XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Chủ Nhật, 24 tháng 2, 2019

HỘI CHỢ PHÙ HOA (Chương 13-25)



                               Chương 13
TRỮ TÌNH VÀ NHỮNG THỨ KHÁC NỮA

Tôi sợ rằng chàng trai trẻ, người nhận những lá thư của cô Amelia, là một nhà phê bình tàn nhẫn.

Trung úy Osborne bị một đống thư như thế đuổi theo mình khắp chốn, khiến cho anh chàng gần như xấu hổ khi nghe bạn đồng ngũ nói đùa mình về chuyện ấy; anh ta ra lệnh cho người hầu chỉ được trao thư cho mình trong phòng riêng. Có lần mọi người thấy anh ta đốt một lá thư để châm thuốc làm cho đại úy Dobbin sợ quá; tôi tin rằng Dobbin sẵn sàng bỏ ra một tờ giấy bạc đánh đổi lấy tờ thư.

George cố gắng giấu kín tên người yêu của mình trong một thời gian khá lâu; anh ta chỉ nói đại khái “có một người đàn bà” trong việc này. Viên sĩ quan cầm cờ Spooney bảo viên sĩ quan cầm cờ Stubble: “Mà không phải là người đàn bà đầu tiên đâu nhé. Tay Osborne này đến là quỷ sứ. Ở Demerara, có một cô gái con một luật sư gần phát điên vì yêu anh ta; thế rồi đến cô thiếu nữ xinh đẹp hai đời lai da đen, là cô Pye ở St. Vincent, anh biết đấy; và từ khi trở về đây, anh ta khét tiếng là một tay Don Juan, lạy Chúa”.

Stubble và Spooney cho rằng “khét tiếng là một Don Juan” tức là đức tính đẹp đẽ nhất của người con trai. Tiếng tăm Osborne nổi như sóng cồn khắp trung đoàn. Anh ta nổi danh về tài săn bắn, nổi danh hát giỏi, nổi danh trong khi diễu binh, lại là tay ăn tiêu hào phóng, vì ông bố cho anh ta rất nhiều tiền. Áo của anh ta may khéo hơn áo của bất cứ sĩ quan nào trong trung đoàn. Anh ta lại có nhiều áo hơn mọi người. Ai cũng quý mến anh ta. Về tửu lượng anh ta có thể chấp tất cả mọi sĩ quan trong câu lạc bộ, kể cả viên đại tá già Heavytop. Anh ta đấu quyền giỏi hơn cả Knuckles, một anh lính trơn (anh này nếu không có tật say rượu thì đã được thăng chức hạ sĩ rồi, lại cũng đã từng đấu quyền tranh giải); trong câu lạc bộ của trung đoàn, George là tay chơi “batter” và “bowler” cừ nhất. Anh ta cưỡi con ngựa riêng của mình, con “Chớp nhoáng”, và đã cướp được giải của nhà binh trong cuộc đua ở Quebec. Ngoài Amelia còn vô khối cô gái mê tít anh chàng. Stubble và Spooney coi anh ta là một thứ thần Apollo () Dobbin coi anh ta là một Crichton (); còn bà thiếu tá O’Dowd thì công nhận anh ta là một thanh niên lịch sự, làm cho bà nhớ lại anh chàng Fitzjurld Fogarty, thứ nam của bá tước Castlefogarty quá. Tha hồ cho Stubble và Spooney cùng mọi người đoán phỏng về người đàn bà gửi thư cho Osborne...người bảo chính là một nữ công tước ở Luân đôn phải lòng anh chàng, kẻ đoán là con gái một đại tướng đã đính hôn với người khác nhưng vẫn điên cuồng gắn bó với anh ta ... có người lại nói chính là vợ một nghị sĩ quốc hội đang rủ anh ta đi trốn biệt tích một nơi... hoặc là một cô gái nào đó đang bị cuốn hút vào trong một mối tình mê ly kích thích, lãng mạn, bị mọi người ruồng bỏ; Osborne không hề rọi một chút xíu ánh sáng nào vào những lời phỏng đoán mơ hồ kia, cứ để mặc cho bè bạn và những người mê mình tưởng tượng, sắp đặt mọi tình tiết của câu chuyện. Và nếu đại úy Dobbin không tiết lộ thì cả trung đoàn không sao biết được sự thực trong câu chuyện yêu đương này.

Một hôm, viên đại úy đang ăn sáng trong phòng ăn chung của sĩ quan thì Cackle, một sĩ quan phụ tá quân y, cùng Stubble và Spooney bàn tán về chuyện yêu đương của Osborne; Stubble tuyên bố rằng người đàn bà chính là một vị nữ công tước hầu cận Nữ hoàng Charlotte, còn Cackle thì thề rằng cô ta là một nữ ca sĩ ở rạp Opera, tính tình cực kỳ bợm bãi. Nghe thấy thế, Dobbin bị xúc động mạnh quá đến nỗi quên phắt rằng mồm mình hãy còn đầy bánh mì phết bơ và trứng, và không nên tiết lộ câu chuyện làm gì; anh ta buột mồm nói:

- Cackle, anh là một thằng ngu xuẩn: bao giờ anh cũng ăn nói láo lếu toàn chuyện bậy bạ. Không phải Osborne sắp đi trốn cùng một nữ công tước, hay sắp làm hại cuộc đời một cô gái làm các đồ trang sức phụ nữ đâu. Cô Sedley là một thiếu nữ duyên dáng nhất đời xưa nay chưa từng thấy. George đã đính hôn với cô ấy từ lâu lắm rồi; và trước mặt tôi, xin đừng có ai nói xấu gì cô ấy mà không xong đâu.

Mặt Dobbin đỏ tía lên; anh ngưng lại, uống vội một tách nước trà, suýt nghẹn. Nửa giờ sau, khắp trung đoàn ai cũng biết chuyện; và ngay tối hôm ấy bà thiếu tá O’Dowd vội gửi thư cho cô em chồng là Glorvina ở thị trấn O’Dowd, nhắn đừng rời Dobbin vội chàng trẻ tuổi Osborne đã đính ước quá sớm rồi.

Tối hôm ấy, bà ta nâng một cốc rượu whisky lựa lời chúc tụng viên trung úy; anh chàng cáu quá trở về nhà gây sự với Dobbin (anh này không nhận dự tiệc với bà thiếu tá O’Dowd, ngồi trong phòng riêng để thổi sáo, và tôi tin rằng để làm cả những câu thơ buồn hiu hắt). .. gây sự vì Dobbin đã tiết lộ bí mật.

Osborne tức giận quát:

- Ai mượn anh dính vào chuyện riêng của tôi? Bây giờ khắp trung đoàn đều biết tôi sắp cưới vợ, thế là cái quái gì? Làm sao mà cái mụ già ngồi lê đôi mách Peggy O’Dowd ấy lại có thể ăn nói dông dài với tôi ngay trên bàn ăn của mụ, rồi tuyên bố việc đính hôn của tôi với khắp bàn dân thiên hạ? Nói tóm lại, anh có quyền gì mà bảo tôi hiện đã đính hôn, và dính dáng vào việc của tôi, hử Dobbin?

Dobbin đáp:

- Tôi thấy rằng...

Anh bạn ít tuổi hơn ngắt lời:

- Thấy cái con khỉ. Dobbin. Tôi mang ơn anh nhiều, tôi biết rõ lắm, rõ quá lắm; nhưng tôi không thích anh cậy hơn tôi năm tuổi mà lúc nào cũng dạy khôn tôi. Từ giờ, tôi cóc chịu để cho anh giở mãi cái thái độ thương xót trịch thượng, đàn anh với tôi nữa. Thương xót với chả che chở? Tôi muốn biết tôi là đàn em của anh về cái gì?

Đại uý Dobbin hỏi:

- Thế có phải anh đã đính ước không?

Tôi đã đính ước thì có quan hệ cóc gì đến anh hoặc đến người nào khác ở đây?

Dobbin lại hỏi:

- Anh có xấu hổ vì điều ấy không?

George hỏi lại:

- Tôi muốn được biết anh lấy quyền gì mà hỏi tôi câu ấy?

Dobbin đứng phắt dậy:

- Lạy Chúa, anh không định nói muốn cắt đứt việc đính ước ấy chứ?

Osborne giận dữ đáp:

- Nói một cách khác, anh muốn hỏi tôi có phải là một người biết trọng danh dự hay không phỏng, có đúng ý anh như vậy không? Gần đây, đối với tôi, anh có cái giọng...khiến tôi không thể nào chịu đựng được nữa.

- Tôi làm gì anh? George, tôi chỉ bảo anh rằng anh bỏ rơi một thiếu nữ dịu dàng, hiền hậu; tôi chỉ bảo anh rằng khi nào về tỉnh, anh nên đến thăm cô ấy đừng đến cái sòng bạc ở phố St. James nữa.

George cười khẩy, nói:

- Tôi đoán rằng, anh muốn đòi nợ tôi.

Dobbin đáp:

- Dĩ nhiên, tôi muốn đòi nợ...tôi vẫn đòi luôn, đúng không? Anh nói như mình rộng rãi lắm ấy.

Đến đây George hối hận nói:

- Không, chết cha! William, anh tha lỗi cho tôi. Anh đã tốt với tôi rất nhiều, có thượng đế chứng giám. Anh, đã giúp tôi thoát khỏi nhiều chuyện rắc rối. Lúc thằng Crawley trong đội ngự lâm quân được của tôi món tiền ấy, suýt nữa thì tôi đi đứt, nếu không nên ác với tôi thế, không nên lúc nào cũng giảng đạo cho tôi nghe. Tôi vẫn yêu Amelia lắm, tôi thờ phụng cô ấy và cả những thư từ này nữa. Xin anh đừng giận; cô ấy không có lỗi gì hết, tôi hiểu lắm. Nhưng anh biết đấy; không đánh bạc thì được cái gì, tôi cũng không thấy thú. Trung đoàn vừa mới ở Tây Ấn về, cũng phải cho tôi “sống” một chút chứ. Bao giờ cưới vợ tôi sẽ tu tỉnh lại. Tôi lấy danh dự mà cam đoan như vậy. Và tôi bảo...Dob ạ...đừng giận tôi nữa: tháng sau tôi sẽ trả anh một trăm đồng, khi nào tôi biết ba tôi vớ được món lãi gì bở. Tôi sẽ xin ông Heavytop cho nghỉ phép; ngày mai, tôi về tỉnh và đến thăm Amelia... nào, bây giờ anh đã bằng lòng chưa?

Viên đại úy tốt bụng đáp:

- George, không ai giận anh được lâu; còn về chuyện tiền nợ thì anh hiểu đấy, nếu tôi thiếu tiền, chắc anh sẵn lòng cho tôi tiêu chung đến đồng xu cuối cùng của anh.

- Lạy chúa, tôi sẵn lòng, Dobbin ạ.

George đáp có vẻ rất hào phóng, tuy rằng anh ta không bao giờ để dành được lấy một xu.

- George, tôi hy vọng rằng anh chơi bời thế cũng đã đủ rồi. Nếu anh được nhìn thấy mặt cô Emmy đáng thương khi cô ấy gặp tôi hỏi thăm tin anh hôm nọ thì anh sẽ vứt phăng cái bàn bi-a đi rồi. Về mà an ủi cô ấy đi, đồ tồi. Hãy viết cho cô ấy một lá thư thật dài; hãy làm một việc gì cho cô ấy được sung sướng; tôi chỉ mong ước có thế thôi.

Viên trung úy có vẻ tự mãn, đáp:

- Tôi tin rằng cô ấy yêu tôi lắm.

Rồi anh ta lại chuồn đi đàn đúm suốt buổi tối hôm ấy với mấy anh bạn chơi bời trong câu lạc bộ nhà binh.

Trong lúc ấy thì ở khu phố Russell, Amelia đang ngước nhìn mặt trăng; mặt trăng đang soi tỏ chốn lặng lẽ này cũng như đang soi tỏ trại lính ở Chatham, nơi Osborne đóng quân; cô đang tự hỏi không biết người yêu đang làm gì. Cô nghĩ thầm: “Có nhẽ anh ấy đang đi kiểm tra các vọng canh, có lẽ anh ấy đang tạm trú quân ở đâu đấy; có lẽ anh ấy đang săn sóc bên giường bệnh của một người bạn bị thương, hoặc đang ngồi lẻ loi trong phòng riêng nghiên cứu chiến thuật quân sự”. Và những ý nghĩ êm ái của cô bay lên không, như những thiên thần có cánh, dọc theo dòng sông bay đến Chatham và Rochester, cố nhòm ngó vào trại lính, chỗ George đang...

Ngẫm cho kỹ, tôi cho rằng cổng trại đóng chặt, lính canh không cho phép ai ra vào như thế lại tốt cơ đấy; thành ra vị thiên thần bé nhỏ đáng thương mặc áo trắng không thể nghe thấy những bài hát bọn trai trẻ đang gào lên bên những cốc rượu mạnh.

Sau hôm xảy ra câu chuyện ở trại lính Chatham, anh chàng Osborne muốn tỏ ra mình đã nói là làm, bèn sửa soạn về tỉnh; đại úy Dobbin tỏ ý rất tán thành. Osborne muốn mua một món quà mọn tặng Amelia; chết nỗi chẳng còn xu nào, mà ông cụ lại chưa cho tiền.

Nhưng Dobbin không chịu để cho con người tốt bụng và hào phóng ấy phải thất vọng vội đưa ngay cho Osborne mấy tờ giấy bạc; sau vài câu từ chối gọi là lấy lệ, Osborne cầm đút túi. Tôi dám cam đoan rằng anh ta cũng muốn mua một món quà gì thật đẹp tặng Amelia; có điều, khi bước xuống xe ở phố Fleet, anh ta thấy một cái cặp áo sơ-mi đẹp quá bày trong một hiệu kim hoàn, nó quyến rũ không sao cưỡng lại được. Trả tiền xong, chả còn bao nhiêu mà tính đến chuyện mua quà tặng người yêu nữa. Nhưng không sao, xin các bạn yên trí rằng Amelia không đợi quà của anh ta đâu. Lúc George đến khu phố Russell, mắt cô sáng bừng lên như nắng rọi. Bao nhiêu nỗi lo lắng, sợ hãi, những dòng nước mắt, những sự phỏng đoán rụt rè, những nỗi trằn trọc ròng rã không biết bao đêm ngày, chỉ trong một phút tiêu tan hết cả, trước nụ cười hấp dẫn quen thuộc kia. Đứng trong khung cửa phòng khách, người yêu cô như tỏa sáng...nguy nga với bộ ria mép màu hổ phách, đẹp như một vị thần. Sambo vào báo tin có đại úy Osborne đến (bác thăng cho viên sĩ quan trẻ tuổi thêm một trật); bác nhăn răng cười thông cảm, mặt tươi hẳn lên khi thấy cô thiếu nữ đỏ mặt, từ chỗ ngồi ngóng trông cạnh cửa sổ vội vàng nhảy bổ ra; Sambo kín đáo lùi ra ngoài. Cánh cửa vừa đóng lại, cô khấp khởi nép mình vào ngực trung úy Osborne dường như đó là nơi duy nhất ủ ấp tâm hồn mình.

Ôi hỡi tâm hôn bé nhỏ đáng thương đang hồi hộp kia! Cái cây đẹp nhất trong cả cánh rừng, thân cây thẳng tắp, cành mạnh khỏe, lá rườm rà , mà người chọn làm nơi dựng tổ ấm và líu lo ca hát, không bao lâu đâu có thể bị người ta chú ý tới, và bị đốn gãy, kêu “rắc” một cái là xong. Đã từ lâu lắm rồi, người ta vẫn lấy hình ảnh một cái cây để ví với người đàn ông!

George rất dịu dàng hôn Amelia vào trán, vào đôi mắt long lanh, và vẫn tỏ vẻ rất tình tứ, rất đáng yêu; còn Amelia thì khen chiếc cặp áo sơ-mi nạm kim cương của người yêu (mà trước kia chưa hề bao giờ thấy anh ta dùng) là một vật trang sức đẹp nhất xưa nay.

Bạn đọc hẳn chú ý đến tính tình của viên trung úy trẻ tuổi khi đọc đoạn miêu tả câu chuyện ngắn ngủi giữa anh ta và đại úy Dobbin; rất có thể bạn đã muốn có ý kiến kết luận về tư cách của Osborne. Một anh chàng người Pháp tồi tệ nào đó đã nói rằng trong một “vụ” yêu nhau, phải có hai bên: một bên yêu, và một bên thì hạ cố chịu để cho người ta yêu mình. Tình yêu có thể là ở phía đàn ông, mà cũng có thể là ở phía đàn bà. Rất có thể một anh chàng si tình nào đó đã lầm lẫn, thấy vô tình tưởng là e lệ, trong sự đần độn lại ngỡ là tính nhút nhát của gái trinh, gặp người ngốc nghếch lại yên trí là kín đáo dịu dàng, tóm lại, trông gà cứ nghĩ là cuốc. Cũng rất có thể một bạn nữ độc giả nào đó đã khoác cho một con lừa tấm áo huy hoàng lộng lẫy theo trí tưởng tượng, kính phục sự ngu xuẩn của nó như là tính giản dị cao thượng, thờ phụng thói ích kỷ của nó coi như thái độ của kẻ cao sang kiêu hãnh, lầm sự đần độn của nó với sự sang trọng đường bệ, và đối đãi với nó như là cô Titania trong câu chuyện tiên đối đãi với một anh thợ dệt ở thành Athens. Tôi đã từng được chứng kiến những màn hài kịch về sự lầm lẫn như vậy vẫn tiếp tục diễn ra trong đời sống. Song, chắc chắn cô Amelia yên trí rằng người yêu của mình là một trong số những con người giỏi giang, nổi tiếng nhất trong nước và trung úy Osborne rất có thể cũng nghĩ như thế.

Tính anh ta hơi bừa bãi một chút; có biết bao thanh niên tính tình như vậy; và phải chăng thà rằng bừa bãi, con gái họ lại thích hơn là ngờ nghệch? Anh ta chưa hết tuổi chơi bời đâu; nhưng cũng sắp đến lúc tu tỉnh rồi; bây giờ chiến tranh đã hết, anh ta sẽ giải ngũ. Con quỷ đảo Corse đã bị nhất ở đảo Elba, do đó, cũng hết cả thăng trật, mà anh ta cũng không còn hy vọng gì thi thố khả năng quân sự của mình nữa. Với số tiền bố cấp cho, cộng với tiền vốn riêng của Amelia, hai vợ chồng rất có thể sống một cuộc đời ấm cúng tại một nơi thôn quê nào đó, cảnh vật xung quanh thuận tiện cho việc giải trí. Anh ta sẽ săn bắn chút ít, làm trại chút ít, và hai vợ chồng sẽ sống rất hạnh phúc... còn như có vợ rồi mà cứ tiếp tục tại ngũ thì không được. Cứ tưởng tượng xem, bà George Osborne mà phải thuê nhà sống ở tỉnh lẻ, hoặc tai hại hơn, sống ở Đông Ấn hay Tây Ấn, giữa một xã hội toàn là những sĩ quan, và bị bà thiếu tá O’Dowd lên mặt bề trên? Nghe Osborne kể chuyện về bà thiếu tá O’Dowd, Amelia suýt chết vì cười.

George yêu cô quá, không nỡ bắt cô phải chịu phụ thuộc vào mụ đàn bà khủng khiếp ấy và những cử chỉ thô lỗ của mụ; anh ta cũng không muốn cô phải sống cảnh sống vất vả của vợ một quân nhân. Anh ta không lo cho thân mình đâu, nhưng cô thiếu nữ bé bỏng thân yêu kia cần phải có địa vị trong xã hội mà cô sẽ sống xứng đáng với tư cách là vợ anh ta. Chắc chắn là cô sẽ ưng thuận tất cả những đề nghị ấy, như cô sẵn sàng ưng thuận bất cứ điều gì George đề nghị.

Đôi tình nhân cứ tiếp tục trò chuyện với nhau như vậy cùng nhau say sưa xây dựng bao nhiêu lâu đài trong mộng tưởng suốt trong hai tiếng đồng hồ (Amelia thì ra sức mà trang hoàng cho những lâu đài ấy đủ thứ: nào vườn hoa, lối đi chơi, nhà thờ làng, trường học v.v...trong khi George chỉ nghĩ đến những chuồng ngựa, cũi chó, và hầm rượu); anh chàng trung úy chỉ có mỗi một ngày nghỉ để về chơi tỉnh mà có bao nhiêu là việc phải giải quyết, bèn đề nghị cô Emmy dùng bữa với cô chị chồng và cô em chồng tương lại. Amelia vui vẻ nhận lời ngay. Anh chàng bèn dẫn người yêu đến gặp hai cô thiếu nữ, rồi bỏ mặc cô đó mà đi lo công việc riêng của mình; Amelia chuyện trò ríu rít làm cho hai cô kia ngạc nhiên quá, không biết George làm thế nào mà cô ấy biến đổi vậy.

Tóm lại, anh ta đi ăn kem trong một hiệu bánh ở Charing Cross, đến Pall Mall thử một tấm áo mới, rẽ vào tiệm của lão Slaughters một chút, sai người đi mời đại úy Cannon, cùng chơi một ván bi-a, anh ta được tám ván rồi mới quay về khu phố Russell để ăn chiều chậm mất nửa giờ nhưng rất vui ve.

Riêng ông lão Osborne thì không vui vẻ tý nào. Lúc ông ta từ khu City trở về nhà, qua phòng khám gặp hai cô con gái và bà Wirt, thấy mặt ông ta xệ ra, nghiêm trang và vàng khè; cứ nhìn mặt ông lão và đôi lông mày rậm đang cau lại, họ cũng rõ ông đang có điều gì phiền muộn lắm. Lúc Amelia bước ra chào ông.

Bao giờ cô cũng run run sờ sợ khi phải chào ông ta.

Ông chỉ sẽ “hừ” một tiếng trả lời và cái bàn tay to tướng đầy lông lá của ông buông rơi bàn tay bé nhỏ của cô không muốn giữ lại. Ông ta ngoái cổ gườm gườm nhìn cô con gái lớn; cô này hiểu thầm cái nhìn của bố ý muốn hỏi “Thế quái nào mà con bé kia lại đến đây nhỉ?” Cô vội đáp:

- Ba ạ, anh George về chơi; anh ấy đến trại ngự lâm quân sắp về đây ăn cơm đấy.

- Hừ, nó về hả? Jane, tao không muốn chờ cơm nó đâu.

Vừa nói ông già vừa ngồi phịch xuống chiếc ghế bành riêng của mình; từ lúc ấy một sự im lặng hoàn toàn bao trùm căn phòng khách lịch sự; chỉ nghe tiếng chiếc đồng hồ kiểu Pháp to tướng kêu tích tắc tích tắc.

Lúc chiếc đồng hồ trên có tượng Iphigenia bị hiến tế bằng đồng nặng nề ngân vang năm tiếng như chuông nhà thờ, ông Osborne giơ tay phải kéo mạnh dây chuông; bác quản lý chạy vội vào. Ông quát:

- Dọn ăn?

Bác quản lý đáp:

- Thưa ngài, cậu George chưa về à.

- Cậu George chết tiệt? Tao có phải là chủ nhà này không? Mặt ông Osborne cau lại, Amelia run bần bật. Ba người phụ nữ kia thầm đưa mắt hỏi nhau. Tiếng chuông báo giờ ăn đã vang lên dưới nhà. Chuông dứt, ông chủ gia đình thọc hai tay vào hai cái túi to kếch trên tấm áo khoác màu xanh có khuy đồng, và không chờ ai vào mời, một mình rảo bước xuống thang gác, còn ngoái cổ lại cau mặt nhìn Wirt và ba cô thiếu nữ.

Bốn người đứng dậy rón rén bước theo ông già; một cô hỏi:

- Này có chuyện gì đấy nhỉ?

Bà Wirt đáp:

- Tôi đoán cổ phần sụt giá rồi.

Cứ thế đám đàn bà con gái im lặng sợ hãi run rẩy bước theo ông chủ gia đình đang lầm lì đi trước.

Họ lặng lề ngồi vào chỗ. Ông ta lầm bầm cầu kinh, nghe như chửi ai, và những cái vung lớn bằng bạc úp trên mặt đĩa được cất đi. Amelia ngồi trên ghế mà run quá; cô ngồi sát cạnh ông Osborne, lại chỉ có một mình không có ai ngồi cạnh cô mé bên này vì George chưa về.

- Xúp?

Ông Osborne nắm chặt chiếc thìa lớn vừa hỏi vừa nhìn chằm chằm vào mặt cô, giọng nói như vang từ đáy mồ, ông đổ xúp vào đĩa cho cô và cho mọi người rồi lặng yên một lúc lâu. Cuối cùng ông nói:

- Dọn đĩa của cô Sedley đi. Cô ấy không ăn được xúp. Tôi cũng thế. Xúp nấu tồi quá. Dọn món xúp đi, Hicks; ngày mai tống cổ thằng bếp, nghe không, Jane .

Lên án món xúp xong, ông Osborne đưa ra mấy nhận xét cộc lốc về món cá, vẫn cứ cái giọng thô bạo giễu cợt, và chửi Billingsgate bằng một câu thô tục không thích hợp lắm với hoàn cảnh. Đoạn ông lại ngồi yên lặng, nốc cạn mấy cốc rượu vang liền, mỗi lúc trông càng thêm đáng sợ. Mãi khi nghe tiếng George về gõ cửa, mọi người mới bắt đầu trở lại vui vẻ.

- Tôi không về sớm hơn được. Tướng Daguilet bắt tôi đợi mãi ở trại Ngự lâm quân. Không cần xúp và cá, cho tôi ăn gì cũng được...tôi không khó tính đâu. Thịt cừu cũng ngon... ăn gì cũng ngon.

Anh ta vui tính quá, trái hẳn với ông bố cứ lầm lầm lỳ lỳ. Suốt bữa ăn, anh ta chuyện trò tíu tít, ai cũng thích...đặc biệt có một người thích nhất; không nói, ta cũng đã rõ.

Những bữa tiệc trong gia đình ông Osborne thường kết thúc bằng món tráng miệng là cam và rượu vang; mấy cô thiếu nữ vừa bàn tán với nhau xong về hai thứ này thì nghe chuông báo hiệu đi lên phòng khách, bèn đứng dậy rời khỏi phòng ăn. Amelia hy vọng George cũng sẽ lên ngay phòng khách; cô bắt đầu chơi vài bản “valse” (điệu này mới du nhập) trên chiếc đàn dương cầm lớn bốn chân có chạm trổ, có nắp đậy bọc da kê trong phòng khách trên gác. Nhưng tiếng đàn cũng không gọi được anh chàng: dễ thường anh ta không muốn nghe điệu “valse” thì phải; và tiếng đàn lắng xuống tắt dần. Lúc này, người nhạc công thất vọng đã rời khỏi cây đàn đồ sộ. Mặc ba người bạn đang biểu diễn mấy bản nhạc mới nhất họ vừa học, chơi rất to rất hay, cô không nghe thấy một tiếng nào, chỉ ngồi buồn rầu nghĩ ngợi phỏng đoán toàn chuyện không hay.

Vẻ mặt cau có của Osborne xưa nay vẫn đáng sợ, nhưng chưa bao giờ đối với cô lại có vẻ khủng khiếp đến thế. Mắt ông rõi theo cô lúc bước ra khỏi phòng, dường như cô đã phạm tội gì ấy. Lúc người nhà bưng cà phê lên, cô giật nẩy mình như thể bác Hicks có ý định mời mình uống một chén thuốc độc. Có chuyện bí mật gì đang lởn vởn quanh đây thì phải? Ôi, những người đàn bà. Họ nuôi nấng, nâng niu những linh cảm, ôm ấp cả những ý tưởng đen tối nhất như họ ôm ấp những đứa con đẻ xấu xí của họ.

George Osborne thấy dáng điệu cha lầm lỳ cũng lấy làm lo lắng. Cứ nom đôi lông mày cau lại và cái nhìn giận dữ rõ rệt như thế thì hy vọng gì moi được tiền của ông già, mà George thì đang túng tiền quá. Anh ta bắt đầu bằng việc khen rượu của cha rất ngon. Thường thường dùng cách ấy để lấy lòng ông già vẫn có kết quả tốt.

- Ba ạ, ở Tây Ấn chúng con không bao giờ được uống thứ rượu Madeira ngon như vậy. Bữa nọ số rượu ba gửi cho con bị đại tá Heavytop lấy mất ba chai.

Ông già nói:

- Thật không? Tôi mua mỗi chai mất ba si-linh đấy.

George cười hỏi:

- Cha có bán lại sáu ghi-nê một tá không nào? Có một bậc tai mặt nhất trong nước muốn dùng một ít dấy.

Ông bố lầm bầm:

- Thế hả? Mong rằng ông ta tìm mua được.

- Ba ạ, hồi tướng Daguilet ở Chatham, đại tá Heavytop có mời ăn sáng, và hỏi xin con vài chai vang. Đại tướng thích loại rượu ấy lắm...đang cần một thùng để biếu ngài Tổng tư lệnh. Ông ta là cánh tay phải của Hoàng tử.

- Rượu ấy thì ngon tuyệt.

Đôi lông mày cau có đáp, và từ đó nom có vẻ tươi tỉnh hơn chút ít. George sắp sửa lợi dụng cơ hội ngỏ lời xin cha ít tiền, thì vẻ mặt ông già trở lại nghiêm trang như cũ, tuy có phần thân mật hơn. Ông bảo con trai rung chuông gọi đem rượu nho:

- George, thử xem có ngon bằng các loại rượu Madeira mà Hoàng tử đã thưởng thức không. Vừa uống rượu, ta vừa bàn với nhau một câu chuyện quan trọng.

Đang ngồi nóng ruột đợi trên gác, Amelia nghe tiếng chuông kêu vang. Không rõ tại sao cô nghĩ ngay rằng tiếng chuông bí mật ấy báo hiệu điều gì không may. Người ta thường có những sự linh cảm đôi khi cũng rất đúng.

Sau khi từ từ nốc cạn chén đầu tiên, ông già nói:

- George, điều tôi muốn biết rõ là anh và...à...và cái con bé trên gác kia bây giờ ra sao?

George mỉm cười tự mãn đáp:

- Thưa ba, con tưởng khó gì mà không biết. Rõ quá, ba ạ gớm, rượu ngon tuyệt!

- “Rõ quá”, thế là thế nào?

- Sao nữa, chết cha? Thôi đừng dồn con đi. Tính con đứng đắn lắm. Con...ạ...con không được là tay “điển trai cho gái phải lòng”, nhưng con dám tin rằng, cô ấy mê con như điếu đổ. Chỉ thoáng qua là ai cũng phải thấy như thế.

- Còn anh thì sao?

- Còn sao nữa; thưa ba, hồi còn bé không phải chính ba ra lệnh cho con lấy cô ấy làm vợ sao? Các cụ đã đính ước với nhau từ đời thủa nào rồi còn gì?

- Ông ngoan lắm. Tôi cũng đã biết ông đi lại chơi bời với bá tước Tarquin, với đại úy Crawley trong đội Ngự lâm, với ngài Deuceace và những người tương tự ra sao rồi. Ông cứ liệu hồn, cứ liệu hồn đấy.

Ông già nhắc đến những cái tên quý phái bằng một giọng vô cùng khoái trá. Bất cứ khi nào gặp một người có danh vọng, ông ta cũng khúm núm, một điều bẩm quan, hai điều bẩm quan, như tất cả mọi người dân Anh có tư tưởng tự do khác. Đoạn ông ta quay về nhà, giở cuốn: “Danh bạ quý tộc” ra tra tiểu sử người ấy và cố xem bằng được tên người ấy vào trong câu chuyện hàng ngày, hoặc khoác lác với mấy cô con gái về vị quý tộc ông quen biết. ông ta phủ phục xuống và tưởng như được sưởi ấm khi gần gũi người quyền quý, y như những kẻ hành khất người xứ Naples hay sưởi ấm dưới ánh mặt trời. Nghe đến mấy cái tên ấy George hoảng quá; anh ta sợ rằng có thể ông già đã nghe ai mách chuyện con trai rong chơi bài bạc. Nhưng anh chàng yên tâm ngay vì nhà luân lý lão thành chỉ bình thản nói.

- Được, được lắm. Trẻ tuổi là tuổi trẻ và, anh George, điều tôi lấy làm an ủi là thấy anh sống giữa giới thượng lưu của nước Anh; tôi mong và tin rằng anh sẽ sống như vậy, cũng như tôi có điều kiện cho phép anh sống như vậy.

George lập tức bắt lấy cơ hội:

- Cảm ơn cha; nhưng sống giữa những bậc tai to mặt lớn không tiền không được; thế mà túi tiền của con thì cha xem đây này. Anh ta giơ cái túi của Amelia đan hộ cho cha coi, trong túi chỉ còn lại đúng một tấm giấy bạc vay của Dobbin.

- Anh sẽ không thiếu tiền. Con trai một thương gia người Anh sẽ không thiếu tiền tiêu. George, tiền của cha cũng quý như tiền của người khác, con ạ; và cha cũng không hẹp hòi đâu. Ngày mai, anh đi qua khu City nhớ ghé vào thăm ông Chopper; ông ấy sẽ đưa cho anh một ít tiền. Nếu tôi biết anh đi lại với những người có danh vọng, tôi sẽ không tiếc tiền cho anh tiêu, vì tôi hiểu rằng trong xã hội thượng lưu không thể có điều gì xấu. Tôi không kiêu hãnh; tôi sinh ra là con nhà tầm thường, nhưng anh thì có nhiều thuận lợi. Hãy lợi dụng những thuận lợi đó. Hãy đi lại giao thiệp với bọn trai trẻ con nhà quý phái, Rất nhiều người trong bọn họ không có nhiều tiền để tiêu pha bằng anh đâu. Còn như về chuyện những cái mũ chùm màu hồng (nói đến đây, dưới chòm ông mày rậm của ông, sáng lên một cái nhìn đầy ý nghĩa nhưng không tươi tỉnh lắm) ...thì, hừ; rồi những chuyện trẻ con ấy sẽ đi qua... Tôi chỉ ra lệnh cho anh cần tránh một điều; nếu anh không nghe, tôi thề sẽ không cho anh một đồng xu nào nữa, tức là đừng có đánh bạc.

George đáp:

- Ồ, điều đó thì dĩ nhiên rồi, thưa cha.

- Nhưng ta hãy quay lại câu chuyện về cô Amelia. Tại sao anh lại không muốn lấy vợ con nhà sang trọng hơn con gái một nhà buôn tín phiếu... anh cho tôi biết?

George vừa cắn hạt dẻ vừa đáp:

- Thưa ba, đó là việc chung của gia đình. Ba và ông Sedley đã đính ước với nhau hàng thế kỷ nay rồi còn gì.

- Tôi không chối cãi điều đó, nhưng cũng tùy từng hoàn cảnh, anh hiểu không? Tôi không chối cãi rằng ông Sedley đã giúp tôi làm nên; đúng hơn, ông ấy dẫn tôi đi vào con đường làm ăn phát đạt, và nhờ tài trí riêng của tôi, tôi đã chiếm một địa vị đáng kiêu hãnh trong giới buôn sáp và trong khu City ở Luân-đôn. Tôi đã tỏ lòng biết ơn đối với ông Sedley; và gần đây, anh nên biết ông ấy đã rõ tấm lòng tôi; cứ xem con số, ngân phiếu của tôi thì đủ biết. George, tôi nói riêng cùng anh rằng coi tình hình kinh doanh của ông Sedley, tôi không vui lòng lắm; lão Chopper thư ký riêng của tôi cũng thấy thế, mà lão là một tay cáo già, hiểu thấu tình hình Phòng Hối đoái hơn bất cứ người nào ở Luân- đôn này. Hulker và Bullock cũng phải kém tài ông ta. Tôi sợ ông ta muốn chơi lối “được ăn cả ngã về không” đấy. Họ đồn rằng chiếc tầu “Thiếu nữ Amelie” ngày trước là của ông ta về sau bị chiếc tầu cướp bể “Molasses” của Mỹ bắt. Điều đó thì chắc chắn rồi...trừ phi mắt tôi nom thấy con Amelia có một vạn đồng hồi môn, anh không được lấy nó làm vợ. Con gái một anh phá sản không thể làm dâu nhà tôi được. Thôi, uống nốt rượu đi...hoặc gọi nó lấy cà-phê.

Nói đoạn ông Osborne mở rộng tờ báo buổi tối ra; George hiểu rằng cuộc hội ý đã xong và bố sắp sửa đánh một giấc ngủ.

Anh ta rất hồi hộp, vội vàng leo lên gác chỗ Amelia ngồi chơi. Tối hôm ấy, anh ta tỏ ra săn sóc đến người yêu nhiều hơn mọi lần, muốn làm cho cô vui lòng hơn, cử chỉ trừu mến hơn, nói chuyện có duyên hơn, đã lâu lắm không được như vậy. Vì sao thế, phải chăng vì thấy trước sự không may đe dọa người yêu mà tấm lòng độ lượng của George xúc động? Hoặc phải chăng vì nghĩ rằng mình sắp mất người đàn bà thân yêu ấy mà anh ta càng quý báu hơn?

Amelia còn nhớ rất lâu những kỷ niệm của buổi tối hạnh phúc ấy, nhớ từng lời người yêu nói, từng cái nhìn, từng bài hát, từng dáng điệu của người yêu, nhớ lúc anh ta ghé sát xuống bên hoặc từ xa đứng nhìn lại. Đối với cô, chưa có buổi tối nào sống trong gia đình Osborne lại trôi qua nhanh chóng như tối hôm ấy. Và lần đầu tiên có thiếu nữ gần như tức giận khi thấy bác Sambo đem tấm khăn san của cô đến quá sớm.

Sáng hôm sau, George đến âu yếm từ biệt người yêu rồi vội vã đến khu City. Anh ta tìm đến ông Chopper, người thư ký riêng của cha; ông này đưa cho anh ta một tờ giấy, đem đến Công ty Hulker và Bullock lĩnh được một túi tiền đầy. Lúc George bước vào hãng này thì ông già Sedley cũng vừa từ phòng thủ quỹ của ngân hàng bước ra, trông rất tiều tụy. Nhưng anh đang khoái trí quá, không kịp nhận thấy vẻ rầu rĩ của ông già buôn cổ phiếu và cặp mắt âu sầu của ông lão đang nhìn mình. Con trai ông Bullock cũng không vừa cười vừa tiễn ông ta từ phòng khách ra ngoài như những lần trước nữa.

Cánh cửa quay của hãng Hulker và Bullock đóng lại sau lưng ông Sedley rồi, thì ông Quill, người thủ quỹ (công việc đáng quý của ông này là mở ngăn kéo giao cho người ta những tấm giấy bạc nhầu nát và nhặt những đồng tiền vàng trong một cái chậu đồng đếm cho người ta) bèn nháy mắt với ông Driver cũng nháy mắt lại. Ông Driver thì thầm:

- Không xong rồi.

Ông Quill đáp:

- Không có tiền thì xong thế nào được. Ông George Osborne thưa ông, ông nghĩ thế ạ?

George hối hả tống vội nắm giấy bạc vào hai túi; tối hôm ấy gặp Dobbin ở câu lạc bộ nhà binh, anh ta trả ngay năm mươi đồng bảng tiền nợ.

Cũng tối hôm ấy, Amelia viết cho George một lá thư dài, lời lẽ âu yếm nhất. Tâm hồn cô tràn trề những tình cảm êm dịu, song cô vẫn cứ linh cảm thấy có điều gì bất trắc. Cô tự hỏi tại sao ông Osborne nhìn mình lạnh lùng như thế. Hay là giữa ông và ba cô có điều gì xích mích với nhau? Ông bố đáng thương của cô từ khu City về nhà, dáng điệu quá buồn bã, làm cho cả nhà ai cũng lo lắng cho ông...Tóm lại, suốt bốn trang thư toàn những yêu đương, lo lắng, hy vọng và phấp phỏng. George vừa đọc thư vừa nói: - Emmy bé bỏng đáng thương của anh...Emmy thân mến của anh. Nàng yêu tôi biết bao? Ôi, trời, mấy cốc rượu pha ấy làm cho mình nhức đầu khiếp quá!

Cô Emmy bé bỏng quả đáng thương thật.

Chương 14
BÀ CRAWLEY TẠI NHÀ RIÊNG

Trong khoảng thời gian ấy một cái xe ngựa kín mui, có sơn hình một quả trám trên vách gỗ, chạy về phía một căn nhà rất sang trọng, ấm cúng ở đường công viên; sau xe có một người đàn bà vẻ mặt cau có đeo chàng mạng xanh, tóc cặp uốn; ngồi đằng trước là một bác người nhà cao lớn. ấy là chiếc xe của bà Crawley từ Hants trở về nhà. Cửa sổ xe đóng kín mít; mọi khi con chó béo múp vẫn thò đầu ra ngoài cửa sổ, lưỡi thè dài ra; lần này nó nằm gọn trong lòng người đàn bà mặt cau có. Xe đỗ, đám đầy tớ xúm nhau vào khênh một đống lù lù toàn khăn san ra khỏi xe, theo sau đống quần áo là một người thiếu nữ. Đống quần áo ấy chính là bà Crawley vậy. Cứ thế, bà được chuyển lên gác và được đặt vào trong một căn phòng đã đốt lửa sẵn sàng như để đón người ốm. Lập tức người nhà được phái đi tìm thầy thuốc riêng của bà. Họ đến xem bệnh, kê đơn, rồi biến mất. Thầy thuốc khám bệnh xong, cô thiếu nữ trẻ tuổi cùng đi với bà Crawley bước vào phòng để nghe ông thầy thuốc dặn dò, và cho bà uống những thứ thuốc giảm thống theo lệnh của các vị danh y.

Ngày hôm sau, đại úy Crawley thuộc đội kỵ binh Ngự lâm từ trại lính Knightsbridge cưỡi ngựa về thăm. Con ngựa ô của anh ta dùng móng bới bới đống rơm trước cửa nhà bà cô ốm. Anh ta săn đón hỏi thăm tình hình sức khỏe của bà cô. Hình như tình trạng có hơi đáng ngại thì phải. Anh ta thấy người hầu phòng của bà Crawley (tức là người đàn bà mặt khó đăm đăm nói trên) có vẻ cau có buồn phiền một cách khác thường; lại thấy bà Briggs là người tùy nữ () ngồi khóc một mình trong phòng khách. Bà này nghe tin người bạn yêu dấu của mình mang bệnh, bèn vội vã trở về nhà.

Bà ước gì được bay ngay đến cạnh giường người bệnh; đã bao lần bà vuốt ve chiếc đệm giường này mỗi khi bà bạn ốm. Người ta không cho bà vào buồng của bà Crawley. Đã có một người lạ mặt lo việc thuốc thang cho bà ấy rồi...một người lạ mặt ở nhà quê ra...một cô gái đáng ghét tên là…nói đến đây người tùy nữ ứa nước mắt nghẹn lời; bà vội vùi cả tấm tình thương bạn đang muốn nén xuống và cả cái mũ đỏ khốn khổ của bà vào trong chiếc khăn tay.

Rawdon Crawley nhờ người hầu phòng () mặt cau có báo tin hộ có mình đến thăm; người bạn tri kỷ mới của bà Crawley vội từ phòng của người bệnh chạy xuống; anh chàng săn đón tiến lên; cô ta đặt bàn tay nhỏ nhắn của mình vào bàn tay anh chàng, khinh khỉnh liếc nhìn bà Briggs đang đứng sửng sốt, đoạn cô ta vẫy tay gọi chàng sĩ quan Ngự lâm ra phòng khách, dẫn anh ta xuống thang vào tận trong căn phòng ăn lúc này vắng tanh, nơi đã bao bữa tiệc linh đình được tổ chức.

Hai người nói chuyện với nhau đến mười phút, chắc họ thảo luận với nhau về triệu chứng của bệnh nhân nằm trên gác. Thảo luận xong, thấy chuông trong căn phòng lớn réo ầm lên; lập tức bác Bowls, tức là bác quản lý thân tín to béo của bà Crawley, vội trả lời ngay (trong gần hết khoảng thời gian hai người trò chuyện với nhau, bác ta tình cờ nhòm qua lỗ khóa). Viên đại úy vê vê ria mép, bước ra nhảy phắt tên lưng con ngựa ô đang bới bới đống rơm; bọn trẻ con đứng xúm xít ngoài phố trông thấy phục lắm. Anh ta ngó vào cửa sổ phòng ăn, điều khiển con ngựa cho nó chồm hai chân trước lên rất đẹp. Thấy bóng cô thiếu nữ ló ra cửa sổ một lúc rồi biến mất; chắc cô ta lại lên gác để tiếp tục nhiệm vụ từ thiện của mình.

Không rõ cô thiếu nữ này là ai nhỉ. Tối hôm ấy, trong phòng ăn, người ta dọn bát đĩa cho hai người...Nhân lúc người thiếu nữ mới đến vắng mặt...bà Firkin, người hầu riêng của bà Crawley, bước vào phòng của chủ lăng xăng thu dọn; trong khi ấy, bà Briggs cùng cô này ngồi vào bàn dùng bữa cơm thanh đạm.

Bà Briggs bị xúc động quá mạnh đến nỗi gần như không đụng đến miếng thịt nào. Còn cô thiếu nữ thì cầm dao cắt thịt gà thật kiểu cách, lên tiếng gọi lấy nước “xốt” trứng thật rõ ràng; bà Briggs đáng thương giật nẩy mình lên khi thấy món gia vị được đặt trước mặt bà, và lại ngồi thẫn thờ như cũ.

Cô thiếu nữ bảo bác Bowls, tức là bác người nhà cao lớn.

- Bác rót cho bà Briggs một cốc rượu vang chẳng hơn ư?

Bác ta rót. Bà Briggs như cái máy cầm lấy cốc rượu uống một cách khó khăn, khe khẽ rền rĩ và bắt đầu loay hoay với đĩa thịt gà của mình.

Cô thiếu nữ nói rất ngọt ngào:

- Tôi nghĩ rằng chúng ta có thể giúp nhau được, không cần phải phiền đến bác Bowls túc trực ở đây. Bác Bowls, khi nào cần, chúng tôi sẽ rung chuông gọi bác nhé.

Bác Bowls bước xuống nhà dưới; không hiểu sao vô cớ bác chửi anh phụ việc ầm ỹ lên.

Cô thiếu nữ vẻ mặt lạnh lùng, hơi châm biếm, nói:

- Bà Briggs ạ, bà nghĩ ngợi làm gì; thật đáng thương quá.

Động đến mối thương tâm, bà Briggs lúng búng đáp:

- Bà bạn thân nhất đời của tôi ốm nặng quá, mà khô...ô...ông muốn cho tôi gặp mặt.

- Bây giờ bà ấy không mệt nặng nữa rồi. Bà Briggs thân mến ơi, xin bà cứ an tâm. Bệnh bội thực đấy...có thế thôi. Bây giờ đã khá lắm, sắp khỏi hẳn rồi đấy. Bà ấy yếu vì bị giác huyết và bị uống thuốc, nhưng rồi cũng lại sức ngay ấy mà. Thôi, xin bà cứ yên lòng dùng thêm một ít rượu vang đi.

Bà Briggs rền rĩ:

- Thế tại sao lại không cho tôi gặp mặt. Ôi Matilda, Matilda, sau hai mươi ba năm tình nghĩa đằm thắm, Arabella đáng thương này bị đối xử như thế ư?

Cô kia nói (lúc nào cô ta cũng như hơi nhếch mép cười):

- Đừng khóc nhiều quá làm gì, bà Arabella đáng thương ơi; bà ấy không muốn cho gặp, vì bà ấy bảo bà săn sóc người ốm không khéo bằng tôi. Thức trông bệnh nhân suốt đêm cũng chẳng sướng gì đâu. Tôi chỉ mong bà làm hộ tôi việc ấy thôi.

Bà Arabella đáp:

- Tôi đã chẳng săn sóc hàng bao nhiêu năm nay bên giường bệnh thân yêu ấy là gì? Thế mà bây giờ...

- Bây giờ bà ấy ưng người khác hơn. Thôi, người ốm vẫn hay trái chứng như thế đấy, mình cứ phải chiều ý mới được. Khi nào bà ấy khỏe thì tôi cũng về.

- Không bao giờ, không bao giờ.

Arabella kêu lên, vừa hít lấy hít để lọ nước đái quỷ như mất trí.

Cô thiếu nữ vẫn các giọng ngọt ngào khiêu khích hỏi lại:

- Không bao giờ khỏe, hay là không bao giờ về, hử bà Briggs? Dào ôi...chỉ nửa tháng là bà ấy khỏi hẳn; khi ấy, tôi sẽ trở về trại Crawley Bà chúa với mấy cô học trò của tôi và bà mẹ các cô ấy; bà này ốm nặng hơn bà bạn của chúng ta nhiều. Bà Briggs thân mến ơi, bà chẳng cần phải ghen tỵ với tôi làm gì. Tôi chỉ là một người con gái đáng thương, không bè bạn; tôi không làm hại được ai đâu. Tôi không muốn lấy lòng bà Crawley để hất cẳng bà đâu. Tôi chỉ đi khỏi đây một tuần lễ là bà ấy quên tôi ngay; còn tình bạn của bà ấy đối với bà thì đã có từ bao nhiêu năm nay rồi. Bà Briggs thân mến, làm ơn cho tôi xin thêm một chút rượu vang; chúng ta hãy làm bạn với nhau đi. Tôi tin rằng tôi rất cần có bạn.

Nghe nói thế, bà Briggs, con người dễ tha thứ, dễ động tâm, yên lặng đưa bàn tay ra bắt, nhưng bà vẫn cảm thấy rất sâu sắc rằng mình bị bỏ rơi và vẫn cay đắng phân vân về thói trái chứng của bà Matilda. Độ nửa giờ sau, bữa ăn xong; cô Rebecca Sharp (nói ra thì cũng lạ thật, nhưng đấy chính là tên người từ nãy ta vẫn gọi là cô thiếu nữ) lại về phòng người ốm ở trên gác; với thái độ hết sức lễ độ nhã nhặn, cô đuổi khéo bà Firkin đáng thương ra ngoài.

- Cảm ơn bà, bà Firkin; tốt lắm rồi; bà sắp đặt chu đáo lắm! Cần gì, tôi sẽ rung chuông gọi nhé.

- Cảm ơn cô.

Đoạn bà Firkin xuống nhà dưới, lòng dạ sôi lên vì ghen tức; càng đau đớn hơn vì bà bắt buộc phải chôn kín sự ghen ghét ấy tận đáy lòng.

Lúc bà đi ngang qua thềm gian nhà dưới thấy cửa phòng khách bỗng mở ra; dễ thường cơn bão tố trong lòng bà làm bật tung cửa phòng ra chăng? Không phải đâu, ấy là vì bà Briggs đã len lén mở ra đấy. Từ nãy bà Briggs vẫn đứng rình. Bà ta nghe rõ mồn một tiếng chân bà Firkin bước xuống cầu thang kêu cót két, và tiếng cái thìa đụng vào cốc đựng sữa kêu lanh canh. Thấy Firkin bước vào, bà này hỏi:

- Thế nào, Firkin ? Thế nào, Jane?

Firkin lắc đầu đáp:

- Bệnh mỗi lúc một tăng, bà Briggs ạ.

- Bà ấy không đỡ tí nào à?

- Bà ấy chỉ nói có một lần; tôi hỏi bà ấy có thấy đỡ chút nào không, thì bà ấy bảo tôi câm cái mồm ngu xuẩn đi. Ôi, bà Briggs ơi, không bao giờ tôi ngờ có ngày hôm nay.

Và hai cái vòi phun nước lại bắt đầu làm việc:

- Cái cô Sharp ấy là người thế nào hở bà Firkin ? Lúc tôi đang dự cuộc vui đêm Giáng sinh tại căn nhà lịch sự của các bạn tôi là đức cha Lionel Delamere và bà vợ đáng yêu của ngài, tôi có ngờ đâu lại có một người lạ mặt tranh mất chỗ trong phần cảm tình của người bạn thân thiết nhất đời, vẫn còn thân thiết nhất đời, là bà Matilda của tôi!

Cứ nghe bà nói, ta cũng đủ thấy bà Briggs thuộc loại người đa cảm y như trong tiểu thuyết; chính bà đã có lần cho xuất bản một tập thơ tên là “Tiếng lúi lo của con chim họa mi”.

Firkin đáp :

- Bà Briggs ạ, cả nhà quý cô gái này như vàng. Cụ Pitt không muốn cho cô ta đi, nhưng cụ không dám trái ý bà Crawley điều gì. Bà Bute ở nhà thờ cũng thế...vắng mặt cô ta là cấm có vui. Ông đại úy phát điên phát dại lên vì cô ta. Còn ông Crawley thì ghen đến gần chết. Từ lúc bà Crawley nhà ta bắt đầu mệt, bà nhất định không cho ai ngoài cô Sharp lại gần; chịu không hiểu ra làm sao. Tôi chắc cả nhà bị bỏ bùa mê thế nào rồi đây.

Đêm hôm ấy Rebecca thức đến sáng để săn sóc bà Crawley, đêm hôm sau, bà lão ngủ đã khá yên giấc nên Rebecca cũng ngả lưng chợp mắt tạm ở ghế xô-fa được vài giờ, ngay cạnh giường người ốm. Bà Crawley cũng sớm bình phục, bà đã ngồi dậy được; cô Rebecca bắt chước dáng điệu sầu muộn của bà Briggs, bà cười rũ ra, thích lắm. Cô bắt chước cái cách bà Briggs khóc thút thít và dùng khăn tay lau nước mắt cực khéo; bà Crawley vui quá; mấy ông thầy thuốc đến thăm rất ngạc nhiên, vì mọi khi họ vẫn quen thấy người đàn bà ham vui này hễ hơi giở giời một tý là đã sầu não ghê gớm chỉ lo chết.

Ngày nào đại úy Crawley cũng đến; Rebecca đưa cho anh ta những mảnh giấy ghi bệnh trạng của bà cô biến chuyển thế nào. Bà bình phục rất nhanh; bà Briggs đáng thương đã được phép gặp mặt người che chở cho mình.

Những ai giầu tình cảm có thể tưởng tượng ra những nỗi xúc động tràn ngập của người đàn bà đa cảm kia cũng như sự lâm ly thống thiết của buổi gặp gỡ giữa hai người.

Bây giờ bà Crawley lại thích gặp mặt bà Briggs luôn luôn, vì Rebecca hay nhại lại điệu bộ của người đàn bà đáng thương ngay trước mặt bà, mà vẻ mặt vẫn cứ nghiêm trang như không, thành ra lại càng giống; bà Crawley hài lòng lắm.

Nguyên nhân khiến bà Crawley mắc chứng bệnh đáng tiếc kia, đến nỗi phải rời khỏi căn nhà của ông anh ở nhà quê, không lấy gì làm thi vị lắm, có lẽ không xứng đáng được giải thích trong cuốn truyện phong nhã đầy tình cảm này. Bởi lẽ làm thế nào mà nói cho nghe lọt tai được rằng một người đàn bà tế nhị thuộc giới thượng lưu lại ăn uống quá tham lam, và nguyên nhân gây cái bệnh mà bà Crawley đã nhất định đổ cho là tại thời tiết ẩm thấp gây nên thật ra chỉ là một bữa tôm nóng xơi quá miệng ở nhà thờ? Bệnh trạng trầm trọng quá đến nỗi - nói theo lời ông cha xứ - Matilda suýt nữa thì đi đứt”; toàn bộ gia đình bổi hổi bồi hồi chờ đợi lập di chúc; Rawdon Crawley chắc mẩm phen này vớ được ít nhất là bốn vạn đồng bảng trước khi mùa hội ở Luân đôn bắt đầu. Crawley đã vội gửi ngay đến một tập toàn những sách đạo chọn lọc, để sửa soạn đưa bà cô đi từ Hội chợ phù hoa và Đường công viên sang thế giới bên kia, nhưng một ông thầy thuốc có tài ở Southampton đã được kịp thời triệu đến; ông ta thắng được mấy con tôm suýt nữa đã làm hại đời bà lão, và giúp bà lấy lại tạm đủ sức lực để trở về Luân-đôn. Thấy câu chuyện xoay ra như vậy lão nam tước không sao giấu nổi vẻ bực mình.

Trong lúc mọi người đang xúm vào hầu hạ bà Crawley và hàng giờ bên Nhà thờ cử người sang dò hỏi tin tức sức khỏe của bà về báo lại, thì tại một căn phòng khác trong nhà, có một người đàn bà ốm nặng hơn nhiều mà không ai thèm để ý đến; ấy chính là Crawley phu nhân. Ông thầy thuốc trứ danh khám bệnh xong đành chịu lắc đầu; cụ Pitt thuận để ông khám bệnh cho vợ vì không phải trả tiền công. Thế là bà ta bị bỏ nằm một mình trơ trọi trong phòng, kiệt sức dần dần, chẳng ai buồn để ý đến, y như đối với một ngọn cỏ trong vườn.

Hai cô con gái cũng chịu thiệt thòi nhiều, vì thiếu sự dạy dỗ của cô giáo. Cô Sharp săn sóc người bệnh tận tâm quá; bà Crawley nhất định không chịu uống thuốc nếu là do tay người khác đưa. Firkin thì đã bị ghét bỏ từ lâu trước khi bà chủ rời nhà quê về tỉnh. Người hầu phòng trung thành ấy đành lấy việc được trở về Luân-đôn, được thấy bà Briggs cũng đau khổ vì ghen tức, cũng phải chịu đựng sự đối xử bạc bẽo như mình, để tự an ủi đôi chút.

Đại uý Rawdon lấy cớ cô ốm xin gia thêm hạn nghỉ phép cả ngày cứ quanh quẩn ở nhà. Luôn luôn thấy mặt anh ta ở gian phòng đợi của khách (bà Crawley nằm dưỡng bệnh trong phòng ngủ, muốn vào phải đi qua gian phòng khách nhỏ quét vôi màu xanh). Cụ Pitt thường gặp anh ta ở đấy; hoặc khi anh ta đi xuống dưới hành lang, dù bước nhẹ mấy, thế nào cũng thấy cánh cửa gian phòng của bố mở ra, và bộ mặt sói rừng của lão quý tộc già thò ra ngoài nhìn. Sao lại có cảnh kẻ nọ rình người kia như thế nhỉ? Ấy chính vì hai người đang thi nhau xem ai tỏ ra quan tâm nhiều hơn đến người bệnh thân thiết đang nằm trong phòng ngủ.

Thường thường Rebecca hay ra ngoài an ủi cả hai bố con, lúc an ủi người nọ, lúc an ủi người kia. Cả hai bố con nhà này giống nhau ở chỗ đều thích được nghe tin tức về người bệnh từ miệng cô đưa tin bé nhỏ thân tín kia nói ra.

Cứ đến buổi chiều - nhân lúc Becky xuống nhà dùng cơm trong khoảng nửa giờ đồng hồ - cô lại làm công việc hòa giải hai bố con; sau đó, cô biến đi cho đến hết đêm; sáng ra Rawdon thường cưỡi ngựa đến đồn binh thuộc trung đoàn thứ 15 ở Mudbury, để mặc cho ông bố lại quay ra chè chén với bác Horrocks. Suốt nửa tháng trời Rebecca sống trong gian phòng dưỡng bệnh của bà Crawley, buồn tưởng chết đi được; nhưng thần kinh cô ta dễ thường bằng thép, cho nên cô ta không hề bị mất tinh thần vì nhiệm vụ tẻ nhạt trong căn phòng dưỡng bệnh kia.

Mãi rất lâu về sau này Rebecca mới kể lại rằng cô đã khổ tâm thế nào vì phải lãnh nhiệm vụ ấy, rằng cái bà già vui tính kia lúc ốm thì cắn cấu ra sao, rằng bà tức giận, bà mất ngủ, bà sợ chết, bà nằm rên hừ hừ suốt bao nhiêu đêm trường, vì bà lo sợ tưởng đến thành mê sảng mỗi lúc nghĩ đến cái thế giới tương lai mà khi mạnh khỏe không bệnh tật bà không hề nghĩ đến. Hỡi bạn đọc giả xinh đẹp trẻ tuổi, xin bạn hãy tưởng tượng một bà già quen ăn chơi, ích kỷ, vô duyên, vô ơn và vô tín ngưỡng, đang nằm vật vã vì đau đớn, vì lo sợ, mà đầu trần không đội mớ tóc giả...Bạn hãy tưởng tượng lấy mà xem; và trước khi cái già sồng sộc đến sau lưng, xin bạn hãy học yêu, và học cầu kinh đi.

Cô Sharp săn sóc bên giường bệnh với thái độ kiên trì không gì khuất phục nổi. Không một cái gì lọt khỏi mắt cô, và giống như một người quản gia khéo léo, tất cả vật gì vào tay cô đều dùng được việc cả. Sau này, cô kể lại nhiều câu chuyện rất hay về những ngày bà Crawley mắc bệnh, những câu chuyện làm cho bộ mặt trát bự phấn của bà già phải đỏ ửng lên. Trong thời gian bà này ốm, cô ta không bao giờ mất vẻ bình thản thường ngày, bao giờ cũng tinh tường, rất thính ngủ, lúc nào trí óc cũng hoàn toàn minh mẫn, chỉ cần nghỉ ngơi qua loa ít phút gọi là. Vậy mà nom dáng điệu của cô, bạn thấy rất ít dấu vết mệt mỏi. Sắc mặt cô có hơi tái một chút quầng mắt có hơi thâm hơn bình thường một chút, nhưng mỗi khi cô bước ra ngoài phòng dưỡng bệnh, bao giờ cũng thấy cô mỉm cười, tươi tỉnh, gọn ghẽ; dù chỉ mặc tấm áo ngủ và đội chiếc mũ trùm thường, trông cô vẫn chỉnh tề như đang mặc bộ áo đi chơi đẹp nhất.

Viên đại úy cũng nghĩ thế và khi nói chuyện về cô ta bao giờ giọng nói của anh chàng cũng có vẻ say sưa khác thường. Mũi tên có cựa của tình yêu đã xuyên thủng lần da dày cộm của cu cậu rồi. Sáu tuần lễ lửa gần rơm đã khiến anh ta hoàn toàn bị chinh phục. Anh ta thú thực nỗi lòng sâu kín của mình với bà thím bên tu viện và tất cả mọi người. Bà thím nhận thấy ngay sự điên rồ của anh cháu, thường trêu anh ta về chuyện này; bà ta khuyên anh cháu nên dè chừng; cuối cùng bà công nhận rằng cái cô Sharp bé nhỏ kia là con người thông minh nhất, kỳ thú nhất, giản dị đáng yêu nhất nước Anh; nhưng Rawdon không nên cợt đùa với tình yêu của cô... nếu không bà Crawley thân yêu sẽ không bao giờ tha thứ đâu. Và chính bà này cũng bị cô giáo bé nhỏ chinh phục mất rồi; bây giờ bà quý cô như con đẻ. Rawdon phải đi nơi khác...phải trở về đơn vị và thành phố Luân-đôn bẩn thỉu kia, không được phép đùa cợt với tấm tình của cô thiếu nữ ngây thơ đáng thương.

Đã rất nhiều lần bà thím tốt bụng này thông cảm với nỗi cô đơn của anh chàng sĩ quan Ngự lâm quân nên đã tạo điều kiện cho anh ta gặp cô Sharp ngay ở Nhà thờ, và được cùng cô ta đi về nhà như chúng ta đã thấy. Thưa các quý bà, một khi đàn ông thuộc một loại nào đó mà đã yêu rồi, thì dù mắt họ nhìn rõ mười mươi dây câu, lưỡi câu, rồi cần, rồi lưới, đủ cả, nhưng họ cũng cứ đớp mồi như thường…họ vẫn cố đớp lấy nuốt cho kỳ được để rồi bị mắc câu mắc lưới nằm há hốc mồm trên mặt đất. Rawdon cũng thấy rõ ràng bà Bute muốn dùng cô Rebecca để câu mình. Anh ta khôn ngoan lắm, nhưng cũng là người sống ở tỉnh thành, cũng đã từng dự nhiều mùa hội. Một hôm qua câu chuyện với bà Bute, anh ta chợt thấy trong khối óc tối tăm của mình lóe ra một tia sáng. Bà Bute nói:

- Rawdon, tôi bảo này. Thế nào cũng có ngày cô Sharp thành người có họ với anh đấy.

Anh chàng sĩ quan hay đùa hỏi:

- Bà Bute, có họ thế nào chứ...em dâu tôi hả? Chú James phải lòng cô ta chăng?

Bà Bute, mặt ánh lên một tia sáng, đáp:

- Hơn thế nữa cơ.

- Không phải là Pitt chứ?...Hắn không lấy được cô ta đâu; cái tên hèn hạ ấy không đáng lấy cô ta làm vợ. Hắn đang đeo đuổi công nương Jane Sheepshanks.

- Bọn đàn ông các anh chẳng biết cái quái gì hết. Anh chỉ là một thằng ngu xuẩn, mù quáng...nếu Crawley phu nhân có mệnh hệ nào thì cô Sharp sẽ thành dì ghẻ của anh đấy, và chuyện ấy tất sẽ phải đến.

Rawdon Crawley tiên sinh huýt sáo miệng một cái thật to, tỏ ý rất ngạc nhiên trước lời dự đoán của bà thím. Anh ta không thể chối cãi được; rõ ràng ông bố anh ta quyến luyến cô Sharp; thái độ ấy lọt sao khỏi mắt anh ta. Anh ta hiểu rõ tính tình ông bố lắm, nghĩa là một lão già hết sức bừa bãi... Anh ta không nghĩ hết câu, mà bỏ về nhà, vừa đi vừa vê vê ria mép, yên trí rằng mình đã tìm ra cái mối để hiểu câu chuyện bí mật bà Bute vừa nói.

Rawdon nghĩ thầm:

- Lạy chúa tôi, đểu quá? Đểu quá, lạy Chúa? Mình tin chắc bà ấy rất muốn cho cô thiếu nữ đáng thương kia phải mất mặt, để không sao trở thành Crawley phu nhân trong gia đình này được. Lúc gặp Rebecca một mình, anh ta lấy giọng nhã nhặn nói trêu cô về việc ông bố mình có ý quyến luyến cô gái. Cô ta ngẩng phắt đầu lên, vẻ mặt khinh khỉnh, nhìn rõ vào mặt anh chàng nói:

- Được lắm, hãy ví dụ ông cụ mê tôi đi. Tôi biết cụ mê tôi, và còn nhiều người khác cũng mê tôi nữa cơ. Đại úy Crawley, ông không cho rằng tôi phải sợ ông cụ chứ? Ông không cho rằng tôi không biết bảo vệ danh dự của tôi chứ?

Cô con gái hỏi dồn, trông kiêu hãnh như một bà hoàng.

Anh chàng vừa vặn ria mép vừa đáp:

- Ồ…à kìa ... ấy là nhắc để cô chú ý... nghĩa là cẩn thận...có thế thôi mà.

- Ông cho rằng tôi là người không biết tự trọng chỉ vì tôi nghèo và trơ trọi không bè bạn, và bởi vì chính bản thân những người giầu có không biết tự trọng phải không? Ông có nghĩ rằng vì tôi chỉ là một cô giáo dạy trẻ mà tôi không thể có lương tri, có tình cảm, và có giáo dục được như những nhà quý tộc ở Hampshire không? Tôi thuộc dòng dõi họ Montmorency không thể tốt được bằng một người thuộc dòng họ Crawley không?

Mỗi khi cô Sharp tức giận và phải viện đến họ ngoại của cô ra, thì cô hay nói pha lơ lớ giọng ngoại quốc, khiến cho giọng nói trong trẻo thánh thót của cô lại càng đáng yêu thêm. Càng đối đáp với viên đại úy, cô càng sôi nổi. Cô nói thêm:

- Không, tôi có thể chịu đựng sự nghèo khổ, nhưng không thể chịu đựng sự nhục nhã...tôi có thể chịu đựng sự lạnh nhạt, nhưng không chịu được sự lăng mạ; nhất là sự lăng mạ lại do...do chính ông.

Và rồi không nén được giận, cô òa lên khóc.

- Chết chưa, cô Sharp... Rebecca... lạy Chúa... thề có quỷ thần hai vai, nào tôi có bụng dạ gì đâu...Thôi, Rebecca.

Rebecca đi rồi. Hôm ấy, cô ta cùng bà Crawley giong xe đi chơi. Câu chuyện xảy ra trước khi bà này bị ốm. Đến bữa cơm chiều, cô lại có vẻ vui tính khác thường; nhưng cô không thèm để ý đến anh chàng sĩ quan vụng về si tình bị bẽ mặt đang tìm mọi cách nói ý, gật đầu ra hiệu và nói lấy lòng để chuộc lỗi. Trong cái chiến dịch nho nhỏ ấy, những cuộc chạm súng đại khái như thế diễn ra luôn... tẻ nhạt lắm không đáng kể lại, và kết quả bao giờ cũng giống nhau.

Đội kỵ binh nặng nề của Crawley phát điên lên vì bị thất trận, mỗi ngày một thêm tan rã.

Nếu lão nam tước ở trại Crawley Bà chúa không sợ bị bà em truất mất quyền thừa kế thì không đời nào lão chịu để cho hai cô con gái yêu của lão xa rời sự giáo huấn vàng ngọc của cô giáo quý báu. Vắng cô ta, căn nhà cổ kính ấy như là một bãi sa mạc; hồi Rebecca còn ở trại, nhà cửa tươi tỉnh hẳn lên. Thư từ của cụ Pitt không có ai sửa chữa và chép lại; sổ sách của cụ cũng không có ai trông nom; công việc nhà cửa và bao nhiêu kế hoạch làm ăn cũng xếp xó, cô thư ký bé nhỏ đã đi mất rồi. Ta thấy ngay rất dễ dàng một người thư ký như cô đối với lão cần thiết đến thế nào, nếu ta được đọc nội dung bao nhiêu lá thư lão liên tiếp gửi cho cô ta; lão cầu khẩn cô, ra lệnh cho cô phải trở về. Hầu như ngày nào lão nam tước cũng viết thư gửi cho Becky, lão khẩn khoản yêu cầu cô trở lại; hoặc lão gửi thư cho bà Crawley, thảm thiết phàn nàn về nỗi việc giáo dục của con mình bị bỏ trễ; bà Crawley, chẳng buồn để ý.

Bà Briggs không bị chính thức ruồng bỏ, nhưng địa vị bạn tâm sự của bà bây giờ chỉ là một chuyện khôi hài, hữu danh vô thực; bây giờ bà đánh bạn với con chó béo múp trong phòng khách, hoặc thỉnh thoảng bà vào trong phòng riêng của mụ quản gia đánh bạn với bà Firkin bất mãn.

Tuy thế, Rebecca vẫn chưa chính thức đến ở Đường công viên với tư cách bạn tâm sự của bà chủ, mặc dầu bà này nhất định không chịu cho cô trở về trại Crawley Bà chúa.

Cũng như nhiều người giầu có khác, bà Crawley có tính ưa được người dưới hầu hạ mình càng nhiều bao nhiêu càng tốt; chừng nào bà thấy họ không còn có ích gì nữa cho mình, thì bà cũng lập tức vui vẻ mà từ giã họ. Một số người giàu có hầu như không biết đến sự hàm ơn là gì, hoặc ít khi thèm nghĩ đến chuyện ấy. Họ lấy sự được bọn người nghèo khó hầu hạ mình là chuyện tất nhiên. Mà chúng ta - ôi, những kẻ ăn bám đáng thương, những kẻ phụ thuộc hèn hạ- chúng ta cũng không có lý do gì mà phàn nàn nhiều! Tình bạn của chúng ta đối với Dives cũng chân thành đáng mức với số tiền, đâu phải yêu người. Và giả sử Croesus () có đổi địa vị của mình cho thằng hầu, thì chúng ta cũng thừa rõ người nào sẽ được chúng ta hết lòng cung phụng.

Mặc dầu cô Rebecca vẫn tỏ ra rất giản dị, rất chu đáo, rất ngọt ngào và vui vẻ không hề biết mệt mỏi, nhưng tôi cũng không tin chắc rằng bà già sắc mắc người Luân-đôn kia, người được cô ta chứng tỏ tấm tình bạn nồng nhiệt một cách xa xỉ, quả thực không khi nào thoáng ý nghi ngờ lòng tốt của người bạn quý đang săn sóc mình. Hẳn bà Crawley phải thường đinh ninh rằng ở đời không ai làm việc vì không công bao giờ. Nếu bà quen lấy cái tình cảm của bản thân để đo lòng người đời, hẳn bà cũng có thể lường được lòng dạ người đời đối với mình. Biết đâu bà chẳng hiểu rằng kẻ nào không chú ý đến ai thì cũng không ai coi mình là bạn; đó âu cũng là một lẽ thường tình.

Vậy thì trong thời gian ấy, Becky là nguồn an ủi lớn nhất, là người hữu ích nhất đối với bà; bà cho cô ta một đôi áo dài mới may, một chiếc vòng cổ cũ và một chiếc khăn san; bà lại bày tỏ tấm tình bạn bằng cách nói xấu tất cả những người quen thuộc cũ với cô bạn tâm sự mới của mình (còn có cách tỏ tình thân mật nào tết hơn thế nữa nhỉ?). Bà lại đã phảng phất lo sắp đặt trước một vài kế hoạch lớn cho tương lai... có thể là gả cô ta cho ông Clâmp, thầy bào chế, hoặc lo gây dựng cho cô có một tương lại chắc chắn sau này; hoặc cũng có thể bà đã nghĩ đến chuyện khi chán cô rồi và đúng lúc mùa hội ở Luân-đôn bắt đầu thì lại mời cô về trại Crawley Bà chúa.

Bà Crawley đang bình phục, thường xuống phòng khách; Becky hát cho bà nghe và tìm mọi cách khác để làm vui lòng bà; khi bà đã khỏe có thể ngồi xe ngựa đi chơi được, Becky cùng đi với bà. Trong những cuộc đi chơi ấy, do lòng tốt và tình bạn của bà Crawley đối với cô, bà cho cô cùng theo mình đến bất cứ nơi nào, đến cả gia đình John Sedley tiên sinh ở khu phố Russell.

Trước khi xảy ra chuyện này, hai cô bạn thân đã nhiều lần viết thư cho nhau. Trong khoảng thời gian Rebecca ở Hampshire, tấm tình bạn bất diệt (có thể tin được không nhỉ?) giữa hai người đã giảm sút rất nhiều, bây giờ nó có vẻ đã mòn mỏi, già nua tưởng như sắp đi đứt đến nơi. Sự thực là cả hai cô thiếu nữ đều bận lo việc riêng: Rebecca thì đang lo lấy lòng những người chủ thuê mượn mình, cô Amelia cũng đang bị thu hút vào việc riêng của cô. Lúc hai cô thiếu nữ gặp lại nhau, họ ôm ghì lấy nhau một cách nồng nhiệt đúng cách tỏ tình giữa những cô gái non; Rebecca đã hôn bạn một cách nồng nàn sôi nổi vô cùng, khiến cho Amelia đáng thương kia vừa hôn trả,vừa đỏ mặt lên và tự trách mình có phần hơi nhạt nhẽo đối với bạn.

Lần gặp gỡ đầu tiên và cũng rất ngắn ngủi. Amelia đang sửa soạn đi chơi. Bà Crawley đang ngồi chờ trong xe dưới đường; những người theo hầu đang ngơ ngác nhìn phong cảnh xung quanh; họ trố mắt nhìn bác Sambo, người hầu da đen ở Blumxbơry, y như bác ta là một người thổ dân kỳ lạ sinh trưởng tại chỗ vậy, Amelia bước xuống, vẻ mặt dịu dàng, tươi cười (Rebecca phải đưa bạn xuống giới thiệu với bà Crawley vì bà rất mong được gặp mà người còn yếu không rời chiếc xe ngựa được)...Mấy người mặc chế phục ở Đường công viên trông thấy cô ngạc nhiên quá, không ngờ ở Bloomsbury lại có một con người xinh đẹp như vậy. Bà Crawley cũng bị hấp dẫn khi nhìn bộ mặt dịu dàng, tươi như hoa của cô thiếu nữ đang e lệ tiến lên chào bà, người đỡ đầu của bạn cô, với dáng điệu rất lịch sự.

Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi ấy, hai ngươi cho giong xe đi về phía tây thành phố. Bà Crawley bảo:

- Này, nước da cô ta đẹp quá nhỉ, mà tiếng nói sao mà trong vắt cô Sharp ạ, cô bạn trẻ của cô đáng yêu quá. Lúc nào mời cô ấy đến Đường công viên chơi, nghe không?

Bà Crawley là người biết thưởng thức. Bà ưa các cử chỉ tự nhiên - hơi e lệ một chút lại càng có duyên - Bà thích có những người xinh đẹp quây quần quanh mình cũng như bà thích chơi tranh đẹp và đồ sứ xinh xắn vậy. Hôm ấy, bà đã nhắc đến Amelia sáu bảy lần một cách rất say sưa. Bà kể chuyện về Amelia với Rawdon Crawley, khi anh chàng giữ đúng nhiệm vụ đến cùng chia xẻ con gà rán với bà cô.

Nghe thấy thế, dĩ nhiên Rebecca vội tuyên bố ngay rằng Amelia đã có vị hôn phu...tức là trung úy Osborne...hai người yêu nhau đã lâu.

- Anh ta thuộc một trung đoàn chiến liệt quân?

Đại úy Crawley nghĩ ngợi một lúc lâu đúng như một sĩ quan Ngự lâm để cố nhớ lại trung đoàn số...

Rebecca đáp đúng là trung đoàn ấy, và thêm:

- Tên viên đại úy là Dobbin.

Crawley đáp:

- Một anh chàng vụng về gày gò có phải không? Anh ta húc phải tất cả mọi người. Tôi có quen anh ta. Còn Osborne có phải là một anh chàng đẹp trai, có bộ râu quai nón rậm đen nhánh không?

Rebecca Sharp đáp:

- Phải, có bộ râu quai nón xồm xoàm; mà anh ta lấy làm kiêu hãnh về bộ râu lắm.

Đại úy Rawdon Crawley không trả lời, Phá ra cười khàn khàn; hai người đàn bà hỏi gặng anh ta cười gì, thì anh ta trả lời:

- Hắn cứ tưởng chơi bi-a giỏi. Tôi đã được hắn hai trăm đồng tiền bi-a ở quán “cây dừa” . Hắn mà cũng học đòi đánh bạc, cái thằng ngốc nghếch! Hôm ấy hắn có vẻ muốn bán cả trời không văn tự, nhưng bạn hắn là đại úy Dobbin lại kéo hắn đi mất, mẹ kiếp!

Bà Crawley thú quá, bảo:

- Rawdon, Rawdon, đừng ác thế.

- Thế nào? Thưa cô, trong số bọn trai trẻ cháu gặp ở quân đội chỉ có thằng ấy là “non” nhất đấy ạ. Tarquin và Deuceace tha hồ muốn lấy bao nhiêu tiền của hắn tùy thích. Hắn mà được người ta thấy cùng ngồi với một nhà quý tộc thì bắt xuống âm phủ hắn cũng ưng. Ở Greenwich, hắn trả tiền cơm thết chúng nó, mà chúng nó còn kéo cả một lũ bạn đi theo để “che tàn”.

- Toàn là những bạn hữu quý báu cả, chắc thế.

- Đúng lắm, cô Sharp ạ. Đúng lắm, bao giờ cũng thế. Toàn nhưng bạn hữu quý ghê gớm...hề, hề!

Anh chàng đại úy lại càng cười khỏe, cho rằng mình vừa có được một câu khôi hài lý thú.

Bà cô kêu lên: .

- Đừng tồi thế, Rawdon.

- Ôi chao, bố hắn là một nhân vật ở khu City...giầu nứt đố đổ vách. Cái bọn khốn ở City ấy à, phải vắt sữa chúng nó chứ. Xin thưa để cô biết rằng thằng ấy chưa xong với cháu đâu. Hề, hề.

- Này, đại úy Crawley; để tôi mách Amelia. Có một người chồng hay bài bạc.

- Đáng sợ, hả?

Viên đại úy trịnh trọng nói vậy; một ý nghĩ thoáng qua đầu, anh ta thêm:

- Mà này, cô ạ, chúng ta sẽ mời hắn đến chơi đây.

Bà cô vội hỏi:

- Trông hắn ta có mẽ người không?

- Có mẽ không à?...Ồ, khá lắm. Cũng như tất cả mọi người. Bao giờ cô lại bắt đầu tiếp khách, thế nào ta cũng phải mời hắn đến chơi mới được. Cả cái cô tên là gì nhỉ...người trong mộng của hắn ta ấy mà... này, cô Sharp, có phải cô vẫn gọi thế không? Mời cả cô ta đến. Được, để tôi biên mẩu giấy mời hắn lại chơi. Để xem hắn chơi “pic-kê” có thạo như chơi bi-a không? Hắn ta ở đâu nhỉ, cô Sharp?

Cô Sharp bèn mách Crawley địa chỉ ở tỉnh của trung úy Osborne. Mấy ngày sau, trung úy Osborne nhận được một lá thư, nét chữ nguệch ngoạc như cho trẻ con của đại úy Rawdon, có kèm theo một thiếp mời của bà Crawley. Cô Sharp cũng gửi thư mời cô bạn thân Amelia; cô này nghe tin George cũng sẽ có mặt, sẵn sàng nhận lời ngay.

Họ đã sắp đặt sáng hôm ấy Amelia sẽ đến chơi với người đàn bà ở Đường công viên; ai cũng tỏ ra quý mến cô. Rebecca lên mặt che chở cho cô một cách rất bề trên. Rebecca thông minh hơn bạn rất nhiều; Amelia tính vốn dịu dàng và kín đáo, gặp ai muốn lên mặt với mình thì nhường ngay, cho nên cô sẵn lòng vui vẻ mềm mỏng tuân theo mọi ý muốn của Rebecca. Bà Crawley cũng tỏ ra lịch sự một cách đáng chú ý. Bà vẫn tiếp tục say sưa tán tụng Amelia, tâng bốc cô ngay trước mặt, làm như cô là một con búp bê, một người hầu phòng hay một bức tranh vậy; bà ca tụng cô một cách hết sức rộng lượng. Tôi rất kính phục thái độ của giới quý phái, đôi khi tán tụng cả những người thuộc tầng lớp bình dân. Trong đời, không có gì thú vị hơn là được thấy bọn người ở Mayfair () hạ mình xuống. Nhưng được bà Crawley săn sóc đến mình quá, hình như Amelia thấy mệt; tôi ngờ rằng trong số ba người đàn bà ở Đường công viên thì cô thấy bà Briggs thực thà kia là đáng yêu hơn cả. Cô thông cảm với bà Briggs như đối với những người tốt bụng bị bỏ rơi; cô không thuộc hạng người mà ta gọi là người đàn bà trí tuệ.

George có đến dùng cơm với đại úy Crawley...một bữa cơm thân mật của trai chưa vợ ().

Chiếc xe ngựa đồ sộ của gia đình Osborne chở anh ta từ khu phố Russell đến Đường công viên. Ở nhà, cô chị và em gái không được mời đến chơi, làm bộ không thèm để ý đến sự khinh mạn ấy, nhưng họ cũng giở cuốn “Danh bạ quý tộc” để tìm tên cụ Pitt Crawley. Cuốn sách đã giúp các cô biết rất nhiều điều về gia đình Crawley, về dòng dõi, về gia đình Binkie, về bè bạn, vân vân và vân vân... Rawdon Crawley đón tiếp Osborne hết sức thẳng thắn lịch sự. Anh ta khen Osborne chơi bi-a giỏi, hỏi thăm bao giờ anh này muốn phục thù, lại hỏi tin tức về trung đoàn của Osborne; anh ta định đề nghị chơi “pic-kê” ngay tối hôm ấy, nhưng bà Crawley dứt khoát cấm không cho đánh bạc trong nhà bà, thành ra túi tiền của viên trung úy không bị cháu bà chủ nhà làm vơi mất, ít nhất là trong ngày hôm ấy. Tuy vậy, họ cũng ước hẹn ngày hôm sau sẽ gặp nhau ở một nơi khác vì Crawley có một con ngựa muốn bán. Osborne muốn cưỡi thử nó ở công viên. Hai người sẽ dùng cơm với nhau, và buổi tối sẽ cùng giải trí với mấy người bạn ham vui khác. Crawley vừa láu lỉnh nháy mắt, vừa nói:

- Nghĩa là, nếu như anh không phải túc trực bên cô Sedley xinh đẹp kia. Thật là một trang tuyệt thế giai nhân, xin lấy danh dự mà thề; anh Osborne ạ, có một không hai đấy - anh ta nói thêm để nịnh khéo.

Osborne không phải túc trực đâu; anh ta sẵn sàng vui lòng đi chơi cùng Crawley. Hôm sau hai người gặp nhau, Crawley khen mãi tài kỵ mã của bạn - khen hết sức thành thực - và giới thiệu Osborne với ba hay bốn người bạn rất sang trọng; anh chàng sĩ quan thực thà được quen biết bọn này lấy làm khoái lắm.

Vừa uống rượu vang Osborne vừa hỏi bạn, có vẻ rất phong tình:

- Này, cô Sharp độ này ra sao? Cô ta tốt bụng lắm. Ở trại Crawley, chắc cô ta và anh tha hồ tâm đầu ý hợp nhỉ? Năm ngoái cô Sedley quý cô ta lắm.

Đại úy Crawley giương đôi mắt xanh ti hí lên nhìn vào mặt bạn một cách dữ tợn; và anh cứ chăm chú theo dõi mãi lúc anh này đứng dậy đến chào cô giáo xinh đẹp. Nhưng ví phỏng anh chàng sĩ quan Ngự lâm có tính ghen tuông bóng gió thì nom cách cư xử của cô thiếu nữ cũng hết lo ngại ngay.

Hai người trẻ tuổi lên gác; Osborne đến chào bà Crawley, rồi tiến về phía Rebecca ngồi, dáng điệu hơi khệnh khạng có vẻ bề trên. Anh ta định bụng tỏ ra bao dung che chở đối với cô. Thậm chí anh sẽ còn bắt tay Becky một cái, vì coi là cô là bạn của Amelia, anh ta bèn chìa bàn tay trái về phía cô ta và nói: “A, cô Sharp, thế nào mạnh khoẻ chứ?” Yên trí nhất định cô ta phải bối rối trước một vinh dự như vậy.

Cô Sharp chìa ngón trỏ bàn tay phải ra...và gật đầu một cái, vẻ mặt rất lạnh nhạt, làm anh chàng cụt hứng.

Rawdon Crawley ngồi ở phòng bên nhìn sang, thấy anh chàng trung úy bị bẽ mặt, suýt nữa không nhịn được cười; anh ta thấy Osborne giật nảy mình, rồi ngần ngừ và cuối cùng có vẻ lúng túng đành cầm lấy ngón tay của cô thiếu nữ đưa ra cho anh hôn vậy.

- Lạy Chúa, nàng đủ sức đánh gục cả quỷ sứ.

Viên đại úy thú vị lắm tự nhủ. Còn viên trung úy mở đầu câu chuyện bằng cách hỏi thăm Rebecca có thích nơi làm việc không. Sharp lạnh nhạt đáp:

- Việc làm của tôi? Cảm ơn anh đã nhắc tôi nhớ đến điều ấy? Việc làm cũng khá dễ chịu; tiền công tốt lắm...nhưng không được bằng tiền công của bà Wirt dạy chị anh và em gái ở khu phố Russell đâu. Các cô ấy dạo này thế nào?...đáng lẽ ra tôi không nên hỏi thăm mới phải.

Osborne ngạc nhiên hỏi:

- Sao lại không nên?

- Ô hay, cái hồi tôi còn ở chơi với Amelia, các cô ấy có bao giờ thèm hạ mình nói chuyện với tôi hoặc mời tôi đến chơi nhà đâu; nhưng cái bọn cô giáo dạy trẻ nghèo khổ chúng tôi thì, chắc anh cũng rõ, vẫn quen bị khinh miệt như thế.

Osborne kêu lên:

- Cô Sharp thân mến ơi…

Rebecca vẫn tiếp:

- Ít nhất là trong một số gia đình. Nhưng ở đây không như thế đâu; dân Hamshire chúng tôi không được giầu có như các anh, những con người may mắn ở khu City. Nhưng bây giờ tôi đang sống trong một gia đình thượng lưu...dòng dõi quý tộc nước Anh chính cống. Chắc anh cũng biết cụ thân sinh ra tôn ông Pitt ngày xưa đã từ chối không nhận tước Công. Anh coi đó, tôi được đối đãi ra sao. Tôi ở đây cũng khá dễ chịu. Kể ra thì cũng là một chỗ làm tốt. Nhưng được anh hỏi đến thật là vinh dự quá.

Osborne tưởng phát điên lên được. Cô giáo bé nhỏ vẫn cứ kênh kiệu và mỉa mai anh ta cho đến khi con sư tử non nước Anh kia cảm thấy không thể chịu nổi được nữa.

Anh ta cũng không đủ nhanh trí để bịa ra một cớ gì mà rút lui khỏi câu chuyện rất thú vị này. Anh ta bèn kiêu hãnh hỏi:

- Tôi chắc ngày trước cô cũng thích những gia đình ở khu City lắm đấy chứ?

- Anh định nói là năm ngoái, khi tôi vừa mới thoát khỏi cái trường ghê gớm ấy à? Vâng, có thể. Người con gái lưu trú trong trường nào mà chẳng thích về chơi nhà ngày chủ nhật? Mà làm sao tôi có thể hiểu biết hơn được? Nhưng ồ, anh Osborne ạ, bao nhiêu sự đổi thay qua mười tám tháng từng trải... mười tám tháng sống chung với... tôi nói thế này xin anh tha lỗi, với những người thượng lưu. Còn như Amelia thân mến thì chị ấy là một hòn ngọc, ở đây người ta cũng phải quý. Bây giờ, tôi thấy anh bắt đầu vui vẻ rồi đấy; nhưng mà…những con người kỳ quái khu City? Và còn anh Joe...cái anh Joseph thú vị ấy bây giờ ra sao nhỉ?

Osborne dịu dàng đáp:

- Tôi thấy hình như năm ngoái, cô không ghét “cái anh Joseph thú vị ấy” lắm thì phải.

- Anh nghiêm khắc quá. Phải, nói riêng với nhau () tôi không đến nỗi tan nát cõi lòng vì anh ta đâu. Nhưng giả sử anh ta có yêu cầu tôi làm cái điều mà đôi mắt anh muốn nói (đôi mắt anh cũng dịu dàng và ý nghĩa lắm) thì có lẽ tôi cũng không từ chối. Osborne đưa mắt nhìn, như ngụ ý:

“Quả thật, cô có lòng tốt quá?”

- Anh đang nghĩ rằng được coi anh là em rể, thật là một vinh dự, có phải không? Được làm chị dâu của George Osborne tiên sinh, con trai của Mall Osborne tiên sinh, cháu trai của...tên cụ cố là gì nhỉ, anh Osborne? Thôi, xin anh đừng giận. Anh có trách nhiệm gì về dòng dõi của mình đâu; tôi hoàn toàn đồng ý với anh rằng tôi nên lấy anh Joe Sedley làm chồng; bởi vì một người con gái nghèo khổ không một xu dính túi còn mong gì hơn? Bây giờ, mọi điều bí mật anh đã rõ cả; tôi rất thẳng thắn cởi mở. Và xét cho cùng thì cũng cảm ơn anh đã nhắc đến câu chuyện cũ...một cách rất nhã nhặn và lễ độ. Chị Amelia thân mến ơi, anh Osborne và em đang nói chuyện về chị và anh Joseph đáng thương của chị đấy. Bây giờ anh ấy ra sao nhỉ?

Thế là George hoàn toàn thất bại, Không phải vì Rebecca có lý; nhưng mồm miệng cô ta bẻo lẻo quá thành ra dồn được anh chàng vào thế bí. Bây giờ anh ta ngượng chín mặt, lùi lũi chuồn mất, George nghĩ bụng, giá mình ở lại chút nữa thì rất có thể trở thành lố bịch trước mặt Amelia mất.

Tuy Rebecca đã thắng Osborne nhưng anh cũng không phải là người hèn hạ mà trả thù cô gái bằng cách nói xấu...

Có điều ngày hôm sau, anh ta không thể nào nhịn không bày tỏ riêng một cách khéo léo với đại úy Crawley vài ý kiến về Rebecca...rằng cô ta là một con người rất sắc sảo, một con người nguy hiểm, đừng có lôi thôi vào mà chết, v.v...

Nghe nói, Crawley chỉ cười tỏ ý biểu đồng tình, và chỉ trong khoảng hai mươi bốn giờ đồng hồ, lại đem mọi chuyện kể lại cho Rebecca nghe đầy đủ. Rebecca càng vì thế mà nhìn Osborne với con mắt đặc biệt, Bản năng của đàn bà mách cô rằng chính Osborne đã mua con ngựa của Crawley, sau bữa ăn lại đã bị mất thêm mấy chục đồng ghi-nê. Anh ta láu lỉnh nhìn Crawley, nói:

- Tôi chỉ muốn khuyên anh dè chừng thôi, tôi hiểu bụng dạ đàn bà lắm; tôi khuyên anh nên cẩn thận đấy.

Crawley nhìn anh ta với đôi mắt biết ơn đặc biệt:

- Xin cảm ơn anh, tôi thấy anh sáng suốt lắm.

Và George ra về, yên trí Crawley nói thực.

Anh ta kể lại cho Amelia nghe việc mình đã khuyên bảo Rawdon Crawley - cái anh chàng cực kỳ tốt bụng lòng dạ thẳng như ruột ngựa phải coi chừng cái cô Rebecca bé nhỏ láu lỉnh mưu mẹo ấy như thế nào.

Amelia kêu lên:

- Coi chừng ai chứ?

- Cái cô giáo bạn em ấy. Có gì mà sửng sốt?

- Ô kìa, anh George, anh đã làm cái gì thế Con mắt đàn bà của cô đã được thần ái tình làm cho sáng suốt; chỉ thoáng qua, cô cũng đã khám phá ra sự bí mật hoàn toàn bị che dấu trước con mắt bà Crawley, bà Briggs đáng thương, và hơn cả, trước đôi mắt “cận thị” của anh chàng tự mãn có râu kia tức là trung úy Osborne.

Lúc Rebecca quàng khăn cho bạn ở trên gác, hai cô bạn gái có dịp tỷ tê chuyện riêng với nhau, bí mật bàn tính với nhau một tý; ấy là cái thú vị đặc biệt của đời con gái.

Amelia lại sát gần nắm lấy hai bàn tay bé nhỏ của Rebecca:

- Rebecca, em biết hết rồi.

Rebecca hôn bạn, không đáp.

Về câu chuyện bí mật thú vị này, hai cô thiếu nữ không ai nói thêm một lời nào. Nhưng không lâu đâu, rồi nó sẽ lộ ra thôi. Câu chuyện trên xảy ra được ít lâu, khi cô Sharp vẫn còn ở chơi nhà bà chủ mới của mình tại Đường công viên thì ở phố Great Gaunt lại treo thêm một tấm huy hiệu quý tộc giữa những tấm huy hiệu khác vẫn thường trang hoàng cho đường phố ảm đạm này. Người ta thấy nó được treo trên ngôi nhà của cụ Pitt Crawley; nhưng không phải là nó báo tin lão nam tước già đã chết. ấy là một tấm huy hiệu phụ nữ, ít năm về trước đã dùng để báo tin bà cụ sinh ra cụ Pitt, tức là quả phụ Crawley phu nhân tạ thế. Việc ma chay xong xuôi, người ta hạ tấm huy hiệu từ trên mặt tường xuống cất vào một chỗ kín đáo nào đó trong nhà cụ Pitt. Bây giờ nó lại được lôi ra vì bà Rose Dawson. Thế là cụ Pitt lại thành người góa vợ lần nữa. Hình vẽ tượng trưng sơn trên nền chiếc khiên treo song song cạnh chiếc huy hiệu của lão không phải thuộc về bà Rose đáng thương kia đâu; bà ta làm gì có huy hiệu quý tộc; nhưng những vị thiên thần sơn trên chiếc khiên cũng sẽ che chở cho bà y như xưa kia đã che chở cho mẹ cụ Pitt; phía dưới hình vẽ có đề chữ Resugam (), hai bên có hình con rắn và con chim bồ câu của dòng họ Crawley. Huy hiệu quý tộc, Resurgam...Thật là một dịp dạy luân lý cho người đời vậy.

Crawley cũng đã săn sóc bên giường bệnh của con người trơ trọi kia. Anh ta cũng đã hết sức ngọt ngào an ủi, tiếp thêm sức mạnh cho bà khỏe khoắn từ giã cõi trần. Đã bao năm nay, anh ta là người duy nhất ăn ở tốt đối với bà, là người bạn độc nhất của tấm linh hồn yếu ớt, cô độc đó. Thân thể bà còn sống nhưng tâm hồn thì đã chết từ lâu. Bà đã bán linh hồn của mình để trở thành vợ cụ Pitt Crawley. Trong Hội chợ phù hoa, hàng ngày vẫn có những bà mẹ và những cô con gái làm công việc thương mại như vậy.

Lúc bà tắt thở, ông chồng đang ở Luân-đôn, còn bận thực hiện những kế hoạch làm ăn túi bụi nào đó, và đang bấn lên với những ông thầy kiện. Tuy vậy, lão cũng vẫn dành được thì giờ đến thăm Đường công viên luôn luôn, và gửi cho Rebecca rất nhiều lá thư nài xin cô, giục giã cô, ra lệnh cho cô trở về với hai cô học trò ở nhà quê, vì từ khi mẹ bị ốm, hai cô thiếu người bầu bạn. Nhưng, bà Crawley nhất định không đồng ý cho Rebecca đi. Ở thành phố Luân-đôn này, không có người đàn bà lịch thiệp với họ bằng bà ta; nhưng khi còn đam mê () thì bà ta lại là người gắn bó ghê gớm; cho nên bà cứ hăng hái ra sức mà bám chặt ấy Rebecca.

Tin Crawley phu nhân tạ thế không gây ra những nỗi buồn rầu hoặc những lời bàn tán trong phạm vi gia đình Crawley, như người ta tưởng. Bà Bute Crawley nói: “Có nhẽ tôi phải hoãn buổi họp mặt tối ngày kia mất! Ngừng một lát, bà tiếp: “Tôi hy vọng rằng ông anh chồng tôi nên giữ tiếng, đừng tục huyền lần nữa”. Nếu ông ấy lại lấy vợ, thì Pitt chắc giận đến phát điên lên mất.

Rawdon góp ý kiến; anh ta vẫn không ưa người anh cả như cũ. Rebecca không nói gì. Cả nhà hình như chỉ có cô có vẻ trang nghiêm, và bị xúc động hơn cả. Hôm ấy, cô rời khỏi căn phòng trước khi Rawdon ra đi, nhưng ngẫu nhiên hai người lại gặp nhau ở nhà dưới; anh chàng vừa từ biệt mọi người xong; họ đứng lại nói chuyện với nhau một lúc.

Sớm hôm sau, Rebecca đang đứng trong cửa sổ nhìn ra sân, còn bà Crawley thì đang bình thản đọc một cuốn tiểu thuyết Pháp, bỗng cô ta kêu nên, giọng sợ hãi, làm bà giật nẩy mình:

- Thưa bà, cụ Pitt đến kìa.

- Cô em ạ, tôi không thể tiếp ông ấy, tôi không muốn tiếp ông ấy đâu. Bảo Bowls nói rằng tôi đi vắng. Hay là cô đi xuống bảo ông ấy rằng tôi ốm, không tiếp ai được. Trong người tôi còn mệt, không thể tiếp chuyện ông anh tôi vào phút này đâu.

Nói đoạn, bà Crawley cúi xuống đọc tiếp cuốn sách.

- Thưa cụ, bà yếu quá, không tiếp khách được.

Cụ Pitt vừa định bước lên thang gác thì Rebecca chạy vội xuống nói vậy. Cụ Pitt đáp:

- Càng hay. Cô Becky, tôi muốn gặp cô. Cô đi với tôi sang phòng khách.

Hai người cùng vào trong phòng.

- Cô ơi, tôi muốn cô trở về trại Crawley Bà chúa với tôi.

Lão nam tước vừa nói vừa chằm chằm nhìn cô; lão tháo đôi găng tay đen ra và bỏ chiếc mũ có vành băng tang xuống. Đôi mắt lão nhìn trừng trừng vào cô ta một cách lạ lùng làm cho Rebecca Sharp gần như run lên. Cô đáp khe khẽ:

- Tôi cũng muốn sớm trở về khi nào bà Crawley khỏe hơn... tôi sẽ về với... với mấy em bé yêu quý.

Cụ Pitt đáp:

- Becky, cô nói thế đã mấy tháng nay rồi; thế mà cô vẫn cứ bám chặt lấy bà em tôi; bao giờ bà ấy chán, bà ấy sẽ quẳng cô đi như vứt chiếc giầy rách. Tôi nói cô biết, tôi cần cô lắm. Bây giờ tôi sắp về đưa đám đây. Cô có về không? Có hay không?

Becky có vẻ rất bối rối đáp.

- Tôi không dám...tôi không cho rằng...có lẽ không tiện...đi một mình...với cụ.

Cụ Pitt đấm tay xuống mặt bàn, nói:

- Tôi nhắc lại rằng tôi cần cô. Vắng cô, tôi không làm ăn gì được. Từ bữa cô đi tôi không biết công việc ra sao. Nhà cửa bề bộn, không còn được như trước nữa. Sổ sách của tôi luộm thuộm, không ra sao cả. Cô phải trở về. Hãy trở về đi; Becky quí mến ơi, trở về đi.

Rebecca há hốc mồm hỏi...

-Về như thế nào, thưa cụ?

- Về với tư cách là Crawley phu nhân, nếu cô muốn. Đấy, cô đã bằng lòng chưa? Cô cứ về làm vợ tôi. Cô xứng đáng lắm. Dòng dõi thì làm cái **** gì. Dòng dõi như cô cũng xứng đáng làm một mệnh phụ như bất cứ ai. Cô còn khôn ngoan bằng vạn vợ những thằng nam tước khác trong quận này. Cô có về không? Có hay không?

- Ồ, cụ Pitt!

Rebecca xúc động quá, kêu lên.

Cụ Pitt vẫn tiếp:

- Becky, bằng lòng đi. Tôi già rồi nhưng còn khỏe lắm. Tôi còn sống hai mươi năm nữa là ít. Tôi sẽ làm cho cô được sung sướng, rồi cô sẽ thấy. Tha hồ cô muốn làm gì thì làm; tha hồ tiêu tiền, tha hồ ăn chơi, tùy thích. Tôi sẽ sắp đặt tương lai chắc chắn cho cô. Tôi sẽ lo hợp thức hóa đầy đủ. Cô thấy không?

Và lão già quỳ xuống, liếc nhìn cô gái, y như một con “thần dê”() vậy.

Rebecca sửng sốt lùi lại, sững sờ cả người. Từ đầu cuốn truyện này, chúng ta chưa hề bao giờ thấy cô cũng phải lúng túng, và nhỏ những giọt nước mắt thành thực nhất đời mình. Cô nói:

- Ôi, cụ Pitt ạ ; ôi thưa cụ... tôi…tôi đã có chồng mất rồi.

Chương 15

CHỒNG CÔ REBECCA XUẤT HIỆN TRONG CHỐC LÁT

Các bạn độc giả thuộc loại đa cảm (chúng tôi cũng không thích loại độc giả khác) hẳn phải thú vị trước cảnh tượng của tấn bi kịch nhỏ và miêu tả cuối chương vừa qua; bởi vì còn có gì đẹp hơn là hình ảnh thần Ái tình quỳ trước thần Sắc đẹp?

Song, khi thần Ái tình nghe thần Sắc đẹp thốt ra lời thú nhận ghê gớm rằng mình đã trót có chồng rồi, thì thần Ái tình đang quỳ mọp trên tấm thảm bỗng nhảy bật ngay dậy, miệng thốt ra những tiếng kêu làm cho thần Sắc đẹp đáng thương phải sợ hãi hơn cả lúc cô ta đang thú thực rằng mình đã có chồng. Cơn giận dữ và ngạc nhiên đầu tiên đã qua, lão nam tước kêu lên:

- Có chồng rồi; cô nói đùa. Becky, cô định trêu tôi phỏng? Ai điên gì mà lấy cô, một xu dính túi không có?

- Có chồng rồi! Vâng, tôi có chồng rồi!

Rebecca vừa khóc nức nở, vừa đáp...giọng nói nghẹn ngào vì xúc động, cô cầm khăn tay đưa lên mắt, phải dựa lưng vào thành lò sưởi cho khỏi ngã...trông cô ta thực là hiện thân của sự đau khổ, khiến cho kẻ lòng dạ sắt đá cũng phải mủi lòng.

- Ôi cụ Pitt, cụ Pitt thân mến; xin cụ đừng nghĩ rằng tôi vô tình không biết đền đáp lại bao ân huệ cụ đã ban cho tôi Chính vì cụ rộng lượng, nên tôi mới dám thú thực điều bí mật ấy. Cụ Pitt gầm lên:

- Rộng lượng cái con khẹc? Cái thằng lấy cô, hắn ta là ai! Hắn ở đâu?

- Thưa cụ, để tôi lại xin theo cụ về quê. Để tôi lại xin săn sóc cụ như trước? Xin cụ chớ bắt tôi phải rời bỏ trại Crawley Bà chúa?

Lão nam tước tưởng mình đã hiểu chuyện, bèn nói:

- Thằng cha bỏ rơi cô, hả? Được, Becky...nếu cô muốn thì cứ trở về. Cô không thể nào vừa muốn ăn bánh lại vừa để dành nó được. Dầu sao đi nữa, tôi cũng đã đem đến cho cô một cơ hội “tút” . Cô hãy trở về làm cô giáo như cũ... cô sẽ được tự do theo ý muốn.

Rebecca bèn chìa một bàn tay ra. Cô khóc nức nở tưởng như cả trái tim đến vỡ tung ra mất; những món tóc xoăn xoăn xõa xuống che kín mắt và xõa cả xuống mặt lò sưởi bằng đá cẩm thạch.

Cụ Pitt nói, giọng khả ố, cố tìm cách an ủi cô gái:

- Thế là thằng khốn nạn đánh bài chuồn hả? Thôi Becky ơi, đừng nghĩ ngợi nữa, tôi sẽ chăm sóc cô Becky ơi, đừng nghĩ ngợi nữa, tôi sẽ chăm nom săn sóc cô.

- Ôi, thưa cụ, được trở về trại Crawley Bà chúa để trông nom các em và săn sóc cụ như trước, thật là một điều đáng kiêu hãnh trong đời tôi; nhất là được thấy cụ tỏ ý rất vui lòng vì sự hầu hạ của con bé Rebecca hèn mọn này. Mỗi lúc nghĩ đến lời cụ vừa dạy, tôi lại thấy ơn cụ bằng trời biển... quả thật như thế. Tôi không được làm vợ cụ; xin cụ cho được...được làm con gái cụ vậy.

Vừa nói Rebecca vừa quỳ xuống, điệu bộ trông bi đát vô cùng; cô nắm chặt lấy bàn tay gớm ghiếc của lão trong hai bàn tay mình (hai tay cô ta thật đẹp, trắng muốt, mịn màng như sa-tanh), vừa ngước mắt nhìn lão già, vẻ mặt hết sức tin cậy và đáng thương; vừa lúc ấy…cửa mở, bà Crawley sồng sộc bước vào.

Vừa ngay sau lúc Rebecca và cụ Pitt đưa nhau vào trong phòng khách thì bà Firkin và bà Briggs tình cờ cũng đi qua cửa phòng, và cũng ngẫu nhiên cùng nhòm qua lỗ khóa họ thấy lão quý tộc già quỳ móp trước mặt cô giáo dạy trẻ, lại nghe thấy lão ngỏ ý muốn cưới cô làm vợ. Lão vừa nói buông mồm thì lập tức cả bà Firkin và bà Briggs chạy bổ lên gác, xông vào phòng khách, chỗ bà Crawley đang ngồi đọc cuốn tiểu thuyết Pháp; họ báo cho cho bà biết cái tin quái gở: cụ Pitt đang quỳ và tỏ tình với cô Sharp. Nếu các bạn tính đúng thời gian cuộc đối thoại trên xảy ra...với thời gian bà Firkin và bà Briggs bay lên thang gác...lao vào phòng khách... và thời gian bà Crawley ngạc nhiên, đánh rơi tập truyện của Pigault le Brun xuống đất...và thời gian bà xuống thang gác...các bạn sẽ thấy cuốn truyện này viết rất chính xác; bà Crawley tất phải xuất hiện vừa đúng lúc Rebecca đang có thái độ cầu khẩn van xin nói trên.

Bà Crawley nói, giọng nói và cái nhìn tỏ vẻ hết sức khinh bỉ:

- Vậy ra tiểu thư quỳ xuống đất chứ không phải là công tử? Ông Pitt, họ mách tôi rằng chính ông đã quỳ mọp dưới chân cô ta phải không? Hãy quỳ xuống lần nữa đi, để tôi xem có đẹp đôi không nào!

Rebecca đứng dậy đáp:

- Thưa bà, tôi vừa cảm tạ cụ Pitt, tôi đã thưa với cụ rằng... tôi không bao giờ có thể trở thành Crawley phu nhân được.

- Từ chối à?

Bà Crawley kêu lên, lại càng sửng sốt hơn trước; Briggs và Firkin đứng ngoài cửa cùng trợn tròn mắt, mồm há hốc ra vì ngạc nhiên.

Rebecca tiếp theo, giọng buồn bã, nghẹn ngào đầy nước mắt:

- Vâng...tôi từ chối.

Bà già lại hỏi:

- Liệu tôi có nên tin ở lỗ tai mình nữa không, khi được nghe rằng ông đã tỏ tình với cô ấy, hử ông Pitt?

Lão nam tước đáp:

- Đúng, có thế.

- Và cô ấy từ chối, như cô ấy vừa nói?

- Đúng.

Cụ Pitt nhăn răng ra cười, đáp vậy.

Bà Crawley nhận xét:

- Trông ông có vẻ không lấy việc đó làm đau đớn thì phải.

- Việc quái gì mà đau đớn.

Cụ Pitt đáp, mặt vẫn thản nhiên lại có ý hơi khôi hài, làm cho bà Crawley gần phát điên lên vì kinh ngạc. Một nhà quý tộc đã già mà quỳ xuống trước mặt một cô giáo dạy trẻ không một xu vốn liếng, và lại phá ra cười vì bị cô ta từ chối không chịu lấy làm chồng... một cô giáo dạy trẻ không một xu hồi môn mà từ chối một vị nam tước thu hoạch đồng niên bốn ngàn đồng... thật là những điều bí mật bà Crawley không bao giờ có thể hiểu nổi. Còn vượt xa những chuyện ly kỳ bà đọc trong cuốn tiểu thuyết Pigault le Brun bà vẫn thích nhất.

- Tôi rất vui lòng thấy ông cười cợt được trước chuyện ấy, ông anh của tôi ạ. Bà nói tiếp, vẫn chưa hết cơn bàng hoàng sửng sốt.

Cụ Pitt đáp:

- “Trứ danh” thật, ai mà ngờ được! Thật là một đồ quỷ cái! Đồ cáo con!

Lão vừa lẩm bẩm vừa khúc khích cười một mình ra ý thú vị lắm.

Bà Crawley giậm chân bành bạch, kêu lên:

- Ai mà ngờ được cái gì hả? Này, cô Sharp, cô định chờ Hoàng tử nhiếp chính ly dị vợ hay sao? Cô cho rằng gia đình nhà tôi không xứng đáng với cô hẳn?

Rebecca đáp:

- Thưa bà, cứ nom dáng điệu của tôi khi bà bước vào đây cũng đã rõ tôi có dám coi thường cái vinh dự mà con người tốt bụng cao quý kia đã rộng ơn ban cho tôi hay không. Bà nghĩ rằng tôi là kẻ vô tình sao? Tất cả mọi người đã yêu quý, đã đối đãi tốt với đứa con gái mồ côi đáng thương bị ruồng bỏ này, vậy mà chẳng lẽ nó không cảm thấy điều gì sao? Ôi, các bạn? Ôi, các vị ân nhân. Sao cho tôi có thế đem tình yêu, đời sống, đem hết sức ra đền đáp lại sự tin cậy của các vị đối với tôi? Bà Crawley ơi, lẽ nào bà lại từ chối không cho tôi tỏ lòng biết ơn? Thế thì quá lắm...tôi mang ơn các vị vô cùng.

Cô ngồi phịch xuống một cái ghế, trông đáng thương quá, khiến cho hầu hết những người đang có mặt phải não lòng vì nỗi buồn của cô.

- Becky, dù lấy tôi hay không thì cô vẫn là một người con gái tốt; tôi vẫn là bạn của cô, nhớ thế.

Cụ Pitt nói đoạn, chụp cái mũ có băng tang lên đầu, bỏ đi ra...Rebecca mừng quá, vì thêm sự bí mật của cô chưa bị tố cáo với bà Crawley, và cô hãy còn được hưởng một thời gian án treo ngắn.

Cô đưa khăn tay lên chùi mắt, gật đầu chào bà Briggs thực thà, rồi lên gác về phòng riêng của mình - bà Briggs cũng định cùng đi với cô lên thang gác, nhưng sau bà ở lại cùng bà Crawley bàn tán về câu chuyện kỳ lạ vừa qua; cả hai đều bị xúc động rất mạnh. Bà Firkin cũng cảm động không kém, đâm bổ ngay xuống nhà bếp, kể lại câu chuyện với khắp các bạn đồng nghiệp nam nữ. Câu chuyện gây một ấn tượng quá sâu sắc đối với bà Firkin, đến nỗi bà ta thấy cần gửi một lá thư đi ngay tối hôm ấy; thư viết;

“Rất hân hạnh được bày tỏ lòng trung thành cùng bà Bute Crawley và gia quyến ở nhà thờ; cụ Pitt đã ngỏ ý muốn lấy cô Sharp làm vợ, nhưng cô từ chối, làm cho ai cũng phải ngạc nhiên”.

Hai người đàn bà ngồi trong phòng ăn (bà Briggs sung sướng quá, vì một lần nữa lại được trò chuyện tâm tình với người che chở cho mình); họ vẫn chưa hết lạ lùng trước việc cầu hôn của cụ Pitt, cũng như việc Rebecca từ chối. Bà Briggs tỏ ra thạo đời, đoán rằng cô ta từ chối vì đã trót đính ước với người khác rồi; nếu không, chả đời nào một người con gái khôn ngoan như thế. Bà Crawley ngọt ngào hỏi:

- Phải tay bà, chắc bà nhận lời phăng đấy nhỉ, bà Briggs?

Bà Briggs trả lời, hơi đánh trống lảng:

- Được làm chị dâu bà Crawley, chả đáng hân hạnh lắm sao?

Bà Crawley nhận xét:

- Phải, xét cho cùng thì Becky có thể trở thành Crawley phu nhân được lắm chứ (thấy cô ta từ chối bà cũng hài lòng, và bây giờ không cần phải hy sinh điều gì nữa, bà rất sẵn sàng tỏ ra phóng khoáng và rộng lượng); cô ấy thông minh lắm - bà Briggs đáng thương ơi, cô ấy còn thông minh gấp trăm bà nữa cơ - cử chỉ thì tuyệt khéo, tôi dạy mãi mới được đấy. Này bà Briggs, cô ấy là dòng dõi họ Montmorency, con nhà gia thế cũng có khác, tuy bản thân tôi thì vẫn không ưa chuyện dòng dõi. Cô ấy rất có thể còn biết giữ giá trị của mình giữa đám quý phái ngu độn ở Hamshire hơn cả cái con mụ bất hạnh con gái nhà hàng sắt kia đấy.

Bà Briggs lại tán thành như thường lệ. Hai người tiếp tục phỏng đoán về chuyện “đính ước” của Rebecca.

Bà Crawley bảo:

- Những con người không bè bạn đáng thương như các bà bao giờ mà chẳng có một “anh nhân ngãi” nào đó. Cả bà nữa, ngày xưa bà cũng đã yêu một ông giáo dạy viết (đừng khóc, bà Briggs...bà hay khóc lắm, khóc có làm ông ta sống lại được đâu), mà tôi cứ cho rằng cái nhà cô Becky bất hạnh kia cũng dại đột và đa cảm như vậy đi: một lão lang thuốc, một bác quản gia, một anh thợ vẽ, một cậu mục sư trẻ tuổi nào đó, hoặc một thứ người đại loại như thế chứ.

- Thật là đáng thương! Đáng thương quá!

Bà Briggs nói vậy, bà đang nghĩ tới chuyện hai mươi bốn năm về trước, nghĩ tới cái ông thầy dậy viết gầy như que củi, đến mái tóc vàng và những lá thư của ông ta, những lá thư rất đẹp tuy viết loằng ngoằng khó đọc mà bà nâng niu giữ gìn trong ngăn bàn trên gác. Bà vẫn chép miệng “Thật là đáng thương! Đáng thương quá!” Một lần nữa, bà sống lại thủa con gái mười tám, với cặp má mịn màng tươi tắn, buổi tối đi lễ nhà thờ, bà và ông giáo dạy viết nồng nàn kia cùng ngân giọng đồng ca bài hát nguyện.

- Bây giờ cô Rebecca đã cư xử như vậy, thì gia đình nhà ta phải đối đãi với cô thế nào chứ. Bà Briggs, hãy dò xem anh ta là ai. Tôi sẽ cấp cho anh ta một cái cửa hiệu, hay là đặt anh ta vẽ cho tôi một bức chân dung, bà hiểu chứ? Hoặc tôi sẽ nói chuyện với ông anh họ tôi, làm giám mục...tôi sẽ cho Becky một món hồi môn, và bà Briggs, ta sẽ tổ chức một lễ cưới. Bà phải sửa soạn một bữa tiệc, và đi phù dâu.

Bà Briggs tuyên bố rất bằng lòng, và thề rằng bà Crawley thân mến của bà bao giờ cũng tốt bụng, rộng lượng, đoạn bà lên phòng riêng của Rebecca để an ủi cô và hỏi chuyện về việc cầu hôn, việc từ chối và về nguyên nhân. Bà còn nói bóng tới dự định rộng lượng của bà Crawley và cố dò xem ai là người đàn ông được cô Sharp để lọt vào mắt xanh.

Rebecca tỏ ra rất xúc động, rất dịu dàng, ngọt ngào thấy bà Briggs đối với mình hết sức trìu mến săn sóc, cô cũng tỏ ra biết ơn....Cô cũng thú nhận rằng có đính ước bí mật với một người... một sự bí mật thú vị vô cùng...đáng tiếc quá, giá lúc nhòm qua lỗ khóa bà Briggs nán lại thêm độ nửa phút nữa thì hay...Có lẽ Rebecca cũng còn nói rõ thêm, nhưng bà Briggs mới ngồi trò chuyện được độ năm phút, thì bà Crawley đã lù lù bước vào rồi... Bà nóng ruột quá, không chịu nổi, bà không thể chờ đợi người sứ giả chậm chạp của mình mang tin về, cho nên bà phải đích thân tìm đến, bà ra lệnh cho bà Briggs ra ngoài. Sau khi tỏ lời khen ngợi cô Sharp đã cư xử phải lẽ, bà hỏi tỉ mỉ chi tiết cuộc gặp gỡ vừa qua, là hỏi quan hệ từ trước giữa cô và cụ Pitt ra sao mà bây giờ lão này tỏ tình một cách lạ lùng như vậy Rebecca đáp rằng từ lâu cô vẫn biết cụ Pitt có ý hạ cố thương cô (lão ta vẫn có thói quen bộc lộ tình cảm của mình một cách thẳng thắn, lộ liễu), nhưng vì những lí do về tuổi tác, địa vị, và tính tình của cụ Pitt, cô thấy cuộc hôn phối không thể thực hiện được (cô không nói rõ những lý do sâu kín chưa tiện bộc lộ ngay, sợ bà Crawley phiền lòng) vả chăng, có người đàn bà nào có tâm hồn, biết nghĩ và biết tự trọng, lại đành tâm nghe người ta ngỏ ý cầu hôn khi vợ người ta mới chết chưa kịp chôn cất?

Bà Crawley vội vớ ngay lấy cơ hội.

- Cô em thật nghĩ còn nông cạn. Lẽ ra cô không nên từ chối ông ấy mới phải, trừ trường hợp cô đã đính ước với người khác thì không kể. Cứ nói thực với tôi đi: có nguyên nhân gì bí mật nào? Nhất định phải có “người nào” rồi. Ai đã chiếm được trái tim cô thế?

Rebecca nhìn xuống đất, thú nhận rằng có như vậy. Cô mỉm cười nói, giọng hơi run run:

- Thưa bà, bà đoán đúng đấy. Bà ngạc nhiên vì thấy một người con gái nghèo khổ, cô độc, lại có người đính ước, phải không ạ?Tôi chưa hề nghe nói vì nghèo mà không được yêu bao giờ.Tôi mong rằng điều ấy đúng.

Bà Crawley bao giờ cũng sẵn sàng đa cảm, bà đáp:

- Cô em bé bỏng thân mến đáng thương ơi, vậy ra cô bị phụ tình? Cô đành chôn vùi mối hận sâu kín trong lòng? Hãy kể tình đầu câu chuyện tôi nghe, tôi sẽ an ủi cô.

Rebecca vẫn giọng nói đẫm nước mắt:

- Thưa bà, tôi cũng mong rằng có thể kể lại bà nghe. Mà quả thật, tôi cần được bộc lộ nỗi lòng.

Và cô ngả đầu vào vai bà Crawley, khóc thút thít rất tự nhiên, làm cho bà này từ chỗ ngạc nhiên biến thành thương cảm, bà ôm hôn cô trìu mến gần như mẹ hôn con, bà vỗ về an ủi cô mãi, bà thề rằng sẽ quý cô như con gái, và sẵn sàng làm mọi việc có thể được để giúp cô.

- Nào, thế anh ta là ai nào, cô em yêu quý? Có phải người anh trai cô Sedley xinh đẹp kia không? Hôm nọ cô nói chuyện hai người trước có biết nhau. Để tôi mời anh ta đến đây. Và cô sẽ lấy được anh ta, nhất định cô sẽ lấy được anh ta.

Rebecca đáp:

- Bây giờ xin bà đừng hỏi ngay. Không lâu đâu rồi bà sẽ rõ, chắc chắn thế. Bà Crawley thân mến quý báu...người bạn thân quý của tôi, tôi có được phép gọi như vậy không nhỉ?

Bà già hôn cô đáp:

- Con ơi, được lắm chứ.

Rebecca thổn thức nói:

- Bây giờ tôi chưa thể nói ngay với bà được. Tôi đau khổ lắm. Nhưng mà, ôi? hãy thương tôi...xin bà hứa sẽ thương tôi mãi mãi.

Cả hai người cùng khóc, sự xúc động của cô con gái lây sang cả bà già, bà Crawley trịnh trọng hứa đồng ý như vậy; đoạn bà từ biệt cô gái bé bỏng được mình che chở, bà cầu chúa ban phúc lành cho cô ta, và khen mãi cô ta một con người chân thật, hiền hậu, ngoan ngoãn nhưng cũng khó hiểu.

Bây giờ còn lại một mình, Rebecca ngồi nghĩ lại những sự việc đột ngột, kỳ lạ xảy ra ngày hôm ấy, cô nghĩ đến việc trót xảy ra mất rồi, và việc đáng lẽ đã phải xảy ra.

Bạn đọc cho rằng trong thâm tâm cô ấy (ấy, xin lỗi), trong thâm tâm bà Rebecca đang nghĩ gì nào? Trong mấy trang trước, kẻ viết truyện này đã mạn phép tự cho mình cái quyền được tò mò ngó vào trong phòng ngủ của Amelia Sedley, và với con mắt “thấu suốt nghìn đời” của nhà viết tiểu thuyết, hiểu được những nỗi lo nghĩ, đau khổ êm đềm đang trằn trọc trên tấm gối vô tội kia, thế thì tại sao kẻ viết truyện lại không dám tự nhận là người bạn tâm tình của Rebecca, hiểu thấu mọi sự bí mật của cô, và nắm giữ chiếc chìa khóa kho tàng tâm tình của cô thiếu nữ ấy?

Được, vậy thì trước hết Rebecca đang ngồi nghĩ thầm một cách đáng cảm động mà tiếc mãi cái hạnh phúc vô giá lẽ ra có thể vừa tầm tay với của cô, mà bây giờ bắt buộc phải gạt bỏ. Niềm tiếc hận này thì bất cứ người nào có tâm lý thực tế cũng phải đồng ý. Có bà mẹ thương con nào lại không thông cảm với một cô gái chưa chồng, không một xu vốn liếng suýt nữa trở thành một bậc mệnh phụ, hàng năm có thể cùng ông chồng chia xẻ món tiền bốn nghìn đồng? Trong Hội chợ phù hoa này, có người thiếu nữ tử tế nào lại không thương một cô gái chịu thương chịu khó, thông minh, xứng đáng được sung sướng, mà khi được người ta mang đến cho một mối lợi kếch xù đáng thèm muốn như vậy lại chính là lúc không có quyền nhận nữa? Tôi chắc chắn rằng chúng ta ai cũng phải thông cảm với sự tiếc hận của Rebecca.

Tôi còn nhớ một đêm kia, chính tôi có mặt ở Hội chợ phù hoa trong một buổi dạ hội. Tôi có nhìn thấy cô gái già Toady cũng đến dự; cô đặc biệt quan tâm săn sóc đến bà Briefless là vợ một viên thầy kiện; bà này cũng là con nhà gia thế, nhưng ai cũng biết là nghèo xơ nghèo xác.

Tôi mới tự hỏi thầm rằng, tại sao cô Toady lại chú ý nhiều đến bà kia? Tại ông Briefless đã được thăng chức chánh án chăng? Hay là tại vợ ông ta để lại cho cô Toady một cái gia tài? Cô Toady , với thái độ rất thẳng thắn là đặc tính trong cách cư xử của cô xưa nay, giải thích thế này: “Anh cũng rõ chứ gì, bà Briefless là cháu gọi tôn ông John Redhand là ông nội; ông cụ ốm kịch liệt ở Cheltenham đã sáu tháng nay. Ông bố bà Redhand được thừa kế, anh thấy không, vậy bà ấy sắp sửa là con gái của một vị nam tước cơ mà.”

Rồi cô Toady mời ông Redhand và vợ tuần sau đến ăn cơm nhà cô.

Nếu như chỉ có mỗi cái may mắn được trở thành con gái một nam tước mà một người đàn bà cũng đã được người đời trọng vọng như vậy thì, chắc chắn, chắc chắn lắm, chúng ta rất có quyền kính trọng những sự sầu não của một cô thiếu nữ suýt nữa được trở thành vợ một nam tước. Ai dám tưởng rằng Crawley phu nhân chết sớm như thế? Bà ta thuộc vào loại đàn bà có thể ốm dai dẳng mười năm không chết...Rebecca nghĩ ngấm nghĩ ngầm mà tiếc đứt ruột...

Chỉ một ly nữa mình được làm một phu nhân? Mình có thể xỏ dây vào mũi lão già mà dắt đi đâu thì dắt. Mình có thể “xin đủ” bà Bute với thái độ trịch thượng của bà, và “xin đủ” cả Crawley với thái độ kẻ cả không chịu nổi của anh ta. Mình có thể sắm sửa thêm đồ đạc mới và trang hoàng lại tòa nhà ở tỉnh. Mình có thể mua một chiếc xe ngựa đẹp nhất thành phố Luân đôn, ngự trên ghế “lô” ở rạp Opera; và trong dịp thiết triều sắp tới mình rất có thể được vào hoàng cung. Tất cả những điều đó tý nữa thì thành sự thực...thế mà bây giờ...bây giờ tất cả đều là ảo tưởng, mơ hồ.

Song Rebecca là một thiếu nữ tính tình quả quyết nhiều nghị lực, đối với chuyện đã xảy ra không cứu vãn được nữa, cô không buồn phiền một cách vô ích và đáng tức cười. Cho nên cô chỉ rầu rĩ vừa phải thôi, đoạn khôn khéo để dành thì giờ tập trung vào việc lo tính sắp đặt tương lai quan trọng hơn nhiều. Cô cân nhắc lại tình thế của mình cùng mọi nỗi hy vọng, lo lắng, và mọi sự may rủi có thể. Đầu tiên, hãy cứ biết là cô đã có chồng...đấy là điều quan trọng. Cụ Pitt biết chuyện ấy rồi. Cô không ngạc nhiên lắm về lời thú nhận trong một phút tính toán đột ngột cô đã nói ra. Chóng hay chầy thì rồi cũng có phen phải thú thực; vậy thì nói ngay bây giờ hay để đến sau này, khác gì nhau? Ít nhất thì cái con người suýt nữa được lấy cô làm vợ ấy phải biết im lặng, không đả động đến chuyện cô ta đã có chồng rồi. Nhưng vấn đề quan trọng là bà Crawley nghe tin ấy thì sẽ nghĩ sao? Rebecca băn khoăn quá. Nhưng cô còn nhớ tường tận lời bà Crawley, cô còn nhớ bà có thái độ khinh miệt dòng dõi quý tộc thế nào; cô nhớ bà có những ý kiến khoáng đạt, táo bạo thế nào; cô nhớ cả khuynh hướng lãng mạn trong tính tình của bà nữa: cô nhớ bà còn quý mến anh cháu trai đến mức như dở hơi, và chính cô cũng được bà nhiều lần tỏ lòng quý mến. Rêbeeea nghĩ thầm:

“Bà bão quý anh ấy lắm, chắc bà sẽ tha thứ cho anh ấy mọi chuyện: bà lão quen được mình săn sóc quá rồi: bây giờ thiếu mình chắc không chịu được. Bao giờ chuyện bí mật trở thành hai năm rõ mường chắc thế nào bà lão cũng nổi cơn tam bành lục tặc, thế nào cũng khóc lóc gây sự với mình, nhưng rồi lại làm lành ngay với nhau thôi. Ngẫm cho kỹ, thì nấn ná, giấu giếm thêm nữa để làm gì? Con bài đã lật lên rồi, hôm nay hay ngày mai thì kết quả cũng thế thôi”. Nghĩ vậy, cô quyết định báo cho bà Crawley biết mọi chuyện; cô chỉ cân nhắc xem nên báo tin cho bà cách nào bà tốt nhất, và có nên ra mặt chịu đựng cơn bão táp thế nào cũng nổ ra không, hay là nên cao chạy xa bay ẩn lánh một chỗ, đợi đến lúc mưa tạm tan, gió tạm lặng rồi hãy trở về. Trong lúc cô băn khoăn suy tính, cô viết một lá thư nội dung như thế này:

Anh thân mến nhất đời.Cơn đại khủng hoảng mà đôi ta thường bàn bạc vừa nổ ra rồi. Một nửa sự bí mật của em đã bị khám phá, em đã suy đi tính lại mãi, và em yên trí rằng bây giờ chính là lúc nên bộc lộ hết câu chuyện bí mật. Sớm nay, cụ Pitt tìm đến em và...anh có tưởng tượng được không cụ chính thư ngỏ ý hỏi em làm vợ. Thế có chết không! Thật đáng thương cho em quá! Lẽ ra em được trở thành Crawley phu nhân. Nếu quả thế, hẳn bà Bute sung sướng lắm đấy nhỉ: và cả bà cô em nữa, hẳn bà cũng vui lòng, nếu em trở thành bề trên của bà. Suýt nữa em đã trở thành mẹ của một người nào đó rồi, chớ không phải là... ôi, cứ nghĩ chúng mình phải nói tất cả mọi chuyện ra sớm thế mà em sợ quá, em run quá! Cụ Pitt đã biết em có chồng nhưng không rõ em lấy ai, nên cụ cũng chưa lấy gì làm bực mình lắm. Bà cô em thì đang hết sức giận dữ, vì em từ chối không làm vợ ông cụ. Nhưng bà cư xử với em rất ngọt ngào, trìu mến. Bà ấy đã chịu hạ mình bảo em rằng em có thể trở thành một người vợ tốt của ông cụ được, và thề rằng sẽ coi “Rebecca bé bỏng của anh” như con gái. Khi biết chuyện, mới đầu chắc thế nào bà ấy cũng choáng váng: nhưng cơn giận rồi cũng chỉ thoáng qua, chúng ta có cần phải sợ hãi không, em nghĩ rằng không; em chắc chắc thế. Bà ấy quý anh như vàng (anh chỉ là đồ ngỗ ngược, vô tích sự), chắc sẽ tha thứ cho anh mọi chuyện. Mà em tin chắc rằng sau anh, thì người chiếm được chỗ thứ hai trong tim bà phải là em, và thiếu em thì bà ấy khổ lắm. Anh thân yêu nhất đời ơi, linh tính báo cho em biết rằng chúng ta sẽ chiến thắng. Anh sẽ từ biệt cái trung đoàn khốn nạn ấy, sẽ thôi không đánh bạc, thi ngựa, và sẽ trở thành một cậu bé ngoan ngoãn; chúng ta sẽ về cùng sống ở Đường thành công viên, và bà cô em sẽ cho chúng ta hưởng cả gia tài.

Sáng sớm mai, em sẽ cố tìm cách đến chỗ mọi khi vào ba giờ sáng. Nếu bà B cùng đi với em, thì anh phải đến ăn cơm trưa và đưa tin trả lời em: nhớ cứ để vào tập thuyết giáo của Porteus quyển thứ ba. Nhưng dầu sao đi nữa, anh cũng phải đến thăm em nhé.

Gửi cô Eliza Styles, ngụ tại nhà ông Barnet, thợ đóng yên ngựa, Knightsbridge.

Tôi tin rằng không một bạn độc giả tinh ý nào đọc cuốn truyện nhỏ này lại không nhận ra ngay cái cô Eliza Styles thường lại nhà ông thợ đóng yên ngựa để nhận thư (theo lời cô Rebecca thì đấy là một bạn học cũ, gần đây cô mới lại thư từ thăm hỏi) lại là người cũng đi ủng có cựa gót bằng đồng, để một bộ ria mép to tướng và, chẳng phải ai xa lạ, chính là đại úy Crawley vậy.

Chương 16
BỨC THƯ TRÊN CHIẾC GỐI MAY

Hai người đã lấy nhau ra sao, điều đó không ai cần quan tâm mảy may. Một viên đại úy đã thành niên cùng một cô thiếu nữ đến tuổi xin cấp một tờ chứng hôn, và làm lễ cưới tại bất cứ nhà thờ nào trong thành phố thì có điều gì khó khăn đâu? Chẳng cần phải bảo thì ai cũng biết rằng một khi người đàn bà đã muốn, chắc chắn họ sẽ tìm ra cách thực hiện bằng được ý muốn của mình.

Cứ theo ý tôi thì có lẽ, một hôm nào đó, khi cô Sharp đi vắng cả một buổi sáng để đến thăm cô bạn thân thiết là Amelia Sedley ở khu phố Russell, thì có một thiếu nữ trông rất giống cô ta cũng bước vào một tòa nhà thờ nào đó trong thành phố, cùng một người đàn ông sang trọng có bộ ria mép vuốt sáp; sau khoảng mười lăm phút, người đàn ông này lại dẫn cô trở ra, lên chiếc xe ngựa thuê vẫn chờ sẵn: ấy là một buổi lễ cưới kín đáo vậy.

Và trên thế gian này, sau khi trải qua bao kinh nghiệm sống hàng ngày, ai dám cho rằng một người đàn ông con nhà dòng dõi lại không thể lấy vơ váo bất cứ người nào làm vợ? Đã có biết bao người khôn ngoan, học thức mà lấy ngay chị bếp của mình? Ngay chính bá tước Eldon, con người khôn ngoan nhất đời ấy chẳng đã lấy vợ một cách lúi sùi vụng trộm đấy sao? Xưa kia, Achilles và Ajax cũng đã yêu nô lệ của họ. Vậy thì sao ta lại đòi hỏi anh chàng sĩ quan Ngự lâm quân cao lớn kia, con người có những dục vọng lớn lao nhưng trí óc lại rất bé nhỏ, trong đời mình chưa từng bao giờ biết kiềm chế những sự say mê, phải bất thình lình trở thành khôn ngoan và từ chối không chịu thỏa mãn một khát vọng anh ta hằng ấp ủ? Nếu như thiên hạ bao giờ cũng tính toán cẩn thận khi lấy vợ lấy chồng, thì việc phát triển dân số đến đình lại mất!

Riêng đối với tôi thì việc ông Rawdon lấy vợ chính là một trong số những hành vi lương thiện nhất mà ta có thể thống kê được trong bất cứ đoạn đời nào của nhà quý tộc ấy được miêu tả trong cuốn truyện này. Ai dám bảo rằng việc bị một người đàn bà quyến rũ, và do đó lấy người ấy làm vợ, là không anh hùng? Anh chàng chiến sĩ cao lớn ấy say mê, sung sướng, ngạc nhiên, hoàn toàn tin cậy và thờ phụng Rebecca như kẻ cuồng tín; ít nhất thì, trước con mắt của đàn bà, những tình cảm ấy cũng không hề làm mất uy tín của anh ta chút nào. Khi Rebecca hát, mỗi âm thanh như reo múa trong tâm hồn đần độn của anh ta, cũng như còn ngân nga mãi trong khắp cái cơ thể to lớn của anh ta. Lúc cô ta nói, anh chàng tận lực vận dụng trí thông minh để nghe và để ngạc nhiên. Khi cô ta bỡn cợt, anh chàng thường nghiền ngẫm mãi. Những câu khôi hài của cô trong óc và để nửa giờ sau mới phá ra cười giữa phố, làm cho anh hầu ngồi cạnh trong xe ngựa, hoặc người bạn cùng cưỡi ngựa đi chơi ở Rotten Row với anh ta phải trố mắt ngạc nhiên. Đối với anh ta, những lời Rebecca nói là lời sấm truyền, mỗi hành vi dù nhỏ nhặt nhất của cô anh chàng cũng thấy đầy duyên dáng và khôn ngoan. Anh ta nghĩ thầm: “Nàng hát hay thật...vẽ đẹp quá...Nàng cưỡi con ngựa non bất kham ở trại Crawley Bà chúa mới khéo làm sao?”Và trong những phút tình tự, anh ta thường nói với cô gái: “Lạy Chúa, em Becky ơi, em xứng đáng làm tổng tư lệnh quân đội, là tổng giám mục ở giáo đường Canterbury, lạy Chúa!”

Trường hợp anh ta có phải là hãn hữu không? Hàng ngày, chúng ta chẳng đã từng được chứng kiến trong cuộc đời cảnh những chàng Hercules () thực thà bám lấy gấu váy của nàng và cảnh những chàng Samsons () khổng lồ có râu phủ phục trong lòng cô Delilah đấy sao.

Vậy thì Becky viết thư báo cho anh ta hay rằng cuộc đại khủng hoảng xảy ra đến nơi rồi, và bây giờ là lúc phải hành động ngay. Rawdon tự nhủ sẵn sàng tuân theo mệnh lệnh của cô như anh ta sẵn sàng dẫn đầu đơn vị của mình tấn công dưới sự chỉ huy của viên đại tá. Anh ta cũng không cần phải nhét lá thư vào trong quyển thứ ba tập “Thuyết giáo” của Porteus. Ngay hôm sau, Rebecca đã dễ dàng tìm được cách trốn bà Briggs để đến “chỗ mọi khi” gặp người bạn tình trung thành của mình. Suốt đêm, cô ta trằn trọc nghĩ về chuyện này; sáng ra cô ta ngỏ với Rawdon mọi sự tính toán sắp đặt của mình. Dĩ nhiên, anh ta đồng ý về mọi khoản; anh ta hoàn toàn yên trí rằng người yêu tính toán như vậy là rất đúng, rằng những điều cô ta đề nghị là có lợi nhất, rằng bà Crawley, sau một thời gian, cuối cùng thế nào cũng phải nghĩ lại, phải “rút lui” như lời anh ta nói. Giả sử Rebecca quyết định hoàn toàn khác, chắc Rawdon sẽ cắm đầu đi theo cũng ngoan ngoãn như vậy.

Anh ta bảo: “Một mình đầu óc em cũng đủ cho cả hai ta rồi. Chắc chắn em sẽ tìm được cách cho chúng mình thoát khỏi chỗ bế tắc. Anh đã từng gặp gỡ những tay cũng đáo để mà chưa hề thấy ai sánh được với em đấy”. Anh chàng Ngự lâm quân si tình bộc lộ lòng tín ngưỡng tuyệt đối của mình như vậy, và để mặc người yêu thực hiện cả phần việc của mình trong kế hoạch cô ta đã vạch ra cho cả đôi.

Kế hoạch ấy chỉ gồm có việc thuê một ngôi nhà yên tĩnh ở Brompton, hoặc tại một nơi gần trại lính, để ông bà đại úy Crawley ở. Rebecca quyết định đi trốn, chúng ta cũng thấy thế là khôn ngoan nhất mực. Thấy cô ta muốn vậy Rawdon cũng thích; đã mấy tuần qua, anh chàng vẫn cầu khẩn Rebecca trốn đi với mình. Anh chàng lập tức lao đi tìm thuê nhà, hăng hái như một kẻ đang yêu. Người chủ nhà đòi trả mỗi tuần hai ghi nê; Rawdon bằng lòng ngay, làm cho bà này tiếc mãi sao mình không đòi đắt hơn. Anh ta thuê một chiếc dương cầm, và trang hoàng trong nhà toàn những hoa là hoa, la liệt toàn những đồ dùng sang trọng. Còn như các khoản khăn san, bao tay tất lụa, đồng hồ Pháp bằng vàng, vòng tay và nước hoa thì nhiều vô kể. Rawdon vung tiền ra mua các thứ như một kẻ si tình mù quáng và không bao giờ cạn túi. Sau khi đầu óc được nhẹ nhõm nhờ cái công việc “vén tay áo xô đốt nhà táng giấy” kia, thì anh chàng trở về câu lạc bộ của trại lính dùng bữa, nóng lòng sốt ruột chờ đợi phút thay đổi lớn lao trong đời mình sắp xảy ra.

Những việc xảy ra hôm trước, cử chỉ đáng phục của Rebecca từ chối một cuộc nhân duyên rất có lợi cho cô, nỗi đau khổ thầm kín đang giày vò cô, và thái độ dịu dàng, kín đáo của cô khi chịu đựng nỗi sầu muộn riêng của mình, tất cả những điều đó khiến cho bà Crawley đối với Rebecca càng thêm trìu mến hơn mọi ngày. Đối với đàn bà con gái thì một câu chuyện thuộc loại này, một việc cưới xin, một chuyện từ hôn hay một việc cầu hôn, bao giờ cũng làm họ sôi nổi và đánh thức tất cả những cảm tình nồng nhiệt nơi họ. Với tư cách là một người quan sát nhân tình thế thái, tôi vẫn hay la cà vào trong nhà thờ St. George ở Quảng trường Hanover suốt trong những mùa cưới. Tôi chưa hề thấy những anh phù rể khóc lóc hoặc thấy những ông thầy cả hoặc thầy dòng đang hành lễ tỏ vẻ cảm động, nhưng thường được thấy những người đàn bà hoàn toàn không có liên quan gì đến cuộc hôn lễ đang tiến hành - nghĩa là những bà mệnh phụ đã quá tuổi lấy chồng lâu lắm rồi, những bà nạ dòng to béo con trai con gái đầy đàn, đó là chưa kể những cô con gái xinh xắn trẻ măng đội mũ trùm màu hồng đang độ “đào tơ sen ngó”, họ quan tâm đến cuộc lễ là dĩ nhiên - tôi nói rằng thường thường những người đàn bà có mặt trong buổi lễ đều khóc nức nở, khóc thút hít, rồi xịt xoạt hỷ mũi và cầm những chiếc khăn tay bé tý rất vô dụng để che kín mặt đi; tất cả, già cũng như trẻ, đều bồi hồi xúc động. Khi anh bạn tôi là John Pimlico cưới cô Belgravia Green Parker xinh đẹp làm vợ, tất cả mọi người đều cảm động quá đến nỗi cái bà lão khịt mũi dẫn tôi đến chỗ ngồi cũng giàn giụa nước mắt. Tôi tự hỏi: “Tại sao thế nhỉ? Bà lão có phải đi lấy chồng đâu mà cũng khóc?”

Nói tóm lại, trước câu chuyện của cụ Pitt, bà Crawley và bà Briggs đang ở trong một tình trạng rất xa xỉ về tình cảm; Rebecca bỗng nhiên được họ hết sức quan tâm săn sóc. Còn khi cô đi vắng, bà Crawley đành tự an ủi bằng cách đọc những cuốn truyện lãng mạn nhất có trong tủ sách vậy. Cô Rebecca bé bỏng với những nỗi đau khổ thầm kín của mình đã trở thành một nhân vật quan trọng.

Tối hôm ấy, Rebecca hát nghe ngọt ngào hơn, và nói chuyện nghe duyên dáng hơn bất cứ bao giờ từ hồi cô đến sống ở Đường công viên. Cô tìm đủ mọi cách uốn éo lấy lòng bà Crawley. Cô vừa cười vừa nói về việc cụ Pitt hỏi cô làm vợ, cứ tự nhiên như không, lại giễu cợt lão là đã già mà còn thích chơi trống bỏi. Lúc cô nói rằng không ao ước gì hơn là được mãi mãi ở lại bên cạnh người ân nhân của mình, thì cô giàn giụa nước mắt; còn trống ngực bà Briggs thì cũng đập thình thình vì xúc động. Bà Crawley nói:

- Cô em thân mến ơi, tôi muốn cô ở đây với tôi mãi mãi, cô có thể yên trí như thế. Câu chuyện kia đã xảy ra rồi, chẳng lẽ cô còn trở về sống với cái ông anh bỉ ổi của tôi à? Cô sẽ ở lại đây với tôi và bà Briggs. Bà ấy thường đi vắng luôn để thăm nom họ hàng. Này, bà Briggs, khi nào cần, bà cứ tha hồ đi, tùy thích. Nhưng còn cô, cô em thân yêu ạ, cô phải ở lại để săn sóc bà lão già nua này chứ.

Giả sử Rawdon đang có mặt ở đây, chứ không phải đang nốc rượu ào ào ở câu lạc bộ nhà binh, có lẽ đôi vợ chồng đã quỳ phăng xuống trước gối bà lão để thú thật mọi việc, chắc sẽ được tha thứ trong chớp mắt. Song cái may mắn đó không đến với cặp vợ chồng trẻ ấy có lẽ cốt để cho tôi được viết cuốn tiểu thuyết này, và được kể bao nhiêu chuyện về họ... những chuyện ấy hẳn không bao giờ xảy ra trong đời họ nếu họ được sống trong sự bao dung che chở của con người dễ tha thứ nhưng nhạt nhẽo là bà Crawley kia.

*

Tại nhà bà Crawley Đường công viên, dưới quyền bà Firkin có một chị con gái làm công, người quận Hamshire; ngoài những công việc khác, chị này hàng ngày còn phải mang một bình nước nóng đến gõ cửa phòng cô Sharp vì Firkin thà chết chứ không bao giờ chịu mang nước hầu kẻ xa lạ ấy. Chị con gái làm thuê này có một người anh trai đi lính trong đơn vị của đại úy Crawley và, không sợ nói sai sự thực, tôi dám cam đoan rằng chị ta nắm được một số chuyện bí mật có liên quan nhiều đến cuốn truyện này. Nói tóm lại, với ba ghi-nê của Rebecca cho, chị ta sắm một tấm khăn quàng màu vàng, một đôi ủng màu xanh, một chiếc mũ nhẹ màu xanh da trời có đính một chiếc lông chim màu đỏ: cô Sharp vốn xưa nay không hào phóng lắm về chuyện tiền nong, vậy mà hậu đãi cho Betty Martin như thế, hẳn chị ta phải giúp cô được nhiều việc.

Ngày thứ hai, tính từ hôm cụ Pitt ngỏ lời cầu hôn với Rebecca, mặt trời vẫn mọc như thường lệ; và đúng giờ như lệ thường, Betty Martin, chị hầu gái chuyên dọn dẹp trên gác, đến gõ cửa phòng cô giáo.

Không có tiếng trả lời; chị lại gõ nữa. Vẫn im lặng như tờ Betty xách bình nước nóng bèn mở cửa, bước vào trong phòng. Chiếc giường nhỏ có nệm bông trắng muốt vẫn phẳng lì và sạch y như tối hôm trước, lúc chính tay Betty trải giường lại. Ở một đầu gian phòng, có hai chiếc vali nhỏ chằng dây cẩn thận; trên chiếc bàn cạnh cửa sổ có một lá thư đặt trên mặt một tấm gối, chiếc gối to, phồng, có kẻ chỉ hồng, mặt gối đan chéo giống chiếc mũ ngủ của một bà già. Có lẽ lá thư được đặt trên đó suốt đêm rồi.

Betty rón rén đi lại, như sợ hãi không dám đánh thức lá thư đang ngủ...Chị ta nhìn lá thư, lại nhìn quanh phòng, có vẻ rất ngạc nhiên mà cũng rất thỏa mãn. Chị cầm lá thư lên vừa mân mê lật đi lật lại, vừa nhoẻn miệng cười mãi; cuối cùng chị ta đem lá thư xuống nhà dưới đưa cho bà Briggs. Vì sao Betty lại biết thư ấy gởi cho bà Briggs, tôi cũng chẳng rõ; vì chị Betty chỉ được theo những lớp học ngày chủ nhật do bà Bute Crawley dạy nên chị ta vẫn mù tịt không đọc được chữ y như đó là chữ Do-thái vậy. Chị hầu gái kêu ầm lên:

- Này, bà Briggs ơi; bà ơi, lại có chuyện rắc rối đây. Trong buồng cô Sharp vắng tanh. Giường vẫn nguyên chưa có ai nằm, mà cô ấy đi đâu mất để lại lá thư gửi cho bà đây này.

Bà Briggs đánh rơi chiếc lược xuống đất, mớ tóc thưa thớt mỏng dính đã bạc xõa xuống vai bà kêu lên:

- Thế nào? Trốn đi theo giai à? Cô Sharp bỏ trốn đi? Có lẽ nào thế được?

Bà lật đật bóc thư và như người ta vẫn nói, “đọc ngấu nghiến” lá thư đề gửi cho bà.

Bà Briggs thân mến (lời người đi trốn); bà là người có tấm lòng rộng lượng nhất đời, bà sẽ thương xót, thông cảm và tha lỗi cho tôi. Tôi rời bỏ nơi đây, nơi kẻ mồ côi đáng thương này được mọi người đối đãi rất dịu dàng trìu mến, mà không sao cầm được nước mắt; và tôi cầu kinh, xin chúa ban ơn cho những người ở lại. Tôi phải tuân theo những quyền lực cao cả hơn cả quyền lực của người ân nhân che chở cho tôi. Tôi phải trở về với bổn phận... trở về với chồng tôi. Vâng, tôi đã có chồng. Chồng tôi ra lệnh cho tôi phải trở về căn nhà tầm thường, nơi từ nay chúng tôi chung sống. Bà Briggs thân thiết nhất đời ơi, xin bà hãy báo tin này cho người bạn thân mến, vị ân nhân của tôi, một cách thật khéo léo; chỉ có người tế nhị giầu từ tâm như bà mới làm được việc ấy. Bà hãy nói rằng trước khi tôi ra đi tôi đã khóc hết nước mắt trên tấm gối thân yêu của bà ấy nơi tôi đã bao lần săn sóc bà lúc đau yếu...và tôi còn ao ước được tiếp tục săn sóc bà như trước nữa...Ôi, tôi sẽ trở về Đường công viên thân yêu với bao nhiêu sung sướng! Tôi run rẩy chờ đợi câu trả lời quyết định vận mệnh của tôi! Khi cụ Pitt hạ cố ngỏ ý muốn lấy tôi làm vợ, đó là một vinh dự mà bà Crawley đã có nói rằng tôi xứng đáng (cầu chúa ban phúc lành cho bà, vì bà đã cho rằng kẻ mồ côi đáng thương này, xứng đáng hàng chị em với bà!) thì tôi trả lời cụ Pitt rằng tôi đã có chồng. Cụ đã tha thứ cho tôi. Song tôi không có đủ can đảm để thú thật cùng cụ tất cả mọi chuyện...tôi không thể nhận lời làm vợ cụ, vì tôi đã là con dâu cụ rồi! Chồng tôi là người đàn ông tốt nhất, rộng lượng nhất trên đời này... Anh Rawdon, cháu trai bà Crawley, chính là chồng tôi. Theo lệnh của chồng tôi, tôi thú thực mọi chuyện, và tôi theo anh ấy trở về căn nhà tầm thường của chúng tôi, cũng như tôi sẵn sàng theo anh ấy đi đến bất cứ nơi nào trên thế giới này! Ôi, người bạn quý báu, thân yêu của tôi ơi, xin bà hãy can thiệp với bà cô của Rawdon, xin tha thứ cho anh ấy và cho tôi là kẻ đã được khắp mọi người trong gia đình quý phái này tỏ lòng vô cùng quý mến. Nhờ bà hãy xin với bà Crawley vui lòng cho phép những đứa con của bà trở lại. Tôi không còn biết nói gì hơn là cầu chúa ban phước lành cho tất cả gia đình.

Người bạn thân thiết và biết ơn bà.

Rebecca Crawley (Nửa đêm).

Bà Briggs vừa đọc xong lá thư lời lẽ cảm động và lý thú này, lá thư có tác dụng trả lại cho bà địa vị người bạn tâm tình thứ nhất của bà Crawley như trước, thì bà Firkin bước vào phòng:

- Bà Bute Crawley vừa theo xe thư từ Hamshire lên, muốn dùng nước trà. Bà xuống nhà làm giúp bữa cơm sáng nhé.

Bà Firkin ngạc nhiên quá vì thấy bà Briggs ôm chặt tà áo quấn quanh bụng, mớ tóc rối bù xõa xuống lưng, mấy cái cặp giấy dùng để uốn tóc vẫn còn đính từng chùm trước trán, sầm sầm tiến về phía mình, tay vẫn cầm lá thư đầy những tin kỳ lạ kia. Chị Betty há hốc mồm ra nói:

- Bà Firkin ơi, chuyện “nạ” quá. Cô Sharp bỏ đi trốn với ông đại úy rồi. Hai người đang trên đường đi Gretney Green!

Lẽ ra chúng tôi phải dành riêng cho cả một chương mới đủ miêu tả sự xúc động của bà Firkin nhưng nỗi tức giận của bà chủ còn đáng chú ý hơn nhiều.

Bà Bute Crawley vừa trải qua một cuộc hành trình ban đêm, tê cóng cả người, đang ngồi sưởi trước lò lửa vừa nhóm trong phòng khách, nghe bà Briggs kể lại cuộc hôn nhân bí mật, bà bảo ngay rằng thật là lòng trời xui khiến nên bà mới đến đây đúng lúc để giúp đỡ bà Crawley thân yêu đáng thương của bà chịu đựng nỗi đau đớn này; bà bảo Rebecca là một con ở xảo quyệt, xưa nay bà vẫn nghi ngờ. Còn đối với Rawdon, thì chưa bao giờ bà hiểu nổi tại sao bà Crawley lại nâng niu anh ta đến mức ấy; từ lâu bà vẫn coi anh ta là một thằng trác táng, hư hỏng, bị Thượng đế ruồng bỏ. Bà Bute còn nói rằng cái việc đốn mạt này ít ra cũng có mặt tốt, vì nó khiến cho bà Crawley mở mắt ra mà thấy rõ bản chất của cái thằng hư đốn ấy. Thế là bà Bute ngồi uống trà, ăn bánh, trong lòng rất thư thái.

Bây giờ trong nhà đã có một buồng bỏ không vắng người ở, bà chẳng cần phải trọ ở khách sạn Gloster - nơi mà chiếc xe thư đỗ lại cho bà xuống - làm gì nữa. Bà ra lệnh cho anh phụ việc bác Bâu đi lấy hòm xiểng va-li của bà mang về.

Bao giờ cũng vậy, cứ đến gần trưa, bà Crawley mới ra khỏi phòng ngủ. Buổi sáng bà thường nằm trên giường mà uống súc cù là trong khi Becky Sharp đọc tờ báo “Tin tức buổi sáng” cho bà nghe, nếu không thì tìm những cách giải trí khác hoặc đi dạo loanh quanh. Mấy người đàn bà dưới nhà bảo nhau đừng làm bà phiền lòng vội, chờ khi nào bà xuống phòng khách hãy báo tin cho bà rõ. Trong khi đó, họ thưa với bà ta rằng có bà Bute Crawley từ Hamshire lên bằng xe thư còn đang trọ ở Gloster gửi lời chào bà Crawley và xin được dùng cơm sáng với bà Briggs. Những lần khác, việc bà Bute đến chơi cũng không khiến bà Crawley vui vẻ nhiều lắm, nhưng lần này bà rất bằng lòng vì sẽ có dịp trò chuyện với bà chị dâu về Crawley phu nhân vừa chết, về việc sửa soạn đưa đám ra sao, và về việc cụ Pitt đột ngột ngỏ lời cầu hôn với Rebecca.

Cho mãi tới lúc bà già đã ngồi bệ vệ thoải mái trong tấm ghế bành riêng của mình kê trong phòng khách, và hai chị em đã theo đúng thủ tục hôn nhau, hỏi thăm nhau xong rồi, thì mấy người đàn bà kín tiếng mới quyết định báo tin bà hay. Ai mà không phải kính phục đàn bà, vì họ có nhiều khóe rất tế nhị, khôn khéo, để sửa soạn cho bạn họ chịu đựng những tin dữ. Trước khi nói rõ chuyện, hai người bạn của bà Crawley đã làm ra vẻ cực kì bí mật đủ khiến cho bà Crawley phải hoài nghi và lo sợ đến một mức độ cần thiết. Bà Bute nói:

- Bà Crawley thân mến ơi, cô ấy từ chối lời cầu hôn của cụ Pitt là vì... là vì cô ấy không thể nào làm khác được.

Bà Crawley đáp:

- Dĩ nhiên phải có một lý do rồi. Cô ấy yêu người khác. Hôm qua, tôi đã nói chuyện ấy với bà Briggs.

Bà Briggs há hốc mồm:

- Yêu người khác? ồ, bà bạn quý ơi, cô ấy có chồng rồi đấy. Phải, có chồng rồi.

Bà Bute cũng phụ họa theo, đoạn cả họ ngồi chắp tay cùng ngó nạn nhân của mình. Bà Crawley hét rầm lên:

- Lúc nào cô ấy về lập tức bảo cô ấy lại đây. Con bé mưu mẹo khốn kiếp. Sao cô ấy lại dám giấu tôi?

- Còn lâu cô ấy mới về đây được. Bà bạn ơi, xin bà đừng ngạc nhiên nhé... cô ấy còn đi vắng lâu kia... cô ấy... cô ấy đã bỏ trốn đi rồi.

Bà gái già nói:

- Trời đất ơi, thế ai pha súc-cù-là cho tôi bây giờ? Cho người đi tìm cô ấy bắt về. Tôi muốn cô ấy quay về đây.

Bà Bute nói:

- Cô ấy trốn đi từ đêm qua, bà ạ.

Bà Briggs cũng nói:

- Cô ấy để lại một phong thư cho tôi. Cô ấy lấy...

- Hãy gượm đã, bà Briggs thân mến ơi, đừng làm cho bà ấy đau khổ...

Bà lão không chồng giận giữ kêu lên:

- Lấy ai, hử?

- Lấy một người có họ với...

Nạn nhân lại kêu lên:

- Cô ấy đã từ chối cụ Pitt rồi cơ mà. Nói mau. Đừng làm tôi phát điên lên nữa.

- Ồ, thưa bà... kìa bà Briggs, đỡ bà ấy hộ một tý... cô ấy lấy Rawdon Crawley đấy.

Bà lão đáng thương gào lên như mất trí:

- Rawdon lấy vợ...Lấy Rebecca...cô giáo dạy trẻ ...không, không...cút hết cả ra khỏi nhà tôi, các bà là đồ ngu, đồ xuẩn. Bà Briggs, bà ngu lắm; bà dám thế à? Các bà a tòng với nhau gây ra chuyện này... chúng nó lấy nhau là tại bà, Martha ạ; bà tưởng rằng tôi sẽ truất món gia tài của nó để cho bà phải không?

- Tôi? Thưa bà, tôi mà đi khuyên một người trong gia đình nhà ta lấy con gái một anh thợ vẽ làm vợ?

- Mẹ cô ấy là con cháu gia đình Montmorency.

Bà già vừa quát lên, vừa dùng hết sức giật mạnh dây chuông.

Bà Bute đáp:

- Mẹ cô ấy là vũ nữ ở rạp Opera; còn cô ấy thì cũng đã từng lên sân khấu, và chưa biết chừng còn làm những nghề tồi tệ hơn thế nữa.

Bà Crawley thét lên một tiếng cuối cùng, ngã lăn ra bất tỉnh nhân sự. Họ bắt buộc lại khênh bà vào căn phòng riêng bà vừa rời khỏi. Hết cơn ngất này lại tiếp cơn khác.Phải lập tức cử người đi mời thầy thuốc đến. Bà Bute ngồi bên cạnh giữ nhiệm vụ săn sóc thuốc thang. Người đàn bà đáng quý này nói: “Họ hàng thân thích chẳng trông nom săn sóc cho nhau thì còn ai nữa”.

Bà Crawley vừa được khiêng vào phòng riêng của mình, thì một nhân vật khác hiện ra; nhân vật này cũng cần được báo ngay tin Rebecca đi trốn; ấy là cụ Pitt. Bước vào phòng, lão hỏi ngay:

- Becky đâu? Hành lý của cô ấy đâu? Cô ấy phải về trại Crawley Bà chúa với tôi bây giờ đây.

Bà Briggs nói:

- Cụ đã biết tin cô ta bí mật thành hôn chưa?

Cụ Pitt đáp :

- Điều đó dính dáng gì đến tôi? Tôi đã rõ cô ấy có chồng rồi; có gì là lạ đâu? Bảo cô ấy xuống ngay, đừng bắt tôi phải chờ.

Bà Bute lại hỏi:

- Thưa cụ, thế ra cụ chưa biết cô ấy bỏ trốn rồi à? Bà Crawley suýt nữa chết ngất đi khi biết tin cậu Rawdon Crawley đã cưới cô ấy làm vợ.

Lúc lão Pitt nghe tin Rebecca là vợ của con trai lão, lão văng tục một hồi ầm ĩ, kể lại đây cũng chẳng hay ho gì, làm cho bà Briggs tội nghiệp sợ quá, run bắn người lên chuồn ngay ra ngoài. Chúng ta cũng nên khép cánh cửa lại để mặc lão già đang phát rồ phát dại vì căm tức và thất vọng ở trong phòng một mình.

Ngày hôm sau, khi đã trở về trại Crawley Bà chúa, lão như một người điên lùng vào căn phòng Rebecca vẫn ở từ trước, đá tung các hòm xiểng, rũ tung các giấy má, quần áo và mọi đồ kỷ niệm khác của cô ta. Cô Horrocks là con gái bác quản lý vớ được một ít; còn một ít, mấy đứa trẻ đem ra khoác cho nhau, giả vờ đóng kịch. Ấy là người mẹ đáng thương của chúng mới được về nơi an nghỉ cuối cùng có mấy ngày. Bà ta nằm trơ trọi trong nấm mồ, bên cạnh toàn những người xa lạ, chẳng một ai buồn khóc thương.

- Này, nhỡ mụ già không gọi chúng mình về thì sao?

Rawdon hỏi cô vợ bé nhỏ của mình, trong lúc hai vợ chồng đang ngồi chơi với nhau trong căn nhà nhỏ bé ấm cúng ở Brompton. Cả buổi sáng Rebecca đã chơi thử chiếc dương cầm mới. Đôi bao tay mới mua cô đi vừa khít, xinh quá; cô choàng chiếc khăn san nom tôn hẳn vẻ đẹp lên; trên đôi bàn tay, thon thon, mấy chiếc nhẫn sáng lóng lánh; chiếc đồng hồ mới đeo ở dây lưng kêu tích tắc, tích tắc.

- Becky, nhỡ mụ không nghĩ lại thì sao?

- Thì em sẽ xây dựng sự nghiệp cho anh chứ sao.

Rồi Delilah vuốt ve đôi má Samson.

Anh chồng hôn bàn tay xinh xinh của vợ nói:

- Cái gì em cũng làm được. Lạy Chúa, em tài lắm. Bây giờ chúng mình đi xe ngựa đến quán “Huy chương và Bội tinh” rồi dùng cơm ở đấy nhé.


Chương 17
ĐẠI ÚY DOBBIN SẮM DƯƠNG CẦM

Trong Hội chợ phù hoa, có một chỗ mà tình cảm và sự châm biếm có thể khoác tay nhau cùng đi, nơi mà cái đáng cười và cái đáng khóc gặp gỡ nhau, và đối lập nhau một cách lạ kỳ nhất, nơi mà bạn có thể hoàn toàn tự do tỏ ra hiền lành dịu dàng, hoặc dữ tợn vô sỉ tùy thích; ấy là những cuộc hội họp công khai được quảng cáo hàng ngày trên trang cuối tờ “Thời báo”. Ông George Robins đã quá cố trước kia vẫn chủ tọa nơi này một cách vô cùng xứng đáng. Ở Luân đôn, không mấy ai là không biết đến nơi này. Tất cả những người nào có khuynh hướng răn đời đều phải đã có phen nghĩ ngợi một cách hơi kỳ quái tức cười rằng rồi có phen đến lượt chính họ cũng phải đến nơi hội họp ấy.

Theo lệnh những hội viên của hội Diogenes (), hoặc căn cứ theo những điều khoản trong chúc thư, ông Hammerdown () sẽ đem những tủ sách, đồ đạc, bát đĩa, tủ áo và những hầm rượu chọn lọc của ngài Epicurus () đã quá cố ra cho thiên hạ tranh nhau mặc cả.

Ngay con người ích kỷ nhất vẫn thường qua thăm Hội chợ phù hoa, khi chứng kiến cái phần bẩn thỉu nhất này trong đám tang của một người bạn thân, cũng không thể nào không thấy cảm động và tiếc thương đôi chút.

Thi thể của quý quan Dives, hiện đã nằm yên trong hầm mộ của gia đình rồi. Bọn thợ đá cũng đang khắc lên mặt bia những lời xưng tụng rất đúng sự thực ca ngợi đức tính của người đã chết, ghi lại nỗi sầu khổ của đứa cháu thừa hưởng gia tài đang toàn quyền sử dụng đồ đạc để lại.

Có người khách nào đã từng dự tiệc trong gia đình ngài Dives, khi qua thăm lại ngôi nhà quen thuộc mà không phải thở dài?..Ngôi nhà thường ngày đèn thắp rực rỡ vào hồi bảy giờ tối, cánh cửa phòng lớn thường mở rộng sẵn sàng, và trong khi bạn đang trèo lên cầu thang, bọn gia nhân truyền nhau báo tên bạn từng chặng một, cho đến khi vọng vào tận trong căn phòng ngài Đai vơ vẫn ngồi tiếp khách. Vô vàn là khách; mà cách tiếp đãi mới lịch sự làm sao. Biết bao nhiêu con người lanh lợi khôn ngoan vẫn thường lui tới nơi đây; khi họ bước ra về, mặt người nào cũng có vẻ âu sầu. Nơi đây, biết bao người tỏ ra lịch sự nhã nhặn đối với nhau, trong khi tại những nơi khác họ gièm pha nhau, thù ghét nhau kịch liệt. Cụ chủ tính kiêu hãnh, song thức ăn ngon như thế, ai mà chẳng muốn nuốt? Cụ chủ tính hơi đần độn, song rượu ngon như thế thì câu chuyện nào mà chẳng trở nên thú vị? Mấy ông bạn đang âu sầu thương tiếc người đã khuất kêu lên với nhau trong nhóm: “Chúng mình phải lùng cho ra thứ rượu ấy mới được, đắt mấy cũng mua”.

- Tôi mua được cái hộp đựng thuốc lá này trong buổi bán đấu giá đồ đạc của lão Dives đấy - Pincher vừa nói vừa chìa cho mọi người xem - đây là chân dung một nhân tình vua Louis XV... xinh đấy chứ?

Và cả bọn kháo nhau về chuyện con trai lão Dives sắp phá tan gia tài của bố thế nào.

Ngôi nhà bây giờ thay đổi nhiều quá. Mặt tường bị che kín sau những tấm giấy quảng cáo liệt kê mọi thứ đồ đạc, viết bằng những chữ hoa to tướng như đập vào mắt mọi người. Một mảnh thảm treo trên một cái cửa sổ trên gác...có đến nửa tá bọn phu khuân vác đang leo lên leo xuống chiếc cầu thang đầy bụi...gian phòng lớn lúc nhúc toàn những khách lạ quần áo bẩn thỉu, nom bộ dạng như người Đông Phương () họ dúi vào tay bạn những tấm thẻ chữ in, và nhờ bạn đứng tên trả giá. Nhiều bà già và những người ưa chơi đồ lạ đã leo lên gác trên; họ sờ mó những diềm màn, luồn tay vào những túp lông, lật đi lật lại những tấm nệm, và mở ra mở vào những ngăn kéo tủ áo ầm ầm. Mấy người quản gia trẻ tuổi đang lăng xăng đo những tấm gương và những tấm thảm xem có thích hợp với gia đình nhà chủ họ mới nhận việc không. (Snob () rất có thể hàng năm sau vẫn khoe đã có mua thứ nọ thứ kia trong dịp bán đấu giá này) .

Lão Hammerdown đang ngồi trên chiếc bàn ăn lớn màu cánh gián kê trong phòng ăn dưới nhà; ông ta vừa khoa khoa chiếc búa bằng ngà voi, vừa trổ hết tài hùng biện mà nói say sưa, mà cầu khẩn, mà lý luận, mà thất vọng, vừa hò hét bọn tay chân. Lão giễu cợt ông Davids, vì ông này lề mề; lão giục ông Moss nhanh tay lên một tý; lão van xin, ra lệnh, gào thét, cho đến khi chiếc búa nện xuống nghe như những tiếng gõ của định mệnh và chuyển sang “lô” khác. Ôi, cụ Dives ơi, trong khi chúng ta quây quần quanh tấm bàn rộng sáng choang toàn bát đĩa cùng khăn ăn trắng tinh, có ai ngờ rằng lại có ngày nó phải mang một thứ đĩa là cái lão nhân viên phát mại ồn ào này không?

Việc mua bán diễn ra khá lâu rồi. Gian phòng khách toàn đồ quý đã bán xong, còn những loại rượu hiếm và quý thì những tay sành sỏi biết thưởng thức, vung tiền ra, không kể đắt rẻ bê đi tất. Bộ đồ ăn đầy đủ, rất quý, dùng cho cả gia đình đã bán từ mấy hôm trước. Viên quản lý nhà ông John Osborne của chúng ta ở khu phố Russell đã đến mua một vài thứ rượu quý cho chủ, (những thứ rượu này nổi tiếng khắp vùng). Có một ít bát đĩa bằng bạc toàn những thứ cần thiết thì mấy tay buôn tín phiếu trẻ tuổi ở khu City đã mua rồi. Bây giờ đến lượt bọn thường dân được mời đến xem những vật tầm thường còn lại. Nhà hùng biện đứng vắt vẻo trên một chiếc ghế đang ra sức quảng cáo cho vẻ đẹp của một bức tranh để thu hút khán giả.

Hôm nay, khán giả cũng thưa thớt hơn, và cũng kém sang trọng, không bằng bữa trước.

Ông Hammerdown gào lên:

- Số 869 đây. Tranh một ông sang trọng cưỡi voi. Ai mua ông sang trọng cưỡi voi đây. Blowman, giơ cao bức tranh lên cho các ông các bà ấy xem kỹ đi.

Thấy Blowman giơ cao món hàng quý giá lên, một ông lịch sự người dài ngoằng, nước da tai tái, trông có vẻ nhà binh, đang ngồi im lặng trên chiếc bàn màu cánh gián hơi nhếch mép cười.

- Blowman, hãy giơ cho ông đại úy xem con voi. Thưa ông, ông thấy con voi thế nào?

Viên đại úy không trả lời, có vẻ bối rối, đỏ mặt quay đi; lão nhân viên phát mại không nài thêm.

- Tác phẩm nghệ thuật này giá có hai mươi ghi-nê thôi...hoặc năm đồng, mười lăm đồng, tùy ý các ngài trả! Một mình người cưỡi chưa kể con voi cũng đã đáng giá năm đồng rồi.

Một tay ưa bông lơn nói:

- Lạ quá, sao con voi chở nặng thế mà không khuỵu xuống nhỉ? Anh ta béo ghê béo gớm.

Quả thật, người cưỡi voi trong tranh to béo quá. Nghe câu nói đùa, cả gian phòng cười ầm lên, ông Hammerdown nói:

- Đừng có làm giảm giá trị của bức tranh, ông Moss. Để cho các ông ấy xem kỹ vào; một tác phẩm nghệ thuật đấy...Coi đáng điệu con vật có hệt như thật không nào. Ông cưỡi con voi mặc áo ngắn bằng vải Nam kinh, tay cầm súng đang đi săn đấy. Phía xa có một ngôi chùa và một cây chuối, trông có giống những cảnh đẹp ở thuộc địa Đông Ấn của nước ta không? Trả bao nhiêu bức này nào? Thế nào, các vị bắt tôi đứng đây suốt ngày à?

Có người trả năm si linh; người trông có vẻ nhà binh nhìn về phía có tiếng người trả quá hào phóng vừa rồi, thì thấy một sĩ quan khác khoác tay một người đàn bà. Trước cảnh tượng này đôi ấy có vẻ rất thú vị; cuối cùng tiếng búa nện xuống bàn, đồng ý bán cho họ bức tranh với giá nửa ghi-nê. Nhìn thấy cặp trai gái này, người ngồi ở bàn càng tỏ vẻ bối rối và ngạc nhiên hơn. Anh ta vội thụt đầu vào trong cái cổ áo nhà binh bẻ cao lên và quay lưng lại họ, hình như muốn tránh mặt thì phải.

Tôi không muốn nói đến những thứ đồ đạc ông Hammerdown hôm ấy có hân hạnh được đem bán đấu giá, trừ một thứ; ấy là một cây đàn dương cầm nhỏ, khiêng từ trên gác xuống. Cây dương cầm lớn đã bán trước rồi; người đàn bà trẻ tuổi ấy ngồi chơi thử chiếc dương cầm này, đôi tay lướt đi nhanh nhẹn, mềm dẻo (làm cho viên sĩ quan lại đỏ mặt lên và giật mình); một lúc sau, người đàn bà sai người đại diện của mình trả giá mua cây dương cầm.

Nhưng lần này, có người mua tranh. Người Do-thái đại diện cho viên sĩ quan ngồi ở bàn trả giá mua tranh với người Do thái đại diện cho người đàn bà mua bức tranh lúc nãy. Cuộc thi đua trả giá cao để mua bằng được chiếc dương cầm bé nhỏ bắt đầu, và được ông Hammerdown hết sức khuyến khích.

Cuối cùng, sau một hồi ganh nhau, hai vợ chồng người mua bức tranh con voi rút lui. Tiếng búa nện xuống bàn, người nhân viên phát mại tuyên bố. “Ông Lewis, hai mươi lăm”. Thế là người mượn ông Lewis đại diện được làm chủ cây dương cầm nhỏ. Mua xong cây dương cầm, anh ta ngồi thẳng dậy, có vẻ rất khoan khoái; hai vợ chồng người mua trượt món đồ bấy giờ mới liếc mắt nhìn sang; người đàn bà bảo chồng: Truyện "Hội Chợ Phù Hoa " được copy từ diễn đàn Lương Sơn Bạc (LuongSonBac.com)

- Ô kìa, Rawdon, đại úy Dobbin đấy.

Có lẽ Becky không ưa cây dương cầm mới, chồng vừa thuê cho mình, hoặc có lẽ người chủ đã lấy về rồi, không cho thuê tiếp nữa; hoặc cũng có thể cô ta đặc biệt thích cây dương cầm này vì nhớ lại ngày xưa đã nhiều lần cô ta chơi nhạc trong căn phòng nhỏ của cô Amelia Sedley thân yêu của chúng ta chăng.

Cuộc bán đấu giá trên diễn ra trong căn nhà cổ kính ở khu phố Russell, nơi chúng ta đã gặp nhau trong vài buổi tối, lúc mới bắt đầu câu chuyện này. Ông Sedley bị phá sản rồi. Ở phòng Hối đoái, người ta đã tuyên bố ông bị phá sản; sau đó, mọi việc hoạt động thương mại của ông ta bị đình chỉ hết. Viên quản lý của ông Osborne đến đây chọn mua một ít rượu vang quý mang về cho chủ. Bộ thìa đĩa mười hai người ăn bằng bạc chạm trổ rất công phu cùng bộ đồ ăn tráng miệng đã đem bán cân cho ba người buôn tín phiếu trẻ tuổi (tức là các ông Dale, Spiggot, và Dale, ở phố Threadneedle). Mấy người này trước kia có giao dịch nhiều với ông John Sedley và được ông đối đãi rất tốt cũng như ông đối đầu với tất cả mọi người có việc giao dịch với mình; họ bèn gửi biếu lại bà cụ Sedley món đồ mọn vớt vát được trong cơn tan tác. Cây dương cầm nhỏ trước kia của Amelia, bây giờ chắc cô nhớ nó lắm; mà đại úy Dobbin thì không biết chơi đàn chẳng khác chi không biết nhảy trên dây vậy, hẳn anh ta không mua cho mình dùng.

Tóm lại, buổi tối hôm ấy, người ta mang cây đàn dương cầm đến một gian nhà nhỏ ở một phố đi thẳng từ đường Fullham ra, một trong những phố có cái tên rất đẹp và rất thi vị... gọi là khu St. Adelaide, đường Anna-Maria. Ở đây nhà cửa bé tý như đồ chơi của trẻ con, và khách đi đường nhìn qua cửa sổ thấy người ngồi trên gác như phải thò chân xuống đến tận dưới nhà. Cây cối trồng trong khu vườn nhỏ trước nhà quanh năm lúc nào cũng phơi đầy những tã lót trẻ em, những đôi tất đỏ tý xíu những chiếc mũ trùm v.v. . (chế độ đa phu, nhân chủng đa nguyên tính) .

Văng vẳng ra tiếng the thé của những cây đàn cũ rích và tiếng đàn bà đang hát. Trên thềm, thấy la liệt những vỏ chai rượu phơi nắng. Chiều chiều, những viên thư ký làm việc ở khu City uể oải lê bước về đó.

Ông Clapp, thư ký của ông Sedley, có một căn nhà ở đây; sau khi bị phá sản, ông già đem vợ con về chỗ này để ẩn náu cho qua ngày, Joe Sedley hay tin gia đình gặp tai biến đã hành động đúng như ta chờ đợi ở một người tính tình như anh ta. Joe không về Luân đôn, nhưng anh ta viết thư cho mẹ dặn cứ đến những nhà băng anh ta gửi vốn mà lấy tiền tiêu; vì vậy hai ông bà già cũng yên tâm, không lo lắng về nỗi phải túng thiếu. Thu xếp như vậy xong xuôi, Joe lại tiếp tục đến dùng cơm tại hiệu ăn quen thuộc của mình ở Cheltenham, vẫn vui vẻ như thường. Anh ta vẫn đùng xe ngựa đi chơi, vẫn uống rượu vang trắng, vẫn đánh bài, và vẫn kể những câu chuyện Ấn Độ của mình như cũ; người đàn bà Ai len goá chồng cũng vẫn tiếp tục nịnh nọt, mơn trớn anh ta như trước. Tuy đang lúc túng, nhưng việc Joe biếu tiền bố mẹ cũng không khiến cho hai ông bà già xúc động lắm. Amelia kể lại rằng, từ sau cơn hoạn nạn, lần đầu tiên cô thấy ông bố ngẩng cao đầu lên là khi ông cụ nhận được gói thìa đĩa kèm theo lá thiếp của mấy người buôn tín phiếu trẻ tuổi; ông cụ khóc òa lên như trẻ con, còn cảm động hơn cả bà vợ là người được gửi tặng món quà đó. Edward Dale, người trẻ tuổi nhất trong số, đã đứng lên mua bộ thìa đĩa chung cho cả ba; từ lâu anh ta vẫn có ý săn sóc cô Amelia. Mặc dầu cô bị phá sản, anh ta vẫn ngỏ ý muốn cưới cô làm vợ như thường. Sau này, năm 1820, anh ta lấy cô Louisa Cutts (con gái ông chủ hãng Higham và Cutts, một hãng buôn ngũ cốc rất lớn); bây giờ hai vợ chồng sống rất đường hoàng, con cái đầy đàn, trong một cái biệt thự rất đẹp ở đồi Muswell. Nhưng không nên vì anh chàng này mà rời xa câu chuyện chính của chúng ta.

Tôi hy vọng rằng vì có ấn tượng quá tốt về vợ chồng đại úy Crawley nên bạn đọc cho rằng có lúc họ đã nghĩ đến chuyện về thăm cái quận Bloomsbury hẻo lánh kia, dù họ biết rằng cái gia đình mà họ dự định sẽ dành cho vinh dự được đón tiếp ấy thì chẳng những đã lỗi thời mà cũng đã khánh kiệt, không còn khả năng gì để giúp đỡ họ được nữa. Rebecca rất ngạc nhiên khi thấy ngôi nhà sang trọng, nơi trước kia cô đã bao lần được tiếp đãi nồng hậu, bây giờ bị kẻ mua người bán phá phách tan hoang. Cô thấy tại nơi kỷ vật riêng rất quý báu của gia đình bây giờ bị đem trưng ra cho cả thiên hạ thờ ơ nhòm ngó hoặc xâu xé. Một tháng sau buổi bỏ đi trốn, cô bỗng nhớ đến Amelia; và Rawdon cười hô hố, tỏ ý rất tán thành đến thăm George Osborne một chuyến chơi. Anh ta láu lỉnh bảo vợ:

- Becky, đó là một người bạn rất quý báu. Tôi còn đang muốn bán thêm cho hắn một con ngựa, và chơi thêm với hắn vài ván bi-a đây. Tôi gọi như thế là một mối tình bạn hữu ích đấy, bà Crawley ạ, hô hô!

Nghe những lời trên ta chớ nên nghĩ rằng Rawdon Crawley chơi bạc bịp, ấy là vì anh ta muốn chứng tỏ rằng trong Hội chợ phù hoa, những bậc sang trọng ưa giải trí bao giờ cũng muốn giữ cái ưu thế của mình đối với người bên cạnh.

Bà cô già mãi không thấy nghĩ lại. Một tháng trời trôi qua rồi. Bác Bowls không chịu mở cửa tiếp Rawdon; đầy tớ của anh ta không được phép vào căn nhà ở Đường công viên. Thư từ anh ta gửi đều bị trả lại, phong bì còn dán nguyên vẹn. Bà Crawley không đi ra ngoài...bà vẫn còn mệt...còn bà Bute thì vẫn ở đây không lúc nào rời khỏi bà em chồng.

Hai vợ chồng Crawley thấy bà Bute cứ ở lỳ mãi, đoán chắc có chuyện không hay cho mình. Rawdon bảo:

- Chết thật? Bây giờ tôi mới vỡ lẽ tại sao hồi còn ở trại Crawley Bà chúa, mụ ấy muốn cho hai đứa mình lúc nào cũng ở sát bên nhau.

Rebecca thở dài đáp:

- Thật là đồ xảo quyệt!

Viên đại úy đang say vợ, kêu lên:

- Ôi dào? Nếu mình không tiếc thì tôi cũng chẳng cần cóc gì.

Cô vợ thưởng cho anh chồng một cái hôn thay cho câu trả lời; thấy chồng hoàn toàn tin cậy mình, cô ta rất thích.

Cô nghĩ thầm “giá anh ta thông minh hơn một tý, thì mình có thể giúp cho nổi cơ đồ đấy”. Nhưng không bao giờ cô để chồng biết mình nghĩ về chồng như vậy. Bao giờ cô cũng chịu khó chăm chút nghe chồng kể con cà con kê về chuyện ngựa nghẽo, chuyện câu lạc bộ nhà binh; cô rất chịu khó cười mỗi khi anh chồng khôi hài, cố gắng làm ra vẻ chú lắm đến những chuyện như chiếc xe ngựa của Jack Spatterdash vừa đổ, Bob Martingale bị bắt quả tang ở sòng bạc, chuyện Tom Cinqbars sắp sửa dự đua ngựa...Mỗi khi chồng trở về nhà, cô tỏ ra thật nhí nhảnh sung sướng: lúc chồng đi chơi, cô giục chồng đi mau cho sớm. Chồng ở nhà không đi đâu, cô chơi dương cầm và hát cho chồng nghe, pha rượu cho chồng uống, coi sóc bữa ăn cho chồng tươm tất, ủ ấm đôi giầy nhẹ của chồng, chăm sóc chồng từng ly từng tý một.

Đã có lần tôi nghe bà nội tôi bảo rằng những người đàn bà khéo nhất chính là những người giả dối, vì chúng ta không thể hiểu họ giấu giếm chúng ta những điều gì, và khi bề ngoài họ tỏ ra ngây thơ, thân mật thì thật ra họ đang sắc mắc đến thế nào. Rất có thể những nụ cười luôn luôn nở dễ dàng trên môi họ chỉ là những cái bẫy để bợ đỡ, để lảng tránh, hoặc để khuất phục ta. Ở đây tôi không kể tới những bà những cô đỏm dáng tầm thường, mà chỉ nói tới những người đàn bà nội trợ gương mẫu, những viên ngọc của đức hạnh phụ nữ. Ai mà chưa từng được thấy một người vợ che giấu sự đần độn của anh chồng ngốc nghếch, hoặc làm dịu một cơn lôi đình của anh chồng vũ phu? Sự nô lệ đáng yêu ấy chúng ta rất quý, chúng ta rất ca tụng đàn bà về sự thực. Một bà nội trợ rất cần phải là một nhà ngoại giao giỏi. Chồng Cornelia () cũng bị vợ lừa dối như chồng Potiphar tuy rằng bị lừa dối một cách khác.

Vậy thì được vợ săn sóc chu đáo, anh chàng trác táng bừa bãi Rawdon Crawley biến thành một người chồng rất hạnh phúc và rất ngoan ngoãn. Đám bè bạn chơi bời cũ không thấy mặt anh ta đâu nữa. Có một đôi lần, họ hỏi thăm anh ta ở câu lạc bộ, nhưng rồi họ cũng không nhớ anh ta nhiều lắm. Trong Hội chợ phù hoa, không mấy khi người ta nhớ nhau lâu. Đối với Rawdon, người vợ xa lánh xã hội phù hoa lúc nào cũng tươi tỉnh mỉm cười, căn nhà ấm cúng, những bữa ăn nóng sốt và những buổi tối trong gia đình đã có đủ mọi vẻ hấp dẫn của một cái gì mới mẻ và kín đáo. Việc hôn nhân của họ chưa tuyên bố cho ai rõ, cũng chưa đăng trên báo “Tin tức buổi sáng”. Nếu bọn chủ nợ biết tin anh ta lấy một cô gái không có của hồi môn làm vợ, ắt họ sẽ hè nhau xông tới làm tội anh ta đến chết mất. “Em thì chả sợ cha mẹ em rầy la đâu”. Becky nói và cười có vẻ chua chát. Cô rất bằng lòng chờ đến khi bà Crawley nghĩ lại, lúc ấy sẽ xuất đầu lộ diện trong xã hội. Cho nên cô yên tâm sống kín đáo ở Brompton, không đi lại với ai, chỉ tiếp có vài người bạn trai của chồng; họ được mời đến chơi tại căn phòng ăn nhỏ bé của gia đình. Bọn khách này thích cô lắm. Họ rất lấy làm thú vị được dự những bữa ăn thân mật, được nghe cô ta cười nói, và sau đó lại chơi đàn. Thiếu tá Martingale không bao giờ nghĩ tới chuyện muốn xem tờ giấy chứng hôn. Đại úy Cinqbars trầm trồ khen ngợi những cốc rượu do bàn tay khéo léo của Rebecca pha. Còn viên trung úy trẻ tuổi Spatterdash (anh này rất ham chơi piquet, mà Crawley cũng mời anh ta chơi) thì chỉ trong một thời gian rất ngắn rõ ràng đã bị bà Crawley thu mất hồn. Nhưng Rebecca luôn luôn tỏ ra sáng suốt và kín đáo; vả lại Crawley vẫn nổi danh là một tay hay gây gổ và cả ghen; nhờ thế cô vợ bé bỏng yêu dấu cũng được che chở an toàn.

Ở thành phố này có nhiều người sang trọng, đứng đắn và lịch sự chưa bao giờ bước chân vào phòng khách của một phu nhân. Cho nên, mặc dầu khắp quận người ta bàn tán nhiều về chuyện vợ con của Crawley - chắc bà Bute phao tin rầm lên chứ gì- nhưng ở Luân đôn tin ấy vẫn mập mờ, hoặc ít được chú ý, hoặc không được một ai nhắc đến.

Rawdon phải vay tiền để tiêu, nhưng vẫn sống đường hoàng, anh ta có những khoản nợ kếch xù, giá khéo ăn tiêu thì có thể sống được nhiều năm. Ở những thành phố lớn, nhiều người mang công mắc nợ sống rất đàng hoàng, những người có tiền trả ngay còn thua xa. Khi ta đi chơi trên những đường phố ở Luân- đôn, ta thường gặp những ông sang trọng ngự trong những chiếc xe ngựa rất đẹp, trong khi ta phải cuốc bộ. Trông thấy họ, bọn thợ may nịnh nọt, bọn nhà buôn khúm núm cúi chào. Những ông này chẳng từ chối yêu cầu nào của họ, mà cũng chẳng ai biết các ông trông vào đâu mà sống. Ta gặp anh chàng Jack Thriftless khệnh khạng đi ở Công viên, hoặc phóng xe ngựa như bay qua Pall Mall, bữa ăn thì dùng toàn những bát đĩa quý giá. Ta tự hỏi không rõ đời hắn bắt đầu thế nào, và sẽ kết thúc ra sao? Thì có lần Jack bảo với tôi rằng: “Ông bạn thân ơi, tôi nợ tiền khắp cả Âu Châu này đấy”. Kết cục rồi cũng phải xảy ra, nhưng hãy cứ biết bây giờ Jack ta tha hồ ung dung phè phỡn cái đã. Thiên hạ được Jack bắt tay lấy làm sung sướng lắm, tuyên bố rằng hắn là người tốt bụng, vui tính, và vô tư lự biết đâu đến những lời thì thầm đồn đại không hay về hắn.

Thực tế bắt ta phải nhận anh chồng của Rebecca chính thuộc loại người này. Trong nhà anh ta cái gì cũng đầy đủ, chỉ thiếu có tiền; một bữa đọc báo “Tin tức”, Rawdon thấy đăng tin “Trung úy Osborne vừa mua lại cấp đại úy của ông Smith mới từ chức”, lập tức anh ta tỏ ra có cảm tình với người yêu của cô Amelia và quyết định đến thăm khu phố Russell.

Khi hai vợ chồng Rawdon muốn gặp đại úy Dobbin để tìm biết rõ chuyện hoạn nạn của những người quen cũ của Rebecca thì Dobbin đã biến khỏi chỗ bán đấu giá rồi. Họ chỉ được một anh phu khuân vác và một bác nhân viên phát mại lảng vảng ở đó mách cho một ít tin tức. Becky leo lên xe ngựa, tay vẫn cầm bức tranh, vẻ mặt rất vui; cô ta nói:

- Nhìn những cái mỏ của họ kìa; có khác gì đám diều hâu xâu xé mồi sau một trận đánh không?

- Xin chịu em ạ, từ bé đến giờ nào anh có biết trận mạc là cái gì đâu Hỏi Martingale ấy; hắn đã từng làm sĩ quan tùy tòng cho tướng Blazes ở Tây-ban-nha.

Rebecca nói:

- Ông cụ Sedley là người rất tốt. Thấy ông cụ gặp nạn, em thương lắm.

- Ồ, mấy lão buôn tín phiếu... phá sản... chuyện thường lắm, mình thấy đấy.

Rawdon vừa đáp vừa lấy roi vụt đuổi một con ruồi đậu trên tai ngựa. Giọng cô vợ có vẻ đa cảm lắm, nói:

- Giá mua được ít bát đĩa gửi biếu họ thì tốt hơn, anh Rawdon ạ. Những hai mươi lăm ghi-nê cây dương cầm nhỏ ấy thì đắt quá. Ngày trước, hồi Amelia vừa ra trường, chúng em đã chọn cây đàn ấy ở Broadwood đấy. Dạo ấy giá chỉ có ba mươi lăm đồng ghi-nê.

- Còn anh chàng... tên hắn là gì nhỉ... Osborne phải không... bây giờ gia đình cô ta bị phá sản, chắc là bắn rút lui, cô bạn Amelia của mình hẳn phát sầu, Becky nhỉ?

Becky mỉm cười đáp:

-Ôi dào, rồi chị ấy cũng quên đi chứ .

Và họ đánh xe đi, bàn sang chuyện khác.


Chương 18
AI CHƠI CHIẾC DƯƠNG CẦM DOBBIN MUA?

Câu chuyện của chúng ta giờ đây bỗng bao gồm cả những sự kiện và những nhân vật danh tiếng, và bám vào rìa dòng lịch sử. Bầy diều hâu của Napoléon Bonaparte, tên dân đảo Corse hãnh tiến, sau một thời gian ngắn bị cầm giữ ở đảo Elba, đã bay về đậu tại Provence, và từ đó bay chuyền từ đỉnh gác chuông nhà thờ này sang đỉnh gác chuông nhà thờ khác, cho tới thánh đường Đức bà ở Paris. Bầy chim của Hoàng đế nào có thèm chú ý đến sứ đạo tối tăm Bloomsbury ở Luân-đôn, nơi nhân dân quen sống rất bình lặng; hầu như không ai buồn để ý đến tiếng đập của những đôi cánh mạnh mẽ kia. “Napoléon đã đổ bộ ở Cannes rồi!”, một cái tin như vậy có thể gây sôi nổi ở Vienna, hoặc làm đảo lộn mọi kế hoạch của nước Nga, khiến cho nước Phổ phát điên vì lo lắng, làm cho ông Talleyrand và ông Metternich phải lắc đầu và, sau hết, khiến cho hoàng tử Hardenberg và hầu tước Londonderry phải sững sờ. Nhưng làm sao cái tin ấy lại có thể gây xúc động đối với một người thiếu nữ ở quảng trường Russell, khi ngủ bao giờ cũng có một bác người nhà đứng ngoài cửa cầm canh suốt đêm, lúc dạo chơi trong vườn thì xung quanh đã có hàng rào và có bác gác cổng bảo vệ, và ví thử có đi ra ngoài phố Southampton gần đấy mua một cái dải đăng-ten chẳng hạn, thì đã có bác da đen Sambo kè kè đi theo, tay cầm cái can to tướng. Tóm lại, cô ta được bao nhiêu là vị thiên thần hộ mệnh có ăn lương và không ăn lương nâng niu, mặc áo cho, đặt vào giường ngủ, săn sóc đủ mọi phương diện.

Hỡi Thượng đế chí công, thật tàn nhẫn thay, cuộc chiến đấu lớn lao giữa các bậc đế vương sao lại cứ phải gây ra một sự rung chuyển tai hại đối với vận mệnh của một cô gái vô tội mới mười tám xuân xanh, chỉ biết như chim non mổ hạt, hót rít rít và thêu những cổ áo bằng voan mỏng? Hỡi bông hoa dịu dàng đáng thương trong vườn nhà kia! Cơn bão táp của chiến tranh đang gầm thét sắp lôi cuốn cả cô em vào trong những xoáy lốc tàn bạo rồi; Napoléon sắp đánh nước bạc cuối cùng, và thế là hạnh phúc của cô Amelia Sedley bé bỏng cũng sẽ tan tành như mây khói.

Trước hết, những tin tức tai hại đã lật nhào tất cả cơ nghiệp của cha cô. Bao nhiêu việc kinh doanh của ông già không may kia sụp đổ hết. Mấy chuyến làm ăn cuối cùng thất bại sạch; các bạn hàng bị phá sản tất cả. Ông tính rằng giá cổ phiếu hạ xuống thì nó lại cao lên (). Thắng lợi bao giờ cũng đến chậm chạp, nhưng tai họa thì bao giờ cũng xô tới sau lưng nhanh như cơn lốc. Tuy nhiên, ông già Sedley vẫn giữ kín nỗi lo nghĩ của mình. Trong ngôi nhà sang trọng yên tĩnh, mọi sứ vẫn diễn ra bình thường. Bà Sedley tốt bụng kia cũng không hay biết gì hết; hàng ngày bà vẫn tiếp tục cuộc sống bận bịu mà nhàn hạ của bà, với bao nhiêu công việc không đâu; cô con gái càng ngày càng đi sâu vào cái tâm trạng êm ái và ích kỷ riêng của mình, cách biệt hoàn toàn với cuộc đời bên ngoài. Đột nhiên cơn bão xô tới, toàn bộ gia đình đổ sụp.

Một buổi tối, bà Sedley ngồi viết thiếp mời dự tiệc. Gia đình Osborne đã thết khách một buổi rồi, bà lại chịu kém cạnh họ sao?

Ông John Sedley ở khu City về rất muộn; ông ngồi yên lặng bên cạnh lò sưởi nghe bà vợ chuyện trò tíu tít. Emmy đau khổ, buồn bã, đã lên phòng riêng từ trước. Bà mẹ vẫn noi:

- Con bé không vui. George Osborne chẳng săn sóc gì đến nó. Tôi không thể chịu nổi cách ăn ở của bọn họ. Đã ba tuần nay, mấy đứa con gái nhà ấy chưa đặt chân đến đây; thằng Osborne thì đã hai lần về tỉnh, mà không lại thăm nó. Edward Dale có gặp Osborne ở rạp Opera. Tôi tin rằng Edward Dale sẵn sàng cưới con bé, và tôi thấy anh chàng đại úy Dobbin cũng...có điều tôi không ưa cái bọn lính tráng ấy. Thằng George bây giờ cũng công tử bột lắm. Mà thật, nom khệnh khà khệnh khạng ra phết con nhà binh! Ta phải tỏ cho họ biết rằng ta không kém cạnh gì họ. Cứ khuyến khích Edward tiếp khách mới được. Mà kìa, John Sedley, sao ông cứ ngồi im thế? Tôi định mời vào thứ năm, sau đây hai tuần nhé? Sao ông không trả lời? Trời ơi! Có chuyện gì xảy ra vậy?

Bà vợ chạy lại bên chồng; ông Sedley đứng dậy đón vợ; ông ôm bà vào lòng nói vội vàng:

- Mary, chúng ta bị phá sản rồi. Bà nó ơi, bây giờ chúng ta phải làm lại cuộc đời từ đầu. Tốt nhất là nói ngay tất cả mọi chuyện cho bà biết.

Ông vừa nói vừa run rẩy chân tay, gần như muốn ngã gục xuống. Ông cứ tưởng rằng bà vợ không chịu đựng nổi cái tin ghê gớm ấy, người vợ mà suốt đời ông chưa hề nói nặng một lời. Song, tin ấy đến rất đột ngột, với bà cụ, mà chính ông lại bị xúc động mạnh hơn. Lúc ông nằm vật xuống chiếc ghế bành, chính bà vợ lại phải an ủi chồng. Bà cầm lấy bàn tay run rẩy của ông mà hôn, rồi đặt cánh tay chồng vòng qua cổ mình; bà gọi ông là John của bà, John yêu quý của bà, ông lão của bà, ông lão thân yêu của bà; bà thốt ra hàng trăm lời ngọt ngào, yêu đương không ăn nhập với nhau. Tiếng nói chung thủy nhỏ nhẻ và sự vuốt ve vụng về của vợ khiến ông đang băn khoăn đau khổ cảm thấy sung sướng vô ngần, bà khiến ông cảm thấy tâm hồn nặng trĩu của mình được vui vẻ thư thái. Buổi tối dài dằng dặc hôm ấy, ngồi cạnh bà vợ, ông già khốn khổ Sedley đã trút vợi nỗi lo lắng đè nặng tâm hồn mình; ông kể lại tất cả những sự khó khăn thua lỗ trong việc làm ăn...ông bị những người bạn thân thiết nhất lừa dối, nhưng cũng có những người cư xử rất cao thượng không ngờ. Cũng chỉ có lần ấy, khi cùng chồng đi ngược lại dòng quá khứ, bà vợ đã để lộ ra tất cả sự xúc động của mình. Bà nói:

- Lạy Chúa, lạy Chúa. Chắc con Emmy đau khổ lắm.

Ông bố quên hẳn cô con gái. Cô ta đang nằm thao thức buồn bã ở trên gác. Giữa gia đình ấm cúng toàn bè bạn và người thân, nhưng cô vẫn thấy mình trơ trọi làm sao! Ở đời ta có thể thổ lộ nỗi lòng với độ bao nhiêu người được nhỉ? Nói làm chi những điều ấy với những tâm hồn không biết rung cảm, không bao giờ hiểu nổi? Cho nên cô Amelia của chúng ta rất cô đơn. Từ khi cô có những điều thầm kín muốn tâm sự, thì cô đã không có bạn tâm tình nữa rồi. Cô không thể ngỏ với mẹ mọi nỗi lo lắng ngại ngùng của mình. Mỗi ngày cô chị chồng và cô em chồng tương lai lại càng trở nên xa lạ hơn. Cô còn bao nhiêu nỗi nghi ngờ, bao sự sợ hãi mà bản thân cô không muốn công nhận, tuy cô vẫn âm thầm ấp ủ trong lòng. Trái tim cô thì cứ khăng khăng một mực rằng George Osborne vẫn trung thành, vẫn xứng đáng với cô, mặc dầu cô biết rằng sự thực không đúng thế. Đã bao lời tình tứ của cô không hề có lấy mảy may tiếng vang trong tâm hồn anh ta. Đã bao lần cô nghi ngờ người yêu thờ ơ, ích kỷ, nhưng cô đã bướng bỉnh đương đầu và vượt qua những sự ngờ vực đó. Con người “tử vì đạo” ấy còn biết thổ lộ với ai hết cả mọi nỗi đau xót hàng ngày dằn vặt tâm hồn cô?

Người yêu của cô cũng chỉ hiểu cô có một phần. Cô không dám tin rằng người đàn ông cô yêu có tâm hồn thấp kém hơn mình; cô không dám thú nhận rằng mình đã yêu quá vội vàng. Người con gái e lệ trinh bạch ấy kín đáo quá, hiền hậu quá, cả tin quá, yếu đuối quá, cho nên một khi đã trao đổi trái tim cho ai thì không muốn lấy lại nữa.

Đối với đàn bà, về mặt tình cảm chúng ta vẫn quen cư xử như những người Thổ-nhĩ-kỳ; chúng ta cũng bắt họ phải phục tùng giáo lý của chúng ta. Chúng ta cho phép thân thể họ tự do đi ra ngoài, được hóa trang bằng những nụ cười, bằng những búp tóc xoăn, bằng những chiếc mũ trùm màu hồng, mà không phải che mặt bằng những tấm chàng mạng và những chiếc yakmak (); nhưng họ chỉ được để một người đàn ông nhìn thấy tâm hồn họ; họ tuân lệnh, không hề ngần ngại, và bằng lòng sống như kẻ nô lệ trong gia đình để săn sóc mọi việc cho chúng ta.

Tháng ba năm 1815, kỷ nguyên của Chúa, khi Napoléon đổ bộ ở Cannes, vua Louis XVIII chạy trốn, khi toàn thể Âu châu hốt hoảng, giá cổ phiếu sụt và ông già Sedley bị phá sản, thì cô gái bé bỏng dịu dàng ấy cũng đang bị cầm tù, bị hành hạ như vậy đấy.

Chúng ta không cần trở lại những nỗi đau đớn sầu não ông già buôn tín phiếu đã phải trải qua trước khi tai họa cuối cùng xảy đến: ở Phòng hối đoái, tên ông Sedley đã bị thông báo; ông lão đã phải rời khỏi những văn phòng của mình; tín phiếu của ông không được thanh toán. Tình trạng phá sản không thể chối cãi được nữa. Ngôi nhà cùng đồ đạc ở khu phố Russell bị quyền trữ và bán đấu giá; ông lão và cả gia đình bị mời ra khỏi cửa, đi đâu mà ở thì đi, như ta đã rõ.

Bị sa sút, ông John Sedley đành thải tất cả bọn gia nhân (các nhân vật này thỉnh thoảng xuất hiện trong những trang của tập truyện này); và ông cũng không còn lòng nào mà gặp mặt tất cả bọn. Tiền lương của họ ông vẫn trả rất đúng hẹn, đó là tập quán của những người chỉ quen chịu những món tiền lớn. Bọn gia nhân rất buồn vì mất một chỗ làm tốt. Nhưng phải xa ông chủ bà chủ quý hóa, họ cũng không đến nỗi vì thế mà sầu não quá đáng. Chị hầu gái của Amelia có phàn nàn nhiều, nhưng rồi cũng tự an ủi vì tìm được một chỗ làm khác ở một gia đình quý phái hơn. Bác da đen Sambo rất kiêu hãnh về nghề nghiệp của mình quyết định mở một tiệm ăn. Còn bà Blenkinsop thực thà kia đã giúp việc cho gia đình từ hồi ông Sedley mới cưới vợ, và đã được chứng kiến sự ra đời của Joe và Amelia, thì quyết định ở lại giúp việc không lấy tiền công; bà ta cũng đã có một số vốn riêng kha khá, bây giờ theo chủ đến chỗ ở mới, tiếp tục săn sóc trông nom cho chủ và thỉnh thoảng cũng càu nhàu chút ít.

Bọn chủ nợ không ngớt theo đuổi ông già Sedley. Ông lão cảm thấy mình bị sỉ nhục, bị hành hạ quá đáng đến nỗi chỉ trong có sáu tuần lễ mà ông già sọm hẳn đi, già nhanh hơn suốt mười lăm năm qua, mà John Osborne, ông bạn già cũ và là người láng giềng của ông, tỏ ra tàn nhẫn hơn cả...John Osborne, người xưa kia được ông gây dựng, được ông giúp đỡ hàng trăm lần, và sắp sửa là thông gia của ông.

Nhưng bất cứ ai ở trong hoàn cảnh ấy cũng phải công nhận ông John Osborne phải cư xử tàn nhẫn như vậy. Một khi người ta đã chịu ơn rất nhiều một người khác, và sau ngày hai người lại xích mích với nhau thì theo lẽ thường, người ta vẫn phải tỏ ra khe khắt hơn người ngoài. Trong trường hợp ấy, thái độ sắt đá và vô ơn của ta chỉ có thể giải thích bằng những lầm lỗi của người ân nhân cũ. Không phải vì ích kỷ tàn nhẫn mà ta tức giận trước việc kinh doanh thất bại của bạn đâu... không, chẳng qua tại ông bạn cũ đã rắp tâm lừa ta một cách hèn hạ quá đáng đó thôi. Tóm lại tên đao phủ bắt buộc phải chứng minh rằng kẻ bị hành hình là một tên vô lại... nếu không thì chính hắn ta phải là một tên mạt kiếp.

Bọn chủ nợ vô tình thường công nhận một nguyên tắc chung rất tiện lợi đối với họ như thế này: người ta đã lâm vào cảnh khó khăn thì không có ai là thực thà; thế nào họ cũng giấu kín sự khó khăn của mình, và phóng đại những may mắn có thể có được. Việc làm ăn tuyệt vọng hoàn toàn rồi, nhưng họ vẫn bảo là đang phát đạt, mặt mũi vẫn tươi cười một cái cười bất đắc dĩ trong khi đang mấp mé trên bờ vực của sự phá sản. Họ bấu lấy mọi dịp trì hoãn hòng đẩy lùi sự sụp đổ không tránh được xa thêm vài ngày. Lão chủ nợ sỉ nhục kẻ bại trận, với dáng điệu của kẻ chiến thắng thế này; “Gian giảo lắm thì cho chết. Anh ngu lắm, chết đuối mà lại với lấy cái bọt?”. Thật là lời một kẻ sáng suốt bình tĩnh đứng trên bờ nói với người sắp chìm nghỉm dưới nước, và cũng là lời của sự phát đạt nói với kẻ khốn khổ đang vùng vẫy trong vực tối. “Anh xuẩn quá, anh không biết tìm cách để khỏi bị liệt tên vào danh sách bọn phá sản trên báo à?” Ai mà không thấy một khi đã dính đến chuyện tiền nong thì không những người bạn thân nhất đời, những người lương thiện nhất đời, cũng rất sẵn sàng nghi ngờ buộc tội nhau là bất lương? Kẻ nào cũng xử sự như thế cả, tôi cho rằng ai cũng phải thế, và cuộc đời toàn là những trò bịp bợm.

Nghĩ đến những chuyện ân huệ ngày xưa, ông Osborne càng bực mình; đấy cũng là một lý do khiến mối mâu thuẫn giữa hai nhà càng thêm gay gắt. Cuối cùng, ông cắt đứt cuộc nhân duyên giữa con trai ông và con gái gia đình Sedley. Nhưng hai người đã gắn bó với nhau lâu quá rồi, bây giờ như vậy là hạnh phúc và có thể cả danh dự của cô thiếu nữ cũng bị ảnh hưởng. Vậy thì ông John Osborne phải tìm mọi lý do để cắt đứt cuộc nhân duyên và để chứng minh rằng ông John Sedley là một người rất tồi tệ.

Trong buổi họp của các chủ nợ, ông đã tỏ ra hết sức tàn bạo và khinh miệt ông Sedley, khiến cho ông lão phá sản này chết điếng người vì nhục nhã. Ông phản đối dứt khoát việc George và Amelia đi lại thăm nhau; ông dọa từ con trai nếu anh ta trái lời ông, và ông cư xử với cô thiếu nữ vô tội như cô ta là một kẻ xảo quyệt khốn nạn nhất đời. Ông giận dữ và thù hằn như vậy là vì sao? Ấy là vì ta phải vu cáo và tin lời vu cáo về kẻ bị ghét bỏ; như vậy mới đúng cách xử thế.

Khi nhận được tin phá sản, khi phải rời bỏ khu phố Russell, Amelia tin rằng giữa George và cô không còn gì nữa...không còn gì nữa giữa cô và tình yêu, giữa cô và hạnh phúc, giữa cô và sự tin tưởng vào cuộc đời... Ông John Osborne đã gửi cho cô một lá thư lời lẽ tàn nhẫn, báo cho cô hay rằng vì tư cách của cha cô nên mọi sự đính ước giữa hai gia đình bắt buộc phải chấm dứt...Quyết định ấy không làm cho cô bị xúc động ghê gớm như cha mẹ, đúng hơn là như bà mẹ cô tưởng; ông John Sedley thì đã hoàn toàn mất hết tinh thần vì bị mất cơ nghiệp và danh dự rồi.

Nhận được tin, Amelia có tái mặt đi, nhưng vẫn bình tĩnh, đối với cô chẳng qua những điềm không lành cảm thấy từ trước bây giờ đã thực hiện mà thôi; đó chẳng qua chỉ là lời tuyên án...về một tội trạng cô đã phạm từ lâu...cái tội đã trót yêu lầm lẫn, trót yêu quá say mê không tính toán.

Bây giờ cũng như trước kia, cô không hề thổ lộ với ai những ý nghĩ sâu kín của mình. Cô cũng không lấy thế làm đau khổ hơn khi mình đã cảm thấy tất cả hy vọng đều tiêu tan nhưng còn chưa dám tin hẳn vào sự thật tàn nhẫn ấy. Rời bỏ ngôi nhà đồ sộ về ở một căn nhà bé nhỏ cô thấy cuộc sống cũng không có gì khác; suốt ngày cô vẫn ngồi im lặng trong phòng mà rầu rĩ, mà héo hắt dần dần. Tôi không nói rằng đàn bà ai cũng giống thế. Cô Bullock thân mến ơi, tôi tin rằng cô chẳng chịu đau khổ như vậy. Cô là một thiếu nữ có nghị lực, sống theo những nguyên tắc riêng. Tôi cũng không dám bảo rằng tâm hồn tôi giống như vậy. Tôi cũng đã từng đau khổ, nhưng phải thú thực rằng tôi vẫn sống; song cũng có vài người yếu ớt hơn tôi, tâm hồn họ mỏng manh quá, tế nhị dịu dàng quá.

Mỗi khi ông John Sedley nghĩ đến hoặc đả động đến cuộc tình duyên giữa George và Amelia, thái độ của ông cũng dứt khoát như thái độ của chính ông Osborne vậy. Ông chửi ông Osborne và cả gia đình ông ta là bọn vô lương tâm, bọn đểu cáng, bọn vô ơn. Ông thề độc rằng sẽ không vì một thế lực nào trên đời này mà gả con gái ông cho con trai một tên khốn nạn. Ông ra lệnh cho Emmy phải gột sạch hình ảnh của George trong tâm trí cô, phải gửi trả lại hết mớ thư từ, đồ vật đã nhận từ trước của anh ta.

Cô hứa xin tuân lệnh và cố gắng vâng lời cha. Cô gom góp mấy thứ tặng vật của George; cô lục những lá thư cất rất kỹ ra đọc lại một lượt... như thể cô chưa thuộc lòng ấy. Song cô không đành tâm rời bỏ chúng; việc làm ấy khó khăn quá đối với cô; cô lại ủ chúng vào trong ngực áo, giống như những người đàn bà ôm những đứa con đã chết vậy. Cứ nghĩ đến chuyện phải tách mình ra khỏi niềm an ủi cuối cùng mà Amelia tưởng như không thể sống nổi, hoặc phát điên lên mất. Trước kia mỗi lúc nhận thư, cô thường đỏ mặt lên sung sướng biết bao nhiêu? Đã bao lần cô nhảy nhót lùi ra một chỗ vắng, tim đập dồn dập, để đọc thư không cho ai nhìn thấy? Lời lẽ trong thư có lạnh lùng, tâm hồn si mê của cô biết cách biến thành những dòng chữ nồng nhiệt; lời lẽ trong thư có cộc lốc vô tình, cô vẫn tìm mọi lí do để tha thứ cho người viết.

Cô đã ấp ủ những mảnh giấy vô nghĩa đó; đọc chúng, cô quay trở về với cuộc đời dĩ vãng...mỗi lá thư như gợi lại một mảnh đời. Cô nhớ lại từng ly từng tý, nhớ từng khoé mắt, từng giọng nói, từng cách ăn mặc, từng lời lẽ chuyện trò...Ôi, đời cô chỉ còn lại di tích của một mối tình đã chết ấy mà thôi. Từ đây, cô chỉ còn sống để săn sóc cái xác chết của Tình yêu.

Cô tha thiết mong chờ cái chết đến giải thoát cho mình.

Cô nghĩ thầm sau khi chết, thế là mình lại có thể theo đuổi người yêu. Tôi không hề muốn ca tụng quan niệm sống của Amelia, coi là tấm gương cho cô Bullock bắt chước.

Cô Bullock giỏi hơn người con gái bé bỏng đáng thương kia nhiều; cô thường biết cách kiềm chế lòng mình, chắc chẳng khi nào dại dột như Amelia và trao trái tim mình quá dễ dàng cho kẻ khác như thế, để chẳng được đền bù lại chút gì ngoài một lời hứa hẹn mỏng manh bị bóp nát trong phút chốc. Trong một cuộc đính ước kéo dài, một bên có thể tự do giữ lời hứa hoặc cắt đứt, nhưng cả cuộc đời bên kia đã đặt vào đó rồi.

Vậy thì hỡi các cô thiếu nữ trẻ trung, hãy cẩn thận. Hãy coi chừng khi các cô đính ước với “người ta”. Hãy e lệ, đừng yêu quá thẳng thắn; chớ bao giờ nên nói hết điều gì mình xúc động trong lòng, hoặc tốt hơn, hãy xúc động in ít thôi. Hãy nhìn xem, thực thà và cả tin quá sớm tai hại như vậy đấy; đừng có tin mình, cũng đừng tin ai hết. Hãy cứ lấy chồng theo kiểu người Pháp vậy, nghĩa là nhờ những ông quản lý văn khế làm bạn tâm tình và người phù dâu.

Tóm lại, đừng bao giờ đa mang tình cảm gì khiến mình phải khổ tâm sau này; đừng bao giờ hứa hẹn điều gì nếu mình không dễ dàng xóa bỏ khi mình muốn. Giữa Hội chợ phù hoa nếu muốn được kính nể và được coi là đức hạnh, xin cứ theo một con đường ấy mà đi.

Nếu Amelia được nghe những lời bình phẩm về mình trong cái xã hội mà sự phá sản của cha cô vừa bắt cô phải rời bỏ, thì cô mới thấy hết tội lỗi của mình đã làm hại danh dự mình đến thế nào. Bà Smith nói rằng chưa hề bao giờ thấy ai nhẹ dạ tai hại đến thế. Bà Brown thì bảo rằng xưa nay bà vẫn kết án những thái độ suồng sã đáng ghê tởm như vậy, và coi đó là tấm gương tầy liếp cho mấy cô con gái của bà coi mà tránh. Hai cô con gái nhà Dobbin nói: “Dĩ nhiên đại úy Osborne không thể lấy con gái một người phá sản làm vợ được. Bị ông bố lừa đảo thế là đủ lắm rồi. Còn cái con bé Amelia, nó còn rồ dại hơn cả...”. Đại úy Dobbin mới quát lên:

- Hơn cái gì? Họ không đính ước với nhau từ bé là gì? Lời đính ước lại không thiêng liêng như hôn lễ sao? Đứa nào trên đời này dám thở ra một lời nói xấu người con gái trong sạch nhất, hiền hậu, cao quý nhất ấy?

Cô Jane đáp:

- Ô hay, William, việc gì anh phải quát tháo chúng em. Chúng em có phải là đàn ông đâu mà ganh gổ được với anh. Chúng em nói xấu gì cô Amelia Sedley? Có điều cô ta dại dột quá đáng, ấy là chưa nói hết lời đấy. Còn bố mẹ cô ta thì gặp tai họa như vậy cũng đáng kiếp thôi.

Cô Ann châm biếm hỏi:

- Này anh William, bây giờ cô Sedley đã tự do rồi, anh hỏi cô ta làm vợ chẳng hơn à? Thế mà lại xứng đôi vừa lứa cơ đấy. Hi, hi?

Dobbin đỏ bừng mặt, nói rất nhanh:

- Tôi lấy cô ấy? Này, các cô nghĩ rằng cô ấy cũng ưa đổi tình như đổi áo giống các cô chăng? Ai lại đi cười cợt, chế nhạo một vị thiên thần như thế! Cô ấy có nghe thấy đâu; đối với người không may mắn và đau khổ, ai cười mà chẳng được. Cứ việc mà đùa đi cô Ann. Cô láu lỉnh nhất nhà, ai cũng ưa nghe cô pha trò lắm đấy.

Cô An đáp:

- Em xin nhắc lại rằng đây không phải là trại lính đâu, anh William nhé.

- Lạy Chúa tôi, trong trại lính ấy à; tôi cũng mong có kẻ nào nói như các cô đấy - Con sư tử bị kích thích gầm lên- tôi dám thách đứa nào hé môi nói xấu cô ấy đấy; nhưng mà, cô Ann ơi, đàn ông chúng tôi không ăn nói như vậy đâu. Chỉ có bọn đàn bà con gái mới túm năm tụm ba ** đởn, rồi rú lên, rít lên, quàng quạc cái mồm lên như thế. Thôi, cút ra chỗ khác... đừng có khóc nữa, các cô chỉ là hai con ngỗng.

Thấy cô Ann rơm rớm nước mắt như mọi khi. Dobbin lại bảo:

- Thì không phải là ngỗng, các cô là hai con thiên nga vậy, muốn là con gì cũng được, nhưng hãy để cho cô Sedley được yên.

Bà mẹ và hai cô gái bảo nhau; “Chả thấy đứa nào mê gái như thằng William nó mê cái con bé ** tính hay liếc giai ấy nhỉ”. Cả ba mẹ con đang lo rằng bây giờ không còn bị lời đính ước ràng buộc, cô Amelia sẽ lập tức cướp mất anh chàng đại úy đang say mê mình. Chắc hai cô thiếu nữ suy bụng ta ra bụng người nên mới lo xa như vậy, hoặc đúng hơn (vì hai cô chưa hề bao giờ có dịp lấy ai, cũng như bắt nhân tình với ai) họ đã phán đoán theo nhận thức riêng của họ về cái hay cái dở. Hai cô con gái bảo mẹ:

- Má ạ, may quá, trung đoàn phải ra đóng ở nước ngoài; thế là anh con khỏi bị cái tai họa ấy đe dọa.

Quả thật đúng như vậy. Chính vì thế mà Hoàng đế nước Pháp đã đóng một vai trò trong tấn hài kịch gia đình đang diễn ra tại Hội chợ phù hoa này; mà sở dĩ tấn kịch diễn được cũng nhờ có sự tham dự gián tiếp của nhân vật quan trọng không ra mắt ấy. Chính hắn đã làm cho giòng họ Bourbons cũng như ông John Sedley phá sản. Khi đến kinh đô nước Pháp, chính hắn đã thúc đẩy toàn thể nước Pháp đứng dậy cầm vũ khí bảo vệ mình, và bắt buộc toàn thể Âu châu phải hợp lực tiêu diệt hắn. Trong khi ở Quảng trường Tháng năm, nhân dân và quân đội Pháp vây tròn quanh những con diều hâu, thề trung thành với Hoàng đế, thì bốn đạo quân mạnh nhất Âu châu phối hợp với nhau để tổ chức một cuộc săn diều hâu () vĩ đại, trong số đó có quân đội nước Anh; và trong đội quân nước Anh lại có hai nhân vật của chúng ta tức là đại úy Dobbin, và đại úy Osborne.

Trung đoàn thứ... tiếp nhận tin Napoléon vượt ngục trở về đất liền với một niềm vui hiếu chiến vô cùng hào hứng; người nào đã biết rõ đội quân này mới hiểu được niềm vui ấy. Mọi người, kể từ viên đại tá cho tới anh lính đánh trống tầm thường nhất trong trung đoàn, đều tràn ngập hy vọng cao xa, đều sôi sục tinh thần ái quốc. Họ cảm ơn Hoàng đế nước Pháp đã làm đảo lộn trật tự Âu châu, tuồng như đó là một việc từ thiện đặc biệt. Lúc này đã đến cái ngày mà toàn thể trung đoàn thứ...khát khao chờ đợi, ngày họ có điều kiện chứng tỏ cho các bạn đồng ngũ thấy rằng họ có khả năng chiến đấu không kém gì những người chiến sĩ kỳ cựu ở Bán đảo (), và bệnh sốt vàng da cùng những năm đồn trú ở Tây Ấn đã không cần phải bỏ tiền ra mua. Bà thiếu tá O’Dowd cũng quyết định tham dự chiến dịch này; bà còn hy vọng rằng trước khi chiến tranh kết thúc đã có thể viết thư cho chồng ký tên là đại tá phu nhân O’Dowd. Hai người bạn của chúng ta (Osborne và Dobbin) cũng phấn khởi không kém, mỗi người phấn khởi một cách... Dobbin thì kín đáo, còn Osborne thì ồn ào, sôi nổi đặc biệt. Cả hai đều khát khao được làm nhiệm vụ, và được chia sẻ phần vinh dự sau này.

Tin tức trên đã gây ra một làn sóng sôi nổi trong khắp nước, trong khắp quân đội; người ta không còn chú ý lắm đến những câu chuyện riêng. Có lẽ cũng vì thế mà Osborne không bị xúc động nhiều lắm trước những tin tức lẽ ra phải khiến anh ta quan tâm nhiều hơn trong trường hợp không có chiến sự đe dọa. Anh ta vừa được đề bạt, đang bận tíu tít về việc chuẩn bị hành quân sắp tới, và cũng đang hy vọng được thăng lên cấp cao hơn. Phải nói thực rằng tai họa vừa rơi xuống đầu ông lão Sedley không ảnh hưởng nhiều lắm đến tinh thần anh ta. Đúng vào hôm các chủ nợ của ông già bất hạnh kia họp nhau lại lần đầu tiên, anh ta cũng đi thử bộ quân phục mới may, bận vào nom thật “bảnh”. ông bố đã nói chuyện với anh ta về thái độ lừa đảo đáng xấu hổ của con người bị phá sản, đã nhắc anh ta nhớ lại mọi điều ông ta nói về Amelia, nghĩa là giữa hai người bây giờ không còn quan hệ gì nữa. Tối hôm ấy, ông cho anh ta một món tiền lớn để trả tiền bộ quân phục và đôi phù hiệu mới toanh, mặc vào tôn hẳn vẻ người lên.

Tiền chui vào túi anh chàng quen thói “vung tay quá trán” này thì bao nhiêu cũng là ít. Anh ta không nói nhiều, cầm ngay lấy tiền. Những tấm giấy quảng cáo bán đấu giá đã dán đầy trên tường nhà ông Sedley, nơi anh ta đã hưởng bao giờ phút sung sướng. Một buổi tối, nhân đi từ nhà bố đẻ đến quán trọ lão Xlôtơ, nơi anh ta nghỉ trọ mỗi khi về tỉnh, George cũng nhìn thấy những tấm giấy ấy trắng lôm lốp dưới ánh trăng. Từ nay Amelia cùng gia đình không còn được bước chân vào ngôi nhà kia nữa; không biết bây giờ họ ở đâu? Nghĩ đến câu chuyện gia đình ông Sedley bị phá sản, anh ta thấy buồn quá. Tối hôm ấy tại quán trọ lão Slaughters, Giơrgiơ có vẻ ủ rũ đặc biệt; bạn bè đều thấy anh ta uống nhiều rượu hơn mọi ngày.

Bỗng Dobbin bước vào, anh định ngăn không cho bạn uống rượu, nhưng Osborne đáp rằng mình buồn quá, phải lấy rượu để khuây khỏa. Dobbin hỏi thăm một cách vụng về rằng vì sao bạn buồn, và lấy vẻ quan trọng hỏi xem, bạn có được tin tức gì không; nhưng Osborne không chịu đáp, chỉ nhận rằng mình rất đau khổ và bối rối vô cùng.

Ba ngày sau, Dobbin gặp lại Osborne trong phòng riêng của bạn ở trại lính... Anh ta ngồi gục đầu bên bàn, xung quanh giấy má bừa bộn; hình như viên đại úy trẻ tuổi đang có điều gì sầu não.

- Nàng...nàng gửi trả lại tôi những tặng vật cũ...mấy món đồ trang sức. Anh xem kìa!

Thì ra có một tập thư, chữ viết rất quen thuộc với đại úy George Osborne, và mấy thứ đồ vật vứt hỗn độn bên cạnh: một con dao bạc anh ta mua tặng người yêu trong một buổi đi chơi hội chợ hồi còn nhỏ, một sợi dây chuyền bằng vàng và một tấm huy hiệu hộp trong có mấy sợi tóc.

Anh ta vừa rên rỉ có vẻ đau xót hối hận vừa nói:

- Thôi, thế là hết. Kia kìa, Will anh có đọc thì đọc.

George tay chỉ một lá thư ngắn, trong viết:

- Ba em ra lệnh bắt em phải gửi trả lại anh những tặng vật mà anh cho em trong những ngày hạnh phúc đã qua; em viết thư cho anh lần này là lần cuối cùng. Em cho rằng, em hiểu rằng anh cũng đau khổ như em trước tai họa của gia đình em. Tự em yêu cầu anh cắt đứt mối tình của chúng ta vì, trong hoàn cảnh khốn cùng của em hiện nay, nó không thể nào duy trì được nữa. Em tin rằng anh không hề đồng tình với những điều ba em nghi ngờ một cách tàn nhẫn, những điều khiến em đau khổ nhất trong cơn hoạn nạn. Thôi vĩnh biệt, vĩnh biệt. Em cầu Chúa giúp em đủ sức vượt qua tai họa này cũng như mọi tai họa sẽ xảy ra; cầu Chúa ban phúc lành cho anh luôn luôn. Em sẽ chơi nhạc luôn trên cây dương cầm... cây dương cầm của anh. Em hiểu rằng chính anh đã gửi đến cho em.”

Dobbin là người rất đa cảm. Xưa nay, trông thấy đàn bà con trẻ đau khổ, anh ta vẫn dễ dàng xúc động. Nghĩ đến cảnh Amelia sống đau khổ, trơ trọi một mình, Dobbin không sao cầm lòng được. Sự cảm động thái quá của anh ta có thể khiến người khác coi là không hợp với bản chất của đàn ông. Dobbin thề rằng Amelia là một thiên thần; Osborne sẵn sàng biểu đồng tình ngay. Bản thân George cũng nhớ lại cuộc sống của hai người...Từ khi còn nhỏ cho tới bây giờ, anh ta vẫn chỉ thấy người con gái rất dịu dàng, rất ngây thơ, rất diễm lệ, giản dị một cách đáng yêu, mà thùy mị và nồng nàn một cách vô cùng trung thực.

Đã nắm được một kho báu vô giá như vậy trong tay mà không biết giá trị, mà bây giờ phải chịu mất tất cả thì còn đau khổ nào hơn! Bao nhiêu hình ảnh thân mật, bao nhiêu kỷ niệm dồn dập đến... trong ký ức của George, Amelia bao giờ cũng vẫn ngoan, vẫn đẹp. Anh ta đỏ mặt lên vì hối hận, khi nghĩ lại thái độ ích kỷ thờ ơ của mình khác xa sự trong trắng của người yêu biết bao nhiêu. Trong một phút, George quên hết mọi sự, cả vinh quang, cả chiến tranh, và đôi bạn trai chỉ nói đến chuyện cô thiếu nữ. Ngừng lại một lúc lâu, Osborne hỏi:

- Không biết bây giờ họ ở đâu nhỉ? Trong thư không thấy ghi địa chỉ.

Quả thật George cũng thấy ngượng lắm vì mình đã không hề có một hành động gì tỏ ra quan tâm đến người yêu. Dobbin biết địa chỉ. Không những anh ta gửi tặng cây dương cầm, mà còn viết thư xin bà Sedley cho phép được đến thăm bà. Hôm qua, trước khi về Chatham, anh ta đã gặp bà cụ, gặp cả Amelia nữa. Cũng chính anh ta đã mang lá thư vĩnh biệt và gói tặng vật về cho bạn.

Anh chàng tốt bụng được bà cụ Sedley tiếp đãi ân cần lắm. Nhận được cây dương cầm bà cụ cảm động quá: bà đoán chắc chính George đã gửi tặng lại để tỏ thái độ thông cảm của mình. Đại úy Dobbin mặc bà già hiểu lầm không cải chính, chỉ chăm chú nghe bà kể lại cơn hoạn nạn của gia đình, tỏ ý thông cảm với những nỗi đau khổ, thiếu thốn, và đồng tình trách ông Osborne là quá tàn nhẫn đối với ân nhân cũ. Lúc bà cụ đã trút vợi bớt bầu tâm sự bi thương của mình, anh ta mới có can đảm xin phép gặp Amelia, lúc ấy cô vẫn ngồi trong phòng riêng như mọi khi, bà mẹ phải lên đỡ con gái run run bước xuống cầu thang. Trông Amelia không còn ra hồn người; vẻ thất vọng lộ rõ trên nét mặt thảm thương, đến nỗi anh chàng Dobbin thực thà thấy thế mà phát sợ; nhìn bộ mặt nhợt nhạt im lìm, anh ta linh cảm thấy bao điều tai hại sẽ xảy ra. Ngồi một hai phút, Amelia đặt cái bọc vào tay Dobbin nói:

- Anh đưa hộ cái này cho đại úy Osborne... tôi mong rằng anh ấy vẫn mạnh khỏe... cảm ơn anh có lòng tốt đến thăm... chúng tôi thích chỗ ở mới này lắm. Và tôi... mẹ ạ, có lẽ con nên lên gác thôi, con thấy hơi khó ở.

Nói đoạn cô thiếu nữ mỉm cười cúi chào bước ra ngoài.

Bà mẹ vừa đỡ con lên cầu thang, vừa quay lại lo lắng nhìn Dobbin. Dobbin không thể nào cầm được lòng. Anh ta yêu cô thiếu nữ quá mất rồi. Sau buổi gặp gỡ, nỗi đau xót không bộc bạch ra được, tình thương và sự hãi hùng cứ lởn vởn trong óc anh dường như chính anh là thủ phạm gây ra tai họa.

Osborne biết tin bạn đã gặp người yêu của mình thì săn đón hỏi han tin tức về cô thiếu nữ; nào là “nàng” ra sao, “nàng” có nói gì không? Bấy giờ Dobbin mới cầm lấy tay bạn, nhìn thẳng vào mặt bạn mà bảo: “George, cô ấy sắp chết rồi”. Và nghẹn ngào không nói được nữa.

Trong căn nhà nhỏ bé, nơi gia đình Sedley đang trú ngụ, có một chị hầu gái người Ai len; đã nhiều lần chị ta tìm cách an ủi Amelia. Nhưng vô hiệu; Emmy buồn quá chẳng trả lời, mà cũng chẳng để ý đến sự săn sóc của chị ta nữa.

Bốn giờ đồng hồ sau cuộc nói chuyện giữa Dobbin và Osborne, chị hầu gái này bước vào phòng Amelia : cũng như mọi khi, lúc này Amelia đang âm thầm nghĩ đến những bức thư, đó là những kho báu vật nhỏ của cô.

Chị hầu gái mỉm cười vui vẻ nhí nhảnh tinh quái cố làm cho Emmy chú ý đến mình mà cũng không được, chị ta gọi:

- Cô Emmy ơi.

- Cái gì? Emmy đáp, không quay lại.

- Có thư đây này, gói gì ấy...có ai...Đây, có thư mới gửi cho cô đây, đừng đọc những thư cũ làm gì nữa.

Chị ta đưa cho Emnly một lá thư, cô cầm lấy đọc: “Anh cần gặp em. Emmy yêu quý nhất đời của anh.. em yêu của anh...vợ yêu của anh, hãy đến với anh.

George và bà mẹ Amelia đang đứng ngoài cửa, chờ cô đọc xong lá thư.

Chương 19
BÀ CRAWLEY DƯỠNG BỆNH

Chúng ta đã biết bà Firkin, người hầu phòng của bà Crawley sẵn sàng báo tin tức về bất cứ chuyện gì đáng chú ý xảy ra trong gia đình này cho bà Bute ở Nhà thờ. Chúng ta lại cũng đã thấy bà này tỏ ý vì nể như thế nào đối với người gia nhân của bà Crawley, đồng thời cũng tự coi là một người bạn thân của bà Briggs, người bạn của bà chủ nhà. Tấm tình bạn ấy, bà đã mua bằng hàng nghìn cử chỉ săn sóc, hàng nghìn lời hứa hẹn, không tốn kém gì đối với bà, nhưng người nghe thì hởi lòng hởi dạ.

Các bà nội trợ dè xẻn cần hiểu rằng những lời tuyên bố không mất tiền mua mà có giá trị lắm; nó giúp cho những món ăn tầm thường nhất trong cuộc đời thêm hương vị. Anh chàng ngu xuẩn nào dám nói bậy rằng “Miệng lưỡi giảo hoạt không thay được cơm gạo”(). Nửa phần cuộc đời, người ta vẫn ăn ngon cơm với thứ nước chấm ấy đấy. Alexis Soyer con người bất tử () xưa kia chỉ cần một trinh cũng nấu được món xúp ngon hơn một anh đầu bếp tầm thường tốn kém hàng đồng để mua rau với thịt; cũng như một nghệ sĩ có tài chỉ cần mấy câu đưa đẩy lấy lòng còn có tác dụng hơn hàng nắm tiền trong tay một anh ngốc nghếch. Những đồng tiền đối với vài người thì sinh đầy vì không tiêu hóa được, trong khi đó một số lớn kẻ khác lại ưa ngốn những lời lẽ đẹp đẽ bóng bẩy không bao giờ chán. Bà Bute nói đi nói lại mãi với bà Briggs và bà Firkin rằng bà quý họ lắm, rằng nếu được giàu có như bà Crawley thì bà chẳng tiếc gì hai người bạn tận tâm; hai người đàn bà lấy làm gắn bó với bà quá, tỏ vẻ biết ơn, và thân mật với bà y như đã được bà Bute ban cho bao nhiêu ân huệ.

Trái lại, Rawdon Crawley đúng là một anh lính ngự lâm thô lỗ cục mịch, chẳng hề thèm chú ý đến việc lấy lòng hai người hầu cận của bà cô. Anh ta cứ đường hoàng tỏ thái độ khinh bỉ cả hai ra mặt; có lần anh ta bắt bà Firkin tháo ủng cho mình... trời đang mưa to, anh ta sai bà này đi làm những việc bẩn thỉu, rồi ném cho bà một đồng ghi-nê, coi bà ta như cái ống để tiền không bằng. Thấy bà cô hay đem bà Briggs ra làm trò cười, anh ta cũng bắt chước chế giễu bà ta tàn nhẫn, mất mày mất mặt. Trong khi ấy bà Bute gặp việc gì khó khăn cũng hỏi bà Briggs cách giải quyết, kể cả những việc đòi hỏi đến khiếu thẩm mỹ, lại ca tụng cả tài làm thơ của bà này, hết sức săn đón, lễ độ, tỏ ra rất quý bà. Mỗi khi biếu bà Firkin một tặng vật đáng vài xu, bà lại biết kèm theo vô số lời chúc tụng, khiến cho đối với bà Firkin những đồng xu ấy biến thành những đồng vàng; đồng thời, người hầu phòng này cũng đã sẵn sàng chờ đợi trước những ân huệ lớn lao hơn nhiều mình sẽ được hưởng, khi bà Bute nắm trong tay cơ nghiệp của bà Crawley.

Đối với những người mới bước vào đời, tôi khuyên nên bắt chước thái độ khác nhau của cả hai người nói trên.

Hãy nên tận dụng tất cả thiên hạ; đừng có làm ra vẻ khó chịu, hãy cứ nịnh nọt người khác ngay trước mặt họ, hoặc sau lưng họ nếu bạn thấy lời nói của bạn có hy vọng bay đến tai họ. Hãy làm như Collingwood xưa kia, thấy bất cứ chỗ đất bỏ hoang nào trong nước là rút trong túi ra một hạt dẻ rừng trồng ngay. Trong đời, bạn cũng phải biết “cấy” những lời tán tụng của mình như vậy mới được. Một hạt dẻ rừng không đáng bao lăm nhưng một ngày kia rất có thể nó trở thành một cây đại thụ đấy.

Nói tóm lại, trong lúc Rawdon Crawley còn vận tấy, anh ta chỉ được thiên hạ miễn cưỡng nghe mình, cho nên khi anh ta mất chỗ dựa, không ai buồn thương xót giúp đỡ anh ta nữa. Và khi bà Bute nắm quyền lãnh đạo trong nhà bà Crawley, thì toàn bộ gia nhân lấy làm sung sướng được có một viên chỉ huy như bà; nghe bà hứa hẹn, nói ngon nói ngọt, ai cũng hy vọng rồi tha hồ mà phát tài.

Bà Bute Crawley không bao giờ tự cho phép được tin rằng kẻ thù của mình đã chịu bó tay ngay sau lần thất bại đầu tiên mà không chịu phản công chiếm lại vị trí đã mất.

Bà lại biết Rebecca là người thông minh, mưu mẹo, không đời nào chịu ép một bề mà không giẫy giụa. Bà cảm thấy mình phải chuẩn bị sẵn sàng tác chiến, phải luôn luôn đề phòng kẻ địch tấn công, gài mìn hoặc đánh úp bất ngờ.

Trước hết, tuy bà làm chủ thành phố thật, nhưng phải xem nhân dân trong đó có thực sự trung thành với bà không đã? Bản thân bà Crawley có chịu kiên trì không. Hay là trong thâm tâm bà này vẫn còn muốn thỏa hiệp với kẻ thù đã thất trận? Xưa nay, bà lão vẫn quý Rawdon và Rebecca.

Bà Buten Crawley cũng thấy rõ, không thể chối cãi được, rằng trong phe của bà không có đủ tài làm là cho bà Crawley được vui lòng như Rebecca. Bà vợ viên tu sĩ đành lý thú nhận rằng so với Rebecca, giọng hát của hai cô con gái bà là không nghe được. Mỗi khi Martha và Louisa song ca với nhau, lẽ thường thường bà Crawley phải đi ngủ. Bà này cũng chán ngấy Jim với cái điệu bộ cứng nhắc của một anh sinh viên đại học, cùng những câu chuyện chó chuyện ngựa của ông Bute. Bà Bute nghĩ thầm: “Nếu ta mời bà ấy đến chơi nhà thờ, có lẽ bà ấy đến nổi đóa lên với tất cả rồi trốn mất, chắc chắn vậy, và rất có thể lại rơi vào trong móng vuốt của thằng Rawdon ghê gớm kia, làm mồi ngon cho cái con Sharp rắn độc ấy mất. Song, hãy cứ biết rõ ràng là bây giờ, bà ấy đang ốm nặng chưa thể đi đâu được ít nhất là hàng tháng nữa; trong thời gian này, ta phải tìm kế hoạch che chở cho bà ấy khỏi bị hai vợ chồng tên lưu manh tấn công mới được.

Trong nhũng ngày bà Crawley mạnh khỏe nhất, hễ ai hơi nói rằng bà có vẻ mệt, lập tức bà run rẩy cho đi mời thầy thuốc riêng ngay. Có thể nói rằng, sau biến cố đột ngột của gia đình, bà ốm nặng thực sự; người khỏe hơn bà cũng phải quỵ. Bà Bute thấy mình có bổn phận phải báo với thầy thăm bệnh, với ông thầy bào chế, với người tùy nữ, với mọi gia nhân trong nhà, rằng bệnh trạng bà Crawley rất nguy kịch; bà còn bắt họ cũng phải đi báo tin khắp nơi như vậy. Ngoài phố, bà bắt trải rơm cao đến đầu gối và cất chiếc chuông ở cửa đi. Bà nhất định yêu cầu ông thầy thuốc đến thăm bệnh một ngày hai lần và cứ hai tiếng đồng hồ, lại bắt bệnh nhân uống thuốc đến phềnh bụng lên. Có ai vào phòng, bà vội “suỵt, suỵt” một cách đáng sợ, làm cho bà già nằm trên giường giật nẩy mình.

Nằm trên giường nhìn ra, bao giờ bà Crawley cũng gặp đôi mắt sắc sảo của bà Bute ngó chăm chăm vào mình, bà Bute ngồi vững vàng trong chiếc ghế bành kê bên cạnh. Trong bóng tối (tất cả màn cửa đều buông kín) đôi mắt ấy sáng rực lên. Bà Bute đi lại trong phòng lặng lẽ như con mèo nhón chân trên bộ vuốt bọc nhung. Bà Crawley đã nằm như vậy không biết bao nhiêu ngày. Bà Bute đọc sách đạo cho bà em chồng nghe; suốt những đêm dài đằng đẵng bà Crawley cứ bắt buộc phải nghe tiếng hát của bác gái và tiếng lép bép của ngọn đèn. Khoảng nửa đêm, ông thầy thuốc đến thăm bà đi rón ra rón rén, thế là hết. Bà chỉ còn được nhìn có đôi mắt bà Bute lấp la lấp lánh, hoặc khoảng ánh sáng vàng khè ngọn đèn đêm chiếu hắt lăn trên nền trần tối tăm rầu rĩ. Sống như vậy thì đến ngay Hygeia () cũng đến phải phát ốm, nói gì bà già yếu ớt đáng thương kia? Người ta đồn rằng, hồi còn mạnh khỏe, vui vẻ, con người đáng kính của Hội chợ phù hoa này vẫn thường phát biểu những ý kiến rất phóng túng về tôn giáo và luân lý không kém gì Voltaire () tiên sinh, nhưng đến khi bệnh tật giày vò, thì cái bà già phạm tội hèn nhát này lúc nào cũng chỉ lo chết, làm cho bệnh càng thêm nặng.

Trong một cuốn tiểu thuyết tầm thường như cuốn này không phải là chỗ kể lể dài dòng về những lời giảng đạo bên giường bệnh cũng như những sự suy tưởng về tín ngưỡng (như một nhà tiểu thuyết hiện đại thường làm); độc giả mất tiền để mua vui với một tấn hài kịch, không nên thuyết lý làm người ta buồn ngủ. Tuy nhiên, mặc dầu không dám giảng đạo, tôi cũng phải công nhận rằng trước công chúng, kẻ đóng trò trong Hội chợ phù hoa thường tỏ ra hoạt động, cười cợt vui vẻ, nhưng lúc trở về với đời tư của mình thì không được như vậy; nhiều khi anh ta cũng bị những nỗi thất vọng và hối hận ghê gớm đè nặng tâm trí mình. Những ngài Epicures đau ốm nhớ lại bao bữa tiệc ê hề cao lương mỹ vị đã hưởng cũng không thể yêu đời được, quần áo lộng lẫy và những buổi dạ hội tưng bừng cũng không thể an ủi nhiều lắm những sắc đẹp tàn phai. Những nhà chính khách, đến một lúc nào đó, sẽ không được hài lòng lắm khi nghĩ tới những thành công rực rỡ đã qua của mình, sự thành công hoặc những khoái lạc hôm qua trở thành không nghĩa lí gì khi cái buổi mai chắc chắn sẽ phải đến (tuy không biết đến lúc nào) mà không sớm thì muộn thế nào cũng có ngày ta phải nghĩ tới, bỗng hiện ra. Ôi, những người bạn đồng nghiệp mặc áo sặc sỡ () ơi, phải chăng đã bao lần chúng ta từng phát ốm lên vì nhăn nhó, vì nhảy nhót và tiếng nhạc mũ kêu loong coong mãi bên tai? Mục đích của tôi, thưa các bạn đồng nghiệp, là muốn cùng các bạn dạo thăm Hội chợ phù hoa, xem các gian hàng, thưởng thức các trò biểu diễn. Đoạn, sau cuộc đốt pháo bông, chúng ta sẽ từ giã mọi sự ồn ào vui vẻ, để về nhà sống cuộc đời riêng tư cực kỳ khốn khổ.

Bà Bute Crawley nghĩ thầm: “Giá ông lão đáng thương nhà mình có đầu óc một tý, thì bây giờ đã giúp được vô khối việc ích lợi cho bà cụ đau khổ này. Ông ấy có thể khiến bà ta hối hận về những tư tưởng quá táo bạo trước kia, có thể khuyên bà ta trở về với nhiệm vụ và truất quyền thừa kế của thằng cháu khốn kiếp đã làm mất danh dự của riêng nó và của cả gia đình. Ông ấy có thể khuyên bà Crawley ăn ở công bằng với hai đứa con gái và hai thằng con trai nhà mình; chúng nó đang cần và thật xứng đáng được giúp đỡ”.

Biết thù ghét cái xấu, thường thường là điều kiện để biết làm điều thiện, cho nên bà Bute Crawley ra sức mà tiêm nhiễm vào tư tưởng bà em chồng sự ghê tởm của những tội lỗi chồng chất do Rawdon Crawley gây ra: bà thím liệt kê ra một tràng dài những thói xấu của anh cháu, đủ để kết án cả một trung đoàn toàn những sĩ quan trẻ tuổi. Nếu có người nào phạm lỗi trong cuộc sống, có lẽ không nhà luân lý nào lại thiết tha vạch cái xấu ra hộ bằng những người thân thích của người đó. Cho nên bà Bute Crawley đã tỏ ra rất quan tâm và nắm vững mọi chi tiết về đời tư của Rawdon Crawley. Bà ta biết tỉ mỉ chuyện xích mích đáng buồn giữa Rawdon và đại úy Marker; Rawdon sai, nhưng cuối cùng đã bắn chết viên đại úy. Bà ta biết cả chuyện vị bá tước bất hạnh Dovedale đánh bạc với Rawdon thế nào mà mẹ người thanh niên này phải đích thân dọn nhà đến ở tại Luân-đôn để theo dõi việc học hành của con trai. Từ nhỏ Dovedale chưa hề biết cây bài là gì, vậy mà đến Luân- đôn, bị ngay Rawdon cám dỗ ở quán “Cây dừa”; tên chuyên quyến rũ và làm sa đọa những người trẻ tuổi này cho Dovedale uống rượu say, rồi thịt mất hơn bốn nghìn đồng.

Bà ta còn kể lại thật hào hứng tỷ mỉ về nỗi đau khổ của những gia đình nền nếp xứ quê bị thằng cháu làm khánh kiệt ra sao... con trai thì bị lâm vào cảnh khốn cùng và ô nhục, con gái thì bị quyến rũ làm điều bậy bạ. Bà lại biết rõ bao nhà thương gia đã bị phá sản vì thói “ngông” của hắn... bao nhiêu thủ đoạn đê tiện, bao nhiêu mánh khóe dối trá hắn đã dùng để lừa gạt bà cô rộng lượng nhất; và để đền đáp những sự hi sinh ấy, hắn đã vô ơn và giễu cợt bà ta. Những chuyện này bà kể lại ít một, ít một, cho bà Crawley nghe, cốt giúp bà này khỏi mắc hợm. Bà cảm thấy ở cương vị một người đàn bà ngoan đạo, lại là một bà mẹ, mình cần hành động như vậy. Bà không hề mảy may hối hận về việc đã dùng cái lưỡi mà thí mạng kẻ thù một cách không thương tiếc. Không những thế, bà còn nghĩ rằng việc mình làm là ngoan đạo và đáng phục, tự khen mình có can đảm theo đuổi đến cùng.

Thật đấy, bạn chỉ cần ngỏ ý muốn được nghe nói xấu một người nào đó, lập tức thân nhân của họ sẵn sàng giúp bạn. Vả lại, ta phải công nhận rằng trong trường hợp của Rawdon Crawley, nguyên sự thực cũng đã đủ kết tội tên khốn nạn đó, chẳng cần phải dùng đến sự vu cáo, bịa đặt làm gì.

Bây giờ Rebecca đã trở thành người trong gia đình cho nên cũng được bà Bute có lòng yêu hỏi thăm đến rất tỷ mỉ. Con người tìm hiểu sự thực không bao giờ mệt mỏi ấy, sau khi đã ra lệnh dứt khoát không ai được tiếp người nhà của Rawdon hoặc nhận thư từ của anh ta, bèn lấy xe ngựa của bà Pinkerton ở Chiswick Mall báo cho bà bạn cái tin ghê gớm là cô Rebecca đã quyến rũ mất đại úy Crawley rồi. Bà Pinkerton kể lại cho bà nhiều chi tiết quái gở về dòng dõi của cô giáo dạy trẻ cũ, và về cuộc đời của cô ta hồi nhỏ. Bà bạn của nhà từ điển học cung cấp những tài liệu rất phong phú. Bà sai cô Jemima đi tìm những tờ biên lai và thư từ của ông giáo dạy vẽ. Lá thư này ông ta viết từ trong một nhà giam những kẻ “bị bỏ tù vì nợ” yêu cầu ứng trước một món tiền; lá thư kia gồm toàn những lời cảm tạ bà góa ở Chiswick vì cô con gái được phép nhập học; còn lá thư cuối cùng nhà nghệ sĩ bất hạnh viết trên giường bệnh lúc hấp hối gửi gắm đứa con gái mồ côi nhờ bà Pinkerton che chở. Có cả những lá thư Rebecca viết hồi còn bé xin bà giúp đỡ bố, hoặc bầy tỏ lòng biết ơn của mình. Trong Hội chợ phù hoa, có lẽ không có lời châm biếm nào tài hơn là những lá thư. Cứ đọc lại thư từ người bạn thân nhất của ta viết hồi mười năm về trước mà xem; bây giờ, anh bạn quý ấy bị ta ghét cay ghét đắng rồi; ta lại đọc tập thư của cô em gái viết cho ta, mới thấy hai anh em yêu quý nhau như vàng cho tới khi chỉ vì cái gia tài đáng giá hai mươi đồng tiền vàng mà ghét nhau như quân thù? Này đây là những bức thư chữ viết nguệch ngoạc của con trai bạn; từ khi nó hư hỏng cưỡng lại ý bạn, bạn đã đau khổ vì nó biết bao nhiêu! Và này đây là một tập thư chính tay bạn viết, đầy những lời lẽ nồng nàn yêu dấu, bị người yêu của bạn gửi trả khi cô ta bỏ đi lấy một ông nhà giầu... bây giờ đối với cô tình nhân ấy, bạn coi xa lạ chẳng khác gì đối với nữ hoàng Elizabeth. Những lời yêu đương thề thốt, những lời hứa hẹn tâm tình, những lời biết ơn... sau một thời gian, đọc lại mà thấy tức cười ra phết! Trong Hội chợ phù hoa, nên đặt ra cái lệ là sau một thời gian ngắn cần thiết, tất cả mọi thứ giấy tờ đều phải hủy bỏ (trừ biên lại của người bán hàng). Phải giết cho tiệt cái bọn lang băm và bọn chán đời đang ra sức quảng cáo cho thứ mực tai hại rửa không phai kia đi mới được. Thứ mực tốt nhất nên dùng trong Hội chợ phù hoa là thứ mực chỉ hai ngày là phai hết, giấy lại sạch bong như mới, để bạn có thể dùng ngay mà viết cho người khác.

Từ nhà bà Pinkerton, bà Bute không biết mệt mỏi lần theo dấu vết hai bố con ông Sharp đến tận ngôi nhà ở phố Hy-lạp, nơi xưa kia ông ta trú ngụ, và còn thấy trên tường phòng khám treo bức chân dung bà chủ nhà mặc áo sa- tanh trắng cạnh ông chồng mặc áo có đính khuy đồng. Ông Sharp không có tiền trả tiền thuê nhà phải vẽ bức tranh này để trừ nợ. Bà Stokes là người hay chuyện, mau mồm kể lại tất cả những điều bà biết về ông Sharp; những là ông ta nghèo kiết và trác táng ra sao, tính tình vui vẻ và hay bỡn cợt thế nào; rồi thì chuyện ông ta bị bọn mõ tòa và chủ nợ luôn luôn làm rầy rà, chuyện ông ta chỉ chịu làm phép cưới cô vợ ít lâu trước khi cô này chết, khiến cho bà chủ nhà tuy không phải chịu đựng gì với cô ta mà cũng lấy làm ghê sợ. Bà còn kể thêm rằng Rebecca trước kia là một con bé láo lếu mất dạy; có tài làm điệu bộ bắt chước tất cả mọi người để làm trò... Cô bé chuyên được sai đi mua rượu ở các tửu quán, và trong các phòng vẽ của khu phố không ai không biết mặt. Tóm lại bà Bute thu thập được một bản báo cáo rất đầy đủ về dòng dõi, về giáo dục, về tư cách của cô cháu dâu: giá Rebecca biết mình được bà thím chồng quan tâm đến như vậy hẳn cô phải hài lòng lắm.

Việc điều tra được tiến hành một cách khéo léo ấy nhằm mục đích phục vụ lợi ích của bà Crawley. Vợ Rawdon Crawley là con gái một vũ nữ ở rạp Opera. Chính cô ta cũng đã nhảy cho thiên hạ xem. Cô ta đã làm kiểu mẫu cho các họa sĩ. Cô ta thừa hưởng một nền giáo dục thật xứng đáng là con gái mẹ. Cô ta cùng uống rượu mạnh với bố v.v... và v.v…Cùng là những kẻ mất linh hồn, đôi trai gái ấy lấy nhau là phải. Bài học luận lý rút ra từ câu chuyện của bà Bute là đôi vợ chồng ấy hư hỏng quá lắm rồi, những người biết tự trọng không ai còn nên nhìn mặt họ nữa. Những tài liệu ấy chính là những quân nhu khí giới bà Bute chuẩn bị đầy đủ ở công viên Lane để chống lại hai vợ chồng Rawdon vì bà biết thế nào họ cũng vây hãm bà Crawley.

Tuy nhiên, nếu trong việc sắp đặt này bà Bute có đáng trách, thì chính vì bà đã quá mức độ cần thiết; thành ra, mặc dầu người ốm chịu khuất phục trước uy quyền của bà, nhưng vì uy quyền ấy quá nghiệt ngã, quá bức bách, nên kẻ nạn nhân cảm thấy muốn lợi dụng cơ hội đầu tiên để thoát khỏi vòng kiềm tỏa. Mấy bà quen chỉ huy- đó là sự kiêu hãnh của phái yếu - cứ muốn ra lệnh cho tất cả mọi người trong tất cả mọi việc, cứ muốn tỏ ra biết rõ hơn người khác mọi điều quan hệ đến hạnh phúc của bản thân người ta; nhiều khi họ không ngờ rằng sự thống trị hà khắc của họ có thể gây ra một cuộc nổi loạn trong gia đình, hoặc những kết quả tai hại khác.

Chính là trường hợp bà Bute; đích thị bà có thiện ý tốt đẹp nhất trần đời, nên mới hy sinh cả giấc ngủ, cả bữa ăn, cả việc dạo mát hít không khí trong lành, chịu vất vả đến kiệt sức để mưu lợi ích cho em chồng đang ốm. Bà yên trí rằng em chồng mắc bệnh trầm trọng đến nỗi suýt nữa bà cho mua sẵn quan tài đem chôn. Một bữa, bà trình bày với ông Clamp, ông thầy bào chế, về những sự hy sinh của mình và kết quả đạt được ra sao. Bà nói:

- Ông Clump thân mến ơi, tôi đã không quản ngại sức lực săn sóc cho người ốm được bình phục! Cái thằng cháu trai vô ơn ấy nó bỏ mặc cô nó nằm trơ trọi trên giường bệnh.Tôi không bao giờ ngại vất vả, tôi không bao giờ từ chối bất cứ một sự hy sinh nào.

Ông Clump cúi chào, đáp:

- Phải nhận rằng bà đã tận tâm săn sóc người ốm một cách đáng kính nhưng…

- Từ bữa tôi đến đây, tôi không mấy khi được chợp mắt. Tôi hy sinh hết: giấc ngủ, sức khoẻ, thú vui, để làm tròn nhiệm vụ. Hồi thằng James nhà tôi lên đậu mùa tôi có chịu nhờ người khác trông nom cho cháu đâu. Không.

- Một bà mẹ xứng đáng phải như vậy, thưa bà, bà thật là một bậc hiền mẫu; nhưng…

Bà Bute vẫn tiếp, vẻ mặt trang trọng đầy tin tưởng.

- Là một người mẹ trong gia đình, là vợ một tu sĩ Anh quốc, tôi tin tưởng rằng những nguyên tắc cư xử ấy là tốt. Ông Clump ạ, trời còn cho tôi được sống làm người, không bao giờ... không bao giờ tôi rời bỏ nhiệm vụ của tôi. Kẻ khác có thể bỏ mặc người đàn bà tóc bạc kia đau khổ trên giường bệnh (nói đến đây, bà Bute chỉ vào một bộ tóc giả màu cà-phê của bà Crawley, treo trên một cái giá trong phòng rửa mặt) nhưng tôi ấy à, không bao giờ. ông Clump ạ, tôi e rằng, tôi tin rằng người ốm kia cần sự giúp đỡ về tinh thần cũng không kém gì thuốc men đâu.

Đến đây, ông Clump cương quyết bày tỏ ý kiến một cách ngọt ngào:

- Thưa bà, điều tôi muốn bà lưu ý bà, khi bà đề cập đến những tình cảm đáng quý kia, tôi nghĩ rằng bà đã lo lắng quá đáng về bệnh trạng của bà bạn quý, và đã phí phạm sức khỏe một cách vô ích đấy.

Bà Bute chặn ngay:

- Tôi rất sẵn sàng hy sinh cả tính mệnh tôi để làm tròn nhiệm vụ, hoặc để mưu lợi ích cho bất cứ người nào trong gia đình chồng tôi.

Ông Clump lịch sự đáp:

- Thưa bà, rất đúng, nếu cần thiết. Nhưng chúng tôi không muốn bà Bute Crawley phải là một kẻ tử đạo. Bác sĩ Squills và tôi đã cẩn thận xét kỹ bệnh trạng của bà Crawley, như bà đã rõ. Chúng tôi thấy bà ấy có vẻ buồn bã lo nghĩ vì những biến cố xảy ra trong gia đình.

Bà Bute vội kêu lên:

- Tại thằng cháu trai của bà ấy hư hỏng quá đấy.

- Vì thế, bà ấy sinh lo nghĩ. Và bà đã đến đây như một vị thần hộ mệnh để an ủi người bệnh trong cơn khủng hoảng tinh thần. Nhưng bác sĩ Squills và tôi thấy rằng, xét bệnh trạng của người ốm, không nên bắt ru rú mãi trong phòng. Như vậy có thể làm cho sức khỏe càng giảm sút. Bà ấy cần được đổi không khí, được vui vẻ, đó là những thang thuốc thần hiệu nhất đấy. (ông Clump cười để lộ ra bộ răng rất đẹp). Bà hãy cố khuyên bà Crawley đi lại, đừng nằm một chỗ mãi, ảnh hưởng đến tinh thần; lên ngay xe ngựa đi chơi đây đó đôi chút và, xin bà cho phép tôi được nói như thế này, như vậy chính đôi má của bà cũng sẽ được hồng hào như cũ, bà Bute Crawley ạ.

Bà Bute đáp (và con mèo ích kỷ giấu kín trong bị thòi ngay cái đuôi ra) :

- Sợ bà ấy gặp mặt thằng cháu trời đánh trong công viên mất. Họ mách tôi rằng nó giong xe đi chơi tay đôi với cái con tòng phạm trơ trẽn. Như thế thì đến ốm lại vì xúc động ông Clump ạ, không thể đưa bà ấy đi chơi được, tôi còn ở đây trông nom thì không thể để bà ấy đi đâu được. Còn như sức khỏe của tôi ấy à? Thưa ông, tôi vui lòng hy sinh hết vì nhiệm vụ.

Ông Clump bèn nói thẳng:

- Vậy tôi xin nói thực, nếu cứ giam mãi bà ấy trong buồng tối thì chúng tôi không chịu trách nhiệm về tính mạng của người ốm đâu. Bà ấy đang lo nghĩ quá nhiều, không chừng chỉ ít ngày nữa là đi đứt. Nếu bà mong cho đại úy Crawley được hưởng gia tài thì, thưa bà tôi xin nói thẳng rằng bà đã giúp ông ấy rất đắc lực đấy.

Bà Bute kêu lên:

- Trời đất ơi? Bà ấy sắp chết à. Sao ông không cho tôi biết sớm hơn?

Đêm hôm trước, ông Clump và bác sĩ Squills đã hội ý với nhau về bệnh tình của bà Crawley trong khi ngồi uống rượu trong nhà ông Lapin Warren, có bà vợ sắp sinh đứa con thứ ba, Bác sĩ Squills nhận xét:

- Này ông Clump, cái con mụ ở Hamshire đến thật là một con quỷ cái. Nó muốn cứ giữ rịt lấy mụ già Tilly Crawley thôi...Rượu ngon tuyệt nhỉ.

Ông Clump đáp:

- Cái thằng Rawdon Crawley mới ngu chứ, đi lấy một con bé dạy trẻ làm vợ? Nhưng kể ra con bé trông cũng kháu.

Bác sĩ Squills nói:

- Mắt biếc, da nõn nà, mặt xinh, trán nở, đẹp. Trông ra gì đấy chứ, nhưng cái thằng Crawley cũng ngu thật.

Ông bào chế tán thành:

- Ngu bỏ mẹ đi ấy.

- Dĩ nhiên bà lão sẽ cắt phần gia tài của hắn.

Ngừng một lát, ông nói tiếp:

- Bà lão sẽ để lại một gia tài lớn đấy nhỉ?

Ông Clump cười:

- Lớn lắm! Tôi chỉ mong bà ấy không chết để chém mỗi năm hai trăm đồng thôi.

- Nội hai tháng nữa, thế nào con mụ ở Hamshire kia cũng giết chết bà lão, nếu ông không can thiệp, ông Clump ạ. Bệnh già, lại bội thực, rồi lo nghĩ; tim đập mạnh lắm; mắc chứng xung huyết não; thế là tiêu. Clump, phải dựng bà ấy dậy, lôi bà ấy ra ngoài. Nếu không, chỉ vài tuần nữa thì đừng có hy vọng gì xoay được mỗi năm hai trăm đồng.

Lời khuyến khích trên đã khiến ông thầy bào chế thẳng thắn bày tỏ ý kiến của mình với bà Bute Crawley.

Nắm chặt bà già trong tay, lại chỉ có hai người với nhau, nhiều lần bà Bute đã tấn công xui bà Crawley chữa lại tờ di chúc; nhưng cứ mỗi khi nghe nhắc đến chuyện ấy, bà Crawley lại cuống cuồng lo chết; thành ra bà Bute đành chờ đến khi nào bà Crawley vui vẻ sẽ lại đả động đến vấn đề kia. Nhưng đưa bà ấy đi chơi đâu bây giờ? Chỉ có một chỗ yên trí sẽ không gặp mặt cái thằng Rawdon đáng ghét kia, đó là đi nhà thờ; nhưng bà Crawley lại không ưa gì nhà thờ, bà Bute biết rõ điều ấy quá. Bà nghĩ: “Ta phải đi thăm những vùng ngoại ô thành Luân-đôn mới được. Nghe nói đó là những thắng cảnh đẹp nhất trần đời”. Thế là tự bà đâm ra yêu những khu Hampstead, Hornsey; thấy phong cảnh khu Dulwich rất hấp dẫn, thế là bà đưa nạn nhân của mình lên xe ngựa đi thăm những vùng quê ấy; vừa đi chơi bà vừa nói chuyện về hai vợ chồng Rawdon, cốt mọi cơ hội làm cho bà lão thêm căm ghét đôi trai gái hư đốn ấy.

Có nhẽ tại bà Bute làm găng quá; vì thế, tuy bà Bute đạt được kết quả khiến cho bà cô thù ghét đứa cháu không biết vâng lời, thì trong thâm tâm bà Crawley cũng cảm thấy khó chịu: bà ghê sợ con người đang hành hạ mình, và đang tìm cách thoát khỏi tay bà Bute. Được ít hôm, bà Crawley nhất định không chịu đi chơi ở Hornsey và Highgate; bà muốn ra công viên chơi. Bà Bute chỉ sợ chạm trán với thằng cháu Rawdon hư đốn ở đó. Quả nhiên bà lo là đúng.

Một buổi thấy chiếc xe ngựa của Rawdon đằng xa chạy lại Rebecca ngồi cạnh chồng. Trên xe ngựa của kẻ thù, bà Crawley vẫn ngồi chỗ mọi khi, bà Bute ngồi bên tay trái. Bà Briggs ngồi ở ghế sau với con chó. Giờ phút gay go đã đến. Rebecca nhận ra chiếc xe, tim đập thình thịch. Lúc hai xe gặp nhau, cô ta chắp hai bàn tay lại, nhìn thẳng vào bà già, nét mặt đầy vẻ gắn bó và trung thành. Rawdon cũng run lẩy bẩy, mặt đỏ bừng lên sau bộ ria mép. Người duy nhất bị xúc động trên chiếc xe kia là bà Briggs; bà này giương đôi mắt to tướng nhìn về phía hai bà bạn. Nhưng bà Crawley vẫn nhất định quay mũ về phía con người xảo quyệt còn bà Bute thì đang mải mê nựng con chó con, gọi nó nào là cún ngoan, cún yêu, cún quý của bà. Thế là hai chiếc xe đi về hai phía.

Rawdon bảo vợ:

- Hỏng bét rồi!

Rebecca đáp:

- Anh Rawdon, ta cố một lần nữa xem sao. Anh không thể cho bánh xe của mình móc vào bánh xe kia được ư, anh yêu dấu của em?

Rawdon không đủ can đảm làm thế. Lúc hai xe lại gặp nhau, anh ta đứng hẳn dậy trên xe, giơ tay sẵn sàng ngả mũ chào, mắt chăm chăm ngó sang. Lần này bà Crawley không quay đi chỗ khác, nhưng cả bà và bà Bute cùng nhìn thẳng vào mặt anh cháu như nhìn người không quen.

Crawley văng tục một câu, ngồi phịch xuống ghế, đánh xe ra khỏi công viên về nhà, vô cùng chán nản.

Bà Bute đã thắng một trận vẻ vang quyết định. Nhưng bà cũng cảm thấy những cuộc gặp gỡ như vậy rất nguy hiểm, vì rõ ràng bà Crawley có vẻ bị xúc động. Bà quyết định rằng để đảm bảo sức khỏe, bà em chồng nhất định phải rời thành phố xa ít lâu, và nhất định đòi đi Brighton.


Chương 20
ĐẠI ÚY DOBBIN ĐÓNG VAI SỨ GIẢ CỦA ÔNG TƠ HỒNG

Tự nhiên đại úy Dobbin thấy mình trở thành người thu xếp lo liệu việc nhân duyên giữa George Osborne và Amelia. Không có anh ta, mối duyên khó lòng thành tựu. Anh ta mỉm cười chua chát mà nghĩ thầm rằng trên đời này, kẻ duy nhất phải lo lắng việc ấy lại chính là mình. Tuy việc thu xếp sắp đặt cho hai bên trai gái đối với đại úy Dobbin là một việc khổ tâm nhất, nhưng anh vẫn có thói quen không ngần ngại, không phàn nàn, cứ thực hiện bằng được nhiệm vụ của mình. Anh ta lại yên trí rằng, nếu Amelia không lấy được Osborne, thế nào cô cũng đến chết vì thất vọng; anh ta quyết định phải cứu sống cô bằng được.

Tôi không dám đi vào chi tiết tỷ mỉ của cuộc gặp gỡ giữa Amelia và George khi nhờ có anh bạn thực thà Dobbin can thiệp, George lại được dẫn trở về dưới chân (mà sao tôi lại không dám nói là trong cánh tay) của cô ý trung nhân trẻ tuổi. Nhìn thấy bộ mặt xinh đẹp như thế mà bị nỗi lo âu thất vọng tàn phá, giày vò thê thảm, và nghe Amelia kể lại câu chuyện đau lòng bằng những lời giản dị ngọt ngào, kẻ sắt đá hơn George cũng phải cảm động đến phát khóc ấy chứ. Lúc bà mẹ run run dắt Osborne lại gần, Amelia không ngất đi, chỉ làm dịu bớt cơn sầu muộn bằng cách ngả đầu vào vai người yêu, rồi thút thít khóc. Bà già Sedley vừa lòng quá, bà nghĩ rằng bây giờ là lúc nên để cho đôi trẻ được tự do. Emmy hôn tay người yêu, nước mắt rỏ xuống ướt đầm, dường như George là ông chúa, còn chính cô thì đang cầu xin người yêu tha thứ ban ơn vì cô đã phạm tội gì ghê gớm.

George Osborne lấy làm cảm động và cũng thấy thinh thích trước cử chỉ phục tùng tuyệt đối của người yêu. Anh ta cảm thấy người con gái trung thành, dịu hiền, giản dị này đã là kẻ nô lệ của mình; biết mình có quyền lực, George ta cũng thấy tâm hồn mình rung động. Như một ông chúa ở các nước phương đông, anh ta cảm thấy mình rộng lượng, rất có thể cúi xuống nhấc cô Esther() này đang phủ phục dưới chân mình dậy, đặt lên ngai vàng phong làm hoàng hậu. Không những thế, sắc đẹp ủ dột của cô càng khiến George cảm động nhiều hơn. Cho nên anh ta nâng người yêu dậy và tha thứ cho cô, tạm gọi như thế. Mọi niềm hy vọng và tình cảm của Amelia thì như một bông hoa thiếu ánh sáng, sắc tàn, hương phai, cánh héo, giờ được mặt trời soi đến, lại tươi mơn mởn đầy nhựa sống. Trên nét mặt rạng rỡ của cô hôm nay, không còn nhận được ra vết tích của khuôn mặt nhợt nhạt, âu sầu trằn trọc trên gối đêm qua, khi Amelia không hề chú ý đến bất cứ vật gì xung quanh. Chị hầu gái người Ai len thấy cô thay đổi như vậy cũng vui lây, xin được hôn một cái vào đôi má đột nhiên trở lại hồng hào như xưa. Amelia vòng tay ôm lấy cổ chị ta và như một đứa trẻ, cô hôn chị hầu gái một cái thật nồng nàn ; Amelia vẫn trẻ con lắm. Đêm hôm ấy, cô thiếu nữ ngủ một giấc êm đềm lại sức. Hôm sau, trong ánh nắng sớm, cô thức dậy, khuôn mặt rạng rỡ hạnh phúc. Cô nghĩ thầm: - Hôm nay, thế nào anh ấy cũng đến. Trong đời, không có ai cao quý được bằng anh ấy.

Thì chính George cũng đang nghĩ rằng mình là con người rộng lượng nhất thiên hạ, và nếu mình cưới cô thiếu nữ này làm vợ, tức là đã chịu một sự hy sinh ghê gớm lắm.

Trong lúc Amelia và Osborne đang tỷ tê trò chuyện tay đôi với nhau ở trên gác, thì ở dưới nhà bà cụ Sedley cũng đang cùng đại úy Dobbin bàn tán về câu chuyện của hai người, xem nên thu xếp việc hôn nhân của đôi trẻ thế nào cho tiện. Quả là một người đàn bà thực sự, sau khi cho đôi trẻ gặp nhau, bà Sedley đích thân cho phép hai người thả sức hôn nhau đằm thắm; nhưng bà hiểu tính chồng, biết rằng không khi nào ông Sedley chịu gả con gái cho con trai kẻ đã đối xử với ông một cách hèn hạ đê tiện, đáng khinh như thế. Bà cụ kể lại tỷ mỉ những câu chuyện cũ, hồi gia đình bà làm ăn còn phát đạt... trong khi ông Osborne vẫn sống rất khổ cực trong một căn nhà ở Phố Mới. Một lần bà Osborne sinh con, bà Sedley gửi cho những quần áo của Joe mặc thừa; bà bạn nhận món quà mà sung sướng quá. Bà tin rằng chồng mình rất đau khổ trước thái độ vô ơn quái gở của con người kia, hẳn không khi nào ông ưng thuận cho hai trẻ lấy nhau, chắc chắn không khi nào. Dobbin cười nói:

- Thưa bà, vậy thì họ chỉ có một cách là đi trốn, bắt chước đại úy Rawdon Crawley và cô giáo dạy trẻ bạn của Emmy vậy.

- Cái gì? Có thể nào như thế được? Không bao giờ.

Bà cụ Sedley nghe nói bối rối quá. Ước gì bà Blenkinsop có mặt ở đây mà nghe chuyện nhỉ. Bà Blenkinsop vẫn không ưa gì cô Sharp... May quá, Joe không rơi vào tay cô ta; và bà kể lại câu chuyện tình duyên mới bén giữa Rebecca và anh chàng ủy viên tài phán quận Boggley Wollah.

Dobbin không sợ ông cụ Sedley giận dữ bằng ông bố của George. Anh ta công nhận rằng mình rất nghi ngại về thái độ của vị sa hoàng lông mày rậm tức là nhà đại thương gia ở khu phố Russell. Dobbin nghĩ thầm: “Ông lão đã dứt khoát phản đối cuộc hôn nhân rồi”. Anh ta biết tính Osborne rất cương quyết, đã định là làm. Anh suy tính: “George chỉ còn một hy vọng duy nhất là sẽ lập nên chiến công trong cuộc chiến tranh sắp nổ ra để cha tha thứ. Nếu anh ta chết, cô ấy cũng không sống được! Nghe nói anh ta có một ít tiền mẹ chết để lại cho... có thể mua được một chân thiếu tá, cũng có thể bán lại cái lon đại úy, di cư sang Canada làm ăn, hoặc yên trí về quê sống trong một túp lều tranh mà làm ruộng cũng ổn. Dobbin thầm nghĩ có cô vợ như thế thì đến cùng trời cuối biển cũng không sao; giá có phải đi Siberia cũng cứ vui như thường. Có điều lạ là anh chàng mộc mạc, dại dột này không hề nghĩ rằng nếu thiếu điều kiện để cưỡi một chiếc xe ngựa đẹp, hoặc kém số thu hoạch không thết đãi được bạn bè cho sang trọng, thì cuộc hôn nhân giữa Giorbgiơ và cô Sedley cũng rất có thể bị gàn quải.

Chính vì suy tính như thế, nên Dobbin thấy cần mau chóng thu xếp cuộc nhân duyên cho xong, càng sớm càng hay. Không biết có phải anh ta muốn công việc kết thúc nhanh cũng như người ta thường muốn lo liệu việc tang ma cho sớm chu tất khi trong nhà có người chết, hoặc khi bắt buộc phải chia ly với ai thì mong cho giờ chia tay mau tới? Chỉ biết rằng Dobbin hết sức quan tâm săn sóc đến việc hôn nhân của bạn. Anh khuyên bạn nên hành động ngay, lại gợi ý cho bạn rằng, nếu trên mặt báo có đăng tin George được thăng thưởng, sẽ có nhiều hy vọng là được ông bố tha thứ chuyện cũ. Nếu cần, Dobbin tình nguyện đích thân đến giáp mặt cả hai bên cha mẹ để lo liệu công việc. Tóm lại, Dobbin khuyên bạn nên giải quyết mọi việc trước khi lệnh xuất phát ban hành, vì ai cũng thấy rõ trung đoàn thế nào cũng được lệnh rời nước Anh ra chiến đấu ở ngoại quốc.

Bà Sedley rất tán thành ý kiến của Dobbin; bà cũng không ngại vì vậy mà xích mích với ông chồng. Tính toán đâu vào đấy, Dobbin tìm đến gặp ông John Sedley tại quán cà-phê Tapioca; từ khi những văn phòng riêng bị đóng cửa, ông lão vẫn lấy nơi này làm chỗ viết và nhận mọi thứ giấy tờ, ông cụ thường gói tất cả giấy tờ lại thành những bọc bí mật, thu thu trong vạt áo choàng mang đi. Không có cái gì bi đát hơn là những cuộc vận động, những sự thu xếp đầy bí ẩn của một kẻ bị phá sản. Những lá thư ký tên những người giầu có, những tờ giấy dính nhờn mồ hôi toàn những lời an ủi, hoặc hứa hẹn giúp đỡ mà ông lão đặt biết bao hy vọng vào đó. Trong cuộc sống, bạn đọc thân mến hẳn đã có lần gặp một người bạn không may như thế. Anh ta kéo bạn ra một góc nhà, lôi trong túi áo một bọc giấy má, cởi nút buộc, răng vẫn còn cắn một đầu dây vội vã giơ cho bạn xem một lá thư chờ đợi đã bao lâu nay vừa nhận được; và bạn quên sao được đôi mắt tha thiết buồn rầu tuyệt vọng của anh ta chăm chú nhìn bạn?

Dobbin đã nhìn thấy ông John Sedley, con người giầu có vui vẻ yêu đời xưa kia, bây giờ trở thành như vậy đấy. Bộ áo trước kia lúc nào cũng mới nguyên, bây giờ bạc phếch, sờn rách, trơ các khuy bằng đồng ra. Bộ mặt già xọm đi, râu ria mọc tua tủa. Chiếc cổ áo và chiếc cà vạt nhầu nát rũ rượi rủ xuống chiếc gi-lê đã trở thành quá rộng. Ngày trước, mỗi khi thết đãi George và Dobbin ở tiệm cà phê, ông lão thường vui vẻ cười nói ầm ĩ hơn tất cả mọi người; bọn hầu bàn hay xúm xít quanh ông. Bây giờ trông ông lão ngồi thu mình một cách tối tăm trong quán Tapiôca mà thảm quá. Một bác hầu bàn có tuổi mắt lờ đờ đứng cạnh; bác ta đi đôi tất bẩn thỉu, xỏ vào một đôi giầy há mõm, công việc của bác ta là đưa xi gắn thư, đưa mực đựng trong cái lọ bằng chì, và giấy cho khách. Trong quán nước tiêu điều này, hình như khách chỉ dùng có ngần ấy thứ. Hồi Dobbin còn nhỏ, ông già Sedley vẫn thường cho tiền ăn quà, sau này nhiều khi ông vẫn ưa đem anh ta ra giễu cợt cho vui; nhưng bây giờ gặp lại, ông già dè dặt chìa tay ra bắt, có vẻ hơi khúm núm, và gọi anh ta bằng “ngài”. Thấy ông lão tiếp đãi và xưng hô như thế, William Dobbin cảm thấy ngường ngượng và hối hận, y như chính mình có tội trong việc ông Sedley phải hạ mình vì bị phá sản như vậy.

- Thưa ngài đại úy Dobbin, rất vui mừng được gặp ngài.

Ông lão buồn rầu nhìn anh nói vậy. Vóc dáng gày gò và bộ quân phục của Dobbin khiến cho đôi mắt lờ đờ của bác hầu bàn sáng lên vì tò mò, và người đàn bà mặc áo đen đang ngồi ngủ gật giữa đống chai cốc cũng như choàng tỉnh dậy.

- Cụ cố vấn nhà ta và phu nhân sinh ra ngài có được mạnh khỏe không?

Vừa nói tiếng “phu nhân”, ông lão vừa quay ra nhìn bác hầu bàn như muốn thanh minh rằng “John, anh thấy không, tôi vẫn còn có bè bạn trong giới thượng lưu đấy”.

- Ngài định yêu cầu tôi việc gì hẳn? Hai ông bạn trẻ của tôi, ông Dale và ông Spiggot bây giờ thay mặt tôi điều khiển mọi công việc cho tới khi nào tôi thiết lập văn phòng mới. Thưa đại úy, ngài hiểu cho rằng tôi chỉ làm việc tại đây tạm thời. Tôi có thể giúp ngài điều gì nhỉ? Ngài dùng chút gì chăng?

Dobbin ngần ngại đáp rằng mình không thấy đói, không khát, cũng không có việc làm ăn gì cần điều đình, chỉ muốn đến hỏi thăm sức khỏe của ông Sedley và bắt tay với ông bạn già, thế thôi. Anh ta nói tiếp, hoàn toàn không đúng sự thật:

- Bà cụ tôi vẫn mạnh... nghĩa là vừa ốm khỏi. Mẹ tôi định hôm nào đẹp trời thì sang thăm cụ bà Sedley bên nhà. Cụ bà hồi này thế nào, vẫn khỏe mạnh chứ thưa cụ?

Anh ta ngừng lại, ngẫm nghĩ về câu nói giả dối của mình, bởi vì chính ngày hôm ấy trời đang rất đẹp, nắng chan hòa rực rỡ. Dobbin nhớ rằng mới cách đây một tiếng đồng hồ, anh ta vừa gặp bà Sedley xong, vì anh ta đánh xe đưa Osborne đến phố Fullham rồi về trước để bạn lại ở trò chuyện với Amelia. Ông Sedley rút bọc giấy má ra, đáp:

- Bà nhà tôi rất sung sướng được gặp phu nhân nhà ta. Tôi vừa tiếp được lá thư của cụ thân sinh ra ngài, chúc cụ luôn vui mạnh. Dobbin phu nhân sẽ thấy bây giờ nhà của chúng tôi chật chội lắm, không được như xưa đâu, nhưng cũng ấm cúng; kể thay đổi không khí một chút thì sức khỏe của con gái tôi cũng khá hơn; nó ở thành phố không hợp lắm... ngài còn nhớ con bé Emmy không nhỉ?...Vâng, dạo này nó yếu lắm.

Ông lão vừa nói vừa nhìn quanh quất, có vẻ lơ đãng, mấy ngón tay gõ nhịp trên tập giấy, loay hoay với sợi dây đỏ buộc gói giấy má. Ông tiếp:

- Ngài là một nhà quân sự. Vậy xin hỏi ngài có ai ngờ rằng cái thằng dân đảo Corse chó đẻ kia lại trốn khỏi đảo Elba mà về được không? Ngài nghĩ xem, năm ngoái, khi các vị hoàng đế châu Âu họp mặt ở đây, cái hồi chúng ta có thết tiệc các vị ở khu City ấy, rồi xem tòa kỷ niệm Đoàn kết, xem đốt pháo bông, xem chiếc cầu xây theo lối Trung Quốc ở công viên St.James, thì có ai điên rồ mà không tin rằng chiến tranh đã thực sự chấm dứt? Mà chúng ta đã hát bài “Te Deum” cầu nguyện rồi kia mà? William, tôi xin hỏi ngài rằng có ai ngờ hoàng đế nước Áo lại là một tên phản bội... một tên phản bội không hơn không kém? Tôi cứ gọi đúng tên, hắn chỉ là một thằng phản bội, sấp mặt, xảo quyệt. Tôi tin rằng việc Bonaparte trốn thoát khỏi đảo Elba là do một âm mưu khốn nạn; và một nửa số cường quốc ở Âu Châu đã nhúng tay vào, cốt để hạ giá thực lợi và làm cho nước ta phá sản. Chính vì vậy mà tên tôi bị bêu trên mặt báo “Tin tức”. Ngài xem... chính vì tôi tin tưởng vào hoàng đế nước Nga, và Hoàng tử nhiếp chính của ta. Ngài nhìn xem giấy má của tôi đây. Ngày mùng một tháng ba, giá cổ phiếu là ngần này... lúc ấy tôi mua cổ phiếu của Pháp chịu lãi năm phần trăm. Bây giờ mất sạch. Thưa ngài, nhất định phải có âm mưu, nếu không thằng khốn nạn ấy trốn về sao được. Viên cao ủy người Anh đã để nó trốn thoát đâu rồi. Phải bắn lão ta mới được... phải đem ra tòa án binh xử, và bắn; lạy Chúa.

- Thưa cụ, chúng ta sắp săn được Bonaparte rồi…

Dobbin thấy ông lão giận dữ cũng hơi hoảng. Những mạch máu trên trán ông già nổi lên chằn chặn; ông lão đấm tay thình thình xuống bó giấy.

- Chúng ta sắp đuổi cổ được hắn. Đạo quân của Quận công hiện đã sang Bỉ. Chúng tôi cũng đang đợi lệnh xuất phát.

Ông Sedley gầm lên:

- Đừng cho nó đầu hàng. Phải chém đầu nó mang về, thưa ngài. Bắn cho nó chết, thưa ngài. Tôi cũng muốn tình nguyện ra trận...nhưng tôi già yếu quá rồi...tôi bị phá sản vì cái thằng chó má ấy...và vì cả một bọn lừa đảo đang nghênh ngang xe ngựa mà chính tôi đã giúp chúng mở mày mở mặt.

Giọng nói của ông lão nghẹn ngào. Thấy ông già gần như phát điên vì cơn tai họa giận dữ gào thét. Dobbin không khỏi mủi lòng. Ôi, xin các bạn hãy thương lấy con người sang trọng bị sa sút kia, vì trong Hội chợ phù hoa này, bạn cũng như họ, cũng chỉ có tiền bạc và tiếng tăm là của cải duy nhất. Ông lão tiếp:

- Đúng lắm, tôi đã ấp ủ những con rắn độc để chúng quay lại cắn tôi. Tôi đã đặt mấy thằng ăn mày lên lưng ngựa để chúng xô ngã chính tôi xuống đường. William Dobbin, chắc ông biết tôi định nói ai chứ. Tức là cái thằng trọc phú khốn nạn ở khu phố Russell ấy; hồi tôi biết nó, nó không có lấy một xu dính túi. Bây giờ tôi chỉ cầu mong cho nó lại nghèo đi như một thằng ăn mày giống như cái hồi tôi mới dám đánh bạn với nó.

Dobbin lo lắng đi ngay vào vấn đề:

- Thưa cụ, tôi cũng đã nghe anh George bạn tôi nói qua về chuyện ấy. Việc xích mích giữa cụ và ông thân sinh ra George khiến anh ấy rất khổ tâm. George nhờ tôi đến thưa cùng cụ một câu chuyện.

Ông già đứng phắt dậy, kêu lên:

- Ồ ông đến nói hộ nó? Thế nào, nó gửi lời hỏi thăm tôi thật à? Thế thì nó tốt quá đấy, cái thằng kiêu ngạo khệnh khạng, cái thằng công tử bột, cái thằng ba hoa ở West End. Nó còn định lảng vảng đến nhà tôi phỏng. Thằng con trai tôi nếu xứng đáng là người thì phải cho nó một phát đạn. Bố con nó khốn nạn không kém gì nhau. Không bao giờ tôi còn muốn nghe nhắc đến tên nó trong gia đình tôi. Tôi nguyền rủa cái ngày tôi để cho nó bước chân vào trong nhà. Thà con tôi chết ngay trước mặt tôi còn hơn lấy nó làm chồng.

- Thưa cụ, cha George xử tệ, đâu có phải lỗi tại anh ta? Cô Amelia yêu anh ấy cũng là do cụ một phần. Sao cụ nỡ chơi đùa với tình cảm của họ, và tự ý đang tay phá vỡ hạnh phúc của họ?

Ông Sedley kêu lên:

- Ông hãy nhớ cho rằng không phải là bố nó cắt đứt cuộc nhân duyên này đâu nhé. Chính tôi cấm chúng nó lấy nhau đấy. Gia đình tôi và nhà ấy vĩnh viễn không nhìn thấy mặt nhau nữa đâu. Tôi bị sa sút thật... nhưng không đến nỗi hèn hạ quá như thế... Nhờ ông bảo vào mặt cả bọn chúng...cả bố con chị em nhà chúng nó như thế hộ.

Dobbin đáp khẽ:

- Thưa cụ, theo tôi nghĩ thì cụ không thể, cũng không có quyền chia rẽ họ. Nếu cụ không cho phép, tôi thấy Amelia có nhiệm vụ lập gia đình không cần có sự đồng ý của cụ. Không có lý gì vì cụ nghĩ quẩn mà cô ấy phải chết, hoặc có sống cũng khổ sở cực nhục. Theo ý tôi, như vậy cô ấy cũng coi được như đã cưới xin đầy đủ rồi. Vả chăng đối với những lời ông Osborne nhục mạ cụ, còn có câu trả lời nào hay hơn là chính con trai ông ấy lấy việc được làm rể cụ là một vinh dự?

Nghe lý luận như vậy, trong mắt ông già Sedley thấy thoáng hiện cái gì như một sự hài lòng. Song ông lão vẫn cứ khăng khăng một mực không thuận cho George và Amelia lấy nhau.

Dobbin mỉm cười nói:

- Vậy thì chúng tôi xin cứ tự tiện làm, dù không có sự ưng thuận của cụ.

Và anh ta kể lại chuyện Rebecca đi trốn cùng đại úy Crawley cho ông lão nghe, như đã kể cho bà Sedley nghe ngày hôm trước. Ông già có vẻ thú vị. Ông ta buộc lại gói giấy, đáp: “Mấy ông đại úy, các ông ghê gớm thật”. Trên môi ông già thoáng nở một nụ cười. Bác hầu bàn mắt lờ đờ vừa bước vào thấy thế rất kinh ngạc, vì từ trước đến giờ, bác chưa hề thấy ông Sedley vui vẻ như thế trong cái tiệm rượu lúi xùi này. Có lẽ ông già được an ủi đôi chút, khi nghĩ rằng mình có thể trả miếng kẻ thù một vố. Ông ta và Dobbin nói chuyện xong, chia tay nhau như một đôi bạn thân thiết lắm.

*

George vừa cười vừa nói:

- Chị anh và em anh bảo rằng cô ta đeo những viên kim cương to bằng quả trứng chim bồ câu một Đeo như thế chắc tôn thêm màu da lắm nhỉ. Quàng thứ trang sức ấy vào cổ trông tha hồ mà lộng lẫy. Bộ tóc huyền của cô ta xoăn tít như tóc Sambo. Anh dám cam đoan rằng khi vào Hoàng cung, cô ta đeo cả vòng mũi đấy; giá cắm thêm mấy cái lông chim vào búi tóc thì đích thị là một “Mỹ nhân man rợ”().

George đang chuyện trò với Amelia, anh ta giễu cợt một cô thiếu nữ mà cha và hai chị em gái của anh ta mới làm quen, và tỏ vẻ rất kính nể. Người ta đồn cô gái này có không biết bao nhiêu là đồn điền tại Tây Ấn, rất nhiều vốn liếng gửi ngân hàng, và một số tiền lớn góp vào cổ phần của Công ty Đông Ấn Độ. Cô ta có một tòa nhà lộng lẫy ở Surrey, một biệt thự ở quảng trường Portland.

Báo “Tin tức buổi sáng” đăng tên người con gái triệu phú này và không ngớt lời tán tụng. Bà Haggistoun, vợ đại tá Haggistoun đã quá cố, giữ vai trò “bạn tâm tình” của cô này; bà ta quản lý tòa biệt thự. Cô thiếu nữ vừa rời khỏi nhà trường; George cùng hai em vừa gặp cô ta tại một buổi dạ hội tổ chức tại nhà ông già Hulker tại quảng trường Devonshire (Công ty Hulker và Bullock từ lâu vẫn có quan hệ thư từ với gia đình cô ta ở Tây Ấn). Hai cô thiếu nữ săn đón làm quen ngay.

Cô gái triệu phú cũng tỏ ra rất có cảm tình với họ. Hai cô thiếu nữ nhà Osborne thấy rằng một người con gái mồ côi ở cương vị như cô ta...nhất là lại rất giầu...thật đáng chú ý lắm lắm. Dự buổi dạ hội nhà Hulker về, hai cô chỉ luôn mồm nói chuyện về người bạn mới quen với bà Wirt, người hầu cận. Hai chị em dự định tiếp tục đi lại, ngay hôm sau cho đánh xe đến thăm cô bạn mới. Bà đại tá quả phụ Haggistoun có họ với bá tước Binkie. Bà luôn mồm nhắc đến tên ông này, và cho là hai cô gái dại dột này chơi trèo cứ hay nói đến những nhà tai mắt bà ta quen biết. Nhưng cô Rhoda thì cũng là người đáng quý, rất thẳng thắn, ngọt ngào, dịu dàng...tuy có kém phần lịch thiệp nhưng thật là tốt bụng. Mấy cô thiếu nữ xưng hô thân mật với nhau ngay lập tức; Osborne cười, nói:

- Emmy, giá em được trông thấy cô ta ăn mặc thế nào khi vào triều. Cô ta đến thăm chị gái và em gái anh để khoe bộ áo, trước khi theo Binkie bá tước phu nhân, người có bạn họ với bà Haggistoun, vào triều. Cô ta đeo kim cương sáng rực lên như đèn hội ở Vauxhall trong cái đêm chúng mình đến chơi ấy. Em có nhớ cái đêm ở Vauxhall anh Joe hát cho “cô em be bé xinh xinh” nghe không? Kim cương chọi với gỗ đào-hoa-tâm (), em thử xem có nổi không. Lại còn mớ lông trắng gài trên mái tóc đen nhánh nữa cơ chứ…Anh muốn nói là gài trên mớ len của ta ấy. Đôi hoa tai thì to như hai cây đèn; có thể thắp lên được, lạy Chúa... và cái đuôi áo sa tanh vàng quét lướt thướt sau lưng như cái đuôi sao chổi.

- Cô ấy bao nhiêu tuổi, hả anh?

Emmy hỏi George; cái buổi sáng ngày tái ngộ đầu tiên ấy anh chàng cứ liến thoắng kể chuyện về cô thiếu nữ da không trắng này liến thoắng không ai theo kịp được.

- À, tuy vừa rời khỏi nhà trường, nhưng cô công chúa đen ấy cũng phải ngót nghét hai mươi hai, hai mươi ba rồi. Gớm, chữ cô ta viết mới tởm chứ! Thường thì bà đại tá Haggistoun vẫn viết thư hộ, song trong những lúc thân mật cô ta cũng đích thân viết thư cho Jane và Maria. Sa-tanh, cô ta viết là “sát-tin”, thánh James thì viết thành thánh “Jam”!

- Thế thì đúng là cô Swartz, cô bạn học nội trú của em rồi. Emmy nhớ ngay đến cô gái lai da đen rất tốt bụng kia; khi Emmy từ biệt trường học của bà Pinkerton, cô này rất xúc động, George đáp:

- Chính tên cô ta đấy. Bố cô ta là một người Đức lai Do thái... Họ đồn rằng làm nghề buôn nô lệ... giao du mật thiết với bọn mọi ăn thịt người. Ông bố chết năm ngoái, bà Pinkerton hoàn thành việc giáo dục cho cô ta. Cô ấy chơi đàn dương cầm được hai bài, biết hát ba bài; cũng có thể viết thư được, nếu có bà Haggistoun ngồi cạnh đánh vần hộ; thế mà Jane và Maria đã quý cô ta như chị em ruột rồi đấy.

Emmy buồn rầu đáp:

- Ứớc gì họ cũng quý em như vậy? Họ đối với em lạnh nhạt quá.

George đáp:

- Em ơi, nếu em có hai mươi vạn đồng hồi môn thì họ vồ vập em ngay. Họ vẫn quen được giáo dục như vậy đấy. Gia đình anh quen sống trong một xã hội tiền trao cháo múc, giữa những ông chủ ngân hàng, những nhà tài phiệt lớn ở khu City: bất cứ người nào trong bọn họ nói chuyện với ai cũng phải xóc xóc cái túi cho tiền kêu sủng xoảng. Trong đám này có một thằng đần độn tên là Fred Bullock sắp lấy Maria... có lão Goldmore, giám đốc công ty Đông Ấn, có lão Dipley buôn sáp, nghề của gia đình anh đấy- George đỏ mặt cười có vẻ hơi ngượng - Trời vật tất cả cái bọn chỉ biết có tiền ấy đi! Ngồi ăn tiệc với chúng nó mà anh chỉ muốn ngáp ngủ. Phải dự những buổi tiếp cái bọn khách ngu đần của cha anh mà anh phát ngượng lên. Emmy ạ, anh đã quen sống với những người quý phái, những người lịch sự, anh thích thế nào được cái bọn con buôn rửng của ấy. Người vợ yêu quý của anh ơi, em là người đàn bà duy nhất trong cái giai cấp của chúng ta mà biết suy nghĩ, nói năng và có dáng điệu của một bậc mệnh phụ, mà hết sức tự nhiên, vì em là một thiên thần, không thể có các cử chỉ khác. Em đừng cãi; đích thực em là một mệnh phụ duy nhất. Thì chính bà Crawley vẫn đi lại trong giới quý tộc Âu châu cũng phải nhận thế cơ mà? Còn cái thằng Crawley trong đội Ngự lâm quân…quả đáng tội, thằng ấy khá lắm. Anh rất phục nó dám lấy người con gái mà nó tự chọn đấy. Amelia cũng rất kính phục Crawley vì chuyện ấy; cô tin rằng Rebecca sẽ có hạnh phúc; cô vừa cười vừa tỏ ý hy vọng Joe sẽ quên mối tình cũ. Đôi tình nhân cứ thế trò chuyện mặn mà với nhau, y như "ngày xưa" vậy. Bây giờ Amelia rất yên tâm, mặc dù ngoài miệng cô tỏ ý ghen với cô Swartz; cô nói rằng chỉ sợ George bỏ mình mà đi theo cô gái triệu phú với số vốn và cái gia sản ở Saint Kitt ấy - cô bé chả thật thà tý nào - Nhưng thực ra cô đang sung sướng quá, chẳng kịp lo lắng, ngờ vực, hiểu lầm gì hết. Lại được có George bên cạnh mình, cô thiếu nữ cảm thấy không sợ bất cứ nỗi nguy hiểm gì, bất chấp, cả những cô gái triệu phú hoặc những cô gái mỹ miều.

Buổi chiều, khi đại úy Dobbin trở lại thăm họ - anh rất mến đôi tình nhân này - thấy Amelia như trẻ lại anh ta cũng thấy lòng phấn khởi. Cô thiếu nữ lại nhí nhảnh vui cười, lại chơi dương cầm và hát những bài hát cũ, bỗng nghe có tiếng chuông reo bên ngoài báo ông Sedley đã ở khu City trở về. Amelia thôi hát và George nhận được hiệu cũng vội lủi mất.

Sau khi mỉm cười chào Dobbin - một nụ cười gần như giả dối, vì cô cho rằng anh chàng đến chơi không đúng lúc - cô Sedley suốt buổi chẳng buồn nhớ rằng anh chàng có mặt hay không nữa; nhưng Dobbin cũng rất vui lòng vì thấy Amelia sung sướng, càng bằng lòng hơn vì thấy sự sung sướng ấy là do chính mình đem lại.

          Chương 21
CÃI NHAU VÌ MỘT CÔ GÁI TRIỆU PHÚ

Người ta rất dễ yêu bất cứ cô gái nào có những đức tính như cô Swartz. Trông thấy cô gái triệu phú, trong trí ông lão Osborne nảy ngay ra một giấc mơ to tát đầy tham vọng. Ông ta sốt sắng và ngọt ngào khuyến khích hai cô con gái làm thân với cô thiếu nữ giầu có; ông nói rằng, là một người cha, được thấy con mình biết chọn bạn mà chơi như thế, ông rất hài lòng. Ông ta thường bảo cô Rhoda:

- Cô ạ, cô sẽ không thấy ở ngôi nhà tầm thường này của chúng tôi ở khu phố Russell vẻ lộng lẫy, bề thế, và những khách khứa sang trọng như cô quen gặp ở West End đâu. Hai em nó quê kệch thực thà lắm, nhưng rất ngoan ngoãn, và rất mến cô: điều đó là một vinh dự, đối với chúng nó... tôi nói rằng đó là một vinh dự. Tôi chỉ là một thương gia giản dị, tầm thường... một người rất thật thà; không tin cô cứ hỏi mấy ông bạn tôi trong công ty Hulker và Bullock mà xem; hồi còn mồ ma cụ ông nhà ta, cụ vẫn thường có giao dịch đi lại. Cô sẽ thấy gia đình chúng tôi rất hòa thuận, giản dị, hạnh phúc... và tôi nghĩ cũng có thể nói rằng rất được kính nể…cô Rhoda ạ, cơm nước tầm thường, chủ nhà quê kệch, nhưng tấm tình thì rất nồng nhiệt đấy…Cô Rhoda thân mến ơi, xin cho phép tôi nói như vậy vì tôi quý cô lắm; thực tình là như thế, tôi quý cô lắm. Một cốc sâm banh! Hicks đâu, lấy một cốc sâm-banh hầu cô Swartz đây!

Ai dám nghi ngờ rằng ông già Osborne không tin lời nói của chính mình là thực tâm, và hai cô con gái không yêu quý cô Rhoda thực sự? Trong Hội chợ phù hoa, người ta bám lấy bọn có của một cách rất tự nhiên. Nếu những người có tâm hồn đơn giản nhất thường quen nhìn sự thịnh vượng bằng con mắt có cảm tình (tôi thách người dân Anh nào dám bảo rằng không thấy hai tiếng "giầu có" có ý nghĩa trang trọng, nghe rất thú vị, và tôi thách cả bạn nữa, nếu người ngồi ăn cạnh bạn có nửa triệu bạc, đố bạn không nhìn anh ta với đôi chút thiện cảm đấy)…Vậy nếu người thường vẫn có cảm tình với đồng tiền thì những con người ưa phù hoa còn thiết tha với nó đến đâu? Thiện cảm của họ xổ ra vồ vập chào đón đồng tiền. Đồng tiền làm thức tỉnh nơi họ bao tình cảm mặn mà đối với người có của đáng yêu. Tôi biết một số người không chịu cho phép mình tự do chiếu cố giao thiệp với những kẻ không có chút thế lực địa vị gì trong xã hội. Họ chỉ chịu thả tình cảm của họ ra trong những cơ hội tốt. Chứng cớ là hầu hết những người trong gia đình Osborne suốt mười lăm năm nay không thể sao thân mật được với Amelia Sedley, thế mà chỉ qua một buổi tối, họ đã say mê cô Swartz được đến như vậy, quả là một thí dụ rất lãng mạn về hiện tượng "bị thu mất hồn".

Cô chị cùng cô em gái và bà Wirt bàn nhau:

- Đám ấy xứng với anh George quá nhỉ. Cái cô Amelia vô duyên kia cắn gót không đáng! Đẹp trai như anh ấy, dáng điệu lại hiên ngang rắn rỏi, có địa vị, nhiều đức tính, thật là người chồng xứng đáng của cô ấy.

Hai chị em mơ màng với những ảo tưởng quay cuồng trong óc, nào là được dự những buổi dạ hội ở Quảng trường Portland, được vào chầu trong Hoàng cung, nào là được giới thiệu với các bậc vương công. Suốt ngày họ chỉ nói chuyện với cô bạn mới đáng yêu này về George và những chỗ bè bạn có tăm tiếng của ông anh trai.

Ông già Osborne cũng thấy đám này xứng đáng với con trai mình quá. Con ông sẽ xin giải ngữ, sẽ vào Quốc hội, sẽ trở thành một nhân vật có tiếng tăm, có quyền thế. Máu ông ta đã sôi lên với một vẻ hào hứng thành thực kiểu Anh; ông đã vội nhìn thấy con trai ông biến cái tên Osborne thành tên một gia đình quý tộc, và rất có thể con trai ông sẽ mở đầu cho một dòng dõi toàn những vị nam tước danh giá. Ông hết sức dò hỏi ở khu City và ở Phòng Hối đoái, kỳ cho biết rõ được mọi chuyện liên quan đến tài sản của cô gái triệu phú, nào là số tiền cô gửi ngân hàng thế nào, nào là tài sản của cô ở đâu. Người cung cấp nhiều tin tức nhất cho ông ta là anh chàng Fred Bullock; anh chàng cũng đang thèm món bở này (chính mồm anh ta nói ra như vậy) ; nhưng anh ta lại trót đính hôn với Maria Osborne mất rồi. Song, tuy không lấy được cô gái làm vợ mình, anh chàng Fred vô tư ấy cũng hoàn toàn tán thành muốn cô kia trở thành vợ của anh vợ mình. Anh ta mách nước: “George phải tấn công trước và phải chiếm ngay trái tim cô ấy, "lấy vợ thì cưới liền tay"()…Bây giờ cô ấy mới chân ướt chân ráo về kinh đô, phải tấn công ngay; nếu không, chỉ vài tuần nữa, lỡ có thằng nào ở West End mang cái danh vị quý tộc mò về đây mà câu cô ta thì nó đá đít bọn dân City chúng mình mất; năm ngoái bá tước Fitzrufus nẫng cô Grogram như vậy đấy; bấy giờ cô ta đang đính ước với thằng Podder nhà Podder và Brown. Ông ạ, càng nhanh tay, càng tốt; con nghĩ thế đấy.

Lúc ông già Osborne đã ra khỏi phòng khách của nhà ngân hàng, anh chàng Bullock mới sực nhớ đến Amelia, mới nghĩ ra rằng cô ta xinh quá, và cũng gắn bó với Osborne thiết tha quá. Và anh ta cũng có bỏ ra ít nhất là mười giây quý báu của mình để thương hại cho cô thiếu nữ không may gặp tai họa.

Trong khi Osborne được Dobbin, người bạn và là vị thần hộ mệnh của mình, thức tỉnh những tình cảm đáng quý, đang quay về với Amelia thì ông bố và hai cô con gái cũng đang tính toán việc vợ con cho anh như vậy; họ yên trí đời nào anh ta cưỡng lại.

Một khi ông già Osborne làm cái việc mà ông gọi là “gợi ý” thì người ngu si nhất cũng phải hiểu ông muốn nói gì. Đá một anh hầu ngã lộn xuống cầu thang, như thế ông ta gọi là “gợi ý” cho anh hầu xin thôi việc. Vốn tính bộc trực, quen lối tế nhị riêng của mình, ông ta bảo bà Haggistoun rằng đúng ngày con trai ông cưới cô Rhoda làm vợ, ông sẽ biếu ngay bà này một tờ ngân phiếu năm ngàn đồng; ông cũng gọi như thế là “gợi ý”, và tự cho đó là một thủ đoạn ngoại giao hết sức khôn khéo. Cuối cùng, ông lão cũng đã “gợi ý” cho George về cô thiếu nữ triệu phú, nghĩa là ra lệnh cho anh chàng phải lập tức cưới ngay cô ta, không khác gì ông sai bác quản lý mở nút một chai rượu, hoặc ra lệnh cho người thư ký thảo một lá thư.

Nghe ông bố “gợi ý” như vậy, George hết sức bối rối.

Anh ta đang say sưa trong mối duyên rất đằm thắm vừa nối lại với Amelia ; mối tình êm đềm biết bao. So sánh hình dáng và cử chỉ của người yêu với cô gái triệu phú, anh ta thấy khác nhau một trời một vực, là càng thấy câu chuyện cưới cô này làm vợ là quái gở và tức cười. Anh chàng nghĩ thầm: “Cứ tưởng tượng mọi người trông thấy mình đi xe ngựa hoặc ngồi trong “lô” ghế riêng ở rạp Opera cạnh bà tiên gỗ đào hoa tâm nhỉ!” Không những thế, trong gia đình nhà Osborne anh con trai cũng bướng bỉnh chẳng kém gì ông bố, một khi đã thích cái gì là thực hiện kỳ được; mà khi tức giận thì George cũng thô bạo chẳng khác gì ông Osborne.

Khi ông bố chính thức “gợi ý” anh ta lần đầu tiên về vấn đề lấy cô Swartz, George còn ngọt ngào kiếm cách nói lảng:

- Tiếc rằng ba không quyết định việc này sớm hơn. Bây giờ không kịp nữa rồi; không biết chúng con phải lên đường ra ngoại quốc hôm nào. Đành chờ đến khi con trở về nước vậy, nếu may mà con về được.

Anh ta gắng tỏ cho cha hiểu rằng bây giờ không phải lúc tính chuyện nhân duyên, vì trung đoàn thứ...không biết ngày nào rời khỏi nước Anh; còn ít ngày nữa, cần để thu xếp công việc, không lòng nào lo chuyện yêu đương. Bao giờ anh ta trở về đeo lon thiếu tá, lúc ấy sẽ hay. George thêm:

- Con xin hứa với ba rằng, bằng cách này hay cách khác, ba cũng sẽ được thấy tên George Osborne đăng trên báo “Tin tức”.

Câu trả lời của ông bố căn cứ trên những tin tức thu lượm được ở khu City, nghĩa là, nếu chậm chân, chắc chắn bọn con nhà dòng dõi ở West End sẽ phỗng tay trên cô gái mất; và nếu anh ta chưa cưới được cô Swartz bây giờ, ít nhất cũng nên đính hôn ngay có giấy tờ cẩn thận làm bằng, khi nào về nước chỉ việc làm lễ cưới là xong; hơn nữa ông muốn con trai hiểu rằng một khi người ta có thể ngồi nhà mà kiếm được mỗi năm một vạn đồng, thì có hóa dại mới đi ra nước ngoài mà thí mạng. George chặn ngay:

- Nghĩa là cha muốn con tỏ ra hèn nhát, và chịu bôi nhọ tên tuổi dòng họ nhà ta vì món tiền vốn của cô Swartz?

Câu nói làm ông già choáng cả người. Nhưng ông ta vẫn kiên quyết đáp:

- Ngày mai, anh sẽ đến ăn cơm trưa ở đây, và bất cứ hôm nào có cô Swartz đến chơi, anh cũng phải có mặt ở đây để tiếp Nếu anh cần tiền, cứ hỏi ông Chopper.

Thế là dự định của anh ta về Amelia lại gặp thêm một trở ngại nữa. Dobbin và George đã hội ý với nhau nhiều lần về việc này. Ý kiến của người bạn về biện pháp giải quyết vấn đề như thế nào, ta đã rõ. Riêng đối với Osborne, một khi đã định làm gì mà gặp một hai trở ngại, thì anh ta càng thêm quyết tâm vượt kỳ được.

Cô gái lai da đen hoàn toàn không hay biết một tý gì về âm mưu của gia đình Osborne đối với mình (cũng lạ thay, không rõ tại sao bà bạn “vú già” của cô không nói cho biết); cô cứ yên trí những lời nịnh hót của hai cô bạn gái là tình cảm chân thành, nên đối đãi lại cũng nồng nàn không kém; như ta đã có dịp trình bầy, tính cô vốn vẫn sôi nổi. Nếu muốn cho thật đúng sự thật thì phải nói thêm rằng cô ưa đến Đường công viên cũng có một lý do riêng; nói tóm lại thì cô thấy George Osborne là một anh chàng trẻ tuổi rất khôi ngô; ngay buổi tối đầu tiên gặp anh ta trong buổi dạ hội tại nhà Hulkers, cô đã rất chú ý đến bộ râu quai nón của anh ta rồi. Cô cũng không phải là người đầu tiên cảm anh chàng vì bộ râu: George vẫn có cái dáng điệu đặc biệt, vừa ngạo nghễ vừa thẫn thờ, vừa hăng hái lại vừa uể oải. Trông anh ta như một người đang say mê cuồng dại, đang ủ ấp những điều bí mật, và đang có nhiều điều đau đớn giày vò về đường tình ái cũng như về chuyện chơi bời. Giọng nói âm vang mà thấm thía; khi anh ta nói “Tối hôm nay nóng quá”, hoặc mời một cô bạn gái dùng kem, giọng nói của anh ta cũng buồn buồn, đầy vẻ tâm tình, y như anh ta đang báo cho người này biết tin mẹ anh ta chết, hoặc đang thổ lộ tình yêu vậy. Anh ta ngạo nghễ nhìn bọn trai trẻ vẫn giao thiệp với ông Osborne bằng nửa con mắt; giữa bọn công tử loại ba ấy, anh ta tự coi là một người anh hùng. Nhiều người chế nhạo và ghét cay ghét đắng George, nhưng lại có người như Dobbin chẳng hạn, thán phục anh ta một cách mù quáng. Bộ râu anh ta đã bắt đầu phát huy tác dụng và quấn lấy trái tim của Swartz rồi. Mỗi khi có hy vọng gặp Osborne ở khu phố Russell, thì cô thiếu nữ tốt bụng và thật thà này lại tỏ vẻ hết sức săn đón mong được gặp mặt hai cô bạn gái mới quen. Cô ta tiêu vô khối tiền để mua áo mới, mua vòng tay, mua mũ, và những túp lông cài đầu to tướng. Có ta ra sức tô điểm thực khéo mong vị “hoàng tử” của mình ra để chiếm được lòng anh chàng. Hai cô bạn gái thỉnh thoảng lại trịnh trọng đề nghị cô ta trổ tài âm nhạc; thế là cô hát ba bài hát, chơi hai bài dương cầm như mọi lần, và tự lấy làm thích thú hơn lần trước. Trong những phút giải trí thú vị ấy, bà bạn vú già cùng bà Wirt ngồi cạnh đó nghiên cứu cuốn “Danh bạ quý tộc” và nói chuyện với nhau về giới quý phái thượng lưu. Hôm sau ông bố lại “gợi ý” ít phút trước giờ ăn trưa, Osborne đang nằm dài trên chiếc ghế xô-fa trong phòng khách, dáng điệu hệt một người đang âu sầu mơ mộng.

Theo đúng lời cha, anh ta đã đến tìm ông Chopper tại khu City, (ông lão thương gia thường cho con những món tiền lớn không có mức nhất định, sự rộng rãi của ông cũng rất tùy hứng). Đoạn, George đến Fullham ở chơi đó ba tiếng đồng hồ với cô Amelia thân yêu của anh ta; cuối cùng George trở về nhà, thì thấy cô chị và cô em gái đang ngồi trong phòng khách, cứng quèo trong bộ quần áo bằng vải sa hồ bột; hai bà nạ dòng đang quàng quạc trò chuyện ở cuối phòng, còn cô Swartz thực thà thì vẫn mặc tấm áo sa tanh màu hổ phách cô rất ưa, lại đeo đủ các thứ vòng tay bằng ngọc Thổ-nhĩ-kỳ, vô số nhẫn, đếm không xuể, rồi đính cả những hoa, những lông cùng đủ mọi thứ trang sức lặt vặt khác; trông cô ta giống hệt một người thợ thông ống khói vào tháng năm.

Cô chị và cô em gợi mãi mà George không chịu bắt chuyện; họ bèn xoay câu chuyện về vấn đề “mốt” ăn mặc, và về buổi tiếp tân vừa qua trong Hoàng cung; anh chàng đâm chán ngấy. Anh ta so sánh họ với Emmy...so sánh giọng nói the thé với tiếng nói trong vắt, êm ái của người yêu, so sánh những điệu bộ sỗ sàng, những bộ áo hồ cứng để hở cả khuỷu tay của họ với cử chỉ dịu dàng kín đáo mà duyên dáng của người yêu. Cô Swartz đáng thương lại ngồi đúng ngay vào chỗ mọi khi Emmy vẫn ngồi. Hai bàn tay đeo toàn nhẫn đặt xòe ra như hai cái quạt trên tấm áo sa-tanh màu hổ phách; những nạm ngọc và hoa tai lóng lánh sáng quắc; cô ta ngồi giương đôi mắt to tướng ngó đây ngó đó. Thật là sự vô công rồi nghề và sự thỏa mãn hiện thành hình người; cô ta còn nghĩ rằng mình duyên dáng quyến rũ lắm. Hai cô bạn khen cô ta mặc chiếc áo sa tanh ấy rất nổi, các cô chưa từng thấy thế bao giờ.

Lúc gặp lại người bạn thân, George bảo:

- Thật là đồ chết tiệt, trông cô ta hệt như con búp bê Trung-hoa, suốt ngày chỉ ngồi nhe răng ra cười, và lắc lư cái đầu. Lạy Chúa, Will ạ, xuýt nữa tôi quăng cho cái đệm ghế xô-fa vào mặt đấy.

Nhưng anh ta cũng kịp tự kiềm chế được nỗi bực mình.

Hai chị em cô Osborne bắt đầu chơi dương cầm bài “Trận đánh thành Praha”, George không chịu được nữa, kêu lên:

- Thôi đừng chơi cái... cái “của” ấy nữa! Tôi muốn phát điên lên đây. Cô Swartz, mời cô biểu diễn một bài. Cô muốn hát bài gì thì hát, nhưng xin đừng chơi bài “Trận đánh thành Praha”.

Cô Swartz hỏi:

- Tôi hát bài “Cô Mary mắt biếc” nhé. Hay là điệu Cabinet?

Hai cô bạn đồng thanh:

- Điệu Cabinet hay lắm.

Anh chàng chán đời ngồi trong ghế xô-fa vội kêu lên:

- Điệu hát ấy nhàm chán lắm rồi.

Cô Swartz khe khẽ nói:

- Giá có lời trước mặt, thì tôi hát được bài “Dòng sông Tajy”().

Tức là bài cuối cùng trong kho vốn liếng âm nhạc của cô thiếu nữ.

Mang vội đáp:

- Ồ, tôi có bài “Dòng sông Tage” () đây.

Và chạy đi tìm cuốn sách nhạc. Không ngờ cuốn sách nhạc lại chính là của một cô bạn gái tặng họ, có ghi tên ngoài bìa.

Nghe Swartz hát xong. George rất tán thưởng (vì anh ta nhớ Amelia vẫn ưa hát bài này lắm). Cô Swartz đang hy vọng được mời hát lại, tay lật đi lật lại tờ bìa cuốn sách, chợt nhìn thấy cái tên Amelia Sedley ghi ở góc tờ giấy. Cô ta quay phắt lại kêu lên:

- Trời đất ơi, Amelia của tôi đấy ư? Có đúng Amelia học ở trường bà Pinkerton không? Đúng rồi, tôi biết. Chị ấy bây giờ ở đâu thế?

Cô Maria Osborne vội nói ngay:

- Đừng nhắc đến cô ấy nữa; gia đình cô ấy mất hết uy tín rồi. Cha cô ấy lừa dối ba tôi; tên cô ấy sẽ không bao giờ được nhắc đến ở đây nữa.

Ấy là cách cô Maria trả miếng George vì đã tỏ ra tàn nhẫn đối với bài “Trận đánh thành Praha” lúc nãy.

George đứng phắt dậy:

- Cô là bạn của Amelia, vậy thì cầu Chúa che chở cho cô; cô Swartz ạ, đừng có nghe mồm hai cô kia. Amelia không hề đáng trách điều gì. Cô ấy là người đáng quý nhất…

Jane vội kêu lên ngay:

- George, cậu không được nhắc đến cô ấy. Ba cấm đấy.

- Ai cấm được tôi? Tôi cứ nhắc đến đấy. Tôi nói rằng cô ấy là người đáng quý, dịu dàng, thùy mị, đáng yêu nhất nước Anh đấy. Phá sản hay không phá sản, thì chị gái tôi cũng cứ xách dép cho cô ấy không đáng. Cô Swartz ạ, nếu cô quý Amelia, hãy đến thăm cô ấy đi. Bây giờ Amelia chẳng có ai bầu bạn. Cầu Chúa ban phúc lành cho ai đánh bạn với cô ấy. Tôi coi người nào nói tốt cho Amelia là bạn; người nào nói xấu cô ấy tôi coi là kẻ thù. Cô Swartz, cảm ơn cô.

George đứng dậy bắt tay cô thiếu nữ. Cô em gái vội kêu lên, giọng van lơn:

- Kìa, anh George!

George giận dữ tiếp:

- Tôi nói rằng, tôi cảm ơn bất cứ ai tỏ ra yêu quý cô Amelia Xét....

Anh ta ngừng lại. Ông Osborne đã đứng trong phòng mặt tái đi vì giận, cặp mắt đỏ tía sáng quắc lên như hai hòn than hồng. Mặc dù George thôi không nói nữa, nhưng máu trong người anh sôi lên, cho ngay đến tất cả mọi người trong các thế hệ của dòng họ Osborne lúc ấy cũng không bắt được anh chịu lép. Lập tức George lấy lại bình tĩnh, nhìn giả ông bố với điệu bộ tỏ ra vừa quyết định, vừa thách thức, khiến cho ông già bối rối vội quay mặt đi. Ông già hiểu ngay cuộc chiến đấu đã bắt đầu. Ông nói:

- Bà Haggistoun, cho phép tôi dẫn bà sang phòng ăn, George, anh hãy đỡ cô Swartz cùng đi.

Mọi người bước ra ngoài. George nói với cô thiếu nữ:

- Cô Swartz, tôi yêu Amelia ; suốt đời chúng tôi nguyện sống bên nhau.

Suốt bữa ăn, George liến thoắng nói chuyện đến nỗi chính anh ta cũng phải ngạc nhiên về mình, làm cho ông bố càng bực. Chắc chắn cơn bão tố sẽ nổ ra sau khi khách ra về. Giữa hai bố con cũng có sự khác nhau, ông bố tính tình thô bạo cục cằn, nhưng anh con trai còn táo bạo cương quyết gấp ba lần bố, anh ta không những có thể tấn công mà còn có đủ sức chống đỡ. Biết rõ cuộc xung đột nhất định sẽ xảy ra, anh ta ăn rất bình tĩnh và ngon miệng trước khi cuộc chiến đấu bắt đầu. Trái lại ông già Osborne hết sức hồi hộp; ông uống nhiều rượu. Nhiều lần ông ta lẫn lộn trong câu chuyện nói với những người khách đàn bà ngồi cạnh. Thấy George điềm nhiên như không, ông lão càng căm. Ông gần phát điên khi thấy cái cách George lạnh lùng gấp chiếc khăn ăn lại, cúi gập người xuống chào cô Swartz và mở cửa cho cô ta, đoạn anh ta rót một cốc vang đầy tu một hơi cạn, nhìn thẳng vào mặt bố như muốn nói: “Thưa các vị ngự lâm quân, xin mời bắn trước”. Ông già cũng rót rượu uống lấy sức, nhưng bàn tay ông run run, chạm chai và miệng cốc kêu lanh canh. Thở một hơi dài, mặt đỏ tía, ông già bắt đầu:

- Này anh, sao anh dám nhắc đến tên con bé ấy trước mặt cô Swartz ngày hôm nay, ngay trong phòng khách của tôi? Tôi hỏi anh, sao anh dám làm như vậy?

- Khoan đã, thưa ba, đừng nói là “dám làm”. Người ta không dùng tiếng “dám làm” để nói với một đại úy trong quân đội nước Anh.

Ông bố đáp:

- Tôi muốn nói gì với con trai tôi không ai cấm được. Tôi có thể cắt đứt không cho nó xu nào. Tôi có thể biến nó thành một thằng ăn mày cũng dược. Tôi cứ nói tiếp ý tôi.

George kiêu hãnh đáp:

- Tuy là con trai ba thật, nhưng con là một người thượng lưu. Nếu có ý kiến gì, muốn trao đổi hoặc muốn ra lệnh cho con điều gì, yêu cầu cha dùng những lời lẽ lịch sự mà con vẫn quen nghe.

Khi nào người con trai tỏ vẻ kiêu hãnh thì bao giờ cũng khiến cho người cha hoặc là hoảng sợ hoặc là tức giận. Ông già Osborne vẫn ngấm ngầm e ngại những cử chỉ, những điệu bộ quý phái của con trai. Các bạn độc giả hẳn cũng có kinh nghiệm là trong Hội chợ phù hoa, một người thô kệch thường không ưa thấy có người lịch sự ở bên mình.

- Xưa kia cha tôi không hề cho tôi được hưởng nền giáo dục, những điều kiện tốt, cũng như bao nhiêu tiền nong như ngày nay tôi đã cho anh. Nếu tôi không nhờ có tiền mà lọt được vào một nơi chỉ có một ít số người vào nổi, thì có lẽ con trai tôi khó lòng huênh hoang khệnh khạng với đáng điệu ông hoàng được - ông già nhấn mạnh mấy tiếng trên có vẻ hết sức mỉa mai - Vào thời chúng tôi, người ta không tin rằng một người thượng lưu lại chửi lại bố. Xưa kia, nếu tôi cư xử như vậy, thì bố tôi đã đạp tôi ngã lăn xuống thang gác rồi.

- Con có chửi lại ba đâu. Con chỉ nói xin ba nhớ cho rằng con trai ba cũng là một người thượng lưu như ba. Con hiểu lắm, ba cho con rất nhiều tiền (George vừa nói vừa thọc tay vào túi vuốt ve tập giấy bạc vừa lấy của ông Chopper buổi sớm) ; ba nhắc đến việc ấy hơi nhiều đấy, không sợ con quên đâu.

- Tôi muốn anh nhớ hộ cả chuyện khác nữa. Tôi muốn anh đừng quên rằng, trong căn nhà này - nếu như anh còn thèm hạ cố ở đây - tôi là ông chủ, và cái tên kia...anh…rằng anh...và…tôi nói...

- Và cái gì thưa ba?

George hơi nhếch mép cười, hỏi lại, vừa rót đầy thêm một cốc rượu khác. Ông bố văng một tràng rất tục.

- …!Và không bao giờ cái tên Sedley còn được nhắc đến ở đây Tôi không muốn nghe đến tên bất cứ đứa nào trong bọn chúng nó anh hiểu chưa?

- Thưa ba, không phải con nhắc đến tên cô Sedley trước, chỉ vì chị con và em gái con nói xấu cô ấy với cô Swartz; con thề sẽ bênh vực cô ấy bất cứ ở đâu. Không ai được phép nói xấu cô ấy trước mặt con. Gia đình nhà ta đã làm khổ cô ấy quá đủ rồi, bây giờ có thể buông tha đừng hành hạ cô ấy thêm nữa. Bây giờ cô ấy khổ lắm rồi. Trừ ba ra, người nào mở mồm nói xấu cô ấy, con bắn.

Đôi mắt ông bố trợn tròn như lồi ra khỏi mắt:

- Còn gì nữa, nói nốt đi.

- Nói nốt gì, thưa ba? Nói nốt về chuyện chúng ta đã cư xử tàn tệ thế nào với cô gái thiên thần ấy à? Ai đã xui con yêu cô ấy? Chính ba. Con rất có thể chọn yêu người khác, và còn đòi hỏi cao hơn, có thể cao hơn cả cái xã hội của gia đình nhà ta nữa; nhưng con đã vâng lời ba. Bây giờ, khi chúng con đã yêu nhau thì ba ra lệnh cho con đang tay cắt đứt mối tình, bắt con trừng phạt cô ấy, giết chết cô ấy cũng nên... mà vì lỗi của những người khác.

Girogiơ càng nói càng giận dữ, càng hăng hái:

- Đùa cợt với tình yêu của một người con gái như vậy là một điều đáng xấu hổ, lạy Chúa...? Một vị thiên thần như vậy... Những người khác so với cô ấy còn kém xa, đến nỗi họ có thể sinh ra ghen ghét; chỉ vì cô ấy tốt quá, hiền hậu quá nên người ta không dám thù ghét đấy thôi. Nếu con bỏ cô ấy, ba nghĩ rằng cô ấy quên được con sao?

Ông bố quát lên:

- Tôi không thèm để tai nghe những chuyện yêu đương con cà con kê của anh. Gia đình tôi không thể cưới một đứa ăn mày về làm dâu được. Chỉ cần nói một tiếng, là anh có ngay mỗi năm tám nghìn đồng; nếu anh không muốn thì mặc xác anh. Lạy Chúa, anh cuốn gói mà xéo khỏi cái nhà này đi. Tôi hỏi lại anh lần cuối cùng, anh có vâng lời tôi không? Có hay không?

George bẻ cổ áo lên đáp:

- Cưới cái con bé lại da đen ấy làm vợ? Thưa ba, tính con không ưa mầu nâu. Xin ba đi tìm một thằng da đen quét đường ở Fleet Macket. Con không muốn lấy một hoa khôi mọi đen làm vợ.

Ông già Osborne giận dữ giật mạnh cái dây chuông vẫn dùng để gọi bác quản lý lấy rượu vang...mặt ông sa sầm, ông ra lệnh đánh xe đưa đại úy Osborne đi.

Một giờ sau, bước vào quán rượu Slaughters mặt hãy còn tái mét, George nói:

- Thế là hết.

Dobbin hỏi:

- Cái gì ông bạn?

George kể lại cuộc va chạm giữa mình và cha. Anh ta thề độc một câu và nói:

- Ngày mai, tôi cưới Amelia. Dobbin ạ, càng ngày tôi càng thấy yêu nàng hơn.


Chương 22
LỄ CƯỚI VÀ TUẦN TRĂNG MẬT

Kẻ thù dù can đảm, gan góc đến mấy mà bị đói thì cũng phải hàng phục, cho nên trong cuộc đấu tranh ta vừa miêu tả ở trên, ông Osborne không sợ đối thủ của mình. Ông tin rằng khi cạn túi, thế nào George cũng đầu hàng không điều kiện. Kể ra cũng có điều không may cho ông, vì ngay hôm hai bố con cãi nhau, George đã vớ được món tiền của bố. Nhưng ông già nghĩ ngần ấy tiền cũng không tiêu được mãi, chẳng qua ngày đầu hàng chỉ lùi lại ít lâu. Cho nên trong ít hôm, hai bố con không nhìn mặt nhau, ông bố tuy khó chịu trước sự im lặng của con nhưng vẫn yên trí; bởi vì, như lời ông lão nói, “kiến trong miệng chén còn bò đi đâu”, ông chỉ cần chờ đợi kết quả như ông dự tính. Ông có kể lại cho hai con gái nghe chuyện xích mích giữa hai bố con, nhưng lại dặn thêm đừng chú ý đến làm gì, lại bảo nếu George trở lại, cứ tiếp đón thân mật như không có chuyện gì xảy ra hết. Đến bữa ăn vẫn bày bát đĩa của George như mọi khi; ông già hình như có ý nóng ruột đợi con trai quay về thì phải, nhưng mãi vẫn không thấy mặt anh ta. Phái người đến tiệm cà-phê Slaughters hỏi thăm thì thấy nói anh ta cùng bạn là đại úy Dobbin đã rời khỏi thành phố rồi.

*

Một buổi sáng ảm đạm cuối tháng tư, mưa rơi tầm tã đổ xuống vỉa hè dẫy phố cổ có tiệm cà phê của lão Slaughters; George Osborne bước vào tiệm, mặt mày phờ phạc, tái mét, tuy anh ta diện rất bảnh. George mặc một tấm áo màu xanh nước biển có đính một khuy đồng, ngoài khoác một chiếc áo gilê bằng da, rất đúng “mốt”. Đại úy Dobbin có mặt trong tiệm cà-phê; anh ta cũng mặc bộ áo xanh có khuy đồng; tấm áo choàng nhà binh và chiếc quần màu xám nhạt thường vẫn đeo trên cái thân hình khẳng khiu của anh ta đã được cất đi. Dobbin ngồi trong quán cà phê đã đến hơn một tiếng đồng hồ. Anh ta giở hết báo nọ đến báo kia, nhưng không sao đọc được, hết nhìn đồng hồ có đến hàng chục lần, lại nhìn ra ngoài phố, mưa vẫn rơi tầm tã, người qua lại nện guốc cồm cộp để lại những cái bóng đen dài trên nền đá lát bóng loáng. Thỉnh thoảng anh ta lại gõ nhịp lên mặt bàn, hoặc cắn cụt cả móng tay (anh ta vẫn có thói quen trang điểm cho bàn tay hộ pháp của mình như vậy), rồi lại đặt chiếc thìa cho nằm chênh vênh trên miệng cốc sữa, và nghiêng cốc cho nó rơi xuống.v.v... Tóm lại, anh ta có vẻ đang băn khoăn điều gì, cố tìm những trò giải trí lặt vặt cho qua thời giờ, y như những người đang có chuyện gì ghê gớm ám ảnh tâm trí.

Vài người bạn thường đi lại ở tiệm cà-phê, nói đùa Dobbin về bộ áo lộng lẫy và cử chỉ băn khoăn của anh. Có người hỏi đùa, hay là Dobbin sắp đi cưới vợ, Dobbin cười đáp khi nào có việc vui mừng sẽ gửi biếu ông bạn (tức là thiếu tá công binh Wagstaff) một cái bánh. Cuối cùng đại úy Osborne hiện ra, diện rất bảnh nhưng sắc mặt tái nhợt, và có vẻ băn khăn như ta đã thấy. George rút ra chiếc mùi xoa màu vàng thơm sực mùi nước hoa lau bộ mặt nhợt nhạt, bắt tay Dobbin, nhìn lên đồng hồ treo trên tường, và sai John, bác hầu bàn lấy rượu ca-cao. Anh ta uống luôn hai cốc một cách vội vã. Dobbin hỏi thăm sức khỏe thế nào.

George đáp:

- Suốt đêm qua đến sáng, không chợp mắt được phút nào. Nhức đầu, và sốt kinh khủng. Chín giờ mới dạy đến Hummums tắm được một cái. Y như cái buổi sáng mình cùng Rocket ra bãi thi ngựa ở Quebec ấy Dobbin ạ.

William đáp:

- Mình cũng thấy thế. Sáng hôm ấy, mình còn hồi hộp hơn cậu nữa. Nhưng hôm ấy, cậu ăn bữa điểm tâm cẩn thận lắm, mình còn nhớ. Bây giờ hãy ăn tý gì đi đã.

- Will, cậu thật là một người bạn tốt. Mình muốn uống mừng sức khỏe của cậu, và vĩnh biệt...

Dobbin ngắt lời:

- Thôi, thôi. Hai cốc là đủ rồi. Này John, cất rượu đi. Hạt tiêu đây, cho một ít vào món gà và ăn mau mau bên, lẽ ra chúng mình phải ở đấy rồi.

Lúc hai viên đại úy nói với nhau mấy câu ngắn ngủi như vậy là khoảng mười hai giờ rưỡi. Chiếc xe ngựa của đại úy Osborne đã đợi từ lâu; hành lý của đại úy, anh hầu đã bỏ vào trong xe. Hai viên đại úy che chung một cái ô bước vội vào xe, còn anh hầu leo lên chỗ ngồi của xà ích, luôn mồm chửi trời mưa và rủa anh xà ích ngồi bên cạnh áo ẩm quá bốc hơi mù mịt. Anh hầu nói một mình như để tự an ủi: “Đến cửa nhà thờ, ta sẽ tìm một cái xe khác tốt hơn”. Chiếc xe chuyển bánh, chạy dọc phố Piccadilly, hồi ấy nhà Apsley và nhà thương St. George vẫn còn xây bằng gạch đỏ; trên những cột đèn ngoài phố vẫn thắp đèn dầu, Achilles còn chưa sinh và đài chiến thắng Pimlico() chưa dựng, mà cái bày quái vật hình như muốn nhảy qua các nóc nhà xung quanh kia cũng chưa có... Chiếc xe qua Brompton tiến về phía một ngôi nhà thờ gần phố Fullham.

Một chiếc xe bốn ngựa khác cũng đã chờ sẵn ở đó, trông giống loại xe lồng kính rất đẹp. Trời vẫn mưa rầu rĩ, chỉ có vài người vô công rồi nghề qua lại. George nói:

- Chết cha! Tôi chỉ thuê có hai ngựa thôi mà.

- Ông chủ tôi muốn dùng bốn ngựa cơ ạ.

Anh hầu của Joseph Sedley đang đứng chờ lên tiếng.

Anh này cùng anh hầu của Osborne theo George và William vào trong nhà thờ, hai người đồng ý với nhau rằng cưới xin mà không có ăn tiệc, không có hoa, thì thật “cà mèng” không thể tưởng tượng được ông bạn cũ Joe Sedley của chúng ta bước ra, nói:

- Đây rồi; George, chậm năm phút đấy nhé. Trời với đất. Lạy Chúa! Y như mùa mưa ở Bengal vậy. Nhưng xe tôi thì không mưa nào lọt vào được. Vào đi; Emmy và mẹ tôi đã ở trong kho đồ thánh rồi.

Joe Sedley trông đường bệ quá. Anh ta béo hơn trước nhiều. Cổ áo cũng may cao hơn, mặt trông đỏ hơn. Bộ cà vạt đính ở cổ áo lòa xòa rủ xuống chiếc áo gi-lê sặc sỡ. Hồi ấy chưa có những đôi ủng da véc-ni, nhưng đôi ủng cao cổ của anh ta cũng bóng nhoáng, trông như đôi ủng trong truyện cổ, có người soi vào đó mà cạo râu được. Bông hoa hồng bạch to tướng mừng đám cưới gắn trên ngực áo, trắng muốt như một cái lá mộc lan.

Thì ra George chơi nước bài liều. Anh ta sắp làm lễ thành hôn. Vì thế mặt anh ta tái mét, băn khoăn, mất ngủ suốt đêm và sáng ra thì bổi hổi bồi hồi trong dạ. Tôi đã biết trong trường hợp tương tự, nhiều người cũng có tâm trạng như vậy. Có lẽ đến lần làm lễ cưới thứ ba hay thứ tư thì cũng quen đi, nhưng lần đầu tiên thì gay go lắm.

Đại úy Dobbin kể lại cho tôi rõ rằng cô dâu mặc một tấm áo choàng bằng lụa màu nâu, đội một cái mũ rơm có băng hồng. Một tấm chàng mạng bằng voan Santily che kín mặt, đó là món quà của ông anh Joseph Sedley. Đại úy Dobbin đã đề nghị được tặng cô dâu một chiếc đồng hồ vàng có dây, hôm ấy cũng thấy cô dâu đeo. Bà mẹ cho nốt cô con gái chiếc trâm nạm kim cương, món đồ trang sức cuối cùng của bà già còn sót lại. Trong khi cuộc hôn lễ đang tiến hành, bà Sedley ngồi trên một tấm ghế khóc nức nở. Chị hầu gái người Ai len và bà Clapp phải khuyên nhủ mãi. Ông Sedley không muốn chứng kiến cuộc hôn nhân. Joe thay mặt cha; anh ta đưa cô dâu đến trước bàn thờ; đại úy Dobbin đóng vai phù rể.

Trong nhà thờ chỉ có những nhân viên hành lễ và mấy người dự đám cưới. Hai anh hầu đứng mãi tận ngoài xa nhìn vào có vẻ vênh váo. Mưa vẫn rơi tầm tã đập vào cánh cửa sổ lộp bộp. Trong những phút cuộc hành lễ tạm ngừng, nghe tiếng mưa rơi bên ngoài và tiếng bà Sedley khóc thút thít. Giọng nói của vị mục sư vang lên buồn buồn vọng vào những mảnh tường trống rỗng. Osborne nói câu “con xin ưng thuận” với giọng rất trầm. Câu trả lời của Emmy run run thốt ra tự đáy lòng nhưng không ai nghe rõ, trừ đại úy Dobbin.

Cuộc lễ xong; lần đầu tiên sau hàng bao nhiêu tháng trời Joe Sedley bước tới hôn em gái, bây giờ đã là cô dâu mới; vẻ rầu rĩ đã biến mất trên mặt George, bây giờ trông anh ta rất tươi tỉnh và kiêu hãnh. Anh ta thân maajt đặt tay lên vai Dobbin nói:

- Bây giờ đến lượt anh.

Dobbin bước tới đặt tay vào má Amelia...đoạn, họ sang kho đồ thánh để ký vào sổ chứng hôn.

- Dobbin ơi cầu chúa ban phúc cho cậu nhé.

George nắm chặt tay bạn, hình như hơi rơm rớm nước mắt; William chỉ gật đầu đáp lại. Anh ta đang bị xúc động quá, không nói được nhiều. Osborne dặn:

- Viết thư luôn nhé. Lúc nào rỗi rãi nhớ lại chơi, nghe không.

Phút ly biệt giữa bà mẹ và cô con gái rất cảm động; đôi vợ chồng trẻ dắt nhau lên xe:

- Mấy thằng ranh con, tránh ra đằng kia.

George quát mấy đứa trẻ đang đứng xúm xít quanh cửa nhà thờ, Đôi vợ chồng bước ra xe bị nước mưa xối vào mặt ướt hết. Quần áo anh xà ích ướt đẫm. Bọn trẻ con hò reo rầm rầm lúc chiếc xe lăn bánh, bùn bắn tứ tung.

Dobbin đứng lại trong khung cửa nhà thờ nhìn theo, vẻ mặt rầu rầu. Bọn trẻ con thấy thế cứ trêu cợt anh chàng, nhưng anh ta không để ý đến chúng, cũng như tiếng chúng cười đùa.

- Dobbin chúng ta về nhà đi ăn thôi.

Có tiếng người nói sau lưng Dobbin; một bàn tay nặng nề đặt mạnh lên vai anh, làm cho chàng tỉnh cơn mơ mộng. Nhưng viên đại úy không lòng nào ăn tiệc với Joe Sedley. Anh ta đưa bà già đang mếu máo cùng mấy người hầu lên xe của Joe Sedley, rồi, không nói thêm lời nào, từ biệt họ. Chiếc xe chuyển bánh, bọn trẻ con lại reo ầm lên chế nhạo lần nữa.

- Này đây, bọn ăn mày ranh con.

Dobbin vứt cho chúng mấy đồng xu, và bước ra ngoài mưa lủi thủi đi một mình. Thế là hết hẳn. Họ cưới nhau rồi, và họ rất sung sướng; anh chàng cầu Chúa. Từ bé, chưa hề bao giờ anh ta cảm thấy cô độc, đau khổ như lúc này. Anh chàng khát khao mong sao cho chóng qua mấy ngày đầu để gặp lại Amelia.

Khoảng mười ngày sau buổi hôn lễ vừa nói trên, ba chàng trai trẻ quen biết của chúng ta đang thưởng thức phong cảnh đặc biệt của Brighton: một bên là dẫy biệt thự có cửa sổ chấn song hoa, một bên là biển, nước xanh biếc.

Những người dân Luân đôn ngắm nhìn say sưa cảnh biển rộng, mặt nước sôi nổi như chúm chím cười, điểm lấm tấm những cánh buồm trắng, với hàng trăm chiếc ca-nô lượn sát bờ như hôn dải gấu áo màu lam của biển cả. Còn những kẻ ưa cuộc sống của con người hơn những phong cảnh kỳ thú khác thì lại hướng về phía những người ở chung nhà lấy làm khoái trá vô cùng. Tại cửa một biệt thự khác, thấy chị hầu gái Polly xinh xắn đang ôm cậu Omnium vào lòng mà vuốt ve; trong khi ấy ông bố là Jacob ngồi cạnh cửa sổ nhà dưới đang khoái trá điểm tâm món tôm bể, và đọc tờ “Thời báo”. Xa xa đằng kia là mấy chị em cô Leery đang liếc theo mấy chàng sĩ quan ngự lâm quân trẻ tuổi rong chơi trên bãi biển, hoặc là một anh chàng người Luân-đôn đang giơ chiếc ống nhòm to như cái nòng súng ca-nông bắn đạn sáu cân nhìn ra ngoài khơi y như muốn chỉ huy tất cả những thuyền du lịch, thuyền đánh cá, thuyền tắm đang bơi ra bơi vào. Nhưng chúng ta có thì giờ đâu mà tả cảnh Brighton mãi? Brighton chính là Naples, nhưng là thành phố Naples sạch sẽ, mà bọn cùng đinh là những nhà quý tộc; Brighton bao giờ cũng mát mẻ, đáng yêu, duyên dáng như bộ áo của một anh hề. Hồi câu chuyện này xảy ra, đi từ Luân-đôn đến Brighton mất bảy tiếng đồng hồ, nhưng nay chỉ mất khoảng một giờ rưỡi; và sau này khoảng cách ấy rất có thể còn rút ngắn hơn nữa trừ phi Joinville mang quân đến oanh tạc một cách không đúng lúc.

Một trong số ba người đang đi, lên tiếng:

- Con bé trong căn nhà mé trên hiệu bán đồ trang sức phụ nữ kia trông kháu quá nhỉ. Này, Crawley, có thấy lúc mình đi qua nó cứ liếc theo mãi không?

Người bạn đáp:

- Thôi ông Joe, ông đừng làm cho nàng đau khổ; ông Don Juan ơi, chớ đùa cợt với tình yêu của nàng.

- Cứ để mặc tôi.

Joe Sedley khoái trí lắm, vừa nói vừa lấy điệu bộ thật tình tứ liếc mãi chị hầu gái nói trên. Lần này đi chơi Brighton, trông Joe còn sang trọng hơn cả lúc dự lễ cưới em gái. Anh ta mặc mấy cái gilê thật là “mốt”; một cậu công tử xoàng chỉ cần một cái cũng đã đủ thích. Anh ta lại mặc một tấm áo kiểu nhà binh, với đủ mọi thứ lon hoa và khuy đồng đen, cùng những đường thêu vằn vèo. Gần đây, cu cậu lại đâm ra cũng kéo lê đôi ủng có cựa gót kêu lanh canh, cũng ưỡn ngực vênh vang, và tròn mắt lên mà liếc tất cả những chị hầu gái gọi là “ngon mắt” một tý.

Chàng công tử hỏi hai bạn:

- Trong lúc chờ các bà ấy quay lại, chúng mình làm cái gì bây giờ?

“Các bà ấy “ đang ngồi xe của anh Rottingdean.

Một người to lớn có bộ râu vuốt xi đen góp ý kiến:

- Ta chơi vài ván bi-a.

Joe hơi hoảng đáp:

- Thôi, thôi, ông đại úy ơi! Hôm nay không chơi bia-a nữa. Crawley ạ, chơi hôm qua thế là đủ rồi.

Crawley cười nói:

- Anh chơi cừ lắm. Đúng không, Osborne? Năm cú liền hôm qua, anh ta chơi cừ quá.

Osborne đáp:

- Tuyệt lắm, Joe thật là một nhân tài trong làng bi-a; những môn khác chơi cũng giỏi. Ước gì ở đây có tổ chức săn hổ nhỉ? Chúng mình rất có thể tham dự và giết chơi vài con trước khi về ăn cơm. (Con bé nào đang đi kìa! Joe, nom cái cổ chân xinh quá, hả?). Kể cho nghe lại câu chuyện săn hổ đi; anh gặp hổ trong rừng rậm thế nào nhỉ? Này, Crawley, chuyện hay lắm nhé. Nói đến đây, George ngáp một cái, tiếp:

- Thời giờ cứ đằng đẵng ấy nhỉ, chậm quá. Ta làm cái gì bây giờ?

Crawley đề nghị:

- Hay là chúng ta đi xem mấy con ngựa vừa đem từ Hội chợ Lewes về đây.

- Joe định bắt cá hai tay ():

- Sao chúng mình lại không đi chén bánh ngọt ở quán Dutton nhỉ. Con bé ở nhà Dutton nom kháu ra phết.

George bàn:

- Ta đi đón xe “Tia chớp” đi, đến giờ xe về rồi đấy.

Ý kiến này được tán thành. Cả ba quay lại trạm xe ngựa để chờ xe “Tia chớp” về.

Đang đi, họ gặp chiếc xe ngựa trần mui của Joe, trên có sơn huy hiệu riêng lộng lẫy. Ở Cheltenham, anh ta vẫn thường ngự trên chiếc xe lộng lẫy này đi chơi một mình trong tỉnh, trông bệ vệ ra phết, tay khoanh trước ngực, đầu đội mũ vành bẻ tam giác; cũng đôi khi may mắn hơn, có cả đàn bà ngồi bên cạnh.

Lúc này thấy có hai cô thiếu nữ ngồi trên xe; một người bé nhỏ, tóc nâu nhạt, ăn bận theo “mốt” tối tân nhất; người kia mặc một tấm áo lụa màu nâu, đội mũ nan có băng màu hồng, khuôn mặt tròn trĩnh, hồng hào, hớn hở, trông rất ưa nhìn. Xe đến gần ba người đàn ông, thì cô nói sau kìm ngựa lại; dường như vì cử chỉ “oai phong” của mình vừa rồi mà cô ta luống cuống, đỏ ửng mặt lên, trông đến buồn cười, và nói:

- George, chúng em đi chơi vui lắm... bây giờ về, thích quá Anh Joseph, đừng bắt nhà em về muộn nhé.

Rebecca giơ một ngón tay xinh xinh lồng trong chiếc bao da dê kiểu Pháp dọa Joe:

- Anh Sedley ơi? Đừng rủ rê các ông chồng chúng tôi chơi bời bậy bạ nhé, anh là hư lắm đấy. Không chơi bi-a, không hút thuốc lá, không ngỗ ngược.

- Chị Crawley thân mến...A...Tôi xin lấy danh dự mà hứa... Joe chỉ nói được có thế. Nhưng anh ta đã chú ý lấy một điệu bộ rất cầu kỳ, nghiêng nghiêng cái đầu mỉm cười nhìn “cố nhân”, một tay chắp sau lưng chống một cái can, một tay (cái tay đeo nhẫn kim cương) đưa lên nắn nắn chiếc cà-vạt và vuốt chiếc gi-lê. Chiếc xe chuyển bánh, anh ta còn giơ bàn tay đeo nhẫn gửi theo một cái hôn cho hai người đàn bà. Joe ước gì tất cả Cheltenham, Chowringhee, tất cả Calcutta được nhìn thấy anh đang vẫy chào một con người tuyệt sắc như vậy, và đang đi chơi cùng một tay nổi tiếng phong lưu là Rawdon Crawley trong đội ngự lâm quân.

Sau khi lấy nhau, cô dâu chú rể chọn Brighton làm nơi nghỉ ngơi hưởng thú trăng mật. Họ thuê mấy căn phòng tại khách sạn “Thủy quân”, sung sướng hưởng thụ hạnh phúc êm đềm của mình trong thời gian chờ đợi Joe cũng ra đấy. Mà cũng chẳng phải họ chỉ có Joe là bạn ở đây. Một buổi chiều đang đi men theo bờ biển trở về khách sạn, họ gặp hai vợ chồng Rebecca. Hai cặp vợ chồng mới cưới nhận ra nhau ngay. Rebecca ôm chầm lấy cô bạn thân nhất đời.

Crawley hoan hỉ nắm tay Osborne rung tít. Chỉ mấy giờ sau, Becky đã tìm được cách khiến cho George quên hẳn mấy câu dấm dẳng cô ta nói với anh chàng hồi nọ. Đại úy Osborne còn nhớ không nhỉ, cái lần ta gặp nhau tại nhà Crawley phu nhân ấy mà, em có hơi thiếu lịch sự đối với anh. Hồi ấy, em cứ yên trí anh thờ ơ với chị Amelia thân yêu của em. Em giận quá, thế là đâm ra hỗn xược, tàn nhẫn, và vô ơn nữa cơ chứ. Anh tha lỗi cho em nhé! Rebecea, rất thẳng thắn, rất duyên dáng, chìa tay ra cho Osborne bắt; anh chàng đành giơ tay ra thôi. Cứ thẳng thắn và khiêm tốn mà nhận rằng mình có lỗi đi, có khi vì vậy mà thu lợi nhiều không biết chừng cơ đấy. Ngày trước tôi có quen một người sang trọng, vốn là tay hâm mộ Hội chợ phù hoa; tính ông ta thường hay gây ra những chuyện phiền lòng nho nhỏ làm tội những người xung quanh, cốt để về sau lại rất anh hùng, rất thẳng thắn mà xin lỗi họ…kết quả thế nào? Nghĩa là ai cũng đâm ra mến ông bạn Crocky Doyle của tôi; họ bảo rằng tính ông ta có hơi nóng, nhưng bản chất là người tốt nhất đời đấy. Cho nên thái độ khiêm tốn của Becky được Osborne coi là rất chân thành.

Hai cặp vợ chồng trẻ không thiếu gì chuyện kể cho nhau nghe. Họ tranh cãi về chuyện cưới xin của nhau. Hai bên thảo luận về những kế hoạch xây dựng tương lai hết sức thẳng thắn và nhiệt tình. Họ ấn định sẽ giao cho Dobbin việc báo cho ông già Osborne biết tin con trai ông lấy vợ.

Osborne cứ nghĩ đến cuộc gặp gỡ sẽ xảy ra cũng đủ rùng mình. Rawdon thì vẫn đặt mọi hy vọng vào Crawley phu nhân, nhưng chưa thấy động tĩnh gì. Không có cách nào mò vào trong ngôi nhà ở Đường công viên được, hai vợ chồng anh cháu trai đành bám sát bà lão về Brighton, tay chân của họ lúc nào cũng túc trực sẵn sàng trước cửa nhà bà để nghe ngóng.

Rebecca cười nói:

- Chị ạ, giá chị được nhìn thấy mấy ông bạn quý của Rawdon lúc nào cũng rình ở cửa nhà em. Chị đã bao giờ nhìn thấy một lão chủ nợ hay là một bác mõ tòa có tay sai đi kèm chưa? Tuần trước, có hai thằng quái ác nó cứ ngồi bên hàng hoa quả trước cửa rình suốt cả tuần lễ, đến nỗi chủ nhật chúng em mới dám thò mặt ra đường. Nếu bà cô không nghĩ lại, không hiểu rồi chúng em làm ăn ra sao?

Rawdon cười ầm lên, kể lại đến một tá chuyện lý thú về lão chủ nợ và cách Rebecca nói năng khéo léo với hắn ta như thế nào. Anh ta thề ầm ĩ lên rằng cả Âu châu này ít có người đàn bà nào đuổi khéo bọn chủ nợ tài tình bằng vợ mình. Hầu như ngay sau khi lấy nhau, Rebecca đã có dịp sử dụng tài nghệ của mình và anh chồng thấy ngay vợ mình là một con người vô giá. Hai vợ chồng vẫn được nhiều người tín nhiệm, nhưng cũng có vô số văn tự nợ, riêng khoản tiền mặt thì bao giờ cũng kiết xác. Những chuyện nợ nần ấy có làm cho Rawdon bớt vui vẻ không? Không; trong Hội chợ phù hoa, ai mà chẳng đã thấy có khối người nợ đìa ra mà vẫn ung dung ra phết; họ chẳng thiếu thứ gì, mà tâm trạng thì cứ phởn phơ thoải mái như không. Hai vợ chồng Rawdon thuê một ngôi nhà đẹp nhất ở Brighton, ông chủ trọ, mỗi khi bưng đĩa thức ăn đầu tiên của bữa cơm lên, lại cúi rạp xuống mà chào y như họ là những vị khách quý quen thuộc. Rawdon thì cứ tha hồ chê bai các bữa ăn và các thứ rượu, bạo mồm chẳng kém chẳng thua gì những tay tai to mặt lớn trong vùng. Thì ra nhiều khi những thói quen ông hoàng, một bộ cánh và một đôi ủng thật bảnh, kèm theo một dáng điệu khệnh khạng, cũng có thể thay thế cho một khoản lớn ở nhà băng được.

Hai cặp vợ chồng đến chơi nhà nhau luôn. Sau hai ba ngày, hai người đàn ông tổ chức chơi pich-kê, còn hai cô vợ ngồi riêng một chỗ chuyện trò tri kỷ. Nhờ có thú tiêu khiển này, và nhờ có Joe Sedley ngự trên chiếc xe ngựa mui trần to tướng cũng ra chơi vài ván bi-a, thành ra cái ví Rawdon đầy lên đôi chút và có tiền mặt mà tiêu, cái khó mà nhiều khi các bậc thiên tài trác tuyệt cũng phải bó tay không vượt qua nổi.

Thế là ba người đàn ông cùng đi ra đón xe “Tia chớp”.

Đúng giờ, không sai một phút, chiếc xe chật ních những người tiến đến; người gác cổng tỉnh thổi một hồi tù và thường lệ; chiếc “Tia chớp” chạy như bay qua phố, tiến về trạm xe.

George kêu ầm lên, thú quá, khi nhìn thấy ông bạn nối khố ngồi ngất ngưởng trên mui xe; anh ta hứa đến thăm ngay mà bây giờ mới thấy mặt:

- Hoan hô, Dobbin kia rồi.

- Nào, ông tướng, khỏe mạnh chứ? Cậu về chơi, mình vui quá. Emmy gặp cậu chắc mừng lắm đấy.

Osborne nồng nhiệt bắt tay bạn ngay lúc Dobbin vừa xuống xe; đoạn anh ta thấp giọng, lo lắng hỏi:

- Có tin tức gì không? Anh lại khu phố Russell chưa? Ông cụ bảo sao? Kể lại mình nghe hết cả đi.

Dobbin vẻ mặt nhợt nhạt đăm chiêu, đáp:

- Tôi gặp ông cụ rồi, Amelia... à, chị George thế nào? Để tôi kể lại mọi chuyện anh nghe; nhưng đây là tin quan trọng nhất; nghĩa là...

- Nói phăng ra, ông tướng.

- Chúng ta được lệnh sang Bỉ. Tất cả binh đoàn, cả đội ngự lâm quân. Heavytop bị bệnh thống phong; ông ta đang phát điên lên vì không đi lại được. O’Dowd sẽ tạm quyền chỉ huy. Tuần sau chúng ta lên tầu ở Chatham.

Tin về cuộc chiến tranh không khỏi khiến hai vị tân lang của chúng ta xúc động mạnh mẽ; vẻ mặt ba người đàn ông trông đăm chiêu hẳn đi.

Chương 23
ĐẠI ÚY DOBBIN TIẾP TỤC VẬN ĐỘNG

Không rõ tình bằng hữu có một sức mạnh huyền bí gì mà khiến được một con người thường ngày vẫn lùy xùy, hoặc lạnh lùng hoặc nhút nhát có thể trở thành khôn ngoan, hoạt động, cương quyết, trong khi lo liệu công việc cho bạn mình? Cũng giống như trường hợp của Alexis, sau khi được giáo sư khoa thôi miên Elliotson khoa tay vài cái trước mặt, anh ta bỗng nhiên coi khinh những sự đau đớn về thể xác, quay lưng lại cũng đọc được sách, mắt nhìn thấy cách hàng dặm đường, biết trước cả tuần lễ sau sẽ xảy ra những chuyện gì, ấy là chưa kể bao việc kỳ lạ khác; thế mà thường ngày, anh ta chỉ là một đồ vô tích sự. Trong những sự việc ở đời cũng vậy, mãnh lực diệu kỳ của tình bạn biến được kẻ thù nhút nhát thành can đảm, người e lệ thành bạo dạn, kẻ lười biếng thành năng động và người xốc nổi trở thành điềm tĩnh và khôn ngoan. Vì cớ gì một viên thầy kiện hủy bài cãi của mình mình đi, và chịu tìm đến ông bạn đồng nghiệp tài ba hơn để xin giúp ý kiến? Tại sao một vị bác sĩ mắc bệnh, lại cho chịu đi mời ông thầy thuốc vẫn cạnh tranh với mình đến nghe mạch, mà không ngồi vào trước gương thè lưỡi ra soi để tự mình định bệnh kê đơn lấy? Những câu hỏi ấy xin nhường các bạn đọc giải quyết hộ; các bạn vẫn thông minh, vẫn rõ chúng tôi có thói vừa cả tin lại vừa hoài nghi, vừa dễ dãi, vừa bướng bỉnh, tin người, nhưng lại không tin ngay chính mình. Anh bạn Dobbin của chúng ta thuộc loại người dễ tính, giả dụ trước kia bị gia đình thúc bách quá, có lẽ anh ta đã xuống nhà bếp mà lấy chị đầu bếp làm vợ. Ví phỏng chỉ để lo việc cho bản thân thôi, thì đối với anh ta đi ra phố cũng là chuyện trăm nguy ngàn khó; nhưng nếu lại là lo việc cho Osborne thì anh chàng quen “cơm nhà việc người” này rất hăng hái, không quản khó nhọc, y như một tay chạy việc ích kỷ nhất, xưa nay chỉ biết mưu lợi cho bản thân.

Trong khi George và cô vợ trẻ đang say sưa hưởng thụ những ngày nồng nàn hạnh phúc đầu tiên của tuần trăng mật ở Brighton, thì anh chàng Dobbin thật thà này ở lại Luân-đôn với tư cách là đại diện toàn quyền của bạn để thu xếp nốt những chuyện liên quan đến việc cưới xin vừa qua. Nhiệm vụ của Dobbin còn phải làm cho Joe và em rể thân mật với nhau hơn, nhằm mục đích dùng cái địa vị ủy viên tài phán quận Boggley Wollah của Joe bù vào chỗ ông Sedley bị mất hết danh vọng vì phá sản; cũng lại Dobbin phải lo vận động sao cho ông già Osborne thuận trở lại công nhận hôn ước giữa hai gia đình; và cuối cùng, Dobbin sẽ tìm cách báo tin George cưới vợ cho ông già biết, sao cho ông đỡ bực mình.

Dobbin mới tính toán rằng, trước khi đến chạm trán với ông chủ gia đình Osborne để báo tin này, cần tranh thủ cảm tình của những người trong nhà đã và, nếu có thể, vận động được cho hai chị em cô Osborne về phe mình.

Theo ý anh ta, không có lẽ nào hai cô thiếu nữ lại nỡ lòng giận George vì chuyện này. Ở đời có người phụ nữ nào lại bất bình thực sự vì cuộc tình duyên lãng mạn? Chẳng qua họ cũng chỉ khóc lóc gọi là tý chút, rồi cũng sẽ làm lành với George thôi; thế là hai cô con gái và Dobbin, cả ba sẽ góp sức mà bao vây ông Osborne. Viên sĩ quan lục quân kiêm chính khách đại tài này bắt đầu tìm một biện pháp vui vẻ hoặc một chiến thuật khả dĩ dẫn hai chị em cô Osborne đi vào câu chuyện bí mật của George một cách từ từ và khéo léo. Dobbin chỉ cần dò hỏi xem mẹ mình thường hay đi chơi những đâu và gặp những ai, là có thể biết nên đến chỗ nào thì có hy vọng gặp mặt hai chị em cô Osborne. Xưa nay, anh ta vẫn rất ghét những chuyện khách khứa. Tiệc tùng -những thú vui này, than ôi, khá nhiều người đàn ông biết suy nghĩ lại rất say mê - nhưng anh ta cũng tìm cách len vào bằng được một cuộc tiếp tân có mặt hai chỉ em cô thiếu nữ. Trong buổi dạ hội này, Dobbin nhảy với mỗi cô một hai lần, tỏ ra đặc biệt lịch thiệp, đoạn mới lấy can đảm yêu cầu cô Jane Osborne sớm hôm sau cho gặp mặt khoảng mươi phút để báo một tin hết sức quan trọng.

Cớ làm sao nghe Dobbin nói thế, cô ta lại giật nảy mình, nhìn chằm chằm anh chàng một lúc rồi cúi mặt xuống, như thể muốn ngã ngay vào cánh tay anh ta mà ngất lịm đi? Nhưng may quá, đúng lúc ấy Dobbin lại vô ý giẫm ngay lên bàn chân cô ta, nhờ thế cô thiếu nữ tự trấn tĩnh được kịp thời. Tại sao cô ta lại bị xúc động đến khi nghe lời yêu cầu đó của Dobbin? Ai mà biết được. Chỉ biết rằng sớm hôm sau, khi Dobbin đến thăm thì cô Maria không có mặt trong phòng khách như mọi khi; còn bà Wirt thì cũng bỏ ra ngoài lấy cớ đi tìm cô Maria; còn lại một mình anh chàng đại úy ngồi với cô Jane Osborne. Cả hai cùng yên lặng: chiếc đồng hồ có tượng Iphigenia đặt trên mặt lò sưởi kêu tích tắc nghe rõ mồn một, rõ một cách khó chịu. Cuối cùng, cô Osborne lên tiếng trước, có ý khuyến khích :

- Buổi dạ hội đêm qua vui quá nhỉ, và...và...hồi này ông khiêu vũ tiến bộ lắm, đại úy Dobbin ạ.

Cô thân mật tiếp theo, có vẻ hơi ranh mãnh:

- Hẳn phải có người nào luyện hộ ông, có đúng không nào?

- Giá cô được xem tôi nhảy điệu “reel”() với bà thiếu tá O’Dowd của chúng tôi, và điệu “jig”() nữa... cô đã xem nhảy điệu “jig”, bao giờ chưa? Nhưng theo ý tôi, nhảy với cô, người kém cũng thành giỏi; cô nhảy khéo tuyệt.

Cô thiếu nữ tò mò hỏi:

- Bà thiếu tá có trẻ đẹp không, ông đại úy? Người đẹp lại hỏi tiếp:- Chao ôi! Là vợ sĩ quan chắc phải ghê gớm lắm nhỉ? Tôi khó lòng tưởng tượng nổi vào thời buổi chiến tranh này, cái bà ấy còn nghĩ đến chuyện khiêu vũ được. Đại úy Dobbin ạ, thỉnh thoảng cứ nghĩ đến cậu em George yêu quý của tôi cùng bao nhiêu nỗi hiểm nguy đang đe dọa thân phận đáng thương của người lính mà tôi run lên vì sợ hãi đấy. Trong trung đoàn của ông có nhiều sĩ quan có vợ không, ông đại úy?

Bà Wirt đang ghé tai vào cửa nghe trộm, nghĩ bụng: “Chết thật, cái cô này ăn nói lộ liễu quá đi mất”. Nhưng câu nói thầm của bà không lọt đến tai người ngồi trong phòng.

Dobbin đi thẳng vào vấn đề:

- Trong bọn anh em chúng tôi, cũng có một người vừa cưới vợ; hai người yêu nhau đã lâu, nhưng họ nghèo quá, không một xu dính túi ().

Nghe mấy tiếng “yêu nhau đã lâu và nghèo”, cô Osborne bèn kêu lên:

- À tuyệt quá nhỉ? Thật là thi vị!

Thấy cô thiếu nữ tỏ vẻ thông cảm, Dobbin bạo dạn hơn, tiếp:

- Anh ta là một thanh niên tuấn tú nhất trung đoàn đấy. Cả quân đội không có sĩ quan nào can đảm và đẹp trai hơn; mà người vợ thì xinh thật là xinh! Giá cô nhìn thấy cũng phải yêu cô Osborne ạ; cô mà gặp cô ấy thì nhất định cô cũng mến.

Cô thiếu nữ nghĩ thầm giờ phút quyết định đã bắt đầu vì thấy Dobbin có vẻ lúng ta lúng túng, những thớ thịt trên mặt anh ta cứ giật giật, đôi bàn chân to kếch động đậy luôn, mấy ngón tay thì cứ lần mãi trên hàng khuy áo, hết cởi ra lại cài vào. Chắc rằng điệu bộ anh chàng lúng túng thế kia, ý hẳn sắp sửa dốc cạn bầu tâm sự, cô bèn hăm hở sửa soạn lắng nghe. Vừa lúc ấy, chiếc đồng hồ trên có pho tượng Iphigenia kêu rè rè một hồi, rồi ngân nga điểm mười hai tiếng liền. Chỉ gõ có mười hai tiếng chuông mà tưởng như lâu đến một giờ. Cô thiếu nữ chưa chồng đang khát khao chờ đợi thấy đồng hồ đánh chuông sao mà chậm quá thế! Dobbin nói:

- Nhưng hôm nay tôi không định nói chuyện về việc cưới xin...nghĩa là việc cưới xin của...nghĩa là...không, tôi định nói rằng...cô Osborne ạ, tôi định nói chuyện về anh bạn George thân yêu của tôi.

- Thì ra ông nói chuyện về George!

Giọng nói của cô thiếu nữ lộ vẻ thất vọng quá rõ ràng làm cho cô Maria và bà Wirt đứng nghe trộm ngoài cửa phải bật cười; Dobbin xuýt nữa cũng phải tủm tỉm vì không phải là anh ta không biết rằng mình đã lọt được vào mắt xanh của cô thiếu nữ. Trước kia, nhiều lần George đã bỡn cợt bạn thế này: “Bỏ mẹ thật! Thế mà anh không chịu lấy bà gái già Polly nhà tôi làm vợ. Anh chỉ hỏi một tiếng là xong. Tôi đánh cuộc với anh năm đồng ăn hai này.”

Dobbin bèn nói tiếp:

- Thưa vâng, về George. Giữa anh ấy và cụ ông nhà ta trước kia có chút xích mích. Tôi quý anh ấy lắm...chắc cô cũng biết chúng tôi thân nhau như anh em ruột...cho nên tôi không ao ước gì hơn là được thấy hòa khí giữa cụ nhà và anh ấy. Cô Osborne ạ, chúng tôi sắp phải ra ngoại quốc rồi. Mệnh lệnh xuất quân sẽ ban xuống không biết lúc nào. Mà ra trận thì cũng không biết thế nào mà nói trước…Cô Osborne ạ, việc gì mà sợ hãi...Vì vậy, trước khi đi ra, cũng mong anh ấy được cụ nhà thương đến.

Cô thiếu nữ đáp:

- Đại úy Dobbin, nào có chuyện lôi thôi gì đâu; xưa nay giữa hai cha con vẫn thường có những chuyện xích mích nhỏ. Ngày nào chúng tôi cũng mong George trở về. Ba tôi chỉ ước mong điều hay cho cậu ấy. George cứ yên trí trở về nhà, tôi cam đoan mọi sự đều ổn thỏa, êm đẹp. Em Rhoda nó hồi nãy đây còn có vẻ rất buồn rầu, bực bội; nhưng tôi biết, thế nào nó cũng sẵn sàng tha thứ cho anh nó. Đại úy, ạ phụ nữ chúng tôi vẫn dễ tha thứ lắm cơ.

Dobbin rất khôn ngoan đáp ngay:

- Một vị thiên thần như cô chắc hẳn dễ tha thứ cho người khác rồi. Vả lại người đàn ông nào làm cho đàn bà đau khổ, thật đáng tội lớn. Giả dụ có người đàn ông nào không trung thành với cô, liệu cô cảm thấy thế nào nhỉ?

- Tôi ấy à?...Thế thì tôi chết mất...Tôi sẽ nhảy qua cửa sổ tự tử ngay... Tôi sẽ uống thuốc độc... Tôi sẽ héo hon rầu rĩ đi mà chết. Chắc chắn như vậy.

Tuy cô thiếu nữ hăng hái tuyên bố thế, nhưng thực ra, cô đã từng trải qua đôi ba cuộc thất bại trên trường tình mà chưa hề thấy bao giờ cô nghĩ đến chuyện từ bỏ cõi đời.

Dobbin lại tiếp:

- Tôi biết nhiều người cũng có một tấm lòng chung thủy cao quý như cô đấy. Tôi không định nói về cô thiếu nữ triệu phú con gái cái gia đình ở Tây Ấn đâu; tôi chỉ muốn nói về một người con gái trước kia đã từng được George yêu, và từ tấm bé đã chỉ một lòng tâm tâm niệm niệm nghĩ tới anh George. Tôi đã thấy cô ấy chịu đựng cảnh sa sút thiếu thốn một cách nhẫn nại, không hề than vãn nửa lời tuy rất đau khổ, không ai chê trách được điều gì Tức là tôi muốn nói về cô Amelia Sedley. Cô Osborne thân mến, không có lẽ con người rộng lượng như cô lại nỡ giận anh George chỉ vì anh ấy trung thành với Amelia? Ví thử George bỏ rơi Amelia, liệu chính anh ấy có khỏi bị lương tâm cắn rứt hay không? Cô hãy thương lấy Amelia...xưa nay cô ấy vẫn quý cô lắm cơ mà...và...và...hôm nay tôi được George ủy nhiệm đến đây thưa lại với cô rằng anh ấy coi sự đính ước cũ với Amelia là một điều thiêng liêng nhất và tôi cầu xin cô ít nhất thì cũng bênh vực cho anh ấy.

Khi nào Dobbin có điều gì xúc động mạnh, thường thường sau vài câu nói lúng túng rụt rè ban đầu, anh ta nói rất lưu loát; lần này tài hùng biện của Dobbin rõ ràng có ảnh hưởng đến thái độ của cô thiếu nữ. Cô đáp:

- Dạ...thật là một điều...hết sức kỳ quái...hết sức đau xót thật không ngờ... không biết ba tôi sẽ nghe ra sao. Thế là bao nhiêu công lao của ba tôi định gây dựng cho George một cơ đồ lộng lẫy huy hoàng, cậu ấy đổ xuống sông xuống biển sạch... Nhưng mà, đại úy Dobbin ạ, cậu nó nhờ tay ông lo liệu giúp, thật là biết “chọn mặt gửi vàng” đấy.

Ngừng một lát cô nói tiếp:

- Tuy vậy, cũng không ăn thua gì. Đối với cô Sedley, tôi vẫn có bụng mến...thành thực mà nói thế, chắc ông cũng rõ. Xưa nay, chúng tôi vẫn không tán thành cuộc nhân duyên này lắm, nhưng chúng tôi đối với cô ấy vẫn rất tốt...tốt lắm. Có điều ba tôi không bằng lòng đâu, chắc chắn như vậy. Vả lại, ông cũng hiểu rằng một người thiếu nữ có giáo dục... mà sáng suốt, biết điều, thì phải... nghĩa là…đại úy Dobbin ạ, thế nào George cũng phải thôi cô ấy đi, không có cách nào khác.

Dobbin chìa tay ra nói:

- Thế ra một khi người yêu bị lâm vào cảnh hoạn nạn, người đàn ông đành phải bỏ rơi họ sao? Cô Osborne ơi, có thật đó là lời chính cô khuyên tôi không? Xin cô hãy thương lấy Amelia; George không thể nào bỏ cô ấy được đâu. Không thể nào như vậy được. Ví dụ bây giờ cô nghèo đi, liệu có nên khuyên người đàn ông bỏ cô không?

Câu hỏi khôn ngoan này xúc động trái tim cô Osborne không ít; cô đáp:

- Đại úy ạ, không rõ bọn thiếu nữ đáng thương chúng tôi có nên tin lời đường mật của đàn ông các ông không. Xem tính tình cô ta hiền hậu như thế có lẽ cũng cả tin. Tôi e rằng đàn ông các ông độc ác lắm, hay lừa dối lắm.

Đồng thời, Dobbin cảm thấy bàn tay cô Osborne đưa ra xiết chặt lấy tay mình.

Dobbin buông tay cô ta ra có vẻ hơi hốt hoảng nói:

- Hay lừa dối! Cô Osborne thân mến ạ; đàn ông chúng tôi không phải ai cũng thế đâu. Em trai cô không phải là hạng người ấy. George đã yêu Amelia từ hồi hai người còn nhỏ. Sẽ không có sự giàu sang phú quý nào xui được anh ấy từ bỏ Amelia để lấy người khác làm vợ. Bây giờ George phải thôi cô ấy sao? Có phải cô khuyên George hành động như vậy không?

Cô Jane còn biết trả lời thế nào nữa, nhất là cô lại đang ôm một ý định thầm kín đối với Dobbin. Không sao trả lời được cô đành nói đỡ đòn thế này:

- Vâng, nếu các ông không phải là tuồng dối trá thì ít nhất các ông cũng lãng mạn lắm lắm.

Đại úy Dobbin khôn ngoan bỏ qua lời nhận xét, không cãi lại. Cuối cùng, sau một hồi thuyết lý khéo léo đầy lễ độ, Dobbin cảm thấy lúc này cô Osborne đã được chuẩn bị tâm trạng đầy đủ để nhận tin tức cuối cùng; anh chàng bèn rót vào tai cô thiếu nữ: “George không sao xa cách Amelia được, George đã cưới Amelia làm vợ rồi”.

Đoạn anh ta kể lại tỷ mỷ cuộc hôn lễ mà các bạn đã rõ: Dobbin bảo rằng nếu George không giữ lời ước cũ, có lẽ Amelia đến chết vì đau khổ mất; ông Sedley nhất định không chịu công nhận việc cưới xin này, nhưng rồi cũng thu xếp ổn thỏa. Joe Sedley cũng đã từ Cheltenham về để dẫn em gái đến trước bàn thờ làm lễ. Sau đó đôi vợ chồng mới ngồi xe bốn ngựa của Joe đi Brighton hưởng tuần trăng mặt, George hy vọng rất nhiều sẽ được chị và em gái giúp đỡ mình xin cha tha thứ; George tin chắc như vậy, vì hiểu rằng tâm hồn phụ nữ vốn hiền thục và dịu đàng. Đoạn Dobbin yêu cầu cô Osborne cho phép mình gặp lại (cô sẵn sàng ưng thuận ngay), rồi đứng dậy cáo từ, anh ta đoán chắc chỉ năm phút sau là câu chuyện sẽ đến tai cô Maria và bà Wirt. Đại úy Dobbin cúi chào rồi từ giã.

Dobbin vừa ra khỏi cửa thì cô Maria và bà Wirt đã nhảy xổ vào trong phòng; thế là câu chuyện bí mật được cô Jane kể lại đầu đuôi tỷ mỷ. Công bằng mà nói thì cả hai cô thiếu nữ không ai lấy làm khó chịu lắm về việc này. Những cuộc hôn nhân táo bạo như thế vẫn có một cái gì đặc biệt khiến cho rất ít người đàn bà nghe chuyện mà công phẫn thực sự; hai cô thiếu nữ lại thấy mến phục Amelia hơn trước, vì cô đã nhận lời thành hôn với George trong trường hợp éo le này. Đang khi ba người sôi nổi bàn tán với nhau không biết rồi ông Osborne sẽ có thái độ ra sao, thì ngoài cửa đã có tiếng gõ cửa mạnh, y như tiếng sét đột ngột của sự trả thù, làm cho cuộc hội kín phải ngừng lại. Mọi người đoán chắc “ba” đã về; nhưng không phải. Đó chỉ là anh chàng Frederick Bullock; y lời hẹn, anh ta từ khu City đến mời hai cô thiếu nữ đi xem triển lãm hoa.

Chẳng nói cũng rõ Bullock được mọi người kể lại ngay câu chuyện bí mật. Nghe xong, thấy bộ mặt anh ta đã ra có vẻ hết sức ngạc nhiên, khác hẳn cái vẻ đa cảm đang lộ ra trên nét mặt hai cô gái. Bullock là một nhà doanh thương, có cổ phần trong một hãng buôn lớn. Anh ta hiểu rõ cổ phần trong một hãng buôn lớn. Anh ta hiểu rõ thế nào là đồng tiền, và giá trị của nó ra sao. Niềm hy vọng làm cho đôi mắt ty hý của anh ta sáng rực lên. Anh ta vừa mỉm cười với cô Maria vừa tính nhẩm rằng phen này sự điên rồ của George hẳn sẽ nâng giá trị của cô vợ chưa cưới lên thêm ba vạn đồng nữa là ít.

Anh ta nhìn cô chị vợ, vẻ mặt kính nể, nói:

- Trời đất ạ; chị Jane, Eels nghe tin này chắc đến phát khóc mất. Chị sắp đáng giá năm vạn đồng rồi đấy.

Cho đến lúc này, hai chị em cô thiếu nữ chưa kịp nhớ đến chuyện tiền nong; suốt cuộc đi chơi sáng hôm ấy, Bullock luôn mồm bỡn cợt hai chị em về vấn đề này; đến trưa, khi hai cô về nhà dùng bữa, chính họ cũng cảm thấy hãnh diện hơn trước thái độ ích kỷ ấy; nào có gì là khác thường đâu? Bởi vì sớm hôm nay kẻ viết truyện này có đi xe ngựa thuê từ Richmond; lúc xe đến trạm thay ngựa, tôi ngồi ngất nghểu trên mui nhìn xuống thấy ba đứa trẻ bẩn thỉu đang vầy một vũng nước bên vệ đường, cười đùa vui vẻ lắm. Bỗng có một con bé chạy đến nói: “Này Polly, em mày được một xu đấy”. Lập tức ba đứa kia bỏ vũng nước, chạy ra nịnh nọt con bé Peggy đi trước, đám trẻ con bâu theo sau, cả bọn đường hoàng tiến tới quày hàng kẹo của một bà gần đấy.

Chương 24
ÔNG OSBORNE XÓA TÊN CON TRONG QUYỂN THÁNH KINH

Báo tin cho cô chị và cô em gái Osborne xong, Dobbin vội vã đến khu City để thực hiện phần nhiệm vụ còn lại, cũng là phần việc khó khăn nhất. Cứ nghĩ đến phải gặp mặt ông già Osborne, Dobbin cũng đã thấy ngài ngại; nhiều lần anh ta định cứ để hai chị em cô Osborne báo tin ấy cho cha họ, vì anh ta biết họ không thể giấu tín việc ấy được lâu. Nhưng Dobbin hứa với George sẽ kể lại tình hình khi ông Osborne biết tin con lấy vợ như thế nào. Vì vậy, anh ta tìm đến phố Thames, nơi đặt văn phòng của ông Osborne tại khu City, và đưa một tấm thiếp tỏ ý muốn được tiếp trong nửa giờ để nói về việc của con trai ông cụ là George. Người đưa thư trở về cho biết ông lão rất vui lòng, và muốn gặp mặt viên đại úy ngay lập tức; thế là Dobbin đến gặp mặt ông lão. Dobbin bước vào văn phòng của ông già, cảm thấy hình như mình là kẻ có tội, và yên trí giữa hai người sẽ xảy ra một cuộc thảo luận gay go. Dáng điệu âu sầu, vẻ mặt lo lắng, anh ta đi ngang qua gian phòng ngoài, nơi ông Chopper ngồi làm việc, thấy ông này ngồi bệ vệ sau bàn giấy, gật đầu chào có vẻ chế nhạo làm cho Dobbin càng mất tinh thần. Ông Chopper nháy mắt, gật đầu, giơ cái bút chì về phía cửa phòng làm việc của chủ, vui vẻ một cách đặc biệt nói:

- Mời ông vào, cụ chủ trong ấy đấy.

Ông Osborne cũng đứng dậy đón, giơ tay ra bắt rất thân mật:

- Thế nào, con thân yêu, khỏe chứ?

Thái độ vồ vập của ông già càng khiến cho tay “thuyết khách” của George cảm thấy mình có tội. Bàn tay anh ta đờ ra trong nắm tay của ông lão. Anh ta cảm thấy như chính mình ít nhiều đã gây ra mọi chuyện rắc rối. Chính anh ta đã đưa George trở lại với Amelia, chính vì anh ta đã tán thành, đã khuyến khích, đã gần như sắp đặt tất cả việc hôn nhân; bây giờ anh ta đã đến để kể lại cho ông Osborne nghe, thế mà ông già tươi tỉnh tiếp đãi như vậy, lại thân mật vỗ vai, anh ta mà gọi “Dobbin con thân yêu”. Chao ôi! Nghĩ mà có thể treo cổ lên tự vẫn ngay được.

Ông Osborne hoàn toàn yên trí rằng Dobbin đến cốt báo tin George chịu đầu hàng rồi. Lúc nhận được tấm thiếp của Dobbin, ông Chopper và chủ đã trao đổi ngay về chuyện hai cha con xích mích với nhau; cả hai đều cho rằng George đã chịu khuất phục. Mấy hôm nay họ vẫn chờ đợi tin này.

Ông Osborne bật mấy ngón tay chuối mắn kêu đánh tách một cái, xóc xóc mấy đồng ghi nê trong túi cho kêu sủng soảng, liếc nhìn người làm công của mình với vẻ mặt của kẻ thắng trận, nói:

- Lạy Chúa, ông Chopper ạ, chúng ta sẽ tổ chức một đám cưới thật linh đình.

Vừa thọc cả hai tay vào túi xóc xóc mấy đồng đồng tiền, vẻ mặt yên trí hể hả, ông Osborne ngồi trên ghế bành nhìn thẳng vào Dobbin đang tái mặt đi im lặng; ông già nghĩ thầm:

- Là một đại úy trong quân đội mà thế này thì đần quá. Tại sao không học thằng George lấy ít cử chỉ lịch sự nhỉ?

Cuối cùng Dobbin thu hết can đảm bắt đầu:

- Thưa cụ, tôi đến báo cụ hay một tin, rất quan trọng. Sáng nay tôi có đến trại ngự lâm quân, và được tin chắc chắn rằng trung đoàn của chúng tôi sẽ được lệnh điều động ra ngoại quốc; nội trong tuần này sẽ sang Bỉ. Chắc cụ cũng thấy, trước khi lại được về nước, thế nào cũng phải tham chiến và cũng có thể nhiều người trong số chúng tôi gặp điều bất hạnh.

Ông Osborne có vẻ trầm ngâm:

- Thằng con...tôi chắc trung đoàn sẽ làm tròn nhiệm vụ, thưa ông.

Dobbin tiếp:

- Thưa cụ, bọn Pháp rất mạnh. Phải một thời gian khá lâu thì quân Nga và quân Áo mới đến tiếp viện được. Như vậy chúng ta phải đứng đầu sóng ngọn gió. Chắc chắn Boney sẽ gây cho ta rất nhiều khó khăn.

Ông già cau mày:

- Ông định nói gì vậy? Tôi tin rằng không một người Anh nào lại sợ bọn Pháp.

- Tôi chỉ muốn cụ hiểu cho rằng, trước khi chúng tôi lên đường, xin cụ hãy nghĩ đến những sự nguy hiểm ghê gớm chắc chắn chúng tôi sẽ gặp phải...mà nếu có sự xích mích giữa cụ và anh George thì...thì...thưa cụ, mong cụ cũng vui lòng bỏ qua cho; được không ạ? Tôi nghĩ rằng, nếu sau này George gặp điều gì không may, chắc cụ chẳng bao giờ tự tha thứ cho mình vì lúc chia tay vẫn còn giận anh ấy.

Mặt Dobbin đỏ tía lên; anh ta cảm thấy rõ ràng mình là thằng phản bội, bởi vì nếu không có anh ta chắc hẳn hai cha con nhà này không có chuyện gì phải xích mích với nhau. Tại sao không lùi cuộc hôn nhân của George lại? Việc gì phải hối hả thế. Anh ta cảm thấy George có thể xa cách người yêu của mình mà không đến nỗi chết vì đau khổ. Còn Amelia thì cũng rất có thể hàn gắn được vết thương lòng. Chính vì anh ta nên mới có chuyện cưới xin rồi sinh ra bao nhiêu chuyện rắc rối. Mà bởi đâu? Chỉ tại anh ta yêu cô thiếu nữ quá, không đành lòng nhìn cô ta đau khổ; hoặc có lẽ vì Dobbin không thể chịu nổi tình trạng lửng lơ nó giày vò mình, nên sẵn sàng chấm dứt nó cho xong chuyện...giống như khi có người chết, ta muốn chôn cất cho nhanh chóng, hoặc như ta biết chắc chắn phải xa cách một người thân yêu, thì chỉ khi đã chia tay nhau rồi, tâm trạng mới thư thái được.

Ông Osborne dịu dàng nói:

- William, ông là người rất tốt; và George không nên chia tay nhau mà vẫn còn xích mích. ông xem đấy, đối với nó, tôi đã làm mọi việc một người cha có thể làm. Tôi chắc rằng tôi đã cho nó nhiều gấp ba lần ông cụ nhà ta cho ông để tiêu. Tôi không khoác lác làm gì đâu. Vì nó, tôi đã vất vả, tôi đã phải phí biết bao tâm lực, tài trí; ông cứ hỏi Chopper, cứ hỏi ngay chính nó thì biết ông cứ hỏi cả khu City ở Luân-đôn này. Thật thế, tôi đã lo cho nó một đám mà bất cứ nhà quý tộc nào trong nước cũng phải thèm muốn…cả đời, tôi chỉ nhờ nó có một việc ấy...thế mà nó không nghe tôi. Vậy thì tôi có lỗi không? Tôi chỉ muốn điều hay cho nó, vì vậy tôi phải chịu vất vả như một tên tù khổ sai từ khi sinh ra nó đến giờ. Không ai có thể bảo tôi ích kỷ được. Cho phép nó trở về, tôi sẵn lòng quên hết và tha thứ. Còn chuyện cưới xin thì thôi, chưa nói đến vội. Nó sẽ làm lành với cô Swartz; và bao giờ nó trở về với cái lon đại tá sẽ lo việc thành hôn cũng không muộn. Nếu chỉ cần có tiền là được làm đại tá thì, lạy Chúa, yên trí lắm. Ông đã khuyên nó biết nghĩ lại, thật may mắn quá. Dobbin, tôi biết lắm, chính nhờ có ông mới được vậy. Lâu nay, ông vẫn giúp nó thoát nhiều rắc rối. Nó cứ trở về, tôi sẽ không nghiêm khắc. Hôm nay, cả hai anh em về khu phố Russell ăn cơm nhé. Vẫn ngôi nhà mọi khi, và vẫn đúng giờ thường lệ. Sẽ có thịt thú rừng, và sẽ không ai căn vặn nó điều gì hết.

Thấy ông già ca ngợi và tỏ ý quá tin tưởng mình. Dobbin rất đau lòng. Càng nghe ông già nói, Dobbin càng cảm thấy mình có tội. Anh ta đáp:

- Thưa cụ, có lẽ cụ đã hiểu; vâng, chắc chắn như vậy. George là người cao thượng quá, chắc không bao giờ chịu lấy vợ vì tiền. Nếu cụ đe dọa sẽ truất quyền thừa kế vì cưỡng lời cụ, e rằng anh ấy càng thêm gan góc

Ông Osborne vẫn khôi hài, nói:

- Thế nào? Chết chưa? Cái ông này. Muốn cho nó mỗi năm được hưởng tám nghìn hoặc một vạn đồng, mà ông gọi là dọa nó? Lạy Chúa, nếu cô Swartz ưng lấy tôi thì tôi xin ký ngay cả hai tay. Tôi không khó tính lắm về chuyện nước da sẫm hay nhạt.

Ông già nhếch mép một cách tinh quái và cười khà khà. Vị “sứ giả” trịnh trọng đáp:

- Thưa cụ, cụ quên mất rằng đại úy Osborne đã có nơi đính ước.

Đột nhiên lại nghe nhắc đến chuyện này, ông Osborne vừa ngạc nhiên, vừa tức giận.

- Đính ước nào? Ông định nói chuyện quái quỷ gì đấy? Ông không định nói rằng cái thằng con tôi ngu xuẩn đến mức cứ nhất định bám chặt lấy đứa con gái của tên lừa đảo, phá sản kia chứ? Ông có định đến đây cốt cho tôi biết rằng nó nhất định lấy con bé ấy làm vợ không? Lấy nó làm vợ, đẹp đẽ nhỉ! Con trai tôi, kẻ thừa kế của tôi mà lấy con gái một tên ăn mày từ cống rãnh chui lên. Nếu thật thế, thì nó hãy kiếm một cái chổi liệu mà đi quét đường sớm. Tôi nhớ ra rồi, mọi khi con bé vẫn lượn quanh con tôi mà liếc tình. Nhất định cái thằng bố lừa đảo nó xui nó “chài” con tôi đây.

Dobbin ngắt lời: dường như anh cảm thấy hài lòng vì chính mình phát cáu:

- Thưa cụ, ngày xưa, ông Sedley vẫn chơi thân với cụ. Đã có hồi cụ không gọi ông ấy là đồ lừa đảo, là đồ khốn, mà gọi bằng những danh từ khác đẹp đẽ hơn. Chính vì cụ mà có chuyện đính ước kia, cho nên George không có quyền chơi đùa, muốn lấy muốn bỏ tùy thích...

Ông già Osborne quát lên:

- Lấy với chả bỏ! Cái thằng con trai thượng lưu nhà tôi cũng nói với tôi y như thế đấy; cái hôm thứ ba cách đây nửa tháng, nó khệnh khạng vác mặt đến dọa dẫm bố đẻ ra nó về những chuyện quận đội nước Anh dự trận. Vậy ra chính ông, ông đại úy, chính ông xui nó nói thế. Xin đa tạ ông, ông đại úy ạ. Thế ra ông muốn dắt bọn ăn mày vào nhà tôi; cảm ơn cái trò vô tích sự của ông lắm lắm, ông đại úy ạ. Lấy con bé ấy... Hi hi? Việc gì tôi phải lấy nó nhỉ? Tôi cam đoan với ông rằng chẳng cần phải cưới xin gì thì con bé ấy vẫn cứ bám lấy nó cho mà xem.

Dobbin đứng phắt dậy, giận dữ ra mặt:

- Thưa cụ, tôi sẽ không để cho ai nói xấu cô ấy trước mặt tôi, nhất là người nói xấu lại là cụ.

- Ông thách thức tôi đấy phải không? Được, để tôi kéo chuông gọi mang hai cây súng lục. Thằng George cử ông đến để chửi bố nó, có phải không?

Ông Osborne vừa nói, vừa giơ tay kéo chuông.

Dobbin, giọng run run nói:

- Cụ Osborne, chính cụ đã sỉ nhục một con người tốt nhất đời này. Cụ nên tránh cho cô ấy điều đó vì cô ấy đã là vợ con trai cụ.

Dobbin không nói gì thêm được nữa, bước ra ngoài.

Ông Osborne ngồi phịch xuống ghế bành mắt mở trừng trừng nhìn theo. Nghe tiếng chuông, một nhân viên bước vào. Viên đại úy bước ra sân thì ông Chopper, người thư ký riêng, đầu để trần chạy theo. Ông ta túm lấy vạt áo Dobbin, hỏi:

- Lạy Chúa tôi, có chuyện gì thế? Cụ chủ tôi đang như điên kia kìa. Ông George đã làm gì vậy?

- Ông ấy cưới cô Sedley đã năm hôm nay rồi. Chính tôi đi phù rể, ông Chopper ạ; và ông nên ủng hộ người bạn của ông ta.

Viên thư ký già lắc đầu:

- Đại úy ơi, nếu quả thế thì thật là một tin buồn. Cụ chủ không bao giờ tha thứ cho ông ấy đâu.

Dobbin yêu cầu ông Chopper thấy tình hình thế nào thì báo cho mình biết tại khách sạn, nơi anh ta vẫn trọ, đoạn buồn bã đi về hướng Tây, hết sức hoang mang về chuyện đã qua, cũng không biết rồi câu chuyện sẽ xoay ra sao.

Tối hôm ấy khi cả gia đình ông Osborne ở khu phố Russell họp mặt lúc dùng bữa tối, mọi người thấy ông già vẫn ngồi chỗ cũ, nhưng sắc mặt có vẻ rầu rĩ; như mọi khi, thấy ông ta không vui mọi người cũng im lặng không dám nói năng gì. Hai cô con gái và Bullock cùng ngồi ăn yên trí rằng ông Osborne đã biết tin ấy rồi. Trước đôi mắt âu sầu của bố vợ, Bullock cũng thấy bối rối và cũng ngồi yên lặng; nhưng hôm ấy anh ta tỏ vẻ đặc biệt săn sóc đến cô Maria ngồi bên cạnh và cô chị ngồi mé đầu bàn chủ tọa bữa ăn. Bà Wirt thì ngồi trơ trọi một mình. Giữa bà và cô Jane có một chỗ để trống; những khi về nhà ăn cơm, George vẫn ngồi chỗ ấy. Mong con trai sẽ trở về, ông Osborne vẫn ra lệnh dọn phần ăn của anh ta. Suốt bữa ăn, không có chuyện gì xảy ra, chỉ có tiếng Frederick thủ thỉ tâm tình với người yêu, và tiếng bát đĩa chạm vào nhau kêu lanh canh. Bọn gia nhân rón rén ra vào để hầu ăn. Vẻ mặt bọn họ trông còn rầu rĩ hơn cả những người đi đưa đám ma. Ông Osborne lầm lỳ không nói không rằng, ngồi cắt khoanh thịt nai định dành riêng để mời Dobbin đến ăn tối. Nhưng hầu như ông ta cũng không đụng đến phần ăn của mình mặc dầu ông uống rất nhiều rượu; bác quản lý rất chăm chú rót thêm rượu vào cốc của chủ.

Cuối cùng đúng lúc bữa ăn chấm dứt, ông Osborne đưa mắt nhìn khắp mọi người, rồi dừng lại trên chiếc đĩa của George. ông giơ tay trái chỉ vào chiếc đĩa. Hai cô con gái nhìn bố, không hiểu, hoặc đúng hơn, sợ không dám hiểu; bọn gia nhân cũng không biết chủ muốn gì. Sau cùng, ông thề độc một câu, đứng dậy nói:

- Cất cái đĩa này đi.

Đoạn ông đẩy chiếc ghế của mình ra đằng sau, bước về buồng riêng. Mé sau phòng ăn của ông Osborne là một gian buồng thường vẫn được mệnh danh là phòng làm việc. Phòng này dành riêng cho ông chủ gia đình. Sáng chủ nhật nào không muốn đi nhà thờ, ông Osborne thường vào ngồi một mình trong phòng này và, ngồi thoải mái trong tấm ghế bành bọc da đỏ, ông đọc báo. Trong phòng, kê hai cái tủ sách lồng kính, chứa toàn tác phẩm cổ điển đóng cẩn thận, gáy mạ vàng. Có những quyển “Niên giám”, những tập”Tuần báo của người thượng lưu”, những tập “Thuyết giáo” của Blairs, và những tác phẩm của Hume and Smollett. Suốt từ ngày mồng một đầu năm cho tới ngày 31 tháng chạp ông không hề lấy sách ra xem bao giờ, cũng không một ai trong nhà dám táo gan mó đến; thỉnh thoảng, những buổi tối chủ nhật không có khách đến chơi, ông Osborne mới lôi tập kinh thánh và cuốn kinh cầu nguyện nằm trong góc tủ cạnh cuốn “Danh bạ quý tộc” ra; ông rung chuông tập hợp tất cả mọi người trong phòng ăn và cất cái giọng oang oang the thé đọc một cách long trọng. Từ trẻ con đến bọn đầy tớ trong nhà, không ai bước vào trong căn phòng này mà không thấy sờ sợ. Chính tại đây ông Osborne vẫn ngồi kiểm tra sổ sách chi tiêu trong nhà, và soát lại cuốn sổ rượu của bác quản lý. Cửa sổ căn phòng này trông ra một cái sân rải đá sỏi và phía ngoài nối vào phòng. Thường ngày, khi nghe thấy ông chủ đứng trong cửa sổ la hét, chửi rủa, là anh xà ích vội tòi ngay từ trong căn lều của mình ra để nghe lệnh. Mỗi năm bốn lần bà Wirt được bước vào căn phòng này để lĩnh tiền công, cũng như hai cô con gái được vào để nhận tiền bố cho tiêu vặt từng quí. Hồi George còn bé nhiều lần đã bị án đòn trong căn phòng này; trong khi ấy, bà mẹ nem nép ngồi ở cầu thang, hồi hộp đếm từng ngọn roi một. Bị trừng phạt như vậy, mà ít khi thẳng bé kêu lấy một tiếng. Bà mẹ đau thương lại giấu giếm vuốt ve hôn hít con trai, và cho tiền để an ủi thằng bé. Mé trên lò sưởi, có treo một bức tranh gia đình; sau khi bà Osborne chết, người ta tháo nó ngoài phòng khách đem treo vào đây. Tranh vẽ George cưỡi một con ngựa non, người chị lớn bế cậu ta lên ngang bó hoa trang trí, cô em út nắm tay mẹ. Cả bốn mẹ con má hồng hồng, môi tô son đỏ thắm, nhìn nhau mà mỉm cười, đúng kiểu cổ truyền của những bức tranh gia đình. Bây giờ, bà mẹ nằm lâu dưới mộ đã bị quên rồi... hai cô con gái và cậu con trai còn bận biết bao nhiêu chuyện riêng và tuy họ vẫn sống chung dưới một mái nhà, nhưng thật ra đã hết sức xa lạ đối với nhau. Vài chục năm nữa, khi những người trong tranh đã có tuổi, bức tranh sẽ trở thành mỉa mai làm sao! Những trò hề tình cảm kia, những nụ cười dối trá và những dáng điệu giả dối, tự mãn kia, không biết còn để lại gì nữa không? Trong phòng ăn, nơi trước kia treo bức tranh gia đình này bây giờ treo bức chân dung toàn thân của George tay cầm một bình mực lớn bằng bạc, ngồi trong ghế bành.

Thấy ông Osborne lui vào trong gian phòng riêng, mọi người nhẹ cả mình. Lúc bọn gia nhân đã lùi ra cả, họ mới xì xào bàn tán sôi nổi với nhau, đoạn mọi người rón rén lên gác; Bullock khe khẽ nhấc đôi giầy cứ kêu cót két lên để theo tiễn. Anh ta không còn bụng dạ nào ngồi lại uống rượu vang một mình, vì cảm thấy mình kề sát ông già ghê gớm đang ở trong phòng làm việc bên cạnh.

Mãi đến ít nhất là một tiếng đồng hồ sau khi trời đổ tối, bác quản lý tuy không được lệnh gọi nhưng cũng bạo gan gõ cửa phòng để mang nến và nước trà vào. Ông chủ gia đình ngồi trong ghế bành, vờ như đang đọc báo khi người đầy tớ đặt cây nến và khay nước trà lên mặt bàn bên cạnh rồi bước ra, ông Osborne bèn đứng dậy khóa cửa lại. Lần này thì không còn nghi ngờ gì nữa; mọi người trong nhà đều biết chắc chắn một việc ghê gớm lắm sắp xảy ra cho cậu George.

Chiếc bàn giấy lớn bằng gỗ đào-hoa-tâm của ông Osborne có một cái ngăn kéo dành riêng để đựng giấy má của con trai. Mọi thứ giấy tờ liên quan đến George từ bé tới lớn đều để cả trong đó: Đây là những sách phần thưởng George, những sách tập vẽ còn ghi lại nét vẽ của George, và của ông giáo; đây là những lá thư khi mới biết viết, chữ to tướng, nét nguệch ngoạc, George viết hỏi thăm bố mẹ và xin bánh. Trong thư nhắc luôn đến tên cha đỡ đầu là ông Sedley. Đọc qua mấy trang thư bắt gặp cái tên ấy, ông Osborne mấp máy đôi môi nhợt nhạt thất ra mấy tiếng chửi rủa; sự ngán ngẩm và nỗi căm giận khủng khiếp vò xé lòng ông. Những lá thư ấy đều được xếp gọn; dán giấy nhãn bên ngoài và buộc bằng dây vải đỏ. Có tập ngoài thấy ghi “Thư của George, xin 5 si-linh, ngày 23 tháng tư, 18... trả lời ngày 25 tháng tư. Trên một tập khác George xin một con ngựa non, 13 tháng mười”... Lại trên một tập khác, thấy viết “Biên lai của thày giáo Swishtail” “Biên lai đã thanh toán, trả tiền thợ may cho George...lấy vào tiền của tôi, tháng sáu v.v...Rồi đến những lá thư con trai ông gửi từ Tây Ấn về, những lá thư của luật sư riêng, những tờ báo có đăng tin con ông được bổ nhiệm; lại có cả một cái roi ông vẫn dùng để đánh đòn khi George còn bé và một tấm huy hiệu hộp, trong có một nắm tóc của con trai, đựng trong một phong bì bằng giấy; hồi còn sống, vợ ông vẫn đeo tấm huy hiệu này.

Ông bố đau khổ ngồi hàng giờ, mân mê hết thứ nọ đến thứ kia, hồi tưởng lại những kỷ niệm đã qua. Những tập giấy này gói ghém bao nhiêu niềm kiêu hãnh, bao nhiêu nguyện vọng công bằng ấp ủ thiết tha. Xưa kia, ông đã từng hãnh diện vì con trai bao nhiêu! Hắn là, một đứa bé kháu khỉnh chưa từng thấy. Ai cũng bảo trông nó như con nhà quý phái. Một lần, có một bà quận chúa gặp nó ở Kew Gardens đã phải chú ý đến nó; bà ta ôm lấy nó mà hôn và hỏi tên là gì. Có nhà tư sản nào ở Luân-đôn này đẻ được đứa con như vậy? Đã có con trai một ông hoàng nào được chăm sóc hơn nó chưa? Bất cứ thứ gì có tiền mua được, là con trai ông phải có. Những ngày đi dự lễ phát phần thưởng, nó thường mặc áo mới, đi xe bốn ngựa đến trường, và tung hàng vốc tiền xu mới cho các bạn học. Có lần ông cũng đi với George tới chỗ trung đoàn của anh ta trú quân trước khi sang Canada, ông đã thết các sĩ quan một bữa tiệc sang trọng, có thể mời quận công York tới dự được. Có bao giờ ông từ chối không thanh toán một món nợ nào của George đâu? Đây, những văn tự nợ ấy còn đây ông đã thanh toán không một lời căn vặn. Khối vị tướng lĩnh trong quân đội không có được con ngựa của nó mà cưỡi. Lúc ông nghĩ đến George, ông lại thấy hình ảnh con trai hiện lên trước mắt trong nhiều trường hợp... này đây là sau bữa ăn, anh ta trông đường bệ như một ông hoàng bước vào phòng ngồi uống rượu cạnh cha ở đầu bàn... này đây, là ở Brighton, con trai ông cưỡi ngựa vượt qua hàng rào không kém bất cứ một tay săn thiện nghệ nào... và đây, con trai ông được giới thiệu tiếp kiến vị Hoàng tử nhiếp chính trong buổi chiêu đãi; cả hoàng cung đố kiếm đâu ra được một người trai trẻ lịch sự bằng. Bây giờ đâu hết cả rồi? Cưới con gái một người phá sản làm vợ và từ bỏ nhiệm vụ, từ bỏ tất cả tương lai sự nghiệp? Thật là nhục nhã! Thật là tuyệt vọng!

Đau đớn bao nhiêu cho tâm hồn trìu mến đầy những cao vọng của người cha già nua này. Ông Osborne ngồi trầm ngâm suy nghĩ trên những xếp giấy má đó; ông lần giở từng tờ với vẻ mặt cay đắng, sầu khổ, tuyệt vọng, của những kẻ cùng quẫn khi hồi tưởng lại những ngày hạnh phúc đã qua. Đoạn ông rút tất cả giấy má trong ngăn kéo rũ bỏ vào trong một cái hộp khóa lại, chằng dây và gắn xi cẩn thận. Sau đó, ông mở tủ sách, lấy tập kinh thánh đồ sộ bìa đỏ mà ta đã nói tới... quyển sách trông thật trang trọng nét vàng mạ óng ánh, ít khi được nhìn đến. Trên trang đầu, có một bức tranh đầu sách vẽ cảnh Abraham đang hiến tế Isaac. Theo lệ thường, ông Osborne vẫn ghi lên trang đệm của cuốn sách bằng những chữ to, viết nắn nót như chữ một viên thư ký, ngày ông cưới vợ, ngày vợ ông chết, ngày sinh và tên của các con ông. Đầu tiên là Jane, rồi đến George Sedley Osborne rồi Maria Frances, có kèm theo ngày làm lễ rửa tội cho mỗi đứa trẻ.

Ông lấy bút cẩn thận xóa tên George trên trang giấy. Chờ cho mực khô hẳn, ông mới đặt quyển sách vào chỗ cũ. Đoạn, ông rút một chiếc ngăn kéo khác đựng những giấy tờ riêng của mình, lấy ra một tài liệu, đọc lại một lượt, rồi vò nhầu châm vào ngọn nến đốt; ông nhìn cho tờ giấy cháy hết hẳn trong lò sưởi mới thôi. Đó là tờ di chúc ông đã thảo sẵn. Đốt xong tờ di chúc, ông ngồi vào bàn viết một lá thư, rung chuông gọi người hầu, và ra lệnh sớm hôm sau mang gửi. Lúc đó trời vừa sáng, ông mới lên giường nằm. Cùng với ánh nắng mặt trời, cả nhà đã dậy; chim chóc ríu rít ca hát giữa những vòm lá tươi xanh quanh khu quảng trường Russell.

William Dobbin rất muốn lấy lòng mọi người trong gia đình Osborne và cả những người có quan hệ với nhà này vì anh ta thấy rằng, trong cơn hoạn nạn, George càng có thêm nhiều bạn càng tốt. Vốn hiểu rất rõ rằng rượu ngon ảnh hưởng lớn đến tâm hồn người ta như thế nào nên lúc quay về quán trọ, Dobbin lập tức viết ngay một lá thư lời lẽ rất lịch thiệp, mời Thomas Chopper tôn ông ngày hôm sau quá bộ đến tiệm Slaughters dùng bữa tối với mình. ông Chopper nhận được thư trước khi rời khu City ra về; lập tức viết thư trả lời: “Ông Chopper vô cùng hân hạnh và lấy làm vinh dự được hầu tiếp đại úy Dobbin”. Tối hôm ấy trở về nhà ở Somers’ Town, ông đem ngay chuyện mình được mời ăn và tóm tắt nội dung bức thư trả lời ra khoe với vợ và mấy cô con gái; cả gia đình ngồi uống trà cứ sôi nổi bàn tán mãi về những quân nhân và những người tại West End. Lúc các con gái đã đi ngủ cả, hai vợ chồng ông Chopper mới bàn tán với nhau về những chuyện kỳ lạ xảy ra trong gia đình cụ chủ. Chưa bao giờ người thư ký này thấy chủ mình xúc động mạnh đến như thế. Lúc đại úy Dobbin đã ra về, ông ta đi vào gặp ông Osborne thấy ông già tím mặt lại như đang cơn giận dữ ghê gớm; ông ta yên trí rằng giữa viên đại úy trẻ tuổi và ông Osborne đã xảy ra cuộc cãi lộn gì gay go lắm. Ông Chopper được lệnh lập một bản thống kê tất cả những món tiền đã giao cho đại úy Osborne trong khoảng ba năm vừa qua. “Cậu ấy tiêu tiền cũng đã khiếp”, người thư ký nói một mình như vậy, và lại càng thêm kính phục cả hai bố con ông chủ mình hơn vì họ coi tiền như rác. Hình như họ xích mích với nhau vì chuyện cô Sedley thì phải. Bà Chopper ngỏ ý rất thương cô thiếu nữ là mất đứt một ông chồng bảnh trai. Riêng ông Chopper thì không lấy gì làm thông cảm lắm với con gái một nhà kinh doanh kém may mắn đã không trả nổi một phần nhỏ số nợ của mình. Ông vẫn kính trọng gia đình ông Osborne hơn bất cứ gia đình nào khác tại khu City ở Luân-đôn: ông hy vọng và ước ao rằng đại úy George sẽ lấy con gái một nhà quý tộc.

Đêm hôm ấy, người thư ký ngủ một giấc ngon lành hơn ông chủ. Sớm hôm sau, ông Chopper ăn sáng rất ngon miệng, mặc dầu suốt đời ông chỉ có đường đen để pha rượu; đoạn ông hôn các con, và mặc bộ áo chiều chủ nhật đẹp nhất của mình với chiếc sơ-mi có cổ hoa để đi làm; ông lại hứa với bà vợ đang trầm trồ ngắm chồng rằng tối nay sẽ không uống quá nhiều rượu “poóc-tô” của đại úy Dobbin mời.

Đúng giờ như thường lệ, ông Osborne đến khu City; bọn nhân viên vì nhiều lý do vẫn có thói quen để ý dò xét nét mặt ông, thấy hôm ấy ông ta có vẻ bơ phờ nhợt nhạt.

Đến giữa trưa, ông Higgs (tại văn phòng lục sự Higgs và Blatherwick, ở Bedford Row) được mời đến gặp. Ông này được đưa vào phòng riêng của ông Osborne: hai người đóng kín cửa ở trong ấy đến hơn một tiếng đồng hồ. Khoảng một giờ trưa, ông Chopper nhận được thư của đại úy Dobbin do một người hầu mang lại, có kèm theo một lá thư gửi cho Osborne; viên thư ký vội đem vào cho chủ. Một lúc sau ông Chopper và ông Birch, một người thư ký khác, được chủ gọi vào yêu cầu làm nhân chứng. Ông Osborne nói. “Tôi vừa làm lại một tờ di chúc khác”. Mấy người nhân viên ghi tên mình vào, không ai nói gì thêm. Lúc ông Higgs bước ra phòng ngoài, mặt ông ta có vẻ đặc biệt đăm chiêu, trịnh trọng; ông ta nhìn thẳng vào mặt ông Chopper, nhưng không giải thích tý gì. Suốt ngày hôm đó, ai ai cũng thấy ông Osborne có vẻ đặc biệt bình thản và dịu dàng; những người thấy điệu bộ ông rầu rĩ cứ lo lắng mãi bây giờ rất ngạc nhiên.

Hôm ấy, ông không gọi ai bằng tên tục, cũng không thề độc câu nào. Ông nghỉ sớm và trước khi ra về, lại gọi viên thư ký chính đến một lần nữa để dặn dò mọi công việc. Sau đó, ông có vẻ ngần ngại một lúc, rồi mới hỏi ông Chopper có biết đại úy Dobbin còn ở trong thành phố hay không. Ông Chopper đáp rằng chắc vẫn còn. Thực ra, cả hai cùng biết rõ điều đó. Ông Osborne lấy một phong thư ngoài bì đề gửi cho Dobbin và bảo người nhân viên của mình trao ngay tận tay viên đại úy. Đoạn ông cầm lấy mũ, trong cái nhìn có một vẻ gì rất kỳ lạ nói.

- Ông Chopper, bây giờ thì tôi có thể yên tâm được rồi.

Đúng lúc ấy, đồng hồ điểm hai giờ, Frederick Bullock đến đón bố vợ, rồi cả hai cùng đi.

*

Viên đại tá chỉ huy trung đoàn thứ..., trong đó có đại đội của Dobbin và Osborne, là một quân nhân đã già; hồi mới nhập ngũ, ông ta đã từng chiến đấu dưới quyền chỉ huy của tướng Wolfe ở Quebec. Đã lâu lắm rồi, vì già yếu quá nên ông ta không chỉ huy được nữa. Tuy vậy, ông ta vẫn quan tâm đến trung đoàn mà về danh nghĩa ông vẫn là người chỉ huy. Một vài sĩ quan trẻ tuổi vẫn được ông ta mời cùng ăn một bàn, điều này bây giờ rất hiếm trong giới sĩ quan cao cấp; Dobbin được người quân nhân già ấy đặc biệt yêu mến hơn cả. Dobbin rất thích những tác phẩm văn học nói về chiến tranh, anh ta có thể kể chuyện về Frederick đại đế và về Hoàng hậu cùng những cuộc chinh chiến dưới triều nhà vua này, rành mạch không kém chính viên đại tá mấy tý. Ông già này rất thờ ơ đối với những cuộc chiến thắng hiện tại, chỉ để hết tâm hồn thán phục những nhà chiến thuật năm mươi năm về trước. Đúng hôm ông Osborne chữa lại tờ di chúc, và ông Chopper bận tấm áo đẹp nhất của mình, thì viên sĩ quan này gửi giấy mời Dobbin đến dùng cơm. Ông báo cho người sĩ quan trẻ tuổi con cưng của mình trước hai ngày về việc xuất quân sang Bỉ mà mọi người đang nóng ruột chờ đợi. Mệnh lệnh chuẩn bị sẽ trao cho đội Ngự lâm quân khoảng một hai ngày sau.

Hiện giờ, mọi đồ quân trang quân dụng đã đầy đủ, trung đoàn sẽ xuất phát trong tuần lễ này. Trong thời gian trú quân ở Chatham trung đoàn đã mộ thêm được một số tân binh. Viên võ quan già hy vọng rằng những binh sĩ trong trung đoàn đã giúp ông ta đánh bại Montcalm ở Canada, và đuổi bộ đội của ông Washington chạy dài ở Long Island, sẽ giữ vững được truyền thống chiến đấu anh dũng trên chiến trường Bỉ. Ông ta đưa bàn tay nhợt nhạt run rẩy nhúm ra một ít bột thuốc lá để hít, rồi chỉ vào tấm áo ngủ của mình, chỗ trái tim của ông vẫn còn đang yếu ớt đập, nói:

- Anh bạn ạ, bây giờ thì, nếu anh có cái “chuyện ấy”(), nếu anh cần an ủi cô Philis nào, có cần từ biệt ông cụ, bà cụ hoặc lập di chúc để lại thì tôi khuyên anh không nên chậm trễ.

Đồng thời ông giơ một ngón tay cho người bạn trẻ tuổi bắt và gật gật cái đầu có mái tóc rắc phấn, để thõng xuống sau gáy như cái đuôi. Dobbin ra về rồi, ông ngồi vào bàn viết một “bức tình thư” (ông già này đặc biệt tự đắc về trình độ tiếng Pháp của mình) gửi cho cô Amenaide ở rạp hát của Hoàng gia.

Những tin tức ấy làm cho Dobbin trở thành đăm chiêu suy nghĩ; anh ta nhớ đến các bạn ở Brighton; anh ta cũng tự thấy ngượng với mình vì vẫn cứ nghĩ đến Amelia trước nhất (trước tất cả mọi sự, trước cả ông bố, bà mẹ, các cô em, và nhiệm vụ của mình... nhiều khi cả lúc mới thức dậy, hoặc lúc đi ngủ, và cứ suốt ngày như vậy); Dobbin trở về nhà trọ, gửi cho ông Osborne một lá thư vắn tắt báo tin mới nhận được, và tỏ ý hy vọng rằng hay tin ấy hai cha con George sẽ trở lại hòa thuận với nhau.

Người mang lá thư này vẫn là người bữa trước đã đưa giấy mời ông Chopper. Được tin, người thư ký này rất lo lắng; thư đề gửi cho ông ta; vừa bóc thư, ông này vừa lo bữa tiệc đang hy vọng phải hoãn lại. Đến lúc thấy nội dung lá thư chỉ nhắc lại lời mời, ông mới yên tâm (đại úy Dobbin viết “Tôi sẽ chờ ông vào hồi năm giờ rưỡi”). Chopper rất săn sóc đến công việc của gia đình ông chủ, nhưng được mời thế này thì còn muốn gì hơn?(), một bữa đại tiệc đối với ông vẫn quan trọng hơn công việc của bất cứ một ai trên thế gian này.

Lẽ dĩ nhiên là gặp bất cứ viên sĩ quan nào trong trung đoàn, Dobbin cũng kháo ngay cái tin vừa được viên đại tá cho biết. Anh ta nói cả cho viên sĩ quan cầm cờ Stubble gặp tại nhà viên luật sư của mình được biết; anh chàng này có cái khí thế hăng hái của con nhà võ, vội tìm đến cửa hiệu bán đồ quân trang sắm ngay một cây kiếm mới. Anh chàng trai trẻ, tuy mới mười bảy tuổi đầu, cao khoảng sáu mươi lăm inch, tạng người vốn lẻo khoẻo lại sớm bị rượu chè làm cho thêm ốm yếu, nhưng có tinh thần dũng cảm không khác gì sư tử. Anh ta nhấc nhấc cây kiếm uốn cong, rồi múa tít y như đang tung hoành giữa đám quân Pháp, vừa giậm chân huỳnh huỵch xuống đất, vừa hét: “Ha! Ha!”;Anh ta đâm hai, ba nhát kiếm vào Dobbin; viên đại úy vừa cười vừa lấy cây gậy trúc gạt đỡ. Có lẽ vì vóc người khẳng khiu gày gò, nên Stubble được xung vào đội khinh binh bảo vệ. Trái lại viên sĩ quan cầm cờ Spooney, vóc người rất cao lớn; anh ta thuộc đại đội khinh binh của đại úy Dobbin.

Anh ta đang đội thử chiếc mũ da gấu, khiến cho bộ mặt như già thêm mấy tuổi nom đến dữ tợn. Đoạn, cả hai người đến quán rượu Slaughters gọi dọn một bữa rượu tươm tất, rồi ngồi viết thư; đầy thương yêu, nhưng mà chữ nghĩa viết đầy những lỗi chính tả. Chao ôi, hồi ấy khắp nước Anh có biết bao trái tim hồi hộp đập, biết bao bà mẹ vừa khóc sướt mướt vừa cầu kinh trong các gia đình.

Stubble đang ngồi viết thư ở một cái bàn uống cà-phê trong quán rượu của lão Slaughters, nước mắt chảy ròng ròng, nhỏ lã chã xuống giấy (cu cậu đang nhớ đến mẹ, mà rất có thể không bao giờ còn gặp lại được nữa). Dobbin cũng sắp sửa viết một lá thư gửi George Osborne; thấy vậy, anh ta lặng yên suy nghĩ, rồi cất giấy bút đi. Anh ta tự nhủ: “ Viết làm gì? Hãy để cho họ được hưởng thêm một đêm hạnh phúc nữa. Sáng sớm mai, mình về thăm nhà sớm, rồi sẽ đi Brighton”.

Dobbin đứng dậy đặt bàn tay to lớn của mình lên vai Stubble mà bảo rằng nếu hắn chịu từ bỏ tính rượu chè be bét thì sẽ trở thành một quân nhân rất tốt, cũng như xưa nay hắn vẫn là một người bạn trung thực, tốt bụng. Nghe nói, mắt Stubble sáng ngời lên vì Dobbin vẫn được cả trung đoàn khen là người sĩ quan giỏi nhất và sáng suốt nhất.

Stubble vừa chùi mắt, vừa nói:

- Cảm ơn anh, anh Dobbin ạ. Tôi vừa viết cho mẹ tôi rằng tôi sẽ là một quân nhân xứng đáng. Anh ơi, mẹ tôi quý tôi quá cơ. Rồi anh ta lại khóc sướt mướt, và tôi cũng không dám chắc là viên đại úy dễ xúc động kia có rơm rớm nước mắt hay không.

Cả hai viên sĩ quan cầm cờ, viên đại úy và ông Chopper cùng ngồi ăn trong một căn phòng. Ông Chopper trao cho Dobbin một lá thư của chủ; trong thư ông Osborne viết mấy lời vắn tắt cảm ơn Dobbin và nhờ trao cho đại úy George Osborne lá thư gửi kèm theo. ông Chopper nói cũng không được biết gì hơn. Ông tả lại dáng điệu của ông Osborne, và kể lại cuộc hội ý giữa mình và chủ hôm trước; lại tỏ ý rất lấy làm lạ tại sao ông chủ của mình không thề độc với ai, và - đặc biệt lúc mọi người đã uống rượu vang - ông Chopper còn ngỏ nhiều ý kiến phỏng đoán về nguyên nhân gây ra thái độ của chủ; nhưng cứ uống thêm một cốc, thì ý kiến của ông ta lại mơ hồ thêm một tý, và cuối cùng thì không ai hiểu ông ta định nói gì nữa. Mãi đến một giờ khuya, viên đại úy mới gọi một chiếc xe ngựa dong đưa ông ta về. Ông Chopper say mềm, vừa nấc lên vừa thề rằng suốt đời sẽ là bạn của viên đại úy.

Khi đại úy Dobbin từ biệt cô Osborne, như ta đã biết, anh ta ngỏ ý xin phép sẽ được gặp lại cô này một lần nữa.

Hôm sau, cô thiếu nữ chưa chồng cứ ngóng ngóng chờ anh chàng suốt ngày. Ví thử Dobbin trở lại và nếu anh chàng hỏi cô cái câu hỏi mà cô đã sửa soạn để trả lời, thì có lẽ cô đã tuyên bố ủng hộ cậu em trai, và rất có thể sự xích mích giữa George và ông bố đang sung tiết đã được giải quyết ổn thỏa. Nhưng mặc dù cô ngồi nhà chờ đợi mà viên đại úy vẫn biệt tăm. Anh ta còn bận giải quyết những công việc riêng, còn bận về thăm và an ủi cha mẹ; rồi mới một giờ sáng, anh ta đã leo lên chiếc xe ngựa “Tia chớp” để đi Brighton thăm các bạn.

Ngày hôm ấy, cô Osborne nghe thấy ông bố ra lệnh cấm gia nhân không cho cái thằng khốn nạn đa sự Dobbin còn được bước chân vào nhà; thế là tia hy vọng cuối cùng cô gái còn ủ ấp trong lòng cũng tắt ngấm nốt. Anh chàng Frederick Bullock lại đến chơi, cứ quấn quít lấy cô Maria, và tỏ ra đặc biệt săn sóc ông già đang suy sụp tinh thần. Mặc dầu ông lão nói rằng lòng đã thanh thản, nhưng rõ ràng những biện pháp ông dùng để trấn tĩnh vẫn tỏ ra chưa có tác dụng rõ rệt, và những chuyện xảy ra hai ngày vừa qua rõ ràng đã vò xé tâm hồn ông.

Chương 25
CÁC NHÂN VẬT CHÍNH TRONG TRUYỆN THẤY CẦN TỪ GIÃ BRIGHTON

Khi được dẫn tới gặp mấy người đàn bà tại khách sạn Hải quân, Dobbin tỏ ra đặc biệt vui tính và hay chuyện; điều này chứng tỏ rằng càng ngày anh chàng sĩ quan trẻ tuổi này càng trở thành một người giả dối hết sức Anh ta cố tìm cách giấu kín sự xúc động của mình vì gặp lại bà George trong một hoàn cảnh mới; hơn nữa, anh ta cũng không muốn để lộ ra là mình đang lo lắng về những hậu quả do những tin tức mình mang đến gây ra. Nếu Amelia rõ những nỗi lo âu đó, chắc chắn cô sẽ đau khổ vô cùng. Dobbin bảo George rằng:

- George ạ, theo ý tôi thì chỉ trong ba tuần lễ nữa hoàng đế nước Pháp sẽ tấn công chúng ta đấy, bằng cả bộ binh lẫn kỵ binh. Hắn sẽ buộc quận công phải tham dự một cuộc chiến tranh mà đem so sánh thì chiến sự ở Bán đảo chỉ là trò trẻ con. Nhưng anh cũng hiểu chứ, đừng có hở ra cho chị ấy biết đấy: Cũng có thể chúng ta sẽ không dự trận, như vậy nhiệm vụ của chúng ta ở Bỉ sẽ chỉ là một cuộc hành quân mà thôi...Nhiều người nghĩ như vậy, và nghe nói Brussels toàn những người lịch sự và vô số các bà các cô rất diện. Hai người đồng ý với nhau sẽ chỉ cho Amelia biết như vậy về nhiệm vụ của quân đội Anh ở Bỉ.

Bàn tính với nhau xong, anh chàng Dobbin giả dối vui vẻ đến chào “bà George Osborne”, anh ta cố gắng xen vào vài lời chúc tụng về việc hôn nhân của Amelia, (nhưng cũng phải thú thực rằng những lời chúc tụng ấy vụng về một cách thật đáng thương). Đoạn, anh ta nói về Brighton, về khí hậu vùng biển, về những thú giải trí trong vùng, về những cảnh đẹp trên đường đi, và về giá trị của chiếc xe hiệu “Tia chớp” cùng đôi ngựa... Anh chàng chuyện trò tíu tít làm cho Amelia không hiểu ra sao cả, nhưng Rebecca thì rất thú vị; cô ta soi mói nhìn viên đại úy, như cô ta vẫn hay nhìn soi mói bất cứ người nào ngồi gần mình.

Sự thật thì Amelia xưa nay vẫn coi thường người bạn của chồng mình là đại úy Dobbin. Anh ta có tật nói hơi ngọng...Điệu bộ thì quê kệch, vụng về. Amelia mến Dobbin chỉ vì anh ta quý chồng mình (nói cho đúng, cái đức tính ấy cũng chẳng có giá trị gì lắm), và vẫn yên trí rằng George đã tỏ ra rất rộng lượng khi hạ cố đánh bạn với anh chàng sĩ quan này. Nhiều lần trước mặt Amelia, George đã bắt chước lối nói ngọng và những điệu bộ vụng về tức cười của bạn; tuy nhiên cũng phải công nhận rằng, bao giờ anh ta cũng nhiệt tình ca ngợi đức tính của Dobbin. Giữa những ngày vui vẻ của thắng lợi trong tình yêu, vì chưa hiểu rõ Dobbin, nên Amelia có ý coi thường anh chàng William thực bụng. Dobbin hiểu rõ Amelia nghĩ về mình thế nào, và cũng đành lòng cam phận. Rồi cũng phải có ngày cô ta hiểu rõ Dobbin hơn và thay đổi ý kiến về anh chàng; nhưng ngày ấy cũng còn xa.

Riêng đôi với Rebecca thì chưa đầy hai giờ đồng hồ ngồi cạnh Dobbin, cô ta cũng đã thấu rõ gan ruột anh chàng rồi. Cô ta không ưa gì Dobbin, và trong thâm tâm đối với anh chàng lại có ý ngài ngại; mà về phần Dobbin thì cũng không thấy có cảm tình gì lắm đối với Rebecca. Anh ta thực thà quá, thành ra những khoa nịnh nọt giả dối của cô này không có tác dụng gì; và hình như do linh tính, Dobbin không muốn gần gũi người đàn bà này, cho nên cũng có tính ghen ghét; thấy Dobbin quý mến Amelia, cô ta càng không ưa. Tuy nhiên, cô ta vẫn tỏ ra có lễ độ và thân mật trong cách đối xử. Một người bạn của Osborne? Bạn của người ân nhân quý nhất đời của cô? Rất có thể Becky thực tâm yêu quý người ấy, vì cô ta nhớ lại điệu bộ anh chàng đêm hôm đi xem hội ở Vauxhall; lúc thay áo dự bữa ăn tối, cô ta lại đem anh chàng ra làm trò cười một lúc. Rawdon Crawley thì không buồn để ý đến Dobbin; hắn cho anh ta là một chàng ngờ nghệch, tuy tốt bụng, nhưng chỉ là con cháu bọn hạ tiện ở khu City. Còn Joe thì hết sức đàng hoàng tỏ thái độ kẻ cả đối với anh chàng. Khi George theo về phòng của Dobbin, lúc chỉ có hai người với nhau, Dobbin mở ngăn kéo bàn lấy ra lá thư của ông Osborne gửi đưa hộ cho con trai. “Không phải chữ của ba tôi rồi”, George có vẻ hơi hốt hoảng nói vậy. Mà đúng thế. Lá thư do viên luật sư riêng của ông Osborne viết, lời lẽ như sau:

Bedford Row, ngày 7-5-1815

Thưa ông.

Tôi được cụ Osborne ủy cho nhiệm vụ báo để hay rằng cụ kiên quyết giữ vững những ý định mà ông đã rõ. Cho nên, sau việc hôn nhân của ông, cụ đã quyết định từ nay thôi không coi ông là một người trong gia đình. Quyết định ấy là dứt khoát, không thay đổi.

Tuy rằng những món tiền đã tiêu về ông khi còn nhỏ tuổi cộng với số tiền trong những tín phiếu đứng tên cụ nhà mà ông đã lĩnh trong mấy năm vừa qua, đã vượt quá xa số tiền ông có quyền được hưởng (nghĩa là một phần ba số tài sản của cụ bà Osborne đã quá cố, mà do việc cụ bà mất đi, ông được chung hưởng cùng cô Jane Osborne và cô Maria France Osborne), song tôi được cụ Osborne cho biết rằng cụ không trừ số tiền ấy vào tài sản riêng của ông, và món tiền 2.000 đồng đặt lãi bốn phần trăm (tức là một phần ba món tiền 6.000 đồng) sẽ được trực tiếp hoàn lại ông hoặc qua luật sư riêng của ông, miễn là có giấy biên nhận.

Kẻ hầu việc tận tụy của ông, Higgs.

Tái bút: Cụ Osborne muốn tôi báo cáo ông rõ một cách dứt khoát rằng cụ không muôn nhận bất cứ giấy má thư từ gì của ông, hoặc liên hệ với ông về vấn đề này hoặc về bất cứ vấn đề nào khác.

George giận dữ nhìn Dobbin, nói:

- Anh thu xếp công việc khéo nhỉ? Đọc xem, Dobbin - Và anh ta ném lá thư cho bạn - Lạy chúa, thế là bây giờ tôi đi ăn mày; cái bệnh đa tình của tôi đưa đến kết quả mới tốt đẹp chứ. Sao chúng ta lại không chờ ít lâu nữa? Trong khi ra trận tôi rất có thể xơi một viên đạn; và rồi Emmy là vợ góa của một thằng ăn mày thì sinh sống ra làm sao? Chỉ tại anh tất cả: Anh mà chưa thấy tôi lấy vợ và phá sản thì anh chưa yên tâm mà. Hai nghìn đồng đối với tôi thì nghĩa lý quái gì cơ chứ? Không đủ tiêu trong hai năm. Từ hôm về đây tôi đã mất với Crawley một trăm bốn mươi đồng tiền đánh bài và chơi bi-a rồi. Anh thu xếp công việc cho thiên hạ giỏi quá đấy.

Dobbin tái mặt đi, đọc hết lá thư, rồi đáp:

- Kể ra tình hình cũng gay go thật, và đúng như anh nói, lỗi tại tôi một phần.

Anh ta cười cay đắng tiếp:

- Tuy vậy vẫn có người muốn đánh đổi lấy địa vị của anh cơ đấy. Anh thử nghĩ xem, trong trung đoàn có được bao nhiêu sĩ quan có hai nghìn đồng trong tay. Bây giờ, anh phải ăn tiêu trong phạm vi tiền lương thôi, chờ khi nào ông cụ nghĩ lại sẽ hay; nếu không may anh chết, thì vợ anh sẽ lĩnh mỗi năm một trăm đồng.

George tức quá, kêu lên:

- Anh nghĩ rằng một người quen tiêu pha như tôi có thể sống nổi với tiền lương và một trăm đồng mỗi năm? Dobbin, anh ăn nói thế thì ngốc thật. Với món tiền ranh ấy, làm sao cho tôi giữ được địa vị của tôi trong xã hội? Tôi không thể bỏ thói quen cũ được; tôi phải có đầy đủ tiện nghi. Từ bé, tôi không ăn cháo mà sống như MacWhirter, hay ăn khoai mà no như O’Dowd. Anh muốn rằng vợ tôi phải giặt quần áo lính, hoặc sống chui rúc trong một toa tàu chở hàng để bám lấy trung đoàn mà sống sao?

Dobbin vẫn vui vẻ đáp:

- Được, được; rồi chúng ta sẽ kiếm cho chị ấy một phương tiện vận chuyển tốt hơn. Nhưng anh bạn George ơi, hãy nhớ rằng bây giờ anh phải dằn lòng mà chịu đóng vai ông hoàng bị mất ngôi đã; hãy kiên nhẫn mà chờ ngày mây tan gió lặng. Cũng không lâu lắm đâu. Tôi đánh cuộc rằng, nếu tên anh được đăng trên báo “Tin tức” thì nhất định ông cụ sẽ nghĩ lại.

George đáp:

- Đăng trên báo “Tin tức”! Đăng ở mục nào? Có phần chắc trong mục danh sách thương binh tử sĩ, và ở hàng đầu.

Dobbin mỉm cười đáp:

- Dào ôi? Bao giờ chúng mình bị thương, lúc ấy hãy tha hồ mà khóc mếu, George, anh rõ đấy, tôi cũng sẽ giành được chút ít, và chẳng có vợ con gì cả; tôi sẽ không quên tên con trai đỡ đầu của tôi trong di chúc đâu.

Thế là đôi bạn lại làm lành với nhau. Dobbin với George vẫn hay cãi nhau đấy rồi thân nhau đấy như thế....

Osborne bảo rằng không ai có thể giận Dobbin được lâu và anh ta cũng rộng lượng mà tha thứ cho Dobbin, sau khi đã vô cớ gây sự với bạn.

Rawdon Crawley từ trong phòng rửa mặt nói vọng ra với vợ đang ngồi trang điểm trong phòng ngủ để sắp đi ăn cơm tối:

- Becky, tôi bảo này…

- Gì thế Tiếng Becky the thé đáp. Cô ta đang ngoái cổ lại sau lưng soi vào gương. Becky mặc một tấm áo ngoài trắng muốt, mới tinh, hai vai để trần, cổ đeo vòng, thắt lưng màu xanh lơ nhạt, rõ ràng là hiện thân của tuổi thanh xuân hạnh phúc, vô tội và trinh bạch.

- Không biết khi Osborne theo trung đoàn ra trận, thì cô vợ làm thế nào nhỉ?

Crawley bước vào phòng; vừa dùng hai cái bàn chải to tướng chải đầu, anh ta vừa đưa mắt qua nạm tóc bù xù thán phục liếc nhìn cô vợ đẹp Becky, đáp:

- Chắc chị ấy phải khóc đến sưng mắt. Đã nhiều lần, hễ nghe ai nhắc đến chuyện này chị ấy lại khóc hết nước mắt. Còn mình thì chắc chẳng cần quái gì đâu nhỉ? Rawdon thấy vợ có vẻ vô tình, cáu kỉnh hỏi lại.

Becky đáp:

- Rõ khỉ lắm! Anh không thấy em nhất định đòi theo anh cùng đi à? Vả lại, anh khác. Anh dự trận với tư cách là sĩ quan liên lạc của tướng Tufto; chúng mình có phải ra tiền tuyến đâu.

Rebecca vừa nói vừa ngửa mặt lên với một dáng điệu mê hồn đến nỗi anh chồng phải cúi xuống mà hôn ngay một cái.

Becky đưa mắt liếc chồng thật tình tứ, tiếp:

- Rawdon, anh yêu...anh có nghĩ đến việc...có lẽ trước khi đi anh nên đòi cái...cái món tiền Cupid () nợ anh thì hơn.

Becky gọi George Osborne là Cupid; cô ta luôn mồm tán tụng bộ mặt đẹp trai của George; và mỗi khi George đến thăm hai vợ chồng buổi tối khoảng nửa giờ trước khi đi ngủ để đánh bài tay đôi, thì không lần nào cô không sán lại đứng cạnh mà âu yếm ngắm anh chàng.

Nhiều lần Becky đã gọi George là một anh chàng “bán giời không cần văn tự”, và dọa sẽ đem những thói xấu của anh ta mách lại với Emmy. Cô đem thuốc lá lại mời anh chàng hút, và châm cả lửa hộ; cô hiểu rất rõ cử chỉ này có tác dụng thế nào, vì trước kia cô đã có nhiều dịp thực hành với Rawdon Crawley. Còn anh chàng thì yên trí rằng Becky là một người vui tính, nhí nhảnh, láu lỉnh, phong nhã và hết sức duyên dáng. Trong những cuộc giong xe đi chơi cũng như trong những bữa tiệc buổi tối, lẽ dĩ nhiên Becky nổi bật hẳn so với cô Emmy đáng thương: cô này cứ nhút nhát ngồi im trong khi chồng mình và Rebecca tán chuyện với nhau ríu rít; còn đại úy Crawley (và cả cô nữa, khi anh chàng đã đến nhập bọn với hai cặp vợ chồng mới cưới) thì cứ ngồi nốc rượu tỳ tỳ không nói không rằng.

Đôi khi Emmy cũng thấy hơi khó chịu đối với bạn.

Thấy Rebecca khôn ngoan, khéo léo và duyên dáng quá, cô cảm thấy bối rối và đâm ra bực mình. “Mới lấy nhau được có một tuần lễ, mà George đã nhạt nhẽo với mình, đã muốn trò chuyện với người khác rồi?”. Nghĩ đến tương lai mà cô run sợ. Cô nghĩ thầm; Anh ấy thông minh thế, tài hoa thế, mình thì đần độn thế này, rồi chung sống với nhau ra sao nhỉ? Lấy mình làm vợ, anh ấy thật cao thượng quá bỏ tất cả mọi thứ mà hạ cố đến mình? Lẽ ra mình phải từ chối mới đúng, nhưng lòng mình không cho phép, biết làm thế nào? Lẽ ra mình đừng đi lấy chồng, cứ ở nhà săn sóc ba mới phải. Lần này là lần đầu tiên cô nhớ ra mình đã quên bẵng mất cả cha mẹ (mà lời lương tâm kết tội cô thiếu nữ cũng có đôi chút căn cứ) khiến cho mặt cô đỏ ửng lên vì xấu hổ. Cô tự nhủ: “Ôi, mình thật tồi quá, ích kỷ quá... ích kỷ vì đã bắt George phải cưới mình làm vợ. Mình biết lắm, mình có xứng đáng với anh ấy đâu...Không có mình thì anh ấy sung sướng bao nhiêu... nhưng... mình đã cố, mình đã cố quên anh ấy rồi mà...” Kể ra chưa đầy một tuần lễ sau ngày thành hôn mà cô dâu cũng phải nghĩ ngợi và tự thú những lời như vậy thì cũng đau khổ thật.

Buổi tối trước ngày Dobbin tới thăm đôi vợ chồng trẻ này là một buổi tối tháng năm, trăng sáng rực rỡ, không khí ấm áp, thơm ngát; cánh cửa trông ra bao lơn mở rộng.

George và Rebecca đứng trên bao lơn ngắm mặt biển phẳng lặng sáng long lanh trải ra trước mặt họ, còn Rawdon và Joe thì ngồi trong nhà chơi bài. Không ai chú ý đến Amelia nằm ngả trên một chiếc ghế bành lớn đưa mắt theo dõi hai cặp bạn; người đàn bà dịu dàng và trơ trọi ấy chỉ biết đánh bạn với những ý nghĩ đắng cay đầy thất vọng và hối hận.

Chưa đầy một tuần trôi qua mà cơ sự ra thế này rồi? Nếu cô nhìn về tương lai. Nhưng Emmy nhút nhát, không dám nhìn thẳng vào tương lai, đành cứ một mình lênh đênh trên mặt đại dương mênh mông kia, cũng không đủ sức chèo chống nữa, nếu không được người che chở và hướng dẫn. Tôi biết bà Smith vẫn coi thường Amelia ; nhưng thưa quý bà, đàn bà con gái mấy ai được trời ban cho một sức mạnh tinh thần tráng kiện như bà?

George thở phào một hơi thuốc lá, làn khói uốn éo lượn vòng lăn trên không, nói:

- Chao ơi? Đêm nay đẹp tuyệt, trăng sáng vô cùng.

- Thuốc lá anh hút làm cho không khí thơm sực? Em ưa thứ thuốc ấy lắm. Ai dám bảo rằng mặt trăng cách xa chúng ta những hai mươi ba vạn sáu ngàn tám trăm bốn mươi bảy dặm? Becky mỉm cười ngó lên chiếc đĩa vàng trên trời, tiếp: - Anh xem xem còn nhớ kỹ thế, có thông minh không? Ôi chao! Chúng em học được những chuyện ấy trong trường bà Pinkerton đấy! Mặt biển lặng lẽ quá nhỉ, mọi vật trông rõ mồn một. Em dám nói rằng gần như nhìn thấy cả bờ bể nước Pháp!

Và đôi mắt xanh biếc, lóng lánh của cô ta quắc lên như muốn chiếu những tia sáng xuyên thủng màn đêm.

Becky nói tiếp:

- Anh có biết một buổi sáng kia em định làm gì không? Hình như em bơi cũng khá đẹp thì phải. Em mới định bụng rằng hôm nào bà bạn tâm tình của bà cô Crawley nhà em...tức là bà Briggs, anh biết đấy...anh có nhớ không…cái bà mũi diều hâu, tóc dài rối bù xù ấy mà... em định khi nào bà Briggs ra bể tắm, em sẽ bơi theo và bàn chuyện làm lành mới bà ta ngay dưới nước; anh xem kế ấy thế nào?

George nghe nói đến cuộc hội đàm dưới nước, phá ra cười, Rawdon ở trong vừa xóc xóc cái ống đựng súc sắc vừa hỏi vọng ra:

- Này, hai người làm gì mà ồn ào thế, hử?

Amelia tưởng mình sắp phát điên lên một cách lố bịch, và lui vào phòng riêng nằm tấm tức khóc một mình.

Đến chương này, câu chuyện của chúng ta có vẻ như hơi quanh co. Ở trên, đã kể qua câu chuyện xảy ra buổi sớm thế nào, bây giờ ta cùng nhau lui về ngày hôm trước để cho câu chuyện có đầu đuôi. Các bạn có thể thấy từ cung tiếp tân của Hoàng đế, xe ngựa của những vị đại sứ và những viên đại thần chạy vụt ra từ một cái cửa riêng, trong khi ấy những công nương của đại úy John đứng đợi đến lượt mình được bay nhảy. Trong phòng đợi của ông Tổng trưởng bộ Tài chính, bạn có thể gặp nửa tá người còn kiên tâm chờ đợi được tiếp, và được gọi tên lần lượt từng người một; thế rồi đột nhiên, có một vị tai mặt người Ai len nào đó vừa mới vào mà lập tức leo ngay qua đầu thiên hạ đang sốt ruột chờ để chui vào một phòng ông Thứ trưởng; cho nên trong khi bố cục một câu chuyện, nhà tiểu thuyết cũng buộc lòng phải xử lý bất công như vậy. Tuy rằng cũng cần kể lại đủ những chi tiết lặt vặt, nhưng hễ gặp một tình tiết quan trọng, thì lập tức những chi tiết kia bị gạt “ra rìa” ngay. Cho nên, việc Dobbin đến Brighton đem theo tin đội Ngự lâm quân sắp xuất phát sang Bỉ, và tin toàn bộ quân đội đồng minh đã tập trung ở nước này, đặt dưới quyền chỉ huy của Quận công Wellington...một tin tầy đình như thế, nhất định phải giành được quyền ưu tiên so với những chi tiết tầm thường khác trong chuyện. Vì vậy không thể nào tránh khỏi chút lộn xộn ấy cũng là thích đáng và cũng không đáng trách lắm.

Cho đến nay chúng ta mới đi qua chương XXII, một quãng, vừa đúng lúc để tập hợp những nhân vật chính trong truyện vào phòng trang điểm trước bữa ăn trưa như thường lệ, đúng vào ngày Dobbin tới Brighton.

Không rõ vì George thương vợ hay vì anh ta còn bận thắt ca-vát mà anh ta không nói ngay với Amelia tin bạn vừa đem từ Luân-đôn về. Nhưng rồi anh ta cũng đi vào phòng vợ, tay cầm phong thư của viên luật sư, dáng điệu thật nghiêm trang trịnh trọng. Làm cho cô vợ vốn đang nơm nớp chờ đợi những chuyện ghê gớm nhất sắp xảy ra rồi. Amelia chạy đến ôm chầm lấy chồng mà van xin chồng hãy nói thực hết mọi chuyện: “Có phải anh được lệnh xuất phát không, có phải tuần sau anh ra trận không? Đúng rồi, em biết hết cả rồi”.

George tránh không trả lời về việc ra trận, chỉ buồn bã lắc đầu nói:

- Không. Emmy ạ; không phải chuyện ấy. Anh không lo cho bản thân anh; anh lo cho em thôi. Anh vừa nhận được tin tức không hay của ba anh. Ông cụ từ bỏ anh rồi; ông cụ không nhận chúng mình nữa rồi; thế là từ bây giờ chúng mình nghèo xơ xác. Anh có thể kham được, nhưng em, em yêu của anh, em chịu đựng làm sao? Em đọc xem.

Anh đưa bức thư cho vợ.

Amelia dịu dàng nhìn chồng, khóe mắt đầy lo lắng, nuốt từng lời nói đầy tình cảm cao thượng của George; đoạn cô ngồi xuống giường đọc bức thư chồng vừa trao cho với điệu bộ đau khổ một cách trang trọng của kẻ tử đạo.

Song, đọc hết lá thư, nét mặt cô lại bừng sáng lên. Người đàn bà tâm hồn nồng nàn này không vì nghĩ đến việc phải cùng người chồng yêu dấu chia sẻ sự nghèo túng thiếu thốn mà lo ngại. Đối với Amelia, điều đó thực sự lại như có cái gì thú vị là khác. Và, cũng như mọi khi, cô cảm thấy hơi hổ thẹn vì lẽ trong phút bi đát như vậy mà lại có cảm tưởng sung sướng được; cô vội kiềm chế niềm hứng thú của mình lại, và khẽ nói:

- George ơi, cứ nghĩ đến phải xa ba anh, chắc anh đau khổ đến đứt từng khúc ruột đấy nhỉ.

George rầu rĩ đáp:

- Đúng thế đấy.

Amelia tiếp.

- Nhưng ba không thể giận anh lâu được đâu. Ai mà giận anh lâu cho được, em chắc chắn thế. Người chồng yêu quý nhất đời của em ơi, rồi thế nào ba cũng tha thứ cho anh. Ôi, nếu ba không tha thứ cho anh thì em cũng không thể nào tha thứ cho em được đâu.

George đáp:

- Emmy đáng thương của anh ơi, anh lo lắng không phải vì anh gặp tai họa, mà là vì em. Anh không sợ nghèo và không phải nói khoác chớ, anh tự thấy cũng có tạm đủ tài năng để tự lực làm nên.

Anh có thừa đi ấy chứ.

Cô vợ ngắt lời anh, yên trí rằng chiến tranh sắp chấm dứt và ông chồng sắp đeo lon cấp tướng đến nơi.

Osborne liền nói tiếp:

- Phải lắm, anh sẽ tự lực làm nên sự nghiệp không kém gì người khác; nhưng còn em, em yêu quý; cứ nghĩ rằng em phải chịu thiếu thốn mọi tiện nghi, và không có một địa vị xứng đáng trong xã hội mà vợ anh có quyền hưởng, anh không sao chịu nổi. Người vợ yêu dấu của anh mà phải sống trong trại binh như vợ một tên lính, lẽo đẽo theo trung đoàn hành quân, rồi cũng đành phải chịu đựng mọi sự thiếu thốn phiền nhiễu ư? Điều đó làm anh khổ tâm lắm.

Thấy chồng lo lắng chỉ vì một chuyện ấy, Emmy yên tâm quá; cô vịn vào tay chồng gương mặt rạng rỡ, mủm mỉm cười và bắt đầu thủ thỉ hát đoạn điệp khúc bài hát,Chiếc cầu thang cữ: mà cô vẫn thích; nội dung khúc hát là lời cô thiếu nữ, sau khi trách anh chàng Tôm đã thờ Ơ lạnh nhạt với tình, lại hứa hẹn sẽ vá quần và sẽ pha hộ cả rượu, nếu anh chàng chung thủy, thực lòng và không bỏ rơi cô. Amelia yên lặng một lúc, trong khi ấy trông cô sung sướng và trẻ hẳn ra, nét mặt ấy đàn bà nào cũng phải ao ước; rồi cô nói:

- Vả lại, hai nghìn đồng cũng là một món tiền to lắm đấy chứ, phải không George?

Thấy vợ quá ngây thơ, Giorgỉơ cười phá lên; cuối cùng cả hai xuống nhà dùng bữa. Amelia níu lấy cánh tay George, miệng vẫn còn thủ thỉ hát tiếp bài “Chiếc cầu thang cũ”, đầu óc hoàn toàn thảnh thơi thoải mái so với mấy ngày vừa qua.

Thế là bữa ăn sáng tưởng như sẽ diễn ra trong bầu không khí ảo não lại hóa ra rất vui vẻ.

Nghĩ đến cuộc hành quân sắp tới, George cảm thấy hào hứng sôi nổi, quên cả nỗi buồn do lá thư truất quyền thừa kế gây ra. Còn Dobbin thì vẫn tiếp tục đóng vai trò rôm chuyện; anh ta đem những chuyện về quân đội đóng ở Bỉ ra kể cho đôi vợ chồng mới cưới nghe, toàn những chuyện dạ hội và ăn chơi lu bù. Đoạn, nhằm một mục đích không nói ra, anh chàng đại úy khôn khéo này bắt đầu kể chuyện vợ ông thiếu tá O’Dowd thu xếp gói ghém cả cái tủ áo của mình và của chồng như thế nào, chuyện bà ta nhét đôi phù hiệu của chồng vào hộp đựng trà ra sao, rồi chuyện bà ta gói chiếc khăn đội đầu màu vàng trứ danh của mình, trên có đính một cái lông chân thụy hồng, vào một tờ giấy dầu và nhét cả vào trong chiếc hộp biếc đựng mũ nhà binh của chung; anh chàng ngạc nhiên không biết khi đến Ghent, trong buổi chiêu đãi của vua nước Pháp, hoặc trong buổi đại hội của nhà binh ở Brussels, thiên hạ nhìn thấy chiếc khăn ấy sẽ nghĩ thế nào.

Amelia giật nảy cả mình kêu lên:

- Ghent! Brussels? Trung đoàn được lệnh xuất phát rồi phải không, George? Đã xuất quân rồi ư?

Trên bộ mặt tươi cười dịu dàng lộ rõ vẻ hoảng hốt; như do linh tính, người đàn bà níu chặt lấy chồng. George ôn tồn đáp:

- Đừng sợ, em yêu của anh! Đó chỉ là một cuộc vượt bể trong mười hai tiếng đồng hồ, có gì đáng ngại đâu em, Emmy, em cũng sẽ cùng đi với anh cơ mà.

Becky nói xen vào:

- Tôi cũng đi đây. Tôi ở chỗ phòng tham mưu, Tướng Tufto đến là hay tán tỉnh tôi; có phải không, Rawdon?

Nghe vợ nói, Rawdon vẫn cứ cười hô hố lên như mọi khi, William Dobbin thì đỏ bừng mặt lên; anh ta bảo George:

- Chị ấy đi sao được. Anh nghĩ xem…

Dobbin định nói tiếp: “nguy hiểm lắm đấy”, nhưng suốt bữa ăn tối vừa rồi, anh ta chẳng đã nói đủ mọi chuyện để chứng minh rằng không có sự gì nguy hiểm đấy sao?

Thành ra anh chàng đành cứ lúng túng ngồi im.

- Em sẽ đi cùng anh.

Amelia cương quyết dứt khoát nói vậy, George tán thành, đưa tay vuốt ve cằm vợ và hỏi khắp mọi người rằng có bao giờ gặp được người đàn bà đáng quý như vợ mình không.

Anh ta bảo vợ:

-Em sẽ có một bà u già là bà thiếu tá O’Dowd”.

Nhưng có chồng bên cạnh, Amelia còn điều gì đáng lo sợ nữa? Thế là nỗi ngại ngùng vì ly biệt cũng tiêu tan; vả lại, dầu rằng chiến tranh với bao nguy hiểm vẫn còn đe dọa, nhưng cũng phải hàng tháng nữa mới xảy ra được.Ý nghĩ thoải mái ấy khiến cho cô Amelia nhút nhát kia cảm thấy hạnh phúc, dường như hiệp ước đình chiến đã được ký kết. Trong thâm tâm Dobbin cũng tán thành cách thu xếp như vậy; điều anh ta ước mong nhất trên đời là được hàng ngày nhìn thấy mặt Amelia ; anh ta còn nuôi một ước vọng thầm kín là sẽ săn sóc, che chở cho cô thiếu nữ nữa. Dobbin nghĩ thầm: “Ví thử mình được làm chồng Amelia, chẳng bao giờ mình cho vợ đi theo. Nhưng George mới là người có quyền, mình chỉ là bạn, phản đối không tiện”.

Rebecca vòng tay ôm ngang lưng bạn dẫn ra khỏi phòng ăn, nơi bao nhiêu chuyện quan trọng vừa được bàn bạc xong; mấy người đàn ông còn ngồi lại uống rượu, nói chuyện, cười đùa ầm ĩ.

Ngay buổi tối hôm ấy, Rawdon nhận được một mẩu giấy của vợ; đọc xong anh ta lập tức vò nhàu, châm nến đốt ngay, nhưng chúng tôi đã may mắn nhìn được qua vai Rebecca đọc thấy nội dung thế này:

“Tin quan trọng. Bà Bute đã đi rồi. Đêm hôm nay, đòi tiền Cupid; rất có thể ngày mai hắn lên đường đấy. Nhớ nhé. R.”

Do đó, lúc mấy người đàn ông sắp cùng nhau sang buồng các bà để dùng cà-phê, thì Rawdon nắm lấy cánh tay Osborne, ngọt ngào nói:

- Này cậu, nếu tiện cậu thanh toán hộ với mình cái khoản kia đi thôi.

Kể ra đối với George điều đó cũng không lấy gì làm tiện lắm, nhưng anh ta cũng rút trong ví ra một tập giấy bạc trao cho Rawdon, và một tờ ngân phiếu có thể thanh toán trong phạm vi một tuần lễ để bù vào số tiền còn thiếu.

Giải quyết xong việc này, George, Joe và Dobbin vừa hút thuốc lá vừa họp một “hội nghị quân sự”, đồng ý quyết định hôm sau tất cả sẽ di chuyển về Luân đôn trong chiếc xe mui trần của Joe. Riêng Joe thì muốn ở lại Brighton tới khi nào Rawdon rời đi mới về, nhưng bị Dobbin và George cố ép thành ra cuối cùng anh cũng đồng ý. Cho được xứng đáng với địa vị của mình, Joe thuê hẳn hai cặp ngựa để kéo xe. Thế là hôm sau, ăn sáng xong, cả bọn lên đường. Hôm ấy Amelia dậy từ sáng sớm, thu xếp gói ghém hành lý một cách hết sức nhanh nhẹn; còn Osborne thì vừa nằm dài trên giương, vừa phàn nàn rằng không có đứa đầy tớ gái nào để giúp đỡ vợ. Nhưng được tự mình thu xếp mọi việc, Amelia lại thấy thích vì không rõ tại sao lúc này cô cảm thấy hơi ngài ngại đối với Rebecca. Tuy lúc chia tay hai người hôn nhau thật đằm thắm, nhưng Amelia vẫn có ý ghen với bạn; ngoài những đức tính khác của phụ nữ, cô cũng có cả thói xấu ấy.

Ngoài những nhân vật đã lui tới Brighton như đã nói ở trên, chúng ta cũng không thể quên được rằng ở đây còn một số bạn cũ của chúng ta, thí dụ như bà Crawley cùng đoàn tùy tòng của bà.

Chỗ bà Crawley dưỡng bệnh chỉ cách nơi vợ chồng Rawdon trọ khoảng một quãng đường, nhưng bà lão cũng vẫn cương quyết đóng cửa không cho hai vợ chồng thằng cháu bén mảng đến, như ở Luân-đôn vậy. Bà Bute Crawley còn ở bên cạnh bà em chồng một phút nào thì bà còn tìm mọi cách tránh cho bà em khỏi bị quá xúc động vì phải nhìn thấy mặt thằng cháu trai bất trị. Mỗi khi “bà cô” già đi xe ngựa dạo chơi mát, bà Bute bao giờ cũng phải đi kèm mỗi người một bên. Và nếu như bất chợt gặp hai vợ chồng Rawdon, mặc dầu anh chàng bao giờ cũng cố ngả mũ chào, nhưng bà Crawley cùng đoàn hộ giá cứ thản nhiên như không bước qua, lạnh nhạt một cách tàn nhẫn; Rawdon bắt đầu tuyệt vọng. Nhiều lần anh chàng rầu rĩ bảo vợ:

- Ở đây cũng chẳng hơn cóc gì Luân-đôn.

Cô vợ bao giờ cũng vui tính hơn chồng, đáp:

- Sống trong một khách sạn đủ tiện nghi ở Brighton vẫn cứ tốt hơn trong một nhà giam con nợ ở Đường Chancery chứ. Mình quên mất hai thằng công sai của lão Moses, nhân viên sở Cảnh sát rồi à? Chúng rình trước cửa nhà ta suốt một tuần lễ ròng. Đám bè bạn ở đây cũng toàn là đồ ngốc thật đấy, nhưng ông Joe và đại úy Cupid thì vẫn cứ dễ chịu hơn mấy thằng tay sai của lão Moses; phải không, anh Rawdon yêu quý?

Rawdon vẫn buồn bã, nói:

- Quái thật, sao chúng nó chưa đem trát đến tận đây bắt mình nhỉ?

- Bao giờ có chuyện ấy, ta sẽ có cách đối phó.

Cô Becky táo tợn kia đáp vậy, lại vạch rõ cho chồng biết cuộc gặp gỡ với Joe và Osborne có lợi như thế nào; tình bạn đã đưa đến cho Rawdon một món tiền mặt kha khá rất đúng lúc. Anh chàng sĩ quan ngự lâm lại làu bàu:

- Ngần ấy chưa chắc đã đủ trả tiền khách sạn.

Cô vợ bao giờ cũng sẵn sàng có ý kiến vội đáp:

- Thì việc gì phải trả tiền khách sạn cơ chứ?

Thằng hầu của Rawdon vẫn đi lại thân mật với cánh đầy tớ trai trong nhà bà Crawley; hắn được lệnh hễ gặp bác xà ích của bà này là lập tức phải bỏ tiền ra mời uống rượu kỳ được, cho nên nhất cử nhất động của bà lão Crawley đều không thoát được khỏi mắt đôi vợ chồng trẻ. Không những thế Rebecca còn khôn ngoan nảy ra ý kiến nên ốm một tí, và mời đúng ngay ông thày thuốc vẫn săn sóc cho bà gái già này thành ra việc cung cấp tin tức có thể gọi là khá chu đáo. Bề ngoài, vì bị bó buộc, nên bà Briggs cũng phải tỏ ra ghét bỏ vợ chồng Rawdon. Nhưng tính bà vốn tốt và cũng dễ tha thứ. Bây giờ, cái cớ để bà ghen ghét không còn nữa, bà cũng chẳng thấy ghét bỏ gì Rebecca, mà chỉ nhớ lại tính tình vui vẻ và những lời lẽ ngọt ngào của cô ta. Thật ra thì cả bà Briggs và bà Firkin là người hầu riêng của bà Crawley, cũng như toàn thể gia nhân trong nhà, đều đang rên xiết với ách thống trị độc tài của bà Bute là kẻ mới thắng thế. Ở đời thói thường vẫn vậy; người đàn bà đáng kính nhưng nghiệt ngã kia lại muốn phát triển quá mức những thuận lợi của mình, và cứ muốn lợi dụng sự thắng thế một cách tàn nhẫn. Chỉ trong vòng mấy tuần lễ, bà ta đã biến bà già ốm yếu thành một con người ngoan ngoãn hết sức, đến nỗi bà lão hoàn toàn bị khuất phục trước mệnh lệnh của bà chị dâu, đến nỗi cũng không dám hé miệng thở than với bà Briggs và bà Firkin về tình trạng nô lệ của mình nữa. Bà Bute đo cả từng cốc rượu vang hàng ngày bà Crawley được phép uống một cách hết sức chính xác, làm cho bà Firkin và bác quản lý hết sức bất bình vì thấy mình bị tước mất cả cái quyền cai quản mấy chai rượu nho. Bà Bute giữ cả quyền phân phối cho mọi người phần bánh, phần thịt, nhiều ít tùy theo ý riêng. Mỗi ngày ba buổi, sáng, trưa, và tối, bà ta đem những thứ thuốc ghê gớm theo đơn bác sĩ đến, dỗ ngon dỗ ngọt, cuối cùng bà lão ốm phải ngoan ngoãn uống hết; thấy thế bà Firkin nói: “Bà chủ đáng thương của tôi uống thuốc ngoan như một con cừu vậy”. Bà ta lại quyết định cả việc dùng xe ngựa hay dùng ghế có bánh xe lăn để đi chơi; tóm lại bà Bute săn sóc người em chồng ốm tận tình hết mực. Nếu có khi nào người ốm tỏ ý phản đối một cách yếu ớt, muốn ăn thêm một tý, hoặc muốn uống bớt một ít thuốc, lập tức bà Bute giơ cái chết ra dọa, thế là bà Crawley hàng phục ngay.

Bà Firkin phàn nàn với bà Bute thế này:

- Bà chủ mất hết ý chí rồi. Đã ba tuần nay, bà ấy chưa bảo tôi là “con khỉ” lần nào.

Cuối cùng, bà Bute quyết định thải cả người hầu riêng của bà chủ tức là bà Firkin, cả Bowls, tức là bác gia nhân thân tín to béo, và cả bà Briggs nữa; bà lại còn định viết thư về nhà thờ gọi hai cô con gái lên, để di chuyển cái hình hài ốm yếu của bà em chồng về trại Crawley Bà chúa; thì đúng lúc ấy xảy ra một việc giời đánh, khiến cho bà phải bỏ dở công việc lý thú trên.

Số là đức cha Bute Crawley chồng bà, một đêm kia đi chơi về khuya, ngã ngửa gãy mất cái xương đùi, chân bị sưng tấy lên, sốt li bì; vậy bà Bute đành rời Sussex để về Hamshire vậy. Bà hứa rằng hễ ông Bute bình phục, lập tức bà sẽ trở lại với bà em thân yêu ngay. Lúc ra về bà còn để lại cho bọn gia nhân những chỉ thị dứt khoát về cách săn sóc người ốm. Bà vừa bước chân lên chiếc xe ngựa ở Southampton, lập tức trong nhà bà Crawley vui như mở hội, suốt mấy tuần lễ qua, chưa lần nào mọi người trong gia đình được hể hả như vậy. Ngay hôm ấy, bà Crawley bỏ liều thuốc buổi chiều; cũng ngay chiều hôm ấy, bác Bowls ung dung mở một chai rượu nho ra để mình và bà Firkin thưởng thức. Đêm hôm ấy, là Crawley và bà Briggs tự cho phép mình thay thế những bài giảng đạo của Porteus bằng một ván bài “pich-kê”; tóm lại y như ta thường: “Chủ vắng nhà, gà vọc niêu tôm” vậy.

Mỗi tuần khoảng hai ba buổi, bà Briggs có lệ ra bể lắm lúc sáng tinh sương; bà ngồi trong một chiếc xe tắm, mặc một cái áo bằng dạ mỏng, đầu đội mũ bằng vải sơn, thoải mái ngâm mình dưới nước. Chúng ta cũng rõ Rebecca biết bà Briggs có thói quen này nhưng không muốn tấn công ngay như đã đe từ trước. Cô ta quyết định chờ khi bà này vừa tắm xong mới phục kích một trận, nghĩa là đúng lúc trong người bà này mát mẻ, tâm hồn đang nhẹ nhàng khoan khoái. Cho nên Becky dậy từ sớm tinh mơ, mang một cái ống nhòm vào phòng khách trông ra biển, hướng về phía những chiếc xe tắm trên bãi cát. Cô nhìn bà Briggs bước vào chiếc xe riêng của mình, rồi xuống nước. Becky tiến ra bờ bể đúng lúc vị nữ thủy thần mà cô ta đang đi tìm bước ra khỏi chiếc xe tắm đi về phía bờ dải đá cuội. Thật là một bức tranh tuyệt vời: bãi cát thoai thoải, đám phụ nữ tắm nổi bật trên hàng đầu, xa xa phía sau là dãy núi đá dài tít tắp cùng những ngôi nhà được vừng dương buổi sớm chiếu sáng rực rỡ. Rebecca mỉm sẵn một nụ cười thật duyên dáng; bà Briggs vừa ló đầu ra khỏi căn phòng thay áo, cô giơ ngay cái bàn tay xinh xinh trắng muốt ra. Thế thì làm sao mà bà Briggs không phải chào lại? Bà này nói:

- Chào cô Sha... chào bà Crawley.

“Bà Crawley” nắm chặt lấy tay bà Briggs áp vào ngực và đột nhiên vòng hai tay ôm lấy bà này mà hôn một cách âu yếm rồi nói: “Bà bạn ơi, bà bạn thân mến ơi!”

Giọng nói biểu lộ một tình cảm vô cùng chân thành làm cho bà Briggs suýt nữa thì phát khóc, và ngay cả cô gái hầu tắm cũng phải cảm động.

Rebecca lôi kéo bà Briggs vào một câu chuyện thân mật khá lâu một cách rất dễ dàng. Bà Briggs kể lại tất cả mọi chuyện xảy ra từ chuyện xảy ra hôm Becky đột ngột bỏ nhà bà Crawley ở Đường công viên mà đi cho tới ngày nay, cũng như câu chuyện tốt đẹp tức là việc bà Bute ra về. Bà này còn tỉ mỉ kể lại tất cả bệnh trạng của bà Crawley, triệu chứng thế nào, uống những thuốc gì, rành rọt, chân tơ kẽ tóc, đúng cái lối đàn bà ưa kháo chuyện.

Phụ nữ mà được kể cho nhau nghe về chuyện mình đau ốm thuốc men ra sao thì có bao giờ mà họ chán được? Cho nên bà Briggs kể không chán mồm mà Rebecca nghe cũng không chán tai. Cô ta thực sự cảm tạ trời đất khi nghĩ rằng những con người trung thành quý báu vô giá như bà Briggs và bà Firkin đã tận tụy săn sóc vị ân nhân của họ trong thời gian bà đau ốm. Cầu thượng đế ban phúc lành cho bà. Tuy bề ngoài hình như Rebecca đã không giữ tròn bổn phận mình đối với bà Crawley, nhưng sự lầm lỗi của cô chẳng là điều tự nhiên và dễ tha thứ sao? Làm sao cô lại có thể không trao trái tim cho người đàn ông đã chiếm được lòng mình? Nghe cô than thở như vậy, bà Briggs, con người đa cảm ấy, đành chỉ biết ngước mắt nhìn lên trời mà thở dài thông cảm, và nhớ lại rằng chính mình mấy chục năm về trước cũng đã có nhiều phút yếu lòng như vậy; tóm lại bà Briggs cho rằng tội cô Rebecca cũng không nặng lắm.

Rebecca nói:

- Bao giờ tôi quên được người đã sẵn lòng cưu mang một kẻ mồ côi trơ trọi. Không bao giờ; mặc dầu người ấy đã ruồng bỏ tôi, nhưng tôi sẽ còn yêu quý mãi mãi, và sẽ sẵn sàng hy sinh đời tôi để đền đáp công ơn. Bà Briggs thân mến ơi, tôi yêu kính bà Crawley hơn hết thảy mọi người trên đời này vì bà là ân nhân của tôi, và là cô anh Rawdon yêu quý của tôi; tôi yêu quý cả những người nào trung thành với bà nữa. Vào địa vị tôi, chẳng bao giờ tôi đối xử với những người bạn trung thành của bà Crawley như cái bà Bute đa sự đáng ghét kia đâu.

Rebecca lại tiếp:

- Bề ngoài, tưởng như Rawdon là người thô lỗ, vô tình, nhưng thật ra anh ấy giầu tình cảm lắm, đã hàng trăm lần anh ấy rơm rớm nước mắt bảo tôi rằng thật là phúc đức mà trời đã run rủi cho bà cô quý báu nhất đời của mình có được hai người bạn đáng quý là bà Firkin và bà Briggs. Nếu như kế hoạch đen tối của con người ghê gớm là bà Bute thành công, nghĩa là tống khứ được hết cả những người thân thiết của bà Crawley đi chỗ khác, và để cho bà lão khốn khổ kia thành một nạn nhân rơi vào tay những con mụ độc ác nhà lão tu sĩ - Rebecca cũng lo rằng điều này có thể xảy ra được lắm - thì cô ta xin bà Briggs nhớ rằng căn nhà của cô ta tuy tầm thường thật nhưng cũng sẵn sàng mở rộng cửa đón tiếp bà này. Becky say sưa thốt lên:

- Bà bạn yêu quý ơi! Trên đời này vẫn còn những con người không biết quên ơn, và đàn bà không phải ai cũng như bà Bute Crawley cả đâu!

Rebecca lại tiếp:

- Nhưng tôi phàn nàn mà làm gì nhỉ? Tuy rằng vì bà cụ mà tôi khổ, nhưng tôi vẫn mang ơn, bởi lẽ Rawdon yêu quý của tôi là cháu bà cụ.

Đoạn Rebecca tố cáo hết mọi khóe ăn ở của bà Bute ở trại Crawley Bà chúa cho bà Briggs nghe. Hồi ấy, cô không hiểu gì nhưng bây giờ mới vỡ lẽ rằng té ra bà Bute đã tìm trăm phương nghìn kế, kỳ cho hai người mê nhau mới thôi...té ra cả hai con người trẻ tuổi thơ ngây đó đã cùng đưa nhau sa vào cạm, thế là yêu nhau, rồi lấy nhau, rồi mất toi “cơ nghiệp” vì những âm mưu của bà Bute.

Sự thực quả có như vậy. Bà Briggs vẫn biết rõ chuyện này từ trước, nghĩa là bà Bute đã cố ghép Rawdon và Rebecca làm vợ chồng. Tuy công nhận Rebecca hoàn toàn vô tội, nhưng bà Briggs cũng không thể giấu được người bạn gái rằng rất có thể Rebecca không bao giờ còn tranh thủ được cảm tình của bà Crawley nữa, vì bà lão này hẳn không thể tha thứ cho thằng cháu trai cái tội lấy vợ dại dột như vậy.

Về vấn đề này Rebecca đã có chủ ý: cô vẫn không hề mất tinh thần. Nếu ngay bây giờ bà Crawley chưa chịu tha thứ, thì ít nhất cũng có thể hy vọng trong tương lai bà ta sẽ nghĩ lại. Thậm chí bây giờ giữa Rawdon và danh hiệu nam tước cũng chỉ còn có một trở ngại là anh chàng Pitt Crawley ốm đau quặt quẹo. Nếu có chuyện gì xảy ra cho anh ta thì mọi việc sẽ ổn. Rebecca đã bóc trần được mọi mưu mô xảo quyệt của bà Bute khiến cho mọi người nghi ngờ bà này, thế cũng đủ cả rồi, và rất có thể cũng có lợi cho Rawdon nữa. Sau một giờ trò chuyện với bà bạn cũ, Rebecca thân mật chia tay, yên trí rằng chỉ vài giờ sau là cuộc trò chuyện vừa rồi phải lọt đến tai bà Crawley.

Cuộc hội đàm kết thúc, vừa lúc Rebecca cần trở về khách sạn để dự bữa tiệc chia tay với mấy người bạn hôm trước. Rebecca âu yếm từ biệt Amelia, tưởng chừng hai người quý nhau như chị em ruột. Cô lấy mùi xoa ra lau mắt mãi, rồi ôm chặt lấy cổ bạn, y như hai người sắp xa nhau suốt đời; lúc xe ngựa chuyển bánh cô lại thò cổ ra ngoài cửa sổ mà vẫy mãi mùi xoa (nhưng nó khô xác, chẳng có tý nước mắt nào). Sau đó, cô quay vào bàn ăn, xơi mất mấy con tôm bể một cách cực kỳ ngon lành đúng kiểu một người đàn bà đang bị xúc động mạnh. Vừa nhai nhồm nhoàm Becky vừa kể lại cho Rawdon nghe về cuộc gặp gỡ vừa qua với bà Briggs. Rêbeca tỏ ý hy vọng rất nhiều làm cho anh chàng cũng lấy phần hào hứng. Xưa nay vẫn thế, buồn hay vui, cô vợ vẫn có cách làm cho chồng phải bắt chước theo mình.

- Mình yêu ơi, ngồi vào bàn viết ngay hộ em một lá thư cho bà Crawley đi. Mình sẽ nói rằng mình ngoan thật là ngoan, đại khái như vậy.

Thế là Rawdon ngồi vào bàn viết ngoay ngoáy:

Brighton, thứ năm…

- Cô thân yêu của cháu…

Viết đến đây anh chàng sĩ quan hào hiệp không tưởng tượng ra được lời nào nữa. Anh cắn bút nhìn vợ. Chị vợ thấy mặt chồng dài ra không sao nhịn được cười, bèn chắp hai tay sau lưng đi đi lại lại trong phòng đọc cho chồng viết tiếp như thế này:

Trước khi giã từ nước nhà ra đi dự trận, lần này rất có thể cháu gặp sự rủi ro…

- Cái gì?

Rawdon ngạc nhiên hỏi lại, nhưng cũng thấy ngay ý nghĩa khôn khéo của câu nói, vừa cười vừa viết tiếp:

Rất có thể cháu gặp sự rủi ro; cháu đến đây…

Ông sĩ quan ngự lâm ngắt lời:

- Becky, sao không viết: đến ở đây? Đến ở đây cũng đúng ngữ pháp chứ sao?

Rebecca giậm chân xuống đất, nhắc lại:

Cháu đến đây để từ biệt cô, người bạn thân thiết và cũng là người bạn đầu tiên trong đời. Trước khi phải xa cách cô, rất có thể xa cách mãi mãi, một lần nữa, cháu thiết tha xin cô cho phép được siết chặt bàn tay đã ban cho cháu bao niềm hạnh phúc trong đời cháu.

- Bao nhiêu hạnh phúc trong đời cháu.

Rawdon lặp lại câu nói, vừa nguệch ngoạc viết vừa lấy làm ngạc nhiên, không hiểu sao mình lại viết quá dễ dàng như vậy.

Cháu chỉ cầu xin cô có một điều thôi, nghĩ là khi chia tay, cô đừng giận cháu nữa. Cháu cũng thừa hưởng được truyền thống kiêu hãnh của dòng họ cao quý nhà ta, nhưng không phải trong tất cả mọi vấn đề. Cháu đã cưới con gái một họa xĩ làm vợ, song cháu không hề sấu hổ vì việc ấy…

Rawdon vội kêu lên:

- Không, nếu tôi có xấu hổ thì cứ đâm tôi một nhát đao cho chết tôi.

Rebecca bẹo tai chồng, cúi xuống ngó xem anh chàng có phạm lỗi chính tả nào không, tiếp:

- Ông nỡm ơi, họa sĩ phải viết s, và xấu hổ thì viết x chứ.

Anh chồng chữa lại, hết sức thán phục sự hiểu nhiều biết rộng của cô giáo yêu quý. Rebecca đọc tiếp:

- Cháu cứ tưởng rằng cô cũng chẳng lạ gì tình gắn bó của chúng cháu vì chính bà Bute Crawley đã khuyến khích chúng cháu. Nhưng chúng cháu cũng không trách bà ấy. Cháu đã cưới một người vợ nghèo, nhưng cháu sẵn sàng chịu trách nhiệm về việc cháu làm. Cô thân yêu ơi, còn việc chia gia tài thì xin cứ tùy cô, cháu sẽ không bao giờ phàn nàn lấy nửa lời.

Cháu muốn cô tin rằng cháu quý cô không vì tiền bạc. Trước khi từ giã nước Anh, cháu muốn cô cháu mình hòa thuận với nhau như xưa. Xin cô cho cháu được gặp mặt trước khi lên đường. Biết đâu vài tuần, vài tháng nữa chẳng là quá muộn, cháu sẽ không có cái sung sướng được cô ban cho một lời từ biệt khi rời bỏ xứ sở ra đi.

Becky ngọt ngào nói:

- Bà ấy không nhận ra được lời lẽ của em đâu; em đã cố đọc những câu ngắn ngủi, cộc lốc…

Bức thư được gửi cho bà Briggs. Bà Briggs lấy điệu bộ hết sức bí mật vừa trao cho bà Crawley bức thư, vừa nói mấy lời đơn giản, ngây thơ:

- Bà Bute đi rồi, chúng mình có thể đọc thư này được đấy!

Nghe vậy, bà Crawley nói:

- Bà Briggs đọc cho tôi nghe nào.

Nghe bà Briggs đọc xong, bà Rawdon lại cười phá ra.

Thấy bà Briggs có vẻ rất cảm động vì lời lẽ trung thực, ân cần trong thư, bà chủ nói:

- Bà nỡm ơi, không thấy à? Có phải lời lẽ của thằng Rawdon đâu. Suốt đời nó chỉ viết thư cho tôi để xin tiền; mà thư nó viết thì từ đầu chí cuối đầy rẫy nào lỗi chính tả, nào gạch xóa, nào lỗi ngữ pháp; lại cái con rắn độc kia xỏ dây vào mũi nó rồi đây.

Bà Crawley nghĩ thầm: “Chúng nó cùng một giuộc như nhau cả. Đứa nào cũng muốn mình chết để chia của”. Im lặng một lúc, bà nói tiếp, giọng hết sức điềm tĩnh:

- Nói cho cùng, gặp thằng Rawdon cũng chẳng sao; bắt tay từ biệt nó một cái cũng chẳng mất gì cơ mà. Miễn là đừng có chuyện rắc rối, thì gặp mặt nó một tý cũng không sao. Nhưng con người ta chịu đựng cũng có giới hạn chứ; bà nhớ hộ rằng, tôi trân trọng yêu cầu “bà Rawdon” tránh mặt tôi cho...tôi nhất định không thể nhìn mặt bà ấy được.

Bà Briggs đành bằng lòng với thái độ tha thứ nửa vời của bà chủ. Bà ta nghĩ rằng muốn cho hai cô cháu làm lành với nhau, tốt nhất là xui Rawdon rình ở ngoài mỏm núi, chỗ hàng ngày bà Crawley hay ngồi ghếch bánh xe ra đó hóng mát.

Và hai cô cháu đã gặp nhau ở đó. Không rõ khi thấy mặt thằng cháu yêu quý ngày xưa, trong thâm tâm bà Crawley có chút nào cảm động không, nhưng bà cũng chìa hai ngón tay ra cho anh cháu bắt, miệng mỉm một nụ cười rất tươi, y như hai cô cháu chỉ mới xa nhau ngày hôm trước. Còn Rawdon thì đỏ tía mặt lên, vì bối rối và quá sung sướng; anh chàng nắm ngay lấy tay bà Briggs mà rung tít lên. Có lẽ anh ta cảm động vì tiền, cũng có thể vì quý cô; hoặc giả có khi anh ta thấy sau trận ốm mấy tuần qua, cô mình trông tiều tụy quá mà xúc động chăng.

Về nhà, kể lại cuộc gặp gỡ cho vợ nghe anh ta nói:

- Bà lão chơi cho mình một vố ác quá. Tôi tự cảm thấy lố bịch thế nào ấy. Tôi đi kèm bên cái ghế quỷ quái của bà lão đến cửa nhà; thế rồi bà Briggs ra đỡ bà cụ vào. Tôi cũng muốn vào trong nhà, nhưng mà...

Cô vợ rít lên:

- Thế ra anh không vào à, Rawdon?

- Không, mình ạ; lúc ấy nếu tôi mà không run bắn người lên thì tôi cứ chết đâm chết chém”!

- Đồ ngốc! Lẽ ra anh phải vào trong nhà, rồi nhất định ở lỳ đấy không ra nữa mới đúng.

Anh chàng sĩ quan ngự lâm to lớn xịu mặt nói:

- Thôi đừng rủa tôi nữa Becky. Có lẽ tôi là đồ ngốc thật, nhưng mình không được nói thế mới phải.

Và anh chàng cau có nhìn vợ một cách dữ tợn, trông không lấy gì làm dễ chịu lắm. Rebecca vội tìm cách vuốt ve cho anh chàng thô lỗ bớt giận:

- Thôi, anh yêu ơi, ngày mai anh phải cẩn thận hơn nhé. Bà cụ có cho gọi hay không cũng mặc, cứ đến thăm như thường.

Anh chồng đáp rằng sẽ tùy thích làm theo ý riêng, và yêu cầu vợ từ giờ ăn nói phải biết giữ mồm giữ miệng một tý. Đoạn anh chồng bị chạm tự ái bỏ đi chơi bi-a suốt buổi chiều, lúc nào vẻ mặt cũng lầm lỳ, im lặng và cáu bẳn.

Nhưng cũng vẫn như mọi khi, chỉ đến đêm là anh chàng đành chịu công nhận vợ khôn ngoan sáng suốt hơn mình; anh ta vô cùng buồn rầu vì phải công nhận rằng vợ mình có lý: cô ta đã linh cảm thấy cái hậu quả tai hại do việc làm của chồng gây ra.

Nhất định bà Crawley phải xúc động ít nhiều khi gặp lại mặt cháu sau một thời gian dài xa cách vì xích mích.

Bà ta đã nhiều lần mơ màng nhớ lại cuộc gặp gỡ đó. Bà nói với bà Briggs:

- Trông thằng Rawdon béo ra và già đi nhiều nhỉ. Mũi nó đỏ rói, trông mẽ nó hồi này xuống tệ; lấy con bé ấy làm vợ nó đâm ra bệ rạc quá. Bà Bute bảo rằng hai đứa vẫn uống rượu với nhau, có nhẽ đúng. Phải, gần nó, sặc mùi rượu mạnh đến khiếp. Bà không thấy à?

Bà Briggs cố cãi rằng bà Bute vẫn có thói nói xấu tất cả thiên hạ, nhưng vô ích; theo thiển ý của một người tầm thường bề dưới như bà, bà thấy bà Bute là một...

- Là một người đàn bà xảo quyệt chứ gì? Phải có thế, bà ấy có hay nói xấu người khác thật, nhưng tôi vẫn chắc chắn rằng chính con kia đã làm cho thằng Rawdon sinh rượu chè nghiện ngập. Cái bọn con nhà hà tiện chúng nó vẫn thế…

Bà Briggs đáp:

- Thưa bà, được gặp lại bà, anh ấy cảm động lắm. Tôi chắc rằng khi bà nghĩ đến lúc anh ấy sắp ra trận gặp bao nguy hiểm…

Bà gái già bỗng đùng đùng nổi giận, kêu váng lên:

- Bà Briggs, nó hứa cho bà bao nhiêu tiền đấy, y như rằng lại bắt đầu khóc rồi. Tôi ghét cái thói giả dối ấy lắm. Sao lúc nào cũng cứ làm phiền tôi? Đi về buồng mà khóc, rồi gọi Firkin cho tôi... thôi, ở lại đây; ngồi xuống, hỉ mũi đi, đừng khóc nữa; rồi viết hộ tôi một lá thư cho đại úy Crawley.

Bà Briggs đáng thương ngoan ngoãn ngồi xuống trước bàn viết. Trên bàn vẫn còn mấy tờ giấy đầy những dòng chữ viết ngoáy, nét chữ cứng cáp mạnh mẽ của bà Bute Crawley để lại.

- Viết đi: “Thưa ngài thân mến”, hay là “ngài thân mến”, thế phải hơn. Viết rằng theo lời bà Crawley yêu cầu. Không! Viết rằng theo lời ông Creamer, thầy thuốc của bà Crawley thì những sự xúc động quá mạnh rất nguy hiểm cho sức khỏe của tôi, vì vậy, tôi không thể dự những cuộc bàn cãi về công việc gia đình, cũng không thể gặp gỡ ai được. Cảm ơn hắn ta về cuộc thăm viếng vừa rồi, và bảo hắn đừng hy vọng tôi giúp đỡ tiền nong nữa. Bà Briggs, viết thêm rằng tôi chúc hắn đi đường mạnh khỏe, và nếu hắn quá bộ đến thăm viên luật sư riêng của tôi ở công viên khách sạn Gray, sẽ có thư gửi cho hắn. Được lắm, thế là ổn; hắn sẽ phải bỏ Brighton mà đi.

Bà Briggs ngoan ngoãn viết lá thư theo đúng ý bà chủ.

Bà này lại tiếp:

- Bà Bute ra đi mới đúng một ngày mà đã đến quấy rầy tôi rồi, thế thì quá lắm. Bà Briggs, viết thư cho bà Bute Crawley, bảo rằng không cần bà ấy trở lại đây làm gì...không cần trở lại mà cũng không thể trở lại được nữa đâu. Tôi không muốn làm một kẻ nô lệ ngay chính trong nhà này. Tôi không muốn bị nhịn đói, và bị đầu độc. Tất cả chúng nó, đứa nào cũng muốn giết tôi... tất cả... tất.

Nói đoạn, người đàn bà già nua trơ trọi rũ ra khóc thảm thiết.

Màn cuối cùng của tấn hài kịch đáng ghê sợ có bà ta sắm vai trong Hội chợ phù hoa cũng sắp kết thúc; dẫy đèn sáng rực rỡ đã tắt dần từng ngọn, từng ngọn một, và tấm màn tối tăm sẵn sàng buông xuống rồi.

Hai vợ chồng Rawdon đọc đến đoạn cuối cùng của lá thư, thấy lời lẽ bà Briggs rất ngọt ngào nói về việc mời Rawdon đến tìm viên luật sư riêng của bà Crawley ở Luân- đôn, thì cũng thấy được an ủi đôi phần, tuy rằng mới đầu cũng thất vọng vì bị bà cô từ chối không tha thứ tội lỗi cũ.

Thế là mưu mẹo của bà lão muốn sớm tống cổ Rawdon về Luân-đôn thành công.

Anh ta có món tiền được bạc của Joe và của Osborne, bèn thanh toán tiền khách sạn. Ông chủ khách sạn đâu ngờ rằng cho đến ngày hôm ấy, ông mới chắc chắc được trả tiền sòng phẳng. Bởi vì, cũng giống như một viên tướng gửi lại hành lý về hậu tuyến trước khi bắt đầu trận đánh, Rebecca đã khôn ngoan gói ghém tất cả mọi thứ đáng tiền giao cho thằng hầu của George gửi về Luân-đôn bằng xe ngựa và trông nom hộ. Ngày hôm sau, Rawdon và vợ cũng dùng xe ngựa về nốt. Rawdon nói:

- Tôi vẫn muốn gặp mặt bà lão một tý trước khi đi.Trông bà ấy rầu rĩ, tiều tụy quá, nhất định không thọ thêm được mấy tý đâu. Không biết cái ngân phiếu đáng giá bao lăm? Độ hai trăm đồng nhỉ? Không có lẽ lại dưới hai trăm đồng, phải không, Becky?

Vì được hai người phụ tá của ông Moss quá bộ đến thăm luôn, nên hai vợ chồng Rawdon không về nhà ở Brighton, mà đến trọ tại khách sạn. Sáng sớm hôm sau, Rebecca đã có dịp gặp lại mấy ông khách quý ấy lúc đang trên đường đến nhà bà Sedley ở Funham để thăm cô bạn Amelia và mấy người bạn ở Brighton. Nhưng đám bè bạn của cô đã đi Chatham rồi; từ Chatham họ đi Harwich để lên tàu sang Bỉ cùng với trung đoàn thứ... chỉ còn lại một mình bà lão Sedley trơ trọi khóc lóc vì đau khổ. Trở về nhà, Rebecca thấy chồng cũng vừa đến công viên khách sạn Gray về. Anh ta cáu quá vì đã rõ số phận mình:

- Trời đất ơi, Becky, mụ ấy thí cho mình có hai mươi đồng bạc.

Trước sự thất vọng của Rawdon, Becky cũng phải phá ra cười vì tuy bị đánh lừa, nhưng cô cũng công nhận bà lão là người đa mưu.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét