XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Chủ Nhật, 24 tháng 2, 2019

HỘI CHỢ PHÙ HOA (Chương 38-52)



Chương 38
MỘT GIA ĐÌNH LÂM VÀO CẢNH KHÓ KHĂN

Chú bé George Osborne được cưỡi ngựa từ Knightsbridge về Fullham. Ta hãy dừng lại nơi này một chút để hỏi thăm về mấy người bạn cũ. Sau cơn bão táp Waterloo, Amelia hiện giờ ra sao? Không biết cô có còn sống và làm ăn có khá không? Còn thiếu tá Dobbin nữa, hằng ngày có còn giong xe ngựa đến nhà Amelia nữa không? Họ có nhận được tin tức gì về ngài cựu uỷ viên thu nhập quận Boggley Wollah không? Xin kể tóm tắt về anh chàng này một chút:

Sau ngày trốn khỏi Brussels một thời gian ngắn, anh bạn Joseph Sedley bị thịt của chúng ta trở lại Ấn Độ, vì thời hạn nghỉ phép đã hết, hoặc vì anh chàng không muốn gặp lại đám bạn biết tỏng câu chuyện chiến đấu của mình ở Waterloo thì không rõ, chỉ biết rằng anh ta trở lại làm việc tại Bengal, ngay sau khi Napoléon bị đày ra đảo St. Helena. Trên đường đi, Joe có ghé vào đảo thăm vị cựu hoàng đế. Cứ lời anh ta kể lại trên tàu thì không phải đây là lần đầu anh ta gặp tên dân đảo Corse mà thực ra thì anh ta đã có dịp đương đầu với hắn trên đỉnh đồi St. John rồi. Anh ta có hàng kho chuyện về những trận đánh lịch sử kia, lại biết tỉ mỉ vị trí đóng quân và những tổn thất của từng trung đoàn; anh ta cũng không phủ nhận rằng mình quả có liên quan đến những trận đánh oanh liệt vì có ra trận với tư cách là liên lạc viên của quận công Wellington. Nghe Joe kể tỉ mỉ từng ý nghĩ, từng động tác của vị quận công trong trận Waterloo, ai cũng yên chí ngày hôm ấy anh ta đi sát vị tướng lãnh vĩ đại đó; có điều, vì không phải là quân nhân tham chiến nên anh ta không được nêu tên trong những tài liệu được công bố về trận đánh đấy thôi. Có lẽ lúc này anh ta đang cố tạo cho mình ảo tưởng rằng bản thân có liên quan đến chiến dịch đó thật. Có điều chắc chắn là Joe đã khiến thành phố Calcutta xôn xao một thời, và trong thời gian còn ngụ tại Bengal, ai cũng gọi anh ta là Waterloo Sedley.

Tờ văn tự Joe biên nhận mua cặp ngựa tai hại kia được thanh toán sòng phẳng. Không ai nghe thấy anh ta hé răng nói nửa lời về chuyện mua bán này, cũng không ai biết rõ rằng số phận cặp ngựa và thằng hầu Isidor người Bỉ về sau ra sao, chỉ biết rằng khoảng mùa thu năm 1815, nó mang bán một con ngựa xám ở Valenciennes, giống y như con ngựa Joe đã cưỡi đi trốn.

Các chi điếm của Joe ở Luân đôn được lệnh hằng năm gửi cho bố mẹ anh ta ở Fullham một trăm hai mươi đồng. Đó là món tiền trợ cấp chủ yếu gởi cho hai ông bà già, vì những việc làm ăn của ông lão sau vụ phá sản không ăn thua gì lắm. Ông cụ đã thử nhận những chân đại lý buôn rượu, đại lý buôn than, đại lý bán xổ số, v..v… Mỗi lần theo một nghề mới, ông lão đều gửi giấy báo cho các bạn hàng, treo một tấm biển đồng mới ngoài cửa và long trọng tuyên bố với mọi người rằng mình đang xây dựng lại cơ nghiệp.

Nhưng ông lão già nua, yếu đuối quá rồi, không còn hy vọng được Thần tài mỉm cười với mình nữa. Các bạn hàng xa lánh dần ông lão, vì phải mua than và rượu tồi của ông với giá đắt. Cuối cùng chỉ còn bà vợ là người duy nhất trên đời vẫn tin rằng chồng đang kinh doanh thương mại, vì sáng sáng bà thấy ông lão vẫn lảo đảo lần tới khu City, chiều đến, ông ta lủi thủi mò về nhà, và tối tối, ông vẫn hay đến ngồi ở cái quán rượu bé nhỏ để bàn cãi về tình hình tài chính trong nước. Nghe ông nói đến những tiền vạn, tiền triệu, tỷ giá hối đoái, tiền chiết khấu, Rothschild và anh em Barings đang tính toán làm ăn những gì, thì ai cũng phải kinh ngạc. Nghe ông nhắc đến những số tiền khổng lồ, mấy người thân thuộc (tức là ông lang thuốc, ông chủ đòn đám ma, bác thầu khoán, bác thư ký và ông Clapp) vẫn thậm thụt ra vào quán rượu này làm thán phục lắm lắm.

Ông lão thường bảo họ thế này: “Xưa kia, tôi làm ăn cũng oanh liệt lắm, thưa các vị. Thằng con trai tôi, thưa ngài, hiện là chánh án ở Ramgunge, trong ban quản trị tối cao khu Bengal, hàng tháng lĩnh lương bốn nghìn ru-pi cơ đấy. Nếu con gái tôi muốn làm bà đại tá thì được ngay. Tôi muốn bảo con trai tôi, đang làm chánh án ấy, cho tôi hai nghìn đồng ngay ngày mai cũng được. Lão Alexander sẽ đếm tiền mặt thanh toán ngay tắp lự. Gia đình Sedley chúng tôi vẫn đàng hoàng lắm, thưa ngài”.

Thưa bạn đọc, bạn và tôi đều có thể lâm vào hoàn cảnh tương tự; chẳng phải bạn bè chúng ta, khối người đã như thế rồi sao? Ta rất có thể gặp rủi ro mất hết thế lực; vai tuồng của ta trên sân khấu có thể bị những anh kép kẻ trung tài hoa hơn tranh mất..., thời cơ may mắn bỏ rơi chúng ta và rồi ta chỉ còn là mảnh giẻ rách vứt bên lề đường. Lúc ấy, gặp ta thiên hạ sẽ ngoảnh mặt làm ngơ...hoặc quá quắt hơn, họ sẽ chìa hai ngón tay ra cho ta bắt với thái độ thương hại của kẻ bề trên... và khi ta vừa quay lưng đi, họ sẽ bảo nhau: “Thằng cha đáng thương quá, không biết làm ăn dại dột thế nào mà đến nỗi thế. Dịp may hiếm có thể mà bỏ qua”. Phải lắm...món tiền lợi tức đồng niên ba ngàn đồng và chiếc xe ngựa chưa phải là phần thưởng tột đỉnh mà cũng không phải là lời phán định cuối cùng của Chúa trời đâu. Nếu như bọn khù khờ thành đạt, nếu bọn bất lương kiếm được lắm tiền, và nghiễm nhiên toạ hưởng những thứ lẽ ra dành riêng cho những kẻ tài năng và đạo đức nhất trong chúng ta thì ta cũng chẳng nên coi trọng những bổng lộc và thú vui trong Hội chợ phù hoa làm gì, và rất có thể...

Song, chúng ta hiện đang đi hơi xa câu chuyện.

Giá bà Sedley là người có nghị lực thì cũng giúp đỡ được ông chồng ít nhiều sau cơn hoạn nạn, thí dụ thuê một ngôi nhà lớn, rồi thổi cơm trọ chẳng hạn. ông Sedley sẽ đóng vai chồng bà chủ trọ, giữ chân quản lý, tiếp đãi khách khứa đỡ tay vợ. Tôi đã gặp vô khối người con nhà gia thế, khi còn vẻ đã từng thết đãi trong nhà toàn bè bạn sang trọng chơi bời, săn bắn cẩn thận, bây giờ ngoan ngoãn làm công việc cắt khoanh thịt cừu tiếp mấy mụ khách tã, cố gắng lấy bộ trịnh trọng chủ toạ những bữa ăn đạm bạc. Nhưng bà Sedley không có đủ tháo vát để mở một nhà trọ. Bà đành nhẫn nhục chịu đựng kết quả của cơn giông tố phũ phàng... nghiệp của đôi vợ chồng già có thể nói là hết hẳn rồi.

Nhưng không chắc họ đã đau khổ. Có khi trong cơn hoạn nạn, họ lại cảm thấy phần nào kiêu hãnh hơn lúc làm ăn thịnh vượng cũng nên: Thỉnh thoảng bà Sedley xuống căn hầm dưới nhà hoặc xuống bếp ngồi trò chuyện với bà Clapp, bà vẫn được kính trọng như một người bề trên. Bà Sedley cũng rất chú ý đến mũ áo và đăng ten của chị hầu gái Betty Flanagan người Ai len; thấy chị ta dơ dáng, lười biếng và rất phí phạm trong việc dùng nến, dùng trà và đường, bà lại bận rộn bảo ban y như xưa kia vẫn quan tâm đến việc gia đình, hồi còn mượn nào bác Sambo, nào bác xà ích, nào anh hầu ăn, nào anh hầu việc và hàng tá gia nhân khác... ngày nào bà cũng kể chuyện ngày trước thuê mướn đầy tớ ra sao có đến trăm lượt. Ngoài chị Betty Flanagan, bà Sedley còn chú ý cả đến các chị hầu gái trong phố. Bà biết rõ những chủ thuê nhà xung quanh trả tiền nhà sòng phẳng hay còn chịu. Thấy bà Rougemont làm nghề đào hát, mỗi khi bà ta và gia đình đi qua, bao giờ bà cũng lánh ra một bên.

Thấy bà Pestler vợ ông lang ngồi trên chiếc xe một ngựa của chồng, bà vênh mặt lên nhìn, bà cãi nhau với mụ bán rau quả về mấy xu củ cải là món ăn ông Sedley rất thích; bà theo dõi cẩn thận cả bác bán sữa và cậu bé bán bánh mì; bà đích thân đến cửa hàng thịt mua thức ăn; lão chủ hiệu bán được cho bà miếng thịt cừu còn vất vả gấp mấy lần bán hàng trăm con bò cho người khác. Ngày chủ nhật, bà đếm từng củ khoai dùng để nấu với thịt; hôm ấy bà mặc áo thật đẹp đến nhà thờ hai lần, đến tối lại đọc sách giảng đạo của Blair.

Những ngày khác trong tuần lễ, ông Sedley bận việc nên chỉ đến chủ nhật ông mới có thì giờ bế thằng cháu ngoại là Georgy đi chơi ở vườn hoa gần nhà hoặc ở vườn Kensington, xem lính tráng hoặc cho ngỗng ăn. Georgy thích những bộ quân phục màu đỏ lắm; ông ngoại nó bảo rằng bố nó trước cũng là một sĩ quan nổi danh; ông lão dắt nó đến làm quen với những viên trung sĩ có đeo huy chương Waterloo trên ngực, và trịnh trọng giới thiệu với họ rằng cháu ông là con trai của đại uý Osborne thuộc trung đoàn thứ... đã chết một cách vinh quang trong ngày 18 vinh quang ấy. Có bận ông lão còn thết mấy người kia mỗi người một cốc rượu. Mấy lần đầu đưa cháu đi chơi, ông chiều cháu, mua cho đủ thứ, nào táo, nào bánh ngọt, thằng bé ăn nhiều quá suýt phát ốm. Amelia phải tuyên bố ông còn cứ mua kẹo bánh cho cháu ăn thì nhất định không cho con đi chơi với ông nữa. Bà cụ Sedley và con gái có vẻ lạnh nhạt với nhau và ngấm ngầm ganh tỵ nhau về chuyện thằng bé. Hồi thằng Georgy mới được mấy tháng, mỗi buổi tối, Amelia ngồi khâu trong phòng khách, thoáng thấy bà lão bỏ ra ngoài phòng, rồi nghe tiếng thằng bé khóc, cô vội chạy lên gác, thì thấy mẹ đang giấu giếm cho cháu uống Daffy. Trước sự lạm quyền ấy, Amelia vốn là người dịu dàng, hiền hậu nhất đời tự nhiên thấy giận điên lên. Đôi má thường ngày vẫn nhợt nhạt bỗng đỏ tía lên như hồi cô mới mười hai tuổi. Cô giằng lấy thằng bé trong tay mẹ, với lấy chai thuốc; bà lão giận quá, cứ đứng há hốc mồm ra, tay vẫn còn cầm cái cùi dìa tang vật.

Amelia quăng chai thuốc vào trong lò sưởi vỡ tan, nói:

- Con không bằng lòng má đầu độc nó như thế.

Cô ôm chặt lấy thằng bé, rung tít lên, mắt đỏ ngầu nhìn mẹ.

Bà lão nói:

- Đầu độc nó, Amelia ? Cô nói thế mà nghe được à?

- Không phải là thuốc của ông Pestler, con không cho nó uống, ông ấy bảo thuốc Daffy là thuốc độc.

Bà Sedley đáp:

- Được lắm, thì ra cô bảo tôi giết con cô. Cô ăn nói với mẹ cô thế đấy! Tôi đã gặp nhiều tai hoạ, tôi đã sa sút thảm hại, trước kia tôi lên xe xuống ngựa, bây giờ phải đi bộ, nhưng tôi chưa hề biết mình lại đi giết con người khác đấy. Cảm ơn cô cho tôi rõ điều này nhé.

Cô con gái vốn mau nước mắt vội nói:

- Kìa má, má đừng nặng lời thế. Con có định... con nói rằng...con không định bảo rằng má làm hại gì cháu đâu, có điều...

- Thôi, cô ạ, tôi là con mụ giết người chứ gì. Thế này thì tôi đi ngồi tù mới phải. Nhưng hồi cô còn bé, tôi có đầu độc cho cô chết đâu, mà tôi lại tiêu phí bao nhiêu tiền mướn thầy cho cô ăn học tử tế. Vâng, tôi sinh năm đứa con, bỏ mất ba, còn lại cô là đứa tôi quý nhất, lo chữa cho qua khỏi đủ mọi thứ bệnh, nào lên sởi, nào ho gà, rồi thuê thầy dạy dỗ tốn bao nhiêu tiền cũng không tiếc, lại gửi trọ học ở trường bà Minerva. Hồi còn con gái, tôi có được học hành như cô đâu; tôi chỉ biết thờ cha kính mẹ, giúp đỡ công việc trong nhà, chứ có được cấm cung cả ngày trong buồng như bà lớn đâu; bây giờ cô bảo tôi là quân giết người! Ôi, bà Osborne ơi! Cầu trời sau này bà không phải muôi ong tay áo như thế nữa nhé.

- Kìa má, má ơi!

Cô con gái bối rối kêu lên, thằng bé đang nằm trong tay mẹ cũng khóc ầm ĩ.

- Mụ giết người. Đúng Hãy quỳ xuống cầu Chúa Trời tha thứ cho cô tội bất hiếu đi... Amelia.

Đoạn bà Sedley vùng vằng bước ra khỏi phòng, mồm vẫn còn rít lên mấy tiếng “thuốc độc” để kết thúc bài giảng về nhân nghĩa của mình. Cho đến chết bà Sedley vẫn không hết giận con gái. Câu chuyện xích mích này đem lại nhiều cái lợi mà bà luôn tranh thủ khai thác, nhờ bản năng trời phú cho và nhờ cái đức kiên nhẫn của giới phụ nữ. Thí dụ, có đến hàng mấy tuần lễ liền, bà không thèm nói năng gì với Amelia. Bà cấm bọn tôi tớ không được mó vào thằng bé, “sợ bà Osborne không bằng lòng”. Bà yêu cầu con gái xem xét cẩn thận cho chắc chắn rằng thức ăn hằng ngày của thằng Georgy là không có trộn thuốc độc. Hàng xóm láng giềng có hỏi thăm thằng bé, bà bảo ra hỏi mẹ nó, không bao giờ mó vào giường thằng cháu trai tuy bà vẫn quý nó như vàng; bà lấy cớ rằng chỉ sợ “mình không quen chăm sóc trẻ con và biết đâu lại không lỡ tay giết chết thằng bé mất”. Mỗi lần ông Pestler đến thăm sức khoẻ thằng bé, bà cụ tiếp ông ta với nụ cười mỉa mai khinh khỉnh; ông này tuyên bố rằng đã được hân hạnh chữa bệnh cho Thistlewood phu nhân mà cũng không thấy bà này kiêu kỳ quá đáng như bà Sedley; mà bà cụ có mất xu tiền thuốc nào đâu. Về phía Emmy thì cô cũng có ý ghen ghét với hết thảy ai vồ vập thằng bé, không biết có phải vì sợ họ giành mất quyền yêu thương của con trai mình không? Có điều chắc chắn là hễ thấy ai bế ẵm thằng bé, cô cũng cảm thấy khó chịu; cô không cho bà Clapp và chị hầu gái mặc quần áo hoặc săn sóc thằng bé, cũng như không bằng lòng để cho họ lau tấm chân dung của chồng vẫn treo trên đầu giường ngủ... vẫn chiếc giường cũ, cô đã từ giã nó để đi lấy chồng, và bây giờ quay lại với có để sống nốt những năm lặng lẽ dài đằng đẵng tuy đầy nước mắt những cũng là những năm hạnh phúc.

Căn phòng bé nhỏ này là nơi Amelia chứa đựng tất cả cuộc đời mình. Đó là nơi cô chăm sóc thằng con trai, lo cho nó qua khỏi bao nhiêu lần quặt quẹo, tình mẫu tử lúc nào cũng sôi nổi nồng nàn. Hình ảnh bố nó như sống lại trong gương mặt đứa trẻ, mà lại còn đẹp hơn lên, như thể anh từ Thượng giới trở về. Thằng bé giống bố như đúc, từ giọng nói, cái nhìn, cho tới dáng điệu; người đàn bà goá ôm con vào lòng mà tâm hồn dạt dào xúc động. Thấy thằng bé vẫn hỏi vì sao mẹ khóc, mẹ nó không ngần ngại đáp rằng vì nó giống bố nó quá. Amelia thường kể chuyện cho con nghe về bố nó hồi còn sống, về mối tình của mình đối với George, thằng bé còn ngây thơ nghe mà không hiểu ra sao. Ngay đối với George hay các bạn thân khác cũng chưa bao giờ Amelia nói những lời trìu mến đến thế. Cô không hề nói với ông bà Sedley những chuyện như vậy vì không muốn bộc lộ tâm tình với cha mẹ. Thằng Georgy xem ra cũng chẳng hiểu biết gì hơn, nhưng Amelia có thể bày tỏ với nó mọi điều thầm kín trong tâm tư không cần dè dặt, mà cô cũng chỉ bày tỏ với con mà thôi. Dường như niềm vui của người đàn bà ấy là sự sầu muộn, hoặc giả vì niềm vui ấy thiết tha quá, nên có biểu lộ ra bằng những dòng nước mắt chăng? Tình cảm Amelia vẫn quá yếu đuối và nhút nhát; có lẽ ta không nên nói dài về chuyện ấy làm gì. Bác sĩ Pestler (bây giờ đã là một thầy thuốc phụ khoa trứ danh, có một chiếc xe ngựa lộng lẫy sơn màu xanh thẫm, là chủ một ngôi nhà ở công viên Manchester, lại sắp được ban tước nam) bảo tôi rằng hồi bắt đầu cai sữa cho thằng bé Amelia khổ sở quá, đến nỗi Herod trông thấy cũng phải động tâm. Mấy chục năm sau, ông này vẫn chưa hết bệnh đa cảm, bà vợ còn cứ ghen lồng lên với Amelia mãi.

Vợ ông bác sĩ ghen tuông như vậy cũng có lý. Đám phụ nữ quen thuộc đi lại với Amelia cũng cảm thấy tức tối bực bội vì nỗi đàn ông lại cũng xoắn xuýt lấy cô ta. Hầu như tất cả đàn ông có dịp gần gũi Amelia đều yêu cô, tuy rằng hỏi họ vì sao thì họ cũng khó trả lời. Amelia không nổi bật, không thông minh cũng không khôn ngoan lắm, mà sắc đẹp cũng chưa phải là “chim sa cá lặn”, nhưng đi đến đâu cô cũng khiến được nam giới cảm động và bị hấp dẫn, đồng thời cũng gây ra sự ghen ghét tàn nhẫn trong giới phụ nữ. Theo ý tôi, sự yếu ớt của Amelia chính là cái mãnh lực thu hút con người... đó là thái độ phục tùng thuần thục, dịu dàng, nó như kêu gọi sự thông cảm và che chở nơi người đàn ông. Trong trung đoàn của George tuy Amelia chỉ có dịp tiếp xúc với một vài người bạn của chồng, nhưng tất cả các sĩ quan trẻ tuổi trong câu lạc bộ nhà binh đều sẵn sàng rút kiếm ra khỏi vỏ để chiến đấu bênh vực cô. Cho nên trong căn nhà nhỏ bé ở Fullham, ai cũng mến cô. Amelia không được bà Mango (hãng Mango, Plantain và Công ty) là chủ nhân trại Pineries ở Fullham; mùa hè hằng năm, bà này mở tiệc () đãi toàn các vị công tước và bá tước, đi đâu một bước cũng nào xe nào ngựa, nào kẻ hầu người hạ linh đình, sang hơn cả nghi trượng của nhà vua ở Kensington. Amelia cũng không được như con dâu của bà Mango, tức là phu nhân Mary Mango (con gái bá tước Castlemouldy, đã hạ mình lấy ông chủ hãng buôn lớn trên làm chồng). Nhưng các chủ hiệu buôn trong vùng gặp người đàn bà goá trẻ tuổi này trước cửa nhà hoặc lúc vào hiệu mua đồ vật còn kính nể hơn cả đối với những người đàn bà sang trọng kia nữa.

Không phải chỉ có ông thầy thuốc Pestler, mà cả ông Linton, người giúp việc trẻ tuổi hay ngồi đọc tờ “Thời báo” suốt ngày trong phòng khám bệnh, là người chuyên thăm bệnh cho bọn đầy tớ các gia đình và những người bán hàng vặt, cũng tuyên bố công khai rằng mình là một kẻ nô lệ của bà Osborne. Ông này người còn trẻ, mặt mũi khôi ngô, được gia đình bà Sedley tiếp đón nồng nhiệt hơn cả ông thầy thuốc chính. Thằng Georgy chỉ hơi nhức đầu xổ mũi, ông ta cũng đến thăm hai ba lần mỗi ngày, mà không hề nghĩ đến chuyện tiền nong. Ông ta hay lấy kẹo ho và nhiều thứ khác ở hiệu thuốc đến cho Georgy, lại pha những thứ thuốc nước ngọt lịm đi, làm cho thằng bé sinh ra thích ốm. Hồi nó lên sởi, hai thầy trò ông Pestler thức trọn hai đêm ngồi bên thằng bé. Cứ nhìn sự hốt hoảng của người mẹ, ta có thể ngờ rằng bệnh sởi là một bệnh kỳ lạ chưa xuất hiện trên trái đất bao giờ. Họ có săn sóc những bệnh nhân khác tận tình như thế không? Hồi Ralph Plantagenet, Gwendoline, và Guinever Mango bị lên sởi, họ có thức trọn đêm trong lâu đài Pineries không? Họ có thức trọn đêm để trông nom con bé Mary Clapp, con gái bà chủ nhà, bị lây bệnh thằng Georgy không? Sự thực bắt buộc ta phải trả lời: Không. Hai thầy trò cứ nằm nhà ngủ kỹ, bảo rằng con bé mắc bệnh thông thường quá, cứ mặc kệ rồi cũng khỏi; họ chỉ gửi lại gọi là có vài liều thuốc và khi đứa nhỏ bình phục thì họ gửi đến một gói ký ninh rồi cũng chẳng buồn xem thuốc có công hiệu hay không, chỉ biết là đã hoàn thành thủ tục.

Lại có một hiệp sĩ người Pháp ngụ ở căn nhà trước mặt, vẫn dạy tiếng Pháp trong các trường quanh vùng; đêm đêm ông ta vẫn chơi những bản nhạc cũ rích trên một cây vĩ cầm cổ lỗ sĩ. Không chủ nhật nào ông già đa tình đội tóc giả có rắc phấn này không đi lễ nhà thờ ở Hammersmith; về mọi phương diện, từ dáng điệu, cử chỉ đến ý nghĩ, ông ta hoàn toàn khác hẳn đồng bào của mình, tức là nhưng người man rợ râu ria xồm xoàm suốt ngày chửi thằng Albion () phản bội, mồm ngậm xì gà cứ gườm gườm nhìn thiên hạ dưới vòm cổng Quadrant; mỗi khi ông hiệp sĩ già de Talonrouge nhắc đến bà Osborne, trước tiên ông ta phải hít nốt nhúm thuốc lá bột đã, đoạn vứt chỗ thuốc còn lại trong tay đi, khoa khoa bàn tay đưa lên mồm vừa hôn vừa thổi phù một cái và xoè ra, nói: “Chao ôi! Con người mới thần tiên làm sao”() Ông ta nhất định thề rằng khi Amelia đi dạo chơi ở đường Brompton thì dưới gót cô, hoa đua nhau nở. Ông ta gọi thằng Georgy là Georgy Cupid và hỏi thăm sức khoẻ của Thần Vệ Nữ là mẹ nó; ông lại bảo với chị Betty Flanagan rằng chị ta là một trong số ba cô tiên thị nữ ().

Và là người hầu hạ thân tín nhất của Bà chúa ái tình ().

Còn có thể kể nhiều thí dụ khác về chuyện Amelia được nhiều người yêu mến mà chính cô không hay biết. Ông Binny, viên mục sư hiền lành nhã nhặn cai quản giáo đường của khu phố, nơi gia đình Sedley vẫn đến dự lễ, cũng đến thăm người quả phụ rất chăm chỉ; ông ta đặt thằng Georgy ngồi lên đùi mình, ngỏ ý muốn dạy nó học tiếng La tinh; người chị ông ta, một người phụ nữ quá lứa nhỡ thì ở vậy trông nom nhà cửa cho em, thấy thế tức lắm. Bà này vẫn bảo em trai:

- Này cậu, bà ta vô vị chết đi ấy mà. Suốt buổi tối đến đây chơi uống trà, chả thấy nói năng gì. Theo tôi, bà ta chẳng qua cũng chỉ là một cô “tiểu thư” tầm thường nhạt nhẽo, chứ có tâm hồn gì đâu. Đàn ông các cậu cứ thấy ai có bộ mặt xinh xinh là mê tít. Theo ý tôi thì cô Grits tính tình còn bằng mấy, lại có năm nghìn đồng vốn riêng, tương lai chắc chắn. Ví thử mặt cô ấy cũng xinh đẹp, thì tôi chắc cậu phải cho là con người hoàn toàn.

Bà chị Binny nói thế cũng có lý lắm chứ? Bọn đàn ông xấu thói chúng ta chỉ thích bộ mặt xinh xinh thôi thật. Cho dù một người phụ nữ có khôn ngoan và trong trắng như Minerva đi nữa nếu mặt mũi tầm thường, chúng ta cũng ít thèm để ý. Trước đôi mắt sáng của người đẹp, hỏi có sự điên rồ nào ta không tha thứ được? Lời nói ngu ngốc nhất thốt ra từ đôi môi đỏ thắm với giọng nói dịu dàng cũng hoá ra dễ nghe. Cho nên các bà hễ đã có sắc đẹp lẽ tất nhiên phải ngốc nghếch. Chao ôi, thưa các bà, trong số các bà vô khối người đã không xinh đẹp lại cũng chẳng khôn ngoan tý nào đấy ạ. Trong đời Amelia chỉ xảy ra toàn những chuyện lặt vặt tương tự: chẳng có sự kiện phi thường nào; bạn đọc ắt cũng nhận thấy. Ví thử cô ta có viết một tập nhật ký suốt thời gian bảy năm trời sau ngày sinh con, thì cũng chả có mấy việc đáng chú ý hơn chuyện con trai lên sởi như vừa kể trên. À, cũng có một lần Amelia ngạc nhiên quá vì thấy ông mục sư Binny xin cô đổi tên Osborne để mang tên mình, Amelia đỏ bừng mặt; giọng nói đẫm nước mắt, cô cảm ơn ông ta có lòng thương đến hai mẹ con cô, nhưng ngỏ ý sẽ không bao giờ, không bao giờ yêu được ai ngoài người chồng đã khuất núi.

Ngày 25 tháng tư và ngày 18 tháng sáu hằng năm, tức là ngày kỷ niệm lập gia đình và ngày chồng chết, Amelia đóng cửa ngồi trong phòng cả ngày để tưởng nhớ người chồng đã mất (chưa kể hàng bao nhiêu giờ trằn trọc thâu đêm cạnh đứa con trai nằm ngủ trong nôi bên giường). Ban ngày cô bận rộn hơn. Cô dạy thằng Georgy đọc, viết và vẽ đôi chút. Cô đọc truyện để kể lại cho con nghe. Thằng bé càng hiểu biết, trí khôn cũng phát triển do ảnh hưởng của cuộc sống xung quanh; cô cố gắng dùng kiến thức ít ỏi của mình dạy cho con hiểu thế nào là Đấng Tạo hoá. Sớm sớm, chiều chiều, hai mẹ con cùng cầu khẩn Đức cha cao cả; người mẹ đọc kinh và đứa con nhắc theo, ai trông thấy cũng phải cảm động.

Lần nào hai mẹ con cũng cầu Thượng đế ban phúc lành cho người bố, dường như George cũng có mặt trong phòng và đang cầu kinh với họ.

Buổi sáng, việc tắm rửa mặc quần áo cho con trai cũng mất khá nhiều thì giờ, kéo dài cho tới lúc ăn sáng hoặc lúc ông ngoại nó đi lo công việc. Mỗi ngày, người đàn bà goá ấy dành mất khá nhiều thì giờ để phá tất cả những bộ áo đẹp cũ may từ hồi mới lấy chồng vẫn cất trong tủ áo, cắt thành những tấm áo rất xinh đủ kiểu lạ mắt cho con. Bản thân Amelia bao giờ cũng chỉ bận áo dài đen, đội một chiếc mũ rơm có băng đen: bà cụ thấy thế bực mình lắm, vì tính bà ưa ăn mặc đẹp, nhất là kể từ khi gia đình bị sa sút. Thì giờ còn lại Amelia dùng để giúp đỡ mẹ và ông bố già nua. Cô kỳ khu học đánh bài để cùng cha giải trí những tối ông Sedley không đến “câu lạc bộ”. Nếu ông lão ngỏ ý thích, cô hát cho cha nghe; cũng là việc hay, vì thường thường ông lão nghe nhạc rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Cô viết hộ cha bao nhiêu là hồi ký, thư từ, giấy giao hàng của ông lão mới kinh doanh. Nhờ tay cô nên bạn hàng của ông lão mới biết rằng ông đã trở thành đại lý cho Công ty kim cương đen chuyên sản xuất than không tàn thượng hạng bán mỗi “chaldron” ( ) có... đồng. Ông cụ chỉ việc ký ở dưới, chữ ký nguệch ngoạc, run run như chữ ký của một viên chức. Một tờ giấy giao hàng được gửi cho thiếu tá Dobbin, trung đoàn thứ... nhờ hãng Côx và Greenwood chuyển. Viên thiếu tá ở mãi tận Madras không dùng đến than làm gì. Nhưng anh ta biết rõ ai đã viết những dòng chữ giao hàng đó. Trời ơi? ước gì được nắm bàn tay người ấy trong tay mình, mất gì anh ta cũng không tiếc! Rồi tiếp theo là một tờ giấy giao hàng khác báo cho viên thiếu tá rõ hãng J.Sedley và Công ty đã đặt đại lý ở Oporto, Bordeaux, và St. Mary. Hãng có thể cung cấp các loại rượu thượng hảo hạng với giá phải chăng, kèm theo nhiều điều kiện thuận lợi. Dobbin nắm ngay lấy cơ hội cố sức vận động viên chủ tỉnh, viên tổng chỉ huy, các thẩm phán, các trung đoàn và tất cả mọi người quen biết xin bằng được mấy đơn đặt hàng rất quan trọng cho hãng “Sedley và Công ty” mới thôi, ông Sedley và ông Clapp (tức là cả công ty) ngạc nhiên hết sức. Ông Sedley đã hý hửng phen này sắp lại đứng đầu một hãng buôn lớn, mướn hàng chục nhân viên, có một kho hàng riêng và gửi đại diện đi khắp thế giới; nhưng chuyến hàng may mắn đầu tiên ấy cũng là chuyến cuối cùng. Ông già không còn rành rượu như xưa. Trong phòng ăn của nhà binh, ai cũng rủa thiếu tá Dobbin về tội tìm cách tống cho họ toàn những thứ rượu thổ tả. Anh ta đành mua lại một số lớn rượu cho đem bán rao, thiệt vô khối tiền túi. Hồi này, Joe đang giữ một địa vị quan trọng tại Phòng thuế khoá ở Calcutta; một bữa, nhà bưu điện gửi đến cho anh ta một xếp toàn những quảng cáo rao thứ hàng ma men kia, lại kèm theo một thư riêng của ông bố dặn rằng hy vọng rất nhiều vào sự giúp đỡ của con trai; ông lão báo tin đã dành riêng cho Joe rất nhiều rượu ngon và đã rút số tiền rượu trong ngân khoản của anh ở nhà băng bằng tín phiếu rồi; Joe cáu tưởng phát điên lên được. Anh ta không muốn thiên hạ nghĩ rằng cụ thân sinh ra ông Joe Sedley tòng sự tại Phòng thuế khoá lại là một ông lái rượu đi ngửa tay xin đơn đặt hàng; anh ta từ chối không nhận thanh toán những tín phiếu nói trên, lại viết một lá thư tồi tệ gửi về bảo bố hãy tự lo lấy công việc của mình. Nhân việc này, hãng Sedley và Công ty phải chịu bao nhiêu tiền phí tổn, món lời kiếm được trong chuyến hàng Madras và tiền dành dụm của Amelia thế là bay sạch.

Ngoài món trợ cấp hằng năm là năm mươi đồng, Amelia được người thực hiện di chúc của chồng cho biết rằng cô còn có quyền hưởng một món tiền khác là năm trăm đồng bảng vì lúc George chết đi, số tiền này do luật sư riêng của anh ta giữ. Với tư cách là người đỡ đầu cho Georgy, Dobbin đề nghị đem đặt lãi 8% tại một hãng buôn ở Ấn Độ. Ông Sedley ngờ Dobbin mưu đồ việc gì gian lậu về số tiền này bèn cực lực phản đối đề nghị nói trên. Ông đích thân tìm đến các luật sư để phản kháng, thì mới vỡ nhẽ ra rằng họ không hề giữ món tiền ấy bao giờ, và tất cả tiền nong viên đại uý đã quá cố để lại không vượt quá một trăm đồng bảng; vậy chắc số năm trăm đồng bảng kia lại là một khoản nào khác, chỉ riêng Dobbin rõ ở đâu ra. Ông lão càng nghi tợn, bèn đi tìm viên thiếu tá.

Lấy tư cách là thân nhân của Amelia, ông đòi xem xét các khoản chi tiêu của viên đại uý đã chết. Thấy Dobbin đỏ mặt, ông bèn lấy điệu bộ kiêu hãnh mà “nói toạc móng heo” ra rằng viên thiếu tá đã giữ tiền của con rể ông một cách bất hợp pháp.

Dobbin không nhịn được nữa, nếu ông lão không già nua yếu đuối thì giữa hai người ắt đã xảy ra một cuộc đấu khẩu gay go ngay tại quán cà phê Slaughters, chỗ hai bên gặp nhau. Viên thiếu tá nói:

- Xin mời cụ lên gác, thế nào cũng phải mời cụ lên gác để tôi trình bày cụ rõ xem ai bị thiệt thòi, tôi hay là anh George.

Đoạn anh ta kéo ông lão lên phòng ngủ, mở ngăn kéo lấy ra một tờ ghi những khoản chi tiêu của George kèm theo một mớ giấy biên nhận tiền của George - công bằng mà nói thì bao giờ George cũng sẵn sàng viết văn tự mượn tiền. Dobbin tiếp:

- Những chứng từ này đã được anh ấy thanh toán ngay tại nước Anh hết rồi; lúc chết chỉ còn chưa đầy một trăm đồng. Tôi cùng vài người bạn gom góp nhau được một món tiền nhỏ gọi là để giúp đỡ; thế mà cụ ngờ tôi lừa tiền của chị ấy và cháu.

Ông Sedley đờ người ra, có ý thẹn. Thật ra Dobbin đã nói dối, chính anh đã bỏ ra tất cả số tiền ấy, chính anh ta lo việc chôn cất cho bạn; cũng chính anh ta đã gánh vác tất cả mọi khoản chi tiêu trong việc bất hạnh xảy ra cũng như trong việc đưa Amelia về nước. Ông Sedley không hề nghĩ đến những món chi tiêu đó, cả họ hàng Amelia cũng như bản thân cô ta cũng thế. Amelia hoàn toàn tin Dobbin, mặc anh ta nói sao hay vậy, không hề ngờ rằng mình là kẻ mang nợ.

Mỗi năm đôi ba lần, Amelia giữ đúng lời hứa viết thư gửi đi Madrad cho Dobbin, trong thư toàn nói về chuyện thằng Georgy.

Dobbin trân trọng những lá thư ấy biết bao! Nhận được thư, anh ta trả lời ngay, và cũng không hề bao giờ tự nhiên viết thư cho thằng con đỡ đầu và mẹ nó. Anh lại mua một hộp khăn quàng cổ và một bộ quân cờ bằng ngà của Trung Quốc gửi về làm quà. Những quân tốt là những người lính mặc áo xanh và trắng, cầm gươm và khiên thật, tướng thì cưỡi ngựa, thành luỹ thì dựng trên lưng voi.

Ông Pestler bảo: “Bộ quân cờ của bà Mango ở Pineries cũng không đẹp bằng”. Georgy thích quá, lần đầu tiên viết thư cho ông bố đỡ đầu để cảm ơn. Dobbin còn gửi cho cả mứt và đồ gia vị; thằng bé mò ra tủ buýp-phê ăn vụng nhiều quá suýt chết vì bội thực; nó cho là mình bị trừng phạt vì tội ăn vụng. Emmy viết thư gửi cho viên thiếu tá kể lại câu chuyện buồn cười này; thấy cô đã khuây khoả, Dobbin cũng yên tâm. Anh ta gửi về làm quà thêm hai tấm khăn san, một cái màu trắng tặng Amelia, một cái màu đen có in hình lá cọ tặng bà Sedley; lại gửi hai chiếc khăn quàng cổ màu đỏ cho ông Sedley và thằng Georgy. Theo sự hiểu biết của bà Sedley thì mỗi tấm khăn giá đến năm mươi đồng ghi nê là ít. Bà quấn nó đi nhà thờ Brompton dự lễ, các bà bạn trông thấy cũng phải khen là đẹp. Chiếc khăn của Emmy cũng rất ăn ý với tấm áo đen giản dị cô vẫn mặc.

Bà Sedley bảo bà Clapp và các bà bạn ở Brơmtơn thế này:

“Rõ hoài của, con bé chả nghĩ đến ông ta. Thằng Joe có bao giờ biếu chúng tôi được những thứ này đâu, cho một tý gì nó cũng tiếc đứt ruột. Rõ ràng cái ông thiếu tá ấy mê con gái tôi như điếu đổ! Thế mà mỗi khi nhắc khéo chuyện ấy với nó, y như nó đỏ mặt lên, rồi khóc, rồi bỏ lên gác ngồi nhìn cái chân dung. Tôi mới phát ốm vì cái chân dung ấy chú! Tôi chỉ cầu Trời không bao giờ còn phải nhìn mặt cái giống Osborne hợm của ghê tởm nhà chúng nó.

Thằng Georgy lớn lên trong một bầu không khí bình dị như vậy, càng lớn tính nó càng trở thành ẻo lả dễ xúc động, hay vòi như những đứa trẻ được nuông chiều từ tấm bé... nó rất quý mẹ, nhưng cũng bắt nạt cả mẹ. Trong nhà, nó là ông tướng con; ai cũng phải sợ. Nó càng lớn, càng giống bố như đúc, từ mặt mũi cho đến cái tính khệnh khạng. Thấy cái gì nó cũng tò mò hỏi cho bằng được. Thấy cháu nói nhiều câu khôn như người lớn, ông ngoại nó cũng lấy làm lạ; ông lão đến quán rượu chỉ kể toàn những chuyện cháu mình thông minh, cháu mình hiểu biết như thần đồng, làm thiện hạ chán ngấy cả tai. Thấy bà ngoại bẳn tính, thằng bé cứ lờ đi, vui vẻ như không. Mọi người trong cái gia đình nhỏ ấy ai cũng tin trên đời không có đứa trẻ nào được bằng nó. Thằng Georgy thừa hưởng cả cái tính kiêu ngạo của bố, có lẽ nó cho rằng họ nhận xét không lầm.

Khi thằng Georgy lên sáu, Dobbin bắt đầu viết thư luôn cho nó. Viên thiếu tá ngỏ ý muốn nó đi học, và hy vọng rằng nó sẽ cố gắng chăm chỉ; nếu nó không đến trường thì có lẽ nên mướn một ông giáo kèm ở nhà, vì nó đã đến tuổi đi học; ông bố đỡ đầu còn hy vọng được đài thọ mọi phí tổn về việc học của thằng bé, vin cớ mẹ nó chỉ có một số tiền trợ cấp quá ít ỏi. Anh chàng thiếu tá lúc nào cũng nghĩ đến mẹ con Amelia; anh ta gửi cho thằng bé nhiều sách có tranh ảnh, một hộp thuốc vẽ, một cái bàn học cùng đủ mọi thứ dụng cụ khác dùng trong việc học và để giải trí. Còn ba ngày nữa thì thằng Georgy vừa đúng sáu tuổi, một người đi xe ngựa có người nhà theo hầu đến nhà ông Sedley, nói muốn gặp cậu Georgy Osborne. Đó là ông Woolsey, chuyên may quân phục ở phố Conduit, theo lệnh viên thiếu tá đến đo người thằng bé để may một bộ áo mới. Ông này đã có hân hạnh may quần áo cho viên đại uý sinh ra nó.

Thỉnh thoảng, có lẽ để chiều ý viên thiếu tá, hai chị em cô Dobbin cũng ngồi xe ngựa riêng của gia đình đến đón hai mẹ con Amelia đi chơi. Amelia cảm thấy khó chịu vì cái thái độ nhã nhặn kẻ cả của mấy cô này, nhưng cũng ngoan ngoãn chịu đựng cho qua, vì bản tính vẫn quen nhường nhịn, vả lại thằng Georgy được ngồi lên chiếc xe ngựa lộng lẫy thì có vẻ khoái lắm. Thỉnh thoảng, hai cô thiếu nữ lại xin cho thằng Georgy đến nhà mình chơi một ngày, thằng bé được đến ngôi nhà xinh đẹp của gia đình Dobbin ở Denmark Hill thì thích quá vì ở đó có vô số nho và đào, tha hồ ăn thoả thích.

Một bữa, hai chị em cô Dobbin đến báo cho Amelia biết một tin mà họ cho rằng chắc chắn cô phải mừng lắm... một tin có liên quan đến anh William thân yêu của họ. Mắt sáng ngời lên vì sung sướng. Amelia hỏi:

- Tin gì thế, anh ấy về thăm nhà phải không?

- Không phải... không phải đâu... nghe như anh ấy định lấy vợ lấy người có họ với một cô bạn của Amelia... cô Glorvina O’Dowd, em gái ông Michael O’Dowd ấy mà. Cô ta đã đến Madras với bà O’Dowd rồi. Đồn rằng cô ấy đẹp người lại đẹp cả nết.

Amelia thốt ra một tiếng “Ô!” đầy ngạc nhiên; thực tình cô cũng rất sung sướng. Nhưng cô cho rằng Glorvina chắc không thể giống bà bạn cũ của mình; bà ấy tốt lắm... nhưng mà... Amelia cảm thấy rất vui. Và không rõ vì sao, cố bế ngay thằng Georgy lên mà hôn rất âu yếm. Lúc đặt con xuống đất mắt cô rơm rớm có ngấn lệ; suốt buổi độ chơi hôm ấy, cô yên lặng, gần như không nói một lời...tuy trong lòng quả thật rất sung sướng.

Chương 39
MỘT CHƯƠNG TOÀN CHUYỆN TỒI TỆ

Bây giờ cần trở về với những người bạn cũ của chúng ta ở Hampshire một chút. Bao hy vọng họ hằng ôm ấp về việc chia xẻ cái gia tài kếch xù thế là tan thành mây khói. Chắc mẩm sẽ vớ được ba vạn đồng của em gái, rốt cuộc chỉ được có năm nghìn đồng lão Bute Crawley bị một vố điếng người. Món tiền này đem thanh toán cho xong món nợ của bản thân lão và những khoản nợ của anh chàng Jim, con trai lão, ở trường cao đẳng còn lại cũng không được bao nhiêu, chẳng đủ làm của hồi môn cho bốn cô con gái xấu xí. Bà Bute không bao giờ ngờ, hoặc ít nhất cũng không bao giờ chịu công nhận rằng cái thói nghiệt ngã của mình đã làm hại chồng con đến như vậy. Bà ta thề sống thề chết rằng mình đã làm tất cả mọi việc một người đàn bà có thể làm. Nếu như bà không có được cái tài nịnh hót xảo quyệt như thằng cháu Pitt Crawley, thì đâu phải lỗi tại bà? Tuy nhiên bà vẫn chúc anh ta hưởng hạnh phúc với số tiền không được trong sạch kia. Làm ra bộ phúc đức lắm, bà bảo: “Dẫu sao đi nữa thì cũng là “lọt sàng xuống nia” chứ đi đâu mà thiệt. Chắc chắn thằng Pitt sẽ không phá số tiền ấy đâu, ông nó ạ. Khắp nước Anh này, có ai bủn xỉn bằng nó. Nó cũng khốn nạn chẳng kém gì thằng em bán giời không văn tự tức là thằng Rawdon tuy mỗi đứa khốn nạn một cách”.

Thế là, sau cơn giận dữ và thất vọng ban đầu, bà Bute bắt đầu thích ứng với hoàn cảnh; bà ra sức tiết kiệm việc chi tiêu. Bà dạy con gái phải biết vui vẻ mà chịu đựng sự thiếu thốn, lại nghĩ ra hàng trăm cách tài tình để che giấu và đôi khi để thoát khỏi cảnh nghèo túng. Bà mạnh bạo dẫn con gái đến dự những buổi dạ hội, đi chơi tại những nơi công cộng trong vùng; bà còn thết đãi bạn bè một cách khá lịch sự ngay tại nhà thờ; so với hồi chưa được chia gia tài, bà lại tổ chức tiếp khách thường xuyên hơn. Cứ nhìn bề ngoài đố ai dám bảo rằng gia đình này bị một mẻ vỡ mộng, hoặc dám nghĩ rằng tuy mấy mẹ con chơi đây đó luôn, nhưng ở nhà phải bóp mồm bóp miệng khổ sở. Mấy cô con gái ăn diện lại sang hơn trước; các cô chăm chỉ đến dự những buổi họp mặt ở Winchester và Southampton; các cô đến cả Cowes để xem đua thuyền và thi ngựa. Đi đâu mấy mẹ con cũng dùng xe ngựa - mấy con ngựa hết kéo cày lại phải kéo xe, làm việc không kịp thở - bấy giờ ai cũng yên trí rằng bốn cô con gái đã được bà cô để lại cho vô khối tiền; bao giờ các cô cũng nhắc đến tên bà Crawley một cách vô cùng âu yếm và biết ơn trước mặt người khác. Trong Hội chợ phù hoa, cái trò dối trá này phổ biến nhất; có điều lạ là bọn người dối trá ấy vẫn yên trí rằng mình có đạo đức, đáng kính trọng, vì đã bịp được thiên hạ khiến họ tưởng là mình giàu có.

Bà Bute cũng cho rằng mình là người đàn bà đức hạnh nhất nước Anh, mọi người nên lấy gia đình bà làm gương. Con gái bà, người nào cũng vui vẻ, đáng yêu, có giáo dục, tính tình giản dị!

Martha vẽ hoa tài lắm, nửa số tranh bán lấy tiền làm phúc trong quận là do cô vẽ. Emma là con chim hoạ mi nổi tiếng khắp vùng; trong mục “thi ca” trên mặt báo “Tin điện Hampshire ” chỉ có những bài thơ của cô là hay nhất. Fanny và Matilda cùng hát, bà mẹ đệm dương cầm, hai cô kia vòng tay ôm ngang lưng nhau ngồi nghe thú vị lắm. Nào ai biết đâu các cô phải tập gõ dương cầm suốt ngày; ai biết đâu bà mẹ phải kỳ khu ngồi luyện cho các cô hàng giờ; tóm lại, bà Bute phải tươi tỉnh đường đầu với số phận, cố hết sức tô vẽ cho cái bề ngoài ra vẻ phong lưu.

Bà làm tất cả mọi việc mà một người mẹ đáng kính có thể làm. Bà tiếp trong nhà cả những tay ưa đua thuyền ở Southampton, những thầy mục sư ở nhà thờ Crawley tại Winchester và những sĩ quan đóng tại đây. Bà cố tìm cách lôi kéo bọn luật sư trẻ tuổi ở toà thượng thẩm, lại khuyến khích Jim bắt bọn bè bạn hay đi săn về nhà chơi. Trên đời này, một bà mẹ quý con gái có ngại việc gì mà không làm?

Giữa bà và ông anh chồng, tức là cái lão nam tước bỉ ổi ở bên trại kia, rõ ràng bây giờ không còn liên quan gì đến nhau nữa.

Quan hệ giữa Bute và cụ Pitt bị cắt đứt hoàn toàn rồi; thật ra cụ Pitt đã cắt đứt quan hệ cả với mọi người trong quận; ai cũng ghê tởm lão. Càng già lão càng ghét cay ghét đắng cái xã hội thượng lưu; từ ngày Pitt và công nương Jane đến thăm lão cho phải lẽ sau ngày cưới, thì cổng trại Crawley Bà chúa cũng chưa mở ra lần nào để đón xe ngựa của một vị khách sang trọng.

Thật là một cuộc thăm viếng kinh khủng, đáng sợ, hai vợ chồng Pitt cứ nghĩ đến mà ghê. Pitt lạnh lùng yêu cầu vợ không bao giờ được nhắc đến chuyện ấy nữa. Nhờ có bà Bute, vốn thông tỏ mọi chuyện xảy ra bên trại, nên mọi người mới rõ cách cụ Pitt đón tiếp con trai và con dâu như thế nào.

Hai vợ chồng Pitt giong chiếc xe ngựa mới tinh dọc theo con đường lớn trong trại; Pitt ngạc nhiên và giận quá vì thấy giữa đám cây cối…cây cối của anh ta... có nhiều chỗ trống; lão nam tước đã tự tiện đẵn đi để bán. Vườn cây trông thật tiêu điều xơ xác. Lối đi trong vườn không ai sửa sang, đầy những vũng nước, bùn bắn tung toé bẩn hết thành xe. Trước cửa chính, rêu phong kín mặt thềm; những cụm hoa trước kia đẹp là thế, bây giờ tàn lụi hết, cỏ dại um tùm. Hầu hết các cửa sổ đều đóng im ỉm; còn cổng trại thì kéo chuông mãi mới thấy cánh cửa hé mở. Thoáng thấy bóng một người đeo đăng-ten chạy vụt lên chiếc cầu thang bằng gỗ sồi: cuối cùng bác Horrocks ra mời người thừa kế trại Crawley Bà chúa cùng cô vợ mới vào trong ngôi nhà của tổ tiên để lại.

Bác dẫn hai người vào trong gian phòng sách - ở đây nó được gọi như vậy - của cụ Pitt; càng đến gần hai vợ chồng Pitt càng ngửi thấy mùi khói thuốc lá xông ra nồng nặc. “Cụ Pitt không được khoẻ lắm”. Bác Horrocks nói rõ như để thanh minh, ngụ ý ông chủ đang mắc chứng đau bụng.

Phòng sách trông thẳng ra vườn cây và lối đi trước nhà. Cụ Pitt đã mở cửa sổ, đang thò cổ ra quát tháo thằng phu xà ích và thằng hầu của Pitt; hai đứa vừa định dỡ hành lý trên xe xuống. Lão khua khua cái tẩu trong tay, hét ầm lên:

- Cứ để nguyên tất cả trên ấy, Tucker, thằng ngu, đến chơi có một lúc thôi mà. Cha mẹ ơi, con ngựa bị xước một miếng ở vó kìa! Dắt nó ra trạm “Đầu vua” mà chữa đi thôi. Thế nào? Pitt? Thế nào con gái yêu? Đến thăm lão già hả? Cha mẹ! Trông mặt mũi cũng xinh đấy chứ, không đến nỗi như cái mặt ngựa của bà mẹ. Lại đây hôn lão Pitt này một cái đi, chóng ngoan con.

Hôn bố chồng xong, cô con dâu có ý hơi kinh thì phải, vì lão để ria xồm xoàm không cạo, mồm sặc mùi thuốc lá. Nhưng cô ta nhớ ngay rằng Southdown, anh trai cô, cũng để ria mép, cũng hút thuốc lá, nên cố gắng tỏ ra nhã nhặn đúng mức.

Lão nam tước nói:

- Pitt hồi này béo ra đấy nhỉ? Nó có còn hay thuyết giáo dài dòng văn tự nữa không, con? Bài hát nguyện thứ một trăm, đồng ca buổi tối... hả, Pitt? Horrocks , đem một cốc rượu Malmsey và một chiếc bánh ngọt để công nương Jane xơi. Thằng ngu, sao mày cứ đứng ỳ ra đấy như con lợn ấy? Tôi không giữ anh chị ở lại đâu, ở đây vợ chồng anh chán ngấy lên mất. Tính tôi khác Pitt lắm. Tôi bây giờ già rồi, sinh cái tật nghiện thuốc lá, tối đến lại ham đánh bài.

Công nương Jane cười đáp:

- Thưa ba, con cũng biết chơi bài, tức là cái thú chơi cha vừa nói là rất ham mê.

- Nhưng cũng không nên vì thế mà bắt chị ở lại đây. Không, không, cứ quay về Mudbury mà trọ, cho bà Rincer kiếm ăn tý chút chứ, hay là đánh xe sang bên nhà thờ, vòi lão Bute một bữa cơm. Gặp anh, chắc lão thú lắm. Thấy anh được hưởng gia tài của bà già, lão nể anh ra phết. Ha, ha! Tôi mà chết đi thì anh cũng phải bỏ ra ít nhiều mà sang sửa lại cái trại này chứ?

Pitt cất cao giọng, nói:

- Thưa cha, con nhận thấy gia nhân trong trại đang chặt phá cây cối. Cụ Pitt đột nhiên điếc tịt hai tai, đáp:

- Phải, phải, trời đẹp quá, thời tiết dễ chịu lắm. Nhưng mà, anh Pitt ạ, tôi già rồi. Cầu trời phù hộ cho anh, mà anh cũng gần năm mươi rồi nhỉ. Thế mà trông còn tráng kiện lắm, phải không cô Jane? Biết kính Chúa, lại sống điều độ có lợi thế đấy. Trông tôi đây này, gần tám mươi tuổi đầu còn gì... hề hề !

Lão cười, rít một nhúm thuốc lá bột, liếc nhìn cô con dâu và véo một cái vào tay cô ta.

Pitt cố lái câu chuyện trở về việc phá gỗ, nhưng lão nam tước lại lập tức trở thành điếc đặc:

- Tôi già lắm rồi, năm nay lại khổ sở vì cái bệnh đau lưng. Tôi cũng không sống được bao lâu nữa đâu, nhưng chị đến thăm tôi thế này là quý lắm. Công nương Jane ạ, tôi ưa nét mặt của chị lắm, không có cái vẻ khinh khỉnh đáng ghét của nhà Binkie. Để tôi làm quà cho chị cái gì đèm đẹp mà đeo khi vào chầu trong triều.

Lão lòng khòng bước tới bên một cái tủ, lôi ra một chiếc hộp cũ đựng ít đồ trang sức đáng tiền. Lão nói:

- Cầm lấy con ạ, của bà cụ sinh ra tôi ngày xưa đấy; sau này bà Crawley vợ cả tôi cũng đeo. Ngọc quý lắm. Chưa bao giờ cho đứa con gái nhà hàng sắt dùng đâu. Thôi, cầm lấy mà đeo vào cổ, mau lên.

Vừa nói lão vừa dúi chiếc hộp vào tay con dâu. Thấy Horrocks bưng rượu bước vào, lão đóng sập cánh tủ lại.

- Cụ cho vợ anh Pitt cái gì đấy?

Vợ chồng Pitt vừa từ biệt lão già ra về, cái cô đeo đăng-ten đã căn vặn ngay lão già. Do là cô Horrocks , con gái bác quản lý... người đã gây ra những lời đồn đại xa gần về chuyện cụ Pitt trác táng... và hiện nay cũng là bà chủ nắm mọi quyền hành trong trại Crawley Bà chúa vậy.

Dân trong quận và cả họ Crawley thấy cô “Đăng-ten” làm ăn phát đạt quá mà kinh. Cô “Đăng ten” mở cả một ngân khoản ở chi nhánh Ngân hàng Mudbury. Cô “Đăng- ten” ngồi xe ngựa đi lễ nhà thờ, độc chiếm chiếc xe ngựa chở hàng mọi khi vẫn dành cho bọn đầy tớ trong trại dùng. Người làm, ai không vừa lòng cô, bị đuổi như chơi. Bác làm vườn người xứ Scotch chưa bị đuổi, lấy làm hãnh diện về vườn cây của mình lắm; bác vẫn đem rau quả ra chợ Southampton bán, ăn bớt được khối tiền. Một buổi sáng trời nắng ấm, bắt gặp cô “Đăng- ten” hái đào ở mé tường phía nam ăn, bác tỏ ý phản kháng, liền bị hai cái tát ù tai. Sau đó, vợ chồng con cái bác, những người duy nhất được vị nể trong trại, phải khuân đồ đạc dọn đi nơi khác; khu vườn cây sầm uất trước kia được chăm sóc cẩn thận là thế, bây giờ bị phá phách tan tành, hoa tàn cỏ rậm. Mảnh vườn trồng hoa hồng của Crawley phu nhân ngày trước, nay um tùm toàn gai góc. Còn lại độ hai ba người đầy tớ nằm run rẩy trong gian phòng lạnh ngắt dành cho người làm. Chuồng ngựa, chuồng bò trống tuềnh trống toáng, đóng cửa bỏ xó, đổ xiêu đổ vẹo.

Ông Pitt nằm lì một chỗ, đêm nào cũng say sưa với bác Horrocks (bây giờ lão gọi bác là quản gia) và cô “Đăng- ten” phóng túng. So với hồi cô ta ngồi chiếc xe cọc cạch đến trại, gặp bọn bán hàng vặt cũng một điều “thưa ngài”, hai điều “thưa ngài”, tình thế bây giờ khác hẳn. Xung quanh ai khinh, ai chửi cũng mặc, lão già cứ bịt tai nằm lỳ trong trại Crawley Bà chúa, không mấy khi ra khỏi cổng. Lão cãi nhau với bọn thầy kiện, viết thư chửi bọn tá điền. Suốt ngày chỉ thấy lão ngồi cặm cụi viết lách. Bọn thầy kiện và bọn cảnh sát có việc gì giao thiệp với lão đều phải qua tay cô “Đăng - ten”. Cô này tiếp họ ngoài cửa gian phòng của quản gia, có cửa hậu ăn thông với phòng sách. Mỗi ngày lão nam tước lại càng thêm bối rối vì việc làm ăn hỗn độn trong trại.

Chuyện lão nam tước già lẩm cẩm ra sao, người đứng đắn nhất trong vùng cũng rõ nên Pitt Crawley rùng mình kinh hãi. Anh ta chỉ nơm nớp lo có ngày ông cụ sẽ tuyên bố cô “Đăng-ten” chính thức trở thành mẹ kế thứ hai của mình. Sau lần lại thăm bố đầu tiên và cũng là lần cuối cùng ấy, trong ngôi nhà lịch sự đẹp đẽ của Pitt Crawley, không hề nghe thấy ai nhắc đến tên lão già nữa. Lão chỉ còn là một xác chết, và mọi người trong nhà yên lặng ghê tởm bước qua. Bá tước Southdown phu nhân vẫn tiếp tục đi xe ngựa đến cổng ném những cuốn sách giảng đạo vào trong trại, những cuốn sách khiến ta phải dựng cả tóc gáy. Đêm đêm, bà Bute bên nhà thờ ra sân ngó xem sau hàng cây du che lấp toà nhà bên trại, bầu trời có rực đỏ lên vì ngôi nhà chính bốc cháy hay không. Ngài Wapshot và ngài Fuddlestone là mấy ông bạn cố tri của gia đình xưa vẫn không chịu ngồi cùng một ghế với cụ Pitt trong những kỳ họp quốc hội; một lần gặp lão ở High Street, tại Southampton, lão chìa bàn tay cáu bẩn nhăn nheo ra bắt, họ ngoảnh mặt đi thẳng. Lão cũng chẳng buồn để ý, thọc hai tay vào túi áo, phá ra cười, rồi hì hục leo lên chiếc xe bốn ngựa. Sách của bà Southdown cũng chỉ khiến lão phì cười chế nhạo; lão chế nhạo cả hai thằng con trai, lão chế nhạo tất cả thiên hạ, lão chế nhạo cả cô “Đăng-ten” những lúc cô ta cáu kỉnh, mà việc ấy xảy ra như cơm bữa.

Cô Horrocks được lĩnh chức quản gia trong trại Crawley Bà chúa; cô ta cai trị bọn gia nhân một cách hết sức nghiệt ngã, hống hách. Đầy tớ người nào cũng phải gọi cô ta là “bà... ”; có một chị hầu gái tôn xưng cô ta là “phu nhân” nhân dịp cô được đề bạt; cô ta cũng cứ nhất định không hề tỏ ý khó chịu. “Phu nhân” cũng có năm bảy đường, có người rất tốt, mà cũng có kẻ rất tồi”. Cô Horrocks trả lời bề dưới lúc được tôn xưng như vậy. Thế là cô tuyệt đối thống trị hết thảy mọi người, trừ cha cô. Nhưng bây giờ cô cũng ra mặt khinh khỉnh cả với bố, lại bảo cho bố cô biết rằng đừng có quá sỗ sàng với bà nam tước phu nhân tức là mình. Được đóng vai trò quý phái này, cô ta khoái chí lắm, mà lão Pitt cũng vui, lão thấy cô ta bắt chước điệu bộ sang trọng quý phái lão cứ cười lăn ra. Lão bảo rằng xem cô ta đóng trò mệnh phụ thú chẳng kém gì xem hát; lão lôi một bộ áo chầu của bà vợ cả ra cho cô ta mặc, khen nức nở rằng cô ta mặc vừa xinh, chỉ còn việc lên xe tứ mã vào triều chầu vua là xong. Cô Horrocks tha hồ lục lọi tủ áo của hai bà vợ lão, tuỳ ý chữa lại cho vừa người theo sở thích. Cô ta còn muốn lấy cả đồ trang sức của họ, nhưng lão nam tước đã khoá kín trong một ngăn kéo riêng, cô ta đã chịu khó ra sức mơn man chiều chuộng lão mà chưa lấy được chìa khoá. Ít lâu sau khi bà phu nhân này bị đuổi ra khỏi trại Crawley Bà chúa, người ta tìm được một quyển vở của bà, mới biết rằng cô “Đăng-ten” đã giấu giếm ra công tập viết, tập cẩn thận nhất là mấy chữ Crawley phu nhân, Betsy Horrocks phu nhân, Elizabeth Crawley phu nhân, v.v..

Những người đứng đắn trong vùng tuy không ai lai vãng đến, lánh xa lão chủ trại lẩm cẩm như lánh hủi, nhưng họ vẫn biết rõ mọi việc xảy ra không sót tý gì. Ngày nào họ cũng chờ đợi sự kết thúc chắc chắn phải đến, sự kết thúc mà cô Horrocks cũng đang tha thiết mong ngóng. Nhưng ác hại thay, số mệnh đã ngăn cản không cho cô hưởng phần thưởng xứng đáng với một người đức hạnh trong trắng như cô.

Một bữa, lão nam tước bắt gặp “phu nhân”- vẫn thích gọi đùa cô như vậy - ngồi bên chiếc dương cầm cũ rích đã mất tiếng kê trong phòng khách. Từ hồi Becky bỏ đi, cũng không ai sờ mó đến nó. Cô lấy điệu bộ hết sức trịnh trọng ngồi vào ghế, rồi ra sức mà gõ, bắt trước điệu âm nhạc thỉnh thoảng cô được nghe. Chị hầu gái mới được làm chân phụ đứng bên bà chủ lấy làm thưởng thức lắm, vừa gật gù cái đầu, vừa khen: “Úi chà, thưa bà hay tuyệt”, thật không kém gì cảnh tượng một ông nịnh hót đúng mốt tại một buổi tiếp tân thực sự trong triều.

Sự việc ấy khiến lão nam tước già cười phá lên. Tối hôm ấy, lão kể chuyện lại với bác Horrocks hơn chục lần làm cô Horrocks thấy vậy vô cùng buồn bực. Lão gõ gõ xuống mặt bàn và réo lên, bắt chước cách cô ta hát. Lão nhất định bảo rằng cô Horrocks có giọng hay như thế, không học hát cũng phí, phải thuê một ông thầy dạy hát mới được; cô “Đăng- ten” cũng thấy là phải. Đêm hôm ấy, lão vui quá, cùng ông bạn hầu rượu tha hồ nốc rượu rum cật lực... mãi đến khuya, người đầy tớ đồng thời là người bạn trung thành mới vực lão về phòng ngủ.

Nửa giờ sau, bỗng nhiên cả nhà tíu tít ồn ào hẳn lên. Lần lượt ánh đèn chiếu sáng rực từ cửa sổ này đến cửa sổ khác trong toà nhà cũ kỹ tiêu điều ấy, mà thường thường ông chủ chỉ dùng độ một, hai phòng. Một thằng nhỏ lập tức phi ngựa đi Mudbury tìm bác sĩ. Khoảng một giờ sau bà Bute Crawley và con trai là James Crawley từ nhà thờ chạy sang, qua cửa chính vẫn mở toang vào trong nhà (thế -nới biết bà này liên lạc chặt chẽ với bên trại tài tình thật).

Họ đi ngang qua gian phòng lớn và căn phòng khách nhỏ vách bằng gỗ sồi, thấy trên mặt bàn còn ba chiếc cốc vại, một cái vỏ chai rượu rum; qua căn phòng này đi thẳng vào phòng làm việc của cụ Pitt, họ bắt gặp cô Horrocks đeo “đăng-ten” đầy người đang lấm la lấm lét cầm một chùm chìa khoá tìm cách mở ngăn kéo bàn giấy và tủ “com-mốt”. Thấy đôi mắt bà Bute long lên sòng sọc như phát ra những tia lửa dưới chiếc mũ ngủ màu đen, cô ta sợ quá rú lên, đánh rơi chùm chìa khoá xuống đất.

Bà Bute chỉ ngay mặt cô con gái mắt đen bị bắt quả tang, thét:

- Nhìn xem kìa, này, ông Crawley và thằng James.

Cô “đăng - ten” vội kêu:

- Cụ ấy cho cháu đấy, cụ ấy cho cháu đấy!

Bà Bute rít lên:

- Cụ ấy cho mày à, quân khốn nạn kia. Có ông Crawley làm chứng nhé, chúng ta bắt quả tang cái con vô tích sự này đang hôi của của anh ông nhé. Rồi phải mang treo cổ nó lên mới được, tôi vẫn bảo thế mà.

Betsy Horrocks hoảng quá, vội quỳ mọp xuống đất, khóc nức nở. Nhưng ai hiểu thấu bụng dạ đàn bà, hẳn biết rằng họ không dễ dàng tha thứ, và càng thấy kẻ thù nhục nhã, họ càng sướng. Bà Bute nói:

- James, kéo chuông đi, kéo chuông gọi ngay mọi người đến đây.

Tiếng chuông réo lên inh ỏi không ngừng, ba bốn người đầy tớ chạy vội lại ngay. Bà Bute ra lệnh:

- Giam con này vào hầm. Chúng ta bắt quả tang nó đang ăn cắp của cụ Pitt. Ông Crawley làm hộ cho cái biên bản. Còn thằng Beddoes, sáng mai quăng nó lên xe ngựa mang về Southampton cho nó tù mọt gông.

Ông mục sư quan toà can thiệp:

- Bà nó ơi, con bé mới định...

Bà Bute giậm chân đành đạch, vẫn hét:

- Xiềng đâu? Trong nhà vẫn còn xiềng cơ mà. Thằng bố đẻ ra con ranh này đâu rồi?

Cô Betsy rên rỉ:

- Quả thực cụ ấy cho cháu, phải không chị Hester? Chị cũng trông thấy. Cụ Pitt cho tôi chùm chìa khoá từ lâu lắm rồi... có hay không thì chị biết đấy... Cái ngày sau phiên chợ Mudbury ấy mà, tôi có hỏi xin đâu. Nếu bà không tin, thì đây, cháu xin trả.

Nói đoạn cô Horrocks rút trong túi ra một đôi khoá giầy to tướng bằng nhựa cô ta vẫn thèm từ lâu, mãi vừa rồi mới lấy trộm được trong tủ sách ở phòng làm việc.

Hester, chị phụ bếp mới, vội nói:

- Này Betsy, chị dám mở mồm ra nói xưng xưng lên thế à? Mà lại nói dối cả bà Crawley là người nhân từ hiền hậu, cùng đức cha đáng kính đây à? (chị cúi rạp xuống chào).

- Thưa bà chìa khoá của cháu đây, xin bà cứ khám hòm xiểng của cháu, tuy bố mẹ cháu nghèo thật, lại được nuôi ở nhà tế bần nhưng... nếu bà tìm thấy một mụn vải nhỏ, hoặc một chiếc tất lụa nào, thì cháu chết ngay, không bao giờ còn đi lễ nhà thờ được nữa.

Người đàn bà đức hạnh rít lên:

- Đưa chìa khoá đây cho tao, con **!

- Nến đây, thưa bà. Nếu bà cho phép, thưa bà, cháu xin dẫn bà đến phòng của nó; lại còn cái tủ trong phòng quản gia nữa, nó chất các thứ nhiều vô kể.

Chị hầu Hester hăng hái nói, ra vẻ hết sức nịnh nọt:

- Khôn hồn thì câm cái mồm ngay. Tao thừa biết con ** ở những phòng nào rồi. Bà Brown, mời bà cùng đi với tôi. Còn Beddoes, mày canh con kia cẩn thận cho tao.

Bà Bute vớ lấy cây nến tiếp:

- Ông Crawley, ông lên ngay trên gác, xem có phải chúng nó giết anh ông không?

Và bà Bute có bà Brown đi kèm, bước về phía phòng của cô “Đăng-ten”. Quả thật đúng như lời bà nói, bà biết rõ lối đi không chút bỡ ngỡ.

Ông Bute lên gác, đã thấy ông bác sĩ Mudbury đến cùng bác Horrocks đang hoảng hốt săn sóc lão chủ trại nằm trong ghế bành. Họ đang định trích huyết cho lão tỉnh lại.

Sáng sớm hôm sau, bà vợ ông mục sư gửi thư hoả tốc cho Pitt Crawley, bà này tự đảm nhiệm lấy quyền lo liệu mọi việc, thức suốt đêm để canh lão Pitt. Lão cũng đã tỉnh lại, tuy không nói được, nhưng hình như lão nhận ra mặt người nhà. Bà Bute quyết định ở lại bên giường bệnh của lão. Bà không hề thấy buồn ngủ. đôi mắt dữ tợn cứ mở thao láo, mặc ông bác sĩ lăn ra ngáy khò khò trong ghế bành. Horrocks cũng cố gắng tỏ ra mình có quyền săn sóc ông chủ, nhưng bị nhà Bute mắng cho là thằng khốn nạn rượu chè be bét, lại cấm không cho vác mặt về cái nhà này, nếu không muốn bị treo cổ như con gái.

Hoảng quá, bác ta chuồn ra căn phòng khách lát gỗ sồi; James vẫn ngồi đó; thấy chai rượu đã cạn khô, anh ta sai bác Horrocks đi lấy một chai rum khác và mấy cái cốc sạch, hai bố con ông thầy tu ngồi uống rượu, ra lệnh cho bác Horrocks trả lại chìa khoá rồi cút đi nơi khác mà ở, không được thò mặt về đây nữa.

Bác Horrocks mất hết tinh thần, vội giao trả chìa khoá; đêm hôm ấy, bác và cô con gái len lén chuồn thẳng hết hy vọng trở lại trai Crawley Bà chúa.

Chương 40
REBECCA ĐƯỢC GIA ĐÌNH NHÀ CHỒNG CÔNG NHẬN

Được tin bố hấp hối, ông con cả vội trở về trại Crawley Bà chúa và từ lúc đó có thể coi như anh ta nắm mọi quyền hành trong trại Crawley. Lão nam tước già còn sống dai dẳng thêm mấy tháng nữa, nhưng không hoàn toàn tỉnh táo, cũng chỉ ú ớ không nói được thành tiếng rõ ràng; anh con trai phải lo quản lý công việc trong trại. Pitt thấy tình hình làm ăn trong trại không ra sao. Lão Pitt già có thói hay mua bán cầm cố luôn luôn; lão có tới hai chục người cộng sự, người nào cũng có chuyện xích mích với lão; lão cãi nhau với tá điền phát đơn kiện họ, kiện cả thầy kiện, kiện cả Công ty hầm mỏ mà lão có cổ phần, kiện tất cả mọi người có việc làm ăn chung với lão. Gỡ cho xong mớ bòng bong ấy để dựng lại cơ nghiệp cũ thật là một công việc xứng với tài năng của viên nguyên đại diện ngoại giao tại tiểu triều đình Pumpernickel, con người hết sức ngăn lắp và kiên nhẫn; anh ta cần cù bắt tay ngay vào việc. Dĩ nhiên cả gia đình Pitt di chuyển về trại Crawley Bà chúa, và dĩ nhiên Southdown phu nhân cũng về theo. Bà này rắp tâm cải tạo một lũ thầy tu không chính thức, khiến cho bà Bute tức nổ đom đóm mắt. May thay lão Pitt chưa bán lại quyền thừa kế cai quản nhà thờ. Southdown phu nhân định bụng bao giờ lão mục sư chết sẽ đưa một người tay chân vào thay thế. Nhà ngoại giao Pitt không tỏ ý kiến gì về việc này.

Bà Bute chỉ doạ già cô Betsy Horrocks thôi, chứ không làm thật. Sau khi chuồn khỏi trại Crawley Bà chúa, bác Horrocks mở một quán rượu trong làng gọi là “quán huy hiệu Crawley”; trước bác đã thuê lại của cụ Pitt. Viên cựu quan lý bây giờ có cả một cái ấp riêng và từ nay bác có quyền bầu cử đại diện thị trấn. Cử tri thứ hai là ông mục sư cùng bốn người nữa, họ trở thành toàn bộ cử tri có quyền bầu hai đại biểu cho trại Crawley Bà chúa.

Đám phụ nữ bên trại và bên nhà thờ đối đãi với nhau rất lịch sự, đúng hơn là giữa mấy cô thiếu nữ và người đàn bà trẻ tuổi, vì bà Bute và bà Southdown hễ gặp nhau là y như có chuyện cãi cọ; dần dần hai người không nhìn mặt nhau nữa. Mỗi khi mấy mẹ con bà Bute sang trại chơi là bà tước phu nhân đóng kín của ngồi trong phòng. Có lẽ Pitt không lấy làm buồn lắm về chuyện thỉnh thoảng bà mẹ vợ lại đi vắng ít lâu. Theo ý anh ta, dòng họ Binkie vẫn là một dòng họ nổi tiếng đáng được trọng vọng nhất nước Anh vì đức tính khôn ngoan. Từ lâu bà cô anh và bá tước phu nhân vẫn có uy tín đối với anh. Nhưng đôi khi anh ta cũng thấy bà mẹ vợ đàn áp mình hơi quá. Được coi là còn trẻ, kể cũng thú đấy, nhưng bốn mươi sáu tuổi đầu mà cứ bị coi là trẻ con thì cũng hơi nhục. Đối với mẹ, thế nào công nương Jane cũng nhịn được; cô ta chỉ chăm chút nâng niu mấy đứa con... May quá, Southdown phu nhân còn bận bù đầu suốt ngày, nào họp với các linh mục, nào viết thư cho các nhà truyền giáo ở khắp các châu Phi, châu Á, châu Úc, v.v... không có thì giờ nhớ tới cháu gái là cô Matilda và thằng cháu trai là cậu Pitt Crawley. Thằng bé này gầy còm, Southdown phu nhân phải cho nó uống thật nhiều thuốc calomen, nó mới sống.

Cụ Pitt bây giờ sống ngay trong gian phòng, nơi trước kia Crawley phu nhân đã từ giã cõi trần; lão được chị Hester mới vào làm săn sóc chu đáo lắm. Ai mà yêu thương, trung thành, chăm nom chủ đến nơi đến chốn bằng một người làm được trả tiền công hậu hĩ. Họ trải giường, sắc thuốc, nửa đêm không quản thức dậy, nghe người ốm rên rỉ không hề sốt ruột; ngoài trời nắng đẹp, mặc, họ không hề nghĩ đến chuyện bỏ đi chơi; họ ngủ trong ghế bành, lủi thủi ăn cơm một mình; suốt những buổi tối dài đằng đẵng, họ ngồi yên theo dõi những cục than trong lò sưởi làm sôi âm ỉ siêu thuốc của người ốm. Suốt tuần lễ họ chỉ ngồi đọc báo; quanh năm chỉ biết đến máy tác phẩm văn học như “Tiếng gọi thiêng liêng” hay “Nhiệm vụ của con người”. Thế mà chúng ta còn mắng mỏ họ, chỉ vì bố mẹ họ hằng tuần đến thăm con và nhận quà dấm dúi của con là một lọ rượu giấu trong bọc quần áo. Thưa các bà, thử hỏi có người đàn ông nào yêu vợ đến mức săn sóc được hàng năm ròng như thế không? Vậy mà chỉ mất có mười đồng tiền công ba tháng ta đã cho là quá đắt. Pitt Crawley chỉ mất có một nửa số tiền ấy để trả công cô Hester hầu hạ bố mình, thế mà anh ta đã kêu ầm lên là tốn rồi.

Hôm nào nắng ráo, lão nam tước được ngồi trong ghế có bánh xe đẩy ra ngoài sân... chính là chiếc ghế lăn bà Crawley đã có lần dùng ở Brighton. Người ta mang nó về trại Crawley Bà chúa cùng một ít đồ dùng của Southdown phu nhân. Công nương Jane bao giờ cũng đi kèm bên lão, lão cũng có vẻ mến con dâu nhất nhà. Cứ trông thấy con dâu, lão lại gật gật đầu, mỉm cười; cô ta bỏ đi thì lão lại thốt ra những tiếng kêu van lơn ú ớ. Con dâu ra khỏi phòng, đóng cửa lại, lão ngồi thút thít khóc một mình... Lúc bà chủ có mặt, chị Hester nói với ông cụ chủ thật ngọt ngào, dịu dàng; bà chủ vừa ra khỏi, chị ta đổi ngay thái độ, cau mày nhìn lão già, giơ nắm tay ra doạ, và quát: “Im cái mồm, con khỉ già”, rồi xoay cái ghế không cho lão nhìn vào ngọn lửa trong lò sưởi nữa; lão lại càng khóc khoẻ. Sau hơn bảy mươi năm trời mưu mẹo, vật lộn, rượu chè, tội lỗi, vơ vét, chỉ còn lại một lão già ngơ ngẩn, suốt ngày rền rĩ khóc lóc, ăn nằm tắm rửa đều phải có người giúp như một đứa trẻ con.

Cuối cùng, cái ngày lão không còn cần ai phải hầu hạ nó đã đến. Một buổi sớm, Pitt Crawley đang ngồi kiểm soát sổ chi tiêu trong phòng thì có tiếng gõ cửa, rồi thấy Hester bước vào, cúi rạp xuống chào, nói:

- Thưa tôn ông, cụ Pitt... cụ Pitt mất sớm nay rồi, thưa tôn ông Pitt, con đang nướng bánh cho cụ, để cụ ăn cháo, thưa tôn ông Pitt, cụ vẫn quen dùng bữa sáng vào hồi sáu giờ, thưa tôn ông Pitt, cụ Pitt; thế rồi...Con thấy như có tiếng rên, và...và…

Chị ta lại cúi rạp xuống chào một lần nữa.

Vì sao bộ mặt vốn tai tái của Pitt lại bỗng đỏ tía lên? Phải chăng vì anh ta thế là trở thành tôn ông Pitt, chiếm một ghế trong quốc hội và có lẽ còn biết bao nhiêu vinh dự khác sau này? “Bây giờ mình mới có thể thanh toán cho xong hết nợ nần bằng tiền mặt, để khôi phục lại việc làm ăn trong trại” - Pitt nghĩ thầm. Anh ta tính nhẩm rất nhanh các món chi tiêu sẽ phải được hưởng gia tài của bà cô ra tiêu, vì sợ nhỡ lão Pitt khỏi bệnh, thì chẳng hoá ra đem đổ của xuống sông xuống bể hay sao?

Cả bên trại và bên nhà thờ cửa sổ đều đóng kín mít, chuông nhà thờ đổ hồi, cửa nhà thờ căng vải đen báo tang. Bute Crawley không đi xem đua xe ngựa, lão chỉ thản nhiên đi chén một bữa ở Fuddleston với bạn, vừa uống rượu vừa bàn tán về cái chết của ông anh và về tôn ông Pitt con. Cô Betsy đã lấy chồng là một bác thợ đóng yên ngựa; nghe tin, cô cũng khóc lóc thảm thiết. Viên thầy thuốc của gia đình vội cưỡi ngựa đến chia buồn và hỏi thăm sức khoẻ của các bà các cô trong nhà. Khắp Mudbury, và ở quán rượu “Huy hiệu Crawley” ai cũng bàn tán về cái chết này; lão mục sư đã làm lành với bác chủ quán, vì thỉnh thoảng thấy ông ta cũng vào hàng uống chơi một cốc bia.

Công nương Jane hỏi chồng, bây giờ tức là tôn ông Pitt:

- Để em viết thư cho chú ấy... hay là mình viết?

Pittt đáp:

- Dĩ nhiên, phải gọi chú ấy về dự lễ mai táng chứ, cho nó phải đạo. Công nương lên rụt rè tiếp:

- Thế còn... còn thím Rawdon?

Southdown phu nhân nói:

- Jane! Sao cô lại nghĩ chuyện vớ vẩn thế?

Pitt cương quyết đáp:

- Dĩ nhiên phải mời cả thím Rawdon.

Southdown phu nhân phản đối:

- Còn mặt tôi ở đây, không thế được.

Pitt đáp:

- Mong phu nhân nhớ cho rằng trong nhà này tôi là chủ. Jane, mình viết ngay hộ tôi một lá thư gửi thím Rawdon Crawley, mời về dự tang lễ.

Bà bá tước quát lên:

- Jane, tôi cấm cô viết đấy.

Pitt nhắc lại:

- Hình như tôi là chủ nhà này thì phải. Dầu có xảy ra chuyện đáng tiếc, vì vậy mà phu nhân phải rời khỏi gia đình này, tôi cũng đành cứ phải làm cho đầy đủ nhiệm vụ.

Southdown phu nhân đứng phăng ngay dậy kiêu hãnh y như là bà Siddons trong vai Macbeth phu nhân, ra lệnh người hầu lập tức thắng ngựa vào xe. Nếu bà bị con rể và con gái đuổi đi, bà sẽ tìm một nơi vắng vẻ để quên nỗi buồn và cầu nguyện cho họ nghĩ lại.

Công nương Jane, giọng van lơn, rụt rè nói với mẹ:

- Chúng con có đuổi má đi đâu, má.

- Cô mời khách khứa như thế đến nhà, thì người ngoan đạo nào mà muốn giáp mặt cơ chứ. Sáng mai, tôi đi.

- Jane, yêu cầu mình viết theo lời tôi đọc đây.

Đoạn Pitt đứng lên, điệu bộ quyền thế, trông y như trong tranh ở phòng triển lãm, anh ta bắt đầu đọc:

“Trại Crawley Bà chúa, ngày 14 tháng chín, năm 1822...

Chú thân mến...”.

Thật là những tiếng quyết định ghê gớm. Macbeth phu nhân còn đang ngần ngừ đứng chờ xem con rể có ý nhượng bộ hay không, không thấy, lập tức đứng phắt lên, mắt gườm gườm bước ra khỏi phòng. Công nương Jane ngước nhìn chồng, có ý xin chồng cho mình theo ra khuyên giải mẹ, nhưng Pitt bắt vợ ngồi yên.

- Bà cụ không bỏ đi đâu mà sợ. Bà cụ cho thuê lại ngôi nhà ở Brighton và đã tiêu hết sáu tháng tiền nhà rồi. Bá tước phu nhân mà trọ khách sạn thì còn ra thể thống gì. Tôi chờ từ lâu lắm mới có dịp này mình ạ. Mình cũng thấy đấy, trong một nhà không thể có hai người cùng làm chủ, bây giờ ta trở lại bức thư:

- Chú thân mến, tin buồn mà tôi có nhiệm vụ loan báo cho mọi người trong gia đình rõ đây, hẳn chú cũng chờ đợi từ lâu..v.v..”.

Tóm lại, nhờ may mắn, hoặc theo ý Pitt là do trời đền công, nên anh ta đã trở thành chủ nhân tất cả tài sản xưa nay mọi người trong gia đình vẫn khao khát; anh ta định tâm đối xử tử tế với bà con trong họ và gây dựng lại cơ nghiệp trại Crawley Bà chúa. Cứ nghĩ rằng mình là ông chủ mà sướng quá. Anh ta tin rằng nhờ tài năng, nhờ địa vị, mình sẽ mau có thế lực trong quận; anh ta sẽ dựa vào đó mà gây dựng cho em trai và các em họ tử tế, cũng có lẽ vì Pitt hơi hối hận khi nghĩ rằng mình nắm trong tay tất cả mọi thứ các em vẫn hy vọng được hưởng. Mới nắm quyền hành được có ba bốn ngày, mà thái độ anh ta đổi hẳn: kế hoạch đã vạch ra sẵn sàng. Pitt quyết định đối đãi công bằng, vô tư với mọi người, chấm dứt sự thống trị của Southdown phu nhân, và ăn ở thực tốt với bà con họ hàng.

Thế là anh ta bảo vợ viết gửi cho Rawdon một lá thư trịnh trọng, đầy những lời lẽ sâu sắc, tràng giang đại hải; cô thư ký mộc mạc viết theo lời chồng đọc phục quá, nghĩ thầm: “Được vào Hạ nghị viện, chắc anh ấy là một tay đại hùng biện (đêm đêm nằm với nhau trên giường, thỉnh thoảng Pitt vẫn thủ thỉ với vợ về chuyện này, cũng như về thói ngược ngạo của Southdown phu nhân); chồng mình khôn ngoan, tốt bụng quá; thật là một thiên tài! Kể ra anh có hơi lạnh lùng nhưng con người thật tốt bụng và thật là thiên tài!” Thực ra Pitt Crawley đã thuộc lòng từng chữ trong lá thư trước khi đọc cho vợ viết, anh ta đã kín đáo nghiền ngẫm cân nhắc kỹ càng kỳ thật hoàn hảo, đúng kiểu các nhà ngoại giao, trước khi có dịp thuận tiện để đọc cho vợ nghe mà ngạc nhiên.

Pitt Crawley lập tức gửi lá thư báo tang có viền đen to tướng và có đóng dấu cho em trai ở Luân đôn. Nhận được thư. Rawdon Crawley không được vui vẻ lắm. Anh ta tính toán: “Về cái nhà phải gió ấy làm gì? Cơm xong phải ngồi một mình với Pitt thì chịu sao nổi, mà tiền thuê ngựa khứ hồi cũng tốn đến hai mươi đồng bảng”.

Rawdon mang thư cho vợ xem, cùng với cốc sôcôla là cái món mà sáng sáng anh vẫn chuẩn bị rồi bưng lên cho vợ. Bất kỳ khi nào gặp khó khăn anh cũng tìm vợ để vấn kế. Lúc này Becky vẫn nằm trong phòng ngủ trên gác. Rawdon đặt khay sôcôla và lá thư trên mặt bàn trang điểm. Becky đang đứng bên cạnh bàn gỡ món tóc vàng óng. Đọc xong là thư viền đen, cô ta nhảy từ trên gác xuống đất, múa tít lá thư trên đầu, kêu ầm lên: “Hoan hô!”.

Rawdon thấy vợ nhảy cỡn lên trong bộ áo ngủ bằng dạ dài lượt thượt, tóc tung rã rượi, lạ lắm hỏi:

- Hoan hô? Ông lão có chia cho mình tí gì đâu. Hồi mới đến tuổi thành niên tôi đã lãnh phần gia tài của tôi rồi.

Becky đáp:

- Anh sẽ không bao giờ đến tuổi thành niên, khỉ lắm. Chạy mau lên hiệu bà Brunoy hộ một tý! Em phải may một cái áo tang mới được; còn anh cũng phải kiếm một cái băng đen gài vào mũ và một cái áo đen nữa... hình như anh chưa có thì phải. Bảo thợ may ngay sáng mai phải xong, thứ năm ta về.

Rawdon hỏi:

- Thế nào, định về thật à?

- Lại chẳng thật thì dối ư? Như thế nghĩa là sang năm công nương Jane sẽ đưa em vào chầu trong triều; nghĩa là ông anh trai sẽ lo cho anh một chân nghị sĩ quốc hội con khỉ già ạ. Cũng có nghĩa là hai anh em nhà anh sẽ ủng hộ hầu tước Steyne, nghe chưa, anh nỡm; và anh sẽ trở thành bí thư của phó vương Ai len hoặc quan thống đốc ở Tây Ấn Độ, hoặc chủ kho bạc, hoặc lãnh sự, đại khái như thế.

Rawdon càu nhàu:

- Hãy cứ biết tốn khối tiền xe pháo trước mắt đã.

- Sao chúng mình không mượn xe của gia đình Southdown, họ phải đến đưa đám chứ, có họ với nhau cơ mà. Nhưng mà thôi... em nghĩ nên đi xe khách thì dễ coi hơn. Trông có vẻ xuềnh xoàng...

Viên trung tá hỏi vợ:

- Cho cả thằng Rawdy về chứ?

- Cho nó về làm gì, tốn tiền xe vô ích. Nó lớn rồi, không ngồi kèm được đâu. Cứ để nó ở đây. Bà Briggs sẽ may cho nó một cái áo đen để trở. Thôi đi đi, nhớ làm đúng lời em dặn nhé. Anh nên bảo qua thằng Sparks, thằng hầu nhà ta ấy, rằng cụ Pitt vừa mất, anh về lo liệu tang ma xong, sẽ có một món tiền lớn. Nó sẽ kháo với bác Raggles, bác ta đang thúc tiền mình, chắc sẽ yên tâm.

Đoạn Becky bắt đầu nhấm nháp cốc sôcôla.

Tối hôm ấy, vị hầu tước Steyne trung thành đến chơi, lão thấy Becky và người tỳ nữ - chẳng phải ai xa lạ, chính là bà Briggs - đang túi bụi lên mà cắt, mà khâu, mà tháo chỉ, mà xé đủ mọi thứ vải đen dùng may áo tang.

Rebecca nói:

- Ông bố chồng em vừa mất. bà Briggs với em đang đứt từng khúc ruột đây. Thưa ngài, tôn ông Pitt Crawley không còn nữa. Sớm nay, chúng em đã xé đầu, bứt tóc rồi, bây giờ còn cái quần áo cũ nào chúng em lại xé nốt để may tang phục đây.

- Kìa, sao bà lại ăn nói... - Bà Briggs ngẩng đầu nhìn, chỉ nói được có thế. Lão hầu tước nhại lại:

- “Kìa, sao bà lại ăn nói...”. Vậy ra cái lão xỏ lá ấy ngoẻo rồi hả? Nếu khôn ngoan hơn một chút, lão có hy vọng được phong tước “đại quan” cơ đấy. Pitt đã cố gắng để lái lão ta đến mục tiêu ấy, song lão lại làm hỏng việc. Lão thật là một cái hũ rượu không đáy, nhỉ?

Rebecca đáp:

- Suýt nữa em phải là goá phụ của cái hũ rượu ấy đấy. Bà Briggs còn nhớ không? Cái lần bà nhòm qua lỗ khoá, thấy lão quỳ mọp trước mặt tôi ấy mà.

Nhắc đến chuyện cũ, bà Briggs đỏ tía mặt lên vì ngượng. May quá, hầu tước Steyne sai bà xuống nhà lấy một cái ly trà.

Bà Briggs chính là con chó giữ nhà Rebecca nuôi để canh giữ sự trong trắng và tiếng tăm của mình. Bà Crawley có cho bà này ít tiền trợ cấp. Bà Briggs cũng muốn ở lại trong gia đình Crawley với công nương Jane, cô ta đối xử với mọi người rất tốt; nhưng Southdown phu nhân khéo léo tìm cớ đuổi bà đi. Pitt không phản đối hành động tàn nhẫn của mẹ vợ; anh ta thấy chẳng qua trong mấy chục năm trời bà Briggs cũng chỉ là một người đầy tớ trung thành, được bà Crawley cho nhiều tiền là thiệt thòi cho anh ta.

Lĩnh xong phần gia tài của mình, bác Bowls và bà Firkin cũng được mời đi nơi khác. Hai người lấy nhau, mở một quán trọ, đúng phong tục của giới gia nhân.

Bà Briggs định về quê sống với gia đình, nhưng không chịu được, vì bà sống với những người sang trọng quen rồi. Họ hàng của bà Briggs, vốn là người bán hàng vặt ở một thị trấn miền quê, bắt đầu kèn cựa nhau về số tiền bốn mươi đồng trợ cấp đồng niên của bà, còn gay go trắng trợn hơn cả họ hàng bà Crawley tranh nhau cướp nhau gia tài của bà này. Em trai bà Briggs là một bác thợ mũ và bán tạp hoá có tư tưởng tiến bộ kết án bà là một mụ quý tộc hợm của, chỉ vì bà không chịu cấp cho anh ta một ít tiền để mở mang cửa hiệu. Lẽ ra bà cũng không tiếc nếu không có cô em lấy chồng, là vợ một bác thợ giầy không theo tôn giáo chính thống vẫn xích mích với ông anh thợ mũ vì hai người đi lễ hai nhà thờ khác nhau; cô này tố cáo với bà là anh trai sắp phá sản, và một dạo cô cũng đã định nẫng món tiền của bà. Bác thợ giầy muốn bà Briggs nuôi con trai mình ăn học cho nó trở thành một người thượng lưu. Bà chia cho hai gia đình nhà này một ít tiền rồi trốn sang Luân đôn và bị các em nguyền rủa thậm tệ. Thấy đời sống tự do tốn kém quá, bà quyết định lại trở về cuộc sống đời nô lệ vậy. Bà đăng báo trên mục rao vặt thế này: “Phụ nữ đứng đắn, lịch sự, quen thuộc với phong tục trong các gia đình thượng lưu, đang cần... v.v...” rồi đến ở chung với bác Bowls ở phố Nửa Vầng Trăng chờ kết quả.

Thế là bà về ở với Rebecca. Một hôm bà Briggs đến toà báo “Thời báo” ở khu City để đăng quảng cáo xin việc làm lần thứ sáu, vừa đi bộ về đến cửa nhà bác Bowls, người mệt lả, thì gặp bà Rawdon ngồi xe song mã phóng qua phố. Rebecca tự mình đánh xe, nhận ra “người phụ nữ đứng đắn lịch sự” mình vẫn có cảm tình, cô ta lập tức kìm ngựa lại, vứt dây cương cho thằng hầu, nhảy xuống đấy.

Bà này đột nhiên gặp lại bạn cũ còn đang bàng hoàng cả người chưa kịp định thần lại thì cô đã nắm chặt lấy cả hai bàn tay bà.

Bà Briggs khóc, Becky thì cười phá lên; vừa vào đến nhà, Becky ôm ngay lấy bà ta mà hôn. Hai người bước vào phòng bác Bowls; riềm cửa toàn bằng vải nhung kẻ đỏ; một tấm gương tròn to treo trên tường, mé trên có hình một con chim diều hâu bị xích chân hướng ra phía cửa sổ có chiếc biển đề: “Phòng cho thuê”.

Bà Briggs kể lại đầu đuôi chuyện mình giữa những tiếng nức nở và những tiếng nghẹn ngào không cần thiết, đúng kiểu người đàn bà đa cảm khi gặp lại bạn cũ hoặc nhìn thấy người quen qua đường. Lắm người ngày ngày vẫn gặp nhau mà cứ làm như xa cách hàng năm. Đàn bà dù ghét nhau như đào đất đổ đi, nhưng hễ gặp nhau là y như khóc, rồi than thở mãi về chuyện xích mích đã qua.

Tóm lại, bà Briggs dốc hết bầu tâm sự, rồi đến lượt Becky cũng kể lại với đời mình, vẫn với cái giọng ngây thơ, mộc mạc mọi khi.

Bác Bowls gái, là bà Firkin, mò vào lắng nghe hai người sụt sùi với nhau trong phòng khách. Xưa nay bác vẫn ghét Rebecca. Từ hồi hai vợ chồng mở quán trọ ở Luân đôn họ vẫn đi lại với bác Raggles là bạn cũ; bác này đem chuyện vợ chồng viên trung tá ra kể, họ gạt đi không nghe. Bác Bowls nói: “Tôi chả bao giờ tin hắn ta, bác Raggles ạ”. Ra khỏi phòng khách, bà Rawdon chào bác Bowls gái, bác này mỉa mai cúi đầu đáp lại. Bà Rawdon nhất định đòi bắt tay người hầu cũ; bác Bowls gái chìa ra mấy ngón tay cứng đờ như những khúc xúc xích. Rebecca mỉm cười thật tươi, gật đầu chào bà Briggs rồi phóng xe đi Piccadilly; bà này cứ đứng bên chiếc biển quảng cao cho thuê phòng mà nhìn theo gật gật cái đầu mãi; một lúc sau, đã thấy Rebecca ở công viên, có một lũ công tử bột lỏng buông tay khấu sau xe rồi.

Nắm được hoàn cảnh của bà bạn, lại biết bà này có món trợ cấp kha khá của bà Crawley, nên không lo phải trả tiền công. Becky lập tức tính chuyện mướn bà Briggs ở không công cho mình. Thật là một người tỳ nữ rất thích hợp. Cô ta bèn mời bà Briggs đến ăn cơm ngay tối hôm ấy, nhân tiện giới thiệu thằng cháu yêu Rawdy một thể.

Bác Bowls gái ngăn bạn chớ có chui vào hang hùm, “bác vào nơi ấy rồi thì hối không kịp đâu. Nếu sai, cứ đem đầu tôi ra mà chặt”. Bà Briggs hứa sẽ thận trọng. Kết quả là tuần lễ sau, bà ta dọn đến ở với vợ chồng Rawdon, và chưa đầy sáu tháng đã cho Rawdon Crawley vay tất cả sáu trăm đồng trích trong số tiền trợ cấp hằng năm của mình rồi.

Chương 41
BÊCKY VỀ THĂM NHÀ CHỒNG

Áo tang may đầy đủ, vợ chồng trung tá Rawdon báo cho Pitt Crawley biết tin họ sẽ về dự lễ mai táng, rồi thuê hai chỗ ngồi trên chiếc xe ngựa “High-flyer”; lại đúng là chiếc xe ngựa đã đưa Rebecca cùng đi với lão nam tước già đã quá cố đến trại chín năm về trước.

Cô ta còn nhớ như in cái sân trạm thay ngựa, cả thằng bồi ngựa không được cô đãi tiền uống nước, và cái anh chàng sinh viên Cambridge khéo tán đã lấy áo ủ cho cô suốt dọc đường. Rawdon ngồi bên ngoài định giong cương, nhưng thấy không tiện vì đang có đại tang. Anh ta ngồi cạnh bác xà ích, luôn miệng tán chuyện ngựa nghẽo, chuyện đường sá suốt chuyến đi, những là hồi anh ta và Pitt còn nhỏ học ở trường trung học Eton, ai coi trạm đổi ngựa, ai đóng ngựa vào xe... đến Mudbury, thấy có một chiếc xe ngựa riêng đón sẵn với một bác xà ích mặc tang phục. Rebecca chen vào nói:

- Vẫn chiếc xe cũ, anh Rawdon ạ. Nhậy cắn hết cả đệm rồi...chỗ này là cụ Pitt làm bẩn...ông Dawson hàng sắt kéo kín rèm cửa...cụ Pitt gắt cứ ngậu lên. Lần ấy chính vì ông lão đánh vỡ chai rượu mà chúng em phải đi Southampton kiếm một chai khác cho bà cô. Thấm thoắt thế mà chóng thật! Cái cô bé đứng cạnh mẹ trong nhà kia, chắc là Polly Talboys. Em còn nhớ hồi bé cô ta ghẻ lở vẫn xới cỏ trong vườn.

-“Con bé xinh quá” - Rawdon vừa nói vừa giơ hai ngón tay đặt vào cái băng tang trên mũ để đáp lại lời chào của hai mẹ con cô bé.

Becky cúi chào đáp lại người này người khác, rất nhã nhặn. Nhận ra họ cô thích lắm. Cô cảm thấy mình không phải là con cái trong nhà về thăm lại nơi quê cha đất tổ. Trái lại Rawdon có ý ngượng và không được vui. Không biết vì nhớ lại những ngày còn bé bỏng ngây thơ hay vì tưởng tới cách ăn ở trước kia của mình mà anh ta thấy xấu hổ? Rebecca nói:

- Hai cô em bây giờ lớn lắm rồi nhỉ?

Có lẽ đây là lần đầu tiên Rebecca nhớ đến mấy cô học trò cũ.

Viên trung tá đáp:

- Ai biết được. Ê, ê! Mụ Lock kia kìa. Thế nào, mạnh khoẻ chứ, bà Lock? Còn nhớ tôi không? Cậu Rawdon hả? Bỏ mẹ thật, mấy mụ già sống dai quá, hồi mình còn bé, mụ đã một trăm tuổi rồi.

Hai vợ chồng bước vào cổng trại, Rebecca nhất định đòi bắt tay bà cụ Lock vẫn ngồi cạnh cổng. Bà lão mở toang hai cánh cổng sắt rít lên ken két, chiếc xe ngựa lăn giữa hai cái cột cũng đầy rêu, trên có đắp hình con rắn và con bồ câu.

- Đốn mất vô số gỗ rồi.

Rawdon nhìn quanh nói vậy, rồi lại yên lặng... Becky cũng không nói gì. Nghĩ đến quá khứ, cả hai cùng bị xúc động mạnh.

Anh chồng nhớ đến trường học hơn, nhớ đến mẹ, một người đàn bà kín đáo lạnh lùng, nhớ đến cô em gái đã chết mà anh ta rất quý; anh ta lại nhớ cả xưa kia nhiều lần bắt nạt Pitt, nhớ thằng Rawdy bỏ lại ở nhà. Rebecca thì nhớ lại tuổi trẻ của mình, nhớ những chuyện bí mật tối tăm trong thời gian mình hư hỏng quá sớm; nhớ cả ngày mình bước vào cuộc đời qua cái cổng này, nhớ bà Pinkerton, Joe và Amelia.

Con đường rải cuội và mảnh sân trước nhà đã được cạo rửa sạch sẽ. Trên cửa chính, đã thấy treo một tấm huy hiệu lớn. Lúc xe dừng lại trước thềm nhà, hai người gia nhân cao lớn bận áo tang màu đen mở rộng hai cánh cửa. Hai vợ chồng khoác tay nhau đi qua gian phòng lớn; mặt Rawdon đỏ bừng, mặt Rebecca thì hơi tái đi. Lúc bước vào gian phòng khách lát gỗ sồi, cô ta bấm vào cánh tay chồng; Pitt và vợ đang chờ tiếp họ. Pitt mặc áo đen, công nương Jane cũng được mặc áo đen; Southdown phu nhân đính trên mũ một túm lông chim màu đen to tướng, cứ phất phơ trên đầu như túm lông trên nóc xe tang. Pitt đoán đúng, bà bá tước không dám bỏ đi thật. Bà chỉ giữ một thái độ lạnh lùng trịnh trọng khi ngồi cùng Pitt và cô vợ bướng bỉnh của anh ta, còn bọn trẻ con thấy cái vẻ mặt khủng khiếp của bà thì sợ thất đảm. Chỉ thấy cái túm lông trên mũ khẽ đụng đậy đón chào hai vợ chồng Rawdon, hai đứa con hư trở về với gia đình.

Nói cho đúng ra hai vợ chồng Rawdon cũng chẳng để ý gì cái thái độ lạnh nhạt của bà. Trước mắt họ, phu nhân chỉ đóng một vai trò rất phụ...họ chú ý hơn đến sự tiếp đón của vợ chồng ông anh trai là những người đang nắm quyền hành trong nhà.

Pitt mặt hơi đỏ bước tới bắt tay em trai, vẫy tay rồi cúi rạp xuống chào Rebecca. Công nương Jane nắm lấy cả hai tay cô em dâu rồi ôm hôn thân mật lắm. Tuy vậy cô bé xảo quyệt của chúng ta cũng rơm rớm nước mắt... chúng ta đã biết rất ít khi cô dùng đến vật trang sức này. Thấy cử chỉ mộc mạc của lòng tin yêu, cô có ý cảm động, vui vui. Rawdon thấy chị dâu thân mật cũng đánh bạo vén bộ ria mép xin phép được hôn công nương Jane một cái làm cho người chị dâu đỏ ra cả mặt lên. Lúc chỉ còn hai vợ chồng với nhau, Rawdon bảo vợ:

- Công nương Jane trông xinh tuyệt. Pitt dạo này phát phì, công việc làm ăn có vẻ khấm khá đấy chứ.

Rebecca đồng ý với chồng:

- Bác ấy có điều kiện. lắm, bà mẹ vợ nom như con ma lem. Hai cô em anh cũng xinh xắn đáo để.

Hai cô này cũng xin phép nghỉ học để về chịu tang bố. Hình như tôn ông Pitt Crawley quan tâm đến uy thế của gia đình nên muốn tập trung càng nhiều người mặc màu đen càng hay. Hết thảy đầy tở trai gái trong nhà, các bà già trong trại làm phúc - lão già vừa chết đã ăn bớt vô khối tiền trợ cấp của họ - gia đình lão mục sư, những người trương đất của trại, tất cả đều mặc đồ đen; cộng vào đó, còn bọn phu đòn đám ma, khoảng hai chục người, cũng đeo băng tang; phường đám trông cũng long trọng vui mắt ra trò...Nhưng đó là những nhân vật phụ, không cần mô tả dài lời làm gì.

Đối với hai cô em chồng, Rebecca không làm ra mặt quên mình xưa kia chỉ là cô giáo dạy tư, cô ta thẳng thắn nhắc lại chuyện cũ, nghiêm trang hỏi thăm việc học hành, lại nói thêm rằng nhiều bận nhớ đến các em, chỉ mong sao các em sung sướng là mừng. Nghe vậy người ta tưởng đâu rằng cô ta chưa bao giờ quên hai cô bé, và chỉ cầu mong cho các em được hưởng hạnh phúc. Crawley phu nhân và hai cô em chồng cũng yên trí như vậy.

Cô Rosalind và cô Violet đứng bày bàn ăn, bảo nhau: “Tám năm rồi mà trông chị ấy chẳng thay đổi mấy nhỉ? Những người đàn bà tóc màu hung nom xinh lạ. ”

Cô Rosalind tiếp:

- Tóc chị ấy xám hơn trước, chắc chị ấy nhuộm. Người có hơi đẫy ra, thế mà trông lại càng ưa nhìn cơ đấy.

Chả là chính cô Rosalind cũng đang hơi đẫy người ra.

Được cái chị ấy không làm bộ làm tịch, vẫn còn nhớ xưa kia chỉ là cô giáo dạy chúng mình học.

Cô Violet nói vậy, ngụ ý rằng các cô giáo dạy trẻ cũng nên biết phận mình một tý. Cô quên khuấy rằng tuy cô là cháu nội tôn ông Walpole Crawley thật, nhưng ông ngoại cô chỉ là ông Dawson buôn bán ở Mudbury; ví phỏng có huy hiệu nên vẽ thêm một cái xẻng xúc than vào thì cũng hợp cảnh. Trong Hội chợ phù hoa, ta luôn gặp vô khối người đứng đắn có thói dễ quên như vậy đấy.

- Thế mà mấy cô bên nhà thờ cứ bảo rằng mẹ đẻ ra chị ấy là vũ nữ Opera, chắc họ nói láo.

Rosalind đáp rất phóng khoáng:

- Ở đời ai chọn được cửa mà đầu thai? Chị đồng ý với anh cả rằng bây giờ chị ấy đã là người trong nhà, chúng mình nên kính trọng, cô Bute cũng nên im mồm đi thì phải. Cô ấy đang thèm gả con Kate cho thằng Hooper bán rượu, lại cứ nhất định bắt thằng kia phải đến nhà thờ để làm thầy dòng.

- Không biết Southdown phu nhân có đi ở chỗ khác không, bà ta có vẻ ghét chị Rawdon lắm.

- Bà ấy đi là may. Sao mà em ghét đọc quyển “Người đàn bà giặt thuê ở Finchley” thế. Cô Vaiơlơnx tiếp.

Hai chị em tránh cái hành lang dẫn tới một căn phòng, trong đặt chiếc quan tài có hai người hầu canh giữ, nến thắp sáng trưng. Hai cô đi xuống phòng ăn, chuông báo ăn vẫn réo lên như thường lệ.

Trước đó công nương Jane đã dẫn Rebecca đến phòng dành riêng cho hai vợ chồng Rawdon; cũng như mọi gian phòng khác trong nhà, từ khi Pitt nắm quyền hành, gian phòng này được trang hoàng đầy đủ tiện nghi, nom thật ngăn nắp. Công nương Jane trông nom đầy tớ khuân mấy cái hòm nhỏ bé tầm thường của bà Rawdon vào đặt cẩn thận trên giường ngủ và trong phòng trang điểm bên cạnh, rồi giúp em dâu cởi bỏ mũ và áo ngoài, lại hỏi xem cần gì thì cứ bảo.

Rebecca nói:

- Em chỉ thích được sang ngay phòng giữ trẻ để thăm mấy đứa cháu yêu thôi.

Hai người đàn bà thân mật nhìn nhau, rồi nắm tay nhau đi sang phòng giữ trẻ. Becky khen mãi con bé Matilda mới chưa đầy bốn tuổi là đứa bé kháu khỉnh đáng yêu nhất đời. Cô ta bảo thằng cháu đẹp đẽ, thông minh như thần đồng (thật ra thằng bé da tai gái, mắt sâu quầng, đầu to kếch).

Công nương Jane thở dài, đáp:

- Bà cụ tôi cứ bắt cháu nó uống nhiều thuốc quá. Tôi vẫn nghe nhiều khi không có thuốc, ta lại khoẻ mạnh hơn cũng nên.

Đoạn công nương Jane và cô bạn mới ngồi thủ thỉ với nhau về chuyện thuốc men của trẻ. Theo chỗ tôi biết, các bà mẹ cũng như hầu hết các phụ nữ ưa bàn chuyện này lắm. Năm mươi năm trước đây, hồi kẻ viết truyện này còn bé, một lần ăn xong được theo các bà sang phòng khách, còn nhớ các bà toàn nói chuyện mình đau đớn bệnh tật ra sao. Về sau, tôi có hỏi han ba người, họ đều công nhận rằng bây giờ cũng thế, chẳng có gì thay đổi hết. Yêu cầu các độc giả ngay tối nay, hãy thử nghiệm xem khi ăn xong các bà lôi nhau sang phòng khách bàn tán những chuyện gì.Thế là Becky và công nương Jane ngồi tâm tình thân mật với nhau đến nửa giờ...

Đến tối, Jane bảo chồng rằng cô em dâu là một người đàn bà tốt nết, thẳng thắn, thực thà và đáng yêu lắm lắm.

Tranh thủ được cảm tình của cô con gái rồi, người thiếu phụ không biết mỏi mệt kia lại tiếp tục làm lành với Southdown phu nhân.

Rình lúc này ngồi một mình, Rebecca đem chuyện nuôi trẻ ra tấn công ngay; cô ta bảo rằng thằng con mình ốm suýt chết, các thầy thuốc ở Paris đành bó tay cả; thế mà chỉ nhờ cho uống thật nhiều Calomen mà khỏi bệnh. Lại kể rằng mình vẫn đến lễ nhà thờ ở khu May Fair thấy vị mục sư cai quản nhà thờ là ngài Lawrence Grills nhắc đến tên Southdown phu nhân luôn; bây giờ cuộc đời và những cảnh ngộ ngang trái khiến mình thay đổi ý kiến nhiều, chỉ mong sao cuộc sống phù hoa lầm lẫn cũ không ảnh hưởng gì đến những ý tưởng đúng đắn hơn về tương lai. Cô còn kể lại ngày trước được Pitt Crawley giảng đạo lý, vẫn lấy làm biết ơn lắm, lại nhắc khéo tới cuốn: “Người đàn bà giặt thuê ở Finchley” mà cô ta đã đọc rất ham mê, rồi hỏi thăm công nương Emily, người có tài năng thiên bẩm là tác giả cuốn sách ấy, bây giờ đã là Emyly Hornblower phu nhân, sống với chồng ở tỉnh Cape; ông chồng đang có nhiều hy vọng trở thành giám mục vùng Caffraria.

Song cô cho rằng quan trọng nhất là phải làm thế nào dành được cảm tình của Southdown phu nhân đối với mình, vì vậy Rebecca nói rằng mình thấy rất khó ở sau việc tang lễ, muốn xin phu nhân giúp ý kiến về thuốc men. Lập tức phu nhân giúp ý kiến ngay; đêm hôm ấy bà ta còn choàng áo ngủ, nom như Macbeth phu nhân, đích thân đến phòng Rebecca, mang cho cô một tập sách và một liều thuốc do chính tay mình pha chế và bắt Rebecca phải uống ngay.

Đầu tiên Rebecca nhận tập sách, lật xem qua có vẻ hứng thú lắm; đoạn mới kéo sang câu chuyện về hạnh phúc vĩnh cửu của linh hồn, hy vọng dùng cách này để khỏi phải uống thuốc của bà Southdown. Câu chuyện về tôn giáo đã tàn, song Macbeth phu nhân nhất định bắt cô ta uống cạn cốc thuốc rồi mới chịu ra về; cô Rebecca đáng thương của chúng ta đành làm ra vẻ biết ơn nốc hết liều thuốc ngay trước mặt bà lão cương quyết. Cuối cùng, bà ta cầu chúa ban phúc cho nạn nhân của mình rồi đi ra.

Nhưng liều thuốc này chẳng làm cho Rebecca khoẻ khoắn thêm chút nào. Lúc Rawdon vào phòng, nghe kể lại câu chuyện, nhìn vẻ mặt tức cười của vợ và thấy Becky không giấu được vẻ mặt hài hước khi nhắc lại câu chuyện với chồng, mặc dầu chính mình là nạn nhân thì anh ta lại cười hô hố lên như mọi lần. Hai vợ chồng Rawdon về Luân đôn kể lại chuyện ấy làm cho hầu tước Steyne và anh con trai bà Southdown ôm bụng mà cười. Becky diễn lại màn kịch từ đầu đến cuối. Cô ta khoác một tấm áo ngủ, một chiếc mũ trùm, rồi lấy giọng hát thật trịnh trọng thuyết giáo một hồi về công hiệu của thứ thuốc mà lúc ấy cô giả vờ uống, hệt dáng điệu bà bá tước làm cho người xem tưởng như nghe thấy cái mũi La Mã của bà ta đang khụt khịt. Về sau trong phòng khách của Becky ở May Fair, thường nghe thấy tiếng hò: “Diễn vở Southdown phu nhân chữa bệnh đi.” Từ thuở cha sinh mẹ đẻ, đây là lần đầu tiên bá tước phu nhân Southdown được đưa ra làm trò cười.

Pitt vẫn nhớ ngày trước Rebecca đối với mình rất kính nể, nên bây giờ cũng sẵn sàng đối đãi tử tế với cô ta. Việc lấy vợ tuy không được đẹp đẽ lắm, nhưng cũng có lợi cho Rawdon, vì anh chàng trở thành đứng đắn hơn trước nhiều; vả lại, Pitt cũng tán thành cuộc nhân duyên này; anh ta múa tay trong bị mỗi khi nghĩ rằng nhờ thế mà mình được hưởng gia tài của bà cô, vậy chẳng nên phàn nàn là phải. Đến khi tiếp xúc lại với Rebecca, thấy cách chuyện trò, cư xử của cô ông anh chồng càng thêm hài lòng lắm.

Xưa nay Pitt vốn tự hào về tài ăn nói của mình, nay được Rebecca khéo léo gãi đúng chỗ ngứa, anh chàng yên trí mình có đại tài, lại càng tỏ ra ý hợp tâm đầu với em dâu. Nói chuyện với chị dâu thì Rebecca thanh minh rằng chính bà Bute đã sắp đặt để hai người lấy nhau, mà về sau bà ta lại quay ra nói xấu; chẳng qua vì bà Bute tham tiền, rắp tâm hất cẳng Rawdon để chiếm cả gia tài của bà Crawley, nên mới tìm cách bôi nhọ mình. Rebecca nói với vẻ mặt ngây thơ nhất đời:

- Bà ấy đã đạt mục đích làm chúng em phải túng thiếu thật, nhưng lẽ nào em lại oán giận người đã đưa đến cho em một người chồng tốt nhất trên đời? Vả chăng, bao hy vọng độc chiếm gia tài bà ấy hằng ấp ủ, nay đã bị sụp đổ, thế là trời đã trừng phạt cái tính biển lận ấy rồi. Rõ tội nghiệp! Chị Jane ạ. Chúng em có sợ gì túng thiếu? Từ nhỏ, em chịu túng thiếu đã quen rồi; được thấy gia tài của bà cô nay dùng để gây dựng lại cơ nghiệp huy hoàng của gia đình nhà ta, thế là em đủ mãn nguyện. Em chắc chắn rằng tôn ông Pitt biết dùng tiền vào việc đó có ích hơn là Rawdon.

Cô vợ trung thành kể lại hết với chồng. Pitt lại càng thêm quý mến Rebecca hơn trước. Mới ba ngày sau tang lễ nhân cả hai gia đình quây quần dùng cơm trưa, tôn ông Pitt Crawley ngồi đầu bàn cắt thịt gà, đã bảo Rebecca thế này: “Ư hừm ? Rebecca, thím dùng một cái bánh nhé?”

Người đàn bà nghe ông anh chồng nói năng thân mật như vậy mắt sáng lên vì sung sướng.

Trong khi Rebecca đang lo tiếp tục theo đuổi kế hoạch riêng thì Pitt Crawley lo lắng việc ma chay cùng mọi công việc liên quan đến cơ nghiệp và danh giá của mình sau này; Jane thì ganh nhau với mẹ mà bận túi bụi về con cái; mặt trời cứ mọc rồi lặn; tiếng chuông trong trại vẫn vang lên như lệ thường để báo giờ ăn hoặc cầu kinh. Trong khi ấy thi hài của ông chủ trại vừa quá cố vẫn quàn trong phòng, cùng mấy người được thuê tiền chuyên việc canh xác chết. Một hai người đàn bà, vài ba người đàn ông, toàn những tay phu chôn người có tiếng ở Southampton, thay phiên canh thi hài.

Họ mặc toàn đồ đen, dáng điệu cũng lặng lẽ đau buồn ra điều bi ai lắm; hết phiên gác, họ lại kéo nhau xuống họp mặt trong phòng quản gia để lén lút uống rượu và đánh bài.

Con cháu và đầy tớ trong nhà đều lảng xa cái phòng ảm đạm quàn thi thể của con người thuộc một dòng họ lâu đời toàn những nhà quý tộc; họ chỉ mong sớm đến ngày chôn lão vào hầm mộ của gia đình. Chẳng ai buồn thương tiếc lão, trừ người con gái đã ấp ủ hy vọng trở thành vợ lão để chờ ngày goá chồng, thế mà lúc sắp thành bà chủ thực sự thì lại bị tống cổ ra khỏi trại; thêm một con chó già vẫn được lão tỏ ý âu yếm hồi còn sống trác táng; ngoài ra không còn ai khó làm điều gì đáng để cho người ta thương tiếc! Ví thử trong Hội chợ phù hoa này, có một người nào tốt nhất chết đi rồi lại có dịp về thăm cõi trần (hãy cứ cho rằng trong Hội chợ phù hoa, con người cũng có tình cảm đối với nhau đi) thấy người sống sẵn sàng quên mình như thế có lẽ họ buồn rầu lắm đấy. Và thế là chưa đầy vài tuần sau khi chết, cụ Pitt đã bị quên rồi... cũng như người tốt nhất, đúng đắn nhất trong chúng ta vậy.

Ta hãy cùng đi đưa đám cụ Pitt xem việc tang lễ tổ chức ra sao. Đúng ngày đã định, thi thể lão được đưa ra mộ; tang lễ rất long trọng, họ hàng ngồi trên xe ngựa màu đen cầm khăn tay bịt mồm, sẵn sàng khóc, nhưng sao nước mắt nhất định không chịu chảy ra cho; ông chủ đòn đám ma và bọn phu cũng làm ra bộ đau thương vô kể. Bọn tá điền đến chia buồn với ông chủ mới, xe ngựa của giới quý tộc quanh vùng chầm chậm theo sau, nhưng không có người ngồi trong. Viên mục sư cất giọng hành lễ: “Người bạn thân mến của chúng ta đã qua đời”. Chừng nào còn mang thể xác con người, chúng ta còn phải đóng cho trọn vai tuồng trong Hội chợ phù hoa; người đời tổ chức tang lễ cho ta thật long trọng, ồn ào: bó thi thể trong nhung lụa, rồi đặt lên trên mộ ta một cục đá ghi toàn những lời dối trá. Thế là hết nhiệm vụ.

Bác thầy dòng trợ lễ cho Bute là một anh chàng trẻ tuổi mới tốt nghiệp tại Đại học đường Oxford hợp sức cùng Pitt Crawley dựng một bài văn bia tán dụng công đức vị nam tước quá cố. Bác thầy trợ lễ đọc một bài thuyết giáo cổ điển, khuyên người sống chớ nên buồn khổ làm gì, và bằng những lời lẽ cực kỳ lễ độ báo cho họ biết rằng một ngày kia chính họ cũng sẽ được gọi đến để bước qua cái cổng đen tối, kỳ bí vừa đóng lại phía sau người bạn họ đang thương tiếc.

Sau đó, các bác tá điền phốc lên ngựa về nhà, hoặc ở lại chè chén với nhau trong quán “Huy hiệu Crawley”. Bọn xà ích của các nhà quý tộc quanh vùng ăn cơm ở phòng đầy tớ trong trại xong cũng mỗi đứa giong xe đi một ngả. Bọn phu đám ma cũng thu dọn đồ nghề, rồi leo lên nóc linh xa, quất xe về thẳng Southampton nốt. Nét mặt họ trở lại thản nhiên ngay cũng như mấy con ngựa; xe tang vừa qua cổng, ra đến đường cái là lập tức họ cho ngựa phi nước kiệu. Rồi người ta thấy bọn người mặc áo tang ấy chen chúc nhau trong các quán rượu; trong ánh nắng những cốc rượu sáng lấp lánh trên tay họ. Chiếc ghế lăn của cụ Pitt bị quẳng vào trong nhà kho ở góc vườn; mới đầu, con chó săn già thỉnh thoảng cũng còn rít lên vài tiếng vì nhớ chủ. Đó là những tiếng thở than duy nhất người ta nghe thấy trong trại, nơi tôn ông Pitt Crawley, nam tước, đã sáu mươi năm làm chủ.

Trong trại Crawley Bà chúa, chim chóc nhiều vô kể, với giới thượng lưu nước Anh có khuynh hướng về đường chính trị vẫn đi săn gà gô là một nhiệm vụ; vậy nên tôn ông Pitt Crawley, sau cơn đau buồn mới đầu, cũng chụp lên đầu một chiếc mũ trắng có đính băng tang để giải trí bằng cách này. Anh ta cảm thấy một niềm sung sướng ngấm ngầm khi được chính mắt ngắm những cánh đồng đầy rạ và củ cải, nay đã thuộc về mình. Thính thoảng cao hứng anh ta lại không mang súng, chỉ đem theo một cái gậy tre. Rawdon, ông em trai lực lưỡng và mấy người gác rừng đi bên cạnh hò hét. Tiền và ruộng của Pitt ảnh hưởng khá mạnh đến tính tình của ông em trai. Anh chàng trung tá không xu tỏ ra hết sức ngoan ngoãn và kính nể ông chủ gia đình không khinh bỉ “cái thằng Pitt lù đù” như trước nữa. Rawdon tán thành mọi kế hoạch trồng trọt và tháo nước của anh, góp ý kiến về việc chăn nuôi gia súc, đi ngựa đến tận Mudbury để xem hộ con ngựa cái Pitt định mua cho vợ cưỡi, lại tình nguyện luyện nó cho thuần. Anh chàng sĩ quan ngự lâm ngỗ nghịch đã hoàn toàn bị khuất phục, trở thành một người em trai rất đáng tin cậy. Bà Briggs ở Luân đôn luôn luôn viết thư báo tin về thằng Rawdy; thằng bé cũng viết thư cho bố thế này: “Con khoẻ mạnh lắm. Chúc ba khoẻ mạnh, má khoẻ mạnh. Con ngựa cũng khoẻ mạnh. Anh Grey đưa con ngựa đi chơi ở công viên. Con phi ngựa được rồi, gặp cả thằng bé cưỡi ngựa hôm nọ. Nó phi ngựa, rồi khóc. Con không khóc đâu. Rawdon mang lá thư đọc cho hai vợ chồng anh trai nghe, họ cũng lấy làm vui lắm. Ông bác nam tước hứa sẽ cấp tiền cho cháu vào trường học, cô vợ đưa cho Rebecca một tấm ngân phiếu nhờ mua hộ món quà gì cho thằng cháu trai.

Ngày nọ qua ngày kia, mấy người đàn bà trong gia đình chỉ giết thời giờ bằng những thứ giải trí của các bà nhà giầu xứ quê.

Nghe chuông thì đi ăn cơm hoặc cầu nguyện. Sáng sáng, điểm tâm xong, mấy cô con gái lại tập đàn dương cầm dưới sự chỉ dẫn của Rebecca. Đoạn, tất cả mọi người mang giầy thô đi bách bộ trong công viên, hoặc trong vườn cây, thỉnh thoảng lại ra quá ngoài hàng rào, đi vào làng thăm nhà nông dân đem cho những người ốm sách và thuốc của Southdown phu nhân. Southdown phu nhân hay ngồi xe một ngựa đi chơi; Rebecca ngồi cạnh, chăm chú lắng nghe bà này nói chuyện. Tối tối, cô ta hát những bài hát của Handel và Haydn cho cả nhà nghe, rồi ngồi đan một mảnh len to tướng y như thể cô sinh ra là để đan lát và sẽ tiếp tục sống cuộc đời lặng lẽ như vậy từ nay cho tới khi chết già nằm xuống mộ, để lại bao sự tiếc thương cho mọi người... thực ra bên ngoài bức tường bao quanh trại, bao nhiêu mối lo âu, mưu mẹo, mánh khoé cũng như nợ nần và sự nghèo túng vẫn đang rình nhảy xổ lên đầu khi cô ta trở về cuộc sống của mình.

Rebecca nghĩ thầm: “Thì ra làm vợ một lão quý tộc nhà quê cũng dễ thôi. Nếu mình có món lợi tức năm nghìn đồng hằng năm, mình cũng có trở thành một người đàn bà đáng kính, mình sẽ ngồi tiêu thì giờ trong phòng nuôi trẻ hoặc đếm quả mai trên cây, mình sẽ tưới cây và nhặt lá phong lan úa, mình sẽ hỏi thăm các bà lão bị bệnh thấp khớp, hoặc mua dăm hào cháo bố thí cho người nghèo. Có năm nghìn đồng lợi tức hằng năm thì tiêu ngần ấy cũng chẳng là bao. Mình sẽ đánh xe ngựa đi mười dặm để dự tiệc với các chủ trại láng giềng và ăn mặc theo mốt từ năm kia cũng được. Mình sẽ đi nhà thờ và cố đừng buồn ngủ, hoặc lẩn vào sau màn cửa mà ngủ gật, nếu có đeo chàng mạng thì buông rủ xuống mặt mà che. Nếu có tiền, mình sẽ chẳng chịu nợ ai, chẳng qua cũng chỉ vì trong tay sẵn có đồng tiền, nên cái bọn xảo quyệt này mới lên mặt hãnh diện được. Chúng nó khinh bỉ coi rẻ mình là kẻ không xu, chúng nó cho con cái mình một tờ giấy năm đồng đã tưởng là hào phóng lắm, thấy mình không có ngân phiếu, chúng nó cho là đánh khinh”.

Biết đâu Rebecca chẳng có lý... biết đâu giữa cô ta và một người đàn bà lương thiện, sự khác nhau chẳng phải chỉ là ở đồng tiền và sự may mắn? Nếu ta tính cả những ý nghĩ bậy bạ trong đầu thì chưa chắc người đời ai đã tốt hơn ai. Một cuộc sống sung túc nếu không khiến được người ta thực sự lương thiện, ít nhất cũng giữ cho người ta khỏi làm bậy. Một ông cố vấn thành phố vừa ăn tiệc toàn thịt rùa xong, hẳn không thèm chui ra khỏi xe mà lấy trộm một cái chân cừu của người khác; cứ thử bắt hắn nhịn đói, xem hắn có xoáy ngay một ổ bánh mì hay không. Becky tự an ủi bằng cách so sánh những sự may mắn; cô ta muốn trên đời này những điều may rủi được phân phối công bằng hơn.

Becky thăm lại kỹ càng tất cả đồng ruộng, rừng cây, bờ ao, vườn tược, và tất cả những gian phòng trong cái trại cổ kính, nơi bảy năm về trước, cô đã sống suốt hai năm trời. Hồi ấy, Becky còn trẻ, hoặc tương đối còn trẻ... vì cô đã quên hẳn thời kỳ mình thực sự còn trẻ rồi... cô nhớ lại những cảm nghĩ bảy năm về trước, đem đối chiếu với hiện tại, xem có khác gì nhau, bởi vì bây giờ cô đã hiểu đời, đã từng chung đụng với những bậc quyền thế, đã leo lên một địa vị khác hẳn cái địa vị thấp hèn ngày trước.

Becky nghĩ thầm: “Mình có địa vị là do mình thông minh. Xem ra thiên hạ chúng nó ngu xuẩn cả. Bây giờ mình không thể trở lại sống chung với bọn người xưa kia vẫn gặp trong phòng vẽ của bố mình được nữa. Nay nhà mình còn toàn những bậc quyền quý đeo huy chương đầy ngực ra vào, đâu còn phải là những bác thợ vẽ nghèo đói trong túi chỉ có vài dúm thuốc lá. Chồng mình là một nhân vật thượng lưu, chị dâu mình là con gái một vị bá tước, mình sống ngay trong một gia đình mà bảy năm về trước địa vị mình không hơn bọn đầy tớ mấy tí. Nhưng so với hồi còn là con gái một bác hoạ sĩ quèn cứ phải nịnh nọt lão chủ hiệu để mua chịu một ít trà và đường, có thật bây giờ mình sung sướng hơn không? Giả thử mình lấy Francis làm chồng - anh chàng ngày xưa mê mình quá - cũng chưa chắc mình đã nghèo hơn bây giờ. Ôi, ước gì mình đánh đổi được địa vị hiện tại lấy một món tiền đặt lãi ba phần trăm thì sướng biết bao”. Becky đã cảm thấy một cuộc sống ăn chơi là phù phiếm, đang rắp tâm tìm kế đảm bảo cho tương lai một cách thực tế hơn.

Có lẽ ta cũng nhận ra rằng lẽ ra cô đã đến gần hạnh phúc nếu như trước kia cô thực thà, trung hậu, làm trọn bổn phận, đi theo con đường thẳng, chứ không nên đâm quàng vào lối tắt đường ngang. Ý tưởng trên vừa thoáng qua, Rebecca đã vội xua đi ngay, chẳng khác gì con cháu lão Pitt xa lánh căn phòng nơi quàn thi hài lão. Cô ta lánh mặt nó... thù ghét nó... cũng có thể vì cô ta đã đi quá sâu vào con đường ấy rồi, lùi lại không kịp nữa. Riêng tôi tin rằng sự hối hận của người đời là một tình cảm mong manh nhất...Vừa thức tỉnh trong ta, đã dễ bị bóp chết nghẹt rồi, mà ở một số người, nó lại không thức tỉnh bao giờ hết. Điều khiến ta xúc động hơn cả là sự hổ thẹn và sự trừng phạt, nhưng trong Hội chợ phù hoa, mấy ai biết đau khổ chỉ vì hối hận mình đã làm điều sai trái. Cho nên suốt thời gian sống ở trại Crawley Bà chúa, Rebecca tìm mọi cách mua chuộc thật nhiều bạn cho Mammon(). Lúc ra về hai vợ chồng Pitt theo tiễn, tình cảm vô cùng nồng hậu. Mọi người vui vẻ nghĩ đến ngày ngôi nhà ở phố Gaunt được sang sửa trang hoàng xong, lại gặp mặt nhau ở Luân đôn. Southdown phu nhân tặng Rebecca một gói thuốc, và nhờ trao hộ cho mục sư Lawrence Grills một bức thư yêu cầu ông ta cứu vớt lấy linh hồn người mang thư khỏi sa xuống địa ngục. Pitt ngồi xe bốn ngựa theo tiễn đến tận Mudbury sau khi đã cho xe hành lý của hai em đi trước, kèm theo vô khối quà lúc chia tay, công nương Jane bảo em dâu:

- Về nhìn thấy cháu, thím tha hồ vui nhé.

- Vâng, em mừng lắm.

Rebecca ngước đôi mắt xanh biếc lên trời đáp. Được thoát khỏi nơi này, cô ta sướng vô kể, nhưng cũng thấy hơi tiêng tiếc.

Trại Crawley Bà chúa tẻ nhạt không thể chịu được, nhưng không khí ở đây trong lành hơn so với bầu không khí cô ta vẫn thở. Nói cho đúng, ở đây người nào cũng đần độn nhưng họ cũng biết điều.

“Chẳng qua là nhờ món lợi tức ba phần trăm đấy thôi”. Becky nghĩ thầm và có lẽ nghĩ thế cũng không sai.

Xe ngựa đã đi vào khu Piccadilly, thành phố Luân đôn đèn thắp rực rỡ. Trong ngôi nhà ở phố Curzon, bà Briggs đã đốt lửa rực hồng trong lò sưởi, thằng bé Rawdy vẫn còn thức để đón bố mẹ về.

Chương 42
NHỮNG VIỆC XẢY RA TRONG GIA ĐÌNH OSBORNE

Tính từ buổi ta gặp ông già Osborne ở khu phố Russell đến nay, cũng đã khá lâu. Ông lão không được sung sướng lắm; những việc xảy ra đã không khiến được tính tình ông vui vẻ hơn; chuyện đời mười phần, chín chẳng được như ý muốn. Sở thích nào có cao xa gì, mà cũng không thoả mãn được, hỏi sao ông lão chẳng bực dọc; lại còn bệnh tật giày vò trong cảnh già nua trơ trọi. Con trai mới chết được ít lâu mà bộ tóc rễ tre đen nhánh của ông đã bạc trắng. Da mặt ông già xám lại; bàn tay rót rượu ngày một thêm run. Đến khu City, ông lão hành hạ bọn nhân viên đến khổ, gia đình ông ở nhà cũng chẳng sung sướng gì hơn. Rebecca thèm khát tiền bạc thật, nhưng chưa chắc đã muốn đánh đổi đời sống nghèo khó đầy những mưu mô táo bạo của mình lấy sự giàu có và cảnh sống ủ dột rầu rĩ của ông Osborne. Ông già đã đánh tiếng hỏi cô Swartz làm vợ nhưng gia đình cô này khinh khỉnh từ chối; sau cô ta lấy một anh chàng trẻ tuổi thuộc dòng dõi một gia đình quý tộc xưa Scotland. Ông Osborne thuộc loại người đáng lý nên cưới một người vợ con nhà hạ tiện, để tha hồ mà hành hạ mắng mỏ, nhưng chẳng gặp được ai vừa ý. Ông bèn quay ra hành hạ cô con gái chưa đi lấy chồng. Cô này có một chiếc xe ngựa riêng, xe cũng đẹp, ngựa cũng đẹp; cô ngồi chủ toạ những bữa tiệc ê hề toàn cao lương mỹ vị; cô có sổ ngân phiếu riêng, đi đâu một bước cũng có người theo hầu. Ai cũng tín nhiệm cô; bọn cung cấp hàng ra sức mà trọng vọng cô gái thừa tự, gặp đâu cũng thi nhau mà chào hỏi, nịnh nọt. Nhưng cô sống rất khổ. Cô tiểu thư quá lứa nhỡ thì ấy chẳng được sung sướng bằng những đứa bé trong trại mồ côi, những chị quét đường, hoặc chị phụ bếp nghèo khổ nhất trong phòng ăn của đầy tớ.

Frederick Bullock, tôn ông, trong hãng Hulker vf Bullock, đã cưới Maria Osborne, điều đó cũng không phải là không gặp khó khăn, vì ông lão Bullock không hài lòng lắm. Bây giờ George đã chết, lại đã bị gạch tên trong di chúc, Frederick khăng khăng đòi ông bố vợ chia cho Maria một nửa số của cải; nếu không thoả mãn điều kiện ấy, anh ta cương quyết không chịu “tiếp cận một sự thoả thuận nào cả” (theo cách nói của chính Frederick). Ông Osborne rút ngay tiền vốn ra khỏi công ty Hulker và Bullock, và một bữa xách roi ngựa đến phòng hối đoái doạ rằng sẽ quật nát mặt thằng khốn nạn mà ông không muốn nói rõ tên. Trước sự xung đột của hai gia đình, Jane an ủi em: “Maria, chị vẫn bảo rằng nó có lấy em đâu, nó chỉ lấy tiền của em đấy thôi”.

Cô Maria vênh mặt lên đáp:

- Anh ấy lấy tiền của tôi thật, nhưng anh ấy chọn tôi chứ có chọn chị và tiền của chị đâu.

Tuy nhiên hai nhà cũng không cãi nhau lâu. Bố Fred, và bọn bè bạn nhiều tuổi cũng khuyên anh ta nên lấy Maria, với số hồi môn hai vạn đồng, một nửa đưa ngay, một nửa bao giờ ông Osborne chết sẽ trả nốt, bởi lẽ Fred vẫn có hy vọng được chia thêm gia tài cơ mà. Thế là “ngã giá”, vẫn theo lối nói của Fred, anh ta nhờ lão Hulker đến điều đình lại với ông Osborne. Lão kia bảo rằng tại bố Fred không thuận nên tìm cách làm khó dễ, chứ thực tâm anh con chỉ muốn giữ lời hứa. ông Osborne tuy bực, nhưng rồi cũng ưng thuận. Hãng Hulker và Bullock là một hãng buôn lớn ở khu City, giao dịch nhiều với những tay giầu sụ ở khu West End. Ông già nghĩ kể cũng dễ chịu mỗi khi được giới thiệu với người khác thế này: “Thưa ngài, đây là con rể tôi, chủ hãng Hulker và Bullock; thưa ngài, công nương Mary Mango đây gọi con rể tôi là anh họ, tức là lệnh ái bá tước Castlemouldy tiên sinh đấy ạ”. Ông đã tưởng tượng ngay gia đình ông đầy những bậc giàu sang; cho nên ông tha thứ cho Frederick và đồng ý cho cưới.

Hôn lễ thật là linh đình...Họ nhà trai mở đại tiệc ngay tại nhà thờ ở quảng trường Hanover, gần nhà thờ St. George. Các ngài tai mặt trong khu West End đều đến dự; nhiều người ký vào sổ vàng kỷ niệm. Ngài Mango cùng công nương Mary Mango cũng đến, hai cô con gái là Gwendoline và Guinever Mango đóng vai phù dâu. Đại tá Blơtđaiơ thuộc đội Ngự lâm quân (con cả ông chủ hãng Blơđaiơ và anh em ở đường Min xinh) là anh họ chú rể và vợ là bà Bludyer cũng có mặt. Rồi cả ngài George, con trai bá tước Lane, và vợ tức là cô Mango cùng ngài tử tước Castletoddy, ngài James McMull và bà McMull (nguyên là cô Swartz khi trước), cùng vô số những người danh giá, người nào cũng lấy vợ lấy chồng ở phố Lombard cả.

Hai vợ chồng trẻ có một ngôi nhà riêng gần quảng trường Berkeley và một biệt thự nhỏ ở Roehamton, khu vực ngân hàng của thành phố. Có mấy bà trong họ cho rằng Fred lấy vợ con nhà hạ tiện, quên khuấy rằng chính ông nội các bà xưa kia cũng từng được nuôi dưỡng trong trại mồ côi; về sau nhờ lấy chồng sang, các bà mới biến thành quý tộc. Maria hiểu rằng bây giờ mình đã là người sang trọng, khách khứa ghi tên trong sổ tiếp tân toàn bậc tai mặt, phải biết quên dòng dõi tầm thường nhà mình đi thì mới đúng phép; cho nên, để làm tròn nhiệm vụ, cô ta bắt đầu thưa đi lại thăm bố và chị gái.

Nhưng để cho vợ cắt đứt quan hệ với ông nhạc vẫn còn trong két hàng chục vạn đồng thì có hoạ là loạn óc, đời nào Fred Bullock chịu thế. Nhưng cô vợ còn trẻ người non dạ quen nghĩ sao làm vậy. Cô ta chỉ mời bố và chị gái đến dự buổi tiệc tiếp tân loàng xoàng của gia đình mình, tiếp đãi rất lạnh nhạt, không thèm bước chân đến khu phố Russell, lại còn trắng trợn khuyên bố nên dọn nhà đi khỏi cái chỗ ở bần tiện ấy nữa. Cô ta làm quá, tài ngoại giao của Frederick kéo lại không kịp; xem ra không khéo đến mất phần gia tài sau này.

Một buổi tối, ông Osborne và con gái đến dùng cơm tại nhà bà Frederick Bullock về; ngồi trên xe ngựa, ông lão mở tung cửa xe, bảo con:

- Thế ra bà Maria bây giờ coi thường cánh khu phố Russell chúng ta thật, hả? Nó lại mời bố đẻ ra nó và chị nó đến dự bữa tiệc thừa! Hôm qua, nó mà không mời bọn quý phái chúng nó tiệc tùng riêng với nhau rồi thì tao chớ kể làm người! Nó ngồi với những bá tước, những phu nhân, toàn những người sang trọng, để cho bố con mình uống rượu với mấy thằng nhà buôn ở khu City và mấy lão rác rưởi. Mẹ kiếp, sang với chả trọng! Ông chỉ là một thằng nhà buôn tầm thường, có thế thôi; vậy mà ông cũng đủ tiền nuôi cả đống ăn mày đói rã họng chúng nó đấy. Bá tước à? Úi dào ôi! Một buổi dự tiệc tối, tao thấy một thằng nói chuyện cả với tên nhạc công tao vẫn khinh xưa nay. Các ông các bà ấy không thèm đến khu phố Russell à? Được lắm. Tao có rượu ngon uống, mà trả tiền ngay không thèm chịu; tao có bộ đồ ăn bằng bạc đẹp hơn cả chúng nó, bầy trên bàn ăn bằng gỗ mun; tao có thể đãi tiệc còn sang hơn chúng nó nhiều. Cái bọn hèn mạt chúng nó! James, đánh xe nhanh lên. Tao muốn về ngay khu phố Russell, ha ha!

Ông lão giận giữ cười ầm lên, ngồi phịch xuống góc đệm xe. Ông ta vẫn có thói quen đem cái hơn người của mình ra để tự an ủi mỗi khi bất như ý.

Tất nhiên là Jane Osborne hoàn toàn đồng ý với cha. Khi bà Frederick sinh đứa con đầu lòng, đặt tên là Frederick Augustus Howard Stanley Devereux Bullock, bà mời ông già Osborne đến dự lễ rửa tội và đỡ đầu cho thằng bé! Ông lão chỉ gửi cho nó một chiếc cốc bằng vàng, đựng hai mươi đồng ghi nê làm quà chứ không đến.

Ông bảo: “Cái bọn quyền quý chúng mày có cho con cháu được ngần ấy tiền, ông chớ kể”. Món quà giá trị thay, cả nhà Bullock ai cũng lấy làm hài lòng, Maria cho là bố quý mình lắm; còn Frederick đã hý hửng nay mai hai bố con có hy vọng nhờ vả ông ngoại nhiều.

Chẳng nói thì ta cũng thừa biết rằng cô Jane Osborne ngồi lẻ loi một mình ở công viên Russell tức tối đến thế nào khi đọc báo “Tin tức buổi sáng” thỉnh thoảng lại thấy tên em gái được nhắc tới trong những bài thuộc mục “Những cuộc họp mặt của giới thượng lưu” Một lần cô thấy báo đăng tin em gái được Frederica Bullock phu nhân đưa vào Hoàng cung triều kiến, lại mô tả cả bộ áo Maria bận bữa ấy. Bao giờ cho cô Jane được hưởng những vinh dự lớn lao như thế? Cuộc đời cô thực khổ sở. Mùa rét, cô phải dậy từ lúc trời còn tối mịt để sửa soạn bữa sáng cho ông bố cau có bẳn tính. Tám giờ rưỡi mà chưa được ăn sáng thì cứ gọi là ông phá tan hoang nhà cửa. Cô ngồi im lặng trước mặt bố, nghe nước trong ấm reo sôi, rồi nhìn bố vừa ăn bánh, uống cà phê vừa đọc báo mà cứ thấp thỏm trong dạ. Chín giờ rưỡi ông đứng lên, đi đến khu City. Cô được tương đối tự do cho tới giờ ăn chiều để vào bếp coi sóc và mắng mỏ đầy tớ, để đánh xe ngựa ra phố và được bọn bán hàng tỏ vẻ rất kính nể. Cô còn đến thăm các gia đình quen thuộc trong khu City, để lại danh thiếp của bố và của mình; nếu không thì cô ngồi trơ trọi trong căn phòng khách mênh mông chờ có ai đến chơi thì tiếp; cô thường ngồi trên ghế xô-fa cạnh lò sưởi đan một mảnh len to tướng, ngay mé dưới chiếc đồng hồ có tượng Iphigenia, suốt ngày cứ kêu tích tắc và gõ chuông trong căn phòng buồn tẻ. Đối diện với tấm gương dựng trên mặt lò sưởi là một tấm gương lớn khác treo trên tường. Cả hai cùng phản chiếu hình những chiếc túi da Hà-lan màu nâu bọc những chùm đèn treo trên trần, thành vô số túi đèn xếp thành những dãy dài, và phòng khách cô đang ngồi như là trung tâm của vô số phòng khách bao bọc xung quanh. Đôi khi cô lật cái nắp bọc da đậy chiếc dương cầm lên dạo vài tiếng nhạc; những âm thanh rầu rĩ vang lên, đánh thức những tiếng vọng ghê rợn khắp nhà. Bức chân dung George nhưng không hề bao giờ nghe ai nhắc đến tên anh ta trong gia đình.

Năm giờ chiều, ông Osborne mới trở về. Hai bố con lặng lẽ ngồi ăn tối; chỉ nghe tiếng ông lão gắt chửi rầm rĩ khi món ăn làm không vừa miệng. Mỗi tháng hai lần, gia đình thết tiệc mấy ông bạn cùng tuổi, cùng địa vị với ông: hai vợ chồng bác sĩ Gulp ở công viên Bloomsbury, hai vợ chồng ông biện lý Frowser ở Bedford Row, một tay rất có thế lực, và do nghề nghiệp rất ăn cánh với với bọn tai mặt ở khu West End, viên đại tá già Livemore ở khu quảng trường Thượng Bedford; hai vợ chồng viên trung sĩ già Toffy, thỉnh thoảng có cả hai vợ chồng ngài Thomas Coffin ở khu quảng trường Bedford cũng đến. Ngài Thomas là một viên quan tòa khét tiếng bạo tay treo cổ phạm nhân; mỗi khi ông ta đến chơi dùng cơm, phải có thứ rượu đặc biệt đưa ra thết.

Bọn này lại tổ chức những bữa tiệc long trọng đãi lại nhà thương gia ở khu phố Russell. Uống rượu tráng miệng xong, họ đưa nhau lên gác chơi bài; khoảng mười giờ rưỡi tối thì gọi xe ngựa đánh về nhà.

Bọn túng đói chúng ta vẫn có cái thói thèm muốn cuộc đời của nhiều người giầu có. Họ đã sống rất thoả mãn cuộc đời như vừa miêu tả ở trên. Ít khi Jane Osborne có dịp được gặp một người đàn ông dưới sáu mươi tuổi; và hầu như trong số khách khứa đi lại với gia đình thì ông Smirk là người đàn ông chưa vợ duy nhất; ông này là một thầy thuốc nổi danh về phụ khoa.

Cũng không phải là không có chuyện gì xảy ra trong cuộc sống tẻ nhạt đơn điệu này. Thật ra, trong đời cô Jane có mang một điều u uẩn khiến cho ông bố vốn kiêu ngạo và hay bẳn tính lại càng dễ cáu gắt hơn nữa. Câu chuyện bí mật này có liên quan đến bà Wirt; bà này có một người em họ tên là Smee, một hoạ sĩ nổi danh chuyên vẽ chân dung; bây giờ anh ta đã là hội viên của hàn lâm viện nghệ thuật Hoàng gia: nhưng đã có một thời gian được làm nghề dạy vẽ cho các bà các cô để sinh nhai anh ta cũng đã lấy làm sung sướng lắm rồi. Bây giờ chắc Smee chẳng còn nhớ khu phố Russell ở chỗ nào, nhưng vào khoảng năm 1818, anh ta thích đến đấy lắm; hồi ấy anh đang dạy cô Jane đang học vẽ.

Smee trước kia là học trò của ông Sharpe ngụ ở phố Frith, một hoạ sĩ trác táng, tính tình bất thường, tuy không thành công trong đời, nhưng thật là người có tài lớn, vì anh ta là em họ bà Wirt nên được bà chị họ giới thiệu với cô Osborne. Sau mấy vụ thất bại trong đường tình ái, trái tim anh ta sẵn sàng rung động vì cô thì phải. Riêng bà Wirt được cả hai bên bày tỏ nỗi lòng u uẩn của mình. Không rõ đang khi hai thầy trò bận dạy nhau vẽ, bà Wirt có hay rời bỏ gian phòng đi chỗ khác, để hai bên có dịp ngỏ cùng nhau những tình cảm mặn nồng không tiện nói trước mặt người thứ ba hay không? Cũng không biết bà ta có tính toán rằng giả sử em họ mình với được cô con gái nhà thương gia giầu sụ, hắn có nhớ kẻ dắt mối dắt manh mà chia cho mình một phần bổng hay không. Điều chắc chắn là câu chuyện yêu đương đến tai ông Osborne; một bữa ông ở khu City về rất đột ngột, vác một cái gậy trúc xồng xộc bước vào phòng vẽ, thấy nhà hoạ sĩ, cô học trò và bà tỳ nữ, cả ba mặt tái như gà cắt tiết. Ông tống cổ ngay họa sĩ ra khỏi nhà, dọa sẽ dần gãy từng đốt xương một; nửa giờ sau, ông đuổi nốt bà Wirt, đá hòm xiểng của bà này lăn lóc xuống thang gác, dẫm bẹp rúm cả cái hộp đựng đồ vặt; bà này đã leo lên xe ngựa đi rồi, ông còn giơ nắm tay theo mà doạ.

Cô Jane Osborne nằm lỳ trong phòng ngủ suốt mấy ngày liền.

Từ đó ông bố không thuê ai làm bạn với con gái. Ông thề rằng sẽ không cho con gái một xu nào, nếu cô Jane đính ước với người không được ông ưng thuận; vả lại, ông đang cần một người đàn bà coi sóc gia đình cho nên ông không muốn con gái đi lấy chồng; cô đành thôi không đám tơ tưởng gì đến chuyện yêu đương. Thế là, cho đến khi bố chết, cô đành sống một cuộc đời như đã miêu tả ở trên, nghĩa là cuộc đời một cô gái già. Trong khi ấy, em gái cô cứ sòn sòn năm một, đặt cho con toàn những tên xinh như mộng... hai chị em lại càng thưa gặp mặt nhau hơn. Vợ Bullock nói: “Chị Jane và tôi, hai người sống hai cuộc đời hoàn toàn khác nhau, tuy nhiên tôi vẫn coi chị ấy là chị ruột”... Người đàn bà trẻ tuổi này nói rằng “vẫn coi Jane là chị ruột”, không biết như vậy nghĩa là thế nào nhỉ?

Ta biết mấy cô con gái nhà Dobbin sống với bố tại một biệt thự xinh đẹp ở Denmark Hill; ở đây có vườn nho và nhiều cây đào mà chú bé George rất thích. Mấy chị em cô Dobbin thường đánh xe ngựa đi Brompton thăm Amelia; thỉnh thoảng họ cũng rẽ vào khu phốRussell thăm bạn cũ là cô Jane Osborne. Có lẽ ông anh thiếu tá ở Ấn Độ ra lệnh cho mấy cô em gái ở nhà phải săn sóc luôn đến Amelia thì phải (ông bố cũng nể Dobbin lắm); viên thiếu tá, cha đỡ đầu của thằng bé Georgy, vẫn hy vọng ông nội nó vì thương con trai sẽ nghĩ lại mà nhận nó làm cháu. Chị em cô Dobbin kể lại với cô Osborne chuyện Amelia bây giờ về ở với bố mẹ, gia đình rất túng thiếu; họ tỏ ý ngạc nhiên không rõ ông anh trai yêu quý của họ là thiếu tá Osborne yêu cái cô gái vô vị kia về nỗi gì. Người mẹ thì vẫn có cái thói đa cảm một cách vô vị và kiểu cách như xưa, nhưng thằng con trai thì quả thật là một đứa trẻ thông minh đĩnh ngộ chưa từng thấy... Trời sinh ra đàn bà ai cũng quý trẻ; ngay những cô gái không chồng bẳn tính nhất cũng phải vồ vập chúng.

Một bữa, nể lời chị em cô Dobbin quá, Amelia phải cho phép Georgy đến Denmark Hill chơi một ngày. Nhân dịp con đi vắng, cô cặm cụi ngồi viết cho thiếu tá Dobbin ở Ấn Độ một lá thư dài. Cô gửi lời mừng bạn nhân tin vui vừa được hai chị em cô Dobbin cho biết, ngỏ ý chúc anh ta và cô vợ chưa cưới được hưởng nhiều hạnh phúc. Cô cảm ơn anh đã giữ vững tình bạn và đã giúp đỡ mình rất nhiều trong cơn hoạn nạn. Cô kể cho anh ta nghe về thằng Georgy, lại báo cho biết chính ngày hôm ấy nó về quê chơi với hai em gái Dobbin. Trong thư cô gạch dưới nhiều chữ, cuối cùng lại đề: “Người bạn thân mến của anh, Amelia Osborne”. Lần này cô quên không gửi lời hỏi thăm bà O’Dowd... cũng không gọi thẳng tên Glorvina ra như mọi khi, mà chỉ viết là “vị hôn thê của thiếu tá” bằng chữ ngả.

Tin Dobbin lấy vợ khiến cho Amelia có dịp bỏ cái thái độ thận trọng giữ kẻ của mình đối với bạn từ trước đến nay. Còn như ghen với Glorvina thì... giả sử có vị thiên thần nào xúi giục cô đều này cô cũng sẵn sàng xua đuổi ý nghĩ ấy đi ngay.

Đêm hôm ấy thằng Georgy ngồi xe ngựa về nhà có bác xà ích già của ngài William Dobbin giong cương hầu; thằng bé đeo ở cổ một cái đồng hồ vàng có dây đeo cũng bằng vàng. Nó kể với mẹ nó, bà ấy vừa khóc vừa ôm lấy nó mà hôn lấy hôn để. Nhưng nó không thích bà ấy. Nó chỉ thích ăn nho và nó chỉ thích mẹ! Amelia giật nẩy mình, biết rằng họ hàng nhà chồng đã gặp mặt con trai, người đàn bà nhút nhát này đột nhiên cảm thấy hãi hùng.

Cô Osborne trở về nhà lo bữa cơm tối cho bố. Ông già vừa phất được một món lớn ở khu City, hôm ấy coi bộ vui vẻ; ngẫu nhiên ông nhận thấy con gái có vẻ bị xúc động mạnh, bèn hỏi:

- Có chuyện gì thế hử?

Cô gái khóc oà lên, đáp:

- Ba ơi, con vừa gặp thằng con trai cậu George, nó xinh như một thiên thần ấy ba ạ... mà giống cậu ấy như đúc!...

Ông già ngồi trước mặt không nói không rằng, nhưng mặt bỗng đỏ nhừ, chân tay run lẩy bẩy.

Chương 43
BẠN ĐỌC CẦN ĐI VÒNC QUA HẢO VỌNG GIÁC

Chắc bạn đọc rất ngạc nhiên thấy chúng tôi mời hãy quá bộ vượt ngàn dặm trùng dương tới doanh trại quân đội ở Bundlegunge, thuộc khu Madras tại Ấn Độ, nơi những người bạn anh dũng của chúng ta trong trung đoàn...đóng quân, dưới quyền chỉ huy của trung tá Michael O’Dowd dũng cảm. Đối với viên sĩ quan to béo này, thời gian không ảnh hưởng mấy, cũng như đối với những người có con tì con vị hảo hạng lại vô tư lự, đầu óc không phải làm việc vất vả mấy khi. Ngài trung tá sử dụng con dao, cái dĩa rất thạo, bữa trưa cũng như bữa tối. Sau bữa ăn, thế nào ngài cũng phải hút một tẩu thuốc hookah (), phu nhân có rầy la cũng mặc, ngài cứ thản nhiên thở khói, y như ngài đã bình tĩnh hút thuốc dưới làn mưa đạn của quân Pháp trong trận Waterloo vậy. Tuổi tác cũng như khí hậu nóng bức không hề làm giảm sút sự hoạt động và tài hùng biện của người đàn bà thuộc dòng dõi hai họ Malony và Molloys. Sống ở Madras, phu nhân, tức là người bạn cũ của chúng ta cảm thấy cũng thoải mái y như ở Brussels... dầu phải chui rúc trong lều vải hay được sống trong nhà dân cũng vậy. Khi nào trung đoàn hành quân ta thấy bà đi đầu, cưỡi trên lưng một con voi đồ sộ trông bệ vệ ra phết. Bà ta cũng đã cưỡi voi chiến với chúa sơn lâm trong rừng thẳm. Bà cùng cô Glorvina đã được phó vương các địa phương tiếp đón trong những hậu cung bí mật đầy tỳ thiếp của họ, lại được họ tặng vô số khăn san và đồ trang sức, nhưng bà không muốn nhận. Đi đến đâu, bà cũng được lính gác bồng súng chào và bao giờ bà cũng trịnh trọng giơ tay lên mũ đáp lại. O’Dowd phu nhân là một trong số các mệnh phụ tiếng tăm nhất tại phủ Tổng trấn Madras.

Tại đây có người vẫn còn nhớ câu chuyện xích mích giữa bà và Smith phu nhân, vợ ngài Minos Smith phụ thẩm tại toà án. Bà đã xỉa xói vào mặt vợ ông quan toà mà bảo rằng bà không việc gì phải lép vế đối với vợ một tên dân thường. Hai mươi lăm năm trời trôi qua rồi, thế mà bây giờ nghĩ lại, vẫn chưa ai quên được chuyện O’Dowd phu nhân nhảy điệu Jig liên tục với hai viên sĩ quan tuỳ tùng; một viên thiếu tá thuộc đội kỵ binh Madras và hai nhân viên thuộc Cục hành chính dân sự; mấy vị này mệt phờ râu. Thiếu tá Dobbin chỉ huy phó trung đoàn phải can mãi bà mới chịu lên buồng trên gác cho, lassata nondum satiata recessit().

Bà Peggy O’Dowd quả thật vẫn như xưa... bụng bảo dạ vẫn tốt, tính tình vẫn sôi nổi mãnh liệt, vẫn thích chỉ huy người khác và vẫn là một bạo chúa đối với ông Michael. Bà là một con rồng giữa đám các bà vợ sĩ quan trong trung đoàn là một người mẹ đối với những chàng trẻ tuổi; bà săn sóc họ khi ốm đau, giúp đỡ họ khi gặp khó khăn, nên được họ rất mến. Nhưng bà bị mấy bà vợ các sĩ quan dưới quyền a tòng nhau chống lại. Họ gièm pha rằng có cô Glorvina làm bộ làm tịch lắm, rằng bà O’Dowd hống hách quá, không chịu được Bà Kirk có tổ chức một nhóm giảng đạo nhỏ, đang thuyết giáo cho mấy người đàn ông trẻ tuổi nghe thì bị bà Peggy xông vào giễu cợt làm cho bọn này bỏ về cả. Bà bảo rằng vợ lính không cần phải làm mục sư cũng được, rằng bà Kirk về mà vá áo cho chồng thì có ích hơn, rằng nếu trung đoàn cần thuyết giáo thì bà sẵn có những bài giảng đạo của ông chú làm chánh xứ, là những bài giảng đạo hay nhất thế giới. Bà cắt đứt một cách không thương tiếc câu chuyện chim chuột mới chớm giữa trung uý Stubble và vợ viên sĩ quan thầy thuốc; bà doạ nếu viên trung uý không lập tức cắt đứt mọi quan hệ và xin nghỉ phép đi dưỡng bệnh ở Hảo Vọng giác thì bà sẽ đòi nợ ngay (chả là cu cậu vẫn còn quen thói “bốc trời”). Một đêm bà Posky bị ông chồng nốc hai chai rượu , say khướt đuổi đánh, phải chạy trốn ra khỏi nhà. Bà cho trú nhờ và che chở.

Bà còn săn sóc cho ông Posky qua cơn bệnh tửu cuồng, rồi giúp ông bỏ hẳn được tật rượu chè, tức là cái bệnh cố hữu nó bám nhằng nhằng lấy ông ta như những thói tật xấu xa vẫn bấu chặt với người đời vậy. Tóm lại, khi ta gặp hoạn nạn thì bà là người bạn an ủi tốt nhất, nhưng khi ta gặp may mắn thì bà cũng làm phiền ta nhiều nhất. Vì bao giờ bà cũng tự cho mình là con người hoàn hảo và khăng khăng hành động theo sở thích.

Bà còn rắp tâm gả kỳ được cô Glorvina cho Dobbin mới nghe.

Bà O’Dowd hiểu rõ mối tình u uẩn của thiếu tá. Bà cũng khen ngợi anh ta là người có nhiều đức tính và tính cách cao thượng của anh ta khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Theo ý bà, hình như trời sinh ra cô Glorvina - một cô thiếu nữ rất xinh đẹp, da dẻ tươi tắn, tóc đen nhánh, mắt xanh biếc, biết cưỡi ngựa, lại chơi nhạc bài sonata hay không kém bất cứ cô gái nào trong quận Cork - là để đem lại hạnh phúc cho Dobbin... chứ không phải là cái cô Amelia yếu ớt đáng thương mà anh ta vẫn luôn mồm nhắc đến kia. Bà thường bảo: “Cứ nhìn cách Glorvina bước vào phòng khách mà xem, rồi so sánh với bà Osborne, mới thấy bà ta chỉ là một con ngỗng, thiếu tá ạ; ông lấy cô đó thì vừa lứa đẹp đôi quá đi mất... tính ông nhút nhát phải có người biết ăn nói đỡ đần câu chuyện hộ mới xong; tuy cô nó không thuộc dòng dõi con nhà nòi như họ Malony hay họ Molloys, nhưng tôi xin nói để ông rõ, cô nó cũng sinh trong một gia đình nề nếp mà bất cứ người danh giá nào thông gia với gia đình cô nó cũng đáng lấy làm hãnh diện”.

Nhưng trước khi cô Glorvina quyết định chinh phục thiếu tá Dobbin thì phải thú nhận rằng chính cô đã đem khả năng của mình ra thử thách tại nhiều nơi khác rồi. Có lần cô đã đi Dublin chơi và đố ai biết rõ cô đã đi Cork, Killarney và Mallow bao nhiêu bận đấy. Cô ta chim tất cả các sĩ quan và các nhà quý tộc trẻ tuổi chưa vợ trong quận; cô đã đính hôn độ mươi lần ở Ailen, không kể chuyện gắn bó với một mục sư ở Bath khiến cho về sau cô rất đau khổ. Ở Madras cô đã ra mặt “chài” một viên đại uý bạn thân của phó vương Ramchunder. Cô lại đã cùng ông O’Dowd và bà chị đến chơi mấy tháng tại thủ phủ khu Madras.

Trong thời gian này, viên thiếu tá tạm lĩnh quyền chỉ huy trung đoàn đóng ở Bundlegunge. Tại đây ai cũng phải lòng cô, ai cũng nhảy với cô, nhưng không ai muốn lấy cô làm vợ. Cũng có vài viên thiếu uý trẻ măng và vài viên chức mặt non choẹt chết mê chết mệt vì cô đấy, nhưng cô cho là họ chơi trèo. Thành ra nhiều cô gái ít tuổi hơn lại lấy chồng trước cô. Thế mới biết ở đời vẫn còn nhiều cô thiếu nữ - mà lại là những thiếu nữ xinh đẹp cơ chứ - cũng lâm vào cái “vận mệnh” như vậy đấy. Họ phải lòng thiên hạ một cách hết sức rộng lượng, họ cưỡi ngựa và đi bộ rong chơi với đến nửa số sĩ quan có tên trong danh sách quân đội; thế rồi cho đến khi xuân xanh đã xấp xỉ tứ tuần, cô O’Grady nhà ta vẫn cứ còn là cô O’Grady! Cô Glorvina vẫn yên trí rằng, giá như bà O’Dowd không cãi nhau với vợ ông quan toà thì nhất định cô đã lấy được chồng ở Madras rồi; hồi ấy ông Chutney, người đã đứng tuổi, công chức cao cấp tòng sự tại Cục dân sự suýt nữa thì hỏi cô làm vợ (sau này, ông lấy cô Dolby, một cô học sinh mới mười ba tuổi vừa từ Âu châu sang).

Thế là O’Dowd phu nhân và cô Glovina ngày nào cũng cãi nhau mà cãi nhau về bất cứ chuyện gì - ví phỏng ông Mick O’Dowd không hiền như bụt thì đến phát điên lên từ lâu vì điếc tai rồi.

Nhưng hai chị em đều nhất trí ở điểm cô Glorvina phải lấy Dobbin và không thể để cho anh ta ăn ngon ngủ yên nếu anh ta chưa chịu đính ước. Không chút sờn lòng vì bốn năm chục cuộc thất tình vừa qua, cô Glorvina bắt đầu vây hãm thành trì. Cô rả rích hát vào tai Dobbin những khúc tình ca Ailen. Gặp anh ta ở đâu, cô cũng lấy giọng thiết tha hỏi xem có muốn cùng mình vào rừng chơi không.

Thử hỏi con người có tình nào mà cưỡng lại cho được? Cô không ngớt lời hỏi thăm xem hồi còn nhỏ Dobbin có bao giờ bị nỗi sầu muộn dày vò không; cô sẵn sằng lắng nghe anh ta kể lại những cảnh trận mạc, những nỗi hiểm nguy để khóc thút thít y như Desdemona () ngày xưa vậy. Anh bạn của chúng ta có thói quen ngồi buồn một mình hay thổi sáo cho khuây khoả. Cô Glorvina nhất định đòi hoà nhạc với anh ta, cô chơi dương cầm, Dobbin thổi sáo. Những lúc này bà O’Dowd thường có ý tứ lảng ra một nơi khác.

Sáng nào cô Glorvina cũng bắt Dobbin phải cùng cưỡi ngựa đi chơi với mình. Lúc ra đi cũng như lúc về, khắp trại lính ai cũng biết. Cô gửi thư đến chỗ Dobbin ở luôn luôn; cô mượn sách của anh ta để đọc, rồi gạch những nét bút chì thật đậm dưới những đoạn văn tình tứ hoặc hài hước mà cô thích. Rồi cô mượn đầy tớ của anh chàng, mượn cả thìa, mượn cả cáng... chả trách được ai cũng đồn hai người đã đính ước với nhau, và mấy cô em ở nước Anh mới đinh ninh rằng họ sắp có chị dâu.

Thế mà anh chàng Dobbin, mặc dầu bị kẻ địch vây hãm gay go là thế mà vẫn cứ lờ đi như không mới đáng ghét chứ. Nghe anh em trong trung đoàn bỡn cợt về chuyện được cô Glorvina có bụng thương yêu, anh ta chỉ cười xoà: “Dào ôi! Cô ấy cũng đùa cho vui đấy thôi. Chẳng qua cô ấy thử tớ cũng như thử cây dương cầm của bà Tozer, vì đấy là cây đàn dễ chơi nhất trong trại lính. Tớ già quá rồi, cô Glorvina trẻ đẹp thế lấy nhau chả xứng”. Nhưng anh ta vẫn sóng ngựa đi chơi với cô ta như cũ, vẫn chép hộ cả nhạc và thơ vào sổ tay, lại chịu khó ngồi đánh cờ với cô ta nữa. Ở Ấn Độ một số sĩ quan có thói quen tiêu thì giờ rỗi rãi bằng những thú chơi hiền lành ấy trong khỉ nhiều người khác hoạt động hơn, ưa săn lợn rừng, săn chim, đánh bạc, hoặc hút xì gà và uống rượu. Ông Michael O’Dowd bị cả bà vợ và cô em gái thúc giục đi tìm viên thiếu tá đòi xác định thái độ, không chịu để anh ta làm khổ mãi người con gái vô tội một cách đáng xấu hổ như thế, nhưng ông ta từ chối dứt khoát không chịu dính dáng vào cuộc âm mưu này. Ông nói: “Lạy Chúa, ông thiếu tá cũng lớn khôn rồi, đủ tư cách chọn vợ lấy; ông ấy muốn cô, tự khắc ông ấy tìm đến cô”. Những lúc khác thì lại xoay câu chuyện ra hướng hài hước, bảo: “Dobbin còn trẻ quá, chưa nên lập gia đình, còn phải viết thư về nước xin phép mẹ đã”. Ông còn đi xa hơn, kín đáo báo động riêng với viên thiếu tá rằng: “Này Dop, cẩn thận nhé; bọn đàn bà nhà tôi là gớm lắm đấy!... Bà nó nhà tôi vừa gửi mua bên Âu châu hàng tá áo mới, có cả một tấm áo sa tanh hồng cho Glorvina. Phen này có khi cậu chết vì đàn bà và áo sa tanh đấy. Thật ra sắc đẹp cũng như sa tanh, chả có thứ nào chinh phục nổi Dobbin! Anh bạn thực thà của chúng ta chỉ tâm tâm niệm niệm tưởng tới một người đàn bà; mà người ấy thì khác hoàn toàn cái cô Glorvina O’Dowd mặc áo sa tanh hồng. Một người đàn bà nhỏ nhắn dịu dàng, mặc áo đen, có đôi mắt to và mái tóc màu nâu, suốt ngày lặng lẽ trừ phi có ai hỏi thì mới nói, và giọng nói thì hoàn toàn khác cô Glorvina...một người thiếu phụ còn trẻ âu yếm săn sóc đứa con nhỏ, mỉm cười vẫy tay gọi viên thiếu tá lại gần... một thằng bé có đôi má hồng hào vừa hát vừa chạy vào phòng ở khu phố Russell hoặc đánh đu trên tay George Osborne...đó tức là những hình ảnh duy nhất ngày đêm xâm chiếm tâm trí tưởng tượng của viên thiếu tá không hề giống Amelia trong thực tế.

Hai cô em gái Dobbin ở Luân đôn có một cuốn sách quảng cáo các kiểu y phục trong đó có một bức tranh đàn bà; Dobbin giấu hai em, xé nó đem theo sang Ấn Độ dán lên nắp hòm, tưởng tượng rằng người đàn bà trong tranh có nét mặt phảng phất giống Amelia... Thật ra đó chỉ là hình một tấm áo kiểu mới nhất trên có một cái đầu búp bê mỉm cười đờ đẫn... Có lẽ hình ảnh cô Amelia đa cảm trong tâm tưởng anh chàng Dobbin cũng như cô gái trong tranh đều không giống người thực ngoài cuộc đời chút nào hết. Nhưng trong chúng ta có ai đang yêu mà sáng suốt hơn?... Vả chăng liệu khi được mở mắt ra nhìn sự thật và biết là mình lầm thì người ta có sung sướng hơn không. Dobbin đang ở trong tình trạng ngây ngất như vậy. Anh ta không hề đem chuyện riêng ra làm phiền bè bạn và công chúng nhiều quá, cũng không hề vì vậy mà kém hoạt động hoặc ăn mất ngon so với lệ thường. Hồi này, tóc anh ta có hơi ngả mình lác đác một vài sợi bạc lẫn trong mớ tóc mềm mại màu nâu, nhưng tình cảm của anh ta vẫn tươi tắn như trước không hề thay đổi; mối tình của anh vẫn tươi mát như những kỷ niệm tuổi thơ.

Chúng ta đã rõ hai chị em cô Dobbin cũng như Amelia vẫn thường viết thư gửi cho anh ta từ nước Anh. Amelia bằng những lời lẽ rất thẳng thắn và thân mật, tỏ ý mừng Dobbin sắp thành hôn với cô O’Dowd. Amelia viết: “Em gái anh vừa đến thăm tôi, quý hoá quá. Cô ấy báo cho tôi một tin rất lý thú, tôi xin có lời hết sức chân thành mừng anh. Tôi hy vọng rằng người thiếu nữ anh sắp cưới làm vợ về mọi phương diện sẽ xứng đáng với anh, con người vô cùng rộng lượng và đáng quý. Kẻ goá bụa đáng thương này chỉ biết mong ước và cầu Chúa ban cho anh hạnh phúc tốt lành! Georgy cũng gửi lời thăm người cha đỡ đầu thân yêu của nó, và hy vọng rằng anh sẽ không quên nó. Tôi có bảo cháu rằng anh sắp có những mối dây ràng buộc khác gắn bó với anh với một người chắc chắn xứng đáng với tâm tình của anh. Tuy nhiên, tôi vẫn tin rằng, dù những mối dây ràng buộc ấy mạnh mẽ nhất, thiêng liêng nhất, đó là điều dĩ nhiên, và có thể cho mọi sự ràng buộc khác, nhưng trong trái tim anh, chắc vẫn còn dành ngột góc nhỏ cho hình ảnh hai mẹ con người đàn bà goá bụa này, những kẻ vẫn được anh thương yêu, che chở”. Đại khái lời lẽ trong thư từ đầu đến cuối đều như thế, chứng tỏ người viết hết sức hài lòng.

Bức thư gửi từ Luân đôn sang cùng một chuyến tàu với hộp áo của bà O’Dowd (chắc chắn trước khi mở xem các thứ quà khác gửi cho mình, Dobbin phải bóc ngay thư xem đã) gây ra một sự biến chuyển trong tâm trạng Dobbin, khiến cho anh ta thấy cô Glorvina cùng tấm áo sa tanh hồng và hết thảy mọi thứ liên quan đến cô đều thành ra bỉ ổi tất. Anh chàng thiếu tá nguyền rủa cái thói ngồi lê đôi mách của đàn bà và nguyền rủa cái giống đàn bà nữa. Hôm ấy, chuyện gì cũng làm cho anh ta bực mình... Trời sao nóng quá, mà cuộc diễu binh thì nhạt nhẽo không chịu nổi. Trời đất ơi! Con người thông minh sao lại chọn cái nghề ngày ngày tiêu phí đời mình vào việc kiểm tra mấy cái thắt lưng da và dạy dỗ mấy tên lính ngu ngốc tập trận? Câu chuyện bàn tán vô nghĩa của bọn trai trẻ trong quán ăn nhà binh nghe lại càng nhức đầu hơn bao giờ hết. Hỏi rằng con người xấp xỉ bốn mươi tuổi đầu như anh ta thì có liên quan gì đến chuyện trung uý Smith vừa bắn được bao nhiêu con chim dẽ... hoặc viên sĩ quan cầm cờ Brown cưỡi ngựa giỏi như thế nào chứ? Những chuyện bông đùa quanh bàn ăn lắm lúc làm Dobbin phát ngượng; anh ta đã quá tuổi thưởng thức những trò giễu cợt của viên sĩ quan thầy thuốc và những tiếng lóng của bọn sĩ quan trẻ tuổi, trong khi ấy thì ông già O’Dowd với bộ mặt đỏ ửng và cái trán hói, vẫn cứ có thể lăn ra mà cười một cách dễ dàng. Ba mươi năm nay, ông ta vẫn nghe quen những chuyện bỡn cợt ấy... Chính Dobbin cũng đã phải nghe mười lăm năm nay. Sau những trò ồn ào ngu xuẩn quanh bàn ăn, lại còn những chuyện cãi cọ, gièm pha lẫn nhau giữa các bà trong trung đoàn nữa cơ chứ? Thật không sao chịu nổi. Thật đáng hổ thẹn! Dobbin nghĩ thầm: “Amelia ơi! Bao giờ tôi cũng trung thành với em. Em trách tôi nhưng chính vì em vô tình nên tôi mọi đành kéo lê mãi cuộc sống tẻ ngắt này. Vậy mà để đền lại công lao bao năm trời tôi đeo đuổi, em nỡ chúc mừng tôi sống hạnh phúc với vợ là con bé hợm hĩnh người Ai len kia sao! William cảm thấy buồn rầu đến phát ốm lên, chưa bao giờ anh ta thấy mình cô đơn, đau khổ đến thế. Anh ta muốn giã từ phăng cõi đời, với tất cả mọi sự vô nghĩa của nó... vì anh ta thấy cuộc chiến đấu sao mà vô vọng, tương lai sao mà đen tối bi đát! Suốt đêm ấy Dobbin không ngủ, chỉ muốn trở về nước. Lá thư của Amelia làm cho anh ta chưng hửng. Thì ra không có sự trung thành nào, không có tấm tình chân thành nồng nàn nào còn khiến được trái tim Amelia ấm lại. Cô ta không muốn thấy Dobbin yêu mình. Nằm trằn trọc trên giường, Dobbin và với hình ảnh Amelia. “Trời ơi! Em Amelia, em không biết rằng trong đời tôi chỉ yêu có em sao... Đối với tôi lòng em vẫn trơ như đá. Tôi đã săn sóc em hàng tháng ròng rã trong cơn sầu muộn yếu đau, vậy mà em nỡ từ biệt tôi với một nụ cười, và cánh cửa chưa khép kín giữa đôi ta, em đã vội quên rồi?”

Mấy thằng hầu người Ấn Độ nằm ngoài hành lang cứ trố mắt ra mà nhìn ông thiếu tá ngày thường vẫn lạnh lẽo, ít nói, sao bây giờ có vẻ bị xúc động mãnh liệt và rầu rĩ đến thế. Giá được chứng kiến cảnh tượng này không biết Amelia có thương anh chàng không? Dobbin đem những bức thư của Amelia ra đọc một lượt…toàn những thư nói về chuyện sử dụng cái di sản bé nhỏ cô ta tin là được chồng để lại cho mình, hoặc những mẩu giấy mời lời lẽ ngắn ngủi... Anh ta đọc lại tất cả mọi thứ giấy mà Amelia đã gửi cho mình, thấy chúng sao mà lạnh lùng nhạt nhẽo, ích kỷ đến thế.

Giả sử ngay lúc ấy có một người đàn bà dịu dàng, trìu mến nào hiểu thấu và cảm thông được với con tim lặng lẽ và độ lượng ấy thì biết đâu Amelia chẳng sẽ thôi không còn là bà chúa của trái tim anh chàng, và dòng tình cảm của Dobbin có thể đã hướng về nẻo khác êm ái hơn? Nhưng ở đây chỉ có cô Glorvina với những búp tóc xoăn đen nhánh màu huyền mà anh ta đã quá quen thuộc tính tình; người đàn bà trẻ tuổi sấn sổ này đâu có ý định yêu viên thiếu tá; cô ta chỉ muốn anh chàng mê mình... Cái trò mới phù phiếm, vô ích làm sao; ít nhất thì những phương tiện cô gái đáng thương này đem sử dụng cũng cho ta thấy rõ như vậy. Cô hết uốn lại tóc, lại mặc áo hở vai cho Dobbin nhìn, như thể muốn hỏi anh chàng rằng: “Anh đã bao giờ được thấy những búp tóc huyền và một làn ra nõn nà như thế này chưa?” Cô cười nhăn nhở, cốt cho anh chàng biết rõ toàn bộ răng của cô có cái nào cũng nguyên vẹn không sâu không hà... Kỳ thực có bao giờ Dobbin để ý đến sắc đẹp của cô ta đâu. Sau ngày nhận được hộp áo không lâu, O’Dowd phu nhân cùng các bà trong trung đoàn tổ chức một buổi dạ hội mời khắp mặt các sĩ quan trong đơn vị và các cơ quan hành chính địa phương ý hẳn muốn khoe áo mới thì phải. Cô Glorvina “lên” bộ áo sa tanh hồng đẹp mê hồn; anh chàng thiếu tá tuy đến dự, nhưng cứ bực bội đi quanh quẩn trong các phòng tiệc, cũng chẳng buồn nhìn đến tấm áo hồng nữa.

Cô Glorvina giận lắm, bèn nhảy với hết thảy các thiếu uý trẻ tuổi trong đơn vị. Cố ý lướt qua trước mặt anh chàng. Nhưng nào Dobbin có buồn ghen tuông, áo đẹp, vai xinh, những thứ ấy đâu đủ mãnh lực rung động nổi trái tim Dobbin, nhưng Glorvina chỉ có chừng ấy thứ.

Cặp trai gái này, mỗi người cũng đủ tiêu biểu cho sự phù phiếm của cuộc đời ta đang sống, vì hai bên cùng khát khao điều mình không đạt tới được. Cô Glorvina chài Dobbin mãi không ăn thua gì, phát khóc lên vì giận. Cô nức nở mà tự thú với mình rằng xưa nay mình “chưa hề yêu ai bằng Dobbin”. Những lúc chị em vui vẻ với nhau, cô thường bảo O’Dowd thế này: “Chị Peggy ơi, anh ấy làm cho cõi lòng em tan nát; thế nào rồi cũng phải khâu lại hết cả áo sống của em cho hẹp bớt, vì mỗi ngày em một thêm mình hạc xác ve, không khéo đến thành bộ xương mất thôi”. Cô gầy hay béo, cưỡi ngựa hay ngồi đánh đàn, vui cười hay buồn ngủ, anh chàng thiếu tá cũng không cần biết. Còn ông trung tá thì vừa nghe em gái than thở vừa ra sức rít cái tẩu, đoạn góp ý kiến rằng lần sau gửi mua áo ở Luân đôn, cô Glorvina nên đặt thêm vài tấm áo màu đen, ông lại kể một câu chuyện kỳ dị xảy ra ở Ai len: có một thiếu nữ chưa hề lấy chồng bao giờ, nhưng lại chết vì đau đớn bởi nỗi mất chồng.

Đang khi viên thiếu tá tiếp tục hành hạ cô gái như vậy, nghĩa là không hỏi làm vợ, cũng không có ý muốn phải lòng, thì có một chuyến tàu mới từ châu Âu sang, đem theo nhiều thư tín; Dobbin cũng nhận được vài bức. Xem dấu bưu điện thì những lá thư này gửi trước những phong thư vừa nhận được; Dobbin nhìn ngay ra nét chữ của em gái; cô em vẫn hay gạch xoá nhằng nhịt khi viết thư cho anh, lại ưa nhặt nhạnh đủ các thứ chuyện nhăng nhít đâu đâu kể lại, rồi còn rầy la anh, giảng đạo lý cho anh một cách không cần dè dặt, khiến cho mỗi khi đọc hết câu: “Anh William thân mến nhất đời của em” chấm dứt mỗi bức thư của em gái, thì Dobbin khổ sở ít nhất là một ngày chưa nguôi. Cho nên “anh William thân mến nhất đời” mới không buồn vội vàng mở phong thư của cô Dobbin ra đọc vội; anh ta muốn đợi đến một ngày khác thích hợp hơn và khi tâm hồn thư thái hơn mới xem. Khoảng nửa tháng trước, Dobbin có viết thư mắng em gái bịa toàn những tin vô lý với bà Osborne: lại viết một bức thư khác trả lời Amelia, cho biết rằng tin đồn về việc mình lập gia đình là bịa đặt, quả quyết rằng mình “không hề có ý định thay đổi cảnh sống hiện tại”.

Nhận thư của em gái được độ hai ba hôm, một buổi tối viên thiếu tá đến chơi nhà bà O’Dowd, coi bộ rất vui; cô Glorvina có cảm tưởng anh chàng chú ý lắng nghe mình hát hơn mọi làm cô hát bài “Cuộc hội ngộ của những cơn giông tố”, bài “Chú bé ca công” và một vài bài hát khác cốt để làm vui lòng anh chàng (thực ra Dobbin chẳng buồn để ý đến tiếng cô hát cũng như chẳng buồn để ý đến tiếng những con lang tru dưới ánh trăng ngoài rừng; chẳng qua cô gái vẫn quen có ảo tưởng như mọi khi). Dobbin đánh một ván cờ với Glorvina, trong khi viên sĩ quan thầy thuốc chơi bài với bà O’Dowd; một thú chơi buổi tối mà bà ta rất ham; đúng giờ như mọi bận, anh ta từ biệt mọi người về nhà.

Lá thư của cô em vẫn nằm trên mặt bàn như có ý trách móc.

Anh ta cầm lên, hơi ngượng vì thấy mình quá vô tình và chuẩn bị chịu đựng một giờ khổ sở với cô em bất trị. Lúc ấy vào khoảng một tiếng đồng hồ sau khi viên thiếu tá ra về...ông Michael đang đánh một giấc thật ngon lành. Như mọi lần, cô Glorvina đã đính vô khối cặp tóc bằng giấy lên mớ tóc đen nhánh để giữ cho quăn. O’Dowd phu nhân cũng đã xuống phòng ngủ ở tầng dưới; tấm màn đã buông phủ xuống thân hình xinh xắn của bà. Bỗng nhiên người lính gác cổng nhìn thấy dưới ánh trăng viên thiếu tá chạy xồng xộc lại, dáng điệu hớt hơ hớt hải. Anh ta chạy đến bên cửa sổ phòng của viên trung tá, hét rầm lên:

- O’Dowd! Thưa trung tá?

- Cái gì thế, cậu Dob?

Viên trung tá yên trí trong tỉnh có đám cháy, hoặc Bộ tư lệnh vừa cho lệnh cấp tốc hành quân.

Dobbin đáp:

- Tôi... tôi phải xin phép nghỉ một thời gian. Tôi cần về Anh...có việc riêng rất cấp bách.

Cô Glorvina lo lắng run rẩy làm rung cả mấy cái cặp tóc:

- Trời đất ơi! Không biết có chuyện gì thế!

Dobbin tiếp:

- Tôi cần phải đi ngay... đi ngay đêm nay.

Viên trung tá dậy, bước ra nói chuyện với Dobbin một lúc.

Thì ra nguyên nhân là đoạn tái bút trong lá thư của cô Dobbin:

Hôm qua, em đánh xe ngựa đến thăm “cố nhân” của anh là bà Osborne. Từ hồi bị phá sản, gia đình chị ấy sống ở một nơi tồi tàn quá. Đọc cái biển đồng treo ngoài cửa túp lều của ông cụ (cái biển nom khá hơn túp lều đôi chút, mới rõ ông Sedley bây giờ buôn than. Thằng con đỡ đầu của anh kháu khỉnh, bạo dạn quá, nhưng xem chừng cái thói ngỗ nghịch bướng bỉnh. Vâng lời anh, chúng em đã chú ý săn sóc nó, và đã giới thiệu nó gặp cô nó là chị Osborne; chị ấy có ý cũng mến cháu. Có lẽ ông nội nó là ông Osborne ở khu phố Russell cũng đang nghĩ lại mà thương đứa con bạn anh đấy; bạn anh cũng là một đứa con lang thang bướng bỉnh. Amelia cũng có ý thuận cho con về ở với ông nội. Người vợ goá đã nguôi nỗi nhớ thương rồi sắp sửa lấy chồng là ông Binny một vị mục sư ở Brompton. Cùng cảnh ngộ “rổ rá cạp lại” cả; vả chăng chị Osborne cũng “đang toan về già”... Em thấy chị ấy có khối tóc sâu rồi đấy..., hồi này chị ấy vui vẻ hơn trước, thằng bé đến chơi nhà ta ăn nhiều quá suýt bội thực. Má cũng gửi lời thăm anh...



          Chương 44
TỪ LUÂN ĐÔN ĐẾN HAMPSHIRE

Những người bạn cũ của chúng ta trong gia đình Crawley tại phố Great Gaunt vẫn treo trước cửa tấm huy hiệu tang báo tin cụ Pitt Crawley tạ thế, song bản thân tấm huy hiệu quý tộc ấy lại rất sặc sỡ, lộng lẫy; và ngôi nhà hồi này trông phong quang sáng sủa khác hẳn hồi lão nam tước già còn sống. Lớp ghét đen bám ngoài lớp gạch đã được cạo sạch, màu gạch đỏ tươi điểm những vạch vôi trắng ngang dọc như mỉm cười tươi tỉnh với khách qua đường. Con sư tử bằng đồng đen dùng làm chày gõ cửa đã được đem mạ vàng bóng lộn; hàng lan can được sơn lại; ngôi nhà trông âm u, rầu rĩ nhất phố Great Gaunt bỗng trở thành sáng sủa nhất, trước khi những búp lá non xanh kịp thay thế những mảnh lá vàng úa trên hàng cây viền con đường lớn ở trại Crawley Bà chúa đã dẫn thi hài cụ Pitt về nơi an nghỉ cuối cùng.

Người ta nhận thấy có một chiếc xe ngựa của một người thiếu phụ bé nhỏ luôn luôn đỗ trước cửa nhà này. Hằng ngày lại thấy có một người đàn bà đứng tuổi dắt một thằng bé đến chơi. Đó là bà Briggs và thằng Rawdy. Bà này có nhiệm vụ đến coi sóc việc trang hoàng lại ngôi nhà cũ của cụ Pitt, bảo đám thợ đàn bà vá lại những tấm màn cửa và thảm thêu. Bà còn phải lục lại những ô kéo, những ngăn tủ đầy những di vật cáu bẩn và những đồ trang sức giả hiệu đã từng trang điểm cho cả hai thế hệ phụ nữ trong gia đình Crawley. Bà còn phải kiểm kê lại các đồ sứ, đồ thuỷ tinh và mọi vật khác chất trong các phòng chứa đồ đạc.

Rebecca được giao quyền chỉ huy toàn bộ công việc này, cô ta được tôn ông Pitt uỷ quyền tuỳ nghi định đoạt, tha hồ bán đổi, huỷ bỏ hoặc mua vào đồ mới. Được dịp khoe tài thẩm mỹ và sáng kiến của mình, Rebecca lấy làm hể hả lắm. Hồi tháng mười một, Pitt về tỉnh để giải quyết công việc với bọn luật sư, anh ta đến chung sống gần một tuần lễ với hai vợ chồng ông em trai quý hoá ở phố Curzon; nhân dịp đó, Pitt quyết định sửa sang lại ngôi nhà ở phố Great Gaunt.

Mới đầu, anh ta thuê phòng tại khách sạn, nhưng Becky nghe tin ông nam tước anh chồng về, lập tức một mình đến chào; một giờ sau, cô ta đi xe ngựa trở về nhà, có Pitt ngồi bên cạnh. Không sao mà từ chối được lời chèo kéo mời mọc quá ngọt ngào, tha thiết và chân thành của người đàn bà này. Được Pitt nhận lời.

Becky mừng quá, nắm ngay lấy tay anh chồng bảo: “Cảm ơn bác, chắc Rawdon vui lòng lắm”. Bị cô em dâu nắm chặt tay và nhìn thẳng vào mắt mình, Pitt đỏ ra cả mặt. Cô ta lăng xăng đi trước dẫn bọn đầy tớ khuân hành lý lên phòng dành cho Pitt, rồi đích thân vừa cười ròn rã vừa mang một rổ than xúc trong phòng của mình đem vào.

Lò sưởi trong phòng của Pitt đã cháy đỏ rực (đó tức là phòng ngủ của bà Briggs; nhân tiện xin nói thêm là bà này bị mời lên gác ngủ với chị hầu gái).

- Em biết bác cần sưởi, phải mang than lại ngay.

Becky vừa nói vừa nhìn Pitt, ánh mắt long lanh sung sướng. Kể ra có ông anh chồng đến chơi nhà, cô ta cũng thực tâm sung sướng thật. Trong thời gian Pitt ở chơi, Becky bảo Rawdon ăn cơm ngoài vài bận; anh chàng nam tước được ngồi suốt buổi tối một mình với cô em dâu và bà Briggs. Đích thân Rebecca xuống bếp làm món ăn thết ông anh chồng. Cô ta nói:

- Bác thấy món salmi này thế nào? Em làm để bác xơi đấy. Em có thể làm món khác ngon hơn thế nữa cơ; bác cứ đến thăm em luôn mà xem.

Anh chàng nam tước đáp rất lịch sự:

- Thím làm cái gì cũng giỏi cả.

Rebecca vui vẻ đáp:

- Lấy chồng nghèo thì phải khéo tay mới sống được bác ạ.

Ông anh chồng công nhận, rằng em dâu mình “xứng đáng làm vợ một ông vua, và tài nội trợ chính là một trong những đức tính quý báu nhất của đàn bà”. Đồng thời tôn ông Pitt hơi thất vọng nhớ đến công nương Jane ở nhà với món patê mà vợ nhất định đòi tự tay làm cho chồng ăn, cái món patê thổ tả ấy!

Ngoài món salmi làm bằng thịt chim trĩ trong trại của hầu tước Steyne ở Stillbrook, Becky còn dọn ra mời anh chồng một chai vang trắng Rawdon đã đem từ Pháp về; cô em dâu hay chuyện kể thêm rằng chồng mình mua rượu chẳng mất xu nào; thực ra, đó là thứ rượu nhãn hiệu “Đạo am trắng” () lấy trong hầm rượu nổi tiếng của hầu tước Steyne; uống vào đôi má tái nhợt của anh chàng nam tước ửng đỏ lên, và cái thân hình yếu đuối bỗng thấy như bốc lửa.

Để anh chồng uống cạn chai “rượu vang trắng nhỏ”(), Becky mới đưa tay cho Pitt nắm, rồi cùng đi xuống phòng khách, đặt anh ta ngồi thoải mái trong ghế xô pha cạnh lò sưởi; trong khi anh chàng huyên thuyên kể chuyện, cô ta ngồi yên ra vẻ chăm chú lắng nghe, vừa viền một chiếc áo lót mình cho đứa con trai yêu quý. Khi nào bà Rawdon muốn là ra vẻ đặc biệt giản dị và hiền thục, ấy là lúc chiếc áo lót mình này có dịp chui ra khỏi hộp đựng đồ may. Dĩ nhiên, trước khi may xong, đối với thằng Rawdy, nó đã trở thành quá chật rồi.

Thế là Rebecca chăm chú nghe Pitt nói, rồi cô ta kể chuyện cho anh chồng nghe, hát cho anh chồng nghe. Tóm lại, cô ta mơn trớn, vuốt ve tài quá, làm cho ông anh chồng mỗi ngày càng thấy sốt ruột, muốn mau chóng từ giã mấy bác thầy kiện ở quán Grey để về phố Curzon ngồi bên lò sưởi cháy dở - mấy lão thầy kiện cũng không mong gì hơn vì đỡ phải ngồi nghe Pitt nói tràng giang đại hải và cũng chính vì vậy anh chàng nam tước thấy giờ ly biệt thực là đáng hận. Lúc Pitt đã ngồi trên xe ngựa, Becky còn giơ bàn tay hôn gửi theo một cái, và rút khăn mùi xoa vẫy mãi, trông thật duyên dáng! Cô ta còn đưa mùi xoa lên chấm mắt nữa cơ chứ. Xe chuyển bánh, Pitt kéo sụp cái lưỡi trai mũ xuống, ngả lưng ra sau, nghĩ thầm rằng em dâu quý mình quá, mà mình cũng đáng được em dâu quý lắm lắm; còn cái thằng Rawdon mới thật ngốc nghếch làm sao, chẳng biết đến giá trị của cô vợ. Pitt lại thấy vợ mình ở trại, so với Becky thật là một trời một vực. Có lẽ chính Becky đã gợi ý cho Pitt về điểm này; có điều cô ta khôn khéo quá nên Pitt không nhớ rõ là cô ta nói lúc nào, nói ở đâu đấy thôi. Và, thế là trước khi anh em chia tay nhau, Pitt quyết định sửa sang lại ngôi nhà để dùng trong mùa hội sang năm, và đến ngày lễ Giáng sinh, hai gia đình sẽ gặp mặt nhau ở trại Crawley Bà chúa.

Ông anh nam tước đi rồi, Rawdon vui vẻ bảo vợ:

- Giá mình moi được của hắn ít tiền thì hay quá. Tôi đang cần ít tiền trả đỡ cho lão Raggles, nghĩ tội quá. Mình thấy không, chẳng lẽ ta cứ chịu mãi chẳng trả được đồng xu nào, cũng không tiện. Ấy là chưa kể nhỡ hắn lấy lại nhà cho người khác thuê thì rầy rà to. Becky đáp:

- Bảo hắn rằng bao giờ công việc của tôn ông Pitt giải quyết xong, sẽ trả tiền hết thảy mọi người; bây giờ hãy tạm đưa hắn ít nhiều gọi là có. Tấm ngân phiếu này là của Pitt cho thằng bé đây.

Đoạn cô ta móc trong túi ra tờ ngân phiếu của ông anh chồng viết cho thằng cháu trai thừa kế thuộc chi dưới trong họ Crawley.

Sự thực thì cái việc chồng xui, chính Rebecca đã thử dò đường rồi... cũng làm một cách hết sức khéo léo nhưng thấy không ăn thua gì. Cô ta mới thử phàn nàn túng thiếu, đã thấy tôn ông Pitt có ý hốt hoảng và lập tức kể lể dài dòng những là chính mình cũng đang gặp bí về chuyện tiền nong quá, những là bọn tá điền ở đây không chịu nộp tô, những là công việc làm ăn hồi ông bố còn sống cùng những chi phí về việc tang ma tốn vô khối tiền; anh ta đang lo chuộc lại những món nợ cầm cố, lại rút quá số tiền dự trữ gửi ngân hàng và luật sư. Cuối cùng Pitt nhượng bộ với em dâu bằng cách tống cho cô ta một món tiền rất nhỏ gọi là làm quà cho thằng cháu.

Pitt thừa biết gia đình em trai đang túng. Một nhà ngoại giao lõi đời sắc sảo như anh ta, làm gì không rõ rằng gia đình Rawdon không có đồng lợi tức nào, và nhà cửa cùng xe pháo đàng hoàng như vậy phải đâu không mất xu nào mà có được. Anh ta cũng hiểu rõ mình là chủ nhân, hoặc là kẻ được thừa hưởng món gia tài mà theo sự tính toán thông thường lẽ ra phải thuộc về em trai; như thế chắc hẳn, trong thâm tâm Pitt cũng có phần ân hận, và cảm thấy mình cũng nên công bằng tý chút, gọi là để đền bù lại cho kẻ bị thiệt thòi. Nếu như anh ta là người hiểu lẽ phải công bằng, biết nghĩ đôi chút, vẫn kính Chúa và đọc vỡ nghĩa lý thành kính, biết làm đúng nhiệm vụ của mình trong đời sống, ắt phải tự hiểu rằng mình mang nợ Rawdon về mặt tinh thần và cần phải làm một việc gì đấy để giúp đỡ em trai mới phải.

Đọc tờ “Thời báo” thỉnh thoảng ta vẫn gặp những dòng tin tức buồn cười thế này: “Ông tổng trưởng Bộ tài chính thông báo rằng đã nhận của vị A.B nào đó năm mươi đồng bảng, của vị W.T. mười đồng bảng, là tiền thanh toán số thuế còn chịu, đồng thời đương sự yêu cầu ngài Tổng trưởng thông báo chung trên mặt báo”. Dĩ nhiên ngài Tổng trưởng và có lẽ cả công chúng nữa, cũng thừa hiểu rằng các vị A.B và W.T nói trên mới chỉ trả một khoản tiền rất nhỏ so với toàn bộ số tiền còn chịu nhà nước; nghĩa là kẻ tự động gửi tấm ngân phiếu hai mươi đồng bảng cho kho bạc, lẽ ra phải trả một món tiền gấp hàng trăm, hàng nghìn lần. Đó là cảm tưởng của tôi mỗi khi đọc tin ông A.B hoặc ông W.T tỏ ra biết hối hận đối với cơ quan tài chính. Do đó, tôi cũng tin rằng thái độ hối hận, hay nói là cử chỉ rộng lượng cũng được, của Pitt Crawley đối với em trai chẳng qua cũng là việc thanh toán một phần rất nhỏ món nợ lớn anh ta vẫn còn chịu lại. Nói đến trả nợ, ai mà không cảm thấy khó khăn?

Con người ta có chút lương tri phải biết coi việc từ bỏ đồng tiền là một sự hy sinh đau đớn. Ở đời có ai thấy cho người khác năm trăm đồng bảng không phải là một việc làm cao quý? Kẻ quen xa xỉ, cho tiền không phải vì một niềm vui từ thiện, mà bởi có cái khoái trá của kẻ được tiêu: hắn ta không hề từ chối mình một thứ vui nào, hoặc ngồi ghế “lô” xem hát, hoặc chơi ngựa, hoặc ăn tiệc, cả đến cái thú cho Lazarus () năm đồng tiền. Người quen tằn tiện là người bụng dạ vốn tốt, khôn ngoan, không thèm nợ ai xu nào, cũng không chịu cho ăn mày tiền, mặc cả từng xu với xà ích, thấy bà con nghèo gặp cơn hoạn nạn thì đánh bài lờ. Không biết trong hai loại người này, ai ích kỷ hơn ai? Chẳng qua đối với mỗi người, đồng tiền có một giá trị khác nhau.

Tóm lại, Pitt Crawley nghĩ rằng mình cần giúp đỡ em đôi chút, nhưng thấy rồi lo đến việc ấy trong một dịp khác cũng không muộn.

Becky không phải là người đàn bà quen chờ đợi quá nhiều ở sự rộng lượng của người khác, cho nên được Pitt đãi ngần ấy cô ta cũng tạm bằng lòng, chồng cô cũng cho thế là phải. Nếu bây giờ Pitt chưa cho gì, thì rồi sẽ có ngày phải cho. Tuy không được ông anh chồng cho tiền, nhưng Rebecca cũng được một thứ giá trị không kém gì tiền... tức là sự tín nhiệm. Bác Raggles được chứng kiến cảnh anh em nhà Rawdon thoả thuận với nhau cũng lấy làm yên tâm; ấy là chưa kể bác vừa được trả một ít tiền, lại được Becky hứa sẽ trả một món tiền lớn hơn nhiều. Đến ngày lễ Giáng sinh, Rebecca trả bà Briggs món lãi của số tiền vay nợ cũ, dáng điệu vui vẻ thoải mái như không, tưởng chừng cô ta có cả một kho vàng trong nhà. Rebecca còn nói riêng với bà Briggs rằng mình đã hỏi ý kiến tôn ông Pitt là một nhà tài chính đại danh, thấy có thể đem số tiền vốn còn lại của bà Briggs đặt lãi một cách rất chắc chắn. Theo lời cô ta thì vì có cảm tình với người bạn trung thành của bà Crawley đã quá cố, cho nên trước khi rời khỏi thành phố, tôn ông Pitt khuyên bà Briggs nên chuẩn bị tiền nong sẵn sàng, đợi có dịp tốt là bỏ ra mua ngay một ít cổ phiếu theo sự tính toán của tôn ông. Thấy được tôn ông Pitt hạ cố thương đến mình, bà Briggs cảm động quá, thật là một sự may mắn không ngờ, vì bà không hề có ý định rút tiền ra khỏi quỹ tiết kiệm của nhà nước - bà càng cảm động hơn vì thái độ kín đáo tế nhị của tôn ông Pitt. Bà hứa sẽ tìm luật sư của mình để yêu cầu rút món tiền chờ dịp làm ăn thuận tiện.

Để tỏ lòng biết ơn hai vợ chồng ân nhân của mình, bà Briggs đi ngay ra phố bỏ hẳn sáu tháng lợi tức của mình ra mua một tấm áo choàng bằng nhung đen cho thằng Rawdy. Thằng bé hồi này đã quá tuổi mặc áo choàng bằng nhung đen, giá mua cho nó một cái áo chẽn và một cái quần dài thì hợp với nó hơn.

Rawdy là một đứa trẻ xinh xắn, mặt mũi tươi tỉnh, có đôi mắt xanh và bộ tóc vàng óng; thằng bé tay chân mập mạp nhưng có một tâm hồn dịu dàng đa cảm, nó gắn bó với bất cứ thứ gì nó thích...với con ngựa non... với bá tước Southdown đã mua ngựa cho nó (mỗi lần gặp nhà quý tộc trẻ tuổi này, mặt nó đỏ ửng và tươi hẳn lên)...với thằng hầu trông nom con ngựa... với chị bếp Molly đêm đêm vẫn kể chuyện ma cho nó nghe và hay để phần cho nó nhiều thức ăn ngon... với bà Briggs vẫn nuông chiều nó và bị nó vòi vĩnh suốt ngày... đặc biệt với bố nó, vì cũng lạ thay bố nó quý nó lạ lùng. Bây giờ thằng bé đã gần lên tám, tình cảm nó không còn như xưa nữa. Cái ảo ảnh đẹp đẽ của tình mẫu tử đã phai mờ trong trí nó lâu rồi. Có đến gần hai năm, mẹ nó hầu như không nói với nó câu nào.

Rebecca không ưa thằng bé. Nó bị bệnh sởi và mắc bệnh ho gà, mẹ nó lấy làm phiền lắm. Một hôm nghe tiếng mẹ nó hát ở dưới nhà cho hầu tước Steyne nghe, nó thích quá mò từ trên gác xuống đứng ở đầu cầu thang; cu cậu đang khoái trá thưởng thức âm nhạc, bỗng nhiên cửa phòng khách hé mở, lộ ra cu cậu đang rình nghe trộm.

Mẹ nó bèn bước ra bạt tai cho nó hai cái nên thân. Nó nghe thấy từ phòng trong vẳng ra tiếng cười của hầu tước Steyne (lão thấy Becky tỏ thái độ tức giận một cách tự nhiên trước mặt khách như vậy lấy làm thú vị lắm); thằng bé vội lủi xuống bếp với các bạn, lấy làm tủi thân quá.

Thằng Rawdy nức nở nói: “Không phải vì em bị tát đau đâu.. tại…tại vì…Rồi nó khóc oà lên, không nói được hết câu. Trái tim thằng bé đang vỡ ra từng mảnh. “Tại sao em lại không được nghe má hát? Sao không bao giờ má hát cho em nghe? Sao má chỉ thích hát cho cái ông đầu hói răng to tướng kia nghe thôi?” Thằng bé vừa đau khổ vừa giận dữ thốt ra những lời than thở đứt đoạn như thế. Chị bếp nhìn chị hầu gái, chị hầu gái láu lỉnh nháy anh nhỏ...thế là cái toà án nhà bếp ghê gớm thiết lập trong mỗi gia đình, mà việc gì cũng biết đến kẽ tóc chân tơ, đã xử xong vụ án Rebecca.

Sau sự kiện trên, thái độ của người mẹ đối với đứa con trai biến thành sự thù ghét. Nom thấy mặt thằng bé trong nhà, Rebecca thấy như mình bị dằn vặt, không sao chịu nổi. Trong lòng thằng bé cũng nảy sinh sự sợ hãi, nỗi hoài nghi và ý muốn cưỡng lại. Hai mẹ con xa nhau hẳn kể từ ngày nó bị hai cái bạt tai.

Hầu tước Steyne cũng không ưa gì thằng Rawdy. Nếu vô tình gặp nó, lão cúi chào một cách giễu cợt kèm theo vài câu châm chọc, hoặc giương đôi mắt dữ tợn ra mà ngó trừng trừng vào mặt nó.

Thằng Rawdy cũng giương mắt nhìn trả và nắm chặt hai bàn tay lại. Nó coi lão là kẻ thù, mà trong số khách khứa đi lại với gia đình thì lão quý tộc này lại căm ghét nó nhất. Một bữa thằng nhỏ bắt gặp nó nắm tay đấm bẹp cái mũ của hầu tước Steyne để ngoài phòng khách. Thằng nhỏ coi là câu chuyện thú vị kể lại cho bác xà ích của lão hầu tước nghe. Bác này kháo ngay với anh hầu phòng của hầu tước Steyne, cứ thế câu chuyện lan rộng trong đám đầy tớ. Thế là ít ngày sau, khi bà Rawdon Crawley đến toà nhà phố Gaunt để dự tiệc, thì từ anh gác cổng cho tới khắp mặt gia nhân và cả những người hầu mặc áo gi lê trắng đứng túc trực trên cầu thang để truyền nhau báo tin trung tá và bà Rawdon Crawley đã đến, đều hiểu rõ, hoặc tự cho là hiểu rõ Rebecca là người thế nào. Anh hầu bưng khay nước mời Rebecca, rồi kính cẩn đứng hầu sau lưng, thì thầm nói chuyện về bà khách với bác quản lý cao lớn, bận cái quần sặc sỡ đứng cạnh. Trời đất ơi!()Cái thói thóc mách của bọn đầy tớ mới đáng sợ thay! Bạn thấy một bà đến dự buổi tiếp tân lớn trong một phòng khách lộng lẫy, xung quanh xúm xít toàn những người mong được lọt vào mắt xanh; bà ban phát đây đó những cái nhìn long lanh gợi tình; áo bà may tuyệt khéo, tóc bà uốn quăn, môi bà tô đỏ thắm, bà mỉm cười và bà sung sướng... Nhưng kìa! Sự khám phá đang lù lù đi đến một cách lễ phép trong con người đội tóc giả rắc phấn, có đôi bắp chân to, bưng một khay nước... Có thói xấu (cũng tai hại ngang với sự thực) đang đi kèm sau lưng, trong con người to béo mang khay bánh bích quy. Thưa bà, đêm nay bọn này sẽ đem chuyện bí mật của bà ra kháo với nhau trong quán rượu. Vừa hút thuốc, uống rượu, thằng Jeames sẽ cho thằng Chawles rõ nó nghĩ thế nào về bà. Trong Hội chợ phù hoa, khối người yên trí đầy tớ của mình câm cả... vừa câm vừa không biết viết. Nhưng nếu ngài có tật, hãy giật mình đi. Thằng hầu đang đứng sau lưng ngài có thể là một tên đao phủ có sẵn trong túi một sợi dây thừng để thắt cổ ngài đấy. Còn nếu ngài vô tội, xin hãy cẩn thận giữ gìn ý tứ. Có khi vô tình mà nét mặt, cử chỉ của ngài cũng nguy hiểm đến mức khiến cho ngài như kẻ phạm tội...

Vậy thì Rebecca có tội hay không?”. Toà án () nhà bếp đã tuyên án xong rồi.

Cũng lại phải công nhận rằng dù bọn gia nhân chưa tin hẳn Rebecca có tội, họ cũng không còn kính nể cô ta nữa. Bởi vì bác Raggles vẫn thấy chiếc xe ngựa của hầu tước Steyne chong đèn đỗ ngoài cửa nhà Rebecca đến quá nửa đêm mới đi; bác buông thêm một câu: “Thế mà còn khéo làm bộ.”

Nội một chuyện ấy đủ kết án Rebecca còn hơn cả những cử chỉ nũng nịu khéo léo của cô ta nữa.

Thế là Rebecca cứ như một con rắn vặn mình trườn lên - có vẻ ngây thơ vô tội - để vươn tới cái gọi là “một địa vị trong xã hội”; trong khi ấy, bọn đầy tớ đinh ninh bà chủ là người hư đốn đứt đuôi rồi, cho nên một bữa chị bếp Molly đứng nhìn con nhện kỳ khu dệt mãi tấm mạng ở xó cửa, sốt ruột chị bèn quơ cho một nhát chổi, thế là đi đứt cả tơ lẫn nhện.

Trước ngày lễ Giáng sinh độ một vài hôm, hai vợ chồng Becky và con trai sắp sẵn hành lý để về chơi trại Crawley của cha ông; Becky không muốn đem con theo, nhưng công nương Jane nhất định đòi đón thằng bé về chơi; vả lại thấy vợ thờ ơ với con trai quá Rawdon bắt đầu tỏ vẻ không bằng lòng. Ông bố ra giọng trách móc bảo vợ: “Nó là đứa bé kháu nhất nước Anh đấy nhá, thế mà mình chẳng quan tâm đến nó bằng con chó lai của mình. Nó sẽ không làm phiền gì mình đâu; về nhà, cho nó ở trong phòng của trẻ con, mình khỏi phải bận; đi đường nó ngồi ngoài với tôi cũng được”.

Bà Rawdon đáp:

- Ông ngồi ngoài còn hút mấy điếu xì gà phải gió ấy chứ gì.

Anh chồng nói:

- Thế mà ngày xưa có hồi mình cũng thích xì-gà ra phết đấy.

Becky cười, cô ta vẫn vui tính xưa nay. Cô bảo chồng:

- Khỉ ạ, hồi ấy em còn đang “xin việc”. Thôi cũng được, cho thằng Rawdy ngồi ngoài với anh muốn cho nó hút cả xì gà nữa tuỳ thích.

Rawdon không giúp con chống lại khí lạnh trong khi đi đường bằng cách ấy; anh ta và bà Briggs quấn cho thằng bé đủ các thứ khăn quàng và chăn, rồi cẩn thận nhắc nó đặt lên nóc xe; trời còn tối, trạm xe “Bạch mã” đèn vẫn sáng. Thằng bé được ngắm cảnh bình minh thích quá. Đây là lần đầu tiên nó được về thăm nơi bố nó vẫn gọi là “quê nhà”. Thằng bé thấy cuộc hành trình hết sức thú vị; chuyện gì xảy ra trên đường đi cũng khiến cho nó hào hứng. Nó hỏi gì bố nó cũng trả lời, cho nó biết cả ai là chủ ngôi nhà quét vôi trắng mé bên phải đường đi, ai là chủ vườn hoa này... Mẹ nó ngồi trong xe với chị hầu gái mang theo cả áo lông, chăn len, lọ nước hoa. Rebecca làm như lần này mới phải đi xe ngựa thuê là một; ai hay đâu khoảng mười năm về trước, cũng chính trong chiếc xe này, cô ta đã có lần bị đuổi ra ngồi ngoài trời để nhường chỗ cho một hành khách đi xe mất tiền.

Đến Mudbury trời vẫn còn tối, thằng Rawdy được bố đánh thức dậy để sang cái xe ngựa của ông bác. Thằng bé cứ trố mắt lên mà nhìn cái cánh cổng sắt mở rộng và những cột trụ quét vôi trắng xoá; trước toà nhà lớn trong trại, cửa sổ sáng trưng ánh đèn, nhân dịp lễ Thiên chúa giáng sinh. Cửa phòng lớn mở toang... lửa đốt sáng rực trong chiếc lò sưởi cổ kính to tướng... một tấm thảm trải trên nền gạch hoa vẽ ô vuông đen trắng: “Chính là tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ, ngày xưa đứng trong hành lang của các bà đây”, Rebecca nghĩ thầm; lát sau, cô ta đã ôm hôn công nương Jane.

Tôn ông Pitt và em dâu hôn nhau một cách rất long trọng.

Rawdon vừa hút thuốc xong, không dám đến gần chị dâu; hai đứa con nhà bác sán lại gần thằng em họ; con bé Matilda hôn thằng Rawdy rồi nắm lấy tay, nhưng thằng Pitt Binkie Southdown, cậu trưởng tộc tương lai, vẫn đứng tách ra mà tò mò ngắm thằng em họ, y như một con chó con đứng nhìn một con chó lớn hơn.

Đoạn bà chủ nhà lịch sự dẫn khách vào trong căn phòng ấm cúng, lửa reo lách tách trong lò sưởi. Hai cô em gái Pitt đến gõ cửa phòng Rebecca, lấy cớ xem chị dâu có cần gì thì đỡ tay hộ. Thật ra họ cốt nhòm ngó những hộp mũ, hộp áo của Becky; tuy chỉ toàn áo mầu đen, nhưng Becky may theo kiểu mới nhất ở Luân đôn. Họ kể lại cho chị dâu về những sự đổi thay trong trại; Southdown phu nhân đã bỏ đi rồi; Pitt nay có uy tín lớn trong quận, rất xứng đáng với dòng họ Crawley. Tiếng chuông báo giờ ăn trưa đã điểm; cả gia đình quây quần lại dùng cơm. Thằng Rawdy được ngồi bên bác gái nó, tức là bà chủ gia đình. Becky ngồi cạnh Pitt, bên phải; cô ta được ông anh chồng săn sóc chu đáo lắm.

Thằng Rawdy ăn rất ngon miệng, cử chỉ tỏ ra rất đứng đắn. “Cháu thích ăn cơm ở đây quá.” Ăn xong, nó bảo bác gái nó thế. Pitt đọc một đoạn kinh lấy lệ; sau đó người nhà dẫn cậu con trưởng vào ngồi trên chiếc ghế cao ngất ngưởng cạnh bố, cô con gái ngồi cạnh mẹ cũng được một cốc rượu vang con. Thằng Rawdy ngước lên nhìn bộ mặt hiền từ của bác gái, bảo:

- Cháu thích ăn cơm ở đây quá, bác ạ!

Công nương Jane hỏi lại:

- Tại sao, cháu?

- Tại vì ở nhà cháu phải ăn dưới bếp hoặc ăn với bà Briggs.

Becky ngồi tít tận đầu bàn đằng kia, không nghe thấy câu nói của con, vì cô ta đang bận tuôn ra hàng tràng những câu chúc tụng say sưa, và đang bận khen thằng Pitt Binkie mà cô ta cho là một đứa bé kháu khỉnh, thông minh, trông ra phết con nhà nòi, chẳng khác gì bố.

Vì là khách, lại cũng mới là buổi đầu tiên, nên thằng Rawdy được phép ngồi lại bàn ăn tới khi uống trà xong; người nhà đem một cuốn sách đồ sộ bìa mạ vàng đặt trước mặt Pitt; toàn thể gia nhân lũ lượt kéo vào nghe Pitt đọc kinh. Lần đầu tiên thằng bé đáng thương được chứng kiến một nghi lễ như vậy.

Tôn ông Pitt lên cầm quyền chưa được bao lâu mà trong nhà đã cải cách thay đổi quá nhiều; Becky được ông anh chồng đưa đi thăm mọi chỗ. Cô tuyên bố rằng nhà cửa hoàn toàn ngăn nắp, rất đẹp. Thằng Rawdy được hai đứa con nhà bác đưa đi chơi trong trại; nó cho là một nơi thần tiên lắm. Ngôi nhà có nhiều hành lang dài tít tắp, nhiều buồng ngủ lộng lẫy, nhiều tranh vẽ, nhiều đồ sứ cổ, lại có cả những bộ áo giáp cũ. Bọn trẻ con rón rén đi ngang qua căn phòng ông nội chúng chết trước kia, mắt lấm la lấm lét. Thằng Rawdy hỏi: “Ông nội đâu?” Hai đứa kia kể lại rằng ông nội già lắm, hay ngồi trong ghế lăn có bánh xe, rồi chúng chỉ cho thằng em họ xem cái ghế ông nội chúng vẫn ngồi trước kia để đi sang nhà thờ; thấp thoáng sau hàng cây du trong vườn, mái nhà thờ vươn lên nhọn hoắt, lấp lánh.

Mấy buổi sáng liền hai anh em đi xem xét những sự đổi mới trong trại, do tài tổ chức và tính tiết kiệm của Pitt. Họ sóng đôi nhau đi ngựa hoặc đi bộ mà trò chuyện, có vẻ tương đắc lắm.

Pitt cố ý cho Rawdon biết rằng mình phải bỏ ra khá nhiều tiền mới sửa sang được như vậy; và một ông chủ có bất động sản nhiều khi túng đến nỗi trong túi không có được hai mươi đồng bảng. Pitt cầm chiếc gậy tre chỉ vào cái cổng, nói có vẻ khiêm tốn:

- Đây là phòng của người gác cổng mới được sửa lại. Tôi đang lo không biết làm cách nào trả được tiền công cho bác ta trước tháng giêng đây.

Rawdon hơi bực mình, đáp:

- Để tôi cho anh vay, anh Pitt ạ.

Hai anh em bước vào căn phòng, trên mặt tường đá mới chạm thêm hình huy hiệu của gia đình. Đã mấy chục năm nay, lần đầu tiên bà lão Lock mới được ở một ngôi nhà có cửa khép kín, mái không dột và có cửa sổ tử tế.

Chương 45
GIỮA HAMPSHIRE VÀ LUÂN ĐÔN

Không phải tôn ông Pitt chỉ sửa lại rào giậu cùng chữa lại vài căn phòng trong trại Crawley Bà chúa mà thôi đầu. Vốn khôn ngoan, anh ta bắt tay ngay vào việc gây dựng lại uy tín của gia đình đã bị ông bố xấu thói và keo kiệt phá hoại. Ngay sau khi cha anh chết, anh ta được bầu thay mặt cho địa phương trong Quốc hội; với tư cách là một quan toà, một nghị sĩ, một người tai mặt trong quận, đại diện cho một dòng họ lâu đời, anh ta tự thấy có nhiệm vụ hoạt động nhiều trước công chúng Hampshire ; Pitt bèn tỏ ra hào phóng đối với các tổ chức từ thiện trong quận, chịu khó thăm viếng những nhà tai mặt trong vùng, và không bỏ lỡ một cơ hội nào để leo lên một địa vị, trước hết là trong quận, sau đó là trong toàn quốc, mà anh ta thấy xứng đáng với tài năng lỗi lạc của mình. Công nương Jane được lệnh đi lại thân mật với gia đình Fuddlestones, gia đình Wapshots và các nam tước láng giềng khác.

Bây giờ ta lại thấy xe ngựa của họ ra vào luôn luôn trên con đường lớn của trại Crawley Bà chúa. Pitt mở tiệc thết đãi họ thường xuyên (món ăn làm tuyệt khéo, nhưng chắc công nương Jane ít khi mó tay đến), đồng thời quanh năm bạn bè xa gần cũng mời vợ chồng anh ta đi dự tiệc ngoài luôn. Tuy tính Pitt vốn trầm lặng không ưa ồn ào mấy, sức yếu mà ăn uống cũng kém ngon, nhưng anh ta thấy ở vào địa vị mình cần tỏ ra là người hiếu khách, mỗi lần phải ngồi tiếp khách quá lâu đến nỗi sau bữa tiệc đầu nhức như búa bổ, Pitt thấy mình thật khổ sở vì nhiệm vụ. Anh ta bàn với những tay chủ điền các chuyện mùa màng, chuyện luật lệ về lúa má, chuyện chính trị. Trước kia anh ta thường tỏ thái độ phóng khoáng đối với những vấn đề săn trộm và bảo vệ thú rừng, bây giờ lại làm ra bộ hết sức khe khắt. Pitt không đi săn; anh ta không ra săn bắn. Anh ta chỉ là một con người của sách vở, với những thói quen hiền lành, nhưng anh ta cho rằng phải đẩy mạnh việc nuôi ngựa trong quận, và cũng cần chú ý đến vấn đề bảo vệ cáo rừng đỡ bị giết hại. Vì lẽ đó, Pitt ta sẵn sàng mời ông bạn là ngài Huddlestone Fuddlestone vốn ham săn cáo đến săn trong phạm vi trại Crawley Bà chúa. Không những thế, trong đời sống hằng ngày, anh ta lại tỏ ra có khuynh hướng phục tùng tôn giáo chính thống. Southdown phu nhân giận lắm vì con rể thôi không thuyết giáo trước công chúng, cũng không đến dự những buổi họp đạo hữu tự do trước nữa. Trái lại, anh ta rất chăm đi nhà thờ, đến thăm vị giám mục và các mục sư ở Winchester; khi ngài phó chủ giáo Trumper mời tới chơi một ván bài, anh ta vui lòng nhận lời ngay. Southdown phu nhân đau khổ quá, bà thấy con rể bây giờ là kẻ bỏ đi, vì bắt đầu đam mê những thú vui phàm tục!... Một lần, đi dự lễ đạo ở Winchester về, Pitt tuyên bố rằng năm sau sẽ đưa hai em gái đi dự những buổi dạ hội ở quận; hai cô sướng quá muốn tôn ông anh lên mà thờ. Công nương Jane vì vâng lời chồng mà đi, nhưng trong bụng có lẽ cũng thích. Bà mẹ vợ lập tức viết thư cho tác giả cuốn “Người đàn bà giặt thuê ở Finchley” ngụ tại Hảo Vọng giác miêu tả thật khủng khiếp về cách ăn ở phàm tục của cô con gái; hồi này ngôi nhà của bà ở Brighton vắng người thuê, bà lại về trú ngụ ở đó. Phải thú thực rằng con gái và con rể cũng không lưu luyến bà lắm lắm. Rebecca về thăm trại Crawley Bà chúa lần sau thấy vắng mặt bà lão hay cho thuốc, có lẽ cũng không thấy nhớ nhiều thì phải. Tuy vậy, cho đến ngày lễ Giáng sinh, cô ta cũng viết thư cho Southdown phu nhân, nhắc lại những ngày gặp gỡ cũ, ngỏ lời cảm tạ vì phu nhân đã có lòng thương chuyện trò và cho thuốc khi cô ta đau ốm; lại nói rằng mình về trại trông thấy cái gì cũng nhớ đến người vắng mặt.

Những sự đổi thay trong cách cư xử của Pitt Crawley mang lại thêm uy tín cho anh ta, phần lớn là dựa vào lời khuyên của người thiếu phụ bé nhỏ mưu mẹo ở phố Curzon. Hồi Pitt về chơi Luân đôn, Becky bảo anh ta thế này: “Bác chỉ muốn là một nam tước thôi à? Bác bằng lòng chỉ làm một ông phú hộ nhà quê chăng? Không, thưa tôn ông Pitt Crawley, em biết bác có thể hơn thế. Em biết bác có tài, có tham vọng. Bác giấu được mọi người, nhưng thoát sao được mắt em. Em đã đưa cho hầu tước Steyne xem bài xã thuyết bác viết về vấn đề lúa mạch; ngài quan tâm đến bài đó làm; ngài nói rằng theo ý các vị trong Nội các, đấy là một tài liệu đầy đủ nhất về vấn đề lúa mạch. Ngài tổng trưởng rất chú ý đến bác, em cũng rõ bác định làm gì rồi: bác muốn trở thành có tiếng tăm trong Quốc hội, phải không nào? Thiên hạ ai cũng bảo bác là nhà hùng biện có tài nhất nước Anh; họ chưa quên những bài diễn thuyết của bác ở Oxford, bác muốn trở thành đại biểu của quận; ở đấy với số phiếu của bác, lại có dân chúng trong quận làm hậu thuẫn, bác muốn làm gì mà chẳng được, bác muốn trở thành đệ nhất nam tước tại trại Crawley Bà Chúa; bác sẽ được toại nguyện ngay khi còn sống. Em thấu rõ gan ruột bác rồi. Ôi! Giá chồng em có được trí thông minh và địa vị của bác, chắc chắn em cũng là người vợ xứng đáng... nhưng...nhưng em chỉ là em dâu bác thôi - cô ta cười tiếp - em nghèo túng thật, nhưng vẫn mong bác thành công; vả lại biết đâu con chuột lại chẳng giúp con sư tử được việc nhỉ?”

Pitt Crawley nghe nói, vừa ngạc nhiên vừa khoái trá. Anh ta nghĩ thầm: “Con mụ này đi guốc vào bụng mình thật! Đố bao giờ mình bảo được Jane đọc bài xã thuyết về lúa mạch của mình. Cô ấy không thể hiểu rằng mình là người có tài cao, có chí lớn. Thì thiên hạ vẫn nhớ những bài diễn thuyết của mình ở Oxford cơ à? Bọn đê tiện!

Bây giờ mình đã là nghị sĩ, sắp sửa ngồi trong hội đồng hàng quận, chúng nó mới nhớ đến mình. Năm ngoái, lão hầu tước Steyne gặp mình trong triều cứ lờ đi, bây giờ mới bắt đầu hiểu rằng Pitt Crawley chẳng phải tay vừa đâu. Phải lắm, tôi vẫn như xưa thôi, có điều đến bây giờ cá mới gặp nước; rồi tôi sẽ cho các vị biết rằng tôi nói, tôi hành động cũng không kém gì tôi viết. Xưa kia, trước khi Achilles được trao gươm vào tay, ai biết anh ta là cái quái gì. Tôi đây là cũng được trao gương và rồi thế giới sẽ nghe đại danh Pitt Crawley”.

Bởi thế nhà ngoại giao xấu thói mới đột nhiên đâm ra hiếu khách, mới chăm đi dự lễ hội tôn giáo và làm việc từ thiện, mới giao thiệp thân mật với giới tu sĩ, mới thết tiệc cũng như dự tiệc luôn luôn, mới tỏ ra nhã nhặn một cách đặc biệt với các tá điền khi gặp họ trong những phiên chợ, và mới hết sức quan tâm đến mọi công việc trong quận. Đồng thời, vì thế ngày lễ Giáng sinh trong trại mới được tổ chức linh đình lâu nay chưa từng có.

Đúng ngày lễ Giáng sinh, tất cả gia đình tề tựu đông đủ. Bên nhà thờ cũng sang ăn cơm không thiếu một ai. Rebecca đối với bác Bute hết sức thành thực và thân mật, y như giữa hai người không hề có chuyện gì xảy ra. Rồi cô ta săn đón hỏi han hai cô con gái bà Bute, tỏ ngạc nhiên vì họ tiến bộ rất nhiều về khoa âm nhạc. Cô ta còn đòi hai chị em nhà này hát đi hát lại một bài song ca trích trong cuốn sách nhạc to tướng mà Jim phải lóc cóc về nhà đem sang trại; cu cậu bực mình lắm. Bà Bute bắt buộc phải giữ một thái độ hoà nhã đối với con người xảo quyệt; dĩ nhiên sau đó mấy mẹ con tha hồ mà bàn tán với nhau không hiểu vì sao Pitt lại tỏ ra nể nang em dâu một cách vô lý đến thế. Riêng Jim được ngồi cạnh Becky lúc ăn cơm, tuyên bố rằng cô ta là một người đàn bà hoàn toàn; toàn thể gia đình ông Bute đồng ý công nhận thằng Rawdy là một đứa trẻ kháu khỉnh. Họ có thái độ kính trọng nó như đối với một vị nam tước tương lai, vì thực ra giữa thằng bé và tước vị này chỉ có một trở ngại tức là chú bé Pitt Binkie xanh xao, quặt quẹo.

Hai đứa trẻ chơi với nhau rất thân. Đối với thằng Rawdy, thằng Piky chỉ là con chó cún so với một con chó xồm; con bé Matila là con gái không đọ được với một thằng con trai gần tám tuổi, sắp sửa mặc cả áo chẽn như người lớn. Cho nên thằng Rawdy lập tức trở thành người chỉ huy... hai chị em con Matilda cứ kính cẩn lẽo đẽo theo sau thằng này, lấy làm sung sướng lắm vì được nó chiếu cố chơi với. Chưa bao giờ thằng bé thích chí đến thế. Nó thích nhất khu vườn rau: vườn hoa không thích bằng, nhưng lần nào được đến thăm chuồng chim bồ câu, chuồng gà và chuồng ngựa thì nó sướng vô kể. Nó nhất định không cho hai chị em cô Crawley hôn nó, nhưng thỉnh thoảng nó cũng bằng lòng cho công nương Jane vuốt ve một lúc. Sau bữa ăn, lúc đến giờ theo các bà sang phòng khách, để cho các ông ở lại uống rượu vang, thì nó thích ngồi cạnh bác gái hơn cạnh mẹ nó. Rebecca thấy tình mẫu tử đang lúc hợp thời, một buổi tối gọi nó đến gần và trước mặt mọi người cúi xuống hôn nó một cái.

Được mẹ hôn, thằng bé nhìn trừng trừng vào mặt mẹ, đỏ tía cả hai tai, chân tay lẩy bẩy y như những phút nó bị xúc động rất mạnh. Nó bảo mẹ:

- Ở nhà má có hôn con bao giờ đâu, hở má?

Mọi người yên lặng, sửng sốt; Kêbecca nhìn con, tức lộn ruột.

Thấy công nương Jane vồ vập con mình, Rawdon quý chị dâu lắm.. Becky và công nương Jane cũng chưa thân nhau hơn so với lần trước, khi Becky về thăm trại cố tình làm vui lòng mọi người; thằng Rawdy vô tình nói mấy câu làm cho hai chị em dâu đối với nhau kém phần thân mật. Cũng có thể vì tôn ông Pitt đối với em dâu đã tỏ ra săn sóc hơi quá chăng?

Thằng Rawdy đã lớn,ưa được gần các ông hơn là ngồi với các bà. Nó thích theo bố ra chuồng ngựa; bố nó hay lủi ra đây hút một điếu xì gà... Jim,con trai ông mục sư, thỉnh thoảng cũng theo anh họ ra làm vài hơi và dự những trò tiêu khiển khác. Anh ta đánh bạn rất thân với người coi rừng của Pitt, vì hai bên cùng là tay sành chó cả. Một hôm, Jim, Rawdon và người gác rừng cùng đi săn chim trĩ; họ đem theo cả thằng Rawdy. Một lần khác, cả bốn chui vào nhà kho lùng săn chuột; thằng Rawdy thấy săn chuột lại vui hơn săn chim trĩ nhiều. Họ đứng chắn ở cửa mấy cái cống thông nước trong nhà kho, rồi từ cửa mé bên kia, họ xua mấy con chồn vào; đoạn cả bọn đứng im phắc, tay mỗi người giơ sẵn thật cao một cái gậy. Một con chó săn túc trực sẵn sàng (Jim đặt tên nó là Forceps); con chó không dám thở mạnh, co một chân lên đứng im như tượng, lắng nghe tiếng chuột khe khẽ rúc rích dưới lỗ. Bí quá sinh liều,cuối cùng đàn chuột bị săn riết lần lên mặt đất; con chó săn vồ được một; bác gác rừng đập chết một; Rawdon vội vàng quá đánh hụt một con chuột, nhưng lại quật trúng suýt chết một con chồn.

Hôm ngài Huddlestone Fuddlestone mang bầy chó săn sang trại Crawley Bà chúa thật là một ngày lịch sử.

Thằng Rawdy được chứng kiến một cảnh tượng hết sức ngoạn mục. Mười giờ rưỡi, thấy Tom Moody là thợ săn của ngài Huddlestone Fuddlestone, phi ngựa nước kiệu tiến vào con đường lớn trong trại, theo sau là cả một đàn chó đông lúc nhúc. Sau hết là hai thằng hầu mặc chế phục màu đỏ lấm láp, cưỡi ngựa cầm roi lùa những con chó đi chậm. Họ có lối quất roi rất tài, cứ nhè những chỗ gầy sát xương mà quật những con chó dám la cà dừng lại hoặc dám lấm lét nhòm ngó mấy con thỏ rừng chạy vụt qua trước mõm.

Tiếp theo là thằng Jack, con trai bác Tom Moody; thằng bé chỉ nặng có ba mươi ki-lô, cao bốn mươi tám inch; nó cọc người không lớn được nữa. Thằng Jack cưỡi một con ngựa gầy trơ xương sườn, trên lưng úp một bộ yên to tướng. Đó là con ngựa quý nhất của tôn ông Huddlestone; lão đặt tên nó là “Thượng lưu”; nhiều thằng bé khác cũng cưỡi ngựa lục đục kéo vào; ông chủ phóng ngựa tới sau cùng.

Tom Moody thúc ngựa đến trước cửa lớn ngôi nhà chính, bác quản lý bước ra đón, đưa rượu mời, nhưng Tom không uống. Hắn dắt bầy chó săn ra bãi cỏ tìm chỗ có bóng râm; đàn chó lăn kềnh trên nền cỏ êm, con nọ đùa bỡn hoặc gầm gừ với con kia, thỉnh thoảng lại oẳng nhau một trận, nhưng lập tức bị Tom quát mắng hoặc đét cho vài roi chúng lại câm miệng ngay.

Bây giờ mới đến các vị chủ nhân trẻ tuổi, cưỡi toàn ngựa nòi; họ đi ủng cao đến đầu gối bước vào nhà, chào các bà và uống rượu mạnh. Vài người nhũn nhặn và thượng võ hơn thì đứng cậy bùn bám vào ủng, rồi đổi ngựa “thồ” lấy ngựa săn, và cho phi vài vòng quanh bãi cỏ để gây hào hứng. Đoạn họ đứng quây xung quanh bầy chó săn, bàn tán với Moody về cuộc săn vừa qua, về những đức tính của con Sniveller hoặc con Diamond, về tình hình thú rừng hiện nay trong địa phương và về chuyện giống cáo bây giờ tồi quá.

Bây giờ mới thấy tôn ông Huddlestone đến. Lão cưỡi một con ngựa tuyệt đẹp tiến thẳng đến ngôi nhà chính, xuống ngựa bước vào chào các bà xong là bắt tay ngay vào việc, vì tính lão vốn ít nói.

Bầy chó săn bị xua ra trước cửa ngôi nhà chính; thằng Rawdy đứng giữa đám chó, vừa thích lại vừa sợ, vì chúng cọ mình vào thằng bé, thỉnh thoảng lại quất đuôi vào nó một cái. Tom Moody hết quát tháo lại lấy roi vụt đen đét cũng không được.

Trong khi ấy tôn ông Huddlestone đã nhảy phốc lên lưng con “Thượng lưu”. Lão nói: “Tom, trước hết ta hãy qua cánh rừng Sowster đã, lão tá điền Mangle mách tao ở đấy có một đôi cáo”. Tom bèn rút tù và thúc ngựa phi nước kiệu, theo sau là bầy chó săn, bọn người hầu cầm roi, các ông trai trẻ ở Winchester bọn tá điền quanh vùng, và cả những bác nông dân trong trại đi chân không; họ coi ngày hôm ấy là một ngày hội lớn. Tôn ông Huddlestone cùng Rawdon Crawley đi đoạn hậu; cả đoàn người khuất dạng dần cuối con đường cái.

Lão mục sư Bute Crawley không muốn ra mắt công chúng trước ngôi nhà của cháu trai; Tom Moody vẫn còn nhớ bốn mươi năm về trước, lão là một mục sư trẻ tuổi, vóc người gọn gàng, chuyên cưỡi những con ngựa thật bất kham phi cứ băng băng qua những lạch nước rộng nhất và những hàng rào cao nhất trong vùng. Lão Bute cưỡi một con ngựa ô vạm vỡ phóng từ phía nhà thờ ra, vừa đúng lúc tôn ông Huddlestone phi ngựa qua, và nhập ngay vào đoàn người. Thế rồi cả chó cả người mất hút; thằng Rawdy đứng trơ lại một mình trên bậc thềm, ngây ra nhìn có vẻ khoái lắm.

Trong thời gian về nghỉ ở trại, thằng bé không được ông bác ưa thích lắm. Tính Pitt thường lạnh nhạt, nghiêm khắc thích đóng cửa ngồi một mình trong phòng khách, cặm cụi với những công việc kiện cáo; xung quanh chỉ thấy toàn bọn tá điền và bọn công sai ra vào trong phòng. Trái lại, các cô nó, hai chị em con nhà bác ở trại và Jim rất mến nó. Thấy Jim có ý tán tỉnh một cô em gái mình, có lần Pitt đã khuyến khích Jim một cách hơi lộ liễu rằng khi nào cái lão già hay săn cáo kia về chầu giời thì sẽ giành chân mục sư cho em họ. Jim bèn thôi không săn cáo nữa, chỉ đi bắn vịt giời hoặc chim dẽ; săn chuột qua quýt gọi là, rồi trở về trường đại học cố gạo thi lại lần nữa cho khỏi trượt. Anh ta đã sắm đâu được một bộ quần áo màu xanh, một chiếc cà vạt đỏ, và vài món trang sức lịch sự khác, chuẩn bị sẵn sàng cho việc leo lên địa vị mới. Đó là phương pháp rẻ tiền và tiết kiệm mà tôn ông Pitt dùng để trả nợ bà con họ hàng.

Tuy nhiên, ngay trong dịp lễ Giáng sinh này, anh chàng nam tước đã lấy hết can đảm biếu em trai thêm một tờ ngân phiếu nữa trị giá những một trăm đồng; mới đầu Pitt cũng tiếc đứt từng khúc ruột, nhưng về sau nghĩ rằng mình quả là con người hào phóng nhất đời, anh ta cũng thấy hể hả. Hai bố con Rawdon rời trại về tỉnh lòng buồn rười rượi; trái lại Becky và đám phụ nữ chia tay nhau lại có phần vui vẻ; cô bạn của chúng ta trở về Luân đôn tiếp tục nốt công việc ta đã rõ khi bước vào chương này. Được bàn tay cô ta sắp đặt, bộ mặt ngôi nhà ở phố Great Gaunt như trẻ hẳn lại, sẵn sàng đón tiếp gia đình tôn ông Pitt khi anh ta về Luân đôn để dự họp Quốc hội, và để lãnh trách nhiệm lớn lao đối với đất nước cho xứng với thiên tài của anh ta.

Trong khoá họp đầu tiên, tay đạo đức giả sâu sắc này chưa lộ rõ chủ trương ra vội; anh ta chỉ lên tiếng thay mặt cho dân chúng ở Mudbury trình bày một bản kiến nghị. Nhưng Pitt lại chịu khó dự đầy đủ khoá họp, và nghiên cứu kỹ những thủ tục hoạt động trong Hạ nghị viện. Về nhà, anh ta lại kỳ khu nghiên cứu kỹ càng cuốn “Sách xanh” (); công nương Jane thấy chồng thức khuya làm việc tợn quá phát hoảng lên vì lo chồng ốm. Anh ta còn lân la làm quen với các vị tổng trưởng các lãnh tụ trong đảng, nhất định chỉ ít năm nữa sẽ leo lên địa vị của họ.

Rebecca thấy công nương Jane đối với mình ngọt ngào thân mật thì ghét thậm tệ đến nỗi phải khó khăn lắm mới giấu kín được thái độ thực của mình. Becky lấy làm phiền về lòng tốt và sự thẳng thắn của chị dâu lắm lắm, cũng không sao tránh được khỏi lộ rõ sự khinh ghét của mình ra, hoặc có những cử chỉ khiến cho công nương Jane cuối cùng cũng đoán được. Ngược lại, công nương Jane cũng không ưa gì Rebecca, vì lúc nào cũng thấy chồng trò chuyện với em dâu; hai bên hình như lại có những dấu hiệu kín đáo gì với nhau thì phải. Pitt nói với Rebecca về những chuyện chưa hề bao giờ bàn với vợ. Dĩ nhiên, cô vợ không hiểu gì mấy về những vấn đề ấy, nhưng cứ phải ngồi ngậm hột thị thì cũng cảm thấy bực mình; lại càng bực mình hơn vì đang khi mình không có gì mà nói, thì cái con mụ Rawdon táo tợn này cứ thao thao bất tuyệt nhảy từ vấn đề này sang vấn đề khác, sẵn sàng có ý kiến đáp lại hết thảy mọi người, bao giờ cũng có những câu khôi hài chêm vào đúng lúc. Còn gì nhục hơn là ngay trong nhà mình mà phải ngồi lẻ loi cạnh lò sưởi để mà nhìn bọn đàn ông quây lấy kẻ thù.

Hồi còn ở trại, đám trẻ con thường xúm xít quanh công nương Jane (cả thằng Rawdon, vì nó rất mến cô ta); nhưng mỗi khi đang kể chuyện cổ tích cho bầy trẻ con nghe, thấy Becky bước vào phòng với nụ cười mỉa mai với cái nhìn khinh khỉnh, thì lập tức công nương Jane im bặt không sao nói được nữa. Những ý tưởng đơn giản mộc mạc trong đầu cô ta tự nhiên biến mất, y như các nàng tiên trong chuyện cổ khi thấy bóng quỷ dữ lại gần. Rebecca yêu cầu chị dâu tiếp tục câu chuyện lý thú đang dở dang, giọng nói thoáng điểm một chút gì châm biếm mỉa mai; nhưng công nương Jane không sao kể tiếp được nữa. Về phía Becky, cô ta không sao chịu nổi những ý tưởng hồn nhiên cũng như những thú vui mộc mạc, cô ta ghét lây cả những người nào ưa thích chúng; Becky không ưa trẻ con, không ưa cả những người yêu trẻ con. “Em không sao chịu được cái bọn nhà quê chúng nó”. Cô ta thường nói như thế mỗi khi kể chuyện công nương Jane với hầu tước Steyne. “Cũng như có người không sao chịu được nước thánh vậy”. Ngài hầu tước nhếch mép cười đáp, rồi phá ra cười có ý giễu cợt.

Cho nên hai chị em dâu ít khi gặp mặt nhau, trừ trường hợp Becky có việc cần nhờ vả công nương Jane thì không kể. Những lúc ấy, họ “chị chị, em em” với nhau ra chiều thân thiết đáo để, nhưng rồi lại cứ như mặt trăng mặt trời. Riêng tôn ông Pitt, mặc dầu công chuyện bề bộn ngập đầu, hằng ngày vẫn tìm cách gặp bằng được cô em dâu một lần mới chịu.

Một bữa phải đi dự buổi tiệc khai mạc Quốc hội, Pitt liền nhân dịp ra mắt em dâu trong bộ lễ phục đặc biệt tức là bộ sắc phục của nhà ngoại giao anh ta vẫn mặc hồi còn là đại diện ngoại giao tại tiểu triều đình Pumpernickel. Becky khen anh ta bận bộ áo trông rất “nền”; trước đó, anh ta đã được vợ con không ngớt lời ca ngợi; bây giờ cô em dâu cũng xưng tụng không kém. Cô ta bảo chỉ có những người quý phái chính tông mặc áo trào trông mới có mẽ; kiểu quần ngắn khít ống chỉ thích hợp với những người con dòng cháu dõi. Pitt khoan khoái nhìn xuống đôi chân mình, yên trí rằng gái nào cũng phải mê; thực ra đôi chân anh ta cũng tương tự như thanh gươm anh ta đeo bên sườn, nghĩa là cũn cỡn và khẳng khiu như nhau.

Pitt đi rồi, Becky bèn vẽ ngay một bức biếm hoạ, rồi đưa cho hầu tước Steyne xem, lúc lão đến chơi. Lão hầu tước thấy vẽ giống như in thích lắm, bỏ túi mang đi. Lão đã ban cho tôn ông Pitt Crawley cái hân hạnh được tiếp kiến ngay tại nhà Becky; lại tỏ ra rất nhã nhặn đối với vị tân nam tước, nghị sĩ Quốc hội. Pitt rất lạ vì thấy vị đại thần tỏ ý nể nang em dâu lắm, lại thấy cô ta nói cười tự nhiên duyên dáng như không, mà bọn khách khứa đàn ông ai cũng phải chăm chú lắng nghe. Hầu tước Steyne ngỏ ý rằng sự nghiệp chính trị của vị tân nam tước có nhiều triển vọng, và lão đang khát khao được nghe bài diễn văn đầu tiên của Pitt. Lão còn nói rằng vì hai nhà ở gần nhau (phố Great Gaunt dẫn thẳng ra quảng trường Gaunt) nên bao giờ hầu tước Steyne phu nhân về Luân đôn thì mong sẽ được tiếp Crawley phu nhân... Độ một hai hôm sau, lão cho gửi danh thiếp đến ông bạn láng giềng, một việc mà đối với lão Pitt giá ngày trước, lão không làm bao giờ, mặc dầu hai nhà vẫn là láng giềng với nhau trong gần một thế kỷ.

Càng ngày Rawdon càng cảm thấy mình bị lẻ loi giữa những chuyện mưu tính, những cuộc tiếp tân lịch sự và những nhân vật khôn ngoan sang trọng ấy. Anh ta được vợ cho phép đi đến câu lạc bộ và đi ăn cơm ngoài với bọn bạn hữu chưa vợ thường xuyên hơn trước; Rawdon tha hồ đi về tuỳ ý, cô vợ không một lời căn vặn.

Nhiều bận hai bố con dắt nhau sang phố Gaunt ngồi chơi với công nương Jane và mấy đứa cháu, trong khi tôn ông Pitt đóng kín cửa ngồi chung xe với Rebecca đi đến nghị viện, hoặc từ Nghị viện về nhà.

Anh chàng cựu trung tá hay ngồi lặng lẽ hàng giờ liền ở nhà anh trai, cố gắng không làm gì hết, không nghĩ gì hết. Anh ta thú nhất là được đóng vai đầu sai, hoặc chạy đi lo việc mướn một thằng hầu, tậu một con ngựa cho anh, hoặc ngồi cắt món thịt cừu rán cho mấy đứa trẻ ăn. Lâu dần, tính nết anh ta đâm ra lười biếng và phục tùng; Delilah đã cầm tù và cắt mất bộ tóc của anh ta rồi. Bầu máu nóng sôi sục mười năm về trước nay đã nguội ngắt; Rawdon biến thành một ông sang trọng đứng tuổi lỳ xỳ, thụ động và béo. Còn công nương Jane đáng thương của chúng ta cũng biết Rebecca đã bắt mất hồn của chồng mình, tuy rằng lần nào gặp nhau, hai chị em dâu cũng vẫn vồn vã chị chị em em ngọt ngào.

Chương 46
VẬT LỘN VÀ THỬ THÁCH

Trong thời gian này, mấy người bạn của chúng ta ở Brompton cũng đang mừng lễ Giáng sinh, nhưng không được vui vẻ lắm.

Người vợ góa của Osborne vẫn trích trong số lợi tức đồng niên một trăm đồng của mình lấy ba phần tư ra để đưa cha mẹ, gọi là đỡ tiền chi tiêu về hai mẹ con. Cộng với số tiền 120 đồng Joe gửi về giúp thêm, cái gia đình bốn người này cũng gọi là sống tiềm tiệm được cho qua ngày; họ nuôi chung với gia đình ông Clapp một chị hầu gái người Ai len; sau những thất vọng và cơn bão tố vừa qua, bây giờ họ cũng có thể mời khách đến chơi uống một ly trà. Ông Sedley được gia đình ông Clapp là người giúp việc cũ rất kính nể. Ông Clapp vẫn chưa quên hồi được mời đến ăn cơm nhà ông chủ ở khu phố Russell mình còn khúm núm ngồi mớm bên mép chiếc chế dựa mà nâng cốc chúc sức khỏe bà Sedley, cô Emmy và cậu Joseph ở Ấn Độ. Trong ký ức người thư ký chất phác, thời gian cũng làm tăng thêm vẻ lộng lẫy huy hoàng của những kỷ niệm xưa. Mỗi khi từ nhà bếp lên nhà trên uống một tách trà, hoặc một cốc rượu trắng với ông Sedley, ông thường nói: “Cụ ạ, ngày xưa có bao giờ cụ dùng những thứ này nhỉ?”.

Đoạn ông trịnh trọng nâng cốc chúc sức khoẻ của hai mẹ con bà Sedley, y như hồi gia đình này đang làm ăn thịnh vượng. Theo ý ông ta, cô Amelia chơi âm nhạc hay nhất, không ai bằng, và cũng không ai xinh đẹp hơn cô. Ở quán rượu không bao giờ ông ta dám ngồi ngang với ông Sedley, cũng không bao giờ chịu để cho người khác nói xấu ông chủ cũ. Ông ta bảo rằng chính mình đã từng được thấy những bậc tai mặt nhất thành quân đến bắt tay với ông chủ, và đã có một hồi ông Sedley và Rothschild cặp kè bên nhau hằng ngày ở phòng hối đoái, mà Rothschild nợ ông chủ vô khối tiền. Ông Clapp là người làm ăn cẩn thận, lại viết chữ rất đẹp, nên sau khi chủ phá sản, cũng sớm tìm ngay được việc làm ở chỗ khác. Ông ta thường bảo: “Thằng tôi ấy à, cứ ném xuống sông xuống bể cũng không chết được”(). Một người chủ có cổ phần trong công ty cũ của ông Sedley bằng lòng mướn ngay ông Clapp giúp việc, trả lương khá hậu. Thế là đám bạn hữu giàu có của ông Sedley cứ dần dần rơi rụng hết, cuối cùng chỉ còn người làm công đáng thương này là vẫn trung thành với ông.

Số tiền lợi tức cỏn con còn lại, Amelia phải tiêu hết sức dè sẻn để có thể cho con ăn mặc sao cho xứng đáng với con trai của George Osborne, và để trả tiền học phí cho con; sau khi đã ngần ngại, tính đi tính lại mãi, cuối cùng cô ta đành phải gửi con đến học tại một trường học nhỏ. Nhiều đêm, người mẹ phải thức đến khuya để xem bài vở của con, đọc lại sách văn phạm và địa lý để kèm con học thêm. Amelia còn kỳ khu tự học cả thứ tiếng khó học ấy nữa. Phải xa con một ngày trời, phải giao phó con cho ngọn roi của ông giáo và để cho lũ bạn học trêu chọc, người mẹ yếu đuối, dễ động tâm ấy cũng đau khổ như khi phải cai sữa cho thằng bé. Trái lại, thằng bé được đi học thì sướng quá. Nó đang muốn thay đổi không khí. Thấy con vui quá, người mẹ đang đau khổ vì xa con có ý hơi buồn, nhưng rồi phải hối hận ngay, tự trách mình sao lại quá ích kỷ đến mức muốn con phải đau khổ, George học rất tiến bộ, ông đốc trường này là bạn của mục sư Binny tức là người vẫn theo đuổi mẹ nó. Thằng bé mang về nhà vô khối phần thưởng và giấy khen. Đêm nào nó cũng kể cho mẹ nó nghe đủ các thứ chuyện về các bạn học; thằng Lyons rất tốt, thằng Sniffin tồi quá, bố thằng Steel bán thịt cho nhà trường, còn thằng Golding thì thứ bảy nào cũng được mẹ mang xe ngựa đến đón về nhà; lại cả chuyện thằng Neat mặc quần có cả dây đeo - nó cũng thích kiểu quần ấy lắm - anh thằng Bull khoẻ quá, học lớp dưới mà đánh được cả bọn học trò lớp trên, dám đánh cả ông giám thị cũng được. Dần dần Amelia cũng thuộc tính nết từng đứa học trò trong trường như thằng Georgy đánh nhau với thằng Smith, vác cái mặt tím bầm về nhà, huênh hoang kể chuyện lại với mẹ và ông ngoại rằng mình vừa chiến đấu ra trò; thật ra cu cậu cũng chẳng can đảm mấy tý nên vừa bị choảng một trận nên thân. Từ bữa ấy Amelia chưa bao giờ tha thứ cho thằng Smith, mặc dầu bây giờ nó đã trở thành một ông lang thuốc hiền lành ở công viên Leicester.

Cuộc đời người đàn bà goá hiền hậu đó cứ thế mà trôi qua với những sự tính toán hiền lành và những việc vô tội tương tự...lác đác đã thấy một vài sợi tóc bạc điểm trên mái đầu, và một nét nhăn thấp thoáng hiện trên vầng trán xinh đẹp. Amelia thường vẫn mỉm cười trước những dấu vết tàn phá ấy của thời gian: “Tôi già rồi, nhưng chuyện ấy có nghĩa gì đâu”. Hy vọng duy nhất của Amelia là được sống nuôi con tới khi khôn lớn, làm nên sự nghiệp nổi tiếng xứng đáng với bố nó. Cô giữ gìn cẩn thận vở viết, tranh vẽ và bài làm của con; khách đến chơi cô mang ra khoe dường như đó là những việc phi thường của một thiên tài trác tuyệt. Cô gửi vài thứ cho mấy cô em gái Dobbin, để đưa cho cô Osborne và cả ông Osborne xem... cốt khiến cho ông lão phải hối hận vì đã quá tàn nhẫn với đứa con đã chết. Amelia đã chôn sâu xuống lòng mộ mọi nhược điểm và khuyết điểm của người chồng quá cố, chỉ còn ghi lại hình ảnh người tình nhân đã hy sinh tất cả để cưới mình làm vợ, hình ảnh người chồng can đảm và khôi ngô đã ghì mình trong đôi cánh tay buổi sáng hôm lên đường ra trận để anh dũng chết cho Đức vua. Chắc giờ này người anh hùng ấy đang từ trên thiên đường mỉm cười nhìn xuống đứa con có một không hai mà anh ta gửi lại để an ủi và khuyến khích người vợ lẻ loi.

Ta đã biết ông nội thằng George tuy ngồi thoải mái trong tấm ghế bành tại khu phố Russell nhưng càng ngày càng đâm ra hay cáu gắt và rầu rĩ; cô con gái tuy có xe ngựa quý, tên tuổi ghi trên có đến nửa số bản kê các công việc từ thiện trong tỉnh, nhưng vẫn chỉ là một cô gái già trơ trọi, khổ sở. Cô Osborne vẫn cứ luẩn quẩn với hình ảnh thằng bé kháu khỉnh, thằng cháu trai của cô; cô thèm được giong chiếc xe ngựa lộng lẫy tới căn nhà thằng bé ở Công Viên, hy vọng gặp thằng cháu. Thỉnh thoảng cô em gái, là vợ ông chủ nhà băng, cũng quá bộ về thăm nhà và người bạn từ tấm bé ở khu phố Russell. Cô này đem theo đứa con ốm yếu có một chị vú em ăn bận diêm dúa theo hầu. Lấy cái giọng nhỏ nhẻ, vừa khúc khích cười, cô Maria vừa kể con cà con kê cho chị nghe nào là mình quen thuộc toàn người quyền quý, nào là thằng con trai Frederick trông giống bá tước Claud Lollypop như đúc, nào là một bữa bé Maria ngồi xe đi chơi ở Roehampton có một bà nam tước trông thấy nó thích quá. Cô ta xui chị bảo bố nên làm một việc gì cho các con mình. Cô đã quyết định sau này sẽ cho thằng Frederick sung vào đội ngự lâm quân; nhưng nếu phải bỏ tiền ra tậu đất để cho nó có tước hiệu thế tập (chắc chắn ông Bullock sẽ tậu đất dù có vì thế mà bị phá sản và túng thiếu đến chết cũng cam) thì còn đâu ra làm của hồi môn cho con gái sau này? Vợ Bullock bảo chị gái:

- Em trông mong vào sự giúp đỡ của chị đấy. Chị xem, phần gia tài em được hưởng của ba thế nào chẳng về tay đứa con lớn của em. Chị Rhoda McMull đã định bao giờ ông bố chồng là bá tước Castletoddy chết là chuộc lại hết những tài sản đã cầm cố của gia đình Castletoddy; ông cụ nay mai cũng sắp chết về bệnh thống phong. Vậy là thằng bé Macduff McMul sắp trở thành tử tước Castletoddy rồi. Cả hai vợ chồng Bludyers ở đường Mincing đều đã sang tên cho thằng con trai chị Fany Bludyers hết cả tài sản. Thằng Frederick nhà em thế nào cũng phải có tước hiệu thế tập; chị...thế nào chị cũng bảo ba chuyển số tiền gởi ở phố Lombard về cho chúng em, chị nhé. Tội gì để cho con Stumpy và Rawdy chúng nó hưởng lãi.

Cô ta chấm dứt cái trò thuyết lý lẫn lộn cả giọng huênh hoang và sự tính toán nhỏ nhen bằng một cái hôn như chạm vào một con sò, rồi dắt hai đứa con quần áo bảnh bao mỉm cười lên xe về nhà.

Chết một nỗi là mỗi lần cái bà kiểu cách này về thăm nhà là một lần thêm tai hại cho mình. Ông bố càng tuôn thêm tiền cho gia đình Stumpy và Rawdy, vì ông càng cảm thấy không sao chịu đựng nổi cô con gái.

Người đàn bà goá đáng thương sống trong túp nhà nhỏ bé ở Brompton nào hay rằng vật báu mình nâng niu trong tay cũng đang được nhiều người khát khao muốn có.

Buổi tối hôm cô Jane Osborne kể với bố rằng mình vừa gặp cháu trai, thì ông lão không nói năng gì, nhưng cũng không tỏ vẻ giận dữ... lúc đứng lên đi về phòng mình ông lại chúc con gái ngủ ngon, giọng nói như ngọt ngào hơn thường lệ. Hẳn là ông có suy nghĩ về lời con gái, và có thăm dò tin tức về việc con gái đến thăm gia đình Dobbin, cho nên nửa tháng sau, ông hỏi con gái xem chiếc đồng hồ nhỏ kiểu Pháp và sợi dây vàng cô ta vẫn đeo này ở đâu? Cô thiếu nữ sợ quá, đáp: “Thưa ba, con mua bằng tiền riêng của con đấy.”

“Đi tìm mua một cái khác giống như thế, hoặc đẹp hơn cũng được”, ông lão nói vậy, rồi lại ngồi im lặng.

Mấy chị em cô Dobbin đã nhiều lần khẩn khoản yêu cầu Amelia cho phép Georgy đến chơi với họ, vì thấy cô cháu có ý mến nhau, họ kín đáo ngỏ ý rằng rất có thể ông nội nó sẽ nghĩ lại mà trông nom cháu. Dĩ nhiên, Amelia không nên từ chối một sự may mắn có lợi cho con trai như vậy, mà cũng không thể từ chối; nhưng cô thuận tình đi vào con đường hoà giải mà trong lòng vẫn bồi hồi nghi ngại; trong lúc con đi vắng, cô vẫn thấy không yên tâm; lúc con về, cô thấy như nó vừa thoát một tai nạn nào đó. Thằng bé mang về nhà nhiều đồ chơi, cả tiền nữa; người mẹ trông thấy trong lòng vừa lo lắng vừa ghen tị. Mỗi lần cô lại hỏi xem con có gặp “một ông nào không”. Thằng bé đáp:

- Con chỉ gặp cụ William, cụ cho con ngồi lên cái ghế có bốn bánh đẩy đi chơi; con gặp cả bác Dobbin, chiều hôm nay cũng đến, cưỡi con ngựa màu hồng đẹp quá, bác mặc áo xanh lá cây, thắt cà vạt đỏ cầm cái roi ngựa đầu bịt vàng; bác hứa sẽ đưa con đi xem tháp Luân đôn và đi săn trong rừng Surrey.

Sau cùng thằng bé kể với mẹ:

- Có một ông cụ già có đôi lông mày rậm lắm cơ, đội cái mũ vành to tướng đeo sợi dây chuyền cũng to tướng. Một hôm lúc bác xà ích đang dắt con ngựa dạo chơi trên bãi cỏ thì ông cụ ấy đến; ông cụ nhìn con ghê quá, có vẻ xúc động dữ lắm. Ăn cơm xong con bảo: “Tên cháu là Norvan”; thế là cô con khóc; lần nào cô ấy cũng khóc.

Amelia hiểu ngay rằng con mình đã gặp ông nội nó, cô nóng ruột chờ đợi lời đề nghị mà cô chắc chắn ông lão sẽ đưa ra sau khi gặp cháu; quả nhiên, vài ngày sau đúng thế thật. Ông Osborne chính thức đề nghị được mang cháu nội về nuôi, và sẽ cho nó hưởng phần gia tài lẽ ra bố nó được hưởng. Ông cũng sẵn sàng trợ cấp cho bà Osborne để có thể sống sung túc. Trong trường hợp bà George Osborne muốn đi bước nữa như có tin đồn, ông lão cũng sẽ không rút số tiền trợ cấp ấy, dĩ nhiên với điều kiện là thằng bé sẽ ở hẳn với ông nội ở khu phố Russell, hoặc một nơi nào khác theo sự lựa chọn của ông Osborne; thỉnh thoảng nó sẽ được phép về thăm mẹ.

Amelia nhận được lá thư đề nghị trên vào một buổi bà mẹ đi vắng; còn ông Sedley thì đang bận rộn ở khu City như thường lệ.

Cả đời cô chỉ giận dữ đâu có hai hay ba lần; viên luật sư riêng của ông Osborne đã có diễm phúc được chứng kiến một trận lôi đình hiếm có. Đọc hết lá thư ông Poe vừa trao cho mình Amelia đứng phắt dậy mặt đỏ bừng, tay run lẩy bẩy, cô xé tan nát lá thư ra từng mảnh rồi chà nát dưới chân. “Tôi đi lấy chồng khác! Thế ra tôi bán con tôi lấy một món tiền à? Kẻ nào dám nhục mạ tôi mà ăn nói như vậy? Ông về nói hộ với cụ Osborne rằng đây là lá thư của một kẻ hèn nhát, thưa ông, lá thư của một kẻ hèn nhát... tôi không thèm trả lời; xin chào ông. Thế rồi bà ấy cúi chào, đuổi tôi ra cửa, trông kiêu hãnh như một bà hoàng.

Đó là lời viên luật sư kể chuyện lại.

Ngày hôm ấy ông bà Sedley không hề thấy Amelia có vẻ gì xúc động; cô cũng không kể lại cuộc gặp gỡ vừa rồi với ông bà Sedley. Ông lão bà lão cũng đang bận bịu nhiều việc riêng, những việc mà người con thơ ngây và thương cha quý mẹ này rất quan tâm: ông lão vẫn loay hoay với việc kinh doanh. Chúng ta đã rõ công ty buôn rượu và công ty buôn than của ông đã thất bại thế nào rồi; tuy vậy ông Sedley vẫn hăng hái lao vào khu City với một tinh thần say sưa ít có. Ông đang dự định một chương trình kinh doanh mới, và cương quyết theo đuổi đến cùng mặc dầu ông Clapp hết sức can ngăn, mà quả ông lão cũng chưa hề dám bày tỏ hết với ông Clapp về hoạt động của mình. Ông Sedley vẫn có nguyên tắc là không bao giờ nói chuyện tiền nong trước mặt đàn bà, bởi vậy họ không hề có một chút ý niệm gì về những tai hoạ đang chờ đợi họ; cho tới khi ông lão bắt buộc phải thú nhận dần dần sự thực với vợ con thì họ mới rõ.

Mới đầu những hoá đơn chi tiêu trong gia đình vẫn được thanh toán sòng phẳng hằng tuần; bây giờ việc trả tiền bắt đầu chậm lại, tuy các món tiền cũng chẳng bao lăm. Vẻ mặt rầu rầu, ông Sedley báo cho vợ biết rằng không thấy Joe gửi tiền trợ cấp từ Ấn Độ về. Mọi khi bà Sedley trả tiền mua hàng đều đặn, bây giờ thấy bà lão đến khất xin chịu lại, vài người bán hàng làm ầm lên; trong khi ấy, nhiều khách hàng khác của họ vẫn thanh toán tiền thất thường hơn nhiều mà họ không hề kêu ca nửa lời. Emmy vẫn vui vẻ cấp đỡ cha mẹ không hề hỏi han thắc mắc gì, nhưng chỉ đủ trang trải nửa phần chi tiêu trong nhà. Cứ thế, sáu tháng đầu trôi qua không có chuyện gì; ông già Sedley vẫn nuôi hy vọng giá cổ phần của mình sẽ lên và thế là mọi việc sẽ tốt đẹp cả.

Nhưng sau sáu tháng vẫn không nhận được món tiền sáu mươi đồng, thế là tình hình ngày càng gay go... Bà Sedley bây giờ đã cao tuổi, ốm yếu luôn, cứ lầm lỳ, hoặc ngồi khóc cả ngày với bà Clapp ở dưới bếp. Bác hàng thịt không được trả tiền, mặt nhăn như bị, lão hàng rau đâm ra hỗn xược; đã một hai lần thằng Georgy càu nhàu vì bữa bánh mì ăn kém ngon. Amelia chỉ ăn mỗi bữa một miếng nhạt cũng xong; nhưng thấy việc ăn uống của con không được săn sóc, cô phải bỏ thêm tiền ra mua quà cho con ăn để giữ gìn sức khoẻ thằng bé.

Cuối cùng hai ông bà già đành thú thực với con gái, đúng hơn là nói quanh co, như những người gặp lúc túng quẫn vẫn nói. Một hôm, Amelia vừa nhận được tiền trợ cấp hằng tháng, bèn đưa đỡ cha mẹ một phần, nhưng lại ngỏ ý muốn giữ lại chút ít để trả tiền áo mới may cho thằng Georgy.

Hai ông bà bèn cho biết rằng Joe không gửi tiền trợ cấp về, gia đình đang túng thiếu; bà cụ nói thêm rằng lẽ ra Amelia phải thấy điều đó từ lâu, nhưng tại cô chỉ biết đến con trai của mình thôi.

Thấy mẹ nói dỗi Amelia yên lặng đặt cả số tiền vừa lĩnh được lên mặt bàn rồi vào phòng nằm khóc sưng cả mắt. Hôm ấy cô rất khổ tâm vì phải đến báo với thợ hoãn may áo cho con; bộ áo này cô định sắm cho con diện ngày lễ Giáng sinh, đã bàn đi bàn lại mãi về kiểu áo với người thợ may là bạn quen.

Khổ nhất là phải bảo cho thằng Georgy biết việc này, thằng bé khóc rầm lên. Ngày lễ Giáng sinh trẻ con đứa nào cũng có áo mới, chúng nó cười chết mất. Thế nào cũng phải có áo đẹp cho nó; mẹ nó đã hứa rõ ràng như thế rồi. Người đàn bà goá đành chỉ biết đền con mấy cái hôn. Cô vừa ngồi mạng lại bộ áo cũ của con vừa khóc, cố lục lọi tìm xem còn vật trang sức nào bán được để lấy tiền mua áo cho con không. Chỉ còn có tấm khăn san Ấn Độ Dobbin tặng hồi nọ. Amelia nhớ đã một lần cùng mẹ đến một nhà hàng bán thổ sản Ấn Độ ở đồi Ludgate ở đó người ta mua đi bán lại loại hàng này rất nhiều. Tìm được cách giải quyết, Amelia mừng quá mắt sáng lên, cặp má đỏ bừng; lúc con đi học cô hôn con rồi mỉm cười nhìn theo con mãi. Thằng bé nhìn mặt mẹ cũng cảm thấy có điều hay. Amelia bọc tấm khăn san vào trong một chiếc mùi xoa (đây cũng là một tặng vật của viên thiếu tá tốt bụng) giấu vào trong vạt áo, rồi hăng hái tìm đến đồi Ludgate; cô rảo bước dọc theo dãy hàng rào công viên rồi chạy vụt qua các ngã tư, làm cho nhiều người đàn ông phải quay lại nhìn theo mãi, họ tự hỏi không biết cái người đàn bà có bộ mặt hồng hào xinh đẹp kia có việc gì mà coi bộ hối hả đến thế. Cô nhẩm tính sẵn mình sẽ dùng món tiền bán khăn san vào những việc gì; may áo cho con xong, còn thừa tiền, sẽ mua mấy quyển sách thằng bé vẫn ao ước, và trả nốt sáu tháng tiền học còn chịu lại, cô sẽ mua cho cha một tấm áo choàng mới, để ông cụ khỏi phải đeo mãi chiếc áo rách cổ lỗ sĩ. Cô đã không lầm về giá trị món quà tặng của viên thiếu tá. Đó là một thứ hàng rất mịn, rất đẹp. Người bán đồ cũ mua lại được với giá hai mươi ghi nê, đã vớ được một món khá hời.

Sung sướng quá, Amelia lập tức chạy đến hiệu Darton sau nghĩa địa nhà thờ St. Paul, mua bộ Giúp đỡ cha mẹ (), và bộ Sandford và Merton là hai bộ sách thằng Georgy ao ước từ lâu. Đoạn Amelia lên xe ngựa về nhà, trong lòng hớn hở vô cùng. Cô lấy bút nắn nót viết vào trang đầu cuốn sách: “Ngày lễ Giáng sinh, mẹ thân yêu tặng Georgy Osborne”. Mấy cuốn sách bây giờ vẫn giữ được, dòng chữ còn nguyên vẹn. Cô đi về phòng riêng, định đặt hai cuốn sách lên bàn học của Georgy qua hành lang thì gặp mẹ. Bảy quyển sách gáy mạ vàng óng ánh đập vào mắt bà Sedley. Bà cụ hỏi:

- Những cái gì thế kia?

Amelia đáp:

- Con mua mấy quyển sách cho cháu Georgy đấy, con đã hứa làm quà ngày lễ Giáng sinh cho cháu.

Bà lão giận quá kêu lên:

- Sách với chả vở. Cả nhà không có bánh mì mà ăn, cô lại có tiền mua sách! Tôi phải bán hết đồ trang sức của tôi, cả chiếc khăn san Ấn Độ vẫn quàng, phải bán đến cả bộ thìa dĩa để cho mẹ con nhà cô có tiền ăn sung mặc sướng, cho bố cô khỏi phải vào tù, cho bọn bán hàng khỏi chửi vào mặt cả nhà và để trả tiền thuê nhà cho ông Clapp! Ông ấy thật biết điều không phải là người nghiệt ngã, nhưng người ta cũng phải nuôi con chứ. Amelia, mẹ thật khổ tâm lắm vì mấy quyển sách của con, vì thằng con trai con mà con lúc nào cũng chiều lắm đâm hư. Amelia ơi, cầu trời sao cho con trai của con sau này đừng bất hiếu như thằng Joe nhé. Thằng Joe bỏ mặc bố mẹ nó già nua trơ trọi thế này đây. Thằng Georgy thì cái gì cũng đầy đủ, sau này tha hồ giàu có, bây giờ đang đi học, đeo dây chuyền và đồng hồ vàng như ông hoàng con...thế mà ông lão nhà này thì một xu không có dính túi đấy.

Dứt lời bà lão khóc nức nở cứ ầm cả nhà lan khắp căn nhà nhỏ ai cũng nghe rõ mồn một.

Amelia van mẹ:

- Kìa má, má ơi! Má có bảo cho con biết gì đâu...Con đã hứa mua mấy quyển sách này cho cháu...sáng nay con bán chiếc khăn san của con đi đấy mà. Đây mẹ cầm lấy tiền... mẹ cầm lấy hết mà tiêu. Bàn tay run run, cô móc túi lấy tất cả những đồng hào bạc và những đồng tiền vàng - những đồng tiền vàng quý báu bao nhiêu - dúi vào tay mẹ; nắm tiền vãi tung ra lăn cả xuống thang gác.

Đoạn cô về phòng riêng nằm vật xuống giường, khổ sở thất vọng vô cùng. Bây giờ thế là hai năm rõ mười rồi. Vì ích kỷ mà cô đã bắt con trai chịu hy sinh. Chính vì cô mà con trai không được hưởng sự giàu sang, cũng như học thức, và địa vị của cha nó; chính vì cô mà George xưa kia đã bị gia đình từ bỏ. Chỉ cần nói một tiếng thôi là cả cha cô và con trai cô lại được đầy đủ. Ôi, ý nghĩ ấy chua xót biết bao đối với trái tim dịu dàng và đau khổ kia.

Chương 47
LÂU ĐÀI GAUNT

Ai cũng biết rằng lâu đài của hầu tước Steyne dựng trước công viên Gaunt, ăn thẳng ra phố Great Gaunt; hồi sinh tiền cụ Pitt Crawley, lần đầu tiên chúng ta đã có dịp dẫn Rebecca đến phố này. Nếu ta ngó qua hàng rào thì sẽ thấy sau hàng cây đen ngòm trong công viên thấp thoáng bóng vài cô giáo dạy trẻ tiều tụy dẫn mấy đứa bé mặt xanh xao đi chơi loanh quanh trong công viên, và đi vòng quanh bồn hoa ở giữa vườn; chính giữa bồn hoa có dựng một pho tượng, tức là tượng hầu tước Gaunt, xưa đã tham gia chiến đấu ở Minden; ngài đội mớ tóc giả tết thành ba khóm, bận áo theo lối hoàng đế La mã. Toà lâu đài Gaunt chiếm gần hết chiều dài của công viên. Ba mặt kia là những tòa nhà thuộc quyền sở hữu của các bà nhà giàu ở góa...đó là những ngôi nhà đồ sộ âm u, các khung cửa sổ đều xây bằng đá xám hoặc bằng gạch màu đỏ nhạt. Bây giờ những kiểu nhà ấy đã trở thành bất tiện vì ánh sáng khó lòng lọt được vào trong. Hình như ta cũng thôi không còn tiếp khách nữa kể từ khi sau cánh cửa vắng bóng những thằng hầu bận chế phục lộng lẫy vẫn mang đuốc cắm vào những chân đèn bằng sắt ở hai bên cầu thang. Bây giờ xung quanh công viên thấy dựng vô khối biển bằng đồng...“bác sĩ”, “Ngân hàng Diddlesex, chi nhánh khu Tây”..., “Hội hợp tác Anh quốc và Âu châu v.v. nom mà phát chán, mà toà nhà dài của hầu tước Steyne trông cũng không tươi tắn gì hơn. Mé chính diện là một bức tường mênh mông điểm một dãy cột hoen rỉ nơi cổng ra vào... Một lão gác cổng có tuổi béo phệ, mặt đỏ, vẻ rầu rĩ, thỉnh thoảng lại thò cổ ngó ra đường... Phía trên tường lộ ra những cửa sổ phòng ngủ và những ống khói lò sưởi, nhưng ít khi có khói toả ra vì hiện nay hầu tước Steyne ở Naples; lão ưa cảnh bờ biển vịnh Capri và ngọn núi Vesuvius hơn ngôi nhà rầu rĩ ở công viên Gaunt này.

Cách dăm chục thước về mặt phố New Gaunt có một cửa hậu nhỏ đơn giản ăn thông vào chuồng ngựa của lâu đài Gaunt; trông nó cũng không có gì khác những cái cổng chuồng ngựa thông thường, ấy thế mà đã có vô khối xe ngựa cửa đóng kín mít đỗ cạnh cổng này đấy; anh chàng Tom Eaves chuyện gì cũng biết đã dẫn tôi đến xem và mách với tôi như thế. Anh ta bảo:

- Ông ạ, Hoàng tử và Quận chúa Perdita vẫn ra vào cửa này luôn...cả cô Marianne Clarke cùng đi với quận công...Cổng này ăn thông vào dãy phòng riêng () khét tiếng của hầu tước Steyne; có một phòng toàn bằng ngà voi và sa-tanh trắng, một căn phòng khác lại toàn gỗ mun và nhung đen. Có một gian phòng tiệc xây dựng theo kiểu của Sallust ở Pompeii, do Cosway trình bày; lại có một gian bếp nhỏ dùng riêng, trong đó xoong chảo đều bằng bạc. Chính trong gian bếp này, Hoàng thân Philip bình đẳng() nước Pháp đã tự tay quay lấy mấy con gà gô nhân dịp người cùng hầu tước Steyne được bạc mười vạn đồng của một vị quan to tại Ombre. Một phần số tiền này tiêu vào cuộc cách mạng Pháp, còn một phần, hầu tước Steyne dùng để mua tước hầu và tước Tuỳ Giá Trị Thần cho mình...Tom Eaves biết đủ mọi thứ chuyện, có thể kể cho ta nghe về từng hào một trong việc chi tiêu phần tiền còn lại nhưng việc đó chẳng ăn nhập gì với chuyện của chúng ta.

Ngài hầu tước còn có nhiều lâu đài khác rải rác ở mọi nơi khắp ba nước, ta có thể thấy liệt kê trong các sách hướng dẫn khách du lịch... Lâu đài Strongbow có rừng bao quanh ở vùng bờ bể Shannon, lâu đài Gaunt ở Carmarthenshire, nơi xưa kia vua Richard đệ nhị bị cầm tù, lâu đài Gauntly Hall ở Yorkshire, nghe nói trong lâu đài này có tới hai trăm bình pha trà bằng bạc kèm đủ mọi đồ dùng sang trọng tương tự dùng để tiếp khách, lâu đài Stillbrook ở Hampshire , thuộc khu trang trại của hầu tước, “tệ xá” của ngài. Tuy thế người ta vẫn chưa quên được những bộ bàn ghế đẹp tuyệt mang bán đấu giá mới rồi, sau khi ngài tạ thế, hầu tước phu nhân Steyne thuộc dòng dõi một gia đình quý tộc lâu đời tức là dòng họ Caerlyons hầu tước Camelot. Dòng họ này kế tục ngay từ trước khi nhà vua Brute () đặt chân tới Anh quốc, mặc dầu ngài Brute đáng kính là ông tổ họ đã cải theo tôn giáo Anh quốc, cả họ vẫn giữ tôn giáo cũ.

Người con trưởng trong dòng họ có biệt hiệu là Pendragon những người con thứ từ cổ đến giờ vẫn gọi là Arthur, Uther, và Caradoc. Đầu họ đã bị rơi trong nhiều cuộc âm mưu khởi loạn. Nữ hoàng Elizabeth đã chém đầu một ngài Arthur đương thời về tội là thị vệ đại thần của Phillip và Mary, lại đem một lá thư của Nữ hoàng xứ Scots cho quận công Guises. Gia đình có một người con thứ làm võ quan thân cận của ngài quận công nổi tiếng này, và đã đóng góp một phần quan trọng trong vụ âm mưu Saint Bartholomew. Suốt trong thời gian Nữ hoàng Mary bị giam giữ, dòng họ Camelot không ngớt âm mưu khởi loạn để ủng hộ. Tài sản của họ bị Nữ hoàng Elizabeth ra lệnh tịch thu khá nhiều để lấy tiền tổ chức một đội thuỷ quân chống lại đội hải thuyền Acmada vô địch của Tây Ban Nha, cũng như vì họ phạm tội che giấu các giáo sĩ Thiên chúa giáo và cương quyết bợ đỡ các hành động sai trái của giáo hoàng. Dưới triều vua Jemes đệ nhất cũng có một người trưởng tộc đã cải đạo vì nhất thời bị quyến rũ bởi những lý lẽ của nhà thần đại học danh; sự yếu đuối ấy cũng tạm thời giúp cho tài sản của dòng họ được khôi phục phần nào. Nhưng đến triều vua Charles thì hầu tước Camelot lại trở về truyền thống tín ngưỡng ấy chừng nào dòng họ Stuart còn có người lãnh đạo những cuộc khởi loạn.

Công nương Mary Caerlyon được nuôi dưỡng trong một nhà tu kín ở Paris, được Quận chúa Marie Antoinette nhận làm mẹ đỡ đầu. Đang tuổi hương trời sắc nước, công nương được gả - thiên hạ thì bảo là bán - cho hầu tước Gaunt khi ấy sống ở Paris, lão đánh bạc được một món tiền lớn của anh trai công nương trong một bữa tiệc do Philip Orleans tổ chức. Người ta đồn rằng vì nhan sắc chim sa cá lặn của công nương Mary Caerlyon mà hầu tước Gaunt đã đấu kiếm với bá tước de la Marche thuộc đội ngự lâm pháo thủ (ông này mới đầu chỉ là quân hầu, về sau trở thành cận thần của bà chúa).

Công nương lấy hầu tước Gaunt ngay khi vết thương của lão chưa lành, hai vợ chồng ở lâu đài Gaunt một hồi vẫn ra vào triều đình của hoàng tử xứ Wales.

Fox tiên sinh chết mê chết mệt vì công nương. Morris and Sheridan đã từng làm vô khối thơ tình vì người đẹp.

Malmesbury cũng mắc bệnh tương tư. Walpole cho công nương là giai nhân tuyệt thế, còn nữ bá tước Devonshire thì ghen lồng ghen lộn lên. Nhưng sau một thời lăn vào cuộc sống đầy những thú vui xô bồ mãnh liệt của giới thượng lưu, công nương thấy sợ hãi, cho nên khi đã sinh hạ được hai đứa con trai, công nương lui về cuộc sống ẩn dật, mộ đạo. Do đó, ta không nên lấy làm lạ khi thấy hầu tước Steyne, con người vốn ưa khoái lạc ồn ào, không mấy khi có mặt bên người vợ lặng lẽ, luôn luôn run rẩy mê tín và đau khổ này.

Anh chàng Tom Eaves kể trên còn biết vô khối chuyện khác về Steyne phu nhân; những chuyện ấy có thể sai mà cũng có thể đúng sự thật (anh ta không đóng một vai trò gì trong truyện này, chỉ là người biết khắp các vị tai to mặt lớn ở thành Luân đôn và hiểu chân tơ kẽ tóc về những chuyện bí mật của họ). Tom Eaves vẫn bảo: “Người đàn bà ấy bị đối xử một cách nhục nhã không thể tưởng tượng được ngay trong nhà mình. Hầu tước Steyne bắt bà ta ngồi ăn cơm với bọn đàn bà mà tôi thà chết chứ không đời nào tôi chịu cho vợ tôi đánh bạn... Thí dụ: Crackenbury phu nhân, bà Chippenham, bà de la Cruchecassee tức là vợ viên thư ký toà đại sứ Pháp”. Nói thế, nhưng Tom Eaves cũng sẵn sàng hy sinh cả vợ để được làm quen với bọn này và cũng chả mong gì hơn là được mỗi người trong bọn họ chào lại và được họ mời ăn tiệc. Vẫn lời Tom nói tiếp: “ So với họ nhà vợ, gia đình Steyne chỉ đáng làm đầy tớ: nhà bà này cũng mới làm nên được ít lâu, nói cho cùng thì cũng không phải thuộc ngành trưởng dòng họ Gaunt có từ lâu đời, mà chỉ là một ngành thứ nào đó thôi. Ông thử tưởng tượng hộ nếu không có một nguyên nhân nào khác thì một người đàn bà dòng dõi cao quý không kém gì dòng họ Bourbonnhư hầu tước Steyne phu nhân, người phụ nữ kiêu kỳ nhất nước Anh hồ dễ chịu ép mình một bề mà phục tùng chồng đến như thế. Xì! Thưa với ông rằng “Ở trong còn lắm điều hay” đấy ạ! Xin ông biết cho rằng hồi giới quý tộc Pháp lưu vong sang Anh, có một viên linh mục de la Marche nào đó cũng sống ở đây đã cùng nhúng tay vào vụ Quiberoon cùng với Puisaye và Tinteniac, thì chính lại là viên đại tá trong đội ngự lâm pháo thủ đã đấu kiếm với Steyne năm 1886... thành ra hầu tước phu nhân mới được tái ngộ với cố nhân.

Từ sau khi viên linh mục đại tá bị bắn chết ở Anh, Steyne phu nhân mới bắt đầu lui vào cuộc sống vô cùng mộ đạo đến thế đấy chứ. Từ hồi ấy, ngày nào phu nhân cũng chỉ sống với đức cha săn sóc linh hồn cho mình, sáng nào cũng đi dự lễ nhà thờ ở quảng trường Tây Ban Nha; tôi vẫn trông thấy... nghĩa là ngẫu nhiên mà tôi gặp thôi... Phải có chuyện gì thì mới thành tâm mà lễ bái đến thế chứ?

Người ta không có điều gì phải hối hận sao mà phải đau khổ quá đáng như vậy”. Tom Eaves gật gù cái đầu, ranh mãnh tiếp: “Vậy là đủ rõ rằng nếu ngài hầu tước không có sẵn một lưỡi gươm treo lủng lẳng trên đầu vợ thì không đời nào phu nhân chịu ngoan ngoãn như con cừu. Vậy thì nếu Tom Eaves nói đúng, rất có thể người đàn bà địa vị cao sang này phải chịu lắm điều khổ nhục trong đời tư và sau nét mặt bình thản kia, chắc giấu nhiều nỗi uất hận. Chúng ta, những kẻ không được vinh dự nêu tên trong cuốn “Sách Đỏ” () hãy tự an ủi rằng những người sung sướng hơn chúng ta rất có thể đang sống đau khổ mà ta không biết, và đang khi Damocles () ngồi trên đệm bọc sa-tanh dự tiệc, bát đĩa toàn bằng vàng, thì trên đầu vẫn treo lủng lẳng một thanh gươm trần, nghĩa là một bác công sai, một căn bệnh gia truyền, hoặc một chuyện bí mật nào đó của gia đình... Mũi nhọn ấy thòi ra một cách ghê sợ qua mặt thảm thêu rực rỡ và nhất định sẽ có ngày rơi xuống đúng chỗ cần rơi.

Vẫn theo ý kiến của Eaves thì, ta so sánh địa vị của những người sang với đời sống của kẻ hèn, ta vẫn thấy kẻ nghèo khó có điều an ủi. Ông không có gia tài nào để hưởng, hoặc để lại cho con cái chứ gì? Vậy thì ông có thể sống hoà thuận với cụ thân sinh ra ông hoặc với con ông được đấy; trong khi ấy kẻ thừa kế của một quý tộc đại gia, thí dụ như gia đình hầu tước Steyne chẳng hạn, lúc nào cũng cáu bẳn vì chưa sờ được vào cái gia tài, cứ ngó người đang nắm quyền chi thu với con mắt không lấy gì làm hiền lành lắm.

Anh chàng Eaves hay châm biếm nói tiếp: “Xin nhớ hộ cho nguyên tắc này: trong các gia đình giàu có lớn, bao giờ ông bố và anh con trưởng cũng thù ghét nhau. Vị hoàng tử nắm ngôi trừ nhị bao giờ cũng đứng về phe đối lập với triều đình hoặc khởi loạn chống lại.

Shakespeare tiên sinh am hiểu việc đời lắm, thưa ngài; cho nên khi tiên sinh miêu tả hoàng tử Hal âm mưu cướp ngôi cha (gia đình Gaunt cũng tự cho là bắt nguồn từ dòng họ hoàng tử này, tuy rằng thực ra họ cũng như ông, chẳng hề có chút liên lạc gì về huyết thống với gia đình Gaunt hết) thì tiên sinh đã chỉ nói lên sự thực của mọi ông hoàng thái tử khác. Nếu ông có quyền thừa kế tước vị quận công và món lợi tức hằng ngày một ngàn đồng, ông có định bảo rằng không thèm khao khát được hưởng không? úi dào! Cứ suy rộng ra, các vị tai mặt đã từng có tình cảm trên đối với họ. Vậy thì họ luôn luôn ngờ vực nhau, ghen ghét nhau, đó là lẽ dĩ nhiên. Bây giờ mới nói đến thái độ của các ông anh cả đối với bọn đàn em trong nhà. Thưa quý ông, xin nhớ hộ rằng người anh cả nào trong gia đình cũng coi các em mình là kẻ thù không đội trời chung, bởi lẽ họ nẫng mất của hắn ta một số tiền mặt lẽ ra hắn được hưởng. Đã mấy lần tôi nghe George Mac Turk là con trưởng của bá tước Bajazet nói rằng ví thử hắn có quyền thì, ngay sau khi được thừa kế tước vị của cha, hắn sẽ hành động như các ông sultans (), nghĩa là chặt phăng cổ bọn đàn em trong nhà cho đỡ bận. Đại khái đứa hơn, đứa kém, nhưng cùng một giuộc cả, trong thâm tâm chúng nó cũng chỉ là một bọn Thổ Nhĩ Kỳ. Chao ôi, thưa ngài, thế mà chúng lại am hiểu việc đời cơ đấy! Đúng lúc ấy một vị tai mặt tình cờ đi qua, chiếc mũ trên đầu Tom Eaves suýt rơi xuống đất, anh ta chồm ra nhe răng cười, cúi rạp xuống chào, để tỏ rằng mình cũng am hiểu việc đời lắm lắm, nghĩa là hiểu theo kiểu Tom Eaves, tất nhiên. Tom đã đem đặt mua “niên kim chung thân” đến đồng xu chót của tài sản mình, không có lý do gì để thù ghét bọn cháu trai, cháu gái nữa, cho nên anh ta không ước ao gì hơn là được họ mời thết một bữa cơm.

Hầu tước phu nhân không sao có được tấm tình mẫu tử nồng nàn, vì giữa bà và các con có một hàng rào ngăn cách về tín ngưỡng. Càng yêu con bao nhiêu, người đàn bà rụt rè mộ đạo này càng cảm thấy sợ sệt, đau khổ bấy nhiêu. Hố sâu ngăn cách mẹ con không sao mà vượt qua được. Bà không thể nào vươn cánh tay yếu đuối của mình qua vực thẳm để kéo hai con ra khỏi con đường tín ngưỡng mà bà biết rất tai hại cho họ, hầu tước Steynevẫn là một tay học giả uyên bác, lại sẵn tài nguỵ biện; hồi các con còn nhỏ, lão vẫn có cái thú sau bữa ăn trưa, vừa uống rượu vang vừa nói khích cho ông giáo dạy các con là mục sư Trail - bây giờ đã là giám mục Ealing - cãi nhau với đức cha săn sóc linh hồn của phu nhân là cha Mole, lão đối lập Oxford với St. Acheul (). chốc chốc lão lại reo lên:

- Hoan hô Latimer () Được lắm Loyola ().Lão hứa nếu cha Mole thắng sẽ chạy cho chức giám mục, và nếu mục sư Trail được, lão sẽ không tiếc công vận động cho một chân giáo chủ. Hai ông thầy tu liền không ai chịu nhường ai. Người mẹ muốn rằng đứa con thứ ba là đứa được bà cưng hơn sẽ theo tôn giáo của bà, nhưng bà đã thất vọng đau đớn... Bà coi đó là sự trừng phạt đối với mình vì đã phạm tội lấy một người theo đạo Tin Lành làm chồng.

Hầu tước Gaunt () cưới công nương Blanche Thistlewood, một người con gái thuộc dòng họ quý tộc Bareacre làm vợ, ai có đọc qua cuốn “danh bạ quý tộc” đều biết điều đó. Hai vợ chồng được ở một gian riêng trong lâu đài Gaunt, vì ông chủ gia đình muốn được tự cai quản lấy việc nhà để đảm bảo uy quyền tuyệt đối của mình. Tuy vậy, cậu con trưởng cũng không mấy khi có mặt ở nhà vì hai vợ chồng tính tình xung khắc. Anh ta vay nợ bừa bãi, hứa bao giờ bố chết, được hưởng gia tài sẽ trả, vì số tiền trợ cấp của bố quá ít ỏi không đủ tiêu pha. Con trai nợ ai đồng nào, lão hầu tước biết hết.

Lúc con chết, tự nhiên lão trở thành con nợ của vô khối người, lão bèn bỏ tiền ra chuộc lại hết văn tự nợ rồi chuyển phần gia tài của con cả cho lũ cháu nội, con người con thứ. Bá tước George Gaunt () đang ở Vienna để khiêu vũ và làm việc ngoại giao thì được bố gọi về để đính hôn với công nương Joan, con gái duy nhất của ngài John Johnes, đệ nhất nam tước Helvellyn và là người cầm đầu công ty ngân hàng Jones, Brown, and Robinson ở phố Threadneedle. Anh con cả là hầu tước Gaunt rất bực mình, về chuyện này, còn kẻ thù không đội trời chung của anh ta là ông bố - vì vợ hầu tước Gaunt không đẻ con thì khoái trá vô cùng. Hai vợ chồng người con thứ sinh hạ được một lũ con vừa trai vừa gái, nhưng họ không có liên quan gì đến chuyện này.

Mới đầu cặp vợ chồng ăn ở với nhau hoà thuận êm đẹp đáo để. Bá tước George Gaunt không những biết đọc, lại biết viết khá đúng ngữ pháp. Anh ta nói tiếng Pháp tạm trôi chảy; riêng về khoa khiêu vũ thì tài nhất châu Âu. Tài năng như thế lại có lắm khoản lợi tức ở nước nhà, ai cũng yên trí rằng anh ta sẽ leo lên đến địa vị tột đỉnh trong nghề ngoại giao. Cô vợ thì cảm thấy rằng cuộc sống trong các triều đình rất hợp với sở thích; vả lại công nương cũng sẵn tiền, nên được tiếp đón rất nồng nhiệt tại khắp các tỉnh trên lục địa, những nơi anh chồng phải có mặt vì nhiệm vụ. Đã có tin đồn George Gaunt được cử làm tổng trưởng, lại có nhiều người đánh cuộc với nhau rằng anh ta sắp được làm đại sứ, thì bỗng xảy ra một chuyện kỳ quái trong cách cư xử của viên bí thư sứ quán này. Giữa một bữa tiệc long trọng do đại sứ Anh tổ chức, tự nhiên anh ta đứng phăng lên tuyên bố rằng món pa tê gan () có thuốc độc. Lại một lần đến dự một buổi dạ hội do sứ thần Bavie là bá tước Springbock-Hohenlaufen tổ chức, anh ta cạo đầu trọc tếu, mặc giả làm một tu sĩ Capuchin. Hôm ấy không phải là một buổi dạ hội trá hình như nhiều người cứ nhất định cam kết. Thiên hạ xì xào với nhau rằng có lẽ anh ta điên; ông nội anh ta ngày xưa cũng thế. Đó là một cái dớp trong gia đình.

Vợ anh ta và các con bèn trở về nước Anh, ngụ trong lâu đài Gaunt. Bá tước George từ giã nhiệm vụ ngoại giao tại Âu châu và người ta đăng lên công báo là anh ta được cử sang nước Brazil.

Nhưng thiên hạ biết thừa rằng anh ta sẽ không bao giờ trở về...nghĩa là không bao giờ anh ta chết ở Brazil..., không sống ở đấy mà cũng chưa hề đến đấy bao giờ. Anh ta không ở đâu cả, mà cũng vẫn ở tất cả mọi nơi. Họ vừa cười vừa rỉ vào tai nhau rằng “Brazil à? Brazil tức là rừng St. John, còn Rio de Janeiro là một ngôi nhà có tường bao quanh kín mít. George được cử trình quốc thư cho một bác cai tù, bác này sẽ ban cho anh ta tước vị hiệp sĩ dòng áo bó (). Đó là những lời bia miệng của đám người trong Hội chợ phù hoa.

Mỗi tuần, độ hai ba lần, mới sớm tinh sương, bà mẹ đã đi thăm đứa con điên dại của mình, bà lấy hành động ấy để chuộc lại tội lỗi cũ. Có khi thấy mặt mẹ, anh ta phá lên cười (nghe anh ta cười, còn đáng thương hơn là nghe anh ta khóc); có khi người mẹ thấy nhà ngoại giao lịch sự lỗi lạc đã từng tham dự Hội nghị thành viên trước kia đang kéo lê một món đồ chơi trẻ con đi khắp phòng, hoặc vuốt ve con búp bê của đứa con người gác cổng, cũng có khi anh ta nhận được ra mẹ và đức cha Mole cùng đi, nhưng thường thường anh ta quên mặt họ, cũng như anh ta đã quên vợ, quên con, quên ái tình, cao vọng, kiêu hãnh, quên hết. Duy có một chuyện anh ta vẫn nhớ, đó là giờ ăn, hễ ly rượu vang pha nước lã không đủ nồng độ là anh ta khóc rưng rức.

Thì ra đó là một căn bệnh bí hiểm vẫn lưu truyền lâu đời trong dòng máu bên họ nhà mẹ. Tai hoạ đã một hai lần giáng xuống gia đình Caerlyon trước khi hầu tước phu nhân phạm tội, trước khi bà khóc lóc nhịn đói tự trừng phạt để tỏ ý hối cải. Niềm kiêu hãnh về huyết thống đã bị bôi nhọ, không khác gì đứa con đầu lòng của Vua Pharaoh khi xưa.

Số mệnh ác nghiệt đã đóng con dấu ghê rợn trên khung cửa của gia đình này, trên chiếc khung cửa đồ sộ có trạm trổ hình huy hiệu quý tộc và những chiếc mũ miện.

Hai đứa con của vị hầu tước “đi vắng” vẫn hồn nhiên lớn như thổi, nào biết rằng số mệnh đang giơ cao bàn tay trên đầu chúng. Mới đầu chúng vẫn còn nhắc đến bố và dự định với nhau sẽ làm gì để đón bố về; dần dần tên tuổi con người sống cũng như chết ấy không còn được chúng nhắc đến luôn nữa...và cuối cùng thì chúng quên hẳn. Bà nội chúng vẫn run rẩy lo rằng không khéo rồi hai đứa cháu được thừa hưởng những vinh quang của bố chúng sẽ thừa hưởng luôn cả sự nhục nhã nữa. Bà khắc khoải chờ đợi ngày tai họa truyền kiếp sẽ giáng xuống đầu chúng.

Hầu tước Steyne cũng bị những nỗi lo âu ấy ám ảnh. Lão cố tìm cách dìm cái bóng ma khủng khiếp vẫn đứng kè kè bên giường vào trong men rượu và những trận cười thâu đêm suốt sáng.

Nhưng khi lão ngồi một mình cái bóng ma lại trở lại, mỗi năm một thêm vẻ đe doạ. Nó như nói với lão rằng: “Ta đã bắt con trai của mi đi, tại sao lại không thể đến lượt mi? Một ngày kia, ta rất có thể giam mi vào trong một nhà tù như George, con trai mi. Ngay ngày mai, ta có thể đóng ngay dấu ấn của ta lên trán mi; thế là hết cả mọi thứ danh vọng, khoái lạc, tiệc tùng, mỹ nhân, bọn hầu, bọn nịnh, đầu bếp Pháp, ngựa quý và lâu đài... mi sẽ chỉ có một gian nhà tù, một người gác và một chiếc đệm rơm như George Gaunt”.

Ngài hầu tước tỏ ra bất cần lời đe doạ của cái bóng ma vì lão sẵn mánh khoé thần diệu để làm cho kẻ thù phải thất vọng. Vì vậy sau những cái cổng đồ sộ đầy những hình trạm cổ kính của lâu đài Gaunt, sự giàu sang lộng lẫy tuy sẵn, nhưng hạnh phúc thì hình như cũng không có nhiều. Ở đây mở tiệc sang nhất thành Luân đôn, nhưng có lẽ chỉ những thực khách được hầu tước mời ăn là thỏa mãn. Ví thử lão không có địa vị cao sang như một ông hoàng. Vị tất đã có nhiều người đến chơi với lão; nhưng trong Hội chợ phù hoa, người ta vẫn quen nhìn tội lỗi của các bậc tai to mặt lớn với con mắt thông cảm... Một người đàn bà Pháp nói: “Trước khi lên án một nhân vật địa vị cao quý như hầu tước đây, ta hãy suy đi nghĩ lại cho chín chắn đã ()”. Có thể vài nhà luân lý nổi tiếng khe khắt nào đó tỏ ra không bằng lòng hầu tước Steyne, nhưng giá được lão mời ăn tiệc, chắc chắn họ cũng thú ra phết.

Slingstone phu nhân bảo: “Quả thật hầu tước Steyne tồi quá lắm, nhưng mà ai cũng đến dự tiệc cả. Tôi sẽ chú ý giữ gìn cho các con gái của tôi khỏi gặp điều không may”. Mục sư Trail nói: “Ngài hầu tước là người tôi chịu ơn về mọi phương tiện”. Ông mục sư thấy rằng đức tổng giám mục đang mệt nặng, nhưng bà Trail và các con gái thà nhịn đi lễ nhà thờ còn hơn vắng mặt trong một buổi tiếp tân của hầu tước. Cô em gái bá tước Southdown nghe mẹ kể lại những giai thoại gớm ghiếc trong lâu đài Gaunt thì hết vía, mới rụt rè hỏi lại anh trai, ông anh bèn bảo: “Tư cách lão ta bần tiện lắm, nhưng kệ mẹ nó, lão có những thứ rượu ngon nhất châu Âu đấy”.

Còn tôn ông Crawley nam tước?... Tôn ông Pitt, con người lịch thiệp mẫu mực, con người vẫn chủ toạ những buổi hội họp về tôn giáo...thì chính anh ta có chịu vắng mặt một lần nào đâu! Ngài nam tước vẫn bảo vợ: “Này Jane, nơi nào có mặt những người như giám mục Ealing và bá tước Slingstone phu nhân, mình có thể yên trí mà đến; chúng tôi xét người không bao giờ có thể lầm. Hầu tước Steyne ở địa vị cao quý như thể dĩ nhiên xứng đáng làm mẫu mực về cách xử thế cho giới chúng ta. Mình nên nhớ rằng một vị hầu tước đứng đầu một quận nhất định phải là người đáng kính. Vả lại, hồi còn trẻ, tôi và George Gaunt chơi với nhau rất thân. Anh ấy dưới quyền tôi hồi cùng làm tuỳ viên tại đại sứ quán ở Pumpernickel”.

Tóm lại, ai cũng thích đến bợ đỡ con người có thế lực kia, hễ lão gọi một tiếng là răm rắp có mặt; cả tôi là người viết truyện, và ngài là độc giả (thôi đừng chối đi). Ví thử được mời, chúng ta cũng đến.

Chương 48
MỜI BẠN ĐỌC BƯỚC CHÂN VÀO GIỚI THƯỢNG LƯU

Becky đã ngoan ngoãn săn sóc người cầm đầu gia đình nhà chồng, bây giờ thật là được đền bù vô cùng xứng đáng. Phần thưởng không phải là mối lợi trông thấy trước mắt nhưng cô ta còn lấy làm sung sướng hơn là được tiền. Rebecca không mong sống cuộc đời tiết hạnh, nhưng cô ta rất ưa làm ra vẻ tiết hạnh; ta lại biết rằng trong giới thượng lưu, người đàn bà nào muốn được thiên hạ coi là tiết hạnh thì phải mặc áo có đuôi dài quét đất, phải đội mũ có gài một túm lông và phải được đưa vào triều kiến đức kim thượng. Cuộc hội kiến vĩ đại ấy sẽ đóng một con dấu chứng thực đó là người đàn bà lương thiện. Ngài thị vệ đại thần sẽ trao cho một tấm sắc “tiết hạnh khả phong”. Cũng tương tự như những phong thư và những hàng hoá phải lưu ký trong phòng tẩy trùng, được phun một lượt dầu thơm, rồi được tuyên bố là vô hại, nhiều bà nhiều cô tư cách đáng khả nghi và rất có thể truyền sang người khác, chỉ cần qua một cuộc triều kiến, cũng được coi là “trắng như ngà, trong như ngọc”.

Bareacres phu nhân, Tufto phu nhân và bà Bute Crawley ở nhà quê, là những người có dịp tiếp xúc với Rebecca cứ tưởng tượng ra cảnh cô ta được cúi chào đức Kim thượng mà lộn cả ruột; họ tuyên bố rằng ví thử Hoàng hậu Charlotte còn sống, nhất định không bao giờ chịu cho con người tồi tệ quá sức tưởng tượng ấy đặt chân vào điện tiếp tân trong sạch của người. Họ có biết đâu bà Rawdon đã được nhân vật thượng lưu danh tiếng nhất châu Âu sát hạch và đã tốt nghiệp về khoa tiết hạnh; vậy mà còn hoài nghi đạo đức của bà thì dứt khoát là một thái độ “mạn thượng”. Về phần tôi, tôi đưa nhân vật vĩ đại này vào truyện với một thái độ vô cùng yêu kính.

Thử coi, nếu trong Hội chợ phù hoa người ta không biết đề cao giới thượng lưu thì sao con người vĩ đại đáng tôn kính kia lại được xưng tụng là nhân vật đệ nhất thượng lưu trong toàn quốc, và được toàn thể những con người có giáo dục nhất, lịch sự nhất, đồng tình tán thưởng? M... ông bạn thuở trẻ của tôi ơi, hẳn ông chưa quên hai mươi lăm năm trước có lần người ta diễn vở kịch “Kẻ đạo đức giả”, hồi ấy đạo diễn là Elliston, diễn viên thủ vai chính là Dowton và Liston; có hai thằng bé trọ học tại trường Slaughter-House, được các thầy cho phép bỏ học, đến rạp Drury Lane lách vào giữa đám đông để được đón chào đức vua. Đức vua à? Kia chứ đâu. Một đội vệ binh túc trực trước “lô” ghế dành riêng cho hoàng thượng. Sau ghế của Người là hầu tước Steyne, tước tuỳ giá thị vệ đại thần và nhiều vị quan lớn trong triều. Người ngồi kia, mặt mũi phương phi rạng rỡ, thân hình thật phì nộn, khắp người la liệt huy chương, mớ tóc giả rậm rạp xoăn tít... Chúng mình hát bài: “Thượng đế phù hộ cho vua”. Hăng quá! Cả rạp đồng thanh hát bài xưng tụng Người mới say sưa làm sao! Và hoan hô! Và hò reo! Và phất khăn tay! Các bà các cô khóc thút thít, các bà mẹ ghì chặt lấy con; có vài đứa ngất đi vì xúc động quá mạnh, đám khán giả ở hàng ghế hạng bét gần chết ngột. Từ bầy người nhấp nhô sôi nổi vang lên những tiếng kêu la, tiếng rên rỉ; quần chúng tỏ ra như sẵn sàng vì Người mà nhảy vào lửa. Đúng, chính mắt chúng mình đã được chiêm ngưỡng long nhan của Người. Số mệnh cũng không cướp được kỷ niệm ấy đi. Có người đã được nhìn mặt Napoléon. Một số ít người này còn sống đã được thấy mặt Frederick đại đế, nhà học giả Johnson, Hoàng hậu Marie Antoinette Bareacres, v.v.. riêng chúng mình rất có quyền khoe với con cháu mà không sợ quá lời rằng đã từng được nhìn mặt Hoàng đế George đại từ bi, Hoàng đế George chí tôn, hoàng đế George vĩ đại.

Vậy thì bà Rawdon Crawley đã sống một ngày sung sướng nhất đời; vị thiên thần ấy đã được dẫn tới thiên đường mình hằng khát khao, tức là được vào chầu trong triều, do người chị dâu đứng ra đỡ đầu. Đúng ngày đã định, tôn ông Pitt và phu nhân ngồi trên chiếc xe ngựa đồ sộ của gia đình (chiếc xe mới toanh vừa mua, sẵn sàng phục vụ tôn ông trong việc thực hiện chức vụ “bảo an đại quan” trong quận) cho chạy thẳng đến ngôi nhà ở phố Curzon; bác Raggles đứng sau quầy kính cửa hàng khoan khoái ngắm những chiếc mũ có đính lông của các bà, và những chùm hoa kếch xù cài trên ngực bộ chế phục mới tinh của bọn gia nhân.

Tôn ông Pitt xuống xe, bước vào trong nhà trong bộ triều phục lộng lẫy, thanh gươm lủng lẳng bên đùi. Thằng Rawdy đứng áp mặt vào khung kính cửa sổ phòng khách vừa mỉm cười vừa gật đầu mãi với bác gái ngồi ngoài xe. Một lát sau, tôn ông Pitt từ trong nhà bước ra cùng với một vị phu nhân choàng khăn san trắng, trên mũ gài một túm lông thật to, hai tay rón rén nâng vạt áo, tấm áo dài có đuôi loà xoà may bằng thứ lụa tuyệt đẹp. Vị phu nhân bước lên xe, dáng điệu quý phái như một bà hoàng cả đời vẫn quen đi lại trong triều, mỉm cười rất duyên dáng với người hầu túc trực ở cửa, và với tôn ông Pitt đang đi theo sau mình ra đến tận xe.

Rồi đến Rawdon bận rộn bình phục ngự lâm quân, bây giờ trông đã cũ rích và chật bó lấy người. Suýt nữa anh ta phải đi xe ngựa thuê theo sau đám rước để hầu ngự giá, may được bà chị dâu cứ nhất định mời anh ta cùng lên xe ngồi. Xe thì rộng, mấy người đàn bà cũng không lấy gì làm to béo, họ có thể vén vạt áo vào lòng cho gọn cũng được... Cuối cùng cả bốn người cùng ngồi xe đi. Xe ngựa của họ cũng nhập vào đoàn xe tiến về phía toà lâu đài cổ kính xây bằng gạch; nơi đây ngôi sao Brunswick đang chờ đón giới thượng lưu quý phái.

Becky sung sướng quá, cô ta cảm thấy rõ ràng bây giờ mình đã chiếm một địa vị cao quý trong đời đến nỗi muốn thò cổ ngay ra ngoài cửa xe mà ban phước lành cho đám đông dân chúng bên đường. Đến ngay Becky của chúng ta cũng có một số nhược điểm; cô ta thuộc loại người cứ muốn kiêu hãnh về những ưu điểm thiên hạ ít nhận ra nơi mình; Comus vẫn yên trí minh là diễn viên bi kịch có tài nhất nước Anh; Brown tiên sinh là một tiểu thuyết gia nổi tiếng, nhưng lại ưa người ta coi mình không phải là một thiên tài mà là một tay phong lưu công tử, trong khi ấy nhà luật sư đại danh Robinson không chịu quan tâm đến tiếng tăm của mình ở Westminster Hall, mà cứ khăng khăng tự cho mình là một nhà thể thao cừ khôi... Cho nên Becky suốt đời chỉ có một mục đích làm cho thiên hạ tưởng mình là một người đàn bà đáng kính; sự cố gắng kiên nhẫn của cô ta đã được đền bù xứng đáng. Đã có nhiều lúc Becky yên trí thực sự rằng mình xứng đáng là một bậc mệnh phụ, quên đứt cái ngăn kéo rỗng không ở nhà, quên đứt cả bọn chủ nợ đang rình ngoài cổng, quên đứt rằng mình phải ngọt ngào nói khó với bọn chủ hiệu để khất nợ... Tóm lại, quên đứt mất cái cảnh một mảnh đất cũng không có mà ở của mình. Được ngồi trên xe ngựa riêng vào triều, cô ta bèn lấy điệu bộ thật đường bệ, thật tự mãn, thật nghiêm trang làm cho công nương Jane cũng phải buồn cười. Cô ta vênh vênh cái mặt đi vào trong cung trông như một bà chúa, ví thử cô ta được làm bà chúa thật, chắc chắn sẽ đóng được vai trò đến nơi đến chốn.

Bộ triều phục () của bà Rawdon Crawley mặc bữa được vào triều kiến đức Kim thượng quả thật là một tác phẩm tuyệt hảo của khoa may mặc. Nếu chúng ta đã có dịp gặp một số mệnh phụ - chúng ta đây là những người có đeo huy chương vẫn dự những cuộc dạ hội ở St. James hoặc chúng ta là những kẻ đi ủng cáu bùn vẫn lang thang trên đường Pall Mall để ngó vào những chiếc xe ngựa chở những vị tai mặt đội mũ có đính lông - vào khoảng hai giờ trưa ngồi xe đi dự lễ ngự tẩy, trong tiếng nhạc tiến quân hùng hồn của đoàn lính ngự lâm bận binh phục lộng lẫy cưỡi ngựa lông màu tro sáng... thì mới thấy rằng giữa ánh sáng ban trưa, nhan sắc của các phu nhân cũng chẳng quyến rũ người ta lắm. Một nữ bá tước sáu mươi cái xuân xanh, bận áo hở ngực, da mặt nhăn nheo, phấn son đỏ choét, mi mắt hum húp, kim cương nhấp nhánh trên mớ tóc giả, kể cũng thú vị đấy, nhưng nom không mê được. Trông bà ấy mà ta nhớ đến cảnh tượng đại lộ St. James buổi sáng sớm khi đèn ngoài phố tắt gần hết, còn lại một số biến nốt trong ánh bình minh.

Những đoá hoa khôi ta nhìn thấy trong xe ngựa của các phu nhân đó chỉ lộng lẫy trong lúc ban đêm. Nếu Cynthia mà đôi lần ta gặp trong mùa đông năm nay, dưới ánh sáng ban chiều trông cũng thành nhợt nhạt, mặc dù bên kia trời Phoebus () vẫn giương mắt thao láo ra mà ngắm thì hỏi rằng Castlemouldy phu nhân sao dám ngẩng cao mặt cho ánh nắng xuyên qua cửa xe chiếu thẳng vào, để soi rõ từng nét nhăn, từng kẽ rạn là vết tích tàn phá của thời gian?

Không thể được. Những buổi triều kiến phải tổ chức trong tháng một, vào những ngày có sương mù, nếu không các vị phi tần trong Hội chợ phù hoa đến phải ngồi xe bịt kín cửa, đi qua những hành lang tối om, và làm lễ triều kiến trong ánh đèn đã được che dịu mắt.

Nhưng sắc đẹp của Rebecca không cần nhờ đến phương pháp ấy mới có sức hấp dẫn. Làn da ấy đâu có sợ ánh sáng mặt trời; bộ áo ấy giá bây giờ ta được trông thấy có lẽ bà nào trong Hội chợ phù hoa cũng phải cho là lố bịch và cổ lỗ sĩ, nhưng hai mươi lăm năm nay là những tác phẩm tài tình nhất về khoa trang phục cũng trở thành lố lăng như bất cứ một thứ gì trong cuộc sống phù hoa này. Nhưng chúng ta đã quá lan man. Buổi triều kiến ngày ấy ai cũng khen bộ áo của bà Rawdon là đẹp tuyệt Ngay đến công nương Jane, con người nhỏ nhắn tốt bụng nhìn em dâu cũng phải công nhận lời khen là đúng và buôn rầu mà cảm thấy mình thua xa Becky về khiếu thẩm mỹ.

Cô ta có biết đâu rằng Becky đã để bao nhiêu tâm lực vào bộ áo. Rebecca vốn là người có khiếu thẩm mỹ không kém gì người thợ trang sức khéo nhất Âu châu, lại vượt xa công nương Jane về mặt khéo tay... Người chị dâu thoáng nhìn biết ngay thứ gấm Becky may áo rất quý, và bộ đăng ten đẹp tuyệt. Becky nói rằng gấm ấy là một thứ hàng cũ còn lại, đăng ten thì mua lại của một người khác, một thứ đăng ten đẹp nhất từ mấy thế kỷ nay.

- Thím Crawley ạ, thím mang một cái gia sản nhỏ trên người đấy Công nương Jane nói thế rồi nhìn xuống bộ đăng-ten của mình thấy giá trị còn kém xa. Lúc xem kỹ thứ hàng Becky dùng may áo, công nương Jane định hỏi em dâu lấy tiền đâu ra mà mua nổi, nhưng kìm lại được ngay vì thấy câu hỏi có vẻ khiếm nhã.

Ví thử công nương Jane biết rõ sự thực, có lẽ dù hiền lành mấy cũng phải phát tức; số là khi Becky dọn dẹp ngôi nhà của Pitt, cô ta vớ được miếng gấm và bộ đăng ten trong một cái tủ áo cũ, những thứ này là của hai bà vợ lão Pitt đã chết. Cô ta lẳng lặng đem về nhà may áo. Bà Briggs cũng nhìn thấy Becky đem gấm về, nhưng không hỏi han gì cũng không nói chuyện với ai; không chừng bà ta lại tán thành việc ấy cũng nên. Thì người đàn bà lương thiện nào mà chẳng thế.

Còn chuỗi hạt kim cương… “Mình đào đâu ra được những hạt kim cương này thế, Becky?” Anh chồng ngắm mấy vật trang sức lóng la lóng lánh trên cổ, trên tay vợ mà trước kia không hề thấy đeo bao giờ, tò mò hỏi vậy. Becky hơi đỏ mặt nhìn thẳng vào mặt chồng một lúc có ý không bằng lòng. Pitt Crawley cũng đỏ mặt giả vờ ra ngoài cửa sổ xe ngựa. Sự thực là Pitt đã làm quà cho em dâu mấy vật trang sức, đáng chú ý nhất là chuỗi ngọc và một chiếc cặp gài áo có nạm kim cương. Anh chàng nam tước quên không kể chuyện này cho vợ biết.

Becky nhìn chồng rồi lại nhìn Pitt, vẻ thắng thế hỗn xược như muốn nói: “ Tôi khai cả ra nhé?” Rồi cô ta bảo chồng:

- Mình đoán xem. Mình chỉ vớ vẩn, còn đào đâu ra nữa. Chiếc cặp này là của một người bạn cho em từ lâu, các thứ khác thì em thuê cả đấy, thuê ở cửa hiệu ông Polonius, phố Coventry. Mình đừng tưởng rằng ai vào chầu trong triều cũng có kim cương của riêng mà đeo như công nương Jane đây đâu. Của chị ấy đẹp quá, thứ em đeo còn thua xa.

Pitt vẫn còn có vẻ ngượng đáp:

- Đấy là những của gia bảo đấy, thím ạ.

Chiếc xe vẫn lăn dọc theo dãy phố rồi đỗ ngay ngoài cổng toà lâu đài nơi đức Kim thượng đang ngự tiếp các bề tôi.

Những viên kim cương làm cho Rawdon loá mắt kia không bao giờ trở về với ông Polonius ở phố Coventry, mà ông ta cũng không bao giờ đòi lại. Chúng được Becky mang cất kỹ trong một chiếc hộp cũ của Amelia Sedley cho từ lâu, trong hộp Rebecca còn giấu khá nhiều vật hữu ích và có thể là rất đáng tiền mà anh chồng không hề biết. Có những ông chồng trời sinh ra để không biết gì, hoặc để chỉ biết rất ít. Và hầu hết các bà vợ trời sinh ra cũng để mà bịt mắt chồng con. Nhưng thưa các bà, biết bao nhiêu bà đã giấu giếm những hoá đơn của thợ kim hoàn? Biết bao nhiêu bà có áo, có vòng xuyến mà không dám khoe với chồng, mà vừa đeo vừa run. Vừa run mà lại vừa mỉm cười duyên nịnh khéo ông chồng đứng bên, cái ông chồng mù tịt không phân biệt nổi áo mới với áo cũ, xuyến mới đánh với xuyến năm ngoái của vợ; ông ta cũng không hề ngờ rằng chiếc khăn viền đăng-ten vàng trông cũng đã tàng tàng của vợ giá tới bốn mươi đồng, và tuần lễ nào bà Bobinot cũng viết thư đến đòi thanh toán tiền.

Rawdon cũng vậy, anh ta không biết gì về chuyện đôi hoa tai kim cương cũng như chuỗi ngọc trang điểm trên bộ ngực xinh đẹp của vợ. Nhưng hầu tước Steyne biết rõ: mặc dù ở tận trong triều, lãnh trọng trách tuỳ giá đại thần và là một cây cột trụ chống đỡ nền quân chủ của Anh quốc, khắp người đeo đủ các thứ huy chương và bội tinh, ngài cũng đã chú ý đến người đàn bà xinh xinh này; ngài biết rõ những vật trang sức kia mua ở đâu, ai trả tiền.

Hầu tước cúi chào Rebecca, mỉm cười và đọc mấy câu thơ cũ rích, nhưng rất hay trong bài “Búp tóc ngắn” nói về những viên kim cương của Belinda, “những viên kim cương mà bên Do Thái phải thèm muốn và kẻ ngoại đạo phải phụng thờ”.

Nhưng tôi hy vọng rằng đại nhân không phải là kẻ ngoại đạo nhé.

Người đàn bà vừa lắc đầu vừa đáp, xung quanh nhiều ông, nhiều bà gật đầu thì thầm với nhau, họ không rõ tại sao vị thượng quan lại tỏ ra có biệt nhỡn đối với con người xảo quyệt này đến thế. Cuộc triều kiến giữa Crawley Rebecca, tục danh Sharp, với đức Kim thượng đã diễn ta như thế nào, ngòi bút thô thiển dốt nát này không dám có cao vọng kể lại. Cảnh tượng tôn nghiêm rực rỡ ấy, kẻ phàm tục không dám nhìn. Lòng tôn kính đối với Hoàng đế buộc trí tưởng tượng không được phép táo bạo nhòm ngó vào nội điện mà phải lập tức lặng lẽ kính cẩn cúi lạy mà lui ra ngoài.

Sau buổi triều kiến, khắp thành Luân đôn không có người nào trung thành với Hoàng đế bằng Becky. Cô ta luôn mồm nhắc đến đức Kim thượng, lại tuyên bố rằng Người lịch sự nhất đời không ai bì kịp. Becky tìm ngay đến hoạ sĩ Colnaghi đòi mua một bức chân dung của Hoàng thượng, vẽ sao cho thật đẹp thì vẽ, không quản đắt rẻ. Cô ta chọn bức vẽ Hoàng đế mỉm cười ngồi trên ghế xô fa, đội mớ tóc giả màu nâu quăn tít, mặc áo choàng cổ lông, đi bít tất lụa. Cô ta lại đặt vẽ thêm một bức chân dung nhỏ để đeo trước ngực... Người quen kẻ thuộc thấy vậy buồn cười quá và cũng hơi bực mình vì cứ bị nghe cô ta khen mãi đức Hoàng đế vô cùng điển trai và lịch sự. Biết đâu người đàn bà bé nhỏ này chẳng đang muốn đóng vai trò của một Maintenon () hay là một Pompadour (). Nhưng thú vị nhất là được nghe Becky ăn nói kiểu cách.

Becky có mấy người bạn gái, không thuộc đám người tiếng tăm thực sự lừng lẫy trong Hội chợ phù hoa, phải công nhận như vậy. Nhưng bây giờ đã được công nhận là con người tiết hạnh, đời nào cô ta lại còn muốn đi lại với những hạng người như vậy. Một bữa đi coi hát, Crackenbury phu nhân gật đầu chào, Becky làm ngơ không đáp, cô ta cũng không thèm giao thiệp với bà Washington White. Cô bảo chồng: “Mình có địa vị, phải biết giữ sĩ diện chứ, giao thiệp với cái bọn không ra gì ấy thế nào được. Thực tâm em vẫn thương hại Crackenbury phu nhân lắm; bà Washington cũng là người tốt. Mình muốn đến ăn cơm với họ cũng được, cũng như mình ưa đánh bài thôi. Nhưng em ấy à, em không thích, không thể thế được. Lần sau họ có đến chơi, mình cứ sai thằng Smith ra bảo là em không có nhà”.

Cách Becky phục sức hôm nào chầu vua được đăng tỉ mỉ lên báo... đủ cả mũ lông, giải áo, kim cương. Crackenbury phu nhân xem báo giận lắm; bà dè bỉu mãi với đám đàn ông quen thuộc về điệu bộ kiểu cách của Becky. Bà Bute và hai cô con gái vẫn đặt mua báo “Tin tức buổi sáng” ở tỉnh. Ba mẹ con dài mồm nói xấu Becky với nhau cho bõ ghét; bà mẹ bảo cô con gái lớn: “Nếu cô là cái con tóc xám, mắt xanh, con gái mụ đàn bà người Pháp làm cái nghề leo dây kia (song con gái bà tóc lại đen, mũi lại tẹt mà chân thì ngắn cũn cỡn), cô cũng có thể được đeo kim cương, và được chị dâu cô là công nương Jane đưa vào chầu vua đấy. Nhưng con gái yêu của mẹ ơi, con chỉ là một thiếu nữ con nhà dòng dõi, con chỉ mang trong người một dòng máu quý tộc nước Anh, và của cải duy nhất của con chỉ là điều lễ, nghĩa, trung, tín. Chính mẹ đây, tuy là em dâu một vị nam tước thật, mẹ cũng chưa bao giờ dám nghĩ đến chuyện được vào triều chầu vua...hồi Hoàng hậu Charlotte còn sống, có đâu dễ dàng như thế. Bà vợ ông giáo sĩ đành tự an ủi bằng cách ấy, hai cô con gái cứ thở dài sườn sượt suốt đêm ngồi nghiền ngẫm cuốn “Danh bạ quý tộc”.

Vài ngày sau cuộc triều kiến lịch sử nói trên, cô Bécky tiết hạnh của chúng ta lại được hưởng thêm một vinh dự lớn lao khác.

Chiếc xe ngựa của hầu tước Steyne phu nhân chạy thẳng đến cổng nhà Rawdon đỗ lại; người hầu gõ chuông thật mạnh như có ý muốn đánh xe chạy thẳng vào trong sân, nhưng anh ta chỉ đưa vào hai tấm danh thiếp có ghi tên Steyne hầu tước phu nhân và nữ hầu tước Gaunt. Becky nhìn hai mảnh bìa, trong lòng rộn ràng sung sướng, dường như đó là những bức hoạ tuyệt tác, hoặc có hàng trăm thước đăng-ten Malin hai đồng ghi nê một thước viền quanh cũng không bằng. Cô ta đặt chúng nằm thật lộ liễu trong chiếc bát sứ trên bàn giữa phòng khách, nơi vẫn để danh thiếp của bà White và Crackenbury phu nhân mấy tháng trước được Becky trân trọng biết bao, bây giờ sao trông đáng thương đến thế!... Những tấm danh thiếp của bè bạn cũ lập tức bị xếp đống dưới đáy hộp, dành chỗ cho những mảnh bìa các bậc mệnh phụ. Becky và bà Briggs lật giở tập “Danh bạ quý tộc” tìm những tên Steyne, Bareacres, Johnes Helvellyn và theo dõi qua các chi nhánh trong từng họ đến tận cao tằng tổ khảo!

Vài giờ sau, hầu tước Steyne đến chơi nhà Becky; lão vẫn có thói quen ngó đây đó, nhận xét vật quanh mình, chợt thấy hai tấm danh thiếp của vợ và con dâu được Becky trưng bầy trên mặt bàn, lão nhếch mép cười khẩy; lão già quỷ quái này vẫn quen giễu cợt thói phù hoa của người đời. Becky vội xuống tiếp khách ngay. Mỗi lần có ngài hầu tước hẹn đến thăm bao giờ Becky cũng trang điểm cẩn thận, tóc chải thật đẹp, nào mùi xoa, nào khăn quàng, nào đôi dép xinh xinh bằng da dê thuộc cùng các vật trang sức khác, tất cả đều được sửa soạn chu đáo... đoạn cô ta mới lấy điệu bộ thật tự nhiên duyên dáng ngồi sẵn vào ghế đợi quý khách. Nếu lão đến thăm bất thường, dĩ nhiên cô ta lập tức chạy bay lên gác, vào phòng ngủ, soi gương, cấp tốc sửa sang lại bộ cánh cho thật bảnh, rồi mới bước xuống hầu tiếp. Lần này Becky thấy lão đang nhìn vào chiếc bát nhếch mép cười; biết lão đã đi guốc vào bụng mình, cô ta mới hơi đỏ mặt, bèn nói đỡ đòn:

- Xin cảm tạ đại nhân. Ngài đã rõ hai vị phu nhân nhà ta cũng vừa lại đây xong. Ngài thật có lòng chiếu cố. Em không ra hầu tiếp ngay được... em đang bận giở món dồi trong bếp.

Lão già bèn đáp:

- Tôi biết bà đang bận... Lúc xe ngựa sắp đỗ, nhìn qua hàng rào, tôi đã thấy.

- Thật không có chuyện gì thoát được mắt ngài.

Lão vui vẻ nói tiếp:

- Nhờ trời mắt tôi có nhìn thấy ít nhiều, nhưng không thấy bà đang làm bếp, quý bà xinh đẹp của tôi ạ. Bà không thực thà tí nào nhé. Tôi nghe rõ tiếng bà trên gác, chắc đang bận đánh phấn hồng! Bà nên cho Gaunt phu nhân nhà tôi một ít, nước da em nó không được đẹp lắm. Rồi tôi mới nghe tiếng cửa phòng ngủ mở ra, và bà bước xuống cầu thang.

- Thế ra làm đẹp để vui lòng ngài là một trọng tội thực ư?

Bà Rawdon vừa than thở vừa lấy khăn tay chùi mãi đôi má, hình như muốn tỏ ra mình đỏ mặt vì cảm động chứ không phải vì thoa phấn. Ai mà biết được. Nghe nói có thứ phấn hồng khăn tay lau không sạch; lại có thứ đã bôi vào má thì nước mắt rỏ xuống cũng không phai được.

Lão già mân mê tấm danh thiếp của vợ, nói:

- Được lắm, bà đang muốn trở thành một nhân vật thượng lưu. Bà mà chưa len được vào giới quý tộc thì bà chưa để cho cái thằng già này yên thân đâu. Nhưng bà bạn bé nhỏ của tôi ơi, liệu bà có đủ tiền để sống cho xứng đáng với địa vị không?

Becky vội vã đáp ngay:

- Thì ngài sẽ lo cho nhà em một chức vụ chứ sao?

- Bà không có tiền mà vẫn muốn chơi trèo với kẻ sẵn tiền. Bà là cái bình đất muốn bơi thi với cái chậu đồng. Đàn bà thế cả. Người nào cũng lăn lóc cầu lấy những thứ không đáng cầu. Chao ôi! Hôm qua tôi vừa ăn cơm với nhà vua, bữa ăn chỉ có thịt vai cừu nấu củ cải. Nhiều khi tự do ăn cỏ non ngoài đồng, lại sướng hơn xơi cỏ khô trong chuồng đấy. Bà sẽ lại chơi bên lâu đài Gaunt. Bà chưa lại đó chơi thì có người chưa ăn ngon ngủ yên được đâu. Bên ấy không vui bằng đây, rồi bà sẽ chán ngay. Tôi đã phát ngấy lên rồi. Bà vợ tôi vui tính như Macbeth phu nhân, con dâu tôi cũng lịch thiệp như Regan và Goneril () vậy. Tôi không dám ngủ trong cái mà họ gọi là giường ngủ của tôi. Trông nó giống như cái linh cữu của thánh Peter, nom tranh ảnh treo xung quanh mà phát khiếp. Tôi có một cái giường sắt nhỏ kê trong phòng rửa mặt, và một cái đệm cỏ y như của nhà ẩn sĩ. Hi! Hi! Tuần sau mời bà sang ăn cơm, và hãy coi chừng bọn phụ nữ(), phải cẩn thận đấy nhé, bọn đàn bà sẽ làm tình làm tội bà đấy.

Hầu tước Steyne vốn ít nói, lần này nói hơi nhiều. Hôm ấy Becky được lão ban cho khá nhiều lời dạy dỗ.

Bà Briggs ngồi làm việc ở trong phòng nhìn ra, nghe lão nói xấu giới phụ nữ, bà thở dài. Hầu tước Steyne quay lại nhìn bà Briggs mắt long lên sòng sọc, bảo Becky:

- Nếu bà không tống cổ con chó chăn cừu kia đi thì tôi sẽ đánh thuốc độc cho nó chết toi mạng.

Rebecca cười tinh quái đáp:

- Em vẫn quen cho chó ăn trong đĩa của em đấy.

Bị bà Briggs cản trở cuộc trò chuyện tay đôi với cô vợ xinh đẹp của viên trung tá, lão hầu tước cáu lắm. Becky thấy thế lại có vẻ thú vị, nhưng rồi cô thấy thương hại lão, bèn mượn cớ trời đẹp, gọi là Briggs sai đem thằng con trai đi chơi.

Becky im lặng một lúc rồi buồn rầu nói:

- Em không đuổi được bà ấy đi đâu.

Đôi mắt rơm rớm lệ, cô ta quay nhìn đi chỗ khác. Lão hầu tước hỏi:

- Chắc bà nợ tiền công chưa trả?

Becky vẫn nhìn xuống đất đáp:

- Nào phải chỉ có thế. Bà ấy bị phá sản vì em đấy.

- Phá sản cơ à? Thế thì cứ tống cổ phăng mụ ấy đi chứ sao nữa?

Becky chua chát đáp:

- Đàn ông mới xử sự như vậy. Đàn bà chúng em không nỡ ác thế đâu. Năm ngoái chúng em hết sạch cả tiền, bà ta có đồng nào cho em vay cả. Không đời nào em đuổi bà ấy đi, trừ phi chúng em cùng bị phá sản, mà xem chừng chuyện này cũng chả còn xa xôi gì nữa, nếu không thì phải trả bà ấy hết nợ mới được.

- Bỏ mẹ thật! Thế nợ bao nhiêu?

Lão hầu tước văng tục một câu rồi hỏi. Becky biết lão lắm của, bèn khai ra một món tiền gần gấp đôi số nợ thực, lão lại càng cáu khoẻ; còn Rebecca thì cứ ngồi cúi gằm mặt xuống thút thít khóc có vẻ đau khổ lắm.

- Em biết làm thế nào được. Chỉ còn một cách ấy thôi. Em có dám cho nhà em biết đâu. Nếu biết chuyện này thì nhà em đến giết chết em mất. Ngoài ngài ra, em chẳng dám hở chuyện cho ai biết. Mà chính ngài bắt em phải nói đấy thôi, hầu tước Steyne ơi, làm thế nào bây giờ? Em khổ lắm, em khổ quá.

Hầu tước Steyne không đáp, lão yên lặng gõ gõ mấy ngón tay, rồi đưa móng tay lên miệng nhấm nhấm, nghĩ ngợi. Đoạn lão chụp mũ lên đầu, đẩy tung cánh cửa, bước ra ngoài. Rebecca cứ giữ nguyên dáng điệu rầu rĩ như thế cho tới lúc nghe rõ tiếng cửa khép mạnh lại và tiếng xe ngựa lăn bánh đi mới đứng dậy, trong ánh mắt loáng lên một tia sáng tinh quái, thoả mãn, rất kỳ lạ. Rồi bỗng nhiên cô ta phá lên cười hai ba bận, và ngồi vào cây dương cầm, lướt mấy ngón tay rất nhanh trên hàng phím; tiếng nhạc reo vui lạ lùng, khiến cho mấy người qua đường phải dừng lại dưới cửa sổ lắng nghe.

Đến tối hôm ấy, lâu đài Gaunt có gửi lại cho hai phong thư, một phong đựng tấm thiếp của hầu tước Steyne và phu nhân mời thứ sáu sau đến dự tiệc ở lâu đài Gaunt, một phong đựng một mẩu giấy màu xám có chữ ký của hầu tước Steyne gửi cho nhà ngân hàng Jones Brown và Robinson ở phố Lombard.

Đêm hôm ấy, Rawdon thấy tự nhiên Becky cười hai ba lần.

Cô ta bảo vì mình được đến giáp mặt với bọn phụ nữ quý tộc ở lâu đài Gaunt nên khoái trá mà cười. Thực ra Becky đang bận rộn với nhiều ý nghĩ khác. Bây giờ có nên trả nợ bà Briggs rồi cho ra không nhỉ? Becky trằn trọc mãi trên gối với những ý nghĩ đó. Sớm hôm sau, khi Rawdon đi tụ tập với bè bạn ở quán rượu thì cô vợ mặc bộ áo giản dị, che chàng mạng kín mặt, thuê xe ngựa đến khu City, vào ngân hàng Jones Brown và Robinson, đưa ra một tờ tín phiếu. Người nhân viên ngồi ở bàn giấy hỏi:

- Bà muốn lấy những loại tiền gì?

Becky ngọt ngào đáp:

- Ông cho một trăm năm mươi đồng tiền lẻ, chỗ còn lại, ông cho vào một tấm ngân phiếu.

Đoạn cô ta rẽ qua mé nghĩa địa nhà thờ St. Paul, vào hiệu mua một bộ áo lụa đen thật đẹp mang về cho bà Briggs. Lúc tặng món quà cho người đàn bà chất phác cô lại kèm theo một cái hôn và mấy lời thật âu yếm.

Rồi Becky đi bộ đến nhà bác Raggles thân mật hỏi thăm bọn trẻ và đưa cho bác năm mươi đồng, sau đó cô ta tìm đến ông chủ hiệu cho thuê xe ngựa, đưa trả một số tiền tương tự. Cô ta nói:

“Này ông Spavin, ông nên coi đó là một bài học nhé. Tôi mong rằng đến buổi tiến triều sắp tới, ông anh tôi là tôn ông Pitt sẽ không phải ngồi chật ních bốn người một xe để vào chầu đức Kim thượng vì cớ xe của tôi hỏng, nghe không?”

Hình như ngày tiến triều lần trước, hai bên có chuyện không ổn thoả thì phải, cho nên xuýt nữa trung tá phải muối mặt mà ngồi xe ngựa rong vào chầu vua.

Giải quyết xong mấy việc trên, Becky mới về nhà lên gác thăm lại cái hộp cô Amelia Sedley tặng mình từ lâu, trong đó cô ta giấu vô khối đồ vật có ích và quý giá. Cô ta cất kỹ tấm ngân phiếu vừa lĩnh được ở nhà băng Jones Brown và Robinson vào cái viện bảo tàng cá nhân ấy.

Chương 49
BỮA ĂN BA MÓN VÀ MỘT MÓN TRÁNG MIỆNG

Sáng hôm ấy các phu nhân ở lâu đài Gaunt đang dùng bữa sáng thì hầu tước Steyne bước vào (lão có thói quen dùng bữa sáng một mình, ít khi muốn làm phiền đến đám đàn bà trong nhà; những dịp lão gặp vợ con là khi nào trong nhà có tổ chức tiếp khách, hoặc thỉnh thoảng gặp mặt nhau ở hành lang; hoặc những khi đi xem hát lão ngồi ở chỗ của mình, để ý theo dõi cử chỉ của họ ở “lô” ghế chỗ khác), bọn trẻ con đang quây quần xung quanh khay trà bánh; người lớn thì đang bàn tán về chuyện Rebecca.

- Này, Steyne phu nhân - lão hầu tước nói - tôi muốn biết buổi tiếp tân thứ sáu sắp tới bà định mời những ai, tôi muốn viết thiếp mời cả hai vợ chồng trung tá Crawley nữa.

Hầu tước phu nhân có vẻ xúc động mạnh, đáp:

- Để Blanche viết, để cho mợ Gaunt nó viết.

- Con không viết thiếp mời thứ người ấy.

Gaunt phu nhân, một người đàn bà cao lớn, nói xong ngẩng nhìn lên một lúc rồi lại cúi xuống. Ai đã làm phật ý hầu tước Steyne thì khó lòng mà chịu đựng nổi tia mắt của lão.

- Tống bọn trẻ con ra ngoài kia. Cút! Lão vừa quát vừa giật mạnh dây chuông. Bọn trẻ vẫn quen hễ nom thấy ông nội là sợ rúm người lại, vội lảng hết. Mẹ chúng định lảng ra ngoài nốt, nhưng ông bố chồng nói ngay.

- Chị ở lại đây tôi bảo.

Đoạn lão tiếp:

- Steyne phu nhân, một lần nữa yêu cầu bà ngồi vào bàn viết thiếp mời hôm thứ sáu này, được không?

Gaunt phu nhân nói:

- Thưa cha, con không thể có mặt trong buổi tiếp tân ấy được. Con sẽ về bên nhà.

Tôi cũng đang mong chị về ở hẳn bên ấy hộ đấy. Trong gia đình Bareacre, chị sẽ có vô khối bầu bạn, tức là các ông mõ toà; mà tôi cũng thoát được cái nạn phải cho họ hàng nhà chị vay tiền, lại đỡ phải nhìn mãi cái điệu bộ bi kịch của chị. Tôi hỏi, chị là cái thứ gì mà làm như bà tướng ở cái nhà này chứ? Hạng chị, tiền bạc chẳng có, tài năng cũng không. Tôi mua chị về cái nhà này cốt để đẻ con, mà chị không tòi ra được đứa nào. Thằng Gaunt nó ngấy chị lắm rồi, trong nhà này có vợ thằng George là không mong chị chết. Chị mà chết là thằng Gaunt sẽ lấy được vợ khác ngay.

- Con cũng đang muốn chết quách cho xong.

Người đàn bà giận quá, rơm rớm nước mắt đáp vậy.

- Chị mà cũng lên mặt đức hạnh đến thế cơ à? Chị không thấy vợ tôi mà ai nấy đều biết là một vị thiên thần trong trắng như băng tuyết, cả đời không hề lầm lỗi điều gì cả, cũng còn không phản đối việc tiếp bà bạn trẻ tuổi của tôi là bà Crawley?

Steyne phu nhân hẳn thừa rõ nhiều khi những người đàn bà đức hạnh nhất vẫn bị cái bề ngoài nó làm hại, và người vô tội nhất đời vẫn bị kẻ khác gièm pha. “Thưa bà, bà có muốn nghe tôi kể và mẩu chuyện về Bareacre phu nhân, cụ thân sinh ra bà chăng?”

Gaunt phu nhân đáp:

- Xin cha cứ đánh ngay con còn hơn.

Ngài hầu tước vẫn có cái thú thỉnh thoáng hành hạ vợ con như vậy. Lão nói:

- Chị Blanche ơi, tôi là một người thượng lưu, nếu có mó tay vào đàn bà thì chỉ là để vuốt ve mà thôi. Tôi chỉ muốn sửa chữa cho chị vài lỗi lầm nhỏ. Giống đàn bà các chị kiêu ngạo lắm, chẳng hiểu thế nào là khiêm tốn, thật đáng buồn, nếu cha Mole có ở đây, chắc cũng sẽ khuyên Steyne phu nhân như vậy. Không nên làm bộ làm tịch, hãy nên tỏ ra khiêm tốn ngoan ngoãn, các quý bà thân mến ạ. Steyne phu nhân biết đấy; bà Crawley, người đàn bà giản dị vui tính bị thiên hạ gièm pha ấy, hoàn toàn vô tội... còn trong trắng hơn cả chính phu nhân nữa. Tính tình anh chồng không được tốt thật, nhưng cũng tương tự như ngài Bareacre nhà ta thôi; ngài đánh bạc không ít. Bố chị chẳng đã cướp đứt phần gia tài của chị, bắt tôi phải đeo lấy cái nợ là gì? Bà Crawley tuy không phải là dòng dõi cao sang, nhưng xuất thân cũng chẳng kém gì tổ tiên chị Fanny, người sáng lập ra nhà ngân hàng Jones đâu.

George phu nhân vội kêu lên:

- Thưa cha, món hồi môn của con đem về gia đình nhà ta...

Lão hầu tước mỉa mai đáp:

- Thì chị đã dùng để mua quyền kế thừa sau này đấy. Nếu thằng Gaunt chết, chồng chị sẽ được hưởng của nó; đàn con chị cũng vậy và còn được nhiều thứ khác nữa chứ. Thôi, bây giờ chỉ xin các bà cứ tha hồ mà kiêu ngạo làm ra vẻ đức hạnh ở nơi khác, nhưng với tôi thì đừng có giở trò. Riêng đối với bà Crawley thì tôi sẽ không cần nói tới chuyện bênh vực, vì như vậy là tự hạ phẩm giá của tôi, cũng như bôi nhọ danh dự của người đàn bà hết sức đứng đắn ấy. Chỉ cần các bà vui lòng tiếp đãi người ta thật niềm nở như vẫn tiếp đãi mọi khách khứa thường ra vào nhà này.

- Nhà này ư?

Lão cười ầm lên:

- Ai là chủ nhà này nhỉ? Nhà này là thế nào? Xin thưa, ngôi đền đức hạnh này là thuộc quyền tôi đấy ạ. Giả sử tôi ưng mời cả Newgate () hay cả Bedlam ()về chơi, mẹ kiếp... cũng phải tiếp đãi cho thật chu đáo.

Hầu tước Steyne vẫn ăn nói sỗ sàng với bầy “tỳ thiếp” của lão như vậy mỗi khi họ dám hé lộ thái độ phản kháng. Lập tức mấy vị phu nhân cụp đuôi lại vâng lời ngay. Gaunt phu nhân đành viết thiếp mời theo ý bố chồng, đoạn cùng bà mẹ chồng đích thân cho đánh xe ngựa đem đến nhà Rebecca, tuy trong lòng rất đau khổ nhục nhã. Nhận được thiếp mời, người phụ nữ ngây thơ ấy sung sướng không tả được.

Ở Luân đôn có những gia đình chỉ mong được hưởng vinh dự nhận thiếp mời từ tay những bậc mệnh phụ như thế dù mất một nửa gia tài cũng không tiếc. Thí dụ bà Frederick Bullock chẳng hạn; bà rất sẵn sàng quỳ lê từ May Fair đến tận phố Lombard nếu được Steyne phu nhân và Gaunt phu nhân đón chờ nâng dậy bảo: “Thứ sáu đến chơi tôi nhé”. Đây không phải là những buổi tiếp tân xô bồ, những buổi dạ hội ồn ào tổ chức tại lâu đài Gaunt mà ai cũng đến dự được đâu; đây là những cuộc họp mặt thân mật, bí hiểm, tuyệt diệu. Được mời dự là một đặc ân, một vinh dự, một hạnh phúc.

Gaunt phu nhân với tính kiêu kỳ, với đức hạnh trong trắng, lại có sắc đẹp, chiếm một địa vị nổi bật trong Hội chợ phù hoa. Trước mặt người ngoài, hầu tước Steyne bao giờ cũng đối đãi với con dâu hết sức nhã nhặn, khiến cho kẻ khó tính nhất và hay soi mói nhất cũng phải công nhận lão là một nhân vật thượng lưu hoàn toàn và quả thật có con mắt biết người biết của.

Mấy vị phu nhân ở lâu đài Gaunt mời Bareacre phu nhân sang trợ lực để cùng đánh bại kẻ thù chung. Gaunt phu nhân cho đánh một chiếc xe ngựa sang phố Hill để triệu bà mẹ tới, vì đồn rằng bọn mõ toà đã quyền trữ tất cả xe ngựa, áo sống và đồ trang sức của bà; cái bọn Do Thái tàn nhẫn này hiện nắm trong tay cả toà lâu đài Bareacre với những bức tranh quý giá, những đồ đạc đắt tiền và những đồ chơi mỹ thuật. Những bức hoạ tuyệt diệu của Vandykes, của Reynolds, và những bức chân dung của Lawrence, màu sắc loè loẹt, có vẻ đẹp lắm: ba mươi năm nay ai cũng cho là những tác phẩm của một thiên tài chân chính; lại cả một bức tranh vẽ nữ thuỷ thần đang múa của hoạ sĩ Canova do chính Bareacre ngồi làm mẫu hồi còn trẻ... Hồi ấy, Bareacre phu nhân còn có địa vị, có của cải và đẹp lộng lẫy, đâu phải là một bà già móm răng rụng tóc như bây giờ... Bây giờ bà chỉ còn là một mảnh giẻ rách còn sót lại của tấm áo dạ hội ngày xưa. Một bức tranh khác vẽ đức phu quân đang khoa lưỡi kiếm trước lâu đài Bareacre trong bộ quân phục đại tá đoàn kỵ binh Thistlewood. Bây giờ lão cũng chỉ là một ông già khẳng khiu, nhăn nheo khoác tấm áo choàng và đội mớ tóc giả kiểu Brutus; sáng sáng lão vẫn lỉnh ra ngồi ở quán rượu Grey và quen ngồi ăn trưa một mình ở câu lạc bộ. Ít lâu nay lão không thích cùng ăn với hầu tước Steyne nữa. Hồi còn trẻ hai người cùng đua ăn chơi, Bareacre vẫn là tay sành hơn. Nhưng vì Steyne lại trường lưng hơn nên rồi cuối cùng cũng vẫn cứ thắng. Bây giờ lão hầu tước còn tráng kiện gấp mười lần vị hầu tước Gaunt trẻ tuổi hồi năm 1785. Thế mà Bareacre đã già sóc, ốm yếu và phá sản rồi. Lão nợ Steyne nhiều tiền quá, thấy mình gặp mặt bạn luôn có điều không tiện. Mỗi lần muốn đùa chơi, hầu tước Steyne lại hỏi Gaunt phu nhân sao không thấy ông bố sang thăm con gái? Lão bảo: “Bơn tháng nay chưa nom thấy mặt ông cụ, cứ xem cuốn sổ ngân phiếu tôi cũng biết cụ Bareacre sang bao nhiêu lần. Này các bà, kể cũng hay đấy chứ, tôi có hai con trai, thì bố vợ của một đứa là chủ ngân hàng của tôi, còn tôi lại là một chủ ngân hàng của bố vợ đứa kia!”.

Truyện này không muốn viết nhiều về những nhân vật cao quý mà Becky tiếp kiến buổi ra mắt đầu tiên với giới thượng lưu.

Có quận công Peterwaradin cùng quận chúa; ngài bận áo chèn lưng, bộ ngực phồng ra như ngực quân nhân, tấm huy chương lấp lánh, rực rỡ, cổ đeo giải lụa đỏ của huy hiệu hiệp sĩ dòng “lông cừu vàng”, số là ngài làm chủ rất nhiều đàn cừu. Becky thì thầm với hầu tước Steyne: “Nhìn mặt ông ta em cứ ngỡ tổ tiên ông ta là giống cừu.

Quả thật, ngài quận công có bộ mặt dài ngoẵng, trang trọng và trắng bệch, lại đeo giải đỏ ở cổ, nom y như một con cừu đeo chuông; lại có John Paul Jefferson Jones tiên sinh, tùy viên đại sứ quán Hoa Kỳ, phóng viên của tờ báo “Người mị dân thành Nữu - Ước”; đang bữa ăn, nhân lúc ngớt chuyện, ông này muốn làm vui lòng hầu tước Steyne, bèn hỏi thăm Steyne phu nhân xem ông bạn thân của mình là George Gaunt ở Brazil có vui không? Hồi ở Naples, ông này và George giao thiệp với nhau rất thân mật; hai người đã từng cùng nhau trèo lên đỉnh núi lửa Vesuvius. Ông Jones viết một bài báo kể lại tỉ mỉ cuộc tiếp tân hôm ấy, đăng lên báo “Người mị dân”. Ông dẫn ra tên tuổi, tước vị của hầu khắp mặt thực khách, lại nêu cả tiểu sử sơ lược của những vị khách quan trọng. Ông ta say sưa miêu tả hình dáng các vị khách phụ nữ, cách khoản đãi trong bữa tiệc, vóc dáng và quần áo của bọn gia nhân, lại kể rõ từng món ăn, từng thứ rượu, cũng như cách trang hoàng tủ búp phê và giá trị ước lượng của của bộ bát đĩa. Ông ta tính một bữa tiệc như vậy, phí tổn khoảng từ mười lăm đến mười tám đô la một đầu người. Cho đến gần đây, ông Jones vẫn có thói quen viết thư giới thiệu những người được mình che chở cho hầu tước Steyne, lấy nghĩa rằng mình và vị bá tước đã quá cố vốn là đôi bạn thân. Điều làm ông ta bực mình nhất là có một anh chàng quý tộc trẻ tuổi tầm thường nào đó tên là bá tước Southdown đã dám chơi nước thượng với ông ta trong lúc đi vào phòng tiệc. Ông Jones viết trong bài báo: “Vừa đúng lúc tôi bước tới để trao cánh tay cho một vị phu nhân hết sức xinh đẹp và lịch sự là bà Rawdon Crawley, thì cái anh chàng quý tộc trẻ tuổi kia chen ngay vào giữa phỗng ngay cô Helen() của tôi đi mà không thèm nói một lời xin lỗi. Tôi đành phải đi đoạn hậu với viên trung tá, chồng bà ta, ông này là một quân nhân cao lớn, mặt đỏ ửng, đã chiến đấu oanh liệt ở Waterloo; ông ta có may mắn hơn nhiều bạn đồng đội cũng mặc áo đỏ ở New Orleans (). Mỗi lần anh chàng trung tá phải tiếp xúc với giới thượng lưu quý phái, mặt anh ta đỏ ửng lên như mặt cậu bé mười sáu khi đứng trước mặt các bạn học của em gái. Ta đã biết rằng suốt đời Rawdon chưa hề có dịp làm quen với phụ nữ. Ở câu lạc bộ hoặc ở quán ăn nhà binh, anh ta cũng tỏ ra khá lão luyện đối với bọn đàn ông, có thể thi ngựa, đánh cuộc, hút thuốc lá, hoặc chơi bi-a với những tay cừ khôi nhất. Cũng đã có hồi anh ta đánh bạn với phụ nữ, nhưng ấy là chuyện hai mươi năm về trước; mà những cô này thuộc hàng Marlow vẫn đi lại chơi bời hồi chưa có diễm phúc được lọt vào mắt xanh của cô Hardcastle (). Theo phép lịch sự, bây giờ không phải lúc dẫn tên những cố nhân ấy ra; họ là những người mà bọn trai trẻ chúng ta trong Hội chợ phù hoa vẫn thường va chạm hằng ngày. Ban đêm loại người ấy chen chúc nhau vô số trong các tiệm nhảy la liệt ở công viên Hyde và St.James. Những con người thận trọng, nếu không được là đứng đắn, nhất định không thèm biết đến chốn hành lạc này. Tóm lại, mặc dầu bây giờ trung tá Crawley đã bốn mươi lăm tuổi đầu, anh ta vẫn chưa có dịp tiếp xúc được lấy quá nửa tá đàn bà đứng đắn, không kể cô vợ quý hoá vô song của anh ta. Ngoài cô vợ và người chị dâu dịu dàng là công nương Jane, mà bản tính hiền hậu đã chinh phục được anh ta, thì đàn bà nào anh ta cũng sợ. Hôm đến dự tiệc ở lâu dài Gaunt, chẳng thấy anh ta hé răng, chỉ có một lần nói rằng trời nóng quá. Becky đã định bảo chồng ở nhà, nhưng không lẽ đàn bà đoan chính lại không có đức ông chồng đi theo để bảo vệ cô vợ bé bỏng, nhút nhát trong buổi ra mắt đầu tiên với giới thượng lưu thì coi sao tiện.

Vừa trông thấy mặt Rebecca, hầu tước Steyne vội bước tới nâng bàn tay, cúi chào thật lịch sự, đoạn giới thiệu cô ta với Steyne phu nhân và các con dâu. Các vị phu nhân cũng đưa tay cho khách, nhưng bàn tay bà lạnh ngắt như đá hoa cương.

Tuy thế, Becky vẫn khiêm tốn và tỏ vẻ biết ơn nâng lấy bàn tay bà chủ nhà, cô ta cúi rạp xuống chào thật kiểu cách, ông thầy dạy múa khéo nhất cũng phải khen ngợi; đoạn cô ta lấy lòng Steyne phu nhân bằng cách vẫn đỡ đần cho cha mình, còn cô ta thì vẫn kính mến gia đình hầu tước Steyne từ bé. Thực ra, hồi ông Sharp còn sống, có một lần hầu tước Steyne bỏ tiền mua hai bức tranh của ông; cô bé mồ côi vẫn chưa quên được tấm lòng rộng rãi đó.

Bây giờ Becky mới nhận ra Bareacre phu nhân, cô ta cũng cúi chào rất lễ độ, bà kia chào giả với thái độ lạnh lùng, kiêu kỳ.

Becky lấy giọng thật ngọt ngào nói:

- Mười năm trước đây, chúng tôi đã có dịp biết đến phu nhân ở Brussels. Chúng tôi đã có hân hạnh gặp Bareacre phu nhân trong buổi dạ hội do Quận chúa Richmond tổ chức đêm trước hôm xảy ra trận Waterloo. Chúng tôi còn nhớ phu nhân và lệnh ái là công nương Blanche ngồi trong xe đỗ ngoài cổng khách sạn, chờ mua ngựa về. Hy vọng rằng số kim cương của phu nhân không bị thất lạc chứ ạ?

Mọi người đưa mắt nhìn nhau; ai cũng rõ rằng những viên kim cương nổi tiếng của bà này đã bị quyền trữ, nhưng Becky không biết tí gì. Rawdon Crawley và bá tước Southdown dắt nhau lảng ra đứng bên cửa sổ; nghe Rawdon kể lại chuyện Bareacre phu nhân cậy cục mua ngựa ngày trước và bị vợ mình chơi khăm cho một vố.

Bá tước Southdown rũ ra cười. Becky nghĩ thầm: “Có lẽ mình cũng cóc sợ mụ này”. Bareacre phu nhân lấm lét đưa mắt nhìn con gái, vừa giận vừa sợ, đoạn lủi ra ngồi bên một cái bàn, giả bộ chăm chú xem một tập tranh ảnh.

Khi vị quý khách vùng Danube đến, mọi người bắt đầu dùng tiếng Pháp để nói chuyện. Bareacre phu nhân và mấy người phụ nữ còn trẻ càng bực tức hơn vì thấy bà Crawley nói tiếng Pháp thạo quá, giọng nói hay hơn họ nhiều.; lúc cùng đi sang phòng ăn, hai vợ chồng viên quận công cứ hỏi đi hỏi lại mãi hầu tước Steyne và phu nhân rằng không biết cái bà bé nhỏ xinh xình kia là ai mà nói tiếng Pháp hay thế. Cuối cùng cuộc diễu hành đã diễn ra như nhà ngoại giao người Hoa Kỳ miêu tả; mọi người bước sang phòng tiệc. Giữ đúng lời hứa, tác giả xin để các bạn đọc tuỳ ý lựa chọn món ăn theo sở thích.

Ăn xong, đến lúc các bà ngồi một mình trong phòng khách. Becky biết rằng bây giờ cuộc chiến đấu mới đến lúc gay go. Lâm vào một tình trạng gay cấn nên cô thấm thía lời hầu tước Steyne dặn dò phải dè chừng thái độ của bọn phụ nữ quý tộc đối với mình. Người ta vẫn bảo rằng ghét người Ailen nhất lại chính là người Ailen, cho nên bọn bạo chúa của phụ nữ cũng chính là cánh đàn bà với nhau. Cô Becky ở lại một mình với bọn đàn bà, bèn mon men đến bên lò sưởi là chỗ mấy vị phu nhân dùng riêng với nhau; lập tức mất bà lảng ra chia khác ngồi quanh một cái bàn xem tranh vẽ.

Becky theo họ ra bàn để tranh ảnh thì họ lại lần lượt đứng dậy đi ra bên lò sưởi. Cô ta định nói chuyện với một đứa trẻ (ở những nơi công cộng bao giờ Becky cũng yêu trẻ) thì lập tức cậu George Gaunt bị mẹ gọi lại. Kẻ lạ mặt bị đối xử một cách tàn nhẫn quá, khiến cho cuối cùng, chính Steyne phu nhân cũng phải thương hại; bà ta bèn bước lại nói chuyện với người đàn bà trơ trọi. Phu nhân nói, đôi má nhợt nhạt chợt ửng đỏ:

- Hầu tước Steyne nói rằng bà hát và chơi đàn hay lắm, phải không, bà Crawley? Rất mong bà vui lòng hát cho chúng tôi nghe một bài.

- Tôi sẵn sàng làm bất cứ việc gì để hầu tước và phu nhân vui lòng.

Thực tâm Rebecca rất cảm tạ nhã ý của Steyne phu nhân. Cô ta ngồi vào cây dương cầm, bắt đầu hát.

Becky hát những bài hát tôn giáo của Mozart và những bài hồi còn trẻ Steyne phu nhân rất thích; mà cô ta hát rất hay, rất du dương, làm cho người đàn bà cứ quanh quẩn mãi bên cây dương cầm; lát sau bà ngồi xuống bên cạnh lắng nghe cô ta hát, nước mắt ứa ra lăn xuống gò má. Bọn đàn bà thù địch ngồi mé bên kia phòng nói chuyện với nhau ầm ầm lên... nhưng Steyne phu nhân không nghe thấy tiếng ồn ào. Bà ta đang sống lại thời thơ ấu, đang lẩn qua bốn chục năm về trước trở về nhà tu kín xưa kia. Xưa kia, cây phong cầm của thánh đường cũng từng vang lên những âm thanh như vậy; người đàn bà chơi phong cầm là một bá tước được bà quý nhất trong nhà tu, đã dạy bà những bài hát ấy trong những ngày thần tiên của tuổi trẻ. Bà ta được sống lại một lần nữa những ngày con gái; trong một lúc đoạn đời ngắn ngủi đầy hạnh phúc xưa lại nở hoa... Nhưng bà bỗng giật mình vì cánh cửa phòng mở tung ra, hầu tước Steyne cười nói oang oang, dẫn mấy người đàn ông vui vẻ bước vào.

Thoáng nhìn, lão hiểu ngay trong lúc mình vắng mặt đã xảy ra chuyện gì; lần đầu tiên lão tỏ ra biết ơn vợ; lão bước lại hỏi chuyện vợ, gọi vợ bằng tên hồi con gái làm cho bộ mặt tái nhợt của bà lại đỏ ửng lên một lần nữa. Lão nói với Becky: “Nhà tôi bảo rằng bà hát hay như thiên thần”. Dĩ nhiên có hai loại thiên thần, mà cả hai loại cùng có cách riêng bắt người ta say đắm.

Tuy phần đầu buổi tối hôm ấy không được tốt đẹp lắm, nhưng phần cuối thì Becky thắng lợi hoàn toàn. Cô ta biểu diễn những bài hát hay nhất của mình, hát hay đến nỗi tất cả đám đàn ông đều vây quanh cây dương cầm mà lắng nghe. Bọn đàn bà thù địch bị bỏ rơi, ngồi chỏng trơ; ông John Paul Jefferson Jones cứ tưởng rằng mình đã chinh phục được cảm tình của Gaunt phu nhân bằng cách lại gần ngỏ ý khen bà bạn đáng yêu của phu nhân sao mà hát hay đến thế.

Chương 50
BỮA ĂN BA MÓN VÀ MỘT MÓN TRÁNG MIỆNG (2)

Bây giờ xin Nàng thơ là nguồn cảm hứng của cuốn truyện khôi hài này hãy tạm rời bỏ những chỗ gió mây cao xa nơi thường bay lượn mà vui lòng hạ xuống đậu trên nóc nô nhà thấp lè tè của ông John Sedley ở Brompton xem cuộc sống ở đây diễn ra thế nào.

u gái nói chuyện gì bà cũng nghe ra giọng bóng gió toàn những chuyện đe doạ với bắt nợ. Cô bé Clapp bây giờ đã thành một thiếu nữ; cô bị bà Sedley lên án là một con bé hỗn láo mất dạy không chịu được. Bà không sao tưởng tượng nổi vì lẽ gì mà Amelia quý cô bé đến thế, cứ cho cô bé quanh quẩn cả ngày trong phòng, lại đi chơi với cô ta luôn. Sự túng thiếu quả đã đầu độc đời sống của người đàn bà xưa kia vốn vui tính và tốt bụng. Thấy Amelia đối với mình vẫn một mực dịu dàng thuần thục, bà thờ ơ như không, lại còn giễu cợt cô vì cứ muốn lựa ý cho mẹ vui lòng. Bà đay nghiến cô vì tội quá chăm nom thằng con trai mà bỏ quên cha mẹ. Từ ngày Joe rút số tiền trợ cấp, gia đình chú bé Georgy không được vui vẻ lắm; sự đói rách đang đe doạ mọi người trong nhà.

Amelia bóp óc nghĩ mãi tìm cách tăng thêm phần nào số lợi tức chết đói của gia đình. Có thể dạy học được không nhỉ? Hay là vẽ bưu ảnh, làm hàng thêu? Cô đã thấy nhiều người đàn bà khéo tay hơn cô làm đầu tắt mặt tốt cả ngày mà chỉ được hai penni. Một hôm Amelia đi mua hai tấm bìa Bristol có khung kim nhũ về ra sức vẽ thật đẹp... một cái vẽ một người thanh niên mục đồng mặc áo gi lê đỏ, mặt hồng hào tươi cười nổi bật trên nền phong cảnh vẽ chì... cái kia vẽ một thiếu nữ mục đồng dắt một con chó con đi qua một cái cầu, đánh bóng thật khéo. Đoạn cô đem đến hiệu mỹ nghệ phẩm Brompton, chỗ đã mua hai tấm bìa, hy vọng ông chủ hiệu sẽ mua lại. Lão nhìn thấy hai tác phẩm nghệ thuật ấu trĩ, không sao giấu được nụ cười giễu cợt. Lão liếc mắt nhìn người đàn bà vẫn đứng chờ ở ngoài cửa hàng rồi gói hai bức tranh vào giấy dầu trả lại cho người đàn bà goá cùng đi với cô Clapp; cô này chưa bao giờ thấy ai vẽ đẹp như vậy; yên trí rằng ít nhất ông chủ hiệu cũng phải trả tới hai trăm đồng ghi nê. Hai chị em lại mang dạm bán ở các cửa hiệu khác trong thành phố, trong bụng vừa lo lắng, vừa hy vọng. Người thì đáp: “Không mua những thứ này”, kẻ thì gắt lên: “Ra đi!” Thế là mất toi ba mươi sáu penni. Hai bức tranh được đem về treo trong phòng ngủ của cô Clapp; cô thiếu nữ vẫn tin là tranh vẽ khéo nhất đời.

Amelia suy nghĩ thật cẩn thận rồi nắn nót viết một tấm biển quảng cáo thật đẹp, nội dung thế này: “Một phụ nữ đứng đắn có chút thì giờ rảnh, muốn tìm việc dạy các em gái nhỏ học tiếng Anh, tiếng Pháp, địa lý, lịch sử và âm nhạc... Hỏi bà Amelia Sedley, tại nhà ông Brown”. Cô đem tấm ảnh đến hiệu mỹ nghệ phẩm Brompton được lão chủ cho dựng nhờ trên quầy hàng; được vài hôm tấm ảnh bị bụi bám cáu đen lại. Nhiều lần Amelia vẫn lảng vảng qua cửa hiệu, hy vọng rằng lão chủ có tin mừng báo cho chăng, nhưng chẳng bao giờ thấy lão ra hiệu gọi vào. Mấy lần đến hiệu mua vài thứ lặt vặt, lão cho biết chả có tin tức gì. Thương hại thay người thiếu phụ dịu dàng yếu đuối kia, làm sao chống đỡ cho lại được với cuộc sống phũ phàng?

Mỗi ngày Amelia càng thêm rầu rĩ héo hon. Cô cứ trân trân ngó con trai với đôi mắt đầy lo lắng: thằng bé hiểu sao nổi ý nghĩa cái nhìn ấy. Có đêm, cô choàng thức dậy, rón rén bước ra ghé nhòm vào căn phòng của con xem thằng bé ngủ yên hay là bị bế trộm đi rồi. Hồi này cô ít ngủ lắm, lúc nào tâm trí cũng bị một nỗi lo lắng ám ảnh. Có những đêm dài dằng dặc bốn bề lặng ngắt, cô ngồi khóc và cầu nguyện... Cô đã cố gắng bao nhiêu để xua đuổi ý tưởng phải xa cách đứa con, nhưng vô hiệu. Ý nghĩ ấy vẫn cứ trở lại trong tâm trí, vì cô thấy mình là bức tường duy nhất ngăn cách con trai với sự sung túc. Không thể xa con được. Không sao xa con được! Ít nhất là hiện nay; có thể là một ngày nào đó sau này. Ôi! Nhưng mới nghĩ đến mà đã không sao chịu đựng nổi.

Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu Amelia khiến cho cô đỏ mặt và bối rối... nếu chịu lấy viên mục sư làm chồng thì bố mẹ cô vẫn có thể sử dụng số lợi tức của cô mà con trai lại có nơi nương tựa chắc chắn; nhưng nhớ đến George và nhìn tấm hình chồng treo trên tường cô lại tự trách mình. Tình yêu và sự e lệ không cho phép cô hy sinh; cô run rẩy, lánh xa điều ấy như lánh xa một tội lỗi. Những ý tưởng như vậy làm sao có thể có được ở con người trong trắng hiền hậu như Amelia?

Cuộc đấu tranh này ta chỉ miêu tả bằng một vài dòng nhưng thực tế đã kéo dài suốt mấy tuần lễ trong tâm trí Amelia. Trong thời gian này, cô không biết thổ lộ tâm tình với ai, mà cô cũng không có ai là tri kỷ. Mỗi ngày cô lại lùi thêm một bước trước kẻ địch đang tấn công mình, nhưng cô vẫn không chịu thú nhận rằng mình đành phải đầu hàng. Nhưng sự thực tàn nhẫn hằng ngày liên tiếp nhau lặng lẽ đè nặng lên tâm trí cô, rồi ở lỳ đó. Cả gia đình phải chịu cảnh túng đói, nheo nhóc, bố mẹ bị thiếu thốn, bị khinh rẻ, con trai bị đối xử bất công, từng vị trí một, những công sự ngoại vi của toà thành bị vây hãm mất dần, nhưng trong thành tấm linh hồn đáng thương kia vẫn say sưa ấp ủ kho báu duy nhất của mình.

Khởi đầu cuộc chiến đấu, Amelia đã viết một bức thư, lời lẽ ngọt ngào, khẩn khoản, gửi cho anh trai ở Calcutta; cô xin anh đừng rút món tiền trợ cấp trước vẫn gửi cho cha mẹ, lại miêu tả bằng những lời lẽ bi đát tình trạng túng thiếu trơ trọi của gia đình.

Nào có biết đâu sự thực khác hẳn. Joe vẫn gửi về đều đặn số tiền trợ cấp hằng năm; nhưng bây giờ người nhận tiền lại là một lão cho vay lãi ở khu City. Ông già Sedley đã “bán lại” món tiền trợ cấp đồng niên ấy lấy một số tiền để đeo đuổi công cuộc kinh doanh vô vọng của mình. Emmy tính khoảng thời gian từ lúc gửi thư đi đến lúc nhận được thư trả lời. Cô đã ghi ngày gửi thư vào trong một quyển sổ tay. Nhưng cô không hề cho viên thiếu tá cha đỡ đầu của Georgy biết tí gì về những nỗi lo lắng ưu tư của mình. Từ buổi viết thư chúc mừng anh ta sắp cưới vợ, cô chưa viết thư cho Dobbin. Cô bạn duy nhất đã tận tình săn sóc cô... bây giờ cũng xa lắm rồi.

Một bữa hai bố con ông Sedley có dịp ngồi một mình với nhau; hôm ấy, sự bế tắc đã đến tột cùng; chủ nợ thúc tiền, bà mẹ thì chỉ những than với khóc, ông bố lại càng rầu rĩ hơn mọi ngày, người nọ tránh mặt người kia vì người nào cũng bận theo đuổi những ý nghĩ riêng đang giày vò mình. Amelia muốn an ủi cha, bèn kể lại việc mình viết thư cho Joe... chắc chắn độ ba bốn tháng nữa thế nào cũng có thư trả lời. Joe tuy vô tâm, nhưng vẫn là người rộng rãi. Biết cha mẹ đang gặp cảnh quẫn bách, lẽ nào anh ta lại từ chối không giúp đỡ?

Bấy giờ ông già mới kể hết sự thật với con gái, rằng con trai ông vẫn trợ cấp chu đáo, nhưng ông dại dột đem “đổ xuống sông xuống biển” cả rồi. Ông không dám nói thực việc này sớm hơn.

Trong khi ông run run thú thực với con, ông thấy vẻ mặt Amelia tái nhợt như trách ông sao lại hành động giấu giếm như vậy. Ông quay mặt đi chỗ khác, cặp môi run run, nói:

- Ồ, chắc bây giờ con khinh ba lắm nhỉ?

Amelia khóc nấc lên, ôm lấy cổ cha, hôn lấy hôn để đáp:

- Ba ơi, không phải thế đâu. Bao giờ ba cũng thương chúng con, chẳng qua ba muốn cho con được sung sướng đấy thôi. Con không buồn vì thiếu tiền đâu...Con buồn vì...Trời đất ơi! Xin hãy thương tôi, ban cho tôi đủ sức chịu đựng sự thử thách này.

Cô lại hôn cha thật âu yếm rồi bỏ đi. Ông bố vẫn chưa hiểu con gái định nói gì, vẫn chưa biết vì sao con gái lại có vẻ đau khổ lúc bỏ đi như thế. Thì ra Amelia đã chịu đầu hàng trước hoàn cảnh khó khăn rồi: cô đã nghe xong lời tuyên án. Đành phải rời bỏ đứa con trai cho người khác vậy thôi... nó sẽ quên mẹ nó. Đứa con trai mà cô coi như trái tim, như kho báu... đứa con trai là niềm vui, là nguồn hy vọng, là tình yêu mà cô thờ phụng gần như một vị thần. Vậy mà đành phải từ bỏ nó... bây giờ chỉ còn một việc là theo George sang thế giới bên kia mà thôi, rồi từ trên thiên đường, hai vợ chồng sẽ theo dõi đứa con trai yêu quý để chờ ngày cùng nó xum họp.

Amelia chùm mũ lên đầu, gần như không biết mình đang làm gì; cô bước ra ngoài, men theo những đường phố thường ngày Georgy vẫn đi ở trường về; cũng trên những đường ấy cô vẫn đi đón con. Hồi ấy đang tháng năm, Giory được nghỉ nửa ngày; cây cối đầy những búp lá non, bầu trời sáng sủa quang đãng. Thằng bé trông thấy mẹ chạy vội lại, miệng líu ho hát, mặt mũi hồng hào, khoẻ mạnh; tập vở buộc dây đeo lủng lẳng bên sườn.

Con trai đây rồi, cô giang hai tay ôm ghì lấy nó. Không thể thế được! Không sao đành lòng rời bỏ nó cho được! Thằng bé hỏi mẹ: “Mẹ ơi, mẹ làm sao thế? Mặt mẹ tái đi kia kìa?” Amelia nói: “Không sao cả con ạ”, rồi cúi xuống hôn con.

Đêm hôm ấy, Amelia bảo con đọc truyện Samuel cho mình nghe. Chuyện kể rằng mẹ Samuel và Hannah cai sữa cho con xong, bèn đem nó đến cho vị đạo trưởng Eli để dạy dỗ nó trở thành một giáo sĩ của Chúa. Georgy đọc lời thánh ca, lời Hannah xưng tụng ơn Chúa: “Thượng đế tuỳ ý khiến mọi người được giàu nghèo. Chỉ người mới có uy quyền cho vinh hay bắt nhục. Người có sức nâng kẻ nghèo lên từ nơi khổ cực. Và nếu không nhuần gội ơn Người, nào ai có được sức mạnh trên đời”.

Câu chuyện còn kể rằng Samuel được mẹ may cho một tấm áo nhỏ; hàng năm bà mang đến cho con khi đến làm lễ hiến tế ở đền thánh. Amelia lấy lời lẽ ngọt ngào giản dị giảng cho con nghe ý nghĩa của câu chuyện cổ, cho con hiểu rằng mặc dầu Hannah quý con trai vô cùng, bà vẫn phải xa con vì tôn trọng lời nguyền cũ; khi ngồi nhà may áo, xa cách đứa con yêu dấu, chắc bà nghĩ đến nó rất nhiều; còn Samuel hẳn cũng không bao giờ quên mẹ; khi được gặp lại đứa con đã khôn lớn (thấm thoát cũng chẳng bao lâu), chắc bà Hannah sung sướng không biết ngần nào. Amelia cố giữ nước mắt khỏi rơi khi lấy giọng ngọt ngào trang nghiêm giảng cho con nghe, nhưng đến đoạn hai mẹ con Samuel gặp lại nhau thì cô nghẹn lời, không nói được nữa, trái tim dường như vỡ ra từng mảnh; cô ghì chặt con vào ngực, bồng con lên tay mà đu đưa, và lặng lẽ nhỏ những dòng nước mắt cao quý của tấm lòng người mẹ hy sinh vì chí đã quyết, người đàn bà goá bắt đầu sửa soạn những công việc coi là cần thiết để thực hiện ý định của mình.

Một hôm cô Osborne ở khu phố Russell nhận được thư của Amelia (đã mười năm nay Amelia chưa hề cầm bút viết lại số nhà và tên phố nơi ở cũ... vì hễ cầm bút định viết thì cả cuộc đời thiếu nữ những chuyện đã qua lại sống lại trong tâm tưởng); cô đỏ cả mặt lên, ngước nhìn ông bố đang rầu rĩ ở chỗ thường ngày mé đầu bàn.

Bằng những lời đơn giản, Amelia kể lại trong thư vì sao mình thay đổi ý định, không giữ con ở với mình nữa, vì không may cha cô lại mới gặp tai hoạ, bây giờ phá sản hoàn toàn rồi. Số tiền lợi tức của cô ít ỏi quá, chỉ vừa đủ để trợ cấp cho cha mẹ nên không sao lo việc ăn học của Georgy cho tử tế được; dẫu rằng xa con cô đau khổ vô cùng, cô cũng cầu Chúa ban cho cô đủ sức chịu đựng, mong con được hưởng hạnh phúc; cô hiểu rằng con trai sẽ đến ở với những người sẵn sàng làm bất cứ điều gì để nó được sung sướng. Cô tả lại tình hình thằng bé theo sự tưởng tượng của mình, nghĩa là nghịch ngợm, không chịu câu thúc, không ưa nặng lời, thích được chăm nom vuốt ve. Trong phần tái bút, cô còn ghi thêm rằng muốn có một tờ giấy cam kết cho phép cô gặp con luôn luôn.... Cô quyết không chịu xa con, nếu không có điều kiện này.

Nghe cô Osborne run run đọc hết lá thư, ông Osborne nói:

- Thế nào, bà kiêu kỳ chịu khuất phục rồi à? Sắp chết đói, hả? Ha, ha! Tao đã biết mà!

Ông cố gắng giữ thái độ kiêu ngạo, cứ chăm chú đọc báo như cũ nhưng không sao bình tĩnh được. Ông vừa khúc khích cười, vừa rủa thầm sau tờ báo. Cuối cùng ông phải quẳng tờ báo xuống bàn, rồi vẫn như mọi lần, ông cau mặt nhìn con gái và bỏ đi vào căn phòng làm việc bên cạnh; lát sau, ông mang một chiếc chìa khoá lại, ném cho cô Osborne, bảo:

- Lên sửa soạn sẵn cái phòng mé trên phòng của tao... phòng của nó ngày trước ấy.

Cô con gái run rẩy đáp:

- Thưa ba, vâng.

Căn phòng này trước kia là của George. Hơn mười năm nay cửa phòng chưa mở ra lần nào. Trong phòng vẫn để nguyên một số đồ vật như quần áo, giấy má, khăn tay, roi ngựa và mũ, có một bộ cần câu và những dụng cụ săn bắn, lại có một tập niên giám của quân đội năm 1814 ngoài bìa có ghi tên Osborne, một cuốn từ điển nhỏ, anh ta thường tra cứu khi viết và một tập kinh thánh của bà mẹ cho; tất cả vẫn đặt trên mặt lò sưởi, cùng một đôi cựa gót giày và một lọ mực đã khô cạn dưới lớp bụi của mười năm trời đằng đẵng. Trên mặt bàn vẫn còn một quyển vở chi chít những dòng chữ của George viết.

Lúc cùng mấy người hầu mới đặt chân vào trong phòng, cô Osborne bồi hồi xúc động quá; cô nằm vật lên chiếc giường nhỏ, mặt tái nhợt đi. Bà quản gia nói:

- Thật là một tin mừng đấy thưa cô...thật đấy, thưa cô...bây giờ nhà ta lại vui vẻ như xưa nhỉ, thưa cô... chắc chú bé sắp về, thôi thì tha hồ mà sung trong! Rồi khối người ở May Fair phải ghen tỵ với chú đấy thưa cô.

Bà ta rút chiếc then gài cánh cửa sổ, một luồng không khí ùa vào trong phòng.

Trước khi đi, ông Osborne bảo con gái:

- Con nên gửi cho chị ta một ít tiền. Không được để nó thiếu thốn một thứ gì. Cho nó một trăm đồng.

Cô Osborne hỏi:

- Thế mai con đến thăm chị ấy nhé.

- Cái đó tuỳ cô, nhưng nhớ không được cho nó lại đây, không bao giờ, mẹ kiếp! Nó đến mà cả Luân đôn đổ của vào nhà này tao cũng không chịu. Nhưng bây giờ hãy chu cấp cho nó đầy đủ. Liệu mà thu xếp cho ổn thoả đấy.

Ông Osborne dặn dò vắn tắt mấy câu như vậy rồi đi đến khu City làm việc như thường lệ.

Tối hôm ấy, Amelia ôm lấy ông bố già nua mà hôn, rồi đặt vào bàn tay ông lão một tấm giấy một trăm đồng, nói:

- Có tiền đây rồi, ba ạ.. Còn còn.. má ơi, má đừng gắt với Georgy nữa nhé; cháu nó... cháu nó không còn ở đây lâu với chúng ta nữa đâu.

Cô nghẹn lời, không nói thêm được, lặng lẽ bước về phòng.

Chúng ta cũng nên đóng cánh cửa đó lại để khỏi nghe thấy lời cầu nguyện và chứng kiến nỗi đau khổ của cô. Tôi nghĩ tốt nhất là không nên nói nhiều về tình thương yêu con và nỗi lòng chua xót của cô làm gì.

Hôm sau theo đúng lời hẹn trong thư, cô Osborne đến thăm Amelia. Hai người tỏ ra thân mật với nhau. Xét cái nhìn và nghe vài câu nói của cô Osborne, người đàn bà goá đáng thương này thấy ngay ít nhất cũng không bị cô ta chiếm mất địa vị của mình trong trái tim con trai. Cô Osborne tính tình lạnh lẽo, nhưng cũng biết xúc động và tốt bụng. Giả sử kẻ địch lại còn trẻ và xinh đẹp, tính tình cởi mở, nồng nàn hơn thì có lẽ người mẹ cũng không yên tâm lắm.

Về phần cô Osborne, thấy người đàn bà goá lâm vào hoàn cảnh đáng thương, cô nhớ đến những chuyện cũ, cũng lấy làm động tâm. Người mẹ khốn khổ đã hạ khí giới đầu hàng rồi, hôm ấy hai người sắp đặt với nhau những chi tiết sửa soạn cho việc đầu hàng.

Hôm sau nữa, Georgy được nghỉ học để gặp mặt cô nó. Amelia mặc hai cô cháu trò chuyện với nhau, bỏ vào trong phòng nằm. Cô muốn tập chịu đựng cảnh xa con... cũng giống công nương Jane Grey đã đưa tay sờ thử lưỡi búa sắc bén trước khi để cho nó hạ xuống cắt đôi cuộc đời mỏng manh của mình. Ngày nọ qua ngày kia, những cuộc thăm hỏi bàn bạc, sửa soạn cứ tiếp tục diễn ra. Amelia báo tin cho con biết một cách hết sức thận trọng. Cô cứ tưởng thằng bé hay tin phải bị xúc động mạnh lắm; trái lại nó tỏ vẻ hí hửng; người mẹ đáng thương buồn bã quay mặt đi. Hôm ấy thằng bé đến trường huênh hoang kháo lại tin mừng với các bạn học, rằng nó sắp về với ông nó, ông nội sinh ra cha nó chứ không phải ông ngoại thỉnh thoảng vẫn đến trường đâu; nó sắp có vô khối tiền, sắp đi xe ngựa, sắp có ngựa để cưỡi đi chơi, sắp đi học ở trường to hơn; bao giờ có tiền nó sẽ đi mua một hộp bút chì màu và mua bánh rán ăn thoả thích. Người mẹ thương con thấy tính nó sao giống bố như đúc.

Vì tôn trọng sự đau khổ của Amelia, chúng ta không nỡ tả lại tỉ mỉ những ngày cuối cùng Georgy còn ở cùng với gia đình.

Và ngày ly biệt đã tới; một chiếc xe ngựa đến đỗ ở cửa. Hành lý đơn giản của Georgy chỉ gồm toàn những vật kỷ niệm, đã để sẵn từ trước ngoài phòng khách... Georgy bận bộ quần áo mới mà người thợ may đã tới từ mấy hôm trước để đo may. Mặt trời mới rạng, nó đã nhảy bổ từ trên giường xuống, lấy quần áo mới ra mặc. Mẹ nó nằm ở phòng bên lắng nghe con sửa soạn, không nói gì, nhưng lòng đau thắt lại. Bao nhiêu ngày qua cô đã chờ đợi buổi hôm nay, nào sắm sửa các thức vặt vãnh cho con, đánh dấu sách vở và áo quần của thằng bé, chuyện trò với nó cốt cho nó quen dần với sự thay đổi sắp xảy ra...Cô yên trí rằng con trai cần được sửa soạn chu đáo như vậy. Đối với thằng bé, thay đổi thì thay đổi, nó cần gì? Nó càng thích. Những câu trả lời khi mẹ nó hỏi về với ông sẽ làm gì khiến cho người đàn bà góa đáng thương thấy rõ con trai mình không vì cuộc ly biệt mà buồn khổ bao nhiêu. Nó bảo: “Con sẽ cưỡi ngựa về thăm mẹ luôn, con sẽ ngồi xe ngựa về đón mẹ đi chơi, hai mẹ con sẽ giong xe đi chơi ở công viên, mẹ thích thứ gì, con sẽ mua cho mẹ”.

Người mẹ đáng thương đành bằng lòng với lối biểu lộ tình cảm gắn bó một cách hơi ích kỷ của con trai, vẫn cố tin rằng nó vẫn thực tâm yêu quý mẹ. Cô nghĩ thầm: “Tất nhiên nó phải quý mẹ nó chứ. Trẻ con vẫn thế, đứa nào cũng khát khao cái mới, thằng Georgy không ích kỷ đâu. Nó chỉ tỏ ra có tinh thần tự chủ thôi. Nó có quyền được hưởng hạnh phúc trong cuộc sống. Nếu nó có cao vọng thì lại càng tốt. Cho đến nay, vì tình yêu ích kỷ, dại dột của người mẹ, chính mình đã tước đoạt mất của con trai những quyền lợi chính đáng”.

Đàn bà nhiều khi có thái độ nhút nhát tự hạ mình khiến ta rất cảm động. Họ cam tâm thay chồng nhận hết phần lỗi về mình, bao nhiêu sai trái họ chịu hết, họ tự kết án về những tội lỗi họ không hề phạm, và nhất định che giấu cho kẻ thủ phạm chính thức. Chính những kẻ làm tội đàn bà nhiều nhất lại được họ đối đãi tốt nhất... vì trời sinh ra đàn bà vốn nhút nhát nhưng nanh nọc, kẻ nào tỏ ra quỵ lụy với họ, lập tức bị hành hạ ngay.

Amelia tự chuẩn bị cho việc chia tay với con trai bằng cách câm nín mà đau khổ; cô tập ngồi cô đơn hàng giờ liền để sửa soạn cho con ra đi. Georgy đứng cạnh mẹ, thờ ơ không hề chú ý xem mẹ đang làm gì. Mẹ nó đã nhỏ xuống hòm quần áo của con bao nhiêu giọt nước mắt. Mẹ nó đã lấy bút đánh dấu nhiều đoạn trong những cuốn sách nó thích và cẩn thận gói ghém cho nó đủ các thứ đồ chơi cũ cùng nhiều kỷ vật. Trong khi người mẹ đứt từng khúc ruột thì đứa con ra đi mặt mày hớn hở. Trời đất ạ, nghĩ tội nghiệp thay cho tấm lòng thương con vô ích của những người mẹ trong Hội chợ phù hoa này.

Vài hôm qua đi, sự kiện lớn trong đời Amelia thế là đã xảy ra trọn vẹn. Không có vị thần nào can thiệp mà cứu vãn được, đứa con thế là bị hy sinh, bị giao phó cho số mệnh, và người đàn bà goá từ đó phải sống trơ trọi một mình.

Thằng bé về nhà thăm mẹ luôn luôn. Nó cưỡi một con ngựa non có một bác xà ích ngồi kèm sau lưng; ông Sedley thấy cháu sang trọng thế, thích lắm; ông kiêu hãnh đi kèm bên cạnh nó ngoài phố.

Amelia nhìn con nhưng nó đâu còn là con trai của cô nữa. Thằng bé lại cưỡi ngựa đến thăm cả bạn trẻ cùng học trong ngôi trường nhỏ để phô trương sự giàu có sang trọng mình mới được hưởng. Mới có hai ngày mà nó đã học được cái điệu bộ hơi khệnh khạng và có vẻ bề trên. Me nó nghĩ bụng sao mà nó giống bố nó xưa kia thế, sinh ra như chỉ để chỉ huy người khác.

Hồi này, tiết trời đẹp. Những hôm con trai không về thăm nhà, chiều tối, Amelia còn đi bộ ra tận Luân đôn...Cô đến mãi tận phố Russell, ngồi trên tảng đá bên hàng rào công viên, đối diện với ngôi nhà của ông Osborne. Mặt đá êm ái mát lạnh. Nhìn lên cô trông thấy cửa sổ phòng khách sáng trưng. Và vào khoảng chín giờ tối, cô nhìn lên căn phòng trên gác chỗ Georgy ngủ; cô biết chắc đó là phòng của con - Georgy đã nói cho cô hay. Đèn tắt, cô vẫn ngồi đặt hết tâm hồn vào lời cầu nguyện cho con, rồi lặng lẽ run rẩy bước về. Về đến nhà cô mệt nhoài người; có lẽ sau mỗi cuộc đi mệt mỏi ấy, cô ngủ ngon giấc hơn, và lại có hy vọng gặp Georgy trong mộng.

Một ngày chủ nhật, tình cờ Amelia lại đến khu phố Russell, cách nhà ông Osborne một quãng (nhìn tận từ xa, cô vẫn nhận được ra ngôi nhà ấy); tiếng chuông lễ đổ hồi, hai cô cháu thằng Georgy từ trong nhà bước ra đi lễ nhà thờ. Một thằng bé quét đường đến cạnh xin bố thí; anh người nhà theo hầu cầm sách kinh cho hai cô cháu định đuổi nó đi; nhưng Georgy đứng lại, móc túi lấy tiền cho nó.

Cầu chúa ban phúc lành cho thằng bé! Emmy chạy vòng quanh mé bên kia công viên, đến bên thằng bé quét đường, cũng cho nó một đồng tiền. Chuông nguyện lễ vẫn thi nhau đổ hồi, Amelia cứ đi theo hai cô cháu tới nhà thờ của trại mồ côi thì rẽ vào. Cô tìm một chỗ ngồi để có thể nhìn thấy mặt con trai lấp ló dưới bức phù điêu kỷ niệm cha nó. Tiếng hát trong vắt của hàng mấy trăm đứa trẻ vang lên trong nhà thờ; chúng đang hát bài ca xưng tụng đấng từ bi tối cao. Bài đồng ca khiến cho tâm hồn thằng Georgy run lên vì thích thú. Trong một lúc, mẹ nó không nhìn rõ mặt con vì nước mắt bỗng ứa ra giàn giụa.

Chương 51
MÀN KỊCH ĐỐ CHỮ

Becky được dự vào hàng những quý khách lựa chọn và thân thiết của hầu tước Steyne, thế là coi như nguyện vọng leo lên địa vị thượng lưu đài các đã được thoả mãn. Nhiều toà lâu đài sang trọng đồ sộ nhất ở kinh đô đã sẵn sàng mở cửa tiếp đón cô ta, những toà lâu đài sang trọng quá, kẻ viết truyện này cũng như các bạn độc giả khó lòng có hy vọng len lỏi vào được. Hỡi các bạn, trước những cánh cửa thâm nghiêm ấy, chúng ta hãy run sợ. Tôi cứ tưởng tượng như ngoài cổng vẫn có những tên hầu phòng cầm xiên bạc xiên vào bụng những kẻ nào không được phép mà cứ len lỏi vào bằng được. Họ đồn rằng cái anh phóng viên nhà báo hiền lành ngồi trong phòng lớn ghi tên các vị tai mặt đến dự tiệc, ít lâu sau bỗng nhiên chết thẳng cẳng. Anh ta không thể chịu đựng nổi làn ánh sáng chói chang của giới thượng lưu đốt cháy anh ta, như xưa kia nàng Semele (), một con thiêu thân dại dột đáng thương, đã bị cháy vì dám vượt khỏi môi trường tự nhiên của mình mà ngó thần Jupiter rực rỡ trong bộ áo lửa. Những kẻ thượng lưu lui tới các phòng khách thính ở công viên Tyburnia hoặc công viên Belgravia hãy lấy đó làm bài học... câu chuyên của Semele cũng rất có thể là câu chuyện của Becky. Ôi, hỡi các bậc mệnh phụ... Hãy hỏi Thurifer tiên sinh xem Belgravia có phải chỉ là một tấm biển đồng gõ kêu loong coong và Tyburnia, một chiếc chũm chọe kêu xoang xoảng không. Những chuyện phù phiếm ấy chỉ được một thời. Rồi một ngày kia (nhưng may thay, đến ngày ấy, chúng ta đã không còn nữa) công viên Hyde sẽ không ai buồn đặt chân tới như vườn ở ngoại ô thành Babylon vậy, công viên Belgravia cũng sẽ vắng vẻ như phố Baker và Tadmor trong cảnh hoang vu.Thưa các bà, các bà có biết rằng Pitt đại nhân đã sống ở phố Baker không? Các cụ bà của chúng ta xưa kia mất gì cũng không tiếc, miễn là được mời đến dự bữa biếc đó do Hester phu nhân tổ chức trong tòa nhà ấy mà giờ đây đã đổ nát. Tôi đã từng có dịp dùng cơm tại đấy... chính tôi là kẻ đang nói chuyện với các bạn đây này(). Tôi tưởng tượng khách khứa trong phòng là những bóng ma của bạn bè nhà quý tộc thế lực đã quá cố. Trong khi chúng tôi ngồi uống rượu vang cùng những người đã chết trở về quây quần xung quanh các bàn ăn lạnh lẽo. Vị thuyền trưởng có tài đã vượt qua cơn bão táp đang nốc những cốc rượu mạnh lớn: bóng dáng của Dundas tiên sinh vẫn không chịu rời khỏi ngấn rượu cặn ma quái; Addington ngồi nghiêng đầu cười gằn một cách quái đản; lúc chai rượu được lặng lẽ chuyền tay nhau, ngài cũng không chịu kém cạnh. Scott với đôi lông mày sâu róm cũng nheo mắt nhìn tô rượu cất để lâu năm. Wilberforce () ngước mắt nhìn trần nhà, không để ý rằng cốc rượu nâng lên môi thì đầy mà lúc đặt xuống đã cạn không còn một giọt... Tiên sinh đang chiêm ngưỡng cái trần nhà mới hôm qua vẫn còn trên đầu chúng ta, và đã được bao nhiêu nhân vật tai mặt nhìn ngắm. Bây giờ tòa lâu đài đã biến thành phòng cho thuê rồi. Thưa vâng, Hester phu nhân có hồi đã sống ở phố Baker, bây giờ đang yên giấc giữa nơi hoang vu vắng lặng. Eothen đã trông thấy phu nhân, không phải là ở phố Baker mà là ở giữa một nơi hoang vắng khác.

Hiển nhiên toàn là những chuyện phù hoa, nhưng ai là người chẳng ưa thích đôi chút? Tôi thách vị nào có tính tình cương nghị, ghét được món thịt bò rán bởi lẽ nó không có giá trị vĩnh cửu đấy. Thịt bò rán cũng là một thứ phù hoa, nhưng tôi vẫn mong các vị đọc truyện này mỗi người có một tảng để xơi, dầu tôi có tới năm mươi vạn độc giả. Vậy mời các ngài ngồi vào bàn và ăn cho ngon miệng, món mỡ, món nạc, rồi nước sốt, gia vị, tùy sở thích... xin lấy thêm một miếng sườn rán nhỏ. Phải lắm, hãy ăn cho kỳ thích những thứ phù hoa này và lấy đó làm sung sướng. Còn Becky, hãy mặc cô ta với những thú vui của giới thượng lưu quý tộc, bởi lẽ cũng như mọi trò giải trí của con người, những thú vui ấy không phải là vĩnh cửu.

Việc Becky đến thăm hầu tước Steyne có kết quả ngay. Hôm sau, nhân gặp trung tá Crawley ở câu lạc bộ, ngài quận công Peterwaradin chộp ngay lấy cơ hội để nối lại mối dây trên lạc với anh ta; không những thế, gặp Becky đi chơi ở công viên Hyde, ngài có ngả mũ chào rất lễ độ. Hai vợ chồng Becky lập tức được ngài quận công mời đến dự một buổi tiếp thân mật tại lâu đài Bình Minh.

Ngài ngụ tạm ở đấy trong thời gian vị quý tộc chủ lâu đài vắng mặt ở nước ngoài. Tiệc xong Becky hát cho đám quan khách chọn lọc nghe. Hầu tước Steyne cũng có mặt bữa ấy, lão rất hài lòng theo dõi sự tiến bộ của cô học trò với thái độ che chở.

Tại lâu đài Bình Minh, Becky được tiếp xúc với một nhân vật thượng lưu phong nhã nhất, và cũng là một chính khách có tài nhất châu Âu, tức là quận công de la Jabotiere, hồi này ngài đang lãnh nhiệm vụ đại sứ đặc mệnh của vị Hoàng đế mộ đạo nhất; sau này ngài được Hoàng đế cử làm thượng thư.

Tôi xin công nhận rằng được cầm bút viết tên của những bậc kỳ tài như thế, mũi tôi phổng lên vì kiêu hãnh. Tôi lại phải nghĩ rằng Becky quả có vinh dự được giao tiếp với những con người cao quý biết bao! Cô ta trở thành người khách quen thuộc của tòa đại sứ Pháp, nơi đây không buổi họp mặt nào được coi là hoàn hảo nếu bà Rawdon Crawley xinh đẹp không đến dự.

Các ngài de Truffigny (dòng dõi gia đình Perigord) và Champignac (cả hai đều là tùy viên đại sứ quán) cùng một lúc bị sắc đẹp của bà vợ ông trung tá bắt mất hồn; cả hai theo đúng phong tục của nước họ cùng tuyên bố rằng họ rất “ăn ý” với bà Rawdon xinh đẹp (bởi vì có bao giờ một người Pháp rời khỏi nước Anh mà không để lại sự khổ sở cho hàng tá gia đình và không mang theo trong sổ tay của họ khoảng ngần ấy trái tim?).

Song tôi không tin lời tuyên bố của họ là đúng sự thực.

Champignac vốn mê đánh bài xì, tối tối hay ngồi sát phạt với viên trung tá trong khi Becky hát cho hầu tước Steyne nghe ở phòng bên, còn de Truffigny thì ai mà không biết. Đố lão dám vác mặt đến tiệm rượu “Người du khách”, vì lẽ lão nợ tiền cả bọn bồi bàn; ví thử lão không đến được tòa đại sứ để ăn cơm thì đến chết đói mất. Vậy nên tôi mới ngờ rằng không lẽ Becky chịu chọn hai vị này để lọt vào mắt xanh làm gì. Hai ngài tha hồ mà chạy việc hộ cô ta, nào sắm bao tay, nào mua hoa tặng, lại đi vay công lĩnh nợ mà chuốc vé “lô” rạp Opera mời người đẹp, tìm trăm phương nghìn kế để lấy lòng mỹ nhân. Họ nói tiếng Anh liều lĩnh một cách đáng phục; Becky và hầu tước Steyne nghe mà tức cười. Cô ta vẫn hay làm điệu bộ bắt chước họ ngay trước mặt, lại nghiêm trang ngỏ ý khen họ học tiếng Anh tấn tới trông thấy, làm cho ông thầy hay giễu cợt của cô ta là hầu tước Steyne không sao nhịn được cười. de Truffigny cho bà Briggs một tấm khăn san, định lấy lòng người bạn thân tín của Becky, lão nhờ bà này đưa hộ một lá thư; người đàn bà không chồng chất phác quá, đưa ngay cho chủ trước mặt mọi người. Ai đọc thư cũng phải phì cười. Hầu tước Steyne cũng đọc; tất cả mọi người đều đọc cả, chỉ trừ có anh chàng Rawdon thực thà, mà đối với anh chàng này thì cũng chẳng cần phải kể lại hết mọi việc xảy ra trong căn nhà nhỏ ở khu May Fair. Không những Becky đã giao thiệp với những “đệ nhất phu nhân” ngoại quốc, theo cách nói lóng của giới quý tộc lịch sự chúng ta, mà còn quen thuộc cả những “đệ nhất nhân vật” người Anh nữa. Tôi không có ý muốn nói cô ta quen toàn những người đứng đắn nhất, hoặc không đứng đắn nhất, những người thông minh nhất, hoặc ngu độn nhất, hoặc những người giàu có dòng dõi cao sang nhất; tôi chỉ muốn nói là những “đệ nhất nhân vật”... nói cho gọn tức là những người không có tai tiếng gì...Thí dụ như bậc mệnh phụ Fitz-Willis phu nhân, người bảo trợ đáng kính của tập san quý tộc, Slowbore phu nhân, Grizzel Macbeth phu nhân tục danh là công nương Glowry, con gái bá tước Grey Glowry, v.v. Một khi bá tước Fitz-Willis phu nhân đã che chở cho ai, thì người ấy trở thành bất khả xâm phạm; (phu nhân vốn thuộc dòng dõi gia đình ở khu phố Nhà vua, xin xem cuốn “Debrett”), không ai còn dám nghi ngờ điều gì về họ nữa. Cũng không phải vì Fitz-Willis phu nhân là người hay ho hơn ai; trái lại, phu nhân đã năm mươi bảy cái xuân xanh, cuộc đời đang ngả màu, không đẹp, chẳng giàu có gì, mà cũng không hấp dẫn nổi ai, nhưng ai ai cũng công nhận phu nhân là một “đệ nhất nhân vật”. Hình như vì có mối hiềm khích giữa Steyne phu nhân (nguyên là hồi chưa chồng còn gọi là công nương Georgina Frederica, phu nhân đã có lần tranh địa vị nâng khăn cho hầu tước Steyne mà không được), con người nổi tiếng phong lưu đài các ấy bèn quyết định nâng đỡ bà Rawdon Crawley; trong một buổi họp mặt do mình chủ tọa, thấy Becky, phu nhân bèn cúi chào thật lịch sự, cốt cho mọi người trông thấy. Con trai phu nhân là St. Kitts được hầu tước Steyne giới thiệu, bắt đầu đi lại nhà Rebecca; không những bà khuyến khích con nên chăm lại chơi, mà còn mời Becky lại nhà, và trong bữa tiệc đã hai lần chiếu cố nói chuyện với cô ta một cách ngọt ngào ngay trước mặt công chúng. Đêm hôm ấy, khắp thành phố Luân đôn ai cũng biết chuyện này. Những người quen dài mõm ra mà chê bai bà Crawley vội im thin thít. Wenham, luật sư riêng và cánh tay phải của hầu tước Steyne, đi khắp mọi chỗ để tán dương Rebecca, vài người còn trù trừ, cũng phải bước lên chào mừng cô ta nốt. Anh chàng Tom Toady có lần đã khuyên Southdown chớ nên đi lại với một người đàn bà quá ư tồi tệ như thế, bây giờ lạy van để được giới thiệu với cô. Tóm lại, Rebecce đã chính thức được công nhận đứng trong hàng ngũ những “đệ nhất nhân vật”. Nhưng thưa bạn đọc thân mến, các bạn chớ vội ghen tị với cô Becky đáng thương làm gì... một sự vinh quang như thế chưa chắc đã bền lâu. Người ta vẫn bảo rằng các vị đánh giá trong chốn thâm nghiêm kín cổng cao tường cũng chẳng sung sướng hơn bọn cùng đinh lang thang ở ngoài mấy tí. Chính Becky, kẻ đã từng len lỏi vào giữa giới quý tộc, mặt đối mặt với Hoàng đế George IV, sau này cũng phải công nhận cái đó chẳng qua chỉ là câu chuyện phù hoa hão!

Xin lướt nhanh quan đoạn đời này của Becky. Mặc dầu tôi vẫn tin chắc rằng “Hội tam điểm” chỉ là một trò bịp bợm, nhưng tôi chịu không sao tả được những sự bí mật của tổ chức này, cho nên một kẻ thường dân như tôi không thể nào mà miêu tả cho chính xác bộ mặt của giới thượng lưu quý phái, tốt nhất là nên giữ những ý kiến ấy cho riêng mình.

Lâu lắm về sau này, Becky còn kể lại đoạn đời mình được ra vào những nơi phong lưu đài các nhất tại kinh đô Luân đôn. Cô ta đã hào hứng say sưa vì thắng lợi, nhưng không bao lâu cũng bắt đầu cảm thấy chán. Hồi đầu, không gì thú bằng được luôn luôn tìm tòi những kiểu áo và đồ trang sức mới (việc tư cung cấp những thứ này đối với Rebecca là một chuyện khá gay go, đòi hỏi nhiều tính toán và sáng kiến bởi vì cô ta không sẵn tiền lắm). Được ngồi xe ngựa đi dự tiệc để tay bắt mặt mừng với toàn những người sang trọng; liên tiếp hết những cuộc gặp gỡ này lại đến buổi họp mặt khác, đi đâu Becky cũng gặp toàn những người đã cùng dự tiệc với mình đêm hôm trước, và chắc chắn sẽ gặp lại ngày hôm sau: đại khái là những anh chàng trai trẻ quần áo bảnh bao, thắt cà vạt thật khéo, đi ủng bóng lộn, găng tay trắng tinh..., những ông đứng tuổi bệ vệ, áo khuy đồng bóng loáng, trông quý phái ra phết, lịch sự, nhưng cũng thật vô vị..., những cô thiếu nữ trẻ tuổi tóc vàng, e lệ, bận áo màu hồng..., những bà mẹ to béo, xinh đẹp, lộng lẫy, trang trọng, khắp mình đầy kim cương. Họ nói chuyện bằng tiếng Anh, chứ không nói bằng tiếng Pháp “bồi”, như tả trong tiểu thuyết. Họ moi chuyện nhà chuyện cửa, chuyện người này người khác ra nói với nhau, chẳng khác gì anh Jonesvẫn kháo chuyện nhà bác Smith. Bạn bè cũ của Becky ghen tỵ với cô ta, rồi thù ghét cô ta; nhưng chính cô Becky đáng thương thì đang ngáp dài vì ngán ngẩm. Cô ta tự nhủ : “Mình chỉ muốn đi quách nơi khác. Thà làm vợ một lão mục sư, phải dạy học ngày chủ nhật kiếm cơm còn hơn; hay là làm vợ một bác đội ngồi xe chở hàng đi theo đơn vị cũng xong; hay mặc áo tua rua mà nhảy múa làm trò trong hội chợ không chừng lại thú hơn cũng nên”. Cô ta thường thẳng thắn kể lại cho hầu tước Steyne nghe những điều đắn đo nghĩ ngợi của mình. Lão thú lắm, cười mà đáp:

- Bà làm trò chắc khéo lắm đấy nhỉ!

Becky có vẻ nghĩ ngợi, nói tiếp:

- Rawdon có thể làm một tay mã phu cừ... hoặc một tay phụ trách khánh tiết... gọi là cái gì nhỉ, cái vai bận chế phục, đi ủng to, chạy quanh sân khấu quất roi đen đét ấy mà? Anh ấy cao lớn, bệ vệ, ra dáng nhà binh lắm. Em còn nhớ hồi bé có lần cha em đưa đi hội chợ Brookgreen xem xiếc. Lúc về nhà, em làm một đôi cà kheo, rồi tập nhảy ngay trong phòng vẽ. Bọn học trò của ba em ai cũng phục lăn.

Hầu tước Steyne đáp:

- Tôi cũng thèm được xem bà đi cà kheo lắm.

Becky lại nói :

- Em cũng đang muốn đi cà kheo đây. Blinkey phu nhân và Grizzel phu nhân hẳn tha hồ mà trố mắt ra nhìn. Suỵt! Yên xem. Pasta bắt đầu hát kia kìa.

Bao giờ Becky cũng tỏ ra hết sức lễ độ đối với các nghệ sĩ nhà nghề biểu diễn trong những cuộc họp mặt của giới thượng lưu. Cô ta đến tận góc phòng, chỗ họ ngồi yên lặng, mỉm cười bắt tay họ, cố ý cho mọi người nhìn thấy. Cô ta thẳng thắn tuyên bố rằng chính mình cũng là một nghệ sĩ; có một cái gì khiêm tốn và thành thực trong cách cô ta công nhận dòng dõi tầm thường của mình, khiến cho người đang chứng kiến phải bực mình và cảm thấy bất lực, hoặc thú vị. Người nói: “Coi bộ bà ta mới trơ trẽn chứ! Lẽ ra nên ngồi im một chỗ, được ai chiếu cố hỏi đến là may, thế mà trông đường hoàng quá”. Kẻ bảo: “Trông cũng có mẽ người đứng đắn đấy”. Một người thứ ba nhận xét: “Xem ra mụ này khôn ngoan ra trò chứ chẳng chơi”. Có lẽ họ nói đúng cả. Nhưng Becky vẫn làm theo ý mình, khiến cho bọn nghệ sĩ nhà nghề phục lăn; họ không quản khan cổ, ra sức hát mua vui cho cô ta, và dạy cô ta hát không lấy tiền.

Vâng, Becky cũng tổ chức tiếp tân ngay tại căn nhà nhỏ bé ở phố Curzon. Hàng tá xe ngựa thắp đèn sáng chói đỗ chật cả phố, tiếng chuông báo khách liên tiếp ầm ĩ làm cho nhà số 200 mất ngủ vì tiếng động và nhà số 202 không nhắm mắt được vì ghen tức. Nhà Becky hẹp quá, không đủ chứa bọn đầy tớ cao lớn theo hầu xe của khách khứa, đành phải cho họ ngồi uống bia chờ trong các quán rượu lân cận; khi nào cần sẽ sai thằng hầu ra gọi. Hàng chục tay phong lưu công tử nổi danh ở Luân đôn chen vai thích cánh nhau lên xuống chiếc cầu thang gác chật chội; lại chạm trán nhau ở đây, họ cùng phá ra cười. Vô khối bậc mệnh phụ lịch sự, vốn có tiếng là đứng đắn, điệu bộ nghiêm trang, cũng ngồi trong căn phòng khách bé nhỏ nghe bọn ca công nhà nghề hát oang oang như muốn làm cho cửa sổ vỡ hết. Thế là sáng hôm sau trên báo “Tin tức buổi sáng” ở mục những cuộc hội họp thượng lưu, thấy đăng đoạn văn này:

“Hôm qua, trung tá Crawley và phu nhân đã tổ chức đãi tiệc các vị tân khách chọn lọc tại nhà riêng ở May Fair; quận công Peterwaradin và quận chúa, Papoosh Pasha đại nhân, sứ thần Thổ Nhĩ Kỳ (có ông Kibob Bey, thông ngôn của sứ quán theo hầu), Steyne hầu tước phu nhân, bá bước Southdown, tôn ông Pitt và công nương Jane, Wagg tiên sinh, v.v... tới dự. Tiệc xong, bà Crawley tổ chức một buổi họp mặt, với sự hiện diện của Stilton công tước phu nhân (quả phụ). Quận công de la Gruyere, Cheshire hầu tước phu nhân, hầu tước Alessandro Strachino, Slingstone bá tước phu nhân, công nương Macadam, bá tước de Brie, nam tước Schapzuger, hiệp sĩ Totsi, trung tướng Macbeth và phu nhân, tử tước Paddington, Horace Fogey tiên sinh, các tôn ông Sands Bedwin, Bobachy Bahawder và v…v…bạn đọc có thể tùy ý điền thêm cho kín một tá dòng chữ in cỡ nhỏ cũng được.

Trong khi giao tiếp với các bậc tai to mặt lớn, cô bạn thân yêu của chúng ta cũng giữ thái độ thoải mái tự nhiên như đối với hạng người tầm thường. Có lần đến chơi một nhà rất quý phái, Rebecca dùng tiếng Pháp nói chuyện với một bác ca sĩ nổi danh người Pháp (có lẽ cốt cho mọi người chú ý). Grizzel Macbeth phu nhân quay lại nhìn hai người, nhăn mặt, rồi nói với Becky:

- Bà nói tiếng Pháp hay quá nhỉ.

Bà này cũng nói được tiếng Pháp nhưng vẫn lơ lớ giọng Anh.

Becky nhìn xuống đất khiêm tốn đáp:

- Tôi biết tiếng Pháp là tất nhiên, vì tôi dạy tiếng Pháp trong một trường học, vả lại bà cụ thân sinh ra tôi là người Pháp.

Thấy cô ta khiêm tốn, Grizzel phu nhân cũng có ý cảm động, không nỡ khắt khe soi mói nữa. Bà chỉ than phiền về nỗi thời buổi bây giờ “cá mè một lứa”, tầng lớp nào cũng leo lên được địa vị thượng lưu, song phu nhân cũng công nhận rằng bà Crawley có tư cách xứng đáng với địa vị của mình lắm. Thật ra bà Grizzel cũng là người tốt, nghĩa là hay thương kẻ khốn khó và cũng nghĩa là đần độn, đứng đắn, tư cách không có gì khả nghi. Có điều bà ta vẫn tưởng rằng mình thuộc một loại người hơn hẳn tôi và bạn nhưng đấy cũng không phải lỗi ở bà ta vì đã hàng mấy thế kỷ nay, người ta vẫn phải hôn gấu áo tổ tiên của bà; họ đồn rằng, cách đây một nghìn năm, các vương công đại thần của Duncan hoàng đế quá cố đã phải hôn gấu áo của ông tổ dòng họ nhà bà, khi ngài lên ngai vàng xứ Xcốtlen.

Nghe Becky chơi dương cầm xong thế là Steyne phu nhân bị chinh phục và đã bắt đầu có cảm tình với cô ta rồi. Hai người con dâu đành phải theo ý mẹ chồng. Cũng có một vài lần họ xúi người khác khiêu khích Becky nhưng thất bại. Công nương Stunnington vốn là người lanh lợi đã thử tấn công Becky, nhưng bị cô bé dũng cảm đó đánh gục chết đứ đừ ngay lập tức. Thường thường khi bị tấn công, Becky vờ giữ một thái độ ngờ nghệch, nhưng thật ra hết sức nguy hiểm cho đối phương. Cô ta nói những lời cay độc một cách tự nhiên nhất đời, rồi lại làm ra vẻ thành thực xin lỗi vì mình lỡ lời, nhưng cho mọi người biết rằng mình cố làm ra thế.

Wagg là người nổi danh mồm mép, nói giỏi, ăn cừ, vốn là tay chân của hầu tước Steyne, bọn đàn bà bèn xúi anh ta tấn công Becky.

Anh chàng liếc nhìn mấy bà, nháy mắt một cái như có ý bảo: “Nào, các vị sắp sửa được một mẻ cười đấy”, đoạn bất thình lình nói kháy Becky một câu trong khi cô ta đang vô tình điềm nhiên ngồi ăn. Bị đánh bất ngờ, nhưng bao giờ cũng sẵn sàng tác chiến, Becky đỡ đòn ngay và giở vài miếng võ cực hiểm đánh bại địch thủ khiến cho Wagg tiên sinh tối tăm mặt mũi. Đoạn cô ta điềm nhiên cúi xuống dùng một món súp, nụ cười không tắt trên môi. Ông chủ đỡ đầu cho Wagg vẫn cho anh chàng ăn tiệc và vay tiền để sai bảo những việc lặt vặt như lo bầu cử và viết báo tán dương mình, bèn trừng mắt lên nhìn anh ta một cách dữ tợn, đến nỗi suýt nữa Wagg chui tụt xuống gầm bàn mà khóc oà lên. Anh ta cứ lấm lét nhìn chủ mãi; suốt bữa cơm hầu tước Steyne không thèm nói gì với người tay chân của mình, bọn đàn bà cũng ra mặt ruồng rẫy anh ta nốt. Cuối cùng, chính Becky phải lấy làm thương hại, bèn hạ cố nói với anh ta vài câu. Suốt sáu tuần lễ sau, anh chàng không được hầu tước gọi đến cho ăn, Wagg vẫn đi lại nịnh hót Fiche là cánh tay phải của hầu tước Steyne; lão này được chủ ra lệnh bảo cho Wagg biết rằng từ rầy trở đi nếu còn táo gan dám hỗn xược với bà Rawdon, hoặc dám châm biếm để đem bà Rawdon làm trò cười thì ngài hầu tước sẽ giao tất cả văn tự nợ của anh ta cho thầy kiện, và bỏ tù ngay lập tức không thương xót. Wagg khóc nức nở lạy van Fiche, xin can thiệp hộ. Đoạn anh ta viết một bài thơ, tán tụng bà Rawdon Crawley đăng ngay lên tạp chí “Lông bông” là tờ báo anh ta chủ trương. Bất cứ cuộc họp mặt buổi tối nào, hễ gặp Rebecca là anh ta tìm mọi cách lấy lòng. Ở câu lạc bộ, anh ta còn ra mặt nịnh nọt, bợ đỡ cả Rawdon. Cứ thế, sau một thời gian, Wagg lại được phép đi lại lâu đài Gaunt. Becky vẫn tốt với anh ta, vẫn vui vẻ chứ không có ý thù hằn gì.

Hầu tước Steyne có một người tay chân cực kỳ thân tín khác là Wenham, lão này có chân trong Quốc hội, là thực khách thường xuyên của gia đình Steyne. Trong cách ăn nói và cư xử lão tỏ ra khôn ngoan hơn Wagg nhiều. Tuy lão cũng rất khinh bọn hãnh tiến (lão thuộc phái Truy, rất đề cao dòng dõi những người có máu xanh, mặc dầu bố đẻ ra lão chỉ là một nhà buôn than quèn ở miền Bắc nước Anh), nhưng không bao giờ tỏ ra ác cảm với người đàn bà được chủ mình che chở. Không những thế, lão còn kín đáo tỏ ra đặc biệt săn sóc tới cô ta; cái lối đối xử lễ độ một cách vụng trộm của lão làm cho Becky khó chịu hơn là bị những người khác thẳng thắn tỏ ra có ác cảm với mình.

Hai vợ chồng Crawley lấy đâu ra tiền để thết đãi những vị khách sang trọng nhỉ? Đó là một điều bí mật, đã có hồi làm cho người ta bàn tán nhiều, và cũng có lẽ vì thế khiến cho những buổi tiếp tân của hai vợ chồng anh ta thêm hấp dẫn. Nhiều người cho rằng ông anh là tôn ông Pitt Crawley trợ cấp cho hai vợ chồng khá đầy đủ; nếu quả thế thì Becky hẳn phải có ảnh hưởng đặc biệt đối với ông nam tước anh chồng, và càng già, anh chàng này càng thay đổi tâm tính. Lại có nhiều người khác nói bóng rằng Becky vẫn có thói quen bắt bẻ bạn của chồng đóng góp cho mình: cô ta đến nhà người này khóc lóc, kể lể rằng sắp sửa bị tịch thu đồ đạc, đến nhà người kia lạy van rằng nếu không thanh toán xong các món nợ thì cả nhà cô đến vào tù hay phải tự tử mất. Nghe đồn rằng bá tước Southdown mất vô khối tiền vì những màn kịch bi đát tương tự. Lại anh chàng Feltham trẻ tuổi thuộc trung đoàn Ngự lâm thứ... (con trai ông chủ hãng Tiler và Feltham, chuyên cung cấp quân trang cho nhà binh) được vợ chồng Crawler dắt díu vào giới thượng lưu, cũng được kể trong số nạn nhân mất tiền cho Becky. Người ta đồn rằng Becky lấy tiền của nhiều người chất phác bằng cách giả vờ hứa hẹn chạy cho họ một chân trong chính quyền. Nào ai rõ người ta đã nói những chuyện gì và chưa nói những chuyện gì về cô bạn thân yêu và ngây thơ của chúng ta? Chỉ biết rằng ví thử Becky được nắm trong tay tất cả số tiền mà thiên hạ đồn là nhờ đi lạy van, vay mượn và ăn cắp của người khác mà có, thì cô ta rất có thể thành nhà tư bản, và sống một cuộc đời lương thiện... nhưng ta đi hơi xa rồi. Trong thực tế thì nếu khéo tằn tiện và thu xếp - nghĩa là biết dè sẻn đồng tiền và chỉ trả nợ khi nào cực bất đắc dĩ - người ta có thể không tốn kém mấy mà vẫn ra vẻ phong lưu, ít nhất là trong một thời gian. Cho nên có thể nói rằng những buổi tiếp tân được nhiều người bàn ra tán vào của Becky cũng không tốn kém mấy tý, ngoài tiền mua nến thắp trong phòng khách. Trại Stillbrook và trại Crawley Bà chúa cung cấp thịt thú rừng và hoa quả thừa mứa.

Becky được toàn quyền sử dụng hầm rượu của hầu tước Steyne. Mấy bác đầu bếp tài nghệ lừng danh của lão coi sóc cả việc nấu nướng hộ cô ta, hoặc theo lệnh chủ đưa sang Becky những món sơn hào hải vị quý lạ nhất. Tôi rất công phẫn vì lẽ người đời vẫn hay xấu miệng gièm pha những con người chân thực, cũng như những người đương thời đã gièm pha Becky vậy: xin các vị đừng có tin lấy một phần mười những chuyện đồn đại nói xấu cô ta. Ví thử hễ ai mắc nợ mà không trả được đều bị truất quyền giao tiếp với xã hội... nếu ta cứ phải soi mói vào đời tư của thiên hạ, tính toán lợi tức của họ, và không thèm đi lại với kẻ nào mình không tán thành lối sống...thì ôi thôi, Hội chợ phù hoa sẽ biến thành một nơi hoang vu gớm ghiếc, sống làm sao nổi ! Trong trường hợp ấy, thưa ngài, thiên hạ sẽ coi nhau là kẻ thù tất, và còn đâu là kết quả của văn minh. Chúng ta sẽ cãi nhau, chửi nhau, không thèm nhìn mặt nhau nữa. Nhà chúng ta sẽ biến thành những hang đá, chúng ta sẽ bận giẻ rách đi ra đường vì chẳng cần ai dị nghị. Trái phiếu quốc gia sẽ sụt giá, sẽ không còn ai tổ chức tiếp tân làm gì. Các thương gia trong thành phố sẽ phá sản. Rượu vang, nến thắp, thực phẩm, sáp son, váy phồng, kim cương, tóc giả, đồ chơi kiểu Louis XIV, đồ sứ cổ, ngựa cho thuê kéo xe...nghĩa là tất cả những khoái lạc nên đời…tất cả sẽ trở thành vô nghĩa, nếu thiên hạ ai cũng chỉ hành động theo những nguyên tắc ngu ngốc của mình và nhất định tránh mặt kẻ bị mình ghét bỏ. May thay, vì ta vẫn còn chút lòng từ thiện và nể nang đối với nhau, nên cuộc đời cũng vẫn tạm trôi xuôi được.

Chúng ta có thể mặc sức nói xấu tàn tệ một người nào đó, tha hồ gọi hắn là cái gì cũng được... nhưng có cần vì thế mà treo cổ hắn lên không? Không. Gặp hắn ta vẫn bắt tay như thường. Nếu đầu bếp nhà hắn khéo làm món ăn, ta có thể tha thứ cho hắn và cứ đến nhà hắn dùng cơm cũng không sao. Đồng thời chúng ta cũng mong hắn làm như vậy. Có thế, nền thương mại mới phồn thịnh... nền văn minh mới tiến triển..., hoà bình mới bền vững, và mẻ rượu năm ngoái của Lafitte mới đem về cho ông chủ chất phác được món lợi kếch xù chứ.

Vào thời kỳ chuyện này đang xảy ra, Hoàng đế George chí tôn đang trị vì thiên hạ, còn các mệnh phụ thì bận áo có ống tay xoè, gài trên đầu những cái lược đồi mồi to như những cái xẻng, chứ không mặc áo tay thường và gài hoa trên đầu theo “mốt” bây giờ. Tuy nhiên những phong tục trong giới thượng lưu cũng không khác ngày nay bao nhiêu, những trò giải trí thì hầu như tương tự.

Bọn chúng ta là những kẻ đứng ngoài nghểnh cổ ngó qua vài ông đội xếp mà ngắm các mỹ nhân khuynh quốc vào chầu vua hoặc đi dự dạ hội, và chúng ta không sao với tới hạnh phúc của họ được. Cho nên để an ủi các bạn là những kẻ bất hạnh khốn khổ, tôi mới đem những chuyện vật lộn, những thành công và thất vọng của Becky ra kể lại, đó cũng tức là những chuyện thông thường đối với bất cứ một nhân vật thượng lưu nào.

Vào thời đó, lối chơi kịch đố chữ mới du nhập từ Pháp sang, đang trở thành một phong trào. Trò chơi này giúp cho các bà có dịp triển lãm sắc đẹp, lại tạo điều kiện cho số ít bà khác có đôi chút thông minh được dịp thi thố tài năng. Có lẽ Becky nghĩ rằng mình được trời phú cho cả hai ưu điểm trên, bèn xui hầu tước Steyne tổ chức một buổi giải trí tại lâu đài Gaunt, nhân tiện sẽ diễn màn kịch ngắn...Vậy xin được phép dẫn bạn đọc đến dự buổi họp mặt tài hoa này. Chúng tôi cũng hơi lấy làm buồn vì đây là lần cuối cùng được đưa bạn đọc đến những nơi sang trọng như vậy.

Người ta đã thu xếp một phần gian phòng đồ sộ lộng lẫy tức là gian phòng tranh của lâu đài Gaunt, để dùng làm nơi diễn kịch đố chữ. Dưới triều vua George đệ tam, đã nhiều lần tổ chức đố chữ trong phòng này. Trong phòng còn treo một bức tranh vẽ hầu tước Gaunt đội tóc giả rắc phấn có tết dải màu hồng, bận áo dài theo lối La Mã. Hồi ấy hầu tước đã đóng vai Cato trong vở bi kịch cùng tên của ông Addison; khán giả là hoàng tử xứ Wales, giám mục Osnaburgh, Hoàng tử William Henry, cả ba đều còn là trẻ con như người tài tử đóng kịch. Người ta moi trong nhà kho ra vài cái phông cảnh vẫn bỏ xó từ hồi ấy, đem sửa sang lại để dùng nhân dịp này.

Bedwin Sands, một tay phong lưu công tử trẻ tuổi đã từng đi du lịch ở phương Đông, lĩnh nhiệm vụ dàn cảnh. Thời ấy, một du khách đã từng qua phương Đông không phải chuyện tầm thường…anh chàng Bedwin phiêu lưu lại đã cho xuất bản một cuốn ký sự cỡ in quarto đã từng sống mấy tháng trời trong lều vải giữa sa mạc, tất nhiên là một nhân vật quan trọng - trong sách có nhiều tranh vẽ chàng Sands bận các kiểu áo Đông phương; anh ta đi du lịch đâu cũng đem theo một người tuỳ tùng da đen, mặt mũi dữ tợn, y như kiểu Briande Bois Guilbert () ngày trước vậy! Cho nên Bedwin cùng các kiểu quần áo Đông phương và thằng hầu da đen được hoan nghênh nhiệt liệt tại lâu dài Gaunt.

Anh ta điều khiển màn kịch đố chữ đầu tiên. Trên sân khấu, hiện ra một sĩ quan Thổ Nhĩ Kỳ đội khăn có đính một túm lông to tướng (người ta cho rằng đội vệ binh Thổ Nhĩ Kỳ vẫn còn tồn tại, và túm lông cổ kính lộng lẫy trên đầu những kẻ theo tôn giáo chân chính vẫn chưa bị bỏ đi); lão nằm trên một tấm đi văng, đang hút thuốc lá narghile; vì trong số khán giả có các bà, nên thực ra nhà tài tử chỉ được đốt một miếng kẹo ho cho có mùi thơm. Vị quan lớn Thổ Nhĩ Kỳ ngáp tỏ vẻ uể oải, mỏi mệt. Ngài vỗ tay một cái, thế là Mesrour the Nubian hiện ra, cánh tay để trần, tai đeo vòng khắp mình toàn những đồ trang sức kiểu Đông phương...cao lêu đêu, gầy gò nom đến gớm ghiếc. Nó cúi rạp xuống lạy ông chúa...

Một cảm giác khủng khiếp và thú vị lan khắp mọi khán giả, các bà thì thầm với nhau. Bedwin Sands phải đánh đổi với ba tá rượu hảo hạng cho một viên “pa sa” Ai Cập mới được tên mọi da đen này. Nó đã từng bỏ vô khối thiếp nô của chủ vào trong bị, khâu lại đem quẳng xuống sông Nile.

Viên quan Thổ Nhĩ Kỳ khoát tay sai: “Cho thằng buôn nô lệ vào”. Mesrour dẫn người buôn nô lệ trước mặt chủ, gã này dắt theo một người đàn bà đeo chàng mạng vào, gã lật chàng mạng lên.

Khắp phòng vang lên những tiếng xì xào tán thưởng. Thì ra đấy là bà Winkworth, tục danh là Absolom, có đôi mắt và bộ tóc tuyệt đẹp.

Bà ta bận một bộ áo kiểu Đông phương thật lộng lẫy; mái tóc đen nhánh tết thành bím đính bao nhiêu là ngọc; khắp người đeo toàn những đồng tiền vàng. Viên quan Thổ Nhĩ Kỳ bỉ ổi tỏ vẻ bị quyến rũ trước vẻ đẹp mê hồn của người đàn bà. Người này quỳ xuống, van xin được trả về rừng núi là nơi chôn rau cắt rốn, nơi mà người tình nhân xứ Circassi vẫn đang than khóc vì nàng Zuleikah của mình bị mất tích. Lời cầu khẩn nào mà lay chuyển nổi lòng dạ sắt đá của tên Hassan. Nghe người đàn bà đẹp nhắc đến người chồng chưa cưới của mình, lão phá ra cười. Hai tay bưng lấy mặt, Zuleikah gục xuống trong một dáng điệu tuyệt vọng thật đẹp mắt. Hình như hết mọi hy vọng rồi... những bỗng nhiên Kislar Aga hiện ra.

Kislar Aga đem đến một lá thư của quốc vương Thổ Nhĩ Kỳ, Hassan nhận thư và đưa áp lên trán mình....sắc mặt lão lộ vẻ kinh hoàng khủng khiếp, trong khi tên da đen (cũng chính là tên hầu da đen đã đóng vai Mesrour nhưng thay áo khác) có vẻ hý hửng một cách gớm ghiếc. Lão “pasa” kêu lên “Cảm ơn! Cảm ơn”. Đồng thời tên Kislar Aga mặt nhăn nhở rút ra một dải lụa. Lúc hắn sắp thắt cổ lão kia, thì màn hạ. Hassan bên trong sân khấu kêu ầm lên:

“Phần một, hai vần”. Bà Rawdon Crawley cũng sắp sắm vai bèn tiến đến trước mặt Winkworth và khen bà này khéo chọn đâu được bộ áo đẹp quá.

Phần thứ hai của màn kịch đố chữ bắt đầu. Vẫn là một cảnh Đông phương. Hassan bận một bộ áo khác ngồi cạnh Zuleikah, lúc này có vẻ hoàn toàn phục tùng. Kislar Aga bây giờ là một tên nô lệ rất ngoan ngoãn. Mặt trời phương Đông cúi rạp trên bãi cát. Vì không có lạc đà để đưa lên sân khấu, nên dàn nhạc đành cử bài “Đoàn lạc đà” thay thế vậy. Bỗng nhiên một cái đầu người Ai Cập to tướng hiện ra trên sân khấu. Cái đầu hát một bài hát khôi hài do ông Wagg soạn, làm cho bọn người lưu cư xứ Đông phương rất ngạc nhiên. Bọn này vừa đi vừa nhảy nhót, như Papageno và vua xứ Moore trong vở kịch Ống sáo thần. Chiếc đầu Ai Cập lại hét to:

“Phần hai, hai vần”.

Rồi đến hồi cuối cùng. Cảnh bên trong một lều vải kiểu Hy Lạp. Một người to lớn vạm vỡ nằm trên nệm. Mé trên treo tấm khiên và mũ sắt của hắn. Những vật đó bây giờ đã thành vô dụng.

Thành Illium () bị hạ rồi, Iphigenia () đã bị giết, Cassandra (), đang bị cầm tù. Vị chúa xứ Hy Lạp (tức là trung tá Crawley; anh chàng này nào có biết chuyện giùm bị hạ và Cassandra bị cầm tù là cái quái gì đâu) đang nằm ngủ trong phòng tại Argos. Ánh đèn chiếu hắt bóng người đang ngủ lên mặt tường nom rung rinh chập chờn...bộ khiên giáp của người dũng sĩ thành Troy sáng lấp lánh. Trước khi pho tượng tiến vào sân khấu, dàn nhạc cử bài “Don Juan”.

Aegisthus () rón rén bước vào, mặt tái nhợt. Nhưng cái bộ mặt ma quái ẩn sau tấm thảm vẫn theo dõi hắn là ai vậy? Aegisthus giơ cao lưỡi dao, sắp sửa kết liễu đời kẻ tình địch đang ngủ, người này vô tình trở mình quay lại, như giơ bộ ngực rộng ra sẵn sàng đón lưỡi dao oan nghiệt. Song Aegisthus không thể đang tâm giết viên tướng đang ngủ say. Clytemnestra () nhanh nhẹn lẩn vào như một bóng ma..., đôi cánh tay để trần trắng nõn nà..., mớ tóc màu hung buông xoã phơ phất trên vai..., bộ mặt tái nhợt một cách khủng khiếp..., đôi mắt sáng long lanh, miệng mỉm một nụ cười ma quái; khán giả rùng mình chờ đợi.

Tiếng rì rào lan khắp phòng. Một người thốt lên:

- Trời ơi! Chính là bà Rawdon Crawley.

Clytemnestra khinh bỉ giật lấy lưỡi dao trong tay Aegisthus, tiến lại bên giường. Lưỡi dao sáng quắc lấp lánh trên đầu nàng và đột nhiên đèn tắt phụt..., một tiếng rên phát ra, gian phòng tối như bưng.

Màn kịch và bóng tối làm cho toàn thể khán giả rợn tóc gáy.

Rebecca sắm vai trò của mình khéo quá, y như thật, khiến cho khán giả dường như nín thở; mãi tới lúc đèn trong phòng được thắp lên, mọi người mới vỗ tay như pháo nổ. “Hoan hô! Hoan hô!”

Hầu tước Steyne lớn tiếng hò reo át cả tiếng mọi người; lão lẩm bẩm một mình: “Mẹ kiếp, mụ này giết chồng thật cũng được chứ chẳng chơi.”

Toàn thể khán giả đòi diễn viên ra mắt. Họ hét ầm ầm: “Đạo diễn đâu? Clytemnestra đâu? Agamemnon không dám ló mặt ra trong bộ áo cổ lỗ kiểu Hy Lạp, anh ta đứng ở hậu trường sân khấu cùng Aegisthus và các diễn viên khác. Bedwin Sands dẫn Zuleikah và Clytemnestra. Một vị đại nhân nhất định đòi được giới thiệu với nàng Clytemnestra kiều diễm. Đức ông nói bỡn một câu rất đúng lúc: “Thế nào, đâm thủng tim hả? Bây giờ lấy chồng khác chứ?”

Hầu tước Steyne nói: “Bà Rawdon sắm vai ấy khéo tuyệt. Becky cười; cô ta láu lỉnh nhìn lão, cúi chào một cách lịch sự chưa hề thấy.

Bọn gia nhân bưng những khay thức ăn nguội vào mời khách, các diễn viên lui vào hậu trường để sửa soạn cho màn kịch đố chữ thứ hai.

Ba vần của màn kịch này sẽ diễn bằng kịch câm, theo thứ tự như sau:

Vần thứ nhất: trung tá Rawdon Crawley, hiệp sĩ tuỳ giá, đội một chiếc mũ rộng vành, khoác áo choàng rộng, xách một cái đèn gió mượn dưới chuồng ngựa, vừa đi ngang qua sân khấu vừa hét ầm lên như để báo giờ cho người trong nhà biết. Sau cửa sổ, thấy có hai người khách du lịch hình như đang đánh bài, ngáp luôn miệng. Một tên hầu nom giống hệt thằng Boot bước vào phòng (tức là ngài Ringwood đáng kính, ngài sắm vai này tài lắm); anh ta giúp hai ông khách cởi áo, rồi đến chị hầu phòng (tức là bá tước Southdown) cầm hai cây đèn và một cái lồng ấp bước vào. Chị ta leo lên tầng trên, bắt đầu sửa soạn giường chiếu. Hai vị du khách có ý bờm xơm, chị ta dùng ngay chiếc lồng ấp để trả lời, đoạn đi ra. Hai người khách đội mũ ngủ, kéo màn che cửa sổ xuống. Thằng Boot bước ra đóng nốt cửa sổ phòng dưới lại. Sau đó nghe tiếng nó cài then cửa kêu lạch cạch bên trong. Đèn tắt hết. Dàn nhạc chơi bài “Ngủ cho ngoan, hỡi em yêu”(). Từ sau tấm màn trên sân khấu, một giọng nói vọng ra:

“Vần thứ nhất”.

Vần thứ hai, đèn bỗng nhiên thắp sáng rực. Dàn nhạc chơi bài hát quen thuộc của John Paris: “Ôi, đi du lịch mới sướng làm sao!”(). vẫn cảnh cũ. Giữa khoảng tầng gác và tầng dưới, thấy treo một tấm biển có vẽ bộ huy hiệu của gia đình Steyne. Chuông réo liên hồi. Ở tầng dưới, một người cầm một mảnh giấy dài trao cho một người khác, người này giơ nắm tay lên ra ý đe doạ, kêu ầm lên là quá đáng. Một người thứ ba đứng ngoài cửa gọi vào: “Bồi, đánh xe ra đây cho tao”. Người này đưa tay vuốt má chị hầu gái một cái (tức là bà bá tước Southdown) chị hầu gái có vẻ buồn rầu, y như Calipso () nhớ thương Ulysses vậy, Boot (vẫn là ngài Ringwood đáng kính) bưng một chiếc hộp gỗ đựng toàn chai lọ bằng bạc bước ra rao: “Chai lọ đây?” một cách rất tức cười, khéo như thật, làm cho khắp phòng ran lên tiếng vỗ tay tán thưởng, có người quăng cả một bó hoa lên sân khấu. Tiếng roi ngựa quất kêu đen đét. Chủ quán, chị hầu gái, hầu phòng xô nhau chạy ra cửa. Vừa lúc một vị khách quý sắp xuống xe thì màn hạ. Nhà đạo diễn vô hình lại hét ầm lên: “Vần thứ hai”.

Đại uý Grigg trong đội túc vệ nói: Chắc là tiếng “khách sạn!”.

Mọi người cười ầm lên trước câu nói của viên đại uý thông minh. Ông ta đoán cũng gần đúng.

Trong khi phần thứ ba đang được chuẩn bị, dàn nhạc chơi những bản nhạc của thuỷ quân: “Tất cả xuống bãi cát”, “Gió bấc hãy ngừng thổi”, “Anh quốc thống trị thế giới”, “Trong vịnh Biscay”... Có lẽ sắp trình diễn một cảnh trên mặt bể. Có tiếng chuông réo, màn mở. Một tiếng nói vọng lên: “Các bạn hướng mũi tàu vào bờ”. Thuỷ thủ và hành khách từ biệt nhau. Họ lo ngại chỉ chỏ một đám mây tượng trưng bằng một tấm màn màu sẫm, gật gật cái đầu có vẻ sợ hãi lắm. Công nương Squeams (cũng tức là ngài bá tước Southdown) ôm con chó con, hành lý và ví tay, ngồi xuống cạnh chồng, nắm chặt lấy sợi dây buồm. Đúng là cảnh trên tàu bể rồi.

Viên thuyền trưởng (trung tá Crawley) đội mũ vành tam giác, cầm ống nhòm, bước vào sân khấu; thuyền trưởng đưa tay giữ chặt vành mũ trên đầu, đuôi áo bay phần phật như có gió thổi dữ lắm.

Lúc anh ta buông tay giữ mũ để sử dụng ống nhòm thì mũ bay mất; tiếng vỗ tay ran ran. Gió mỗi lúc một to. Dàn nhạc chơi một điệu mỗi lúc thêm ầm ĩ. Bọn thuỷ thủ đi đi lại lại chệnh choạng trên sân khấu, chiếc tàu đang chòng chành tợn. Viên quản lý tàu (ngài Ringwood) bước xiêu vẹo ngang qua sân khấu, ôm sau chiếc bi đông. Bác ta đặt vội một chiếc xuồng cạnh công nương Squeams...

Công nương Squeams véo con chó con một cái làm cho nó kêu ăng ẳng một cách đáng thương, rồi bịt mùi xoa vào mũi chạy vội vào ca bin. Âm nhạc vẫn ồn ào như bão táp; thế là xong vần thứ ba.

Tiếp theo là một màn vũ kịch nhỏ: Chim hoạ mi (). Montessu và Noblet nổi tiếng nhờ đóng vở kịch này. Wagg đem chuyển thành vũ nhạc kịch, đưa lên sân khấu nước Anh. Anh ta vốn khéo làm thơ, bèn theo điệu nhạc sẵn có mà soạn lời. Diễn viên được phục trang toàn bằng quần áo kiểu Pháp thời cổ. Lần này bá tước Southdown đóng vai một bà lão khập khễnh đi trên sân khấu, chống một chiếc gậy cong queo.

Từ cuối sân khấu một điệu nhạc du dương vẳng ra từ một căn lều xinh xinh bằng giấy hồi phủ hoa hồng. Bà lão gọi:

“Philomele, Philomele!”.

Philomele bước ra.

Lại vỗ tay... vì chính là bà Rawdon Crawley, tóc rắc phấn, mặt có tô nốt ruồi giả, trông rõ ra là một nữ hầu tước tuyệt thế giai nhân. Cô ta bước ra tươi cười, miệng líu lo hát, nhún nhảy đi quanh sân khấu, trông thật trẻ trung và cũng rất kịch... đoạn cô ta cúi chào khán giả. Bà mẹ mắng: “Cái con bé này hư quá, chỉ cười cợt, hát hỏng cả ngày thôi”. Cô gái bước lên, hát:

BÔNG HỒNG TRÊN BAO LƠN

Đoá hồng sớm sớm đưa hương.

Đông về lá rụng, xuân sang nảy chồi

Vì đâu hương ngát, màu tươi?

Vì tia nắng ấm, vì lời chim ca.

Kìa họa mi líu lo trong thẳm

Bặt im khi gió lộng cành khô,

Mẹ ơi, ríu rít sớm trưa

Vì yêu lá biếc, vì ưa nắng hồng.

Trời sinh mỗi vật mỗi thông.

Hoa đua sắc thắm, chim lồng giọng hay

Lòng con rạo rực ban mai

Nên má con đẹp, nên lời con xinh.

Nhân vật mà cô Philomele gọi bằng mẹ có một bộ râu to tướng thò ra ngoài chiếc mũ trùm; lúc cô ta hát xong một đoạn, tạm ngừng, hình như bà mẹ cứ muốn ôm lấy cô con gái mà hôn để tỏ tình mẫu tử. Cứ mỗi một cái vuốt ve lại được toàn thể khán giả ồn ào tán thưởng. Màn kịch kết thúc trong một bản hợp tấu nghe như tiếng một đàn chim ríu rít cùng hót; khán giả đồng thanh đòi diễn lại. Người ta vỗ tay, người ta tung hoa lên sân khấu để hoan hô con chim hoạ mi của buổi tối hôm ấy. Hầu tước Steyne to tiếng cổ vũ hơn ai hết. Becky, “con chim hoạ mi” đỡ lấy bó hoa lão tung cho, ấp vào ngực với một điệu bộ hệt tay nghệ sĩ nhà nghề. Hầu tước Steyne khoái trá không tả được. Khách khứa cũng đồng tình với lão. Lúc này còn ai để ý đến người đàn bà đẹp nõn nà mắt đen láy đã thu hút cảm tình của khán giả trong màn kịch đầu tiên? Người đàn bà ấy đẹp gấp đôi Becky, nhưng đã bị tài năng của cô ta làm cho hoàn toàn lu mờ rồi. Ai ai cũng chỉ chú ý đến Becky. Người ta ví Becky với những nghệ sĩ nổi danh như Stephens, Caradori, Ronzi de Begnis; ai cũng bảo rằng giá cô ta là diễn viên thật thì khó lòng có tay nghệ sĩ nào ăn đứt. Vinh quang đến thế là cùng cực; tiếng hát thanh của cô ta vươn lên trên những tiếng hoan hô ồn ào, say sưa bay cao tít như sự thắng lợi vừa đạt được. Xong mục diễn kịch, có tổ chức khiêu vũ; mọi người vây quanh lấy Becky, coi cô ta như là cái điểm trung tâm quyến rũ của buổi tối hôm ấy. Vị hoàng tử thề độc một câu, rồi tuyên bố rằng cô ta thực là hoàn hảo, ngài sán lại nói chuyện với cô mấy lần. Becky nở từng khúc ruột vì kiêu hãnh và sung sướng, cô ta đã thấy sự giàu sang, danh vọng đang chờ đón mình. Tối hôm ấy, hầu tước Steyne là một tên nô lệ của Becky, lão cứ bám sát lấy cô ta, không buồn nói chuyện với ai nữa, lão đặc biệt săn sóc đến cô ta từng ly từng tí một. Becky vẫn cứ bận bộ áo nữ hầu tước như trước để khiêu vũ với Truffigny tiên sinh, tuỳ viên của quận công de la Jabotiere. Ngài quận công vốn thông thạo những phong tục cổ truyền nơi triều đình, tuyên bố rằng bà Rawdon xứng đáng là học trò của Vestris và rất có thể được đưa vào chầu trong điện Versailles. Sở dĩ ngài không đích thân khiêu vũ với bà Rawdon chỉ vì muốn giữ thể diện, bởi lẽ ở cương vị đặc biệt của mình không tiện làm thế, nhưng ngài công khai tuyên bố rằng một người đàn bà nói chuyện giỏi và khiêu vũ khéo như bà Rawdon rất đáng mặt làm sứ thần tại bất cứ triều đình nào ở Âu châu. Mãi tới lúc được biết cô ta là người lai Pháp, ngài mới thấy dễ chịu đôi chút. Vị đại nhân này tuyên bố rằng: “Nếu không phải là người Pháp, đố sao nhảy được điệu ấy tài đến thể. Sau đó Becky nhảy điệu “van-xơ” với Klingenspohr là tuỳ viên và em họ của quận công Peterwaradin. Ngài quận công vốn không quá giữ gìn () như ông bạn đồng nghiệp người Pháp; đang lúc cao hứng, ngài nhất định đòi quay vài vòng với con người kiều diễm cho vui. Hai người lướt quanh phòng, những viên kim cương đính trên tua ủng và dải áo của quận công cứ bay tung lên; lúc đã mệt bở hơi tai, ngài mới chịu nghỉ. Ngài Papoosh Pasha cũng muốn nhảy với cô ta một điệu, ngặt vì phong tục nước ngoài không cho phép. Mọi người vây quanh Becky, say sưa vỗ tay tán thưởng, dường như cô ta là một Noblet hoặc một Taglioni vậy. Hào hứng không thể tả được; dĩ nhiên Becky là người hào hứng nhất. Cô ta đi ngang trước mặt Stunnington phu nhân, kiêu hãnh ném cho bà này một cái nhìn khinh khỉnh; cô ta bắt đầu lên mặt cả với Gaunt phu nhân, với cả chị dâu cô đang ngẩn người ra vì bực bội...Tóm lại Becky đè bẹp () mọi địch thủ khác. Về phần bà Winkworth đáng thương có mớ tóc dài và đôi mắt huyền mông mênh đã từng hấp dẫn khán giả lúc đầu không biết bây giờ đâu rồi? Ví thử bà này có rứt trụi tóc và khóc sưng mắt vì thất vọng, cũng chẳng ai buồn quan tâm đến. Lúc dự tiệc, sự thắng lợi mới đến tột độ. Becky được xếp ngồi vào một chiếc bàn đồ sộ, dành riêng cho vị quý khách của Hoàng gia đã nói ở trên và những nhân vật đặc biệt khác. Đĩa đựng đồ ăn toàn bằng vàng. Nếu Bêchky muốn... chủ nhà có thể bỏ ngọc vào rượu sâm banh cho cô ta vui lòng... như cách tiếp đãi Nữ hoàng Cleopatra xưa kia. Ngài Peterwaradin quyền thế kia sẵn sàng mất ngay nửa số kim cương đính trên áo, chỉ cầu được đôi mắt long lanh của người đẹp liếc mình một cái. Jabotiere viết tờ trình gửi về Chính phủ Pháp nói về Becky. Các bà ngồi ở bàn khác chỉ được dùng đĩa đựng đồ ăn bằng bạc, thấy hầu tước Steyne tỏ vẻ săn sóc cô ta quá đáng, đồng thanh cho rằng sự say mê của ngài cực kỳ vô lý, và là một sự xỉ nhục đối với giới phụ nữ. quý tộc. Nếu nói kháy mà chết được người thì Stunnington phu nhân đã giết Becky chết tươi ngay tại chỗ.

Thấy vợ thắng thế quá Rawdon đâm hoảng. Hình như điều đó làm cho hai vợ chồng càng thêm xa nhau thì phải. Anh ta có một tâm trạng dường như đau khổ, mỗi khi nghĩ rằng vợ mình so với mình một trời một vực.

Đến giờ ra về, một bọn trai trẻ theo tiễn Becky ra tận ngoài xe; bọn gia nhân cầm đèn đứng hầu ngoài cổng cung kính đón chào từng vị khách một, ngỏ ý hy vọng vị khách được vui lòng trong buổi dạ hội.

Chiếc xe ngựa riêng của bà Rawdon Crawley tiến nhanh vào khu sân lâu đài sáng trưng đỗ trong dãy hành lang có mái che. Rawdon đỡ vợ lên xe, rồi xe chạy. Ông Wenham rủ anh ta cùng đi bộ về nhà, lại mời anh ta một điếu thuốc lá. Hai người ghé vào cây đèn của một người hầu để châm thuốc lá, Rawdon sóng đôi đi với ông bạn Wenham của mình. Trong đám đông có hai người tách ra đi theo họ. Lúc Rawdon và Wenham đi về phía công viên Gaunt được một quãng, thì một người tiến đến vỗ vào vai Rawdon nói:

- Xin lỗi trung tá nhé, tôi muốn nói chuyện riêng với ngài.

Trong khi ấy, người kia huýt lên một tiếng sáo thật to; nhận được hiệu lệnh, một chiếc xe ngựa vẫn đỗ cạnh cổng lâu đài Gaunt băng băng chạy lại..., đồng thời người vừa huýt sáo tiến tới đứng án ngữ trước mặt Rawdon.

Anh chàng sĩ quan hiểu ngay cơ sự, thế là rơi vào tay bọn công sai rồi. Anh ta vội lùi lại thì đụng ngay phải người đã vỗ vai hỏi mình. Người vừa chặn đường tháo lui của anh chàng nói:

- Chúng tôi có ba người đây ạ... Xin đừng kháng cự, vô ích.

Viên trung tá hình như nhận được mặt người này, hỏi:

- A, Moss đây phải không? Bác muốn bao nhiêu?

Ông Moss ở phố Cursitor, đường Chancery phụ tá của vị cảnh sát trưởng quận Middlesex, đáp:

- Không mấy tý. Một trăm sáu mươi sáu đồng, tám mươi sáu pen-xơ, theo đơn kiện của ông Nathan.

Rawdon bảo bạn:

- Wenham, cho tôi giật tạm một trăm đồng. Ở nhà tôi mới có bảy chục.

Ông Wenham đáp:

- Cả gia tài tôi chỉ có mười đồng chẵn... Chào ông bạn quý vậy.

- Chào ông.

Rawdon cáu quá đáp. Thế là Wenham bỏ đi... Rawdon đành lên xe ngựa vừa hút hết điếu thuốc lá, thì xe chạy qua gầm cầu Temple.

Chương 52
BÂY GIỜ MỚI RÕ MẶT ĐẠI NHÂN

Một khi hầu tước Steyne đã quyết tâm làm việc gì, không bao giờ ngài chịu làm dở dang. Thái độ nâng đỡ của ngài đối với vợ chồng Crawley càng khiến cho người ta thêm kính nể bụng dạ con người rộng lượng. Ngài hầu tước còn hạ cố thương đến cả thằng bé Rawdy. Ngài bảo cho bố mẹ nó hay rằng cần gửi thằng bé theo học một trường nội trú, nó đã đến tuổi cần được ganh đua với bè bạn, được học tiếng La tinh, tập thể dục và tiếp xúc với bọn trẻ con khác thì mới lợi cho sự phát triển về mọi mặt. Bố nó đáp rằng nhà túng, không đủ tiền cho con theo học nội trú; mẹ nó cũng bảo rằng bà Briggs dạy nó cũng tốt chán; bà ta đã dạy nó tiếng Anh, một ít tiếng La tinh và những kiến thức thông thường khác. Nhưng hầu tước Steyne thiết tha giúp đỡ quá, thành ra cuối cùng hai vợ chồng đành nghe theo vậy. Ngài hầu tước có chân trong ban quản trị một trường học nổi danh từ lâu gọi là “Trường tu sĩ áo trắng”. Ngày xưa đó là một tu viện của dòng tu Cistercian, và cánh đồng Smithfield giáp cạnh cũng là một đấu trường luyện võ. Rất nhiều tên phản đạo bướng bỉnh đã bị thiêu sống trên bãi luyện võ này.

Vua Henry đệ bát, biệt hiệu là Hoàng đế Mộ Tín (), đã từng cho quân chiếm đóng tu viện, tịch thu tất cả tài sản, treo cổ và tra tấn một số giáo sĩ không chịu phục tùng việc cải cách của nhà vua. Cuối cùng một nhà phú thương bỏ tiền ra mua lại cả toà nhà và đất đai chung quanh rồi nhờ quyên được thêm tiền và đất, bèn dựng lên tại đó một cứu viện dành cho trẻ em và người già. Đồng thời một trường học nội trú cho thiếu niên cũng được dựng lên ngay bên toà lâu đài cổ kính vẫn còn mang những tập quán tương tự như của nhà tu thời kỳ trung cổ. Tu sĩ dòng Cistercian đều cầu Chúa cho sự hoạt độn của cứu tế viện này được thịnh vượng mãi.

Trong ban quản trị của tổ chức này có cả vài vị quý tộc, tu sĩ cao cấp và quan to trong triều tham dự. Học trò ở đây được nuôi nấng chu đáo, dạy dỗ cẩn thận; chúng được chuẩn bị để sau này theo học có kết quả tại các đại học đường: Do được nuôi dưỡng từ nhỏ trong bầu không khí của giáo đường, nhiều đứa trẻ đã sớm có khuynh hướng muốn trở thành mục sư, học trò tốt nghiệp ở đây ra tìm việc hết sức dễ dàng. Mới đầu nhà trường chỉ nhận học sinh là con cái các mục sư túng thiếu và trung thành; nhưng về sau, nhiều vị quý tộc trong ban quản trị cao hứng muốn nới rộng phạm vi chiêu sinh ra. Một số nhà giầu thấy con đi học không mất tiền, tương lai chắc chắn, nghề nghiệp đảm bảo, nghĩ tội gì mà bỏ qua dịp này; cho nên không những chỉ có người quen của các vị tai mặt mà chính các vị tai mặt cũng gửi con theo học cho khỏi phí của...các vị tu sĩ cao cấp gửi người trong họ, hoặc con cái các tu sĩ dưới quyền, đồng thời một số nhà quý tộc tiếng tăm cũng không ngần ngại gì mà không cho con cái của bọn tay chân thân tín vào học...thành ra con trẻ vào nội trú trong trường được tiếp xúc với một tập thể khá phức tạp.

Từ bé, Rawdon Crawley chỉ nghiên cứu kỹ có một cuốn sách là cuốn “Niên giám đua ngựa”; kiến thức chủ yếu anh ta còn nhớ là những trận đòn trong trường trung học hơn hồi còn bé. Tuy vậy, anh ta vẫn tỏ ra hết sức tôn trọng nền học vấn cổ điển như mọi người Anh thượng lưu khác. Nghĩ rằng con mình được học hành cẩn thận, lại rất có thể được đảm bảo về tương lai, anh ta cũng thích, tuy thằng bé là nguồn an ủi và là người bạn độc nhất của bố nó. Giữa hai bố con có biết bao nhiêu mối dây ràng buộc khăng khít (Rawdon cũng chẳng buồn nói với vợ về chuyện này, vì đã từ lâu Becky đối với con rất thờ ơ lạnh lẽo). Rawdon cũng thuận xa con, đành phải hy sinh hạnh phúc riêng của mình để cho con có điều kiện ăn học thành người. Tới lúc phải xa con, anh ta mới thấy mình quý con đến thế nào. Thằng bé tựu trường rồi, anh ta cảm thấy rầu rĩ, chán nản một cách không ngờ... còn buồn hơn chính thằng con trai, vì nó đang háo hức được bước vào một cuộc sống mới có nhiều bạn bè cùng lứa tuổi. Nghe chồng vụng về lúng túng bày tỏ tâm trạng lúc xa con, Becky phá ra cười mấy bận. Anh chàng đáng thương cảm thấy thế là mình mất người bạn thân thiết trung thành nhất rồi. Nhiều lần anh ta cứ buồn rầu đứng ngó chiếc giường nhỏ trong phòng rửa mặt, chỗ thằng bé vẫn ngủ. Sáng sáng ngủ dậy thấy vắng con, Rawdon nhớ quá, cố đi chơi một mình ngoài công viên cho khuây khoả. Hồi thằng bé chưa đi học anh ta không hề ngờ rằng mình cô độc đến thế này.

Rawdon vốn quý những người đối đãi tốt với mình; anh ta thường đến ngồi chơi hàng giờ với chị dâu là công nương Jane, nói toàn chuyện con trai ngoan ngoãn, con trai kháu khỉnh và hàng trăm đức tính khác nữa.

Công nương Jane cũng quý cháu trai, đứa con gái của Pitt cũng vậy; phải xa em, con bé khóc khóc mếu mếu đến tội. Rawdon thấy vậy rất cảm động. Anh ta chỉ có mỗi một đức tính quý báu duy nhất là tấm tình phụ tử. Trước mặt người chị dâu tốt bụng, anh ta được dịp tự do bộc lộ hết tâm tình của mình. Những tình cảm này, anh ta không bao giờ dám bày tỏ với vợ. Công nương Jane thấy em chồng biết thương con nên cũng có lòng giúp. Còn hai chị em dâu lại rất ít gặp nhau; Becky thường cười giễu cợt tính tình trung hậu dịu dàng của công nương Jane; ngược lại người chị dâu bản tính mềm mỏng, hiền hoà cũng không sao chịu nổi thói sắt đá lạnh lùng của Becky.

Tính tình Becky khiến cho Rawdon dần cảm thấy mình xa lạ đối với vợ; chính anh cũng không ngờ đến như vậy; Becky chẳng buồn quan tâm đến chuyện ấy. Quả thật, cô ta chẳng thiết tha gắn bó gì với chồng cũng như với bất cứ ai. Becky coi chồng như một kẻ giúp việc hoặc một tên nô lệ. Chồng buồn bã rầu rĩ, cô ta cũng chẳng buồn chú ý, nếu không tìm cách giễu cợt. Cô ta còn bận suy nghĩ về địa vị, về thú vui và còn lo tìm cách leo lên cao hơn trên bậc thang danh vọng. Cô ta yên trí rằng phải có ngày mình giành bằng được một địa vị trong xã hội thượng lưu.

Bà Briggs chất phác được giao nhiệm vụ sửa soạn hành lý cho thằng bé tựu trường. Chị hầu gái Molly cứ đứng khóc thút thít ngoài hành lang lúc thằng Rawdy lên xe. Mặc dù đã lâu chưa được trả tiền công, nhưng chị Molly vẫn hầu hạ chủ trung thành chu đáo.

Becky không bằng lòng cho chồng giong xe ngựa đưa con đến trường. Mang xe ngựa riêng của nhà vào khu City à? Chuyện kỳ quái, không nghe được! Đi mà thuê một cái xe ngựa rong. Lúc con trai đi, cô ta không giơ má cho con hôn, mà thằng bé cũng không nghĩ đến chuyện hôn mẹ. Nó chỉ hôn bà Briggs (tuy rằng mọi ngày nó cũng ít khi tỏ vẻ âu yếm với bà này). Để an ủi bà Briggs, nó bảo rằng thứ bảy sẽ về thăm bà ta. Trong khi chiếc xe ngựa thuê bon bon chạy vào khu City, Becky cũng đánh xe ngựa riêng đi công viên chơi. Lúc hai bố con dắt nhau vào cổng trường cũng là lúc Becky chuyện trò cười cợt với một lũ công tử bột trên bờ kênh đào Serpentine... Rawdon gửi con ở đấy ra về, trong lòng ngao ngán buồn bã vô cùng; từ lúc lọt lòng mẹ, chưa bao giờ anh ta sầu não đến thế.

Rawdon đi bộ về nhà, ngồi ăn cơm với bà Briggs. Anh ta tỏ ý cảm ơn bà Briggs đã âu yếm săn sóc thằng bé. Ngẫm lại chuyện vay tiền, Rawdon thấy lương tâm cắn rứt vì trót dự phần vào việc lừa dối bà ta. Hai người nói chuyện rất lâu về Rawdy. Becky chỉ về nhà một lúc để thay áo rồi lại đi ăn tiệc ngay... Đoạn Rawdon đến nhà công nương Jane uống nước trà, kể chuyện cho chị dâu nghe con trai mình đi học ngoan lắm, được mặc bộ quần áo mới nó thích quá, trong trường lại có thằng Blackball là con trai của Jack Blackball một bạn đồng ngũ cũ; nó đã hứa sẽ trông nom che chở cho thằng Rawdy.

Độ một tuần lễ sau, Blackball đã biến Rawdy thành một thằng nhỏ, bắt thằng bé đánh giầy và nướng bánh mì cho mình mỗi bữa ăn. Nó dạy thằng bé được ít tiếng La tinh, nhưng cũng đã nện cho ba bốn trận... tuy không đau lắm. Cũng may, thằng bé được bộ mặt vui vẻ thật thà, nên chỉ bị đánh đập xoàng xoàng vừa đủ để cho nó khôn ra thế thôi. Vả chăng, trong việc học vấn của con cái các gia đình thượng lưu nước Anh, những việc hầu hạ lặt vặt như đánh giầy, nướng bánh, v.v... cũng không phải là không cần thiết.

Chúng ta không có thì giờ nói dài về đời sống của thằng Rawdy trong trường, có dịp khác sẽ kể lại tỷ mỹ. Mấy bữa sau viên trung tá đến thăm con, thấy con tươi tỉnh vui vẻ trong bộ quần áo mới màu đen. Anh ta khôn khéo đãi Blackball một đồng tiền vàng để mua chuộc thiện cảm của ông trùm đối với thằng nhỏ. Các nhân vật có thẩm quyền trong trường đối với thằng bé cũng có biệt nhãn, vì nó được hầu tước Steyne che chở, nó là cháu trai của một uỷ viên trong Ban quản trị một quận; bố nó lại là một trung tá, tước Tùy giá hiệp sĩ, được nêu tên trên mặt báo-“Tin tức buổi sáng” luôn vì có mặt trong các buổi hội họp của giới thượng lưu. Thằng bé có rất nhiều tiền; nó mua bánh quả đãi anh em bạn rất hào phóng; thứ bảy nó hay về thăm nhà; bữa ấy bố nó vui như tết. Những lúc rỗi rãi, Rawdon dẫn con đi xem hát, hoặc sai người hầu đưa đi. Chủ nhật thằng bé đi lễ nhà thờ với bà Briggs, công nương Jane và hai đứa con nhà bác. Rawdon rất thích nghe con kể chuyện ở trường, chuyện đánh nhau, chuyện bị bắt nạt. Anh ta cho một đứa bạn thân của con về nhà chơi, dẫn đi xem hát rồi cho cả hai ăn kẹo, ăn sò huyết thật thoả thích, lại cho uống cả rượu nữa. Thằng Rawdy đưa cho bố coi bài La tinh nó được điểm tốt, anh ta làm ra bộ thông thạo lắm, lấy vẻ mặt nghiêm trang bảo con:

- Học cho cẩn thận, con ạ. Không gì bằng một nền học vấn cổ điển vững vàng đâu, nhớ thế!

Càng ngày Becky càng khinh rẻ chồng hơn: “Anh muốn làm gì thì làm... muốn đi đâu ăn tùy ý... Đi mà nốc bia và đốt mùn cưa ở nhà lão Astley, hay là đến cầu kinh với công nương Jane, tha hồ...miễn là đừng bắt tôi bận bịu vì thằng ôn con. Anh không đủ sức lo cho tương lai của anh, thì tôi phải ra tay lo hộ vậy. Anh thử nghĩ xem, địa vị xã hội của anh ra sao”. Sự thực là tại những cuộc hội họp Becky thường đến dự, cũng không ai ưa anh chồng đáng thương dẫn xác đến làm gì. Bây giờ, nhiều khi người ta chỉ mời một mình cô vợ. Becky nói về các vị tai mà y như cô ta làm chủ cả khu May Fair, và khi nào trong triều có việc tang, bao giờ cô ta cũng mặc một bộ đồ đen để trở.

Thu xếp cho thằng Rawdy xong hầu tước Steyne khuyên Becky nên đuổi nốt bà Briggs đi cho đỡ tốn; lão vốn có lòng thương, săn sóc nhiều đến gia đình nhà này; lão cho rằng Becky cũng đủ khôn ngoan chán để cai quản lấy việc nhà.

Trong một chương trước, chúng ta đã thấy lão cho Becky tiền để trả nợ bà Briggs, nhưng không hiểu sao vẫn chưa thấy bà này ra đi. Ngài hầu tước mới đoán rằng Becky lại tiêu món tiền ấy vào việc khác rồi. Tuy vậy lão cũng tế nhị không nỡ nói thẳng điều mình nghĩ với Becky, vì sợ căn vặn về chuyện tiền nong lỡ cô ta giận thì khổ; vả chăng Becky bao giờ cũng sẵn có hàng trăm lý do để trình bày về việc tiêu món tiền đó. Song lão cũng quyết định tìm cách biết rõ sự thực, bèn tiến hành việc điều tra một cách hết sức khéo léo.

Đầu tiên lão định mơn man cho bà Briggs khai hết ra. Việc này không khó lắm, chỉ khéo nói một chút là người đàn bà chất phác này bụng dạ có gì dốc sạch. Một bữa, Becky đánh xe ngựa đi chơi, lão hầu tước bèn mò đến phố Curzon (mỗi khi Becky đi chơi, ông Fiche, tay chân thân tín của hầu tước, báo ngay cho chủ biết vì được bọn bồi ngựa ở cửa hiệu cho vợ chồng Rawdon thuê xe ngựa thường xuyên thông tin về việc này); lão bảo bà Briggs dọn một tách cà phê rồi kể chuyện với bà ta rằng lão được nhiều tin tức rất tốt về việc học hành của thằng Rawdy trong trường... Chỉ năm phút sau, lão đã rõ rằng Becky chưa trả bà Briggs xu nào, chỉ tặng một chiếc áo lụa đen mà bà này rất thích.

Nghe bà Briggs thực thà kể lại câu chuyện, lão cũng buồn cười, vì cô bạn Becky quý hoá của chúng ta đã bịa chuyện kể tỷ mỉ với lão rằng bà Briggs nhận được tiền sung sướng quá. Một nghìn một trăm hai mươi lăm đồng tất cả... bà ta vội đem gửi ngay tại một nơi chắc chắn..., còn Becky phải trả một lúc số tiền lớn như vậy thì tiếc đứt ruột đi được. Có lẽ cô ta nghĩ thầm rằng: “Biết đâu lão già nghe mình nói dối thế lại không tòi ra cho mình thêm ít tiền nữa?” Nhưng lão hầu tước không có ý kiến gì thêm, ý hẳn lão cho rằng mình rộng rãi như vậy là đã quá đủ.

Lão còn tò mò về vốn liếng của bà Briggs, bà này cứ thực thà khai hết... nghĩa là bà Crawley chết đi có để lại cho ít tiền..., rồi họ hàng nhà bà Briggs xâu xé mất một ít... Trung tá Crawley vay một phần, vẫn trả lãi đều đặn..., hai vợ chồng ông Rawdon Crawley còn làm ơn vận động hộ với tôn ông Pitt để khi có dịp tôn ông sẽ đem nốt phần còn lại đặt lãi hộ tại một nơi thật chắc chắn. Lão hầu tước hỏi bà Briggs đã gửi Crawley bao nhiêu tiền, bà này đáp tất cả là hơn sáu trăm đồng bảng.

Kể chuyện xong. bà Briggs lại hối hận ngay vì mình quá thực, bà ta van xin hầu tước chớ nói lại với bà Crawley. “Ông trung tá đối với cháu tốt lắm.. Chỉ sợ ông giận trả lại cháu món tiền thì cháu chả biết đem đặt lãi ở đâu cho có lời bằng”. Hầu tước Steyne phì cười, hứa sẽ không bao giờ lộ chuyện; lúc ra về, lão còn không nhịn được cười. Lão nghĩ thầm: “Con bé quỷ quyệt thật. Dàn cảnh, đóng trò tài đến thế là cùng? Hôm nọ nó ỏn ẻn khéo quá suýt nữa moi được của mình thêm một món. Mình lăn lộn với đàn bà đã nhiều mà chưa từng thấy ai bợm bằng nó. So với nó, bọn kia chỉ là con nít. Mình thật là ngốc; rõ dại như vích. Dối trá đến thế thì trần đời có một.

Nhân việc ấy lão hầu tước càng kính phục trí thông minh của Becky. Bòn xu không khó lắm... nhưng moi được gấp đôi số tiền cần thiết, mà không trả ai đồng nào... ấy mới thật tài. Lão nghĩ tiếp: “Cái thằng cha Crawley bề ngoài như lù đù, thế mà đáo để thật. Vợ chồng nhà nó một đồng một cốt với nhau. Nom vẻ mặt và cách cử chỉ của hắn, đố ai bảo hắn biết tý gì về chuyện bòn xu của con vợ đấy, nhưng nhất định chính hắn xui vợ tán mình, chính hắn đã tiêu món tiền ấy không sai”. Nghĩ như vậy thì rõ ràng là lão ta lầm rồi. Nhưng lão vẫn cứ đinh ninh như thế nên từ đó về sau cách đối xử của lão với Rawdon không còn giữ được cái vẻ lịch sự nể nang như trước nhà. Lão không hề nghĩ rằng Becky lại có thể moi tiền của lão để dành làm vốn riêng; và cũng có thể tại lão căn cứ vào vô số kinh nghiệm bản thân về tư cách của nhiều ông chồng khác mà lão có dịp lợi dụng trong suốt cuộc đời trác táng từ trẻ đến già; những kinh nghiệm này đã khiến ta hiểu biết nhiều về những sự yếu đuối của con người. Trong đời mình, ngài hầu tước đã dùng tiền bạc mua được nhiều ông chồng quá rồi, bây giờ lão có tưởng lầm rằng Rawdon bán vợ mình để lấy món tiền kia, thì cũng không có gì là đáng trách.

Ngay sau đó, nhân lúc ngồi riêng với Becky, lão vui vẻ ngỏ ý khen cô ta khôn ngoan lấy được món tiền nhiều hơn số cần dùng.

Mới đầu Becky hơi chột dạ, kể ra cô ta cũng không có thói quen nói dối, trừ trường hợp bất đắc dĩ, song gặp những lúc gay go thế này thì Becky có thể bịa chuyện chống đỡ rất tài. Chỉ trong chớp mắt cô ta đã dựng đứng ngay được một câu chuyện có đầu có đuôi, nghe rất lọt tai để trả lời lão hầu tước. Cô ta thú nhận rằng những lời đã nói với lão là không đúng sự thực... Nhưng vì đâu cô ta phải nói dối. “Ôi ngài ơi, ngài không thể hiểu được em phải nín lặng mà đau khổ đến thế nào. Ngài chỉ thấy ngồi với ngài, em vui vẻ, sung sướng...nào có biết đâu nông nỗi khi em phải xa người hằng che chở cho mình. Chính nhà em đã hành hạ, dọa dẫm em, bắt phải xin ngài bằng được món tiền ấy. Biết thế nào ngài cũng hỏi xem tiêu việc gì, nhà em đã bắt em nói dối như vậy. Tiền ấy nhà em cầm cả. Anh ấy bảo rằng đã trả bà Briggs rồi. Em không muốn, mà em cũng không dám nghi ngờ anh ấy. Xin ngài hãy tha thứ cho anh ấy, chẳng qua vì túng quá nên phải làm liều; xin ngài thương lấy em là một người đàn bà đau khổ, đau khổ lắm”. Vừa nói, cô ta vừa khóc thảm thiết, chưa bao giờ thấy người đàn bà đức hạnh nào bị lâm vào cảnh thương tâm đến thế.

Hai người sóng đôi ngồi trên xe ngựa của Becky đi chơi quanh vườn hoa Nhiếp chính. Họ nói chuyện với nhau rất lâu, chuyện trò những gì, thiết nghĩ cũng chẳng cần phải kể lại. Chỉ biết kết quả là lúc về nhà, Becky chạy ngay đến ôm chầm lấy bà Briggs tươi cười báo cho biết là mới có một tin rất đáng mừng. Hầu tước Steyne đối xử thật là người cao quý rộng lượng; khi nào có dịp ngài luôn luôn nghĩ cách giúp đỡ, bây giờ Rawdy vào nội trú trong trường, nhà cũng không cần mượn người giúp việc nữa. Phải chia tay với bà Briggs cô ta thật đứt từng khúc ruột, nhưng bây giờ tiền nong eo hẹp, phải tần tiện hết sức mới đủ tiêu. Tuy vậy, cô ta cũng được an ủi đôi phần, vì bà Briggs sẽ tìm được một chỗ làm tốt hơn nhiều, dưới quyền ngài hầu tước vốn là người vô cùng rộng lượng. Bà Pilkington là quản gia trong lâu đài Gauntly đã quá già yếu, lại mắc bệnh thấp cốt, không đủ sức coi sóc một tòa nhà rộng lớn như vậy, bây giờ cần tìm người thế chân. Thật là một dịp may hiếm có. Gia đình ông chủ mỗi năm chỉ về lâu đài Gauntly độ một hai lần. Còn thì bà quản gia là bà chủ của tòa nhà lâu đài sang trọng ấy..., mỗi ngày có quyền mời bốn người cùng ăn, lại được giới tu sĩ và những người đứng đầu trong vùng đến thăm luôn luôn..., nghĩa là trong thực tế sẽ đóng vai Gauntly phu nhân. Trước bà Pilkingtơn, hai người nữ quản gia tại lâu đài này đã lấy chồng mục sư cả; riêng bà Pilkingtơn không có điều kiện, vì viên mục sư hiện tại lại trót là cháu bà mất rồi. Hiện giờ chưa phải đã giao ngay việc này cho bà Briggs, nhưng bà có thể đến thăm bà Pilkingtơn để xem nếu ưng đảm nhiệm công việc ấy thì nhận.

Lời nói nào tả xiết được nỗi cảm kích của bà Briggs. Bà ta chỉ yêu cầu Becky một điều là thỉnh thoảng cho phép thằng Rawdy xuống lâu đài thăm bà. Becky bằng lòng... bằng lòng hết. Lúc chồng đi chơi về, cô ta líu tíu kể lại với chồng tin mừng nói trên, Rawdon cũng vui vẻ lắm, thế là đỡ phải lo món nợ không trả được. Dĩ nhiên rồi thế nào bà Briggs cũng có tiền để tiêu pha... Nhưng Rawdy vẫn thấy thắc mắc làm sao ấy; câu chuyện nghe ra có cái gì hơi khác thường. Anh ta kể lại với Southdown việc hầu tước Steyne giúp gia đình mình; anh chàng trẻ tuổi này liếc nhìn Rawdon với một con mắt làm cho anh ta ngạc nhiên vô cùng.

Rawdon lại đem chuyện này kể với công nương Jane; bà chị dâu cũng ra vẻ hốt hoảng một cách kỳ lạ, cả Pitt cũng vậy. Hai vợ chồng nhà này bảo: “Thím ấy khôn khéo lắm, mà tính lại... ham vui, không nên cứ để la cà chơi bời hết chỗ nọ đến chỗ kia mà không có ai đi theo gìn giữ. Rawdon, thím ấy đi đâu, chú phải đi theo mới được; phải có ai luôn luôn gần thím ấy; hay là cho một cháu gái ở trại về, tuy chúng nó cũng không được khôn ngoan lắm”.

Tất nhiên là Becky đang cần người coi giữ. Song cũng phải thấy rằng bà Briggs không lẽ nào từ chối một dịp may độc nhất trong đời như vậy; bà ta thu xếp hành lý và đi lâu dài Gauntly. Vậy là hai tên lính gác của Rawdon bị sa vào tay địch.

Pitt đến thăm em dâu hỏi về việc cho bà Briggs, và nhiều chuyện tiếng khác. Becky hết sức trình bày rằng người chồng đáng thương của mình rất cần được hầu tước Steyne che chở, và nếu không cho phép bà Briggs nhận chỗ làm ấy thì chẳng hoá ra vợ chồng cô ta tàn nhẫn quá. Tha hồ cho Becky ngọt ngào, ỏn thót, rồi cười, rồi khóc, mặc, tôn ông Pitt vẫn không chịu nghe ra, cứ một mực như là gây sự với cô em dâu trước kia vẫn được quý mến. Pitt nói đến những chuyện danh dự của gia đình, tiếng tăm trong sạch xưa nay của dòng họ Crawley. Pitt có vẻ bực mình lắm khi nhắc đến chuyện em dâu tiếp đãi bọn trai trẻ người Pháp, cái bọn công tử bột ngông nghênh lấc cấc, và cả hầu tước Steyne nữa; gì mà lúc nào cũng thấy xe ngựa của lão đỗ lù lù ngoài cửa nhà em dâu, ngày nào cũng thấy lão đến chơi với em dâu hàng tiếng đồng hồ, đi đâu cũng thấy cặp kè, làm cho thiên hạ dị nghị. Lấy cương vị là anh cả trong gia đình, Pitt mong cô em dâu cần phải biết thận trọng. Thiên hạ đã bắt đầu xì xào bàn tán rồi đấy. Phải biết rằng hầu tước Steyne tuy là người có tài lớn, có danh dự cao thật, nhưng hễ lão để ý nhiều đến người đàn bà nào là người ấy dễ mang tiếng xấu lắm đấy. Pitt cầu khẩn van lơn, rồi ra lệnh cho em dâu phải hết sức giữ gìn trong khi giao tiếp với lão quý tộc.

Pitt muốn gì, Becky xin hứa vâng theo hết, nhưng rồi hầu tước Steyne vẫn cứ tiếp tục ra vào nhà cô như thường. Pitt lại càng cáu tợn. Không biết công nương Jane thấy chồng xích mích với Rebecca thì hả dạ hay là bực mình? Thấy hầu tước Steyne tiếp tục đến thăm Rebecca, Pitt không đến nữa. Công nương Jane cũng từ chối không giao thiệp với lão quý tộc như trước. Đêm hôm tổ chức diễn kịch đố chữ, hầu tước phu nhân có gửi thiếp mời. Nhưng công nương Jane không muốn đi riêng, Pitt cảm thấy cần đến dự, vì Hoàng tử cũng có mặt.

Tuy đến, nhưng hôm ấy Pitt ra về sớm; cô vợ cũng tán thành ý kiến của chồng. Hôm ấy Becky chỉ nói qua loa gọi là vài câu với Pitt, cô ta cũng không buồn để ý đến chị dâu nữa. Pitt Crawley tuyên bố rằng Becky hành động như vậy không đứng đắn chút nào, anh ta kịch liệt lên án lối chơi hoá trang diễn kịch, cho là không xứng đáng với phụ nữ Anh. Vở kịch diễn xong, Pitt gọi riêng em trai ra cự kịch liệt về tội bôi mặt đóng trò và cho phép vợ lên sân khấu mua vui cho thiên hạ. Rawdon hứa từ rầy sẽ không cho vợ diễn kịch nữa.

Có lẽ những lời bóng gió của anh trai và chị dâu khiến cho Rawdon hồi này đâm ra đứng đắn tợn. Anh có mặt ở nhà. Anh đích thân giong xe đưa vợ đi chơi. Becky đi đâu, anh chồng cũng chịu khó đi theo. Hầu tước Steyne đến chơi lần nào là y như gặp anh chàng trung tá ở nhà. Mỗi khi Becky ngỏ ý muốn chơi một mình hoặc nhận lời mời của khách, anh chồng lập tức ra lệnh dứt khoát bắt vợ phải từ chối. Coi điệu bộ anh chồng, Becky đành buộc lòng tuân theo. Nói cho đúng thì Becky thấy chồng lại săn sóc đến mình như vậy cũng không phải là khó chịu lắm. Chồng thì luôn luôn cau có nhưng cô ta tuyệt nhiên không. Dầu có khách hay không, bao giờ Becky cũng tươi tỉnh, săn sóc chồng thật chu đáo. Hai vợ chồng sống lại thời kỳ trăng mật năm xưa; lại vui vẻ săn đón, hết sức làm vui lòng nhau, và hoàn toàn tin cậy nhau như ngày trước. Cô ta bảo chồng: “Có anh cùng ngồi xe đi chơi thích bằng mấy phải ngồi với mụ Briggs ngớ ngẩn! Anh Rawdon yêu quý ơi, chúng mình đi chơi với nhau luôn nhé. Giá vợ chồng mình có thêm ít tiền thì thật là hạnh phúc thần tiên, nhỉ”.

Ăn xong, anh chồng ngả lưng thiu thiu ngủ trên ghế bành, anh ta không nhìn thấy mặt vợ đang ngồi đối diện với mình; bộ mặt sao mà ngơ ngác, mệt mỏi và dữ tợn. Nhưng tỉnh dậy, lập tức anh ta thấy ngay bộ mặt ấy tươi như hoa, vui vẻ ghé xuống hôn vào má mình. Anh chồng lấy làm ngạc nhiên sao mình lại có thể nghi ngờ vợ được. Không, anh ta chưa bao giờ nghi ngờ vợ. Những sự hiểu lầm, những ý thức ngờ vực khi trước chẳng qua cũng chỉ là chuyện ghen tuông bóng gió. Vợ anh ta vẫn quý chồng lắm, xưa nay bao giờ cũng quý chồng như vậy. Còn về chuyện được chú ý trong khi giao thiệp với bên ngoài, thì đâu phải là tại Becky? Trời sinh ra vợ anh ta để được mọi người chú ý. Thử xem có người đàn bà nào hát hay, nói chuyện giỏi bằng Becky? Rawdon nghĩ thầm: “Ước gì vợ mình quý con trai một tý thì thật là hoàn toàn”. Nhưng hai mẹ con không thể sao gần nhau được.

Đang khi đầu óc Rawdon rối tung lên vì những ý nghĩ ấy, thì xảy ra câu chuyện vừa kể ở chương trên. Anh chàng trung tá bất hạnh thế là bị giam một chỗ, không về nhà được.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét