ôvécnhơ và đã ở Phavơrôn thì cứ phải là người đi đày về
hay sao? Tôi bảo là tôi không ăn trộm. Tôi là lão Săngmachiơ. Tôi làm công cho
ông Balu. Tôi có nơi ở hẳn nhiên. Các ông cứ nói bậy mãi làm tôi phát bực mình
lên đây! Tại sao thiên hạ cứ đeo theo mà làm hại tôi thế này!
Ông
công tố vẫn đứng. Ông ta nói với ông Chán án:
- Thưa
ông Chánh án, tên bị cáo chối cãi, làm như mình là thằng ngốc nghếch, nhưng
lúng túng không lừa được ai – Tôi nói cho nó biết thế đấy – Và đã thế thì tôi
xin tòa lại cho đòi ba tên Bơrơvê, Côsơpay và Sơniđiơ cùng viên thanh tra cảnh
sát Giave ra đây để đối cứu một lần nữa về lý lịch tên tù khổ sai Giăng
VanGiăng.
Ông
Chánh án đáp:
- Tôi
xin nói để ông tố biết rằng viên thanh tra cảnh sát Giave vì bận công vụ ở một
quận gần đây, khi khai xong đã xin ra khỏi tòa và rời khỏi thành phố rồi. Chúng
tôi đã chuẩn bị sau khi được sự đồng ý của ông và của luật sư bên bị cáo.
Ông
công tố tiếp lời:
- Thưa
ông Chánh án, đúng như thế. Ông Giave hiện không có mặt ở đây, tôi thấy cần
nhắc lại với các ông hội thẩm lời ông ta khai trước đây. Giave là một người
được tín nhiệm. Tính thẳng thắn tuyệt đối của ông ta trong khi thừa hành những
chức vụ thấp nhưng quan trọng đã làm cho ông ta có nhiều uy tín đấy. Đây là lời
khai của ông ta: “Tôi không cần phải nêu ra những suy luận lý trí và những tang
chứng cụ thể để gạt bỏ những lời chối cãi của bị cáo. Tôi nhận được nó rõ ràng.
Người này không phải tên là Săngmachiơ, nó là một thằng tù khổ sai cũ rất hung
dữ, rất đáng sợ tên là Giăng VanGiăng. Người ta bất đắc dĩ phải thả nó ra vì nó
đã hết hạn tù. Nó đã bị mười chín năm khổ sai về tội trộm cướp. Đã năm sáu lần
nó tìm cách vượt ngục. Ngoài tội cướp tiền của thằng bé Giecve và tội ăn trộm ở
trại Pierông, tôi còn nghi nó là thủ phạm vụ trộm ở nhà Đức cố giám mục thành
Đinhơ nữa. Tôi quen mặt nó vì trước đây tôi làm quản đề lao ở nhà ngục Tulông.
Một lần nữa, tôi xin khai là tôi nhận được mặt nó rõ ràng”.
Lời
khai chứng rành mạch như thế làm cho công chúng và ban hội thẩm đều tin cả.
Cuối cùng ông công tố lại yêu cầu không có Giave thì còn ba người làm chứng nữa
là Bơrơvê, Côsơpay và Sơniđiơ, tòa cứ cho gọi cả ra để nghe họ khai lại và để
tòa trịnh trọng hỏi lại họ lần nữa.
Ông
Chánh án ra lệnh cho mõ tòa và một lúc sau cửa ở phòng chứng tá mở ra. Mõ tòa,
theo sau có một sen đầm sẵn sàng ra tay, đưa tù nhân Bơrơvê vào. Cử tọa trong
phòng như ngừng thở và mọi trái tim đều hồi hộp.
Tên
cựu tù Bơrơvê mặc thứ áo đen và xám của các nhà ngục. Hắn trạc tuổi sáu mươi,
nét mặt giống hệt một anh chạy việc và dáng điệu chẳng khác một thằng lừa bịp.
Hai tính cách ấy có lúc đi với nhau. Vì tái phạm nên hắn lại vào tù và ở đó hắn
đã làm một thứ gác cửa ngục. Đúng là loại người mà cấp trên thường nói: “Hắn
muốn tâng công”. Các cha tuyên úy cũng làm chứng cho những thói ngoan đạo của
hắn. Xin đừng quên là việc này xảy ra dưới thời quân chủ Phục hưng. Ông Chánh
án bảo:
-
Bơrơvê, anh đã bị nhục án nên không được phép tuyên thệ…
Bơrơvê
cúi đầu nhìn xuống.
-
Song, ngay con người mà pháp luật đã tước mất phẩm giá cũng có thể trời còn
thương mà để lại cho chút ý thức về danh dự và công lý. Trong giờ phút nghiêm
trọng này ta kêu gọi chút ý thức còn lại ấy. Nếu nó còn, và ta mong rằng nó còn
thật, thì anh hãy nghĩ kỹ đi rồi hãy trả lời. Hãy nhìn cho kỹ: một mặt, người
ấy có thể do lời nói của anh mà bị tội vạ, nhưng mặt khác tòa lại có thể nhờ
lời nói của anh mà biết rõ trắng đen. Giờ phút này rất quan trọng. Anh còn thời
giờ để phản cung nếu xét ra trước mình đã khai lầm. – Bị cáo đứng dậy! –
Bơrơvê! Nhìn cho kỹ bị cáo, cố nhớ cho ra và nói cho đúng điều lương tâm ánh
bảo, nói: người này có phải là Giăng VanGiăng, bạn đồng ngục với anh trước kia,
như anh đã khai không?
Bơrơvê
nhìn bị cáo, rồi quay về phía quan tòa:
- Thưa
quan Chánh án, đúng thế. Chính tôi đã nhận ra nó trước tiên và tôi vẫn giữ
nguyên lời khai. Người này là Giăng VanGiăng. Bị tống ngục năm 1796 và được tha
năm 1815. Tôi cũng được ra năm sau. Giờ thì coi bộ nó lù đù, có lẽ tại nó có
tuổi nên mụ người đi. Trong tù nó là thằng tinh quái ngấm ngầm. Tôi nhận chính
là nó đấy ạ!
Ông
Chánh án nói:
- Cho
anh về chỗ. Bị cáo, cứ đứng đấy.
Người
ta lại dẫn tên Sơniđiơ chung thân khổ sai vào. Nhìn chiếc áo đỏ và chiếc mũ
xanh đủ biết là hắn vẫn bị giam ở nhà lao Tulông, nay được đưa đến đây để làm
chứng. Hắn vào khoảng trên dưới năm mươi tuổi. Người bé nhỏ, nhăn nheo, vàng
bủng, nhưng có vẻ nhanh nhẹn, trâng tráo, hấp tấp. Trông tay chân và toàn thân
thì ốm yếu như có bệnh tật mà con mắt nhìn lại có một sức mạnh vô cùng… Bạn tù
gọi hắn là thằng “Không có Chúa”.
Ông
Chánh án cũng nói với hắn những lời đại khái như đã nói với tên Bơrơvê. Khi ông
ta nhắc lại cho hắn biết là tù phạm không được quyền tuyên thệ, hắn ngẩng lên
nhìn thẳng vào chỗ công chúng. Ông Chánh án bảo hắn nên chú ý và cũng hỏi lại
hắn xem lần này hắn vẫn nhận đúng bị cáo như lần trước không. Hắn phá lên cười:
- Còn
gì nữa! Sao lại không biết! Hai đứa bị xích chung với nhau năm năm trời mà. Anh
già, làm mặt giận đấy à?
Ông
Chánh án truyền:
- Cho
anh về chỗ.
Mõ tòa
dẫn Côsơpay vào. Tên tù chung thân này cũng bị đưa từ nhà lao đến và vẫn mặc áo
đỏ như tên Sơniđiơ. Hắn vừa là nông dân xứ Luốcđơ, vừa là dân miền núi cục mịch
xứ Pirênê. Trước hắn làm nghề chăn cừu trên núi và từ chăn cừu sa ngã thành kẻ
cướp. Trông người cũng man rợ như bị cáo và có phần ngớ ngẩn hơn. Chẳng qua
cũng là một hạng người khốn khổ, lúc sinh trời định nặn thành thú dữ, nhưng xã
hội lại chuốc cho ra một tên tù khổ sai.
Ông
Chánh án tìm cách lay động tên này bằng mấy lời cảm động và nghiêm trang rồi
hỏi hắn như đã hỏi hai tên kia, rằng hắn còn nhất quyết nhận có biết rõ cái
người đứng trước mặt hắn kia không. Côsơpay trả lời:
-
Giăng VanGiăng chứ còn ai nữa! Chính người ta còn gọi nó là Giăng Kích vì nó
khỏe lắm.
Những
lời khẳng định của ba tên này cố nhiên là thành thực và vô tư. Trông chỗ công
chúng có tiếng xì xào. Thật là triệu chứng không tốt cho bị cáo. Tiếng xì xào
ấy tăng thêm và lan rộng mỗi khi có lời khai mới thêm vào lời khai trước. Hắn
đứng nghe, vẻ mặt ngạc nhiên. Theo lời buộc tội thì làm ra vẻ ngạc nhiên là
cách chống chế chủ yếu của hắn. Tên thứ nhất vừa khai xong, mấy viên sen đầm
ngồi bên cạnh nghe hắn lầm bầm trong miệng: “Hay chưa, cái thằng!” Đến tên thứ
hai, hắn lại nói rõ thêm một tí, giọng như người vừa ý: “Hay nhỉ!” Đến tên thứ
ba, hắn reo lên: “Giỏi thật!” Ông Chánh án hỏi:
- Bị
cáo, anh nghe rõ rồi đấy. Anh có gì nói không?
Hắn
đáp:
- Tôi
nói: Giỏi thật!
Sự ồn
ào trong đám công chúng lan ra đến chỗ các viên hội thẩm. Việc rành rành ra
rồi, bị cáo nguy mất rồi.
Ông
Chánh án ra lệnh:
- Mõ
tòa đâu, giữ trật tự. Việc thẩm cứu thế là xong.
Giữa
lúc ấy có tiếng động ở ngay bên cạnh ông Chánh án. Có tiếng người thét lên:
-
Bơrơvê, Sơniđiơ, Côsơpay! Nhìn đây.
Ai
nghe tiếng thét ấy cũng phải lạnh người vì nó thảm đạm và ghê gớm làm sao! Mọi
người quay cả về phía đó. Trong đám quan khách ngồi sau ghế thẩm phán có một
người vừa đứng dậy, đẩy cái cánh cửa thấp ngăn chỗ quan tòa với vành móng ngựa,
tiến ra đứng ngay giữa phòng xử án. Ông Chánh án, ông công tố, ông Batamaboa,
đến hai chục người đều nhận ra người ấy và cùng kêu lên:
- Ông
Mađơlen!
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN VII
Chương 11
SĂNGMACHIƠ MỖI LÚC MỘT THÊM NGẠC NHIÊN
Chính
ông ta thật, ánh đèn trên bàn viên lục sự chiếu rõ vào mặt. Tay ông cầm mũ,
quần áo hoàn toàn chỉnh tề, cái áo khoác ngoài đóng cúc cẩn thận. Mặt ông tái
xanh. Người ông hơi run run. Mái tóc trên đầu ông, lúc mới đến Arát hãy còn lốm
đốm, nay đã bạc trắng. Mà chỉ trong một giờ ông ngồi đây.
Mọi
người đều ngẩng lên. Cảm giác thực là khó tả. Công chúng ngơ ngác. Tiếng kêu
thì thảm thiết, thế mà người đứng kia lại có vẻ điềm tĩnh lạ thường, mới đầu
chẳng ai hiểu ra làm sao cả. Họ tự hỏi ai đã thét lên thế. Vì không thể tin
được rằng cái người bình tĩnh kia lại đã kêu lên ghê rợn như vậy.
Nhưng
người ta chỉ lưỡng lự có vài giây thôi. Ông Chánh án và ông công tố chưa kịp
nói gì, cả bọn lính sen đầm và mõ tòa chưa kịp có một cử động gì thì cái người
mà hết thảy đều gọi là ông Mađơlen đã tiến đến chỗ ba tên làm chứng Bơrơvê,
Côsơpay và Sơniđiơ:
- Các
anh không nhận ra được ta à?
Cả ba
đều ngẩn người ra, lắc đầu tỏ ra không biết. Côsơpay cuống lên, vội giơ tay
chào theo kiểu nhà binh. Ông Mađơlen quay nhìn bọn quan tòa và bọn hội thẩm rồi
ôn tồn nói:
- Các
ông hội thẩm. Xin các ông tha cho người bị cáo đi. Ông Chánh án! Xin cho bắt
tôi đi. Người mà ông đang truy nã không phải người này, mà là tôi đấy. Tôi
chính là Giăng VanGiăng.
Ai nấy
đều nín thở. Phút choáng váng vì ngạc nhiên đã qua, trong phòng im lặng như nơi
nhà mồ. Trong phòng vụt có không khí thiêng liêng. Mọi người cảm thấy sợ hãi
một cách thành kính như đang chứng kiến một cái gì vĩ đại đang xảy ra.
Ông
Chánh án thương hại và buồn rầu lộ ra nét mặt. Ông ra hiệu với viên công tố và
nói nhỏ mấy lời với bọn hội thẩm rồi quay sang hỏi công chúng. Giọng ông có cái
gì đặc biệt khiến mọi người đều thông cảm:
- Ở
đây có ông thầy thuốc nào không?
Ông
công tố lên tiếng:
- Thưa
các ngài hội thẩm, việc xảy ra thật lạ lùng và bất ngờ làm náo động cả phiên
tòa. Nhưng chúng tôi cũng như các ngài đều chỉ có một cảm tưởng như nhau, không
cần phải nói ra làm gì. Các ngài đều biết, hay ít nhất cũng nghe tiếng vị này
là ông thị trưởng Mađơlen ở Môngtơrơi Xuya Me. Trong hàng dự thính nếu có ai là
thầy thuốc thì chúng tôi cũng xin đồng ý với ngài Chánh án yêu cầu lại giúp cho
ông Mađơlen và đưa hộ ông ta về nhà.
Ông
Mađơlen không để cho ông công tố nói hết. Ông lên tiếng ngắt lời, giọng rất từ
tốn và dõng dạc. Sau đây là nguyên văn những lời ông nói, đúng như một người đã
chứng kiến việc này, ở phiên tòa về là chép ngay, cũng như nhiều người đã nghe
ở đây còn như thấy văng vẳng bên tai mình, mặc dù từ đó đến nay đã gần bốn mươi
năm:
- Xin
cảm ơn ông công tố, nhưng tôi có điên đâu. Đây này. Ban nãy, xuýt nữa các ông
phạm phải một điều sai lầm lớn. Xin các ông hãy thả người này ra. Tôi đến đây
để làm một nhiệm vụ. Chính tôi mới là tên khốn nạn đó.
Ở đây,
chỉ riêng tôi là biết rõ sự thật và tôi xin nói lên. Điều mà tôi đang làm đây
có Chúa ở trên soi xét cho, thế là đủ. Tôi đã đến đây, các ông có thể bắt tôi
đi. Dù sao tôi đã dốc lòng tu tỉnh. Tôi đổi họ thay tên, tôi trở nên giàu có,
tôi được làm thị trưởng; tôi muốn quay về với những người lương thiện. Hình như
việc ấy khó thành thực. Kể ra có rất nhiều cái tôi không thể nói ra được, tôi
không dám đem chuyện đời tôi để kể ra đây, một ngày kia rồi người ta sẽ biết.
Tôi quả có ăn trộm nhà Đức giám mục; tôi quả có cướp tiền của thằng bé Giecve.
Người ta bảo trước kia Giăng VanGiăng là một đứa cùng khốn rất độc ác, điều ấy
cũng có thể. Mọi lỗi lầm có lẽ không phải đều do hắn cả. Vâng, thưa các ông
thẩm phán, một kẻ đã sa ngã như tôi thì không còn được chỉ trích Trời và dạy
khôn người đời nữa. Nhưng các ông xem đấy, cái cảnh khổ nhục mà tôi đã tìm cách
thoát khỏi là một sự tai hại. Chốn lao tù tạo ra những thằng tù. Có công nhận
như thế hay không là tùy ở các ông. Trước khi phải tù, tôi là một kẻ quê mùa
cục mịch, một đứa ngu ngốc; tôi đã biến cải ở trong tù. Trước thì ngớ ngẩn, sau
thì thành độc ác. Xưa chỉ là cành củi khô, sau thì thành khúc gỗ cháy. Về sau,
lòng quảng đại nhân từ đã cứu vớt tôi, cũng như trước kia sự nghiêm khắc đã làm
tôi hư hỏng. Nhưng mà xin lỗi các ông, các ông không thể hiểu những điều tôi
vừa nói đâu. Các ông đến nhà tôi sẽ thấy trong đống tro đồng hào mà tôi đã cướp
của thằng bé Giecve bảy năm trước đây. Tôi nói thế là đủ. Bắt giam tôi đi. Trời
ơi! Ông công tố lắc đầu, các ông chắc bảo: “Ông Mađơlen hóa điên rồi!” Các ông
không tin tôi! Thật là đáng buồn. Ít ra cũng xin các ông đừng làm tội oan người
này. Sao! Bọn các anh này không nhận ra được tôi à? Ước gì có Giave ở đây nhỉ.
Anh ta thì nhận ra tôi ngay!
Giọng
của ông có cái gì buồn rầu, độ lượng và âm thầm rất khó tả:
Ông
quay sang hỏi ba tên tù khổ sai:
- Tôi
thì tôi nhận ra được các anh! Bơrơvê, còn nhớ không?...
Ông
ngừng lại, lưỡng lự một tí rồi tiếp:
- Anh
còn nhớ ở trong tù anh vẫn có cái đai quần đan ô vuông không?
Bơrơvê
giật mình sợ hãi, nhìn ông từ đầu đến chân. Ông vẫn nói tiếp:
-
Sơniđiơ (Nguyên văn Chenidieu đọc tương tự như Je nin Dieu: Tôi không thừa nhận
Chúa) anh vẫn tự xưng là thằng “không có Chúa”. Vai bên phải anh có vết bỏng
lớn. Một hôm anh dí vai vào một cái hỏa lò than hồng để cố xóa mấy chữ KSCT
(Khổ sai chung thân. Nguyên bản: T.F.P: Travaux forcés a perpétuité) mà nó vẫn
cứ rõ. Có phải thế không? Nói đi!
Sơniđiơ
đáp:
- Đúng
thế.
Ông
quay lại nói với Côsơpay:
-
Côsơpay, cánh tay trái anh có trổ một hàng chữ màu xanh bằng thuốc súng: “Ngày
1 tháng 3 năm 1815” tức là ngày Đức hoàng đế đổ bộ lên bến Candơ. Vén tay áo
lên xem nào.
Côsơpay
vén tay áo lên. Bao nhiêu con mắt đều đổ dồn vào cánh tay để trần. Một người
lính sen đầm cầm đèn soi vào: hàng chữ có thật.
Con
người tội nghiệp ấy quay nhìn sang chỗ công chúng và chỗ quan tòa với một nụ
cười trông đến não ruột, cái nụ cười đắc thắng mà cũng là cái nụ cười thất
vọng.
- Đấy
nhé, có phải chính tôi là Giăng VanGiăng không nào.
Trong
phòng bấy giờ không còn ai là quan tòa, là công tố viên, là lính sen đầm nữa.
Chỉ toàn là những con mắt đăm đăm và những tấm lòng cảm động thôi. Người ta
quên cả nhiệm vụ của mình phải làm lúc đó; công tố viên quên rằng mình phải
buộc tội. Chánh án quên rằng mình đang ngồi xử. Luật sư cũng quên rằng mình đến
đây để biện hộ. Lạ lùng là không một ai hỏi ai, không một uy quyền nào lên
tiếng cả. Những cảnh tượng vĩ đại nó như thế: nó chiếm đoạt cả tâm hồn người ta
và bắt người ta phải lặng yên mà chiêm ngưỡng. Có lẽ chẳng ai biết được mình
đang có cảm xúc gì. Chắc cũng chẳng ai bảo là mình thấy ở đấy như có một ánh
sáng gì đang chói lọi. Nhưng ai nấy đều thấy lòng mình rạng rỡ lên.
Rành
rành trước mắt mọi người là Giăng VanGiăng. Điều đó chói rực lên. Con người này
xuất hiện đủ làm cho sự kiện vừa mới đây còn mù mờ, nay bỗng dưng sáng tỏ hẳn
ra. Chẳng cần phải giải thích nữa, toàn thể quần chúng có mặt, trong một chớp
sáng nhanh như điện, đều hiểu ngay và hiểu đầy đủ rằng đây là cảnh tượng đơn sơ
nhưng cao cả của một con người tự bó tay nộp mình cho pháp luật để cho một
người khác khỏi phải tù tội oan thay cho mình. Mọi thứ vụn vặt, mọi ngập ngừng,
mọi sự chống đối linh tinh có thể đều tan đi trước ánh sáng rực rỡ của hành vi
lồng lộng này.
Lúc ấy
cảm giác đó không có gì ngăn cản nổi, nhưng rồi nó qua rất nhanh.
Giăng
VanGiăng nói tiếp:
- Tôi
không muốn quấy rầy phiên tòa nhiều nữa. Các ông chưa muốn bắt tôi thì tôi xin
đi đây. Tôi còn nhiều việc phải làm cho xong đã. Ông công tố đã biết tôi là ai
rồi, biết tôi sẽ về đâu, lúc nào ông cho người đến bắt tôi cũng được.
Ông đi
ra phía cửa chính. Không một ai lên tiếng, không một ai giơ tay ngăn ông lại.
Hết thảy đều tránh cho ông đi. Bấy giờ ông như có cái gì thiêng liêng khiến đám
đông muôn người phải bước lùi và nép mình trước một con người. Ông thong thả
bước ra. Về sau cũng không ai biết được người nào đã mở cửa cho ông lúc bấy
giờ, song ra đến cửa thì rõ ràng đã thấy cửa mở sẵn rồi. Trước khi bước ra ông
còn quay lại nói:
- Thưa
ông công tố, tôi xin đợi lệnh ông.
Và ông
nói với công chúng:
- Các
ông bà có mặt ở đây, chắc ai cũng thấy ái ngại cho tôi vó phải không? Trời ơi!
Nhưng nghĩ lại cái việc mà ban nãy xuýt nữa tôi đã làm thì tôi lại thấy bây giờ
tôi đáng quí biết bao nhiêu! Dù sao, những việc như thế này đừng xảy ra thì vẫn
tốt hơn.
Ông đi
ra. Cánh cửa đóng lại như lúc nó mở ra. Vì khi người ta làm điều gì cao thượng,
thì chắc thế nào trong đám đông cũng có kẻ sẵn lòng giúp đỡ mình.
Non
một giờ sau, tòa tuyên án tha bổng cho tên Săngmachiơ và tên này được thả ngay
tức khắc. Hắn vừa đi ra vừa ngơ ngác, tưởng như người đời đều điên hết và không
hiểu việc hắn vừa nghe thấy ra làm sao cả.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN VIII
HẬU QUẢ
Chương 1
ÔNG MAĐƠLEN NHÌN TÓC MÌNH Ở CÁI GƯƠNG NÀO
Trời
vừa hửng sáng. Phăngtin sốt và trằn trọc suốt đêm, nhưng trong mơ chập chờn
toàn những cảnh sung sướng. Đến sáng chị mới ngủ yên. Bà xơ Xempơlit chăm sóc
cho chị cả đêm, bây giờ mới lựa được lúc chị ngủ để đi pha một liều thuốc
canh-ki-na nữa. Bà ở trong phòng thuốc của bệnh xá một lúc lâu, loay hoay với
những thuốc, những chai. Mọi vật buổi sớm còn mờ mờ, phải nhìn sát mới trông
rõ. Bỗng bà quay đầu lại và khẽ kêu lên. Ông Mađơlen vừa lẳng lặng đi vào đứng
sững ngay trước mặt bà. Bà kêu lên:
- Ông
thị trưởng đấy à?
Ông ta
hỏi khẽ:
- Bệnh
tình chị ấy ra sao?
- Bây
giờ thì đã khá. Đã có lúc chúng tôi ngại quá đấy!
Bà kể
lại cho ông nghe, hôm qua Phăngtin đã nguy lắm, nhưng nay lại đỡ nhiều vì chị
ta tưởng ông đi Môngphecmây tìm con bé của chị. Bà xơ không dám hỏi thẳng ông,
nhưng cứ nhìn dáng điệu ông, bà ta cũng biết ngay không phải ông ở đấy về.
Ông
bảo:
- Thế
cũng được. Bà cứ để chị ta tin như thế là phải.
-
Vâng, nhưng thưa ông, bây giờ chị ta sẽ được gặp ông mà lại chưa được thấy con
thì chúng tôi biết nói với chị ta thế nào?
Ông
trầm ngâm một lúc rồi bảo:
- Có
Chúa sẽ mách bảo cho ta.
Bà xơ
thì thầm trong miệng:
- Nhưng
lẽ đâu lại đi nói dối.
Trong
phòng sáng hẳn lên. Ánh sáng chiếu thẳng vào mặt ông Mađơlen. Bà xơ vô tình
nhìn lên thấy rõ. Bà kêu:
- Trời
ơi! Thưa ông, ông làm sao thế? Tóc ông bạc trắng cả.
- Bạc
trắng à!
Bà xơ
không có gương soi. Bà lục trong túi đựng đồ vặt, lấy ra một chiếc kính nhỏ
thầy thuốc vẫn dùng để thử xem người hấp hối đã tắt thở chưa. Ông Mađơlen cầm
miếng kính giơ lên soi đầu và bảo: ờ nhỉ!
Ông lơ
đãng nói thế, tâm trí như còn đang nghĩ đâu đâu. Bà xơ lạnh cả người, cảm thấy
có sự gì lạ lùng mới xảy ra. Ông lại hỏi:
- Tôi
vào thăm chị ta được không?
Bà xơ
rụt rè hỏi gặng:
- Thế
ông thị trưởng không cho đón đứa con về cho mẹ nó sao?
- Có
chứ, nhưng phải chờ vài ba hôm nữa.
Bà khẽ
nói:
- Thế
thì từ hôm nay đến hôm ấy đừng để chị ta gặp ông thị trưởng, chị ta sẽ không
biết rằng ông thị trưởng đã về. Như thế dễ bào chị ta dằn lòng đợi. Khi đứa bé
đã về rồi, thì chị ta yên trí là ông thị trưởng đã đi đón nó thực. Như vậy ta
không phải nói dối.
Ông có
vẻ suy nghĩ một lát rồi ôn tồn và nghiêm nghị bảo:
- Bà
xơ ạ, không được. Tôi cần gặp chị ta ngay. Có lẽ tôi vội.
Hình
như bà xơ không chú ý đến hai tiếng “có lẽ” nó làm cho lời nói của ông thị
trưởng khó hiểu và lạ lùng. Bà cúi đầu cung kính đáp:
- Nếu
vậy thì chị ta đang ngủ, nhưng ông thị trưởng cứ vào cũng được.
Ông
nhắc bà xơ chú ý đến cánh cửa mở không được tốt, tiếng cọt kẹt có thể làm cho
người ốm đang ngủ phải giật mình, rồi đi vào phòng của Phăngtin, đến gần chỗ
chị nằm và vén màn lên. Chị đang ngủ. Hơi thở khò khè đặc biệt của bệnh phổi
nghe rất thương tâm. Bà mẹ nào có con mang chứng nan y ấy mà ban đêm thức nhìn
con ngủ, tất phải não lòng với tiếng khò khè bi đát ấy. Chị thở khó khăn thế mà
nét mặt vẫn tươi tỉnh lắm, trông khác hẳn lúc thức. Màu da xanh xao hóa trắng
phau, hai má đỏ hồng. Hai hàng lông mi dài và ánh như tơ vàng là chút nhan sắc
cuối cùng còn rớt lại của thời hoa niên trinh bạch. Hai mắt vẫn nhắm mà hàng mi
cứ mấp máy. Toàn thân của chị khe khẽ rung như có đôi cánh đang vỗ nhè nhẹ và
sắp bay bổng lên mang chị theo đi; đôi cánh vô hình mắt không trông thấy nhưng
lòng ta cảm thấy rõ ràng. Nhìn vẻ người chị, chẳng ai dám bảo đó là một người
bệnh đã đến lúc gần tuyệt vọng. Chị sắp cất cánh đi chứ không phải là sắp chết…
Khi có
bàn tay lại gần và hái hoa thì cành cây dường rung rung nửa như lẩn tránh, nửa
như hiến dâng. Thân thể con người hình như cũng có chút rung rinh ấy khi những
ngón tay huyền bí của tử thần sắp hái linh hồn để đem đi.
Ông
Mađơlen đứng lặng yên bên giường một lúc lâu, hết nhìn người bệnh lại nhìn lên
cây thánh giá, y như lúc hai tháng trước đây, ông đến thăm chị lầm đầu tiên
trong phòng này. Hôm nay trong phòng cũng vẫn hai con người ấy, trông cùng một
dáng điệu như hôm xưa: chị thì ngủ, ông thì cầu nguyện. Có điều trong hai tháng
vừa qua, tóc chị trở nên hoa râm và đầu ông đã thành bạc trắng.
Bà xơ
không theo ông vào. Ông đứng bên giường, ngón tay để lên miệng như ra hiệu cho
một người nào khác im tiếng.
Phăngtin
chợt mở mắt nhìn thấy ông. Chị mỉm cười bình tĩnh hỏi:
-
Côdét đâu?
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN VIII
Chương 2
PHĂNGTIN SUNG SƯỚNG
Chị
không tỏ vẻ ngạc nhiên hay vui mừng. Cả người chị là hiện thân của vui mừng.
Chị chỉ hỏi một câu: “Côdét đâu?” Nhưng giọng chị tin tưởng sâu xa chắc chắn vô
cùng, không lộ một mảy may lo âu ngờ vực, làm cho ông Mađơlen không biết nói
sao. Chị lại bảo:
- Tôi
biết ngay là ông đứng đấy. Tôi ngủ nhưng vẫn trông thấy ông. Tôi trông thấy ông
từ lâu rồi. Tôi nhìn theo ông suốt đêm. Ông đứng giữa một ánh hào quang và
chung quanh ông có đủ mọi thứ thiên thần.
Ông
nhìn lên cây thánh giá. Chị lại tiếp:
-
Nhưng mà, Côdét đâu hở ông? Sao ông không đặt nó vào giường cho tôi để thức dậy
tôi thấy nó ngay?
Ông lơ
đãng trả lời một câu gì đó, về sau cũng không nhớ ra là mình đã nói gì.
May
sao ông thầy thuốc được tin báo cũng vừa tới. Ông này đỡ lời hộ ông thị trưởng.
- Chị
cứ nằm yên, còn cháu bé kia rồi.
Mắt
Phăngtin sáng ngời, vẻ mặt rạng rỡ hẳn lên. Chị chắp hai tay lại với cái dáng
điệu một người cầu khẩn thiết tha và dịu dàng nhất:
- Ồ!
Ẵm cháu đến đây cho tôi.
Cảm
động thay cái ảo tưởng của lòng mẹ! Chị vẫn cho là Côdét còn bé nhỏ phải ẵm
đến. Ông thầy thuốc lại bảo:
- Chưa
được. Hãy khoan đã. Chị còn hơi sốt đấy. Trông thấy cháu chị lại xúc động và ốm
thêm. Chờ khỏi bệnh đã.
Chị
cáu kỉnh ngắt lời:
- Tôi
khỏi rồi cơ mà! Tôi bảo là tôi khỏi rồi! Con khỉ, cái nhà ông này! Ơ kìa! Tôi
muốn gặp ngay con tôi mà.
- Đấy,
có phải thế không, chị lại nóng nảy lên rồi. Chị mà chưa giữ được bình tĩnh thì
tôi nhất định chưa cho gặp con vội. Không phải chỉ cốt trông thấy mặt con, mà
còn phải sống để nuôi con nữa chứ. Bao giờ chị biết điều hơn, tôi sẽ tự tay dẫn
nó vào với chị.
Người
mẹ đáng thương ấy cúi đầu phục tùng:
- Thưa
y sĩ, xin ông tha lỗi cho tôi. Tôi thành thực mong ông thứ lỗi cho tôi. Trước
kia có bao giờ tôi dám nói như thế đâu. Đắng cay nhiều quá rồi, nên có đôi khi
tôi nói càn mà không biết mình đã nói gì. Tôi hiểu rồi, ông sợ tôi xúc động quá
chứ gì. Tôi đợi đến bao giờ cũng được, nhưng tôi xin thề với ông là có được gặp
mặt con tôi thì tôi cũng không làm sao đâu. Tôi đã trông thấy cháu rồi. Từ
chiều tối hôm qua tới giờ, tôi không rời mắt nhìn theo nó. Ông ạ, giá có mang
cháu đến cho tôi bây giờ, tôi cũng chỉ nhẹ nhàng hỏi chuyện cháu thôi. Có gì
đâu. Đã cất công đến tận Môngphecmây đón cháu về cho tôi thì lẽ tất nhiên là
tôi muốn được gặp nó ngay chứ sao? Tôi không nổi nóng đâu. Tôi biết là tôi sắp
được sung sướng lắm. Cả đêm tôi mơ thấy những bóng trắng và những người mỉm
cười với tôi. Khi nào y sĩ muốn dẫn con Côdét đến cho tôi gặp cũng được. Tôi
không còn sốt nữa, tôi khỏi rồi cơ mà. Tôi cảm thấy trong mình chẳng còn bệnh
tật gì nữa, nhưng tôi vẫn cứ phải làm như tôi còn ốm và phải nằm yên để chiều
lòng các bà xơ ở đây. Bao giờ các bà ấy thấy tôi thật yên tĩnh, các bà chắc sẽ
bảo: cho đứa bé vào với mẹ nó được rồi.
Ông
Mađơlen ngồi xuống chiếc ghế đặt cạnh giường. Phăngtin quay mặt về phía ông. Rõ
ràng là chị cố gắng làm ra vẻ bình tĩnh và “ngoan ngoãn” như chị nói, để cho
mọi người thấy rằng chị đã bình tĩnh rồi thì không còn làm khó dễ nữa mà cho
chị được gặp mặt con. Trong lúc ốm yếu người ta thường sinh ra trẻ con như thế.
Chị muốn cố gắng nằm yên nhưng không khỏi hỏi ông Mađơlen hàng trăm câu hỏi.
- Thế
nào, ông thị trưởng đi đường có được bình yên không? Thực là nhân đức quá, cái
việc ông đi đón cháu về cho tôi, ông thị trưởng ạ. Xin ông cho tôi biết qua
cháu nó thế nào? Cháu đi đường có mệt lắm không? Tội nghiệp! Chắc cháu chả nhận
ra được tôi đâu. Đã bao lâu rồi còn gì! Khốn nạn, chắc cháu quên rồi! Trẻ em
chóng quên lắm. Như loài chim ấy. Nay thấy thế này, mai thấy thế khác, chẳng
lưu tâm đến một cái gì. Quần áo cháu có đủ mặc không? Cánh Tênácđiê có tắm rửa
cho cháu sạch sẽ không? Chả biết họ cho ăn uống ra sao? Chao ôi! Trong cảnh bần
hàn, mỗi khi tôi nghĩ đến những điều ấy thì lòng tôi đau như xé ông ạ! Giờ thì
hết rồi. Tôi sung sướng quá! Trời ơi! Tôi muốn thấy con tôi quá! Ông thị trưởng
ơi! Ông thấy cháu nó có xinh không? Nó trông xinh lắm có phải không ông? Đi
đường ngồi xe chắc lạnh lắm! Có thể cho tôi gặp nó một lát thôi không? Rồi lại
ẵm nó ra ngay mà. Ông là chủ nhân ở đây, ông cho phép nhé, nhé!
Ông
cầm lấy tay Phăngtin:
-
Côdét xinh lắm. Côdét khỏe mạnh. Rồi chị sẽ được thấy nó, hãy cứ bình tĩnh. Chị
nói nhiều quá, lại thò cả tay ra ngoài giường, rồi lại ho đấy.
Thực
vậy, chị vừa nói vừa ho rũ rượi.
Chị
nằm yên, sợ nằn nì mãi thêm hỏng việc. Chị đang muốn mọi người tin ở chị. Và
chị bắt sang những chuyện bâng quơ:
- Làng
Môngphecmây cũng xinh đấy chứ? Mùa hè đến đấy chơi được. Vợ chồng nhà Tênácđiê
làm ăn có khá không nhỉ? Xứ ấy khách qua lại cũng chẳng nhiều gì. Quán cơm nhà
ấy cũng là loại tồi thôi.
Ông
Mađơlen vẫn nắm lấy bàn tay chị và nhìn chị, lo lắng. Ông đến thăm chị để nói
những điều mà bây giờ đây ông lại băn khoăn không nỡ nói ra. Ông thầy thuốc
thăm bện xong đã về, chỉ còn bà xơ Xempơlit ở lại trong phòng với hai người
thôi.
Giữa
cảnh tĩnh mịch ấy, bỗng Phăngtin reo lên:
- Tôi
nghe thấy tiếng nó rồi! Trời ơi! Tôi nghe thấy tiếng nó rồi!
Chị
giơ tay ra hiệu để mọi người yên lặng, cố nín thở và lắng tai nghe, có vẻ khoái
chí lắm.
Bấy
giờ có một đứa trẻ đang chơi ở ngoài sân, con của bà gác cổng hay của một người
thợ nào đó. Cũng là một sự tình cờ như vẫn thường hay xảy ra, do một bàn tay
huyền bí cố tình xếp đặt trong những trường hợp bi thảm như vậy. Đứa bé, một em
gái đi đi lại lại, chạy nhảy cho ấm, vừa cười vừa hát véo von. Chao ôi! Còn có
chuyện gì mà trò chơi trẻ con không xen vào? Chính Phăngtin đã nghe thấy con bé
ấy đang hát.
- Trời
ơi! Con Côdét nhà tôi! Tôi nhận ra được tiếng nó mà!
Đứa bé
chợt đến gần rồi lại chợt đi ra xa, tiếng nó nhỏ dần.
Phăngtin
cố nghe một lúc nữa rồi mặt sa sầm xuống và ông Mađơlen thấy chị lẩm bẩm:
- Cái
ông thầy thuốc này tai ác làm sao, không cho ta được nhìn thấy con ta! Mặt mũi
ông ấy gì mà đáng ghét thế!
Nhưng
rồi những ý nghĩ vui vẻ trở lại. Chị ngả đầu xuống gối lẩm bẩm một mình:
- Giờ
thì mẹ con ta sắp được sung sướng rồi! Ta sẽ có một cái vườn nhỏ trước hết! Ông
Mađơlen đã hứa như thế mà. Con ta chơi đùa ở ngoài vườn. Nó chắc thuộc mặt chữ
rồi, ta sẽ bắt nó đánh vần. Nó tha hồ mà đuổi bắt bướm trong cỏ. Ta ngồi nhìn
nó chạy chơi. Rồi nó sẽ chịu lễ lần đầu. Ừ nhỉ! Bao giờ thì nó chịu lễ lần đầu?
Chị
giơ ngón tay ra đếm:
-
“...Một, hai, ba, bốn... nó lên bảy. Còn năm năm nữa. Nó sẽ trùm khăn trắng, đi
tất có rua, trông ra vẻ tiểu thư rồi. Bà xơ ơi, tôi rõ thật lẩn thẩn, bây giờ
mà tôi đã nghĩ đến chuyện con gái tôi chịu lễ lần đầu rồi đấy!”
Và chị
bật cười.
Ông
Mađơlen đã buông tay chị ra. Ông lẳng lặng nghe chị nói như nghe tiếng gió
thoảng, mắt nhìn xuống đất, tâm trí đang theo đuổi những ý nghĩ vô cùng tận.
Bỗng chị ngừng bặt, làm ông cũng chợt ngẩng lên. Trông mặt chị có vẻ sợ hãi ghê
gớm.
Chị
không nói nữa, không thở nữa, chống tay nghểnh dậy. Cái vai gầy guộc trật ra
ngoài áo. Nét mặt lúc nãy còn hớn hở giờ thì tái mét. Hai con mắt thao láo,
khủng khiếp, nhìn thẳng về đằng trước, phía cuối phòng, như có cái gì ghê sợ
lắm. Ông vội hỏi:
- Trời
ơi! Sao thế hở Phăngtin?
Chị
không trả lời, mắt vẫn trân trân nhìn ra đằng trước, một tay nắm lấy tay ông,
một tay ra hiệu cho ông nhìn lại phía sau.
Ông
quay lại và trông thấy Giave.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN VIII
Chương 3
GIAVE ĐẮC Ý
Đầu
đuôi câu chuyện như thế này.
Ông
Mađơlen vừa bước ra khỏi phòng xử án tòa Đại hình thì đồng hồ đánh mười hai giờ
rưỡi. Ông về đến nhà trọ vừa kịp đáp chuyến xe thư ông đã giữ chỗ trước. Ông
tới nhà lúc gần sáu giờ sáng. Việc trước tiên là đem gửi ngay phong thư cho nhà
ngân hàng Laphít, rồi ông đến nhà thương thăm Phăngtin.
Lúc
ông vừa ra khỏi phòng xử án Đại hình thì ông công tố cũng vừa qua cái phút kinh
ngạc ban đầu. Ông lại lên tiếng phàn nàn cho cái cử chỉ điên cuồng của ông thị
trưởng đáng kính của thành phố Môngtơrơi Xuya Me mà ông tuyên bố là nhận định
của ông vẫn không có gì thay đổi. Cái việc xảy ra mới rồi sẽ xét sau. Bây giờ
thì xin hãy kết tội tên Săngmachiơ này đã và chính thật nó là Giăng VanGiăng.
Sự cố chấp của ông công tố rõ ràng là trái hẳn với ý kiến chung của công chúng,
của các quan tòa và các ông hội thẩm. Luật sư không phải khó nhọc gì mà cũng
bác bỏ được lời cáo trạng ấy. Luật sư chỉ dựa vào lời phát giác của ông
Mađơlen, tức là tên Giăng VanGiăng, để chứng tỏ rằng việc này đã thành đảo
ngược hết rồi. Đứng trước tòa bây giờ chỉ là một người vô tội. Luật sư cũng rút
ra từ sự việc này một vài kết luận hùng hồn nhưng sáo cũ về những lầm lẫn của
tòa án. Viên Chánh án, trong lời tóm tắc thẩm kết, cũng đồng ý với luật sư và
chỉ trong vài phút, tòa tuyên án tha bổng cho Săngmachiơ.
Nhưng
viên công tố cần phải có một tên Giăng VanGiăng, nên không còn Săngmachiơ thì
ông cho bắt Mađơlen.
Ngay
sau khi tha tên Săngmachiơ, ông công tố và ông Chánh án hội ý với nhau về “sự
cần thiết phải cho đi bắt ngay ông thị trưởng thành phố Môngtơrơi Xuya Me”. Câu
này là do tự tay ông viết trên bản nháp báo cáo gửi lên trên. Ông Chánh án, sau
phút xúc động ban đầu, cũng không có ý kiến gì trở ngại. Dù sao pháp luật cũng
phải theo con đường của nó. Với lại, nói cho cùng, ông Chánh án có là người tốt
bụng và khá thông minh đấy, nhưng ông còn là một nhà bảo hoàng khá vững vàng và
khá hăng, cho nên ông thấy khó chịu khi ông thị trưởng Môngtơrơi Xuya Me nhắc
đến cuộc đổ bộ ở Can, lại nói là Hoàng đế chứ không gọi là Bônapac.
Thế là
trát truy nã được gởi ngay đi. Ông công tố sai riêng một người phóng ngựa một
mạch đi Môngtơrơi giao cho viên thanh tra Giave.
Trên
kia đã nói Giave khai xong ở tòa thì về ngay Môngtơrơi. Y vừa thức dậy thì
người ta đem trát truy nã và áp giải cũng vừa tới. Người này vốn là một tên
cảnh sát lành nghề, chỉ cần vài câu là đủ cho Giave biết rõ việc vừa xảy ra ở
Arát. Tờ trát truy nã có chữ ký của ông công tố, viết như sau: “Thanh tra Giave
phải bắt cho được tên Mađơlen thị trưởng Môngtơrơi, tên ấy tại phiên tòa hôm
nay đã được nhận ra chính là tên tù khổ sai Giăng VanGiăng đi đày được tha về”.
Ai
không quen biết Giave mà lại gặp hắn đang đi vào hành lang nhà thương lúc bấy
giờ thì không thể đoán ra được đã xảy ra việc gì, vì trông hắn vẫn ung dung như
mọi ngày. Hắn lạnh lùng, bình tĩnh, nghiêm trang, mái tóc hoa râm chải thật
mượt tận hai thái dương. Hắn cứ thói quen thong thả bước lên thang gác. Nhưng
ai đã biết rõ tâm tính hắn và nhận xét kỹ hắn lúc ấy hẳn phải giật mình. Cái
đai cổ áo bằng da, đáng lẽ đóng ở đằng sau gáy lại trẹo về phía tai trái. Điều
đó chứng tỏ hắn đang bối rối phi thường. Giave có một cá tính đặc biệt, không
bao giờ có sự thất thố trong nhiệm vụ, cũng như không bao giờ để có nếp nhăn
trên bộ y phục cảnh sát, rất nguyên tắc đối với bọn độc ác cũng như rất tề
chỉnh đối với bộ quần áo. Thế mà hôm ấy hắn đóng cúc cổ áo cẩu thả như vậy, thì
thế nào trong bụng hắn phải có điều gì xúc động ghê gớm lắm, có thể gọi được là
một cơn động đất ngầm vậy.
Hắn đi
một mình, khi qua bót canh gần đấy, hắn lấy theo một viên cai và bốn tên lính,
nhưng để cả bọn đứng lại ở dưới sân. Hắn hỏi mụ gác cổng buồng nằm của
Phăngtin. Mụ này không nghi ngờ gì cả vì vẫn thường quen thấy có lính tráng đến
hỏi ông thị trưởng.
Đến
phòng Phơrăngxoa, Giave vặn chìa khóa, đẩy cửa nhẹ nhàng như một người hộ lý
hay một tên chó săn, rồi bước vào.
Nói
cho đúng thì hắn không bước vào. Hắn đứng sững ở giữa cái cửa hé mở, đầu đội
mũ, tay trái thu vào trong chiếc áo ngoài đóng khuy đến tận cằm. Chỗ khuỷu tay
nom rõ cái chuôi bằng chì của cây gậy to tướng thu ở sau áo. Hắn đứng yên như
vậy một lúc mà không ai biết. Bỗng Phăngtin nhìn lên trông thấy và ra hiệu cho
ông Mađơlen quay đầu lại.
Vừa
lúc cái nhìn của ông Mađơlen bắt gặp cái nhìn của Giave, thì hắn không nhúc
nhích, không cử động, không bước tới mà trông hắn vô cùng dữ tợn. Không một
tình cảm nào của con người lại có thể trở nên ghê gớm như sự vui mừng.
Đó là
cái mặt của tên quỉ sứ vừa mới túm lại được kẻ bị nó ám. Chắc chắn phen này bắt
được đúng Giăng VanGiăng. Điều đó làm hiện rõ lên nét mặt hắn tất cả ý nghĩ hắn
ấp ủ trong lòng. Khuấy nước, bùn vẩn lên trên là thế. Hắn lấy làm nhục đã để
gần mất dấu và trong chốc lát lại đi nhận nhầm phải tên Săngmachiơ. Bây giờ thì
cái bẽ bàng ấy đã xóa nhòa trước sự kiêu hãnh cho là mình đã đoán đúng và đã có
từ lâu một linh cảm không sai.
Cái vẻ
đắc ý của Giave lộ liễu trong dáng điệu nghênh ngang của hắn. Trên cái trán hẹp
của hắn loáng lên hình thù kỳ dị của sự chiến thắng. Cái bộ mặt mãn nguyện ấy
phơi bày tất cả cái gì ghê tởm nhất.
Lúc
này Giave sung sướng như được lên tiên. Hắn không hiểu được thật rõ ràng nhưng
nhờ trực giác cũng cảm thấy mơ hồ vai trò cần thiết của mình và sự thắng lợi
mình vừa thu được. Hắn, Giave, hắn là hiện thân của công lý, của ánh sáng, của
chân lý, những cái này có nhiệm vụ thiêng liêng tiêu diệt các thứ tội lỗi. Đằng
sau hắn, chung quanh hắn là uy quyền, là lẽ phải, sự việc đã phán xét, là trách
nhiệm của pháp luật, là yêu cầu trừng phạt của xã hội nhưng vì sao như ở một
cõi nào hết sức sâu thẳm. Hắn là kẻ bảo vệ trật tự, hắn là nước đem sấm sét của
pháp luật trả thù cho xã hội, giúp việc đắc lực cho tuyệt đối. Người hắn như có
ánh hào quang bao quanh. Trong chiến thắng của hắn hình như còn chút ít thách
thức và chiến đấu. Hắn đứng đó, kiêu hãnh, rạng rỡ, phơi bày lên nền trời xanh
xái vẻ ác thú phi thường của một thiên thần hung ác. Công việc hắn làm có thêm
một cái bóng đáng sợ, nó làm hiện rõ cái gươm rực lửa của xã hội trên nắm tay
khép chặt của hắn. Vừa sung sướng vừa giận dữ, hắn giày dưới gót chân mình tội
ác, tật xấu, sự nổi loạn, sự trụy lạc, tất cả xấu xa của địa ngục. Hắn tiêu
diệt, hắn mỉm cười, hắn hớn hở, hắn là một thánh Misen quái đản, nhưng rõ ràng
là cao cả.
Giave
đáng kinh hãi thật nhưng không có gì bần tiện.
Tính
ngay thẳng, chân thật, lòng trong trắng, tin tưởng, tinh thần trách nhiệm, là
những cái hễ lầm đường, có thể xấu xa thật, nhưng dù xấu xa cũng vẫn cao cả. Sự
cao cả đó là đặc tính của lương tâm, nên dù rơi vào sai lầm ghê rợn cũng vẫn
còn. Đó là những đức tốt đẹp chỉ có một vết xấu là lầm đường. Trong nỗi vui
chính đáng nhưng nhẫn tâm của một tên cuồng tín đang nhúng tay vào một việc tàn
bạo, vẫn giữ được vẻ rạng rỡ, đáng kính mặc dù có thê thảm.
Chắc
hẳn Giave không ngờ! Trong niềm hạnh phúc dễ sợ của hắn quả thật hắn chỉ là một
thằng đáng thương như mọi thằng ngu dốt khác mà thôi. Không gì xót xa và dễ sợ
bằng bộ mặt trên đó bày rõ điều mà người ta có thể gọi là tất cả cái xấu xa của
cái tốt.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN VIII
Chương 4
NGƯỜI CẦM QUYỀN KHÔI PHỤC UY QUYỀN
Từ
ngày ông Mađơlen gỡ cho Phăngtin thoát khỏi bàn tay Giave, chị không gặp lại
hắn lần nào nữa. Lần này đầu óc ốm yếu của chị không hiểu được một cái gì cả,
nhưng chị đinh ninh rằng hắn lại đến để bắt chị. Chị không thể chịu đựng bộ mặt
gớm ghiếc ấy. Chị thấy như tắt thở. Chị lấy tay che mặt và kêu lên, giọng kinh
hoàng:
- Ông
Mađơlen, cứu tôi với.
Giăng
VanGiăng – từ giờ chúng ta cứ cái tên này mà gọi – đứng dậy. Ông vẫn nhẹ nhàng
điềm tĩnh bảo Phăngtin:
- Cứ
yên tâm. Không phải nó đến bắt chị đâu.
Rồi
ông quay lại nói với Giave:
- Tôi
biết anh muốn gì rồi.
Giave
đáp:
- Mau
lên!
Trong
điệu hắn nói lên hai tiếng ấy có cái gì man rợ, điên cuồng. Giave không nói:
“Mau lên!” hắn nói: “Mau-u lêênh!” Không có vần nào ghi sổ giọng nói của hắn.
Không phải là tiếng người nói mà là tiếng ác thú gầm.
Hắn
không làm như thường lệ. Hắn không mào đầu gì cả. Hắn không chìa tờ trát truy
nã ra. Hắn coi Giăng VanGiăng như một kẻ đấu thủ bí hiểm và có tài lẩn tránh,
một đô vật lạ lùng mà hắn đã ôm ghì được từ năm năm nay mà không đánh ngã nổi.
Lần này bắt được không phải là bắt đầu mà kết thúc vậy.
Hắn
chỉ cần bảo: Mau lên!
Nói
xong, hắn cứ đứng lì một chỗ. Cắp mắt hắn gắn chặt vào Giăng VanGiăng. Cái nhìn
cứ như có móc, móc vào người Giăng VanGiăng. Chính với cái nhìn ấy hắn đã quen
lôi vào tròng của hắn bao nhiêu kẻ khốn khổ!
Chính
cái nhìn ấy hai tháng trước đây Phăngtin đã thấy đi thấu vào đến xương tủy của
chị.
Nghe
thấy tiếng Giave, Phăngtin lại mở mắt ra. Nhưng ông thị trưởng vẫn đứng đó. Chị
còn sợ gì nữa?
- Thế
nào? Mày có đi không?
Người
đàn bà khốn khổ nhìn chung quanh. Chỉ có bà xơ với ông thị trưởng thôi, ngoài
ra không còn ai nữa. Thế thì nó mày tao thô bỉ với ai vậy? Tất cả là với chị
thôi. Chị rùng mình.
Rồi
chị còn trông thấy một sự vô lý, vô lý đến nỗi ngay trong những cơn sốt mê sảng
hãi hùng nhất chị cũng không hề thấy ông thị trưởng cúi đầu. Chị tưởng như cả
thế giới đang tan biến. Quả vậy, Giave đã túm cổ áo Giăng VanGiăng:
Chị
kêu:
- Ông
thị trưởng ơi!
Giave
phá lên cười, cái cười làm hắn nhe cả hai hàm răng:
- Ở
đây làm gì có ông thị trưởng nữa!
Giăng
VanGiăng không giằng tay hắn ra, chỉ nói:
-
Giave…
Giave
ngắt lời ngay:
- Goi
ta là ông thanh tra.
- Thưa
ông, tôi muốn nói riêng với ông câu này.
- Nói
to, nói to lên. Ai nói gì với ta thì phải nói to!
Giăng
VanGiăng vẫn thì thầm:
- Tôi
cầu xin ông có một điều…
- Ta
bảo mày nói to lên cơ mà.
-
Nhưng điều này phải một mình ông nghe mới được…
- Ta
không cần, ta không nghe!
Giăng
VanGiăng ghé gần hắn và hạ giọng nói thật nhanh:
- Xin
ông thư cho ba ngày! Ba ngày để đi tìm đứa con cho người đàn bà đáng thương
này! Phải hết bao nhiêu tiền tôi cũng trả. Nếu cần thì ông cứ đi kèm tôi cũng
được.
Giave
quát:
- Mày
đùa ư? Ồ thằng này, tao không ngờ mày lại ngu ngốc thế! Mày xin tao ba ngày để
chuồn hả! Mày bảo mày đi tìm đứa con cho con này hử! Á à! Tốt, tốt! Tốt thật!
Phăngtin
run lên bần bật:
- Con
tôi! Đi tìm con tôi! Thế ra nó chưa đến đây sao? Bà xơ ơi! Cho tôi biết con
Côdét đâu? Tôi cần gặp con tôi? Ông Mađơlen ơi! Ông thị trưởng ơi!
Giave
giậm chân:
- Giờ
lại đến lượt con này nữa! Con khỉ, có câm họng đi không! Cái xứ chó đểu gì mà
những thằng tù đi đày thì làm ông nọ ông kia, còn lũ gái điếm thì được chạy
chữa chữa như những bà hoàng! Nhưng mà rồi phải thay đổi lại hết: đã đến lúc
rồi.
Hắn
nhìn Phăngtin trừng trừng, túm lấy cổ áo và ca-vát của Giăng VanGiăng và thêm:
- Tao
đã bảo không có ông Mađơlen, ông thị trưởng nào cả. Chỉ có một thằng ăn cắp,
một thằng kẻ cướp, một thằng tù khổ sai tên là Giăng VanGiăng! Tao bắt được
thằng ấy đây này! Chỉ có thế thôi!
Phăngtin
chống hai cánh tay gầy guộc vùng nhổm dậy. Chị nhìn Giăng VanGiăng, chị nhình
Giave rồi lại nhìn bà xơ. Chị há miệng như muốn nói gì. Cổ họng có tiếng nấc
lên hai hàm răng đánh vào nhau cầm cập. Chị hoảng hốt giơ tay lên, hai bàn tay
cố sức mở ra tìm lấy chỗ bám như người ngã xuống nước đương chới với. Bỗng chị
ngã vật xuống gối. Đầu chị đập vào thành giường và gục xuống, miệng há hốc, hai
mắt trợn ngược và hết thần.
Phăngtin
đã tắt thở.
Giăng
VanGiăng để tay lên bàn tay Giave đương nắm cổ áo ông ta, gỡ tay hắn ra như gỡ
bàn tay trẻ con và bảo hắn:
- Anh
đã giết chết người đàn bà này rồi đó.
Giave
phát khùng lên:
- Đừng
có lôi thôi! Tao không đến đây để nghe lý sự. Dẹp những cái đó lại. Lính đứng
sẵn cả dưới nhà rồi. Đi ngay, không thì ông cùm tay lại bây giờ!
Trong
góc phòng có chiếc giường sắt cũ đã hư hỏng nhiều để các bà xơ ngả lưng những
đêm phải thức canh con bệnh. Giăng VanGiăng đến bên giường, trong chớp mắt giật
gãy cái gióng chính cầm lăm lăm trong tay. Việc ấy đối với sức ông không khó,
cái giường vốn đã long sẵn. Ông trợn mắt nhìn Giave, Giave lùi ra cửa. Giăng
VanGiăng tay vẫn cầm thanh sắt, từ từ đến chỗ giường Phăngtin. Đến nơi, ông
quay lại nói với Giave, giọng rất khẽ, cố ý mới nghe rõ:
- Tôi
bảo anh đừng có quấy rầy tôi lúc này.
Sự
thật Giave run sợ.
Hắn
định gọi bọn lính, nhưng lại lo Giăng VanGiăng thừa cơ trốn mất. Hắn phải đứng
yên đó, tay nắm lấy đầu gậy, lưng tựa vào khung cửa, mắt vẫn không rời Giăng
VanGiăng.
Giăng
VanGiăng tỳ khuỷu tay lên trụ đầu giường, bàn tay ôm trán, ngồi ngắm Phăngtin
nằm dài không nhúc nhích. Ông ngồi như thế, mải miết, yên lặng, tâm trí rõ ràng
chẳng còn nghĩ đến một điều gì ở trên đời này nữa. Trông nét mặt và dáng điệu
ông chỉ thấy có mỗi một nỗi thương xót vô hạn. Mơ màng một lúc lâu, ông mới ghé
lại gần và thì thầm bên tai Phăngtin.
Ông
nói gì? Con người khổ sở ấy có thể nói gì với người đã chết? Những lời ấy là
lời gì vậy? Người ở dương gian này không một ai được biết. Kẻ đã chết có nghe
thấy không? Có những ảo tưởng rất cảm động, đồng thời lại có thể là những sự
thực cao cả. Điều không ai nghi ngờ là bà xơ Xempơlit, người độc nhất chứng
kiến cảnh ấy, thường kể lại lúc Giăng VanGiăng ghé vào tai Phăngtin thì thầm
như thế, thì bà trông thấy rõ ràng một nụ cười hông sao tả được hiện trên đôi
môi nhợt nhạt và trong đôi mắt đờ đẫn ngạc nhiên của chị.
Giăng
VanGiăng lấy hai tay nâng đầu Phăngtin lên, đặt ngay ngắn giữa gối như một
người mẹ sửa soạn cho con. Ông thắt lại dây rút cổ áo chị, vén gọn mớ tóc vào
trong chiếc mũ vải. Xong, ông vuốt mắt cho chị.
Lúc ấy
trông mặt Phăngtin như sáng rỡ lên một cách lạ thường.
Chết
tức là đi vào bầu ánh sáng vĩ đại của Chúa.
Tay
Phăngtin vẫn bỏ thõng ra ngoài giường. Giăng VanGiăng quì xuống khẽ nâng lên và
đặt vào đấy một cái hôn.
Xong
ông đứng dậy, quay về phía Giave:
- Giờ
anh muốn làm gì thì làm.
NHỮNG NGƯỜI KHỐN KHỔ
PHẦN 1 - QUYỂN VIII
Chương 5
CHỖ CHỐN THÍCH ĐÁNG
Giave
giam Giăng VanGiăng vào nhà ngục của thành phố.
Việc
ông Mađơlen bị bắt làm xôn xao cả tỉnh Môngtơrơi, hay nói đúng ra là làm mọi
người giật mình kinh hoảng. Thật là buồn cho tình đời! Chỉ nghe nói ông ấy
“trước kia là một thằng tù”, thế là ai nấy đều gần như lãng ra cả. Mới trong
non hai tiếng đồng hồ mà bao nhiêu công đức của ông người ta đều quên sạch và
ông chỉ còn là “thằng tù” thôi. Nói cho đúng thì cũng chưa một ai biết rõ câu
chuyện xảy ra ở Arát cả. Cả ngày hôm ấy khắp tỉnh chỗ nào cũng bàn tán với
nhau:
- Chưa
biết à? Một thằng đi tù về đấy! – Ai kia? – Ông thị trưởng. – Sao! Ông Mađơlen
ấy à? – Phải. – Thật à? – Hắn không phải tên là Mađơlen, cái tên gì đó khó nghe
lắm, Bêgiăng, Bôgiăng, Bugiăng gì đó. – Trời ơi! Lẽ nào! – Hắn bị bắt rồi. –
Bắt rồi à? – Giam ở nhà ngục chờ giải đi. – Giải đi! – Sắp giải đi ấy mà! –
Giải đi đâu? – Hắn phải ra trước tòa Đại hình về một tội cướp đường ngày trước.
– Vậy à? Tôi đã bảo mà. Người ấy nhân đức quá, hoàn hảo quá, ngoan đạo quá. Từ
chối cả bội tinh. Gặp nhãi con nào cũng cho tiền. Tôi vẫn đồ là trong đó thế
nào cũng có cái gì mờ ám.
Đặc
biệt giới thượng lưu đồn nhiều chuyện như thế nhất. Một bà lớn có tuổi, độc giả
báo “Cờ trắng”, ngẫm nghĩ thế nào rồi nói lên một câu mà không tài gì hiểu nổi
ý nghĩa thâm thúy:
-
Không sao cả. Cái đó là một bài học cho phe lũ Bônapac!
Thế là
cái bóng ma mà người ta vẫn gọi là ông Mađơlen ở Môngtơrơi biến đi. Cả tỉnh chỉ
còn độ ba bốn người là còn có cảm tình với ông. Trong số đó có bà già gác cổng
nhà ông.
Buổi
tối hôm ấy, bà già đáng kính ấy còn ngồi ở buồng gác, tâm trí hoang mang và buồn
rầu nghĩ ngợi. Xưởng máy đóng cửa từ sáng, cổng chính khóa chặt, đường phố vắng
tanh. Trong nhà chỉ còn hai bà xơ, bà Pécpêtuy và bà Xempơlit túc trực ở bên
thi hài Phăngtin.
Vào
giờ thường ngày ông Mađơlen trở về nhà, bà già ấy bồng nhiên như một cái máy,
vô tình đứng dậy, mở ngăn kéo lấy chiếc chìa khóa cửa buồng của ông treo vào
cái đinh mọi khi và đặt ở cạnh đấy cây đèn nến ông vẫn dùng để lên phòng riêng.
Bà quen như trước đợi ông Mađơlen về, qua đấy cầm lấy chìa khóa và cây đèn nến.
Xong bà trở lại ngồi vào ghế, suy nghĩ miên man.
Mãi
hơn hai giờ sau bà mới sực tỉnh và kêu lên:
- Ơ
kìa! Chúa tôi! Cứ quen treo chìa khóa như mọi lần!
Giữa
lúc ấy, cánh cửa sổ mở ra, một bàn tay thò vào cầm lấy chiếc chìa khóa và cây
đèn, ghé châm vào ngọn nến bên cạnh.
Bà gác
cửa nhìn lên, miệng há hốc, muốn kêu nhưng giữ ngay tiếng lại trong cổ. Bà nhận
ra được cái bàn tay ấy, cái cánh tay ấy, cái tay áo dài ấy. Chính là ông
Mađơlen.
Theo
lời về sau bà kể việc này thì bấy giờ bà kinh ngạc quá, một lúc lâu mới nói lên
được:
- Trời
ơi! Ông thị trưởng, tôi cứ tưởng ông…
Bà
chợt nín lặng. Mấy tiếng sắp nói có thể là vô lễ, không hợp với mấy tiếng bắt
đầu. Bà vẫn coi Giăng VanGiăng là ông thị trưởng. Ông tiếp ý mụ:
- Bị
bắt giam. Phải, tôi bị bắt giam. Tôi vừa bẻ chấn song cửa sổ, nhảy từ trên nóc
xuống và về đây. Tôi lên buồng đây, bà gọi hộ bà Xempơlit. Bà ta chắc đang ở
cạnh người đàn bà xấu số ấy.
Bà gác
vội vàng đi ngay.
Ông
không cần dặn dò gì thêm, tin chắc bà giữ gìn cho ông còn kỹ hơn là ông tự giữ
gìn lấy cho mình. Không hiểu ông đã làm cách nào để vào sân mà không gọi mở
cổng chính. Thường ông có một cái chìa khóa vạn năng có thể mở được cổng phụ
bên cạnh, nhưng khi ông bị bắt chắc người ta đã lục trong người ông và tịch thu
rồi. Điểm này đúng là chưa rõ.
Ông
lên cái cầu thang đưa vào buồng riêng. Đến bậc trên cùng, ông đặt ngọn nến
xuống, nhẹ mở cửa đi vào, lần mò trong bóng tối đóng hết các cửa chớp, cửa kính
lại, rồi mới trở ra đem đèn vào trong phòng.
Cẩn
thận thế là đúng; mọi người còn nhớ từ ngoài phố có thể nom rõ được cửa sổ
buồng ông.
Ông
đưa mắt nhìn quanh phòng một lượt, cái bàn cái ghế, cái giường gọn gàng đã ba
hôm nay không có người nằm. Chẳng còn vết tích gì về chuyện xáo trộn đêm hôm nọ
nữa. Bà gác đã dọn dẹp sạch sẽ. Và bà đã nhặt được trong đống tro hai mẩu sắt
bịt đầu gậy và đồng hào bị đốt đen sì, để gọn ghẽ trên bàn.
Ông
lấy một mảnh giấy, viết mấy dòng như sau: “Đây là hai mẩu sắt bịt đầu chiếc gậy
của tôi và đồng hào tôi ăn cướp của thằng bé Giecve mà tôi đã khai ở phiên tòa
Đại hình”. Ông đặt những thứ đó trên tờ giấy để ở giữa bàn cốt cho ai thoạt
bước vào cũng trông thấy ngay. Ông mở tủ lấy một cái áo lót mình đã cũ, xé
thành mấy mảnh và gói hai cây nến bằng bạc lại. Dáng điệu ông thong thả, bình
tĩnh. Ông vừa gói đôi đèn nến của ông giám mục vừa gặm một mẩu bánh đen, chừng
như là thứ bánh của nhà tù phát, mà ông đã đem theo khi trốn ra…
Chứng
cớ là những vụn bánh mìn người ta tìm thấy trên nền gạch khi nhà chức trách về
sau đến khám xét trong phòng.
Có
tiếng gõ sẽ ở ngoài. Ông bảo:
- Cứ
vào.
Đó là
bà xơ Xempơlit.
Mặt bà
tái xanh, hai mắt đỏ ngầu, cây đèn cầm ở tay run lẩy bẩy. Con người ta, dù tận
thiện hoặc nguội lạnh với cuộc đời đến đâu nữa, khi gặp những cảnh phũ phàng
của số mệnh, cũng thấy “bản chất người” của mình hiện lên từ đáy lòng sâu kín
nhất. Qua bao nhiêu cảm xúc ngày hôm ấy, bà xơ đã trở lại là một người đàn bà
và cũng khóc, cũng run sợ.
Giăng
VanGiăng vừa viết xong mấy dòng chữ. Ông đưa tờ giấy cho bà và bảo:
- Thưa
bà, bà đưa giúp cái này cho ông cụ xứ.
Tờ
giấy còn để mở. Bà ghé mắt nhìn. Ông bảo:
- Bà
có thể đọc được.
Bà
đọc: “Tôi kính nhờ ông cụ xứ quản lý hộ tất cả tài sản tôi để lại ở đây. Phiền
ông trích ra một khoản tiền để trả án phí cho tôi và để chôn cất cho người đàn
bà chết hôm nay. Còn bao nhiêu thì ông cho người nghèo”.
Bà xơ
muốn nói gì nhưng nghẹn ngào mãi không nói nên lời. Sau bà mới nói được một
câu:
- Ông
thị trưởng có muốn thấy mặt người xấu số ấy một lần cuối cùng không?
-
Không. Họ đang tầm nã tôi. Tôi đến đấy họ sẽ bắt được tôi, lại thêm làm phiền
đến người đã mất.
Vừa
nói dứt lời thì ở cầu thang có tiếng ồn ào. Tiếng chân người ầm ầm lên thang và
tiếng bà già gác cổng đang gào to, giọng lanh lảnh.
- Ông
ơi, tôi xin thề rằng cả ngày hôm nay và suốt buổi tối không có một người nào ra
vào nhà này cả tôi có rời bên cửa lúc nào đâu.
Tiếng
một người đàn ông đáp:
- Thế
sao trong buồng kia lại thắp đèn? Ai nấy đều nhận ra tiếng nói của Giave.
Cánh
cửa căn phòng khi mở ra lại che khuất chỗ góc buồng bên phải.
Giăng
VanGiăng thổi phụt ngọn nến và đứng nép vào xó ấy.
Bà xơ
Xempơlit quì xuống bên cạnh bàn.
Cửa
mở. Giave bước vào.
Bên
ngoài có tiếng nhiều người xì xào và tiếng bà gác cửa phản kháng ở hành lang.
Bà xơ
không nhìn lên. Bà cầu nguyện.
Ngọn
đèn để trên mặt lò sưởi, ánh sáng lù mù. Giave trông thấy bà xơ thì dừng lại,
sững sờ.
Ta đã
biết bản chất của Giave rồi. Con cá sống nhờ nước thì hắn sống nhờ sự tôn vinh
uy quyền. Tôn kính tuyệt đối, không một chút dè dặt, không một chút chống đối
lại. Mà, theo hắn thì uy quyền nhà thờ lại là thứ uy quyền cao nhất. Hắn là một
người tin đạo, vừa hời hợt vừa nghiêm chỉnh ở đây cũng như ở các vấn đề khác.
Trong trí hắn, một giáo sĩ là một khối óc không bao giờ nhầm lẫn, một bà xơ là
một người không bao giờ mắc một lỗi nhỏ. Đó là những linh hồn giam kín mình
giữa thế gian, chỉ chừa một cửa thông với ngoài mà cửa ấy chỉ mở để đưa ra
ngoài những sự thật.
Vừa
trông thấy bà xơ, hắn đã toan quay ra.
Nhưng
một bổn phận khác giữ lại, bức bách phải có hành động trái ngược lại, đứng lại
và thấy ít nhất cũng phải thử hỏi một câu.
Chính
hắn lại gặp bà xơ Xempơlit là người bình sinh không biết nói dối bao giờ. Giave
biết vậy và đặc biệt kính trọng bà cũng vì thế.
- Thưa
bà, trong phòng này chỉ có một mình bà thôi chứ?
Thật
là giây phút ghê gớm! Bà gác cổng tội nghiệp tưởng mình sắp ngất đi.
Bà xơ
nhìn lên đáp:
-
Phải.
- Nếu
vậy thì xin lỗi bà, tôi cũng phải hỏi đi hỏi lại cũng là vì phận sự bắt buộc.
Chiều tối hôm nay bà có trông thấy ai không, một người đàn ông? Nó vừa vượt
ngục, chúng tôi đang đi tìm, cái thằng Giăng VanGiăng ấy mà, bà có trông thấy
nó không?
Bà xơ
đáp:
-
Không.
Bà đã
nói dối. Bà nói dối liền liền hai lần, không lưỡng lự, nhanh nhảu, như khi
người ta làm việc nghĩa.
- Vậy
xin lỗi bà.
Hắn
chào rất cung kính và lui ra.
Hỡi
người con gái của Chúa! Từ lâu người không còn trên đời này nữa, người đã đi
gặp các bà chị đồng trinh và các ông anh thiên thần, trong cõi ánh sáng nghìn
năm. Mong rằng, trên thiên đường, lần nói dối này cũng được xét cho bà.
Giave
thấy bà xơ trả lời như thế nên tin ngay, không chú ý đến một sự lạ lùng là cây
nến vừa bị thổi tắt hãy còn vương khói trên bàn.
Một
giờ sau, trong cây cối và sương mù, có một người đi nhanh ra khỏi thành phố
Môngtơrơi, tiến về hướng Paris. Người ấy là Giăng VanGiăng. Về sau có hai ba
người phu xe tải hàng lại khai rằng có gặp ông ta, mình mặc một cái áo choàng
công nhân, tay ôm một gói đồ. Ông ta nhặt được cáo áo ấy ở đâu? Chẳng ai biết
cả. Chỉ biết là cách đó vài ngày, có người thợ già nằm ở nhà thương của xưởng
mới chết, đồ đạc để lại chỉ có một cái áo khoác công nhân. Có lẽ là cái áo ấy
đấy. Xin nói nốt một câu về Phăngtin.
Chúng
ta ai cũng cùng một bà mẹ: đất. Người ta trả Phăngtin lại cho bà mẹ ấy.
Ông cụ
xứ nghĩ rằng – và nghĩ như thế có lẽ đúng – phải dành hầu hết món tiền của
Giăng VanGiăng cho kẻ khó. Vì nói cho cùng Giăng VanGiăng và Phăngtin là hạng
người nào? Chỉ có một thằng tù và một con đĩ. Vì lẽ đó, ông hết sức đơn giản
hóa việc tang ma Phăngtin, chỉ giữ cái mức cần thiết tối thiểu là chôn cất ở
khu mộ chung.
Người
ta chôn Phăngtin ở khu nghĩa địa bố thí, nơi đất chung của mọi người và chẳng
là của ai cả, nơi vùi lấp những kẻ nghèo hèn. May mà còn có Chúa biết linh hồn
ở đâu để tìm về. Người ta đặt Phăngtin vào bóng tối, bên cạnh những nắm xương
vô chủ; xương chị đành chung chạ với xương người. Mồ của chị là cái mồ chung
của mọi người cũng như giường chị nằm trước kia.
Xem tiếp:
Xem tiếp:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét