Chương 13
TRỮ TÌNH VÀ NHỮNG THỨ KHÁC NỮA
Tôi sợ rằng chàng trai trẻ, người nhận những lá
thư của cô Amelia, là một nhà phê bình tàn nhẫn.
Trung úy Osborne bị một đống thư như thế đuổi
theo mình khắp chốn, khiến cho anh chàng gần như xấu hổ khi nghe bạn đồng ngũ
nói đùa mình về chuyện ấy; anh ta ra lệnh cho người hầu chỉ được trao thư cho
mình trong phòng riêng. Có lần mọi người thấy anh ta đốt một lá thư để châm
thuốc làm cho đại úy Dobbin sợ quá; tôi tin rằng Dobbin sẵn sàng bỏ ra một tờ
giấy bạc đánh đổi lấy tờ thư.
George cố gắng giấu kín tên người yêu của mình
trong một thời gian khá lâu; anh ta chỉ nói đại khái “có một người đàn bà”
trong việc này. Viên sĩ quan cầm cờ Spooney bảo viên sĩ quan cầm cờ Stubble:
“Mà không phải là người đàn bà đầu tiên đâu nhé. Tay Osborne này đến là quỷ sứ.
Ở Demerara, có một cô gái con một luật sư gần phát điên vì yêu anh ta; thế rồi
đến cô thiếu nữ xinh đẹp hai đời lai da đen, là cô Pye ở St. Vincent, anh biết
đấy; và từ khi trở về đây, anh ta khét tiếng là một tay Don Juan, lạy Chúa”.
Stubble và Spooney cho rằng “khét tiếng là một
Don Juan” tức là đức tính đẹp đẽ nhất của người con trai. Tiếng tăm Osborne nổi
như sóng cồn khắp trung đoàn. Anh ta nổi danh về tài săn bắn, nổi danh hát
giỏi, nổi danh trong khi diễu binh, lại là tay ăn tiêu hào phóng, vì ông bố cho
anh ta rất nhiều tiền. Áo của anh ta may khéo hơn áo của bất cứ sĩ quan nào
trong trung đoàn. Anh ta lại có nhiều áo hơn mọi người. Ai cũng quý mến anh ta.
Về tửu lượng anh ta có thể chấp tất cả mọi sĩ quan trong câu lạc bộ, kể cả viên
đại tá già Heavytop. Anh ta đấu quyền giỏi hơn cả Knuckles, một anh lính trơn
(anh này nếu không có tật say rượu thì đã được thăng chức hạ sĩ rồi, lại cũng
đã từng đấu quyền tranh giải); trong câu lạc bộ của trung đoàn, George là tay
chơi “batter” và “bowler” cừ nhất. Anh ta cưỡi con ngựa riêng của mình, con
“Chớp nhoáng”, và đã cướp được giải của nhà binh trong cuộc đua ở Quebec. Ngoài
Amelia còn vô khối cô gái mê tít anh chàng. Stubble và Spooney coi anh ta là
một thứ thần Apollo () Dobbin coi anh ta là một Crichton (); còn bà thiếu tá
O’Dowd thì công nhận anh ta là một thanh niên lịch sự, làm cho bà nhớ lại anh
chàng Fitzjurld Fogarty, thứ nam của bá tước Castlefogarty quá. Tha hồ cho
Stubble và Spooney cùng mọi người đoán phỏng về người đàn bà gửi thư cho
Osborne...người bảo chính là một nữ công tước ở Luân đôn phải lòng anh chàng,
kẻ đoán là con gái một đại tướng đã đính hôn với người khác nhưng vẫn điên
cuồng gắn bó với anh ta ... có người lại nói chính là vợ một nghị sĩ quốc hội
đang rủ anh ta đi trốn biệt tích một nơi... hoặc là một cô gái nào đó đang bị
cuốn hút vào trong một mối tình mê ly kích thích, lãng mạn, bị mọi người ruồng
bỏ; Osborne không hề rọi một chút xíu ánh sáng nào vào những lời phỏng đoán mơ
hồ kia, cứ để mặc cho bè bạn và những người mê mình tưởng tượng, sắp đặt mọi
tình tiết của câu chuyện. Và nếu đại úy Dobbin không tiết lộ thì cả trung đoàn
không sao biết được sự thực trong câu chuyện yêu đương này.
Một hôm, viên đại úy đang ăn sáng trong phòng
ăn chung của sĩ quan thì Cackle, một sĩ quan phụ tá quân y, cùng Stubble và
Spooney bàn tán về chuyện yêu đương của Osborne; Stubble tuyên bố rằng người
đàn bà chính là một vị nữ công tước hầu cận Nữ hoàng Charlotte, còn Cackle thì
thề rằng cô ta là một nữ ca sĩ ở rạp Opera, tính tình cực kỳ bợm bãi. Nghe thấy
thế, Dobbin bị xúc động mạnh quá đến nỗi quên phắt rằng mồm mình hãy còn đầy
bánh mì phết bơ và trứng, và không nên tiết lộ câu chuyện làm gì; anh ta buột
mồm nói:
- Cackle, anh là một thằng ngu xuẩn: bao giờ
anh cũng ăn nói láo lếu toàn chuyện bậy bạ. Không phải Osborne sắp đi trốn cùng
một nữ công tước, hay sắp làm hại cuộc đời một cô gái làm các đồ trang sức phụ
nữ đâu. Cô Sedley là một thiếu nữ duyên dáng nhất đời xưa nay chưa từng thấy.
George đã đính hôn với cô ấy từ lâu lắm rồi; và trước mặt tôi, xin đừng có ai
nói xấu gì cô ấy mà không xong đâu.
Mặt Dobbin đỏ tía lên; anh ngưng lại, uống vội
một tách nước trà, suýt nghẹn. Nửa giờ sau, khắp trung đoàn ai cũng biết
chuyện; và ngay tối hôm ấy bà thiếu tá O’Dowd vội gửi thư cho cô em chồng là
Glorvina ở thị trấn O’Dowd, nhắn đừng rời Dobbin vội chàng trẻ tuổi Osborne đã
đính ước quá sớm rồi.
Tối hôm ấy, bà ta nâng một cốc rượu whisky lựa
lời chúc tụng viên trung úy; anh chàng cáu quá trở về nhà gây sự với Dobbin
(anh này không nhận dự tiệc với bà thiếu tá O’Dowd, ngồi trong phòng riêng để
thổi sáo, và tôi tin rằng để làm cả những câu thơ buồn hiu hắt). .. gây sự vì
Dobbin đã tiết lộ bí mật.
Osborne tức giận quát:
- Ai mượn anh dính vào chuyện riêng của tôi?
Bây giờ khắp trung đoàn đều biết tôi sắp cưới vợ, thế là cái quái gì? Làm sao
mà cái mụ già ngồi lê đôi mách Peggy O’Dowd ấy lại có thể ăn nói dông dài với
tôi ngay trên bàn ăn của mụ, rồi tuyên bố việc đính hôn của tôi với khắp bàn
dân thiên hạ? Nói tóm lại, anh có quyền gì mà bảo tôi hiện đã đính hôn, và dính
dáng vào việc của tôi, hử Dobbin?
Dobbin đáp:
- Tôi thấy rằng...
Anh bạn ít tuổi hơn ngắt lời:
- Thấy cái con khỉ. Dobbin. Tôi mang ơn anh
nhiều, tôi biết rõ lắm, rõ quá lắm; nhưng tôi không thích anh cậy hơn tôi năm
tuổi mà lúc nào cũng dạy khôn tôi. Từ giờ, tôi cóc chịu để cho anh giở mãi cái
thái độ thương xót trịch thượng, đàn anh với tôi nữa. Thương xót với chả che
chở? Tôi muốn biết tôi là đàn em của anh về cái gì?
Đại uý Dobbin hỏi:
- Thế có phải anh đã đính ước không?
Tôi đã đính ước thì có quan hệ cóc gì đến anh
hoặc đến người nào khác ở đây?
Dobbin lại hỏi:
- Anh có xấu hổ vì điều ấy không?
George hỏi lại:
- Tôi muốn được biết anh lấy quyền gì mà hỏi
tôi câu ấy?
Dobbin đứng phắt dậy:
- Lạy Chúa, anh không định nói muốn cắt đứt
việc đính ước ấy chứ?
Osborne giận dữ đáp:
- Nói một cách khác, anh muốn hỏi tôi có phải
là một người biết trọng danh dự hay không phỏng, có đúng ý anh như vậy không?
Gần đây, đối với tôi, anh có cái giọng...khiến tôi không thể nào chịu đựng được
nữa.
- Tôi làm gì anh? George, tôi chỉ bảo anh rằng
anh bỏ rơi một thiếu nữ dịu dàng, hiền hậu; tôi chỉ bảo anh rằng khi nào về
tỉnh, anh nên đến thăm cô ấy đừng đến cái sòng bạc ở phố St. James nữa.
George cười khẩy, nói:
- Tôi đoán rằng, anh muốn đòi nợ tôi.
Dobbin đáp:
- Dĩ nhiên, tôi muốn đòi nợ...tôi vẫn đòi luôn,
đúng không? Anh nói như mình rộng rãi lắm ấy.
Đến đây George hối hận nói:
- Không, chết cha! William, anh tha lỗi cho
tôi. Anh đã tốt với tôi rất nhiều, có thượng đế chứng giám. Anh, đã giúp tôi
thoát khỏi nhiều chuyện rắc rối. Lúc thằng Crawley trong đội ngự lâm quân được
của tôi món tiền ấy, suýt nữa thì tôi đi đứt, nếu không nên ác với tôi thế,
không nên lúc nào cũng giảng đạo cho tôi nghe. Tôi vẫn yêu Amelia lắm, tôi thờ
phụng cô ấy và cả những thư từ này nữa. Xin anh đừng giận; cô ấy không có lỗi
gì hết, tôi hiểu lắm. Nhưng anh biết đấy; không đánh bạc thì được cái gì, tôi
cũng không thấy thú. Trung đoàn vừa mới ở Tây Ấn về, cũng phải cho tôi “sống”
một chút chứ. Bao giờ cưới vợ tôi sẽ tu tỉnh lại. Tôi lấy danh dự mà cam đoan
như vậy. Và tôi bảo...Dob ạ...đừng giận tôi nữa: tháng sau tôi sẽ trả anh một
trăm đồng, khi nào tôi biết ba tôi vớ được món lãi gì bở. Tôi sẽ xin ông
Heavytop cho nghỉ phép; ngày mai, tôi về tỉnh và đến thăm Amelia... nào, bây
giờ anh đã bằng lòng chưa?
Viên đại úy tốt bụng đáp:
- George, không ai giận anh được lâu; còn về
chuyện tiền nợ thì anh hiểu đấy, nếu tôi thiếu tiền, chắc anh sẵn lòng cho tôi
tiêu chung đến đồng xu cuối cùng của anh.
- Lạy chúa, tôi sẵn lòng, Dobbin ạ.
George đáp có vẻ rất hào phóng, tuy rằng anh ta
không bao giờ để dành được lấy một xu.
- George, tôi hy vọng rằng anh chơi bời thế
cũng đã đủ rồi. Nếu anh được nhìn thấy mặt cô Emmy đáng thương khi cô ấy gặp
tôi hỏi thăm tin anh hôm nọ thì anh sẽ vứt phăng cái bàn bi-a đi rồi. Về mà an
ủi cô ấy đi, đồ tồi. Hãy viết cho cô ấy một lá thư thật dài; hãy làm một việc
gì cho cô ấy được sung sướng; tôi chỉ mong ước có thế thôi.
Viên trung úy có vẻ tự mãn, đáp:
- Tôi tin rằng cô ấy yêu tôi lắm.
Rồi anh ta lại chuồn đi đàn đúm suốt buổi tối
hôm ấy với mấy anh bạn chơi bời trong câu lạc bộ nhà binh.
Trong lúc ấy thì ở khu phố Russell, Amelia đang
ngước nhìn mặt trăng; mặt trăng đang soi tỏ chốn lặng lẽ này cũng như đang soi
tỏ trại lính ở Chatham, nơi Osborne đóng quân; cô đang tự hỏi không biết người
yêu đang làm gì. Cô nghĩ thầm: “Có nhẽ anh ấy đang đi kiểm tra các vọng canh,
có lẽ anh ấy đang tạm trú quân ở đâu đấy; có lẽ anh ấy đang săn sóc bên giường
bệnh của một người bạn bị thương, hoặc đang ngồi lẻ loi trong phòng riêng
nghiên cứu chiến thuật quân sự”. Và những ý nghĩ êm ái của cô bay lên không,
như những thiên thần có cánh, dọc theo dòng sông bay đến Chatham và Rochester,
cố nhòm ngó vào trại lính, chỗ George đang...
Ngẫm cho kỹ, tôi cho rằng cổng trại đóng chặt,
lính canh không cho phép ai ra vào như thế lại tốt cơ đấy; thành ra vị thiên
thần bé nhỏ đáng thương mặc áo trắng không thể nghe thấy những bài hát bọn trai
trẻ đang gào lên bên những cốc rượu mạnh.
Sau hôm xảy ra câu chuyện ở trại lính Chatham,
anh chàng Osborne muốn tỏ ra mình đã nói là làm, bèn sửa soạn về tỉnh; đại úy
Dobbin tỏ ý rất tán thành. Osborne muốn mua một món quà mọn tặng Amelia; chết
nỗi chẳng còn xu nào, mà ông cụ lại chưa cho tiền.
Nhưng Dobbin không chịu để cho con người tốt
bụng và hào phóng ấy phải thất vọng vội đưa ngay cho Osborne mấy tờ giấy bạc;
sau vài câu từ chối gọi là lấy lệ, Osborne cầm đút túi. Tôi dám cam đoan rằng
anh ta cũng muốn mua một món quà gì thật đẹp tặng Amelia; có điều, khi bước
xuống xe ở phố Fleet, anh ta thấy một cái cặp áo sơ-mi đẹp quá bày trong một
hiệu kim hoàn, nó quyến rũ không sao cưỡng lại được. Trả tiền xong, chả còn bao
nhiêu mà tính đến chuyện mua quà tặng người yêu nữa. Nhưng không sao, xin các
bạn yên trí rằng Amelia không đợi quà của anh ta đâu. Lúc George đến khu phố
Russell, mắt cô sáng bừng lên như nắng rọi. Bao nhiêu nỗi lo lắng, sợ hãi,
những dòng nước mắt, những sự phỏng đoán rụt rè, những nỗi trằn trọc ròng rã
không biết bao đêm ngày, chỉ trong một phút tiêu tan hết cả, trước nụ cười hấp
dẫn quen thuộc kia. Đứng trong khung cửa phòng khách, người yêu cô như tỏa
sáng...nguy nga với bộ ria mép màu hổ phách, đẹp như một vị thần. Sambo vào báo
tin có đại úy Osborne đến (bác thăng cho viên sĩ quan trẻ tuổi thêm một trật);
bác nhăn răng cười thông cảm, mặt tươi hẳn lên khi thấy cô thiếu nữ đỏ mặt, từ
chỗ ngồi ngóng trông cạnh cửa sổ vội vàng nhảy bổ ra; Sambo kín đáo lùi ra
ngoài. Cánh cửa vừa đóng lại, cô khấp khởi nép mình vào ngực trung úy Osborne
dường như đó là nơi duy nhất ủ ấp tâm hồn mình.
Ôi hỡi tâm hôn bé nhỏ đáng thương đang hồi hộp
kia! Cái cây đẹp nhất trong cả cánh rừng, thân cây thẳng tắp, cành mạnh khỏe,
lá rườm rà , mà người chọn làm nơi dựng tổ ấm và líu lo ca hát, không bao lâu
đâu có thể bị người ta chú ý tới, và bị đốn gãy, kêu “rắc” một cái là xong. Đã
từ lâu lắm rồi, người ta vẫn lấy hình ảnh một cái cây để ví với người đàn ông!
George rất dịu dàng hôn Amelia vào trán, vào
đôi mắt long lanh, và vẫn tỏ vẻ rất tình tứ, rất đáng yêu; còn Amelia thì khen
chiếc cặp áo sơ-mi nạm kim cương của người yêu (mà trước kia chưa hề bao giờ
thấy anh ta dùng) là một vật trang sức đẹp nhất xưa nay.
Bạn đọc hẳn chú ý đến tính tình của viên trung
úy trẻ tuổi khi đọc đoạn miêu tả câu chuyện ngắn ngủi giữa anh ta và đại úy
Dobbin; rất có thể bạn đã muốn có ý kiến kết luận về tư cách của Osborne. Một
anh chàng người Pháp tồi tệ nào đó đã nói rằng trong một “vụ” yêu nhau, phải có
hai bên: một bên yêu, và một bên thì hạ cố chịu để cho người ta yêu mình. Tình
yêu có thể là ở phía đàn ông, mà cũng có thể là ở phía đàn bà. Rất có thể một
anh chàng si tình nào đó đã lầm lẫn, thấy vô tình tưởng là e lệ, trong sự đần
độn lại ngỡ là tính nhút nhát của gái trinh, gặp người ngốc nghếch lại yên trí
là kín đáo dịu dàng, tóm lại, trông gà cứ nghĩ là cuốc. Cũng rất có thể một bạn
nữ độc giả nào đó đã khoác cho một con lừa tấm áo huy hoàng lộng lẫy theo trí
tưởng tượng, kính phục sự ngu xuẩn của nó như là tính giản dị cao thượng, thờ
phụng thói ích kỷ của nó coi như thái độ của kẻ cao sang kiêu hãnh, lầm sự đần
độn của nó với sự sang trọng đường bệ, và đối đãi với nó như là cô Titania
trong câu chuyện tiên đối đãi với một anh thợ dệt ở thành Athens. Tôi đã từng
được chứng kiến những màn hài kịch về sự lầm lẫn như vậy vẫn tiếp tục diễn ra
trong đời sống. Song, chắc chắn cô Amelia yên trí rằng người yêu của mình là
một trong số những con người giỏi giang, nổi tiếng nhất trong nước và trung úy
Osborne rất có thể cũng nghĩ như thế.
Tính anh ta hơi bừa bãi một chút; có biết bao
thanh niên tính tình như vậy; và phải chăng thà rằng bừa bãi, con gái họ lại
thích hơn là ngờ nghệch? Anh ta chưa hết tuổi chơi bời đâu; nhưng cũng sắp đến
lúc tu tỉnh rồi; bây giờ chiến tranh đã hết, anh ta sẽ giải ngũ. Con quỷ đảo
Corse đã bị nhất ở đảo Elba, do đó, cũng hết cả thăng trật, mà anh ta cũng
không còn hy vọng gì thi thố khả năng quân sự của mình nữa. Với số tiền bố cấp
cho, cộng với tiền vốn riêng của Amelia, hai vợ chồng rất có thể sống một cuộc
đời ấm cúng tại một nơi thôn quê nào đó, cảnh vật xung quanh thuận tiện cho
việc giải trí. Anh ta sẽ săn bắn chút ít, làm trại chút ít, và hai vợ chồng sẽ
sống rất hạnh phúc... còn như có vợ rồi mà cứ tiếp tục tại ngũ thì không được.
Cứ tưởng tượng xem, bà George Osborne mà phải thuê nhà sống ở tỉnh lẻ, hoặc tai
hại hơn, sống ở Đông Ấn hay Tây Ấn, giữa một xã hội toàn là những sĩ quan, và
bị bà thiếu tá O’Dowd lên mặt bề trên? Nghe Osborne kể chuyện về bà thiếu tá
O’Dowd, Amelia suýt chết vì cười.
George yêu cô quá, không nỡ bắt cô phải chịu
phụ thuộc vào mụ đàn bà khủng khiếp ấy và những cử chỉ thô lỗ của mụ; anh ta
cũng không muốn cô phải sống cảnh sống vất vả của vợ một quân nhân. Anh ta
không lo cho thân mình đâu, nhưng cô thiếu nữ bé bỏng thân yêu kia cần phải có
địa vị trong xã hội mà cô sẽ sống xứng đáng với tư cách là vợ anh ta. Chắc chắn
là cô sẽ ưng thuận tất cả những đề nghị ấy, như cô sẵn sàng ưng thuận bất cứ
điều gì George đề nghị.
Đôi tình nhân cứ tiếp tục trò chuyện với nhau
như vậy cùng nhau say sưa xây dựng bao nhiêu lâu đài trong mộng tưởng suốt
trong hai tiếng đồng hồ (Amelia thì ra sức mà trang hoàng cho những lâu đài ấy
đủ thứ: nào vườn hoa, lối đi chơi, nhà thờ làng, trường học v.v...trong khi
George chỉ nghĩ đến những chuồng ngựa, cũi chó, và hầm rượu); anh chàng trung
úy chỉ có mỗi một ngày nghỉ để về chơi tỉnh mà có bao nhiêu là việc phải giải
quyết, bèn đề nghị cô Emmy dùng bữa với cô chị chồng và cô em chồng tương lại.
Amelia vui vẻ nhận lời ngay. Anh chàng bèn dẫn người yêu đến gặp hai cô thiếu
nữ, rồi bỏ mặc cô đó mà đi lo công việc riêng của mình; Amelia chuyện trò ríu
rít làm cho hai cô kia ngạc nhiên quá, không biết George làm thế nào mà cô ấy
biến đổi vậy.
Tóm lại, anh ta đi ăn kem trong một hiệu bánh ở
Charing Cross, đến Pall Mall thử một tấm áo mới, rẽ vào tiệm của lão Slaughters
một chút, sai người đi mời đại úy Cannon, cùng chơi một ván bi-a, anh ta được
tám ván rồi mới quay về khu phố Russell để ăn chiều chậm mất nửa giờ nhưng rất
vui ve.
Riêng ông lão Osborne thì không vui vẻ tý nào.
Lúc ông ta từ khu City trở về nhà, qua phòng khám gặp hai cô con gái và bà
Wirt, thấy mặt ông ta xệ ra, nghiêm trang và vàng khè; cứ nhìn mặt ông lão và
đôi lông mày rậm đang cau lại, họ cũng rõ ông đang có điều gì phiền muộn lắm.
Lúc Amelia bước ra chào ông.
Bao giờ cô cũng run run sờ sợ khi phải chào ông
ta.
Ông chỉ sẽ “hừ” một tiếng trả lời và cái bàn tay
to tướng đầy lông lá của ông buông rơi bàn tay bé nhỏ của cô không muốn giữ
lại. Ông ta ngoái cổ gườm gườm nhìn cô con gái lớn; cô này hiểu thầm cái nhìn
của bố ý muốn hỏi “Thế quái nào mà con bé kia lại đến đây nhỉ?” Cô vội đáp:
- Ba ạ, anh George về chơi; anh ấy đến trại ngự
lâm quân sắp về đây ăn cơm đấy.
- Hừ, nó về hả? Jane, tao không muốn chờ cơm nó
đâu.
Vừa nói ông già vừa ngồi phịch xuống chiếc ghế
bành riêng của mình; từ lúc ấy một sự im lặng hoàn toàn bao trùm căn phòng
khách lịch sự; chỉ nghe tiếng chiếc đồng hồ kiểu Pháp to tướng kêu tích tắc
tích tắc.
Lúc chiếc đồng hồ trên có tượng Iphigenia bị
hiến tế bằng đồng nặng nề ngân vang năm tiếng như chuông nhà thờ, ông Osborne
giơ tay phải kéo mạnh dây chuông; bác quản lý chạy vội vào. Ông quát:
- Dọn ăn?
Bác quản lý đáp:
- Thưa ngài, cậu George chưa về à.
- Cậu George chết tiệt? Tao có phải là chủ nhà
này không? Mặt ông Osborne cau lại, Amelia run bần bật. Ba người phụ nữ kia
thầm đưa mắt hỏi nhau. Tiếng chuông báo giờ ăn đã vang lên dưới nhà. Chuông
dứt, ông chủ gia đình thọc hai tay vào hai cái túi to kếch trên tấm áo khoác
màu xanh có khuy đồng, và không chờ ai vào mời, một mình rảo bước xuống thang
gác, còn ngoái cổ lại cau mặt nhìn Wirt và ba cô thiếu nữ.
Bốn người đứng dậy rón rén bước theo ông già;
một cô hỏi:
- Này có chuyện gì đấy nhỉ?
Bà Wirt đáp:
- Tôi đoán cổ phần sụt giá rồi.
Cứ thế đám đàn bà con gái im lặng sợ hãi run
rẩy bước theo ông chủ gia đình đang lầm lì đi trước.
Họ lặng lề ngồi vào chỗ. Ông ta lầm bầm cầu
kinh, nghe như chửi ai, và những cái vung lớn bằng bạc úp trên mặt đĩa được cất
đi. Amelia ngồi trên ghế mà run quá; cô ngồi sát cạnh ông Osborne, lại chỉ có
một mình không có ai ngồi cạnh cô mé bên này vì George chưa về.
- Xúp?
Ông Osborne nắm chặt chiếc thìa lớn vừa hỏi vừa
nhìn chằm chằm vào mặt cô, giọng nói như vang từ đáy mồ, ông đổ xúp vào đĩa cho
cô và cho mọi người rồi lặng yên một lúc lâu. Cuối cùng ông nói:
- Dọn đĩa của cô Sedley đi. Cô ấy không ăn được
xúp. Tôi cũng thế. Xúp nấu tồi quá. Dọn món xúp đi, Hicks; ngày mai tống cổ
thằng bếp, nghe không, Jane .
Lên án món xúp xong, ông Osborne đưa ra mấy
nhận xét cộc lốc về món cá, vẫn cứ cái giọng thô bạo giễu cợt, và chửi
Billingsgate bằng một câu thô tục không thích hợp lắm với hoàn cảnh. Đoạn ông lại
ngồi yên lặng, nốc cạn mấy cốc rượu vang liền, mỗi lúc trông càng thêm đáng sợ.
Mãi khi nghe tiếng George về gõ cửa, mọi người mới bắt đầu trở lại vui vẻ.
- Tôi không về sớm hơn được. Tướng Daguilet bắt
tôi đợi mãi ở trại Ngự lâm quân. Không cần xúp và cá, cho tôi ăn gì cũng
được...tôi không khó tính đâu. Thịt cừu cũng ngon... ăn gì cũng ngon.
Anh ta vui tính quá, trái hẳn với ông bố cứ lầm
lầm lỳ lỳ. Suốt bữa ăn, anh ta chuyện trò tíu tít, ai cũng thích...đặc biệt có
một người thích nhất; không nói, ta cũng đã rõ.
Những bữa tiệc trong gia đình ông Osborne
thường kết thúc bằng món tráng miệng là cam và rượu vang; mấy cô thiếu nữ vừa
bàn tán với nhau xong về hai thứ này thì nghe chuông báo hiệu đi lên phòng
khách, bèn đứng dậy rời khỏi phòng ăn. Amelia hy vọng George cũng sẽ lên ngay
phòng khách; cô bắt đầu chơi vài bản “valse” (điệu này mới du nhập) trên chiếc
đàn dương cầm lớn bốn chân có chạm trổ, có nắp đậy bọc da kê trong phòng khách
trên gác. Nhưng tiếng đàn cũng không gọi được anh chàng: dễ thường anh ta không
muốn nghe điệu “valse” thì phải; và tiếng đàn lắng xuống tắt dần. Lúc này,
người nhạc công thất vọng đã rời khỏi cây đàn đồ sộ. Mặc ba người bạn đang biểu
diễn mấy bản nhạc mới nhất họ vừa học, chơi rất to rất hay, cô không nghe thấy
một tiếng nào, chỉ ngồi buồn rầu nghĩ ngợi phỏng đoán toàn chuyện không hay.
Vẻ mặt cau có của Osborne xưa nay vẫn đáng sợ,
nhưng chưa bao giờ đối với cô lại có vẻ khủng khiếp đến thế. Mắt ông rõi theo
cô lúc bước ra khỏi phòng, dường như cô đã phạm tội gì ấy. Lúc người nhà bưng
cà phê lên, cô giật nẩy mình như thể bác Hicks có ý định mời mình uống một chén
thuốc độc. Có chuyện bí mật gì đang lởn vởn quanh đây thì phải? Ôi, những người
đàn bà. Họ nuôi nấng, nâng niu những linh cảm, ôm ấp cả những ý tưởng đen tối nhất
như họ ôm ấp những đứa con đẻ xấu xí của họ.
George Osborne thấy dáng điệu cha lầm lỳ cũng
lấy làm lo lắng. Cứ nom đôi lông mày cau lại và cái nhìn giận dữ rõ rệt như thế
thì hy vọng gì moi được tiền của ông già, mà George thì đang túng tiền quá. Anh
ta bắt đầu bằng việc khen rượu của cha rất ngon. Thường thường dùng cách ấy để
lấy lòng ông già vẫn có kết quả tốt.
- Ba ạ, ở Tây Ấn chúng con không bao giờ được
uống thứ rượu Madeira ngon như vậy. Bữa nọ số rượu ba gửi cho con bị đại tá
Heavytop lấy mất ba chai.
Ông già nói:
- Thật không? Tôi mua mỗi chai mất ba si-linh đấy.
George cười hỏi:
- Cha có bán lại sáu ghi-nê một tá không nào? Có một bậc tai mặt nhất trong
nước muốn dùng một ít dấy.
Ông bố lầm bầm:
- Thế hả? Mong rằng ông ta tìm mua được.
- Ba ạ, hồi tướng Daguilet ở Chatham, đại tá Heavytop có mời ăn sáng, và
hỏi xin con vài chai vang. Đại tướng thích loại rượu ấy lắm...đang cần một
thùng để biếu ngài Tổng tư lệnh. Ông ta là cánh tay phải của Hoàng tử.
- Rượu ấy thì ngon tuyệt.
Đôi lông mày cau có đáp, và từ đó nom có vẻ tươi tỉnh hơn chút ít. George
sắp sửa lợi dụng cơ hội ngỏ lời xin cha ít tiền, thì vẻ mặt ông già trở lại
nghiêm trang như cũ, tuy có phần thân mật hơn. Ông bảo con trai rung chuông gọi
đem rượu nho:
- George, thử xem có ngon bằng các loại rượu Madeira mà Hoàng tử đã thưởng
thức không. Vừa uống rượu, ta vừa bàn với nhau một câu chuyện quan trọng.
Đang ngồi nóng ruột đợi trên gác, Amelia nghe tiếng chuông kêu vang. Không
rõ tại sao cô nghĩ ngay rằng tiếng chuông bí mật ấy báo hiệu điều gì không may.
Người ta thường có những sự linh cảm đôi khi cũng rất đúng.
Sau khi từ từ nốc cạn chén đầu tiên, ông già nói:
- George, điều tôi muốn biết rõ là anh và...à...và cái con bé trên gác kia
bây giờ ra sao?
George mỉm cười tự mãn đáp:
- Thưa ba, con tưởng khó gì mà không biết. Rõ
quá, ba ạ gớm, rượu ngon tuyệt!
- “Rõ quá”, thế là thế nào?
- Sao nữa, chết cha? Thôi đừng dồn con đi. Tính
con đứng đắn lắm. Con...ạ...con không được là tay “điển trai cho gái phải
lòng”, nhưng con dám tin rằng, cô ấy mê con như điếu đổ. Chỉ thoáng qua là ai
cũng phải thấy như thế.
- Còn anh thì sao?
- Còn sao nữa; thưa ba, hồi còn bé không phải
chính ba ra lệnh cho con lấy cô ấy làm vợ sao? Các cụ đã đính ước với nhau từ
đời thủa nào rồi còn gì?
- Ông ngoan lắm. Tôi cũng đã biết ông đi lại
chơi bời với bá tước Tarquin, với đại úy Crawley trong đội Ngự lâm, với ngài
Deuceace và những người tương tự ra sao rồi. Ông cứ liệu hồn, cứ liệu hồn đấy.
Ông già nhắc đến những cái tên quý phái bằng
một giọng vô cùng khoái trá. Bất cứ khi nào gặp một người có danh vọng, ông ta
cũng khúm núm, một điều bẩm quan, hai điều bẩm quan, như tất cả mọi người dân
Anh có tư tưởng tự do khác. Đoạn ông ta quay về nhà, giở cuốn: “Danh bạ quý
tộc” ra tra tiểu sử người ấy và cố xem bằng được tên người ấy vào trong câu
chuyện hàng ngày, hoặc khoác lác với mấy cô con gái về vị quý tộc ông quen
biết. ông ta phủ phục xuống và tưởng như được sưởi ấm khi gần gũi người quyền
quý, y như những kẻ hành khất người xứ Naples hay sưởi ấm dưới ánh mặt trời.
Nghe đến mấy cái tên ấy George hoảng quá; anh ta sợ rằng có thể ông già đã nghe
ai mách chuyện con trai rong chơi bài bạc. Nhưng anh chàng yên tâm ngay vì nhà
luân lý lão thành chỉ bình thản nói.
- Được, được lắm. Trẻ tuổi là tuổi trẻ và, anh
George, điều tôi lấy làm an ủi là thấy anh sống giữa giới thượng lưu của nước
Anh; tôi mong và tin rằng anh sẽ sống như vậy, cũng như tôi có điều kiện cho
phép anh sống như vậy.
George lập tức bắt lấy cơ hội:
- Cảm ơn cha; nhưng sống giữa những bậc tai to
mặt lớn không tiền không được; thế mà túi tiền của con thì cha xem đây này. Anh
ta giơ cái túi của Amelia đan hộ cho cha coi, trong túi chỉ còn lại đúng một
tấm giấy bạc vay của Dobbin.
- Anh sẽ không thiếu tiền. Con trai một thương
gia người Anh sẽ không thiếu tiền tiêu. George, tiền của cha cũng quý như tiền
của người khác, con ạ; và cha cũng không hẹp hòi đâu. Ngày mai, anh đi qua khu
City nhớ ghé vào thăm ông Chopper; ông ấy sẽ đưa cho anh một ít tiền. Nếu tôi
biết anh đi lại với những người có danh vọng, tôi sẽ không tiếc tiền cho anh
tiêu, vì tôi hiểu rằng trong xã hội thượng lưu không thể có điều gì xấu. Tôi
không kiêu hãnh; tôi sinh ra là con nhà tầm thường, nhưng anh thì có nhiều
thuận lợi. Hãy lợi dụng những thuận lợi đó. Hãy đi lại giao thiệp với bọn trai
trẻ con nhà quý phái, Rất nhiều người trong bọn họ không có nhiều tiền để tiêu
pha bằng anh đâu. Còn như về chuyện những cái mũ chùm màu hồng (nói đến đây,
dưới chòm ông mày rậm của ông, sáng lên một cái nhìn đầy ý nghĩa nhưng không
tươi tỉnh lắm) ...thì, hừ; rồi những chuyện trẻ con ấy sẽ đi qua... Tôi chỉ ra
lệnh cho anh cần tránh một điều; nếu anh không nghe, tôi thề sẽ không cho anh
một đồng xu nào nữa, tức là đừng có đánh bạc.
George đáp:
- Ồ, điều đó thì dĩ nhiên rồi, thưa cha.
- Nhưng ta hãy quay lại câu chuyện về cô
Amelia. Tại sao anh lại không muốn lấy vợ con nhà sang trọng hơn con gái một
nhà buôn tín phiếu... anh cho tôi biết?
George vừa cắn hạt dẻ vừa đáp:
- Thưa ba, đó là việc chung của gia đình. Ba và
ông Sedley đã đính ước với nhau hàng thế kỷ nay rồi còn gì.
- Tôi không chối cãi điều đó, nhưng cũng tùy
từng hoàn cảnh, anh hiểu không? Tôi không chối cãi rằng ông Sedley đã giúp tôi
làm nên; đúng hơn, ông ấy dẫn tôi đi vào con đường làm ăn phát đạt, và nhờ tài
trí riêng của tôi, tôi đã chiếm một địa vị đáng kiêu hãnh trong giới buôn sáp
và trong khu City ở Luân-đôn. Tôi đã tỏ lòng biết ơn đối với ông Sedley; và gần
đây, anh nên biết ông ấy đã rõ tấm lòng tôi; cứ xem con số, ngân phiếu của tôi
thì đủ biết. George, tôi nói riêng cùng anh rằng coi tình hình kinh doanh của
ông Sedley, tôi không vui lòng lắm; lão Chopper thư ký riêng của tôi cũng thấy
thế, mà lão là một tay cáo già, hiểu thấu tình hình Phòng Hối đoái hơn bất cứ
người nào ở Luân- đôn này. Hulker và Bullock cũng phải kém tài ông ta. Tôi sợ
ông ta muốn chơi lối “được ăn cả ngã về không” đấy. Họ đồn rằng chiếc tầu
“Thiếu nữ Amelie” ngày trước là của ông ta về sau bị chiếc tầu cướp bể
“Molasses” của Mỹ bắt. Điều đó thì chắc chắn rồi...trừ phi mắt tôi nom thấy con
Amelia có một vạn đồng hồi môn, anh không được lấy nó làm vợ. Con gái một anh
phá sản không thể làm dâu nhà tôi được. Thôi, uống nốt rượu đi...hoặc gọi nó
lấy cà-phê.
Nói đoạn ông Osborne mở rộng tờ báo buổi tối
ra; George hiểu rằng cuộc hội ý đã xong và bố sắp sửa đánh một giấc ngủ.
Anh ta rất hồi hộp, vội vàng leo lên gác chỗ
Amelia ngồi chơi. Tối hôm ấy, anh ta tỏ ra săn sóc đến người yêu nhiều hơn mọi
lần, muốn làm cho cô vui lòng hơn, cử chỉ trừu mến hơn, nói chuyện có duyên
hơn, đã lâu lắm không được như vậy. Vì sao thế, phải chăng vì thấy trước sự
không may đe dọa người yêu mà tấm lòng độ lượng của George xúc động? Hoặc phải
chăng vì nghĩ rằng mình sắp mất người đàn bà thân yêu ấy mà anh ta càng quý báu
hơn?
Amelia còn nhớ rất lâu những kỷ niệm của buổi tối
hạnh phúc ấy, nhớ từng lời người yêu nói, từng cái nhìn, từng bài hát, từng
dáng điệu của người yêu, nhớ lúc anh ta ghé sát xuống bên hoặc từ xa đứng nhìn
lại. Đối với cô, chưa có buổi tối nào sống trong gia đình Osborne lại trôi qua
nhanh chóng như tối hôm ấy. Và lần đầu tiên có thiếu nữ gần như tức giận khi
thấy bác Sambo đem tấm khăn san của cô đến quá sớm.
Sáng hôm sau, George đến âu yếm từ biệt người
yêu rồi vội vã đến khu City. Anh ta tìm đến ông Chopper, người thư ký riêng của
cha; ông này đưa cho anh ta một tờ giấy, đem đến Công ty Hulker và Bullock lĩnh
được một túi tiền đầy. Lúc George bước vào hãng này thì ông già Sedley cũng vừa
từ phòng thủ quỹ của ngân hàng bước ra, trông rất tiều tụy. Nhưng anh đang
khoái trí quá, không kịp nhận thấy vẻ rầu rĩ của ông già buôn cổ phiếu và cặp
mắt âu sầu của ông lão đang nhìn mình. Con trai ông Bullock cũng không vừa cười
vừa tiễn ông ta từ phòng khách ra ngoài như những lần trước nữa.
Cánh cửa quay của hãng Hulker và Bullock đóng
lại sau lưng ông Sedley rồi, thì ông Quill, người thủ quỹ (công việc đáng quý
của ông này là mở ngăn kéo giao cho người ta những tấm giấy bạc nhầu nát và
nhặt những đồng tiền vàng trong một cái chậu đồng đếm cho người ta) bèn nháy
mắt với ông Driver cũng nháy mắt lại. Ông Driver thì thầm:
- Không xong rồi.
Ông Quill đáp:
- Không có tiền thì xong thế nào được. Ông
George Osborne thưa ông, ông nghĩ thế ạ?
George hối hả tống vội nắm giấy bạc vào hai
túi; tối hôm ấy gặp Dobbin ở câu lạc bộ nhà binh, anh ta trả ngay năm mươi đồng
bảng tiền nợ.
Cũng tối hôm ấy, Amelia viết cho George một lá
thư dài, lời lẽ âu yếm nhất. Tâm hồn cô tràn trề những tình cảm êm dịu, song cô
vẫn cứ linh cảm thấy có điều gì bất trắc. Cô tự hỏi tại sao ông Osborne nhìn
mình lạnh lùng như thế. Hay là giữa ông và ba cô có điều gì xích mích với nhau?
Ông bố đáng thương của cô từ khu City về nhà, dáng điệu quá buồn bã, làm cho cả
nhà ai cũng lo lắng cho ông...Tóm lại, suốt bốn trang thư toàn những yêu đương,
lo lắng, hy vọng và phấp phỏng. George vừa đọc thư vừa nói: - Emmy bé bỏng đáng
thương của anh...Emmy thân mến của anh. Nàng yêu tôi biết bao? Ôi, trời, mấy
cốc rượu pha ấy làm cho mình nhức đầu khiếp quá!
Cô Emmy bé bỏng quả đáng thương thật.
Chương 14
BÀ CRAWLEY TẠI NHÀ RIÊNG
Trong khoảng thời gian ấy một cái xe ngựa kín
mui, có sơn hình một quả trám trên vách gỗ, chạy về phía một căn nhà rất sang
trọng, ấm cúng ở đường công viên; sau xe có một người đàn bà vẻ mặt cau có đeo
chàng mạng xanh, tóc cặp uốn; ngồi đằng trước là một bác người nhà cao lớn. ấy
là chiếc xe của bà Crawley từ Hants trở về nhà. Cửa sổ xe đóng kín mít; mọi khi
con chó béo múp vẫn thò đầu ra ngoài cửa sổ, lưỡi thè dài ra; lần này nó nằm
gọn trong lòng người đàn bà mặt cau có. Xe đỗ, đám đầy tớ xúm nhau vào khênh
một đống lù lù toàn khăn san ra khỏi xe, theo sau đống quần áo là một người
thiếu nữ. Đống quần áo ấy chính là bà Crawley vậy. Cứ thế, bà được chuyển lên
gác và được đặt vào trong một căn phòng đã đốt lửa sẵn sàng như để đón người
ốm. Lập tức người nhà được phái đi tìm thầy thuốc riêng của bà. Họ đến xem
bệnh, kê đơn, rồi biến mất. Thầy thuốc khám bệnh xong, cô thiếu nữ trẻ tuổi
cùng đi với bà Crawley bước vào phòng để nghe ông thầy thuốc dặn dò, và cho bà
uống những thứ thuốc giảm thống theo lệnh của các vị danh y.
Ngày hôm sau, đại úy Crawley thuộc đội kỵ binh
Ngự lâm từ trại lính Knightsbridge cưỡi ngựa về thăm. Con ngựa ô của anh ta
dùng móng bới bới đống rơm trước cửa nhà bà cô ốm. Anh ta săn đón hỏi thăm tình
hình sức khỏe của bà cô. Hình như tình trạng có hơi đáng ngại thì phải. Anh ta
thấy người hầu phòng của bà Crawley (tức là người đàn bà mặt khó đăm đăm nói
trên) có vẻ cau có buồn phiền một cách khác thường; lại thấy bà Briggs là người
tùy nữ () ngồi khóc một mình trong phòng khách. Bà này nghe tin người bạn yêu
dấu của mình mang bệnh, bèn vội vã trở về nhà.
Bà ước gì được bay ngay đến cạnh giường người
bệnh; đã bao lần bà vuốt ve chiếc đệm giường này mỗi khi bà bạn ốm. Người ta
không cho bà vào buồng của bà Crawley. Đã có một người lạ mặt lo việc thuốc
thang cho bà ấy rồi...một người lạ mặt ở nhà quê ra...một cô gái đáng ghét tên
là…nói đến đây người tùy nữ ứa nước mắt nghẹn lời; bà vội vùi cả tấm tình
thương bạn đang muốn nén xuống và cả cái mũ đỏ khốn khổ của bà vào trong chiếc
khăn tay.
Rawdon Crawley nhờ người hầu phòng () mặt cau
có báo tin hộ có mình đến thăm; người bạn tri kỷ mới của bà Crawley vội từ
phòng của người bệnh chạy xuống; anh chàng săn đón tiến lên; cô ta đặt bàn tay
nhỏ nhắn của mình vào bàn tay anh chàng, khinh khỉnh liếc nhìn bà Briggs đang
đứng sửng sốt, đoạn cô ta vẫy tay gọi chàng sĩ quan Ngự lâm ra phòng khách, dẫn
anh ta xuống thang vào tận trong căn phòng ăn lúc này vắng tanh, nơi đã bao bữa
tiệc linh đình được tổ chức.
Hai người nói chuyện với nhau đến mười phút,
chắc họ thảo luận với nhau về triệu chứng của bệnh nhân nằm trên gác. Thảo luận
xong, thấy chuông trong căn phòng lớn réo ầm lên; lập tức bác Bowls, tức là bác
quản lý thân tín to béo của bà Crawley, vội trả lời ngay (trong gần hết khoảng
thời gian hai người trò chuyện với nhau, bác ta tình cờ nhòm qua lỗ khóa). Viên
đại úy vê vê ria mép, bước ra nhảy phắt tên lưng con ngựa ô đang bới bới đống
rơm; bọn trẻ con đứng xúm xít ngoài phố trông thấy phục lắm. Anh ta ngó vào cửa
sổ phòng ăn, điều khiển con ngựa cho nó chồm hai chân trước lên rất đẹp. Thấy
bóng cô thiếu nữ ló ra cửa sổ một lúc rồi biến mất; chắc cô ta lại lên gác để
tiếp tục nhiệm vụ từ thiện của mình.
Không rõ cô thiếu nữ này là ai nhỉ. Tối hôm ấy,
trong phòng ăn, người ta dọn bát đĩa cho hai người...Nhân lúc người thiếu nữ mới
đến vắng mặt...bà Firkin, người hầu riêng của bà Crawley, bước vào phòng của
chủ lăng xăng thu dọn; trong khi ấy, bà Briggs cùng cô này ngồi vào bàn dùng
bữa cơm thanh đạm.
Bà Briggs bị xúc động quá mạnh đến nỗi gần như
không đụng đến miếng thịt nào. Còn cô thiếu nữ thì cầm dao cắt thịt gà thật
kiểu cách, lên tiếng gọi lấy nước “xốt” trứng thật rõ ràng; bà Briggs đáng
thương giật nẩy mình lên khi thấy món gia vị được đặt trước mặt bà, và lại ngồi
thẫn thờ như cũ.
Cô thiếu nữ bảo bác Bowls, tức là bác người nhà
cao lớn.
- Bác rót cho bà Briggs một cốc rượu vang chẳng
hơn ư?
Bác ta rót. Bà Briggs như cái máy cầm lấy cốc
rượu uống một cách khó khăn, khe khẽ rền rĩ và bắt đầu loay hoay với đĩa thịt
gà của mình.
Cô thiếu nữ nói rất ngọt ngào:
- Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể giúp nhau được,
không cần phải phiền đến bác Bowls túc trực ở đây. Bác Bowls, khi nào cần,
chúng tôi sẽ rung chuông gọi bác nhé.
Bác Bowls bước xuống nhà dưới; không hiểu sao
vô cớ bác chửi anh phụ việc ầm ỹ lên.
Cô thiếu nữ vẻ mặt lạnh lùng, hơi châm biếm,
nói:
- Bà Briggs ạ, bà nghĩ ngợi làm gì; thật đáng
thương quá.
Động đến mối thương tâm, bà Briggs lúng búng
đáp:
- Bà bạn thân nhất đời của tôi ốm nặng quá, mà
khô...ô...ông muốn cho tôi gặp mặt.
- Bây giờ bà ấy không mệt nặng nữa rồi. Bà
Briggs thân mến ơi, xin bà cứ an tâm. Bệnh bội thực đấy...có thế thôi. Bây giờ
đã khá lắm, sắp khỏi hẳn rồi đấy. Bà ấy yếu vì bị giác huyết và bị uống thuốc,
nhưng rồi cũng lại sức ngay ấy mà. Thôi, xin bà cứ yên lòng dùng thêm một ít
rượu vang đi.
Bà Briggs rền rĩ:
- Thế tại sao lại không cho tôi gặp mặt. Ôi
Matilda, Matilda, sau hai mươi ba năm tình nghĩa đằm thắm, Arabella đáng thương
này bị đối xử như thế ư?
Cô kia nói (lúc nào cô ta cũng như hơi nhếch
mép cười):
- Đừng khóc nhiều quá làm gì, bà Arabella đáng
thương ơi; bà ấy không muốn cho gặp, vì bà ấy bảo bà săn sóc người ốm không
khéo bằng tôi. Thức trông bệnh nhân suốt đêm cũng chẳng sướng gì đâu. Tôi chỉ
mong bà làm hộ tôi việc ấy thôi.
Bà Arabella đáp:
- Tôi đã chẳng săn sóc hàng bao nhiêu năm nay
bên giường bệnh thân yêu ấy là gì? Thế mà bây giờ...
- Bây giờ bà ấy ưng người khác hơn. Thôi, người
ốm vẫn hay trái chứng như thế đấy, mình cứ phải chiều ý mới được. Khi nào bà ấy
khỏe thì tôi cũng về.
- Không bao giờ, không bao giờ.
Arabella kêu lên, vừa hít lấy hít để lọ nước
đái quỷ như mất trí.
Cô thiếu nữ vẫn các giọng ngọt ngào khiêu khích
hỏi lại:
- Không bao giờ khỏe, hay là không bao giờ về,
hử bà Briggs? Dào ôi...chỉ nửa tháng là bà ấy khỏi hẳn; khi ấy, tôi sẽ trở về
trại Crawley Bà chúa với mấy cô học trò của tôi và bà mẹ các cô ấy; bà này ốm
nặng hơn bà bạn của chúng ta nhiều. Bà Briggs thân mến ơi, bà chẳng cần phải
ghen tỵ với tôi làm gì. Tôi chỉ là một người con gái đáng thương, không bè bạn;
tôi không làm hại được ai đâu. Tôi không muốn lấy lòng bà Crawley để hất cẳng
bà đâu. Tôi chỉ đi khỏi đây một tuần lễ là bà ấy quên tôi ngay; còn tình bạn
của bà ấy đối với bà thì đã có từ bao nhiêu năm nay rồi. Bà Briggs thân mến,
làm ơn cho tôi xin thêm một chút rượu vang; chúng ta hãy làm bạn với nhau đi.
Tôi tin rằng tôi rất cần có bạn.
Nghe nói thế, bà Briggs, con người dễ tha thứ,
dễ động tâm, yên lặng đưa bàn tay ra bắt, nhưng bà vẫn cảm thấy rất sâu sắc
rằng mình bị bỏ rơi và vẫn cay đắng phân vân về thói trái chứng của bà Matilda.
Độ nửa giờ sau, bữa ăn xong; cô Rebecca Sharp (nói ra thì cũng lạ thật, nhưng
đấy chính là tên người từ nãy ta vẫn gọi là cô thiếu nữ) lại về phòng người ốm
ở trên gác; với thái độ hết sức lễ độ nhã nhặn, cô đuổi khéo bà Firkin đáng
thương ra ngoài.
- Cảm ơn bà, bà Firkin; tốt lắm rồi; bà sắp đặt
chu đáo lắm! Cần gì, tôi sẽ rung chuông gọi nhé.
- Cảm ơn cô.
Đoạn bà Firkin xuống nhà dưới, lòng dạ sôi lên
vì ghen tức; càng đau đớn hơn vì bà bắt buộc phải chôn kín sự ghen ghét ấy tận
đáy lòng.
Lúc bà đi ngang qua thềm gian nhà dưới thấy cửa
phòng khách bỗng mở ra; dễ thường cơn bão tố trong lòng bà làm bật tung cửa
phòng ra chăng? Không phải đâu, ấy là vì bà Briggs đã len lén mở ra đấy. Từ nãy
bà Briggs vẫn đứng rình. Bà ta nghe rõ mồn một tiếng chân bà Firkin bước xuống
cầu thang kêu cót két, và tiếng cái thìa đụng vào cốc đựng sữa kêu lanh canh.
Thấy Firkin bước vào, bà này hỏi:
- Thế nào, Firkin ? Thế nào, Jane?
Firkin lắc đầu đáp:
- Bệnh mỗi lúc một tăng, bà Briggs ạ.
- Bà ấy không đỡ tí nào à?
- Bà ấy chỉ nói có một lần; tôi hỏi bà ấy có
thấy đỡ chút nào không, thì bà ấy bảo tôi câm cái mồm ngu xuẩn đi. Ôi, bà
Briggs ơi, không bao giờ tôi ngờ có ngày hôm nay.
Và hai cái vòi phun nước lại bắt đầu làm việc:
- Cái cô Sharp ấy là người thế nào hở bà Firkin
? Lúc tôi đang dự cuộc vui đêm Giáng sinh tại căn nhà lịch sự của các bạn tôi
là đức cha Lionel Delamere và bà vợ đáng yêu của ngài, tôi có ngờ đâu lại có
một người lạ mặt tranh mất chỗ trong phần cảm tình của người bạn thân thiết
nhất đời, vẫn còn thân thiết nhất đời, là bà Matilda của tôi!
Cứ nghe bà nói, ta cũng đủ thấy bà Briggs thuộc
loại người đa cảm y như trong tiểu thuyết; chính bà đã có lần cho xuất bản một
tập thơ tên là “Tiếng lúi lo của con chim họa mi”.
Firkin đáp :
- Bà Briggs ạ, cả nhà quý cô gái này như vàng.
Cụ Pitt không muốn cho cô ta đi, nhưng cụ không dám trái ý bà Crawley điều gì.
Bà Bute ở nhà thờ cũng thế...vắng mặt cô ta là cấm có vui. Ông đại úy phát điên
phát dại lên vì cô ta. Còn ông Crawley thì ghen đến gần chết. Từ lúc bà Crawley
nhà ta bắt đầu mệt, bà nhất định không cho ai ngoài cô Sharp lại gần; chịu
không hiểu ra làm sao. Tôi chắc cả nhà bị bỏ bùa mê thế nào rồi đây.
Đêm hôm ấy Rebecca thức đến sáng để săn sóc bà
Crawley, đêm hôm sau, bà lão ngủ đã khá yên giấc nên Rebecca cũng ngả lưng chợp
mắt tạm ở ghế xô-fa được vài giờ, ngay cạnh giường người ốm. Bà Crawley cũng
sớm bình phục, bà đã ngồi dậy được; cô Rebecca bắt chước dáng điệu sầu muộn của
bà Briggs, bà cười rũ ra, thích lắm. Cô bắt chước cái cách bà Briggs khóc thút
thít và dùng khăn tay lau nước mắt cực khéo; bà Crawley vui quá; mấy ông thầy
thuốc đến thăm rất ngạc nhiên, vì mọi khi họ vẫn quen thấy người đàn bà ham vui
này hễ hơi giở giời một tý là đã sầu não ghê gớm chỉ lo chết.
Ngày nào đại úy Crawley cũng đến; Rebecca đưa
cho anh ta những mảnh giấy ghi bệnh trạng của bà cô biến chuyển thế nào. Bà
bình phục rất nhanh; bà Briggs đáng thương đã được phép gặp mặt người che chở
cho mình.
Những ai giầu tình cảm có thể tưởng tượng ra
những nỗi xúc động tràn ngập của người đàn bà đa cảm kia cũng như sự lâm ly
thống thiết của buổi gặp gỡ giữa hai người.
Bây giờ bà Crawley lại thích gặp mặt bà Briggs
luôn luôn, vì Rebecca hay nhại lại điệu bộ của người đàn bà đáng thương ngay
trước mặt bà, mà vẻ mặt vẫn cứ nghiêm trang như không, thành ra lại càng giống;
bà Crawley hài lòng lắm.
Nguyên nhân khiến bà Crawley mắc chứng bệnh
đáng tiếc kia, đến nỗi phải rời khỏi căn nhà của ông anh ở nhà quê, không lấy
gì làm thi vị lắm, có lẽ không xứng đáng được giải thích trong cuốn truyện
phong nhã đầy tình cảm này. Bởi lẽ làm thế nào mà nói cho nghe lọt tai được
rằng một người đàn bà tế nhị thuộc giới thượng lưu lại ăn uống quá tham lam, và
nguyên nhân gây cái bệnh mà bà Crawley đã nhất định đổ cho là tại thời tiết ẩm
thấp gây nên thật ra chỉ là một bữa tôm nóng xơi quá miệng ở nhà thờ? Bệnh
trạng trầm trọng quá đến nỗi - nói theo lời ông cha xứ - Matilda suýt nữa thì
đi đứt”; toàn bộ gia đình bổi hổi bồi hồi chờ đợi lập di chúc; Rawdon Crawley
chắc mẩm phen này vớ được ít nhất là bốn vạn đồng bảng trước khi mùa hội ở Luân
đôn bắt đầu. Crawley đã vội gửi ngay đến một tập toàn những sách đạo chọn lọc,
để sửa soạn đưa bà cô đi từ Hội chợ phù hoa và Đường công viên sang thế giới
bên kia, nhưng một ông thầy thuốc có tài ở Southampton đã được kịp thời triệu
đến; ông ta thắng được mấy con tôm suýt nữa đã làm hại đời bà lão, và giúp bà
lấy lại tạm đủ sức lực để trở về Luân-đôn. Thấy câu chuyện xoay ra như vậy lão
nam tước không sao giấu nổi vẻ bực mình.
Trong lúc mọi người đang xúm vào hầu hạ bà
Crawley và hàng giờ bên Nhà thờ cử người sang dò hỏi tin tức sức khỏe của bà về
báo lại, thì tại một căn phòng khác trong nhà, có một người đàn bà ốm nặng hơn
nhiều mà không ai thèm để ý đến; ấy chính là Crawley phu nhân. Ông thầy thuốc
trứ danh khám bệnh xong đành chịu lắc đầu; cụ Pitt thuận để ông khám bệnh cho
vợ vì không phải trả tiền công. Thế là bà ta bị bỏ nằm một mình trơ trọi trong
phòng, kiệt sức dần dần, chẳng ai buồn để ý đến, y như đối với một ngọn cỏ
trong vườn.
Hai cô con gái cũng chịu thiệt thòi nhiều, vì
thiếu sự dạy dỗ của cô giáo. Cô Sharp săn sóc người bệnh tận tâm quá; bà
Crawley nhất định không chịu uống thuốc nếu là do tay người khác đưa. Firkin
thì đã bị ghét bỏ từ lâu trước khi bà chủ rời nhà quê về tỉnh. Người hầu phòng
trung thành ấy đành lấy việc được trở về Luân-đôn, được thấy bà Briggs cũng đau
khổ vì ghen tức, cũng phải chịu đựng sự đối xử bạc bẽo như mình, để tự an ủi
đôi chút.
Đại uý Rawdon lấy cớ cô ốm xin gia thêm hạn
nghỉ phép cả ngày cứ quanh quẩn ở nhà. Luôn luôn thấy mặt anh ta ở gian phòng
đợi của khách (bà Crawley nằm dưỡng bệnh trong phòng ngủ, muốn vào phải đi qua
gian phòng khách nhỏ quét vôi màu xanh). Cụ Pitt thường gặp anh ta ở đấy; hoặc
khi anh ta đi xuống dưới hành lang, dù bước nhẹ mấy, thế nào cũng thấy cánh cửa
gian phòng của bố mở ra, và bộ mặt sói rừng của lão quý tộc già thò ra ngoài nhìn.
Sao lại có cảnh kẻ nọ rình người kia như thế nhỉ? Ấy chính vì hai người đang
thi nhau xem ai tỏ ra quan tâm nhiều hơn đến người bệnh thân thiết đang nằm
trong phòng ngủ.
Thường thường Rebecca hay ra ngoài an ủi cả hai
bố con, lúc an ủi người nọ, lúc an ủi người kia. Cả hai bố con nhà này giống
nhau ở chỗ đều thích được nghe tin tức về người bệnh từ miệng cô đưa tin bé nhỏ
thân tín kia nói ra.
Cứ đến buổi chiều - nhân lúc Becky xuống nhà
dùng cơm trong khoảng nửa giờ đồng hồ - cô lại làm công việc hòa giải hai bố
con; sau đó, cô biến đi cho đến hết đêm; sáng ra Rawdon thường cưỡi ngựa đến
đồn binh thuộc trung đoàn thứ 15 ở Mudbury, để mặc cho ông bố lại quay ra chè
chén với bác Horrocks. Suốt nửa tháng trời Rebecca sống trong gian phòng dưỡng
bệnh của bà Crawley, buồn tưởng chết đi được; nhưng thần kinh cô ta dễ thường
bằng thép, cho nên cô ta không hề bị mất tinh thần vì nhiệm vụ tẻ nhạt trong
căn phòng dưỡng bệnh kia.
Mãi rất lâu về sau này Rebecca mới kể lại rằng
cô đã khổ tâm thế nào vì phải lãnh nhiệm vụ ấy, rằng cái bà già vui tính kia
lúc ốm thì cắn cấu ra sao, rằng bà tức giận, bà mất ngủ, bà sợ chết, bà nằm rên
hừ hừ suốt bao nhiêu đêm trường, vì bà lo sợ tưởng đến thành mê sảng mỗi lúc
nghĩ đến cái thế giới tương lai mà khi mạnh khỏe không bệnh tật bà không hề
nghĩ đến. Hỡi bạn đọc giả xinh đẹp trẻ tuổi, xin bạn hãy tưởng tượng một bà già
quen ăn chơi, ích kỷ, vô duyên, vô ơn và vô tín ngưỡng, đang nằm vật vã vì đau
đớn, vì lo sợ, mà đầu trần không đội mớ tóc giả...Bạn hãy tưởng tượng lấy mà xem;
và trước khi cái già sồng sộc đến sau lưng, xin bạn hãy học yêu, và học cầu
kinh đi.
Cô Sharp săn sóc bên giường bệnh với thái độ
kiên trì không gì khuất phục nổi. Không một cái gì lọt khỏi mắt cô, và giống
như một người quản gia khéo léo, tất cả vật gì vào tay cô đều dùng được việc
cả. Sau này, cô kể lại nhiều câu chuyện rất hay về những ngày bà Crawley mắc
bệnh, những câu chuyện làm cho bộ mặt trát bự phấn của bà già phải đỏ ửng lên.
Trong thời gian bà này ốm, cô ta không bao giờ mất vẻ bình thản thường ngày,
bao giờ cũng tinh tường, rất thính ngủ, lúc nào trí óc cũng hoàn toàn minh mẫn,
chỉ cần nghỉ ngơi qua loa ít phút gọi là. Vậy mà nom dáng điệu của cô, bạn thấy
rất ít dấu vết mệt mỏi. Sắc mặt cô có hơi tái một chút quầng mắt có hơi thâm
hơn bình thường một chút, nhưng mỗi khi cô bước ra ngoài phòng dưỡng bệnh, bao
giờ cũng thấy cô mỉm cười, tươi tỉnh, gọn ghẽ; dù chỉ mặc tấm áo ngủ và đội
chiếc mũ trùm thường, trông cô vẫn chỉnh tề như đang mặc bộ áo đi chơi đẹp
nhất.
Viên đại úy cũng nghĩ thế và khi nói chuyện về
cô ta bao giờ giọng nói của anh chàng cũng có vẻ say sưa khác thường. Mũi tên
có cựa của tình yêu đã xuyên thủng lần da dày cộm của cu cậu rồi. Sáu tuần lễ
lửa gần rơm đã khiến anh ta hoàn toàn bị chinh phục. Anh ta thú thực nỗi lòng
sâu kín của mình với bà thím bên tu viện và tất cả mọi người. Bà thím nhận thấy
ngay sự điên rồ của anh cháu, thường trêu anh ta về chuyện này; bà ta khuyên
anh cháu nên dè chừng; cuối cùng bà công nhận rằng cái cô Sharp bé nhỏ kia là
con người thông minh nhất, kỳ thú nhất, giản dị đáng yêu nhất nước Anh; nhưng
Rawdon không nên cợt đùa với tình yêu của cô... nếu không bà Crawley thân yêu
sẽ không bao giờ tha thứ đâu. Và chính bà này cũng bị cô giáo bé nhỏ chinh phục
mất rồi; bây giờ bà quý cô như con đẻ. Rawdon phải đi nơi khác...phải trở về
đơn vị và thành phố Luân-đôn bẩn thỉu kia, không được phép đùa cợt với tấm tình
của cô thiếu nữ ngây thơ đáng thương.
Đã rất nhiều lần bà thím tốt bụng này thông cảm
với nỗi cô đơn của anh chàng sĩ quan Ngự lâm quân nên đã tạo điều kiện cho anh
ta gặp cô Sharp ngay ở Nhà thờ, và được cùng cô ta đi về nhà như chúng ta đã
thấy. Thưa các quý bà, một khi đàn ông thuộc một loại nào đó mà đã yêu rồi, thì
dù mắt họ nhìn rõ mười mươi dây câu, lưỡi câu, rồi cần, rồi lưới, đủ cả, nhưng
họ cũng cứ đớp mồi như thường…họ vẫn cố đớp lấy nuốt cho kỳ được để rồi bị mắc
câu mắc lưới nằm há hốc mồm trên mặt đất. Rawdon cũng thấy rõ ràng bà Bute muốn
dùng cô Rebecca để câu mình. Anh ta khôn ngoan lắm, nhưng cũng là người sống ở
tỉnh thành, cũng đã từng dự nhiều mùa hội. Một hôm qua câu chuyện với bà Bute,
anh ta chợt thấy trong khối óc tối tăm của mình lóe ra một tia sáng. Bà Bute
nói:
- Rawdon, tôi bảo này. Thế nào cũng có ngày cô
Sharp thành người có họ với anh đấy.
Anh chàng sĩ quan hay đùa hỏi:
- Bà Bute, có họ thế nào chứ...em dâu tôi hả? Chú James phải lòng cô ta chăng?
Bà Bute, mặt ánh lên một tia sáng, đáp:
- Hơn thế nữa cơ.
- Không phải là Pitt chứ?...Hắn không lấy được cô ta đâu; cái tên hèn hạ ấy
không đáng lấy cô ta làm vợ. Hắn đang đeo đuổi công nương Jane Sheepshanks.
- Bọn đàn ông các anh chẳng biết cái quái gì hết. Anh chỉ là một thằng ngu
xuẩn, mù quáng...nếu Crawley phu nhân có mệnh hệ nào thì cô Sharp sẽ thành dì
ghẻ của anh đấy, và chuyện ấy tất sẽ phải đến.
Rawdon Crawley tiên sinh huýt sáo miệng một cái thật to, tỏ ý rất ngạc
nhiên trước lời dự đoán của bà thím. Anh ta không thể chối cãi được; rõ ràng
ông bố anh ta quyến luyến cô Sharp; thái độ ấy lọt sao khỏi mắt anh ta. Anh ta
hiểu rõ tính tình ông bố lắm, nghĩa là một lão già hết sức bừa bãi... Anh ta
không nghĩ hết câu, mà bỏ về nhà, vừa đi vừa vê vê ria mép, yên trí rằng mình
đã tìm ra cái mối để hiểu câu chuyện bí mật bà Bute vừa nói.
Rawdon nghĩ thầm:
- Lạy chúa tôi, đểu quá? Đểu quá, lạy Chúa? Mình tin chắc bà ấy rất muốn
cho cô thiếu nữ đáng thương kia phải mất mặt, để không sao trở thành Crawley
phu nhân trong gia đình này được. Lúc gặp Rebecca một mình, anh ta lấy giọng
nhã nhặn nói trêu cô về việc ông bố mình có ý quyến luyến cô gái. Cô ta ngẩng
phắt đầu lên, vẻ mặt khinh khỉnh, nhìn rõ vào mặt anh chàng nói:
- Được lắm, hãy ví dụ ông cụ mê tôi đi. Tôi biết cụ mê tôi, và còn nhiều
người khác cũng mê tôi nữa cơ. Đại úy Crawley, ông không cho rằng tôi phải sợ
ông cụ chứ? Ông không cho rằng tôi không biết bảo vệ danh dự của tôi chứ?
Cô con gái hỏi dồn, trông kiêu hãnh như một bà hoàng.
Anh chàng vừa vặn ria mép vừa đáp:
- Ồ…à kìa ... ấy là nhắc để cô chú ý... nghĩa là cẩn thận...có thế thôi mà.
- Ông cho rằng tôi là người không biết tự trọng chỉ vì tôi nghèo và trơ
trọi không bè bạn, và bởi vì chính bản thân những người giầu có không biết tự
trọng phải không? Ông có nghĩ rằng vì tôi chỉ là một cô giáo dạy trẻ mà tôi
không thể có lương tri, có tình cảm, và có giáo dục được như những nhà quý tộc
ở Hampshire không? Tôi thuộc dòng dõi họ Montmorency không thể tốt được bằng
một người thuộc dòng họ Crawley không?
Mỗi khi cô Sharp tức giận và phải viện đến họ ngoại của cô ra, thì cô hay
nói pha lơ lớ giọng ngoại quốc, khiến cho giọng nói trong trẻo thánh thót của cô
lại càng đáng yêu thêm. Càng đối đáp với viên đại úy, cô càng sôi nổi. Cô nói
thêm:
- Không, tôi có thể chịu đựng sự nghèo khổ, nhưng không thể chịu đựng sự
nhục nhã...tôi có thể chịu đựng sự lạnh nhạt, nhưng không chịu được sự lăng mạ;
nhất là sự lăng mạ lại do...do chính ông.
Và rồi không nén được giận, cô òa lên khóc.
- Chết chưa, cô Sharp... Rebecca... lạy Chúa... thề có quỷ thần hai vai,
nào tôi có bụng dạ gì đâu...Thôi, Rebecca.
Rebecca đi rồi. Hôm ấy, cô ta cùng bà Crawley giong xe đi chơi. Câu chuyện
xảy ra trước khi bà này bị ốm. Đến bữa cơm chiều, cô lại có vẻ vui tính khác
thường; nhưng cô không thèm để ý đến anh chàng sĩ quan vụng về si tình bị bẽ
mặt đang tìm mọi cách nói ý, gật đầu ra hiệu và nói lấy lòng để chuộc lỗi.
Trong cái chiến dịch nho nhỏ ấy, những cuộc chạm súng đại khái như thế diễn ra
luôn... tẻ nhạt lắm không đáng kể lại, và kết quả bao giờ cũng giống nhau.
Đội kỵ binh nặng nề của Crawley phát điên lên vì bị thất trận, mỗi ngày một
thêm tan rã.
Nếu lão nam tước ở trại Crawley Bà chúa không sợ bị bà em truất mất quyền
thừa kế thì không đời nào lão chịu để cho hai cô con gái yêu của lão xa rời sự
giáo huấn vàng ngọc của cô giáo quý báu. Vắng cô ta, căn nhà cổ kính ấy như là
một bãi sa mạc; hồi Rebecca còn ở trại, nhà cửa tươi tỉnh hẳn lên. Thư từ của
cụ Pitt không có ai sửa chữa và chép lại; sổ sách của cụ cũng không có ai trông
nom; công việc nhà cửa và bao nhiêu kế hoạch làm ăn cũng xếp xó, cô thư ký bé
nhỏ đã đi mất rồi. Ta thấy ngay rất dễ dàng một người thư ký như cô đối với lão
cần thiết đến thế nào, nếu ta được đọc nội dung bao nhiêu lá thư lão liên tiếp
gửi cho cô ta; lão cầu khẩn cô, ra lệnh cho cô phải trở về. Hầu như ngày nào
lão nam tước cũng viết thư gửi cho Becky, lão khẩn khoản yêu cầu cô trở lại;
hoặc lão gửi thư cho bà Crawley, thảm thiết phàn nàn về nỗi việc giáo dục của
con mình bị bỏ trễ; bà Crawley, chẳng buồn để ý.
Bà Briggs không bị chính thức ruồng bỏ, nhưng địa vị bạn tâm sự của bà bây
giờ chỉ là một chuyện khôi hài, hữu danh vô thực; bây giờ bà đánh bạn với con
chó béo múp trong phòng khách, hoặc thỉnh thoảng bà vào trong phòng riêng của
mụ quản gia đánh bạn với bà Firkin bất mãn.
Tuy thế, Rebecca vẫn chưa chính thức đến ở Đường công viên với tư cách bạn
tâm sự của bà chủ, mặc dầu bà này nhất định không chịu cho cô trở về trại
Crawley Bà chúa.
Cũng như nhiều người giầu có khác, bà Crawley có tính ưa được người dưới
hầu hạ mình càng nhiều bao nhiêu càng tốt; chừng nào bà thấy họ không còn có
ích gì nữa cho mình, thì bà cũng lập tức vui vẻ mà từ giã họ. Một số người giàu
có hầu như không biết đến sự hàm ơn là gì, hoặc ít khi thèm nghĩ đến chuyện ấy.
Họ lấy sự được bọn người nghèo khó hầu hạ mình là chuyện tất nhiên. Mà chúng ta
- ôi, những kẻ ăn bám đáng thương, những kẻ phụ thuộc hèn hạ- chúng ta cũng không
có lý do gì mà phàn nàn nhiều! Tình bạn của chúng ta đối với Dives cũng chân
thành đáng mức với số tiền, đâu phải yêu người. Và giả sử Croesus () có đổi địa
vị của mình cho thằng hầu, thì chúng ta cũng thừa rõ người nào sẽ được chúng ta
hết lòng cung phụng.
Mặc dầu cô Rebecca vẫn tỏ ra rất giản dị, rất chu đáo, rất ngọt ngào và vui
vẻ không hề biết mệt mỏi, nhưng tôi cũng không tin chắc rằng bà già sắc mắc
người Luân-đôn kia, người được cô ta chứng tỏ tấm tình bạn nồng nhiệt một cách
xa xỉ, quả thực không khi nào thoáng ý nghi ngờ lòng tốt của người bạn quý đang
săn sóc mình. Hẳn bà Crawley phải thường đinh ninh rằng ở đời không ai làm việc
vì không công bao giờ. Nếu bà quen lấy cái tình cảm của bản thân để đo lòng
người đời, hẳn bà cũng có thể lường được lòng dạ người đời đối với mình. Biết
đâu bà chẳng hiểu rằng kẻ nào không chú ý đến ai thì cũng không ai coi mình là
bạn; đó âu cũng là một lẽ thường tình.
Vậy thì trong thời gian ấy, Becky là nguồn an ủi lớn nhất, là người hữu ích
nhất đối với bà; bà cho cô ta một đôi áo dài mới may, một chiếc vòng cổ cũ và
một chiếc khăn san; bà lại bày tỏ tấm tình bạn bằng cách nói xấu tất cả những
người quen thuộc cũ với cô bạn tâm sự mới của mình (còn có cách tỏ tình thân
mật nào tết hơn thế nữa nhỉ?). Bà lại đã phảng phất lo sắp đặt trước một vài kế
hoạch lớn cho tương lai... có thể là gả cô ta cho ông Clâmp, thầy bào chế, hoặc
lo gây dựng cho cô có một tương lại chắc chắn sau này; hoặc cũng có thể bà đã
nghĩ đến chuyện khi chán cô rồi và đúng lúc mùa hội ở Luân-đôn bắt đầu thì lại
mời cô về trại Crawley Bà chúa.
Bà Crawley đang bình phục, thường xuống phòng khách; Becky hát cho bà nghe
và tìm mọi cách khác để làm vui lòng bà; khi bà đã khỏe có thể ngồi xe ngựa đi
chơi được, Becky cùng đi với bà. Trong những cuộc đi chơi ấy, do lòng tốt và
tình bạn của bà Crawley đối với cô, bà cho cô cùng theo mình đến bất cứ nơi
nào, đến cả gia đình John Sedley tiên sinh ở khu phố Russell.
Trước khi xảy ra chuyện này, hai cô bạn thân đã nhiều lần viết thư cho
nhau. Trong khoảng thời gian Rebecca ở Hampshire, tấm tình bạn bất diệt (có thể
tin được không nhỉ?) giữa hai người đã giảm sút rất nhiều, bây giờ nó có vẻ đã
mòn mỏi, già nua tưởng như sắp đi đứt đến nơi. Sự thực là cả hai cô thiếu nữ
đều bận lo việc riêng: Rebecca thì đang lo lấy lòng những người chủ thuê mượn
mình, cô Amelia cũng đang bị thu hút vào việc riêng của cô. Lúc hai cô thiếu nữ
gặp lại nhau, họ ôm ghì lấy nhau một cách nồng nhiệt đúng cách tỏ tình giữa
những cô gái non; Rebecca đã hôn bạn một cách nồng nàn sôi nổi vô cùng, khiến
cho Amelia đáng thương kia vừa hôn trả,vừa đỏ mặt lên và tự trách mình có phần
hơi nhạt nhẽo đối với bạn.
Lần gặp gỡ đầu tiên và cũng rất ngắn ngủi. Amelia đang sửa soạn đi chơi. Bà
Crawley đang ngồi chờ trong xe dưới đường; những người theo hầu đang ngơ ngác
nhìn phong cảnh xung quanh; họ trố mắt nhìn bác Sambo, người hầu da đen ở
Blumxbơry, y như bác ta là một người thổ dân kỳ lạ sinh trưởng tại chỗ vậy,
Amelia bước xuống, vẻ mặt dịu dàng, tươi cười (Rebecca phải đưa bạn xuống giới
thiệu với bà Crawley vì bà rất mong được gặp mà người còn yếu không rời chiếc
xe ngựa được)...Mấy người mặc chế phục ở Đường công viên trông thấy cô ngạc
nhiên quá, không ngờ ở Bloomsbury lại có một con người xinh đẹp như vậy. Bà
Crawley cũng bị hấp dẫn khi nhìn bộ mặt dịu dàng, tươi như hoa của cô thiếu nữ
đang e lệ tiến lên chào bà, người đỡ đầu của bạn cô, với dáng điệu rất lịch sự.
Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi ấy, hai ngươi cho giong xe đi về phía tây thành
phố. Bà Crawley bảo:
- Này, nước da cô ta đẹp quá nhỉ, mà tiếng nói sao mà trong vắt cô Sharp ạ,
cô bạn trẻ của cô đáng yêu quá. Lúc nào mời cô ấy đến Đường công viên chơi,
nghe không?
Bà Crawley là người biết thưởng thức. Bà ưa các cử chỉ tự nhiên - hơi e lệ
một chút lại càng có duyên - Bà thích có những người xinh đẹp quây quần quanh
mình cũng như bà thích chơi tranh đẹp và đồ sứ xinh xắn vậy. Hôm ấy, bà đã nhắc
đến Amelia sáu bảy lần một cách rất say sưa. Bà kể chuyện về Amelia với Rawdon
Crawley, khi anh chàng giữ đúng nhiệm vụ đến cùng chia xẻ con gà rán với bà cô.
Nghe thấy thế, dĩ nhiên Rebecca vội tuyên bố ngay rằng Amelia đã có vị hôn
phu...tức là trung úy Osborne...hai người yêu nhau đã lâu.
- Anh ta thuộc một trung đoàn chiến liệt quân?
Đại úy Crawley nghĩ ngợi một lúc lâu đúng như một sĩ quan Ngự lâm để cố nhớ
lại trung đoàn số...
Rebecca đáp đúng là trung đoàn ấy, và thêm:
- Tên viên đại úy là Dobbin.
Crawley đáp:
- Một anh chàng vụng về gày gò có phải không? Anh ta húc phải tất cả mọi
người. Tôi có quen anh ta. Còn Osborne có phải là một anh chàng đẹp trai, có bộ
râu quai nón rậm đen nhánh không?
Rebecca Sharp đáp:
- Phải, có bộ râu quai nón xồm xoàm; mà anh ta lấy làm kiêu hãnh về bộ râu
lắm.
Đại úy Rawdon Crawley không trả lời, Phá ra cười khàn khàn; hai người đàn
bà hỏi gặng anh ta cười gì, thì anh ta trả lời:
- Hắn cứ tưởng chơi bi-a giỏi. Tôi đã được hắn
hai trăm đồng tiền bi-a ở quán “cây dừa” . Hắn mà cũng học đòi đánh bạc, cái
thằng ngốc nghếch! Hôm ấy hắn có vẻ muốn bán cả trời không văn tự, nhưng bạn
hắn là đại úy Dobbin lại kéo hắn đi mất, mẹ kiếp!
Bà Crawley thú quá, bảo:
- Rawdon, Rawdon, đừng ác thế.
- Thế nào? Thưa cô, trong số bọn trai trẻ cháu
gặp ở quân đội chỉ có thằng ấy là “non” nhất đấy ạ. Tarquin và Deuceace tha hồ
muốn lấy bao nhiêu tiền của hắn tùy thích. Hắn mà được người ta thấy cùng ngồi
với một nhà quý tộc thì bắt xuống âm phủ hắn cũng ưng. Ở Greenwich, hắn trả
tiền cơm thết chúng nó, mà chúng nó còn kéo cả một lũ bạn đi theo để “che tàn”.
- Toàn là những bạn hữu quý báu cả, chắc thế.
- Đúng lắm, cô Sharp ạ. Đúng lắm, bao giờ cũng
thế. Toàn nhưng bạn hữu quý ghê gớm...hề, hề!
Anh chàng đại úy lại càng cười khỏe, cho rằng
mình vừa có được một câu khôi hài lý thú.
Bà cô kêu lên: .
- Đừng tồi thế, Rawdon.
- Ôi chao, bố hắn là một nhân vật ở khu
City...giầu nứt đố đổ vách. Cái bọn khốn ở City ấy à, phải vắt sữa chúng nó
chứ. Xin thưa để cô biết rằng thằng ấy chưa xong với cháu đâu. Hề, hề.
- Này, đại úy Crawley; để tôi mách Amelia. Có
một người chồng hay bài bạc.
- Đáng sợ, hả?
Viên đại úy trịnh trọng nói vậy; một ý nghĩ
thoáng qua đầu, anh ta thêm:
- Mà này, cô ạ, chúng ta sẽ mời hắn đến chơi
đây.
Bà cô vội hỏi:
- Trông hắn ta có mẽ người không?
- Có mẽ không à?...Ồ, khá lắm. Cũng như tất cả
mọi người. Bao giờ cô lại bắt đầu tiếp khách, thế nào ta cũng phải mời hắn đến
chơi mới được. Cả cái cô tên là gì nhỉ...người trong mộng của hắn ta ấy mà...
này, cô Sharp, có phải cô vẫn gọi thế không? Mời cả cô ta đến. Được, để tôi
biên mẩu giấy mời hắn lại chơi. Để xem hắn chơi “pic-kê” có thạo như chơi bi-a
không? Hắn ta ở đâu nhỉ, cô Sharp?
Cô Sharp bèn mách Crawley địa chỉ ở tỉnh của
trung úy Osborne. Mấy ngày sau, trung úy Osborne nhận được một lá thư, nét chữ
nguệch ngoạc như cho trẻ con của đại úy Rawdon, có kèm theo một thiếp mời của
bà Crawley. Cô Sharp cũng gửi thư mời cô bạn thân Amelia; cô này nghe tin
George cũng sẽ có mặt, sẵn sàng nhận lời ngay.
Họ đã sắp đặt sáng hôm ấy Amelia sẽ đến chơi
với người đàn bà ở Đường công viên; ai cũng tỏ ra quý mến cô. Rebecca lên mặt
che chở cho cô một cách rất bề trên. Rebecca thông minh hơn bạn rất nhiều;
Amelia tính vốn dịu dàng và kín đáo, gặp ai muốn lên mặt với mình thì nhường
ngay, cho nên cô sẵn lòng vui vẻ mềm mỏng tuân theo mọi ý muốn của Rebecca. Bà
Crawley cũng tỏ ra lịch sự một cách đáng chú ý. Bà vẫn tiếp tục say sưa tán
tụng Amelia, tâng bốc cô ngay trước mặt, làm như cô là một con búp bê, một
người hầu phòng hay một bức tranh vậy; bà ca tụng cô một cách hết sức rộng
lượng. Tôi rất kính phục thái độ của giới quý phái, đôi khi tán tụng cả những
người thuộc tầng lớp bình dân. Trong đời, không có gì thú vị hơn là được thấy
bọn người ở Mayfair () hạ mình xuống. Nhưng được bà Crawley săn sóc đến mình
quá, hình như Amelia thấy mệt; tôi ngờ rằng trong số ba người đàn bà ở Đường
công viên thì cô thấy bà Briggs thực thà kia là đáng yêu hơn cả. Cô thông cảm
với bà Briggs như đối với những người tốt bụng bị bỏ rơi; cô không thuộc hạng
người mà ta gọi là người đàn bà trí tuệ.
George có đến dùng cơm với đại úy Crawley...một
bữa cơm thân mật của trai chưa vợ ().
Chiếc xe ngựa đồ sộ của gia đình Osborne chở
anh ta từ khu phố Russell đến Đường công viên. Ở nhà, cô chị và em gái không
được mời đến chơi, làm bộ không thèm để ý đến sự khinh mạn ấy, nhưng họ cũng
giở cuốn “Danh bạ quý tộc” để tìm tên cụ Pitt Crawley. Cuốn sách đã giúp các cô
biết rất nhiều điều về gia đình Crawley, về dòng dõi, về gia đình Binkie, về bè
bạn, vân vân và vân vân... Rawdon Crawley đón tiếp Osborne hết sức thẳng thắn
lịch sự. Anh ta khen Osborne chơi bi-a giỏi, hỏi thăm bao giờ anh này muốn phục
thù, lại hỏi tin tức về trung đoàn của Osborne; anh ta định đề nghị chơi
“pic-kê” ngay tối hôm ấy, nhưng bà Crawley dứt khoát cấm không cho đánh bạc
trong nhà bà, thành ra túi tiền của viên trung úy không bị cháu bà chủ nhà làm
vơi mất, ít nhất là trong ngày hôm ấy. Tuy vậy, họ cũng ước hẹn ngày hôm sau sẽ
gặp nhau ở một nơi khác vì Crawley có một con ngựa muốn bán. Osborne muốn cưỡi
thử nó ở công viên. Hai người sẽ dùng cơm với nhau, và buổi tối sẽ cùng giải
trí với mấy người bạn ham vui khác. Crawley vừa láu lỉnh nháy mắt, vừa nói:
- Nghĩa là, nếu như anh không phải túc trực bên
cô Sedley xinh đẹp kia. Thật là một trang tuyệt thế giai nhân, xin lấy danh dự
mà thề; anh Osborne ạ, có một không hai đấy - anh ta nói thêm để nịnh khéo.
Osborne không phải túc trực đâu; anh ta sẵn
sàng vui lòng đi chơi cùng Crawley. Hôm sau hai người gặp nhau, Crawley khen
mãi tài kỵ mã của bạn - khen hết sức thành thực - và giới thiệu Osborne với ba
hay bốn người bạn rất sang trọng; anh chàng sĩ quan thực thà được quen biết bọn
này lấy làm khoái lắm.
Vừa uống rượu vang Osborne vừa hỏi bạn, có vẻ
rất phong tình:
- Này, cô Sharp độ này ra sao? Cô ta tốt bụng lắm. Ở trại Crawley, chắc
cô ta và anh tha hồ tâm đầu ý hợp nhỉ? Năm ngoái cô Sedley quý cô ta lắm.
Đại úy Crawley giương đôi mắt xanh ti hí lên nhìn vào mặt bạn một cách dữ
tợn; và anh cứ chăm chú theo dõi mãi lúc anh này đứng dậy đến chào cô giáo xinh
đẹp. Nhưng ví phỏng anh chàng sĩ quan Ngự lâm có tính ghen tuông bóng gió thì
nom cách cư xử của cô thiếu nữ cũng hết lo ngại ngay.
Hai người trẻ tuổi lên gác; Osborne đến chào bà Crawley, rồi tiến về phía
Rebecca ngồi, dáng điệu hơi khệnh khạng có vẻ bề trên. Anh ta định bụng tỏ ra
bao dung che chở đối với cô. Thậm chí anh sẽ còn bắt tay Becky một cái, vì coi
là cô là bạn của Amelia, anh ta bèn chìa bàn tay trái về phía cô ta và nói: “A,
cô Sharp, thế nào mạnh khoẻ chứ?” Yên trí nhất định cô ta phải bối rối trước
một vinh dự như vậy.
Cô Sharp chìa ngón trỏ bàn tay phải ra...và gật đầu một cái, vẻ mặt rất
lạnh nhạt, làm anh chàng cụt hứng.
Rawdon Crawley ngồi ở phòng bên nhìn sang, thấy anh chàng trung úy bị bẽ
mặt, suýt nữa không nhịn được cười; anh ta thấy Osborne giật nảy mình, rồi ngần
ngừ và cuối cùng có vẻ lúng túng đành cầm lấy ngón tay của cô thiếu nữ đưa ra
cho anh hôn vậy.
- Lạy Chúa, nàng đủ sức đánh gục cả quỷ sứ.
Viên đại úy thú vị lắm tự nhủ. Còn viên trung úy mở đầu câu chuyện bằng
cách hỏi thăm Rebecca có thích nơi làm việc không. Sharp lạnh nhạt đáp:
- Việc làm của tôi? Cảm ơn anh đã nhắc tôi nhớ đến điều ấy? Việc làm cũng
khá dễ chịu; tiền công tốt lắm...nhưng không được bằng tiền công của bà Wirt
dạy chị anh và em gái ở khu phố Russell đâu. Các cô ấy dạo này thế nào?...đáng
lẽ ra tôi không nên hỏi thăm mới phải.
Osborne ngạc nhiên hỏi:
- Sao lại không nên?
- Ô hay, cái hồi tôi còn ở chơi với Amelia, các cô ấy có bao giờ thèm hạ
mình nói chuyện với tôi hoặc mời tôi đến chơi nhà đâu; nhưng cái bọn cô giáo
dạy trẻ nghèo khổ chúng tôi thì, chắc anh cũng rõ, vẫn quen bị khinh miệt như
thế.
Osborne kêu lên:
- Cô Sharp thân mến ơi…
Rebecca vẫn tiếp:
- Ít nhất là trong một số gia đình. Nhưng ở đây không như thế đâu; dân
Hamshire chúng tôi không được giầu có như các anh, những con người may mắn ở
khu City. Nhưng bây giờ tôi đang sống trong một gia đình thượng lưu...dòng dõi
quý tộc nước Anh chính cống. Chắc anh cũng biết cụ thân sinh ra tôn ông Pitt
ngày xưa đã từ chối không nhận tước Công. Anh coi đó, tôi được đối đãi ra sao.
Tôi ở đây cũng khá dễ chịu. Kể ra thì cũng là một chỗ làm tốt. Nhưng được anh
hỏi đến thật là vinh dự quá.
Osborne tưởng phát điên lên được. Cô giáo bé nhỏ vẫn cứ kênh kiệu và mỉa
mai anh ta cho đến khi con sư tử non nước Anh kia cảm thấy không thể chịu nổi
được nữa.
Anh ta cũng không đủ nhanh trí để bịa ra một cớ gì mà rút lui khỏi câu chuyện
rất thú vị này. Anh ta bèn kiêu hãnh hỏi:
- Tôi chắc ngày trước cô cũng thích những gia đình ở khu City lắm đấy chứ?
- Anh định nói là năm ngoái, khi tôi vừa mới thoát khỏi cái trường ghê gớm
ấy à? Vâng, có thể. Người con gái lưu trú trong trường nào mà chẳng thích về
chơi nhà ngày chủ nhật? Mà làm sao tôi có thể hiểu biết hơn được? Nhưng ồ, anh
Osborne ạ, bao nhiêu sự đổi thay qua mười tám tháng từng trải... mười tám tháng
sống chung với... tôi nói thế này xin anh tha lỗi, với những người thượng lưu.
Còn như Amelia thân mến thì chị ấy là một hòn ngọc, ở đây người ta cũng phải
quý. Bây giờ, tôi thấy anh bắt đầu vui vẻ rồi đấy; nhưng mà…những con người kỳ
quái khu City? Và còn anh Joe...cái anh Joseph thú vị ấy bây giờ ra sao nhỉ?
Osborne dịu dàng đáp:
- Tôi thấy hình như năm ngoái, cô không ghét “cái anh Joseph thú vị ấy” lắm
thì phải.
- Anh nghiêm khắc quá. Phải, nói riêng với nhau () tôi không đến nỗi tan
nát cõi lòng vì anh ta đâu. Nhưng giả sử anh ta có yêu cầu tôi làm cái điều mà
đôi mắt anh muốn nói (đôi mắt anh cũng dịu dàng và ý nghĩa lắm) thì có lẽ tôi
cũng không từ chối. Osborne đưa mắt nhìn, như ngụ ý:
“Quả thật, cô có lòng tốt quá?”
- Anh đang nghĩ rằng được coi anh là em rể, thật là một vinh dự, có phải
không? Được làm chị dâu của George Osborne tiên sinh, con trai của Mall Osborne
tiên sinh, cháu trai của...tên cụ cố là gì nhỉ, anh Osborne? Thôi, xin anh đừng
giận. Anh có trách nhiệm gì về dòng dõi của mình đâu; tôi hoàn toàn đồng ý với
anh rằng tôi nên lấy anh Joe Sedley làm chồng; bởi vì một người con gái nghèo
khổ không một xu dính túi còn mong gì hơn? Bây giờ, mọi điều bí mật anh đã rõ
cả; tôi rất thẳng thắn cởi mở. Và xét cho cùng thì cũng cảm ơn anh đã nhắc đến
câu chuyện cũ...một cách rất nhã nhặn và lễ độ. Chị Amelia thân mến ơi, anh
Osborne và em đang nói chuyện về chị và anh Joseph đáng thương của chị đấy. Bây
giờ anh ấy ra sao nhỉ?
Thế là George hoàn toàn thất bại, Không phải vì Rebecca có lý; nhưng mồm
miệng cô ta bẻo lẻo quá thành ra dồn được anh chàng vào thế bí. Bây giờ anh ta
ngượng chín mặt, lùi lũi chuồn mất, George nghĩ bụng, giá mình ở lại chút nữa
thì rất có thể trở thành lố bịch trước mặt Amelia mất.
Tuy Rebecca đã thắng Osborne nhưng anh cũng không phải là người hèn hạ mà
trả thù cô gái bằng cách nói xấu...
Có điều ngày hôm sau, anh ta không thể nào nhịn không bày tỏ riêng một cách
khéo léo với đại úy Crawley vài ý kiến về Rebecca...rằng cô ta là một con người
rất sắc sảo, một con người nguy hiểm, đừng có lôi thôi vào mà chết, v.v...
Nghe nói, Crawley chỉ cười tỏ ý biểu đồng tình, và chỉ trong khoảng hai
mươi bốn giờ đồng hồ, lại đem mọi chuyện kể lại cho Rebecca nghe đầy đủ.
Rebecca càng vì thế mà nhìn Osborne với con mắt đặc biệt, Bản năng của đàn bà
mách cô rằng chính Osborne đã mua con ngựa của Crawley, sau bữa ăn lại đã bị
mất thêm mấy chục đồng ghi-nê. Anh ta láu lỉnh nhìn Crawley, nói:
- Tôi chỉ muốn khuyên anh dè chừng thôi, tôi hiểu bụng dạ đàn bà lắm; tôi
khuyên anh nên cẩn thận đấy.
Crawley nhìn anh ta với đôi mắt biết ơn đặc biệt:
- Xin cảm ơn anh, tôi thấy anh sáng suốt lắm.
Và George ra về, yên trí Crawley nói thực.
Anh ta kể lại cho Amelia nghe việc mình đã
khuyên bảo Rawdon Crawley - cái anh chàng cực kỳ tốt bụng lòng dạ thẳng như
ruột ngựa phải coi chừng cái cô Rebecca bé nhỏ láu lỉnh mưu mẹo ấy như thế nào.
Amelia kêu lên:
- Coi chừng ai chứ?
- Cái cô giáo bạn em ấy. Có gì mà sửng sốt?
- Ô kìa, anh George, anh đã làm cái gì thế Con
mắt đàn bà của cô đã được thần ái tình làm cho sáng suốt; chỉ thoáng qua, cô
cũng đã khám phá ra sự bí mật hoàn toàn bị che dấu trước con mắt bà Crawley, bà
Briggs đáng thương, và hơn cả, trước đôi mắt “cận thị” của anh chàng tự mãn có
râu kia tức là trung úy Osborne.
Lúc Rebecca quàng khăn cho bạn ở trên gác, hai
cô bạn gái có dịp tỷ tê chuyện riêng với nhau, bí mật bàn tính với nhau một tý;
ấy là cái thú vị đặc biệt của đời con gái.
Amelia lại sát gần nắm lấy hai bàn tay bé nhỏ
của Rebecca:
- Rebecca, em biết hết rồi.
Rebecca hôn bạn, không đáp.
Về câu chuyện bí mật thú vị này, hai cô thiếu
nữ không ai nói thêm một lời nào. Nhưng không lâu đâu, rồi nó sẽ lộ ra thôi.
Câu chuyện trên xảy ra được ít lâu, khi cô Sharp vẫn còn ở chơi nhà bà chủ mới
của mình tại Đường công viên thì ở phố Great Gaunt lại treo thêm một tấm huy
hiệu quý tộc giữa những tấm huy hiệu khác vẫn thường trang hoàng cho đường phố
ảm đạm này. Người ta thấy nó được treo trên ngôi nhà của cụ Pitt Crawley; nhưng
không phải là nó báo tin lão nam tước già đã chết. ấy là một tấm huy hiệu phụ
nữ, ít năm về trước đã dùng để báo tin bà cụ sinh ra cụ Pitt, tức là quả phụ
Crawley phu nhân tạ thế. Việc ma chay xong xuôi, người ta hạ tấm huy hiệu từ
trên mặt tường xuống cất vào một chỗ kín đáo nào đó trong nhà cụ Pitt. Bây giờ
nó lại được lôi ra vì bà Rose Dawson. Thế là cụ Pitt lại thành người góa vợ lần
nữa. Hình vẽ tượng trưng sơn trên nền chiếc khiên treo song song cạnh chiếc huy
hiệu của lão không phải thuộc về bà Rose đáng thương kia đâu; bà ta làm gì có
huy hiệu quý tộc; nhưng những vị thiên thần sơn trên chiếc khiên cũng sẽ che
chở cho bà y như xưa kia đã che chở cho mẹ cụ Pitt; phía dưới hình vẽ có đề chữ
Resugam (), hai bên có hình con rắn và con chim bồ câu của dòng họ Crawley. Huy
hiệu quý tộc, Resurgam...Thật là một dịp dạy luân lý cho người đời vậy.
Crawley cũng đã săn sóc bên giường bệnh của con
người trơ trọi kia. Anh ta cũng đã hết sức ngọt ngào an ủi, tiếp thêm sức mạnh
cho bà khỏe khoắn từ giã cõi trần. Đã bao năm nay, anh ta là người duy nhất ăn
ở tốt đối với bà, là người bạn độc nhất của tấm linh hồn yếu ớt, cô độc đó.
Thân thể bà còn sống nhưng tâm hồn thì đã chết từ lâu. Bà đã bán linh hồn của
mình để trở thành vợ cụ Pitt Crawley. Trong Hội chợ phù hoa, hàng ngày vẫn có
những bà mẹ và những cô con gái làm công việc thương mại như vậy.
Lúc bà tắt thở, ông chồng đang ở Luân-đôn, còn
bận thực hiện những kế hoạch làm ăn túi bụi nào đó, và đang bấn lên với những
ông thầy kiện. Tuy vậy, lão cũng vẫn dành được thì giờ đến thăm Đường công viên
luôn luôn, và gửi cho Rebecca rất nhiều lá thư nài xin cô, giục giã cô, ra lệnh
cho cô trở về với hai cô học trò ở nhà quê, vì từ khi mẹ bị ốm, hai cô thiếu
người bầu bạn. Nhưng, bà Crawley nhất định không đồng ý cho Rebecca đi. Ở thành
phố Luân-đôn này, không có người đàn bà lịch thiệp với họ bằng bà ta; nhưng khi
còn đam mê () thì bà ta lại là người gắn bó ghê gớm; cho nên bà cứ hăng hái ra
sức mà bám chặt ấy Rebecca.
Tin Crawley phu nhân tạ thế không gây ra những
nỗi buồn rầu hoặc những lời bàn tán trong phạm vi gia đình Crawley, như người
ta tưởng. Bà Bute Crawley nói: “Có nhẽ tôi phải hoãn buổi họp mặt tối ngày kia
mất! Ngừng một lát, bà tiếp: “Tôi hy vọng rằng ông anh chồng tôi nên giữ tiếng,
đừng tục huyền lần nữa”. Nếu ông ấy lại lấy vợ, thì Pitt chắc giận đến phát
điên lên mất.
Rawdon góp ý kiến; anh ta vẫn không ưa người
anh cả như cũ. Rebecca không nói gì. Cả nhà hình như chỉ có cô có vẻ trang
nghiêm, và bị xúc động hơn cả. Hôm ấy, cô rời khỏi căn phòng trước khi Rawdon
ra đi, nhưng ngẫu nhiên hai người lại gặp nhau ở nhà dưới; anh chàng vừa từ
biệt mọi người xong; họ đứng lại nói chuyện với nhau một lúc.
Sớm hôm sau, Rebecca đang đứng trong cửa sổ
nhìn ra sân, còn bà Crawley thì đang bình thản đọc một cuốn tiểu thuyết Pháp,
bỗng cô ta kêu nên, giọng sợ hãi, làm bà giật nẩy mình:
- Thưa bà, cụ Pitt đến kìa.
- Cô em ạ, tôi không thể tiếp ông ấy, tôi không
muốn tiếp ông ấy đâu. Bảo Bowls nói rằng tôi đi vắng. Hay là cô đi xuống bảo
ông ấy rằng tôi ốm, không tiếp ai được. Trong người tôi còn mệt, không thể tiếp
chuyện ông anh tôi vào phút này đâu.
Nói đoạn, bà Crawley cúi xuống đọc tiếp cuốn
sách.
- Thưa cụ, bà yếu quá, không tiếp khách được.
Cụ Pitt vừa định bước lên thang gác thì Rebecca
chạy vội xuống nói vậy. Cụ Pitt đáp:
- Càng hay. Cô Becky, tôi muốn gặp cô. Cô đi
với tôi sang phòng khách.
Hai người cùng vào trong phòng.
- Cô ơi, tôi muốn cô trở về trại Crawley Bà
chúa với tôi.
Lão nam tước vừa nói vừa chằm chằm nhìn cô; lão
tháo đôi găng tay đen ra và bỏ chiếc mũ có vành băng tang xuống. Đôi mắt lão
nhìn trừng trừng vào cô ta một cách lạ lùng làm cho Rebecca Sharp gần như run
lên. Cô đáp khe khẽ:
- Tôi cũng muốn sớm trở về khi nào bà Crawley
khỏe hơn... tôi sẽ về với... với mấy em bé yêu quý.
Cụ Pitt đáp:
- Becky, cô nói thế đã mấy tháng nay rồi; thế
mà cô vẫn cứ bám chặt lấy bà em tôi; bao giờ bà ấy chán, bà ấy sẽ quẳng cô đi
như vứt chiếc giầy rách. Tôi nói cô biết, tôi cần cô lắm. Bây giờ tôi sắp về
đưa đám đây. Cô có về không? Có hay không?
Becky có vẻ rất bối rối đáp.
- Tôi không dám...tôi không cho rằng...có lẽ
không tiện...đi một mình...với cụ.
Cụ Pitt đấm tay xuống mặt bàn, nói:
- Tôi nhắc lại rằng tôi cần cô. Vắng cô, tôi
không làm ăn gì được. Từ bữa cô đi tôi không biết công việc ra sao. Nhà cửa bề
bộn, không còn được như trước nữa. Sổ sách của tôi luộm thuộm, không ra sao cả.
Cô phải trở về. Hãy trở về đi; Becky quí mến ơi, trở về đi.
Rebecca há hốc mồm hỏi...
-Về như thế nào, thưa cụ?
- Về với tư cách là Crawley phu nhân, nếu cô
muốn. Đấy, cô đã bằng lòng chưa? Cô cứ về làm vợ tôi. Cô xứng đáng lắm. Dòng
dõi thì làm cái **** gì. Dòng dõi như cô cũng xứng đáng làm một mệnh phụ như
bất cứ ai. Cô còn khôn ngoan bằng vạn vợ những thằng nam tước khác trong quận
này. Cô có về không? Có hay không?
- Ồ, cụ Pitt!
Rebecca xúc động quá, kêu lên.
Cụ Pitt vẫn tiếp:
- Becky, bằng lòng đi. Tôi già rồi nhưng còn
khỏe lắm. Tôi còn sống hai mươi năm nữa là ít. Tôi sẽ làm cho cô được sung
sướng, rồi cô sẽ thấy. Tha hồ cô muốn làm gì thì làm; tha hồ tiêu tiền, tha hồ
ăn chơi, tùy thích. Tôi sẽ sắp đặt tương lai chắc chắn cho cô. Tôi sẽ lo hợp
thức hóa đầy đủ. Cô thấy không?
Và lão già quỳ xuống, liếc nhìn cô gái, y như
một con “thần dê”() vậy.
Rebecca sửng sốt lùi lại, sững sờ cả người. Từ
đầu cuốn truyện này, chúng ta chưa hề bao giờ thấy cô cũng phải lúng túng, và
nhỏ những giọt nước mắt thành thực nhất đời mình. Cô nói:
- Ôi, cụ Pitt ạ ; ôi thưa cụ... tôi…tôi đã có
chồng mất rồi.
Chương 15
CHỒNG CÔ REBECCA XUẤT HIỆN TRONG CHỐC LÁT
Các bạn độc giả thuộc loại đa cảm (chúng tôi
cũng không thích loại độc giả khác) hẳn phải thú vị trước cảnh tượng của tấn bi
kịch nhỏ và miêu tả cuối chương vừa qua; bởi vì còn có gì đẹp hơn là hình ảnh
thần Ái tình quỳ trước thần Sắc đẹp?
Song, khi thần Ái tình nghe thần Sắc đẹp thốt
ra lời thú nhận ghê gớm rằng mình đã trót có chồng rồi, thì thần Ái tình đang
quỳ mọp trên tấm thảm bỗng nhảy bật ngay dậy, miệng thốt ra những tiếng kêu làm
cho thần Sắc đẹp đáng thương phải sợ hãi hơn cả lúc cô ta đang thú thực rằng
mình đã có chồng. Cơn giận dữ và ngạc nhiên đầu tiên đã qua, lão nam tước kêu
lên:
- Có chồng rồi; cô nói đùa. Becky, cô định trêu
tôi phỏng? Ai điên gì mà lấy cô, một xu dính túi không có?
- Có chồng rồi! Vâng, tôi có chồng rồi!
Rebecca vừa khóc nức nở, vừa đáp...giọng nói
nghẹn ngào vì xúc động, cô cầm khăn tay đưa lên mắt, phải dựa lưng vào thành lò
sưởi cho khỏi ngã...trông cô ta thực là hiện thân của sự đau khổ, khiến cho kẻ
lòng dạ sắt đá cũng phải mủi lòng.
- Ôi cụ Pitt, cụ Pitt thân mến; xin cụ đừng
nghĩ rằng tôi vô tình không biết đền đáp lại bao ân huệ cụ đã ban cho tôi Chính
vì cụ rộng lượng, nên tôi mới dám thú thực điều bí mật ấy. Cụ Pitt gầm lên:
- Rộng lượng cái con khẹc? Cái thằng lấy cô,
hắn ta là ai! Hắn ở đâu?
- Thưa cụ, để tôi lại xin theo cụ về quê. Để
tôi lại xin săn sóc cụ như trước? Xin cụ chớ bắt tôi phải rời bỏ trại Crawley
Bà chúa?
Lão nam tước tưởng mình đã hiểu chuyện, bèn
nói:
- Thằng cha bỏ rơi cô, hả? Được, Becky...nếu cô
muốn thì cứ trở về. Cô không thể nào vừa muốn ăn bánh lại vừa để dành nó được.
Dầu sao đi nữa, tôi cũng đã đem đến cho cô một cơ hội “tút” . Cô hãy trở về làm
cô giáo như cũ... cô sẽ được tự do theo ý muốn.
Rebecca bèn chìa một bàn tay ra. Cô khóc nức nở
tưởng như cả trái tim đến vỡ tung ra mất; những món tóc xoăn xoăn xõa xuống che
kín mắt và xõa cả xuống mặt lò sưởi bằng đá cẩm thạch.
Cụ Pitt nói, giọng khả ố, cố tìm cách an ủi cô
gái:
- Thế là thằng khốn nạn đánh bài chuồn hả? Thôi
Becky ơi, đừng nghĩ ngợi nữa, tôi sẽ chăm sóc cô Becky ơi, đừng nghĩ ngợi nữa,
tôi sẽ chăm nom săn sóc cô.
- Ôi, thưa cụ, được trở về trại Crawley Bà chúa
để trông nom các em và săn sóc cụ như trước, thật là một điều đáng kiêu hãnh
trong đời tôi; nhất là được thấy cụ tỏ ý rất vui lòng vì sự hầu hạ của con bé
Rebecca hèn mọn này. Mỗi lúc nghĩ đến lời cụ vừa dạy, tôi lại thấy ơn cụ bằng
trời biển... quả thật như thế. Tôi không được làm vợ cụ; xin cụ cho được...được
làm con gái cụ vậy.
Vừa nói Rebecca vừa quỳ xuống, điệu bộ trông bi
đát vô cùng; cô nắm chặt lấy bàn tay gớm ghiếc của lão trong hai bàn tay mình
(hai tay cô ta thật đẹp, trắng muốt, mịn màng như sa-tanh), vừa ngước mắt nhìn
lão già, vẻ mặt hết sức tin cậy và đáng thương; vừa lúc ấy…cửa mở, bà Crawley
sồng sộc bước vào.
Vừa ngay sau lúc Rebecca và cụ Pitt đưa nhau
vào trong phòng khách thì bà Firkin và bà Briggs tình cờ cũng đi qua cửa phòng,
và cũng ngẫu nhiên cùng nhòm qua lỗ khóa họ thấy lão quý tộc già quỳ móp trước
mặt cô giáo dạy trẻ, lại nghe thấy lão ngỏ ý muốn cưới cô làm vợ. Lão vừa nói
buông mồm thì lập tức cả bà Firkin và bà Briggs chạy bổ lên gác, xông vào phòng
khách, chỗ bà Crawley đang ngồi đọc cuốn tiểu thuyết Pháp; họ báo cho cho bà biết
cái tin quái gở: cụ Pitt đang quỳ và tỏ tình với cô Sharp. Nếu các bạn tính
đúng thời gian cuộc đối thoại trên xảy ra...với thời gian bà Firkin và bà
Briggs bay lên thang gác...lao vào phòng khách... và thời gian bà Crawley ngạc
nhiên, đánh rơi tập truyện của Pigault le Brun xuống đất...và thời gian bà
xuống thang gác...các bạn sẽ thấy cuốn truyện này viết rất chính xác; bà
Crawley tất phải xuất hiện vừa đúng lúc Rebecca đang có thái độ cầu khẩn van
xin nói trên.
Bà Crawley nói, giọng nói và cái nhìn tỏ vẻ hết
sức khinh bỉ:
- Vậy ra tiểu thư quỳ xuống đất chứ không phải
là công tử? Ông Pitt, họ mách tôi rằng chính ông đã quỳ mọp dưới chân cô ta
phải không? Hãy quỳ xuống lần nữa đi, để tôi xem có đẹp đôi không nào!
Rebecca đứng dậy đáp:
- Thưa bà, tôi vừa cảm tạ cụ Pitt, tôi đã thưa
với cụ rằng... tôi không bao giờ có thể trở thành Crawley phu nhân được.
- Từ chối à?
Bà Crawley kêu lên, lại càng sửng sốt hơn
trước; Briggs và Firkin đứng ngoài cửa cùng trợn tròn mắt, mồm há hốc ra vì
ngạc nhiên.
Rebecca tiếp theo, giọng buồn bã, nghẹn ngào
đầy nước mắt:
- Vâng...tôi từ chối.
Bà già lại hỏi:
- Liệu tôi có nên tin ở lỗ tai mình nữa không,
khi được nghe rằng ông đã tỏ tình với cô ấy, hử ông Pitt?
Lão nam tước đáp:
- Đúng, có thế.
- Và cô ấy từ chối, như cô ấy vừa nói?
- Đúng.
Cụ Pitt nhăn răng ra cười, đáp vậy.
Bà Crawley nhận xét:
- Trông ông có vẻ không lấy việc đó làm đau đớn
thì phải.
- Việc quái gì mà đau đớn.
Cụ Pitt đáp, mặt vẫn thản nhiên lại có ý hơi
khôi hài, làm cho bà Crawley gần phát điên lên vì kinh ngạc. Một nhà quý tộc đã
già mà quỳ xuống trước mặt một cô giáo dạy trẻ không một xu vốn liếng, và lại
phá ra cười vì bị cô ta từ chối không chịu lấy làm chồng... một cô giáo dạy trẻ
không một xu hồi môn mà từ chối một vị nam tước thu hoạch đồng niên bốn ngàn
đồng... thật là những điều bí mật bà Crawley không bao giờ có thể hiểu nổi. Còn
vượt xa những chuyện ly kỳ bà đọc trong cuốn tiểu thuyết Pigault le Brun bà vẫn
thích nhất.
- Tôi rất vui lòng thấy ông cười cợt được trước
chuyện ấy, ông anh của tôi ạ. Bà nói tiếp, vẫn chưa hết cơn bàng hoàng sửng
sốt.
Cụ Pitt đáp:
- “Trứ danh” thật, ai mà ngờ được! Thật là một đồ quỷ cái! Đồ cáo con!
Lão vừa lẩm bẩm vừa khúc khích cười một mình ra ý thú vị lắm.
Bà Crawley giậm chân bành bạch, kêu lên:
- Ai mà ngờ được cái gì hả? Này, cô Sharp, cô định chờ Hoàng tử nhiếp chính
ly dị vợ hay sao? Cô cho rằng gia đình nhà tôi không xứng đáng với cô hẳn?
Rebecca đáp:
- Thưa bà, cứ nom dáng điệu của tôi khi bà bước vào đây cũng đã rõ tôi có
dám coi thường cái vinh dự mà con người tốt bụng cao quý kia đã rộng ơn ban cho
tôi hay không. Bà nghĩ rằng tôi là kẻ vô tình sao? Tất cả mọi người đã yêu quý,
đã đối đãi tốt với đứa con gái mồ côi đáng thương bị ruồng bỏ này, vậy mà chẳng
lẽ nó không cảm thấy điều gì sao? Ôi, các bạn? Ôi, các vị ân nhân. Sao cho tôi
có thế đem tình yêu, đời sống, đem hết sức ra đền đáp lại sự tin cậy của các vị
đối với tôi? Bà Crawley ơi, lẽ nào bà lại từ chối không cho tôi tỏ lòng biết
ơn? Thế thì quá lắm...tôi mang ơn các vị vô cùng.
Cô ngồi phịch xuống một cái ghế, trông đáng thương quá, khiến cho hầu hết
những người đang có mặt phải não lòng vì nỗi buồn của cô.
- Becky, dù lấy tôi hay không thì cô vẫn là một người con gái tốt; tôi vẫn
là bạn của cô, nhớ thế.
Cụ Pitt nói đoạn, chụp cái mũ có băng tang lên đầu, bỏ đi ra...Rebecca mừng
quá, vì thêm sự bí mật của cô chưa bị tố cáo với bà Crawley, và cô hãy còn được
hưởng một thời gian án treo ngắn.
Cô đưa khăn tay lên chùi mắt, gật đầu chào bà Briggs thực thà, rồi lên gác
về phòng riêng của mình - bà Briggs cũng định cùng đi với cô lên thang gác,
nhưng sau bà ở lại cùng bà Crawley bàn tán về câu chuyện kỳ lạ vừa qua; cả hai
đều bị xúc động rất mạnh. Bà Firkin cũng cảm động không kém, đâm bổ ngay xuống
nhà bếp, kể lại câu chuyện với khắp các bạn đồng nghiệp nam nữ. Câu chuyện gây
một ấn tượng quá sâu sắc đối với bà Firkin, đến nỗi bà ta thấy cần gửi một lá
thư đi ngay tối hôm ấy; thư viết;
“Rất hân hạnh được bày tỏ lòng trung thành cùng bà Bute Crawley và gia
quyến ở nhà thờ; cụ Pitt đã ngỏ ý muốn lấy cô Sharp làm vợ, nhưng cô từ chối,
làm cho ai cũng phải ngạc nhiên”.
Hai người đàn bà ngồi trong phòng ăn (bà Briggs sung sướng quá, vì một lần
nữa lại được trò chuyện tâm tình với người che chở cho mình); họ vẫn chưa hết
lạ lùng trước việc cầu hôn của cụ Pitt, cũng như việc Rebecca từ chối. Bà
Briggs tỏ ra thạo đời, đoán rằng cô ta từ chối vì đã trót đính ước với người
khác rồi; nếu không, chả đời nào một người con gái khôn ngoan như thế. Bà
Crawley ngọt ngào hỏi:
- Phải tay bà, chắc bà nhận lời phăng đấy nhỉ, bà Briggs?
Bà Briggs trả lời, hơi đánh trống lảng:
- Được làm chị dâu bà Crawley, chả đáng hân hạnh lắm sao?
Bà Crawley nhận xét:
- Phải, xét cho cùng thì Becky có thể trở thành Crawley phu nhân được lắm
chứ (thấy cô ta từ chối bà cũng hài lòng, và bây giờ không cần phải hy sinh
điều gì nữa, bà rất sẵn sàng tỏ ra phóng khoáng và rộng lượng); cô ấy thông
minh lắm - bà Briggs đáng thương ơi, cô ấy còn thông minh gấp trăm bà nữa cơ -
cử chỉ thì tuyệt khéo, tôi dạy mãi mới được đấy. Này bà Briggs, cô ấy là dòng
dõi họ Montmorency, con nhà gia thế cũng có khác, tuy bản thân tôi thì vẫn
không ưa chuyện dòng dõi. Cô ấy rất có thể còn biết giữ giá trị của mình giữa
đám quý phái ngu độn ở Hamshire hơn cả cái con mụ bất hạnh con gái nhà hàng sắt
kia đấy.
Bà Briggs lại tán thành như thường lệ. Hai người tiếp tục phỏng đoán về
chuyện “đính ước” của Rebecca.
Bà Crawley bảo:
- Những con người không bè bạn đáng thương như các bà bao giờ mà chẳng có
một “anh nhân ngãi” nào đó. Cả bà nữa, ngày xưa bà cũng đã yêu một ông giáo dạy
viết (đừng khóc, bà Briggs...bà hay khóc lắm, khóc có làm ông ta sống lại được
đâu), mà tôi cứ cho rằng cái nhà cô Becky bất hạnh kia cũng dại đột và đa cảm
như vậy đi: một lão lang thuốc, một bác quản gia, một anh thợ vẽ, một cậu mục
sư trẻ tuổi nào đó, hoặc một thứ người đại loại như thế chứ.
- Thật là đáng thương! Đáng thương quá!
Bà Briggs nói vậy, bà đang nghĩ tới chuyện hai mươi bốn năm về trước, nghĩ
tới cái ông thầy dậy viết gầy như que củi, đến mái tóc vàng và những lá thư của
ông ta, những lá thư rất đẹp tuy viết loằng ngoằng khó đọc mà bà nâng niu giữ
gìn trong ngăn bàn trên gác. Bà vẫn chép miệng “Thật là đáng thương! Đáng
thương quá!” Một lần nữa, bà sống lại thủa con gái mười tám, với cặp má mịn
màng tươi tắn, buổi tối đi lễ nhà thờ, bà và ông giáo dạy viết nồng nàn kia
cùng ngân giọng đồng ca bài hát nguyện.
- Bây giờ cô Rebecca đã cư xử như vậy, thì gia đình nhà ta phải đối đãi với
cô thế nào chứ. Bà Briggs, hãy dò xem anh ta là ai. Tôi sẽ cấp cho anh ta một
cái cửa hiệu, hay là đặt anh ta vẽ cho tôi một bức chân dung, bà hiểu chứ? Hoặc
tôi sẽ nói chuyện với ông anh họ tôi, làm giám mục...tôi sẽ cho Becky một món
hồi môn, và bà Briggs, ta sẽ tổ chức một lễ cưới. Bà phải sửa soạn một bữa
tiệc, và đi phù dâu.
Bà Briggs tuyên bố rất bằng lòng, và thề rằng bà Crawley thân mến của bà
bao giờ cũng tốt bụng, rộng lượng, đoạn bà lên phòng riêng của Rebecca để an ủi
cô và hỏi chuyện về việc cầu hôn, việc từ chối và về nguyên nhân. Bà còn nói
bóng tới dự định rộng lượng của bà Crawley và cố dò xem ai là người đàn ông
được cô Sharp để lọt vào mắt xanh.
Rebecca tỏ ra rất xúc động, rất dịu dàng, ngọt ngào thấy bà Briggs đối với
mình hết sức trìu mến săn sóc, cô cũng tỏ ra biết ơn....Cô cũng thú nhận rằng
có đính ước bí mật với một người... một sự bí mật thú vị vô cùng...đáng tiếc
quá, giá lúc nhòm qua lỗ khóa bà Briggs nán lại thêm độ nửa phút nữa thì
hay...Có lẽ Rebecca cũng còn nói rõ thêm, nhưng bà Briggs mới ngồi trò chuyện
được độ năm phút, thì bà Crawley đã lù lù bước vào rồi... Bà nóng ruột quá,
không chịu nổi, bà không thể chờ đợi người sứ giả chậm chạp của mình mang tin
về, cho nên bà phải đích thân tìm đến, bà ra lệnh cho bà Briggs ra ngoài. Sau
khi tỏ lời khen ngợi cô Sharp đã cư xử phải lẽ, bà hỏi tỉ mỉ chi tiết cuộc gặp
gỡ vừa qua, là hỏi quan hệ từ trước giữa cô và cụ Pitt ra sao mà bây giờ lão
này tỏ tình một cách lạ lùng như vậy Rebecca đáp rằng từ lâu cô vẫn biết cụ
Pitt có ý hạ cố thương cô (lão ta vẫn có thói quen bộc lộ tình cảm của mình một
cách thẳng thắn, lộ liễu), nhưng vì những lí do về tuổi tác, địa vị, và tính
tình của cụ Pitt, cô thấy cuộc hôn phối không thể thực hiện được (cô không nói
rõ những lý do sâu kín chưa tiện bộc lộ ngay, sợ bà Crawley phiền lòng) vả
chăng, có người đàn bà nào có tâm hồn, biết nghĩ và biết tự trọng, lại đành tâm
nghe người ta ngỏ ý cầu hôn khi vợ người ta mới chết chưa kịp chôn cất?
Bà Crawley vội vớ ngay lấy cơ hội.
- Cô em thật nghĩ còn nông cạn. Lẽ ra cô không nên từ chối ông ấy mới phải,
trừ trường hợp cô đã đính ước với người khác thì không kể. Cứ nói thực với tôi
đi: có nguyên nhân gì bí mật nào? Nhất định phải có “người nào” rồi. Ai đã
chiếm được trái tim cô thế?
Rebecca nhìn xuống đất, thú nhận rằng có như vậy. Cô mỉm cười nói, giọng hơi run run:
- Thưa bà, bà đoán đúng đấy. Bà ngạc nhiên vì
thấy một người con gái nghèo khổ, cô độc, lại có người đính ước, phải không
ạ?Tôi chưa hề nghe nói vì nghèo mà không được yêu bao giờ.Tôi mong rằng điều ấy
đúng.
Bà Crawley bao giờ cũng sẵn sàng đa cảm, bà
đáp:
- Cô em bé bỏng thân mến đáng thương ơi, vậy ra
cô bị phụ tình? Cô đành chôn vùi mối hận sâu kín trong lòng? Hãy kể tình đầu
câu chuyện tôi nghe, tôi sẽ an ủi cô.
Rebecca vẫn giọng nói đẫm nước mắt:
- Thưa bà, tôi cũng mong rằng có thể kể lại bà
nghe. Mà quả thật, tôi cần được bộc lộ nỗi lòng.
Và cô ngả đầu vào vai bà Crawley, khóc thút
thít rất tự nhiên, làm cho bà này từ chỗ ngạc nhiên biến thành thương cảm, bà
ôm hôn cô trìu mến gần như mẹ hôn con, bà vỗ về an ủi cô mãi, bà thề rằng sẽ
quý cô như con gái, và sẵn sàng làm mọi việc có thể được để giúp cô.
- Nào, thế anh ta là ai nào, cô em yêu quý? Có
phải người anh trai cô Sedley xinh đẹp kia không? Hôm nọ cô nói chuyện hai
người trước có biết nhau. Để tôi mời anh ta đến đây. Và cô sẽ lấy được anh ta,
nhất định cô sẽ lấy được anh ta.
Rebecca đáp:
- Bây giờ xin bà đừng hỏi ngay. Không lâu đâu
rồi bà sẽ rõ, chắc chắn thế. Bà Crawley thân mến quý báu...người bạn thân quý
của tôi, tôi có được phép gọi như vậy không nhỉ?
Bà già hôn cô đáp:
- Con ơi, được lắm chứ.
Rebecca thổn thức nói:
- Bây giờ tôi chưa thể nói ngay với bà được.
Tôi đau khổ lắm. Nhưng mà, ôi? hãy thương tôi...xin bà hứa sẽ thương tôi mãi
mãi.
Cả hai người cùng khóc, sự xúc động của cô con
gái lây sang cả bà già, bà Crawley trịnh trọng hứa đồng ý như vậy; đoạn bà từ
biệt cô gái bé bỏng được mình che chở, bà cầu chúa ban phúc lành cho cô ta, và
khen mãi cô ta một con người chân thật, hiền hậu, ngoan ngoãn nhưng cũng khó
hiểu.
Bây giờ còn lại một mình, Rebecca ngồi nghĩ lại
những sự việc đột ngột, kỳ lạ xảy ra ngày hôm ấy, cô nghĩ đến việc trót xảy ra
mất rồi, và việc đáng lẽ đã phải xảy ra.
Bạn đọc cho rằng trong thâm tâm cô ấy (ấy, xin
lỗi), trong thâm tâm bà Rebecca đang nghĩ gì nào? Trong mấy trang trước, kẻ
viết truyện này đã mạn phép tự cho mình cái quyền được tò mò ngó vào trong
phòng ngủ của Amelia Sedley, và với con mắt “thấu suốt nghìn đời” của nhà viết
tiểu thuyết, hiểu được những nỗi lo nghĩ, đau khổ êm đềm đang trằn trọc trên
tấm gối vô tội kia, thế thì tại sao kẻ viết truyện lại không dám tự nhận là
người bạn tâm tình của Rebecca, hiểu thấu mọi sự bí mật của cô, và nắm giữ
chiếc chìa khóa kho tàng tâm tình của cô thiếu nữ ấy?
Được, vậy thì trước hết Rebecca đang ngồi nghĩ
thầm một cách đáng cảm động mà tiếc mãi cái hạnh phúc vô giá lẽ ra có thể vừa
tầm tay với của cô, mà bây giờ bắt buộc phải gạt bỏ. Niềm tiếc hận này thì bất
cứ người nào có tâm lý thực tế cũng phải đồng ý. Có bà mẹ thương con nào lại
không thông cảm với một cô gái chưa chồng, không một xu vốn liếng suýt nữa trở
thành một bậc mệnh phụ, hàng năm có thể cùng ông chồng chia xẻ món tiền bốn
nghìn đồng? Trong Hội chợ phù hoa này, có người thiếu nữ tử tế nào lại không
thương một cô gái chịu thương chịu khó, thông minh, xứng đáng được sung sướng,
mà khi được người ta mang đến cho một mối lợi kếch xù đáng thèm muốn như vậy
lại chính là lúc không có quyền nhận nữa? Tôi chắc chắn rằng chúng ta ai cũng
phải thông cảm với sự tiếc hận của Rebecca.
Tôi còn nhớ một đêm kia, chính tôi có mặt ở Hội
chợ phù hoa trong một buổi dạ hội. Tôi có nhìn thấy cô gái già Toady cũng đến
dự; cô đặc biệt quan tâm săn sóc đến bà Briefless là vợ một viên thầy kiện; bà
này cũng là con nhà gia thế, nhưng ai cũng biết là nghèo xơ nghèo xác.
Tôi mới tự hỏi thầm rằng, tại sao cô Toady lại
chú ý nhiều đến bà kia? Tại ông Briefless đã được thăng chức chánh án chăng?
Hay là tại vợ ông ta để lại cho cô Toady một cái gia tài? Cô Toady , với thái
độ rất thẳng thắn là đặc tính trong cách cư xử của cô xưa nay, giải thích thế
này: “Anh cũng rõ chứ gì, bà Briefless là cháu gọi tôn ông John Redhand là ông
nội; ông cụ ốm kịch liệt ở Cheltenham đã sáu tháng nay. Ông bố bà Redhand được
thừa kế, anh thấy không, vậy bà ấy sắp sửa là con gái của một vị nam tước cơ
mà.”
Rồi cô Toady mời ông Redhand và vợ tuần sau đến
ăn cơm nhà cô.
Nếu như chỉ có mỗi cái may mắn được trở thành
con gái một nam tước mà một người đàn bà cũng đã được người đời trọng vọng như
vậy thì, chắc chắn, chắc chắn lắm, chúng ta rất có quyền kính trọng những sự
sầu não của một cô thiếu nữ suýt nữa được trở thành vợ một nam tước. Ai dám
tưởng rằng Crawley phu nhân chết sớm như thế? Bà ta thuộc vào loại đàn bà có
thể ốm dai dẳng mười năm không chết...Rebecca nghĩ ngấm nghĩ ngầm mà tiếc đứt
ruột...
Chỉ một ly nữa mình được làm một phu nhân? Mình
có thể xỏ dây vào mũi lão già mà dắt đi đâu thì dắt. Mình có thể “xin đủ” bà
Bute với thái độ trịch thượng của bà, và “xin đủ” cả Crawley với thái độ kẻ cả
không chịu nổi của anh ta. Mình có thể sắm sửa thêm đồ đạc mới và trang hoàng
lại tòa nhà ở tỉnh. Mình có thể mua một chiếc xe ngựa đẹp nhất thành phố Luân
đôn, ngự trên ghế “lô” ở rạp Opera; và trong dịp thiết triều sắp tới mình rất
có thể được vào hoàng cung. Tất cả những điều đó tý nữa thì thành sự thực...thế
mà bây giờ...bây giờ tất cả đều là ảo tưởng, mơ hồ.
Song Rebecca là một thiếu nữ tính tình quả
quyết nhiều nghị lực, đối với chuyện đã xảy ra không cứu vãn được nữa, cô không
buồn phiền một cách vô ích và đáng tức cười. Cho nên cô chỉ rầu rĩ vừa phải
thôi, đoạn khôn khéo để dành thì giờ tập trung vào việc lo tính sắp đặt tương
lai quan trọng hơn nhiều. Cô cân nhắc lại tình thế của mình cùng mọi nỗi hy
vọng, lo lắng, và mọi sự may rủi có thể. Đầu tiên, hãy cứ biết là cô đã có
chồng...đấy là điều quan trọng. Cụ Pitt biết chuyện ấy rồi. Cô không ngạc nhiên
lắm về lời thú nhận trong một phút tính toán đột ngột cô đã nói ra. Chóng hay
chầy thì rồi cũng có phen phải thú thực; vậy thì nói ngay bây giờ hay để đến
sau này, khác gì nhau? Ít nhất thì cái con người suýt nữa được lấy cô làm vợ ấy
phải biết im lặng, không đả động đến chuyện cô ta đã có chồng rồi. Nhưng vấn đề
quan trọng là bà Crawley nghe tin ấy thì sẽ nghĩ sao? Rebecca băn khoăn quá.
Nhưng cô còn nhớ tường tận lời bà Crawley, cô còn nhớ bà có thái độ khinh miệt
dòng dõi quý tộc thế nào; cô nhớ bà có những ý kiến khoáng đạt, táo bạo thế
nào; cô nhớ cả khuynh hướng lãng mạn trong tính tình của bà nữa: cô nhớ bà còn
quý mến anh cháu trai đến mức như dở hơi, và chính cô cũng được bà nhiều lần tỏ
lòng quý mến. Rêbeeea nghĩ thầm:
“Bà bão quý anh ấy lắm, chắc bà sẽ tha thứ cho
anh ấy mọi chuyện: bà lão quen được mình săn sóc quá rồi: bây giờ thiếu mình
chắc không chịu được. Bao giờ chuyện bí mật trở thành hai năm rõ mường chắc thế
nào bà lão cũng nổi cơn tam bành lục tặc, thế nào cũng khóc lóc gây sự với
mình, nhưng rồi lại làm lành ngay với nhau thôi. Ngẫm cho kỹ, thì nấn ná, giấu
giếm thêm nữa để làm gì? Con bài đã lật lên rồi, hôm nay hay ngày mai thì kết
quả cũng thế thôi”. Nghĩ vậy, cô quyết định báo cho bà Crawley biết mọi chuyện;
cô chỉ cân nhắc xem nên báo tin cho bà cách nào bà tốt nhất, và có nên ra mặt
chịu đựng cơn bão táp thế nào cũng nổ ra không, hay là nên cao chạy xa bay ẩn
lánh một chỗ, đợi đến lúc mưa tạm tan, gió tạm lặng rồi hãy trở về. Trong lúc
cô băn khoăn suy tính, cô viết một lá thư nội dung như thế này:
Anh thân mến nhất đời.Cơn đại khủng hoảng mà
đôi ta thường bàn bạc vừa nổ ra rồi. Một nửa sự bí mật của em đã bị khám phá,
em đã suy đi tính lại mãi, và em yên trí rằng bây giờ chính là lúc nên bộc lộ
hết câu chuyện bí mật. Sớm nay, cụ Pitt tìm đến em và...anh có tưởng tượng được
không cụ chính thư ngỏ ý hỏi em làm vợ. Thế có chết không! Thật đáng thương cho
em quá! Lẽ ra em được trở thành Crawley phu nhân. Nếu quả thế, hẳn bà Bute sung
sướng lắm đấy nhỉ: và cả bà cô em nữa, hẳn bà cũng vui lòng, nếu em trở thành
bề trên của bà. Suýt nữa em đã trở thành mẹ của một người nào đó rồi, chớ không
phải là... ôi, cứ nghĩ chúng mình phải nói tất cả mọi chuyện ra sớm thế mà em
sợ quá, em run quá! Cụ Pitt đã biết em có chồng nhưng không rõ em lấy ai, nên
cụ cũng chưa lấy gì làm bực mình lắm. Bà cô em thì đang hết sức giận dữ, vì em
từ chối không làm vợ ông cụ. Nhưng bà cư xử với em rất ngọt ngào, trìu mến. Bà
ấy đã chịu hạ mình bảo em rằng em có thể trở thành một người vợ tốt của ông cụ
được, và thề rằng sẽ coi “Rebecca bé bỏng của anh” như con gái. Khi biết
chuyện, mới đầu chắc thế nào bà ấy cũng choáng váng: nhưng cơn giận rồi cũng
chỉ thoáng qua, chúng ta có cần phải sợ hãi không, em nghĩ rằng không; em chắc
chắc thế. Bà ấy quý anh như vàng (anh chỉ là đồ ngỗ ngược, vô tích sự), chắc sẽ
tha thứ cho anh mọi chuyện. Mà em tin chắc rằng sau anh, thì người chiếm được
chỗ thứ hai trong tim bà phải là em, và thiếu em thì bà ấy khổ lắm. Anh thân
yêu nhất đời ơi, linh tính báo cho em biết rằng chúng ta sẽ chiến thắng. Anh sẽ
từ biệt cái trung đoàn khốn nạn ấy, sẽ thôi không đánh bạc, thi ngựa, và sẽ trở
thành một cậu bé ngoan ngoãn; chúng ta sẽ về cùng sống ở Đường thành công viên,
và bà cô em sẽ cho chúng ta hưởng cả gia tài.
Sáng sớm mai, em sẽ cố tìm cách đến chỗ mọi khi
vào ba giờ sáng. Nếu bà B cùng đi với em, thì anh phải đến ăn cơm trưa và đưa
tin trả lời em: nhớ cứ để vào tập thuyết giáo của Porteus quyển thứ ba. Nhưng
dầu sao đi nữa, anh cũng phải đến thăm em nhé.
Gửi cô Eliza Styles, ngụ tại nhà ông Barnet,
thợ đóng yên ngựa, Knightsbridge.
Tôi tin rằng không một bạn độc giả tinh ý nào
đọc cuốn truyện nhỏ này lại không nhận ra ngay cái cô Eliza Styles thường lại
nhà ông thợ đóng yên ngựa để nhận thư (theo lời cô Rebecca thì đấy là một bạn
học cũ, gần đây cô mới lại thư từ thăm hỏi) lại là người cũng đi ủng có cựa gót
bằng đồng, để một bộ ria mép to tướng và, chẳng phải ai xa lạ, chính là đại úy
Crawley vậy.
Chương 16
BỨC THƯ TRÊN CHIẾC GỐI MAY
Hai người đã lấy nhau ra sao, điều đó không ai
cần quan tâm mảy may. Một viên đại úy đã thành niên cùng một cô thiếu nữ đến
tuổi xin cấp một tờ chứng hôn, và làm lễ cưới tại bất cứ nhà thờ nào trong
thành phố thì có điều gì khó khăn đâu? Chẳng cần phải bảo thì ai cũng biết rằng
một khi người đàn bà đã muốn, chắc chắn họ sẽ tìm ra cách thực hiện bằng được ý
muốn của mình.
Cứ theo ý tôi thì có lẽ, một hôm nào đó, khi cô
Sharp đi vắng cả một buổi sáng để đến thăm cô bạn thân thiết là Amelia Sedley ở
khu phố Russell, thì có một thiếu nữ trông rất giống cô ta cũng bước vào một
tòa nhà thờ nào đó trong thành phố, cùng một người đàn ông sang trọng có bộ ria
mép vuốt sáp; sau khoảng mười lăm phút, người đàn ông này lại dẫn cô trở ra,
lên chiếc xe ngựa thuê vẫn chờ sẵn: ấy là một buổi lễ cưới kín đáo vậy.
Và trên thế gian này, sau khi trải qua bao kinh
nghiệm sống hàng ngày, ai dám cho rằng một người đàn ông con nhà dòng dõi lại
không thể lấy vơ váo bất cứ người nào làm vợ? Đã có biết bao người khôn ngoan,
học thức mà lấy ngay chị bếp của mình? Ngay chính bá tước Eldon, con người khôn
ngoan nhất đời ấy chẳng đã lấy vợ một cách lúi sùi vụng trộm đấy sao? Xưa kia,
Achilles và Ajax cũng đã yêu nô lệ của họ. Vậy thì sao ta lại đòi hỏi anh chàng
sĩ quan Ngự lâm quân cao lớn kia, con người có những dục vọng lớn lao nhưng trí
óc lại rất bé nhỏ, trong đời mình chưa từng bao giờ biết kiềm chế những sự say
mê, phải bất thình lình trở thành khôn ngoan và từ chối không chịu thỏa mãn một
khát vọng anh ta hằng ấp ủ? Nếu như thiên hạ bao giờ cũng tính toán cẩn thận
khi lấy vợ lấy chồng, thì việc phát triển dân số đến đình lại mất!
Riêng đối với tôi thì việc ông Rawdon lấy vợ
chính là một trong số những hành vi lương thiện nhất mà ta có thể thống kê được
trong bất cứ đoạn đời nào của nhà quý tộc ấy được miêu tả trong cuốn truyện
này. Ai dám bảo rằng việc bị một người đàn bà quyến rũ, và do đó lấy người ấy
làm vợ, là không anh hùng? Anh chàng chiến sĩ cao lớn ấy say mê, sung sướng,
ngạc nhiên, hoàn toàn tin cậy và thờ phụng Rebecca như kẻ cuồng tín; ít nhất
thì, trước con mắt của đàn bà, những tình cảm ấy cũng không hề làm mất uy tín
của anh ta chút nào. Khi Rebecca hát, mỗi âm thanh như reo múa trong tâm hồn
đần độn của anh ta, cũng như còn ngân nga mãi trong khắp cái cơ thể to lớn của
anh ta. Lúc cô ta nói, anh chàng tận lực vận dụng trí thông minh để nghe và để
ngạc nhiên. Khi cô ta bỡn cợt, anh chàng thường nghiền ngẫm mãi. Những câu khôi
hài của cô trong óc và để nửa giờ sau mới phá ra cười giữa phố, làm cho anh hầu
ngồi cạnh trong xe ngựa, hoặc người bạn cùng cưỡi ngựa đi chơi ở Rotten Row với
anh ta phải trố mắt ngạc nhiên. Đối với anh ta, những lời Rebecca nói là lời
sấm truyền, mỗi hành vi dù nhỏ nhặt nhất của cô anh chàng cũng thấy đầy duyên
dáng và khôn ngoan. Anh ta nghĩ thầm: “Nàng hát hay thật...vẽ đẹp quá...Nàng
cưỡi con ngựa non bất kham ở trại Crawley Bà chúa mới khéo làm sao?”Và trong
những phút tình tự, anh ta thường nói với cô gái: “Lạy Chúa, em Becky ơi, em
xứng đáng làm tổng tư lệnh quân đội, là tổng giám mục ở giáo đường Canterbury,
lạy Chúa!”
Trường hợp anh ta có phải là hãn hữu không?
Hàng ngày, chúng ta chẳng đã từng được chứng kiến trong cuộc đời cảnh những
chàng Hercules () thực thà bám lấy gấu váy của nàng và cảnh những chàng Samsons
() khổng lồ có râu phủ phục trong lòng cô Delilah đấy sao.
Vậy thì Becky viết thư báo cho anh ta hay rằng
cuộc đại khủng hoảng xảy ra đến nơi rồi, và bây giờ là lúc phải hành động ngay.
Rawdon tự nhủ sẵn sàng tuân theo mệnh lệnh của cô như anh ta sẵn sàng dẫn đầu
đơn vị của mình tấn công dưới sự chỉ huy của viên đại tá. Anh ta cũng không cần
phải nhét lá thư vào trong quyển thứ ba tập “Thuyết giáo” của Porteus. Ngay hôm
sau, Rebecca đã dễ dàng tìm được cách trốn bà Briggs để đến “chỗ mọi khi” gặp
người bạn tình trung thành của mình. Suốt đêm, cô ta trằn trọc nghĩ về chuyện
này; sáng ra cô ta ngỏ với Rawdon mọi sự tính toán sắp đặt của mình. Dĩ nhiên,
anh ta đồng ý về mọi khoản; anh ta hoàn toàn yên trí rằng người yêu tính toán
như vậy là rất đúng, rằng những điều cô ta đề nghị là có lợi nhất, rằng bà
Crawley, sau một thời gian, cuối cùng thế nào cũng phải nghĩ lại, phải “rút
lui” như lời anh ta nói. Giả sử Rebecca quyết định hoàn toàn khác, chắc Rawdon
sẽ cắm đầu đi theo cũng ngoan ngoãn như vậy.
Anh ta bảo: “Một mình đầu óc em cũng đủ cho cả
hai ta rồi. Chắc chắn em sẽ tìm được cách cho chúng mình thoát khỏi chỗ bế tắc.
Anh đã từng gặp gỡ những tay cũng đáo để mà chưa hề thấy ai sánh được với em
đấy”. Anh chàng Ngự lâm quân si tình bộc lộ lòng tín ngưỡng tuyệt đối của mình
như vậy, và để mặc người yêu thực hiện cả phần việc của mình trong kế hoạch cô
ta đã vạch ra cho cả đôi.
Kế hoạch ấy chỉ gồm có việc thuê một ngôi nhà
yên tĩnh ở Brompton, hoặc tại một nơi gần trại lính, để ông bà đại úy Crawley
ở. Rebecca quyết định đi trốn, chúng ta cũng thấy thế là khôn ngoan nhất mực.
Thấy cô ta muốn vậy Rawdon cũng thích; đã mấy tuần qua, anh chàng vẫn cầu khẩn
Rebecca trốn đi với mình. Anh chàng lập tức lao đi tìm thuê nhà, hăng hái như
một kẻ đang yêu. Người chủ nhà đòi trả mỗi tuần hai ghi nê; Rawdon bằng lòng
ngay, làm cho bà này tiếc mãi sao mình không đòi đắt hơn. Anh ta thuê một chiếc
dương cầm, và trang hoàng trong nhà toàn những hoa là hoa, la liệt toàn những
đồ dùng sang trọng. Còn như các khoản khăn san, bao tay tất lụa, đồng hồ Pháp
bằng vàng, vòng tay và nước hoa thì nhiều vô kể. Rawdon vung tiền ra mua các
thứ như một kẻ si tình mù quáng và không bao giờ cạn túi. Sau khi đầu óc được
nhẹ nhõm nhờ cái công việc “vén tay áo xô đốt nhà táng giấy” kia, thì anh chàng
trở về câu lạc bộ của trại lính dùng bữa, nóng lòng sốt ruột chờ đợi phút thay đổi
lớn lao trong đời mình sắp xảy ra.
Những việc xảy ra hôm trước, cử chỉ đáng phục
của Rebecca từ chối một cuộc nhân duyên rất có lợi cho cô, nỗi đau khổ thầm kín
đang giày vò cô, và thái độ dịu dàng, kín đáo của cô khi chịu đựng nỗi sầu muộn
riêng của mình, tất cả những điều đó khiến cho bà Crawley đối với Rebecca càng
thêm trìu mến hơn mọi ngày. Đối với đàn bà con gái thì một câu chuyện thuộc
loại này, một việc cưới xin, một chuyện từ hôn hay một việc cầu hôn, bao giờ
cũng làm họ sôi nổi và đánh thức tất cả những cảm tình nồng nhiệt nơi họ. Với
tư cách là một người quan sát nhân tình thế thái, tôi vẫn hay la cà vào trong
nhà thờ St. George ở Quảng trường Hanover suốt trong những mùa cưới. Tôi chưa
hề thấy những anh phù rể khóc lóc hoặc thấy những ông thầy cả hoặc thầy dòng
đang hành lễ tỏ vẻ cảm động, nhưng thường được thấy những người đàn bà hoàn
toàn không có liên quan gì đến cuộc hôn lễ đang tiến hành - nghĩa là những bà
mệnh phụ đã quá tuổi lấy chồng lâu lắm rồi, những bà nạ dòng to béo con trai con
gái đầy đàn, đó là chưa kể những cô con gái xinh xắn trẻ măng đội mũ trùm màu
hồng đang độ “đào tơ sen ngó”, họ quan tâm đến cuộc lễ là dĩ nhiên - tôi nói
rằng thường thường những người đàn bà có mặt trong buổi lễ đều khóc nức nở,
khóc thút hít, rồi xịt xoạt hỷ mũi và cầm những chiếc khăn tay bé tý rất vô
dụng để che kín mặt đi; tất cả, già cũng như trẻ, đều bồi hồi xúc động. Khi anh
bạn tôi là John Pimlico cưới cô Belgravia Green Parker xinh đẹp làm vợ, tất cả
mọi người đều cảm động quá đến nỗi cái bà lão khịt mũi dẫn tôi đến chỗ ngồi
cũng giàn giụa nước mắt. Tôi tự hỏi: “Tại sao thế nhỉ? Bà lão có phải đi lấy
chồng đâu mà cũng khóc?”
Nói tóm lại, trước câu chuyện của cụ Pitt, bà
Crawley và bà Briggs đang ở trong một tình trạng rất xa xỉ về tình cảm; Rebecca
bỗng nhiên được họ hết sức quan tâm săn sóc. Còn khi cô đi vắng, bà Crawley
đành tự an ủi bằng cách đọc những cuốn truyện lãng mạn nhất có trong tủ sách
vậy. Cô Rebecca bé bỏng với những nỗi đau khổ thầm kín của mình đã trở thành
một nhân vật quan trọng.
Tối hôm ấy, Rebecca hát nghe ngọt ngào hơn, và
nói chuyện nghe duyên dáng hơn bất cứ bao giờ từ hồi cô đến sống ở Đường công
viên. Cô tìm đủ mọi cách uốn éo lấy lòng bà Crawley. Cô vừa cười vừa nói về
việc cụ Pitt hỏi cô làm vợ, cứ tự nhiên như không, lại giễu cợt lão là đã già
mà còn thích chơi trống bỏi. Lúc cô nói rằng không ao ước gì hơn là được mãi
mãi ở lại bên cạnh người ân nhân của mình, thì cô giàn giụa nước mắt; còn trống
ngực bà Briggs thì cũng đập thình thình vì xúc động. Bà Crawley nói:
- Cô em thân mến ơi, tôi muốn cô ở đây với tôi
mãi mãi, cô có thể yên trí như thế. Câu chuyện kia đã xảy ra rồi, chẳng lẽ cô
còn trở về sống với cái ông anh bỉ ổi của tôi à? Cô sẽ ở lại đây với tôi và bà
Briggs. Bà ấy thường đi vắng luôn để thăm nom họ hàng. Này, bà Briggs, khi nào
cần, bà cứ tha hồ đi, tùy thích. Nhưng còn cô, cô em thân yêu ạ, cô phải ở lại
để săn sóc bà lão già nua này chứ.
Giả sử Rawdon đang có mặt ở đây, chứ không phải
đang nốc rượu ào ào ở câu lạc bộ nhà binh, có lẽ đôi vợ chồng đã quỳ phăng
xuống trước gối bà lão để thú thật mọi việc, chắc sẽ được tha thứ trong chớp
mắt. Song cái may mắn đó không đến với cặp vợ chồng trẻ ấy có lẽ cốt để cho tôi
được viết cuốn tiểu thuyết này, và được kể bao nhiêu chuyện về họ... những
chuyện ấy hẳn không bao giờ xảy ra trong đời họ nếu họ được sống trong sự bao
dung che chở của con người dễ tha thứ nhưng nhạt nhẽo là bà Crawley kia.
*
Tại nhà bà Crawley Đường công viên, dưới quyền
bà Firkin có một chị con gái làm công, người quận Hamshire; ngoài những công
việc khác, chị này hàng ngày còn phải mang một bình nước nóng đến gõ cửa phòng
cô Sharp vì Firkin thà chết chứ không bao giờ chịu mang nước hầu kẻ xa lạ ấy.
Chị con gái làm thuê này có một người anh trai đi lính trong đơn vị của đại úy
Crawley và, không sợ nói sai sự thực, tôi dám cam đoan rằng chị ta nắm được một
số chuyện bí mật có liên quan nhiều đến cuốn truyện này. Nói tóm lại, với ba
ghi-nê của Rebecca cho, chị ta sắm một tấm khăn quàng màu vàng, một đôi ủng màu
xanh, một chiếc mũ nhẹ màu xanh da trời có đính một chiếc lông chim màu đỏ: cô
Sharp vốn xưa nay không hào phóng lắm về chuyện tiền nong, vậy mà hậu đãi cho
Betty Martin như thế, hẳn chị ta phải giúp cô được nhiều việc.
Ngày thứ hai, tính từ hôm cụ Pitt ngỏ lời cầu
hôn với Rebecca, mặt trời vẫn mọc như thường lệ; và đúng giờ như lệ thường,
Betty Martin, chị hầu gái chuyên dọn dẹp trên gác, đến gõ cửa phòng cô giáo.
Không có tiếng trả lời; chị lại gõ nữa. Vẫn im
lặng như tờ Betty xách bình nước nóng bèn mở cửa, bước vào trong phòng. Chiếc giường
nhỏ có nệm bông trắng muốt vẫn phẳng lì và sạch y như tối hôm trước, lúc chính
tay Betty trải giường lại. Ở một đầu gian phòng, có hai chiếc vali nhỏ chằng
dây cẩn thận; trên chiếc bàn cạnh cửa sổ có một lá thư đặt trên mặt một tấm
gối, chiếc gối to, phồng, có kẻ chỉ hồng, mặt gối đan chéo giống chiếc mũ ngủ
của một bà già. Có lẽ lá thư được đặt trên đó suốt đêm rồi.
Betty rón rén đi lại, như sợ hãi không dám đánh
thức lá thư đang ngủ...Chị ta nhìn lá thư, lại nhìn quanh phòng, có vẻ rất ngạc
nhiên mà cũng rất thỏa mãn. Chị cầm lá thư lên vừa mân mê lật đi lật lại, vừa
nhoẻn miệng cười mãi; cuối cùng chị ta đem lá thư xuống nhà dưới đưa cho bà
Briggs. Vì sao Betty lại biết thư ấy gởi cho bà Briggs, tôi cũng chẳng rõ; vì
chị Betty chỉ được theo những lớp học ngày chủ nhật do bà Bute Crawley dạy nên
chị ta vẫn mù tịt không đọc được chữ y như đó là chữ Do-thái vậy. Chị hầu gái
kêu ầm lên:
- Này, bà Briggs ơi; bà ơi, lại có chuyện rắc
rối đây. Trong buồng cô Sharp vắng tanh. Giường vẫn nguyên chưa có ai nằm, mà
cô ấy đi đâu mất để lại lá thư gửi cho bà đây này.
Bà Briggs đánh rơi chiếc lược xuống đất, mớ tóc
thưa thớt mỏng dính đã bạc xõa xuống vai bà kêu lên:
- Thế nào? Trốn đi theo giai à? Cô Sharp bỏ
trốn đi? Có lẽ nào thế được?
Bà lật đật bóc thư và như người ta vẫn nói,
“đọc ngấu nghiến” lá thư đề gửi cho bà.
Bà Briggs thân mến (lời người đi trốn); bà là
người có tấm lòng rộng lượng nhất đời, bà sẽ thương xót, thông cảm và tha lỗi
cho tôi. Tôi rời bỏ nơi đây, nơi kẻ mồ côi đáng thương này được mọi người đối
đãi rất dịu dàng trìu mến, mà không sao cầm được nước mắt; và tôi cầu kinh, xin
chúa ban ơn cho những người ở lại. Tôi phải tuân theo những quyền lực cao cả
hơn cả quyền lực của người ân nhân che chở cho tôi. Tôi phải trở về với bổn
phận... trở về với chồng tôi. Vâng, tôi đã có chồng. Chồng tôi ra lệnh cho tôi
phải trở về căn nhà tầm thường, nơi từ nay chúng tôi chung sống. Bà Briggs thân
thiết nhất đời ơi, xin bà hãy báo tin này cho người bạn thân mến, vị ân nhân
của tôi, một cách thật khéo léo; chỉ có người tế nhị giầu từ tâm như bà mới làm
được việc ấy. Bà hãy nói rằng trước khi tôi ra đi tôi đã khóc hết nước mắt trên
tấm gối thân yêu của bà ấy nơi tôi đã bao lần săn sóc bà lúc đau yếu...và tôi
còn ao ước được tiếp tục săn sóc bà như trước nữa...Ôi, tôi sẽ trở về Đường
công viên thân yêu với bao nhiêu sung sướng! Tôi run rẩy chờ đợi câu trả lời
quyết định vận mệnh của tôi! Khi cụ Pitt hạ cố ngỏ ý muốn lấy tôi làm vợ, đó là
một vinh dự mà bà Crawley đã có nói rằng tôi xứng đáng (cầu chúa ban phúc lành
cho bà, vì bà đã cho rằng kẻ mồ côi đáng thương này, xứng đáng hàng chị em với
bà!) thì tôi trả lời cụ Pitt rằng tôi đã có chồng. Cụ đã tha thứ cho tôi. Song
tôi không có đủ can đảm để thú thật cùng cụ tất cả mọi chuyện...tôi không thể
nhận lời làm vợ cụ, vì tôi đã là con dâu cụ rồi! Chồng tôi là người đàn ông tốt
nhất, rộng lượng nhất trên đời này... Anh Rawdon, cháu trai bà Crawley, chính
là chồng tôi. Theo lệnh của chồng tôi, tôi thú thực mọi chuyện, và tôi theo anh
ấy trở về căn nhà tầm thường của chúng tôi, cũng như tôi sẵn sàng theo anh ấy
đi đến bất cứ nơi nào trên thế giới này! Ôi, người bạn quý báu, thân yêu của
tôi ơi, xin bà hãy can thiệp với bà cô của Rawdon, xin tha thứ cho anh ấy và
cho tôi là kẻ đã được khắp mọi người trong gia đình quý phái này tỏ lòng vô
cùng quý mến. Nhờ bà hãy xin với bà Crawley vui lòng cho phép những đứa con của
bà trở lại. Tôi không còn biết nói gì hơn là cầu chúa ban phước lành cho tất cả
gia đình.
Người bạn thân thiết và biết ơn bà.
Rebecca Crawley (Nửa đêm).
Bà Briggs vừa đọc xong lá thư lời lẽ cảm động
và lý thú này, lá thư có tác dụng trả lại cho bà địa vị người bạn tâm tình thứ
nhất của bà Crawley như trước, thì bà Firkin bước vào phòng:
- Bà Bute Crawley vừa theo xe thư từ Hamshire
lên, muốn dùng nước trà. Bà xuống nhà làm giúp bữa cơm sáng nhé.
Bà Firkin ngạc nhiên quá vì thấy bà Briggs ôm
chặt tà áo quấn quanh bụng, mớ tóc rối bù xõa xuống lưng, mấy cái cặp giấy dùng
để uốn tóc vẫn còn đính từng chùm trước trán, sầm sầm tiến về phía mình, tay
vẫn cầm lá thư đầy những tin kỳ lạ kia. Chị Betty há hốc mồm ra nói:
- Bà Firkin ơi, chuyện “nạ” quá. Cô Sharp bỏ đi
trốn với ông đại úy rồi. Hai người đang trên đường đi Gretney Green!
Lẽ ra chúng tôi phải dành riêng cho cả một
chương mới đủ miêu tả sự xúc động của bà Firkin nhưng nỗi tức giận của bà chủ
còn đáng chú ý hơn nhiều.
Bà Bute Crawley vừa trải qua một cuộc hành
trình ban đêm, tê cóng cả người, đang ngồi sưởi trước lò lửa vừa nhóm trong
phòng khách, nghe bà Briggs kể lại cuộc hôn nhân bí mật, bà bảo ngay rằng thật
là lòng trời xui khiến nên bà mới đến đây đúng lúc để giúp đỡ bà Crawley thân
yêu đáng thương của bà chịu đựng nỗi đau đớn này; bà bảo Rebecca là một con ở
xảo quyệt, xưa nay bà vẫn nghi ngờ. Còn đối với Rawdon, thì chưa bao giờ bà
hiểu nổi tại sao bà Crawley lại nâng niu anh ta đến mức ấy; từ lâu bà vẫn coi
anh ta là một thằng trác táng, hư hỏng, bị Thượng đế ruồng bỏ. Bà Bute còn nói
rằng cái việc đốn mạt này ít ra cũng có mặt tốt, vì nó khiến cho bà Crawley mở
mắt ra mà thấy rõ bản chất của cái thằng hư đốn ấy. Thế là bà Bute ngồi uống
trà, ăn bánh, trong lòng rất thư thái.
Bây giờ trong nhà đã có một buồng bỏ không vắng
người ở, bà chẳng cần phải trọ ở khách sạn Gloster - nơi mà chiếc xe thư đỗ lại
cho bà xuống - làm gì nữa. Bà ra lệnh cho anh phụ việc bác Bâu đi lấy hòm xiểng
va-li của bà mang về.
Bao giờ cũng vậy, cứ đến gần trưa, bà Crawley
mới ra khỏi phòng ngủ. Buổi sáng bà thường nằm trên giường mà uống súc cù là
trong khi Becky Sharp đọc tờ báo “Tin tức buổi sáng” cho bà nghe, nếu không thì
tìm những cách giải trí khác hoặc đi dạo loanh quanh. Mấy người đàn bà dưới nhà
bảo nhau đừng làm bà phiền lòng vội, chờ khi nào bà xuống phòng khách hãy báo
tin cho bà rõ. Trong khi đó, họ thưa với bà ta rằng có bà Bute Crawley từ
Hamshire lên bằng xe thư còn đang trọ ở Gloster gửi lời chào bà Crawley và xin
được dùng cơm sáng với bà Briggs. Những lần khác, việc bà Bute đến chơi cũng
không khiến bà Crawley vui vẻ nhiều lắm, nhưng lần này bà rất bằng lòng vì sẽ
có dịp trò chuyện với bà chị dâu về Crawley phu nhân vừa chết, về việc sửa soạn
đưa đám ra sao, và về việc cụ Pitt đột ngột ngỏ lời cầu hôn với Rebecca.
Cho mãi tới lúc bà già đã ngồi bệ vệ thoải mái
trong tấm ghế bành riêng của mình kê trong phòng khách, và hai chị em đã theo
đúng thủ tục hôn nhau, hỏi thăm nhau xong rồi, thì mấy người đàn bà kín tiếng
mới quyết định báo tin bà hay. Ai mà không phải kính phục đàn bà, vì họ có
nhiều khóe rất tế nhị, khôn khéo, để sửa soạn cho bạn họ chịu đựng những tin
dữ. Trước khi nói rõ chuyện, hai người bạn của bà Crawley đã làm ra vẻ cực kì
bí mật đủ khiến cho bà Crawley phải hoài nghi và lo sợ đến một mức độ cần
thiết. Bà Bute nói:
- Bà Crawley thân mến ơi, cô ấy từ chối lời cầu
hôn của cụ Pitt là vì... là vì cô ấy không thể nào làm khác được.
Bà Crawley đáp:
- Dĩ nhiên phải có một lý do rồi. Cô ấy yêu
người khác. Hôm qua, tôi đã nói chuyện ấy với bà Briggs.
Bà Briggs há hốc mồm:
- Yêu người khác? ồ, bà bạn quý ơi, cô ấy có
chồng rồi đấy. Phải, có chồng rồi.
Bà Bute cũng phụ họa theo, đoạn cả họ ngồi chắp
tay cùng ngó nạn nhân của mình. Bà Crawley hét rầm lên:
- Lúc nào cô ấy về lập tức bảo cô ấy lại đây.
Con bé mưu mẹo khốn kiếp. Sao cô ấy lại dám giấu tôi?
- Còn lâu cô ấy mới về đây được. Bà bạn ơi, xin
bà đừng ngạc nhiên nhé... cô ấy còn đi vắng lâu kia... cô ấy... cô ấy đã bỏ
trốn đi rồi.
Bà gái già nói:
- Trời đất ơi, thế ai pha súc-cù-là cho tôi bây
giờ? Cho người đi tìm cô ấy bắt về. Tôi muốn cô ấy quay về đây.
Bà Bute nói:
- Cô ấy trốn đi từ đêm qua, bà ạ.
Bà Briggs cũng nói:
- Cô ấy để lại một phong thư cho tôi. Cô ấy
lấy...
- Hãy gượm đã, bà Briggs thân mến ơi, đừng làm
cho bà ấy đau khổ...
Bà lão không chồng giận giữ kêu lên:
- Lấy ai, hử?
- Lấy một người có họ với...
Nạn nhân lại kêu lên:
- Cô ấy đã từ chối cụ Pitt rồi cơ mà. Nói mau.
Đừng làm tôi phát điên lên nữa.
- Ồ, thưa bà... kìa bà Briggs, đỡ bà ấy hộ một
tý... cô ấy lấy Rawdon Crawley đấy.
Bà lão đáng thương gào lên như mất trí:
- Rawdon lấy vợ...Lấy Rebecca...cô giáo dạy trẻ
...không, không...cút hết cả ra khỏi nhà tôi, các bà là đồ ngu, đồ xuẩn. Bà
Briggs, bà ngu lắm; bà dám thế à? Các bà a tòng với nhau gây ra chuyện này...
chúng nó lấy nhau là tại bà, Martha ạ; bà tưởng rằng tôi sẽ truất món gia tài
của nó để cho bà phải không?
- Tôi? Thưa bà, tôi mà đi khuyên một người
trong gia đình nhà ta lấy con gái một anh thợ vẽ làm vợ?
- Mẹ cô ấy là con cháu gia đình Montmorency.
Bà già vừa quát lên, vừa dùng hết sức giật mạnh
dây chuông.
Bà Bute đáp:
- Mẹ cô ấy là vũ nữ ở rạp Opera; còn cô ấy thì
cũng đã từng lên sân khấu, và chưa biết chừng còn làm những nghề tồi tệ hơn thế
nữa.
Bà Crawley thét lên một tiếng cuối cùng, ngã
lăn ra bất tỉnh nhân sự. Họ bắt buộc lại khênh bà vào căn phòng riêng bà vừa
rời khỏi. Hết cơn ngất này lại tiếp cơn khác.Phải lập tức cử người đi mời thầy
thuốc đến. Bà Bute ngồi bên cạnh giữ nhiệm vụ săn sóc thuốc thang. Người đàn bà
đáng quý này nói: “Họ hàng thân thích chẳng trông nom săn sóc cho nhau thì còn
ai nữa”.
Bà Crawley vừa được khiêng vào phòng riêng của
mình, thì một nhân vật khác hiện ra; nhân vật này cũng cần được báo ngay tin
Rebecca đi trốn; ấy là cụ Pitt. Bước vào phòng, lão hỏi ngay:
- Becky đâu? Hành lý của cô ấy đâu? Cô ấy phải
về trại Crawley Bà chúa với tôi bây giờ đây.
Bà Briggs nói:
- Cụ đã biết tin cô ta bí mật thành hôn chưa?
Cụ Pitt đáp :
- Điều đó dính dáng gì đến tôi? Tôi đã rõ cô ấy
có chồng rồi; có gì là lạ đâu? Bảo cô ấy xuống ngay, đừng bắt tôi phải chờ.
Bà Bute lại hỏi:
- Thưa cụ, thế ra cụ chưa biết cô ấy bỏ trốn
rồi à? Bà Crawley suýt nữa chết ngất đi khi biết tin cậu Rawdon Crawley đã cưới
cô ấy làm vợ.
Lúc lão Pitt nghe tin Rebecca là vợ của con
trai lão, lão văng tục một hồi ầm ĩ, kể lại đây cũng chẳng hay ho gì, làm cho
bà Briggs tội nghiệp sợ quá, run bắn người lên chuồn ngay ra ngoài. Chúng ta
cũng nên khép cánh cửa lại để mặc lão già đang phát rồ phát dại vì căm tức và
thất vọng ở trong phòng một mình.
Ngày hôm sau, khi đã trở về trại Crawley Bà
chúa, lão như một người điên lùng vào căn phòng Rebecca vẫn ở từ trước, đá tung
các hòm xiểng, rũ tung các giấy má, quần áo và mọi đồ kỷ niệm khác của cô ta.
Cô Horrocks là con gái bác quản lý vớ được một ít; còn một ít, mấy đứa trẻ đem
ra khoác cho nhau, giả vờ đóng kịch. Ấy là người mẹ đáng thương của chúng mới
được về nơi an nghỉ cuối cùng có mấy ngày. Bà ta nằm trơ trọi trong nấm mồ, bên
cạnh toàn những người xa lạ, chẳng một ai buồn khóc thương.
- Này, nhỡ mụ già không gọi chúng mình về thì
sao?
Rawdon hỏi cô vợ bé nhỏ của mình, trong lúc hai
vợ chồng đang ngồi chơi với nhau trong căn nhà nhỏ bé ấm cúng ở Brompton. Cả
buổi sáng Rebecca đã chơi thử chiếc dương cầm mới. Đôi bao tay mới mua cô đi
vừa khít, xinh quá; cô choàng chiếc khăn san nom tôn hẳn vẻ đẹp lên; trên đôi
bàn tay, thon thon, mấy chiếc nhẫn sáng lóng lánh; chiếc đồng hồ mới đeo ở dây
lưng kêu tích tắc, tích tắc.
- Becky, nhỡ mụ không nghĩ lại thì sao?
- Thì em sẽ xây dựng sự nghiệp cho anh chứ sao.
Rồi Delilah vuốt ve đôi má Samson.
Anh chồng hôn bàn tay xinh xinh của vợ nói:
- Cái gì em cũng làm được. Lạy Chúa, em tài
lắm. Bây giờ chúng mình đi xe ngựa đến quán “Huy chương và Bội tinh” rồi dùng
cơm ở đấy nhé.
Chương 17
ĐẠI ÚY
DOBBIN SẮM DƯƠNG CẦM
Trong Hội
chợ phù hoa, có một chỗ mà tình cảm và sự châm biếm có thể khoác tay nhau cùng
đi, nơi mà cái đáng cười và cái đáng khóc gặp gỡ nhau, và đối lập nhau một cách
lạ kỳ nhất, nơi mà bạn có thể hoàn toàn tự do tỏ ra hiền lành dịu dàng, hoặc dữ
tợn vô sỉ tùy thích; ấy là những cuộc hội họp công khai được quảng cáo hàng
ngày trên trang cuối tờ “Thời báo”. Ông George Robins đã quá cố trước kia vẫn
chủ tọa nơi này một cách vô cùng xứng đáng. Ở Luân đôn, không mấy ai là không
biết đến nơi này. Tất cả những người nào có khuynh hướng răn đời đều phải đã có
phen nghĩ ngợi một cách hơi kỳ quái tức cười rằng rồi có phen đến lượt chính họ
cũng phải đến nơi hội họp ấy.
Theo lệnh
những hội viên của hội Diogenes (), hoặc căn cứ theo những điều khoản trong
chúc thư, ông Hammerdown () sẽ đem những tủ sách, đồ đạc, bát đĩa, tủ áo và
những hầm rượu chọn lọc của ngài Epicurus () đã quá cố ra cho thiên hạ tranh
nhau mặc cả.
Ngay con
người ích kỷ nhất vẫn thường qua thăm Hội chợ phù hoa, khi chứng kiến cái phần
bẩn thỉu nhất này trong đám tang của một người bạn thân, cũng không thể nào
không thấy cảm động và tiếc thương đôi chút.
Thi thể của
quý quan Dives, hiện đã nằm yên trong hầm mộ của gia đình rồi. Bọn thợ đá cũng
đang khắc lên mặt bia những lời xưng tụng rất đúng sự thực ca ngợi đức tính của
người đã chết, ghi lại nỗi sầu khổ của đứa cháu thừa hưởng gia tài đang toàn
quyền sử dụng đồ đạc để lại.
Có người
khách nào đã từng dự tiệc trong gia đình ngài Dives, khi qua thăm lại ngôi nhà
quen thuộc mà không phải thở dài?..Ngôi nhà thường ngày đèn thắp rực rỡ vào hồi
bảy giờ tối, cánh cửa phòng lớn thường mở rộng sẵn sàng, và trong khi bạn đang
trèo lên cầu thang, bọn gia nhân truyền nhau báo tên bạn từng chặng một, cho
đến khi vọng vào tận trong căn phòng ngài Đai vơ vẫn ngồi tiếp khách. Vô vàn là
khách; mà cách tiếp đãi mới lịch sự làm sao. Biết bao nhiêu con người lanh lợi
khôn ngoan vẫn thường lui tới nơi đây; khi họ bước ra về, mặt người nào cũng có
vẻ âu sầu. Nơi đây, biết bao người tỏ ra lịch sự nhã nhặn đối với nhau, trong
khi tại những nơi khác họ gièm pha nhau, thù ghét nhau kịch liệt. Cụ chủ tính
kiêu hãnh, song thức ăn ngon như thế, ai mà chẳng muốn nuốt? Cụ chủ tính hơi
đần độn, song rượu ngon như thế thì câu chuyện nào mà chẳng trở nên thú vị? Mấy
ông bạn đang âu sầu thương tiếc người đã khuất kêu lên với nhau trong nhóm:
“Chúng mình phải lùng cho ra thứ rượu ấy mới được, đắt mấy cũng mua”.
- Tôi mua
được cái hộp đựng thuốc lá này trong buổi bán đấu giá đồ đạc của lão Dives đấy
- Pincher vừa nói vừa chìa cho mọi người xem - đây là chân dung một nhân tình
vua Louis XV... xinh đấy chứ?
Và cả bọn
kháo nhau về chuyện con trai lão Dives sắp phá tan gia tài của bố thế nào.
Ngôi nhà
bây giờ thay đổi nhiều quá. Mặt tường bị che kín sau những tấm giấy quảng cáo
liệt kê mọi thứ đồ đạc, viết bằng những chữ hoa to tướng như đập vào mắt mọi
người. Một mảnh thảm treo trên một cái cửa sổ trên gác...có đến nửa tá bọn phu
khuân vác đang leo lên leo xuống chiếc cầu thang đầy bụi...gian phòng lớn lúc
nhúc toàn những khách lạ quần áo bẩn thỉu, nom bộ dạng như người Đông Phương ()
họ dúi vào tay bạn những tấm thẻ chữ in, và nhờ bạn đứng tên trả giá. Nhiều bà
già và những người ưa chơi đồ lạ đã leo lên gác trên; họ sờ mó những diềm màn,
luồn tay vào những túp lông, lật đi lật lại những tấm nệm, và mở ra mở vào
những ngăn kéo tủ áo ầm ầm. Mấy người quản gia trẻ tuổi đang lăng xăng đo những
tấm gương và những tấm thảm xem có thích hợp với gia đình nhà chủ họ mới nhận
việc không. (Snob () rất có thể hàng năm sau vẫn khoe đã có mua thứ nọ thứ kia
trong dịp bán đấu giá này) .
Lão
Hammerdown đang ngồi trên chiếc bàn ăn lớn màu cánh gián kê trong phòng ăn dưới
nhà; ông ta vừa khoa khoa chiếc búa bằng ngà voi, vừa trổ hết tài hùng biện mà
nói say sưa, mà cầu khẩn, mà lý luận, mà thất vọng, vừa hò hét bọn tay chân.
Lão giễu cợt ông Davids, vì ông này lề mề; lão giục ông Moss nhanh tay lên một
tý; lão van xin, ra lệnh, gào thét, cho đến khi chiếc búa nện xuống nghe như
những tiếng gõ của định mệnh và chuyển sang “lô” khác. Ôi, cụ Dives ơi, trong
khi chúng ta quây quần quanh tấm bàn rộng sáng choang toàn bát đĩa cùng khăn ăn
trắng tinh, có ai ngờ rằng lại có ngày nó phải mang một thứ đĩa là cái lão nhân
viên phát mại ồn ào này không?
Việc mua
bán diễn ra khá lâu rồi. Gian phòng khách toàn đồ quý đã bán xong, còn những
loại rượu hiếm và quý thì những tay sành sỏi biết thưởng thức, vung tiền ra,
không kể đắt rẻ bê đi tất. Bộ đồ ăn đầy đủ, rất quý, dùng cho cả gia đình đã
bán từ mấy hôm trước. Viên quản lý nhà ông John Osborne của chúng ta ở khu phố
Russell đã đến mua một vài thứ rượu quý cho chủ, (những thứ rượu này nổi tiếng
khắp vùng). Có một ít bát đĩa bằng bạc toàn những thứ cần thiết thì mấy tay
buôn tín phiếu trẻ tuổi ở khu City đã mua rồi. Bây giờ đến lượt bọn thường dân
được mời đến xem những vật tầm thường còn lại. Nhà hùng biện đứng vắt vẻo trên
một chiếc ghế đang ra sức quảng cáo cho vẻ đẹp của một bức tranh để thu hút
khán giả.
Hôm nay,
khán giả cũng thưa thớt hơn, và cũng kém sang trọng, không bằng bữa trước.
Ông
Hammerdown gào lên:
- Số 869
đây. Tranh một ông sang trọng cưỡi voi. Ai mua ông sang trọng cưỡi voi đây.
Blowman, giơ cao bức tranh lên cho các ông các bà ấy xem kỹ đi.
Thấy
Blowman giơ cao món hàng quý giá lên, một ông lịch sự người dài ngoằng, nước da
tai tái, trông có vẻ nhà binh, đang ngồi im lặng trên chiếc bàn màu cánh gián
hơi nhếch mép cười.
- Blowman,
hãy giơ cho ông đại úy xem con voi. Thưa ông, ông thấy con voi thế nào?
Viên đại úy
không trả lời, có vẻ bối rối, đỏ mặt quay đi; lão nhân viên phát mại không nài
thêm.
- Tác phẩm
nghệ thuật này giá có hai mươi ghi-nê thôi...hoặc năm đồng, mười lăm đồng, tùy
ý các ngài trả! Một mình người cưỡi chưa kể con voi cũng đã đáng giá năm đồng
rồi.
Một tay ưa
bông lơn nói:
- Lạ quá,
sao con voi chở nặng thế mà không khuỵu xuống nhỉ? Anh ta béo ghê béo gớm.
Quả thật, người
cưỡi voi trong tranh to béo quá. Nghe câu nói đùa, cả gian phòng cười ầm lên,
ông Hammerdown nói:
- Đừng có làm
giảm giá trị của bức tranh, ông Moss. Để cho các ông ấy xem kỹ vào; một tác
phẩm nghệ thuật đấy...Coi đáng điệu con vật có hệt như thật không nào. Ông cưỡi
con voi mặc áo ngắn bằng vải Nam kinh, tay cầm súng đang đi săn đấy. Phía xa có
một ngôi chùa và một cây chuối, trông có giống những cảnh đẹp ở thuộc địa Đông
Ấn của nước ta không? Trả bao nhiêu bức này nào? Thế nào, các vị bắt tôi đứng
đây suốt ngày à?
Có người trả năm
si linh; người trông có vẻ nhà binh nhìn về phía có tiếng người trả quá hào
phóng vừa rồi, thì thấy một sĩ quan khác khoác tay một người đàn bà. Trước cảnh
tượng này đôi ấy có vẻ rất thú vị; cuối cùng tiếng búa nện xuống bàn, đồng ý
bán cho họ bức tranh với giá nửa ghi-nê. Nhìn thấy cặp trai gái này, người ngồi
ở bàn càng tỏ vẻ bối rối và ngạc nhiên hơn. Anh ta vội thụt đầu vào trong cái
cổ áo nhà binh bẻ cao lên và quay lưng lại họ, hình như muốn tránh mặt thì
phải.
Tôi không muốn
nói đến những thứ đồ đạc ông Hammerdown hôm ấy có hân hạnh được đem bán đấu
giá, trừ một thứ; ấy là một cây đàn dương cầm nhỏ, khiêng từ trên gác xuống.
Cây dương cầm lớn đã bán trước rồi; người đàn bà trẻ tuổi ấy ngồi chơi thử
chiếc dương cầm này, đôi tay lướt đi nhanh nhẹn, mềm dẻo (làm cho viên sĩ quan
lại đỏ mặt lên và giật mình); một lúc sau, người đàn bà sai người đại diện của
mình trả giá mua cây dương cầm.
Nhưng lần này, có
người mua tranh. Người Do-thái đại diện cho viên sĩ quan ngồi ở bàn trả giá mua
tranh với người Do thái đại diện cho người đàn bà mua bức tranh lúc nãy. Cuộc
thi đua trả giá cao để mua bằng được chiếc dương cầm bé nhỏ bắt đầu, và được
ông Hammerdown hết sức khuyến khích.
Cuối cùng, sau
một hồi ganh nhau, hai vợ chồng người mua bức tranh con voi rút lui. Tiếng búa
nện xuống bàn, người nhân viên phát mại tuyên bố. “Ông Lewis, hai mươi lăm”.
Thế là người mượn ông Lewis đại diện được làm chủ cây dương cầm nhỏ. Mua xong
cây dương cầm, anh ta ngồi thẳng dậy, có vẻ rất khoan khoái; hai vợ chồng người
mua trượt món đồ bấy giờ mới liếc mắt nhìn sang; người đàn bà bảo chồng: Truyện
"Hội Chợ Phù Hoa " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc
(LuongSonBac.com)
- Ô kìa, Rawdon,
đại úy Dobbin đấy.
Có lẽ Becky không
ưa cây dương cầm mới, chồng vừa thuê cho mình, hoặc có lẽ người chủ đã lấy về
rồi, không cho thuê tiếp nữa; hoặc cũng có thể cô ta đặc biệt thích cây dương
cầm này vì nhớ lại ngày xưa đã nhiều lần cô ta chơi nhạc trong căn phòng nhỏ
của cô Amelia Sedley thân yêu của chúng ta chăng.
Cuộc bán đấu giá
trên diễn ra trong căn nhà cổ kính ở khu phố Russell, nơi chúng ta đã gặp nhau
trong vài buổi tối, lúc mới bắt đầu câu chuyện này. Ông Sedley bị phá sản rồi.
Ở phòng Hối đoái, người ta đã tuyên bố ông bị phá sản; sau đó, mọi việc hoạt
động thương mại của ông ta bị đình chỉ hết. Viên quản lý của ông Osborne đến
đây chọn mua một ít rượu vang quý mang về cho chủ. Bộ thìa đĩa mười hai người
ăn bằng bạc chạm trổ rất công phu cùng bộ đồ ăn tráng miệng đã đem bán cân cho
ba người buôn tín phiếu trẻ tuổi (tức là các ông Dale, Spiggot, và Dale, ở phố
Threadneedle). Mấy người này trước kia có giao dịch nhiều với ông John Sedley
và được ông đối đãi rất tốt cũng như ông đối đầu với tất cả mọi người có việc
giao dịch với mình; họ bèn gửi biếu lại bà cụ Sedley món đồ mọn vớt vát được
trong cơn tan tác. Cây dương cầm nhỏ trước kia của Amelia, bây giờ chắc cô nhớ
nó lắm; mà đại úy Dobbin thì không biết chơi đàn chẳng khác chi không biết nhảy
trên dây vậy, hẳn anh ta không mua cho mình dùng.
Tóm lại, buổi tối
hôm ấy, người ta mang cây đàn dương cầm đến một gian nhà nhỏ ở một phố đi thẳng
từ đường Fullham ra, một trong những phố có cái tên rất đẹp và rất thi vị...
gọi là khu St. Adelaide, đường Anna-Maria. Ở đây nhà cửa bé tý như đồ chơi của
trẻ con, và khách đi đường nhìn qua cửa sổ thấy người ngồi trên gác như phải
thò chân xuống đến tận dưới nhà. Cây cối trồng trong khu vườn nhỏ trước nhà
quanh năm lúc nào cũng phơi đầy những tã lót trẻ em, những đôi tất đỏ tý xíu
những chiếc mũ trùm v.v. . (chế độ đa phu, nhân chủng đa nguyên tính) .
Văng vẳng ra
tiếng the thé của những cây đàn cũ rích và tiếng đàn bà đang hát. Trên thềm,
thấy la liệt những vỏ chai rượu phơi nắng. Chiều chiều, những viên thư ký làm
việc ở khu City uể oải lê bước về đó.
Ông Clapp, thư ký
của ông Sedley, có một căn nhà ở đây; sau khi bị phá sản, ông già đem vợ con về
chỗ này để ẩn náu cho qua ngày, Joe Sedley hay tin gia đình gặp tai biến đã
hành động đúng như ta chờ đợi ở một người tính tình như anh ta. Joe không về
Luân đôn, nhưng anh ta viết thư cho mẹ dặn cứ đến những nhà băng anh ta gửi vốn
mà lấy tiền tiêu; vì vậy hai ông bà già cũng yên tâm, không lo lắng về nỗi phải
túng thiếu. Thu xếp như vậy xong xuôi, Joe lại tiếp tục đến dùng cơm tại hiệu
ăn quen thuộc của mình ở Cheltenham, vẫn vui vẻ như thường. Anh ta vẫn đùng xe
ngựa đi chơi, vẫn uống rượu vang trắng, vẫn đánh bài, và vẫn kể những câu
chuyện Ấn Độ của mình như cũ; người đàn bà Ai len goá chồng cũng vẫn tiếp tục
nịnh nọt, mơn trớn anh ta như trước. Tuy đang lúc túng, nhưng việc Joe biếu
tiền bố mẹ cũng không khiến cho hai ông bà già xúc động lắm. Amelia kể lại
rằng, từ sau cơn hoạn nạn, lần đầu tiên cô thấy ông bố ngẩng cao đầu lên là khi
ông cụ nhận được gói thìa đĩa kèm theo lá thiếp của mấy người buôn tín phiếu
trẻ tuổi; ông cụ khóc òa lên như trẻ con, còn cảm động hơn cả bà vợ là người
được gửi tặng món quà đó. Edward Dale, người trẻ tuổi nhất trong số, đã đứng
lên mua bộ thìa đĩa chung cho cả ba; từ lâu anh ta vẫn có ý săn sóc cô Amelia.
Mặc dầu cô bị phá sản, anh ta vẫn ngỏ ý muốn cưới cô làm vợ như thường. Sau
này, năm 1820, anh ta lấy cô Louisa Cutts (con gái ông chủ hãng Higham và
Cutts, một hãng buôn ngũ cốc rất lớn); bây giờ hai vợ chồng sống rất đường
hoàng, con cái đầy đàn, trong một cái biệt thự rất đẹp ở đồi Muswell. Nhưng
không nên vì anh chàng này mà rời xa câu chuyện chính của chúng ta.
Tôi hy vọng rằng
vì có ấn tượng quá tốt về vợ chồng đại úy Crawley nên bạn đọc cho rằng có lúc
họ đã nghĩ đến chuyện về thăm cái quận Bloomsbury hẻo lánh kia, dù họ biết rằng
cái gia đình mà họ dự định sẽ dành cho vinh dự được đón tiếp ấy thì chẳng những
đã lỗi thời mà cũng đã khánh kiệt, không còn khả năng gì để giúp đỡ họ được
nữa. Rebecca rất ngạc nhiên khi thấy ngôi nhà sang trọng, nơi trước kia cô đã
bao lần được tiếp đãi nồng hậu, bây giờ bị kẻ mua người bán phá phách tan
hoang. Cô thấy tại nơi kỷ vật riêng rất quý báu của gia đình bây giờ bị đem
trưng ra cho cả thiên hạ thờ ơ nhòm ngó hoặc xâu xé. Một tháng sau buổi bỏ đi
trốn, cô bỗng nhớ đến Amelia; và Rawdon cười hô hố, tỏ ý rất tán thành đến thăm
George Osborne một chuyến chơi. Anh ta láu lỉnh bảo vợ:
- Becky, đó là
một người bạn rất quý báu. Tôi còn đang muốn bán thêm cho hắn một con ngựa, và
chơi thêm với hắn vài ván bi-a đây. Tôi gọi như thế là một mối tình bạn hữu ích
đấy, bà Crawley ạ, hô hô!
Nghe những lời
trên ta chớ nên nghĩ rằng Rawdon Crawley chơi bạc bịp, ấy là vì anh ta muốn
chứng tỏ rằng trong Hội chợ phù hoa, những bậc sang trọng ưa giải trí bao giờ
cũng muốn giữ cái ưu thế của mình đối với người bên cạnh.
Bà cô già mãi
không thấy nghĩ lại. Một tháng trời trôi qua rồi. Bác Bowls không chịu mở cửa
tiếp Rawdon; đầy tớ của anh ta không được phép vào căn nhà ở Đường công viên.
Thư từ anh ta gửi đều bị trả lại, phong bì còn dán nguyên vẹn. Bà Crawley không
đi ra ngoài...bà vẫn còn mệt...còn bà Bute thì vẫn ở đây không lúc nào rời khỏi
bà em chồng.
Hai vợ chồng
Crawley thấy bà Bute cứ ở lỳ mãi, đoán chắc có chuyện không hay cho mình.
Rawdon bảo:
- Chết thật? Bây
giờ tôi mới vỡ lẽ tại sao hồi còn ở trại Crawley Bà chúa, mụ ấy muốn cho hai
đứa mình lúc nào cũng ở sát bên nhau.
Rebecca thở dài
đáp:
- Thật là đồ xảo
quyệt!
Viên đại úy đang
say vợ, kêu lên:
- Ôi dào? Nếu
mình không tiếc thì tôi cũng chẳng cần cóc gì.
Cô vợ thưởng cho
anh chồng một cái hôn thay cho câu trả lời; thấy chồng hoàn toàn tin cậy mình,
cô ta rất thích.
Cô nghĩ thầm “giá
anh ta thông minh hơn một tý, thì mình có thể giúp cho nổi cơ đồ đấy”. Nhưng
không bao giờ cô để chồng biết mình nghĩ về chồng như vậy. Bao giờ cô cũng chịu
khó chăm chút nghe chồng kể con cà con kê về chuyện ngựa nghẽo, chuyện câu lạc
bộ nhà binh; cô rất chịu khó cười mỗi khi anh chồng khôi hài, cố gắng làm ra vẻ
chú lắm đến những chuyện như chiếc xe ngựa của Jack Spatterdash vừa đổ, Bob
Martingale bị bắt quả tang ở sòng bạc, chuyện Tom Cinqbars sắp sửa dự đua
ngựa...Mỗi khi chồng trở về nhà, cô tỏ ra thật nhí nhảnh sung sướng: lúc chồng
đi chơi, cô giục chồng đi mau cho sớm. Chồng ở nhà không đi đâu, cô chơi dương
cầm và hát cho chồng nghe, pha rượu cho chồng uống, coi sóc bữa ăn cho chồng
tươm tất, ủ ấm đôi giầy nhẹ của chồng, chăm sóc chồng từng ly từng tý một.
Đã có lần tôi
nghe bà nội tôi bảo rằng những người đàn bà khéo nhất chính là những người giả
dối, vì chúng ta không thể hiểu họ giấu giếm chúng ta những điều gì, và khi bề
ngoài họ tỏ ra ngây thơ, thân mật thì thật ra họ đang sắc mắc đến thế nào. Rất
có thể những nụ cười luôn luôn nở dễ dàng trên môi họ chỉ là những cái bẫy để
bợ đỡ, để lảng tránh, hoặc để khuất phục ta. Ở đây tôi không kể tới những bà
những cô đỏm dáng tầm thường, mà chỉ nói tới những người đàn bà nội trợ gương
mẫu, những viên ngọc của đức hạnh phụ nữ. Ai mà chưa từng được thấy một người
vợ che giấu sự đần độn của anh chồng ngốc nghếch, hoặc làm dịu một cơn lôi đình
của anh chồng vũ phu? Sự nô lệ đáng yêu ấy chúng ta rất quý, chúng ta rất ca
tụng đàn bà về sự thực. Một bà nội trợ rất cần phải là một nhà ngoại giao giỏi.
Chồng Cornelia () cũng bị vợ lừa dối như chồng Potiphar tuy rằng bị lừa dối một
cách khác.
Vậy thì được vợ
săn sóc chu đáo, anh chàng trác táng bừa bãi Rawdon Crawley biến thành một
người chồng rất hạnh phúc và rất ngoan ngoãn. Đám bè bạn chơi bời cũ không thấy
mặt anh ta đâu nữa. Có một đôi lần, họ hỏi thăm anh ta ở câu lạc bộ, nhưng rồi
họ cũng không nhớ anh ta nhiều lắm. Trong Hội chợ phù hoa, không mấy khi người
ta nhớ nhau lâu. Đối với Rawdon, người vợ xa lánh xã hội phù hoa lúc nào cũng
tươi tỉnh mỉm cười, căn nhà ấm cúng, những bữa ăn nóng sốt và những buổi tối
trong gia đình đã có đủ mọi vẻ hấp dẫn của một cái gì mới mẻ và kín đáo. Việc
hôn nhân của họ chưa tuyên bố cho ai rõ, cũng chưa đăng trên báo “Tin tức buổi
sáng”. Nếu bọn chủ nợ biết tin anh ta lấy một cô gái không có của hồi môn làm
vợ, ắt họ sẽ hè nhau xông tới làm tội anh ta đến chết mất. “Em thì chả sợ cha
mẹ em rầy la đâu”. Becky nói và cười có vẻ chua chát. Cô rất bằng lòng chờ đến
khi bà Crawley nghĩ lại, lúc ấy sẽ xuất đầu lộ diện trong xã hội. Cho nên cô
yên tâm sống kín đáo ở Brompton, không đi lại với ai, chỉ tiếp có vài người bạn
trai của chồng; họ được mời đến chơi tại căn phòng ăn nhỏ bé của gia đình. Bọn
khách này thích cô lắm. Họ rất lấy làm thú vị được dự những bữa ăn thân mật,
được nghe cô ta cười nói, và sau đó lại chơi đàn. Thiếu tá Martingale không bao
giờ nghĩ tới chuyện muốn xem tờ giấy chứng hôn. Đại úy Cinqbars trầm trồ khen
ngợi những cốc rượu do bàn tay khéo léo của Rebecca pha. Còn viên trung úy trẻ
tuổi Spatterdash (anh này rất ham chơi piquet, mà Crawley cũng mời anh ta chơi)
thì chỉ trong một thời gian rất ngắn rõ ràng đã bị bà Crawley thu mất hồn.
Nhưng Rebecca luôn luôn tỏ ra sáng suốt và kín đáo; vả lại Crawley vẫn nổi danh
là một tay hay gây gổ và cả ghen; nhờ thế cô vợ bé bỏng yêu dấu cũng được che
chở an toàn.
Ở thành phố này
có nhiều người sang trọng, đứng đắn và lịch sự chưa bao giờ bước chân vào phòng
khách của một phu nhân. Cho nên, mặc dầu khắp quận người ta bàn tán nhiều về chuyện
vợ con của Crawley - chắc bà Bute phao tin rầm lên chứ gì- nhưng ở Luân đôn tin
ấy vẫn mập mờ, hoặc ít được chú ý, hoặc không được một ai nhắc đến.
Rawdon phải vay
tiền để tiêu, nhưng vẫn sống đường hoàng, anh ta có những khoản nợ kếch xù, giá
khéo ăn tiêu thì có thể sống được nhiều năm. Ở những thành phố lớn, nhiều người
mang công mắc nợ sống rất đàng hoàng, những người có tiền trả ngay còn thua xa.
Khi ta đi chơi trên những đường phố ở Luân- đôn, ta thường gặp những ông sang
trọng ngự trong những chiếc xe ngựa rất đẹp, trong khi ta phải cuốc bộ. Trông
thấy họ, bọn thợ may nịnh nọt, bọn nhà buôn khúm núm cúi chào. Những ông này
chẳng từ chối yêu cầu nào của họ, mà cũng chẳng ai biết các ông trông vào đâu
mà sống. Ta gặp anh chàng Jack Thriftless khệnh khạng đi ở Công viên, hoặc
phóng xe ngựa như bay qua Pall Mall, bữa ăn thì dùng toàn những bát đĩa quý
giá. Ta tự hỏi không rõ đời hắn bắt đầu thế nào, và sẽ kết thúc ra sao? Thì có
lần Jack bảo với tôi rằng: “Ông bạn thân ơi, tôi nợ tiền khắp cả Âu Châu này
đấy”. Kết cục rồi cũng phải xảy ra, nhưng hãy cứ biết bây giờ Jack ta tha hồ
ung dung phè phỡn cái đã. Thiên hạ được Jack bắt tay lấy làm sung sướng lắm,
tuyên bố rằng hắn là người tốt bụng, vui tính, và vô tư lự biết đâu đến những
lời thì thầm đồn đại không hay về hắn.
Thực tế bắt ta
phải nhận anh chồng của Rebecca chính thuộc loại người này. Trong nhà anh ta
cái gì cũng đầy đủ, chỉ thiếu có tiền; một bữa đọc báo “Tin tức”, Rawdon thấy
đăng tin “Trung úy Osborne vừa mua lại cấp đại úy của ông Smith mới từ chức”,
lập tức anh ta tỏ ra có cảm tình với người yêu của cô Amelia và quyết định đến
thăm khu phố Russell.
Khi hai vợ chồng
Rawdon muốn gặp đại úy Dobbin để tìm biết rõ chuyện hoạn nạn của những người
quen cũ của Rebecca thì Dobbin đã biến khỏi chỗ bán đấu giá rồi. Họ chỉ được
một anh phu khuân vác và một bác nhân viên phát mại lảng vảng ở đó mách cho một
ít tin tức. Becky leo lên xe ngựa, tay vẫn cầm bức tranh, vẻ mặt rất vui; cô ta
nói:
- Nhìn những cái
mỏ của họ kìa; có khác gì đám diều hâu xâu xé mồi sau một trận đánh không?
- Xin chịu em ạ,
từ bé đến giờ nào anh có biết trận mạc là cái gì đâu Hỏi Martingale ấy; hắn đã
từng làm sĩ quan tùy tòng cho tướng Blazes ở Tây-ban-nha.
Rebecca nói:
- Ông cụ Sedley
là người rất tốt. Thấy ông cụ gặp nạn, em thương lắm.
- Ồ, mấy lão buôn
tín phiếu... phá sản... chuyện thường lắm, mình thấy đấy.
Rawdon vừa đáp
vừa lấy roi vụt đuổi một con ruồi đậu trên tai ngựa. Giọng cô vợ có vẻ đa cảm
lắm, nói:
- Giá mua được ít
bát đĩa gửi biếu họ thì tốt hơn, anh Rawdon ạ. Những hai mươi lăm ghi-nê cây
dương cầm nhỏ ấy thì đắt quá. Ngày trước, hồi Amelia vừa ra trường, chúng em đã
chọn cây đàn ấy ở Broadwood đấy. Dạo ấy giá chỉ có ba mươi lăm đồng ghi-nê.
- Còn anh
chàng... tên hắn là gì nhỉ... Osborne phải không... bây giờ gia đình cô ta bị
phá sản, chắc là bắn rút lui, cô bạn Amelia của mình hẳn phát sầu, Becky nhỉ?
Becky mỉm cười
đáp:
-Ôi dào, rồi chị
ấy cũng quên đi chứ .
Và họ đánh
xe đi, bàn sang chuyện khác.
Chương 18
AI CHƠI
CHIẾC DƯƠNG CẦM DOBBIN MUA?
Câu chuyện
của chúng ta giờ đây bỗng bao gồm cả những sự kiện và những nhân vật danh
tiếng, và bám vào rìa dòng lịch sử. Bầy diều hâu của Napoléon Bonaparte, tên
dân đảo Corse hãnh tiến, sau một thời gian ngắn bị cầm giữ ở đảo Elba, đã bay
về đậu tại Provence, và từ đó bay chuyền từ đỉnh gác chuông nhà thờ này sang
đỉnh gác chuông nhà thờ khác, cho tới thánh đường Đức bà ở Paris. Bầy chim của
Hoàng đế nào có thèm chú ý đến sứ đạo tối tăm Bloomsbury ở Luân-đôn, nơi nhân
dân quen sống rất bình lặng; hầu như không ai buồn để ý đến tiếng đập của những
đôi cánh mạnh mẽ kia. “Napoléon đã đổ bộ ở Cannes rồi!”, một cái tin như vậy có
thể gây sôi nổi ở Vienna, hoặc làm đảo lộn mọi kế hoạch của nước Nga, khiến cho
nước Phổ phát điên vì lo lắng, làm cho ông Talleyrand và ông Metternich phải
lắc đầu và, sau hết, khiến cho hoàng tử Hardenberg và hầu tước Londonderry phải
sững sờ. Nhưng làm sao cái tin ấy lại có thể gây xúc động đối với một người
thiếu nữ ở quảng trường Russell, khi ngủ bao giờ cũng có một bác người nhà đứng
ngoài cửa cầm canh suốt đêm, lúc dạo chơi trong vườn thì xung quanh đã có hàng
rào và có bác gác cổng bảo vệ, và ví thử có đi ra ngoài phố Southampton gần đấy
mua một cái dải đăng-ten chẳng hạn, thì đã có bác da đen Sambo kè kè đi theo,
tay cầm cái can to tướng. Tóm lại, cô ta được bao nhiêu là vị thiên thần hộ
mệnh có ăn lương và không ăn lương nâng niu, mặc áo cho, đặt vào giường ngủ,
săn sóc đủ mọi phương diện.
Hỡi Thượng
đế chí công, thật tàn nhẫn thay, cuộc chiến đấu lớn lao giữa các bậc đế vương
sao lại cứ phải gây ra một sự rung chuyển tai hại đối với vận mệnh của một cô
gái vô tội mới mười tám xuân xanh, chỉ biết như chim non mổ hạt, hót rít rít và
thêu những cổ áo bằng voan mỏng? Hỡi bông hoa dịu dàng đáng thương trong vườn
nhà kia! Cơn bão táp của chiến tranh đang gầm thét sắp lôi cuốn cả cô em vào
trong những xoáy lốc tàn bạo rồi; Napoléon sắp đánh nước bạc cuối cùng, và thế
là hạnh phúc của cô Amelia Sedley bé bỏng cũng sẽ tan tành như mây khói.
Trước hết,
những tin tức tai hại đã lật nhào tất cả cơ nghiệp của cha cô. Bao nhiêu việc
kinh doanh của ông già không may kia sụp đổ hết. Mấy chuyến làm ăn cuối cùng
thất bại sạch; các bạn hàng bị phá sản tất cả. Ông tính rằng giá cổ phiếu hạ
xuống thì nó lại cao lên (). Thắng lợi bao giờ cũng đến chậm chạp, nhưng tai
họa thì bao giờ cũng xô tới sau lưng nhanh như cơn lốc. Tuy nhiên, ông già
Sedley vẫn giữ kín nỗi lo nghĩ của mình. Trong ngôi nhà sang trọng yên tĩnh,
mọi sứ vẫn diễn ra bình thường. Bà Sedley tốt bụng kia cũng không hay biết gì
hết; hàng ngày bà vẫn tiếp tục cuộc sống bận bịu mà nhàn hạ của bà, với bao
nhiêu công việc không đâu; cô con gái càng ngày càng đi sâu vào cái tâm trạng
êm ái và ích kỷ riêng của mình, cách biệt hoàn toàn với cuộc đời bên ngoài. Đột
nhiên cơn bão xô tới, toàn bộ gia đình đổ sụp.
Một buổi
tối, bà Sedley ngồi viết thiếp mời dự tiệc. Gia đình Osborne đã thết khách một
buổi rồi, bà lại chịu kém cạnh họ sao?
Ông John
Sedley ở khu City về rất muộn; ông ngồi yên lặng bên cạnh lò sưởi nghe bà vợ
chuyện trò tíu tít. Emmy đau khổ, buồn bã, đã lên phòng riêng từ trước. Bà mẹ
vẫn noi:
- Con bé
không vui. George Osborne chẳng săn sóc gì đến nó. Tôi không thể chịu nổi cách
ăn ở của bọn họ. Đã ba tuần nay, mấy đứa con gái nhà ấy chưa đặt chân đến đây;
thằng Osborne thì đã hai lần về tỉnh, mà không lại thăm nó. Edward Dale có gặp
Osborne ở rạp Opera. Tôi tin rằng Edward Dale sẵn sàng cưới con bé, và tôi thấy
anh chàng đại úy Dobbin cũng...có điều tôi không ưa cái bọn lính tráng ấy.
Thằng George bây giờ cũng công tử bột lắm. Mà thật, nom khệnh khà khệnh khạng
ra phết con nhà binh! Ta phải tỏ cho họ biết rằng ta không kém cạnh gì họ. Cứ
khuyến khích Edward tiếp khách mới được. Mà kìa, John Sedley, sao ông cứ ngồi
im thế? Tôi định mời vào thứ năm, sau đây hai tuần nhé? Sao ông không trả lời?
Trời ơi! Có chuyện gì xảy ra vậy?
Bà vợ chạy
lại bên chồng; ông Sedley đứng dậy đón vợ; ông ôm bà vào lòng nói vội vàng:
- Mary,
chúng ta bị phá sản rồi. Bà nó ơi, bây giờ chúng ta phải làm lại cuộc đời từ
đầu. Tốt nhất là nói ngay tất cả mọi chuyện cho bà biết.
Ông vừa nói
vừa run rẩy chân tay, gần như muốn ngã gục xuống. Ông cứ tưởng rằng bà vợ không
chịu đựng nổi cái tin ghê gớm ấy, người vợ mà suốt đời ông chưa hề nói nặng một
lời. Song, tin ấy đến rất đột ngột, với bà cụ, mà chính ông lại bị xúc động
mạnh hơn. Lúc ông nằm vật xuống chiếc ghế bành, chính bà vợ lại phải an ủi
chồng. Bà cầm lấy bàn tay run rẩy của ông mà hôn, rồi đặt cánh tay chồng vòng
qua cổ mình; bà gọi ông là John của bà, John yêu quý của bà, ông lão của bà,
ông lão thân yêu của bà; bà thốt ra hàng trăm lời ngọt ngào, yêu đương không ăn
nhập với nhau. Tiếng nói chung thủy nhỏ nhẻ và sự vuốt ve vụng về của vợ khiến
ông đang băn khoăn đau khổ cảm thấy sung sướng vô ngần, bà khiến ông cảm thấy
tâm hồn nặng trĩu của mình được vui vẻ thư thái. Buổi tối dài dằng dặc hôm ấy,
ngồi cạnh bà vợ, ông già khốn khổ Sedley đã trút vợi nỗi lo lắng đè nặng tâm
hồn mình; ông kể lại tất cả những sự khó khăn thua lỗ trong việc làm ăn...ông
bị những người bạn thân thiết nhất lừa dối, nhưng cũng có những người cư xử rất
cao thượng không ngờ. Cũng chỉ có lần ấy, khi cùng chồng đi ngược lại dòng quá
khứ, bà vợ đã để lộ ra tất cả sự xúc động của mình. Bà nói:
- Lạy Chúa,
lạy Chúa. Chắc con Emmy đau khổ lắm.
Ông bố quên
hẳn cô con gái. Cô ta đang nằm thao thức buồn bã ở trên gác. Giữa gia đình ấm
cúng toàn bè bạn và người thân, nhưng cô vẫn thấy mình trơ trọi làm sao! Ở đời
ta có thể thổ lộ nỗi lòng với độ bao nhiêu người được nhỉ? Nói làm chi những
điều ấy với những tâm hồn không biết rung cảm, không bao giờ hiểu nổi? Cho nên
cô Amelia của chúng ta rất cô đơn. Từ khi cô có những điều thầm kín muốn tâm
sự, thì cô đã không có bạn tâm tình nữa rồi. Cô không thể ngỏ với mẹ mọi nỗi lo
lắng ngại ngùng của mình. Mỗi ngày cô chị chồng và cô em chồng tương lai lại
càng trở nên xa lạ hơn. Cô còn bao nhiêu nỗi nghi ngờ, bao sự sợ hãi mà bản
thân cô không muốn công nhận, tuy cô vẫn âm thầm ấp ủ trong lòng. Trái tim cô
thì cứ khăng khăng một mực rằng George Osborne vẫn trung thành, vẫn xứng đáng
với cô, mặc dầu cô biết rằng sự thực không đúng thế. Đã bao lời tình tứ của cô
không hề có lấy mảy may tiếng vang trong tâm hồn anh ta. Đã bao lần cô nghi ngờ
người yêu thờ ơ, ích kỷ, nhưng cô đã bướng bỉnh đương đầu và vượt qua những sự
ngờ vực đó. Con người “tử vì đạo” ấy còn biết thổ lộ với ai hết cả mọi nỗi đau
xót hàng ngày dằn vặt tâm hồn cô?
Người yêu
của cô cũng chỉ hiểu cô có một phần. Cô không dám tin rằng người đàn ông cô yêu
có tâm hồn thấp kém hơn mình; cô không dám thú nhận rằng mình đã yêu quá vội
vàng. Người con gái e lệ trinh bạch ấy kín đáo quá, hiền hậu quá, cả tin quá,
yếu đuối quá, cho nên một khi đã trao đổi trái tim cho ai thì không muốn lấy
lại nữa.
Đối với đàn
bà, về mặt tình cảm chúng ta vẫn quen cư xử như những người Thổ-nhĩ-kỳ; chúng
ta cũng bắt họ phải phục tùng giáo lý của chúng ta. Chúng ta cho phép thân thể
họ tự do đi ra ngoài, được hóa trang bằng những nụ cười, bằng những búp tóc
xoăn, bằng những chiếc mũ trùm màu hồng, mà không phải che mặt bằng những tấm
chàng mạng và những chiếc yakmak (); nhưng họ chỉ được để một người đàn ông
nhìn thấy tâm hồn họ; họ tuân lệnh, không hề ngần ngại, và bằng lòng sống như
kẻ nô lệ trong gia đình để săn sóc mọi việc cho chúng ta.
Tháng ba
năm 1815, kỷ nguyên của Chúa, khi Napoléon đổ bộ ở Cannes, vua Louis XVIII chạy
trốn, khi toàn thể Âu châu hốt hoảng, giá cổ phiếu sụt và ông già Sedley bị phá
sản, thì cô gái bé bỏng dịu dàng ấy cũng đang bị cầm tù, bị hành hạ như vậy
đấy.
Chúng ta
không cần trở lại những nỗi đau đớn sầu não ông già buôn tín phiếu đã phải trải
qua trước khi tai họa cuối cùng xảy đến: ở Phòng hối đoái, tên ông Sedley đã bị
thông báo; ông lão đã phải rời khỏi những văn phòng của mình; tín phiếu của ông
không được thanh toán. Tình trạng phá sản không thể chối cãi được nữa. Ngôi nhà
cùng đồ đạc ở khu phố Russell bị quyền trữ và bán đấu giá; ông lão và cả gia
đình bị mời ra khỏi cửa, đi đâu mà ở thì đi, như ta đã rõ.
Bị sa sút,
ông John Sedley đành thải tất cả bọn gia nhân (các nhân vật này thỉnh thoảng
xuất hiện trong những trang của tập truyện này); và ông cũng không còn lòng nào
mà gặp mặt tất cả bọn. Tiền lương của họ ông vẫn trả rất đúng hẹn, đó là tập
quán của những người chỉ quen chịu những món tiền lớn. Bọn gia nhân rất buồn vì
mất một chỗ làm tốt. Nhưng phải xa ông chủ bà chủ quý hóa, họ cũng không đến
nỗi vì thế mà sầu não quá đáng. Chị hầu gái của Amelia có phàn nàn nhiều, nhưng
rồi cũng tự an ủi vì tìm được một chỗ làm khác ở một gia đình quý phái hơn. Bác
da đen Sambo rất kiêu hãnh về nghề nghiệp của mình quyết định mở một tiệm ăn. Còn
bà Blenkinsop thực thà kia đã giúp việc cho gia đình từ hồi ông Sedley mới cưới
vợ, và đã được chứng kiến sự ra đời của Joe và Amelia, thì quyết định ở lại
giúp việc không lấy tiền công; bà ta cũng đã có một số vốn riêng kha khá, bây
giờ theo chủ đến chỗ ở mới, tiếp tục săn sóc trông nom cho chủ và thỉnh thoảng
cũng càu nhàu chút ít.
Bọn chủ nợ
không ngớt theo đuổi ông già Sedley. Ông lão cảm thấy mình bị sỉ nhục, bị hành
hạ quá đáng đến nỗi chỉ trong có sáu tuần lễ mà ông già sọm hẳn đi, già nhanh
hơn suốt mười lăm năm qua, mà John Osborne, ông bạn già cũ và là người láng
giềng của ông, tỏ ra tàn nhẫn hơn cả...John Osborne, người xưa kia được ông gây
dựng, được ông giúp đỡ hàng trăm lần, và sắp sửa là thông gia của ông.
Nhưng bất
cứ ai ở trong hoàn cảnh ấy cũng phải công nhận ông John Osborne phải cư xử tàn
nhẫn như vậy. Một khi người ta đã chịu ơn rất nhiều một người khác, và sau ngày
hai người lại xích mích với nhau thì theo lẽ thường, người ta vẫn phải tỏ ra
khe khắt hơn người ngoài. Trong trường hợp ấy, thái độ sắt đá và vô ơn của ta
chỉ có thể giải thích bằng những lầm lỗi của người ân nhân cũ. Không phải vì
ích kỷ tàn nhẫn mà ta tức giận trước việc kinh doanh thất bại của bạn đâu...
không, chẳng qua tại ông bạn cũ đã rắp tâm lừa ta một cách hèn hạ quá đáng đó
thôi. Tóm lại tên đao phủ bắt buộc phải chứng minh rằng kẻ bị hành hình là một
tên vô lại... nếu không thì chính hắn ta phải là một tên mạt kiếp.
Bọn chủ nợ
vô tình thường công nhận một nguyên tắc chung rất tiện lợi đối với họ như thế
này: người ta đã lâm vào cảnh khó khăn thì không có ai là thực thà; thế nào họ
cũng giấu kín sự khó khăn của mình, và phóng đại những may mắn có thể có được.
Việc làm ăn tuyệt vọng hoàn toàn rồi, nhưng họ vẫn bảo là đang phát đạt, mặt
mũi vẫn tươi cười một cái cười bất đắc dĩ trong khi đang mấp mé trên bờ vực của
sự phá sản. Họ bấu lấy mọi dịp trì hoãn hòng đẩy lùi sự sụp đổ không tránh được
xa thêm vài ngày. Lão chủ nợ sỉ nhục kẻ bại trận, với dáng điệu của kẻ chiến
thắng thế này; “Gian giảo lắm thì cho chết. Anh ngu lắm, chết đuối mà lại với
lấy cái bọt?”. Thật là lời một kẻ sáng suốt bình tĩnh đứng trên bờ nói với
người sắp chìm nghỉm dưới nước, và cũng là lời của sự phát đạt nói với kẻ khốn
khổ đang vùng vẫy trong vực tối. “Anh xuẩn quá, anh không biết tìm cách để khỏi
bị liệt tên vào danh sách bọn phá sản trên báo à?” Ai mà không thấy một khi đã
dính đến chuyện tiền nong thì không những người bạn thân nhất đời, những người
lương thiện nhất đời, cũng rất sẵn sàng nghi ngờ buộc tội nhau là bất lương? Kẻ
nào cũng xử sự như thế cả, tôi cho rằng ai cũng phải thế, và cuộc đời toàn là
những trò bịp bợm.
Nghĩ đến
những chuyện ân huệ ngày xưa, ông Osborne càng bực mình; đấy cũng là một lý do
khiến mối mâu thuẫn giữa hai nhà càng thêm gay gắt. Cuối cùng, ông cắt đứt cuộc
nhân duyên giữa con trai ông và con gái gia đình Sedley. Nhưng hai người đã gắn
bó với nhau lâu quá rồi, bây giờ như vậy là hạnh phúc và có thể cả danh dự của
cô thiếu nữ cũng bị ảnh hưởng. Vậy thì ông John Osborne phải tìm mọi lý do để
cắt đứt cuộc nhân duyên và để chứng minh rằng ông John Sedley là một người rất
tồi tệ.
Trong buổi
họp của các chủ nợ, ông đã tỏ ra hết sức tàn bạo và khinh miệt ông Sedley,
khiến cho ông lão phá sản này chết điếng người vì nhục nhã. Ông phản đối dứt
khoát việc George và Amelia đi lại thăm nhau; ông dọa từ con trai nếu anh ta
trái lời ông, và ông cư xử với cô thiếu nữ vô tội như cô ta là một kẻ xảo quyệt
khốn nạn nhất đời. Ông giận dữ và thù hằn như vậy là vì sao? Ấy là vì ta phải
vu cáo và tin lời vu cáo về kẻ bị ghét bỏ; như vậy mới đúng cách xử thế.
Khi nhận
được tin phá sản, khi phải rời bỏ khu phố Russell, Amelia tin rằng giữa George
và cô không còn gì nữa...không còn gì nữa giữa cô và tình yêu, giữa cô và hạnh
phúc, giữa cô và sự tin tưởng vào cuộc đời... Ông John Osborne đã gửi cho cô
một lá thư lời lẽ tàn nhẫn, báo cho cô hay rằng vì tư cách của cha cô nên mọi
sự đính ước giữa hai gia đình bắt buộc phải chấm dứt...Quyết định ấy không làm
cho cô bị xúc động ghê gớm như cha mẹ, đúng hơn là như bà mẹ cô tưởng; ông John
Sedley thì đã hoàn toàn mất hết tinh thần vì bị mất cơ nghiệp và danh dự rồi.
Nhận được
tin, Amelia có tái mặt đi, nhưng vẫn bình tĩnh, đối với cô chẳng qua những điềm
không lành cảm thấy từ trước bây giờ đã thực hiện mà thôi; đó chẳng qua chỉ là
lời tuyên án...về một tội trạng cô đã phạm từ lâu...cái tội đã trót yêu lầm
lẫn, trót yêu quá say mê không tính toán.
Bây giờ
cũng như trước kia, cô không hề thổ lộ với ai những ý nghĩ sâu kín của mình. Cô
cũng không lấy thế làm đau khổ hơn khi mình đã cảm thấy tất cả hy vọng đều tiêu
tan nhưng còn chưa dám tin hẳn vào sự thật tàn nhẫn ấy. Rời bỏ ngôi nhà đồ sộ
về ở một căn nhà bé nhỏ cô thấy cuộc sống cũng không có gì khác; suốt ngày cô
vẫn ngồi im lặng trong phòng mà rầu rĩ, mà héo hắt dần dần. Tôi không nói rằng đàn
bà ai cũng giống thế. Cô Bullock thân mến ơi, tôi tin rằng cô chẳng chịu đau
khổ như vậy. Cô là một thiếu nữ có nghị lực, sống theo những nguyên tắc riêng.
Tôi cũng không dám bảo rằng tâm hồn tôi giống như vậy. Tôi cũng đã từng đau
khổ, nhưng phải thú thực rằng tôi vẫn sống; song cũng có vài người yếu ớt hơn
tôi, tâm hồn họ mỏng manh quá, tế nhị dịu dàng quá.
Mỗi khi ông
John Sedley nghĩ đến hoặc đả động đến cuộc tình duyên giữa George và Amelia,
thái độ của ông cũng dứt khoát như thái độ của chính ông Osborne vậy. Ông chửi
ông Osborne và cả gia đình ông ta là bọn vô lương tâm, bọn đểu cáng, bọn vô ơn.
Ông thề độc rằng sẽ không vì một thế lực nào trên đời này mà gả con gái ông cho
con trai một tên khốn nạn. Ông ra lệnh cho Emmy phải gột sạch hình ảnh của George
trong tâm trí cô, phải gửi trả lại hết mớ thư từ, đồ vật đã nhận từ trước của
anh ta.
Cô hứa xin
tuân lệnh và cố gắng vâng lời cha. Cô gom góp mấy thứ tặng vật của George; cô
lục những lá thư cất rất kỹ ra đọc lại một lượt... như thể cô chưa thuộc lòng
ấy. Song cô không đành tâm rời bỏ chúng; việc làm ấy khó khăn quá đối với cô;
cô lại ủ chúng vào trong ngực áo, giống như những người đàn bà ôm những đứa con
đã chết vậy. Cứ nghĩ đến chuyện phải tách mình ra khỏi niềm an ủi cuối cùng mà
Amelia tưởng như không thể sống nổi, hoặc phát điên lên mất. Trước kia mỗi lúc
nhận thư, cô thường đỏ mặt lên sung sướng biết bao nhiêu? Đã bao lần cô nhảy
nhót lùi ra một chỗ vắng, tim đập dồn dập, để đọc thư không cho ai nhìn thấy?
Lời lẽ trong thư có lạnh lùng, tâm hồn si mê của cô biết cách biến thành những
dòng chữ nồng nhiệt; lời lẽ trong thư có cộc lốc vô tình, cô vẫn tìm mọi lí do
để tha thứ cho người viết.
Cô đã ấp ủ
những mảnh giấy vô nghĩa đó; đọc chúng, cô quay trở về với cuộc đời dĩ
vãng...mỗi lá thư như gợi lại một mảnh đời. Cô nhớ lại từng ly từng tý, nhớ
từng khoé mắt, từng giọng nói, từng cách ăn mặc, từng lời lẽ chuyện trò...Ôi,
đời cô chỉ còn lại di tích của một mối tình đã chết ấy mà thôi. Từ đây, cô chỉ
còn sống để săn sóc cái xác chết của Tình yêu.
Cô tha
thiết mong chờ cái chết đến giải thoát cho mình.
Cô nghĩ
thầm sau khi chết, thế là mình lại có thể theo đuổi người yêu. Tôi không hề
muốn ca tụng quan niệm sống của Amelia, coi là tấm gương cho cô Bullock bắt
chước.
Cô Bullock
giỏi hơn người con gái bé bỏng đáng thương kia nhiều; cô thường biết cách kiềm
chế lòng mình, chắc chẳng khi nào dại dột như Amelia và trao trái tim mình quá
dễ dàng cho kẻ khác như thế, để chẳng được đền bù lại chút gì ngoài một lời hứa
hẹn mỏng manh bị bóp nát trong phút chốc. Trong một cuộc đính ước kéo dài, một
bên có thể tự do giữ lời hứa hoặc cắt đứt, nhưng cả cuộc đời bên kia đã đặt vào
đó rồi.
Vậy thì hỡi
các cô thiếu nữ trẻ trung, hãy cẩn thận. Hãy coi chừng khi các cô đính ước với
“người ta”. Hãy e lệ, đừng yêu quá thẳng thắn; chớ bao giờ nên nói hết điều gì
mình xúc động trong lòng, hoặc tốt hơn, hãy xúc động in ít thôi. Hãy nhìn xem,
thực thà và cả tin quá sớm tai hại như vậy đấy; đừng có tin mình, cũng đừng tin
ai hết. Hãy cứ lấy chồng theo kiểu người Pháp vậy, nghĩa là nhờ những ông quản
lý văn khế làm bạn tâm tình và người phù dâu.
Tóm lại,
đừng bao giờ đa mang tình cảm gì khiến mình phải khổ tâm sau này; đừng bao giờ
hứa hẹn điều gì nếu mình không dễ dàng xóa bỏ khi mình muốn. Giữa Hội chợ phù
hoa nếu muốn được kính nể và được coi là đức hạnh, xin cứ theo một con đường ấy
mà đi.
Nếu Amelia
được nghe những lời bình phẩm về mình trong cái xã hội mà sự phá sản của cha cô
vừa bắt cô phải rời bỏ, thì cô mới thấy hết tội lỗi của mình đã làm hại danh dự
mình đến thế nào. Bà Smith nói rằng chưa hề bao giờ thấy ai nhẹ dạ tai hại đến
thế. Bà Brown thì bảo rằng xưa nay bà vẫn kết án những thái độ suồng sã đáng
ghê tởm như vậy, và coi đó là tấm gương tầy liếp cho mấy cô con gái của bà coi
mà tránh. Hai cô con gái nhà Dobbin nói: “Dĩ nhiên đại úy Osborne không thể lấy
con gái một người phá sản làm vợ được. Bị ông bố lừa đảo thế là đủ lắm rồi. Còn
cái con bé Amelia, nó còn rồ dại hơn cả...”. Đại úy Dobbin mới quát lên:
- Hơn cái
gì? Họ không đính ước với nhau từ bé là gì? Lời đính ước lại không thiêng liêng
như hôn lễ sao? Đứa nào trên đời này dám thở ra một lời nói xấu người con gái
trong sạch nhất, hiền hậu, cao quý nhất ấy?
Cô Jane
đáp:
- Ô hay,
William, việc gì anh phải quát tháo chúng em. Chúng em có phải là đàn ông đâu
mà ganh gổ được với anh. Chúng em nói xấu gì cô Amelia Sedley? Có điều cô ta
dại dột quá đáng, ấy là chưa nói hết lời đấy. Còn bố mẹ cô ta thì gặp tai họa
như vậy cũng đáng kiếp thôi.
Cô Ann châm
biếm hỏi:
- Này anh
William, bây giờ cô Sedley đã tự do rồi, anh hỏi cô ta làm vợ chẳng hơn à? Thế
mà lại xứng đôi vừa lứa cơ đấy. Hi, hi?
Dobbin đỏ
bừng mặt, nói rất nhanh:
- Tôi lấy
cô ấy? Này, các cô nghĩ rằng cô ấy cũng ưa đổi tình như đổi áo giống các cô
chăng? Ai lại đi cười cợt, chế nhạo một vị thiên thần như thế! Cô ấy có nghe
thấy đâu; đối với người không may mắn và đau khổ, ai cười mà chẳng được. Cứ
việc mà đùa đi cô Ann. Cô láu lỉnh nhất nhà, ai cũng ưa nghe cô pha trò lắm
đấy.
Cô An đáp:
- Em xin
nhắc lại rằng đây không phải là trại lính đâu, anh William nhé.
- Lạy Chúa
tôi, trong trại lính ấy à; tôi cũng mong có kẻ nào nói như các cô đấy - Con sư
tử bị kích thích gầm lên- tôi dám thách đứa nào hé môi nói xấu cô ấy đấy; nhưng
mà, cô Ann ơi, đàn ông chúng tôi không ăn nói như vậy đâu. Chỉ có bọn đàn bà
con gái mới túm năm tụm ba ** đởn, rồi rú lên, rít lên, quàng quạc cái mồm lên
như thế. Thôi, cút ra chỗ khác... đừng có khóc nữa, các cô chỉ là hai con
ngỗng.
Thấy cô Ann
rơm rớm nước mắt như mọi khi. Dobbin lại bảo:
- Thì không
phải là ngỗng, các cô là hai con thiên nga vậy, muốn là con gì cũng được, nhưng
hãy để cho cô Sedley được yên.
Bà mẹ và
hai cô gái bảo nhau; “Chả thấy đứa nào mê gái như thằng William nó mê cái con
bé ** tính hay liếc giai ấy nhỉ”. Cả ba mẹ con đang lo rằng bây giờ không còn
bị lời đính ước ràng buộc, cô Amelia sẽ lập tức cướp mất anh chàng đại úy đang
say mê mình. Chắc hai cô thiếu nữ suy bụng ta ra bụng người nên mới lo xa như
vậy, hoặc đúng hơn (vì hai cô chưa hề bao giờ có dịp lấy ai, cũng như bắt nhân
tình với ai) họ đã phán đoán theo nhận thức riêng của họ về cái hay cái dở. Hai
cô con gái bảo mẹ:
- Má ạ, may
quá, trung đoàn phải ra đóng ở nước ngoài; thế là anh con khỏi bị cái tai họa
ấy đe dọa.
Quả thật
đúng như vậy. Chính vì thế mà Hoàng đế nước Pháp đã đóng một vai trò trong tấn
hài kịch gia đình đang diễn ra tại Hội chợ phù hoa này; mà sở dĩ tấn kịch diễn
được cũng nhờ có sự tham dự gián tiếp của nhân vật quan trọng không ra mắt ấy.
Chính hắn đã làm cho giòng họ Bourbons cũng như ông John Sedley phá sản. Khi đến
kinh đô nước Pháp, chính hắn đã thúc đẩy toàn thể nước Pháp đứng dậy cầm vũ khí
bảo vệ mình, và bắt buộc toàn thể Âu châu phải hợp lực tiêu diệt hắn. Trong khi
ở Quảng trường Tháng năm, nhân dân và quân đội Pháp vây tròn quanh những con
diều hâu, thề trung thành với Hoàng đế, thì bốn đạo quân mạnh nhất Âu châu phối
hợp với nhau để tổ chức một cuộc săn diều hâu () vĩ đại, trong số đó có quân
đội nước Anh; và trong đội quân nước Anh lại có hai nhân vật của chúng ta tức
là đại úy Dobbin, và đại úy Osborne.
Trung đoàn
thứ... tiếp nhận tin Napoléon vượt ngục trở về đất liền với một niềm vui hiếu
chiến vô cùng hào hứng; người nào đã biết rõ đội quân này mới hiểu được niềm
vui ấy. Mọi người, kể từ viên đại tá cho tới anh lính đánh trống tầm thường
nhất trong trung đoàn, đều tràn ngập hy vọng cao xa, đều sôi sục tinh thần ái
quốc. Họ cảm ơn Hoàng đế nước Pháp đã làm đảo lộn trật tự Âu châu, tuồng như đó
là một việc từ thiện đặc biệt. Lúc này đã đến cái ngày mà toàn thể trung đoàn
thứ...khát khao chờ đợi, ngày họ có điều kiện chứng tỏ cho các bạn đồng ngũ
thấy rằng họ có khả năng chiến đấu không kém gì những người chiến sĩ kỳ cựu ở
Bán đảo (), và bệnh sốt vàng da cùng những năm đồn trú ở Tây Ấn đã không cần
phải bỏ tiền ra mua. Bà thiếu tá O’Dowd cũng quyết định tham dự chiến dịch này;
bà còn hy vọng rằng trước khi chiến tranh kết thúc đã có thể viết thư cho chồng
ký tên là đại tá phu nhân O’Dowd. Hai người bạn của chúng ta (Osborne và
Dobbin) cũng phấn khởi không kém, mỗi người phấn khởi một cách... Dobbin thì
kín đáo, còn Osborne thì ồn ào, sôi nổi đặc biệt. Cả hai đều khát khao được làm
nhiệm vụ, và được chia sẻ phần vinh dự sau này.
Tin tức
trên đã gây ra một làn sóng sôi nổi trong khắp nước, trong khắp quân đội; người
ta không còn chú ý lắm đến những câu chuyện riêng. Có lẽ cũng vì thế mà Osborne
không bị xúc động nhiều lắm trước những tin tức lẽ ra phải khiến anh ta quan
tâm nhiều hơn trong trường hợp không có chiến sự đe dọa. Anh ta vừa được đề
bạt, đang bận tíu tít về việc chuẩn bị hành quân sắp tới, và cũng đang hy vọng
được thăng lên cấp cao hơn. Phải nói thực rằng tai họa vừa rơi xuống đầu ông
lão Sedley không ảnh hưởng nhiều lắm đến tinh thần anh ta. Đúng vào hôm các chủ
nợ của ông già bất hạnh kia họp nhau lại lần đầu tiên, anh ta cũng đi thử bộ
quân phục mới may, bận vào nom thật “bảnh”. ông bố đã nói chuyện với anh ta về
thái độ lừa đảo đáng xấu hổ của con người bị phá sản, đã nhắc anh ta nhớ lại
mọi điều ông ta nói về Amelia, nghĩa là giữa hai người bây giờ không còn quan
hệ gì nữa. Tối hôm ấy, ông cho anh ta một món tiền lớn để trả tiền bộ quân phục
và đôi phù hiệu mới toanh, mặc vào tôn hẳn vẻ người lên.
Tiền chui
vào túi anh chàng quen thói “vung tay quá trán” này thì bao nhiêu cũng là ít.
Anh ta không nói nhiều, cầm ngay lấy tiền. Những tấm giấy quảng cáo bán đấu giá
đã dán đầy trên tường nhà ông Sedley, nơi anh ta đã hưởng bao giờ phút sung
sướng. Một buổi tối, nhân đi từ nhà bố đẻ đến quán trọ lão Xlôtơ, nơi anh ta
nghỉ trọ mỗi khi về tỉnh, George cũng nhìn thấy những tấm giấy ấy trắng lôm lốp
dưới ánh trăng. Từ nay Amelia cùng gia đình không còn được bước chân vào ngôi
nhà kia nữa; không biết bây giờ họ ở đâu? Nghĩ đến câu chuyện gia đình ông
Sedley bị phá sản, anh ta thấy buồn quá. Tối hôm ấy tại quán trọ lão
Slaughters, Giơrgiơ có vẻ ủ rũ đặc biệt; bạn bè đều thấy anh ta uống nhiều rượu
hơn mọi ngày.
Bỗng Dobbin
bước vào, anh định ngăn không cho bạn uống rượu, nhưng Osborne đáp rằng mình
buồn quá, phải lấy rượu để khuây khỏa. Dobbin hỏi thăm một cách vụng về rằng vì
sao bạn buồn, và lấy vẻ quan trọng hỏi xem, bạn có được tin tức gì không; nhưng
Osborne không chịu đáp, chỉ nhận rằng mình rất đau khổ và bối rối vô cùng.
Ba ngày
sau, Dobbin gặp lại Osborne trong phòng riêng của bạn ở trại lính... Anh ta
ngồi gục đầu bên bàn, xung quanh giấy má bừa bộn; hình như viên đại úy trẻ tuổi
đang có điều gì sầu não.
-
Nàng...nàng gửi trả lại tôi những tặng vật cũ...mấy món đồ trang sức. Anh xem
kìa!
Thì ra có
một tập thư, chữ viết rất quen thuộc với đại úy George Osborne, và mấy thứ đồ
vật vứt hỗn độn bên cạnh: một con dao bạc anh ta mua tặng người yêu trong một
buổi đi chơi hội chợ hồi còn nhỏ, một sợi dây chuyền bằng vàng và một tấm huy
hiệu hộp trong có mấy sợi tóc.
Anh ta vừa
rên rỉ có vẻ đau xót hối hận vừa nói:
- Thôi, thế
là hết. Kia kìa, Will anh có đọc thì đọc.
George tay
chỉ một lá thư ngắn, trong viết:
- Ba em ra
lệnh bắt em phải gửi trả lại anh những tặng vật mà anh cho em trong những ngày
hạnh phúc đã qua; em viết thư cho anh lần này là lần cuối cùng. Em cho rằng, em
hiểu rằng anh cũng đau khổ như em trước tai họa của gia đình em. Tự em yêu cầu
anh cắt đứt mối tình của chúng ta vì, trong hoàn cảnh khốn cùng của em hiện
nay, nó không thể nào duy trì được nữa. Em tin rằng anh không hề đồng tình với
những điều ba em nghi ngờ một cách tàn nhẫn, những điều khiến em đau khổ nhất
trong cơn hoạn nạn. Thôi vĩnh biệt, vĩnh biệt. Em cầu Chúa giúp em đủ sức vượt
qua tai họa này cũng như mọi tai họa sẽ xảy ra; cầu Chúa ban phúc lành cho anh
luôn luôn. Em sẽ chơi nhạc luôn trên cây dương cầm... cây dương cầm của anh. Em
hiểu rằng chính anh đã gửi đến cho em.”
Dobbin là
người rất đa cảm. Xưa nay, trông thấy đàn bà con trẻ đau khổ, anh ta vẫn dễ
dàng xúc động. Nghĩ đến cảnh Amelia sống đau khổ, trơ trọi một mình, Dobbin
không sao cầm lòng được. Sự cảm động thái quá của anh ta có thể khiến người
khác coi là không hợp với bản chất của đàn ông. Dobbin thề rằng Amelia là một
thiên thần; Osborne sẵn sàng biểu đồng tình ngay. Bản thân George cũng nhớ lại
cuộc sống của hai người...Từ khi còn nhỏ cho tới bây giờ, anh ta vẫn chỉ thấy
người con gái rất dịu dàng, rất ngây thơ, rất diễm lệ, giản dị một cách đáng
yêu, mà thùy mị và nồng nàn một cách vô cùng trung thực.
Đã nắm được
một kho báu vô giá như vậy trong tay mà không biết giá trị, mà bây giờ phải
chịu mất tất cả thì còn đau khổ nào hơn! Bao nhiêu hình ảnh thân mật, bao nhiêu
kỷ niệm dồn dập đến... trong ký ức của George, Amelia bao giờ cũng vẫn ngoan,
vẫn đẹp. Anh ta đỏ mặt lên vì hối hận, khi nghĩ lại thái độ ích kỷ thờ ơ của
mình khác xa sự trong trắng của người yêu biết bao nhiêu. Trong một phút,
George quên hết mọi sự, cả vinh quang, cả chiến tranh, và đôi bạn trai chỉ nói
đến chuyện cô thiếu nữ. Ngừng lại một lúc lâu, Osborne hỏi:
- Không
biết bây giờ họ ở đâu nhỉ? Trong thư không thấy ghi địa chỉ.
Quả thật
George cũng thấy ngượng lắm vì mình đã không hề có một hành động gì tỏ ra quan
tâm đến người yêu. Dobbin biết địa chỉ. Không những anh ta gửi tặng cây dương
cầm, mà còn viết thư xin bà Sedley cho phép được đến thăm bà. Hôm qua, trước
khi về Chatham, anh ta đã gặp bà cụ, gặp cả Amelia nữa. Cũng chính anh ta đã
mang lá thư vĩnh biệt và gói tặng vật về cho bạn.
Anh chàng
tốt bụng được bà cụ Sedley tiếp đãi ân cần lắm. Nhận được cây dương cầm bà cụ
cảm động quá: bà đoán chắc chính George đã gửi tặng lại để tỏ thái độ thông cảm
của mình. Đại úy Dobbin mặc bà già hiểu lầm không cải chính, chỉ chăm chú nghe
bà kể lại cơn hoạn nạn của gia đình, tỏ ý thông cảm với những nỗi đau khổ,
thiếu thốn, và đồng tình trách ông Osborne là quá tàn nhẫn đối với ân nhân cũ.
Lúc bà cụ đã trút vợi bớt bầu tâm sự bi thương của mình, anh ta mới có can đảm
xin phép gặp Amelia, lúc ấy cô vẫn ngồi trong phòng riêng như mọi khi, bà mẹ
phải lên đỡ con gái run run bước xuống cầu thang. Trông Amelia không còn ra hồn
người; vẻ thất vọng lộ rõ trên nét mặt thảm thương, đến nỗi anh chàng Dobbin
thực thà thấy thế mà phát sợ; nhìn bộ mặt nhợt nhạt im lìm, anh ta linh cảm
thấy bao điều tai hại sẽ xảy ra. Ngồi một hai phút, Amelia đặt cái bọc vào tay
Dobbin nói:
- Anh đưa
hộ cái này cho đại úy Osborne... tôi mong rằng anh ấy vẫn mạnh khỏe... cảm ơn
anh có lòng tốt đến thăm... chúng tôi thích chỗ ở mới này lắm. Và tôi... mẹ ạ,
có lẽ con nên lên gác thôi, con thấy hơi khó ở.
Nói đoạn cô
thiếu nữ mỉm cười cúi chào bước ra ngoài.
Bà mẹ vừa
đỡ con lên cầu thang, vừa quay lại lo lắng nhìn Dobbin. Dobbin không thể nào
cầm được lòng. Anh ta yêu cô thiếu nữ quá mất rồi. Sau buổi gặp gỡ, nỗi đau xót
không bộc bạch ra được, tình thương và sự hãi hùng cứ lởn vởn trong óc anh
dường như chính anh là thủ phạm gây ra tai họa.
Osborne
biết tin bạn đã gặp người yêu của mình thì săn đón hỏi han tin tức về cô thiếu
nữ; nào là “nàng” ra sao, “nàng” có nói gì không? Bấy giờ Dobbin mới cầm lấy
tay bạn, nhìn thẳng vào mặt bạn mà bảo: “George, cô ấy sắp chết rồi”. Và nghẹn
ngào không nói được nữa.
Trong căn
nhà nhỏ bé, nơi gia đình Sedley đang trú ngụ, có một chị hầu gái người Ai len;
đã nhiều lần chị ta tìm cách an ủi Amelia. Nhưng vô hiệu; Emmy buồn quá chẳng
trả lời, mà cũng chẳng để ý đến sự săn sóc của chị ta nữa.
Bốn giờ đồng
hồ sau cuộc nói chuyện giữa Dobbin và Osborne, chị hầu gái này bước vào phòng
Amelia : cũng như mọi khi, lúc này Amelia đang âm thầm nghĩ đến những bức thư,
đó là những kho báu vật nhỏ của cô.
Chị hầu gái
mỉm cười vui vẻ nhí nhảnh tinh quái cố làm cho Emmy chú ý đến mình mà cũng
không được, chị ta gọi:
- Cô Emmy
ơi.
- Cái gì?
Emmy đáp, không quay lại.
- Có thư
đây này, gói gì ấy...có ai...Đây, có thư mới gửi cho cô đây, đừng đọc những thư
cũ làm gì nữa.
Chị ta đưa
cho Emnly một lá thư, cô cầm lấy đọc: “Anh cần gặp em. Emmy yêu quý nhất đời
của anh.. em yêu của anh...vợ yêu của anh, hãy đến với anh.
George và
bà mẹ Amelia đang đứng ngoài cửa, chờ cô đọc xong lá thư.
Chương 19
BÀ CRAWLEY
DƯỠNG BỆNH
Chúng ta đã
biết bà Firkin, người hầu phòng của bà Crawley sẵn sàng báo tin tức về bất cứ
chuyện gì đáng chú ý xảy ra trong gia đình này cho bà Bute ở Nhà thờ. Chúng ta
lại cũng đã thấy bà này tỏ ý vì nể như thế nào đối với người gia nhân của bà
Crawley, đồng thời cũng tự coi là một người bạn thân của bà Briggs, người bạn
của bà chủ nhà. Tấm tình bạn ấy, bà đã mua bằng hàng nghìn cử chỉ săn sóc, hàng
nghìn lời hứa hẹn, không tốn kém gì đối với bà, nhưng người nghe thì hởi lòng
hởi dạ.
Các bà nội
trợ dè xẻn cần hiểu rằng những lời tuyên bố không mất tiền mua mà có giá trị
lắm; nó giúp cho những món ăn tầm thường nhất trong cuộc đời thêm hương vị. Anh
chàng ngu xuẩn nào dám nói bậy rằng “Miệng lưỡi giảo hoạt không thay được cơm
gạo”(). Nửa phần cuộc đời, người ta vẫn ăn ngon cơm với thứ nước chấm ấy đấy. Alexis
Soyer con người bất tử () xưa kia chỉ cần một trinh cũng nấu được món xúp ngon
hơn một anh đầu bếp tầm thường tốn kém hàng đồng để mua rau với thịt; cũng như
một nghệ sĩ có tài chỉ cần mấy câu đưa đẩy lấy lòng còn có tác dụng hơn hàng
nắm tiền trong tay một anh ngốc nghếch. Những đồng tiền đối với vài người thì
sinh đầy vì không tiêu hóa được, trong khi đó một số lớn kẻ khác lại ưa ngốn
những lời lẽ đẹp đẽ bóng bẩy không bao giờ chán. Bà Bute nói đi nói lại mãi với
bà Briggs và bà Firkin rằng bà quý họ lắm, rằng nếu được giàu có như bà Crawley
thì bà chẳng tiếc gì hai người bạn tận tâm; hai người đàn bà lấy làm gắn bó với
bà quá, tỏ vẻ biết ơn, và thân mật với bà y như đã được bà Bute ban cho bao
nhiêu ân huệ.
Trái lại,
Rawdon Crawley đúng là một anh lính ngự lâm thô lỗ cục mịch, chẳng hề thèm chú
ý đến việc lấy lòng hai người hầu cận của bà cô. Anh ta cứ đường hoàng tỏ thái
độ khinh bỉ cả hai ra mặt; có lần anh ta bắt bà Firkin tháo ủng cho mình...
trời đang mưa to, anh ta sai bà này đi làm những việc bẩn thỉu, rồi ném cho bà
một đồng ghi-nê, coi bà ta như cái ống để tiền không bằng. Thấy bà cô hay đem
bà Briggs ra làm trò cười, anh ta cũng bắt chước chế giễu bà ta tàn nhẫn, mất
mày mất mặt. Trong khi ấy bà Bute gặp việc gì khó khăn cũng hỏi bà Briggs cách
giải quyết, kể cả những việc đòi hỏi đến khiếu thẩm mỹ, lại ca tụng cả tài làm
thơ của bà này, hết sức săn đón, lễ độ, tỏ ra rất quý bà. Mỗi khi biếu bà
Firkin một tặng vật đáng vài xu, bà lại biết kèm theo vô số lời chúc tụng,
khiến cho đối với bà Firkin những đồng xu ấy biến thành những đồng vàng; đồng
thời, người hầu phòng này cũng đã sẵn sàng chờ đợi trước những ân huệ lớn lao
hơn nhiều mình sẽ được hưởng, khi bà Bute nắm trong tay cơ nghiệp của bà
Crawley.
Đối với
những người mới bước vào đời, tôi khuyên nên bắt chước thái độ khác nhau của cả
hai người nói trên.
Hãy nên tận
dụng tất cả thiên hạ; đừng có làm ra vẻ khó chịu, hãy cứ nịnh nọt người khác
ngay trước mặt họ, hoặc sau lưng họ nếu bạn thấy lời nói của bạn có hy vọng bay
đến tai họ. Hãy làm như Collingwood xưa kia, thấy bất cứ chỗ đất bỏ hoang nào
trong nước là rút trong túi ra một hạt dẻ rừng trồng ngay. Trong đời, bạn cũng
phải biết “cấy” những lời tán tụng của mình như vậy mới được. Một hạt dẻ rừng
không đáng bao lăm nhưng một ngày kia rất có thể nó trở thành một cây đại thụ
đấy.
Nói tóm
lại, trong lúc Rawdon Crawley còn vận tấy, anh ta chỉ được thiên hạ miễn cưỡng
nghe mình, cho nên khi anh ta mất chỗ dựa, không ai buồn thương xót giúp đỡ anh
ta nữa. Và khi bà Bute nắm quyền lãnh đạo trong nhà bà Crawley, thì toàn bộ gia
nhân lấy làm sung sướng được có một viên chỉ huy như bà; nghe bà hứa hẹn, nói
ngon nói ngọt, ai cũng hy vọng rồi tha hồ mà phát tài.
Bà Bute
Crawley không bao giờ tự cho phép được tin rằng kẻ thù của mình đã chịu bó tay
ngay sau lần thất bại đầu tiên mà không chịu phản công chiếm lại vị trí đã mất.
Bà lại biết
Rebecca là người thông minh, mưu mẹo, không đời nào chịu ép một bề mà không
giẫy giụa. Bà cảm thấy mình phải chuẩn bị sẵn sàng tác chiến, phải luôn luôn đề
phòng kẻ địch tấn công, gài mìn hoặc đánh úp bất ngờ.
Trước hết,
tuy bà làm chủ thành phố thật, nhưng phải xem nhân dân trong đó có thực sự
trung thành với bà không đã? Bản thân bà Crawley có chịu kiên trì không. Hay là
trong thâm tâm bà này vẫn còn muốn thỏa hiệp với kẻ thù đã thất trận? Xưa nay,
bà lão vẫn quý Rawdon và Rebecca.
Bà Buten
Crawley cũng thấy rõ, không thể chối cãi được, rằng trong phe của bà không có
đủ tài làm là cho bà Crawley được vui lòng như Rebecca. Bà vợ viên tu sĩ đành
lý thú nhận rằng so với Rebecca, giọng hát của hai cô con gái bà là không nghe
được. Mỗi khi Martha và Louisa song ca với nhau, lẽ thường thường bà Crawley
phải đi ngủ. Bà này cũng chán ngấy Jim với cái điệu bộ cứng nhắc của một anh
sinh viên đại học, cùng những câu chuyện chó chuyện ngựa của ông Bute. Bà Bute
nghĩ thầm: “Nếu ta mời bà ấy đến chơi nhà thờ, có lẽ bà ấy đến nổi đóa lên với
tất cả rồi trốn mất, chắc chắn vậy, và rất có thể lại rơi vào trong móng vuốt
của thằng Rawdon ghê gớm kia, làm mồi ngon cho cái con Sharp rắn độc ấy mất.
Song, hãy cứ biết rõ ràng là bây giờ, bà ấy đang ốm nặng chưa thể đi đâu được
ít nhất là hàng tháng nữa; trong thời gian này, ta phải tìm kế hoạch che chở
cho bà ấy khỏi bị hai vợ chồng tên lưu manh tấn công mới được.
Trong nhũng
ngày bà Crawley mạnh khỏe nhất, hễ ai hơi nói rằng bà có vẻ mệt, lập tức bà run
rẩy cho đi mời thầy thuốc riêng ngay. Có thể nói rằng, sau biến cố đột ngột của
gia đình, bà ốm nặng thực sự; người khỏe hơn bà cũng phải quỵ. Bà Bute thấy
mình có bổn phận phải báo với thầy thăm bệnh, với ông thầy bào chế, với người
tùy nữ, với mọi gia nhân trong nhà, rằng bệnh trạng bà Crawley rất nguy kịch;
bà còn bắt họ cũng phải đi báo tin khắp nơi như vậy. Ngoài phố, bà bắt trải rơm
cao đến đầu gối và cất chiếc chuông ở cửa đi. Bà nhất định yêu cầu ông thầy
thuốc đến thăm bệnh một ngày hai lần và cứ hai tiếng đồng hồ, lại bắt bệnh nhân
uống thuốc đến phềnh bụng lên. Có ai vào phòng, bà vội “suỵt, suỵt” một cách
đáng sợ, làm cho bà già nằm trên giường giật nẩy mình.
Nằm trên
giường nhìn ra, bao giờ bà Crawley cũng gặp đôi mắt sắc sảo của bà Bute ngó
chăm chăm vào mình, bà Bute ngồi vững vàng trong chiếc ghế bành kê bên cạnh.
Trong bóng tối (tất cả màn cửa đều buông kín) đôi mắt ấy sáng rực lên. Bà Bute
đi lại trong phòng lặng lẽ như con mèo nhón chân trên bộ vuốt bọc nhung. Bà
Crawley đã nằm như vậy không biết bao nhiêu ngày. Bà Bute đọc sách đạo cho bà
em chồng nghe; suốt những đêm dài đằng đẵng bà Crawley cứ bắt buộc phải nghe
tiếng hát của bác gái và tiếng lép bép của ngọn đèn. Khoảng nửa đêm, ông thầy
thuốc đến thăm bà đi rón ra rón rén, thế là hết. Bà chỉ còn được nhìn có đôi
mắt bà Bute lấp la lấp lánh, hoặc khoảng ánh sáng vàng khè ngọn đèn đêm chiếu
hắt lăn trên nền trần tối tăm rầu rĩ. Sống như vậy thì đến ngay Hygeia () cũng đến
phải phát ốm, nói gì bà già yếu ớt đáng thương kia? Người ta đồn rằng, hồi còn
mạnh khỏe, vui vẻ, con người đáng kính của Hội chợ phù hoa này vẫn thường phát
biểu những ý kiến rất phóng túng về tôn giáo và luân lý không kém gì Voltaire
() tiên sinh, nhưng đến khi bệnh tật giày vò, thì cái bà già phạm tội hèn nhát
này lúc nào cũng chỉ lo chết, làm cho bệnh càng thêm nặng.
Trong một
cuốn tiểu thuyết tầm thường như cuốn này không phải là chỗ kể lể dài dòng về
những lời giảng đạo bên giường bệnh cũng như những sự suy tưởng về tín ngưỡng
(như một nhà tiểu thuyết hiện đại thường làm); độc giả mất tiền để mua vui với
một tấn hài kịch, không nên thuyết lý làm người ta buồn ngủ. Tuy nhiên, mặc dầu
không dám giảng đạo, tôi cũng phải công nhận rằng trước công chúng, kẻ đóng trò
trong Hội chợ phù hoa thường tỏ ra hoạt động, cười cợt vui vẻ, nhưng lúc trở về
với đời tư của mình thì không được như vậy; nhiều khi anh ta cũng bị những nỗi
thất vọng và hối hận ghê gớm đè nặng tâm trí mình. Những ngài Epicures đau ốm
nhớ lại bao bữa tiệc ê hề cao lương mỹ vị đã hưởng cũng không thể yêu đời được,
quần áo lộng lẫy và những buổi dạ hội tưng bừng cũng không thể an ủi nhiều lắm
những sắc đẹp tàn phai. Những nhà chính khách, đến một lúc nào đó, sẽ không
được hài lòng lắm khi nghĩ tới những thành công rực rỡ đã qua của mình, sự
thành công hoặc những khoái lạc hôm qua trở thành không nghĩa lí gì khi cái
buổi mai chắc chắn sẽ phải đến (tuy không biết đến lúc nào) mà không sớm thì
muộn thế nào cũng có ngày ta phải nghĩ tới, bỗng hiện ra. Ôi, những người bạn
đồng nghiệp mặc áo sặc sỡ () ơi, phải chăng đã bao lần chúng ta từng phát ốm
lên vì nhăn nhó, vì nhảy nhót và tiếng nhạc mũ kêu loong coong mãi bên tai? Mục
đích của tôi, thưa các bạn đồng nghiệp, là muốn cùng các bạn dạo thăm Hội chợ
phù hoa, xem các gian hàng, thưởng thức các trò biểu diễn. Đoạn, sau cuộc đốt
pháo bông, chúng ta sẽ từ giã mọi sự ồn ào vui vẻ, để về nhà sống cuộc đời
riêng tư cực kỳ khốn khổ.
Bà Bute
Crawley nghĩ thầm: “Giá ông lão đáng thương nhà mình có đầu óc một tý, thì bây
giờ đã giúp được vô khối việc ích lợi cho bà cụ đau khổ này. Ông ấy có thể
khiến bà ta hối hận về những tư tưởng quá táo bạo trước kia, có thể khuyên bà
ta trở về với nhiệm vụ và truất quyền thừa kế của thằng cháu khốn kiếp đã làm
mất danh dự của riêng nó và của cả gia đình. Ông ấy có thể khuyên bà Crawley ăn
ở công bằng với hai đứa con gái và hai thằng con trai nhà mình; chúng nó đang
cần và thật xứng đáng được giúp đỡ”.
Biết thù
ghét cái xấu, thường thường là điều kiện để biết làm điều thiện, cho nên bà
Bute Crawley ra sức mà tiêm nhiễm vào tư tưởng bà em chồng sự ghê tởm của những
tội lỗi chồng chất do Rawdon Crawley gây ra: bà thím liệt kê ra một tràng dài
những thói xấu của anh cháu, đủ để kết án cả một trung đoàn toàn những sĩ quan
trẻ tuổi. Nếu có người nào phạm lỗi trong cuộc sống, có lẽ không nhà luân lý
nào lại thiết tha vạch cái xấu ra hộ bằng những người thân thích của người đó.
Cho nên bà Bute Crawley đã tỏ ra rất quan tâm và nắm vững mọi chi tiết về đời
tư của Rawdon Crawley. Bà ta biết tỉ mỉ chuyện xích mích đáng buồn giữa Rawdon
và đại úy Marker; Rawdon sai, nhưng cuối cùng đã bắn chết viên đại úy. Bà ta
biết cả chuyện vị bá tước bất hạnh Dovedale đánh bạc với Rawdon thế nào mà mẹ
người thanh niên này phải đích thân dọn nhà đến ở tại Luân-đôn để theo dõi việc
học hành của con trai. Từ nhỏ Dovedale chưa hề biết cây bài là gì, vậy mà đến
Luân- đôn, bị ngay Rawdon cám dỗ ở quán “Cây dừa”; tên chuyên quyến rũ và làm
sa đọa những người trẻ tuổi này cho Dovedale uống rượu say, rồi thịt mất hơn
bốn nghìn đồng.
Bà ta còn
kể lại thật hào hứng tỷ mỉ về nỗi đau khổ của những gia đình nền nếp xứ quê bị
thằng cháu làm khánh kiệt ra sao... con trai thì bị lâm vào cảnh khốn cùng và ô
nhục, con gái thì bị quyến rũ làm điều bậy bạ. Bà lại biết rõ bao nhà thương
gia đã bị phá sản vì thói “ngông” của hắn... bao nhiêu thủ đoạn đê tiện, bao
nhiêu mánh khóe dối trá hắn đã dùng để lừa gạt bà cô rộng lượng nhất; và để đền
đáp những sự hi sinh ấy, hắn đã vô ơn và giễu cợt bà ta. Những chuyện này bà kể
lại ít một, ít một, cho bà Crawley nghe, cốt giúp bà này khỏi mắc hợm. Bà cảm
thấy ở cương vị một người đàn bà ngoan đạo, lại là một bà mẹ, mình cần hành
động như vậy. Bà không hề mảy may hối hận về việc đã dùng cái lưỡi mà thí mạng
kẻ thù một cách không thương tiếc. Không những thế, bà còn nghĩ rằng việc mình
làm là ngoan đạo và đáng phục, tự khen mình có can đảm theo đuổi đến cùng.
Thật đấy,
bạn chỉ cần ngỏ ý muốn được nghe nói xấu một người nào đó, lập tức thân nhân
của họ sẵn sàng giúp bạn. Vả lại, ta phải công nhận rằng trong trường hợp của
Rawdon Crawley, nguyên sự thực cũng đã đủ kết tội tên khốn nạn đó, chẳng cần
phải dùng đến sự vu cáo, bịa đặt làm gì.
Bây giờ
Rebecca đã trở thành người trong gia đình cho nên cũng được bà Bute có lòng yêu
hỏi thăm đến rất tỷ mỉ. Con người tìm hiểu sự thực không bao giờ mệt mỏi ấy,
sau khi đã ra lệnh dứt khoát không ai được tiếp người nhà của Rawdon hoặc nhận
thư từ của anh ta, bèn lấy xe ngựa của bà Pinkerton ở Chiswick Mall báo cho bà
bạn cái tin ghê gớm là cô Rebecca đã quyến rũ mất đại úy Crawley rồi. Bà
Pinkerton kể lại cho bà nhiều chi tiết quái gở về dòng dõi của cô giáo dạy trẻ
cũ, và về cuộc đời của cô ta hồi nhỏ. Bà bạn của nhà từ điển học cung cấp những
tài liệu rất phong phú. Bà sai cô Jemima đi tìm những tờ biên lai và thư từ của
ông giáo dạy vẽ. Lá thư này ông ta viết từ trong một nhà giam những kẻ “bị bỏ
tù vì nợ” yêu cầu ứng trước một món tiền; lá thư kia gồm toàn những lời cảm tạ
bà góa ở Chiswick vì cô con gái được phép nhập học; còn lá thư cuối cùng nhà
nghệ sĩ bất hạnh viết trên giường bệnh lúc hấp hối gửi gắm đứa con gái mồ côi
nhờ bà Pinkerton che chở. Có cả những lá thư Rebecca viết hồi còn bé xin bà
giúp đỡ bố, hoặc bầy tỏ lòng biết ơn của mình. Trong Hội chợ phù hoa, có lẽ
không có lời châm biếm nào tài hơn là những lá thư. Cứ đọc lại thư từ người bạn
thân nhất của ta viết hồi mười năm về trước mà xem; bây giờ, anh bạn quý ấy bị
ta ghét cay ghét đắng rồi; ta lại đọc tập thư của cô em gái viết cho ta, mới
thấy hai anh em yêu quý nhau như vàng cho tới khi chỉ vì cái gia tài đáng giá
hai mươi đồng tiền vàng mà ghét nhau như quân thù? Này đây là những bức thư chữ
viết nguệch ngoạc của con trai bạn; từ khi nó hư hỏng cưỡng lại ý bạn, bạn đã
đau khổ vì nó biết bao nhiêu! Và này đây là một tập thư chính tay bạn viết, đầy
những lời lẽ nồng nàn yêu dấu, bị người yêu của bạn gửi trả khi cô ta bỏ đi lấy
một ông nhà giầu... bây giờ đối với cô tình nhân ấy, bạn coi xa lạ chẳng khác
gì đối với nữ hoàng Elizabeth. Những lời yêu đương thề thốt, những lời hứa hẹn
tâm tình, những lời biết ơn... sau một thời gian, đọc lại mà thấy tức cười ra
phết! Trong Hội chợ phù hoa, nên đặt ra cái lệ là sau một thời gian ngắn cần
thiết, tất cả mọi thứ giấy tờ đều phải hủy bỏ (trừ biên lại của người bán
hàng). Phải giết cho tiệt cái bọn lang băm và bọn chán đời đang ra sức quảng
cáo cho thứ mực tai hại rửa không phai kia đi mới được. Thứ mực tốt nhất nên
dùng trong Hội chợ phù hoa là thứ mực chỉ hai ngày là phai hết, giấy lại sạch
bong như mới, để bạn có thể dùng ngay mà viết cho người khác.
Từ nhà bà
Pinkerton, bà Bute không biết mệt mỏi lần theo dấu vết hai bố con ông Sharp đến
tận ngôi nhà ở phố Hy-lạp, nơi xưa kia ông ta trú ngụ, và còn thấy trên tường
phòng khám treo bức chân dung bà chủ nhà mặc áo sa- tanh trắng cạnh ông chồng mặc
áo có đính khuy đồng. Ông Sharp không có tiền trả tiền thuê nhà phải vẽ bức
tranh này để trừ nợ. Bà Stokes là người hay chuyện, mau mồm kể lại tất cả những
điều bà biết về ông Sharp; những là ông ta nghèo kiết và trác táng ra sao, tính
tình vui vẻ và hay bỡn cợt thế nào; rồi thì chuyện ông ta bị bọn mõ tòa và chủ
nợ luôn luôn làm rầy rà, chuyện ông ta chỉ chịu làm phép cưới cô vợ ít lâu
trước khi cô này chết, khiến cho bà chủ nhà tuy không phải chịu đựng gì với cô
ta mà cũng lấy làm ghê sợ. Bà còn kể thêm rằng Rebecca trước kia là một con bé
láo lếu mất dạy; có tài làm điệu bộ bắt chước tất cả mọi người để làm trò... Cô
bé chuyên được sai đi mua rượu ở các tửu quán, và trong các phòng vẽ của khu
phố không ai không biết mặt. Tóm lại bà Bute thu thập được một bản báo cáo rất
đầy đủ về dòng dõi, về giáo dục, về tư cách của cô cháu dâu: giá Rebecca biết
mình được bà thím chồng quan tâm đến như vậy hẳn cô phải hài lòng lắm.
Việc điều
tra được tiến hành một cách khéo léo ấy nhằm mục đích phục vụ lợi ích của bà Crawley.
Vợ Rawdon Crawley là con gái một vũ nữ ở rạp Opera. Chính cô ta cũng đã nhảy
cho thiên hạ xem. Cô ta đã làm kiểu mẫu cho các họa sĩ. Cô ta thừa hưởng một
nền giáo dục thật xứng đáng là con gái mẹ. Cô ta cùng uống rượu mạnh với bố
v.v... và v.v…Cùng là những kẻ mất linh hồn, đôi trai gái ấy lấy nhau là phải.
Bài học luận lý rút ra từ câu chuyện của bà Bute là đôi vợ chồng ấy hư hỏng quá
lắm rồi, những người biết tự trọng không ai còn nên nhìn mặt họ nữa. Những tài
liệu ấy chính là những quân nhu khí giới bà Bute chuẩn bị đầy đủ ở công viên
Lane để chống lại hai vợ chồng Rawdon vì bà biết thế nào họ cũng vây hãm bà
Crawley.
Tuy nhiên,
nếu trong việc sắp đặt này bà Bute có đáng trách, thì chính vì bà đã quá mức độ
cần thiết; thành ra, mặc dầu người ốm chịu khuất phục trước uy quyền của bà,
nhưng vì uy quyền ấy quá nghiệt ngã, quá bức bách, nên kẻ nạn nhân cảm thấy
muốn lợi dụng cơ hội đầu tiên để thoát khỏi vòng kiềm tỏa. Mấy bà quen chỉ huy-
đó là sự kiêu hãnh của phái yếu - cứ muốn ra lệnh cho tất cả mọi người trong
tất cả mọi việc, cứ muốn tỏ ra biết rõ hơn người khác mọi điều quan hệ đến hạnh
phúc của bản thân người ta; nhiều khi họ không ngờ rằng sự thống trị hà khắc
của họ có thể gây ra một cuộc nổi loạn trong gia đình, hoặc những kết quả tai
hại khác.
Chính là
trường hợp bà Bute; đích thị bà có thiện ý tốt đẹp nhất trần đời, nên mới hy
sinh cả giấc ngủ, cả bữa ăn, cả việc dạo mát hít không khí trong lành, chịu vất
vả đến kiệt sức để mưu lợi ích cho em chồng đang ốm. Bà yên trí rằng em chồng
mắc bệnh trầm trọng đến nỗi suýt nữa bà cho mua sẵn quan tài đem chôn. Một bữa,
bà trình bày với ông Clamp, ông thầy bào chế, về những sự hy sinh của mình và
kết quả đạt được ra sao. Bà nói:
- Ông Clump
thân mến ơi, tôi đã không quản ngại sức lực săn sóc cho người ốm được bình
phục! Cái thằng cháu trai vô ơn ấy nó bỏ mặc cô nó nằm trơ trọi trên giường
bệnh.Tôi không bao giờ ngại vất vả, tôi không bao giờ từ chối bất cứ một sự hy
sinh nào.
Ông Clump
cúi chào, đáp:
- Phải nhận
rằng bà đã tận tâm săn sóc người ốm một cách đáng kính nhưng…
- Từ bữa
tôi đến đây, tôi không mấy khi được chợp mắt. Tôi hy sinh hết: giấc ngủ, sức
khoẻ, thú vui, để làm tròn nhiệm vụ. Hồi thằng James nhà tôi lên đậu mùa tôi có
chịu nhờ người khác trông nom cho cháu đâu. Không.
- Một bà mẹ
xứng đáng phải như vậy, thưa bà, bà thật là một bậc hiền mẫu; nhưng…
Bà Bute vẫn
tiếp, vẻ mặt trang trọng đầy tin tưởng.
- Là một
người mẹ trong gia đình, là vợ một tu sĩ Anh quốc, tôi tin tưởng rằng những
nguyên tắc cư xử ấy là tốt. Ông Clump ạ, trời còn cho tôi được sống làm người,
không bao giờ... không bao giờ tôi rời bỏ nhiệm vụ của tôi. Kẻ khác có thể bỏ
mặc người đàn bà tóc bạc kia đau khổ trên giường bệnh (nói đến đây, bà Bute chỉ
vào một bộ tóc giả màu cà-phê của bà Crawley, treo trên một cái giá trong phòng
rửa mặt) nhưng tôi ấy à, không bao giờ. ông Clump ạ, tôi e rằng, tôi tin rằng
người ốm kia cần sự giúp đỡ về tinh thần cũng không kém gì thuốc men đâu.
Đến đây,
ông Clump cương quyết bày tỏ ý kiến một cách ngọt ngào:
- Thưa bà,
điều tôi muốn bà lưu ý bà, khi bà đề cập đến những tình cảm đáng quý kia, tôi
nghĩ rằng bà đã lo lắng quá đáng về bệnh trạng của bà bạn quý, và đã phí phạm
sức khỏe một cách vô ích đấy.
Bà Bute
chặn ngay:
- Tôi rất
sẵn sàng hy sinh cả tính mệnh tôi để làm tròn nhiệm vụ, hoặc để mưu lợi ích cho
bất cứ người nào trong gia đình chồng tôi.
Ông Clump
lịch sự đáp:
- Thưa bà,
rất đúng, nếu cần thiết. Nhưng chúng tôi không muốn bà Bute Crawley phải là một
kẻ tử đạo. Bác sĩ Squills và tôi đã cẩn thận xét kỹ bệnh trạng của bà Crawley,
như bà đã rõ. Chúng tôi thấy bà ấy có vẻ buồn bã lo nghĩ vì những biến cố xảy
ra trong gia đình.
Bà Bute vội kêu
lên:
- Tại thằng cháu
trai của bà ấy hư hỏng quá đấy.
- Vì thế, bà ấy
sinh lo nghĩ. Và bà đã đến đây như một vị thần hộ mệnh để an ủi người bệnh
trong cơn khủng hoảng tinh thần. Nhưng bác sĩ Squills và tôi thấy rằng, xét
bệnh trạng của người ốm, không nên bắt ru rú mãi trong phòng. Như vậy có thể
làm cho sức khỏe càng giảm sút. Bà ấy cần được đổi không khí, được vui vẻ, đó
là những thang thuốc thần hiệu nhất đấy. (ông Clump cười để lộ ra bộ răng rất
đẹp). Bà hãy cố khuyên bà Crawley đi lại, đừng nằm một chỗ mãi, ảnh hưởng đến
tinh thần; lên ngay xe ngựa đi chơi đây đó đôi chút và, xin bà cho phép tôi
được nói như thế này, như vậy chính đôi má của bà cũng sẽ được hồng hào như cũ,
bà Bute Crawley ạ.
Bà Bute đáp (và
con mèo ích kỷ giấu kín trong bị thòi ngay cái đuôi ra) :
- Sợ bà ấy gặp
mặt thằng cháu trời đánh trong công viên mất. Họ mách tôi rằng nó giong xe đi
chơi tay đôi với cái con tòng phạm trơ trẽn. Như thế thì đến ốm lại vì xúc động
ông Clump ạ, không thể đưa bà ấy đi chơi được, tôi còn ở đây trông nom thì
không thể để bà ấy đi đâu được. Còn như sức khỏe của tôi ấy à? Thưa ông, tôi
vui lòng hy sinh hết vì nhiệm vụ.
Ông Clump bèn nói
thẳng:
- Vậy tôi xin nói
thực, nếu cứ giam mãi bà ấy trong buồng tối thì chúng tôi không chịu trách
nhiệm về tính mạng của người ốm đâu. Bà ấy đang lo nghĩ quá nhiều, không chừng
chỉ ít ngày nữa là đi đứt. Nếu bà mong cho đại úy Crawley được hưởng gia tài
thì, thưa bà tôi xin nói thẳng rằng bà đã giúp ông ấy rất đắc lực đấy.
Bà Bute kêu lên:
- Trời đất ơi? Bà
ấy sắp chết à. Sao ông không cho tôi biết sớm hơn?
Đêm hôm trước,
ông Clump và bác sĩ Squills đã hội ý với nhau về bệnh tình của bà Crawley trong
khi ngồi uống rượu trong nhà ông Lapin Warren, có bà vợ sắp sinh đứa con thứ
ba, Bác sĩ Squills nhận xét:
- Này ông Clump,
cái con mụ ở Hamshire đến thật là một con quỷ cái. Nó muốn cứ giữ rịt lấy mụ
già Tilly Crawley thôi...Rượu ngon tuyệt nhỉ.
Ông Clump đáp:
- Cái thằng
Rawdon Crawley mới ngu chứ, đi lấy một con bé dạy trẻ làm vợ? Nhưng kể ra con
bé trông cũng kháu.
Bác sĩ Squills
nói:
- Mắt biếc, da
nõn nà, mặt xinh, trán nở, đẹp. Trông ra gì đấy chứ, nhưng cái thằng Crawley
cũng ngu thật.
Ông bào chế tán
thành:
- Ngu bỏ mẹ đi
ấy.
- Dĩ nhiên bà lão
sẽ cắt phần gia tài của hắn.
Ngừng một lát,
ông nói tiếp:
- Bà lão sẽ để
lại một gia tài lớn đấy nhỉ?
Ông Clump cười:
- Lớn lắm! Tôi
chỉ mong bà ấy không chết để chém mỗi năm hai trăm đồng thôi.
- Nội hai tháng
nữa, thế nào con mụ ở Hamshire kia cũng giết chết bà lão, nếu ông không can
thiệp, ông Clump ạ. Bệnh già, lại bội thực, rồi lo nghĩ; tim đập mạnh lắm; mắc
chứng xung huyết não; thế là tiêu. Clump, phải dựng bà ấy dậy, lôi bà ấy ra ngoài.
Nếu không, chỉ vài tuần nữa thì đừng có hy vọng gì xoay được mỗi năm hai trăm
đồng.
Lời khuyến khích
trên đã khiến ông thầy bào chế thẳng thắn bày tỏ ý kiến của mình với bà Bute
Crawley.
Nắm chặt bà già
trong tay, lại chỉ có hai người với nhau, nhiều lần bà Bute đã tấn công xui bà
Crawley chữa lại tờ di chúc; nhưng cứ mỗi khi nghe nhắc đến chuyện ấy, bà
Crawley lại cuống cuồng lo chết; thành ra bà Bute đành chờ đến khi nào bà
Crawley vui vẻ sẽ lại đả động đến vấn đề kia. Nhưng đưa bà ấy đi chơi đâu bây
giờ? Chỉ có một chỗ yên trí sẽ không gặp mặt cái thằng Rawdon đáng ghét kia, đó
là đi nhà thờ; nhưng bà Crawley lại không ưa gì nhà thờ, bà Bute biết rõ điều
ấy quá. Bà nghĩ: “Ta phải đi thăm những vùng ngoại ô thành Luân-đôn mới được.
Nghe nói đó là những thắng cảnh đẹp nhất trần đời”. Thế là tự bà đâm ra yêu
những khu Hampstead, Hornsey; thấy phong cảnh khu Dulwich rất hấp dẫn, thế là
bà đưa nạn nhân của mình lên xe ngựa đi thăm những vùng quê ấy; vừa đi chơi bà
vừa nói chuyện về hai vợ chồng Rawdon, cốt mọi cơ hội làm cho bà lão thêm căm
ghét đôi trai gái hư đốn ấy.
Có nhẽ tại bà
Bute làm găng quá; vì thế, tuy bà Bute đạt được kết quả khiến cho bà cô thù
ghét đứa cháu không biết vâng lời, thì trong thâm tâm bà Crawley cũng cảm thấy
khó chịu: bà ghê sợ con người đang hành hạ mình, và đang tìm cách thoát khỏi
tay bà Bute. Được ít hôm, bà Crawley nhất định không chịu đi chơi ở Hornsey và
Highgate; bà muốn ra công viên chơi. Bà Bute chỉ sợ chạm trán với thằng cháu
Rawdon hư đốn ở đó. Quả nhiên bà lo là đúng.
Một buổi thấy
chiếc xe ngựa của Rawdon đằng xa chạy lại Rebecca ngồi cạnh chồng. Trên xe ngựa
của kẻ thù, bà Crawley vẫn ngồi chỗ mọi khi, bà Bute ngồi bên tay trái. Bà
Briggs ngồi ở ghế sau với con chó. Giờ phút gay go đã đến. Rebecca nhận ra
chiếc xe, tim đập thình thịch. Lúc hai xe gặp nhau, cô ta chắp hai bàn tay lại,
nhìn thẳng vào bà già, nét mặt đầy vẻ gắn bó và trung thành. Rawdon cũng run
lẩy bẩy, mặt đỏ bừng lên sau bộ ria mép. Người duy nhất bị xúc động trên chiếc
xe kia là bà Briggs; bà này giương đôi mắt to tướng nhìn về phía hai bà bạn.
Nhưng bà Crawley vẫn nhất định quay mũ về phía con người xảo quyệt còn bà Bute
thì đang mải mê nựng con chó con, gọi nó nào là cún ngoan, cún yêu, cún quý của
bà. Thế là hai chiếc xe đi về hai phía.
Rawdon bảo vợ:
- Hỏng bét rồi!
Rebecca đáp:
- Anh Rawdon, ta
cố một lần nữa xem sao. Anh không thể cho bánh xe của mình móc vào bánh xe kia
được ư, anh yêu dấu của em?
Rawdon không đủ
can đảm làm thế. Lúc hai xe lại gặp nhau, anh ta đứng hẳn dậy trên xe, giơ tay
sẵn sàng ngả mũ chào, mắt chăm chăm ngó sang. Lần này bà Crawley không quay đi
chỗ khác, nhưng cả bà và bà Bute cùng nhìn thẳng vào mặt anh cháu như nhìn
người không quen.
Crawley văng tục
một câu, ngồi phịch xuống ghế, đánh xe ra khỏi công viên về nhà, vô cùng chán
nản.
Bà Bute đã
thắng một trận vẻ vang quyết định. Nhưng bà cũng cảm thấy những cuộc gặp gỡ như
vậy rất nguy hiểm, vì rõ ràng bà Crawley có vẻ bị xúc động. Bà quyết định rằng
để đảm bảo sức khỏe, bà em chồng nhất định phải rời thành phố xa ít lâu, và
nhất định đòi đi Brighton.
Chương 20
ĐẠI ÚY
DOBBIN ĐÓNG VAI SỨ GIẢ CỦA ÔNG TƠ HỒNG
Tự nhiên
đại úy Dobbin thấy mình trở thành người thu xếp lo liệu việc nhân duyên giữa
George Osborne và Amelia. Không có anh ta, mối duyên khó lòng thành tựu. Anh ta
mỉm cười chua chát mà nghĩ thầm rằng trên đời này, kẻ duy nhất phải lo lắng
việc ấy lại chính là mình. Tuy việc thu xếp sắp đặt cho hai bên trai gái đối
với đại úy Dobbin là một việc khổ tâm nhất, nhưng anh vẫn có thói quen không
ngần ngại, không phàn nàn, cứ thực hiện bằng được nhiệm vụ của mình. Anh ta lại
yên trí rằng, nếu Amelia không lấy được Osborne, thế nào cô cũng đến chết vì
thất vọng; anh ta quyết định phải cứu sống cô bằng được.
Tôi không
dám đi vào chi tiết tỷ mỉ của cuộc gặp gỡ giữa Amelia và George khi nhờ có anh
bạn thực thà Dobbin can thiệp, George lại được dẫn trở về dưới chân (mà sao tôi
lại không dám nói là trong cánh tay) của cô ý trung nhân trẻ tuổi. Nhìn thấy bộ
mặt xinh đẹp như thế mà bị nỗi lo âu thất vọng tàn phá, giày vò thê thảm, và
nghe Amelia kể lại câu chuyện đau lòng bằng những lời giản dị ngọt ngào, kẻ sắt
đá hơn George cũng phải cảm động đến phát khóc ấy chứ. Lúc bà mẹ run run dắt
Osborne lại gần, Amelia không ngất đi, chỉ làm dịu bớt cơn sầu muộn bằng cách
ngả đầu vào vai người yêu, rồi thút thít khóc. Bà già Sedley vừa lòng quá, bà
nghĩ rằng bây giờ là lúc nên để cho đôi trẻ được tự do. Emmy hôn tay người yêu,
nước mắt rỏ xuống ướt đầm, dường như George là ông chúa, còn chính cô thì đang
cầu xin người yêu tha thứ ban ơn vì cô đã phạm tội gì ghê gớm.
George
Osborne lấy làm cảm động và cũng thấy thinh thích trước cử chỉ phục tùng tuyệt
đối của người yêu. Anh ta cảm thấy người con gái trung thành, dịu hiền, giản dị
này đã là kẻ nô lệ của mình; biết mình có quyền lực, George ta cũng thấy tâm
hồn mình rung động. Như một ông chúa ở các nước phương đông, anh ta cảm thấy
mình rộng lượng, rất có thể cúi xuống nhấc cô Esther() này đang phủ phục dưới
chân mình dậy, đặt lên ngai vàng phong làm hoàng hậu. Không những thế, sắc đẹp
ủ dột của cô càng khiến George cảm động nhiều hơn. Cho nên anh ta nâng người
yêu dậy và tha thứ cho cô, tạm gọi như thế. Mọi niềm hy vọng và tình cảm của
Amelia thì như một bông hoa thiếu ánh sáng, sắc tàn, hương phai, cánh héo, giờ
được mặt trời soi đến, lại tươi mơn mởn đầy nhựa sống. Trên nét mặt rạng rỡ của
cô hôm nay, không còn nhận được ra vết tích của khuôn mặt nhợt nhạt, âu sầu
trằn trọc trên gối đêm qua, khi Amelia không hề chú ý đến bất cứ vật gì xung
quanh. Chị hầu gái người Ai len thấy cô thay đổi như vậy cũng vui lây, xin được
hôn một cái vào đôi má đột nhiên trở lại hồng hào như xưa. Amelia vòng tay ôm
lấy cổ chị ta và như một đứa trẻ, cô hôn chị hầu gái một cái thật nồng nàn ;
Amelia vẫn trẻ con lắm. Đêm hôm ấy, cô thiếu nữ ngủ một giấc êm đềm lại sức.
Hôm sau, trong ánh nắng sớm, cô thức dậy, khuôn mặt rạng rỡ hạnh phúc. Cô nghĩ
thầm: - Hôm nay, thế nào anh ấy cũng đến. Trong đời, không có ai cao quý được
bằng anh ấy.
Thì chính
George cũng đang nghĩ rằng mình là con người rộng lượng nhất thiên hạ, và nếu
mình cưới cô thiếu nữ này làm vợ, tức là đã chịu một sự hy sinh ghê gớm lắm.
Trong lúc
Amelia và Osborne đang tỷ tê trò chuyện tay đôi với nhau ở trên gác, thì ở dưới
nhà bà cụ Sedley cũng đang cùng đại úy Dobbin bàn tán về câu chuyện của hai
người, xem nên thu xếp việc hôn nhân của đôi trẻ thế nào cho tiện. Quả là một
người đàn bà thực sự, sau khi cho đôi trẻ gặp nhau, bà Sedley đích thân cho
phép hai người thả sức hôn nhau đằm thắm; nhưng bà hiểu tính chồng, biết rằng
không khi nào ông Sedley chịu gả con gái cho con trai kẻ đã đối xử với ông một
cách hèn hạ đê tiện, đáng khinh như thế. Bà cụ kể lại tỷ mỉ những câu chuyện
cũ, hồi gia đình bà làm ăn còn phát đạt... trong khi ông Osborne vẫn sống rất
khổ cực trong một căn nhà ở Phố Mới. Một lần bà Osborne sinh con, bà Sedley gửi
cho những quần áo của Joe mặc thừa; bà bạn nhận món quà mà sung sướng quá. Bà
tin rằng chồng mình rất đau khổ trước thái độ vô ơn quái gở của con người kia,
hẳn không khi nào ông ưng thuận cho hai trẻ lấy nhau, chắc chắn không khi nào.
Dobbin cười nói:
- Thưa bà,
vậy thì họ chỉ có một cách là đi trốn, bắt chước đại úy Rawdon Crawley và cô
giáo dạy trẻ bạn của Emmy vậy.
- Cái gì?
Có thể nào như thế được? Không bao giờ.
Bà cụ
Sedley nghe nói bối rối quá. Ước gì bà Blenkinsop có mặt ở đây mà nghe chuyện
nhỉ. Bà Blenkinsop vẫn không ưa gì cô Sharp... May quá, Joe không rơi vào tay
cô ta; và bà kể lại câu chuyện tình duyên mới bén giữa Rebecca và anh chàng ủy
viên tài phán quận Boggley Wollah.
Dobbin
không sợ ông cụ Sedley giận dữ bằng ông bố của George. Anh ta công nhận rằng
mình rất nghi ngại về thái độ của vị sa hoàng lông mày rậm tức là nhà đại
thương gia ở khu phố Russell. Dobbin nghĩ thầm: “Ông lão đã dứt khoát phản đối
cuộc hôn nhân rồi”. Anh ta biết tính Osborne rất cương quyết, đã định là làm.
Anh suy tính: “George chỉ còn một hy vọng duy nhất là sẽ lập nên chiến công
trong cuộc chiến tranh sắp nổ ra để cha tha thứ. Nếu anh ta chết, cô ấy cũng
không sống được! Nghe nói anh ta có một ít tiền mẹ chết để lại cho... có thể
mua được một chân thiếu tá, cũng có thể bán lại cái lon đại úy, di cư sang
Canada làm ăn, hoặc yên trí về quê sống trong một túp lều tranh mà làm ruộng
cũng ổn. Dobbin thầm nghĩ có cô vợ như thế thì đến cùng trời cuối biển cũng
không sao; giá có phải đi Siberia cũng cứ vui như thường. Có điều lạ là anh
chàng mộc mạc, dại dột này không hề nghĩ rằng nếu thiếu điều kiện để cưỡi một
chiếc xe ngựa đẹp, hoặc kém số thu hoạch không thết đãi được bạn bè cho sang
trọng, thì cuộc hôn nhân giữa Giorbgiơ và cô Sedley cũng rất có thể bị gàn
quải.
Chính vì
suy tính như thế, nên Dobbin thấy cần mau chóng thu xếp cuộc nhân duyên cho
xong, càng sớm càng hay. Không biết có phải anh ta muốn công việc kết thúc
nhanh cũng như người ta thường muốn lo liệu việc tang ma cho sớm chu tất khi
trong nhà có người chết, hoặc khi bắt buộc phải chia ly với ai thì mong cho giờ
chia tay mau tới? Chỉ biết rằng Dobbin hết sức quan tâm săn sóc đến việc hôn
nhân của bạn. Anh khuyên bạn nên hành động ngay, lại gợi ý cho bạn rằng, nếu
trên mặt báo có đăng tin George được thăng thưởng, sẽ có nhiều hy vọng là được
ông bố tha thứ chuyện cũ. Nếu cần, Dobbin tình nguyện đích thân đến giáp mặt cả
hai bên cha mẹ để lo liệu công việc. Tóm lại, Dobbin khuyên bạn nên giải quyết
mọi việc trước khi lệnh xuất phát ban hành, vì ai cũng thấy rõ trung đoàn thế
nào cũng được lệnh rời nước Anh ra chiến đấu ở ngoại quốc.
Bà Sedley
rất tán thành ý kiến của Dobbin; bà cũng không ngại vì vậy mà xích mích với ông
chồng. Tính toán đâu vào đấy, Dobbin tìm đến gặp ông John Sedley tại quán
cà-phê Tapioca; từ khi những văn phòng riêng bị đóng cửa, ông lão vẫn lấy nơi
này làm chỗ viết và nhận mọi thứ giấy tờ, ông cụ thường gói tất cả giấy tờ lại
thành những bọc bí mật, thu thu trong vạt áo choàng mang đi. Không có cái gì bi
đát hơn là những cuộc vận động, những sự thu xếp đầy bí ẩn của một kẻ bị phá
sản. Những lá thư ký tên những người giầu có, những tờ giấy dính nhờn mồ hôi
toàn những lời an ủi, hoặc hứa hẹn giúp đỡ mà ông lão đặt biết bao hy vọng vào
đó. Trong cuộc sống, bạn đọc thân mến hẳn đã có lần gặp một người bạn không may
như thế. Anh ta kéo bạn ra một góc nhà, lôi trong túi áo một bọc giấy má, cởi
nút buộc, răng vẫn còn cắn một đầu dây vội vã giơ cho bạn xem một lá thư chờ
đợi đã bao lâu nay vừa nhận được; và bạn quên sao được đôi mắt tha thiết buồn
rầu tuyệt vọng của anh ta chăm chú nhìn bạn?
Dobbin đã
nhìn thấy ông John Sedley, con người giầu có vui vẻ yêu đời xưa kia, bây giờ
trở thành như vậy đấy. Bộ áo trước kia lúc nào cũng mới nguyên, bây giờ bạc
phếch, sờn rách, trơ các khuy bằng đồng ra. Bộ mặt già xọm đi, râu ria mọc tua
tủa. Chiếc cổ áo và chiếc cà vạt nhầu nát rũ rượi rủ xuống chiếc gi-lê đã trở
thành quá rộng. Ngày trước, mỗi khi thết đãi George và Dobbin ở tiệm cà phê,
ông lão thường vui vẻ cười nói ầm ĩ hơn tất cả mọi người; bọn hầu bàn hay xúm
xít quanh ông. Bây giờ trông ông lão ngồi thu mình một cách tối tăm trong quán
Tapiôca mà thảm quá. Một bác hầu bàn có tuổi mắt lờ đờ đứng cạnh; bác ta đi đôi
tất bẩn thỉu, xỏ vào một đôi giầy há mõm, công việc của bác ta là đưa xi gắn
thư, đưa mực đựng trong cái lọ bằng chì, và giấy cho khách. Trong quán nước
tiêu điều này, hình như khách chỉ dùng có ngần ấy thứ. Hồi Dobbin còn nhỏ, ông
già Sedley vẫn thường cho tiền ăn quà, sau này nhiều khi ông vẫn ưa đem anh ta
ra giễu cợt cho vui; nhưng bây giờ gặp lại, ông già dè dặt chìa tay ra bắt, có
vẻ hơi khúm núm, và gọi anh ta bằng “ngài”. Thấy ông lão tiếp đãi và xưng hô
như thế, William Dobbin cảm thấy ngường ngượng và hối hận, y như chính mình có
tội trong việc ông Sedley phải hạ mình vì bị phá sản như vậy.
- Thưa ngài
đại úy Dobbin, rất vui mừng được gặp ngài.
Ông lão
buồn rầu nhìn anh nói vậy. Vóc dáng gày gò và bộ quân phục của Dobbin khiến cho
đôi mắt lờ đờ của bác hầu bàn sáng lên vì tò mò, và người đàn bà mặc áo đen
đang ngồi ngủ gật giữa đống chai cốc cũng như choàng tỉnh dậy.
- Cụ cố vấn
nhà ta và phu nhân sinh ra ngài có được mạnh khỏe không?
Vừa nói
tiếng “phu nhân”, ông lão vừa quay ra nhìn bác hầu bàn như muốn thanh minh rằng
“John, anh thấy không, tôi vẫn còn có bè bạn trong giới thượng lưu đấy”.
- Ngài định
yêu cầu tôi việc gì hẳn? Hai ông bạn trẻ của tôi, ông Dale và ông Spiggot bây
giờ thay mặt tôi điều khiển mọi công việc cho tới khi nào tôi thiết lập văn
phòng mới. Thưa đại úy, ngài hiểu cho rằng tôi chỉ làm việc tại đây tạm thời.
Tôi có thể giúp ngài điều gì nhỉ? Ngài dùng chút gì chăng?
Dobbin ngần
ngại đáp rằng mình không thấy đói, không khát, cũng không có việc làm ăn gì cần
điều đình, chỉ muốn đến hỏi thăm sức khỏe của ông Sedley và bắt tay với ông bạn
già, thế thôi. Anh ta nói tiếp, hoàn toàn không đúng sự thật:
- Bà cụ tôi
vẫn mạnh... nghĩa là vừa ốm khỏi. Mẹ tôi định hôm nào đẹp trời thì sang thăm cụ
bà Sedley bên nhà. Cụ bà hồi này thế nào, vẫn khỏe mạnh chứ thưa cụ?
Anh ta
ngừng lại, ngẫm nghĩ về câu nói giả dối của mình, bởi vì chính ngày hôm ấy trời
đang rất đẹp, nắng chan hòa rực rỡ. Dobbin nhớ rằng mới cách đây một tiếng đồng
hồ, anh ta vừa gặp bà Sedley xong, vì anh ta đánh xe đưa Osborne đến phố
Fullham rồi về trước để bạn lại ở trò chuyện với Amelia. Ông Sedley rút bọc
giấy má ra, đáp:
- Bà nhà
tôi rất sung sướng được gặp phu nhân nhà ta. Tôi vừa tiếp được lá thư của cụ
thân sinh ra ngài, chúc cụ luôn vui mạnh. Dobbin phu nhân sẽ thấy bây giờ nhà
của chúng tôi chật chội lắm, không được như xưa đâu, nhưng cũng ấm cúng; kể
thay đổi không khí một chút thì sức khỏe của con gái tôi cũng khá hơn; nó ở
thành phố không hợp lắm... ngài còn nhớ con bé Emmy không nhỉ?...Vâng, dạo này
nó yếu lắm.
Ông lão vừa
nói vừa nhìn quanh quất, có vẻ lơ đãng, mấy ngón tay gõ nhịp trên tập giấy,
loay hoay với sợi dây đỏ buộc gói giấy má. Ông tiếp:
- Ngài là
một nhà quân sự. Vậy xin hỏi ngài có ai ngờ rằng cái thằng dân đảo Corse chó đẻ
kia lại trốn khỏi đảo Elba mà về được không? Ngài nghĩ xem, năm ngoái, khi các
vị hoàng đế châu Âu họp mặt ở đây, cái hồi chúng ta có thết tiệc các vị ở khu
City ấy, rồi xem tòa kỷ niệm Đoàn kết, xem đốt pháo bông, xem chiếc cầu xây
theo lối Trung Quốc ở công viên St.James, thì có ai điên rồ mà không tin rằng
chiến tranh đã thực sự chấm dứt? Mà chúng ta đã hát bài “Te Deum” cầu nguyện
rồi kia mà? William, tôi xin hỏi ngài rằng có ai ngờ hoàng đế nước Áo lại là
một tên phản bội... một tên phản bội không hơn không kém? Tôi cứ gọi đúng tên,
hắn chỉ là một thằng phản bội, sấp mặt, xảo quyệt. Tôi tin rằng việc Bonaparte
trốn thoát khỏi đảo Elba là do một âm mưu khốn nạn; và một nửa số cường quốc ở
Âu Châu đã nhúng tay vào, cốt để hạ giá thực lợi và làm cho nước ta phá sản.
Chính vì vậy mà tên tôi bị bêu trên mặt báo “Tin tức”. Ngài xem... chính vì tôi
tin tưởng vào hoàng đế nước Nga, và Hoàng tử nhiếp chính của ta. Ngài nhìn xem
giấy má của tôi đây. Ngày mùng một tháng ba, giá cổ phiếu là ngần này... lúc ấy
tôi mua cổ phiếu của Pháp chịu lãi năm phần trăm. Bây giờ mất sạch. Thưa ngài,
nhất định phải có âm mưu, nếu không thằng khốn nạn ấy trốn về sao được. Viên
cao ủy người Anh đã để nó trốn thoát đâu rồi. Phải bắn lão ta mới được... phải
đem ra tòa án binh xử, và bắn; lạy Chúa.
- Thưa cụ,
chúng ta sắp săn được Bonaparte rồi…
Dobbin thấy
ông lão giận dữ cũng hơi hoảng. Những mạch máu trên trán ông già nổi lên chằn
chặn; ông lão đấm tay thình thình xuống bó giấy.
- Chúng ta
sắp đuổi cổ được hắn. Đạo quân của Quận công hiện đã sang Bỉ. Chúng tôi cũng
đang đợi lệnh xuất phát.
Ông Sedley
gầm lên:
- Đừng cho
nó đầu hàng. Phải chém đầu nó mang về, thưa ngài. Bắn cho nó chết, thưa ngài.
Tôi cũng muốn tình nguyện ra trận...nhưng tôi già yếu quá rồi...tôi bị phá sản
vì cái thằng chó má ấy...và vì cả một bọn lừa đảo đang nghênh ngang xe ngựa mà
chính tôi đã giúp chúng mở mày mở mặt.
Giọng nói
của ông lão nghẹn ngào. Thấy ông già gần như phát điên vì cơn tai họa giận dữ
gào thét. Dobbin không khỏi mủi lòng. Ôi, xin các bạn hãy thương lấy con người
sang trọng bị sa sút kia, vì trong Hội chợ phù hoa này, bạn cũng như họ, cũng
chỉ có tiền bạc và tiếng tăm là của cải duy nhất. Ông lão tiếp:
- Đúng lắm,
tôi đã ấp ủ những con rắn độc để chúng quay lại cắn tôi. Tôi đã đặt mấy thằng
ăn mày lên lưng ngựa để chúng xô ngã chính tôi xuống đường. William Dobbin,
chắc ông biết tôi định nói ai chứ. Tức là cái thằng trọc phú khốn nạn ở khu phố
Russell ấy; hồi tôi biết nó, nó không có lấy một xu dính túi. Bây giờ tôi chỉ
cầu mong cho nó lại nghèo đi như một thằng ăn mày giống như cái hồi tôi mới dám
đánh bạn với nó.
Dobbin lo
lắng đi ngay vào vấn đề:
- Thưa cụ,
tôi cũng đã nghe anh George bạn tôi nói qua về chuyện ấy. Việc xích mích giữa
cụ và ông thân sinh ra George khiến anh ấy rất khổ tâm. George nhờ tôi đến thưa
cùng cụ một câu chuyện.
Ông già
đứng phắt dậy, kêu lên:
- Ồ ông đến
nói hộ nó? Thế nào, nó gửi lời hỏi thăm tôi thật à? Thế thì nó tốt quá đấy, cái
thằng kiêu ngạo khệnh khạng, cái thằng công tử bột, cái thằng ba hoa ở West
End. Nó còn định lảng vảng đến nhà tôi phỏng. Thằng con trai tôi nếu xứng đáng
là người thì phải cho nó một phát đạn. Bố con nó khốn nạn không kém gì nhau.
Không bao giờ tôi còn muốn nghe nhắc đến tên nó trong gia đình tôi. Tôi nguyền
rủa cái ngày tôi để cho nó bước chân vào trong nhà. Thà con tôi chết ngay trước
mặt tôi còn hơn lấy nó làm chồng.
- Thưa cụ,
cha George xử tệ, đâu có phải lỗi tại anh ta? Cô Amelia yêu anh ấy cũng là do
cụ một phần. Sao cụ nỡ chơi đùa với tình cảm của họ, và tự ý đang tay phá vỡ
hạnh phúc của họ?
Ông Sedley
kêu lên:
- Ông hãy
nhớ cho rằng không phải là bố nó cắt đứt cuộc nhân duyên này đâu nhé. Chính tôi
cấm chúng nó lấy nhau đấy. Gia đình tôi và nhà ấy vĩnh viễn không nhìn thấy mặt
nhau nữa đâu. Tôi bị sa sút thật... nhưng không đến nỗi hèn hạ quá như thế...
Nhờ ông bảo vào mặt cả bọn chúng...cả bố con chị em nhà chúng nó như thế hộ.
Dobbin đáp
khẽ:
- Thưa cụ,
theo tôi nghĩ thì cụ không thể, cũng không có quyền chia rẽ họ. Nếu cụ không
cho phép, tôi thấy Amelia có nhiệm vụ lập gia đình không cần có sự đồng ý của
cụ. Không có lý gì vì cụ nghĩ quẩn mà cô ấy phải chết, hoặc có sống cũng khổ sở
cực nhục. Theo ý tôi, như vậy cô ấy cũng coi được như đã cưới xin đầy đủ rồi.
Vả chăng đối với những lời ông Osborne nhục mạ cụ, còn có câu trả lời nào hay
hơn là chính con trai ông ấy lấy việc được làm rể cụ là một vinh dự?
Nghe lý
luận như vậy, trong mắt ông già Sedley thấy thoáng hiện cái gì như một sự hài
lòng. Song ông lão vẫn cứ khăng khăng một mực không thuận cho George và Amelia
lấy nhau.
Dobbin mỉm
cười nói:
- Vậy thì
chúng tôi xin cứ tự tiện làm, dù không có sự ưng thuận của cụ.
Và anh ta
kể lại chuyện Rebecca đi trốn cùng đại úy Crawley cho ông lão nghe, như đã kể
cho bà Sedley nghe ngày hôm trước. Ông già có vẻ thú vị. Ông ta buộc lại gói
giấy, đáp: “Mấy ông đại úy, các ông ghê gớm thật”. Trên môi ông già thoáng nở
một nụ cười. Bác hầu bàn mắt lờ đờ vừa bước vào thấy thế rất kinh ngạc, vì từ
trước đến giờ, bác chưa hề thấy ông Sedley vui vẻ như thế trong cái tiệm rượu
lúi xùi này. Có lẽ ông già được an ủi đôi chút, khi nghĩ rằng mình có thể trả miếng
kẻ thù một vố. Ông ta và Dobbin nói chuyện xong, chia tay nhau như một đôi bạn
thân thiết lắm.
*
George vừa
cười vừa nói:
- Chị anh
và em anh bảo rằng cô ta đeo những viên kim cương to bằng quả trứng chim bồ câu
một Đeo như thế chắc tôn thêm màu da lắm nhỉ. Quàng thứ trang sức ấy vào cổ
trông tha hồ mà lộng lẫy. Bộ tóc huyền của cô ta xoăn tít như tóc Sambo. Anh
dám cam đoan rằng khi vào Hoàng cung, cô ta đeo cả vòng mũi đấy; giá cắm thêm
mấy cái lông chim vào búi tóc thì đích thị là một “Mỹ nhân man rợ”().
George đang
chuyện trò với Amelia, anh ta giễu cợt một cô thiếu nữ mà cha và hai chị em gái
của anh ta mới làm quen, và tỏ vẻ rất kính nể. Người ta đồn cô gái này có không
biết bao nhiêu là đồn điền tại Tây Ấn, rất nhiều vốn liếng gửi ngân hàng, và
một số tiền lớn góp vào cổ phần của Công ty Đông Ấn Độ. Cô ta có một tòa nhà
lộng lẫy ở Surrey, một biệt thự ở quảng trường Portland.
Báo “Tin
tức buổi sáng” đăng tên người con gái triệu phú này và không ngớt lời tán tụng.
Bà Haggistoun, vợ đại tá Haggistoun đã quá cố, giữ vai trò “bạn tâm tình” của
cô này; bà ta quản lý tòa biệt thự. Cô thiếu nữ vừa rời khỏi nhà trường; George
cùng hai em vừa gặp cô ta tại một buổi dạ hội tổ chức tại nhà ông già Hulker
tại quảng trường Devonshire (Công ty Hulker và Bullock từ lâu vẫn có quan hệ
thư từ với gia đình cô ta ở Tây Ấn). Hai cô thiếu nữ săn đón làm quen ngay.
Cô gái
triệu phú cũng tỏ ra rất có cảm tình với họ. Hai cô thiếu nữ nhà Osborne thấy
rằng một người con gái mồ côi ở cương vị như cô ta...nhất là lại rất
giầu...thật đáng chú ý lắm lắm. Dự buổi dạ hội nhà Hulker về, hai cô chỉ luôn
mồm nói chuyện về người bạn mới quen với bà Wirt, người hầu cận. Hai chị em dự
định tiếp tục đi lại, ngay hôm sau cho đánh xe đến thăm cô bạn mới. Bà đại tá
quả phụ Haggistoun có họ với bá tước Binkie. Bà luôn mồm nhắc đến tên ông này,
và cho là hai cô gái dại dột này chơi trèo cứ hay nói đến những nhà tai mắt bà
ta quen biết. Nhưng cô Rhoda thì cũng là người đáng quý, rất thẳng thắn, ngọt
ngào, dịu dàng...tuy có kém phần lịch thiệp nhưng thật là tốt bụng. Mấy cô
thiếu nữ xưng hô thân mật với nhau ngay lập tức; Osborne cười, nói:
- Emmy, giá
em được trông thấy cô ta ăn mặc thế nào khi vào triều. Cô ta đến thăm chị gái
và em gái anh để khoe bộ áo, trước khi theo Binkie bá tước phu nhân, người có
bạn họ với bà Haggistoun, vào triều. Cô ta đeo kim cương sáng rực lên như đèn
hội ở Vauxhall trong cái đêm chúng mình đến chơi ấy. Em có nhớ cái đêm ở
Vauxhall anh Joe hát cho “cô em be bé xinh xinh” nghe không? Kim cương chọi với
gỗ đào-hoa-tâm (), em thử xem có nổi không. Lại còn mớ lông trắng gài trên mái
tóc đen nhánh nữa cơ chứ…Anh muốn nói là gài trên mớ len của ta ấy. Đôi hoa tai
thì to như hai cây đèn; có thể thắp lên được, lạy Chúa... và cái đuôi áo sa
tanh vàng quét lướt thướt sau lưng như cái đuôi sao chổi.
- Cô ấy bao
nhiêu tuổi, hả anh?
Emmy hỏi
George; cái buổi sáng ngày tái ngộ đầu tiên ấy anh chàng cứ liến thoắng kể
chuyện về cô thiếu nữ da không trắng này liến thoắng không ai theo kịp được.
- À, tuy
vừa rời khỏi nhà trường, nhưng cô công chúa đen ấy cũng phải ngót nghét hai
mươi hai, hai mươi ba rồi. Gớm, chữ cô ta viết mới tởm chứ! Thường thì bà đại
tá Haggistoun vẫn viết thư hộ, song trong những lúc thân mật cô ta cũng đích
thân viết thư cho Jane và Maria. Sa-tanh, cô ta viết là “sát-tin”, thánh James
thì viết thành thánh “Jam”!
- Thế thì
đúng là cô Swartz, cô bạn học nội trú của em rồi. Emmy nhớ ngay đến cô gái lai
da đen rất tốt bụng kia; khi Emmy từ biệt trường học của bà Pinkerton, cô này
rất xúc động, George đáp:
- Chính tên cô ta
đấy. Bố cô ta là một người Đức lai Do thái... Họ đồn rằng làm nghề buôn nô
lệ... giao du mật thiết với bọn mọi ăn thịt người. Ông bố chết năm ngoái, bà
Pinkerton hoàn thành việc giáo dục cho cô ta. Cô ấy chơi đàn dương cầm được hai
bài, biết hát ba bài; cũng có thể viết thư được, nếu có bà Haggistoun ngồi cạnh
đánh vần hộ; thế mà Jane và Maria đã quý cô ta như chị em ruột rồi đấy.
Emmy buồn rầu
đáp:
- Ứớc gì họ cũng
quý em như vậy? Họ đối với em lạnh nhạt quá.
George đáp:
- Em ơi, nếu em
có hai mươi vạn đồng hồi môn thì họ vồ vập em ngay. Họ vẫn quen được giáo dục
như vậy đấy. Gia đình anh quen sống trong một xã hội tiền trao cháo múc, giữa
những ông chủ ngân hàng, những nhà tài phiệt lớn ở khu City: bất cứ người nào
trong bọn họ nói chuyện với ai cũng phải xóc xóc cái túi cho tiền kêu sủng
xoảng. Trong đám này có một thằng đần độn tên là Fred Bullock sắp lấy Maria...
có lão Goldmore, giám đốc công ty Đông Ấn, có lão Dipley buôn sáp, nghề của gia
đình anh đấy- George đỏ mặt cười có vẻ hơi ngượng - Trời vật tất cả cái bọn chỉ
biết có tiền ấy đi! Ngồi ăn tiệc với chúng nó mà anh chỉ muốn ngáp ngủ. Phải dự
những buổi tiếp cái bọn khách ngu đần của cha anh mà anh phát ngượng lên. Emmy
ạ, anh đã quen sống với những người quý phái, những người lịch sự, anh thích
thế nào được cái bọn con buôn rửng của ấy. Người vợ yêu quý của anh ơi, em là
người đàn bà duy nhất trong cái giai cấp của chúng ta mà biết suy nghĩ, nói
năng và có dáng điệu của một bậc mệnh phụ, mà hết sức tự nhiên, vì em là một
thiên thần, không thể có các cử chỉ khác. Em đừng cãi; đích thực em là một mệnh
phụ duy nhất. Thì chính bà Crawley vẫn đi lại trong giới quý tộc Âu châu cũng
phải nhận thế cơ mà? Còn cái thằng Crawley trong đội Ngự lâm quân…quả đáng tội,
thằng ấy khá lắm. Anh rất phục nó dám lấy người con gái mà nó tự chọn đấy.
Amelia cũng rất kính phục Crawley vì chuyện ấy; cô tin rằng Rebecca sẽ có hạnh
phúc; cô vừa cười vừa tỏ ý hy vọng Joe sẽ quên mối tình cũ. Đôi tình nhân cứ
thế trò chuyện mặn mà với nhau, y như "ngày xưa" vậy. Bây giờ Amelia
rất yên tâm, mặc dù ngoài miệng cô tỏ ý ghen với cô Swartz; cô nói rằng chỉ sợ
George bỏ mình mà đi theo cô gái triệu phú với số vốn và cái gia sản ở Saint
Kitt ấy - cô bé chả thật thà tý nào - Nhưng thực ra cô đang sung sướng quá, chẳng
kịp lo lắng, ngờ vực, hiểu lầm gì hết. Lại được có George bên cạnh mình, cô
thiếu nữ cảm thấy không sợ bất cứ nỗi nguy hiểm gì, bất chấp, cả những cô gái
triệu phú hoặc những cô gái mỹ miều.
Buổi chiều, khi
đại úy Dobbin trở lại thăm họ - anh rất mến đôi tình nhân này - thấy Amelia như
trẻ lại anh ta cũng thấy lòng phấn khởi. Cô thiếu nữ lại nhí nhảnh vui cười,
lại chơi dương cầm và hát những bài hát cũ, bỗng nghe có tiếng chuông reo bên
ngoài báo ông Sedley đã ở khu City trở về. Amelia thôi hát và George nhận được
hiệu cũng vội lủi mất.
Sau khi mỉm
cười chào Dobbin - một nụ cười gần như giả dối, vì cô cho rằng anh chàng đến
chơi không đúng lúc - cô Sedley suốt buổi chẳng buồn nhớ rằng anh chàng có mặt
hay không nữa; nhưng Dobbin cũng rất vui lòng vì thấy Amelia sung sướng, càng
bằng lòng hơn vì thấy sự sung sướng ấy là do chính mình đem lại.
Chương 21
CÃI NHAU VÌ
MỘT CÔ GÁI TRIỆU PHÚ
Người ta
rất dễ yêu bất cứ cô gái nào có những đức tính như cô Swartz. Trông thấy cô gái
triệu phú, trong trí ông lão Osborne nảy ngay ra một giấc mơ to tát đầy tham
vọng. Ông ta sốt sắng và ngọt ngào khuyến khích hai cô con gái làm thân với cô
thiếu nữ giầu có; ông nói rằng, là một người cha, được thấy con mình biết chọn
bạn mà chơi như thế, ông rất hài lòng. Ông ta thường bảo cô Rhoda:
- Cô ạ, cô
sẽ không thấy ở ngôi nhà tầm thường này của chúng tôi ở khu phố Russell vẻ lộng
lẫy, bề thế, và những khách khứa sang trọng như cô quen gặp ở West End đâu. Hai
em nó quê kệch thực thà lắm, nhưng rất ngoan ngoãn, và rất mến cô: điều đó là
một vinh dự, đối với chúng nó... tôi nói rằng đó là một vinh dự. Tôi chỉ là một
thương gia giản dị, tầm thường... một người rất thật thà; không tin cô cứ hỏi
mấy ông bạn tôi trong công ty Hulker và Bullock mà xem; hồi còn mồ ma cụ ông
nhà ta, cụ vẫn thường có giao dịch đi lại. Cô sẽ thấy gia đình chúng tôi rất
hòa thuận, giản dị, hạnh phúc... và tôi nghĩ cũng có thể nói rằng rất được kính
nể…cô Rhoda ạ, cơm nước tầm thường, chủ nhà quê kệch, nhưng tấm tình thì rất
nồng nhiệt đấy…Cô Rhoda thân mến ơi, xin cho phép tôi nói như vậy vì tôi quý cô
lắm; thực tình là như thế, tôi quý cô lắm. Một cốc sâm banh! Hicks đâu, lấy một
cốc sâm-banh hầu cô Swartz đây!
Ai dám nghi
ngờ rằng ông già Osborne không tin lời nói của chính mình là thực tâm, và hai
cô con gái không yêu quý cô Rhoda thực sự? Trong Hội chợ phù hoa, người ta bám
lấy bọn có của một cách rất tự nhiên. Nếu những người có tâm hồn đơn giản nhất
thường quen nhìn sự thịnh vượng bằng con mắt có cảm tình (tôi thách người dân
Anh nào dám bảo rằng không thấy hai tiếng "giầu có" có ý nghĩa trang
trọng, nghe rất thú vị, và tôi thách cả bạn nữa, nếu người ngồi ăn cạnh bạn có
nửa triệu bạc, đố bạn không nhìn anh ta với đôi chút thiện cảm đấy)…Vậy nếu
người thường vẫn có cảm tình với đồng tiền thì những con người ưa phù hoa còn
thiết tha với nó đến đâu? Thiện cảm của họ xổ ra vồ vập chào đón đồng tiền.
Đồng tiền làm thức tỉnh nơi họ bao tình cảm mặn mà đối với người có của đáng
yêu. Tôi biết một số người không chịu cho phép mình tự do chiếu cố giao thiệp
với những kẻ không có chút thế lực địa vị gì trong xã hội. Họ chỉ chịu thả tình
cảm của họ ra trong những cơ hội tốt. Chứng cớ là hầu hết những người trong gia
đình Osborne suốt mười lăm năm nay không thể sao thân mật được với Amelia
Sedley, thế mà chỉ qua một buổi tối, họ đã say mê cô Swartz được đến như vậy,
quả là một thí dụ rất lãng mạn về hiện tượng "bị thu mất hồn".
Cô chị cùng
cô em gái và bà Wirt bàn nhau:
- Đám ấy
xứng với anh George quá nhỉ. Cái cô Amelia vô duyên kia cắn gót không đáng! Đẹp
trai như anh ấy, dáng điệu lại hiên ngang rắn rỏi, có địa vị, nhiều đức tính,
thật là người chồng xứng đáng của cô ấy.
Hai chị em
mơ màng với những ảo tưởng quay cuồng trong óc, nào là được dự những buổi dạ
hội ở Quảng trường Portland, được vào chầu trong Hoàng cung, nào là được giới
thiệu với các bậc vương công. Suốt ngày họ chỉ nói chuyện với cô bạn mới đáng
yêu này về George và những chỗ bè bạn có tăm tiếng của ông anh trai.
Ông già
Osborne cũng thấy đám này xứng đáng với con trai mình quá. Con ông sẽ xin giải
ngữ, sẽ vào Quốc hội, sẽ trở thành một nhân vật có tiếng tăm, có quyền thế. Máu
ông ta đã sôi lên với một vẻ hào hứng thành thực kiểu Anh; ông đã vội nhìn thấy
con trai ông biến cái tên Osborne thành tên một gia đình quý tộc, và rất có thể
con trai ông sẽ mở đầu cho một dòng dõi toàn những vị nam tước danh giá. Ông
hết sức dò hỏi ở khu City và ở Phòng Hối đoái, kỳ cho biết rõ được mọi chuyện
liên quan đến tài sản của cô gái triệu phú, nào là số tiền cô gửi ngân hàng thế
nào, nào là tài sản của cô ở đâu. Người cung cấp nhiều tin tức nhất cho ông ta
là anh chàng Fred Bullock; anh chàng cũng đang thèm món bở này (chính mồm anh
ta nói ra như vậy) ; nhưng anh ta lại trót đính hôn với Maria Osborne mất rồi.
Song, tuy không lấy được cô gái làm vợ mình, anh chàng Fred vô tư ấy cũng hoàn
toàn tán thành muốn cô kia trở thành vợ của anh vợ mình. Anh ta mách nước:
“George phải tấn công trước và phải chiếm ngay trái tim cô ấy, "lấy vợ thì
cưới liền tay"()…Bây giờ cô ấy mới chân ướt chân ráo về kinh đô, phải tấn
công ngay; nếu không, chỉ vài tuần nữa, lỡ có thằng nào ở West End mang cái
danh vị quý tộc mò về đây mà câu cô ta thì nó đá đít bọn dân City chúng mình
mất; năm ngoái bá tước Fitzrufus nẫng cô Grogram như vậy đấy; bấy giờ cô ta
đang đính ước với thằng Podder nhà Podder và Brown. Ông ạ, càng nhanh tay, càng
tốt; con nghĩ thế đấy.
Lúc ông già
Osborne đã ra khỏi phòng khách của nhà ngân hàng, anh chàng Bullock mới sực nhớ
đến Amelia, mới nghĩ ra rằng cô ta xinh quá, và cũng gắn bó với Osborne thiết
tha quá. Và anh ta cũng có bỏ ra ít nhất là mười giây quý báu của mình để
thương hại cho cô thiếu nữ không may gặp tai họa.
Trong khi
Osborne được Dobbin, người bạn và là vị thần hộ mệnh của mình, thức tỉnh những
tình cảm đáng quý, đang quay về với Amelia thì ông bố và hai cô con gái cũng
đang tính toán việc vợ con cho anh như vậy; họ yên trí đời nào anh ta cưỡng
lại.
Một khi ông
già Osborne làm cái việc mà ông gọi là “gợi ý” thì người ngu si nhất cũng phải
hiểu ông muốn nói gì. Đá một anh hầu ngã lộn xuống cầu thang, như thế ông ta
gọi là “gợi ý” cho anh hầu xin thôi việc. Vốn tính bộc trực, quen lối tế nhị
riêng của mình, ông ta bảo bà Haggistoun rằng đúng ngày con trai ông cưới cô
Rhoda làm vợ, ông sẽ biếu ngay bà này một tờ ngân phiếu năm ngàn đồng; ông cũng
gọi như thế là “gợi ý”, và tự cho đó là một thủ đoạn ngoại giao hết sức khôn
khéo. Cuối cùng, ông lão cũng đã “gợi ý” cho George về cô thiếu nữ triệu phú,
nghĩa là ra lệnh cho anh chàng phải lập tức cưới ngay cô ta, không khác gì ông
sai bác quản lý mở nút một chai rượu, hoặc ra lệnh cho người thư ký thảo một lá
thư.
Nghe ông bố
“gợi ý” như vậy, George hết sức bối rối.
Anh ta đang
say sưa trong mối duyên rất đằm thắm vừa nối lại với Amelia ; mối tình êm đềm
biết bao. So sánh hình dáng và cử chỉ của người yêu với cô gái triệu phú, anh
ta thấy khác nhau một trời một vực, là càng thấy câu chuyện cưới cô này làm vợ
là quái gở và tức cười. Anh chàng nghĩ thầm: “Cứ tưởng tượng mọi người trông
thấy mình đi xe ngựa hoặc ngồi trong “lô” ghế riêng ở rạp Opera cạnh bà tiên gỗ
đào hoa tâm nhỉ!” Không những thế, trong gia đình nhà Osborne anh con trai cũng
bướng bỉnh chẳng kém gì ông bố, một khi đã thích cái gì là thực hiện kỳ được;
mà khi tức giận thì George cũng thô bạo chẳng khác gì ông Osborne.
Khi ông bố
chính thức “gợi ý” anh ta lần đầu tiên về vấn đề lấy cô Swartz, George còn ngọt
ngào kiếm cách nói lảng:
- Tiếc rằng
ba không quyết định việc này sớm hơn. Bây giờ không kịp nữa rồi; không biết
chúng con phải lên đường ra ngoại quốc hôm nào. Đành chờ đến khi con trở về
nước vậy, nếu may mà con về được.
Anh ta gắng
tỏ cho cha hiểu rằng bây giờ không phải lúc tính chuyện nhân duyên, vì trung
đoàn thứ...không biết ngày nào rời khỏi nước Anh; còn ít ngày nữa, cần để thu
xếp công việc, không lòng nào lo chuyện yêu đương. Bao giờ anh ta trở về đeo
lon thiếu tá, lúc ấy sẽ hay. George thêm:
- Con xin
hứa với ba rằng, bằng cách này hay cách khác, ba cũng sẽ được thấy tên George
Osborne đăng trên báo “Tin tức”.
Câu trả lời
của ông bố căn cứ trên những tin tức thu lượm được ở khu City, nghĩa là, nếu
chậm chân, chắc chắn bọn con nhà dòng dõi ở West End sẽ phỗng tay trên cô gái
mất; và nếu anh ta chưa cưới được cô Swartz bây giờ, ít nhất cũng nên đính hôn
ngay có giấy tờ cẩn thận làm bằng, khi nào về nước chỉ việc làm lễ cưới là
xong; hơn nữa ông muốn con trai hiểu rằng một khi người ta có thể ngồi nhà mà
kiếm được mỗi năm một vạn đồng, thì có hóa dại mới đi ra nước ngoài mà thí
mạng. George chặn ngay:
- Nghĩa là
cha muốn con tỏ ra hèn nhát, và chịu bôi nhọ tên tuổi dòng họ nhà ta vì món tiền
vốn của cô Swartz?
Câu nói làm
ông già choáng cả người. Nhưng ông ta vẫn kiên quyết đáp:
- Ngày mai,
anh sẽ đến ăn cơm trưa ở đây, và bất cứ hôm nào có cô Swartz đến chơi, anh cũng
phải có mặt ở đây để tiếp Nếu anh cần tiền, cứ hỏi ông Chopper.
Thế là dự
định của anh ta về Amelia lại gặp thêm một trở ngại nữa. Dobbin và George đã
hội ý với nhau nhiều lần về việc này. Ý kiến của người bạn về biện pháp giải
quyết vấn đề như thế nào, ta đã rõ. Riêng đối với Osborne, một khi đã định làm
gì mà gặp một hai trở ngại, thì anh ta càng thêm quyết tâm vượt kỳ được.
Cô gái lai
da đen hoàn toàn không hay biết một tý gì về âm mưu của gia đình Osborne đối
với mình (cũng lạ thay, không rõ tại sao bà bạn “vú già” của cô không nói cho
biết); cô cứ yên trí những lời nịnh hót của hai cô bạn gái là tình cảm chân
thành, nên đối đãi lại cũng nồng nàn không kém; như ta đã có dịp trình bầy,
tính cô vốn vẫn sôi nổi. Nếu muốn cho thật đúng sự thật thì phải nói thêm rằng
cô ưa đến Đường công viên cũng có một lý do riêng; nói tóm lại thì cô thấy
George Osborne là một anh chàng trẻ tuổi rất khôi ngô; ngay buổi tối đầu tiên
gặp anh ta trong buổi dạ hội tại nhà Hulkers, cô đã rất chú ý đến bộ râu quai
nón của anh ta rồi. Cô cũng không phải là người đầu tiên cảm anh chàng vì bộ
râu: George vẫn có cái dáng điệu đặc biệt, vừa ngạo nghễ vừa thẫn thờ, vừa hăng
hái lại vừa uể oải. Trông anh ta như một người đang say mê cuồng dại, đang ủ ấp
những điều bí mật, và đang có nhiều điều đau đớn giày vò về đường tình ái cũng
như về chuyện chơi bời. Giọng nói âm vang mà thấm thía; khi anh ta nói “Tối hôm
nay nóng quá”, hoặc mời một cô bạn gái dùng kem, giọng nói của anh ta cũng buồn
buồn, đầy vẻ tâm tình, y như anh ta đang báo cho người này biết tin mẹ anh ta
chết, hoặc đang thổ lộ tình yêu vậy. Anh ta ngạo nghễ nhìn bọn trai trẻ vẫn
giao thiệp với ông Osborne bằng nửa con mắt; giữa bọn công tử loại ba ấy, anh
ta tự coi là một người anh hùng. Nhiều người chế nhạo và ghét cay ghét đắng
George, nhưng lại có người như Dobbin chẳng hạn, thán phục anh ta một cách mù
quáng. Bộ râu anh ta đã bắt đầu phát huy tác dụng và quấn lấy trái tim của
Swartz rồi. Mỗi khi có hy vọng gặp Osborne ở khu phố Russell, thì cô thiếu nữ
tốt bụng và thật thà này lại tỏ vẻ hết sức săn đón mong được gặp mặt hai cô bạn
gái mới quen. Cô ta tiêu vô khối tiền để mua áo mới, mua vòng tay, mua mũ, và
những túp lông cài đầu to tướng. Có ta ra sức tô điểm thực khéo mong vị “hoàng
tử” của mình ra để chiếm được lòng anh chàng. Hai cô bạn gái thỉnh thoảng lại
trịnh trọng đề nghị cô ta trổ tài âm nhạc; thế là cô hát ba bài hát, chơi hai
bài dương cầm như mọi lần, và tự lấy làm thích thú hơn lần trước. Trong những
phút giải trí thú vị ấy, bà bạn vú già cùng bà Wirt ngồi cạnh đó nghiên cứu
cuốn “Danh bạ quý tộc” và nói chuyện với nhau về giới quý phái thượng lưu. Hôm
sau ông bố lại “gợi ý” ít phút trước giờ ăn trưa, Osborne đang nằm dài trên
chiếc ghế xô-fa trong phòng khách, dáng điệu hệt một người đang âu sầu mơ mộng.
Theo đúng
lời cha, anh ta đã đến tìm ông Chopper tại khu City, (ông lão thương gia thường
cho con những món tiền lớn không có mức nhất định, sự rộng rãi của ông cũng rất
tùy hứng). Đoạn, George đến Fullham ở chơi đó ba tiếng đồng hồ với cô Amelia
thân yêu của anh ta; cuối cùng George trở về nhà, thì thấy cô chị và cô em gái
đang ngồi trong phòng khách, cứng quèo trong bộ quần áo bằng vải sa hồ bột; hai
bà nạ dòng đang quàng quạc trò chuyện ở cuối phòng, còn cô Swartz thực thà thì
vẫn mặc tấm áo sa tanh màu hổ phách cô rất ưa, lại đeo đủ các thứ vòng tay bằng
ngọc Thổ-nhĩ-kỳ, vô số nhẫn, đếm không xuể, rồi đính cả những hoa, những lông
cùng đủ mọi thứ trang sức lặt vặt khác; trông cô ta giống hệt một người thợ
thông ống khói vào tháng năm.
Cô chị và
cô em gợi mãi mà George không chịu bắt chuyện; họ bèn xoay câu chuyện về vấn đề
“mốt” ăn mặc, và về buổi tiếp tân vừa qua trong Hoàng cung; anh chàng đâm chán
ngấy. Anh ta so sánh họ với Emmy...so sánh giọng nói the thé với tiếng nói
trong vắt, êm ái của người yêu, so sánh những điệu bộ sỗ sàng, những bộ áo hồ
cứng để hở cả khuỷu tay của họ với cử chỉ dịu dàng kín đáo mà duyên dáng của
người yêu. Cô Swartz đáng thương lại ngồi đúng ngay vào chỗ mọi khi Emmy vẫn
ngồi. Hai bàn tay đeo toàn nhẫn đặt xòe ra như hai cái quạt trên tấm áo sa-tanh
màu hổ phách; những nạm ngọc và hoa tai lóng lánh sáng quắc; cô ta ngồi giương
đôi mắt to tướng ngó đây ngó đó. Thật là sự vô công rồi nghề và sự thỏa mãn
hiện thành hình người; cô ta còn nghĩ rằng mình duyên dáng quyến rũ lắm. Hai cô
bạn khen cô ta mặc chiếc áo sa tanh ấy rất nổi, các cô chưa từng thấy thế bao
giờ.
Lúc gặp lại
người bạn thân, George bảo:
- Thật là
đồ chết tiệt, trông cô ta hệt như con búp bê Trung-hoa, suốt ngày chỉ ngồi nhe
răng ra cười, và lắc lư cái đầu. Lạy Chúa, Will ạ, xuýt nữa tôi quăng cho cái
đệm ghế xô-fa vào mặt đấy.
Nhưng anh
ta cũng kịp tự kiềm chế được nỗi bực mình.
Hai chị em
cô Osborne bắt đầu chơi dương cầm bài “Trận đánh thành Praha”, George không
chịu được nữa, kêu lên:
- Thôi đừng
chơi cái... cái “của” ấy nữa! Tôi muốn phát điên lên đây. Cô Swartz, mời cô
biểu diễn một bài. Cô muốn hát bài gì thì hát, nhưng xin đừng chơi bài “Trận
đánh thành Praha”.
Cô Swartz
hỏi:
- Tôi hát
bài “Cô Mary mắt biếc” nhé. Hay là điệu Cabinet?
Hai cô bạn
đồng thanh:
- Điệu
Cabinet hay lắm.
Anh chàng
chán đời ngồi trong ghế xô-fa vội kêu lên:
- Điệu hát
ấy nhàm chán lắm rồi.
Cô Swartz
khe khẽ nói:
- Giá có
lời trước mặt, thì tôi hát được bài “Dòng sông Tajy”().
Tức là bài
cuối cùng trong kho vốn liếng âm nhạc của cô thiếu nữ.
Mang vội
đáp:
- Ồ, tôi có
bài “Dòng sông Tage” () đây.
Và chạy đi
tìm cuốn sách nhạc. Không ngờ cuốn sách nhạc lại chính là của một cô bạn gái
tặng họ, có ghi tên ngoài bìa.
Nghe Swartz
hát xong. George rất tán thưởng (vì anh ta nhớ Amelia vẫn ưa hát bài này lắm).
Cô Swartz đang hy vọng được mời hát lại, tay lật đi lật lại tờ bìa cuốn sách,
chợt nhìn thấy cái tên Amelia Sedley ghi ở góc tờ giấy. Cô ta quay phắt lại kêu
lên:
- Trời đất
ơi, Amelia của tôi đấy ư? Có đúng Amelia học ở trường bà Pinkerton không? Đúng
rồi, tôi biết. Chị ấy bây giờ ở đâu thế?
Cô Maria
Osborne vội nói ngay:
- Đừng nhắc
đến cô ấy nữa; gia đình cô ấy mất hết uy tín rồi. Cha cô ấy lừa dối ba tôi; tên
cô ấy sẽ không bao giờ được nhắc đến ở đây nữa.
Ấy là cách
cô Maria trả miếng George vì đã tỏ ra tàn nhẫn đối với bài “Trận đánh thành
Praha” lúc nãy.
George đứng
phắt dậy:
- Cô là bạn
của Amelia, vậy thì cầu Chúa che chở cho cô; cô Swartz ạ, đừng có nghe mồm hai
cô kia. Amelia không hề đáng trách điều gì. Cô ấy là người đáng quý nhất…
Jane vội
kêu lên ngay:
- George,
cậu không được nhắc đến cô ấy. Ba cấm đấy.
- Ai cấm
được tôi? Tôi cứ nhắc đến đấy. Tôi nói rằng cô ấy là người đáng quý, dịu dàng,
thùy mị, đáng yêu nhất nước Anh đấy. Phá sản hay không phá sản, thì chị gái tôi
cũng cứ xách dép cho cô ấy không đáng. Cô Swartz ạ, nếu cô quý Amelia, hãy đến
thăm cô ấy đi. Bây giờ Amelia chẳng có ai bầu bạn. Cầu Chúa ban phúc lành cho
ai đánh bạn với cô ấy. Tôi coi người nào nói tốt cho Amelia là bạn; người nào
nói xấu cô ấy tôi coi là kẻ thù. Cô Swartz, cảm ơn cô.
George đứng
dậy bắt tay cô thiếu nữ. Cô em gái vội kêu lên, giọng van lơn:
- Kìa, anh
George!
George giận
dữ tiếp:
- Tôi nói
rằng, tôi cảm ơn bất cứ ai tỏ ra yêu quý cô Amelia Xét....
Anh ta
ngừng lại. Ông Osborne đã đứng trong phòng mặt tái đi vì giận, cặp mắt đỏ tía
sáng quắc lên như hai hòn than hồng. Mặc dù George thôi không nói nữa, nhưng
máu trong người anh sôi lên, cho ngay đến tất cả mọi người trong các thế hệ của
dòng họ Osborne lúc ấy cũng không bắt được anh chịu lép. Lập tức George lấy lại
bình tĩnh, nhìn giả ông bố với điệu bộ tỏ ra vừa quyết định, vừa thách thức,
khiến cho ông già bối rối vội quay mặt đi. Ông già hiểu ngay cuộc chiến đấu đã
bắt đầu. Ông nói:
- Bà
Haggistoun, cho phép tôi dẫn bà sang phòng ăn, George, anh hãy đỡ cô Swartz
cùng đi.
Mọi người
bước ra ngoài. George nói với cô thiếu nữ:
- Cô
Swartz, tôi yêu Amelia ; suốt đời chúng tôi nguyện sống bên nhau.
Suốt bữa
ăn, George liến thoắng nói chuyện đến nỗi chính anh ta cũng phải ngạc nhiên về
mình, làm cho ông bố càng bực. Chắc chắn cơn bão tố sẽ nổ ra sau khi khách ra
về. Giữa hai bố con cũng có sự khác nhau, ông bố tính tình thô bạo cục cằn,
nhưng anh con trai còn táo bạo cương quyết gấp ba lần bố, anh ta không những có
thể tấn công mà còn có đủ sức chống đỡ. Biết rõ cuộc xung đột nhất định sẽ xảy ra,
anh ta ăn rất bình tĩnh và ngon miệng trước khi cuộc chiến đấu bắt đầu. Trái
lại ông già Osborne hết sức hồi hộp; ông uống nhiều rượu. Nhiều lần ông ta lẫn
lộn trong câu chuyện nói với những người khách đàn bà ngồi cạnh. Thấy George
điềm nhiên như không, ông lão càng căm. Ông gần phát điên khi thấy cái cách
George lạnh lùng gấp chiếc khăn ăn lại, cúi gập người xuống chào cô Swartz và
mở cửa cho cô ta, đoạn anh ta rót một cốc vang đầy tu một hơi cạn, nhìn thẳng
vào mặt bố như muốn nói: “Thưa các vị ngự lâm quân, xin mời bắn trước”. Ông già
cũng rót rượu uống lấy sức, nhưng bàn tay ông run run, chạm chai và miệng cốc
kêu lanh canh. Thở một hơi dài, mặt đỏ tía, ông già bắt đầu:
- Này anh,
sao anh dám nhắc đến tên con bé ấy trước mặt cô Swartz ngày hôm nay, ngay trong
phòng khách của tôi? Tôi hỏi anh, sao anh dám làm như vậy?
- Khoan đã,
thưa ba, đừng nói là “dám làm”. Người ta không dùng tiếng “dám làm” để nói với
một đại úy trong quân đội nước Anh.
Ông bố đáp:
- Tôi muốn
nói gì với con trai tôi không ai cấm được. Tôi có thể cắt đứt không cho nó xu
nào. Tôi có thể biến nó thành một thằng ăn mày cũng dược. Tôi cứ nói tiếp ý
tôi.
George kiêu
hãnh đáp:
- Tuy là
con trai ba thật, nhưng con là một người thượng lưu. Nếu có ý kiến gì, muốn
trao đổi hoặc muốn ra lệnh cho con điều gì, yêu cầu cha dùng những lời lẽ lịch
sự mà con vẫn quen nghe.
Khi nào
người con trai tỏ vẻ kiêu hãnh thì bao giờ cũng khiến cho người cha hoặc là
hoảng sợ hoặc là tức giận. Ông già Osborne vẫn ngấm ngầm e ngại những cử chỉ,
những điệu bộ quý phái của con trai. Các bạn độc giả hẳn cũng có kinh nghiệm là
trong Hội chợ phù hoa, một người thô kệch thường không ưa thấy có người lịch sự
ở bên mình.
- Xưa kia
cha tôi không hề cho tôi được hưởng nền giáo dục, những điều kiện tốt, cũng như
bao nhiêu tiền nong như ngày nay tôi đã cho anh. Nếu tôi không nhờ có tiền mà
lọt được vào một nơi chỉ có một ít số người vào nổi, thì có lẽ con trai tôi khó
lòng huênh hoang khệnh khạng với đáng điệu ông hoàng được - ông già nhấn mạnh
mấy tiếng trên có vẻ hết sức mỉa mai - Vào thời chúng tôi, người ta không tin
rằng một người thượng lưu lại chửi lại bố. Xưa kia, nếu tôi cư xử như vậy, thì
bố tôi đã đạp tôi ngã lăn xuống thang gác rồi.
- Con có
chửi lại ba đâu. Con chỉ nói xin ba nhớ cho rằng con trai ba cũng là một người
thượng lưu như ba. Con hiểu lắm, ba cho con rất nhiều tiền (George vừa nói vừa
thọc tay vào túi vuốt ve tập giấy bạc vừa lấy của ông Chopper buổi sớm) ; ba
nhắc đến việc ấy hơi nhiều đấy, không sợ con quên đâu.
- Tôi muốn
anh nhớ hộ cả chuyện khác nữa. Tôi muốn anh đừng quên rằng, trong căn nhà này -
nếu như anh còn thèm hạ cố ở đây - tôi là ông chủ, và cái tên kia...anh…rằng
anh...và…tôi nói...
- Và cái gì
thưa ba?
George hơi
nhếch mép cười, hỏi lại, vừa rót đầy thêm một cốc rượu khác. Ông bố văng một
tràng rất tục.
- …!Và
không bao giờ cái tên Sedley còn được nhắc đến ở đây Tôi không muốn nghe đến
tên bất cứ đứa nào trong bọn chúng nó anh hiểu chưa?
- Thưa ba,
không phải con nhắc đến tên cô Sedley trước, chỉ vì chị con và em gái con nói
xấu cô ấy với cô Swartz; con thề sẽ bênh vực cô ấy bất cứ ở đâu. Không ai được
phép nói xấu cô ấy trước mặt con. Gia đình nhà ta đã làm khổ cô ấy quá đủ rồi,
bây giờ có thể buông tha đừng hành hạ cô ấy thêm nữa. Bây giờ cô ấy khổ lắm
rồi. Trừ ba ra, người nào mở mồm nói xấu cô ấy, con bắn.
Đôi mắt ông
bố trợn tròn như lồi ra khỏi mắt:
- Còn gì
nữa, nói nốt đi.
- Nói nốt
gì, thưa ba? Nói nốt về chuyện chúng ta đã cư xử tàn tệ thế nào với cô gái
thiên thần ấy à? Ai đã xui con yêu cô ấy? Chính ba. Con rất có thể chọn yêu
người khác, và còn đòi hỏi cao hơn, có thể cao hơn cả cái xã hội của gia đình
nhà ta nữa; nhưng con đã vâng lời ba. Bây giờ, khi chúng con đã yêu nhau thì ba
ra lệnh cho con đang tay cắt đứt mối tình, bắt con trừng phạt cô ấy, giết chết
cô ấy cũng nên... mà vì lỗi của những người khác.
Girogiơ
càng nói càng giận dữ, càng hăng hái:
- Đùa cợt
với tình yêu của một người con gái như vậy là một điều đáng xấu hổ, lạy
Chúa...? Một vị thiên thần như vậy... Những người khác so với cô ấy còn kém xa,
đến nỗi họ có thể sinh ra ghen ghét; chỉ vì cô ấy tốt quá, hiền hậu quá nên
người ta không dám thù ghét đấy thôi. Nếu con bỏ cô ấy, ba nghĩ rằng cô ấy quên
được con sao?
Ông bố quát
lên:
- Tôi không
thèm để tai nghe những chuyện yêu đương con cà con kê của anh. Gia đình tôi
không thể cưới một đứa ăn mày về làm dâu được. Chỉ cần nói một tiếng, là anh có
ngay mỗi năm tám nghìn đồng; nếu anh không muốn thì mặc xác anh. Lạy Chúa, anh
cuốn gói mà xéo khỏi cái nhà này đi. Tôi hỏi lại anh lần cuối cùng, anh có vâng
lời tôi không? Có hay không?
George bẻ
cổ áo lên đáp:
- Cưới cái
con bé lại da đen ấy làm vợ? Thưa ba, tính con không ưa mầu nâu. Xin ba đi tìm
một thằng da đen quét đường ở Fleet Macket. Con không muốn lấy một hoa khôi mọi
đen làm vợ.
Ông già
Osborne giận dữ giật mạnh cái dây chuông vẫn dùng để gọi bác quản lý lấy rượu
vang...mặt ông sa sầm, ông ra lệnh đánh xe đưa đại úy Osborne đi.
Một giờ
sau, bước vào quán rượu Slaughters mặt hãy còn tái mét, George nói:
- Thế là
hết.
Dobbin hỏi:
- Cái gì ông
bạn?
George kể
lại cuộc va chạm giữa mình và cha. Anh ta thề độc một câu và nói:
- Ngày mai, tôi
cưới Amelia. Dobbin ạ, càng ngày tôi càng thấy yêu nàng hơn.
Chương 22
LỄ CƯỚI VÀ TUẦN
TRĂNG MẬT
Kẻ thù dù can
đảm, gan góc đến mấy mà bị đói thì cũng phải hàng phục, cho nên trong cuộc đấu
tranh ta vừa miêu tả ở trên, ông Osborne không sợ đối thủ của mình. Ông tin
rằng khi cạn túi, thế nào George cũng đầu hàng không điều kiện. Kể ra cũng có
điều không may cho ông, vì ngay hôm hai bố con cãi nhau, George đã vớ được món
tiền của bố. Nhưng ông già nghĩ ngần ấy tiền cũng không tiêu được mãi, chẳng
qua ngày đầu hàng chỉ lùi lại ít lâu. Cho nên trong ít hôm, hai bố con không
nhìn mặt nhau, ông bố tuy khó chịu trước sự im lặng của con nhưng vẫn yên trí;
bởi vì, như lời ông lão nói, “kiến trong miệng chén còn bò đi đâu”, ông chỉ cần
chờ đợi kết quả như ông dự tính. Ông có kể lại cho hai con gái nghe chuyện xích
mích giữa hai bố con, nhưng lại dặn thêm đừng chú ý đến làm gì, lại bảo nếu
George trở lại, cứ tiếp đón thân mật như không có chuyện gì xảy ra hết. Đến bữa
ăn vẫn bày bát đĩa của George như mọi khi; ông già hình như có ý nóng ruột đợi
con trai quay về thì phải, nhưng mãi vẫn không thấy mặt anh ta. Phái người đến
tiệm cà-phê Slaughters hỏi thăm thì thấy nói anh ta cùng bạn là đại úy Dobbin
đã rời khỏi thành phố rồi.
*
Một buổi sáng ảm
đạm cuối tháng tư, mưa rơi tầm tã đổ xuống vỉa hè dẫy phố cổ có tiệm cà phê của
lão Slaughters; George Osborne bước vào tiệm, mặt mày phờ phạc, tái mét, tuy
anh ta diện rất bảnh. George mặc một tấm áo màu xanh nước biển có đính một khuy
đồng, ngoài khoác một chiếc áo gilê bằng da, rất đúng “mốt”. Đại úy Dobbin có
mặt trong tiệm cà-phê; anh ta cũng mặc bộ áo xanh có khuy đồng; tấm áo choàng
nhà binh và chiếc quần màu xám nhạt thường vẫn đeo trên cái thân hình khẳng
khiu của anh ta đã được cất đi. Dobbin ngồi trong quán cà phê đã đến hơn một
tiếng đồng hồ. Anh ta giở hết báo nọ đến báo kia, nhưng không sao đọc được, hết
nhìn đồng hồ có đến hàng chục lần, lại nhìn ra ngoài phố, mưa vẫn rơi tầm tã,
người qua lại nện guốc cồm cộp để lại những cái bóng đen dài trên nền đá lát
bóng loáng. Thỉnh thoảng anh ta lại gõ nhịp lên mặt bàn, hoặc cắn cụt cả móng
tay (anh ta vẫn có thói quen trang điểm cho bàn tay hộ pháp của mình như vậy),
rồi lại đặt chiếc thìa cho nằm chênh vênh trên miệng cốc sữa, và nghiêng cốc
cho nó rơi xuống.v.v... Tóm lại, anh ta có vẻ đang băn khoăn điều gì, cố tìm
những trò giải trí lặt vặt cho qua thời giờ, y như những người đang có chuyện
gì ghê gớm ám ảnh tâm trí.
Vài người bạn
thường đi lại ở tiệm cà-phê, nói đùa Dobbin về bộ áo lộng lẫy và cử chỉ băn
khoăn của anh. Có người hỏi đùa, hay là Dobbin sắp đi cưới vợ, Dobbin cười đáp
khi nào có việc vui mừng sẽ gửi biếu ông bạn (tức là thiếu tá công binh
Wagstaff) một cái bánh. Cuối cùng đại úy Osborne hiện ra, diện rất bảnh nhưng
sắc mặt tái nhợt, và có vẻ băn khăn như ta đã thấy. George rút ra chiếc mùi xoa
màu vàng thơm sực mùi nước hoa lau bộ mặt nhợt nhạt, bắt tay Dobbin, nhìn lên
đồng hồ treo trên tường, và sai John, bác hầu bàn lấy rượu ca-cao. Anh ta uống
luôn hai cốc một cách vội vã. Dobbin hỏi thăm sức khỏe thế nào.
George đáp:
- Suốt đêm qua
đến sáng, không chợp mắt được phút nào. Nhức đầu, và sốt kinh khủng. Chín giờ
mới dạy đến Hummums tắm được một cái. Y như cái buổi sáng mình cùng Rocket ra
bãi thi ngựa ở Quebec ấy Dobbin ạ.
William
đáp:
- Mình cũng
thấy thế. Sáng hôm ấy, mình còn hồi hộp hơn cậu nữa. Nhưng hôm ấy, cậu ăn bữa
điểm tâm cẩn thận lắm, mình còn nhớ. Bây giờ hãy ăn tý gì đi đã.
- Will, cậu
thật là một người bạn tốt. Mình muốn uống mừng sức khỏe của cậu, và vĩnh
biệt...
Dobbin ngắt
lời:
- Thôi,
thôi. Hai cốc là đủ rồi. Này John, cất rượu đi. Hạt tiêu đây,
cho một ít vào món gà và ăn mau mau bên, lẽ ra chúng mình phải ở đấy rồi.
Lúc hai
viên đại úy nói với nhau mấy câu ngắn ngủi như vậy là khoảng mười hai giờ rưỡi.
Chiếc xe ngựa của đại úy Osborne đã đợi từ lâu; hành lý của đại úy, anh hầu đã
bỏ vào trong xe. Hai viên đại úy che chung một cái ô bước vội vào xe, còn anh
hầu leo lên chỗ ngồi của xà ích, luôn mồm chửi trời mưa và rủa anh xà ích ngồi
bên cạnh áo ẩm quá bốc hơi mù mịt. Anh hầu nói một mình như để tự an ủi: “Đến
cửa nhà thờ, ta sẽ tìm một cái xe khác tốt hơn”. Chiếc xe chuyển bánh, chạy dọc
phố Piccadilly, hồi ấy nhà Apsley và nhà thương St. George vẫn còn xây bằng
gạch đỏ; trên những cột đèn ngoài phố vẫn thắp đèn dầu, Achilles còn chưa sinh
và đài chiến thắng Pimlico() chưa dựng, mà cái bày quái vật hình như muốn nhảy
qua các nóc nhà xung quanh kia cũng chưa có... Chiếc xe qua Brompton tiến về
phía một ngôi nhà thờ gần phố Fullham.
Một chiếc
xe bốn ngựa khác cũng đã chờ sẵn ở đó, trông giống loại xe lồng kính rất đẹp.
Trời vẫn mưa rầu rĩ, chỉ có vài người vô công rồi nghề qua lại. George nói:
- Chết cha!
Tôi chỉ thuê có hai ngựa thôi mà.
- Ông chủ
tôi muốn dùng bốn ngựa cơ ạ.
Anh hầu của
Joseph Sedley đang đứng chờ lên tiếng.
Anh này
cùng anh hầu của Osborne theo George và William vào trong nhà thờ, hai người
đồng ý với nhau rằng cưới xin mà không có ăn tiệc, không có hoa, thì thật “cà
mèng” không thể tưởng tượng được ông bạn cũ Joe Sedley của chúng ta bước ra,
nói:
- Đây rồi;
George, chậm năm phút đấy nhé. Trời với đất. Lạy Chúa! Y như mùa mưa ở Bengal
vậy. Nhưng xe tôi thì không mưa nào lọt vào được. Vào đi; Emmy và mẹ tôi đã ở
trong kho đồ thánh rồi.
Joe Sedley
trông đường bệ quá. Anh ta béo hơn trước nhiều. Cổ áo cũng may cao hơn, mặt
trông đỏ hơn. Bộ cà vạt đính ở cổ áo lòa xòa rủ xuống chiếc áo gi-lê sặc sỡ.
Hồi ấy chưa có những đôi ủng da véc-ni, nhưng đôi ủng cao cổ của anh ta cũng
bóng nhoáng, trông như đôi ủng trong truyện cổ, có người soi vào đó mà cạo râu
được. Bông hoa hồng bạch to tướng mừng đám cưới gắn trên ngực áo, trắng muốt
như một cái lá mộc lan.
Thì ra
George chơi nước bài liều. Anh ta sắp làm lễ thành hôn. Vì thế mặt anh ta tái
mét, băn khoăn, mất ngủ suốt đêm và sáng ra thì bổi hổi bồi hồi trong dạ. Tôi
đã biết trong trường hợp tương tự, nhiều người cũng có tâm trạng như vậy. Có lẽ
đến lần làm lễ cưới thứ ba hay thứ tư thì cũng quen đi, nhưng lần đầu tiên thì
gay go lắm.
Đại úy
Dobbin kể lại cho tôi rõ rằng cô dâu mặc một tấm áo choàng bằng lụa màu nâu,
đội một cái mũ rơm có băng hồng. Một tấm chàng mạng bằng voan Santily che kín
mặt, đó là món quà của ông anh Joseph Sedley. Đại úy Dobbin đã đề nghị được tặng
cô dâu một chiếc đồng hồ vàng có dây, hôm ấy cũng thấy cô dâu đeo. Bà mẹ cho
nốt cô con gái chiếc trâm nạm kim cương, món đồ trang sức cuối cùng của bà già
còn sót lại. Trong khi cuộc hôn lễ đang tiến hành, bà Sedley ngồi trên một tấm
ghế khóc nức nở. Chị hầu gái người Ai len và bà Clapp phải khuyên nhủ mãi. Ông
Sedley không muốn chứng kiến cuộc hôn nhân. Joe thay mặt cha; anh ta đưa cô dâu
đến trước bàn thờ; đại úy Dobbin đóng vai phù rể.
Trong nhà
thờ chỉ có những nhân viên hành lễ và mấy người dự đám cưới. Hai anh hầu đứng
mãi tận ngoài xa nhìn vào có vẻ vênh váo. Mưa vẫn rơi tầm tã đập vào cánh cửa
sổ lộp bộp. Trong những phút cuộc hành lễ tạm ngừng, nghe tiếng mưa rơi bên
ngoài và tiếng bà Sedley khóc thút thít. Giọng nói của vị mục sư vang lên buồn buồn
vọng vào những mảnh tường trống rỗng. Osborne nói câu “con xin ưng thuận” với
giọng rất trầm. Câu trả lời của Emmy run run thốt ra tự đáy lòng nhưng không ai
nghe rõ, trừ đại úy Dobbin.
Cuộc lễ
xong; lần đầu tiên sau hàng bao nhiêu tháng trời Joe Sedley bước tới hôn em
gái, bây giờ đã là cô dâu mới; vẻ rầu rĩ đã biến mất trên mặt George, bây giờ
trông anh ta rất tươi tỉnh và kiêu hãnh. Anh ta thân maajt đặt tay lên vai
Dobbin nói:
- Bây giờ
đến lượt anh.
Dobbin bước
tới đặt tay vào má Amelia...đoạn, họ sang kho đồ thánh để ký vào sổ chứng hôn.
- Dobbin ơi
cầu chúa ban phúc cho cậu nhé.
George nắm
chặt tay bạn, hình như hơi rơm rớm nước mắt; William chỉ gật đầu đáp lại. Anh
ta đang bị xúc động quá, không nói được nhiều. Osborne dặn:
- Viết thư
luôn nhé. Lúc nào rỗi rãi nhớ lại chơi, nghe không.
Phút ly
biệt giữa bà mẹ và cô con gái rất cảm động; đôi vợ chồng trẻ dắt nhau lên xe:
- Mấy thằng
ranh con, tránh ra đằng kia.
George quát
mấy đứa trẻ đang đứng xúm xít quanh cửa nhà thờ, Đôi vợ chồng bước ra xe bị
nước mưa xối vào mặt ướt hết. Quần áo anh xà ích ướt đẫm. Bọn trẻ con hò reo
rầm rầm lúc chiếc xe lăn bánh, bùn bắn tứ tung.
Dobbin đứng
lại trong khung cửa nhà thờ nhìn theo, vẻ mặt rầu rầu. Bọn trẻ con thấy thế cứ
trêu cợt anh chàng, nhưng anh ta không để ý đến chúng, cũng như tiếng chúng
cười đùa.
- Dobbin
chúng ta về nhà đi ăn thôi.
Có tiếng
người nói sau lưng Dobbin; một bàn tay nặng nề đặt mạnh lên vai anh, làm cho
chàng tỉnh cơn mơ mộng. Nhưng viên đại úy không lòng nào ăn tiệc với Joe Sedley.
Anh ta đưa bà già đang mếu máo cùng mấy người hầu lên xe của Joe Sedley, rồi,
không nói thêm lời nào, từ biệt họ. Chiếc xe chuyển bánh, bọn trẻ con lại reo
ầm lên chế nhạo lần nữa.
- Này đây,
bọn ăn mày ranh con.
Dobbin vứt
cho chúng mấy đồng xu, và bước ra ngoài mưa lủi thủi đi một mình. Thế là hết
hẳn. Họ cưới nhau rồi, và họ rất sung sướng; anh chàng cầu Chúa. Từ bé, chưa hề
bao giờ anh ta cảm thấy cô độc, đau khổ như lúc này. Anh chàng khát khao mong
sao cho chóng qua mấy ngày đầu để gặp lại Amelia.
Khoảng mười
ngày sau buổi hôn lễ vừa nói trên, ba chàng trai trẻ quen biết của chúng ta
đang thưởng thức phong cảnh đặc biệt của Brighton: một bên là dẫy biệt thự có
cửa sổ chấn song hoa, một bên là biển, nước xanh biếc.
Những người
dân Luân đôn ngắm nhìn say sưa cảnh biển rộng, mặt nước sôi nổi như chúm chím
cười, điểm lấm tấm những cánh buồm trắng, với hàng trăm chiếc ca-nô lượn sát bờ
như hôn dải gấu áo màu lam của biển cả. Còn những kẻ ưa cuộc sống của con người
hơn những phong cảnh kỳ thú khác thì lại hướng về phía những người ở chung nhà
lấy làm khoái trá vô cùng. Tại cửa một biệt thự khác, thấy chị hầu gái Polly
xinh xắn đang ôm cậu Omnium vào lòng mà vuốt ve; trong khi ấy ông bố là Jacob
ngồi cạnh cửa sổ nhà dưới đang khoái trá điểm tâm món tôm bể, và đọc tờ “Thời
báo”. Xa xa đằng kia là mấy chị em cô Leery đang liếc theo mấy chàng sĩ quan
ngự lâm quân trẻ tuổi rong chơi trên bãi biển, hoặc là một anh chàng người
Luân-đôn đang giơ chiếc ống nhòm to như cái nòng súng ca-nông bắn đạn sáu cân nhìn
ra ngoài khơi y như muốn chỉ huy tất cả những thuyền du lịch, thuyền đánh cá,
thuyền tắm đang bơi ra bơi vào. Nhưng chúng ta có thì giờ đâu mà tả cảnh
Brighton mãi? Brighton chính là Naples, nhưng là thành phố Naples sạch sẽ, mà
bọn cùng đinh là những nhà quý tộc; Brighton bao giờ cũng mát mẻ, đáng yêu,
duyên dáng như bộ áo của một anh hề. Hồi câu chuyện này xảy ra, đi từ Luân-đôn
đến Brighton mất bảy tiếng đồng hồ, nhưng nay chỉ mất khoảng một giờ rưỡi; và
sau này khoảng cách ấy rất có thể còn rút ngắn hơn nữa trừ phi Joinville mang
quân đến oanh tạc một cách không đúng lúc.
Một trong
số ba người đang đi, lên tiếng:
- Con bé
trong căn nhà mé trên hiệu bán đồ trang sức phụ nữ kia trông kháu quá nhỉ. Này,
Crawley, có thấy lúc mình đi qua nó cứ liếc theo mãi không?
Người bạn
đáp:
- Thôi ông
Joe, ông đừng làm cho nàng đau khổ; ông Don Juan ơi, chớ đùa cợt với tình yêu
của nàng.
- Cứ để mặc
tôi.
Joe Sedley
khoái trí lắm, vừa nói vừa lấy điệu bộ thật tình tứ liếc mãi chị hầu gái nói
trên. Lần này đi chơi Brighton, trông Joe còn sang trọng hơn cả lúc dự lễ cưới
em gái. Anh ta mặc mấy cái gilê thật là “mốt”; một cậu công tử xoàng chỉ cần
một cái cũng đã đủ thích. Anh ta lại mặc một tấm áo kiểu nhà binh, với đủ mọi
thứ lon hoa và khuy đồng đen, cùng những đường thêu vằn vèo. Gần đây, cu cậu
lại đâm ra cũng kéo lê đôi ủng có cựa gót kêu lanh canh, cũng ưỡn ngực vênh
vang, và tròn mắt lên mà liếc tất cả những chị hầu gái gọi là “ngon mắt” một
tý.
Chàng công
tử hỏi hai bạn:
- Trong lúc
chờ các bà ấy quay lại, chúng mình làm cái gì bây giờ?
“Các bà ấy
“ đang ngồi xe của anh Rottingdean.
Một người
to lớn có bộ râu vuốt xi đen góp ý kiến:
- Ta chơi vài ván
bi-a.
Joe hơi hoảng
đáp:
- Thôi, thôi, ông
đại úy ơi! Hôm nay
không chơi bia-a nữa. Crawley ạ, chơi hôm qua thế là đủ rồi.
Crawley
cười nói:
- Anh chơi
cừ lắm. Đúng không, Osborne? Năm cú liền hôm qua, anh ta chơi cừ quá.
Osborne
đáp:
- Tuyệt
lắm, Joe thật là một nhân tài trong làng bi-a; những môn khác chơi cũng giỏi.
Ước gì ở đây có tổ chức săn hổ nhỉ? Chúng mình rất có thể tham dự và giết chơi
vài con trước khi về ăn cơm. (Con bé nào đang đi kìa! Joe, nom cái cổ chân xinh
quá, hả?). Kể cho nghe lại câu chuyện săn hổ đi; anh gặp hổ trong rừng rậm thế
nào nhỉ? Này, Crawley, chuyện hay lắm nhé. Nói đến đây, George ngáp một cái,
tiếp:
- Thời giờ
cứ đằng đẵng ấy nhỉ, chậm quá. Ta làm cái gì bây giờ?
Crawley đề
nghị:
- Hay là
chúng ta đi xem mấy con ngựa vừa đem từ Hội chợ Lewes về đây.
- Joe định
bắt cá hai tay ():
- Sao chúng
mình lại không đi chén bánh ngọt ở quán Dutton nhỉ. Con bé ở nhà Dutton nom kháu ra phết.
George bàn:
- Ta đi đón xe
“Tia chớp” đi, đến giờ xe về rồi đấy.
Ý kiến này được
tán thành. Cả ba quay lại trạm xe ngựa để chờ xe “Tia chớp” về.
Đang đi, họ gặp
chiếc xe ngựa trần mui của Joe, trên có sơn huy hiệu riêng lộng lẫy. Ở
Cheltenham, anh ta vẫn thường ngự trên chiếc xe lộng lẫy này đi chơi một mình
trong tỉnh, trông bệ vệ ra phết, tay khoanh trước ngực, đầu đội mũ vành bẻ tam
giác; cũng đôi khi may mắn hơn, có cả đàn bà ngồi bên cạnh.
Lúc này thấy có
hai cô thiếu nữ ngồi trên xe; một người bé nhỏ, tóc nâu nhạt, ăn bận theo “mốt”
tối tân nhất; người kia mặc một tấm áo lụa màu nâu, đội mũ nan có băng màu
hồng, khuôn mặt tròn trĩnh, hồng hào, hớn hở, trông rất ưa nhìn. Xe đến gần ba
người đàn ông, thì cô nói sau kìm ngựa lại; dường như vì cử chỉ “oai phong” của
mình vừa rồi mà cô ta luống cuống, đỏ ửng mặt lên, trông đến buồn cười, và nói:
- George, chúng
em đi chơi vui lắm... bây giờ về, thích quá Anh Joseph, đừng bắt nhà em về muộn
nhé.
Rebecca giơ một
ngón tay xinh xinh lồng trong chiếc bao da dê kiểu Pháp dọa Joe:
- Anh Sedley ơi?
Đừng rủ rê các ông chồng chúng tôi chơi bời bậy bạ nhé, anh là hư lắm đấy.
Không chơi bi-a, không hút thuốc lá, không ngỗ ngược.
- Chị Crawley
thân mến...A...Tôi xin lấy danh dự mà hứa... Joe chỉ nói được có thế. Nhưng anh
ta đã chú ý lấy một điệu bộ rất cầu kỳ, nghiêng nghiêng cái đầu mỉm cười nhìn
“cố nhân”, một tay chắp sau lưng chống một cái can, một tay (cái tay đeo nhẫn
kim cương) đưa lên nắn nắn chiếc cà-vạt và vuốt chiếc gi-lê. Chiếc xe chuyển
bánh, anh ta còn giơ bàn tay đeo nhẫn gửi theo một cái hôn cho hai người đàn
bà. Joe ước gì tất cả Cheltenham, Chowringhee, tất cả Calcutta được nhìn thấy
anh đang vẫy chào một con người tuyệt sắc như vậy, và đang đi chơi cùng một tay
nổi tiếng phong lưu là Rawdon Crawley trong đội ngự lâm quân.
Sau khi lấy nhau,
cô dâu chú rể chọn Brighton làm nơi nghỉ ngơi hưởng thú trăng mật. Họ thuê mấy
căn phòng tại khách sạn “Thủy quân”, sung sướng hưởng thụ hạnh phúc êm đềm của
mình trong thời gian chờ đợi Joe cũng ra đấy. Mà cũng chẳng phải họ chỉ có Joe
là bạn ở đây. Một buổi chiều đang đi men theo bờ biển trở về khách sạn, họ gặp
hai vợ chồng Rebecca. Hai cặp vợ chồng mới cưới nhận ra nhau ngay. Rebecca ôm
chầm lấy cô bạn thân nhất đời.
Crawley hoan hỉ
nắm tay Osborne rung tít. Chỉ mấy giờ sau, Becky đã tìm được cách khiến cho
George quên hẳn mấy câu dấm dẳng cô ta nói với anh chàng hồi nọ. Đại úy Osborne
còn nhớ không nhỉ, cái lần ta gặp nhau tại nhà Crawley phu nhân ấy mà, em có
hơi thiếu lịch sự đối với anh. Hồi ấy, em cứ yên trí anh thờ ơ với chị Amelia
thân yêu của em. Em giận quá, thế là đâm ra hỗn xược, tàn nhẫn, và vô ơn nữa cơ
chứ. Anh tha lỗi cho em nhé! Rebecea, rất thẳng thắn, rất duyên dáng, chìa tay ra
cho Osborne bắt; anh chàng đành giơ tay ra thôi. Cứ thẳng thắn và khiêm tốn mà
nhận rằng mình có lỗi đi, có khi vì vậy mà thu lợi nhiều không biết chừng cơ
đấy. Ngày trước tôi có quen một người sang trọng, vốn là tay hâm mộ Hội chợ phù
hoa; tính ông ta thường hay gây ra những chuyện phiền lòng nho nhỏ làm tội
những người xung quanh, cốt để về sau lại rất anh hùng, rất thẳng thắn mà xin
lỗi họ…kết quả thế nào? Nghĩa là ai cũng đâm ra mến ông bạn Crocky Doyle của
tôi; họ bảo rằng tính ông ta có hơi nóng, nhưng bản chất là người tốt nhất đời
đấy. Cho nên thái độ khiêm tốn của Becky được Osborne coi là rất chân thành.
Hai cặp vợ chồng
trẻ không thiếu gì chuyện kể cho nhau nghe. Họ tranh cãi về chuyện cưới xin của
nhau. Hai bên thảo luận về những kế hoạch xây dựng tương lai hết sức thẳng thắn
và nhiệt tình. Họ ấn định sẽ giao cho Dobbin việc báo cho ông già Osborne biết
tin con trai ông lấy vợ.
Osborne cứ nghĩ
đến cuộc gặp gỡ sẽ xảy ra cũng đủ rùng mình. Rawdon thì vẫn đặt mọi hy vọng vào
Crawley phu nhân, nhưng chưa thấy động tĩnh gì. Không có cách nào mò vào trong
ngôi nhà ở Đường công viên được, hai vợ chồng anh cháu trai đành bám sát bà lão
về Brighton, tay chân của họ lúc nào cũng túc trực sẵn sàng trước cửa nhà bà để
nghe ngóng.
Rebecca cười nói:
- Chị ạ, giá chị
được nhìn thấy mấy ông bạn quý của Rawdon lúc nào cũng rình ở cửa nhà em. Chị
đã bao giờ nhìn thấy một lão chủ nợ hay là một bác mõ tòa có tay sai đi kèm
chưa? Tuần trước, có hai thằng quái ác nó cứ ngồi bên hàng hoa quả trước cửa
rình suốt cả tuần lễ, đến nỗi chủ nhật chúng em mới dám thò mặt ra đường. Nếu
bà cô không nghĩ lại, không hiểu rồi chúng em làm ăn ra sao?
Rawdon cười ầm
lên, kể lại đến một tá chuyện lý thú về lão chủ nợ và cách Rebecca nói năng
khéo léo với hắn ta như thế nào. Anh ta thề ầm ĩ lên rằng cả Âu châu này ít có
người đàn bà nào đuổi khéo bọn chủ nợ tài tình bằng vợ mình. Hầu như ngay sau
khi lấy nhau, Rebecca đã có dịp sử dụng tài nghệ của mình và anh chồng thấy
ngay vợ mình là một con người vô giá. Hai vợ chồng vẫn được nhiều người tín
nhiệm, nhưng cũng có vô số văn tự nợ, riêng khoản tiền mặt thì bao giờ cũng
kiết xác. Những chuyện nợ nần ấy có làm cho Rawdon bớt vui vẻ không? Không;
trong Hội chợ phù hoa, ai mà chẳng đã thấy có khối người nợ đìa ra mà vẫn ung
dung ra phết; họ chẳng thiếu thứ gì, mà tâm trạng thì cứ phởn phơ thoải mái như
không. Hai vợ chồng Rawdon thuê một ngôi nhà đẹp nhất ở Brighton, ông chủ trọ,
mỗi khi bưng đĩa thức ăn đầu tiên của bữa cơm lên, lại cúi rạp xuống mà chào y
như họ là những vị khách quý quen thuộc. Rawdon thì cứ tha hồ chê bai các bữa
ăn và các thứ rượu, bạo mồm chẳng kém chẳng thua gì những tay tai to mặt lớn
trong vùng. Thì ra nhiều khi những thói quen ông hoàng, một bộ cánh và một đôi
ủng thật bảnh, kèm theo một dáng điệu khệnh khạng, cũng có thể thay thế cho một
khoản lớn ở nhà băng được.
Hai cặp vợ chồng
đến chơi nhà nhau luôn. Sau hai ba ngày, hai người đàn ông tổ chức chơi
pich-kê, còn hai cô vợ ngồi riêng một chỗ chuyện trò tri kỷ. Nhờ có thú tiêu
khiển này, và nhờ có Joe Sedley ngự trên chiếc xe ngựa mui trần to tướng cũng
ra chơi vài ván bi-a, thành ra cái ví Rawdon đầy lên đôi chút và có tiền mặt mà
tiêu, cái khó mà nhiều khi các bậc thiên tài trác tuyệt cũng phải bó tay không
vượt qua nổi.
Thế là ba người
đàn ông cùng đi ra đón xe “Tia chớp”.
Đúng giờ, không
sai một phút, chiếc xe chật ních những người tiến đến; người gác cổng tỉnh thổi
một hồi tù và thường lệ; chiếc “Tia chớp” chạy như bay qua phố, tiến về trạm
xe.
George kêu ầm
lên, thú quá, khi nhìn thấy ông bạn nối khố ngồi ngất ngưởng trên mui xe; anh
ta hứa đến thăm ngay mà bây giờ mới thấy mặt:
- Hoan hô,
Dobbin kia rồi.
- Nào, ông
tướng, khỏe mạnh chứ? Cậu về chơi, mình vui quá. Emmy gặp cậu chắc mừng lắm
đấy.
Osborne
nồng nhiệt bắt tay bạn ngay lúc Dobbin vừa xuống xe; đoạn anh ta thấp giọng, lo
lắng hỏi:
- Có tin
tức gì không? Anh lại khu phố Russell chưa? Ông cụ bảo sao? Kể lại mình nghe
hết cả đi.
Dobbin vẻ
mặt nhợt nhạt đăm chiêu, đáp:
- Tôi gặp
ông cụ rồi, Amelia... à, chị George thế nào? Để tôi kể lại mọi chuyện anh nghe;
nhưng đây là tin quan trọng nhất; nghĩa là...
- Nói phăng
ra, ông tướng.
- Chúng ta
được lệnh sang Bỉ. Tất cả binh đoàn, cả đội ngự lâm quân. Heavytop bị bệnh
thống phong; ông ta đang phát điên lên vì không đi lại được. O’Dowd sẽ tạm
quyền chỉ huy. Tuần sau chúng ta lên tầu ở Chatham.
Tin về cuộc chiến
tranh không khỏi khiến hai vị tân lang của chúng ta xúc động mạnh mẽ; vẻ mặt ba
người đàn ông trông đăm chiêu hẳn đi.
Chương 23
ĐẠI ÚY DOBBIN
TIẾP TỤC VẬN ĐỘNG
Không rõ tình
bằng hữu có một sức mạnh huyền bí gì mà khiến được một con người thường ngày
vẫn lùy xùy, hoặc lạnh lùng hoặc nhút nhát có thể trở thành khôn ngoan, hoạt
động, cương quyết, trong khi lo liệu công việc cho bạn mình? Cũng giống như
trường hợp của Alexis, sau khi được giáo sư khoa thôi miên Elliotson khoa tay
vài cái trước mặt, anh ta bỗng nhiên coi khinh những sự đau đớn về thể xác,
quay lưng lại cũng đọc được sách, mắt nhìn thấy cách hàng dặm đường, biết trước
cả tuần lễ sau sẽ xảy ra những chuyện gì, ấy là chưa kể bao việc kỳ lạ khác;
thế mà thường ngày, anh ta chỉ là một đồ vô tích sự. Trong những sự việc ở đời
cũng vậy, mãnh lực diệu kỳ của tình bạn biến được kẻ thù nhút nhát thành can
đảm, người e lệ thành bạo dạn, kẻ lười biếng thành năng động và người xốc nổi
trở thành điềm tĩnh và khôn ngoan. Vì cớ gì một viên thầy kiện hủy bài cãi của
mình mình đi, và chịu tìm đến ông bạn đồng nghiệp tài ba hơn để xin giúp ý
kiến? Tại sao một vị bác sĩ mắc bệnh, lại cho chịu đi mời ông thầy thuốc vẫn
cạnh tranh với mình đến nghe mạch, mà không ngồi vào trước gương thè lưỡi ra
soi để tự mình định bệnh kê đơn lấy? Những câu hỏi ấy xin nhường các bạn đọc
giải quyết hộ; các bạn vẫn thông minh, vẫn rõ chúng tôi có thói vừa cả tin lại
vừa hoài nghi, vừa dễ dãi, vừa bướng bỉnh, tin người, nhưng lại không tin ngay
chính mình. Anh bạn Dobbin của chúng ta thuộc loại người dễ tính, giả dụ trước
kia bị gia đình thúc bách quá, có lẽ anh ta đã xuống nhà bếp mà lấy chị đầu bếp
làm vợ. Ví phỏng chỉ để lo việc cho bản thân thôi, thì đối với anh ta đi ra phố
cũng là chuyện trăm nguy ngàn khó; nhưng nếu lại là lo việc cho Osborne thì anh
chàng quen “cơm nhà việc người” này rất hăng hái, không quản khó nhọc, y như
một tay chạy việc ích kỷ nhất, xưa nay chỉ biết mưu lợi cho bản thân.
Trong khi George
và cô vợ trẻ đang say sưa hưởng thụ những ngày nồng nàn hạnh phúc đầu tiên của
tuần trăng mật ở Brighton, thì anh chàng Dobbin thật thà này ở lại Luân-đôn với
tư cách là đại diện toàn quyền của bạn để thu xếp nốt những chuyện liên quan
đến việc cưới xin vừa qua. Nhiệm vụ của Dobbin còn phải làm cho Joe và em rể
thân mật với nhau hơn, nhằm mục đích dùng cái địa vị ủy viên tài phán quận
Boggley Wollah của Joe bù vào chỗ ông Sedley bị mất hết danh vọng vì phá sản;
cũng lại Dobbin phải lo vận động sao cho ông già Osborne thuận trở lại công
nhận hôn ước giữa hai gia đình; và cuối cùng, Dobbin sẽ tìm cách báo tin George
cưới vợ cho ông già biết, sao cho ông đỡ bực mình.
Dobbin mới tính
toán rằng, trước khi đến chạm trán với ông chủ gia đình Osborne để báo tin này,
cần tranh thủ cảm tình của những người trong nhà đã và, nếu có thể, vận động
được cho hai chị em cô Osborne về phe mình.
Theo ý anh ta,
không có lẽ nào hai cô thiếu nữ lại nỡ lòng giận George vì chuyện này. Ở đời có
người phụ nữ nào lại bất bình thực sự vì cuộc tình duyên lãng mạn? Chẳng qua họ
cũng chỉ khóc lóc gọi là tý chút, rồi cũng sẽ làm lành với George thôi; thế là
hai cô con gái và Dobbin, cả ba sẽ góp sức mà bao vây ông Osborne. Viên sĩ quan
lục quân kiêm chính khách đại tài này bắt đầu tìm một biện pháp vui vẻ hoặc một
chiến thuật khả dĩ dẫn hai chị em cô Osborne đi vào câu chuyện bí mật của
George một cách từ từ và khéo léo. Dobbin chỉ cần dò hỏi xem mẹ mình thường hay
đi chơi những đâu và gặp những ai, là có thể biết nên đến chỗ nào thì có hy vọng
gặp mặt hai chị em cô Osborne. Xưa nay, anh ta vẫn rất ghét những chuyện khách
khứa. Tiệc tùng -những thú vui này, than ôi, khá nhiều người đàn ông biết suy
nghĩ lại rất say mê - nhưng anh ta cũng tìm cách len vào bằng được một cuộc
tiếp tân có mặt hai chỉ em cô thiếu nữ. Trong buổi dạ hội này, Dobbin nhảy với
mỗi cô một hai lần, tỏ ra đặc biệt lịch thiệp, đoạn mới lấy can đảm yêu cầu cô
Jane Osborne sớm hôm sau cho gặp mặt khoảng mươi phút để báo một tin hết sức
quan trọng.
Cớ làm sao nghe
Dobbin nói thế, cô ta lại giật nảy mình, nhìn chằm chằm anh chàng một lúc rồi
cúi mặt xuống, như thể muốn ngã ngay vào cánh tay anh ta mà ngất lịm đi? Nhưng
may quá, đúng lúc ấy Dobbin lại vô ý giẫm ngay lên bàn chân cô ta, nhờ thế cô
thiếu nữ tự trấn tĩnh được kịp thời. Tại sao cô ta lại bị xúc động đến khi nghe
lời yêu cầu đó của Dobbin? Ai mà biết được. Chỉ biết rằng sớm hôm sau, khi
Dobbin đến thăm thì cô Maria không có mặt trong phòng khách như mọi khi; còn bà
Wirt thì cũng bỏ ra ngoài lấy cớ đi tìm cô Maria; còn lại một mình anh chàng
đại úy ngồi với cô Jane Osborne. Cả hai cùng yên lặng: chiếc đồng hồ có tượng
Iphigenia đặt trên mặt lò sưởi kêu tích tắc nghe rõ mồn một, rõ một cách khó
chịu. Cuối cùng, cô Osborne lên tiếng trước, có ý khuyến khích :
- Buổi dạ hội đêm
qua vui quá nhỉ, và...và...hồi này ông khiêu vũ tiến bộ lắm, đại úy Dobbin ạ.
Cô thân mật tiếp
theo, có vẻ hơi ranh mãnh:
- Hẳn phải có
người nào luyện hộ ông, có đúng không nào?
- Giá cô được xem
tôi nhảy điệu “reel”() với bà thiếu tá O’Dowd của chúng tôi, và điệu “jig”()
nữa... cô đã xem nhảy điệu “jig”, bao giờ chưa? Nhưng theo ý tôi, nhảy với cô,
người kém cũng thành giỏi; cô nhảy khéo tuyệt.
Cô thiếu nữ tò mò
hỏi:
- Bà thiếu tá có
trẻ đẹp không, ông đại úy? Người đẹp lại hỏi tiếp:- Chao ôi! Là vợ sĩ quan chắc
phải ghê gớm lắm nhỉ? Tôi khó lòng tưởng tượng nổi vào thời buổi chiến tranh
này, cái bà ấy còn nghĩ đến chuyện khiêu vũ được. Đại úy Dobbin ạ, thỉnh thoảng
cứ nghĩ đến cậu em George yêu quý của tôi cùng bao nhiêu nỗi hiểm nguy đang đe
dọa thân phận đáng thương của người lính mà tôi run lên vì sợ hãi đấy. Trong
trung đoàn của ông có nhiều sĩ quan có vợ không, ông đại úy?
Bà Wirt đang ghé
tai vào cửa nghe trộm, nghĩ bụng: “Chết thật, cái cô này ăn nói lộ liễu quá đi
mất”. Nhưng câu nói thầm của bà không lọt đến tai người ngồi trong phòng.
Dobbin đi thẳng
vào vấn đề:
- Trong bọn anh
em chúng tôi, cũng có một người vừa cưới vợ; hai người yêu nhau đã lâu, nhưng
họ nghèo quá, không một xu dính túi ().
Nghe mấy tiếng
“yêu nhau đã lâu và nghèo”, cô Osborne bèn kêu lên:
- À tuyệt quá
nhỉ? Thật là thi vị!
Thấy cô thiếu nữ
tỏ vẻ thông cảm, Dobbin bạo dạn hơn, tiếp:
- Anh ta là một
thanh niên tuấn tú nhất trung đoàn đấy. Cả quân đội không có sĩ quan nào can
đảm và đẹp trai hơn; mà người vợ thì xinh thật là xinh! Giá cô nhìn thấy cũng
phải yêu cô Osborne ạ; cô mà gặp cô ấy thì nhất định cô cũng mến.
Cô thiếu nữ nghĩ
thầm giờ phút quyết định đã bắt đầu vì thấy Dobbin có vẻ lúng ta lúng túng,
những thớ thịt trên mặt anh ta cứ giật giật, đôi bàn chân to kếch động đậy
luôn, mấy ngón tay thì cứ lần mãi trên hàng khuy áo, hết cởi ra lại cài vào.
Chắc rằng điệu bộ anh chàng lúng túng thế kia, ý hẳn sắp sửa dốc cạn bầu tâm
sự, cô bèn hăm hở sửa soạn lắng nghe. Vừa lúc ấy, chiếc đồng hồ trên có pho
tượng Iphigenia kêu rè rè một hồi, rồi ngân nga điểm mười hai tiếng liền. Chỉ
gõ có mười hai tiếng chuông mà tưởng như lâu đến một giờ. Cô thiếu nữ chưa
chồng đang khát khao chờ đợi thấy đồng hồ đánh chuông sao mà chậm quá thế!
Dobbin nói:
- Nhưng hôm nay
tôi không định nói chuyện về việc cưới xin...nghĩa là việc cưới xin của...nghĩa
là...không, tôi định nói rằng...cô Osborne ạ, tôi định nói chuyện về anh bạn
George thân yêu của tôi.
- Thì ra ông nói
chuyện về George!
Giọng nói của cô
thiếu nữ lộ vẻ thất vọng quá rõ ràng làm cho cô Maria và bà Wirt đứng nghe trộm
ngoài cửa phải bật cười; Dobbin xuýt nữa cũng phải tủm tỉm vì không phải là anh
ta không biết rằng mình đã lọt được vào mắt xanh của cô thiếu nữ. Trước kia,
nhiều lần George đã bỡn cợt bạn thế này: “Bỏ mẹ thật! Thế mà anh không chịu lấy
bà gái già Polly nhà tôi làm vợ. Anh chỉ hỏi một tiếng là xong. Tôi đánh cuộc
với anh năm đồng ăn hai này.”
Dobbin bèn nói
tiếp:
- Thưa vâng, về
George. Giữa anh ấy và cụ ông nhà ta trước kia có chút xích mích. Tôi quý anh
ấy lắm...chắc cô cũng biết chúng tôi thân nhau như anh em ruột...cho nên tôi
không ao ước gì hơn là được thấy hòa khí giữa cụ nhà và anh ấy. Cô Osborne ạ,
chúng tôi sắp phải ra ngoại quốc rồi. Mệnh lệnh xuất quân sẽ ban xuống không
biết lúc nào. Mà ra trận thì cũng không biết thế nào mà nói trước…Cô Osborne ạ,
việc gì mà sợ hãi...Vì vậy, trước khi đi ra, cũng mong anh ấy được cụ nhà
thương đến.
Cô thiếu nữ đáp:
- Đại úy Dobbin,
nào có chuyện lôi thôi gì đâu; xưa nay giữa hai cha con vẫn thường có những chuyện
xích mích nhỏ. Ngày nào chúng tôi cũng mong George trở về. Ba tôi chỉ ước mong
điều hay cho cậu ấy. George cứ yên trí trở về nhà, tôi cam đoan mọi sự đều ổn
thỏa, êm đẹp. Em Rhoda nó hồi nãy đây còn có vẻ rất buồn rầu, bực bội; nhưng
tôi biết, thế nào nó cũng sẵn sàng tha thứ cho anh nó. Đại úy, ạ phụ nữ chúng
tôi vẫn dễ tha thứ lắm cơ.
Dobbin rất khôn
ngoan đáp ngay:
- Một vị thiên
thần như cô chắc hẳn dễ tha thứ cho người khác rồi. Vả lại người đàn ông nào
làm cho đàn bà đau khổ, thật đáng tội lớn. Giả dụ có người đàn ông nào không
trung thành với cô, liệu cô cảm thấy thế nào nhỉ?
- Tôi ấy à?...Thế
thì tôi chết mất...Tôi sẽ nhảy qua cửa sổ tự tử ngay... Tôi sẽ uống thuốc
độc... Tôi sẽ héo hon rầu rĩ đi mà chết. Chắc chắn như vậy.
Tuy cô thiếu nữ
hăng hái tuyên bố thế, nhưng thực ra, cô đã từng trải qua đôi ba cuộc thất bại
trên trường tình mà chưa hề thấy bao giờ cô nghĩ đến chuyện từ bỏ cõi đời.
Dobbin lại tiếp:
- Tôi biết nhiều
người cũng có một tấm lòng chung thủy cao quý như cô đấy. Tôi không định nói về
cô thiếu nữ triệu phú con gái cái gia đình ở Tây Ấn đâu; tôi chỉ muốn nói về
một người con gái trước kia đã từng được George yêu, và từ tấm bé đã chỉ một
lòng tâm tâm niệm niệm nghĩ tới anh George. Tôi đã thấy cô ấy chịu đựng cảnh sa
sút thiếu thốn một cách nhẫn nại, không hề than vãn nửa lời tuy rất đau khổ,
không ai chê trách được điều gì Tức là tôi muốn nói về cô Amelia Sedley. Cô
Osborne thân mến, không có lẽ con người rộng lượng như cô lại nỡ giận anh
George chỉ vì anh ấy trung thành với Amelia? Ví thử George bỏ rơi Amelia, liệu
chính anh ấy có khỏi bị lương tâm cắn rứt hay không? Cô hãy thương lấy
Amelia...xưa nay cô ấy vẫn quý cô lắm cơ mà...và...và...hôm nay tôi được George
ủy nhiệm đến đây thưa lại với cô rằng anh ấy coi sự đính ước cũ với Amelia là
một điều thiêng liêng nhất và tôi cầu xin cô ít nhất thì cũng bênh vực cho anh
ấy.
Khi nào Dobbin có
điều gì xúc động mạnh, thường thường sau vài câu nói lúng túng rụt rè ban đầu,
anh ta nói rất lưu loát; lần này tài hùng biện của Dobbin rõ ràng có ảnh hưởng
đến thái độ của cô thiếu nữ. Cô đáp:
- Dạ...thật là
một điều...hết sức kỳ quái...hết sức đau xót thật không ngờ... không biết ba
tôi sẽ nghe ra sao. Thế là bao nhiêu công lao của ba tôi định gây dựng cho
George một cơ đồ lộng lẫy huy hoàng, cậu ấy đổ xuống sông xuống biển sạch...
Nhưng mà, đại úy Dobbin ạ, cậu nó nhờ tay ông lo liệu giúp, thật là biết “chọn
mặt gửi vàng” đấy.
Ngừng một lát cô
nói tiếp:
- Tuy vậy, cũng
không ăn thua gì. Đối với cô Sedley, tôi vẫn có bụng mến...thành thực mà nói
thế, chắc ông cũng rõ. Xưa nay, chúng tôi vẫn không tán thành cuộc nhân duyên
này lắm, nhưng chúng tôi đối với cô ấy vẫn rất tốt...tốt lắm. Có điều ba tôi
không bằng lòng đâu, chắc chắn như vậy. Vả lại, ông cũng hiểu rằng một người
thiếu nữ có giáo dục... mà sáng suốt, biết điều, thì phải... nghĩa là…đại úy
Dobbin ạ, thế nào George cũng phải thôi cô ấy đi, không có cách nào khác.
Dobbin chìa
tay ra nói:
- Thế ra
một khi người yêu bị lâm vào cảnh hoạn nạn, người đàn ông đành phải bỏ rơi họ
sao? Cô Osborne ơi, có thật đó là lời chính cô khuyên tôi không? Xin cô hãy
thương lấy Amelia; George không thể nào bỏ cô ấy được đâu. Không thể nào như
vậy được. Ví dụ bây giờ cô nghèo đi, liệu có nên khuyên người đàn ông bỏ cô
không?
Câu hỏi
khôn ngoan này xúc động trái tim cô Osborne không ít; cô đáp:
- Đại úy ạ,
không rõ bọn thiếu nữ đáng thương chúng tôi có nên tin lời đường mật của đàn
ông các ông không. Xem tính tình cô ta hiền hậu như thế có lẽ cũng cả tin. Tôi
e rằng đàn ông các ông độc ác lắm, hay lừa dối lắm.
Đồng thời,
Dobbin cảm thấy bàn tay cô Osborne đưa ra xiết chặt lấy tay mình.
Dobbin
buông tay cô ta ra có vẻ hơi hốt hoảng nói:
- Hay lừa
dối! Cô Osborne thân mến ạ; đàn ông chúng tôi không phải ai cũng thế đâu. Em
trai cô không phải là hạng người ấy. George đã yêu Amelia từ hồi hai người còn
nhỏ. Sẽ không có sự giàu sang phú quý nào xui được anh ấy từ bỏ Amelia để lấy
người khác làm vợ. Bây giờ George phải thôi cô ấy sao? Có phải cô khuyên George
hành động như vậy không?
Cô Jane còn
biết trả lời thế nào nữa, nhất là cô lại đang ôm một ý định thầm kín đối với
Dobbin. Không sao trả lời được cô đành nói đỡ đòn thế này:
- Vâng, nếu
các ông không phải là tuồng dối trá thì ít nhất các ông cũng lãng mạn lắm lắm.
Đại úy
Dobbin khôn ngoan bỏ qua lời nhận xét, không cãi lại. Cuối cùng, sau một hồi
thuyết lý khéo léo đầy lễ độ, Dobbin cảm thấy lúc này cô Osborne đã được chuẩn
bị tâm trạng đầy đủ để nhận tin tức cuối cùng; anh chàng bèn rót vào tai cô
thiếu nữ: “George không sao xa cách Amelia được, George đã cưới Amelia làm vợ
rồi”.
Đoạn anh ta
kể lại tỷ mỷ cuộc hôn lễ mà các bạn đã rõ: Dobbin bảo rằng nếu George không giữ
lời ước cũ, có lẽ Amelia đến chết vì đau khổ mất; ông Sedley nhất định không
chịu công nhận việc cưới xin này, nhưng rồi cũng thu xếp ổn thỏa. Joe Sedley
cũng đã từ Cheltenham về để dẫn em gái đến trước bàn thờ làm lễ. Sau đó đôi vợ
chồng mới ngồi xe bốn ngựa của Joe đi Brighton hưởng tuần trăng mặt, George hy
vọng rất nhiều sẽ được chị và em gái giúp đỡ mình xin cha tha thứ; George tin
chắc như vậy, vì hiểu rằng tâm hồn phụ nữ vốn hiền thục và dịu đàng. Đoạn
Dobbin yêu cầu cô Osborne cho phép mình gặp lại (cô sẵn sàng ưng thuận ngay),
rồi đứng dậy cáo từ, anh ta đoán chắc chỉ năm phút sau là câu chuyện sẽ đến tai
cô Maria và bà Wirt. Đại úy Dobbin cúi chào rồi từ giã.
Dobbin vừa
ra khỏi cửa thì cô Maria và bà Wirt đã nhảy xổ vào trong phòng; thế là câu
chuyện bí mật được cô Jane kể lại đầu đuôi tỷ mỷ. Công bằng mà nói thì cả hai
cô thiếu nữ không ai lấy làm khó chịu lắm về việc này. Những cuộc hôn nhân táo
bạo như thế vẫn có một cái gì đặc biệt khiến cho rất ít người đàn bà nghe
chuyện mà công phẫn thực sự; hai cô thiếu nữ lại thấy mến phục Amelia hơn
trước, vì cô đã nhận lời thành hôn với George trong trường hợp éo le này. Đang
khi ba người sôi nổi bàn tán với nhau không biết rồi ông Osborne sẽ có thái độ
ra sao, thì ngoài cửa đã có tiếng gõ cửa mạnh, y như tiếng sét đột ngột của sự
trả thù, làm cho cuộc hội kín phải ngừng lại. Mọi người đoán chắc “ba” đã về;
nhưng không phải. Đó chỉ là anh chàng Frederick Bullock; y lời hẹn, anh ta từ
khu City đến mời hai cô thiếu nữ đi xem triển lãm hoa.
Chẳng nói
cũng rõ Bullock được mọi người kể lại ngay câu chuyện bí mật. Nghe xong, thấy
bộ mặt anh ta đã ra có vẻ hết sức ngạc nhiên, khác hẳn cái vẻ đa cảm đang lộ ra
trên nét mặt hai cô gái. Bullock là một nhà doanh thương, có cổ phần trong một
hãng buôn lớn. Anh ta hiểu rõ cổ phần trong một hãng buôn lớn. Anh ta hiểu rõ
thế nào là đồng tiền, và giá trị của nó ra sao. Niềm hy vọng làm cho đôi mắt ty
hý của anh ta sáng rực lên. Anh ta vừa mỉm cười với cô Maria vừa tính nhẩm rằng
phen này sự điên rồ của George hẳn sẽ nâng giá trị của cô vợ chưa cưới lên thêm
ba vạn đồng nữa là ít.
Anh ta nhìn
cô chị vợ, vẻ mặt kính nể, nói:
- Trời đất
ạ; chị Jane, Eels nghe tin này chắc đến phát khóc mất. Chị sắp đáng giá năm vạn đồng rồi đấy.
Cho đến lúc này,
hai chị em cô thiếu nữ chưa kịp nhớ đến chuyện tiền nong; suốt cuộc đi chơi
sáng hôm ấy, Bullock luôn mồm bỡn cợt hai chị em về vấn đề này; đến trưa, khi
hai cô về nhà dùng bữa, chính họ cũng cảm thấy hãnh diện hơn trước thái độ ích
kỷ ấy; nào có gì là khác thường đâu? Bởi vì sớm hôm nay kẻ viết truyện này có
đi xe ngựa thuê từ Richmond; lúc xe đến trạm thay ngựa, tôi ngồi ngất nghểu
trên mui nhìn xuống thấy ba đứa trẻ bẩn thỉu đang vầy một vũng nước bên vệ
đường, cười đùa vui vẻ lắm. Bỗng có một con bé chạy đến nói: “Này Polly, em mày
được một xu đấy”. Lập tức ba đứa kia bỏ vũng nước, chạy ra nịnh nọt con bé
Peggy đi trước, đám trẻ con bâu theo sau, cả bọn đường hoàng tiến tới quày hàng
kẹo của một bà gần đấy.
Chương 24
ÔNG OSBORNE XÓA
TÊN CON TRONG QUYỂN THÁNH KINH
Báo tin cho cô
chị và cô em gái Osborne xong, Dobbin vội vã đến khu City để thực hiện phần
nhiệm vụ còn lại, cũng là phần việc khó khăn nhất. Cứ nghĩ đến phải gặp mặt ông
già Osborne, Dobbin cũng đã thấy ngài ngại; nhiều lần anh ta định cứ để hai chị
em cô Osborne báo tin ấy cho cha họ, vì anh ta biết họ không thể giấu tín việc
ấy được lâu. Nhưng Dobbin hứa với George sẽ kể lại tình hình khi ông Osborne
biết tin con lấy vợ như thế nào. Vì vậy, anh ta tìm đến phố Thames, nơi đặt văn
phòng của ông Osborne tại khu City, và đưa một tấm thiếp tỏ ý muốn được tiếp
trong nửa giờ để nói về việc của con trai ông cụ là George. Người đưa thư trở
về cho biết ông lão rất vui lòng, và muốn gặp mặt viên đại úy ngay lập tức; thế
là Dobbin đến gặp mặt ông lão. Dobbin bước vào văn phòng của ông già, cảm thấy
hình như mình là kẻ có tội, và yên trí giữa hai người sẽ xảy ra một cuộc thảo
luận gay go. Dáng điệu âu sầu, vẻ mặt lo lắng, anh ta đi ngang qua gian phòng
ngoài, nơi ông Chopper ngồi làm việc, thấy ông này ngồi bệ vệ sau bàn giấy, gật
đầu chào có vẻ chế nhạo làm cho Dobbin càng mất tinh thần. Ông Chopper nháy
mắt, gật đầu, giơ cái bút chì về phía cửa phòng làm việc của chủ, vui vẻ một
cách đặc biệt nói:
- Mời ông vào, cụ
chủ trong ấy đấy.
Ông Osborne cũng
đứng dậy đón, giơ tay ra bắt rất thân mật:
- Thế nào, con
thân yêu, khỏe chứ?
Thái độ vồ vập
của ông già càng khiến cho tay “thuyết khách” của George cảm thấy mình có tội.
Bàn tay anh ta đờ ra trong nắm tay của ông lão. Anh ta cảm thấy như chính mình
ít nhiều đã gây ra mọi chuyện rắc rối. Chính anh ta đã đưa George trở lại với
Amelia, chính vì anh ta đã tán thành, đã khuyến khích, đã gần như sắp đặt tất
cả việc hôn nhân; bây giờ anh ta đã đến để kể lại cho ông Osborne nghe, thế mà
ông già tươi tỉnh tiếp đãi như vậy, lại thân mật vỗ vai, anh ta mà gọi “Dobbin
con thân yêu”. Chao ôi! Nghĩ mà có thể treo cổ lên tự vẫn ngay được.
Ông Osborne hoàn
toàn yên trí rằng Dobbin đến cốt báo tin George chịu đầu hàng rồi. Lúc nhận
được tấm thiếp của Dobbin, ông Chopper và chủ đã trao đổi ngay về chuyện hai
cha con xích mích với nhau; cả hai đều cho rằng George đã chịu khuất phục. Mấy
hôm nay họ vẫn chờ đợi tin này.
Ông Osborne bật
mấy ngón tay chuối mắn kêu đánh tách một cái, xóc xóc mấy đồng ghi nê trong túi
cho kêu sủng soảng, liếc nhìn người làm công của mình với vẻ mặt của kẻ thắng
trận, nói:
- Lạy Chúa, ông
Chopper ạ, chúng ta sẽ tổ chức một đám cưới thật linh đình.
Vừa thọc cả hai
tay vào túi xóc xóc mấy đồng đồng tiền, vẻ mặt yên trí hể hả, ông Osborne ngồi
trên ghế bành nhìn thẳng vào Dobbin đang tái mặt đi im lặng; ông già nghĩ thầm:
- Là một đại úy
trong quân đội mà thế này thì đần quá. Tại sao không học thằng George lấy ít cử
chỉ lịch sự nhỉ?
Cuối cùng Dobbin
thu hết can đảm bắt đầu:
- Thưa cụ, tôi
đến báo cụ hay một tin, rất quan trọng. Sáng nay tôi có đến trại ngự lâm quân,
và được tin chắc chắn rằng trung đoàn của chúng tôi sẽ được lệnh điều động ra
ngoại quốc; nội trong tuần này sẽ sang Bỉ. Chắc cụ cũng thấy, trước khi lại
được về nước, thế nào cũng phải tham chiến và cũng có thể nhiều người trong số
chúng tôi gặp điều bất hạnh.
Ông Osborne có vẻ
trầm ngâm:
- Thằng con...tôi
chắc trung đoàn sẽ làm tròn nhiệm vụ, thưa ông.
Dobbin tiếp:
- Thưa cụ, bọn
Pháp rất mạnh. Phải một thời gian khá lâu thì quân Nga và quân Áo mới đến tiếp
viện được. Như vậy chúng ta phải đứng đầu sóng ngọn gió. Chắc chắn Boney sẽ gây
cho ta rất nhiều khó khăn.
Ông già cau mày:
- Ông định nói gì
vậy? Tôi tin rằng không một người Anh nào lại sợ bọn Pháp.
- Tôi chỉ muốn cụ
hiểu cho rằng, trước khi chúng tôi lên đường, xin cụ hãy nghĩ đến những sự nguy
hiểm ghê gớm chắc chắn chúng tôi sẽ gặp phải...mà nếu có sự xích mích giữa cụ
và anh George thì...thì...thưa cụ, mong cụ cũng vui lòng bỏ qua cho; được không
ạ? Tôi nghĩ rằng, nếu sau này George gặp điều gì không may, chắc cụ chẳng bao
giờ tự tha thứ cho mình vì lúc chia tay vẫn còn giận anh ấy.
Mặt Dobbin đỏ tía
lên; anh ta cảm thấy rõ ràng mình là thằng phản bội, bởi vì nếu không có anh ta
chắc hẳn hai cha con nhà này không có chuyện gì phải xích mích với nhau. Tại
sao không lùi cuộc hôn nhân của George lại? Việc gì phải hối hả thế. Anh ta cảm
thấy George có thể xa cách người yêu của mình mà không đến nỗi chết vì đau khổ.
Còn Amelia thì cũng rất có thể hàn gắn được vết thương lòng. Chính vì anh ta
nên mới có chuyện cưới xin rồi sinh ra bao nhiêu chuyện rắc rối. Mà bởi đâu?
Chỉ tại anh ta yêu cô thiếu nữ quá, không đành lòng nhìn cô ta đau khổ; hoặc có
lẽ vì Dobbin không thể chịu nổi tình trạng lửng lơ nó giày vò mình, nên sẵn
sàng chấm dứt nó cho xong chuyện...giống như khi có người chết, ta muốn chôn
cất cho nhanh chóng, hoặc như ta biết chắc chắn phải xa cách một người thân
yêu, thì chỉ khi đã chia tay nhau rồi, tâm trạng mới thư thái được.
Ông Osborne dịu
dàng nói:
- William, ông là
người rất tốt; và George không nên chia tay nhau mà vẫn còn xích mích. ông xem
đấy, đối với nó, tôi đã làm mọi việc một người cha có thể làm. Tôi chắc rằng
tôi đã cho nó nhiều gấp ba lần ông cụ nhà ta cho ông để tiêu. Tôi không khoác
lác làm gì đâu. Vì nó, tôi đã vất vả, tôi đã phải phí biết bao tâm lực, tài
trí; ông cứ hỏi Chopper, cứ hỏi ngay chính nó thì biết ông cứ hỏi cả khu City ở
Luân-đôn này. Thật thế, tôi đã lo cho nó một đám mà bất cứ nhà quý tộc nào
trong nước cũng phải thèm muốn…cả đời, tôi chỉ nhờ nó có một việc ấy...thế mà
nó không nghe tôi. Vậy thì tôi có lỗi không? Tôi chỉ muốn điều hay cho nó, vì
vậy tôi phải chịu vất vả như một tên tù khổ sai từ khi sinh ra nó đến giờ.
Không ai có thể bảo tôi ích kỷ được. Cho phép nó trở về, tôi sẵn lòng quên hết
và tha thứ. Còn chuyện cưới xin thì thôi, chưa nói đến vội. Nó sẽ làm lành với
cô Swartz; và bao giờ nó trở về với cái lon đại tá sẽ lo việc thành hôn cũng
không muộn. Nếu chỉ cần có tiền là được làm đại tá thì, lạy Chúa, yên trí lắm.
Ông đã khuyên nó biết nghĩ lại, thật may mắn quá. Dobbin, tôi biết lắm, chính
nhờ có ông mới được vậy. Lâu nay, ông vẫn giúp nó thoát nhiều rắc rối. Nó cứ
trở về, tôi sẽ không nghiêm khắc. Hôm nay, cả hai anh em về khu phố Russell ăn
cơm nhé. Vẫn ngôi nhà mọi khi, và vẫn đúng giờ thường lệ. Sẽ có thịt thú rừng,
và sẽ không ai căn vặn nó điều gì hết.
Thấy ông già ca
ngợi và tỏ ý quá tin tưởng mình. Dobbin rất đau lòng. Càng nghe ông già nói,
Dobbin càng cảm thấy mình có tội. Anh ta đáp:
- Thưa cụ, có lẽ
cụ đã hiểu; vâng, chắc chắn như vậy. George là người cao thượng quá, chắc không
bao giờ chịu lấy vợ vì tiền. Nếu cụ đe dọa sẽ truất quyền thừa kế vì cưỡng lời
cụ, e rằng anh ấy càng thêm gan góc
Ông Osborne vẫn
khôi hài, nói:
- Thế nào? Chết
chưa? Cái ông này. Muốn cho nó mỗi năm được hưởng tám nghìn hoặc một vạn đồng,
mà ông gọi là dọa nó? Lạy Chúa, nếu cô Swartz ưng lấy tôi thì tôi xin ký ngay
cả hai tay. Tôi không khó tính lắm về chuyện nước da sẫm hay nhạt.
Ông già nhếch mép
một cách tinh quái và cười khà khà. Vị “sứ giả” trịnh trọng đáp:
- Thưa cụ, cụ
quên mất rằng đại úy Osborne đã có nơi đính ước.
Đột nhiên lại
nghe nhắc đến chuyện này, ông Osborne vừa ngạc nhiên, vừa tức giận.
- Đính ước nào?
Ông định nói chuyện quái quỷ gì đấy? Ông không định nói rằng cái thằng con tôi
ngu xuẩn đến mức cứ nhất định bám chặt lấy đứa con gái của tên lừa đảo, phá sản
kia chứ? Ông có định đến đây cốt cho tôi biết rằng nó nhất định lấy con bé ấy
làm vợ không? Lấy nó làm vợ, đẹp đẽ nhỉ! Con trai tôi, kẻ thừa kế của tôi mà
lấy con gái một tên ăn mày từ cống rãnh chui lên. Nếu thật thế, thì nó hãy kiếm
một cái chổi liệu mà đi quét đường sớm. Tôi nhớ ra rồi, mọi khi con bé vẫn lượn
quanh con tôi mà liếc tình. Nhất định cái thằng bố lừa đảo nó xui nó “chài” con
tôi đây.
Dobbin ngắt lời:
dường như anh cảm thấy hài lòng vì chính mình phát cáu:
- Thưa cụ, ngày
xưa, ông Sedley vẫn chơi thân với cụ. Đã có hồi cụ không gọi ông ấy là đồ lừa
đảo, là đồ khốn, mà gọi bằng những danh từ khác đẹp đẽ hơn. Chính vì cụ mà có
chuyện đính ước kia, cho nên George không có quyền chơi đùa, muốn lấy muốn bỏ
tùy thích...
Ông già Osborne
quát lên:
- Lấy với chả bỏ!
Cái thằng con trai thượng lưu nhà tôi cũng nói với tôi y như thế đấy; cái hôm
thứ ba cách đây nửa tháng, nó khệnh khạng vác mặt đến dọa dẫm bố đẻ ra nó về
những chuyện quận đội nước Anh dự trận. Vậy ra chính ông, ông đại úy, chính ông
xui nó nói thế. Xin đa tạ ông, ông đại úy ạ. Thế ra ông muốn dắt bọn ăn mày vào
nhà tôi; cảm ơn cái trò vô tích sự của ông lắm lắm, ông đại úy ạ. Lấy con bé
ấy... Hi hi? Việc gì tôi phải lấy nó nhỉ? Tôi cam đoan với ông rằng chẳng cần
phải cưới xin gì thì con bé ấy vẫn cứ bám lấy nó cho mà xem.
Dobbin đứng phắt
dậy, giận dữ ra mặt:
- Thưa cụ, tôi sẽ
không để cho ai nói xấu cô ấy trước mặt tôi, nhất là người nói xấu lại là cụ.
- Ông thách thức
tôi đấy phải không? Được, để tôi kéo chuông gọi mang hai cây súng lục. Thằng
George cử ông đến để chửi bố nó, có phải không?
Ông Osborne vừa
nói, vừa giơ tay kéo chuông.
Dobbin,
giọng run run nói:
- Cụ
Osborne, chính cụ đã sỉ nhục một con người tốt nhất đời này. Cụ nên tránh cho
cô ấy điều đó vì cô ấy đã là vợ con trai cụ.
Dobbin
không nói gì thêm được nữa, bước ra ngoài.
Ông Osborne
ngồi phịch xuống ghế bành mắt mở trừng trừng nhìn theo. Nghe tiếng chuông, một
nhân viên bước vào. Viên đại úy bước ra sân thì ông Chopper, người thư ký
riêng, đầu để trần chạy theo. Ông ta túm lấy vạt áo Dobbin, hỏi:
- Lạy Chúa
tôi, có chuyện gì thế? Cụ chủ tôi đang như điên kia kìa. Ông George đã làm gì
vậy?
- Ông ấy
cưới cô Sedley đã năm hôm nay rồi. Chính tôi đi phù rể, ông Chopper ạ; và ông
nên ủng hộ người bạn của ông ta.
Viên thư ký
già lắc đầu:
- Đại úy
ơi, nếu quả thế thì thật là một tin buồn. Cụ chủ không bao giờ tha thứ cho ông
ấy đâu.
Dobbin yêu
cầu ông Chopper thấy tình hình thế nào thì báo cho mình biết tại khách sạn, nơi
anh ta vẫn trọ, đoạn buồn bã đi về hướng Tây, hết sức hoang mang về chuyện đã
qua, cũng không biết rồi câu chuyện sẽ xoay ra sao.
Tối hôm ấy
khi cả gia đình ông Osborne ở khu phố Russell họp mặt lúc dùng bữa tối, mọi
người thấy ông già vẫn ngồi chỗ cũ, nhưng sắc mặt có vẻ rầu rĩ; như mọi khi,
thấy ông ta không vui mọi người cũng im lặng không dám nói năng gì. Hai cô con
gái và Bullock cùng ngồi ăn yên trí rằng ông Osborne đã biết tin ấy rồi. Trước
đôi mắt âu sầu của bố vợ, Bullock cũng thấy bối rối và cũng ngồi yên lặng;
nhưng hôm ấy anh ta tỏ vẻ đặc biệt săn sóc đến cô Maria ngồi bên cạnh và cô chị
ngồi mé đầu bàn chủ tọa bữa ăn. Bà Wirt thì ngồi trơ trọi một mình. Giữa bà và
cô Jane có một chỗ để trống; những khi về nhà ăn cơm, George vẫn ngồi chỗ ấy.
Mong con trai sẽ trở về, ông Osborne vẫn ra lệnh dọn phần ăn của anh ta. Suốt
bữa ăn, không có chuyện gì xảy ra, chỉ có tiếng Frederick thủ thỉ tâm tình với
người yêu, và tiếng bát đĩa chạm vào nhau kêu lanh canh. Bọn gia nhân rón rén
ra vào để hầu ăn. Vẻ mặt bọn họ trông còn rầu rĩ hơn cả những người đi đưa đám
ma. Ông Osborne lầm lỳ không nói không rằng, ngồi cắt khoanh thịt nai định dành
riêng để mời Dobbin đến ăn tối. Nhưng hầu như ông ta cũng không đụng đến phần
ăn của mình mặc dầu ông uống rất nhiều rượu; bác quản lý rất chăm chú rót thêm
rượu vào cốc của chủ.
Cuối cùng
đúng lúc bữa ăn chấm dứt, ông Osborne đưa mắt nhìn khắp mọi người, rồi dừng lại
trên chiếc đĩa của George. ông giơ tay trái chỉ vào chiếc đĩa. Hai cô con gái
nhìn bố, không hiểu, hoặc đúng hơn, sợ không dám hiểu; bọn gia nhân cũng không
biết chủ muốn gì. Sau cùng, ông thề độc một câu, đứng dậy nói:
- Cất cái
đĩa này đi.
Đoạn ông
đẩy chiếc ghế của mình ra đằng sau, bước về buồng riêng. Mé sau phòng ăn của
ông Osborne là một gian buồng thường vẫn được mệnh danh là phòng làm việc.
Phòng này dành riêng cho ông chủ gia đình. Sáng chủ nhật nào không muốn đi nhà
thờ, ông Osborne thường vào ngồi một mình trong phòng này và, ngồi thoải mái
trong tấm ghế bành bọc da đỏ, ông đọc báo. Trong phòng, kê hai cái tủ sách lồng
kính, chứa toàn tác phẩm cổ điển đóng cẩn thận, gáy mạ vàng. Có những quyển
“Niên giám”, những tập”Tuần báo của người thượng lưu”, những tập “Thuyết giáo”
của Blairs, và những tác phẩm của Hume and Smollett. Suốt từ ngày mồng một đầu
năm cho tới ngày 31 tháng chạp ông không hề lấy sách ra xem bao giờ, cũng không
một ai trong nhà dám táo gan mó đến; thỉnh thoảng, những buổi tối chủ nhật
không có khách đến chơi, ông Osborne mới lôi tập kinh thánh và cuốn kinh cầu
nguyện nằm trong góc tủ cạnh cuốn “Danh bạ quý tộc” ra; ông rung chuông tập hợp
tất cả mọi người trong phòng ăn và cất cái giọng oang oang the thé đọc một cách
long trọng. Từ trẻ con đến bọn đầy tớ trong nhà, không ai bước vào trong căn
phòng này mà không thấy sờ sợ. Chính tại đây ông Osborne vẫn ngồi kiểm tra sổ
sách chi tiêu trong nhà, và soát lại cuốn sổ rượu của bác quản lý. Cửa sổ căn phòng
này trông ra một cái sân rải đá sỏi và phía ngoài nối vào phòng. Thường ngày,
khi nghe thấy ông chủ đứng trong cửa sổ la hét, chửi rủa, là anh xà ích vội tòi
ngay từ trong căn lều của mình ra để nghe lệnh. Mỗi năm bốn lần bà Wirt được
bước vào căn phòng này để lĩnh tiền công, cũng như hai cô con gái được vào để
nhận tiền bố cho tiêu vặt từng quí. Hồi George còn bé nhiều lần đã bị án đòn
trong căn phòng này; trong khi ấy, bà mẹ nem nép ngồi ở cầu thang, hồi hộp đếm
từng ngọn roi một. Bị trừng phạt như vậy, mà ít khi thẳng bé kêu lấy một tiếng.
Bà mẹ đau thương lại giấu giếm vuốt ve hôn hít con trai, và cho tiền để an ủi
thằng bé. Mé trên lò sưởi, có treo một bức tranh gia đình; sau khi bà Osborne
chết, người ta tháo nó ngoài phòng khách đem treo vào đây. Tranh vẽ George cưỡi
một con ngựa non, người chị lớn bế cậu ta lên ngang bó hoa trang trí, cô em út
nắm tay mẹ. Cả bốn mẹ con má hồng hồng, môi tô son đỏ thắm, nhìn nhau mà mỉm
cười, đúng kiểu cổ truyền của những bức tranh gia đình. Bây giờ, bà mẹ nằm lâu
dưới mộ đã bị quên rồi... hai cô con gái và cậu con trai còn bận biết bao nhiêu
chuyện riêng và tuy họ vẫn sống chung dưới một mái nhà, nhưng thật ra đã hết
sức xa lạ đối với nhau. Vài chục năm nữa, khi những người trong tranh đã có
tuổi, bức tranh sẽ trở thành mỉa mai làm sao! Những trò hề tình cảm kia, những
nụ cười dối trá và những dáng điệu giả dối, tự mãn kia, không biết còn để lại
gì nữa không? Trong phòng ăn, nơi trước kia treo bức tranh gia đình này bây giờ
treo bức chân dung toàn thân của George tay cầm một bình mực lớn bằng bạc, ngồi
trong ghế bành.
Thấy ông
Osborne lui vào trong gian phòng riêng, mọi người nhẹ cả mình. Lúc bọn gia nhân
đã lùi ra cả, họ mới xì xào bàn tán sôi nổi với nhau, đoạn mọi người rón rén
lên gác; Bullock khe khẽ nhấc đôi giầy cứ kêu cót két lên để theo tiễn. Anh ta
không còn bụng dạ nào ngồi lại uống rượu vang một mình, vì cảm thấy mình kề sát
ông già ghê gớm đang ở trong phòng làm việc bên cạnh.
Mãi đến ít
nhất là một tiếng đồng hồ sau khi trời đổ tối, bác quản lý tuy không được lệnh
gọi nhưng cũng bạo gan gõ cửa phòng để mang nến và nước trà vào. Ông chủ gia
đình ngồi trong ghế bành, vờ như đang đọc báo khi người đầy tớ đặt cây nến và
khay nước trà lên mặt bàn bên cạnh rồi bước ra, ông Osborne bèn đứng dậy khóa
cửa lại. Lần này thì không còn nghi ngờ gì nữa; mọi người trong nhà đều biết
chắc chắn một việc ghê gớm lắm sắp xảy ra cho cậu George.
Chiếc bàn
giấy lớn bằng gỗ đào-hoa-tâm của ông Osborne có một cái ngăn kéo dành riêng để
đựng giấy má của con trai. Mọi thứ giấy tờ liên quan đến George từ bé tới lớn
đều để cả trong đó: Đây là những sách phần thưởng George, những sách tập vẽ còn
ghi lại nét vẽ của George, và của ông giáo; đây là những lá thư khi mới biết
viết, chữ to tướng, nét nguệch ngoạc, George viết hỏi thăm bố mẹ và xin bánh.
Trong thư nhắc luôn đến tên cha đỡ đầu là ông Sedley. Đọc qua mấy trang thư bắt
gặp cái tên ấy, ông Osborne mấp máy đôi môi nhợt nhạt thất ra mấy tiếng chửi
rủa; sự ngán ngẩm và nỗi căm giận khủng khiếp vò xé lòng ông. Những lá thư ấy
đều được xếp gọn; dán giấy nhãn bên ngoài và buộc bằng dây vải đỏ. Có tập ngoài
thấy ghi “Thư của George, xin 5 si-linh, ngày 23 tháng tư, 18... trả lời ngày
25 tháng tư. Trên một tập khác George xin một con ngựa non, 13 tháng mười”...
Lại trên một tập khác, thấy viết “Biên lai của thày giáo Swishtail” “Biên lai
đã thanh toán, trả tiền thợ may cho George...lấy vào tiền của tôi, tháng sáu
v.v...Rồi đến những lá thư con trai ông gửi từ Tây Ấn về, những lá thư của luật
sư riêng, những tờ báo có đăng tin con ông được bổ nhiệm; lại có cả một cái roi
ông vẫn dùng để đánh đòn khi George còn bé và một tấm huy hiệu hộp, trong có
một nắm tóc của con trai, đựng trong một phong bì bằng giấy; hồi còn sống, vợ
ông vẫn đeo tấm huy hiệu này.
Ông bố đau
khổ ngồi hàng giờ, mân mê hết thứ nọ đến thứ kia, hồi tưởng lại những kỷ niệm
đã qua. Những tập giấy này gói ghém bao nhiêu niềm kiêu hãnh, bao nhiêu nguyện
vọng công bằng ấp ủ thiết tha. Xưa kia, ông đã từng hãnh diện vì con trai bao
nhiêu! Hắn là, một đứa bé kháu khỉnh chưa từng thấy. Ai cũng bảo trông nó như
con nhà quý phái. Một lần, có một bà quận chúa gặp nó ở Kew Gardens đã phải chú
ý đến nó; bà ta ôm lấy nó mà hôn và hỏi tên là gì. Có nhà tư sản nào ở Luân-đôn
này đẻ được đứa con như vậy? Đã có con trai một ông hoàng nào được chăm sóc hơn
nó chưa? Bất cứ thứ gì có tiền mua được, là con trai ông phải có. Những ngày đi
dự lễ phát phần thưởng, nó thường mặc áo mới, đi xe bốn ngựa đến trường, và
tung hàng vốc tiền xu mới cho các bạn học. Có lần ông cũng đi với George tới
chỗ trung đoàn của anh ta trú quân trước khi sang Canada, ông đã thết các sĩ
quan một bữa tiệc sang trọng, có thể mời quận công York tới dự được. Có bao giờ
ông từ chối không thanh toán một món nợ nào của George đâu? Đây, những văn tự
nợ ấy còn đây ông đã thanh toán không một lời căn vặn. Khối vị tướng lĩnh trong
quân đội không có được con ngựa của nó mà cưỡi. Lúc ông nghĩ đến George, ông
lại thấy hình ảnh con trai hiện lên trước mắt trong nhiều trường hợp... này đây
là sau bữa ăn, anh ta trông đường bệ như một ông hoàng bước vào phòng ngồi uống
rượu cạnh cha ở đầu bàn... này đây, là ở Brighton, con trai ông cưỡi ngựa vượt
qua hàng rào không kém bất cứ một tay săn thiện nghệ nào... và đây, con trai
ông được giới thiệu tiếp kiến vị Hoàng tử nhiếp chính trong buổi chiêu đãi; cả
hoàng cung đố kiếm đâu ra được một người trai trẻ lịch sự bằng. Bây giờ đâu hết
cả rồi? Cưới con gái một người phá sản làm vợ và từ bỏ nhiệm vụ, từ bỏ tất cả
tương lai sự nghiệp? Thật là nhục nhã! Thật là tuyệt vọng!
Đau đớn bao
nhiêu cho tâm hồn trìu mến đầy những cao vọng của người cha già nua này. Ông
Osborne ngồi trầm ngâm suy nghĩ trên những xếp giấy má đó; ông lần giở từng tờ
với vẻ mặt cay đắng, sầu khổ, tuyệt vọng, của những kẻ cùng quẫn khi hồi tưởng
lại những ngày hạnh phúc đã qua. Đoạn ông rút tất cả giấy má trong ngăn kéo rũ
bỏ vào trong một cái hộp khóa lại, chằng dây và gắn xi cẩn thận. Sau đó, ông mở
tủ sách, lấy tập kinh thánh đồ sộ bìa đỏ mà ta đã nói tới... quyển sách trông
thật trang trọng nét vàng mạ óng ánh, ít khi được nhìn đến. Trên trang đầu, có
một bức tranh đầu sách vẽ cảnh Abraham đang hiến tế Isaac. Theo lệ thường, ông
Osborne vẫn ghi lên trang đệm của cuốn sách bằng những chữ to, viết nắn nót như
chữ một viên thư ký, ngày ông cưới vợ, ngày vợ ông chết, ngày sinh và tên của
các con ông. Đầu tiên là Jane, rồi đến George Sedley Osborne rồi Maria Frances,
có kèm theo ngày làm lễ rửa tội cho mỗi đứa trẻ.
Ông lấy bút
cẩn thận xóa tên George trên trang giấy. Chờ cho mực khô hẳn, ông mới đặt quyển
sách vào chỗ cũ. Đoạn, ông rút một chiếc ngăn kéo khác đựng những giấy tờ riêng
của mình, lấy ra một tài liệu, đọc lại một lượt, rồi vò nhầu châm vào ngọn nến
đốt; ông nhìn cho tờ giấy cháy hết hẳn trong lò sưởi mới thôi. Đó là tờ di chúc
ông đã thảo sẵn. Đốt xong tờ di chúc, ông ngồi vào bàn viết một lá thư, rung
chuông gọi người hầu, và ra lệnh sớm hôm sau mang gửi. Lúc đó trời vừa sáng,
ông mới lên giường nằm. Cùng với ánh nắng mặt trời, cả nhà đã dậy; chim chóc
ríu rít ca hát giữa những vòm lá tươi xanh quanh khu quảng trường Russell.
William
Dobbin rất muốn lấy lòng mọi người trong gia đình Osborne và cả những người có
quan hệ với nhà này vì anh ta thấy rằng, trong cơn hoạn nạn, George càng có
thêm nhiều bạn càng tốt. Vốn hiểu rất rõ rằng rượu ngon ảnh hưởng lớn đến tâm
hồn người ta như thế nào nên lúc quay về quán trọ, Dobbin lập tức viết ngay một
lá thư lời lẽ rất lịch thiệp, mời Thomas Chopper tôn ông ngày hôm sau quá bộ
đến tiệm Slaughters dùng bữa tối với mình. ông Chopper nhận được thư trước khi
rời khu City ra về; lập tức viết thư trả lời: “Ông Chopper vô cùng hân hạnh và
lấy làm vinh dự được hầu tiếp đại úy Dobbin”. Tối hôm ấy trở về nhà ở Somers’
Town, ông đem ngay chuyện mình được mời ăn và tóm tắt nội dung bức thư trả lời
ra khoe với vợ và mấy cô con gái; cả gia đình ngồi uống trà cứ sôi nổi bàn tán
mãi về những quân nhân và những người tại West End. Lúc các con gái đã đi ngủ
cả, hai vợ chồng ông Chopper mới bàn tán với nhau về những chuyện kỳ lạ xảy ra
trong gia đình cụ chủ. Chưa bao giờ người thư ký này thấy chủ mình xúc động
mạnh đến như thế. Lúc đại úy Dobbin đã ra về, ông ta đi vào gặp ông Osborne
thấy ông già tím mặt lại như đang cơn giận dữ ghê gớm; ông ta yên trí rằng giữa
viên đại úy trẻ tuổi và ông Osborne đã xảy ra cuộc cãi lộn gì gay go lắm. Ông
Chopper được lệnh lập một bản thống kê tất cả những món tiền đã giao cho đại úy
Osborne trong khoảng ba năm vừa qua. “Cậu ấy tiêu tiền cũng đã khiếp”, người
thư ký nói một mình như vậy, và lại càng thêm kính phục cả hai bố con ông chủ
mình hơn vì họ coi tiền như rác. Hình như họ xích mích với nhau vì chuyện cô
Sedley thì phải. Bà Chopper ngỏ ý rất thương cô thiếu nữ là mất đứt một ông
chồng bảnh trai. Riêng ông Chopper thì không lấy gì làm thông cảm lắm với con
gái một nhà kinh doanh kém may mắn đã không trả nổi một phần nhỏ số nợ của
mình. Ông vẫn kính trọng gia đình ông Osborne hơn bất cứ gia đình nào khác tại
khu City ở Luân-đôn: ông hy vọng và ước ao rằng đại úy George sẽ lấy con gái
một nhà quý tộc.
Đêm hôm ấy,
người thư ký ngủ một giấc ngon lành hơn ông chủ. Sớm hôm sau, ông Chopper ăn
sáng rất ngon miệng, mặc dầu suốt đời ông chỉ có đường đen để pha rượu; đoạn
ông hôn các con, và mặc bộ áo chiều chủ nhật đẹp nhất của mình với chiếc sơ-mi
có cổ hoa để đi làm; ông lại hứa với bà vợ đang trầm trồ ngắm chồng rằng tối nay
sẽ không uống quá nhiều rượu “poóc-tô” của đại úy Dobbin mời.
Đúng giờ
như thường lệ, ông Osborne đến khu City; bọn nhân viên vì nhiều lý do vẫn có
thói quen để ý dò xét nét mặt ông, thấy hôm ấy ông ta có vẻ bơ phờ nhợt nhạt.
Đến giữa
trưa, ông Higgs (tại văn phòng lục sự Higgs và Blatherwick, ở Bedford Row) được
mời đến gặp. Ông này được đưa vào phòng riêng của ông Osborne: hai người đóng
kín cửa ở trong ấy đến hơn một tiếng đồng hồ. Khoảng một giờ trưa, ông Chopper
nhận được thư của đại úy Dobbin do một người hầu mang lại, có kèm theo một lá
thư gửi cho Osborne; viên thư ký vội đem vào cho chủ. Một lúc sau ông Chopper
và ông Birch, một người thư ký khác, được chủ gọi vào yêu cầu làm nhân chứng.
Ông Osborne nói. “Tôi vừa làm lại một tờ di chúc khác”. Mấy người nhân viên ghi
tên mình vào, không ai nói gì thêm. Lúc ông Higgs bước ra phòng ngoài, mặt ông
ta có vẻ đặc biệt đăm chiêu, trịnh trọng; ông ta nhìn thẳng vào mặt ông
Chopper, nhưng không giải thích tý gì. Suốt ngày hôm đó, ai ai cũng thấy ông
Osborne có vẻ đặc biệt bình thản và dịu dàng; những người thấy điệu bộ ông rầu
rĩ cứ lo lắng mãi bây giờ rất ngạc nhiên.
Hôm ấy, ông
không gọi ai bằng tên tục, cũng không thề độc câu nào. Ông nghỉ sớm và trước
khi ra về, lại gọi viên thư ký chính đến một lần nữa để dặn dò mọi công việc.
Sau đó, ông có vẻ ngần ngại một lúc, rồi mới hỏi ông Chopper có biết đại úy
Dobbin còn ở trong thành phố hay không. Ông Chopper đáp rằng chắc vẫn còn. Thực
ra, cả hai cùng biết rõ điều đó. Ông Osborne lấy một phong thư ngoài bì đề gửi
cho Dobbin và bảo người nhân viên của mình trao ngay tận tay viên đại úy. Đoạn
ông cầm lấy mũ, trong cái nhìn có một vẻ gì rất kỳ lạ nói.
- Ông
Chopper, bây giờ thì tôi có thể yên tâm được rồi.
Đúng lúc
ấy, đồng hồ điểm hai giờ, Frederick Bullock đến đón bố vợ, rồi cả hai cùng đi.
*
Viên đại tá
chỉ huy trung đoàn thứ..., trong đó có đại đội của Dobbin và Osborne, là một
quân nhân đã già; hồi mới nhập ngũ, ông ta đã từng chiến đấu dưới quyền chỉ huy
của tướng Wolfe ở Quebec. Đã lâu lắm rồi, vì già yếu quá nên ông ta không chỉ
huy được nữa. Tuy vậy, ông ta vẫn quan tâm đến trung đoàn mà về danh nghĩa ông
vẫn là người chỉ huy. Một vài sĩ quan trẻ tuổi vẫn được ông ta mời cùng ăn một
bàn, điều này bây giờ rất hiếm trong giới sĩ quan cao cấp; Dobbin được người
quân nhân già ấy đặc biệt yêu mến hơn cả. Dobbin rất thích những tác phẩm văn
học nói về chiến tranh, anh ta có thể kể chuyện về Frederick đại đế và về Hoàng
hậu cùng những cuộc chinh chiến dưới triều nhà vua này, rành mạch không kém
chính viên đại tá mấy tý. Ông già này rất thờ ơ đối với những cuộc chiến thắng
hiện tại, chỉ để hết tâm hồn thán phục những nhà chiến thuật năm mươi năm về
trước. Đúng hôm ông Osborne chữa lại tờ di chúc, và ông Chopper bận tấm áo đẹp
nhất của mình, thì viên sĩ quan này gửi giấy mời Dobbin đến dùng cơm. Ông báo
cho người sĩ quan trẻ tuổi con cưng của mình trước hai ngày về việc xuất quân
sang Bỉ mà mọi người đang nóng ruột chờ đợi. Mệnh lệnh chuẩn bị sẽ trao cho đội
Ngự lâm quân khoảng một hai ngày sau.
Hiện giờ,
mọi đồ quân trang quân dụng đã đầy đủ, trung đoàn sẽ xuất phát trong tuần lễ
này. Trong thời gian trú quân ở Chatham trung đoàn đã mộ thêm được một số tân
binh. Viên võ quan già hy vọng rằng những binh sĩ trong trung đoàn đã giúp ông
ta đánh bại Montcalm ở Canada, và đuổi bộ đội của ông Washington chạy dài ở
Long Island, sẽ giữ vững được truyền thống chiến đấu anh dũng trên chiến trường
Bỉ. Ông ta đưa bàn tay nhợt nhạt run rẩy nhúm ra một ít bột thuốc lá để hít,
rồi chỉ vào tấm áo ngủ của mình, chỗ trái tim của ông vẫn còn đang yếu ớt đập,
nói:
- Anh bạn
ạ, bây giờ thì, nếu anh có cái “chuyện ấy”(), nếu anh cần an ủi cô Philis nào,
có cần từ biệt ông cụ, bà cụ hoặc lập di chúc để lại thì tôi khuyên anh không
nên chậm trễ.
Đồng thời
ông giơ một ngón tay cho người bạn trẻ tuổi bắt và gật gật cái đầu có mái tóc
rắc phấn, để thõng xuống sau gáy như cái đuôi. Dobbin ra về rồi, ông ngồi vào
bàn viết một “bức tình thư” (ông già này đặc biệt tự đắc về trình độ tiếng Pháp
của mình) gửi cho cô Amenaide ở rạp hát của Hoàng gia.
Những tin
tức ấy làm cho Dobbin trở thành đăm chiêu suy nghĩ; anh ta nhớ đến các bạn ở
Brighton; anh ta cũng tự thấy ngượng với mình vì vẫn cứ nghĩ đến Amelia trước
nhất (trước tất cả mọi sự, trước cả ông bố, bà mẹ, các cô em, và nhiệm vụ của
mình... nhiều khi cả lúc mới thức dậy, hoặc lúc đi ngủ, và cứ suốt ngày như
vậy); Dobbin trở về nhà trọ, gửi cho ông Osborne một lá thư vắn tắt báo tin mới
nhận được, và tỏ ý hy vọng rằng hay tin ấy hai cha con George sẽ trở lại hòa
thuận với nhau.
Người mang
lá thư này vẫn là người bữa trước đã đưa giấy mời ông Chopper. Được tin, người
thư ký này rất lo lắng; thư đề gửi cho ông ta; vừa bóc thư, ông này vừa lo bữa
tiệc đang hy vọng phải hoãn lại. Đến lúc thấy nội dung lá thư chỉ nhắc lại lời
mời, ông mới yên tâm (đại úy Dobbin viết “Tôi sẽ chờ ông vào hồi năm giờ
rưỡi”). Chopper rất săn sóc đến công việc của gia đình ông chủ, nhưng được mời
thế này thì còn muốn gì hơn?(), một bữa đại tiệc đối với ông vẫn quan trọng hơn
công việc của bất cứ một ai trên thế gian này.
Lẽ dĩ nhiên
là gặp bất cứ viên sĩ quan nào trong trung đoàn, Dobbin cũng kháo ngay cái tin
vừa được viên đại tá cho biết. Anh ta nói cả cho viên sĩ quan cầm cờ Stubble
gặp tại nhà viên luật sư của mình được biết; anh chàng này có cái khí thế hăng
hái của con nhà võ, vội tìm đến cửa hiệu bán đồ quân trang sắm ngay một cây
kiếm mới. Anh chàng trai trẻ, tuy mới mười bảy tuổi đầu, cao khoảng sáu mươi
lăm inch, tạng người vốn lẻo khoẻo lại sớm bị rượu chè làm cho thêm ốm yếu,
nhưng có tinh thần dũng cảm không khác gì sư tử. Anh ta nhấc nhấc cây kiếm uốn
cong, rồi múa tít y như đang tung hoành giữa đám quân Pháp, vừa giậm chân huỳnh
huỵch xuống đất, vừa hét: “Ha! Ha!”;Anh ta đâm hai, ba nhát kiếm vào Dobbin;
viên đại úy vừa cười vừa lấy cây gậy trúc gạt đỡ. Có lẽ vì vóc người khẳng khiu
gày gò, nên Stubble được xung vào đội khinh binh bảo vệ. Trái lại viên sĩ quan
cầm cờ Spooney, vóc người rất cao lớn; anh ta thuộc đại đội khinh binh của đại
úy Dobbin.
Anh ta đang
đội thử chiếc mũ da gấu, khiến cho bộ mặt như già thêm mấy tuổi nom đến dữ tợn.
Đoạn, cả hai người đến quán rượu Slaughters gọi dọn một bữa rượu tươm tất, rồi
ngồi viết thư; đầy thương yêu, nhưng mà chữ nghĩa viết đầy những lỗi chính tả.
Chao ôi, hồi ấy khắp nước Anh có biết bao trái tim hồi hộp đập, biết bao bà mẹ
vừa khóc sướt mướt vừa cầu kinh trong các gia đình.
Stubble
đang ngồi viết thư ở một cái bàn uống cà-phê trong quán rượu của lão
Slaughters, nước mắt chảy ròng ròng, nhỏ lã chã xuống giấy (cu cậu đang nhớ đến
mẹ, mà rất có thể không bao giờ còn gặp lại được nữa). Dobbin cũng sắp sửa viết
một lá thư gửi George Osborne; thấy vậy, anh ta lặng yên suy nghĩ, rồi cất giấy
bút đi. Anh ta tự nhủ: “ Viết làm gì? Hãy để cho họ được hưởng thêm một đêm
hạnh phúc nữa. Sáng sớm mai, mình về thăm nhà sớm, rồi sẽ đi Brighton”.
Dobbin đứng
dậy đặt bàn tay to lớn của mình lên vai Stubble mà bảo rằng nếu hắn chịu từ bỏ
tính rượu chè be bét thì sẽ trở thành một quân nhân rất tốt, cũng như xưa nay
hắn vẫn là một người bạn trung thực, tốt bụng. Nghe nói, mắt Stubble sáng ngời
lên vì Dobbin vẫn được cả trung đoàn khen là người sĩ quan giỏi nhất và sáng
suốt nhất.
Stubble vừa
chùi mắt, vừa nói:
- Cảm ơn
anh, anh Dobbin ạ. Tôi vừa viết cho mẹ tôi rằng tôi sẽ là một quân nhân xứng
đáng. Anh ơi, mẹ tôi quý tôi quá cơ. Rồi anh ta lại khóc sướt mướt, và tôi cũng
không dám chắc là viên đại úy dễ xúc động kia có rơm rớm nước mắt hay không.
Cả hai viên sĩ
quan cầm cờ, viên đại úy và ông Chopper cùng ngồi ăn trong một căn phòng. Ông
Chopper trao cho Dobbin một lá thư của chủ; trong thư ông Osborne viết mấy lời
vắn tắt cảm ơn Dobbin và nhờ trao cho đại úy George Osborne lá thư gửi kèm
theo. ông Chopper nói cũng không được biết gì hơn. Ông tả lại dáng điệu của ông
Osborne, và kể lại cuộc hội ý giữa mình và chủ hôm trước; lại tỏ ý rất lấy làm
lạ tại sao ông chủ của mình không thề độc với ai, và - đặc biệt lúc mọi người
đã uống rượu vang - ông Chopper còn ngỏ nhiều ý kiến phỏng đoán về nguyên nhân
gây ra thái độ của chủ; nhưng cứ uống thêm một cốc, thì ý kiến của ông ta lại
mơ hồ thêm một tý, và cuối cùng thì không ai hiểu ông ta định nói gì nữa. Mãi
đến một giờ khuya, viên đại úy mới gọi một chiếc xe ngựa dong đưa ông ta về.
Ông Chopper say mềm, vừa nấc lên vừa thề rằng suốt đời sẽ là bạn của viên đại
úy.
Khi đại úy Dobbin
từ biệt cô Osborne, như ta đã biết, anh ta ngỏ ý xin phép sẽ được gặp lại cô
này một lần nữa.
Hôm sau, cô thiếu
nữ chưa chồng cứ ngóng ngóng chờ anh chàng suốt ngày. Ví thử Dobbin trở lại và
nếu anh chàng hỏi cô cái câu hỏi mà cô đã sửa soạn để trả lời, thì có lẽ cô đã
tuyên bố ủng hộ cậu em trai, và rất có thể sự xích mích giữa George và ông bố
đang sung tiết đã được giải quyết ổn thỏa. Nhưng mặc dù cô ngồi nhà chờ đợi mà
viên đại úy vẫn biệt tăm. Anh ta còn bận giải quyết những công việc riêng, còn
bận về thăm và an ủi cha mẹ; rồi mới một giờ sáng, anh ta đã leo lên chiếc xe
ngựa “Tia chớp” để đi Brighton thăm các bạn.
Ngày hôm ấy, cô
Osborne nghe thấy ông bố ra lệnh cấm gia nhân không cho cái thằng khốn nạn đa
sự Dobbin còn được bước chân vào nhà; thế là tia hy vọng cuối cùng cô gái còn ủ
ấp trong lòng cũng tắt ngấm nốt. Anh chàng Frederick Bullock lại đến chơi, cứ
quấn quít lấy cô Maria, và tỏ ra đặc biệt săn sóc ông già đang suy sụp tinh
thần. Mặc dầu ông lão nói rằng lòng đã thanh thản, nhưng rõ ràng những biện
pháp ông dùng để trấn tĩnh vẫn tỏ ra chưa có tác dụng rõ rệt, và những chuyện
xảy ra hai ngày vừa qua rõ ràng đã vò xé tâm hồn ông.
Chương 25
CÁC NHÂN VẬT
CHÍNH TRONG TRUYỆN THẤY CẦN TỪ GIÃ BRIGHTON
Khi được dẫn tới
gặp mấy người đàn bà tại khách sạn Hải quân, Dobbin tỏ ra đặc biệt vui tính và
hay chuyện; điều này chứng tỏ rằng càng ngày anh chàng sĩ quan trẻ tuổi này
càng trở thành một người giả dối hết sức Anh ta cố tìm cách giấu kín sự xúc
động của mình vì gặp lại bà George trong một hoàn cảnh mới; hơn nữa, anh ta
cũng không muốn để lộ ra là mình đang lo lắng về những hậu quả do những tin tức
mình mang đến gây ra. Nếu Amelia rõ những nỗi lo âu đó, chắc chắn cô sẽ đau khổ
vô cùng. Dobbin bảo George rằng:
- George ạ, theo
ý tôi thì chỉ trong ba tuần lễ nữa hoàng đế nước Pháp sẽ tấn công chúng ta đấy,
bằng cả bộ binh lẫn kỵ binh. Hắn sẽ buộc quận công phải tham dự một cuộc chiến
tranh mà đem so sánh thì chiến sự ở Bán đảo chỉ là trò trẻ con. Nhưng anh cũng
hiểu chứ, đừng có hở ra cho chị ấy biết đấy: Cũng có thể chúng ta sẽ không dự
trận, như vậy nhiệm vụ của chúng ta ở Bỉ sẽ chỉ là một cuộc hành quân mà
thôi...Nhiều người nghĩ như vậy, và nghe nói Brussels toàn những người lịch sự
và vô số các bà các cô rất diện. Hai người đồng ý với nhau sẽ chỉ cho Amelia
biết như vậy về nhiệm vụ của quân đội Anh ở Bỉ.
Bàn tính với nhau
xong, anh chàng Dobbin giả dối vui vẻ đến chào “bà George Osborne”, anh ta cố
gắng xen vào vài lời chúc tụng về việc hôn nhân của Amelia, (nhưng cũng phải
thú thực rằng những lời chúc tụng ấy vụng về một cách thật đáng thương). Đoạn,
anh ta nói về Brighton, về khí hậu vùng biển, về những thú giải trí trong vùng,
về những cảnh đẹp trên đường đi, và về giá trị của chiếc xe hiệu “Tia chớp”
cùng đôi ngựa... Anh chàng chuyện trò tíu tít làm cho Amelia không hiểu ra sao
cả, nhưng Rebecca thì rất thú vị; cô ta soi mói nhìn viên đại úy, như cô ta vẫn
hay nhìn soi mói bất cứ người nào ngồi gần mình.
Sự thật thì
Amelia xưa nay vẫn coi thường người bạn của chồng mình là đại úy Dobbin. Anh ta
có tật nói hơi ngọng...Điệu bộ thì quê kệch, vụng về. Amelia mến Dobbin chỉ vì
anh ta quý chồng mình (nói cho đúng, cái đức tính ấy cũng chẳng có giá trị gì
lắm), và vẫn yên trí rằng George đã tỏ ra rất rộng lượng khi hạ cố đánh bạn với
anh chàng sĩ quan này. Nhiều lần trước mặt Amelia, George đã bắt chước lối nói
ngọng và những điệu bộ vụng về tức cười của bạn; tuy nhiên cũng phải công nhận
rằng, bao giờ anh ta cũng nhiệt tình ca ngợi đức tính của Dobbin. Giữa những
ngày vui vẻ của thắng lợi trong tình yêu, vì chưa hiểu rõ Dobbin, nên Amelia có
ý coi thường anh chàng William thực bụng. Dobbin hiểu rõ Amelia nghĩ về mình
thế nào, và cũng đành lòng cam phận. Rồi cũng phải có ngày cô ta hiểu rõ Dobbin
hơn và thay đổi ý kiến về anh chàng; nhưng ngày ấy cũng còn xa.
Riêng đôi với
Rebecca thì chưa đầy hai giờ đồng hồ ngồi cạnh Dobbin, cô ta cũng đã thấu rõ
gan ruột anh chàng rồi. Cô ta không ưa gì Dobbin, và trong thâm tâm đối với anh
chàng lại có ý ngài ngại; mà về phần Dobbin thì cũng không thấy có cảm tình gì
lắm đối với Rebecca. Anh ta thực thà quá, thành ra những khoa nịnh nọt giả dối
của cô này không có tác dụng gì; và hình như do linh tính, Dobbin không muốn
gần gũi người đàn bà này, cho nên cũng có tính ghen ghét; thấy Dobbin quý mến
Amelia, cô ta càng không ưa. Tuy nhiên, cô ta vẫn tỏ ra có lễ độ và thân mật
trong cách đối xử. Một người bạn của Osborne? Bạn của người ân nhân quý nhất
đời của cô? Rất có thể Becky thực tâm yêu quý người ấy, vì cô ta nhớ lại điệu
bộ anh chàng đêm hôm đi xem hội ở Vauxhall; lúc thay áo dự bữa ăn tối, cô ta
lại đem anh chàng ra làm trò cười một lúc. Rawdon Crawley thì không buồn để ý
đến Dobbin; hắn cho anh ta là một chàng ngờ nghệch, tuy tốt bụng, nhưng chỉ là
con cháu bọn hạ tiện ở khu City. Còn Joe thì hết sức đàng hoàng tỏ thái độ kẻ
cả đối với anh chàng. Khi George theo về phòng của Dobbin, lúc chỉ có hai người
với nhau, Dobbin mở ngăn kéo bàn lấy ra lá thư của ông Osborne gửi đưa hộ cho
con trai. “Không phải chữ của ba tôi rồi”, George có vẻ hơi hốt hoảng nói vậy.
Mà đúng thế. Lá thư do viên luật sư riêng của ông Osborne viết, lời lẽ như sau:
Bedford
Row, ngày 7-5-1815
Thưa ông.
Tôi được cụ
Osborne ủy cho nhiệm vụ báo để hay rằng cụ kiên quyết giữ vững những ý định mà
ông đã rõ. Cho nên, sau việc hôn nhân của ông, cụ đã quyết định từ nay thôi
không coi ông là một người trong gia đình. Quyết định ấy là dứt khoát, không
thay đổi.
Tuy rằng
những món tiền đã tiêu về ông khi còn nhỏ tuổi cộng với số tiền trong những tín
phiếu đứng tên cụ nhà mà ông đã lĩnh trong mấy năm vừa qua, đã vượt quá xa số
tiền ông có quyền được hưởng (nghĩa là một phần ba số tài sản của cụ bà Osborne
đã quá cố, mà do việc cụ bà mất đi, ông được chung hưởng cùng cô Jane Osborne
và cô Maria France Osborne), song tôi được cụ Osborne cho biết rằng cụ không trừ
số tiền ấy vào tài sản riêng của ông, và món tiền 2.000 đồng đặt lãi bốn phần
trăm (tức là một phần ba món tiền 6.000 đồng) sẽ được trực tiếp hoàn lại ông
hoặc qua luật sư riêng của ông, miễn là có giấy biên nhận.
Kẻ hầu việc
tận tụy của ông, Higgs.
Tái bút: Cụ
Osborne muốn tôi báo cáo ông rõ một cách dứt khoát rằng cụ không muôn nhận bất
cứ giấy má thư từ gì của ông, hoặc liên hệ với ông về vấn đề này hoặc về bất cứ
vấn đề nào khác.
George giận
dữ nhìn Dobbin, nói:
- Anh thu
xếp công việc khéo nhỉ? Đọc xem, Dobbin - Và anh ta ném lá thư cho bạn - Lạy
chúa, thế là bây giờ tôi đi ăn mày; cái bệnh đa tình của tôi đưa đến kết quả
mới tốt đẹp chứ. Sao chúng ta lại không chờ ít lâu nữa? Trong khi ra trận tôi
rất có thể xơi một viên đạn; và rồi Emmy là vợ góa của một thằng ăn mày thì
sinh sống ra làm sao? Chỉ tại anh tất cả: Anh mà chưa thấy tôi lấy vợ và phá
sản thì anh chưa yên tâm mà. Hai nghìn đồng đối với tôi thì nghĩa lý quái gì cơ
chứ? Không đủ tiêu trong hai năm. Từ hôm về đây tôi đã mất với Crawley một trăm
bốn mươi đồng tiền đánh bài và chơi bi-a rồi. Anh thu xếp công việc cho thiên
hạ giỏi quá đấy.
Dobbin tái
mặt đi, đọc hết lá thư, rồi đáp:
- Kể ra
tình hình cũng gay go thật, và đúng như anh nói, lỗi tại tôi một phần.
Anh ta cười
cay đắng tiếp:
- Tuy vậy
vẫn có người muốn đánh đổi lấy địa vị của anh cơ đấy. Anh thử nghĩ xem, trong
trung đoàn có được bao nhiêu sĩ quan có hai nghìn đồng trong tay. Bây giờ, anh
phải ăn tiêu trong phạm vi tiền lương thôi, chờ khi nào ông cụ nghĩ lại sẽ hay;
nếu không may anh chết, thì vợ anh sẽ lĩnh mỗi năm một trăm đồng.
George tức
quá, kêu lên:
- Anh nghĩ
rằng một người quen tiêu pha như tôi có thể sống nổi với tiền lương và một trăm
đồng mỗi năm? Dobbin, anh ăn nói thế thì ngốc thật. Với món tiền ranh ấy, làm
sao cho tôi giữ được địa vị của tôi trong xã hội? Tôi không thể bỏ thói quen cũ
được; tôi phải có đầy đủ tiện nghi. Từ bé, tôi không ăn cháo mà sống như
MacWhirter, hay ăn khoai mà no như O’Dowd. Anh muốn rằng vợ tôi phải giặt quần
áo lính, hoặc sống chui rúc trong một toa tàu chở hàng để bám lấy trung đoàn mà
sống sao?
Dobbin vẫn
vui vẻ đáp:
- Được,
được; rồi chúng ta sẽ kiếm cho chị ấy một phương tiện vận chuyển tốt hơn. Nhưng
anh bạn George ơi, hãy nhớ rằng bây giờ anh phải dằn lòng mà chịu đóng vai ông hoàng
bị mất ngôi đã; hãy kiên nhẫn mà chờ ngày mây tan gió lặng. Cũng không lâu lắm
đâu. Tôi đánh cuộc rằng, nếu tên anh được đăng trên báo “Tin tức” thì nhất định
ông cụ sẽ nghĩ lại.
George đáp:
- Đăng trên
báo “Tin tức”! Đăng ở mục nào? Có phần chắc trong mục danh sách thương binh tử
sĩ, và ở hàng đầu.
Dobbin mỉm
cười đáp:
- Dào ôi?
Bao giờ chúng mình bị thương, lúc ấy hãy tha hồ mà khóc mếu, George, anh rõ
đấy, tôi cũng sẽ giành được chút ít, và chẳng có vợ con gì cả; tôi sẽ không
quên tên con trai đỡ đầu của tôi trong di chúc đâu.
Thế là đôi
bạn lại làm lành với nhau. Dobbin với George vẫn hay cãi nhau đấy rồi thân nhau
đấy như thế....
Osborne bảo
rằng không ai có thể giận Dobbin được lâu và anh ta cũng rộng lượng mà tha thứ
cho Dobbin, sau khi đã vô cớ gây sự với bạn.
Rawdon
Crawley từ trong phòng rửa mặt nói vọng ra với vợ đang ngồi trang điểm trong
phòng ngủ để sắp đi ăn cơm tối:
- Becky,
tôi bảo này…
- Gì thế
Tiếng Becky the thé đáp. Cô ta đang ngoái cổ lại sau lưng soi vào gương. Becky
mặc một tấm áo ngoài trắng muốt, mới tinh, hai vai để trần, cổ đeo vòng, thắt
lưng màu xanh lơ nhạt, rõ ràng là hiện thân của tuổi thanh xuân hạnh phúc, vô
tội và trinh bạch.
- Không
biết khi Osborne theo trung đoàn ra trận, thì cô vợ làm thế nào nhỉ?
Crawley
bước vào phòng; vừa dùng hai cái bàn chải to tướng chải đầu, anh ta vừa đưa mắt
qua nạm tóc bù xù thán phục liếc nhìn cô vợ đẹp Becky, đáp:
- Chắc chị
ấy phải khóc đến sưng mắt. Đã nhiều lần, hễ nghe ai nhắc đến chuyện này chị ấy
lại khóc hết nước mắt. Còn mình thì chắc chẳng cần quái gì đâu nhỉ? Rawdon thấy
vợ có vẻ vô tình, cáu kỉnh hỏi lại.
Becky đáp:
- Rõ khỉ
lắm! Anh không thấy em nhất định đòi theo anh cùng đi à? Vả lại, anh khác. Anh
dự trận với tư cách là sĩ quan liên lạc của tướng Tufto; chúng mình có phải ra
tiền tuyến đâu.
Rebecca vừa
nói vừa ngửa mặt lên với một dáng điệu mê hồn đến nỗi anh chồng phải cúi xuống
mà hôn ngay một cái.
Becky đưa
mắt liếc chồng thật tình tứ, tiếp:
- Rawdon,
anh yêu...anh có nghĩ đến việc...có lẽ trước khi đi anh nên đòi cái...cái món
tiền Cupid () nợ anh thì hơn.
Becky gọi
George Osborne là Cupid; cô ta luôn mồm tán tụng bộ mặt đẹp trai của George; và
mỗi khi George đến thăm hai vợ chồng buổi tối khoảng nửa giờ trước khi đi ngủ
để đánh bài tay đôi, thì không lần nào cô không sán lại đứng cạnh mà âu yếm
ngắm anh chàng.
Nhiều lần
Becky đã gọi George là một anh chàng “bán giời không cần văn tự”, và dọa sẽ đem
những thói xấu của anh ta mách lại với Emmy. Cô đem thuốc lá lại mời anh chàng
hút, và châm cả lửa hộ; cô hiểu rất rõ cử chỉ này có tác dụng thế nào, vì trước
kia cô đã có nhiều dịp thực hành với Rawdon Crawley. Còn anh chàng thì yên trí
rằng Becky là một người vui tính, nhí nhảnh, láu lỉnh, phong nhã và hết sức
duyên dáng. Trong những cuộc giong xe đi chơi cũng như trong những bữa tiệc
buổi tối, lẽ dĩ nhiên Becky nổi bật hẳn so với cô Emmy đáng thương: cô này cứ
nhút nhát ngồi im trong khi chồng mình và Rebecca tán chuyện với nhau ríu rít;
còn đại úy Crawley (và cả cô nữa, khi anh chàng đã đến nhập bọn với hai cặp vợ
chồng mới cưới) thì cứ ngồi nốc rượu tỳ tỳ không nói không rằng.
Đôi khi
Emmy cũng thấy hơi khó chịu đối với bạn.
Thấy
Rebecca khôn ngoan, khéo léo và duyên dáng quá, cô cảm thấy bối rối và đâm ra
bực mình. “Mới lấy nhau được có một tuần lễ, mà George đã nhạt nhẽo với mình,
đã muốn trò chuyện với người khác rồi?”. Nghĩ đến tương lai mà cô run sợ. Cô
nghĩ thầm; Anh ấy thông minh thế, tài hoa thế, mình thì đần độn thế này, rồi
chung sống với nhau ra sao nhỉ? Lấy mình làm vợ, anh ấy thật cao thượng quá bỏ
tất cả mọi thứ mà hạ cố đến mình? Lẽ ra mình phải từ chối mới đúng, nhưng lòng
mình không cho phép, biết làm thế nào? Lẽ ra mình đừng đi lấy chồng, cứ ở nhà
săn sóc ba mới phải. Lần này là lần đầu tiên cô nhớ ra mình đã quên bẵng mất cả
cha mẹ (mà lời lương tâm kết tội cô thiếu nữ cũng có đôi chút căn cứ) khiến cho
mặt cô đỏ ửng lên vì xấu hổ. Cô tự nhủ: “Ôi, mình thật tồi quá, ích kỷ quá...
ích kỷ vì đã bắt George phải cưới mình làm vợ. Mình biết lắm, mình có xứng đáng
với anh ấy đâu...Không có mình thì anh ấy sung sướng bao nhiêu... nhưng... mình
đã cố, mình đã cố quên anh ấy rồi mà...” Kể ra chưa đầy một tuần lễ sau ngày
thành hôn mà cô dâu cũng phải nghĩ ngợi và tự thú những lời như vậy thì cũng
đau khổ thật.
Buổi tối
trước ngày Dobbin tới thăm đôi vợ chồng trẻ này là một buổi tối tháng năm,
trăng sáng rực rỡ, không khí ấm áp, thơm ngát; cánh cửa trông ra bao lơn mở
rộng.
George và
Rebecca đứng trên bao lơn ngắm mặt biển phẳng lặng sáng long lanh trải ra trước
mặt họ, còn Rawdon và Joe thì ngồi trong nhà chơi bài. Không ai chú ý đến
Amelia nằm ngả trên một chiếc ghế bành lớn đưa mắt theo dõi hai cặp bạn; người
đàn bà dịu dàng và trơ trọi ấy chỉ biết đánh bạn với những ý nghĩ đắng cay đầy
thất vọng và hối hận.
Chưa đầy
một tuần trôi qua mà cơ sự ra thế này rồi? Nếu cô nhìn về tương lai. Nhưng Emmy
nhút nhát, không dám nhìn thẳng vào tương lai, đành cứ một mình lênh đênh trên
mặt đại dương mênh mông kia, cũng không đủ sức chèo chống nữa, nếu không được
người che chở và hướng dẫn. Tôi biết bà Smith vẫn coi thường Amelia ; nhưng
thưa quý bà, đàn bà con gái mấy ai được trời ban cho một sức mạnh tinh thần
tráng kiện như bà?
George thở
phào một hơi thuốc lá, làn khói uốn éo lượn vòng lăn trên không, nói:
- Chao ơi?
Đêm nay đẹp tuyệt, trăng sáng vô cùng.
- Thuốc lá
anh hút làm cho không khí thơm sực? Em ưa thứ thuốc ấy lắm. Ai dám bảo rằng mặt
trăng cách xa chúng ta những hai mươi ba vạn sáu ngàn tám trăm bốn mươi bảy
dặm? Becky mỉm cười ngó lên chiếc đĩa vàng trên trời, tiếp: - Anh xem xem còn
nhớ kỹ thế, có thông minh không? Ôi chao! Chúng em học được những chuyện ấy
trong trường bà Pinkerton đấy! Mặt biển lặng lẽ quá nhỉ, mọi vật trông rõ mồn
một. Em dám nói rằng gần như nhìn thấy cả bờ bể nước Pháp!
Và đôi mắt
xanh biếc, lóng lánh của cô ta quắc lên như muốn chiếu những tia sáng xuyên
thủng màn đêm.
Becky nói
tiếp:
- Anh có
biết một buổi sáng kia em định làm gì không? Hình như em bơi cũng khá đẹp thì
phải. Em mới định bụng rằng hôm nào bà bạn tâm tình của bà cô Crawley nhà
em...tức là bà Briggs, anh biết đấy...anh có nhớ không…cái bà mũi diều hâu, tóc
dài rối bù xù ấy mà... em định khi nào bà Briggs ra bể tắm, em sẽ bơi theo và
bàn chuyện làm lành mới bà ta ngay dưới nước; anh xem kế ấy thế nào?
George nghe
nói đến cuộc hội đàm dưới nước, phá ra cười, Rawdon ở trong vừa xóc xóc cái ống
đựng súc sắc vừa hỏi vọng ra:
- Này, hai
người làm gì mà ồn ào thế, hử?
Amelia
tưởng mình sắp phát điên lên một cách lố bịch, và lui vào phòng riêng nằm tấm
tức khóc một mình.
Đến chương
này, câu chuyện của chúng ta có vẻ như hơi quanh co. Ở trên, đã kể qua câu
chuyện xảy ra buổi sớm thế nào, bây giờ ta cùng nhau lui về ngày hôm trước để
cho câu chuyện có đầu đuôi. Các bạn có thể thấy từ cung tiếp tân của Hoàng đế,
xe ngựa của những vị đại sứ và những viên đại thần chạy vụt ra từ một cái cửa
riêng, trong khi ấy những công nương của đại úy John đứng đợi đến lượt mình
được bay nhảy. Trong phòng đợi của ông Tổng trưởng bộ Tài chính, bạn có thể gặp
nửa tá người còn kiên tâm chờ đợi được tiếp, và được gọi tên lần lượt từng
người một; thế rồi đột nhiên, có một vị tai mặt người Ai len nào đó vừa mới vào
mà lập tức leo ngay qua đầu thiên hạ đang sốt ruột chờ để chui vào một phòng
ông Thứ trưởng; cho nên trong khi bố cục một câu chuyện, nhà tiểu thuyết cũng
buộc lòng phải xử lý bất công như vậy. Tuy rằng cũng cần kể lại đủ những chi
tiết lặt vặt, nhưng hễ gặp một tình tiết quan trọng, thì lập tức những chi tiết
kia bị gạt “ra rìa” ngay. Cho nên, việc Dobbin đến Brighton đem theo tin đội
Ngự lâm quân sắp xuất phát sang Bỉ, và tin toàn bộ quân đội đồng minh đã tập
trung ở nước này, đặt dưới quyền chỉ huy của Quận công Wellington...một tin tầy
đình như thế, nhất định phải giành được quyền ưu tiên so với những chi tiết tầm
thường khác trong chuyện. Vì vậy không thể nào tránh khỏi chút lộn xộn ấy cũng
là thích đáng và cũng không đáng trách lắm.
Cho đến nay
chúng ta mới đi qua chương XXII, một quãng, vừa đúng lúc để tập hợp những nhân
vật chính trong truyện vào phòng trang điểm trước bữa ăn trưa như thường lệ,
đúng vào ngày Dobbin tới Brighton.
Không rõ vì
George thương vợ hay vì anh ta còn bận thắt ca-vát mà anh ta không nói ngay với
Amelia tin bạn vừa đem từ Luân-đôn về. Nhưng rồi anh ta cũng đi vào phòng vợ,
tay cầm phong thư của viên luật sư, dáng điệu thật nghiêm trang trịnh trọng.
Làm cho cô vợ vốn đang nơm nớp chờ đợi những chuyện ghê gớm nhất sắp xảy ra
rồi. Amelia chạy đến ôm chầm lấy chồng mà van xin chồng hãy nói thực hết mọi
chuyện: “Có phải anh được lệnh xuất phát không, có phải tuần sau anh ra trận
không? Đúng rồi, em biết hết cả rồi”.
George
tránh không trả lời về việc ra trận, chỉ buồn bã lắc đầu nói:
- Không.
Emmy ạ; không phải chuyện ấy. Anh không lo cho bản thân anh; anh lo cho em
thôi. Anh vừa nhận được tin tức không hay của ba anh. Ông cụ từ bỏ anh rồi; ông
cụ không nhận chúng mình nữa rồi; thế là từ bây giờ chúng mình nghèo xơ xác.
Anh có thể kham được, nhưng em, em yêu của anh, em chịu đựng làm sao? Em đọc
xem.
Anh đưa bức
thư cho vợ.
Amelia dịu
dàng nhìn chồng, khóe mắt đầy lo lắng, nuốt từng lời nói đầy tình cảm cao
thượng của George; đoạn cô ngồi xuống giường đọc bức thư chồng vừa trao cho với
điệu bộ đau khổ một cách trang trọng của kẻ tử đạo.
Song, đọc
hết lá thư, nét mặt cô lại bừng sáng lên. Người đàn bà tâm hồn nồng nàn này
không vì nghĩ đến việc phải cùng người chồng yêu dấu chia sẻ sự nghèo túng
thiếu thốn mà lo ngại. Đối với Amelia, điều đó thực sự lại như có cái gì thú vị
là khác. Và, cũng như mọi khi, cô cảm thấy hơi hổ thẹn vì lẽ trong phút bi đát
như vậy mà lại có cảm tưởng sung sướng được; cô vội kiềm chế niềm hứng thú của
mình lại, và khẽ nói:
- George
ơi, cứ nghĩ đến phải xa ba anh, chắc anh đau khổ đến đứt từng khúc ruột đấy
nhỉ.
George rầu
rĩ đáp:
- Đúng thế
đấy.
Amelia
tiếp.
- Nhưng ba
không thể giận anh lâu được đâu. Ai mà giận anh lâu cho được, em chắc chắn thế.
Người chồng yêu quý nhất đời của em ơi, rồi thế nào ba cũng tha thứ cho anh.
Ôi, nếu ba không tha thứ cho anh thì em cũng không thể nào tha thứ cho em được
đâu.
George đáp:
- Emmy đáng
thương của anh ơi, anh lo lắng không phải vì anh gặp tai họa, mà là vì em. Anh
không sợ nghèo và không phải nói khoác chớ, anh tự thấy cũng có tạm đủ tài năng
để tự lực làm nên.
Anh có thừa
đi ấy chứ.
Cô vợ ngắt
lời anh, yên trí rằng chiến tranh sắp chấm dứt và ông chồng sắp đeo lon cấp
tướng đến nơi.
Osborne
liền nói tiếp:
- Phải lắm,
anh sẽ tự lực làm nên sự nghiệp không kém gì người khác; nhưng còn em, em yêu
quý; cứ nghĩ rằng em phải chịu thiếu thốn mọi tiện nghi, và không có một địa vị
xứng đáng trong xã hội mà vợ anh có quyền hưởng, anh không sao chịu nổi. Người
vợ yêu dấu của anh mà phải sống trong trại binh như vợ một tên lính, lẽo đẽo
theo trung đoàn hành quân, rồi cũng đành phải chịu đựng mọi sự thiếu thốn phiền
nhiễu ư? Điều đó làm anh khổ tâm lắm.
Thấy chồng
lo lắng chỉ vì một chuyện ấy, Emmy yên tâm quá; cô vịn vào tay chồng gương mặt
rạng rỡ, mủm mỉm cười và bắt đầu thủ thỉ hát đoạn điệp khúc bài hát,Chiếc cầu
thang cữ: mà cô vẫn thích; nội dung khúc hát là lời cô thiếu nữ, sau khi trách
anh chàng Tôm đã thờ Ơ lạnh nhạt với tình, lại hứa hẹn sẽ vá quần và sẽ pha hộ
cả rượu, nếu anh chàng chung thủy, thực lòng và không bỏ rơi cô. Amelia yên
lặng một lúc, trong khi ấy trông cô sung sướng và trẻ hẳn ra, nét mặt ấy đàn bà
nào cũng phải ao ước; rồi cô nói:
- Vả lại,
hai nghìn đồng cũng là một món tiền to lắm đấy chứ, phải không George?
Thấy vợ quá
ngây thơ, Giorgỉơ cười phá lên; cuối cùng cả hai xuống nhà dùng bữa. Amelia níu
lấy cánh tay George, miệng vẫn còn thủ thỉ hát tiếp bài “Chiếc cầu thang cũ”,
đầu óc hoàn toàn thảnh thơi thoải mái so với mấy ngày vừa qua.
Thế là bữa
ăn sáng tưởng như sẽ diễn ra trong bầu không khí ảo não lại hóa ra rất vui vẻ.
Nghĩ đến
cuộc hành quân sắp tới, George cảm thấy hào hứng sôi nổi, quên cả nỗi buồn do
lá thư truất quyền thừa kế gây ra. Còn Dobbin thì vẫn tiếp tục đóng vai trò rôm
chuyện; anh ta đem những chuyện về quân đội đóng ở Bỉ ra kể cho đôi vợ chồng
mới cưới nghe, toàn những chuyện dạ hội và ăn chơi lu bù. Đoạn, nhằm một mục
đích không nói ra, anh chàng đại úy khôn khéo này bắt đầu kể chuyện vợ ông
thiếu tá O’Dowd thu xếp gói ghém cả cái tủ áo của mình và của chồng như thế
nào, chuyện bà ta nhét đôi phù hiệu của chồng vào hộp đựng trà ra sao, rồi
chuyện bà ta gói chiếc khăn đội đầu màu vàng trứ danh của mình, trên có đính
một cái lông chân thụy hồng, vào một tờ giấy dầu và nhét cả vào trong chiếc hộp
biếc đựng mũ nhà binh của chung; anh chàng ngạc nhiên không biết khi đến Ghent,
trong buổi chiêu đãi của vua nước Pháp, hoặc trong buổi đại hội của nhà binh ở
Brussels, thiên hạ nhìn thấy chiếc khăn ấy sẽ nghĩ thế nào.
Amelia giật
nảy cả mình kêu lên:
- Ghent!
Brussels? Trung đoàn được lệnh xuất phát rồi phải không, George? Đã xuất quân
rồi ư?
Trên bộ mặt
tươi cười dịu dàng lộ rõ vẻ hoảng hốt; như do linh tính, người đàn bà níu chặt
lấy chồng. George ôn tồn đáp:
- Đừng sợ,
em yêu của anh! Đó chỉ là một cuộc vượt bể trong mười hai tiếng đồng hồ, có gì
đáng ngại đâu em, Emmy, em cũng sẽ cùng đi với anh cơ mà.
Becky nói
xen vào:
- Tôi cũng
đi đây. Tôi ở chỗ phòng tham mưu, Tướng Tufto đến là hay tán tỉnh tôi; có phải
không, Rawdon?
Nghe vợ
nói, Rawdon vẫn cứ cười hô hố lên như mọi khi, William Dobbin thì đỏ bừng mặt
lên; anh ta bảo George:
- Chị ấy đi
sao được. Anh nghĩ xem…
Dobbin định
nói tiếp: “nguy hiểm lắm đấy”, nhưng suốt bữa ăn tối vừa rồi, anh ta chẳng đã
nói đủ mọi chuyện để chứng minh rằng không có sự gì nguy hiểm đấy sao?
Thành ra
anh chàng đành cứ lúng túng ngồi im.
- Em sẽ đi
cùng anh.
Amelia
cương quyết dứt khoát nói vậy, George tán thành, đưa tay vuốt ve cằm vợ và hỏi
khắp mọi người rằng có bao giờ gặp được người đàn bà đáng quý như vợ mình
không.
Anh ta bảo
vợ:
-Em sẽ có
một bà u già là bà thiếu tá O’Dowd”.
Nhưng có
chồng bên cạnh, Amelia còn điều gì đáng lo sợ nữa? Thế là nỗi ngại ngùng vì ly
biệt cũng tiêu tan; vả lại, dầu rằng chiến tranh với bao nguy hiểm vẫn còn đe
dọa, nhưng cũng phải hàng tháng nữa mới xảy ra được.Ý nghĩ thoải mái ấy khiến
cho cô Amelia nhút nhát kia cảm thấy hạnh phúc, dường như hiệp ước đình chiến
đã được ký kết. Trong thâm tâm Dobbin cũng tán thành cách thu xếp như vậy; điều
anh ta ước mong nhất trên đời là được hàng ngày nhìn thấy mặt Amelia ; anh ta
còn nuôi một ước vọng thầm kín là sẽ săn sóc, che chở cho cô thiếu nữ nữa.
Dobbin nghĩ thầm: “Ví thử mình được làm chồng Amelia, chẳng bao giờ mình cho vợ
đi theo. Nhưng George mới là người có quyền, mình chỉ là bạn, phản đối không
tiện”.
Rebecca
vòng tay ôm ngang lưng bạn dẫn ra khỏi phòng ăn, nơi bao nhiêu chuyện quan
trọng vừa được bàn bạc xong; mấy người đàn ông còn ngồi lại uống rượu, nói
chuyện, cười đùa ầm ĩ.
Ngay buổi
tối hôm ấy, Rawdon nhận được một mẩu giấy của vợ; đọc xong anh ta lập tức vò
nhàu, châm nến đốt ngay, nhưng chúng tôi đã may mắn nhìn được qua vai Rebecca
đọc thấy nội dung thế này:
“Tin quan trọng.
Bà Bute đã đi rồi. Đêm hôm nay, đòi tiền Cupid; rất có thể ngày mai hắn lên
đường đấy. Nhớ nhé. R.”
Do đó, lúc mấy
người đàn ông sắp cùng nhau sang buồng các bà để dùng cà-phê, thì Rawdon nắm
lấy cánh tay Osborne, ngọt ngào nói:
- Này cậu, nếu
tiện cậu thanh toán hộ với mình cái khoản kia đi thôi.
Kể ra đối với
George điều đó cũng không lấy gì làm tiện lắm, nhưng anh ta cũng rút trong ví
ra một tập giấy bạc trao cho Rawdon, và một tờ ngân phiếu có thể thanh toán
trong phạm vi một tuần lễ để bù vào số tiền còn thiếu.
Giải quyết xong
việc này, George, Joe và Dobbin vừa hút thuốc lá vừa họp một “hội nghị quân
sự”, đồng ý quyết định hôm sau tất cả sẽ di chuyển về Luân đôn trong chiếc xe
mui trần của Joe. Riêng Joe thì muốn ở lại Brighton tới khi nào Rawdon rời đi
mới về, nhưng bị Dobbin và George cố ép thành ra cuối cùng anh cũng đồng ý. Cho
được xứng đáng với địa vị của mình, Joe thuê hẳn hai cặp ngựa để kéo xe. Thế là
hôm sau, ăn sáng xong, cả bọn lên đường. Hôm ấy Amelia dậy từ sáng sớm, thu xếp
gói ghém hành lý một cách hết sức nhanh nhẹn; còn Osborne thì vừa nằm dài trên
giương, vừa phàn nàn rằng không có đứa đầy tớ gái nào để giúp đỡ vợ. Nhưng được
tự mình thu xếp mọi việc, Amelia lại thấy thích vì không rõ tại sao lúc này cô
cảm thấy hơi ngài ngại đối với Rebecca. Tuy lúc chia tay hai người hôn nhau
thật đằm thắm, nhưng Amelia vẫn có ý ghen với bạn; ngoài những đức tính khác
của phụ nữ, cô cũng có cả thói xấu ấy.
Ngoài những nhân
vật đã lui tới Brighton như đã nói ở trên, chúng ta cũng không thể quên được
rằng ở đây còn một số bạn cũ của chúng ta, thí dụ như bà Crawley cùng đoàn tùy
tòng của bà.
Chỗ bà Crawley
dưỡng bệnh chỉ cách nơi vợ chồng Rawdon trọ khoảng một quãng đường, nhưng bà
lão cũng vẫn cương quyết đóng cửa không cho hai vợ chồng thằng cháu bén mảng
đến, như ở Luân-đôn vậy. Bà Bute Crawley còn ở bên cạnh bà em chồng một phút
nào thì bà còn tìm mọi cách tránh cho bà em khỏi bị quá xúc động vì phải nhìn
thấy mặt thằng cháu trai bất trị. Mỗi khi “bà cô” già đi xe ngựa dạo chơi mát,
bà Bute bao giờ cũng phải đi kèm mỗi người một bên. Và nếu như bất chợt gặp hai
vợ chồng Rawdon, mặc dầu anh chàng bao giờ cũng cố ngả mũ chào, nhưng bà
Crawley cùng đoàn hộ giá cứ thản nhiên như không bước qua, lạnh nhạt một cách
tàn nhẫn; Rawdon bắt đầu tuyệt vọng. Nhiều lần anh chàng rầu rĩ bảo vợ:
- Ở đây cũng
chẳng hơn cóc gì Luân-đôn.
Cô vợ bao giờ
cũng vui tính hơn chồng, đáp:
- Sống trong một
khách sạn đủ tiện nghi ở Brighton vẫn cứ tốt hơn trong một nhà giam con nợ ở
Đường Chancery chứ. Mình quên mất hai thằng công sai của lão Moses, nhân viên
sở Cảnh sát rồi à? Chúng rình trước cửa nhà ta suốt một tuần lễ ròng. Đám bè
bạn ở đây cũng toàn là đồ ngốc thật đấy, nhưng ông Joe và đại úy Cupid thì vẫn
cứ dễ chịu hơn mấy thằng tay sai của lão Moses; phải không, anh Rawdon yêu quý?
Rawdon vẫn buồn bã,
nói:
- Quái thật, sao
chúng nó chưa đem trát đến tận đây bắt mình nhỉ?
- Bao giờ có
chuyện ấy, ta sẽ có cách đối phó.
Cô Becky táo tợn
kia đáp vậy, lại vạch rõ cho chồng biết cuộc gặp gỡ với Joe và Osborne có lợi
như thế nào; tình bạn đã đưa đến cho Rawdon một món tiền mặt kha khá rất đúng
lúc. Anh chàng sĩ quan ngự lâm lại làu bàu:
- Ngần ấy chưa
chắc đã đủ trả tiền khách sạn.
Cô vợ bao giờ
cũng sẵn sàng có ý kiến vội đáp:
- Thì việc gì
phải trả tiền khách sạn cơ chứ?
Thằng hầu của
Rawdon vẫn đi lại thân mật với cánh đầy tớ trai trong nhà bà Crawley; hắn được
lệnh hễ gặp bác xà ích của bà này là lập tức phải bỏ tiền ra mời uống rượu kỳ
được, cho nên nhất cử nhất động của bà lão Crawley đều không thoát được khỏi
mắt đôi vợ chồng trẻ. Không những thế Rebecca còn khôn ngoan nảy ra ý kiến nên
ốm một tí, và mời đúng ngay ông thày thuốc vẫn săn sóc cho bà gái già này thành
ra việc cung cấp tin tức có thể gọi là khá chu đáo. Bề ngoài, vì bị bó buộc,
nên bà Briggs cũng phải tỏ ra ghét bỏ vợ chồng Rawdon. Nhưng tính bà vốn tốt và
cũng dễ tha thứ. Bây giờ, cái cớ để bà ghen ghét không còn nữa, bà cũng chẳng
thấy ghét bỏ gì Rebecca, mà chỉ nhớ lại tính tình vui vẻ và những lời lẽ ngọt
ngào của cô ta. Thật ra thì cả bà Briggs và bà Firkin là người hầu riêng của bà
Crawley, cũng như toàn thể gia nhân trong nhà, đều đang rên xiết với ách thống
trị độc tài của bà Bute là kẻ mới thắng thế. Ở đời thói thường vẫn vậy; người
đàn bà đáng kính nhưng nghiệt ngã kia lại muốn phát triển quá mức những thuận
lợi của mình, và cứ muốn lợi dụng sự thắng thế một cách tàn nhẫn. Chỉ trong
vòng mấy tuần lễ, bà ta đã biến bà già ốm yếu thành một con người ngoan ngoãn
hết sức, đến nỗi bà lão hoàn toàn bị khuất phục trước mệnh lệnh của bà chị dâu,
đến nỗi cũng không dám hé miệng thở than với bà Briggs và bà Firkin về tình
trạng nô lệ của mình nữa. Bà Bute đo cả từng cốc rượu vang hàng ngày bà Crawley
được phép uống một cách hết sức chính xác, làm cho bà Firkin và bác quản lý hết
sức bất bình vì thấy mình bị tước mất cả cái quyền cai quản mấy chai rượu nho.
Bà Bute giữ cả quyền phân phối cho mọi người phần bánh, phần thịt, nhiều ít tùy
theo ý riêng. Mỗi ngày ba buổi, sáng, trưa, và tối, bà ta đem những thứ thuốc
ghê gớm theo đơn bác sĩ đến, dỗ ngon dỗ ngọt, cuối cùng bà lão ốm phải ngoan ngoãn
uống hết; thấy thế bà Firkin nói: “Bà chủ đáng thương của tôi uống thuốc ngoan
như một con cừu vậy”. Bà ta lại quyết định cả việc dùng xe ngựa hay dùng ghế có
bánh xe lăn để đi chơi; tóm lại bà Bute săn sóc người em chồng ốm tận tình hết
mực. Nếu có khi nào người ốm tỏ ý phản đối một cách yếu ớt, muốn ăn thêm một
tý, hoặc muốn uống bớt một ít thuốc, lập tức bà Bute giơ cái chết ra dọa, thế
là bà Crawley hàng phục ngay.
Bà Firkin phàn
nàn với bà Bute thế này:
- Bà chủ mất hết
ý chí rồi. Đã ba tuần nay, bà ấy chưa bảo tôi là “con khỉ” lần nào.
Cuối cùng, bà
Bute quyết định thải cả người hầu riêng của bà chủ tức là bà Firkin, cả Bowls,
tức là bác gia nhân thân tín to béo, và cả bà Briggs nữa; bà lại còn định viết
thư về nhà thờ gọi hai cô con gái lên, để di chuyển cái hình hài ốm yếu của bà
em chồng về trại Crawley Bà chúa; thì đúng lúc ấy xảy ra một việc giời đánh,
khiến cho bà phải bỏ dở công việc lý thú trên.
Số là đức cha
Bute Crawley chồng bà, một đêm kia đi chơi về khuya, ngã ngửa gãy mất cái xương
đùi, chân bị sưng tấy lên, sốt li bì; vậy bà Bute đành rời Sussex để về
Hamshire vậy. Bà hứa rằng hễ ông Bute bình phục, lập tức bà sẽ trở lại với bà
em thân yêu ngay. Lúc ra về bà còn để lại cho bọn gia nhân những chỉ thị dứt
khoát về cách săn sóc người ốm. Bà vừa bước chân lên chiếc xe ngựa ở
Southampton, lập tức trong nhà bà Crawley vui như mở hội, suốt mấy tuần lễ qua,
chưa lần nào mọi người trong gia đình được hể hả như vậy. Ngay hôm ấy, bà
Crawley bỏ liều thuốc buổi chiều; cũng ngay chiều hôm ấy, bác Bowls ung dung mở
một chai rượu nho ra để mình và bà Firkin thưởng thức. Đêm hôm ấy, là Crawley
và bà Briggs tự cho phép mình thay thế những bài giảng đạo của Porteus bằng một
ván bài “pich-kê”; tóm lại y như ta thường: “Chủ vắng nhà, gà vọc niêu tôm” vậy.
Mỗi tuần khoảng
hai ba buổi, bà Briggs có lệ ra bể lắm lúc sáng tinh sương; bà ngồi trong một
chiếc xe tắm, mặc một cái áo bằng dạ mỏng, đầu đội mũ bằng vải sơn, thoải mái
ngâm mình dưới nước. Chúng ta cũng rõ Rebecca biết bà Briggs có thói quen này nhưng
không muốn tấn công ngay như đã đe từ trước. Cô ta quyết định chờ khi bà này
vừa tắm xong mới phục kích một trận, nghĩa là đúng lúc trong người bà này mát
mẻ, tâm hồn đang nhẹ nhàng khoan khoái. Cho nên Becky dậy từ sớm tinh mơ, mang
một cái ống nhòm vào phòng khách trông ra biển, hướng về phía những chiếc xe
tắm trên bãi cát. Cô nhìn bà Briggs bước vào chiếc xe riêng của mình, rồi xuống
nước. Becky tiến ra bờ bể đúng lúc vị nữ thủy thần mà cô ta đang đi tìm bước ra
khỏi chiếc xe tắm đi về phía bờ dải đá cuội. Thật là một bức tranh tuyệt vời:
bãi cát thoai thoải, đám phụ nữ tắm nổi bật trên hàng đầu, xa xa phía sau là
dãy núi đá dài tít tắp cùng những ngôi nhà được vừng dương buổi sớm chiếu sáng
rực rỡ. Rebecca mỉm sẵn một nụ cười thật duyên dáng; bà Briggs vừa ló đầu ra
khỏi căn phòng thay áo, cô giơ ngay cái bàn tay xinh xinh trắng muốt ra. Thế
thì làm sao mà bà Briggs không phải chào lại? Bà này nói:
- Chào cô Sha...
chào bà Crawley.
“Bà Crawley” nắm
chặt lấy tay bà Briggs áp vào ngực và đột nhiên vòng hai tay ôm lấy bà này mà
hôn một cách âu yếm rồi nói: “Bà bạn ơi, bà bạn thân mến ơi!”
Giọng nói biểu lộ
một tình cảm vô cùng chân thành làm cho bà Briggs suýt nữa thì phát khóc, và
ngay cả cô gái hầu tắm cũng phải cảm động.
Rebecca lôi kéo
bà Briggs vào một câu chuyện thân mật khá lâu một cách rất dễ dàng. Bà Briggs
kể lại tất cả mọi chuyện xảy ra từ chuyện xảy ra hôm Becky đột ngột bỏ nhà bà
Crawley ở Đường công viên mà đi cho tới ngày nay, cũng như câu chuyện tốt đẹp
tức là việc bà Bute ra về. Bà này còn tỉ mỉ kể lại tất cả bệnh trạng của bà
Crawley, triệu chứng thế nào, uống những thuốc gì, rành rọt, chân tơ kẽ tóc,
đúng cái lối đàn bà ưa kháo chuyện.
Phụ nữ mà được kể
cho nhau nghe về chuyện mình đau ốm thuốc men ra sao thì có bao giờ mà họ chán được?
Cho nên bà Briggs kể không chán mồm mà Rebecca nghe cũng không chán tai. Cô ta
thực sự cảm tạ trời đất khi nghĩ rằng những con người trung thành quý báu vô
giá như bà Briggs và bà Firkin đã tận tụy săn sóc vị ân nhân của họ trong thời
gian bà đau ốm. Cầu thượng đế ban phúc lành cho bà. Tuy bề ngoài hình như
Rebecca đã không giữ tròn bổn phận mình đối với bà Crawley, nhưng sự lầm lỗi
của cô chẳng là điều tự nhiên và dễ tha thứ sao? Làm sao cô lại có thể không
trao trái tim cho người đàn ông đã chiếm được lòng mình? Nghe cô than thở như
vậy, bà Briggs, con người đa cảm ấy, đành chỉ biết ngước mắt nhìn lên trời mà
thở dài thông cảm, và nhớ lại rằng chính mình mấy chục năm về trước cũng đã có
nhiều phút yếu lòng như vậy; tóm lại bà Briggs cho rằng tội cô Rebecca cũng
không nặng lắm.
Rebecca nói:
- Bao giờ tôi
quên được người đã sẵn lòng cưu mang một kẻ mồ côi trơ trọi. Không bao giờ; mặc
dầu người ấy đã ruồng bỏ tôi, nhưng tôi sẽ còn yêu quý mãi mãi, và sẽ sẵn sàng
hy sinh đời tôi để đền đáp công ơn. Bà Briggs thân mến ơi, tôi yêu kính bà
Crawley hơn hết thảy mọi người trên đời này vì bà là ân nhân của tôi, và là cô
anh Rawdon yêu quý của tôi; tôi yêu quý cả những người nào trung thành với bà
nữa. Vào địa vị tôi, chẳng bao giờ tôi đối xử với những người bạn trung thành
của bà Crawley như cái bà Bute đa sự đáng ghét kia đâu.
Rebecca lại tiếp:
- Bề ngoài, tưởng
như Rawdon là người thô lỗ, vô tình, nhưng thật ra anh ấy giầu tình cảm lắm, đã
hàng trăm lần anh ấy rơm rớm nước mắt bảo tôi rằng thật là phúc đức mà trời đã
run rủi cho bà cô quý báu nhất đời của mình có được hai người bạn đáng quý là
bà Firkin và bà Briggs. Nếu như kế hoạch đen tối của con người ghê gớm là bà
Bute thành công, nghĩa là tống khứ được hết cả những người thân thiết của bà
Crawley đi chỗ khác, và để cho bà lão khốn khổ kia thành một nạn nhân rơi vào
tay những con mụ độc ác nhà lão tu sĩ - Rebecca cũng lo rằng điều này có thể
xảy ra được lắm - thì cô ta xin bà Briggs nhớ rằng căn nhà của cô ta tuy tầm
thường thật nhưng cũng sẵn sàng mở rộng cửa đón tiếp bà này. Becky say sưa thốt
lên:
- Bà bạn yêu quý
ơi! Trên đời này vẫn còn những con người không biết quên ơn, và đàn bà không
phải ai cũng như bà Bute Crawley cả đâu!
Rebecca lại tiếp:
- Nhưng tôi phàn
nàn mà làm gì nhỉ? Tuy rằng vì bà cụ mà tôi khổ, nhưng tôi vẫn mang ơn, bởi lẽ
Rawdon yêu quý của tôi là cháu bà cụ.
Đoạn Rebecca tố
cáo hết mọi khóe ăn ở của bà Bute ở trại Crawley Bà chúa cho bà Briggs nghe.
Hồi ấy, cô không hiểu gì nhưng bây giờ mới vỡ lẽ rằng té ra bà Bute đã tìm trăm
phương nghìn kế, kỳ cho hai người mê nhau mới thôi...té ra cả hai con người trẻ
tuổi thơ ngây đó đã cùng đưa nhau sa vào cạm, thế là yêu nhau, rồi lấy nhau,
rồi mất toi “cơ nghiệp” vì những âm mưu của bà Bute.
Sự thực quả có
như vậy. Bà Briggs vẫn biết rõ chuyện này từ trước, nghĩa là bà Bute đã cố ghép
Rawdon và Rebecca làm vợ chồng. Tuy công nhận Rebecca hoàn toàn vô tội, nhưng
bà Briggs cũng không thể giấu được người bạn gái rằng rất có thể Rebecca không
bao giờ còn tranh thủ được cảm tình của bà Crawley nữa, vì bà lão này hẳn không
thể tha thứ cho thằng cháu trai cái tội lấy vợ dại dột như vậy.
Về vấn đề này
Rebecca đã có chủ ý: cô vẫn không hề mất tinh thần. Nếu ngay bây giờ bà Crawley
chưa chịu tha thứ, thì ít nhất cũng có thể hy vọng trong tương lai bà ta sẽ
nghĩ lại. Thậm chí bây giờ giữa Rawdon và danh hiệu nam tước cũng chỉ còn có
một trở ngại là anh chàng Pitt Crawley ốm đau quặt quẹo. Nếu có chuyện gì xảy
ra cho anh ta thì mọi việc sẽ ổn. Rebecca đã bóc trần được mọi mưu mô xảo quyệt
của bà Bute khiến cho mọi người nghi ngờ bà này, thế cũng đủ cả rồi, và rất có
thể cũng có lợi cho Rawdon nữa. Sau một giờ trò chuyện với bà bạn cũ, Rebecca
thân mật chia tay, yên trí rằng chỉ vài giờ sau là cuộc trò chuyện vừa rồi phải
lọt đến tai bà Crawley.
Cuộc hội đàm kết
thúc, vừa lúc Rebecca cần trở về khách sạn để dự bữa tiệc chia tay với mấy
người bạn hôm trước. Rebecca âu yếm từ biệt Amelia, tưởng chừng hai người quý
nhau như chị em ruột. Cô lấy mùi xoa ra lau mắt mãi, rồi ôm chặt lấy cổ bạn, y
như hai người sắp xa nhau suốt đời; lúc xe ngựa chuyển bánh cô lại thò cổ ra
ngoài cửa sổ mà vẫy mãi mùi xoa (nhưng nó khô xác, chẳng có tý nước mắt nào).
Sau đó, cô quay vào bàn ăn, xơi mất mấy con tôm bể một cách cực kỳ ngon lành
đúng kiểu một người đàn bà đang bị xúc động mạnh. Vừa nhai nhồm nhoàm Becky vừa
kể lại cho Rawdon nghe về cuộc gặp gỡ vừa qua với bà Briggs. Rêbeca tỏ ý hy
vọng rất nhiều làm cho anh chàng cũng lấy phần hào hứng. Xưa nay vẫn thế, buồn
hay vui, cô vợ vẫn có cách làm cho chồng phải bắt chước theo mình.
- Mình yêu ơi,
ngồi vào bàn viết ngay hộ em một lá thư cho bà Crawley đi. Mình sẽ nói rằng
mình ngoan thật là ngoan, đại khái như vậy.
Thế là Rawdon
ngồi vào bàn viết ngoay ngoáy:
Brighton, thứ
năm…
- Cô thân yêu của
cháu…
Viết đến đây anh
chàng sĩ quan hào hiệp không tưởng tượng ra được lời nào nữa. Anh cắn bút nhìn
vợ. Chị vợ thấy mặt chồng dài ra không sao nhịn được cười, bèn chắp hai tay sau
lưng đi đi lại lại trong phòng đọc cho chồng viết tiếp như thế này:
Trước khi giã từ
nước nhà ra đi dự trận, lần này rất có thể cháu gặp sự rủi ro…
- Cái gì?
Rawdon ngạc nhiên
hỏi lại, nhưng cũng thấy ngay ý nghĩa khôn khéo của câu nói, vừa cười vừa viết
tiếp:
Rất có thể cháu
gặp sự rủi ro; cháu đến đây…
Ông sĩ quan ngự
lâm ngắt lời:
- Becky, sao
không viết: đến ở đây? Đến ở đây cũng đúng ngữ pháp chứ sao?
Rebecca giậm chân
xuống đất, nhắc lại:
Cháu đến đây để
từ biệt cô, người bạn thân thiết và cũng là người bạn đầu tiên trong đời. Trước
khi phải xa cách cô, rất có thể xa cách mãi mãi, một lần nữa, cháu thiết tha
xin cô cho phép được siết chặt bàn tay đã ban cho cháu bao niềm hạnh phúc trong
đời cháu.
- Bao nhiêu hạnh
phúc trong đời cháu.
Rawdon lặp lại
câu nói, vừa nguệch ngoạc viết vừa lấy làm ngạc nhiên, không hiểu sao mình lại
viết quá dễ dàng như vậy.
Cháu chỉ cầu xin
cô có một điều thôi, nghĩ là khi chia tay, cô đừng giận cháu nữa. Cháu cũng
thừa hưởng được truyền thống kiêu hãnh của dòng họ cao quý nhà ta, nhưng không
phải trong tất cả mọi vấn đề. Cháu đã cưới con gái một họa xĩ làm vợ, song cháu
không hề sấu hổ vì việc ấy…
Rawdon vội kêu
lên:
- Không, nếu tôi
có xấu hổ thì cứ đâm tôi một nhát đao cho chết tôi.
Rebecca bẹo tai
chồng, cúi xuống ngó xem anh chàng có phạm lỗi chính tả nào không, tiếp:
- Ông nỡm ơi, họa
sĩ phải viết s, và xấu hổ thì viết x chứ.
Anh chồng chữa
lại, hết sức thán phục sự hiểu nhiều biết rộng của cô giáo yêu quý. Rebecca đọc
tiếp:
- Cháu cứ tưởng
rằng cô cũng chẳng lạ gì tình gắn bó của chúng cháu vì chính bà Bute Crawley đã
khuyến khích chúng cháu. Nhưng chúng cháu cũng không trách bà ấy. Cháu đã cưới
một người vợ nghèo, nhưng cháu sẵn sàng chịu trách nhiệm về việc cháu làm. Cô
thân yêu ơi, còn việc chia gia tài thì xin cứ tùy cô, cháu sẽ không bao giờ
phàn nàn lấy nửa lời.
Cháu muốn cô tin
rằng cháu quý cô không vì tiền bạc. Trước khi từ giã nước Anh, cháu muốn cô
cháu mình hòa thuận với nhau như xưa. Xin cô cho cháu được gặp mặt trước khi
lên đường. Biết đâu vài tuần, vài tháng nữa chẳng là quá muộn, cháu sẽ không có
cái sung sướng được cô ban cho một lời từ biệt khi rời bỏ xứ sở ra đi.
Becky ngọt ngào
nói:
- Bà ấy không
nhận ra được lời lẽ của em đâu; em đã cố đọc những câu ngắn ngủi, cộc lốc…
Bức thư được gửi
cho bà Briggs. Bà Briggs lấy điệu bộ hết sức bí mật vừa trao cho bà Crawley bức
thư, vừa nói mấy lời đơn giản, ngây thơ:
- Bà Bute đi rồi,
chúng mình có thể đọc thư này được đấy!
Nghe vậy, bà
Crawley nói:
- Bà Briggs đọc
cho tôi nghe nào.
Nghe bà Briggs
đọc xong, bà Rawdon lại cười phá ra.
Thấy bà Briggs có
vẻ rất cảm động vì lời lẽ trung thực, ân cần trong thư, bà chủ nói:
- Bà nỡm ơi,
không thấy à? Có phải lời lẽ của thằng Rawdon đâu. Suốt đời nó chỉ viết thư cho
tôi để xin tiền; mà thư nó viết thì từ đầu chí cuối đầy rẫy nào lỗi chính tả,
nào gạch xóa, nào lỗi ngữ pháp; lại cái con rắn độc kia xỏ dây vào mũi nó rồi
đây.
Bà Crawley nghĩ
thầm: “Chúng nó cùng một giuộc như nhau cả. Đứa nào cũng muốn mình chết để chia
của”. Im lặng một lúc, bà nói tiếp, giọng hết sức điềm tĩnh:
- Nói cho cùng,
gặp thằng Rawdon cũng chẳng sao; bắt tay từ biệt nó một cái cũng chẳng mất gì
cơ mà. Miễn là đừng có chuyện rắc rối, thì gặp mặt nó một tý cũng không sao.
Nhưng con người ta chịu đựng cũng có giới hạn chứ; bà nhớ hộ rằng, tôi trân
trọng yêu cầu “bà Rawdon” tránh mặt tôi cho...tôi nhất định không thể nhìn mặt
bà ấy được.
Bà Briggs đành
bằng lòng với thái độ tha thứ nửa vời của bà chủ. Bà ta nghĩ rằng muốn cho hai
cô cháu làm lành với nhau, tốt nhất là xui Rawdon rình ở ngoài mỏm núi, chỗ
hàng ngày bà Crawley hay ngồi ghếch bánh xe ra đó hóng mát.
Và hai cô cháu đã
gặp nhau ở đó. Không rõ khi thấy mặt thằng cháu yêu quý ngày xưa, trong thâm
tâm bà Crawley có chút nào cảm động không, nhưng bà cũng chìa hai ngón tay ra
cho anh cháu bắt, miệng mỉm một nụ cười rất tươi, y như hai cô cháu chỉ mới xa
nhau ngày hôm trước. Còn Rawdon thì đỏ tía mặt lên, vì bối rối và quá sung
sướng; anh chàng nắm ngay lấy tay bà Briggs mà rung tít lên. Có lẽ anh ta cảm
động vì tiền, cũng có thể vì quý cô; hoặc giả có khi anh ta thấy sau trận ốm
mấy tuần qua, cô mình trông tiều tụy quá mà xúc động chăng.
Về nhà, kể lại
cuộc gặp gỡ cho vợ nghe anh ta nói:
- Bà lão chơi cho
mình một vố ác quá. Tôi tự cảm thấy lố bịch thế nào ấy. Tôi đi kèm bên cái ghế
quỷ quái của bà lão đến cửa nhà; thế rồi bà Briggs ra đỡ bà cụ vào. Tôi cũng
muốn vào trong nhà, nhưng mà...
Cô vợ rít lên:
- Thế ra anh
không vào à, Rawdon?
- Không, mình ạ;
lúc ấy nếu tôi mà không run bắn người lên thì tôi cứ chết đâm chết chém”!
- Đồ ngốc! Lẽ ra
anh phải vào trong nhà, rồi nhất định ở lỳ đấy không ra nữa mới đúng.
Anh chàng sĩ quan
ngự lâm to lớn xịu mặt nói:
- Thôi đừng rủa
tôi nữa Becky. Có lẽ tôi là đồ ngốc thật, nhưng mình không được nói thế mới
phải.
Và anh chàng cau
có nhìn vợ một cách dữ tợn, trông không lấy gì làm dễ chịu lắm. Rebecca vội tìm
cách vuốt ve cho anh chàng thô lỗ bớt giận:
- Thôi, anh yêu
ơi, ngày mai anh phải cẩn thận hơn nhé. Bà cụ có cho gọi hay không cũng mặc, cứ
đến thăm như thường.
Anh chồng đáp
rằng sẽ tùy thích làm theo ý riêng, và yêu cầu vợ từ giờ ăn nói phải biết giữ
mồm giữ miệng một tý. Đoạn anh chồng bị chạm tự ái bỏ đi chơi bi-a suốt buổi
chiều, lúc nào vẻ mặt cũng lầm lỳ, im lặng và cáu bẳn.
Nhưng cũng vẫn
như mọi khi, chỉ đến đêm là anh chàng đành chịu công nhận vợ khôn ngoan sáng
suốt hơn mình; anh ta vô cùng buồn rầu vì phải công nhận rằng vợ mình có lý: cô
ta đã linh cảm thấy cái hậu quả tai hại do việc làm của chồng gây ra.
Nhất định bà
Crawley phải xúc động ít nhiều khi gặp lại mặt cháu sau một thời gian dài xa
cách vì xích mích.
Bà ta đã nhiều
lần mơ màng nhớ lại cuộc gặp gỡ đó. Bà nói với bà Briggs:
- Trông thằng
Rawdon béo ra và già đi nhiều nhỉ. Mũi nó đỏ rói, trông mẽ nó hồi này xuống tệ;
lấy con bé ấy làm vợ nó đâm ra bệ rạc quá. Bà Bute bảo rằng hai đứa vẫn uống
rượu với nhau, có nhẽ đúng. Phải, gần nó, sặc mùi rượu mạnh đến khiếp. Bà không
thấy à?
Bà Briggs cố cãi
rằng bà Bute vẫn có thói nói xấu tất cả thiên hạ, nhưng vô ích; theo thiển ý
của một người tầm thường bề dưới như bà, bà thấy bà Bute là một...
- Là một người
đàn bà xảo quyệt chứ gì? Phải có thế, bà ấy có hay nói xấu người khác thật,
nhưng tôi vẫn chắc chắn rằng chính con kia đã làm cho thằng Rawdon sinh rượu
chè nghiện ngập. Cái bọn con nhà hà tiện chúng nó vẫn thế…
Bà Briggs đáp:
- Thưa bà, được
gặp lại bà, anh ấy cảm động lắm. Tôi chắc rằng khi bà nghĩ đến lúc anh ấy sắp
ra trận gặp bao nguy hiểm…
Bà gái già bỗng
đùng đùng nổi giận, kêu váng lên:
- Bà Briggs, nó
hứa cho bà bao nhiêu tiền đấy, y như rằng lại bắt đầu khóc rồi. Tôi ghét cái
thói giả dối ấy lắm. Sao lúc nào cũng cứ làm phiền tôi? Đi về buồng mà khóc,
rồi gọi Firkin cho tôi... thôi, ở lại đây; ngồi xuống, hỉ mũi đi, đừng khóc
nữa; rồi viết hộ tôi một lá thư cho đại úy Crawley.
Bà Briggs đáng
thương ngoan ngoãn ngồi xuống trước bàn viết. Trên bàn vẫn còn mấy tờ giấy đầy
những dòng chữ viết ngoáy, nét chữ cứng cáp mạnh mẽ của bà Bute Crawley để lại.
- Viết đi: “Thưa
ngài thân mến”, hay là “ngài thân mến”, thế phải hơn. Viết rằng theo lời bà
Crawley yêu cầu. Không! Viết rằng theo lời ông Creamer, thầy thuốc của bà
Crawley thì những sự xúc động quá mạnh rất nguy hiểm cho sức khỏe của tôi, vì
vậy, tôi không thể dự những cuộc bàn cãi về công việc gia đình, cũng không thể
gặp gỡ ai được. Cảm ơn hắn ta về cuộc thăm viếng vừa rồi, và bảo hắn đừng hy
vọng tôi giúp đỡ tiền nong nữa. Bà Briggs, viết thêm rằng tôi chúc hắn đi đường
mạnh khỏe, và nếu hắn quá bộ đến thăm viên luật sư riêng của tôi ở công viên
khách sạn Gray, sẽ có thư gửi cho hắn. Được lắm, thế là ổn; hắn sẽ phải bỏ
Brighton mà đi.
Bà Briggs ngoan
ngoãn viết lá thư theo đúng ý bà chủ.
Bà này lại tiếp:
- Bà Bute ra đi
mới đúng một ngày mà đã đến quấy rầy tôi rồi, thế thì quá lắm. Bà Briggs, viết
thư cho bà Bute Crawley, bảo rằng không cần bà ấy trở lại đây làm gì...không
cần trở lại mà cũng không thể trở lại được nữa đâu. Tôi không muốn làm một kẻ
nô lệ ngay chính trong nhà này. Tôi không muốn bị nhịn đói, và bị đầu độc. Tất
cả chúng nó, đứa nào cũng muốn giết tôi... tất cả... tất.
Nói đoạn, người
đàn bà già nua trơ trọi rũ ra khóc thảm thiết.
Màn cuối cùng của
tấn hài kịch đáng ghê sợ có bà ta sắm vai trong Hội chợ phù hoa cũng sắp kết
thúc; dẫy đèn sáng rực rỡ đã tắt dần từng ngọn, từng ngọn một, và tấm màn tối
tăm sẵn sàng buông xuống rồi.
Hai vợ chồng
Rawdon đọc đến đoạn cuối cùng của lá thư, thấy lời lẽ bà Briggs rất ngọt ngào
nói về việc mời Rawdon đến tìm viên luật sư riêng của bà Crawley ở Luân- đôn,
thì cũng thấy được an ủi đôi phần, tuy rằng mới đầu cũng thất vọng vì bị bà cô
từ chối không tha thứ tội lỗi cũ.
Thế là mưu mẹo
của bà lão muốn sớm tống cổ Rawdon về Luân-đôn thành công.
Anh ta có món
tiền được bạc của Joe và của Osborne, bèn thanh toán tiền khách sạn. Ông chủ
khách sạn đâu ngờ rằng cho đến ngày hôm ấy, ông mới chắc chắc được trả tiền
sòng phẳng. Bởi vì, cũng giống như một viên tướng gửi lại hành lý về hậu tuyến
trước khi bắt đầu trận đánh, Rebecca đã khôn ngoan gói ghém tất cả mọi thứ đáng
tiền giao cho thằng hầu của George gửi về Luân-đôn bằng xe ngựa và trông nom
hộ. Ngày hôm sau, Rawdon và vợ cũng dùng xe ngựa về nốt. Rawdon nói:
- Tôi vẫn muốn
gặp mặt bà lão một tý trước khi đi.Trông bà ấy rầu rĩ, tiều tụy quá, nhất định
không thọ thêm được mấy tý đâu. Không biết cái ngân phiếu đáng giá bao lăm? Độ
hai trăm đồng nhỉ? Không có lẽ lại dưới hai trăm đồng, phải không, Becky?
Vì được hai người
phụ tá của ông Moss quá bộ đến thăm luôn, nên hai vợ chồng Rawdon không về nhà
ở Brighton, mà đến trọ tại khách sạn. Sáng sớm hôm sau, Rebecca đã có dịp gặp
lại mấy ông khách quý ấy lúc đang trên đường đến nhà bà Sedley ở Funham để thăm
cô bạn Amelia và mấy người bạn ở Brighton. Nhưng đám bè bạn của cô đã đi
Chatham rồi; từ Chatham họ đi Harwich để lên tàu sang Bỉ cùng với trung đoàn
thứ... chỉ còn lại một mình bà lão Sedley trơ trọi khóc lóc vì đau khổ. Trở về
nhà, Rebecca thấy chồng cũng vừa đến công viên khách sạn Gray về. Anh ta cáu
quá vì đã rõ số phận mình:
- Trời đất ơi,
Becky, mụ ấy thí cho mình có hai mươi đồng bạc.
Trước sự thất
vọng của Rawdon, Becky cũng phải phá ra cười vì tuy bị đánh lừa, nhưng cô cũng
công nhận bà lão là người đa mưu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét