SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 137
Đến giữa
trưa, trung đoàn cờ đỏ Mchensky kéo qua thôn với tốc độ hành quân cấp tốc. Có
mấy người Cô- dắc bị họ lấy mất những con ngựa chiến. Những tiếng đạn pháo nổ
như sấm rền từ một nơi rất xa phía sau ngọn gò.
- Đang
đánh nhau ở vùng sông Tria đấy, - Ông Panteley Prokofievich áng chừng.
Đến lúc
trời hoàng hôn, Petro và Grigori chốc chốc lại ra sân gia súc.
Trên
sông Đông có thể nghe thấy tiếng hoả lực pháo binh trầm trầm và ở một nơi nào
đó, gần nhất cũng phải là Ust- Khopeskaia, có những tràng súng máy nổ rất khẽ,
phải ghé tai xuống sát mặt đất đông cứng mới nghe thấy được.
- Ở đằng
ấy họ choảng cũng khá lắm? Tướng quân Guxensikov với bọn trung đoàn Gundorovsky
đấy, - Petro vừa nói vừa phủi tuyết trên đầu gối và trên mũ lông, rồi lại nói
thêm một câu chẳng ăn nhập gì vào câu chuyện. - Thôn ta đang bị chúng nó bắt
ngựa đấy. Grigori ạ, con ngựa của mày tốt quá, dễ bị chúng nó chú ý lắm. Chúng
nó sẽ bắt mất cho mà xem!
Nhưng
ông già đã tính tới chuyện nầy trước hai anh em Grigori. Đến tối, Grigori dắt
hai con ngựa chiến ra sông uống nước. Vừa ra khỏi cửa thì chàng thấy cả hai con
hơi núng núng chân trước. Chàng kéo cho con ngựa của mình đi vài bước thì thấy
rằng nó khập khiễng hẳn hoi; và cả con của Petro cũng thế. Chàng bèn gọi anh:
- Chân
của hai con ngựa bị hỏng rồi, kỳ quặc thật? Con của anh bị chân phải, còn con
của tôi bị chân trái. Chẳng thấy có chỗ nào sây sứt cả. Chẳng nhẽ bị viêm da ở
trên móng?
Dưới
những ánh sao lờ mờ tỏ tỏ lúc trời mới tối, hai con ngựa đứng ủ rũ trên lớp
tuyết tím tím. Phải đứng lâu một chỗ mà chúng chẳng lồng chẳng đạp gì cả. Petro
châm cây đèn bão, nhưng người cha ở trong sân đập lúa bước ra đã ngăn hắn lại.
- Cha ạ,
hai con ngựa khập khiễng mất rồi. Có lẽ đau chân.
- Nhưng
đau chân thì có phải là chuyện không tốt đâu? Mầy muốn nhìn thấy một thằng mu-
gích nào đó đến đóng yên rồi dắt ra khỏi sân nhà hay sao?
- Kể ra
như thế nầy cũng hay đấy…
- Thôi,
mầy bảo cho thằng Griska biết là tao đã cố ý làm cho hai con ngựa đau chân đấy.
Tao đã lấy cái búa, dong cho mỗi con một cái đinh vào chỗ sụn bên dưới đầu gối.
Từ nay chúng nó sẽ khập khiễng cho đến khi nào mặt trận di chuyển mới thôi.
Petro
lắc đầu nhai nhai một món ria quay ra với Grigori:
- Dắt
hai con về buộc bên máng ăn thôi. Cha cố làm cho chúng nó khập khiễng đấy.
Nhờ ông
già lo liệu trước nên đã cứu được hai con ngựa. Đến đêm, khắp thôn lại nhốn
nháo tiếng người. Những người lính kỵ binh cho ngựa chạy rầm rập qua các phố.
Một đại đội pháo từ từ kéo qua rồi rẽ ra bãi họp của thôn, bánh xe kêu lạch
xạch ở những chỗ ổ gà và những đoạn dốc trơn. Trung đoàn kỵ binh số 13 đóng lại
một đêm trong thôn. Khristonhia vừa bước vào nhà Melekhov đã ngồi xổm xuống hút
thuốc.
- Bọn
quỷ sứ ấy không đến nhà ta à? Chúng nó không ngủ nhờ à?
- Cũng
là Chúa tha cho một lần. Hễ chúng nó kéo nhau đến là khắp nhà lại nồng nặc cái
mùi mu- gích? - Bà Ilinhitna lầu bầu giọng tức tối - Chúng nó đã đến nhà tôi
đấy. - Giọng Khristonhia trầm hẳn xuống, chỉ còn thầm thì, rồi hắn đưa bàn tay
lên chùi giọt nước mắt. Nhưng hắn lại lập tức lắc cái đầu to như một cái nồi Ba
Lan, có vẻ cảm thấy thẹn vì thấy mình đã chảy nước mắt.
- Cậu
làm sao thế, Khristonhia? - Lần đầu tiên nhìn thấy những giọt nước mắt của
Khristonhia, Petro cười và hỏi. Mấy giọt nước mắt ấy không hiểu sao làm hắn vui
vui.
- Chúng
nó bắt mất con ngựa rồi… Mình đã cưỡi nó suốt trong cuộc chiến tranh với Đức…
Đã cùng với nó chia ngọt xẻ bùi… Nó cứ y như một con người ấy, mà có lẽ còn
thông minh hơn nữa là khác. Chính mình đã phải tự tay đóng yên. Cái thằng ấy nó
bảo:
"Anh
ra đóng yên cho tôi đi, nếu không nó không chịu để cho tôi đóng". Mình bèn
bảo nó: "Chẳng nhẽ tôi sẽ suốt đời đóng yên cho anh hay sao? Muốn lấy thì
lấy đi, - mình bảo nó thế, - nhưng anh phải tự tay trông nom nó". Mình
phải thắng yên cho nó, nhưng nó có được ra người ra ngợm gì cho cam… Chùn chủn
một mẩu? Có lẽ đầu nó chỉ ngang giây lưng mình, chân không với tới bàn đạp…
Nó dắt
con ngựa đến bên thềm rồi mới leo lên được… Mình đã khóc oà lên như con nít và
bảo vợ mình: "Thế là toi công chăm nom, cho uống, cho ăn…" -
Khristonhia chuyển sang một giọng rin rít, nói thầm thì rất nhanh, rồi đứng
dậy. - Mình sợ không dám nhìn vào chuồng ngựa nữa! Sân gia súc cứ như một nơi
chết chóc…
- Mình
thì còn may hơn. Ba con ngựa đã bị bắn chết trong khi mình đang cưỡi. Đây là
con thứ tư, không đáng tiếc như cậu… - Grigori lắng nghe. Ngoài cửa sổ có tuyết
lạo sạo, tiếng gươm đập lách cách, và một tiếng "tơ- rrr" trầm trầm.
- Chúng nó đến nhà ta đấy. Cái bọn khốn kiếp, cứ như cá thấy có mùi thính? Lại
có đứa nào ton hót…
Ông
Panteley Prokofievich bấn cả lên, hai tay như thừa không còn biết đặt vào đâu
nữa.
- Chủ
nhà đâu? Ra đây?
Petro
khoác cái choàng bằng nỉ thô lên vai, bước ra.
- Mấy
con ngựa đâu? Dắt ra đây!
- Các
đồng chí ạ, tôi không cưỡng lại đâu, nhưng mấy con ngựa đều đau chân cả rồi.
- Đau
chân cái gì? Dắt ra đây? Chúng tôi không lấy không đâu, anh đừng lo. Sẽ để
những con của chúng tôi lại.
Hai con
ngựa được lần lượt dắt ra khỏi tàu.
- Còn
con thứ ba trong kia, sao không dắt nốt ra? - Một người trong đám Hồng quân giơ
ngọn đèn bão lên soi và hỏi.
- Đó là
một con ngựa cái, đang có mang. Già lụ khụ, đến trăm tuổì rồi đấy…
- Nầy,
mang những cái yên ra đây! Nhưng hượm đã, hai con khập khiễng thật! Lạy Chúa
tôi, cái của tàn phế nầy thì cậu định lôi đi đâu bây giờ? Dắt lại vào trong kia
đi! - Người xách đèn bão quát lên giọng hung hãn.
Petro
kéo dây hàm thỉếc hai con ngựa và tránh không để ánh đèn dọi vào mặt hắn trong
lúc hắn đang bĩu môi.
- Hai bộ
yên đâu?
- Sáng
hôm nay đã có mấy đồng chí lấy đi mất rồi.
- Nói
láo, gã Cô- dắc nầy! Ai lấy?
- Thật
đấy mà! Nói dối thì có Chúa phạt, bị lấy đi mất rồi. Trung đoàn Mchensky qua
đây đã lấy đi mất. Cả hai cái yên lẫn hai cái cổ ngựa.
Ba người
kỵ binh vừa văng tục vừa bỏ đi. Petro bước vào trong nhà, khắp người nồng nặc
mùi mồ hôi ngựa và mùi nước đái ngựa. Hắn chẩu cặp môi cứng rắn, vỗ vai
Khristonhia, và nói không khỏi có ý khoe khoang.
- Phải
làm thế mới xong! Ngựa thì khập khiễng, yên ngựa thì bảo là bị lấy mất đi rồi…
Đấy, cậu đã thấy chưa?
Bà
Ilinhitna tắt đèn, mò mẫm vào nhà trong trải giường.
- Đành
phải chịu tối vậy, kẻo lại có những thằng vào nghỉ đêm làm khó chịu.
Đêm hôm
ấy, bên nhà Anikey có một cuộc liên hoan. Các chiến sĩ Hồng quân đề nghị mời
những gã Cô- dắc các nhà láng giềng.
Anikey
bèn sang nhà Melekhov.
- Bọn Đỏ
ấy à? Đỏ thì có can gì đến chúng ta? Chẳng nhẽ họ không phải là những con chiên
của Chúa hay sao? Cũng là người Nga như chúng ta cả thôi. Thật đấy, các anh
muốn tin thì tin, không muốn tin thì thôi… Kể ra mình cũng thương họ… Mà họ có
họ hàng thân thuộc gì với mình đâu? Trong bọn chúng nó có một thằng Do Thái,
nhưng dù sao nó cũng là một con người. Ở Ba Lan chúng ta đã giết vô số những
thằng Do Thái… Hừm! Nhưng gã nầy lại rót cho mình một cốc rượu. Mình thích bọn
Do Thái đấy! Sang với mình đi Grigori? Petro! Các cậu đừng coi khinh nhà mình…
Grigori
từ chối không đi nhưng ông Panteley Prokofievich khuyên chàng:
- Sang
đi, kẻo họ lại bảo rằng mình coi thường họ. Mày sang đi. Đừng để bụng mãi những
chuyện bực mình.
Ba người
cùng ra sân. Trời đêm ấm áp báo trước một ngày xấu trời. Không khí nặc mùi tro
và mùi khói phân khô. Ba gã Cô- dắc đứng lại một lát chẳng nói chẳng rằng rồi
lại đi. Ra đến cửa hàng rào thì Daria đuổi kịp.
Hai hàng
lông mày tô thuốc như vươn cánh trên mặt Daria, nhấp nhoáng với màu đen nhung
dưới ánh trăng mờ rỉ qua kẽ những đám mây.
- Chúng
nó đổ rượu cho con mụ nhà tôi uống bí tỉ… Nhưng cái trò của chúng nó sẽ chẳng
có tác dụng gì đâu. Người anh em ạ, mình cũng phải để mắt chứ… - Anikey nói líu
nhíu, nhưng hơi men đã xô hắn sang bên đường, lạng người vào hàng rào, ngã dúi
xuống một đống tuyết.
Lớp
tuyết to hạt vừa xanh vừa xốp lạo xạo như đường dưới chân. Những hoa tuyết quay
lộn đổ từ trên trời xuống như được dốc ra từ trong một cái gối khổng lồ màu
xám. Gió thổi tạt những tàn lửa trên đầu mấy điếu thuốc, làm bụi tuyết bay tứ
tung. Dưới ánh sao, một ngọn gió hung hãn xông vụt lên đánh vào một đám mây
trắng bong, y như một con chim ưng đuổi kịp và mổ trúng cái ức uốn cong của một
con thiên nga, rồi có những bông tuyết trắng loá như những đám lông quay lộn
rập rờn, rơi xuống mảnh đất ngoan ngoãn chịu dựng, phủ lên thôn xóm, lên những
con dường bắt chéo nhau, lên đồng cỏ, lên những vết chân thú và vết chân người.
Không
khí trong nhà Anikey không thể nào thở được nữa. Muội đèn bốc lên thành những
cái lưỡi nhọn hoắt đen sì. Qua khói thuốc chẳng còn trông rõ được ai với ai.
Tuy vậy chàng chiến sĩ Hồng quân chơi đàn accordeon vẫn dạng rộng cặp chân rất
dài, kéo cái đàn dài ra hết sức, chơi bài "Cô gái Saratov". Các chiến
sĩ và bọn đàn bà những nhà láng giềng ngồi trên mấy chiếc ghế dài. Một anh
chàng trung niên thân hình vạm vỡ ra sức vuốt ve mụ vợ gã Anikey.
Anh
chàng nầy mặc một chiếc quần bông màu cứt ngựa, chân đi đôi ủng ngắn lắp hai
cái đinh thúc ngựa to lù lù như lấy ra từ trong viện bảo tàng. Một cái mũ xám
bằng lông cừu non hất ra mớ tóc xoăn ở sau gáy. Mồ hôi chảy ròng ròng trên làn
da rám nâu. Bàn tay đẫm mồ hôi của anh ta cứ như đốt bỏng cái lưng của mụ vợ gã
Anikey.
Lúc nầy
chị chàng đã say đến đờ đẫn cả người, rớt rãi chảy cả ra cái miệng đo đỏ. Kể ra
mụ cũng muốn ngồi lùi lại, nhưng không còn đủ sức nữa. Mụ cũng nhìn tháy chồng,
nhìn thấy cặp mắt chê cười của chị em, nhưng vẫn không làm thế nào gỡ được bàn
tay khỏe mạnh kia ra khỏi lưng mình. Tựa như mụ không còn biết thẹn là gì nữa,
và mụ cứ cười với những tiếng cười chuếnh choáng, yếu dần.
Trên bàn
có vài cái bình đã mở nút, khắp nhà sặc sụa mùi rượu. Chiếc khăn trải bàn đã
biến thành một mảnh giẻ bẩn. Ngay giữa nhà, một trung đội trưởng trung đoàn kỵ
binh số 13 oặn oẹo nhảy loạn xạ một điệu rất nhanh, nom cứ như một con quỉ màu
xanh lá cây. Ủng của anh ta bằng da cơ- rô- mê, bên trong chỉ có vải bọc chân,
quần đi ngựa may bằng dạ của sĩ quan. Grigori đứng ở ngưỡng cửa, nhìn đôi ủng
và cái quần, bụng bảo dạ: "Đúng là lột của một thằng sĩ quan…" Rồi
chàng chuyển tầm mắt lên nhìn khuôn mặt anh ta: một bộ mặt đen sạm, bóng nhoáng
mồ hôi, nom như cái mông của một con ngựa, hai vành tai tròn vểnh ra ngoài, cặp
môi dày trễ xuống.
"Một
thằng Do Thái, ranh ma lắm?" - Grigori nghĩ thầm. Người ta rót rượu cho
chàng và Petro. Tuy có uống, nhưng Grigori vẫn tỉnh táo đề phòng, còn Petro thì
chẳng mấy chóc đã say mềm. Và một giờ sau hắn đã ra giữa sân nhảy điệu Cô- dắc,
hai đế ủng thúc bụi bay mù lên, và chốc chốc hắn lại giục anh chàng chơi đàn
accordeon bằng giọng khản đặc: "Nhanh lên, nhanh nữa lên?" Grigori
ngồi bên cạnh chiếc bàn, tí tách cắn hạt dưa. Ngồi bên cạnh chàng là một anh
chàng to lớn dân Sibiri, xạ thủ súng máy. Người chiến sĩ Hồng quân nhăn khuôn
mặt tròn như con nít, nói bằng một giọng dịu dàng, với những âm "tr"
nói chệch thành "x": "toàn xung đoàn", "mặt
xăng".
- Chúng
tôi đã đánh tan được bọn Côn "xác" (trắc). Còn cái lão Krasnov của
các anh, chúng tôi sẽ nện nốt cho một trận nên thân, thế là hết. Chỉ có thế
thôi! Xong đâu đó là về nhà cày cấy, ruộng đất ê hề ra đấy, cứ ra mà nhận, mà
bắt nó sanh sôi nảy nở? Ruộng đất thì cũng như bọn đàn bà ấy: chúng nó có tự
hiến thân cho mình đâu, phải dành giật lấy mới được? Kẻ nào đứng chặn trên con đường
của mình thì phải giết nó đi. Chúng tôi chẳng cần lấy gì của các anh đâu. Chỉ
cần làm cho tất cả mọi người trở nên bình đẳng…
Grigori
đồng ý, nhưng cứ luôn luôn nhìn trộm các chiến sĩ Hồng quân. Hình như không có
lý do gì để chàng phải đề phòng như thế.
Mọi
người đều tươi cười, trầm trồ nhìn Petro nhảy những động tác rất đẹp, rất nhịp
nhàng. Một giọng tỉnh táo cao hứng kêu lên: "Thằng quỷ nầy? Nó nhảy cừ
thật!" Nhưng bất thần Grigori bắt gặp cặp mắt nheo nheo của một người Hồng
quân tóc xoăn, có lẽ là chỉ huy, đang nhìn mình chằm chằm. Chàng bèn đề phòng
ngay, thôi không uống nữa.
Anh
chàng kéo accordeon bắt đầu chơi một điệu polka.
Bọn đàn
bà nắm tay nhau bước ra. Một chiến sĩ Hồng quân có cái lưng áo trắng xoá những
vôi, bước tới mời một chị chàng còn trẻ, láng giềng của Khristonhia. Nhưng chị
kia từ chối và đưa tay kéo cái vạt váy chếp nếp, chạy tới trước mặt Grigori:
- Chúng
ta cùng ra nhảy đi!
- Tôi
không muốn nhảy.
- Nhảy
đi nào, anh Griska! Nào đoá hoa biếc của em?
- Bỏ cái
trò khỉ ấy đi, tôi không nhảy đâu?
Người
đàn bà kéo tay áo chàng với một nụ cười gắng gượng. Chàng cau mày giằng lại,
nhưng thấy chị ta nháy mắt ra hiệu, bèn đứng dậy. Hai người đi hai vòng, anh
chàng kéo accordeon đưa tay xuống bấm những nốt trầm, người đàn bà chọn đúng
lúc, ngả đầu vào vai Grigori, nói rất khẽ:
- Chúng
nó bàn nhau giết anh đấy… Có đứa báo anh là sĩ quan… Chạy ngay đi…
Nói xong
chị ta kêu to:
- Chao
ôi, tôi chóng mặt quá!
Grigori
vui hẳn lên. Chàng bước tới cái bàn uống cạn một ly rượu rồi hỏi Daria:
- Petro
uống nhiều quá à?
- Coi
như bí tỉ rồi. Say tít cung thang.
- Đưa
ngay về nhà thôi.
Daria
lôi Petro về nhà, hắn đem cả cái sức mạnh vũ phu của hắn đẩy vợ ra nhưng Daria
cắn răng chịu đựng. Grigori bước ra theo.
- Đi đâu
đi đâu? Cậu đi đâu thế? Không! Mình hôn tay cậu, van cậu đừng về!
Gã
Anikey đã say bét nhè cứ bám lấy Grigori, nhưng chàng lừ con mắt nhìn hắn một
cách đáng sợ làm hắn dang hai tay lảo đảo lui:
- Thôi
chào tất cả các vị! - Grigori ra đến ngưỡng cửa thì giơ mũ lên vẫy vẫy.
Anh
chàng tóc xoăn khẽ nhún vai, sửa lại dây lưng bước ra theo Grigori. Ra đến
thềm, anh ta long lanh hai con mắt sáng quắc gan liều, khẽ hỏi, hơi thở phả cả
vào mặt chàng.
- Anh đi
đâu đấy! - Hỏi xong cứ nắm chặt lấy tay áo ca- pôt của Grigori.
- Về
nhà. - Grigori trả lời nhưng không đứng lại, và vừa đi vừa lôi cả anh chàng kia
theo. Trong lòng bồi hồi, chàng sung sướng nghĩ thầm: "Không, chúng mày
không thể nào bắt sống tao được đâu?"
Bàn tay
trái của anh chàng tóc xoăn nắm chặt lấy khuỷu tay Grigori, anh ta thở hổn hển,
đi sát bên cạnh chàng. Đến cửa hàng rào, hai người đứng lại một lát. Grigori
nghe thấy tiếng cánh cửa rít, và cùng lúc đó bàn tay phải của người chiến sĩ
Hồng quân chộp xuống đùi, những móng tay cào lên nắp bao súng. Trong nháy mắt,
Grigori bắt gặp ở ngay sát mặt mình hai con mắt xanh lè của đối phương, sắc
ngọt như hai lười dao. Chàng né mình, nắm luôn lấy bàn tay đang mở cái móc bao
súng, rồi è è một tiếng, bóp chặt bàn tay đó ở cổ tay, lôi phắt lên vai phải
của mình với một sức mạnh khủng khiếp, và cúi người xuống ném bật cái thân hình
nặng nề kia qua vai mình bằng một miếng võ đã tập thạo từ lâu, rồi kéo giật bàn
tay đó xuống dưới, nghe thấy rắc một cái, vì khớp xương khuỷu tay bị vặn rời.
Cái đầu có bộ tóc màu hạt dẻ, xoăn như đầu cừu đâm bổ, cắm sâu xuống đống
tuyết.
Grigori
khom người chạy men hàng rào, dọc theo cái ngõ ra sông Đông, hai chân nảy bần
bật như hai cái lò so đẩy chàng lao xuống dốc… "Chỉ cần đừng gặp vọng gác,
rồi ra tới đấy…" Chàng đứng lại trong một giây: sau lưng có thể nhìn thấy
toàn bộ căn nhà của Anikey. Một phát súng nổ. Viên đạn hung hãn bay qua đánh
víu. Lại nổ thêm vài phát súng nữa xuống chân núi, ra chỗ lội qua sông đen ngòm
và sang bên kia sông Đông. Grigori chạy đến giữa dòng sông thì có viên đạn ríu
một cái xuyên vào đống băng rất sạch sùi lên ngay bên cạnh, những mảnh băng bật
ra tung tóe làm cổ chàng rát như phải bỏng. Sau khi chạy sang tới bên kia sông
Đông, Grigori ngoái nhìn lại, những phát súng vẫn nổ ra như tiếng roi quất
trong tay người chăn bò. Grigori không cảm thấy cái sung sướng của một kẻ vừa
thoát chết, mà chỉ ngạc nhiên trước thái độ phớt lạnh của mình đối với những
việc vừa xảy ra. "Chúng nó bắn như bắn một con thú - Chàng nghĩ như một
cái máy và đứng lại lần nữa~- Chúng nó sẽ không mò đi tìm mình đâu, chúng nó sợ
không dám vào trong rừng… Cái tay của nó mình đã cho một đòn ra trò. Chà cái
thằng chó chết, tay không mà định tóm cổ một thằng Cô- dắc?"
Chàng đi
về hướng những đám cỏ khô để dành qua mùa đông, nhưng vì sợ đuổi theo, chàng đã
đi quá những đống cỏ ấy rồi còn quay trở lại đi loạn một hồi theo nhiều hướng
như con thỏ lúc đi kiếm ăn. Chàng quyết định nghỉ đêm trong một đống hương bồ
khô vứt bỏ. Chàng bới trên đỉnh đống cỏ, chân thụt xuống một cái hang không
biết của con gì. Chàng nằm ngập đầu trong đống hương bồ nặc mùi cỏ mục, rùng
mình. Đàu óc trống rỗng. Nhưng bỗng nhiên chàng thoáng có một ý nghĩ không thú
vị: "Ngày mai sẽ thắng ngựa vượt qua mặt trận về với quân ta chăng?"
- nhưng chàng không tìm được cho mình câu trả lời nên lại không nghĩ gì nữa.
Sáng hôm
sau, Grigori bắt đầu thấy lạnh bèn ngó đầu nhìn ra. Ánh bình minh đã sáng lên
xốn xang đầy hân hoan trên đầu chàng.
Cái lòng
chảo sâu thẳm của bầu trời xanh thẫm cũng như sông Đông ở chỗ lội đều tựa như
có thể nhìn được thấy đáy. Trên kia đầy một màu da trời trước lúc bình minh,
những chùm sao lấm tấm chung quanh đang tắt dần.
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 138
Mặt trận
đã tràn qua. Những tiếng ầm ầm của những ngày chiến đấu đã lặng đi. Hôm cuối
cùng, trước khi kéo đi, mấy chàng súng máy của trung đoàn kỵ binh 13 đã lấy
chiếc máy hát của nhà Melekhov đặt lên chiếc xe trượt tuyết kiểu Tavria có cái
lưng rất rộng, rồi cho hai con ngựa chạy rất lâu qua các phố trong thôn. Cái
máy hát kêu rè rè, chốc chốc lại ho khạc lên (những đám tuyết nhỏ bắn tung ra
từ dưới vó ngựa có khi bay cả vào cái loa to tướng). Với vẻ mặt hoàn toàn vô tư
lự, một chiến sĩ súng máy đội chiếc mũ có tai kiểu Xibai lau sạch cái loa rồi
quay cái tay quay chạm trổ lên giây cót cho cái máy hát, động tác làm chắc chắn
vững vàng như khi nắm lấy cái tay cầm của khẩu súng máy. Một bầy trẻ chạy ríu
rít sau chiếc xe như một đàn chim sẻ. Chúng nắm lấy thanh gỗ ngang sau xe gào
lên: "Chú ơi chú, chú vặn cái ấy đi, vặn cái gì nó kêu như huýt sáo ấy!
Vặn đi chú!" Có hai đứa may mắn nhất được leo lên ngồi trên đầu gối của
chàng súng máy. Cứ mỗi lúc nghỉ tay không phải lên dây cót, người chiến sĩ Hồng
quân lại lấy chiếc găng tay không có ngón ân cần và nghiêm trang chùi cho thằng
nhỏ hơn cái mũi bợt da, nước mũi chảy ròng ròng vì tiết trời rét ngọt và niềm
hạnh phúc quá lớn.
Sau đó
có tin chiến sự đang diễn ra gần Ust- Metretka. Thỉnh thoảng có những đoàn xe
vận tải kéo qua thôn Tatarsky chở lương thực và đạn dược cho Tập đoàn quân số 8
và Tập đoàn quân số 9 của Hồng quân.
Đến ngày
thứ ba thì có những người chạy tin đến từng hộ gọi dân Cô- dắc ra họp đại hội
toàn thôn.
- Chúng
ta sẽ bầu Krasnov làm ataman! - Gã Anchiv con lão "Vua nói phét" vừa
bước trong sân nhà Melekhov ra vừa nói.
- Chúng
ta sẽ bầu lên hay ở trên chỉ định cho chúng ta? - Ông Panteley Prokofievich vội
hỏi.
- Ra
ngoài kia rồi sẽ biết…
Grigori
và Petro ra bãi họp. Tất cả bọn Cô- dắc còn trẻ đều ra hết. Bọn bô lão không có
mặt. Chỉ một mình lão Apdevich "Vua nói phét" tụ tập một bọn thích
nghe chuyện tếu, lão kể chuyện một chính uỷ Hồng quân ở nhờ nhà lão, đã mời
lão, Apdevich nầy, gánh trọng trách chỉ huy.
- Anh
chàng ấy bảo: "Tôi không được biết bố già là một ngài quản cựu trào, nếu
không đã rất sung sướng rời bố già ra nhận một chức vụ". Chức vụ gì thế?
Làm thủ trưởng à, cử đi đâu thế? - Miska Kosevoi nhe răng ra cười.
Anh được
mọi người vui vẻ hùa theo:
- Thủ
trưởng phụ trách con ngựa cái của ngài chính uỷ. Chuyên rửa cái chỗ khấu đuôi
cho nó.
- Cứ cho
lão lên cao thêm một chút?
- Hô-
hô!
-
Apdevich! Nghe đây nầy! Hắn muốn cho ông vào đội vận tải tuyến ba để quản lý
tương cà mắm muối đấy.
- Các
cậu không được rõ toàn bộ sự việc đâu… Trong khi ngài chính uỷ nói chuyện với
lão ông thì thằng cần vụ của ngài chính uỷ dấm dớ với lão bà. Nó sờ nắn lão bà
lung tung, còn lão ông Apdevich cứ đứng đực ra nghe, nước rãi, nước mũi ròng
ròng…
Apdevich
đưa cặp mắt đờ đẫn nhìn mọi người một lượt, nuốt nước bọt rồi hỏi:
- Cái
câu vừa rồi thằng nào nói đấy hử?
- Thằng
nầy đây! - Phía sau có một câu trả lời rất cứng cỏi.
- Các
anh đã trông thấy một thằng chó đẻ như thế nầy bao giờ chưa? - Lão Apdevich
quay nhìn chung quanh tìm người đồng tình với mình, và xem ra có rất nhiều gã
đồng tình với lão.
- Nó là
một thằng khốn nạn, từ lâu tôi đã nói như thế rồi.
- Dòng
giống nhà nó đứa nào cũng như thế cả đấy. Nếu mà tao còn trẻ hơn một chút… -
Hai cái má của lão Apdevich đỏ lên như hai chùm tuyết cầu. - Nếu tao còn trẻ
hơn thì tao đã cho mầy biết mùi? Hành động của mày đúng là một thằng khô- khon!
- Mày là
một thằng lưu manh ở Taranroc! Mày là một thằng khô- khon khốn nạn!
- Nầy
ông Apdevich, sao ông không giã cho nó một trận đi! So với ông thì nó chỉ là
một thằng ranh con.
-
Apdevich xem ra gãy rồi…
- Lão sợ
găng quá sẽ bung rốn ra…
Lão
Apdevich bỏ đi với một vẻ rất oai hùng, mọi người cười rộ lên phía sau. Bọn Cô-
dắc đứng túm năm tụm ba trên bãi. Đã lâu lắm không trông thấy mặt Miska
Kosevoi, Grigori bèn bước tới.
- Có
khỏe không, anh bạn đồng ngũ!
- Ơn
Chúa.
- Dạo
vừa qua cậu biến đi đâu thế? Đi lính dưới lá cờ nào thế? - Grigori vừa bắt tay
Miska, vừa mỉm cười nhìn vào hai con mắt xanh da trời của Miska.
- Ái chà
chà! Người anh em ạ, mình hết ở trại chăn nuôi lại về đại đội trùng giới ở mặt
trận Kalatov. Chẳng thiếu nơi nào không qua? Vượt bao nhiêu gian nan mới về được
tới nhà. Hồi ở mặt trận, mình đã muốn chuồn sang phía Hồng quân. Nhưng chúng nó
theo dõi mình riết, bà mẹ theo rình cô con gái rượu không bằng. Hôm nọ
Kotliarov lại nhà mình với cái áo choàng bằng dạ và tất cả những đồ đi đường.
Anh ấy bảo: "Nầy, súng ống sẵn sàng rồi chuồn đi". Mình cùng vừa về
tới nơi bèn hỏi: "Chẳng lẽ anh muốn rút lui hay sao?" Anh ấy nhún vai
và bảo: "Có lệnh đấy. Đã có lệnh của ataman gửi tới. Mình làm việc ở nhà
máy xay nen bị chúng nó đăng ký rồi". Anh ấy từ biệt rồi bỏ đi. Mình cứ
ngỡ là Kotliarov rút lui thật. Nhưng hôm sau trung đoàn Mchensky kéo qua thôn,
nhìn ra đã lại thấy ông ấy rồi… Nhưng chẳng phải là Kotliarov đang chạy rối lên
ở chỗ kia là gì! Ơi, anh Kotliarov?
Cùng
bước tới với Kotliarov có cả anh thợ máy xay Davydka.
Davydka
nhe hai hàm răng đầy nước bọt ra cười như thằng ngốc bắt được mẩu sắt vụn…
Kotliarov đưa những ngón tay cồm cộm những chai nặc mùi mỡ máy nắn nắn bàn tay
của Grigori rồi tặc lưỡi nói:
- Thế
nào, Griska, tại sao cậu ở lại thế?
- Còn
anh thì sao?
- À mình
ấy à… Mình lại chuyện khác.
- Anh
muốn nói đến cái chuyện tôi là sĩ quan chứ gì? Tôi đã đánh liều! Cứ ở lại.
Thiếu chút nữa bị chúng nó giết rồi đấy… Lúc bị chúng nó đuổi theo, bị chúng nó
bắn, tôi cũng có hối là tại sao không bỏ đi, nhưng bây giờ không hối nữa rồi.
- Nhưng
vì sao lại dính vào với chúng nó? Chúng nó ở trung đoàn Mười ba phải không?
- Chính
bọn ấy đấy. Mọi người đang liên hoan ở nhà Anikey. Không biết có đứa nào báo
tôi là sĩ quan. Petro không bị chúng nó động đến, nhưng tôi lại bị… Trăm tội
cũng chỉ tại hai cái lon… Tôi đã chạy sang bên kia sông Đông, sau khi vặn tay
một thằng tóc xoăn, có lẽ chỗ gãy kha khá đấy… Vì thế chúng nó đến nhà tôi, của
tôi có gì chúng nó lấy sạch. Cả mấy cái quần đi ngựa lẫn áo bành tô dạ có đai. Đeo
được cái gì trên mình thì còn cái nấy.
- Nếu
trước khi xảy ra chuyện Pochenkov mà chúng mình đã đi với Hồng quân, thì bây
giờ đã chẳng phải hấp háy con mắt trước mặt họ. - Kotliarov mỉm cười chua chát,
châm thuốc hút.
Mọi
người đã đến đông đủ. Người nói những lời khai mạc đại hội là chuẩn uý
Lavchenko, một tay bạn chiến đấu của Fomin từ Vosenskaia tới.
- Thưa
bà con đồng hương! Chính quyền Xô- viết đã được thành lập trong quân khu chúng
ta. Bây giờ cần phải tồ chức bộ máy hành chính bầu ra ban chấp hành, chủ tịch
và phó chủ tịch. Đó là một vấn đề Ngoài ra tôi xin truyền đạt một mệnh lệnh của
Xô- viết Quân khu, cũng ngắn thôi: nộp tất cả các súng ống và gươm đao.
- Hay
nhỉ! - Có người ở phía sau nói bằng một giọng chua chát, rồi toàn hội trường
chết lặng đi giờ lâu.
- Các
đồng chí, trong việc nầy chẳng có gì đáng phải la lối lên như thế? Lavchenko
dướn thẳng người đặt chiếc mũ lông xuống bàn.
- Vũ khí
thì phải đem nộp, cũng dễ hiểu thôi, làm ăn ở nhà thì cần gì đến. Ai muốn đi
bảo vệ chính quyền Xô- viết thì người đó sẽ được trao vũ khí. Trong hạn ba
ngày, tất cả các súng trường phải đem nộp hết. Bây giờ chúng ta bắt tay vào bầu
cử. Tôi sẽ uỷ quyền cho đồng chí chủ tịch thông báo mệnh lệnh tới từng người,
thu hồi con dấu của ataman cùng tất cả các món tiền công của thôn.
- Họ có
phát vũ khí cho chúng ta đâu mà bây giờ lại rờ đến?
Người
vừa hỏi còn chưa nói hết câu, tất cả những người khác đã quay lại nhìn. Người
ấy là Dakha Korolev.
- Thế
cậu cần đến vũ khí làm gì? - Khristonhia hỏi một câu đơn giản.
- Mình
cũng chẳng cần làm gì: Nhưng không có sự thoả thuận rằng chúng ta để cho Hồng
quân tiến qua khu của chúng ta để rồi họ tước vũ khí của chúng ta.
- Đúng
đấy?
- Fomin
đã nói ở cuộc mít- tinh!
- Những
thanh gươm nầy là chúng ta bỏ tiền túi ra mua đấy chứ?
- Mình
đã mang khẩu súng của mình trở về sau cuộc chiến tranh với Đức bây giờ lại phải
đem nộp hay sao?
- Cứ nói
dứt khoát là vũ khí thì chúng ta không nộp?
- Họ
định lột trần người Cô- dắc chúng ta! Không có vũ khí thì nom cái thằng tôi còn
ra cái thớ gì nữa? Bảo tôi sẽ đi đứng như thế nào bây giờ? Tôi mà không có vũ
khí thì nom sẽ tồng ngồng như một đàn bà tốc váy thôi.
- Chúng
ta sẽ giữ vũ khí lại.
Miska
Kosevoi đàng hoàng xin phát biểu ý kiến:
- Xin
các đồng chí cho phép tôi nói vài câu! Tôi thậm chí rất ngạc nhiên khi nghe
thấy những lời như vừa nãy. Thử hỏi chúng ta có đang sống trong tình trạng giới
nghiêm hay không?
- Còn tệ
hơn giới nghiêm nữa là khác.
- Nếu đã
là tình trạng giới nghiêm thì chẳng cần phải nói dài dòng làm gì. Lấy ra đem
nộp đi thôi! Những khi chiếm đóng các làng khô- khon, chẳng phải chúng ta cũng
làm như thế là gì?
Lavchenko
vuốt vuốt cái mũ lông của anh ta rồi tuyên bố như đinh đóng cột:
- Quá
hạn ba ngày, ai không nộp vũ khí sẽ bị giải lên toà án cách mạng và bị xử bắn
như một phần tử phản cách mạng.
Sau mấy
phút yên lặng, Tomilin húng hắng ho và nói giọng khàn khàn:
- Đề
nghị bầu chính quyền đi thôi!
Mọi
người bắt đầu đề cử. Khoảng chục người được nêu tên họ.
Một gã
trong đám còn trẻ kêu lên:
-
Apdevich!
Những
lời pha trò ấy đã chẳng gây được tác dụng gì cả. Người đầu tiên được nêu lên để
biểu quyết là Kotliarov. Mọi người nhất trí thông qua.
- Không
cần phải biểu quyết thêm nữa, - Petro Melekhov đề nghị.
Đại hội
sẵn sàng tán thành và Miska Kosevoi đã được chọn làm phó chủ tịch không cần
thông qua biểu quyết.
Hai anh
em nhà Melekhov chưa kịp về đến nhà đã gặp Anikey ở giữa đường. Anikey kẹp dưới
nách hắn khẩu súng trường và những viên đạn bọc trong cái tạp dề của vợ. Nhìn
thấy ba anh chàng Cô- dắc, hắn ngượng ngùng lẩn vào một cái ngõ, Petro đưa mắt
nhìn Grigori, Grigori đưa mắt nhìn Khristonhia, và cả ba cùng phá lên cười như
đã ước hẹn.
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 139
Gió đông lang thang lồng lộn trên
đồng cỏ thân yêu. Tuyết phủ đầy khe núi. Các chỗ trũng, các vách khe đều đã bị
lấp bằng. Không còn chút dấu vết gì của mọi đường cái đường con. Bị gió liếm
ngang, liếm dọc, bốn bề toàn là một cảnh phẳng lì, trần truồng, trắng lốp.
Đồng cỏ như đã chết. Năm thì mười
hoạ mới thấy một con quạ đen bay rất cao trên trời. Có lẽ nó cũng già không kém
gì đồng cỏ, không kém gì nấm kurgan nằm giữa khoảng trời tuyết mênh mông với
cái mũ tuyết hiện lên giữa một vành ngải cứu nom như dải lông hải ly viền quanh
cái mũ của một công tước. Hai cái cánh của con quạ rẽ không gian ràn rạt, nó
vừa bay vừa để rơi trong họng ra những tiếng kêu thảm thương. Gió đưa những
tiếng kêu ấy đi rất xa với những tiếng vang còn vọng mãi, rất bi thiết trên
đồng cỏ, chẳng khác gì có người vô tình búng lên một tiếng đàn trầm trong bầu
trời đêm tĩnh mịch.
Nhưng bên dưới lớp tuyết, đồng cỏ
vẫn tiếp tục cuộc sống của nó. Ở những khoảng đất cày tuyết phủ trắng như bạc,
lên lên xuống xuống như những làn sóng đông lại thành băng, những nơi đất đã
bừa từ mùa thu đang nằm chết lặng, lúa mạch qua mùa đông bị đại hàn dúi gục
xuống vẫn bám chắc xuống đất bằng những đám rễ háu ăn đầy sức sống. Xanh mượt
như lụa, với những giọt sương đông lại nom như những giọt nước mắt, lúa mạch
nép mình tránh lạnh xuống chất đất đen ròn tan, sống bằng thứ máu đen tràn trề
sinh lực của đất, và chờ mùa xuân, chờ nắng ấm để ngỏng dậy, chọc thủng lớp
băng đang tan dở trong như kim cương, mỏng manh như mạng nhện và đến tháng Năm
thì mọc lên mãnh liệt, xanh mướt. Rồi chờ được đúng lúc, lúa mạch sẽ ngoi dậy
cho mà xem! Cun cút sẽ đánh nhau trong những dám lúa, sơn ca tháng Tư sẽ hót
vang trên các cánh đồng. Mặt trời sẽ rọi nắng, gió sẽ vẫn đu đưa những cây lúa.
Và cứ như thế, khi đã đúng lúc, những bông lúa nẩy hạt, chín vàng bị mưa dập
gió vùi sẽ ngả những cái đầu lông lá, nằm rạp xuống dưới lưỡi liềm của người
chủ đất và ngoan ngoãn để rơi những hạt thóc vừa to vừa nặng xuống sân phơi.
Tất cả vùng ven sông Đông đang sống
một cuộc sống lẩn lút, bị đè nén. Những ngày ảm đạm đang sắp ập tới. Mới chỉ có
những chuyện xảy ra ở các vùng địa giới. Song những tin dữ đã lan dần từ các
vùng thượng du sông Đông theo sông Tria, sông Chutcan, sông Khop, sông Elanca,
và tất cả các con sông lớn nhỏ tới các thôn Cô- dắc nằm rải rác khắp vùng.
Người ta nói rằng mặt trận không đáng sợ vì nó chỉ tràn qua như một làn sóng
rồi nằm lại ở gần sông Dones, mà điều đáng sợ là các Uỷ ban đặc biệt 1 và các
Toà án.
Người ta nói rằng các Uỷ ban đặc
biệt và Toà án có thể xuống các trấn lúc nào không biết và hình như đã tới
Migulinskaia và Kazanskaia rồi, và đã có những lời tuyên án giản đơn, oan uổng
đối với những người Cô- dắc trước kia có đi lính cho bọn Trắng. Hình như việc
người Cô- dắc Đông Thượng bỏ mặt trận không được coi là một lý do bào chữa, mà
Toà án xử rất đơn giản: công tố kết tội, toà hỏi qua một đôi câu, tuyên án, thế
là nạn nhân nhận lấy ngay một loạt súng máy. Lại thấy nói rằng ở Kazanskaia và
Sumilinskaia không phải chỉ một người dân Cô- dắc bị chặt đầu quẳng vào rừng mà
không có ai nhận… Những gã Cô- dắc ở mặt trận về chỉ cười nhạo: "Toàn là những
chuyện láo toét? Toàn những chuyện bịa của bọn sĩ quan! Từ lâu bọn
"Kadet" đã từng đem Hồng quân ra làm con ngáo ộp doạ chúng ta rồi?
"
Trước những lời đồn đại, người ta
nửa tin nửa ngờ. Ngay trước đây trong các thôn cũng thiếu gì những tin đồn
nhảm. Chính các tin đồn đã thúc đẩy những kẻ yếu bóng vía rút lui. Nhưng sau
khi mặt trận qua rồi, không thiếu gì những kẻ đêm đêm không ngủ được, những kẻ
cảm thấy cái gối quá nóng, cái giường quá cứng và người vợ yêu không còn đáng
yêu nữa.
Có những người hối hận tự hỏi tại
sao mình không bỏ chạy về sông Dones, nhưng việc đã qua thì còn làm thế nào kéo
trở lại được, nước mắt đã rơi không vớt lại được nữa rồi…
Tối tối bọn Cô- dắc thôn Tatarsky tụ
tập trong các ngõ, báo cho nhau biết những tin nhận được, rồi la cà từ nhà nọ
sang nhà kia uống rượu. Thôn xóm sống một cuộc sống yên tĩnh nhưng đầy đắng
cay. Hồi đầu thời kỳ ăn mặn, chuông nhà thờ chỉ dóng có một buổi lễ để báo tin
một đám cưới: Miska Kosevoi cho em gái đi lấy chồng.
Đám cưới nầy đã bị người ta chế giễu
chua chát:
- Kiếm được đúng lúc như thế nầy mà
cưới với xin! Xem ra đã ngứa nghề không nhịn được nữa rồi!
Bầu chính quyền hôm trước thì ngay
hôm sau từng nhà bị tước vũ khí Trong ngôi nhà lão Mokhov dùng làm trụ sở của
Uỷ ban Quân sự Cách mạng, chỗ phòng ngoài có sưởi ấm và hành lang đều chất đầy
vũ khí. Petro Melekhov cũng đem nộp vũ khí của hắn và của Grigori: hai khẩu
súng trường, hai khẩu Nagan và một thanh gươm.
Hai anh em giữ lại hai khẩu Nagan
của sĩ quan, chỉ nộp những thứ đem về sau cuộc chiến tranh chống Đức.
Petro về nhà trong lòng nhẹ nhõm hẳn
đi. Hắn vào đến nhà trong thì thấy Grigori đang xắn tay áo đến khuỷu tháo hai
cái khoá nòng súng trường và bôi dầu hoả để đánh sạch các vết gỉ. Hai khẩu súng
dựng ngay bên cạnh tường.
- Ở đâu ra thế nầy? - Petro ngạc
nhiên quá, hai hàng ria trễ hẳn xuống.
- Cha mang về từ hồi đến thăm tôi ở
Filonovo đấy.
Hai con mắt nheo nheo của Grigori long lanh. Chàng vừa
cười khà khà vừa đưa hai bàn tay bê bết dầu hoả lên chống vào sườn.
Nhưng bỗng nhiên chàng bặt tiếng cười, hai hàm răng lách
cách đạp vào nhau như răng chó sói.
- Nhưng súng trường đã mùi gì! Anh có biết không? -
Grigori hạ giọng nói thì thầm tuy trong nhà không có người lạ nào. - Hôm nay
cha mới nói thật với tôi. - Grigori lại cố ghìm nụ cười. - Ông cụ có một khẩu
súng máy nặng đấy.
- Nói bậy! Ở đâu ra? Mà để làm gì chứ?
- Cha bảo rằng bọn dân công vận tải Cô- dắc đã đổi cho
cha lấy một túi sữa chua, nhưng theo tôi thì nói dối đấy, cái con quỉ già ấy?
Đúng là lại ăn cắp ở đâu rồi? Cứ y như con bọ hung rúc đống phân, hễ thấy cái
gì là khiêng về tuốt, kể cả những thứ không đủ sức khiêng. Ban nãy cha rỉ tai
tôi: "Tao có một khẩu súng máy nặng, chôn ngoài sân đập lúa ấy. Nó có một
cái lò xo, có thể dùng làm cái móc trôn ốc, nhưng tao còn chưa động tới".
Tôi hỏi: "Nhưng cha tha nó về làm gì?" - "Tao thích cái lò xo
quí, có lẽ còn có những thứ khác cũng dùng được. Một của đáng tiền lắm đấy,
bằng thép đấy…"
Petro phát khùng lên, định chạy vào bếp tìm bố, nhưng
Grigori ngăn lại:
- Thôi đi! Anh giúp tôi lau và lắp lại đi. Anh vào hỏi
cha làm gì?
Trong khi lau hai cái nòng súng, Petro vẫn còn thở phì
phì, nhưng sau nắn chợt nghĩ ra bèn nói:
- Có lẽ cũng đúng đấy, rồi sẽ có lúc dùng được việc. Cứ
để cho nó nằm ngoài ấy cũng được.
Hôm ấy Tomilin Ivan đem đến cái tin ở Kazanskaia đang có
những vụ xử bắn. Mấy người hút thuốc và chuyện gẫu bên cạnh bếp lò. Trong khi
nói chuyện, không biết có điều gì mà Petro cứ đăm đăm chiêu chiêu. Hắn vốn là
một thằng không quen suy nghĩ nên nặn óc rất khó khăn, mồ hôi lấp lánh trên
trán như hạt cườm. Đến lúc Tomilin đã về rồi hắn tuyên bố:
- Tôi sẽ đi ngay Rubezyn gặp thằng Yakov Fomin. Nghe nói
hiện giờ hắn đang ở nhà. Người ta bảo rằng hắn có làm cái gì trong Uỷ ban Quân
sự Cách mạng Quân khu ấy, dù sao cũng là một chỗ có thể bấu víu. Tôi sẽ đề nghị
với hắn để nhỡ xảy ra chuyện gì hắn cũng nói đỡ hộ.
Ông Panteley Prokofievich thắng con ngựa cái vào một
chiếc xe trượt tuyết thường. Trong chiếc áo lông mới choàng trên vaị, Daria thì
thầm mãi với bà Ilinhitna không biết những gì. Rồi mẹ chồng con dâu chui vào
nhà thóc và xách ra một cái tay nải.
- Cái gì thế? - Ông già hỏi.
Petro không nói gì cả, nhưng bà Ilinhitna liến thoắng rỉ
tai chồng:
- Tôi có để dành trong đó được ít bơ, phòng có lúc phải
dùng đến. Bây giờ thì còn tiếc gì bơ nữa, tôi đã đem cho con Daria để làm quà
cho mụ vợ gã Fomin, may ra nó cũng che chở cho thằng Petro. - Nói đến đây bà
khóc oà lên. - Cứ đi lính nữa đi, cứ đi lính nữa đi, xông pha mãi nơi mũi tên
hòn đạn, để rồi bây giờ chưa biết chừng sẽ mất xác vì mấy cái lon của chúng nó…
- Thôi câm đi, cái mụ lắm mồm nầy? - ông Panteley
Prokofievich tức tối ném cái roi ngựa lên đống rơm, bước tới trước mặt Petro. -
Mày đem đến thêm cho nó ít thóc.
- Nó cần đến thóc làm cái quái gì! - Petro khùng lên. -
Cha ạ, tốt nhất là cha sang nhà Anikey mua lấy ít rượu, còn thóc thì…
Ông Panteley Prokofievich đem về một bình rượu to bằng
một cái thùng giấu dưới vạt áo. Ông vừa bước vào vừa trầm trồ:
- Thứ vodka nầy ngon ra ngon? Y như rượu Nicolai ấy.
- Lại nốc vào rồi, cái con chó già nầy? - Bà Ilinhitna
dội lên đầu ông chồng một tràng, nhưng ông già cứ lờ đi như không nghe thấy gì
ông nheo mắt như con mèo vừa kiếm được bữa no, khập khiễng đi thắng vào nhà
trong, chân bước rất trẻ, vừa đi vừa è è đưa tay áo lên lau cặp môi bị rượu đốt
bỏng.
Petro ra khỏi nhà như một người khách, cổng vẫn để mở.
Hắn đem quà đi biếu người bạn đồng sự nay đã trở thành
một nhân vật quyền thế, ngoài bình rượu còn có một đoạn sơ- vi- ết, loại hàng
từ hồi trước chiến tranh, một đôi ủng và một phun- tơ chè thượng hảo hạng ướp
hoa. Tất cả các thứ đó hắn đã cướp được ở Lisky. Hồi ấy trung đoàn 28 chiến đấu
chiếm được nhà ga rồi tản ra đi cướp các toa xe và các kho hàng.
Cũng dạo ấy, trên một đoàn tầu bị chặn đường không chạy
được, hắn còn cướp được một cái hòm nan đựng quần áo lót của đàn bà. Thấy cha
ra mặt trận, hắn đã gửi cái hòm về. Thế là Daria được diện những thứ đồ lót
chưa ai từng thấy bao giờ, làm Natalia và Dunhiaska hết sức ghen tị. Các thứ
hàng ngoại hoá ấy mỏng dính và trắng hơn tuyết, mỗi cái đều có thêu huy hiệu
của gia đình và những đầu tên bằng tơ. Những đám đăng ten viền trên một chiếc
quần lót sùi lên, bông hơn cả bọt nước trên sông Đông. Chồng mới về hôm đầu
Daria đã mặc cái quần ấy để đi ngủ.
Trước khi tắt đèn, Petro cười mát một cách độ lượng:
- Em thích mặc đồ lót của đàn ông à?
- Mặc cái nầy ấm hơn và đẹp hơn. - Daria trả lời, vẻ mặt
mơ màng. - Nhưng anh chẳng hiểu gì cả: nếu của đàn ông thì phải dài hơn chứ, mà
nó lại có đăng ten… Đàn ông các anh thì quần áo viền đăng ten làm gì?
- Có lẽ bọn đàn ông các nhà quí tộc cũng có mặc những
quần áo viền đăng ten đấy. Nhưng việc quái gì đến anh? Thích mặc thì cứ mặc
cũng được, - Petro vừa gãi gãi vừa trả lời, giọng buồn ngủ.
Đầu tiên hắn cũng không đặc biệt quan tâm đến chuyện nầy.
Nhưng mấy ngày sau, trong khi nằm cạnh vợ, hắn cảm thấy sờ sợ, phải lùi ra và
bất giác cứ nhìn những chỗ viền đăng ten mà ngại ngại lo lo, không dám động tay
tới, và ngay đến Daria hắn cũng có phần muốn xa. Hắn chẳng làm thế nào quen
được với các đồ lót nầy. Đến đêm thứ ba, hắn khùng lên, kiên quyết bảo vợ:
- Thôi tụt mẹ cái quần nầy ra đi! Đàn bà mặc nó không hợp
đâu, mà đâu phải là của đàn bà? Nằm đườn đưỡn như bà lớn ấy? Mặc vào nom cứ như
người ở đâu!
Sáng hôm sau hắn dậy sớm hơn Daria. Hắn húng hắng ho, cau
cau có có, thử mặc cái quần vào người xem sao. Như gờm gờm đề phòng điều gì,
hắn nhìn mãi cái dải rút, những đám đăng ten, và hai cái chân đầy lông lá của
hắn thòi ra từ đầu gối trở xuống. Hắn xoay người, bất thần nhìn thấy cái hình
của mình trong gương với những nếp vải xù lên rất to đằng sau mông, bèn nhổ
toẹt một bãi nước bọt, văng tục một thôi một hồi, rồi gù lưng như con gấu, để
rút chân ra khỏi cái quần rộng thùng thình. Nhưng một ngón chân cái của hắn
lóng ngóng thế nào vướng vào một đám đăng ten, làm hắn thiếu chút nữa thì ngã
phệt xuống cái rương. Hắn đã phát điên lên thật sự, bèn giật đứt cái dây rút
cho mình lại được tự do. Daria hỏi bằng một giọng ngái ngủ:
- Anh làm sao thế?
Petro tức quá không nói gì cả, cứ thở phì phì và nhổ nước
bọt luôn miệng. Còn cái quần thì ngay hôm ấy Daria thở dài nhét nó vào cái
rương (trong đó không thiếu những đồ mà không người đàn bà nào trong nhà có thể
dùng vào được việc gì) và cuốì cùng vẫn không biết là quần đàn ông hay quần đàn
bà. Về sau các thứ lủng củng lỉnh kỉnh ấy đã phải đem cắt ra làm "xu-
chiêng". Còn mấy cái váy thì Daria đã tìm ra cách dùng. Không hiểu vì sao
tất cả đều quá ngắn, nhưng một người nội trợ khéo léo vẫn có thể tiếp thêm ở
bên trên để cái váy bên trong dài hơn cái bên ngoài, nhìn thấy được đến nửa
trét- véc 2 đăng ten. Thế là nom Daria đỏm dáng sang trọng hẳn ra với đoạn đăng
ten Hà Lan quét lê trên sàn đất.
Lần nầy cùng chồng đến chơi nhà người khác cũng thế.
Daria ăn vận rất sang trọng, đàng hoàng. Bên dưới cái áo choàng kiểu sông Đông
viền lông thú, có thể nhìn thấy cả cái váy lót viền đăng- ten lẫn chiếc váy
ngoài bằng len mới rất tốt. Chị chàng ăn vận như thế là muốn cho mụ vợ gã Fomin
vừa từ chỗ bùn nhơ leo lên làm bà lớn biết rằng con Daria nầy đâu phải là một ả
Cô- dắc tầm thường, ít nhất cũng là một bà vợ sĩ quan chứ.
Petro bập môi, vung cái roi ngựa. Con ngựa đang có mang
chạy một nước kiệu nặng nhọc hết cái ngõ ghồ ghề, mặt đường bong nham nhở, ra
tới con đường cái đã được đòn xe trượt tuyết miết phẳng lì, chạy dọc theo sông
Đông. Đến giờ ăn trưa thì tới Rubezyn. Fomin quả thật đang ở nhà. Hắn tiếp đón
Petro khá niềm nở và mời Petro vào bàn. Đến khi thấy cha hắn mang từ trên chiếc
xe trượt tuyết của Petro vào trong nhà cái bình đầy rơm và sương muối bám lờm
xờm thì một nét cười thoáng hiện sau bộ ria đỏ lòm của hắn:
- Sao thế nhỉ, ông bạn đồng ngũ, tại sao chẳng thấy quan
bác lại chơi bao giờ thế? - Fomin kéo dài giọng trầm rất dễ nghe, liếc nhìn
Daria bằng cặp mắt màu xanh da trời rất xa tinh mũi, rồi xoắn chòm ria một cách
oai vệ.
- Chính bác cũng biết đấy, bác Yakov Efilmut, các đơn vị
còn tấn công, thời buổi đang lúc nghiêm trọng như thế nầy…
- Kể ra cũng như thế thật đấy. Bà nó đâu! Mang ra cho
chúng tôi ừ dưa chuột, bắp cải và cá khô sông Đông ra đây.
Căn nhà nhỏ xíu được đốt sưởi rất nóng. Có hai đứa trẻ
nằm trên bếp lò: một thằng con trai giống bố như lột với hai con mắt màu xanh
da trời cũng rất xa tinh mũi, và một đứa con gái. Sau khi nhấm nháp vài hớp
rượu, Petro đi luôn vào việc:
- Trong các thôn đang có những tin đồn nói rằng đã có
những nhân viên Treka đến đây tính chuyện với bà con Cô- dắc.
- Toà án của sư đoàn 15 Indenskaia đã tới Vosenskaia.
Nhưng chuyện ấy thì có sao đâu? Liên quan gì đến bác?
- Còn sao nữa, ngài Yakov Efilmut, chính ngài cũng biết
rằng tôi là một sĩ quan. Nhưng sĩ quan kiểu như tôi thì có thể nói là chỉ có
cái bề ngoài mà thôi.
- Nếu thế thì có sao?
Fomin đã cảm thấy rằng hắn đang làm chủ tình thế. Hơi men
đã làm cho hắn trở nên tự phụ và khoe khoang, nên cứ làm cái vẻ khệnh khạng,
vuốt râu vuốt ria, mắt nhìn gườm gườm, coi bộ rất đường bệ.
Petro đã mò ra đúng tâm lý của hắn bèn cứ đóng vai một
anh chàng khổ sở không nơi nương tựa, luôn luôn có một nụ cười quị lụy xum xoe
nhưng đồng thời lại khéo chuyển ngay từ "ngài" sang "bác":
- Tôi đã từng phục vụ cùng một chỗ với bác. Bác cũng
chẳng có thể nói rằng tôi đã làm điều gì xấu. Trước kia tôi có chống lại điều
gì đâu. Vốn dĩ là không có chuyện như thế! Nếu nói dối thì có Chúa trừng phạt,
bao giờ tôi cũng đã đứng về phía anh em Cô- dắc!
- Chúng tôi biết lắm, bác Petro Panteleevich ạ, bác chẳng
cần phải lo lắng làm gì. Tất cả mọi người, ai như thế nào chúng tôi đã tìm hiểu
rõ ràng cả rồi. Họ sẽ không động tới bác đâu. Nhưng cũng có những kẻ chúng tôi
phải trừng trị. Có những kẻ chúng tôi sẽ phải tóm cổ. Lần nầy thật có lắm đứa
khốn nạn. Tuy ở lại, nhưng chúng nó vẫn cứ mưu đồ những chuyện riêng. Chúng nó
giấu vũ khí… Thế bác đã nộp hết vũ khí của bác chưa? Thế nào hử?
Fomin đang thủng thẳng nói từng tiếng một bỗng chuyển rất
nhanh sang tấn công dồn dập, làm Petro hoảng hồn mất một phút, máu dồn lên làm
mặt hắn đỏ bừng bừng.
- Đã nộp chưa hử? Nào, tại sao không nói gì thế? - Fomin
nhô người qua cái bàn, hỏi dồn.
- Tất nhiên là đã nộp rồi, bác Yakov Efilmut ạ, bác chớ
nghĩ rằng… Tôi nói với cả một tấm lòng thành thật…
- Thành thật à? - Tôi thì biết các anh lắm… Chính tôi
cũng là thổ công vùng nầy đấy. - Fomin hấp háy hai con mắt đã bốc hơi men, mở
hoác miệng, nhe những cái răng bàn cuốc. - Khi giơ tay nầy ra bắt tay một thằng
Cô- dắc có của thì tay kia phải nắm con dao cho chắc, nếu không sẽ bị nó đâm
mất mạng… Cái bọn chó má? Làm sao lại có chuyện thành thật được! Tôi đã gặp
không phải là ít các hạng người. Cả một lũ phản bội! Nhưng bác đừng có sợ,
chúng nó sẽ không động tới bác đâu. Tôi đã nói thì một là một, hai là hai!
Daria chỉ nhấm nháp chút đồ nguội, và để tỏ ra mình là
người lịch sự không đụng tới miếng bánh mì nào. Mụ chủ nhà thì cứ săn đón mời
khách ăn.
Đến lúc trời đã về chiều Petro mới ra về, trong lòng vui
vẻ và chứa chan hy vọng.
° ° °
Sau khi đưa Petro ra cổng, ông Panteley Prokofievich tạt
sang thăm lão thông gia Korsunov. Trước khi Hồng quân kéo đến, ông cũng có qua
bên đó một lần. Hôm ấy mụ Lukinhitna đang sửa soạn cho thằng Mitka lên đường,
cả nhà rối tinh rối mù, vì thế ông cảm thấy mình chỉ là người thừa, bèn bỏ về
ngay. Nhưng lần nầy ông quyết định sang xem mọi mặt có được bình an vô sự hay
không, đồng thời cũng tìm người để than thở sự đời.
Khập khiễng tới được đầu kia thôn cũng không phải là
chuyện chóng vánh. Ông vào đến trong thôn thì gặp cụ Grisaka đang ở trong đó
ra. Ông cụ đã già lụ khu, răng đã rụng mất vài cái. Hôm ấy là ngày chủ nhật,
ông cụ ra nhà thờ nguyện kinh chiều. Vừa nhìn thấy ông cụ thông gia, ông
Panteley Prokofievich bất giác thất kinh: bên dưới chiếc áo choàng mở phanh, có
thể nhìn thấy tất cả những tấm huân chương và huy chương mà cụ đã được thưởng
từ hồi cuộc chiến tranh Thổ nhĩ kỳ. Trên cái cổ đứng của chiếc áo quân phục
kiểu cũ thấy đỏ lóe hai cái lon cổ, nom rất là khiêu khích. Cái quần đi ngựa có
nẹp chảy lũng nhũng một cách già nua với hai ống quần luồn rất cẩn thận vào
trong đôi bít tất trắng và trên đầu cụ, một chiếc mũ cát- két có đính quân hiệu
chụp xuống tới hai vành tai trong như sáp ong.
- Cụ ơi cụ, sao cụ lại làm như thế? Cụ thông gia 3 ơi, cụ
điên rồi à? Thời buổi như thế nầy, cụ có còn thấy ai đeo huân chương và quân
hiệu nữa đâu?
- Cái gì hử? - Cụ Grisaka khum bàn tay đưa lên vành tai.
- Cái quân hiệu, tôi bảo cụ hãy tháo nó ra! Bỏ hết huân
chương đi! Cụ đeo những thứ nầy vào thì chúng nó sẽ bắt đi đấy. Dưới chính
quyền Xô- viết không thể làm như thế nầy được đâu, pháp luật nghiêm cấm đấy.
- Nầy anh chàng trẻ tuổi, ta đã phục vụ Hoàng đế Trắng
của ta với tất cả lòng trung thành. Còn cái chính quyền nầy thì không phải do ý
muốn của Thượng đế đâu. Ta không công nhận chính quyền của chúng nó. Ta đã
tuyên thệ với hoàng đế Alexandr chứ không tuyên thệ với bọn mu- gích, ta nói
như thế đấy? - Cụ Grisaka nhai nhai cặp môi nhợt nhạt rồi chọc chọc cái gậy,
chỉ về phía ngôi nhà. - Ông đến tìm thằng Miron có phải không? Nó có nhà đấy.
Còn thằng Mitka thì chúng tôi đã đưa tiễn nó đi rút lui rồi. Lạy Nữ hàng trên
trời, cầu xin Người che chở cho nó… Hai thằng bên ông ở lại à? Hả? Thế thì còn
ra thể thống gì nữa? Như thế thì còn ra Cô- dắc cái gì nữa? Tất nhiên chúng nó
cũng đã tuyên thệ trung thành với Nhà nước rồi chứ gì? Quân đội đang cần người
mà chúng nó lại ở nhà với vợ…
- Thế con Natalia có khỏe không?
- Vâng, khỏe đấy ạ… Nhưng mấy cái huân chương cụ tháo ra
đi, cụ thông gia ơi! Những cái của ấy bây giờ không hợp nữa rồi. Lạy Chúa tôi,
cụ lẫn mất rồi hay sao thế, cụ thông gia thân mến?
- Thôi cút mẹ anh đi. Trẻ ranh mà lên mặt dạy thằng già
nầy! Đi đâu thì đi đi.
Cụ Grisaka xăm xăm đi thẳng tới trước mặt ông thông gia.
Ông Panteley Prokofievich vội bước ra chỗ tuyết bên cạnh đường đi, nhường cho
cụ đi, rồi vừa nhìn theo vừa lắc đầu một cách tuyệt vọng:
- Ông đã gặp ông lính già nhà tôi chưa? Thật là tội nợ!
Chúa cũng chẳng che chở nổi ông cụ đâu. - Miron Grigorievich đứng dậy đón ông
thông gia, mới có mấy ngày mà lão sút hẳn đi. - Mắc mấy tấm huân chương lên
ngực, đội cái mũ có quân hiệu vào là ra đường. Trừ phi dùng vũ lực tước của ông
cụ mới xong. Cứ như đã trở thành con nít ấy, chẳng còn hiểu phải trái là gì
nữa. Thôi đành để cho cụ giỡn chơi thoải mái một chút, cụ cũng chẳng còn sống
được bao lâu nữa đâu… Nhưng thế nào, nhà ta ở bên ấy như thế nào? Chúng tôi
nghe tin hình như bọn phản Chúa ấy, chúng nó có giở trò với thằng Grisaka có
phải không?
Mụ Likinhitna đến ngồi trước mặt hai lão Cô- dắc, chõ
miệng vào, giọng đau khổ.
- Còn nhà chúng tôi, ông thông gia ạ, thật là tai vạ…
Chúng nó đã lấy đi mất bốn con ngựa, chỉ còn một con ngựa cái với một con ngựa
non mới xén bờm. Thế là làm chúng tôi khánh kiệt hết rồi.
Miron Grigônevich nheo mắt như người nhằm bắn rồi nói với
cả một nỗi căm hờn sôi sục, giọng đổi khác hẳn:
- Vì đâu mà cuộc đời bị tan vỡ? Kẻ nào đã gây ra tất cả
nông nỗi nầy? Chính là cái chính quyền quỉ quái ấy? Ông thông gia ạ, muôn tội
đều do nó gây ra mà thôi. Làm cho mọi người đều trở nên cá mè một lứa, như vậy,
mà coi là một việc làm thông minh hay sao? Anh định moi lấy linh hồn của tôi
đi, tôi đồng ý làm sao được? Tôi đã phải làm lụng quần quật suốt một đời, mệt
đứt cả hơi, khản cả tiếng, đổi giọt mồ hôi lấy hạt thóc để rồi phải sống cũng
chỉ như những kẻ không buồn động ngón tay để tìm cách thoát khỏi cái cảnh khố
rách áo ôm hay sao? Không thể như thế được, chờ ít bữa rồi sẽ biết. Cái chính
quyền nầy nó muốn cắt mạch máu của những người tằn tiện làm ăn. Cứ như thế nầy
thì tay chân sẽ bần thần ra: bây giờ thì còn kiếm tiền làm gì nữa? Vì ai mà lao
động nữa bây giờ? Hôm nay kiếm được ít nhiều để rồi ngày mai bị cướp sạch… Còn
chuyện nầy nữa, ông thông gia ạ: hôm nọ tôi có một ông bạn đồng ngũ cũ ở
Mrykhin đến chơi, có nói chuyện là… mặt trận hiện nay đang ở gần sông Dones.
Nhưng không biết liệu có giữ vững được hay không? Điều nầy là tôi nói thật, chỉ
những bà con tin cậy được tôi mới nói. Chúng ta cần phải giúp đỡ anh em ta
những người hiện giờ đang ở bên kia sông Dones…
- Nhưng làm thế nào mà giúp bây giờ? - Ông Panteley
Prokofievich kinh hãi, giọng nói không hiểu sao thít hẳn đi…
- Làm thế nào mà giúp à? Lật đổ cái chính quyền nầy đi!
Lật đổ nó đi, cho nó lại cút về với cái tỉnh Tambob của chúng nó. Để cho nó cứ
ở đấy mà chơi cái trò bình đẳng với bọn mu- gích. Toàn bộ gia tài điền sản, cho
đến cái kim sợi chỉ, tôi sẽ đem hiến hét, cốt sao tiêu diệt được cái bọn thù
địch nầy. Ông thông gia ạ, phải làm cho chúng nó mở mắt ra mới được! Bây giờ đã
đến lúc rồi? Nếu không sẽ muộn mất… ông bạn đồng ngũ của tôi có bảo rằng ngay
trong hàng ngũ chúng nó, bọn Cô- dắc cũng đã sôi sục lên rồi. Chỉ cần đồng tâm
hiệp lực bắt tay vào! - Đến đây, giọng lão trở nên lắp bắp và chuyển sang rất
nhanh, rất khẽ - Các đơn vị của chúng nó đã tiến qua rồi, thử hỏi ở đây còn lại
được bao nhiêu? Vài thằng có thể đếm trên đầu ngón tay! Trong các thôn chỉ còn
lại những thằng chủ tịch… Béng cái đầu chúng nó đi thì chỉ là chuyện dễ như trở
bàn tay… Còn như ở Vosenskaia thì có gì đâu… Mọi người đồng tâm nhất trí ập tới
là chúng nó sẽ tan ra từng mảnh ngay! Chúng ta đoàn kết lại thì không thể nào
thất bại được đâu… Việc nầy tin tưởng được đấy, ông thông gia ạ!
Ông Panteley Prokofievich đứng dậy.
Ông sợ hãi cân nhắc từng tiếng, khuyên lão kia:
- Ông phải cẩn thận đấy, nhỡ trượt
chân một cái rồi lại mang hoạ vào thân! Kể ra bọn Cô- dắc cũng đang hoang mang
thật, nhưng quỉ quái nào biết được chúng nó sẽ ngả về bên nào. Thời buổi đang
như thế nầy, những chuyện như thế không thể bạ ai cũng nói được đâu… Bọn trẻ
thì hoàn toàn không thể nào hiểu được chúng nó nữa, chúng nó sống cứ như chơi
trò ú tim ấy. Đứa thì rút lui, đứa thì ở lại. Khó sống quá! Địa ngục chứ không
còn là cuộc đời nữa!
Thôi đừng lo lắng nghi ngại làm gì,
ông thông gia ạ! - Miron Grigorievich mỉm cười có vẻ kẻ cả. - Tôi không nói
khác với ý ông đâu. Con người ta thì cũng như đàn cừu ấy: con cừu đực đầu đàn
đi đâu thì cả đàn cùng theo. Vì thế cần phải chỉ cho chúng nó thấy con đường!
Cần phải vạch mắt cho chúng nó thấy rõ về cái chính quyền nầy. Không có mây thì
làm gì có sấm? Tôi sẽ nói thẳng cho bọn Cô- dắc thấy rằng: phải bạo động mới
được. Nghe đồn chúng nó đã ra lệnh treo cổ tất cả dân Cô- dắc lên thì phải.
Việc nầy không biết thực hư như thế nào?
Mặt Miron Grigorievich đỏ rực lên
qua những điểm tàn hương.
- Thế nào, tình hình rồi sẽ ra sao
đây, ông Prokofit? Có tin chúng nó đã bắt đầu đưa con nhà người ta ra xử bắn
rồi đấy… Sống như thế nầy thì còn ra sao nữa! Ông xem; chỉ có mấy năm mà tất cả
đã đổ sụp hết! Dầu hoả chẳng có, diêm thì không, gần đây nhà Mokhov chỉ còn bán
có kẹo… Còn chuyện trồng trọt thì sao? So với trước kia thì bay giờ gieo được
bao nhiêu? Ngựa thì bị chúng nó dắt đi mất rồi. Đấy, chúng nó dắt mất của tôi,
lại dắt của cả các bà con khác. Bắt ai đi mà chẳng biết bắt, nhưng ai sẽ nuôi,
sẽ gây thêm bây giờ? Trước kia, hồi tôi còn thanh niên, trong nhà chúng tôi
nuôi tới tám mươi sáu con ngựa. Có lẽ ông còn nhớ đấy chứ? Có những con chạy
rất hay, ngựa của bọn Kalmys cũng không thể đuổi kịp được! Hồi ấy nhà tôi có
một con ngựa hồng, trên trán nó có hình một ngôi sao. Tôi đã từng cưỡi nó đuổi
theo và dẫm chết những con thỏ rừng. Tôi không cần đóng yên, cứ thế cưỡi ra
đồng cỏ làm cho thỏ rừng sợ chạy ra khỏi các bụi rậm, nhưng chạy chưa được một
trăm xa- gien đã bị tôi cho con ngựa dẫm chết rồi. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ
như in. - Một nụ cười sôi nổi hiện lên trên mặt Miron Grigorievich. - Có lần
tôi cho con ngựa chạy tới chỗ những cái cối xay gió, chợt thấy một con thỏ chạy
thẳng tới trước mặt tôi. Tôi bèn rẽ cương đuổi theo. Nhưng con thỏ chạy ngoằn
ngoèo xuống dốc rồi lao sang bên kia sông Đông. Hôm ấy lại đúng là ngày lễ tống
tiễn mùa đông. Tuyết trên sông Đông bị gió quét, trơn quá. Tôi cứ thúc ngựa
đuổi theo con thỏ ấy, nhưng con ngựa trượt chân một cái, khuỵu ngã cả bốn vó,
không ngóc đầu dậy được nữa. Tôi sợ đến run cả người, bèn tháo lấy bộ yên, chạy
về nhà "Cha ơi, con đuổi theo con thỏ, cưỡi ngã chết mất con ngựa
rồi", "Nhưng đã đuổi được chưa?" - "Chưa". - Đóng ngay
yên cho con Huyền, đuổi đi, đồ chó đẻ? "Thời xưa như thế đấy? Con người
được sống như thế đấy, trẻ nhỏ được nuông chiều như thế đấy. Ngựa chết chẳng
tiếc, chỉ cần đuổi lấy con thỏ. Con ngựa giá hàng trăm rúp, còn con thỏ bất quá
một hào… Chà, như vậy thì còn nói gì nữa?
Trước khi đến nhà lão thông gia, ông
Panteley Prokofievich vốn đã hoang mang rồi, nhưng ở bên ấy về, đầu óc ông lại
càng rối như bòng bong, nhưng lo cùng phiền. Bây giờ ông đã cảm thấy hoàn toàn
rõ ràng rằng đang có những cái gì xa lạ và thù địch với ông đang nhằm vào cuộc
đời của ông mà tấn công. Trước kia ông điều khiển công việc làm ăn cũng như cả
cuộc sống của ông như cưỡi một con ngựa thuần chạy trong một cuộc đua vượt vật
cản, nhưng bây giờ cuộc đời lại lồng lộn lôi ông đi như một con ngựa cuồng chạy
đã sùi bọt mép. Ông không điều khiển được nó nữa, bất giác đành phải để cho
lưng mình bị lắc theo trong khi cái lưng của con ngựa hết trẹo sang bên nọ lại
trẹo sang bên kia, và bây giờ ông chỉ có thể cố gắng một cách thảm hại để giữ
cho mình khỏi ngã là tốt.
Tương lai mù mịt như bị phủ một làn
sương. Hồi Miron Grigorievich còn là một nhà phú hộ giầu nhất vùng có phải đã
xa xưa gì lắm đâu. Thế mà ba năm nay lão đã kiệt quệ. Kẻ ăn người làm bỏ đi cả,
diện tích gieo trồng giảm đến chín mươi phần trăm, phải đem bò đem ngựa trong
chuồng đi bán lấy nắm giấy bạc mất giá, lên lên xuống xuống như say rượu. Tất
cả cứ như một cơn ác mộng. Tất cả cứ trôi qua như một đám mây mù trên mặt sông
Đông. Chỉ còn lại ngôi nhà với ban- công vẽ hoa và những đường gờ chạm trổ bạc
mầu dưới mái hiên làm kỷ niệm. Bộ râu đỏ như lông cáo của lão Korsunov đã bạc
quá sớm. Rồi những sợi bạc lan đến hai bên thái dương và bám chắc ở đấy. Đầu
tiên các món tóc bạc chỉ xuất hiện từng túm như cỏ gai trên vùng đất cát, nhưng
sau đã áp đảo hẳn cái mầu đỏ xưa kia và màu muối trắng đã hoàn toàn làm chủ hai
bên thái dương. Đến nay màu bạc đã phát triển theo khoảng tóc lơ thơ trên đỉnh
đầu và đã chiếm hết phần trước trán. Ngay trong con người của Miron
Grigorievich đang có hai động lực vật lộn nhau một cách điên cuồng: dòng máu
quật cường của những con người tóc đỏ vẫn thúc giục lão làm việc, bắt buộc lão
phải gieo hạt, làm nhà kho, sửa chữa nông cụ, làm giàu. Nhưng cái âu sầu chán
ngán vẫn ngày càng hay đến thăm lão nhiều hơn. "Cũng chẳng kiếm chác làm
gì nữa. Bỏ mẹ mất thôi", và cái màu của sự thẫn thờ, ngán ngẩm, ngày càng
làm cho mặt hắn nhợt nhạt ra như mặt người chết. Hai bàn tay méo mó, nhìn đến
phát sợ của lão không còn có thể cầm búa cầm cưa như xưa nữa, mà chỉ lười nhác
nằm thuỗn trên đầu gối, và chỉ ngọ nguậy những ngón tay lao động đến thành tàn
tật. Tuổi già đã đem lại cho lão những ngày bất hạnh. Ruộng đất bắt đầu làm cho
lão cảm thấy xấu hổ. Mùa xuân lão ra đồng chỉ do thói quen và vì nhiệm vụ, cứ
như đến với một người vợ mà lão không yêu nữa. Ngày nay, lãi không còn làm lão
vui, và lỗ không còn làm lão buồn như năm xưa nữa… Hồng quân đến lấy ngựa lão
cũng chẳng buồn ló mặt ra. Hai năm trước đây, có lần chỉ vì một chuyện không có
gì đáng kể, vì mấy con bò dẫm nát đống cỏ mà thiếu chút nữa lão cầm chàng nạng
đánh vợ. Hàng xóm láng giềng bàn ra tán vào về lão: "Lão Korsunov hốc lắm
quá phễnh cả bụng, bây giờ phải mửa bớt ra rồi".
Ông Panteley Prokofievich vừa khập
khiễng về tới nhà đã nằm lăn ra giường, trong lòng cồn cào nhức nhối, trong
họng lờm lợm buồn nôn. Ăn tối xong, ông bảo bà lão lấy cho ít dưa hấu muối, cố
ăn hết được một miếng, rồi khập khiễng mãi mới tới được chỗ bếp lò.
Sáng hôm sau ông không dậy được, cứ
nằm bất tỉnh, người nung nấu trong cơn sốt bệnh thương hàn, chung quanh xảy ra
chuyện gì cũng không còn biết nữa. Môi ông bị máu xông lên nóng rực, nứt nẻ,
mặt vàng như nghệ, lòng trắng con mắt như láng một lớp men xanh. Mụ Drodikha
đến chích huyết cho ông, lấy ở mạch máu trên tay ông hai đĩa máu đen như hắc
ín. Nhưng ông vẫn không tỉnh, chỉ thấy mặt càng xanh nhợt và cái miệng càng mở
hoác, chìa những cái răng đen sì, thở lấy thở để với những tiếng lọc ọc trong
họng.
--- ------ ------ ------ -------
1 Tức là
Treka, hay Uỷ ban đặc biệt, chuyên trấn áp các hành động phá hoại, phản cách
mạng. (ND).
2 Chừng 10
cm (ND).
3 Theo
phong tục người Nga, không riêng bố mẹ chồng và bố mẹ vợ gọi nhau bằng
"thông gia", mà cả ông bà, con cái trong hai gia đình cũng đều gọi
nhau là "thông gia" cả (ND).
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 140
Đến cuối tháng Giêng, Kotliarov nhận
được giấy triệu tập của Uỷ ban Quân sự Cách mạng Quân khu, phải lên Vosenskaia.
Trù tính đến tối sẽ về. Mọi người đang chờ anh. Trong ngôi nhà vắng tanh của
lão Mokhov, Miska Kosevoi ngồi trong phòng làm việc trước kia của lão chủ, sau
cái bàn giấy rộng bằng một chiếc giường đôi.
Olsanov, anh chàng công an được
chính quyền Vosenskaia phái xuống, đang nửa ngồi nửa nằm trên bậu cửa sổ, vì
trong phòng chỉ có độc một chiếc ghế dựa. Anh ta vừa lặng lẽ hút thuốc, vừa nhổ
những bãi nước bọt đi rất xa, rất trúng, mỗi lần lại nhổ đúng vào một viên gạch
men khác trên lò sưởi. Bên ngoài các khung cửa sổ thấp thoáng cái ánh sáng mờ
mờ của một đêm nhiều sao. Không khí lặng tờ cái yên lặng dội tiếng của một ngày
băng giá. Miska ký tên vào tờ biên bản cuộc khám xét ở nhà Stepan Astakhov,
chốc chốc lại đưa mắt ra cửa sổ nhìn những cành cây phong bị sương muối bám vào
nom trắng như đường.
Có tiếng ủng dạ dẫm nhẹ nhàng lạo
xạo của một người đang đi trên thềm.
- Về rồi đấy.
Miska đứng dậy. Nhưng từ ngoài hành
lang vẳng vào những tiếng bước chân lạ, tiếng ho cũng lạ. Grigori bước vào,
trong chiếc áo ca- pốt cài hết cả khuy, mặt đỏ rực vì rét, sương muối bám trắng
xoá trên lông mày và trên ria.
- Mình vào sưởi một chút. Cậu khỏe
chứ!
- Cậu vào đây có điều kêu ca à?
- Chẳng có gì kêu ca đâu. Mình đến
chuyện phiễu chơi, nhân tiện nói với cậu đừng cắt nhà mình đi vận tải, vì mấy
con ngựa nhà mình đều đau chân hết.
- Còn bò? - Miska cố giữ bình tĩnh,
mắt nhìn hiêng hiếng.
- Bò thì kéo thế nào được? Đường
trơn lắm.
Có người bước những bước rất dài lên
thềm, chân đi như muốn dẫm bật những tấm ván sàn đông cứng vì tiết đại hàn.
Kotliarov đi xộc vào trong phòng với cái áo choàng bằng dạ thô và cái khăn bịt
đầu quấn theo kiểu đàn bà. Hơi lạnh toả từ người anh ta mát mát, kèm với mùi
rơm và mùi khét của thuốc lá.
- Rét cứng cả người, rét cứng cả
người, các cậu ạ! Chào cậu, cậu Grigori? Đêm hôm khuya khoắt có việc gì mà mò
đến thế? Ma quỉ nào phát minh ra kiểu áo choàng như thế nầy, gió cứ lọt vào như
cái rây ấy?
Anh cởi áo choàng ra và chưa kịp
treo nó lên đã nói:
- Chà, thế là mình đã được gặp đồng
chí chủ tịch. - Kotliarov đi tới gần chiếc bàn, mặt rạng rỡ, hai con mắt long
lanh. Anh thấy trong người ngứa ngáy, không thể không nói ngay những điều đang
nghĩ trong bụng. - Mình vào phòng làm việc của đồng chí ấy. Đồng chí ấy bắt tay
mình rồi bảo: "Ngồi xuống đây, đồng chí. Chủ tịch Quân khu mà như thế đấy.
Nhưng trước kia là một tay như thế nào? Một thiếu tướng! Đến trước mặt nó là cứ
đứng cứng người ra! Đấy, cái chính quyền yêu quí của chúng ta như thế đấy? Mọi
người đều bình đẳng cả!
Grigori không hiểu nổi vẻ mặt sôi
nổi, tràn trề hạnh phúc, những bước chân đi lại lăng xăng bên cạnh cái bàn, và
những lời nói phấn khởi của Kotliarov. Chàng hỏi:
- Anh có gì mà sung sướng thế,
Kotliarov?
- Sao lại "có gì"? - Cái
cằm của Kotliarov rung rung với vết lún sâu ở giữa. - Người ta coi mình như một
con người mà mình không cảm thấy sung sướng hay sao? Người ta bắt tay mình, như
với một người ngang hàng, mời mình ngồi…
- Trong thời gian gần đây, bọn tướng
tá cũng đã bắt đầu mặc những chiếc sơ- mi may bằng túi bột rồi đấy. - Grigori
đưa cạnh bàn tay lên vuốt gọn hàng ria, nheo mắt nói. - Mình đã trông thấy một
thằng đeo lon vẽ bằng bút chì hoá học. Chúng nó cũng chìa tay bắt tay anh em
Cô- dắc.
- Bọn tướng tá làm như thế là vì bị
bắt buộc, còn đằng nầy là do bản chất. Có khác chứ?
- Chẳng có khác gì cả! - Grigori lắc
đầu.
- Theo ý cậu thì cả chính quyền cũng
như nhau hay sao? Thế thì người ta chiến đấu cho cái gì? Cả cậu nữa, cậu cũng
đã chiến đấu cho cái gì? Thế mà cậu lại bảo "cũng như nhau"?
- Tôi đã chiến đấu cho bản thân tôi
chứ không phải cho bọn tướng tá. Thành thật mà nói thì đối với tôi, cả bên nầy
lẫn bên kia đều không hợp ý tôi cả.
- Vậy thì ai hợp ý cậu?
- Chẳng ai cả?
Olsanov nhổ vút một bãi nước bọt từ
đầu nầy phòng sang đầu kia phòng, phá lên cười đồng tình. Có lẽ cũng chẳng có
ai hợp ý gã.
- Hình như trước kia cậu không nghĩ
như thế nầy thì phải.
Miska đã nói câu đó với mục đích
châm chọc Grigori, nhưng trên nét mặt Grigori không tỏ ra có chút gì khó chịu
trước ý nhận xét ấy.
- Cả mình lẫn cậu, hai chúng mình
đều nghĩ khác nhau về tất cả…
Thật ra Kotliarov đã muốn tống tiễn
Grigori về rồi, để có thể kể cho Miska nghe tỉ mỉ hơn về chuyến công tác của
mình và về cuộc nói chuyện của mình với đồng chí chủ tịch, nhưng câu chuyện đã
bắt đầu làm anh sôi sục. Đầu óc anh vẫn còn giữ nguyên ấn tượng của những điều
mắt thấy tai nghe trên Quân khu, vì thế anh lao ngay vào tranh luận:
- Cậu đến đây định làm mê hoặc đầu
óc chúng mình phải không, Grigori? Ngay cậu cũng không biết cậu đang muốn gì à?
- Tôi không biết - Grigori sẵn sàng
thú nhận.
- Về chính quyền nầy, cậu định trách
nó những điều gì?
- Nhưng tại sao anh lại bênh vực nó
hăng đến như thế? Anh đã đỏ ra từ bao giờ vậy?
- Chúng ta sẽ không động đến vấn đề
đó làm gì cả. Hiện giờ đang như thế nào thì cứ nói chuyện với nhau như thế đã.
Cậu có hiểu không? Cậu đừng xúc phạm nhiều quá đến chính quyền vì mình là chủ
tịch, vả lại mình tranh cãi với cậu ở đây thì cũng không đúng chỗ.
- Thế thì thôi vậy. Mà cũng đã đến
lúc tôi phải về rồi. Tôi đến đây là vì chuyện dân công vận tải. Còn cái chính
quyền của anh thì mặc anh muốn thế nào thì muốn, dù sao nó cũng chỉ là một cái
chính quyền vứt đi. Anh hãy bảo thẳng cho tôi biết rồi chúng ta sẽ cắt đứt câu
chuyện: nó đem lại cho chúng ta, cho người Cô- dắc những gì?
- Những người Cô- dắc nào? Cô- dắc
cũng năm bảy hạng.
- Tất cả mọi người Cô- dắc.
- Tự do, quyền lợi… Nhưng cậu hãy
hượm! Hãy hượm đã, hình như cậu còn muốn nói gì nữa thì phải…
- Năm một nghìn chín trăm mười bảy
người ta cũng đã nói như thế rồi, bây giờ thì phải nặn ra một cái gì mới mẻ mới
được? - Grigori ngắt lời Kotliarov. Đem lại ruộng đất à? Tự do à? Bình đẳng à?
Ruộng đất của chúng ta thì chỉ sợ không làm hết. Tự do thì không thể đòi hỏi
thêm được nữa, nếu không sẽ tha hồ giết nhau ngoài phố. Trước kia tự chúng mình
bầu lấy các ataman, nhưng bây giờ đã có quan trên phái xuống. Cái anh chàng
chìa tay bắt tay anh làm anh sướng rơn lên ấy, ai đã bầu nó ra? Đối với bà con
Cô- dắc thì cái chính quyền nầy sẽ không đem lại được gì ngoài sự phá sản?
Chính quyền mu- gích thì chỉ bọn mu- gích mới cần đến mà thôi Nhưng chúng ta
cũng không cần đến bọn tướng tá làm gì. Cộng sản ư, tướng tá ư, tất cả đều cùng
là một cái tròng.
- Bọn Cô- dắc có của thì không cần
đến chính quyền nầy, nhưng còn những người khác thì sao? Đầu óc gì mà hồ đồ!
Trong thôn vẻn vẹn có ba nhà giàu, ngoài ra toàn là dân nghèo. Còn anh em công
nhân nữa, cậu bỏ đi đâu? Không, bọn mình không thể nghĩ ngợi theo cái kiểu của cậu
được! Cậu phải bắt cái bọn giàu nhả trong cái miệng quen ăn no uống say của
chúng một miếng cho những người đang đói. Nếu không chịu cho thì bọn mình sẽ
dứt thịt chúng nó ra! Chúng nó đã hết cái thời làm chúa đất rồi? Trước kia
chúng nó cướp đoạt ruộng đất…
- Không phải là cướp đoạt, mà là
chiến đấu dành được! Có lẽ chính vì tổ tiên chúng ta đã tưới máu xuống cho nó
mà chất đất đen của chúng ta mới phì nhiêu như thế…
- Đằng nào cũng thế cả, nhưng cần
phải chia sẻ cho những người thiếu thốn. Bình đẳng là phải bình đẳng thật sự!
Còn cậu thì chỉ nói không như cái máy chạy không tải. Gió chiều nào cậu xoay
chiều nấy, cứ như cái mũi tên chỉ gió trên mái nhà. Những con người như cậu thì
chỉ khuấy đục cuộc sống!
- Thôi đi, anh đừng có cái giọng
chửi mắng người ta như thế nữa! Chỉ vì tình bạn cũ nên tôi mới đến đây nói ra
những điều đang sôi sục trong lòng. Anh bảo bình đẳng… Luận điệu ấy chỉ để bọn
bolsevich làm mồi nhử những con người tối tăm ngu dốt mà thôi. Thả ra những lời
bùi tai để người ta mắc vào như con cá đớp phải mồi ấy! Bình đẳng ở chỗ nào?
Anh cứ nhìn Hồng quân mà xem: họ vừa kéo qua thôn nhà đấy. Trung đội trưởng thì
đi ủng bằng da cơ- rô- mê, còn binh bét thì chỉ có xà cạp. Tôi đã trông thấy
một tay chính uỷ mặc toàn đồ da, cả quần lẫn áo, còn người khác thì không có
lấy đôi giầy da. Cái chính quyền nầy vừa mới đến đây năm nay mà đã như thấy rồi
đó, thử hỏi bám rễ sâu xuống rồi thì sẽ lấy đâu ra bình đẳng? Ngoài mặt trận họ
đã nói: "Tất cả chúng ta rồi sẽ bình đẳng… Tiền lương của chỉ huy cũng như
của chiến sĩ sẽ đều như nhau!"… Không! Toàn là mồi câu tuốt! Nếu bảo địa
chủ là tệ hại thì bọn hạ tiện lên làm địa chủ sẽ còn tệ hại gấp trăm! Dù cho
bọn sĩ quan xưa kia vô dụng tồi tệ đến đâu, nhưng một thằng tốt đen mới ngoi
lên làm sĩ quan chỉ biết ra lệnh cho người ta nằm xuống và chết đi thì sẽ không
thể tìm ra một cái gì tồi tệ hơn? Nó cũng chỉ có trình độ học thức như một
thằng Cô- dắc thường, trước kia chỉ học nghịch xoắn đuôi bò, nhưng anh xem đấy,
leo lên làm ông nọ bà kia là bị ngay quyền hành làm cho mê mẩn và sẵn sàng lột
da người khác ra, cốt sao ngồi vững được trên cái ghế của mình.
- Những lời cậu nói ra là lời của
một thằng phản động! - Kotliarov không ngước mắt lên nhìn Grigori, nói giọng
lạnh như tiền. - Cậu không thể lôi mình đi theo luống cày của cậu được đâu,
nhưng mình cũng không muốn đòi hỏi quá cao ở cậu. Đã lâu mình không gặp cậu và
mình nói thẳng không cần giấu giếm làm gì là cậu đã đổi khác lắm rồi. Cậu là
một kẻ thù của chính quyền Xô- viết!
- Tôi không ngờ anh lại nói như thế…
Hễ tôỉ có những điều suy nghĩ về chính quyền thì tôi là phản động à? Là
"Kadet" à?
Kotliarov cầm lấy túi thuốc trong
tay Olsanov, nói bằng một giọng lúc nầy đã ôn tồn hơn:
- Mình làm thế nào mà thuyết phục
được cậu? Những điều nầy con người ta dùng óc thì có thể tìm ra, dùng trái tim
thì có thể tìm ra! Mình nói năng không được rõ ràng cặn kẽ vì mình kém văn hoá,
chữ nghĩa ít quá. Nhưng có nhiều điều mình mò mẫm cũng ra…
- Thôi chấm dứt đi! - Miska tức tối
kêu lên.
Ba người cùng ra khỏi trụ sở của ban
chấp hành. Grigori chẳng nói gì cả. Kotliarov thấy mọi người đều ngậm tăm,
trong lòng hết sức nặng nề. Anh không giải thích được sự thay đổi của người
khác vì anh là một con người khác hẳn và đứng trên một nấm kurgan khác để nhìn
cuộc đời. Lúc chia tay Kotliarov nói:
- Các ý nghĩ vừa nãy cậu hãy chôn
sâu trong lòng. Nếu không mình sẽ tìm ra biện pháp đối phó với cậu, dù cậu với
mình là chỗ quen thuộc và Petro bên nhà là bố đỡ đầu của con mình! Không cần
phải làm cho tinh thần bà con Cô- dắc dao động thêm, như thế nầy họ cũng đủ dao
động rồi. Cậu đừng có đứng ngáng giữa đường bọn mình. Bọn mình sẽ dẫm qua cho
mà xem! Thôi tạm biệt!
Grigori ra về. Chàng có cảm giác như
mình đang bước qua một ngưỡng cửa và có những điều trước đây còn có vẻ mơ hồ
bỗng nhiên hiện ra một cách cực kỳ rõ ràng trước mắt chàng. Thật ra chàng mới
chỉ nói ra trong một phút nóng nảy những điều ùn ùn chất trong đầu óc chàng và
đang tìm lối thoát. Thêm vào đó, chàng lại đang đứng chênh vênh ở chỗ giáp ranh
giữa hai động lực đấu tranh với nhau, hai động lực mà chàng phủ nhận cả hai, vì
thế trong lòng chàng đã nảy ra một cảm giác bực bội nhức nhối, không lúc nào
nguôi.
Miska và Kotliarov cùng đi với nhau.
Kotliarov lại bắt đầu kể về cuộc gặp gỡ với đồng chí chủ tịch Quân khu, nhưng
anh vừa nói thì cảm thấy ngay rằng câu chuyện đã mất hết màu sắc và không còn ý
nghĩa gì nữa. Anh định lấy lại cái tinh thần phấn khởi lúc nãy mà không được:
một cái gì đó đang đứng ngáng ngay trước mặt anh, trở ngại không cho anh sống
một cách vui vẻ, không cho anh thở thoải mái bầu không khí lạnh giá, nhạt thếch
và nhẹ lâng nầy. Vật trở ngại đó là Grigori, là câu chuyện vừa nói với chàng.
Nhớ lại chuyện đó, anh nói bằng một giọng đầy căm hờn:
- Trong cuộc đấu tranh, những đứa
như thằng Griska chỉ làm vướng chân. Thằng khốn nạn! Nó không muốn giạt vào bờ
mà cứ bập bềnh như đống cứt bò giữa hố nước trên mặt băng. Nó mà còn vác mặt
đến lần nữa thì mình sẽ tống cổ đi! Còn nếu nó mở miệng tuyên truyền thì chúng
ta sẽ kiếm ra cho nó một cái xà- lim… Còn cậu Miska, thế nào? Công việc ra sao?
Miska chỉ vặc một tiếng thay cho câu
trả lời, bụng dạ còn đang bận với một việc khác.
Hai người đi hết một đoạn phố. Miska
quay mặt nhìn Kotliarov, một nụ cười gượng gạo thoáng trên cặp môi mọng như môi
con gái:
- Anh Kotliarov ạ, chính trị thật là
một của độc địa, mẹ nó chứ? Nói gì thì nói, chứ động đến nó là máu lại sục lên
ngay. Đấy, vừa bắt đầu nói chuyện với thằng Griska… mà nó với tôi thì như cây
cùng gốc, nó với tôi cùng học một trường, cùng đi tán gái… cứ như anh em ruột…
Thế mà nó vừa mở miệng là tôi đã thấy tức tối, trong ngực cứ như có cả một quả
dưa hấu mỗi lúc một nở to ra. Tôi cứ run bán người lên! Có cảm giác như nó đến
lấy mất cái gì quí nhất của mình. Quá là đến nhà mình mà cướp phá! Nói chuyện
như thế nầy thì có thể đi đến đâm chết nhau được đấy. Trong lúc nầy, trong cuộc
chiến tranh nầy, sẽ không có thông gia, không có anh em gì cả. Nó đã lộ rõ chân
tướng như thế thì được rồi? - Miska không ghìm nổi cơn tức giận, giọng run lên.
- Nó phỗng tay trên mất của tôi một con bé, tôi cũng không thấy tức bằng những
lời lẽ như thế. Tôi điên lên rồi đây?
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 141
Tuyết chưa rơi xuống đất đã tan ngay
trên lưng chừng trời. Đến giữa trưa, những mảnh tuyết trôi đổ ầm ầm xuống những
khe núi.
Cánh rừng bên kia sông Đông lao xao.
Thân của những cây sồi tan hết tuyết hiện lên đen sì. Những giọt nước nhỏ trên
cành xuống, xuyên qua lớp tuyết, ngấm thẳng tới mặt đất đã được sưởi ấm nhờ hơi
nóng của những lớp lá rụng đang thối rữa. Mùa xuân đã bắt đầu làm mê mẩn lòng người
với mùi tuyết tan ngây ngất. Các vườn cây nặc mùi anh đào. Trên sông Đông đã
xuất hiện những hố nước bẩn.
Băng ở gần bờ đã tan, nước trong vắt
màu xanh lá cây lấn lên quanh viền các hố nước trên băng.
Đoàn xe vận tải chở một số đạn dược
đi sông Đông đến thôn Tatarsky thì phải thay xe. Các chiến sĩ Hồng quân đi áp
tải là những tay rất hắc. Người đội trưởng ở lại bắm chặt lấy Kotliarov và nói
toạc móng heo với anh: "Tôi sẽ ngồi lại đây với anh, nếu không, anh sẽ
thừa cơ trốn mất!" rồi phái các chiến sĩ khác đi lấy xe. Cần phải kiếm cho
được bốn mươi bảy chiếc xe tải, mỗi chiếc hai con ngựa.
Emelian đến nhà Melekhov:
- Nhà ta đóng xe ngay, chở đạn lên
Bokovskaia!
Petro làu bàu, hàng ria chẳng buồn
động đậy:
- Hai con ngựa đực đau chân cả rồi,
còn con ngựa cái thì hôm qua tôi vừa đưa thương binh đi Vosenskaia về.
Emelian chẳng nói chẳng rằng, đi
luôn xuống chuồng ngựa.
Petro không kịp đội mũ, nhảy bổ ra
theo ngay, vừa chạy vừa gọi:
- Nầy bác có nghe thấy không? Hượm
cái đã… Có miễn cho tôi được lần nầy không?
- Anh có thể bỏ cái trò ngớ ngẩn ấy
được rồi chứ? - Emelian nhìn Petro bằng cặp mắt rất nghiêm nghị rồi nói thêm -
Tôi muốn vào xem mấy con ngựa nhà các anh đau chân đau cẳng như thế nào. Có
phải cố ý dùng búa đập vào khớp xương nó không? Anh đừng hòng che mắt tôi! Anh
được trông thấy bao nhiêu đống phân ngựa thì tôi đã được trông thấy ngần ấy con
ngựa rồi. Thôi đóng xe vào! Ngựa cũng được, bò cũng được.
Grigori đi vận tải. Trước lúc ra đi,
chàng chỉ kịp chạy vào bếp, hôn hai con rồi vội vã nói:
- Bố sẽ mang quà về cho, nhưng hai
con ở nhà không được hư, phải vâng lời mẹ. - Rồi chàng quay sang nói với Petro
- Ở nhà thấy tôi đi lâu không về đừng có mong. Tôi sẽ không đi xa đâu. Nếu bắt
đi quá Bokovskaia, tốt sẽ quẳng bò đấy rồi quay về. Nhưng tôi sẽ không về thôn
mà sẽ qua Xinghin, ở tạm bên nhà đì ít lâu… Còn anh, anh Petro, anh cố sang
chơi với tôi nhé… Nếu phải ở lại đây tôi cứ thấy sợ sợ thế nào ấy, - nói đến
đây chàng cười nhạt. - Thôi chúc cả nhà khỏe mạnh! Nataska, em đừng buồn nhé!
Bên cạnh cửa hiệu Mokhov dùng làm
kho lương thực, người ta chuyển những hòm đạn từ xe nọ sang xe kia rồi lên
đường.
"Chúng nó đang chiến đấu để
được sống một cuộc đời sung sướng hơn, còn chúng mình thì cũng đã chiến đấu để
dành lấy một cuộc sống tươi đẹp cho chúng mình. - Nửa ngồi nửa nằm trên chiếc
xe trượt tuyết, cái áo choàng bằng dạ thô kéo lên che kín đầu, Grigori cứ quẩn
quanh với một ý nghĩ ám ảnh chàng theo kịp những bước chân lững thững, lắc lư
của hai con bò. - Trên đời nầy đâu phải chỉ có một chân lý duy nhất. Rõ ràng là
con người hà hiếp lẫn nhau, ăn thịt nhau… Thế mà mình cứ đi tìm kiếm một cái
chân lý ngớ ngẩn. Nhức nhối trong lòng, nghiêng bên nọ, ngả bên kia… Nghe nói
xưa kia vùng sông Đông đã từng bị dân Tarta đến áp bức, chiếm đất, bắt làm tôi mọi
cho chúng nó. Bây giờ đến lượt nước Nga. Không! Mình sẽ không nhẫn nhục chịu
nhịn cho chúng nó làm gì thì làm! Chúng nó là những kẻ ngoại lai, đối với mình
cũng như với tất cả mọi người Cô- dắc. Bây giờ anh em Cô- dắc đang tỉnh ra. Họ
đã bỏ mặt trận, nhưng bây giờ thằng nào cũng đều như mình cả. Nhưng chao ôi?
Muộn mất rồi?"
Các vật ở gần: những bụi cỏ dại trên
đường, những gò đống mấp mô gợn sóng, những cái khe trũng cây mọc lồm xồm cứ
chập chờn trôi từ trước mặt lại, nhưng xa hơn nữa, cánh đồng tuyết cứ quay lộn,
và như luồn từ dưới hai đòn trượt tuyết về phía nam. Con đường dài ra vô tận,
đơn điệu một cách nặng nề và cứ ru con người vào giấc mộng.
Grigori lười nhác quát hai con bò. Chàng mơ màng trở mình
bên cạnh những cái hòm buộc dây, hút điếu thuốc rồi rúc mặt vào đống rơm thơm
phức mùi cỏ sông Đông, mùi khói ngọt ngào của một ngày tháng Sáu và ngủ thiếp
đi lúc nào không biết. Chàng mơ thấy mình cùng với Acxinhia đi trên một cánh
đồng lúa đã mọc cao, gió lay rào rạt. Acxinhia nâng niu bế đứa con trong tay,
hai con mắt long lanh chốc chốc lại liếc nhìn Grigori như chờ đợi thăm dò.
Grigori nghe thấy tim mình đập lẫn với tiếng những bông lúa rạt rào như hát.
Chàng nhìn thấy những dải cỏ viền quanh các thửa đất mung
lung như trong thần thoại, bầu trời xanh ngắt làm mắt nhìn cứ cay cay.
Chàng đang yêu Acxinhia với cả mối
tình xưa kia, mối tình đã hút hết tinh lực của chàng. Chàng cảm thấy như thế
trong từng đường gân thớ thịt, từng tiếng đập của trái tim, nhưng đồng thời
cũng cảm thấy rằng đó không phải là sự thật mà chỉ là một cái gì đã chết hiện
về trước mắt chàng, chỉ là trong mộng. Nhưng giấc mộng nầy làm chàng sung sướng
và chàng đã tiếp nhận nó như một sự thật trong đời sống. Acxinhia bây giờ cũng
như Acxinhia năm năm trước đây, nhưng dè dặt hơn và hơi có vẻ lạnh nhạt.
Grigori nhìn thấy những món tóc xoăn mịn màng trên gáy nàng khẽ đập dưới làn
gió nghịch ngợm và đầu chiếc khăn bịt đầu màu trắng… Chàng nhìn thấy thế một
cách hết sức rõ ràng, ngay trong thực tế cũng chưa bao giờ nhìn thấy rõ như thế.
Chiếc xe va mạnh làm chàng tỉnh dậy, những tiếng người nói lao xao đã kéo chàng
về với thực tại. Rất nhiều chiếc xe vận tải đang tiến từ phía trước lại.
- Chở gì thế bà con đồng hương? -
Bodovskov ngồi trên chiếc xe phía trước Grigori kêu lên, giọng khàn khàn.
Những đòn xe trượt tuyết vẫn rít
lên, những móng chân bò chõe ra như gọng kìm vẫn dẫm lạo xạo trên tuyết, song
những người ngồi trên đoàn xe đang đi tới vẫn lặng thinh. Cuối cùng có người
trả lời:
- Toàn xác chết! Bệnh thương hàn…
Grigori ngẩng đầu nhìn lên. Những
chiếc xe trượt tuyết đang tiến qua chở đầy những xác chết mặc áo ca- pốt xám,
bên trên phủ qua một tấm vải bạt. Một cánh tay thòi ra từ trong một chiếc xe
đập vào xe Grigori, tiếng đập nghe trầm trầm như tiếng gang… Grigori thản nhiên
quay đi.
Mùi cỏ sông Đông ngọt ngào, khêu gợi
lại đưa chàng về với giấc mộng, lại nhẹ nhàng làm chàng quay về với cái quá khứ
đã lãng quên mất nửa, và một lản nữa lại làm cho trái tim của chàng chạm phải
mũi dùi nhọn hoắt của những tình cảm thời xưa. Grigori lại nằm vật xuống xe, má
chạm vào một nhánh cỏ sông Đông vàng úa, trong lòng đau đớn day dút nhưng đồng
thời tràn trề hạnh phúc. Trái tim chàng bị những hồi ức xưa dày vò, ứa máu ra,
đập loạn lên làm chàng mãi không ngủ được.
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 142
Chung quanh Uỷ ban cách mạng thôn đã
tập họp được vài người: chàng thợ xay Davydka, Timofey, Emelian, người đánh xe
trước kia của nhà Mokhov và anh thợ giầy mặt rỗ Finka. Trong công việc hàng
ngày chỗ dựa của Kotliarov chính là mấy người đó, và mỗi ngày anh càng cảm thấy
rõ hơn rằng có một bức tường vô hình đang ngăn cách mình vớl dân chúng trong
thôn. Dân Cô- dắc không chịu đi họp nữa, nếu có đi thì cũng chỉ sau khi Davydka
cùng mấy người khác đã năm lần bẩy lượt đến thúc từng nhà. Họ tới họp rồi cứ câm
như hến và nghe nói gì cũng đồng ý. Trong đám người đi họp, bọn trẻ rõ ràng
chiếm đa số, nhưng ngay trong lớp trẻ cũng chẳng kiếm đâu ra một người đồng
tình. Trên bãi họp việc làng, Kotliarov chủ toạ các buổi họp chỉ nhìn thấy
những khuôn mặt lầm lì, những cặp mắt thù địch, nhìn gườm gườm đầy vẻ hoài
nghi. Trước quang cảnh như thế, anh cảm thấy lạnh cả tim, mắt đầy vẻ lo ngại,
giọng nói uể oải thiếu tin tưởng. Một hôm anh chàng mặt rỗ Finka nói không phải
không có chủ tâm:
- Chúng ta đã ly dị với mọi người
trong thôn rồi, đồng chí Kotliarov ạ! Dân chúng đang bất mãn, đang biến thành
quỉ dữ cả rồi. Hôm qua tôi đi lấy xe chở anh em thương binh Hồng quân đi
Vosenskaia, nhưng chẳng có người nào đi. Đã ly dị rồi khó mà cùng sống với nhau
trong một nhà…
- Mà còn rượu chè nữa chứ? Cái bọn
khốn kiếp! - Emelian liếm cái tẩu nói thêm. - Chẳng nhà nào không nấu rượu.
Miska cau mày, anh đã định giấu
không cho mọi người biết những ý nghĩ của mình, nhưng rồi cũng phải nổ ra. Một
buổi tối, lúc sắp về nhà, anh bảo Kotliarov:
- Anh cho tôi một khẩu súng trường.
- Để làm gì?
- Cái anh nầy! Tôi sợ không muốn đi
tay không. Chẳng nhẽ anh không nhìn thấy gì à? Tôi nghĩ rằng chúng mình cần
phải trị một vài đứa… Phải tóm cổ thằng Grigori Melekhov, cả mấy lão già
Bondrev, Matvey Kasulin, Miron Korsunov. Cái bọn chó đẻ ấy, chúng nó rỉ tai bọn
Cô- dắc… Chúng nó đợi bọn chúng nó ở bên kia sông Dones về!
Kotliarov khoát tay bực bội.
- Hừ! Nếu ở đây mà bắt đầu bắt bớ
thì phải bắt khá nhiều đấy. Dân chúng đang ngả nghiêng dao động… Có những người
muốn đồng tình với chúng ta nhưng lại đề phòng về phía lão Miron Korsunov. Họ
sợ thằng Miska nhà lão ấy ở bên kia sông Dones về sẽ moi gan móc ruột họ…
Cuộc sống đã tiến tới một bước ngoặt
rất gấp. Hôm sau có một liên lạc cưỡi ngựa mang từ Vosenskaia tới một bản chỉ
thị bắt các nhà giàu nhất thôn phải nộp một khoản chiến phí. Con số định mức
cho toàn thôn là bốn vạn rúp. Từng nhà được qui phần đóng góp. Sau hơn một ngày
thu được hai túi tiền chiến phí, khoảng hơn vạn tám một chút. Kotliarov xin chỉ
thị trên khu. Trên đó phái về ba công an với chỉ thị: "Những kẻ nào không
nộp chiến phí thì bắt giải lên Vosenskaia". Bốn lão già bị nhốt tạm trong
hầm nhà Mokhov, chỗ trước kia chứa táo mùa đông.
Toàn thôn náo lên như một tổ ong bị
khuấy động. Lão Korsunov khư khư giữ lấy những tờ giấy bạc đã phá giá, dứt
khoát không chịu đóng. Nhưng đã đến lúc lão phải trả giá cho cuộc sống tươi đẹp
trước kia. Trên khu phái xuống hai người: một dự thẩm về những án kiện địa
phương là một anh chàng Cô- dắc còn trẻ, người trấn Vosenskaia, trước kia đi
lính trong trung đoàn Hai mươi tám, và một người mặc chiếc áo ahoàng bằng dạ
thô ngoài chiếc áo da ngắn. Hai người cho xem sự vụ lệnh của Toà án cách mạng
rồi vào phòng làm việc của Kotliarov, đóng kín cửa lại. Người cùng đi với viên
dự thẩm đã có tuổi râu cạo nhẵn nhụi. Anh ta nói giọng thành thạo:
- Trong Quân khu đã phát hiện thấy
những vụ rối loạn. Những thằng Bạch vệ còn ở lại đang ngóc đầu dậy và bắt đầu
khuấy lộn những người lao động Cô- dắc. Cần phải diệt trừ cho hết những kẻ có
thái độ thù địch nhất đối với chúng ta. Đồng chí hãy cho danh sách những tên sĩ
quan, cố đạo, ataman, hiến binh, phú hộ và tất cả những đứa tích cực chống lại
chúng ta. Đồng chí hãy giúp đỡ đồng chí dự thẩm, đồng chí ấy cũng có biết vài tên
đấy.
Kotliarov nhìn khuôn mặt nhẵn thín
như mặt đàn bà của anh ta và trong khi nêu lên những họ tên, cũng có nhắc tới
Petro Melekhov.
Nhưng anh chàng dự thẩm lắc đầu:
- Một người của chúng ta đấy. Fomin
có đề nghị đừng động tới hắn. Hắn có tư tưởng ngả theo Bolsevich. Chúng tôi đã
từng ở cùng trung đoàn Hai mươi tám với hắn.
Bản danh sách do chính tay Miska
viết trên một tờ giấy kẻ xé trong một quyển vở học sinh đã nằm trên bàn.
Vài giờ sau những tên Cô- dắc bị bắt
đã ngồi trên những cây gỗ sồi trong cái sân rộng thênh thang của nhà Melekhov,
có mấy người cảnh sát canh gác. Chúng chờ người nhà mang lương ăn tới và chiếc
xe tải chở hành lý. Miron Grigorievich mặc toàn đồ mới như sẵn sàng đi đến chỗ
chết: cái áo khoác ngoài ngắn bằng da thuộc, đôi ủng ngân với đôi bít tất trắng
sạch bong lồng ngoài ống quần. Lão ngồi ở ngoài cùng, bên cạnh hai lão già
Bogatyrev và Matvey Kasulin.
Lão Apdevich "Vua nói
phét" chạy lăng xăng trong sân, lúc thì ngó xuống cái giếng không hiểu để
nhìn gì, lúc thì nhặt một mảnh củi nhỏ rồi lại chạy từ trên thềm ra hàng rào,
vừa chạy đưa tay áo lên lau khuôn mặt đẫy đà đẫm mồ hôi, đỏ như quả táo.
Mấy lão kỉa đều ngậm tăm ngồi yên.
Chúng gục đầu cầm gậy vẽ lằng nhằng trên tuyết. Vài người đàn bà thở hổn hển
chạy vào trong sân, nhét những chiếc tay nải và túi dết vào tay những tên bị
bắt và thì thầm nhỏ to với chúng. Mụ Lukinhitna khóc sướt mướt, cài khuy chiếc
áo da cho lão già và quàng lên cổ lão một chiếc khăn quàng trắng của đàn bà. Mụ
nhìn vào cặp mắt đục như rắc tro của lão và khuyên lão:
- Ông Grigorievich nó ơi, ông đừng
buồn nhé! Cũng có thể sẽ tai qua nạn khỏi thôi. Sao ông nó cứ ủ rũ như thế? Lạy
Chu- u- úa tôi! - Miệng mụ dành ra như mép giải, tiếng gào làm mặt mụ méo đi,
bẹt ra, nhưng mụ vẫn cố gắng chúm môi, rỉ tai chồng - Tôi sẽ đến thăm ông… Tôi
sẽ đưa con Gripka cùng đi, ông vốn yêu nó mà…
Người công an đứng ngoài cổng quát
to:
- Xe đến rồi! Bỏ khăn gói lên và đi
thôi! Mấy mụ nầy, né sang bên kia, đứng đây chảy nước ra làm gì!
Lần đầu tiên trong đời mụ Lukianovsky
hôn bàn tay đầy lông đỏ của Miron Grigorievich rồi quay đi.
Hai con bò kéo chiếc xe trượt tuyết
từ từ trườn qua bãi thôn xuống sông Đông.
Bảy tên bị bắt và hai người công an
đi sau xe. Apdevich đứng lại một lát, buộc dây ủng rồi lại chạy đuổi theo, nom
điệu bộ còn rất trẻ. Lão Matvey Kasulin đi bên cạnh thằng con trai. Maidanikov
và Korolev vừa đi vừa hút thuốc. Miron Grigorievich bíu lấy thành xe.
Lão già Bogatyrev đi sau cùng, bước
chân nặng nề và oai vệ. Gió thổi từ phía trước lại, lật bộ râu tộc trưởng của
lão ra sau lưng, đầu chòm râu trắng như cước, những cái ngù của chiếc khăn
quàng vắt qua vai phấp phới như từ biệt.
Cũng trong cái ngày tháng Hai âm u
đó trong thôn đã xảy ra một chuyện lạ lùng.
Thời gian gần đây, bà con đã quen
thấy những cán bộ công tác trên khu về. Vì thế khi có một chiếc xe hai ngựa
xuất hiện trên bãi thôn với người khách ngồi co ro bên cạnh lão đánh xe thì
chẳng ai buồn để ý. Chiếc xe trượt tuyết dừng lại trước cửa nhà Mokhov.
Người khách bước trên xe xuống, xem
ra là một người có tuổi, cử chỉ đi đứng từ tốn. Người ấy sửa lại cái dây da của
lính trên chiếc áo ca- pốt kỵ binh dài thườn thượt, bẻ lại hai cái tai của
chiếc mũ da Cô- dắc màu đỏ lên, rồi đặt tay lên cái hộp gỗ của khẩu Mauser 1
ung dung bước lên thềm.
Trong trụ sở Uỷ ban cách mạng có
Kotliarov và hai người công an. Người khách lạ thôi không gõ cửa, bước thẳng
vào, tới ngưỡng cửa thì sửa lại chòm râu hoa râm cắt ngắn thành hình dẻ quạt và
nói bằng một giọng trầm trầm:
- Tôi cần gặp đồng chí chủ tịch.
Kotliarov muốn đứng chồm lên mà
không sao đứng dậy được, cứ giương hai con mắt tròn như mắt chim nhìn người
khách bước vào. Anh chỉ còn có thể ngáp ngáp như con cá, và bấu mười đầu ngón
tay vào hai bên tay đã mòn bóng của chiếc ghế bành. Stokman, bây giờ đã già sọm
đi, đang nhìn anh chằm chằm bên dưới chiếc mũ ba tai Cô- dắc xấu xí có cái đỉnh
đỏ lòm. Hai con mắt lá răm của Stokman nhìn mãi Kotliarov mà không nhận ra, rồi
đột nhiên cặp mắt ấy run run, nheo lại, sáng bừng lên, những nếp nhăn như nan
quạt hằn rõ từ đuôi mắt lên tới hai bên thái dương bạc như cước. Kotliarov còn
chưa đứng dậy kịp, Stokman đã bước tới ôm chặt lấy anh, sát chòm râu ướt đẫm
vào mặt anh, vừa hôn vừa nói:
- Tôi biết mà! Trước kia tôi đã nghĩ
rằng nếu hắn còn sống thì thế nào hắn cũng sẽ làm chủ tịch thôn Tatarsky nầy?
- Đồng chí Yosif Davydka, đồng chí
đánh đi! Đồng chí đánh tôi đi đánh cái thằng chó đẻ nầy đi! Tôi không tin hai
con mắt tôi nữa rồi! - Kotliarov nói, giọng mếu máo.
Cho đến nay chưa ai thấy có những
giọt nước mắt chẩy trên khuôn mặt đen sạm và dũng cảm nầy. Vì thế cả đến anh
chàng công an cũng phải quay mặt đi.
- Nhưng cậu cứ tin đi nào! - Stokman
mỉm cười, khẽ gỡ tay mình khỏi tay Kotliarov, và nói giọng trầm trầm - Sao thế,
nhà cậu không có cái gì để ngồi à?
- Đồng chí ngồi cái ghế bành nầy
vậy? Nhưng đồng chí ở đâu về thế? Đồng chí nói đi nào!
- Mình từ Ban chính trị của Tập đoàn
quân tới đây… Nhưng mình thấy như cậu vẫn còn chưa thật tin là mình đang có mặt
ở đây. Cái anh chàng thật là kỳ quặc!
Stokman mỉm cười vỗ vào đầu gối
Kotliarov và nói rất nhanh:
- Mọi chuyện đều hết sức đơn giản,
người anh em ạ. Sau khi chúng nó tóm cổ mình ở đây, chúng nó đem ra toà xử và
cách mạng đã nổ ra trong khi mình đang đi đày. Mình đã cùng một số đồng chí tổ
chức một chi đội Xích- vệ, đánh nhau với bọn Dutov 2 và bọn Koltrak 3. Ô, người
anh em ạ, tình hình ở phía ấy bây giờ vui lắm. Hiện nay đã tống cổ được chúng
nó sang bên kia dãy Ural rồi, cậu được biết chưa? Và bây giờ mình về mặt trận
của các cậu đây. Ban chính trị của Tập đoàn quân số tám đã phái mình đến công
tác ở khu của các cậu, vì mình đã có thời kỳ sống ở đây, hay theo cách nói của
đồng chí ấy, đã quen với hoàn cảnh. Mình đã tạt qua Vosenskaia, trao đổi ý kiến
với các đồng chí trong Uỷ ban Quân sự Cách mạng rồi quyết định trước hết đến
thôn Tatarsky. Mình nghĩ rằng hãy đến ở với các anh em tại đây ít lâu, làm vài
việc, giúp đỡ tổ chức công tác rồi sẽ đi nơi khác. Cậu thấy không, người ta
không quên tình bạn cũ đâu nhé! Nhưng chuyện ấy chúng ta còn có chán dịp nói
tới. Bây giờ hãy nói về cậu, về tình hình đã. Cậu hãy cho mình biết về nhân
dân, về hoàn cảnh. Trong thôn đã có chi bộ chưa? Ở đây cùng với cậu có những
anh em nào? Còn được anh em nào? Thôi nhé, xin lỗi các đồng chí… có lẽ các đồng
chí để cho đồng chí Chủ tịch nói chuyện với tôi chừng một giờ nhé. Chà, quỉ
quái thật! Mình vừa đặt chân vào trong thôn đã lại thấy nặc những mùi xưa kia
rồi… Nhưng năm tháng đã qua nhiều, thời buổi bây giờ khác rồi… Thôi cậu kể đi!
Chừng ba giờ sau, Miska Kosevoi và
Kotliarov đưa Stokman về căn nhà cũ của mụ lác Lukeska. Ba người đi trên lớp
mặt lát nâu nâu của con đường. Chốc chốc Miska lại nắm lấy tay áo ca- pốt của
Stokman như chỉ sợ Stokman giằng ra, chạy trốn mất hoặc biến đi như một bóng
ma.
Mụ Lukeska thết ông khách ở thuê cũ
một bữa súp bắp cải, thậm chí còn mò trong một góc kín của cái rương, lấy ra
một miếng đường thủng lỗ chỗ vì để quá lâu.
Sau khi uống nước lá anh đào thay
trà, Stokman ngả lưng xuống giường. Anh lắng nghe những câu chuyện hai người kể
luyên thuyên thỉnh thoảng lại hỏi một câu, chiếc bót thuốc lá nhai nhai trong
miệng. Đến lúc trời sắp rạng, anh ngủ thiếp đi lúc nào không biết, để rơi cả
điếu thuốc lá xuống chiếc áo sơ- mi cáu bẩn may bằng vải falanel. Nhưng
Kotliarov vẫn còn nói thêm chừng mười phút nữa, mãi đến khi anh hỏi một câu,
thấy Stokman trả lời bằng một tiếng ngáy, anh mới rón rén bước ra ngoài. Một
cơn ho đã dồn lên đến cổ, nhưng anh cố nhịn, vì thế mặt đỏ dừ, chảy cả nước
mắt.
- Thế nào, đã hết cơn chưa? - Vừa
bước chân trên thề xuống, Miska đã hỏi, anh chàng khẽ cười sằng sặc như bị cù.
° ° °
Olsakov áp giải những tên bị bắt lên
Vosenskaia đến nửa đêm thì hắn trở về trên một chiếc xe tải đi cùng đường. Hắn
đứng gõ rất lâu vào cửa sổ căn nhà nhỏ, chỗ Kotliarov ngủ. Anh tỉnh dậy:
- Cậu có việc gì thế? - Kotliarov
bước ra, mặt còn nặng vì ngái ngủ. - Cậu đến có việc gì thế? Có công văn à?
Olsakov nghịch nghịch cái roi ngựa.
- Bọn Cô- dắc bị bắn chết cả rồi.
- Chỉ nói láo, đồ khốn kiếp!
- Chúng tôi vừa giải chúng nó đến
thì họ lập tức hỏi cung ngay, và trời còn chưa tối đã đưa chúng ra rừng thông…
Chính mắt tôi trông thấy mà…
Kotliarov vội vã mặc quần áo, chân
thọc mãi không đúng ủng, mặc xong chạy luôn sang nhà Stokman:
- Mấy tên chúng tôi giải đi hôm nay
đã bị xử bắn ở Vosenskaia rồi! Tôi cứ tưởng sẽ tống cổ chúng nó vào tù thế mà
sao… ở đây chúng ta không làm như thế được đâu! Dân chúng sẽ rời bỏ chúng ta,
đồng chí Stokman ạ! Trong việc nầy hình như có cái gì không ổn. Việc gì đến nỗi
phải giết người? Bây giờ rồi sẽ ra sao đây?
Kotliarov cứ tưởng Stokman sẽ phẫn
nộ như mình trước những việc vừa xảy ra, sẽ hoảng lên khi nghĩ đến các hậu quả
sẽ dẫn tới, nhưng Stokman vẫn từ từ mặc áo sơ- mi, mãi đến khi đã chui đầu ra
khỏi cổ áo mới bảo:
- Cậu đừng có la lên như thế, làm bà
chủ mất ngủ bây giờ…
Anh mặc quần áo xong, châm thuốc
hút, bảo trình bày lại các lý do bắt giữ những tên đó, rồi nói bằng một giọng
khá lạnh lùng:
- Cậu cần phải nắm vững điều nầy,
cần phải nắm cho thật vững mới được! Mặt trận chỉ còn cách chúng ta năm chục
vec- xta. Phần cơ bản trong dân chúng Cô- dắc có tâm lý thù địch với cậu, bọn
kulak Cô- dắc, tức là những tên ataman cùng những tên khác trong tầng lớp chóp
bu, còn có uy tín rất lớn trong giới lao động Cô- dắc, còn có trọng lượng, như
người ta thường nói. Vì sao vậy? Đây cũng là một điểm mà cậu phải hiểu thật rõ.
Dân Cô- dắc thuộc về một tầng lớp đặc biệt, một tầng lớp quân sự. Chế độ vua
Nga đã nhồi nhét cho họ cái tinh thần yêu quí quan trên, yêu quí những kẻ
"vừa là chỉ huy vừa là người cha"… Trong một bài hát của lính tráng
đã có những câu như thế nào? "Lệnh trên truyền ta chém ta đâm. Ta chỉ biết
tuân theo mệnh lệnh, của chỉ huy, của cha ta, dù dẹp bắc hay đánh đông".
Có phải như thế không? Cậu xem đấy! Thế là những tên vừa là chỉ huy vừa là cha
ấy đã ra lệnh giải tán các cuộc bãi công của công nhân… Chúng nó đã làm mê muội
đầu óc của dân Cô- dắc ba trăm năm nay. Thời gian có ít ỏi gì đâu? Tình hình là
như thế đấy! Thêm vào đó lại có những sự khác nhau rất lớn chẳng hạn giữa những
tên Cô- dắc ở tỉnh Riazanskaia với những tên kulak vùng sông Đông. Bọn kulak ở
Riazanskaia bị trấn áp chỉ kêu ca về chính quyền Xô viết nhưng chúng nó bất
lực, chỉ run sợ chúi xó một chỗ. Còn bọn kulak vùng sông Đông thì sao? Chúng nó
là những tên kulak có vũ trang. Chúng là những con rắn nguy hiểm, những con rắn
độc! Chúng nó có sức mạnh. Chúng nó không những sẽ chỉ kêu ca, phao tin đồn
nhảm nói xấu chúng ta, vu khống chúng ta như lão Korsunov cùng một số tên khác
đã làm theo lời cậu nói, mà còn tìm cách công khai chống lại chúng ta. Chà, tất
nhiên như thế rồi! Chúng nó sẽ cầm súng bắn chúng ta. Chúng nó sẽ giết cậu?
Ngoài ra chúng còn ra sức lôi kéo những tầng lớp Cô- dắc khác, tức là tầng lớp
Cô- dắc trung lưu và thậm chí dân nghèo nữa. Chúng nó âm mưu đánh chúng ta bằng
bàn tay của hai tầng lớp kia đấy! Thế thì vấn đề là như thế nào. Đã có bằng
chứng là có hành động chống lại chúng ta phải không? Thế là đủ rồi! Không cần
nói năng dài dòng làm gì: xử bắn! Trong vấn đề nầy không cần rỏ rớt rỏ rãi
thương hại chúng nó làm gì: lại còn nói trước kia chúng nó là người tốt.
- Đồng chí nói gì vậy, tôi đâu có
thương chúng nó! - Kotliarov xua tay. - Tôi chỉ sợ những người khác sẽ xa rời
chúng ta.
Từ nãy Stokman vẫn đưa tay lên xoa
xoa bộ ngực đầy lông bạc, có vẻ như rất bình tĩnh. Nhưng vừa nghe nói thế, anh
đã nổi sung lên, nắm chặt lấy cổ chui của chiếc áo quân phục Kotliarov, kéo sát
vào mình và cố nén cơn ho, rít lên chứ không phải là nói:
- Họ sẽ không rời bỏ chúng ta đâu
nếu chúng ta gợi cho họ hiểu được cái chân lý giai cấp của chúng ta! Người lao
động Cô- dắc chỉ có thể đi theo con đường của chúng ta, chứ không đi theo con
đường của bọn kulak được? Chà, cái anh chàng nầy! Bọn kulak bóc lột sức lao
động của họ, để mà sống, để béo múp ra! Chà, cái anh chàng hồ đồ! Cái tư tưởng
của cậu… Cậu đã làm tôi tức điên lên rồi? Cả một đầu óc ngu đần! Một thằng công
nhân mà thở ra toàn là hơi trí thức… Đã biến thành một thằng xã hội cách mạng
tồi tệ thế nầy rồi à? Cậu phải liệu liệu với mình đấy, Kotliarov ạ?
Stokman rời tay khỏi cổ áo
Kotliarov, lắc lắc đầu, hơi mỉm cười. Anh châm thuốc hút, nuốt một hơi khói rồi
nói nốt bằng một giọng đã bình tĩnh hơn:
- Nếu trong khu không tóm cổ hết
những tên thù địch hoạt động tích cực nhất thì sẽ có bạo động. Nếu bây giờ kịp
thời cô lập chúng nó thì sẽ không thể nổ ra bạo động. Muốn vậy không nhất thiết
phải lôi tất cả đi xử bắn. Chỉ cần tiêu diệt những tên đầu sỏ, còn những tên
khác thì có thể chỉ đưa tới những vùng thật xa trong nước Nga. Nhưng nói chung,
đối với địch thì không cần phải gượng nhẹ làm cái gì cả! "Người ta không
đi găng làm cách mạng", - Lenin đã nói như thế đấy. Trong trường hợp nầy
có cần phải đem bắn mấy thằng đó không? Tôi nghĩ là có! Có thể là không cần bắn
tất cả, nhưng chẳng hạn như lão Korsunov thì không làm thế nào cải tạo được nữa
rồi! Điều đó đã rõ như ban ngày! Còn thằng Melekhov thì nó chuồn mất rồi, dù
chỉ là tạm thời! Chính nó là thằng mà chúng ta phải trị thẳng tay đấy! Nó còn
nguy hiểm hơn tất cả mấy đứa kia gộp lại. Cậu phải nhớ lấy điều đó. Câu chuyện
nói với cậu ở trụ sở ban chấp hành là những lời của một kẻ thù ngày mai. Nói
chung trong việc nầy chẳng có gì phải đau khổ dằn vặt. Những người con ưu tú
nhất của giai cấp công nhân đang chết trên các mặt trận. Chết hàng ngàn đấy!
Đau buồn là phải đau buồn về họ chứ không về những đứa đang giết họ hay chỉ chờ
có dịp là đâm vào lưng chúng ta. Một thằng chúng nó giết chúng ta, hai là chúng
ta giết chúng nó! Không có con đường thứ ba đâu. Đúng như thế đấy, anh bạn
Kotliarov ạ!
--- ------ ------ ------ -------
1 Đây chỉ
kiểu súng ngắn của Đức có hộp gỗ, lắp vào được thành báng, hồi Tầu Tưởng sang
đây ta quen gọi là "poọc- hoọc" (mộc hạp: hộp gỗ) (ND).
2 (1864 -
1921) Đại tá trong tổng hành dinh của quân đội Nga hoàng, ataman Bạch vệ của
Quân khu Orelburg đã phát động tầng lớp Cô- dắc nổi lên chống chính quyền Xô-
viết theo chỉ thị của đế quốc Anh - Mỹ. Tháng Chín năm 1919, quân đội của Dutov
đầu hàng Hồng quân, một số tàn quân theo hắn chạy sang miền Tây Trung Quốc.
Dutov bị giết tháng Hai năm 1921 (ND).
3 (1873 -
1920) Thuỷ sư đô đốc của hải quân Nga hoàng, mùa thu năm 1917 sang Mỹ rồi về
Viễn Đông tổ chức mặt trận chống chính quyền Xô- viết. Tháng 10- 1918, làm Bộ
trưởng Hải quân trong Chấp chính viện tây nam Ufa, sau tự xưng là "Chấp
chính tối cao kiếm Tổng tư lệnh tối cao các lực lượng lục hải quân, là lực
lượng chủ yếu trong đợt tấn công thứ nhất của Đồng minh. Tháng Giêng 1920 thua
trận phải nhường chức trên cho Donikin, bị công nhân Irkurs xử bắn (ND).
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 143
Petro vừa quét dọn chuồng bò xong.
Hắn phủi những sợi rơm vụn bám trên đôi găng không có ngón, vừa bước vào trong
nhà thì có tiếng then cửa lách cách ở phòng ngoài.
Mụ Lukinhitna bước qua ngưỡng cửa,
đầu trùm một chiếc khăn dạ đen. Mụ bước những bước rất ngắn, vào nhà mà không
chào hỏi gì cả, cứ lon ton đi tới chỗ Natalia đang đứng bên chiếc ghế dài trong
bếp và quì sụp xuống trước mặt nàng.
- Mẹ? Mẹ yêu của con! Mẹ làm sao
thế? - Natalia cố nâng cáỉ thân hình nặng thêm ra của mẹ, kêu lên, giọng lạc
hẳn đi.
Mụ Lukinhitna không trả lời mà chỉ
đập đầu bình bịch xuống nền đất và gào lên khóc chồng chết bằng một giọng khàn
khàn hết sức đau khổ:
- Ới ông ơi là ông ơ- ơ- ơi! Ông bỏ
mẹ con tôi ở lại sống với ai thế nầy… ông ơi là ông ơ- ơ- ơi!
Những người đàn bà đồng thanh gào
lên, hai đứa trẻ cũng khóc thét lên, làm Petro phải quờ tay lên cái bếp lò nhỏ,
với lấy túi thuốc rồi bỏ chạy ra phòng ngoài. Hắn đã đoán ra đầu đuôi câu
chuyện.
Hắn đứng ngoài thềm một lát, hút
thuốc, chờ cho những tiếng gào khóc trong nhà lắng đi rồi mới quay vào trong
bếp, khắp sống lưng lạnh buốt, rất khó chịu. Mụ Lukinhitna vẫn úp chiếc khăn
ướt đến vắt được ra nước lên mặt, kể lể:
- Chúng nó đã bắn chết mất ông Miron
Grigorievich nhà tôi rồi! Con đại bàng không còn sống trên đời nầy nữa rồi! Chỉ
còn lại mấy mẹ con tôi goá bụa côi cút mà thôi! Bây giờ thì con gà con vịt cũng
có thể hà hiếp chúng tôi! - Rồi mụ lại chuyển sang hú lên như chó sói - Cặp mắt
yêu dấu của chồng tôi đã nhắm lại rồi? Không bao giờ còn được trông thấy ánh
sáng nữa rô- ô- ồi?
Natalia ngất đi. Daria phải lấy nước
lạnh vã vào mặt nàng. Bà Lukinhitna đưa tạp dề lên lau nước mắt. Từ nhà trong,
chỗ ông Panteley Prokofievich đang ốm nằm đấy, vẳng ra tiếng ho sù sụ và tiếng
nghiến răng rên rỉ…
- Bác thông gia ơi, bác hãy vì Chúa
cứu thế! Bác hãy vì đấng sáng thế, bác thông gia yêu quí ơi, bác hãy lên
Vosenskaia đem hộ chồng tôi về, dù chỉ còn là cái xác! - Mụ Lukinhitna như điên
lên, nắm lấy hai tay Petro, áp chặt lên ngực mình. - Bác hãy đem hộ ông ấy về…
Chao ôi, lạy Nữ hoàng nhân từ cứu nạn! Chao ôi, tôi không muốn ông nhà tôi bị
thối rữa trên ấy, phải chết không được chôn cất tử tế.
- Bà nói gì vậy, bà nói gì vậy, bà
thông gia? - Petro lùi ngay lại như tránh một người bị ôn dịch. - Sao lại có
thể nghĩ ra được cái chuyện mang ông ấy về. Đối với tôi, cái mạng của tôi còn
quí hơn nhiều! Mà tôi tìm được ông ấy ở đâu bây giờ?
- Xin bác đừng từ chối, bác Petro
yêu quí? Bác hãy vì Chúa cứu thế!
Petro nhay nhay một món ria và cuối
cùng cũng nhận lời. Hắn quyết định lên Vosenskaia tìm một lão Cô- dắc quen biết
và nhờ lão giúp mình thử đi tìm xác Miron Grigorievich. Đến đêm thì hắn lên
đường.
Trong thôn đã lên đèn, nhà nào cũng
bàn tán sôi nổi cái tin: "Chúng nó bắn người Cô- dắc!".
Petro dừng xe bên cạnh toà nhà thờ
mới, trước cửa nhà một người đồng đội của bố, nhờ lão giúp mình đi đào xác lão
thông gia.
Lão kia vui vẻ nhận lời ngay:
- Nào thì ta đi. Tôi đã biết ở chỗ
nào rồi. Mà thông thường chúng nó chôn cũng không sâu đâu. Chỉ có điều là làm
thế nào tìm thấy ông ấy bây giờ? Chỗ ấy đâu phải chỉ có một mình ông ấy? Hôm
qua đã xử bắn mười hai thằng đao phủ, những đứa hành quyết người mình dưới
chính quyền "Kadet" ấy mà. Nhưng phải thoả thuận một điều là công
việc xong xuôi bác phải có một chầu rượu ra trò đấy nhé! Được không bác?
Đến nửa đêm, hai người mang hai cái
xẻng và một cái đòn khiêng phân ra bên lề trấn, băng qua bãi tha ma, tới khu
rừng thông, nơi chấp hành các án tử hình. Tuyết rơi lất phất. Những cành liễu
đỏ lồm xồm sương muối lạo xạo dưới chân. Petro lắng nghe từng tiếng động và cứ
rủa thầm chuyến đi nầy của mình, hắn rủa mụ Lukinhitna, rủa cả lão thông gia
vừa về với ông bà ông vải. Khi tới gần đám thông non đầu tiên sau một gò cát
cao, lão Cô- dắc đứng lại:
- Ở một chỗ nào gần đây thôi…
Hai người đi thêm chừng trăm bước.
Một đàn chó trong trấn vừa sủa vừa hú bỏ chạy tán loạn. Petro quẳng cái cáng
xuống, khẽ nói bằng một giọng khàn khàn:
- Chúng ta quay về thôi! Mặc mẹ lão ở đây vậy! Lão nằm
chết ở đâu mà chẳng được? Chao ôi, sao mình lại dính vào chuyện nầy làm gì?
Cũng chỉ tại con mụ yêu tinh ấy cố vật nài cho kỳ được!
- Tại sao bác lại đâm ra sợ như thế? Thôi đi đi! - Lão
Cô- dắc cười có vẻ chế nhạo.
Hai người đi đến nơi. Bên một bụi liễu đỏ già cành đâm
ngang dọc, có một chỗ tuyết bị dẫm chặt xuống, lẫn với cát. Từ chỗ ấy có những
vết chân người toả ra lẫn với những vết chân chó lỗ chỗ…
Petro nhìn thấy một lão có bộ râu đỏ lòm, nhận ra Miron
Grigorievich. Hắn nắm lấy cái dây lưng bằng vải, lôi lão thông gia lên rồi đặt
vào cái cáng. Lão Cô- dắc kia vừa húng hắng ho vừa lấp đầy cái hố, rồi nâng thử
tay cáng, bất giác lầu bầu:
- Đáng là phải đánh cái xe trượt tuyết đến rừng thông mới
đúng. Chúng mình thật là hai thằng ngu! Con lợn rừng nầy ít nhất cũng nặng đến
năm pút. Mà tuyết lại khó đi.
Petro mở rộng hai cái chân không bao giờ đi nữa của xác
chết rồi cầm lấy tay cáng.
Hắn uống rượu bí tỉ trong nhà lão Cô- dắc cho đến khi
trời rạng. Miron Grigôrievit thì nằm cuộn tròn trong một tấm nàm cửa, trên
chiếc xe trượt tuyết. Vì say rượu nên Petro đã buộc con ngựa vào chiếc xe đó và
nó phải đứng đấy suốt thời gian. Nó vểnh tai thở phì phì, cố hết sức giằng dây
buộc mõm và vì ngửi thấy mùi xác chết nên nó không động tới một chút cỏ khô
nào.
Phía mặt trời mọc mới sáng ra một chút, vẫn còn xám xám,
Petro đã về tới thôn. Hắn đánh ngựa chạy qua bãi cỏ, không cho nghỉ một phút
nào. Phía sau, đầu Miron Grigorievich cứ đập bồm bộp vào cái ván hậu, Petro
phải dừng xe hai lần để lấy những nắm rơm dính bết đệm xuống dưới đầu lão. Hắn
đã đưa lão thông gia về thẳng nhà lão. Grivka, đứa con gái yêu của lão chủ nhà
vừa qua đời ra mở cổng rồi nhảy phắt sang bên tránh chiếc xe chạy trốn ra sau
một đống tuyết. Petro vác xác lão thông gia lên vai như một túi bột, mang vào
căn bếp rộng thênh thang và nhẹ nhàng đặt lên cái bàn đã trải sẵn một tấm khăn
đay. Mụ Lukinhitna đầu tóc rũ rượi bò lết đến gần hai cái chân người chết vẫn
còn đi đôi tất trắng nghiêm chỉnh, đúng như của những người chết. Mụ khóc đã
hết nước mắt, giọng khê đặc:
- Ông chủ ơi, tôi cứ tưởng ông sẽ đi chân ông về, nào ngờ
người ta phải khiêng ông về như thế nầy. - Mụ thều thào nói rất khẽ rồi khóc
nấc lên, tiếng khóc nghe giống tiếng cười một cách lạ lùng.
Petro vào nhà trong đỡ tay cụ Grisaka ra. Ông cụ đi chập
chững, lảo đảo, cứ như dưới chân cụ không phải là sàn nhà mà là đất lầy lũng
nhũng. Nhưng rồi cụ đi khá rắn rỏi đến gần cái bàn và đứng lại trên đầu thằng
con:
- Chà mầy đã về đấy à, Miron! Té ra bố con ta lại được
trông thấy mặt nhau như thế nầy đây, con ạ… - Cụ làm dấu phép, hôn vừng trán
giá băng, vàng ệch vì bùn dính bê bết. - Miron yêu quý ạ, rồi cũng chẳng bao
lâu cả tao nữa… - Giọng ông cụ cất cao dần đến rít lên. Rồi như sợ mình sắp
buộc miệng nói ra một điều gì bí mật, cụ vội đưa nhanh tay lên bịt miệng mình,
cử chỉ chẳng có vẻ gì là của một người già, cuối cùng cụ gục xuống cái bàn.
Một cơn chuột rút làm họng Petro tắc
lại như bị chó sói cắn vào cổ. Hắn rón rén lui ra sân gia súc, chỗ con ngựa bị
buộc bên thềm.
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 144
Sông Đông ra khỏi những quãng sâu
sóng yên gió lặng thì chảy tới một vùng cát nông. Ra đến đấy, dòng nước chảy
ngoằn ngoèo, lặng lờ chao đảo, tràn đều ra ngoài hai bên bờ. Từng đàn cá bụng
đen kéo nhau đi kiếm mồi trên đáy cát rắn; đêm đêm cá chiến lên chỗ nông tìm
những thức ăn bổ béo hơn, cá chép cựa quậy trong những toà lầu mầu xanh lá cây
của chúng ở khoảng sình lầy; cá thạch ban và cá lăng đuổi theo đàn cá nhép, cá
ngạnh sục trong đám sò ốc; thỉnh thoảng lại quẫy tung một đám nước màu xanh lá
cây, hiện ra dưới vừng trăng in hình rất lớn, ngoáy cái ngạnh màu vàng óng bóng
loáng rồi lại rúc cái đầu râu ria rộng bè bè vào đống vỏ sò để đến sáng hôm sau
vẫn còn ngủ gà ngủ gật ở một chỗ nào đó dưới cái gốc cây chìm cong queo đen sì
bị nước ăn nham nhở.
Nhưng ở nơi lòng sông hẹp lại, sông
Đông bị chèn hai bên phải nạo sâu xuống dưới đáy, nó gầm lên tức tối, ào ào dồn
xô những làn sóng bạc đầu. Sau những chỗ núi nhô ra lòng sông, luồng nước chảy
thành những xoáy nước trong những chỗ lòng chảo. Ở những chỗ ấy, nước như có
phép yêu ma, cứ xoáy tròn một cách khủng khiếp, hễ mắt nhìn vào là bị hút xuống
mãi.
Ngày tháng đã trôi từ đoạn nông bình
an vô sự đến nơi nước xói sâu lòng sông hẹp. Quân khu Đông Thượng đang sôi sục.
Hai luồng sức mạnh xô vào nhau, dân Cô- dắc nháo loạn đâm đầu vào xoáy nước.
Những người còn trẻ và tương đối nghèo thì trù trừ nghi ngại, vẫn còn mong chờ
chính quyền Xô viết lấy lại hoà bình, song bọn bô lão thì chủ trương tấn công
và đã công khai nói rằng bên Đỏ muốn tiêu diệt cho hết người Cô- dắc.
Ngày mồng bốn tháng Ba, Kotliarov
triệu tập đại hội nhân dân toàn thôn Tatarsky. Ít khi thấy dân chúng đến đông
như thế nầy. Có thể vì Stokman đã đề nghị với Uỷ ban cách mạng ra đại hội sẽ
chia cho các hộ nghèo nhất những tài sản mà bọn lái buôn bỏ chạy theo bọn Trắng
đã đề lại. Trước khi họp đại hội thôn đã xảy ra một cuộc to tiếng gay gắt giữa
Stokman và một cán bộ Quân khu. Anh chàng từ Vosenskaia tới và được uỷ quyền
đem về khu số quần áo mà thôn đã tịch thu. Stokman nói với anh ta rằng Uỷ ban
cách mạng không thể nộp ngay số quần áo đó được vì mới hôm qua đã phát hơn ba
mươi chiếc áo ấm cho một đoàn xe chở thương binh và bệnh binh Hồng quân. Anh
chàng trẻ tuổi kia lập tức giật giọng quát Stokman:
- Ai cho phép anh phát các quần áo
tịch thu?
- Chúng tôi đã giải quyết không cần
hỏi ý kiến ai cả.
- Nhưng anh có quyền gì phát tán tài
sản nhân dân?
- Nầy, đồng chí đừng quát lác, đừng
nói năng hồ đồ như thế.
Chẳng ai phát tán cái gì đâu. Những
cái áo khoác lông chúng tôi tạm phát cho dân công vận tải vẫn còn giữ lấy biên
nhận đây. Họ đem các chiến sĩ Hồng quân tới trạm, hết chặng đường rồi sẽ đem áo
về trả lại. Còn anh em chiến sĩ thì gần như trần truồng, đưa họ đi trong lúc
trên mình họ chỉ có độc chiếc áo ca- pốt mỏng manh thì khác gì đưa họ tới chỗ
chết. Tôi làm thế nào không phát cho được? Hơn nữa quần áo đã nằm trong kho từ
lâu mà có dùng làm gì đâu.
Stokman cố nén giận để giải thích và
thật ra câu chuyện cũng có thể giải quyết xong một cách nhẹ nhàng, nhưng anh
chàng mặt non choẹt kia nói giọng lạnh như tiền, tuyên bố dứt khoát:
- Anh là ai hử? Là chủ tịch Uỷ ban
cách mạng à? Tôi bắt giữ anh? Bàn giao ngay công tác cho phó chủ tịch! Tôi sẽ
giải anh ngay lên Vosenskaia. Biết đâu trong chuyện nầy anh chẳng đã ăn cắp nửa
chỗ tài sản đó, còn tôi…
- Đồng chí có phải là đảng viên
không? - Stokman hỏi, mắt lác xệch đi, mặt tái nhợt như xác chết.
- Chuyện đó không can gì đến anh!
Công an đâu! Bắt lấy nó và giải gay lên Vosenskaia! Trao cho đội công an Quân
khu, nhớ lấy giấy biên nhận.
Gã thanh niên lừ mắt nhìn Stokman.
- Lên trên đó tôi sẽ nói chuyện với
anh. Anh sẽ biết tay tôi, đồ chuyên quyền làm bậy!
- Đồng chí! Đồng chí điên rồi à?
Đồng chí cũng phải hiểu rằng…
- Không nói gì nữa! Câm ngay!
Kotliarov còn chưa kịp nói xen một
lời nào vào cuộc cãi lộn thì đã thấy Stokman lù lù với tay lên khẩu Mauser treo
trên tường, cử chỉ rất đáng sợ. Gã thanh niên trợn tròn con mắt, đầy vẻ kinh
hoàng.
Nhanh như cắt, gã hích mông đẩy cánh
cửa rồi ngã lăn ra, lưng nảy bần bật suốt mấy bậc thềm, rồi bò lên chiếc xe
trượt tuyết. Trong lúc xe chưa chạy ra khỏi bãi thôn, gã cứ thúc vào lưng người
đánh xe, chốc chốc lại ngoái đầu nhìn lại, rõ ràng là sợ có người đuổi theo.
Tiếng cười trong Uỷ ban cách mạng
dội như sấm vào các khung cửa sổ. Anh chàng Davydka khỏe cười lăn lộn trên bàn,
người co rúm. Nhưng mí mắt Stokman vẫn còn giật giật rất lâu như lên cơn thần
kinh, mắt lác hẳn đi.
- Không thể như thế được, cái thằng
đốn mạt đến thế! Chà, cái thằng khốn nạn! - Trong khi anh nhắc lại, những ngón
tay cuốn điếu thuốc lá vẫn còn run bần bật.
Stokman ra dự cuộc họp cùng với
Miska và Kotliarov. Người đứng trên bãi họp đông nghìn nghịt. Kotliarov thậm
chí cảm thấy tim mình nhoi nhói một cách khó chịu. "Họ đến họp đông như
thế nầy không phải là không có chủ tâm gì đâu… Cả thôn đều kéo ra bãi
họp". Nhưng khi anh bỏ mũ bước vào trong vòng người thì nỗi lo lắng của
anh được đánh tan ngay. Bọn Cô- dắc sẵn sàng tránh ra nhường lối cho anh đi.
Mặt mọi người đều dè dặt, bình tĩnh, ánh mắt của một số người thậm chí còn có
vẻ vui thích. Stokman đưa mắt nhìn một lượt đám Cô- dắc. Anh chỉ muốn làm cho
không khí bớt căng thẳng, muốn khêu gợi cho quần chúng trao đổi ý kiến với mình
và cũng bắt chước Kotliarov bỏ cái mũ da đỉnh đỏ có tai xuống. Anh nói to:
- Thưa các đồng chí Cô- dắc! Từ ngày
thôn ta thành lập được chính quyền Xô viết, đến nay đã được một tháng rưỡi.
Nhưng cho đến bây giờ Uỷ ban cách mạng chúng tôi vẫn nhận thấy về phía các đồng
chí có một vẻ như thiếu tin tưởng đối với chúng tôi, thậm chí còn tựa như thù
địch nữa là khác. Các đồng chí không đến dự các buổi họp, trong các đồng chí
còn lưu truyền những tin đồn, những lời phao đồn vô nghĩa lý nói rằng hình như
chính quyền Xô viết sẽ đem bắn tất cả mọi người, rằng có những sự ngược đãi của
chính quyền Xô viết đối với các đồng chí. Đã đến lúc chúng ta cần phải trao đổi
với nhau, như người ta thường nói là cởi mở tấm lòng ra mà nói chuyện với nhau,
đã đến lúc cần xích lại gần nhau hơn! Chính các đồng chí đã tự bầu ra Uỷ ban
cách mạng của mình. Kotliarov và Kosevoi là hai anh em Cô- dắc, cũng là người
trong thôn các đồng chí, vì thế giữa các đồng chí với nhau không thể có một
điều gì không nhất trí. Trước hết tôi xin kiên quyết thanh minh rằng các tin
đồn do những kẻ thù của chúng ta gieo rắc nói rằng bà con Cô- dắc sẽ bị đem ra
xử bắn hàng loạt, đó chỉ là một điều vu khống không hơn không kém. Mục đích của
những kẻ tung ra lời vu khống đó rất rõ ràng: chúng nó muốn gây xích mích giữa
bà con Cô- dắc và chính quyền Xô viết, đẩy các đồng chí sang hàng ngũ bọn Trắng
một lần nữa.
- Anh bảo không bắn giết à? Thế bảy
người kia đi đâu cả rồi! - Trong mấy hàng cuối có những tiếng kêu lên.
- Các đồng chí, tôi không nói rằng
không có xử bắn. Chúng tôi đã xử bắn và sẽ còn xử bắn những kẻ thù của chính
quyền Xô viết, còn xử bắn tất cả những kẻ muốn đem cái chính quyền của bọn địa
chủ áp đặt lên đầu chúng ta. Chúng ta đã lật đổ vua Nga, đã chấm dứt chiến tranh
với nước Đức, đã giải phóng nhân dân khỏi chế độ nông nô không phải để cho làm
như thế. Cuộc chiến tranh với nước Đức đã đem lại cho các đồng chí những gì?
Hàng ngàn anh em Cô- dắc bị giết, để lại vợ goá con côi, khánh kiệt hoang tàn…
- Đúng đấy?
- Chuyện ấy thì đồng chí nói đúng
lắm?
- Chúng tôi chủ trương làm cho không
còn có chiến tranh nữa. - Stokman nói tiếp. - Chúng tôi ủng hộ tình hữu nghị
giữa các dân tộc! Trái lại dưới chính quyền vua Nga, chúng nó đã dùng bàn tay
của các đồng chí để đi đánh chiếm đất đai cho bọn địa chủ và tư bản, để chính
nhờ đó mà làm giàu thêm cho những thằng chúa đất và chủ nhà máy. Ở sát ngay bên
hông các đồng chí có thằng địa chủ Litnhitki đấy. Ông nội nó đã được cấp bốn
ngàn đê- xi- a- chim đất vì có tham gia cuộc chiến tranh năm Một nghìn tám trăm
mười hai. Còn ông nội của các đồng chí thì đã nhận được gì? Đầu các cụ đã rơi
trên đất Đức! Máu các cụ đã tưới cho đất Đức!
Bãi họp rộn hẳn lên. Tiếng ồn ào
lắng dần, nhưng lập tức có người gầm lên ngay:
- Đúng lă- ă- ắm!
Stokman đưa mũ lên lau mồ hôi trên
cái trán hói, rồi cất giọng kêu lên:
- Tất cả những kẻ cầm vũ khí chống
lại chính quyền công nông, chúng ta sẽ tiêu diệt cho kỳ hết! Những tên Cô- dắc
trong thôn các đồng chí vừa bị xử bắn theo lời tuyên án của toà án cách mạng là
những kẻ thù của chúng ta. Tất cả các đồng chí đều biết như thế. Nhưng đối với
các đồng chí là những anh em lao động, những người đồng tình với chúng tôi,
chúng tôi sẽ kề vai sát cánh với các đồng chí, cùng đi bên nhau như những con
bò trên luống cày. Chúng ta sẽ đoàn kết với nhau để cày mảnh đất gieo trồng đời
sống mới, và sẽ bừa thật kỹ mảnh đất nầy, để làm cho các luống cày của chúng ta
sạch quang, không còn một sợi cỏ dại nào của thời xưa, không còn một kẻ thù nào
nữa! Để chúng nó không mọc rễ lại được nữa! Để chúng nó không thể mọc át cái
mầm non của cuộc sống mới!
Stokman nghe thấy những tiếng rì rầm
cố ghìm nén, nhìn thấy những nét mặt sôi nổi, biết rằng lời mình nói đã làm dân
chúng Cô- dắc cảm động. Anh đã không nhầm: đã bắt đầu có được một cuộc trao đổi
cởi mở.
- Đồng chí Yosif Davydovich ạ! Chúng
tôi biết rõ đồng chí lắm, vì trước kia đồng chí đã có một dạo sống trong thôn
chúng tôi, đối với chúng tôi đồng chí cũng chẳng khác gì anh em bà con. Đồng
chí đừng ngại chúng tôi, đồng chí hãy nói thật là cái chính quyền của đồng chí
muốn làm gì chúng tôi? Tất nhiên chúng tôi ủng hộ chính quyền nầy, những thằng
con chúng tôi đã bỏ mặt trận, nhưng chúng tôi lại là những con người tăm tối,
chúng tôi không nhìn rõ cái chính quyền của đồng chí nó ra sao…
Lão già Griadnov nói rất dài dòng
nhưng cũng rất khó hiểu. Lão cứ rào trước đón sau, lẩn quẩn loanh quanh như
những vết chân cáo, xem ra chỉ lo vạ miệng thì khốn. Gã cụt tay Alexandr Samin
không nhịn được nữa:
- Tôi có thể nói được không?
- Anh cứ nói đi! - Kotliarov đồng ý,
những lời trao đổi đã làm anh xúc động.
- Đồng chí Stokman, đồng chí hãy bảo
trước cho tôi biết tôi có thể muốn nói gì thì nói được không?
- Đồng chí cứ nói đi.
- Nhưng các đồng chí không bắt tôi
chứ!
Stokman mỉm cười, chỉ xua tay mà
không nói gì.
- Nhưng phải với điều kiện là đồng
chí đừng nổi giận mới được! Đầu óc tôi vốn giản đơn: trong bụng nghĩ như thế
nào thì nói toạc ra như thế thôi.
- Em trai gã Alexandr là Marchin
đứng phía sau hoảng lên cứ kéo cái ống tay rỗng của thằng anh, khẽ nói:
- Thôi đi sao lại ngốc thế? Thôi đi,
không nói nữa, kẻo chúng nó lại để ý bây giờ. Anh sẽ bị ghi tên vào sổ đen đấy,
anh Aleksey?
Nhưng gã kia giằng ra, quay nhìn đám
người tụ họp, hai con mắt nháy lia lịa, vết sẹo trên má giật giật.
- Thưa chư vị Cô- dắc? Tôi sẽ nói và
các vị nhận xét xem những lời tôi nói là đúng hay có thể là sai. - Gã xoay
người trên gót chân một cách rất quân sự, quay nhìn Stokman, mắt nheo lại một
cách rất giảo quyệt. - Tôi thì tôi hiểu như thế nầy: hễ nói là phải nói theo
lương tâm. Đã chém thì phải chém cho thẳng tay? Vì thế tôi sẽ nói ngay là tất
cả mọi người Cô- dắc chúng ta đang nghĩ gì, và tại sao chúng ta oán giận người
cộng sản… Thưa đồng chí, vừa nãy đồng chí nói rằng các đồng chí không đánh vào người
dân cày Cô- dắc, vì họ không phải là kẻ thù của các đồng chí. Các đồng chí
chống lại bọn giàu có và tựa như đứng về phía người nghèo. Nhưng đồng chí hãy
bảo, bắn giết mấy bà con trong thôn chúng tôi như thế có đúng không? Lão
Korsunov thì tôi không nói làm gì, vì lão đã từng làm ataman, suốt dời cưỡi lên
đầu lên cổ người khác. Còn như lão Apdevich "Vua nói phét" thì làm gì
nên tội? Cả Kasulin Matvey nữa? Và Bogatyrev? Maidanikov? Còn Korolev nữa? Cả
bọn đều tăm tối, giản đơn, vô tích sự chẳng khác gì chúng tôi. Họ chỉ được tập
cầm cán cái cày chứ chưa được cầm quyển sách bao giờ. Trong số đó còn có những
người mũ chữ nữa là khác. Toàn bộ văn chương chữ nghĩa bất quá chỉ được chữ A,
chữ B. Nếu những con người như thế có nói điều gì không phải thì chẳng nhẽ vì
thế mà đem họ ra nhằm trên đầu ruồi hay sao? - Aleksey lấy lại hơi, ngả hẳn
người về phía trước, cái ống tay rỗng của chiếc trermen đập lên ngực, miệng gã
méo xệch đi. - Các đồng chí bắt họ, những kẻ chỉ nói vài lời càn bậy, đem họ đi
xử tử, nhưng lại không động gì đến bọn lái buôn! Bọn lái buôn đã đem tiền ra
cho đồng chí để chuộc lấy cái mạng của chúng nó! Chứ chúng tôi thì còn lấy gì
mà chuộc, quanh năm suốt đời rúc đầu vào hòn đất, có được trông thấy tờ giấy
bạc bao giờ đâu! Mấy bà con vừa bị bắn chết ấy có lẽ sẽ đem bán con bò cuối
cùng, miễn là giữ được cái mạng, nhưng các đồng chí có bắt họ nộp chiến phí
đâu? Họ đã bị bắt và bị cách ngay cái mạng. Mà tất cả chúng tôi đều biết rõ
những việc xảy ra trên Vosenskaia như thế nào rồi. Trên ấy tất cả những thằng
lái buôn, cố đạo đều còn nguyên vẹn. Và ở Karginskaia thì có lẽ chúng nó cũng
còn nguyên vẹn. Những việc xảy ra khắp nơi chúng tôi đều được nghe tin. Tiếng
lành nằm nhà, còn tiếng dữ bay khắp gầm trời!
- Đúng đấy! - Phía sau chỉ có một
người kêu lên.
Những tiếng lao xao dội lên, át cả
tiếng Aleksey. Gã chờ một lát rồi không để ý tới cánh tay Stokman đang giơ lên,
vẫn tiếp tục la to:
- Chúng tôi cũng hiểu rằng chính
quyền Xô viết có thể là tốt thật, song những người cộng sản ngồi chễm chệ trên
các cương vị công tác lại muốn thừa cơ dìm chết chúng tôi! Họ muốn trả thù
chúng tôi về cái chuyện năm Một nghìn chín trăm linh năm 1 Những lời như thế
chúng tôi đã được nghe ở miệng những người lính Hồng quân. Vì thế giữa chúng
tôi, chúng tôi nghĩ như thế nầy: bọn cộng sản muốn làm tuyệt nòi người mình,
muốn treo cổ tất cả chúng mình lên, để trên vùng sông Đông không còn bóng vía
một thằng Cô- dắc nào nữa. Đó là những lời tôi nói để cho đồng chí nghe đấy!
Bây giờ thì tôi như một thằng say rượu: trong bụng có cái gì đều tuôn hết ra
đầu lưỡi. Mà tất cả chúng tôi đều đang say vì mong muốn sống một cuộc đời tươi
đẹp vì oán hận các đồng chí, oán hận những người cộng sản!
Aleksey lẩn sâu vào trong đám những
chiếc áo lông ngắn. Bãi họp nằm lặng đi giờ lâu dưới bầu không khí đầy kinh
hoàng.
Stokman vừa bắt đầu nói thì trong
những hàng cuối đã có người hét to ngắt lời anh:
- Đúng đấy! Người Cô- dắc đang oán
hận đấy! Các đồng chí hãy nghĩ xem hiện nay trong thôn đang có những câu hát
như thế nào. Nói thẳng ra thì không phải ai cũng dám nói thẳng ra đâu, còn
những bài hát thì người ta vẫn cứ hát. Bài hát thì không ai truy nã được. Có
một bài theo điệu "Trái táo nhỏ" như thế nầy:
Samova đang sôi,
Cá đang chìm,
Kadet đến,
Chúng ta sẽ kêu.
- Có điều phải kêu đấy!
Có người phá lên cười rất không đúng
lúc. Đám người nhốn nháo.
Người ta thì thào, người ta bàn tán…
Stokman chụp mạnh cái mũ lên đầu,
móc trong túi ra bản danh sách mà Miska đã viết rồi kêu to:
- Không, không đúng như thế đâu!
Những người đi theo cách mạng thì không có gì đáng oán hận cả! Lý do vì sao
những kẻ thù của chính quyền Xô viết trong thôn các đồng chí bị xử bắn là như
thế nầy. Các đồng chí hãy nghe đây? - Rồi anh đọc rành rọt, ngắt từng đoạn:
DANH SÁCH NHỮNG KẺ THÙ CỦA CHÍNH
QUYỀN XÔ VIẾT BỊ BẮT VÀ GIẢI LÊN TRAO CHO UỶ BAN ĐIỀU TRA THUỘC TOÀ ÁN CÁCH
MẠNG SƯ ĐOÀN 15 INDENSKAIA
Bên cạnh hai họ Melekhov và họ
Bodovskov còn có mấy dòng ghi chú nhưng Stokman không đọc:
Số… Họ, tên, phụ danh…. Lý do bị
bắt… Ghi chú
1) Korsunov Miron Grigorievich - cựu
ataman, nhà giầu, làm giầu bằng sức lao động của người khác.
2) Sinilin Ivan Apdevich - Tung ra
những luận điệu tuyên truyền lật đổ chính quyền Xô viết.
3) Kasulin Matvey Ivanovich - như
trên
4) Maidanikov Semion Gavrilov - Đeo
lon, hô to ngoài phố những lời chống chính quyền
5) Melekhov Panteley Prokofievich -
Uỷ viên Cơ- rúc Quân khu
6) Melekhov Grigori Pancheleevich -
Thiếu uý, có tư tưởng chống đối - phần tử nguy hiểm.
7) Kasulin Andrey Madveev - Tham gia
vụ xử bắn các chiến sĩ Hồng quân Cô- dắc của Pochenkov
8) Bodovskov Fedot Nhikiphorov - Như
trên.
9) Bogatyrev Ackhip Madveev - Trùm
trưởng nhà thờ. Tuyên truyền chống chính quyền ở vọng gác. Xúi giục nhân dân và
bọn phản cách mạng.
10) Korolev Dakha Leonchev - Không
chịu nộp vũ khí. Phần tử không thể tin cậy.
"Chưa bắt được ba kẻ thù nầy
của chính quyền Xô viết vì hai tên vừa bị cắt đi làm dân công tải đạn lên trấn
Bokovskaia. Còn Melekhov Panteley thì đang bị thương hàn. Hai tên thứ nhất về
tới thôn sẽ lập tức bắt giải ngay lên khu. Tên thứ ba sẽ bị bắt ngay sau khi
khỏi bệnh".
Bãi họp lặng đi trong vài giây rồi
bất thần nổ ra những tiếng la thét ầm ĩ:
- Không đúng?
- Láo! Chúng nó có nói những lời
chống chính quyền!
- Những thằng như thế thì phải bắt
giữ lại!
- Thế thì cứ nhìn vào miệng người ta
hay sao?
- Họ bị vu oan giá hoạ đấy thôi?
Stokman lại nói thêm. Mọi người nghe
anh nói với một thái độ có vẻ như chú ý, thậm chí còn có những tiếng kêu tán
thành, nhưng cuối cùng, khi anh nêu vấn đề chia tài sản của những kẻ chạy theo
bọn Trắng thì người ta chỉ trả lời bằng cách nín thinh.
- Tại sao bà con ta cứ như ngậm nước
trong miệng thế? - Kotliarov bực tức hỏi.
Đám người chạy ùa ra lối về như
những viên đạn ghém Xemka, một anh chàng bần nông vào hạng nghèo nhất, biệt
hiệu là "Đầu gang", ngập ngừng tiến lên vài bước, nhưng nghĩ đi nghĩ
lại thế nào, lại vung chiếc găng tay không có ngón:
- Bọn chủ nhà chúng nó về thì tha hồ
mà run 2!
Stokman còn định khuyên mọi người
đừng nên giải tán vội, nhưng Miska, mặt trắng bệch như bột bánh, đã rỉ tai
Kotliarov:
- Mình đã bảo là chúng nó không nhận
đâu. Đem các tài sản ấy đốt sạch đi ngay còn hơn là chia cho chúng nó!
--- ------ ------ ------ -------
1 Trong
cuộc cách mạng dân chủ tư sản năm 1905 ở Nga, binh sĩ Cô- dắc đã bị Nga Hoàng
đưa đi đàn áp nhân dân một cách thảm khốc (ND).
2 Nguyên
văn: tha hồ mà hấp háy con mắt (ND).
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 145
Miska rũ đầu xuống, từ từ bước lên
ngưỡng cửa nhà Mokhov, anh vừa đi vừa đập đập cái roi ngựa lên ống ủng, vẻ mặt
đăm chiêu. Trong hành lang có mấy cái yên xếp thành một đống sát cửa ngay dưới
đất. Xem ra có người vừa đến chưa được bao lâu: trên một chiếc bàn đạp còn thấy
một đám tuyết chưa tan vàng khè vì lẫn với phân ngựa, trên tuyết hằn rõ lốt đế
ủng của người cưỡi ngựa. Một vũng nước loáng nhoáng bên dưới chiếc bàn đạp.
Miska đã nhìn thấy tất cả các thứ đó trong khi anh đi qua cái sân thượng bẩn
thỉu. Mắt anh nhìn lướt qua dãy lan can chạm trổ sơn xanh đã mất vài con tiện,
trên dải sương muối lờm xờm bám sát chân tường như đường viền tim tím. Anh nhìn
rất nhanh cả mấy khung cửa sổ đổ mồ hôi bên trong, đùng đục như cái bong bóng
bò. Nhưng tất cả những cái gì mà anh trông thấy đều không được ghi lâu trong ý
thức của anh, đều trôi tuột đi lúc nào không biết, chập chờn như trong một giấc
mộng.
Lòng thương và lòng căm thù Grigori
Melekhov đang quyện lẫn với nhau trong trái tim đơn giản của Miska… người đầy
tớ gái lúc nầy đang bận nhóm cái bếp lò kiểu Hà Lan. Phòng bên có tiếng mấy anh
chàng công an cười rất to. "Kỳ quặc thật! Chúng nó có gì mà phởn
thế?" - Miska thoáng có một ý nghĩ bực bội trong khi bước qua. Anh đập
thêm một roi cuối cùng xuống ủng, vẻ mặt khó chịu, rồi không gõ cửa bước ngay
vào căn phòng trong góc.
Kotliarov đang ngồi sau bàn giấy với
chiếc áo bông mở phanh. Chiếc mũ lông đen hất lệch sang bên mon rất ngang tàng,
nhưng khuôn mặt đẫm mồ hôi đầy vẻ mệt mỏi và ưu tư. Stokman ngồi bên cạnh, trên
bậu cửa sổ với cái áo ca- pốt kỵ binh muôn thuở dài lượt thượt. Anh đón Miska
bằng một nụ cười rồi giơ tay ra hiệu mời Miska ngồi xuống bên cạnh.
- Thế nào, Miska ngồi xuống đây.
Miska ngồi xuống, hai chân dang
rộng. Giọng nói bình tĩnh và tò mò của Stokman đã có tác dụng làm anh chàng
tỉnh ra.
- Có một người đáng tin cậy nói với
tôi rằng… Tối hôm qua thằng Grigori Melekhov đã về nhà. Nhưng tôi còn chưa đến
nhà nó.
- Về chuyện nầy cậu thấy nên làm thế
nào?
Stokman cuộn điếu thuốc, chốc chốc
lại hiêng hiếng nhìn Kotliarov, chờ xem anh trả lời ra sao.
- Bắt nó nhốt xuống hầm hay như thế
nào? - Kotliarov hỏi giọng do dự, hai con mắt nháy lia lịa.
- Cậu là chủ tịch Uỷ ban cách mạng
của chúng mình… Cậu liệu đấy! - Stokman mỉm cười và chỉ nhún vai, không hiểu ý
anh định nói gì. Anh biết cười một cách nhạo báng cay độc đến nỗi nó làm người
ta đau không kém gì một ngọn roi. Cái cằm của Kotliarov đầm đìa mồ hôi. Anh rít
răng trả lời kiên quyết:
- Tôi là Chủ tịch, vì vậy tôi sẽ bắt
cả thằng Griska lẫn thằng anh nó và giải đi Vosenskaia?
- Bắt thằng anh của thằng Grigori
Melekhov thì vị tất đã được ích gì. Fomin đã là một ngọn núi cho nó dựa rồi.
Cậu đã biết Fomin đã nói về nó những lời tốt đẹp như thế nào rồi đấy… Còn thằng
Grigori thì phải bắt nó ngay hôm nay, ngay bây giờ! Ngày mai chúng ta sẽ giải
nó lên Vosenskaia, nhưng các tài liệu về nó thì ngay hôm nay phải cho một cậu
công an cưỡi ngựa đưa thẳng cho đồng chí Chánh án toà án cách mạng.
- Có lẽ đến tối hãy nên bắt thằng
Grigori, đồng chí Yosif Davydovich thấy thế nào?
Stokman ho sặc lên một hồi, anh chờ
hết cơn mới chùi râu và hỏi:
- Sao lại chờ đến tối?
- Đỡ điều ra tiếng vào…
- Chà, cậu có biết… làm như thế là
ngớ ngẩn hay không?
- Miska, cậu gọi ngay hai cậu nữa,
lập tức bắt ngay thằng Griska. Giam riêng nó ra. Hiểu chưa?
Miska tụt trên bậu cửa sổ xuống, đi
ra chỗ mấy anh chàng công an. Stokman lệt sệt lê đôi ủng má mòn vẹt, cũ đến bạc
phếch, đi đi lại lại trong phòng. Rồi anh đứng lại trước cái bàn và hỏi:
- Số vũ khí thu được lần cuối cùng
cậu đã gửi đi chưa?
- Chưa?
- Sao vậy?
- Hôm qua chưa kịp gửi đi.
- Sao vậy?
- Hôm nay sẽ gửi đi.
Stokman cau mặt, nhưng anh lập tức giương
cao hai hàng lông mày, hỏi rất nhanh:
- Hai anh em nhà Melekhov đã nộp
những gì?
Kotliarov nheo mắt mỉm cười, cố nhớ
lại:
- Chúng nó nộp cái gì cũng có đôi,
hai khẩu súng trường và hai khẩu Nangan. Nhưng đồng chí nghĩ thế nào, đã hết
chưa?
- Chưa hết à?
- Ái chà chà! Còn có ai ngốc hơn
đồng chí nữa không?
- Tôi cũng nghĩ như thế. - Stokman
mím chặt môi lại. - Nếu ở cương vị cậu thì ngay khi bắt được nó tôi sẽ tổ chức
một cuộc khám nhà nó thật cẩn thận. Nhân tiện cậu cũng nên báo cáo bộ tư lệnh. Suy
nghĩ thì cậu cũng có suy nghĩ đấy, nhưng ngoài ra còn phải hành động nữa mới
được.
Nửa giờ sau Miska trở về. Anh chàng
chạy xăm xăm qua sân thượng mở cửa đánh rầm, rồi đứng lại ở ngưỡng cửa, lấy lại
hơi, quát to:
- Mẹ nó chứ?
- Sa- a- ao? - Stokman bước nhanh
tới hỏi, hai con mắt trợn tròn một cách đáng sợ, chiếc áo ca- pốt dài lượt
thượt quấn cả vào chân, tà áo loạt soạt trên ủng.
Không biết do cái giọng nói rất khẽ
của Stokman hay vì một nguyên nhân nào khác mà Miska phát khùng gào lên:
- Nầy đồng chí đừng trợn mắt lên như
thế! - Đến đây Miska vặc một tiếng rất tục. - Chúng nó bảo thằng Griska đến
Xinghin, đến nhà dì nó rồi, nhưng chuyện nầy có phải do tôi gây ra đâu? Còn các
đồng chí thì trong khi đó các đồng chí làm gì hử? Ngồi nhổ đinh trên tường à?
Đấy! Thế là để xổng mất thằng Griska rồi? Còn tôi thì chớ có rầy la gì tôi?
Công việc của tôi là công việc thiên lôi, chỉ đâu đánh đấy. Còn các đồng chí
thì đầu óc các đồng chí nghĩ những gì hử? - Miska thấy Stokman tiến sát tới
trước mặt mình bèn lùi lại, đưa lưng vào cái thành lò sưởi lát gạch hoa, cười
hì hì. - Nầy chớ có dồn tôi, đồng chí Yosif Davydovich! Đừng có dồn tôi, nếu
không tôi đánh cho mà xem!
Stokman đứng một lát trước mặt
Miska, bẻ ngón tay răng rắc.
Anh nhìn hai hàm răng Miska nhe ra
trắng loá, nhìn cặp mắt tươi cười và thẳng thắn của Miska rồi nói dằn từng
tiếng:
- Có biết đường đi Xinghin không?
- Có biết.
- Thế thì sao còn mò về đây? Thế mà
dám mở miệng nói rằng đã từng đánh nhau với bọn Đức rồi đấy… Đồ ăn hại? - Rồi
anh nheo mắt vờ tỏ vẻ khinh bỉ.
° ° °
Đồng cỏ nằm dài dưới một làn sương
mù xanh xanh, mung lung như khói. Vầng trăng đỏ ngầu đang lên sau ngọn gò bên
kia sông Đông. Vầng trăng toả sáng một cách dè sẻn, và không làm mờ chút nào
những ngôi sao lấp lánh như lân tinh.
Sáu người cưỡi ngựa đang tiến trên
con đường đi Xinghin. Những con ngựa chạy nước kiệu. Bên cạnh Miska, Stokman
đang bị xóc trên chiếc yên ngựa long kỵ binh. Con ngựa rất cao màu hạt dẻ giống
sông Đông lúc nào cũng muốn lồng lên và cố tìm cách cắn vào đầu gối người cưỡi.
Với bộ mặt phớt lạnh, Stokman kể một câu chuyện buồn cười gì đó, Miska cúi rạp
mình xuống mũi yên, phá lên cười, tiếng cười lanh lảnh từng tràng như con nít,
vừa cười vừa nấc nghẹn, vừa cố nhìn xuống dưới cái khăn bịt đầu tìm hai con mắt
nghiêm nghị và chăm chú của Stokman.
Mọi người sục rất kỹ ở Xinghin nhưng
chẳng thu được kết quả gì cả.
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 146
Sau khi tới Bokovskaia, Grigori lại
bị bắt phải đi Chernysevskaia. Mươi ngày sau chàng mới về nhà. Nhưng hai ngày
trước khi chàng về tới nơi, ông bố đã bị bắt, ông Panteley Prokofievich mới
khỏi bệnh thương hàn, vừa chập chững đi lại được. Ông rời khỏi giường bệnh với
bộ tóc càng bạc nhiều hơn, người gầy rạc như một bộ xương ngựa. Bộ tóc xoăn bạc
trắng rụng từng đám như bị mối ăn, chòm râu cũng thưa đi với khoảng chung quanh
trắng phơ như bọt xà phòng.
Người công an cho mươi phút để sửa
soạn rồi giải đi ngay. Trước khi bị đưa đi Vosenskaia, ông đã bị nhốt dưới tầng
hầm của nhà Mokhov. Trong căn hầm nặc mùi táo hồi hương, ngoài ông ra còn có
chín lão già và một tên bồi thẩm.
Trước khi Grigori kịp bước chân qua
cổng. Petro đã báo cho chàng biết tin đó và khuyên:
- Em ạ, mầy chuồn ngay đi thôi…
Chúng nó đã đến hỏi xem bao giờ mày về rồi đấy. Mầy vào sưởi ấm qua quít, thăm
con một cái rồi tao sẽ đánh xe đưa mày đến thôn Ryvnyi. Đến đấy mầy sẽ lẩn cho
kín mà chờ thời cơ. Nếu chúng nó đến hỏi, tao sẽ bảo là mày đến nhà dì ở
Xinghin. Thôn ta đã có bảy người bị xử bắn rồi đấy, mầy đã được biết chưa? Chưa
biết chừng cha cũng không thoát khỏi cái vòng ấy đâu… Còn mầy thì chẳng còn
phải nói làm gì!
Grigori ngồi lại trong bếp chừng nửa
giờ rồi thắng ngay con ngựa của chàng và ngay đêm hôm ấy đi Ryvnyi. Một người
Cô- dắc họ xa với nhà Melekhov đã niềm nở cho Grigori trốn trong một nơi đế
phân khô. Chàng phải chui rúc trong đó hai ngày liền, đến đêm mới dám bò trong
cái lỗ của mình ra.
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 147
Ở Xinghin về hôm trước thì hôm sau
Miska đi Vosenskaia để hỏi xem bao giờ họp chi bộ đảng. Cùng với Kotliarov,
Emelian, Davydka và Finka, Miska đã quyết định làm các thủ tục xin vào đảng.
Miska mang theo số vũ khí cuối cùng
mà bọn Cô- dắc mới đem nộp, khẩu súng máy nặng bắt được trong sân trường học và
bức thự mà Stokman viết cho chủ tịch Uỷ ban cách mạng khu. Trên đường đi Vosenskaia,
khi chạy qua bãi cỏ hoang ven sông, chiếc xe đã làm cho vài chú thỏ rừng chạy
vọt trong hang ra. Trong những năm chiến tranh, thỏ rừng đã sinh sôi nảy nở
nhiều đến nỗi chúng chạy loạn lên, có thể nói là đi một bước đều có thể gặp. Có
bao nhiêu bụi cỏ vũ mâu vàng thì có bấy nhiêu hang thỏ. Một chú thỏ xám bụng
trắng nghe thấy tiếng xe rít hoảng lên chạy ràn rạt qua bãi cỏ hoang, cái đuôi
viền đen lấp loáng. Emelian đang điều khiển hai con ngựa, anh ta quẳng dây
cương, hét lên một cách hung dữ:
- Bắn đi! Kìa, xin nó tí tiết đi!
Miska nhảy phắt trên xe xuống, quì
một chân bắn theo cái đám lông xám đang chạy vun vút, hết một kẹp đạn. Anh
chàng thất vọng nhìn mấy viên đạn bắn tung những đám tuyết vụn trắng loá xung
quanh, còn đám lông kia vẫn cứ tăng tốc độ chạy như bay, làm tuyết rơi lả tả từ
trên những bụi cỏ, rồi trốn vào trong rừng rậm.
° ° °
Trụ sở Uỷ ban cách mạng nhốn nháo
không còn trật tự gì nữa. Mọi người chạy đi chạy lại với những bộ mặt hoảng
hốt, chốc chốc lại có những liên lạc hoả tốc cưỡi ngựa trở về, phố xá hoang
vắng một cách lạ lùng. Miska rất ngạc nhiên, anh không hiểu sao lại có cái cảnh
tượng lăng xăng tất bật đầy lo lắng như thế. Phong thư của Stokman thì phó chủ
tịch Quân khu thẫn thờ bỏ vào túi. Thấy Miska hỏi có trả lời không, ông lầu
bầu, vẻ mặt nghiêm khắc:
- Thôi để cho người ta được yên, xéo
đi đâu thì xéo! Không có đâu thì giờ mà nghĩ tới việc của các anh được?
Các chiến sĩ Hồng quân của đại đội
cảnh vệ lượn đi lượn lại trên quảng trường. Một chiếc xe nhà bếp dã chiến chạy
qua, khói phun nghi ngút. Mùi thịt bò và mùi lá nguyệt quế toả ra thơm phức
trên quảng trường.
Miska tạt vào Toà án cách mạng, tới
chỗ một anh em quen biết để hút thuốc. Anh hỏi:
- Chỗ các đồng chí đây làm gì loạn
cả lên thế?
Một người dự thẩm phụ trách các vụ
án địa phương tên là Gromov miễn cưỡng trả lời anh:
- Ở Kazanskaia hình như không được
yên ổn lắm thì phải. Không biết là có bọn Trắng chọc thủng vào được hay là bọn
Cô- dắc nổi dậy. Nghe đồn hôm qua trong vùng đó có đánh nhau. Đường dây điện thoại
đã bị cắt đứt.
- Cần phải cho liên lạc cưỡi ngựa
tới đấy mới được.
- Có điều đi rồi. Hôm nay lại có
thêm một đại đội đi Elanskaia. Cả về phía đó tình hình cũng không được êm đẹp.
Mấy người ngồi hút thuốc bên cửa sổ.
Tuyết rơi lất phất bên ngoài những vuông kính trên cửa sổ ngôi nhà rất bề thế
của lão lái buôn mà Toà án lấy làm trụ sở.
Có những tiếng súng nổ trầm trầm
không biết ở chỗ nào bên ngoài thị trấn, trong khoảng rừng thông, về hướng
Chernaia. Miska tái mặt để rơi điếu thuốc. Mọi người trong nhà đều đổ xô ra
sân.
Tiếng súng đã vang rất to, rất dữ
dội. Một loạt đạn bắn đều dội lên, át cả những tiếng súng mỗi lúc một dồn dập.
Những viên đạn rít lên, xuyên thun thút qua các mảnh ván của vách nhà kho, qua
cổng nhà.
Một chiến sĩ Hồng quân bị thương ở
ngoài sân. Gromov chạy ra quảng trường, vừa chạy vừa vo một nắm giấy tờ nhét
vào túi. Các chiến sĩ còn lại của đại đội cảnh vệ tập họp ở gần trụ sở của Uỷ
ban cách mạng. Người đại đội trưởng mặc một chiếc áo da thuộc rất ngắn chạy như
con thoi giữa đám chiến sĩ Hồng quân, rồi cho đại đội chạy nước kiệu theo đội
hình hàng dọc ra chỗ dốc xuống sông Đông. Tinh thần chung bắt đầu hoang mang
dao động một cách cực kỳ nguy hiểm. Người chạy lung tung trên quảng trường. Một
con ngựa yên cương đầy đủ nhưng không có người cười, ngẩng cao đầu phi nước đại
qua.
Miska hết hồn hết vía, không hiểu
mình làm thế nào mà cũng có mặt trên quảng trường. Anh nhìn thấy Fomin mặc
chiếc áo choàng lông chạy vụt từ trong nhà thờ ra như một cơn lốc đen ngòm. Một
khẩu súng máy nặng buộc sau đuôi con ngựa cao lớn của anh ta. Những bánh xe
không kịp quay nữa, khẩu súng cứ lạng đi và bị kéo lết sau con ngựa phi nước
đại, hết nghiêng bên nọ lại ngả bên kia.
Fomin cúi rạp mình trên mũi yên, mất
hút sau quả núi, để lại sau lưng một làn bụi tuyết trắng như bạc.
"Ra chỗ hai con ngựa!" -
đó là ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong đầu óc Miska. Thế là anh cúi người xuống
thật thấp chạy qua ngã tư, không dừng lại một lần nào để lấy lại hơi. Tim anh
như ngừng đập cho tới khi về tới nhà trọ. Emelian đang thắng hai con ngựa,
nhưng anh chàng hoảng quá không làm thế nào móc được dây thắng.
- Có gì thế, Miska? Có chuyện gì
thế? - Emelian lắp bắp hỏi, hai hàm răng đập vào nhau lập bập. Thắng xong ngựa
vào xe thì không thấy dây cương đâu, mắc được dây cương vào rồi thì đoạn dây
bên trái cổ ngựa lại tuột ra.
Cái sân ngôi nhà hai người ở trọ
thông ngay ra đồng cỏ. Miska đưa mắt nhìn về phía đám thông, nhưng về hướng đó
không thấy một đội hình tản khai nào của bộ binh, cũng chẳng có làn sóng tấn
công nào của kỵ binh. Vẫn có những phát súng nổ, không biết từ chỗ nào. Phố xá
vắng tanh. Tất cả có vẻ bình thường, chán ngấy. Nhưng trong khi đó một điều
khủng khiếp đang diễn ra: cuộc nổi loạn đang làm mưa làm gió.
Trong lúc Emelian loay hoay thắng
ngựa, Miska không rời mắt khỏi hai con ngựa một lúc nào. Anh thấy một người mặc
áo bành tô đen chạy từ sau ngôi nhà thờ nhỏ qua chỗ trạm vô tuyến điện thoại bị
cháy hồi tháng Chạp. Người ấy áp tay lên ngực, cúi rạp xuống chạy bán sống bán
chết. Chiếc áo bành tô đã giúp cho Miska nhận ra viên dự thẩm Gromov. Anh vừa
nhìn thấy Gromov thì từ sau một dãy hàng rào đã hiện ra một người cưỡi ngựa. Cả
người nầy, Miska cũng nhận ra. Đó là gã Cô- dắc Chernhitkin người trấn
Vosenskaia, một tên bạch vệ còn trẻ nhưng hết sức phản động. Khoảng cách giữa
Gromov và Chernhitkin là chừng một trăm xa- gien. Gromov vừa chạy vừa ngoái
nhìn lại hai lần rồi rút trong túi ra một khẩu súng ngắn. Đùng lên một phát
súng rồi một phát nữa. Gromov nhảy lên đỉnh một cái gò cát, bắn bằng khẩu
Nagan. Con ngựa còn đang chạy. Chernhitkin đã nhảy xuống. Tay vẫn giữ dây
cương, hắn hạ khẩu súng trường, nằm xuống một đống tuyết. Hắn mới bắn một phát
mà Gromov đã lạng người đi, phải đưa tay trái ra nắm lấy một cành cây khô.
Gromov lảo đảo đi thêm vài bước trên ngọn gò rồi ngã úp mặt xuống tuyết.
"Bị bắn chết rồi!" - Miska lạnh cả gáy.
Chernhitkin vốn là một tay thiện xạ
bậc nhất. Với khẩu carbin kiểu Áo đem về từ sau cuộc chiến tranh với Đức, hắn
bắn bách phát bách trúng bất kỳ mục tiêu nào ở bất cứ cự ly nào. Sau khi nhảy
ra khỏi cổng ngôi nhà, ngồi lên chiếc xe trượt tuyết rồi, Miska còn nhìn thấy
Chernhitkin cho con ngựa phi lên ngọn gò và vung gươm chém lên chiếc áo bành tô
đen nằm chéo trên tuyết.
Cho xe chạy qua sông Đông về Batki
thì rất nguy hiểm. Trên mặt sông mênh mông trắng loá hai con ngựa và hai người
đi xe sẽ trở thành một cái bia bắn cực tốt.
Trên mặt sông đã có hai chiến sĩ
Hồng quân trong đại đội cảnh vệ trúng đạn nằm lại. Vì thế Emelian lái hai con
ngựa, cho chạy qua hồ, vào rừng. Tuyết phủ trên lớp băng đã thấm nhiều nước.
Những tia nước và những nắm tuyết bị hất tung tóe dưới vó ngựa. Đòn trượt tuyết
hằn lên hai vạch dài rất sâu. Hai con ngựa chạy về tới thôn trong một nước đại
điên cuồng. Nhưng khi đến chỗ qua sông, Emelian quay khuôn mặt bị gió quất đỏ
rực, nhìn Miska:
- Làm thế nào bây giờ? Nếu thôn ta
cũng đã nháo lên như thế rồi thì sao?
Mắt Miska đượm vẻ buồn. Anh nhìn
khắp thôn một lượt. Trên dãy phố gần sông Đông nhất thấy có hai người cưỡi
ngựa. Có lẽ Miska tưởng đó là hai người công an.
- Cứ cho xe về thôn thôi. Chúng ta
không còn chỗ nào mà đi nữa rồi! - Anh nói giọng kiên quyết.
Emelian thúc ngựa một cách hết sức
miễn cưỡng. Chiếc xe vượt qua sông Đông, và leo lên dốc tới lối vào thôn. Gã
Anchip con lão "Vua nói phét" cùng hai lão già đầu trên thôn chạy từ
phía trước lại:
- Ồ, Miska! - Emelian thấy trong tay
gã Anchip có một khẩu súng trường bèn kéo ngựa, quay phắt trở lại.
- Đứng lại!
Một phát súng nổ. Emelian ngã vật
xuống, dây cương vẫn không rời tay. Hai con ngựa lao đầu vào dãy hàng rào.
Miska nhảy ra khỏi xe. Anchip đi đôi ủng ngắn lảo đảo chạy tới, vừa chạy vừa
trượt chân. Rồi gã đứng lại, giương súng lên vai. Miska ngã dúi vào dãy hàng
rào còn nhìn thấy mấy cái răng trắng loá của chiếc đinh ba trong tay một lão
già.
- Cho nó một trận!
Miska cảm thấy đau như cháy vai, ngã
vật xuống, đưa hai tay lên che mắt, không kêu một tiếng nào. Một tên thở hổn
hển cúi xuống đâm cho anh một nhát đinh ba.
- Đứng dậy, đồ chó!
Những việc xảy ra tiếp theo, Miska
còn nhớ tất cả như trong một giấc mơ. Gã Anchip khóc nức nở chạy tới túm lấy
ngực anh.
- Nó đã làm cho cha tôi phải chết…
Buông tôi ra, các cụ! Để tôi moi tim nó ra?
Những tên khác lôi được gã ra. Người kéo đến đã đông. Một
người khuyên gã bằng một giọng khàn khàn như phải cảm:
- Thôi tha cho thằng nầy! Bà con ta
không còn đeo thánh giá nữa hay sao thế? Thôi đi, Anchip! Ông cụ nhà anh không
thể cứu sống lại được nữa rồi, thế mà anh còn muốn làm chết thêm một mạng nữa
hay sao? Anh em ta giải tán đi thôi! Đằng kia, trong nhà kho đang chia đường
đấy. Ta ra đằng ấy đi…
Đến tối Miska tỉnh lại ngay dưới
chân dãy hàng rào đó. Chỗ cái đinh ba đâm vào sườn nhức và nóng như lửa. Răng
đinh ba xuyên qua cái áo lông ngắn và cái áo bông, ăn vào người không sâu lắm.
Nhưng vết thương rất đau, máu đông lại từng đám. Miska đứng dậy lắng nghe. Có
lẽ những tên tuần cảnh của bọn phiến loạn đang đi trong thôn. Đùng đoàng có
những tiếng súng nổ thưa thớt. Chó sủa oăng oẳng. Xa xa có tiếng người nói lao
xao mỗi lúc một gần. Miska đi dọc sông Đông theo con đường bò ngựa thường đi.
Anh lần tới một khoảng vách đứng, bò dưới chân những dãy hàng rào, đưa hai tay
sờ soạng trên lớp tuyết đóng băng thành một cái vỏ cứng, sầy cả da, chốc chốc
lại ngã dúi xuống. Anh không nhận ra mình đang ở chỗ nào, nhưng vẫn bò hú hoạ.
Khắp người bị lạnh quá cứ run bần bật, hai tay cóng lại. Chính cái lạnh đã bắt
anh phải mò tới trước cổng một căn nhà, không biết là nhà ai. Miska mở cái cửa
hàng rào đan bằng cành cây khô, vào tới sân sau. Bên trái thấy một căn để trấu.
Anh đã định lần ra đấy, nhưng ngay lúc có tiếng chân người và tiếng ho.
Một người đi về phía căn nhà trấu,
đế của đôi ủng da dẫm cọt kẹt. "Mình sẽ bị chúng nó giết ngay đây". -
Miska thoáng có một ý nghĩ lạnh nhạt, như về một người nào khác. Người kia đi
đến khung cửa tối om thì đứng lại.
- Ai thế? - Giọng nói nghe yếu ớt và
có vẻ như sợ hãi.
Miska bước ra sau bức tường.
- Ai đấy? - Tiếng hỏi đã to hơn và
càng có vẻ lo lắng hơn.
Miska nhận ra tiếng Stepan Astakhov
bèn bước tới từ trong nhà trấu ra.
- Anh Stepan, tôi đây, Miska Kosevoi
đây… Anh cứu tôi với, anh hãy vì Chúa mà cứu tôi với! Anh có thể không nói cho
ai biết được không? Anh giúp tôi nhé!
- Cứ ngỡ là ai… - Stepan vừa đứng
dậy được sau đợt thương hàn, giọng nói còn rất yếu. Anh ta gầy quá nên miệng
dài hẳn ra trong một nụ cười rộng hoác đầy vẻ nghi ngại. - Thôi được, cậu cứ
nghỉ đêm ở đây, nghỉ một ngày rồi đi đâu thì đi. Nhưng cậu làm thế nào mò được
tới đây thế nầy?
Miska không trả lời, chỉ nắm lấy tay
Stepan rồi chui luôn vào đống trấu.
Hôm sau, trời vừa tối, Miska đã liều
mạng lần về đến nhà, gõ cửa sổ. Bà mẹ ra mở cửa cho anh vào phòng ngoài. Bà
khóc oà lên, đưa hai tay sờ soạng, ôm lấy cổ Miska, đập đầu vào ngực Miska.
- Thôi đi đi con ạ! Con hãy vì Chúa
mà đi đi, Miska! Sáng hôm nay đã có mấy thằng Cô- dắc đến nhà ta… Chúng nó sục
khắp nhà để tìm con. Thằng Anchip con lão "Vua nói phét" cầm roi ngựa
quật mẹ. Nó bảo: "Mày giấu thằng con mày. Chỉ tiếc rằng tao đã không giết
nó ngay lúc ấy!"
Anh em mình đang ở đâu bây giờ,
Miska không thể nghĩ ra được. Tình hình trong thôn như thế nào anh cũng không
biết. Qua vài lời mẹ kể ngắn ngủi, anh hiểu rằng tất cả các thôn hai bên sông
Đông nổi loạn, rằng Stokman, Kotliarov cùng mấy người công an đã cưỡi ngựa bỏ
chạy, còn Finka và Timofey thì bị giết ở ngoài bãi ngay trưa hôm qua.
- Đi đi con! Chúng nó đến đây tìm
thấy con mất…
Bà mẹ khóc, giọng bà đau khổ nhưng
rất cứng rắn. Đã lâu lắm, đây là lần đầu tiên Miska khóc. Anh nức nở như một
đứa con nít, nước bọt sùi cả ra mép. Rồi anh ra đóng yên con ngựa cái đang cho
con bú, chính con ngựa anh đã mang theo hồi làm công việc chăn ngựa. Anh dắt nó
ra sân đập lúa. Bà mẹ và con ngựa con lẽo đẽo theo sau. Bà mẹ đỡ Miska lên ngựa
rồi làm dấu phép chúc phước cho anh.
Con ngựa cái cất bước một cách miễn
cưỡng, nó hí lên hai lần để gọi con. Cả hai lần, trái tim của Miska đều như
rụng ra, tụt xuống chỗ nào bên dưới. Nhưng anh đã lên gò được yên ổn rồi cho
con ngựa chạy nước kiệu trên con đường của các vị Ghet- man, về phía đông, theo
hướng trấn Ust- Medvediskaia. Đêm hôm ấy tối mù mịt, đúng là một đêm của kẻ
trốn chạy. Con ngựa cái sợ lạc mất con, chốc chốc lại hí lên. Miska nghiến răng
quất đầu roi vào tai nó, chốc chốc lại cho nó đứng lại, để lắng nghe xem phía
sau hay phía trước có tiếng ngựa chạy không, trong lòng thấp thỏm chỉ lo tiếng
con ngựa hí làm cho có người chú ý. Nhưng bốn bề vẫn chết lặng như trong thần
thoại. Miska chỉ nghe thấy tiếng con ngựa con thừa lúc đứng lại để bú mẹ. Nó ấn
hai cái chân sau nhỏ xíu xuống luyết, áp mõm vào cái vú thâm xịt của mẹ, môi bập
bập. Miska, ngồi trên lưng con ngựa mẹ cũng cảm thấy con ngựa con rúc rúc lên
như đòi hỏi.
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 148
Nhà chứa phân gia súc nặc mùi phân
khô, mùi rơm mục và mùi cỏ bò ngựa ăn thừa. Ban ngày chỉ có một ánh sáng xám
xám rỉ xuống qua cái mái lợp bằng hương bồ. Đôi khi cũng có lúc mặt trời ngó
qua cái cửa đan bằng cành cây khô như qua một cái rây. Ban đêm chung quanh tối
đen đến đau cả mắt. Chuột kêu chí chí. Bốn bề lặng tờ…
Mỗi ngày người vợ của chủ nhà lén
mang thức ăn đến cho Grigori một lần, vào buổi tối. Bên cạnh chàng có một bình
nước rất to vùi trong phân khô. Có lẽ mọi điều phải chịu đựng đều cũng chẳng
sao, nhưng lại hết thuốc lá. Mấy ngày đầu Grigori đau khổ ghê gớm, và không có
gì hút không chịu được, một buổi sáng chàng bò ra sàn đất, quơ một ít phân ngựa
khô vào trong lòng bàn tay, xát hai tay vào nhau cho phân nát ra rồi hút. Đến
tối người chủ nhà cho vợ mang tới hai tờ giấy mốc meo xé trong một cuốn Phúc
âm, một bao diêm và một nắm vừa cỏ đôn- nhích khô vừa rễ thứ thuốc lá "điu-
bêch" nhà trồng lấy, còn quá non. Grigori sướng quá hút luôn một mạch đến
buồn nôn và lần đầu tiên đánh được một giấc li bì trên lớp phân khô lồi lõm, tà
áo phủ kín đầu, như con chim rúc đầu vào cánh.
Một buổi sáng người chủ nhà đánh
thức chàng dậy. Bác ta chạy vào trong gian chứa phân, gọi giật giọng:
- Vẫn còn ngủ cơ à? Dậy đi thôi! sông Đông tan băng rồi?
- Nói xong cười một tràng ròn tan.
Grigori nhảy từ trên chỗ chàng đang nằm xuống, những tảng
phân khô nặng hàng pút rơi theo bình bịch sau lưng chàng như tuyết.
- Có chuyện gì thế?
- Anh em hai trấn Elanskaia và Vosenskaia bên nầy sông đã
nổi lên bạo động rồi. Fomin và tất cả cái chính quyền ở Vosenskaia đã phải
chuồn đi Tôkin. Hình như ở Kazanskaia, Sumilinskaia, Migulinskaia cũng đều đã
nổí dậy. Cậu đã hiểu là như thế nào chưa?
Các mạch máu trên trán và trên cổ Grigori phồng cả lên,
hai tròng con mắt của chàng lóe ra những tia xanh lè. Chàng không thể ghìm nén
niềm vui sướng được nữa: giọng nói của chàng run lên, những ngón tay đen thủi
đưa lên đưa xuống không mục đích theo hàng móc trên chiếc áo ca- pốt.
- Thế ở chỗ bác… trong thôn nầy ấy? Tình hình hiện nay
như thế nào?
- Chẳng thấy động tĩnh gì cả. Tôi có gặp thằng Chủ tịch,
nó chỉ cười và bảo: "Đối với tôi thì đằng nào cũng thế cả. Cầu nguyện vị
thần nào cũng được, miễn là có một vị thần mà cầu nguyện". Nhưng cậu hãy
chui ra khỏi cái hang của cậu đã nào.
Hai người cùng lên nhà trên. Grigori bước những bước rất
dài. Người chủ nhà vừa chạy lon ton bên cạnh, vừa kể luôn miệng:
- Ở trấn Elanskaia, thôn Karanoiasky đã nổi lên trước
nhất. Hôm kia có hai mươi thằng Cộng sản trên Elanskaia về hai thôn Krivskoi và
Plesakovk để bắt bà con Cô- dắc, nhưng anh em ở Karanoiasky nghe tin có chuyện
như thế bèn tập họp và quyết định: "Chúng ta còn để cho chúng nó đè đầu
cưỡi cổ đến bao giờ nữa? Chúng nó bắt cha chú chúng ta, rồi sẽ đến lượt chúng
ta. Thắng ngựa đi, chúng ta sẽ cướp lại các bà con bị bắt". Họ đã tập hợp
được chừng mười lăm anh em, toàn là những tay sừng sỏ. Chỉ huy họ là Ailanov,
một tay Cô- dắc chiến đấu rất cừ. Họ chỉ có hai khẩu súng trường, còn thì người
gươm, người giáo, người chàng nạng. Họ vượt sông Đông, cho ngựa chạy tới
Plesakov. Bọn Cộng sản đang nghỉ ngơi trong sân gia súc của nhà Melnikov. Anh
em Karanoiasky bèn tấn công trên lưng ngựa vào trong sân, nhưng nhìn quanh sân
lại có một bức tường đá. Họ đã xông tới rồi lại phải rút lui. Bọn Cộng đã giết
mất một tay trong bọn, cầu cho hắn được hưởng phúc nơi thiên đường. Chúng nó
bắn đuổi theo, hắn ngã ngựa, người mắc lại trên hàng rào. Bà con Cô- dắc ở
Plesakov bèn đem hắn về chuồng ngựa của trấn. Nhưng hắn chết rồi mà vẫn còn nắm
chắc cái roi ngựa trong tay, cái anh chàng thân mến ấy… Phải giằng thật mạnh
mới lấy ra được. Bây giờ thì đã đến ngày tận số của cái chính quyền Xô viết rồi,
mẹ nó chứ!
Grigori ngồi ở nhà trên ngốn lấy ngốn để bữa sáng ăn thừa
rồi cùng với người chủ nhà ra phố. Ở các đầu ngõ, dân chúng Cô- dắc đứng túm
tụm từng đám như trong một ngày hội. Grigori cùng người chủ nhà đi tới chỗ một
đám. Thấy hai người chào họ, bọn Cô- dắc đưa tay lên mũ lông chào lại một cách
dè dặt và cứ tò mò nhìn bộ mặt là lạ của Grigori như chờ đợi điều gì?
- Đây cũng là anh em mình thôi, các cụ và các bác Cô- dắc
ạ! Bà con ta đừng sợ. Các cụ và các bác có nghe nói đến nhà Melekhov ở thôn Tatarsky
không? Đây là bác Grigori, con thứ của ông Panteley đấy. Do những vụ xử bắn nên
bác ấy phải đến trốn ở nhà tôi đấy. - Người chủ nhà nói một cách kiêu hãnh.
Câu chuyện của nhóm nầy cũng vừa bắt đầu, một gã Cô- dắc
kể chuyện dân các thôn Resetovsky, Dubrovsky và Chernovsky đánh bật Fomin ra
khỏi Vosenskaia. Nhưng giữa lúc ấy có hai người cưỡi ngựa xuất hiẽn ở cuối dãy
phố dựa lưng vào khoảng sườn núi trắng lốp nom như một cái trán mênh mông. Hai
người ấy cho ngựa chạy dọc theo phố. Cứ tới mỗi nhóm, họ lại dừng lại một lát,
quay ngựa và hoa chân múa tay kêu lên không biết những gì. Grigori chỉ mong họ
mau chóng đến gần.
- Không phải là bà con thôn ta, không phải là dân Ryvnyi
đâu… Phái viên ở đâu cử đến đấy. - Gã Cô- dắc ngừng câu chuyện về cuộc đánh chiếm
Vosenskaia, nhìn kỹ một lát rồi nói.
Hai người kia cho ngựa chạy qua cái ngõ gần nhất và đã
đến nơi.
Người đầu tiên là một lão già mặc chiếc áo choàng bằng dạ
thô không cài cúc, đầu không mũ, mặt đỏ bừng, đẫm mỗ hôi, vài món tóc bạc loăn
xoăn xoã xuống trước trán. Lão kéo con ngựa lùi lại coi bộ rất hùng dũng rồi
ngửa hẳn người ra sau và giơ tay phải về phía trước:
- Sao thế nầy, các anh là tráng đinh Cô- dắc mà lại ra
ngõ đứng như đàn bà thế nầy hay sao? - Lão kêu lên, giọng mếu máo. Những giọt
nước mắt tức tối làm giọng lão phá ra, hai bên má đỏ rực rung rung vì cảm động.
Lão cưỡi một con ngựa cái bốn tuổi rất đẹp, chưa có con,
lông đỏ, mũi trắng, đuôi to sợi, bốn chân khô chắc như đúc bằng thép. Nó thở
phì phì, cắn hàm thiếc, khuỵu hai chân sau rồi đứng chồm hẳn lên, đòi thả dây
cương để lại có thể tiếp tục chạy một nước đại rất đẹp, để từ bốn vó nó lại
vang ra những tiếng rầm rập, để gió lại bẻ cụp hai tai nó xuống và rú vù vù
trong bờm nó, để mặt đất giá băng và dội lại tiếng rên siết dưới những cái móng
nhẵn như vỏ ngao. Bên dưới làn da rất mỏng, thấy hiện rõ từng đường gân, từng
mạch máu đang giật giật. Những bắp thịt tròn nằm dọc theo cổ nó nảy nảy, cái
mũi hồng hồng trong trong run run, còn hai con mắt lồi đỏ như hồng ngọc thì cứ
long hai khoảng lòng trắng đầy những tia máu, tức tối liếc nhìn chủ như đòi
hỏi.
- Hởi những người con của sông Đông êm đềm, các người còn
đứng ở đây làm gì hử? - Lão già chuyển cặp mắt từ Grigori sang những người
khác, kêu lên lần nữa. - Chúng nó bắn giết cha ông các người, chúng nó cướp
đoạt tài sản của các người, bọn chính uỷ Do Thái nhạo báng tôn giáo của các
người, thế mà các người cứ cắn hạt hướng dương, cứ ra bãi chơi hay sao? Các
người còn chờ cái vòng thòng lọng xít vào họng các người nữa hay sao? Các người
còn ôm lấy gấu váy vợ đến bao giờ nữa? Dân toàn trấn Elanskaia, già trẻ lớn bé
đều vùng dậy cả rồi. Bọn Đỏ đã bị tống cổ khỏi Vosenskaia rồi… Thế còn các
người, bà con Cô- dắc thôn Ryvnyi? Phải chăng đối với các người cuộc đời không
còn giá trị gì nữa? Phải chăng trong mạch máu của các người, nước kvas 1 mu-
gích đã chảy thay dòng máu Cô- dắc rồi? Hãy vùng dậy đi! Hãy cầm lấy vũ khí!
Thôn Kripskoi cử chúng tôi đi phát động các thôn. Lên ngựa mau, anh em Cô- dắc
kẻo muộn mất rồi? - Lão đưa cặp mắt như hoá điên, nhìn chòng chọc vào mặt một
lão già quen thuộc rồi quát lên bằng một giọng căm uất. - Ông còn đứng đây làm
gì nữa hử, ông Semion Khristoforovich? Bọn Đỏ chúng nó chém chết con trai ông ở
Filonov mà ông lại đứng núp bên bếp lò sao?
Grigori không chờ nghe xong, chạy ngay về sân gia súc.
Chàng vào nhà trấu, lôi nhanh con ngựa của chàng đứng trong dó ra. Chàng bới
đống phân khô, bật máu cả móng tay, kéo cái yên ngựa lên rồi đánh ngựa phóng
thẳng ra cổng như hoá ngộ.
- Tôi đi đây! Ơn Chúa cứu thế? - Chàng nhìn thấy người
chủ nhà đã về gần tới cổng, chỉ kịp kêu lên mấy tiếng là cúi rạp ngay xuống mũi
yên, nằm soài trên cổ ngựa, quất roi vào cả hai bên sườn nó, cho nó chạy hết
tốc độ, để lại trên đường phố một làn bụi tuyết trắng loá cuộn lên như gió lốc.
Sau lưng chàng, đám bụi tuyết mù mịt dần dần rơi xuống. Hai cái bàn đạp trượt
trượt dưới hai bàn chân, cặp đùi cọ vào má yên đến tê dại. Bên dưới bàn đạp,
bốn vó ngựa đập rất nhanh xuống đất như kim máy khâu. Chàng cảm thấy lòng mình
tràn ngập một niềm vui cực lớn, một niềm vui man rợ, chàng thấy mình rất dồi
dào sức lực và quyết tâm. Bất giác trong họng phát ra một tiếng thở mạnh nghe
như một tiếng rít khàn khàn. Những tình cảm thầm kín, trước đây bị trói buộc,
đã được giải phóng trong tâm hồn chàng. Chàng cảm thấy như từ nay con đường
mình di sáng sủa như được rọi dưới một vầng trăng.
Tất cả các mặt đã được cân nhắc, được giải quyết dứt
khoát trong những ngày đau khổ, những ngày chàng phải lẩn trốn như một con thú
trong cái ổ phân khô, và cũng như một con thú, chàng đã phải lắng nghe từng
tiếng động, từng lời nói bên ngoài. Sau lưng chàng tựa như không hề có những
ngày mày mò đi tìm chân lý, dao động, ngả nghiêng và đấu tranh nội tâm nặng nề.
Những ngày ấy đã quay lộn như những bóng mây và trong lúc nầy trang chảm thấy
như mọi sự tìm tòi trước kia của mình đều vô ích và trống rỗng. Có cái gì mà
phải suy nghĩ cơ chứ? Việc gì mà phải khuấy lộn tâm hồn để giải quyết các mâu
thuẫn, để tìm lối thoát như một con sói kinh hoàng trước một cuộc vây bắt? Cuộc
đời có vẻ buồn cười, giản đơn một cách lạ lùng. Trong lúc nầy, chàng có cảm
tưởng như từ xưa tới nay chưa từng bao giờ có cái chân lý duy nhất để tất cả
mọi người đều có thể nép mình bên dưới bộ cánh của nó mà sưởi ấm. Chàng nổi
nóng đến cực độ, bụng bảo dạ: người nào cũng có lẽ phải của mình, cũng có cái
luống cày cho mình đi theo.
Con người bao giờ cũng đã đấu tranh với nhau vì mẩu bánh,
vì mảnh đất, vì quyền sống và sẽ còn chiến đấu mãi mãi chừng nào mặt trời còn
toả ánh sáng và máu nóng còn chảy trong cơ thể. Phải chiến đấu chống lại những
kẻ muốn cướp quyền sống, cướp đời sống của mình; phải đấu tranh kiên quyết,
không dao động, đấu tranh như một kẻ đã bị dồn vào vách, và cuộc đấu tranh sẽ
tôi luyện lòng căm hờn, sẽ làm cho ý chí được kiên định. Chỉ cần đừng trói buộc
tình cảm, mặc cho tình cảm tự do phát triển một cách điên cuồng.
Con đường của người Cô- dắc đã bị cắt ngang bởi con đường
của người mu- gích Nga, con đường của những con người trong các nhà máy. Phải
chiến đấu một sống một chết với họ. Phải dành lại vùng đất sông Đông màu mỡ
dưới chân họ, vùng đất đã được tưới bằng máu của dân Cô- dắc. Phải đuổi họ như
đuổi dân Tarta 2 ra khỏi địa giới Quân khu? Phải đánh cho Moskva run sợ, bắt
Moskva phải ký một hoà ước nhục nhã! Đã chạm trán với nhau trên một con đường
hẻm thì không thể nào nhường bước; dù là ai đánh gục ai, nhưng phải có một kẻ
bị đánh gục. Kể ra cũng đã có một lần thử nghiệm rồi đấy, các trung đoàn Đỏ đã
được mở đường vào đất đai Quân khu, thử nghiệm như thế liệu đã đủ chưa? Bây giờ
thì hãy cầm chắc cán gươm!
Grigori đã suy nghĩ như thế, trong lòng bừng bừng một mối
căm hờn mù quáng, trong khi con ngựa đưa chàng qua sông Đông lồm xồm và trắng
loá như bờm một con ngựa trắng. Tuy nhiên trong khoảnh khắc, một ý nghĩ ngược
lại vẫn còn lởn vởn trong đầu óc chàng: "Người giàu và người nghèo chứ
không phải người dân Cô- dắc và nước Nga… Miska Kosevoi và Kotliarov cũng là
dân Cô- dắc nhưng hai người vẫn một lòng đi theo bọn Đỏ…". Song chàng lại
bực bội xua đuổi những ý nghĩ ấy đi ngay.
Thôn Tatarsky đã hiện ra trước mặt. Grigori nới lỏng dây
cương.
Con ngựa chuyển sang nước kiệu nhỏ, mồ hồ sủi lên trên
mình nó như bọt xà phòng. Đến đầu phố chàng lại giật cương, cho ức con ngựa
hích vào cửa hàng rào, rồi vào thẳng trong sân.
--- ------ ------ ------ -------
1 Một đồ uống mát
của người Nga, làm bằng bột mì hoặc hoa quả ngâm cho lên men (ND).
2 Xưa kia dân Cô-
dắc đã nhiều lần đánh bật được những cuộc xâm lăng của dân Tarta (ND
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 149
Đến khi trời bình minh, Miska đã vào tới trong thôn
Bolsoi của trấn Ust- Khopeskaia, khắp người đau như dần. Anh bị một vọng gác
của trung đoàn số 4 Damurskaia bắt giữ. Hai chiến sĩ Hồng quân giải anh về
trung đoàn bộ. Một sĩ quan tham mưu không tin lời anh nói, cứ hỏỉ dồn anh rất
lâu, cố làm cho anh bí với những câu hỏi đại loại như: "Ở chỗ các anh, ai
là chủ tịch Uỷ ban cách mạng? Tại sao anh không có giấy chứng minh?" vân
vân. Miska chán ngấy không muốn trả lời những câu hỏi ngớ ngẩn ấy nữa.
- Thôi đồng chí ạ, đồng chí đừng truy tôi nữa. Bọn Cô-
dắc không phải chỉ truy tôi như thế, mà chúng nó cũng chẳng mò ra được gì đâu.
Anh lật áo sơ- mi cho anh chàng kia xem chỗ sườn bị đinh
ba đâm và cả phần dưới bụng. Anh còn định nói thêm vài lời sâu cay nữa và doạ
người cán bộ tham mưu, nhưng giữa lúc ấy Stokman bước vào.
- À, đứa con phóng đãng đây rồi? Thằng quỉ oắt con đây
rồi! - Stokman đưa hai tay ôm lấy lưng Miska, cái giọng trầm trầm của anh phá
ra. - Nầy đồng chí ạ, đồng chí làm gì mà phải tra hỏi nó mãi như thế? Đây chính
là cái anh chàng của chúng mình đây mà! Đồng chí vất vả một cách đúng là ngu
xuẩn! Bảo đi tìm tôi hay Kotliarov có xong ngay không? Đỡ phải hỏi han… Thôi ta
đi đi, Miska! Nhưng cậu làm thế nào mà còn sống sót được thế? Làm thế nào mà
còn sống được thế, kể cho mình nghe với! Chúng mình đã gạch tên cậu khỏi danh
sách những anh em con sống rồi đấy! Chúng mình cứ nghĩ rằng cậu đã hy sinh anh
dũng rồi.
Miska nhớ lại cái cảnh mình bị địch
bắt mà không chống cự được chút nào, nhớ tới khẩu súng trường để lại trên chiếc
xe trượt tuyết, ức quá chảy cả nước mắt, mặt đỏ như gấc.
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 150
Hôm Grigori trở về, thôn Tatarsky đã
tổ chức được hai đại hội Cô- dắc. Đại đội toàn thôn quyết định động viên tất cả
những người có thể cầm vũ khí từ mười sáu đến bảy mươi. Nhiều người cũng cảm
thấy rằng tình hình không thể nào cứu vãn được nữa: phía Bắc là tỉnh Vosenskaia
thì địch đã đi theo người Bolsevich và Quân khu Khopesky cũng đã là một khu đỏ,
còn phía Nam là mặt trận, mặt trận nầy lộn ngược trở lại sẽ có thể đè bẹp ngay
những kẻ phiến loạn như một trận tuyết lở. Một số người Cô- dắc đặc biệt thận
trọng không muốn cầm vũ khí, nhưng bọn kia đã dùng vũ lực bắt họ phải theo.
Stepan từ chối thẳng thừng không chịu đi đánh nhau.
- Tôi không đi. Các anh cứ bắt ngựa,
làm gì tôi thì làm, nhưng tôi không muốn cầm súng đâu! - Anh ta đã nói rõ ràng
như thế.
Sáng hôm Grigori, Khristonhia và
Anikey bước vào nhà anh ta.
- Sao lại không muốn? - Grigori hỏi,
lỗ mũi phập phồng.
- Không muốn là không muốn, chỉ có
thế thôi.
- Nhưng nếu bọn Đỏ chiếm được thôn
thì anh sẽ trốn đi đâu? Đi với chúng tôi hay ở lại?
Stepan long lanh hai con mắt, nhìn
chằm chằm hết Grigori lại đến Acxinhia. Anh ta nín lặng một lát rồi trả lời:
- Đến lúc đó hẵng hay.
- Nếu thế thì ra ngoài kia?
Khristonhia, bắt lấy nó! Chúng tôi sẽ lập tức xử bắn anh ngay? - Grigori cố
tránh không nhìn Acxinhia lúc nầy đang đứng nép vào bếp lò, chàng nắm lấy tay
áo quân phục của Stepan, kéo lại gần mình. - Ra ngoài kia, không ở đây làm gì
nữa?
- Grigori, chớ có bậy… Buông ra! -
Stepan tái mặt, chống cự một cách yếu ớt.
Khristonhia ôm lấy sau lưng Stepan,
lầu bầu:
- Nếu đầu óc anh đã thế thì đi ra
ngoài kia?
- Anh em?
- Chúng tôi không anh em với anh?
Đi, đã bảo kia!
- Buông tôi ra, tôi sẽ ghi tên vào
đại đội. Tôi bị bệnh thương hàn, còn yêu…
Grigori cười gằn, buông tay áo
Stepan ra.
- Đi mà lĩnh súng. Sớm nói như thế
có hơn không?
Rồi không chào ai cả, chàng khép tà
áo ca- pốt bước ra ngoài.
Khristonhia thì chẳng ngần ngại gì
cả, hỏi xin ngay Stepan thuốc lá để cuốn một điếu và còn ngồi nán lại để nói
chuyện rất lâu, tựa như giữa hai người chẳng có việc gì xảy ra.
Đến tối thì có hai chiếc xe chở vũ
khí từ Vosenskaia về thôn: tám mươi tư khẩu súng trường và hơn một trăm thanh
kiếm. Nhiều người lấy ra các vũ khí mà họ đã cất giấu. Trong thôn ghi tên được
hai trăm mười một chiến binh. Một trăm năm mươi người là kỵ binh, số còn lại là
bộ binh.
Quân phiến loạn còn chưa có một tổ
chức thống nhất. Tạm thời các thôn còn hoạt động riêng lẻ, họ tự động tổ chức
những đại hội, đại hội toàn dân bầu ra những chỉ huy trong số những gã Cô- dắc
chiến đấu giỏi nhất, không tính đến cấp bậc mà chỉ xét đến công trạng. Chúng
chưa phát động những trận tấn công mà chỉ đặt liên lạc với các thôn lân cận và
phái trinh sát cưỡi ngựa đi sục sạo các vùng chung quanh.
Cũng như năm Một nghìn chín trăm
mười tám, Petro Melekhov được đưa lên làm đội trưởng đại đội kỵ binh của thôn
Tatarsky ngay trước khi Grigori trở về. Latysev nắm quyền chỉ huy đại đội bộ
binh.
Một số lính pháo binh do Ivan
Tomilin dẫn đầu đi Batki. Trên đó có một khẩu pháo Hồng quân bỏ lại đã gần nát
hỏng, không có máy nhắm, bánh xe cũng gãy. Bọn lính pháo binh lên đó chính là
để sửa chữa khẩu pháo ấy.
Để trang bị cho hai trăm mười một
chiến binh có một trăm linh tám khẩu súng trường, kể cả số đem ở Vosenskaia về
lẫn số thu thập được trong thôn, một trăm bốn mươi thanh gươm và mười bốn khẩu
súng săn. Ông Panteley Prokofievich được thả trong hầm nhà Mokhov ra cùng với
mấy lão già khác đã đào khẩu súng máy lên, nhưng vì không có băng đạn nên khẩu
súng đã không được nhận để trang bị cho đại đội.
Hôm sau, lúc trời sắp hoàng hôn có
tin một đội tiễu phạt của Hồng quân đang tiến từ Karginskaia tới trấn áp cuộc
bạo động. Đội tiễu phạt nầy gồm ba trăm tay súng dưới quyền chỉ huy của
Likhachev, có bảy khẩu pháo và mười hai cỗ súng máy. Petro quyết định cử một
đội trinh sát thật mạnh sục sạo về hướng thôn Tokin, đồng thời báo cáo lên
Vosenskaia.
Đội trinh sát xuất phát lúc hoàng
hôn. Grigori chỉ huy ba mươi gã Cô- dắc thôn Tatarsky ra đi. Vừa ở thôn ra,
đoàn ngựa đã phi nước đại và cứ thế chạy gần tới thôn Tokin. Khi còn cách Tokin
chừng hai ki- lô- mét, Grigori cho bọn Cô- dắc xuống ngựa trên con đường cái,
bên cạnh một bờ dốc đứng không sâu lắm. Chàng cho bố trí dưới bờ dốc. Bọn giữ
ngựa dắt ngựa xuống một cái khe. Tuyết dưới đó rất sâu. Những con ngựa thụt đến
bụng trong lớp tuyết xốp. Một con ngựa giống động đực lúc trời sắp sang xuân,
lồng lộn hí rầm lên. Một gã Cô- dắc được cắt riêng để coi nó.
Grigori phái ba gã Cô- dắc Anikey,
Marchin Samin và Prokho Zykov tới sát cái thôn. Ba gã cho ngựa đi bước một. Xa
xa, những cánh rừng chung quanh thôn Tokin chạy chữ chi thành một dải xanh xanh
rất rộng theo sườn núi lan dần về phía đông - nam. Đêm đã xuống, những đám mây
thấp sà xuống đồng cỏ. Bọn Cô- dắc ngồi nín lặng dưới bờ vách. Grigori nhìn
theo hình ba tên cưỡi ngựa xuống dốc, hoà lẫn với đường sống trâu đen đen nằm
giữa con đường. Chẳng mấy chốc không còn nhìn thấy những con ngựa nữa mà chỉ
còn ba cái đầu ngật ngưỡng. Rồi cả ba cái đầu cũng khuất nốt. Một phút sau từ
đó vang tới tiếng súng máy nặng tặc tặc rất to. Rồi lại có tiếng một khẩu nữa,
nghe cao hơn, có lẽ là trung liên. Khẩu trung liên nã hết một đĩa đạn thì lặng
đi, còn khẩu kia chỉ ngừng một lát rồi lại bắn rất nhanh hết thêm một băng đạn.
Nhưng loạt đạn bay qua phía trên bờ vách tới một chỗ nào đó khá cao trong bóng
tối. Tiếng súng máy rộn rã, vui vẻ và rất thanh làm mọi người phấn chấn lên. Ba
gã trinh sát phi ngựa trở về.
- Vừa chạm trán với một vọng tiêu! -
Từ xa Prokho Zykov đã kêu lên. Giọng hắn bị những tiếng chân ngựa chạy rầm rập
át đi.
- Bảo các cậu giữ ngựa sẵn sàng! -
Grigori ra lệnh.
Chàng nhảy lên bờ vách như nhảy lên
ụ chiến hào, rồi không để ý tới những viên đạn viu víu cắm xuống tuyết, đi
thẳng ra đón ba gã Cô- dắc đang cho ngựa đi tới.
- Không nhìn thấy gì à?
- Có nghe thấy tiếng chúng nó làm ầm
ầm trong đó. Nghe những tiếng người nói thì có lẽ đông đấy. - Anikey vừa thở
hổn hển vừa nói.
Hắn nhảy trên ngựa xuống, nhưng mũi
ủng mắc vào bàn đạp, bèn chửi rầm lên, vừa lò cò và đưa tay gỡ chân.
Trong lúc Grigori hỏi han Anikey,
tám gã Cô- dắc đã tụt từ bờ vách xuống khe, lấy ngựa phóng về nhà.
- Ngày mai sẽ đem chúng nó ra xử
bắn. - Grigori lắng nghe tiếng vó ngựa xa dần của những ten chạy trốn, khẽ nói.
Những gã Cô- dắc còn ở lại ngồi thêm
chừng một giờ dưới bờ vách. Chúng hết sức yên lặng lắng nghe. Cuối cùng có gã
nghe thấy tiếng vó ngựa.
- Chúng nó từ Tokin lại đấy…
- Trinh sát!
- Không có lẽ!
Cả bọn thì thầm trao đổi ý kiến.
Chúng vươn cổ, cố giương mắt nhìn thấy được một cái gì đó trong bóng đêm dày
đặc như không có gì xuyên thủng nổi, nhưng chẳng thấy gì hết. Cuối cùng hai con
mắt tinh như mắt dân Kalmys của Fedot Bodovskov nhận ra trước tiên.
- Chúng nó tới rồi đấy. - Hắn hạ cây
súng trường trên cổ xuống, nói chắc chắn như đinh đóng cột.
Hắn đeo súng một cách rất kỳ quặc:
dây đeo súng lồng sau gáy như dây thánh giá, còn khẩu súng thì nằm chéo lủng
lẳng trước ngực. Dù đi bộ hay cưỡi ngựa cũng đều như thế, một tay trên nòng,
một tay dưới báng, tựa như đàn bà quảy đòn gánh.
Chừng mười người cưỡi ngựa đang lặng
lẽ đi trên đường, không ra đội hình gì cả. Đi đâu là một người dáng điệu đường
bệ, quần áo rất ấm, tách ra chừng nửa thân ngựa. Con ngựa đuôi ngắn thân dài
bước vững vàng và kiêu hãnh. Grigori ngồi bên dưới nhìn lên nền trời xám xịt
thấy rõ những đường nét trên các hình người ngựa, thậm chí thấy rõ cả cái mũ
lông kiểu Kuban đỉnh phẳng của người đi đầu.
Đoàn người ngựa đi cách bờ vách
chừng mười xa- gien. Khoảng cách giữa họ và bọn Cô- dắc nhỏ đến nỗi có cảm
tưởng như họ phải nghe thấy cả những tiếng thở khàn khàn và tiếng tim đập dồn
dập của bọn Cô- dắc.
Grigori đã dặn trước rằng chưa có
lệnh của chàng thì không được nổ súng. Như một con thú rình mồi, chàng chờ thời
cơ một cách thận trọng và chính xác. Trong lòng chàng đã chín muồi một quyết
tâm: chàng sẽ lên tiếng gọi đám người đang đi tới và đến khi họ bối rối đứng tụ
lại một đám thì sẽ nổ súng.
Tiếng tuyết lạo xạo trên đường nghe
thật là hoà bình. Một vó ngựa đập xuống làm nảy ra những tia sáng vàng vàng: có
lẽ cái cá sắt bị trượt trên một mặt đá nhô lên khỏi tuyết.
- Ai?
Grigori nhẹ nhàng nhảy từ dưới bờ
vách lên như một con mèo.
Những tên Cô- dắc khác xông lên theo
với những tiếng loạt soạt trầm trầm.
Sự việc đã diễn ra hoàn toàn không
như Grigori chờ đợi.
- Nhưng các anh muốn hỏi ai? - Người
đi đầu hỏi bằng một giọng trầm khàn đặc, không thoáng một chút sợ hãi hay ngạc
nhiên gì cả. Người đó kéo cương cho con ngựa tiến thẳng tới trước mặt Grigori.
- Anh là ai? - Grigori giật giọng
quát lo nhưng vẫn không động đậy, nòng khẩu Nagan chỉ hơi ngổng lên một chút ở
đầu cánh tay cong cong.
Vẫn cái giọng trầm lúc nãy nổ ra
giận dữ, ồm ồm như tiếng sấm:
- Anh là ai mà dám quát lác như thế?
Ta là chi đội
trưởng chi đội tiễu phạt. Được bộ tư lệnh Tập đoàn Hồng quân số tám trao cho
toàn quyền đi dẹp quân phiến loạn đây? Ai là đội trưởng của các anh? Bảo hắn ra
đây cho ta?
- Tao là đội trưởng.
- Mày? Á- à- à…
Grigori nhìn thấy tay người cưỡi ngựa giơ lên cùng với
một vật đen như lông quạ. Trước khi phát súng nổ, chàng đã kịp nằm xuống và hô
lên:
- Bắn!
Viên đạn đầu tròn của khẩu Browning rít qua đầu Grigori.
Cả hai bên đều nổ súng ầm ầm. Bodovskov ghì chặt lấy dây cương con ngựa của
người chỉ huy không biết sợ. Grigori vươn tay qua đầu Bodovskov nắm chắc lấy
tay người đó, chém sống gươm lên cái mũ kiểu Kuban rồi lôi cả cái thân hình
nặng nề của anh ta từ trên yên xuống. Trận chiến đấu giáp lá cà kết thúc trong
hai phút. Ba chiến sĩ Hồng quân phi ngựa tháo chạy, hai người bị giết, số còn
lại bị tước vũ khí
Grigori chọc cái nòng súng của khẩu Nagan vào cái miệng
sây sứt của người chỉ huy đội mũ kiểu Kuban bị bắt làm tù binh, hỏi qua loa:
- Mày họ gì, đồ sâu bọ?
- Likhachev.
- Mầy đi với chín thằng hộ vệ như thế thì mong giở được
cái trò gì hử? Mầy tưởng người Cô- dắc sẽ quì gối đấy phỏng? Sẽ xin tha tội đấy
phỏng?
- Chúng mầy giết tao đi!
- Chuyện ấy thì còn kịp chán, - Grigori an ủi anh ta. -
Giấy tờ đâu?
- Trong cái túi dết. Cầm lấy, quân cướp đường! Đồ cho đẻ!
Grigori không để ý gì đến những lời chửi bới, cứ tự tay
lục soát Likhachev. Chàng móc trong túi chiếc áo lông ngắn của Likhachev ra một
khẩu Browning thứ hai, tháo lấy khẩu Mauser hộp gỗ và cái túi dết dã chiến.
Trong túi bên, chàng tìm thấy một cái ví nhỏ bọc da thú lằn vằn trong đựng giấy
và một cái bót thuốc lá.
Likhachev luôn miệng chửi rủa, anh đau quá thỉnh thoảng
phải rên lên. Vai bên phải của anh bị một viên đạn xuyên qua. Thanh gươm của
Grigori chém vào đầu cũng rất mạnh. Likhachev to lớn, cao hơn Grigori, nặng cân
và có vẻ khoẻ lắm. Trên khuôn mặt ngăm ngăm râu ria cạo nhẵn nhụi, hai hàng
lông mày đen, rộng nhưng ngắn vươn ra một cách phóng khoáng và gặp nhau ở chỗ
tinh mũi, nom rất oai. Miệng Likhachev rộng, cằm vuông. Anh mặc một chiếc áo
lông ngắn chếp nếp, đầu đội một chiếc mũ lông đen kiểu Kuban đã bị nhát gươm
chém rách. Bên dưới cái áo lông còn có một chiếc áo quân phục cổ đứng màu cứt
ngựa rất vừa người, cái quần đi ngựa rộng thùng thình. Nhưng chân anh lại nhỏ
nhắn, đẹp, đi đôi ủng bằng da véc- ni rất diện.
- Cởi áo lông ra, thằng chính uỷ nầy! - Grigori ra lệnh.
- Mày trơn lông đỏ da lắm. Tọng bánh mì Cô- dắc vào phì nộn như thế nầy, không
chết cóng được đâu.
Mấy người tù binh bị trói tay bằng dây lưng, dây cương
rồi cho ngồi lên ngựa.
- Nước kiệu theo ta! - Grigori ra lệnh rồi sửa lại trên
người mình khẩu Mauser hộp gỗ của Likhachev.
Mọi người nghỉ đêm ở Batki. Likhachev lăn lộn trên cái ổ
rơm trải dưới đất bên cạnh bếp lò, luôn luôn nghiến răng rên rỉ. Grigori soi
đèn rửa và bằng vết thương ở vai cho anh nhưng không tra hỏi thêm gì nữa. Chàng
ngồi giờ lâu ở bàn, xem các giấy uỷ nhiệm của Likhachev, bản danh sách các tên
Cô- dắc phản cách mạng trấn Vosenskaia mà Toà án cách mạng lưu vong đã trao cho
Likhachev, cuốn sổ tay, vài bức thư và những chỗ đánh dấu trên bản đồ. Thỉnh
thoảng chàng lại đưa mắt nhìn Likhachev, bắt gặp hai con mắt sắc như hai lưỡi
dao của anh. Bọn Cô- dắc nghỉ trong ngôi nhà lục đục suốt đêm, hết ra sân thăm
ngựa lại vào phòng ngoài hút thuốc và nằm chuyện gẫu với nhau.
Đến khi trời rạng, Grigori ngủ thiếp đi lúc nào không
biết. Nhưng chẳng mấy chốc chàng đã tỉnh dậy và ngẩng cái đầu nặng chì lên khỏi
bàn. Likhachev ngồi trên đệm rơm dùng răng cắn xé chỗ băng bó và cứ nhìn
Grigori bằng cặp mắt hung dữ đỏ ngầu những máu, hai hàm răng trắng loá nhe ra một
cách đau khổ như trong khi hấp hối, cặp mắt long lanh một ánh buồn bực đầy tử
khí làm cho cơn ngái ngủ của Grigori như có bàn tay ai xua đi hết.
- Mầy làm sao thế? - Grigori hỏi.
- Mầy… cần hỏi làm gì hử? Tao muốn chết! - Likhachev gầm
lên, mặt tái đi và nằm vật đầu xuống rơm.
Có một đêm mà Likhachev uống hết nửa thùng nước. Cho đến
sáng anh không chợp mắt một lúc nào.
Sáng hôm ấy Grigori cho Likhachev
lên một chiếc xe hai ngựa đi Vosenskaia cùng một bản báo cáo vắn tắt và tất cả
các tài liệu thu lượm được.
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 151
Chiếc xe ngựa có hai gã Cô- dắc áp
giải chạy nhanh như bay đến ngôi nhà gạch đỏ của ban chấp hành Vosenskaia.
Likhachev nửa ngồi nửa nằm ở phía sau. Anh đỡ bên tay đau trong những dải băng
đỏ lòm những máu, đứng dậy. Hai gã Cô- dắc xuống ngựa, đi kèm hai bên, cùng anh
vào trong nhà.
Chừng nửa đại đội Cô- dắc đang đứng
chen chúc trong căn phòng viên tư lệnh lâm thời của liên quân các lực lượng
phiến loạn là Xuiarov. Likhachev cố giữ cho bên tay đau khỏi bị đụng vào, len tới
trước cái bàn. Xuiarov ngồi ở sau bàn, người loắt choắt, chẳng có điểm gì đặc
biệt ngoài hai con mắt vàng hoe nứt ra với một vẻ giảo quyệt hiếm có. Hắn dịu
dàng nhìn Likhachev và hỏi:
- Người anh em thân mến đã được đưa
đến rồi à? Anh chính là Likhachev phải không?
- Chính tao. Chứng từ của tao đây. -
Likhachev ném lên bàn cái túi da buộc như một cái bị rồi nhìn Xuiarov bằng cặp
mắt nghiêm khắc đầy kicu hãnh. - Chỉ tiếc là tao không hoàn thành nhiệm vụ dẫm
chết hết chúng mày như những con sâu con bọ! Nhưng nước Nga Xô viết sẽ cho
chúng mày hưởng phần xứng đáng. Chúng mày hãy đem bắn tao đi.
Bên vai bị đạn của Likhachev rung
rung, cả hai hàng lông mày vươn rộng của anh cũng rung rung.
- Không đâu, đồng chí Likhachev ạ!
Chúng tôi khởi nghĩa chính là để chống lai sự bắn giết đấy! Ở bên chúng tôi
không như ở bên các đồng chí, không có xử bắn đâu. Chúng tôi sẽ chữa cho đồng
chí khỏi và chưa biết chừng đồng chí sẽ có ích cho chúng tôi, - Xuiarov nói
giọng nhẹ nhàng mơn trớn, nhưng hai con mắt long lanh. - Những ai không có việc
thì ra ngoài kia. Nào, nhanh lên.
Còn lại những tên chỉ huy các đại
đội ở Resetovskaia, Usakovskaia, Dubrovskaia và Vosenskaia. Chúng đến ngồi
quanh bàn. Có một tên đưa chân đẩy một chiếc ghế đẩu cho Likhachev, nhưng anh
không ngồi, cứ đứng dựa lưng vào tường nhìn qua đầu bọn chúng ra cửa sổ.
- Bây giờ như thế nầy nầy, Likhachev
ạ - Xuiarov đưa mắt cho bọn đại đội trưởng rồi bắt đầu nói. - Đồng chí hãy bảo
cho chúng tôi biết quân số chi đội của đồng chí có bao nhiêu.
- Tao không nói.
- Không nói à? Cũng chẳng sao cả. Tự
chúng tôi xem giấy má của đồng chí cũng có thể biết được. Nếu không chúng tôi
sẽ hỏi cung bọn Hồng quân đi hộ vệ cho đồng chí. Còn có một việc nữa chúng tôi
cũng yêu cầu (Xuiarov nhấn mạnh hai tiếng nầy) đồng chí hãy viết giấy cho chi
đội của đồng chí bảo họ hãy đến Vosenskaia. Chúng tôi không đánh nhau với các
đồng chí làm gì cả. Chúng tôi không chống lại chính quyền Xô viết mà chỉ chống
lại bọn Cộng và bọn Do Thái mà thôi. Chúng tôi sẽ tước vũ khí chi đội của đồng
chí rồi thả cho về nhà. Cả đồng chí cũng sẽ được tự do. Tóm lại đồng chí hãy
viết cho họ biết rằng chúng tôi cũng là những người lao động và họ đừng có sợ
chúng tôi, chúng tôi không chống lại Xô viết…
Likhachev nhổ một bãi nước bọt trúng
chòm râu hoa râm nhọn như hình cái nêm của Xuiarov. Xuiarov đưa tay áo lên chùi
chòm râu, hai gò má ưng đỏ. Trong bọn đại đội trưởng có tên mỉm cười, nhưng
chẳng tên nào đứng lên bảo vệ danh dự cho thủ trưởng.
- Đồng chí xúc phạm đến chúng tôi
đấy, đồng chí Likhachev ạ? - Giọng lưỡi Xuiarov đã hoàn toàn lộ rõ vẻ giả trá.
- Bọn ataman, bọn sĩ quan đã làm nhục chúng tôi, nhổ vào chúng tôi, đến đồng
chí là Đảng viên cộng sản mà cũng nhổ vào chúng tôi. Thế mà các đồng chí cứ nói
rằng các đồng chí đứng về phía nhân dân… Nầy có cậu nào đấy không? Dẫn chính uỷ
ra đi. Ngày mai chúng tôi sẽ giải đồng chí đi Kazanskaia.
- Có lẽ anh cũng nên nghĩ cho kỹ? -
Một tên đại đội trưởng nói giọng nghiêm khắc.
Likhachev xốc lại rất nhanh cái áo
quân phục cổ đứng khoác trên vai, bước tới trước mặt tên áp giải đứng ở cửa.
Likhachev đã không bị đem đi xử bắn.
Chính bọn phiến loạn cũng đấu tranh chống lại "bắn giết và cướp bóc"
cơ mà… Hôm sau chúng giải anh đi Kazanskaia. Anh đi phía trước mấy tên áp giải
cưỡi ngựa, hai chân bước nhẹ nhàng trên tuỵết, hai hàng lông mày ngắn nhưng rất
rộng cau lại. Nhưng đưa vào đến trong rừng, khi đi qua một cây bạch dương trắng
nhợt như mặt người chết, tự nhiên anh mỉm cười, vẻ mặt hoạt bát hẳn lên. Anh
đứng lại giơ cánh tay còn khỏe lên bẻ một nhánh nhỏ. Trên nhánh cây ấy đã nhú
lên vài cái lộc nhỏ nâu nâu đầy chất nhựa ngọt tháng Ba. Mùi hương rất thanh,
chỉ hơi thoang thoảng của những cái lộc hứa hẹn của một cành nở hoa mùạ xuân,
hứa hẹn sự sống đang tái diễn dưới quỹ đạo mặt trởi. Likhachev nhét mấy cái lộc
mơn mởn vào miệng, khẽ nhai, hai con mắt mơ màng nhìn đám cây cối mới thoát
khỏi băng giá đang lấy lại màu sắc một nụ cười nở bên mép cặp môi râu ria nhẵn
nhụi.
Anh đã chết với những cánh lộc thâm
thâm trên môi. Khi đi quá Vosenskaia bảy vec- xta, những tên áp giải đã chém
anh một cách dã man trên khoảng cồn cát nhăn nheo, sầu thảm. Ngay lúc anh còn
sống, chúng đã khoét mắt, chặt tay, xẻo mũi, cắt tai, dùng gươm băm vằm mặt
anh. Chúng cởi quần anh ra rồi vừa cười vừa làm nhục cái cơ thể to đẹp và anh
dũng của anh. Chúng chửi rủa chán chê trên cái thây què cụt máu me đầm đìa rồi
một tên áp giải dẫm chân lên cái lồng ngực còn rung rung, lên cái thân hình nằm
vật ngửa và chém phăng một nhát đứt chéo đầu.
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 152
Cuộc phiến loạn tràn lan như nước
triều lên, những tin về cuộc bạo động truyền đi từ bên kia sông Đông, từ vùng
thượng lưu, từ khắp nơi khắp chốn. Không chỉ có những khu du mục của hai trấn
dấy loạn. Các trấn Sumilinskaia, Kazanskaia, Migulinskaia, Meskovskaia,
Vosenskaia, Elanskaia, Ust- Khopesky đều đã dấy loạn. Nhiều đại đội được vội vã
tổ chức. Ba trấn Karginskaia, Bokovskaia, Krasnokurskaia rõ ràng đã ngả về phía
bọn phiến loạn.
Làn sóng bạo động đe doạ lan cả sang
hai quân khu lân cận là Ust- Medvedisky và Khopesky. Các trấn Bukanovskaia,
Slasevskaia và Fedorseevskaia đã bắt đầu sôi sục. Ở trấn Alekseevskaia, các
thôn tiếp giáp với trấn Vosenskaia đang bị kích động… Là thị trấn đầu quân khu,
Vosenskaia đã trở thành trung tâm bạo động. Sau nhiều cuộc tranh cãi và thương
lượng dai dẳng, tất cả quyết định giữ lại cơ cấu chính quyền cũ. Những tên Cô-
dắc nổi tiếng nhất, phần lớn còn trẻ, được bầu vào Ban chấp hành khu. Danilov,
một tên võ quan trong phòng pháo binh, được đặt lên làm Chủ tịch. Các trấn và
các thôn đã thành lập những Xô viết, và kể cũng lạ, hai tiếng "đồng
chí" trước kia mang tính chất lăng mạ, đến nay vẫn được dùng để xưng hô.
Một khẩu hiệu đầy tính chất mị dân đã được đưa ra: "Ủng hộ chính quyền Xô
viết nhưng chống cộng sản, chống bắn giết, chống cướp bóc". Và trên mũ
lông của bọn phiến loạn không phải chỉ có một chiếc phù hiệu hay một cái băng
trắng mà có hai: trắng và đỏ bắt chéo nhau…
Kudinov Pavel, một tên thiếu uý còn
trẻ, mới hai mươi tám, lên nắm chức Tư lệnh liên quân các lực lượng phiến loạn
thay Xuiarov.
Tên Kudinov nầy vốn thông minh, mồm
mép và đã được thưởng cả bốn hạng huân chương thánh Gioóc. Tính tình hắn đặc
biệt nhu nhược vì thế để cho hắn nắm cả một quân khu phiến loạn trong một thời
kỳ giông bão như thế nầy thì cũng không hợp, nhưng bọn Cô- dắc lại thích hắn ở
cái tính giản dị và hồ hởi. Điều chủ yếu là cái họ Kudinov đã ăn rễ rất sâu
trên đất Cô- dắc. Hắn vốn xuất thân Cô- dắc nên không có cái thói kiêu ngạo, tự
cao tự đại thường thấy ở lớp sĩ quan mới ngoi lên. Bao giờ hắn cũng ăn mặc xềnh
xoàng, tóc để dài, xén tròn đều. Lưng hắn gù gù, giọng nói liến thoắng. Mặt hắn
dài, xương xương, tướng mạo nom chẳng khác gì một người mu- gích, chẳng có nét
gì đặc biệt.
Thượng uý Xafonov được bầu làm
Trưởng phòng tham mưu với lý do duy nhất: hắn là một thằng nhát gan, nhưng chữ
viết có hoa tay, học lực khá. Người ta đã nói về hắn như thế nầy tại đại hội:
Cứ cho Xafonov làm Trưởng phòng tham mưu đi. Ra đơn vị chiến đấu thì hắn chẳng
được tích sự gì đâu. Hắn mà chỉ huy thì tổn thất sẽ nhiều đấy. Không những hắn không
gìn giữ được anh em mà chính hắn cũng đi đời nhà ma cho mà xem. Hắn mà đánh đấm
thì cũng chẳng khác gì một thằng Di- gan làm cố đạo.
Vóc người nhỏ nhắn, đầu tròn xoe,
Xafonov nghe người ta nhận xét về mình như thế chỉ mỉm một nụ cười sung sướng
sau hàng ria nửa vàng nửa bạc, và sẵn lòng nhận ngay chức Trưởng phòng tham
mưu.
Nhưng Kudinov và Xafonov chỉ hợp
thức hoá những việc mà các đại đội đã tự động làm rồi. Trong công việc lãnh
đạo, hai tên nầy bị trói chân trói tay, mà thực tế chúng cũng không đủ sức điều
khiển một bộ máy to lớn như thế nầy và không thể đuổi kịp bước phát triển vũ
bão của các sự việc.
Trung đoàn kỵ binh số Bốn Damursky
thu nhận thêm những người Bolsevich ở Ust- Khopeskaia và một phần của trấn
Vosenskaia, chiến đấu tiến qua một loạt thôn xóm, tràn tới địa giới trấn
Elanskaia rồi vượt đồng cỏ tiến dọc theo sông Đông về phía Tây.
Ngày mồng 5 tháng Ba có một gã Cô-
dắc phi ngựa tới thôn Tatarsky mang theo một bản báo cáo. Bọn phiến loạn trấn
Elanskaia yêu cầu cấp tốc gửi quân cứu viện. Chúng đã phải rút lui gần như
không chống cự vì đạn chẳng có mà súng thì không. Khi chúng nã đì đẹt vài phát
súng thảm hại, các chiến sĩ trung đoàn Damursky đã trả lời bằng những trận mưa
đạn súng máy và cho hai đại đội pháo giã giò trên đầu chúng. Trong tình hình
như thế thì không còn đâu thì giờ chờ lệnh trên khu. Petro Melekhov bèn quyết
định xuất kích với hai đại đội của hắn. Hắn nhận quyền chỉ huy cả bốn đại đội
của mấy thôn lân cận.
Sáng hôm ấy, hắn đẫn bọn Cô- dắc lên
gò. Đầu tiên trinh sát của hai bên chạm trán với nhau như thường lệ rồi sau đó
trận chiến đấu mới diễn ra.
Dưới bầu trời mùa đông u ám của ngày
hôm ấy, các đại đội kỵ binh xuống ngựa trên tuyết bên cạnh những bờ vách đứng
rất sâu trong khe núi Đỏ cách thôn Tatarsky tám vec- xta, nơi Grigori đã cùng
Natalia đi cày và lần đầu tiên thú nhận với vợ là không yêu nàng. Các đội hình
tản khai tiến vào vị trí. Bọn giữ ngựa dắt ngựa vào những nơi ẩn nấp. Bên dưới,
Hồng quân đang tiến ra khỏi một vùng lòng chảo rất rộng, thành ba tuyến chiến đấu.
Những hình người đen đen hiện lên trên khoảng đất trũng rất rộng nom chỉ còn là
những điểm lấm chấm. Vài chiếc xe vận tải chạy tới gần ba đội hình tản khai.
Những chiến sĩ kỵ binh làm tuyết bắn tung lên mù mịt. Vì còn cách quân địch đến
hai vec- xta, quân Cô- dắc từ từ chuẩn bị chiến đấu.
Trên lưng ngựa con béo căng, đã hơi
đổ mồ hôi, Petro rời khỏi chỗ mấy đại đội của trấn Elanskaia lúc nầy đã triển
khai xong, phi tới trước mặt Grigori, coi bộ rất vui vẻ hoạt bát:
- Các anh em ạ! Nhớ tiết kiệm đạn đấy!
Bao giờ có lệnh của tôi hãy nổ súng… Grigori, đưa đại đội của mày sang bên trái
chừng năm xa- gien đi. Quàng lên một chút! Đừng cho bọn coi ngựa đứng tụm vào
một chỗ đấy! - Hắn ra thêm vài cái lệnh cuối cùng rồi lấy ống nhòm ra quan sát.
- Có lẽ chúng nó bố trí một đại pháo ở nấm kurgan Madveev phải không?
- Tôi đã nhận thấy từ lâu rồi, không
cần ống nhòm cũng nhìn thấy được Grigori cầm lấy cái ống nhòm từ tay Petro để
quan sát. Đằng sau nấm kurgan với những luồng gió xoáy trên ngọn, thấy đen đen
vài chiếc xe vận tải, loáng thoáng những hình người nhỏ xíu.
Đại đội pháo binh thôn Tatarsky mà
kỵ binh gọi đùa là "bò binh, đã nhận được lệnh nghiêm cấm tụ tập với nhau,
nhưng chúng vẫn đứng từng đám để chia đạn, hút thuốc và pho trò chế giễu nhau.
Vì mất con ngựa, Khristonhia lọt vào đám bộ binh, chiếc mũ lông của hắn ngật
ngưỡng cao hơn hẳn bọn Cô- dắc nhỏ bé đến một đầu người. Cái mũ ba tai của ông
Panteley Prokofievich nổi bật lên đỏ lóe. Phần lớn những tên trong đám bộ binh
là những lão già và những gã non choẹt. Mấy đại đội của trấn Elanskaia bố trí
cách bên phải những đám hướng dương chưa cắt mọc rậm rì chừng một véc- xta
rưỡi. Bốn đại đội ấy có sáu trăm tên nhưng số giữ ngựa đã tới gần hai trăm. Một
phần ba toàn bộ quân số đem ngựa đi núp sau những khoảng dốc thoai thoải của
các bờ vách.
- Anh Petro Panteleevich! - Trong
các hàng bộ binh có vài gã gọi.
- Chú ý đấy trong lúc chiến đấu chớ
bỏ rơi anh em bộ binh chúng tôi nhé!
- Anh em cứ yên tâm! Chúng tôi sẽ
không bỏ rơi đâu. - Petro mỉm cười trả lời rồi nhìn những đội hình chiến đấu
của Hồng quân từ từ trườn lên ngọn gò. Hắn bắt đầu nghịch nghịch ngọn roi, có
vẻ nóng nảy.
- Anh Petro, ra đây một lát đã! -
Grigori rời khỏi đội hình chiến đấu gọi hắn.
Petro bước tới, Grigori cau mày, nói
với một giọng rõ ràng không vừa ý:
- Trận địa bố trí không hợp ý tôi
đâu. Cần phải tránh mấy cái bờ vách nầy mới được. Nếu không chúng nó sẽ vu hồi
vào sườn thì tai vạ đấy? Anh thấy thế nào?
- Mày làm sao thế? - Petro bực mình
vung tay. - Bọn chúng nó bao vây chúng mình thế nào được? Tao đã dành một đại
đội làm lực lượng dự bị rồi. Hơn nữa nếu gặp tình huống nguy hiểm, mấy cái bờ
vách nầy cũng có lợi. Chẳng có gì trở ngại đâu.
- Cẩn thận đấy, anh bạn ạ? - Grigori
nói giọng cảnh cáo và cứ luôn luôn đảo nhanh mắt mò mẫm địa hình.
Chàng quay về đội hình chiến đấu của
mình, nhìn một lượt bọn Cô- dắc. Nhiều gã không còn những chiếc găng không ngón
và có ngón trên tay nữa. Chúng lo lắng nóng cả người, phải tháo ra. Có gã bối
rối ra mặt, hết sửa lại thanh gươm lại thắt chặt dây lưng.
- Vị tư lệnh của chúng ta hạ mã rồi.
- Fedot Bodovskov mỉm cười hơi hất hàm một cách nhạo báng, chỉ Petro lúc nầy
đang ngật ngưỡng đi tới gần các đội tản khai.
- Nầy ông tướng Platov 1! - Gã cụt
tay Aleksey Samin cười sằng sặc, toàn bộ vũ trang của gã có độc một thanh gươm.
- Gọi cho mỗi anh em sông Đông một be vodka đi!
- Câm mồm đi, con sâu rượu nầy! Bọn
Đỏ chặt nốt của cậu cái tay kia thì sẽ lấy gì mà đưa lên miệng? Rồi sẽ phải ra
máng lợn mà rúc thôi.
- Thôi đi, thôi đi!
- Uống vào rồi cũng đến bán rẻ cái
mạng thật đấy! - Stepan Astakhov thở dài nói rồi thậm chí rời tay khỏi cán
gươm, đưa lên xoăn ria.
Các mẩu chuyện trao đổi nhau trong
đội hình chiến đấu thật chẳng đúng lúc chút nào. Nhưng đến khi một khẩu pháo ở
sau cái kurgan Madveev vừa nổ bục ra một phát trầm trầm thì tất cả lắng bặt
ngay.
Tiếng nổ đặc sệt và rất mạnh bật ra
khỏi miệng khẩu pháo như một quả cầu và mãi sau mới tan ra trên đồng cỏ thành
làn khói trắng, tiếp liền có tiếng nổ rành rọt và gọn gắt của đầu đạn. Đầu quả
đạn pháo chưa tới đích đã nổ, cách đội hình tản khai của quân Cô- dắc chừng nửa
vec- xta. Bọc trong một cái vỏ tuyết sáng rực lồm xồm như một bộ lông, đám khói
đen từ từ cuộn lên trên cánh đồng rồi rụng xuống, trải rộng ra và ẩn vào những
bụi cỏ dại. Các khẩu súng máy trong các đội hình Hồng quân lập tức hoạt động.
Các loạt súng máy vang lên như tiếng mõ tuần phiên ban đêm. Bọn Cô- dắc nằm bẹp
trên tuyết, giữa những đám cỏ dại, bên những cây hướng dương không có bông, đầy
lông cứng.
- Khói đen quá! Có lẽ chúng nó dùng
những quả đạn Đức đấy! - Prokho Zykov ngoái nhìn Grigori, kêu lên.
Trong đại đội của trấn Elanskaia bố
trí bên cạnh có tiếng nhốn nháo. Gió đưa đến một tiếng kêu:
- Ông bạn đỡ đầu Mitrofan bị giết
rồi!
Tên đại đội trưởng râu đỏ Ivanov,
dân Rubegin, chạy dưới lằn đạn tới chỗ Petro. Hắn chùi trán bên dưới chiếc mũ
lông, thở hổn hển:
- Những tuyết là tuyết! Sâu đến là
sâu, không rút chân lên được nữa?
- Anh có việc gì thế? - Petro giương
cao hai hàng lông mày hỏi.
- Đồng chí Melekhov ạ, tôi chợt nảy
ra một ý nghĩ như thế nầy nầy. Đồng chí hãy điều một đạỉ đội xuống dưới kia,
xuống bờ sông ấy. Lấy ở trận địa mà điều đi. Bảo đại đội ấy theo đường dưới ấy
về tới thôn, rồi từ đấy đánh vào sau lưng bọn Đỏ. Có lẽ chúng nó đã bỏ các xe
vận tải lại… Phải, chỗ ấy làm gì có đội hộ vệ? Chúng ta sẽ làm chúng nó hoảng
lên một mẻ.
Petro cảm thấy thích thú với ý nghĩ
đó. Hắn ra lệnh cho nửa đại đội của hắn nổ súng; thấy Latysev đứng thẳng đườn
đưỡn hắn bèn vẫy tay ra hiệu cho tên nầy rồi ngật ngưỡng bước tới trước mặt
Grigori. Hắn cho Grigori biết ý định của mình rồi ra lệnh gọn lỏn:
- Đem nửa đại đội đi! Đánh tập hậu!
Grigori cho bọn Cô- dắc rút khỏi
trận địa, xuống tới dưới khe thì cho chúng lên ngựa, phóng nước kiệu nhanh vòng
về thôn.
Phía Cô- dắc đã bắn mỗi khẩu súng
trường chừng hai kẹp đạn, chúng ngừng bắn. Các tuyến tấn công của Hồng quân nằm
xuống.
Các khẩu súng máy nổ ngập ngừng từng
đợt. Một viên đạn lạc bắn bị thương con ngựa chân trắng của Marchin Samin. Con
ngựa phát cuồng vùng chạy khỏi tay gã coi ngựa, lồng lên xông qua đội hình của
bọn Cô- dắc thôn Rubegin, chạy theo chân núi sang phía Hồng quân. Trúng một
loạt đạn súng máy giữa lúc đang phi như bay, nó hất bổng hai chân sau, rồi ngã
dúi xuống tuyết.
- Mục tiêu, những thằng súng máy! -
Mệnh lệnh của Petro được truyền qua các tuyến chiến đấu.
Bọn chúng bắt đầu nhắm bắn. Chỉ
riêng những tên thiện xạ nổ súng và kết quả đã rất tốt. Một gã Cô- dắc nhỏ bé
xấu xí người thôn Thượng Kripsky lần lượt hạ ba tay xạ thủ súng máy và khẩu
"Macxim" bắn đến sủi bọt trong bình tán nhiệt đã phải câm tiếng.
Nhưng xạ thủ nầy vừa trúng đạn thì
có người khác thay ngay. Khẩu súng máy lại tặc tặc, tiếp tục gieo những hạt
giống của cái chết. Các loạt đạn nối tiếp nhau rất sát. Bọn Cô- dắc bắt đầu
buồn bực, chúng rúc xuống tuyết mỗi lúc một sâu hơn. Anikey đã bới hết lớp
tuyết xuống tới đất và cứ luôn luôn làm trò. Hắn đã bắn hết đạn (vẻn vẹn có tất
cả năm viên trong một cái kẹp đạn rỉ xanh), thỉnh thoảng lại nhô đầu lên khỏi
lớp tuyết, dùng môi bắt chước rất giống tiếng kêu chi chí của những con chuột
đồng hoảng sợ.
- Ac- khi- u? - Anikey nhìn một cách
nghịch ngợm khắp lượt những tên trong tiểu đội và kêu lên y như một con chuột
đồng.
Stepan Astakhov ở bên phải hắn cười
ngặt nghẽo đến chảy cả nước mắt, nhưng gã Anchip con lão "Vua nói
phét" ở bên trái hắn thì phát cáu vặc rầm lên.
- Thôi đi, đồ khốn kiếp! Tìm được
một lúc như thế nầy mà làm trò đùa?
- Ac- khi- u! - Anikey quay mặt về
phía gã, trợn tròn hai con mắt, vờ làm vẻ sợ hãi.
Có lẽ thiếu đạn nên đại đội pháo của
Hồng quân chỉ bắn chừng ba mươi phát rồi câm bặt. Petro có vẻ sốt ruột, hắn đưa
mắt nhìn về phía sau, về đường sống gò. Hắn đã phái hai gã liên lạc về thôn, ra
lệnh cho tất cả những người lớn tuổi trong thôn mang chàng nạng, liềm hái, gậy
gốc lên gò. Và để uy hiếp Hồng quân, hắn cũng cho quân tản khai thành ba tuyến…
Chẳng mấy chốc dân chúng đã xuất
hiện trên đường sống gò và chạy ùa xuống dốc từng đám rất đông.
- Xem kìa, đàn quạ đen đã bay ra rồi
kìa!
- Toàn thôn đều ra hết.
- Có lẽ trong đám có cả đàn bà?
Bọn Cô- dắc cười đùa gọi nhau ơi ới.
Phía bên nầy đã ngừng hẳn không bắn nữa. Về phía Hồng quân cũng chỉ còn hai
khẩu súng máy hoạt động và lâu lâu mới dội lên một loạt đoạn súng trường.
- Tiếc thật, đại đội pháo của chúng
nó câm họng mất rồi. Cho một phát vào giữa cái đám lính đàn bà nầy thì sẽ nháo
lên một mẻ ra trò! Rồi cứ là mang váy ướt chạy về thôn! - Gã Aleksey cụt tay
nói bằng một giọng khoái trá. Có lẽ hắn thực tâm lấy làm tiếc vì Hồng quân
không nã một quả pháo nào vào đám đàn bà.
Đám người bắt đầu lên ngang nhau và
phân nhỏ ra. Chẳng mấy chốc họ đã dàn thành hai tuyến rất rộng rồi đứng lại.
Petro không cho phép họ lên tới cách
đội hình chiến đấu của bọn Cô- dắc một tầm súng. Nhưng chỉ riêng việc họ xuất
hiện cũng rõ ràng có tác động tới Hồng quân. Các tuyến tấn công của Hồng quân
bắt đầu rút xuống dưới đáy vùng lòng chảo. Sau khi trao đổi ý kiến qua quít với
bọn đại đội trưởng. Petro bỏ hở sườn bên phải, điều đi hai tuyến của bọn Cô-
dắc trấn Elanskaia, và ra lệnh cho chúng di chuyển bằng ngựa về hướng bắc, về
sông Đông để yểm hộ cho cuộc tập kích của Grigori. Ngay trước mắt Hồng quân,
các đại đội tập họp bên nầy bờ vách Đỏ rồi rút xuống phía dưới, ra sông Đông.
Quân Cô- dắc lại bắt đầu nổ súng vào
những đội hình Hồng quân đang rút lui.
Trong khi đó, từ trong "đội dự
bị" gồm toàn đàn bà, những lão già và những thằng con trai chưa thành
niên, vài mụ đàn bà liều lĩnh nhất cùng một bầy trẻ con đã đổ xô đến tuyến
chiến đấu. Ả Daria nhà Melekhov cũng có mặt trong số các mụ đó.
- Anh Petro, cho em bắn bọn Đỏ với?
Em cũng biết cách dùng súng trường đấy.
Rồi nói là làm, ả giằng lấy khẩu
carbin của Petro, quì một bên đầu gối như đàn ông, tì báng súng một cách vững
vàng vào phần trên ngực, trong chỗ hõm của cái vai hẹp, nã liền hai phát.
Nhưng "đội dự bị" bắt đầu
thấy lạnh, họ giậm chân, họ nhảy cỡn lên, họ hỉ mũi. Cả hai tuyến đều ngả
nghiêng như bị gió lay. Má và môi bọn đàn bà xám lại. Hơi lạnh hoành hành hết
sức lưu manh dưới gấu những chiếc váy rộng thùng thình. Những lão già hom hem
nhất đã gần như chết cóng. Nhiều lão, trong đó có cả cụ Grisaka, đã bị xốc nách
lôi ra khỏi thôn, đưa lên ngọn gò rất dốc. Nhưng khi lên tới đây trên đỉnh gò,
chỗ đón được những làn gió trên cao, thì tiếng súng và hơi lạnh đã làm họ hoạt
bát hẳn lên. Họ đứng trong các đội hình chiến đấu, nói chuyện với nhau không
ngơi miệng về những cuộc chiến tranh và chiến đấu xưa kia, về tính chất gian
khổ của cuộc chiến tranh lần nầy, trong đó bố con anh em đánh giết lẫn nhau,
trong đó những khẩu pháo bắn quá xa, mắt thường không thể nhìn thấy được…
--- ------ ------ ------ -------
1 (1751 -
1818) Bá tước, tướng Nga Ghet- man của dân Cô- dắc, 1812 tấn công hậu vệ của
Napoleon khi quân Pháp rút lui khỏi nước Nga, 1813 đánh bại quân Pháo ở Lion,
1814 chiếm Nêmua, rồi cùng vớt quân Đồng minh tiến vào Paris. Dân Pháp không
quên cả sự dũng cảm lẫn sự dã man của quân Cô- dắc (ND).
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 153
Grigori đã đem nửa đại đội đánh tan
đoàn xe vận tải tuyến thứ nhất của trung đoàn Damursky. Tám chiến sĩ Hồng quân
bị chém chết. Bắt được bốn chiếc xe chở đạn và hai con ngựa chiến. Nửa đại đội
chỉ mất một con ngựa bị giết và một gã Cô- dắc bị xây xát không đáng kể.
Grigori rút về dọc theo sông Đông
cùng với bốn chiếc xe vừa cướp được, không bị ai đuổi theo. Thắng lợi làm trong
lòng chàng như mở cờ. Nhưng trong khi đó cuộc chiến trên ngọn gò đã đi đến chỗ
kết thúc. Ngay từ trước khi trận chiến mở màn, một đại đội kỵ binh của trung
đoàn Damursky đã vu hồi rất xa trên một con đường vòng mười vec- xta rồi bất
thình lình xuất hiện ở sau cái gò và tập kích vào những tên giữ ngựa. Toàn bộ
tình hình bị đảo lộn. Bọn giữ ngựa nhảy vội lên ngựa phi như bay từ dưới chân
bờ vách Đỏ lên, chỉ kịp trao ngựa cho một gã Cô- dắc. Trong khi đó số còn lại
đã thấy những lưỡi gươm sáng loà của các chiến sĩ Damursky lấp loáng trên đầu.
Nhiều gã coi ngựa không có vũ khí, thả ngựa chạy tán loạn.
Đại đội bộ binh sợ bắn nhầm quân
mình không thể nổ stíng được. Chúng lao mình xuống bờ vách, ào ào như những hạt
đậu dốc ra từ trong một cái túi, rồi leo lên bên kia, bỏ chạy không còn hàng
ngũ gì nữa. Phần lớn bọn kỵ binh nhận được ngựa. Chúng đua nhau phi bạt mạng về
thôn, mạnh ai nấy thoát.
Lúc đầu, Petro vừa nghe thấy tiếng
kêu, quay đầu nhìn lại, thấy làn sóng kỵ binh ập tới chỗ bọn giữ ngựa, bèn ra
lệnh:
- Lấy ngựa! Bộ binh! Latysev? Vượt
sang bên kia bờ vách!
Nhưng hắn đã không kịp chạy đến chỗ
tên coi ngựa của hắn. Con ngựa của hắn được trao cho một thằng còn trẻ tên là
Andriuska Bakhlenov giữ. Andriuska cho ngựa phi nước đại đến trước mặt Petro
Hai con ngựa của Petro và Fedot Bodovskov chạy song song bên phải nó. Nhưng một
chiến sĩ Hồng quân mặc chiếc áo da thuộc màu vàng mở phanh đã phi ngựa như bay
tới bên cạnh Andriuska, quát to:
- Ông chẻ xác mày ra, lính tráng gì
mày!
Rồi vung thẳng cánh chém nó một
nhát. Nhưng phúc bảy mươi đời thằng Andriuska, trên vai nó lại lắt lẻo một khẩu
súng trường.
Đáng lẽ chém trúng cái cổ quấn một
chiếc khăn quàng màu trắng của nó, thanh gươm lại lượt đánh soạt theo nòng
súng, rít lên, bật khỏi tay người chiến sĩ rồi bay vụt lên không thành một
đường vòng cung. Con ngựa của Andriuska chạy đương hăng nhảy chồm sang bên
cạnh, phi vụt lên. Hai con ngựa của Petro và Bodovskov cũng vùng chạy theo…
Petro ối chà một tiếng, đứng sững
lại trong một giây, mồ hôi lập tức vã ra đầm đìa trên khuôn mặt tái mét. Hắn
quay đầu nhìn lại: chừng một chục gã Cô- dắc đang chạy về phía hắn.
- Chúng ta khốn mất rồi! - Bodovskov
kêu lên. Nỗi kinh hoàng làm mặt hắn méo hẳn đi.
- Xuống dưới bờ vách, anh em Cô-
dắc! Anh em, xuống bờ vách!
Petro cố tự chủ chạy tới bờ vách
trước tiên rồi mặc cho mình rơi tuột theo cái vách đứng cao ba mươi xa- gien.
Hắn bị vướng không biết vào cái gì nên chiếc áo lông bị rách toạc từ túi ngực
xuống tới gấu. Rồi hắn đứng chồm lên, rũ lắc toàn thần như một con chó. Những
tên Cô- dắc khác rơi ào ào từ phía trên xuống theo, vừa rơi vừa lộn nhào nom
rất man rợ. Cùng một lúc rơi xuống mười một tên, kể cả Petro là mười hai.
Trên kia tiếng súng vẫn đùng đùng,
vẳng xuống những tiếng người kêu, tiếng vó ngựa. Trong khi đó dưới chân bờ vách
những gã Cô- dắc vừa nhào xuống cứ ra sức rũ tuyết rũ cát trên mũ lông một cách
ngớ ngẩn, có gã xát những chỗ bị đau. Marchin Samin tháo qui- lát, thổi phù phù
vào cái nòng súng đầy tuyết. Thằng Manytkov con trai lão ataman thôn đã qua đời,
còn rất ít tuổi. Nó sợ hết hồn hết vía, run bắn người lên, nước mắt ròng ròng
hai bên má.
- Làm thế nào bây giờ? Anh Petro,
đưa chúng tôi chạy đi thôi? Chết đến nơi rồi… Chúng ta chạy đi đâu bây giờ?
Giời ôi, chúng nó giết anh em ta mất.
Petro lần theo lòng khe ra sông
Đông, hai hàm răng đập vào nhau lách cách. Những tên khác chạy lốc nhốc theo
hắn như một đàn cừu.
Petro cố hết sức giữ chúng lại:
- Đứng lại! Ta bàn nhau đã… Đừng chạy! Chúng nó bắn theo
đấy!
Hắn đưa tất cả bọn kia đến một chỗ nước chảy hõm vào
trong cái sườn vách toàn đất sét đỏ rồi cố giữ vẻ bình tĩnh, lắp bắp đề nghị:
- Không xuống bên dưới được đâu. Chúng nó đuổi theo anh
em mình xa đấy… Phải ở lại đây… Tản vào các chỗ hõm… Ba cậu chạy sang phía bên
nầy… Chúng ta sẽ bắn lại! Nếu bị chúng nó bao vây ở đây cũng có thể cố thủ
được…
- Nhưng chúng ta nguy mất rồi! Bố mẹ ơi! Anh em ơi! Các
anh cho tôi ra khỏi chỗ nầy thôi? Tôi không muốn… tôi không muốn chết! - Thằng
Manytkov lông mày trắng từ nãy vẫn khóc thút thít bỗng kêu rống lên.
Petro long hai con mắt Can- nứt của hắn lên, bất thình
lình tống một quả như trời giáng vào mặt Manytkov.
Thằng bé đổ cả máu mồm máu mũi, đập lưng đánh bịch vào
cái vách, làm đất lở cả xuống, hai chân lảo đảo, nhưng không gào lên nữa.
- Làm thế nào mà bắn lại được? - Samin nắm lấy tay Petro
hỏi. - Có được bao nhiêu đạn? Hết đạn rồi còn đâu!
- Chúng nó sẽ thả lựu đạn xuống. Anh em ta sẽ mất mạng
cả?
- Hừ, không thế thì còn cách nào nữa? - Mặt Petro bất
thần lái xanh, nước bọt sùi cả ra mép dưới hàng ria. - Nằm xuống! Tôi chỉ huy
hay ai chỉ huy? Tôi bắn chết bây giờ?
Và quả thật hắn vung khẩu Nagan trên đầu bọn Cô- dắc.
Cái giọng khe khẽ, rin rít của hắn lựa như đã đem lại sức
sống cho bọn kia. Bodovskov, Samin và hai gã Cô- dắc nữa chạy sang phía bên kia
cái khe, nằm xuống một chỗ hõm, còn những tên khác bố trí bên cạnh Petro.
Mùa xuân, những dòng nước nâu nâu đổ từ trên núi xuống đã
vần đi những tảng đá thiên nhiên, để lại trong lòng khe những cái hố lớn và làm
lở lớp đất sét đỏ, đào trên vách khe những chỗ hõm sâu. Bọn Cô- dắc vào núp
trong các chỗ đó.
Gã Anchip con lão "Vua nói phét" đứng khom khom
bên cạnh Petro, khẩu súng trường lăm lăm trên tay. Hắn cứ lẩm bẩm như nói sang:
- Thằng Stepan Astakhov kịp nắm được đuôi con ngựa của nó
còn mình thì không kịp… Bọn bộ binh đã bỏ mặc chúng mình… Chúng mình nguy mất
rồi, anh em ạ? Chúa nhìn thấy hết, chúng mình chết mất…
Từ bên trên vẳng xuống tiếng chân người chạy lạo xạo.
Tuyết và đất vụn rơi lả tả xuống dưới khe.
- Chúng nó đấy rồi! - Petro nắm lấy tay áo Anchip khẽ
nói, nhưng gã kia cố giằng tay ra cho kỳ được, mắt đăm đăm nhìn lên phía trên,
ngón tay đặt trên cò súng.
Bên trên vẫn có thêm những người đi tới sát bờ vách.
Chỉ vẳng xuống tiếng nói lao xao, tiếng gọi ngựa.
"Chúng nó đang bàn bạc với nhau" - Petro nghĩ
thầm, và tựa như tất cả các lỗ chân lông trên người hắn đều nở to ra, mồ hôi
lại chảy ròng ròng trên lưng, trên cái khe hõm giữa ngực, trên mặt hắn.
- Nầy các anh, leo lên đi! Đằng nào chúng tôi cũng sẽ
tiêu diệt hết các anh! - Bên trên có tiếng gọi to.
Tuyết rơi xuống đã nhiều hơn, nom cứ như một dòng sữa
trắng. Hình như có người đi tới gần bờ vách.
Một giọng khác cũng từ chỗ đó nói một cách chắc chắn:
- Chúng nó đã nhảy từ chỗ nầy xuống, vẫn còn vết chân đây
nầy. Chính mắt tôi trông thấy mà.
- Petro Melekhov? Leo lên đi!
Trong giây phút, một nỗi vui mừng mù
quáng làm khắp người Petro nóng ran nhứ lửa đốt. "Trong bọn Đỏ làm gì có
đứa nào biết mình? Anh em mình đấy mà! Họ đã đánh lui bọn Đỏ rồi!" Nhưng
ngay lập tức, chính giọng nói ấy lại làm hắn khẽ run lên:
- Miska Kosevoi đang nói đây. Chúng
tôi đề nghị các anh đầu hàng đi thì hơn. Đằng nào cũng không thoát được đâu?
Petro chùi cái trán ướt đẫm, trên
lòng bàn tay còn lưu lại một vệt mồ hôi hồng hồng những máu. Một cảm giác tê
dại thẫn thờ, mấp mé với trạng thái hôn mê bất tỉnh dần dần xâm chiếm lấy
Petro.
Tiếng kêu của Bodovskov vang lên man
rợ:
- Chúng tôi sẽ lên nếu anh hứa sẽ
thả chúng tôi. Bằng không chúng tôi sẽ bắn lại! Các anh cứ mà bắt?
- Chúng tôi hứa… - Bên trên lặng đi
một lát rồi có tiếng trả lời.
Với một cố gắng ghê gớm, Petro cố rũ
cái cảm giác tê dại như mơ ngủ. Trong mấy tiếng "chúng tôi sẽ thả"
hắn cảm thấy như có hàm một ý giễu cợt ngầm, bèn kêu lên bằng một giọng khàn
khàn:
- Lui về sau! - Nhưng chẳng còn tên
nào nghe hắn nữa.
Trừ tên Anchip trốn trong một chỗ
hõm, tất cả bọn Cô- dắc đều bám vào các mô đất, leo lên trên.
Petro leo lên cuối cùng. Như một cái
thai trong lòng người mẹ, một niềm ham sống thôi thúc mãnh liệt bên trong hắn.
Hành động theo lính tự vệ, hắn còn nhớ rằng phải tháo đạn trong ô chứa đạn rồi
mới bắt đầu leo lên cái vách đứng. Mắt hắn mờ đi, tim hắn nở to ra, chiếm hết
lồng ngực. Hắn cảm thấy tức thở, người nặng ra như trong một cơn ác mộng thời
thơ ấu. Hắn giật đứt những cái khuy trên cổ chiếc áo quân phục cổ chui, xé rách
cái cổ áo lót bẩn thỉu. Mồi hôi chảy xuống phủ nhoà cả mắt, hai tay hắn trượt
trên những mô đất lạnh buốt của cái vách đứng. Hắn thở khò khè bò lên cái bãi
nhỏ đã bị dẫm nát trên bờ khe rồi ném khẩu súng trường xuống đất, giơ hai tay
lên. Những tên Cô- dắc lên trước đã đứng lốc nhốc thành một đám. Miska Kosevoi
bước ra khỏi một đám rất đông những chiến sĩ bộ binh và kỵ binh của trung đoàn
Damursky, đi tới trước mặt hắn. Một chiến sĩ Hồng quân cũng cho ngựa tới gần.
Miska đi tới sát Petro, khẽ hỏi,
nhưng mắt vẫn dán xuống đất:
- Đánh đấm thế đủ rổi à? - Anh đứng
yên một lát chờ câu trả lời rồi hỏi thêm, và vẫn nhìn xuống chân Petro - Chỉ
huy chúng nó à?
Môi Petro run bắn lên. Hắn nặng nề
đưa tay lên cái trán đẫm mồ hôi, cử chỉ nom mệt mỏi đến cùng cực. Hai hàng lông
mi vừa dài vừa cong của Miska rung rung, cái môi trên mọng mọng vểnh ngược lên,
trên đó còn lấm tấm những điểm nhiệt vì sốt rét. Khắp người Miska run lên mạnh
đến nỗi có cảm tưởng như anh không thể nào dứng vững được nữa, sắp ngã lăn ra
đến nơi. Nhưng bất thình lình anh ngước mắt lên rất nhanh, nhìn thẳng vào tròng
con mắt Petro, ánh mắt biến khác hẳn như muốn cắm sâu vào, rồi khẽ nói rất
nhanh:
- Cởi quần áo ra!
Petro hấp tấp cởi cái áo lông ngắn,
gấp lại rất cẩn thận và đặt xuống tuyết. Hắn bỏ cái mũ lông ra, tháo dây lưng,
cởi chiếc áo sơ- mi màu cứt ngựa, đặt tất cả lên tà áo lông rồi bắt đầu tháo
ủng, mặt mỗi lúc một nhợt nhạt.
Kotliarov xuống ngựa, bước tới bên
cạnh nhìn Petro. Anh nghiến chặt hai hàm răng, chỉ sợ mình khóc oà lên.
- Không cởi đồ lót, - Miska rùng
mình rồi khẽ nói và bỗng nhiên quát to giọng phá ra - Nhanh lên, cái thằng nầy?
Petro luống cuống vò đôi bít tất len
vừa tháo ở chân ra nhét vào ống ủng, đứng thẳng lên, bước hai bàn chân vàng như
nghệ từ trên chiếc áo lông ngắn ra mặt tuyết.
- Bác bạn đỡ đầu ơi! - Hắn gọi
Kotliarov, môi chỉ hơi mấp máy.
Kotliarov nín thinh nhìn tuyết tan
dưới hai bàn chân không của Petro.
- Bác bạn đỡ đầu Kotliarov ơi, bác
đã đỡ đầu cho con tôi…
- Bác, bác đừng xử tử tôi? - Petro
van xin, nhưng thấy Miska đã nâng khẩu Nagan lên tới ngang ngực mình, hắn trợn
tròn hai con mắt như sắp sửa nhìn thấy một vật gì chói loà và rụt đầu lại, như
muốn nhảy vụt lên.
Chưa nghe thấy tiếng súng, hắn đã
ngã ngửa ra như bị xô rất mạnh. Hắn cảm thấy như bàn tay Miska giơ lên đã nắm
lấy tim hắn và lập tức vắt hết máu trong đó. Lấn cuối cùng trong đời, Petro cố
đem hết sức lực, vất vả lắm mới phanh được cái cổ áo sơ- mi lót, để lộ vết đạn
dưới nụ hoa bên trái. Một lát sau máu mới từ từ rỉ trong vết thương ra và sau
khi tìm thấy lối thoát, phụt lên phì phì, chảy xuống thành một dòng đen như
nhựa chưng.
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 154
Lúc trời rạng, đội trinh sát được
phái đến vách núi Đỏ trở về báo tin rằng chúng tiến đến địa giới trấn Elanskaia
cũng không phát hiện thấy Hồng quân và Petro Melekhov cùng mười gã Cô- dắc bị
chém nát còn nằm trên bờ cái vách đứng.
Grigori ra lệnh đem xe đi nhặt xác
chết rồi sang nhà Khristonhia nghỉ nốt đêm hôm ấy. Tiếng những người đàn bà
than khóc kể lể về người chết, tiếng khóc rất khó chịu của Daria đã đuổi chàng
ra khỏi nhà. Chàng ngồi bên cái lò sưởi trong nhà Khristonhia đến khi trời bình
minh, hút thuốc lá liên miên, và như sợ phải nhìn thẳng vào các ý nghĩ của
mình, sợ bị ám ảnh bởi nỗi nhớ thương Petro, chàng cứ luôn tay với lấy túi
thuốc. Chàng hít khói thuốc lá hắc hắc đến chướng cả bụng và nói với anh chàng
Khristonhia ngủ gà ngủ gật những chuyện đâu đâu.
Trời đã rạng. Từ tảng sáng tuyết bắt
đầu tan. Chừng mười giờ thì thấy hiện ra những vũng nước trên con đường đầy
phân bò ngựa.
Nước nhỏ giọt trên mái xuống. Những
con gà trống gân cổ gáy, cứ như trời đã sang xuân. Ở một chỗ nào đó con gà mái
cục tác bằng một giọng đơn điệu như trong một buổi giữa trưa oi bức.
Trong các sân gia súc, những con bò
mộng kiếm chỗ dãi nắng để sưởi và cọ mình vào những dãy hàng rào. Gió thổi bay
những đám lông rụng về mùa xuân trên những cái lưng màu gạch. Nồng nặc mùi
tuyết tan hắc hắc ngai ngái. Một con sẻ núi nhỏ xíu ức vàng vừa hót líu lo vừa
đung đưa trên một cái nhánh rụng hết lá của cây táo bên cạnh cổng nhà
Khristonhia.
Grigori đứng ở cổng nhìn lên gò chờ
những chiếc xe, chàng bất giác chuyển những tiếng hót líu nhíu cuả con sẻ núi
sang cách dùng tiếng người bắt chước mà chàng đã biết từ thời thơ ấu. Trong một
ngày trời trở ấm như hôm nay, con sẻ núi đang vui vẻ nói liến thoắng:
"Chữa cày đi! Chữa cày đi!" Nhưng Grigori biết rằng đến những ngày
băng giá, con chim sẻ đổi một giọng khác và sẽ ríu rít khuyên người ta một câu
đại khái nghe như "Đi ủng vào? Đi ủng vào!". Grigori chuyển tầm mắt
từ mặt đường sang con chim mùa đông đang nhảy tâng tâng. Con chim vẫn nhắc
không ngơi: "Chữa cày đi! Chữa cày đi!". Tự nhiên Grigori nhớ lại hồi
còn nhỏ, những lần chàng cùng Petro đi chăn gà tây trên đồng cỏ. Hồi ấy Petro
còn là một thằng bé có cặp lông mày trắng phếch, cái mũi hếch lên trời lúc nào
cũng bợt da. Hán bắt chước giọng gà tây rất đúng và chuyển tiếng gà kêu thành
tiếng nói tinh nghịch của trẻ con cũng rất giỏi.
Hắn nhại tiếng chíp chíp của một con
gà giận dữ kêu bằng một giọng rất cao: "Tất cả có ủng, mình tôi không! Tất
cả có ủng, mình tôi không?" Rồi lập tức trợn tròn hai con mắt, co khuỷu
tay, đi nghiêng người, bắt chước một con gà tây già: "Khù! Khù! Khù! Khù!
Ra chợ mà mua đôi ủng rách?" Những lần như thế bao giờ
Grigori cũng sung sướng cười như nắc
nẻ và cố nài anh nói thêm bằng tiếng gà tây hoặc diễn lại cái cảnh một ổ gà tây
non ríu rít rộn ràng như thế nào khi bới thấy dưới cỏ một vật gì đó, chẳng hạn
một miếng sắt hay một mảnh vải…
° ° °
Chiếc xe đầu tiên đã xuất hiện ở
cuối phố. Một gã Cô- dắc đi bên cạnh. Tiếp theo là chiếc thứ hai, chiếc thứ ba.
Grigori lau nước mắt, xua nét cười bất ngờ đến với mình kèm theo những hồi ức
không đúng lúc và vội vã bước về cổng nhà mình. Trong giây phút đầu tiên khủng
khiếp nầy, chàng muốn ngăn không cho bà mẹ đau khổ đến điên dại lại gần chiếc
xe chở xác Petro. Gã Aleksey Samin đi bên cạnh chiếc xe đầu tiên, đầu không mũ.
Hắn dùng mẩu tay cụt áp chiếc mũ lông vào ngực, còn tay phải giữ cái dây cương
bện bằng lông đuôi ngựa. Con mắt của Grigori không dừng lại lâu trên mặt
Aleksey mà chuyển ngay xuống chiếc xe trượt tuyết. Marchin Samin nằm trên một
cái đệm rơm, mặt ngửa lên trời, đầy máu đọng.
Cái áo quân phục cổ chui màu xanh lá
cây cũng bê bết máu trên ngực và trên cái bụng lép kẹp. Chiếc xe thứ hai chở
thằng Manytkov với khuôn mặt bị chém nát rúc vào trong rơm. Nó rụt đầu rụt cổ
như người sợ lạnh, gáy bị một đường gươm lão luyện chém băng đi: tóc và những
miếng băng đen sì viền tròn khoảng xương sọ bị phạt ngọt.
Grigori đưa mắt nhìn chiếc xe thứ
ba. Chàng không nhận ra cái xác đó là ai, chỉ nhìn thấy một bàn tay với những
ngón tay trong như sáp ong, vàng khè vì khói thuốc lá. Bàn tay đó thõng từ trên
xe xuống, mấy ngón tay kéo lệt sệt trên lớp tuyết đang tan còn cong lại, giữ
nguyên cái dáng làm dấu phép trước khi nhận cái chết. Người chết mặc áo ca-
pốt, đi ủng, cả cái mũ cũng được đặt trên ngực. Chiếc xe thứ tư vừa tới nơi thì
Grigori nắm luôn lấy đoạn dây ở mõm con ngựa, dắt nó chạy nhanh vào trong sân.
Hàng xóm láng giềng, đàn bà và trẻ con ùa vào theo. Đám người đứng xúm đông xúm
đỏ bên thềm.
- Chính bác ấy đây rồi, Petro
Panteleevich, con người thân yêu của chúng ta đây rồi! Bác ấy không còn sống
trên cõi đời nầy nữa rồi! - Có người khẽ nói.
Stepan Astakhov bước vào cổng, đầu
không đội mũ. Cụ Grisaka và ba lão già nữa cũng không biết từ đâu mò tới.
Grigori ngơ ngác nhìn quanh.
- Chúng ta khiêng vào trong nhà
thôi.
Người đánh xe đã nắm lấy chân Petro,
nhưng đám người bỗng tránh ra, kính cẩn nhường một lối cho bà Ilinhitna ở trong
ngưỡng cửa bước ra.
Bà nhìn lên chiếc xe trượt tuyết.
Mặt bà tái nhợt như mặt người chết từ trán xuống tới má, mũi và xuống tận cằm.
Ông Panteley Prokofievich run rẩy xốc nách bà. Dunhiaska là người đầu tiên gào
lên. Lập tức khắp thôn có tới hàng chục chỗ khóc hoà theo. Daria mở cửa đánh
rầm, nhảy ra thềm, gục xuống chiếc xe trượt tuyết, đầu tóc rũ rượi, mặt sưng
húp.
- Anh Petro yêu quí! Anh Petro, anh
yêu của em! Đứng dậy đi anh? Đứng dậy đi anh.
Mặt Grigori tối sầm lại.
- Tránh ra, chị Daria! - Chàng không còn lý trí nữa, quát
lên bằng một giọng man rợ và không suy nghĩ phải trái gì cả, đẩy luôn vào ngực
Daria.
Ả ngã lăn xuống một đống tuyết. Grigori ôm nhanh lấy dưới
nách Petro, người đánh xe nắm lấy hai cổ chân không còn giầy ủng, nhưng Daria
vẫn bò lồm cồm theo lên thềm, nắm lấy hai bàn tay đông cứng không thể co lại
được nữa của chồng, hôn lấy hôn để.
Grigori đưa chân đạp ả ra và cảm thấy rằng chỉ thêm một
giây là mình hoàn toàn không làm chủ được mình nữa. Daria mê man bất tỉnh,
Dunhiaska giật mạnh hai tay Daria, áp đầu Daria vào ngực mình.
Trong bếp có cái không khí chết lặng của một nhà không có
người kế tự. Petro nằm dưới đất, người nhỏ lại một cách lạ lùng, cứ như đã bị
phơi khô đét. Mũi hắn nhọn hoắt, hàng ria màu lúa mạch sẫm lại, toàn khuôn mặt
dài dài nom nghiêm khắc nhưng đẹp ra. Hai bàn chân không giầy không ủng đầy
lông lá thòi ra bên dưới hai sợi dây buộc ống quần. Người hắn dần dần tan giá,
nên bên dưới đã tụ lại một vũng nước hồng hồng. Các xác chết ban đêm bị đông
cứng càng ấm lại thì càng xông lên nồng nặc mùi máu mặn mặn và mùi xác chết
ngọt lợm như cúc thỉ xa.
Ông Panteley Prokofievich xuống dưới hiên nhà kho bào
những tấm ván làm săng. Mấy người đàn bà nhốn nháo ở phòng trong bên cạnh Daria
lúc nầy vẫn chưa tỉnh lại. Thỉnh thoảng từ trong đó lại vẳng ra một tiếng nức
nở the thé như hoá rồ, rồi một lát sau nghe thấy cái giọng rủ rỉ thao thao như
nước suối của bà mối Vasilixa sang "chia" buồn. Grigori ngồi trước
mặt anh, trên một chiếc ghế dài. Chàng vừa cuốn điếu thuốc vừa nhìn khuôn mặt
chung quanh đã vàng ệch của Petro, nhìn hai bàn tay hắn với những cái móng tròn
tròn đã xanh tím. Chàng cảm thấy rằng giữa mình với thằng anh đã có một sự chia
cách lạnh nhạt rất lớn. Lúc nầy Petro không còn là người nhà nữa mà chỉ là một
người khách qua chơi ít bữa và đã sắp tới lúc chia tay. Hắn đang lạnh nhạt nằm
áp má xuống đất như chờ đợi một cái gì với một nụ cười huyền bí ngưng đọng với
hàng ria màu lúa mạch. Và sáng mai, vợ hắn và mẹ hắn sẽ sửa soạn cho hắn vượt chặng
đường cuối cùng.
Ngay từ chiều, mẹ hắn đã nấu cho hắn ba nồi gang nước ấm,
vợ hắn đã sắp sẵn cho hắn một bộ đồ lót sạch cùng với cái quần đi ngựa và chiếc
áo quân phục sạch nhất. Grigori, thằng em ruột của hắn sẽ lau rửa cái thân hình
trần truồng không biết thẹn và từ nay không thuộc về hắn nữa. Người ta sẽ mặc
những quần áo ngày hội cho hắn và đặt hắn lên một cái bàn. Rồi Daria sẽ để vào
hai bàn tay rộng bè bè, giá băng của hắn, hai bàn tay hôm qua còn ôm ấp ả, cây
nến đã từng chiếu sáng hai vợ chồng ả trong nhà thờ, khi hai người đi quanh cái
đài giảng đạo. Thế là gã Cô- dắc Petro Melekhov sẵn sàng lên đường tới một nơi
không bao giờ trở về thăm nhà xưa nữa.
"Anh chết ngay ở một nơi nào
bên Phổ còn hơn là ở đây, trước mắt mẹ già!" - Grigori thầm trách anh.
Chàng đưa mắt nhìn cái xác chết, bất giác tái mặt đi: một giọt nước mắt đang
chảy lăn tăn từ trên má Petro xuống hàng ria chảy xệ. Grigori thậm chí nhảy
chồm dậy, nhưng sau khi nhìn kỹ chàng thở dài nhẹ nhõm cả người: đó không phải
là một giọt nước mắt của người chết mà chỉ là cái bờm tóc của Petro tan băng
nhỏ giọt xuống trán, và giọt nước đã từ từ lăn xuống má.
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 155
Theo quyết định của tên tư lệnh liên
quân các lực lượng của vùng Đông Thượng, Grigori Melekhov được bổ làm trung
đoàn trưởng trung đoàn trấn Vosenskaia. Chàng chỉ huy mười đại đội Cô- dắc đi
Karginskaia. Bộ tư lệnh đã ra lệnh cho chàng là trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng
phải đánh tan chi đội Likhachev và đuổi chi đội đó ra khỏi địa giới Quân khu để
có thể phát động tất cả các thôn ven sông Tria thuộc hai trấn Karginskaia và
Bokovskaia.
Ngày mồng bảy tháng Ba, Grigori cho
bọn Cô- dắc xuất phát.
Tuyết trên gò đã tan, lộ trần những
khoảng đất đen sì. Chàng đứng trên đó nhìn tất cả mười đại đội tiến qua trước
mặt mình. Bên cạnh con đường, chàng nghiêng nghiêng người ngồi trên yên với cái
lưng gù gù tay ghìm chặt dây cương, giữ con ngựa đang hăng máu. Các đại đội của
các thôn ven sộng Đông: Datky, Olsansky, Merkulov, Gromkovsky, Semenovsky,
Rubinsky, Vodiansky, Lebirgi, Eric lần lượt tiến qua trong đội hình hành quân
hàng dọc.
Grigori đưa găng tay lên vuốt hàng
ria đen, phập phồng cái mũi diều hâu, âm thầm gườm gườm nhìn theo từng đại đội
dưới hai hàng, lông mày vươn rộng như cánh chim. Hàng ngàn vó ngựa bê bết những
bùn nhào đi nhào lại lớp tuyết nhão nâu nâu. Trong khi cưỡi ngựa qua, những gã
Cô- dắc quen biết cũ mỉm cười với Grigori. Khói thuốc lá lập lờ tầng tầng lớp
lớp và tan dần phía trên những chiếc mũ lông. Những con ngựa bốc hơi ngùn ngụt.
Grigori đi vào đại đội cuối cùng.
Tiến được chừng ba vec- xta thì gặp trinh sát của đại đội. Gã hạ sĩ chỉ huy đội
trinh sát cho ngựa chạy tới trước mặt Grigori:
- Bọn Đỏ đang rút lui trên con đường
đi Trucarin!
Chi đội Likhachev không nhận chiến.
Nhưng Grigori đã điều ba đại đội Cô- dắc vòng ra vu hồi rồi đem các đại đội còn
lại đánh thốc lên, vì thế ngay ở Trucarin Hồng quân đã bắt đầu vứt bỏ những xe
vận tải và những hòm đạn. Ở chỗ đầu con đường vào Trucarin, một đại đội pháo
của chi đội Likhachev sa lầy dưới sông bên cạnh một ngôi nhà thờ nhỏ bé, tiều
tụy. Các chiến sĩ coi ngựa chặt đứt dây thắng, phi ngựa qua khu rừng nhỏ quanh
thôn, về Karginskaia.
Quân Cô- dắc không phải chiến đấu gì
cả, vượt liền mười lăm véc- xta từ Trucarin đến Karginskaia. Ở bên phải một
chút, phía sau Yaxenovka, trinh sát địch có lần bắn vào các đội trinh sát của
trấn Vosenskaia, nhưng tất cả chuyện đánh đấm chỉ đến thế rồi thôi. Bọn Cô- dắc
đã bắt đầu nói đùa. "Chúng ta sẽ tiến thẳng tới Novocherkask cho mà
xem!"
Việc chiếm được đại đội pháo làm
Grigori mừng rơn. "Đến những cái khoá hậu chúng nó cũng chẳng kịp
phá", - chàng nghĩ thầm, có ý coi khinh. Mấy khẩu pháo sa lầy đã được dùng
bò kéo lên. Các pháo thủ được lập tức tuyển ngay trong các đại đội. Mỗi khẩu
pháo có hai cặp ngựa kéo, khẩu nào cũng có một cỗ ngựa dự bị. Một nửa đại đội
được chỉ định đi kèm với đại đội pháo làm nhiệm vụ yểm hộ.
Đến lúc trời hoàng hôn bọn Cô- dắc
bôn tập chiếm được trấn Karginskaia. Một phần chi đội Likhachev bị bắt làm tù
binh cùng với ba cỗ pháo cuối cùng và chín khẩu súng máy nặng. Số chiến sĩ Hồng
quân còn lại đã kịp cùng với Uỷ ban cách mạng Karginskaia chạy qua các thôn
theo hướng trấn Bokovskaia.
Suốt đêm mưa tầm tã. Đến gần sáng
thì các khoảng đất trũng và các khe núi đều đầy nước. Đường sá không đi lại
được nữa, mỗi vũng nước đều là một cái bẫy. Tuyết sũng nước đi sụt đến mặt đất.
Ngựa luôn luôn trượt chân, người thì mệt nhoài.
Hai đại đội dưới quyền chỉ huy của
tên thiếu uý Ermakov Kharlampi được Grigori phái đi truy kích quân địch rút
lui, đã bắt được gần ba chục chiến sĩ Hồng quân bị rớt lại trong hai thôn nằm
sát nhau Latysevsky và Vitlogudovsky. Đến sáng thì tù binh bị giải về
Karginskaia.
Grigori ở ngôi nhà rất lớn của một
lão nhà giàu địa phương tên là Kargin. Tù binh bị dồn vào sân để trình diện với
chàng, Ermakov vào phòng Grigori, chào chàng:
- Đã bắt được hai mươi bảy tên Đỏ.
Cần vụ đã dắt ngựa đến cho đồng chí rồi. Đồng chí có ra bây giờ không?
Grigori thắt dây lưng ra ngoài áo
ca- pôt, tới trước gương chải lại mái tóc xoã dưới chiếc mũ lông rồi mới quay
lại nhìn Ermakov:
- Chúng ta ra đi thôi. Lập tức xuất phát ngay. Chúng ta
sẽ tổ chức một cuộc mít- tinh ngoài quảng trường rồi lên đường.
- Cần gì phải mít- tinh! - Ermakov nhún vai mỉm cười. -
Không có mít- tinh anh em cũng đã lên ngựa cả rồi. Đấy, đồng chí xem kìa? Chẳng
phải là anh em Vosenskaia đã kéo đến đây rồi hay sao?
Grigori nhìn qua cửa sổ. Vài đại đội đang tiến qua thành
hàng tư, đội ngũ rất nghiêm chỉnh. Các chiến binh đều như được lựa chọn, ngựa
thì được chải chuốt như trong một cuộc duyệt binh.
- Ở đâu đến thế nầy? Quỉ quái nào lôi chúng nó ở đâu về
thế nầy? - Grigori sung sướng lắp bắp và vừa chạy ra vừa đeo gươm.
Ermakov đuổi kịp chàng ở cổng.
Ra đến cửa hàng rào thì tên đại đội trưởng đại đội đầu
tiên cũng vừa đi tới. Hắn cung kính giữ bàn tay trên mép chiếc mũ lông, không
dám chìa tay ra bắt tay Grigori.
- Đồng chí là đồng chí Melekhov?
- Chính tôi. Đồng chí ở đâu đến thế?
- Xin đồng chí nhận cho chúng tôi gia nhập đơn vị của
đồng chí. Chúng tôi xin sát nhập với các đồng chí. Đại đội của chúng tôi vừa
thành lập đêm hôm qua. Đây là đại đội của thôn Likhovidov, còn hai đại đội kia
là của thôn Grachev, thôn Ackhipovka và thôn Vaxilevka.
- Đồng chí hãy đưa anh em Cô- dắc ra quảng trường. Ngoài
ấy sắp họp mít- tinh ngay bây giờ.
Gã cần vụ (Grigori lấy Prokho Zykov làm cần vụ) dắt ngựa
đến cho chàng, thậm chí giữ hộ cả bàn đạp. Gần như không chạm vào mũi yên và
bờm ngựa, Ermakov nhảy thoắt lên yên với cả cái thân hình xương xương rắn chắc
như rèn bằng thép. Hắn cho ngựa bước tới và vừa sửa lại tà áo ca- pốt trên yên
bằng một động tác quen thuộc, vừa hỏi:
- Tù binh giải quyết như thế nào bây giờ?
Grigori ngả hẳn người trên yên xuống thật sát mặt
Ermakov, cầm lấy một cái khuy trên áo ca- pốt của hắn… Trong con mắt của chàng
tóe ra những tia hung hung, nhưng dưới hàng ria, môi chàng vẫn mỉm cười, nụ
cười tuy có phần man rợ, nhưng dù sao cũng vẫn là một nụ cười.
- Ra lệnh giải đi Vosenskaia. Hiểu chưa? Nhưng đừng cho
chúng nó đi quá nấm kurgan kia? - Chàng vung chiếc roi ngựa về phía nấm kurgan
rồi thúc ngựa.
"Món đầu tiên bắt chúng nó trả
cho Petro". - Chàng vừa nghĩ thầm vừa cho ngựa chạy nước kiệu và hình như
không có lý do gì, tự nhiên quất cho con ngựa một roi vào mông, hằn lại một con
lươn trắng trắng.
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 156
Hôm xuất phát từ Karginskaia để tiến
về hướng Bokovskaia, Grigori đã chỉ huy tới ba ngàn rưởi tay gươm. Bộ tư lệnh
và ban chấp hành quân khu đã phái liên lạc mang mệnh lệnh và chỉ thị đuổi theo
chàng. Một trong những tên phụ trách bộ tư lệnh đã viết thư riêng cho Grigori,
đề nghị với chàng bằng một giọng hoa hòe hoa sói:
"Đồng chí Grigori Panteleevich
rất kính mến! Chúng tôi có được nghe những lời đồn đại quỷ quyệt nói rằng đồng
chí đã tàn sát tù binh Hồng quân một cách hung bạo. Hình như theo lệnh của đồng
chí, ba mươi tên Hồng quân mà Kharlampi Ermakov bắt được ở gần Bokovskaia đã bị
tiêu diệt, tức là bị chém gần hết. Trong số những thằng tù binh kể trên, nghe
nói có một tên chính uỷ vô danh tiểu tốt, tên nầy có thể rất có lợi cho chung
ta trong việc điều tra lực lượng của chúng nó. Đồng chí thân mến, đồng chí hãy
huy bỏ cái lệnh không bắt tù binh đi. Một lệnh như thế sẽ có hại cho chúng ta
một cách ghê gớm. Hình như chính anh em Cô- dắc cũng đã phải kêu ca trước một
sự tàn nhẫn như thế, và lo rằng cả bọn Đỏ cũng sẽ chém tù binh và triệt hạ thôn
xóm của chúng ta. Các tên cán bộ chỉ huy, đồng chí cũng cứ để sống và cho giải
vể. Chúng ta sẽ nhẹ nhàng khử chúng ở Vosenskaia hay Kazanskaia. Nhưng đồng chí
lại chỉ huy các đại đội của đồng chí tiến quân như Tarat Bunba trong cuốn tiểu
thuyết lịch sử của nhà văn Puskin 1, lại tiêu diệt tất cả dưới ngọn lửa, lưỡi
gươm và làm anh em Cô- dắc lo lắng. Mong đồng chí nghĩ lại đừng giết tù binh
nữa, mà giải về cho chúng tôi. Sức mạnh của chúng ta chính là nằm trong điểm
vừa nêu trên đây. Ngoài ra, chúc đồng chí mạnh khỏe. Xin gửi tới đồng chí lời
chào kính mến và mong tin thắng trận của đồng chí…"
Bức thư đó Grigori chưa đọc hết đã
xé vụn, ném xuống chân ngựa. Còn bản mệnh lệnh của Kudinov:
"Tức tốc phát triển thế tấn
công về phía nam, khu vực Kruchenki - Axtakhovo - Grekovo. Bộ tư lệnh thấy cần
phải liên hiệp với mặt trận của cánh "Kadet". Nếu không, chúng ta sẽ
bị bao vây và bị đánh bại mất".
Thì chàng vẫn ngồi trên yên, viết
trả lời:
"Tôi tấn công về hướng
Bokovskaia, truy kích quân địch đang tháo chạy. Còn như Kruchenki thì tôi không
đi, mệnh lệnh của anh tôi coi là hồ đồ. Mà tôi thì tấn công vào Axtakhovo làm
gì? Ở đó ngoài gió và bọn khô- khon, sẽ chẳng có gì khác đâu".
Sự trao đổi giấy tờ chính thức giữa
chàng và trung tâm phiến loạn đến đây thì chấm dứt. Các đại đội được biên chế
thành hai trung đoàn tiến tới Konkov, một thôn tiếp giáp với trấn Bokovskaia.
Grigori còn liên tiếp dành được
thắng lợi quân sự thêm hai ngày liền. Sau khi cường tập chiếm được trấn
Bokovskaia, rồi mạo hiểm tiến về Krasnokurskaia, chàng đã đánh tan một chi đội
nhỏ chặn đường mình, nhưng các tù binh bị bắt đã được chàng cho giải về hậu
phương, chứ không ra lệnh chém nữa.
Ngày mồng chín tháng Ba, chàng chỉ
huy hai trung đoàn tiến tới làng Trixchiakovka. Hồi ấy bộ tư lệnh Hồng quân đã
cảm thấy hậu phương bị uy hiếp nên có điều vài trung đoàn và vài đại đội pháo
về đối phó với quân phiến loạn. Các trung đoàn Hồng quân kéo tới gần
Trixchiakovka thì chạm trán với các trung đoàn của Grigori. Trận chiến đấu kéo
dài chừng ba giờ. Grigori sợ bị lọt vào trong một "cái túi", bèn rút
các đơn vị của chàng về Krasnokurskaia. Nhưng trong trận chiến đấu sáng ngày
mồng mười tháng Ba, quân Cô- dắc trấn Vosenskaia đã bị các chiến sĩ Hồng quân
Cô- dắc vùng sông Khop đánh cho bò lê bò càng. Trong khi tấn công và phản công,
người dân sông Đông, đã giáp chiến với người dân sông Đông và họ đã chém giết
nhau một trận không tiếc tay. Sau khi mất con ngựa của chàng trong trận,
Grigori đã kéo hai trung đoàn ra khỏi cuộc chiến đấu, rút về tới Bokovskaia với
cái má bị chém toạc.
Chiều hôm ấy chàng hỏi cung một tù
binh là dân vùng sông Khop. Một người Cô- dắc đã đứng tuổi, sinh quán ở trấn
Chepikinskaia đứng trước mặt chàng với hai hàng lông mày trắng phếch, bộ ngực
hẹp và một cái băng đỏ rách bươm dính trên cổ áo ca- pốt. Anh ta sẵn lòng trả
lời các câu hỏi nhưng nụ cười có vẻ miễn cưỡng và ngượng nghịu.
- Hôm qua đã có những trung đoàn nào
tham gia chiến đấu?
- Trung đoàn Cô- dắc số ba mang tên
Stenka Radin của chúng tôi. Hầu như toàn trung đoàn là gồm những anh em Cô- dắc
ở quân khu Khopsky; trung đoàn năm Damursky, trung đoàn kỵ binh số mười hai và
trung đoàn sáu Mchensky.
- Dưới quyền chỉ huy chung của ai?
Nghe nói là Kichvitze 2 chỉ huy có phải không?
- Không, chi đội hợp nhất là do đồng
chí Domnhit chỉ huy.
- Đạn dược của các anh có nhiều
không?
- Nhiều vô kể.
- Còn pháo?
- Có lẽ tám khẩu.
- Trung đoàn bị điều từ đâu về!
- Từ các thôn của trấn Kamenskaia.
- Có được nói rõ là điều đi đâu
không?
Người chiến sĩ Cô- dắc ngập ngừng
một lát nhưng rồi cũng trả lời.
Grigori muốn tìm hiểu về tinh thần
các binh sĩ vùng sông Khop, bèn hỏi:
- Các binh sĩ Cô- dắc bàn tán với
nhau những gì?
- Họ nói là không muốn đi…
- Trong trung đoàn có biết rằng chúng
tôi khởi nghĩa chống cái gì không?
- Làm thế nào mà biết được?
- Thế tại sao không muốn đi!
- Các ngài cũng là dân Cô- dắc mà!
Vả lại chúng tôi đã chán ngấy chiến tranh rồi. Ngài cũng biết rằng chúng tôi đã
đi theo Hồng quân từ đầu cho tới bây giờ.
- Anh có thể chiến đấu ở bên chúng
tôi được không?
Người Cô- dắc kia nhún hai cái vai
hẹp:
- Ý ngài muốn thế nào thì muốn? Chứ
tôi thì không muốn đâu…
- Thôi đi ra. Chúng tôi sẽ cho về
với vợ… Có lẽ nhớ lắm rồi phải không?
Grigori nheo mắt nhìn theo người tù
binh Cô- dắc đi ra rồi gọi Prokho. Chàng hút thuốc giờ lâu, chẳng nói chẳng
rằng, mãi mới bước tới bên cửa sổ, lưng quay về phía Prokho và thản nhiên ra
lệnh:
- Ra bảo anh em là cái thằng tôi vừa
hỏi cung ấy, nhẹ nhàng đưa nó ra vườn đi. Cô- dắc mà theo Hồng quân thì tôi
không bắt làm tù binh. - Grigori xoay hai gót ủng mòn vẹt, quay phắt lại. - Lập
tức lôi nó ra mà… Đi đi!
Prokho đã ra ngoài. Grigori đứng lại
một phút, mân mê bẻ những nhánh đẩu ngưu giòn giòn trên cửa sổ rồi lại bước
nhanh ra thềm.
Prokho đang thì thầm với mấy gã Cô-
dắc ngồi sưởi nắng dưới chân tường nhà thóc.
- Các cậu thả thằng tù binh ấy ra.
Cấp cho nó một giấy thông hành. - Grigori không nhìn mấy tên Cô- dắc, nói xong
trở vào trong phòng. Chàng đứng lại trước một cái gương cũ, khoát hai tay,
chính mình cũng chẳng hiểu mình nữa.
Chàng không thể nào tự trả lời bản
thân mình câu hỏi vì sao mình lại ra thềm và bảo thả người tù binh. Thật ra lúc
chàng nói: "Chúng tôi sẽ cho về với vợ… Thôi đi ra…", chàng đã cười
thầm với một cảm giác khoái trá tàn nhẫn, một cái gì gần như mãn nguyện hả hê
vì chính chàng cũng biết rằng mình sẽ lập tức gọi Prokho và ra lệnh hạ thủ gã
Cô- dắc vùng sông Khop nầy ngay trong vườn. Chàng có phần bực mình trước lòng
thương hại của mình. Cái tình cảm nó vừa đột nhập vào trong lòng chàng, dẫn
chàng tới chỗ thả kẻ địch, đó chẳng phải là một sự thương hại bản năng thì là
gì? Nhưng đồng thời chàng cũng cảm thấy trong người nhẹ nhõm… Sao lại thế nhỉ?
Chàng đã không tìm thấy cho mình câu trả lời ấy. Việc làm vừa rồi của chàng lạ
lùng hơn vì mới hôm qua chàng đã nói với bọn Cô- dắc: "Bọn mu- gích là kẻ
thù, song những thằng Cô- dắc hiện nay đang đi theo bọn Đỏ còn là những kẻ thù
nguy hiểm gấp đôi! Cũng như đối với một tên gián điệp, đối với một thằng Cô-
dắc bị bắt thì cách giải quyết rất là đơn giản: cho ngay về với ông bà ông vải,
không một hai gì cả".
Grigori đã ra khỏi nhà với mối mâu
thuấn nhức nhối, không sao giải quyết được ấy và cái ý thức vừa nảy sinh về
tính chất bất chính của sự nghiệp mà mình đang theo đuổi. Tên trung đoàn trưởng
trung đoàn sông Tria, một gã Cô- dắc cao lớn trước kia thuộc trung đoàn
Atamansky, bước tới trước mặt chàng với một khuôn mặt tủn mủn, chẳng có gì đặc
sắc, rất dễ phai nhoà trong trí nhớ. Cùng đi với hắn có hai tên đại đội trưởng.
- Lại mới có thêm viện binh được
điều tới đấy! Tên trung đoàn trưởng tươi cười nói. - Ba ngàn kỵ binh từ
Napôlov, từ sông Yablonevaya, từ Guxynka, ngoài ra còn có hai đại đội bộ binh
nữa. Đồng chí định đem dùng vào đâu bây giờ, đồng chí Panteley?
Grigori đeo khẩu Mauser hộp gỗ và
cái túi dết dã chiến rất đẹp tước được của Likhachev rồi ra sân. Trời nắng ấm.
Bầu trời cao và xanh như về mùa hè, và cũng như mùa hè, có những đám mây trắng
bông như lông cừu non đuổi nhau trôi về phía nam. Grigori cho gọi tất cả những
tên chỉ huy tới một cái ngõ để bàn bạc. Chừng ba mươi tên kéo đến, chúng ngồi
tản mác trên một dãy hàng rào đổ, truyền tay nhau một cái túi thuốc không biết
của tên nào.
Chúng ta sẽ xây dựng những kế hoạch
như thế nào đây? Sẽ dùng cách nào để khử mấy trung đoàn vừa dồn chúng ta ra
khỏi Trixchiakovka và sẽ tiến theo hướng nào bây giờ? - Grigori đặt vấn đề rồi
nhân tiện truyền đạt nội dung mệnh lệnh của Kudinov.
- Thế chúng nó có bao nhiêu quân để
đánh chúng ta? Đồng chí đã hỏi tù binh chưa? - Một tên đại đội trưởng nín lặng
một lát rồi Grigori kể tên các trung đoàn đang đánh nhau với mình và ước lượng
đại khái con số những tay gươm và tay súng của địch. Bọn Cô- dắc ngậm tăm một
lát. Trong một cuộc họp thì không thể nói ra những ý kiến ngớ ngẩn, chưa đắn đo
kỹ càng. Tên đại đội trưởng thôn Grachev cũng nói:
- Hãy hượm một lát, đồng chí
Melekhov ạ? Cho chúng tôi suy nghĩ cái đã. Đâu phải là chuyện vung gươm chém
một nhát? Đừng để xảy ra thua thiệt mới được.
Nhưng chính hắn đã là tên đầu tiên
phát biểu ý kiến.
Grigori chăm chú nghe tất cả. Ý kiến
mà phần lớn nói lên đều qui vào một điểm là dù trong trường hợp đánh đấm có kết
quả cũng đừng xông ra quá xa mà phải tiến hành một cuộc chiến tranh phòng ngự.
Những vẫn có một gã vùng sông Tria hết sức ủng hộ mệnh lệnh của tên tư lệnh các
lực lượng phiến loạn. Hắn nói:
- Chúng ta chẳng giậm chân mãi ở đây
làm gì. Đồng chí Melekhov hãy cứ dẫn chúng ta đến sông Dones. Các đồng chí mất
trí khôn cả rồi hay sao thế? Chúng ta chỉ có một dúm mà lại định một mình đương
đầu với cả nước Nga. Làm thế nào mà giữ vững được? Chúng nó đổ ập tới là chúng
ta bỏ mạng hết! Phải chọc thủng mà ra thôi! Đạn dược của chúng ta tuy chỉ có
rất ít, song vẫn có thể kiếm ra được. Phải tập kích một trận. Các đồng chí
quyết định đi thôi!
- Nhưng còn nhân dân thì làm thế
nào? Đàn bà, người già, con trẻ?
- Cứ để ở lại!
- Cái đầu anh kể ra cũng thông minh
đấy, nhưng nó lại được cắm trên cổ một thằng ngu!
Cho đến lúc nầy mấy tên chỉ huy ngồi
trên mép hàng rào vẫn rì rầm bàn tán với nhau về vụ cày mùa xuân sắp bắt đầu,
về chuyện nếu phải chọc thủng vòng vây thì công việc làm ăn sẽ như thế nào.
Nhưng sau lời phát biểu của gã Cô-
dắc vùng sông Tria, tất cả đều nhao nhao. Cuộc họp lập tức có ngay cái không
khí sôi nổi của một đại hội thôn. Một gã Cô- dắc có tuổi, người thôn Napolov
giật giọng nói to hơn cả:
- Chúng ta sẽ không rời khỏi hàng
rào nhà chúng ta làm gì cả!
- Tôi sẽ là thằng đầu tiên dẫn đại
đội của tôi về thôn? Đánh nhau thì phải đánh ở ngay bên cạnh nhà, chứ không
phải là đi cứu mạng cho người khác!
- Anh đừng có chẹn họng tôi như thế!
Tôi thì nêu ý kiến bàn bạc, còn anh chỉ gân cổ gào lên!
- Nhưng có gì mà phải bàn!
- Cứ mặc cho Kudinov đi một mình đến
sông Dones!
Grigori chờ tất cả lặng đi rồi mới
nói ra những ý kiến quyết định, làm lệch hẳn cán cân của cuộc tranh luận:
- Chúng ta sẽ giữ mặt trận ở đây!
Nếu trấn Krasnokurskaia đi theo chúng ta thì chúng ta sẽ bảo vệ cả cho họ?
Không đi đâu cả.
Hội nghị bế mạc. Giải tán về đại
đội! Chúng ta sẽ xuất phát ra mặt trận ngay.
Nửa giờ sau, trong khi những đội
hình kỵ binh tuôn đi cuồn cuộn tưởng chừng không bao giờ hết qua các dãy phố,
trong lòng Grigori rạo rực một niềm sung sướng đầy kiêu hãnh: chàng đã từng
được chỉ huy một khối người lớn như thế nầy bao giờ đâu. Nhưng bên cạnh cái hân
hoan tự hào ấy, một nỗi lo lắng, đau khổ cũng nhức nhối nặng nề trong lòng:
không biết mình có thể chỉ huy cho đúng đắn được không? Tài năng của mình có đủ
để điều khiển hàng ngàn anh em Cô- dắc không? Trong tay mình không phải chỉ có
một đại đội, mà cả một sư đoàn. Liệu một anh chàng Cô- dắc ít chữ như mình có
thể nắm trong tay tính mạng của hàng ngàn con người và gánh vác cái trách nhiệm
nặng nề ghê gớm ấy được không? Nhưng điều chủ yếu mà mình đưa họ đi đánh ai cơ
chứ? Đánh lại nhân dân… Lẽ phải đang thuộc về ai đây?
Grigori nghiến răng nhìn theo hàng
ngũ chặt chẽ của các đại đội đã tiến qua. Trước mắt chàng, quyền lực không còn
có cái sức hấp dẫn ngây ngất của nó nữa mà đã mờ nhạt đi. Chỉ còn lại một nỗi
lo lắng, đau khổ nó đè nén chàng với một sức nặng không tài nào chịu nổi, nó
làm lưng chàng gù xuống.
--- ------ ------ ------ -------
1
"Tarat Bunba" là một tác phẩm của Gôgôn chứ không phải của Puskin
(ND).
2 (1894 -
1919) - Một nhà cách mạng Bolsevich, anh hùng Liên Xô hồi nội chiến, hy sinh
trong chiến đấu ngày 11- 2- 1919 (ND).
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 157
Mùa xuân đã mở toang mạch máu của
các con sông. Ngày dài thêm dần, những đồng nước màu xanh lá cây trong núi réo
to hơn. Mặt trời đã phai bớt cái ánh vàng vàng ốm yếu và đỏ lên khá nhiều. Các
tia nắng bắt đầu như có gai và đem lại hơi ấm. Đến giữa trưa, các luống cày bị
bóc trần bốc hơi ngùn ngụt, mặt tuyết thủng lỗ chỗ, bong ra như vẩy cá, loá lên
nhìn không chịu được. Không khí quánh và thơm, đầy hơi ẩm nhạt thếch. Nắng dãi
nóng lưng bọn Cô- dắc. Những cái đệm yên êm ấm đã truyền cho người cưỡi ngựa
một cảm giác rất dễ chịu. Gió như ghé những cặp môi ẩm ướt tẩm nước lên những
cặp má rám nâu của bọn Cô- dắc. Nhưng thỉnh thoảng gió cũng tạt tới một luồng
hơi lạnh từ trên ngọn gò còn tuyết. Tuy vậy mùa đông đã bị hơi ấm đánh bại.
Thời kỳ động đực mùa xuân làm những
con ngựa lồng lên, những đám lông đang thay rụng lả tả, và mùi mồ hôi ngựa cứ
như chọc vào mũi. Bọn Cô- dắc đã buộc những cái đuôi ngựa lông dày thô. Những
chiếc khăn chùm đầu bằng lông lạc đà không dùng đến nữa bắt đầu lủng lẳng trên
lưng bọn kỵ binh. Dưới mũ lông, mồ hôi đã chảy đầm đìa trên trán, và mặc áo
lông ngắn hay áo trermen kép thì đã thấy nóng. Grigori chỉ huy một trung đoàn
tiến theo con đường dùng về mùa hạ. Xa xa, sau cái cối xay gió vươn cánh như kẻ
bị đóng đinh câu rút, các đại đội kỵ binh của Hồng quân đã triển khai thành đội
hình tấn công: trận chiến đấu đã mở màn gần thôn Xiviridov.
Đáng là Grigori phải đứng ngoài chỉ
huy, nhưng chàng còn chưa biết làm như thế. Chàng thường thân chinh chỉ huy các
đại đội của trấn Vosenskaia trong chiến đấu, đưa các đại đội ấy tới chặn các
địa điểm nguy hiểm nhất. Vì thế trận chiến đấu thường diễn ra thiếu chỉ đạo
chung. Trung đoàn nào cũng hành động tuỳ theo tình huống phát triển, trái với
những điều đã thoả thuận từ trước. Không có mặt trận gì cả. Điều kiện đó cho
phép triển khai rất rộng để đánh vận động chiến.
Có nhiều kỵ binh là một ưu thế rất
quan trọng, mà trong chi đội của Grigori kỵ binh lại chiếm đa số. Chàng đã lợi
dụng ưu thế ấy, quyết định tiến hành chiến tranh theo kiểu "Cô- dắc",
tức là bao vây bên sườn, thọc sâu vào hậu phương, tiêu diệt các đội vận tải,
tập kích đêm để quấy nhiễu và làm mất tinh thần Hồng quân.
Nhưng trong trận đánh ở gần
Xiviridov, chàng đã quyết định hành động theo một cách khác hẳn là cho các đại
đội phi nước đại ra nơi bố trí, chỉ để một đại đội ở lại trong thôn: Chàng ra
lệnh cho đại đội nầy xuống ngựa nằm phục kích trong cánh rừng ven thôn sau khi
cho những tên coi ngựa phân tán vào các nhà ở sâu bên trong thôn: rồi chàng
cùng với hai đại đội khác lên một ngọn gò nhỏ cách cái cối xay gió nửa vec- xta
và từ từ tiến vào chiến đấu.
Kẻ địch của chàng lần nầy gồm hơn
hai đại đội kỵ binh Hồng quân. Họ không phải là dân vùng sông Khop, vì Grigori
nhìn qua ống nhòm thấy những con ngựa nhỏ thuộc một giống rất khỏe, với những
cái đuôi xén ngắn, không phải là ngựa sông Đông, vì người Cô- dắc không bao giờ
xén đuôi ngựa, không bao giờ xúc phạm đến vẻ đẹp tự nhiên của con ngựa. Do đó
đơn vị tấn công lần nầy phải là trung đoàn kỵ binh số 13 hoặc một đơn vị nào
vừa được điều tới. Grigori đứng trên ngọn gò quan sát địa hình qua ống nhòm.
Những khi ngồi trên yên ngựa, bao
giờ chàng cũng cảm thấy mặt đất rộng lớn hơn và bản thân mình cũng vững tâm hơn
khi mũi ủng nằm chắc trong bàn đạp.
Chàng thấy bên kia sông Tria có một
đội hình hành quân hàng dọc rất dài màu nâu nâu, gồm chừng ba ngàn rưởi tên Cô-
dắc đang tiến theo ngọn gò. Đơn vị đó từ từ trườn ngoằn ngoèo lên dốc, tiến về
phía Bắc, về địa giới giữa khu du mục cuả hai trấn Elanskaia và Ust- Khopeskaia
để nghênh chiến trong khu vực đó với quân địch tấn công từ Ust- Medvedcha xuống
và giúp đỡ dân Elanskaia hồi nầy chiến đấu đã kiệt sức. Khoảng cách giữa
Grigori và các tuyến kỵ binh Hồng quân đã chuẩn bị tấn công là chừng một vec-
xta rưỡi.
Chàng vội vã dàn các đại đội theo
cách chiến đấu cũ. Không phải tên Cô- dắc nào cũng đều có giáo, vì thế những
tên có giáo đều được đưa lên hàng đầu, tiến tách lên trước chừng mười xa- gien.
Grigori cho ngựa chạy vượt lên trước hàng đầu rồi quay nghiêng người, rút gươm.
- Nước kiệu nhẹ, tiến!
Ngay phút đầu, con ngựa chàng cưỡi
thụt chân xuống một cái hang chuột đồng đầy tuyết, bị vấp một cái. Grigori ngồi
lại trên yên cho vững, chàng giận quá tái mặt đi và lấy má gươm đánh cho con
ngựa một cái thật mạnh. Chàng cưỡi một con ngựa chiến rất hăng, rất tốt, lấy
của một tên Cô- dắc trấn Vosenskaia, nhưng đối với nó, Grigori vẫn ngầm có ý
không tin. Chàng biết rằng mới hai ngày thì con ngựa chưa quen với mình được,
mà bản thân chàng cũng chưa kịp nghiên cứu các thói quen và tính nết của nó.
Chàng sợ rằng con ngựa lạ nầy sẽ không hiểu được ý chàng ngay mỗi khi dây cương
hơi động một chút như con ngựa cũ của chàng, con vừa bị giết ở gần
Trixchiakovka. Sau khi con ngựa nổi nóng vì phải ăn một cái má gươm, không nghe
theo dây cương nữa và cứ thế phi vụt lên nước đại Grigori lạnh cả tim, thậm chí
hơi hốt hoảng. "Nó hại mình mất?" - Chàng chợt có một ý nghĩ nhức
nhối. Nhưng con ngựa chạy càng xa, cái nước đại với những sải chân rất dài của
nó càng đều thì nó càng tuân theo từng cử động nhỏ của bàn tay điều khiển nó và
Grigori càng vững tâm hơn, bình tĩnh hơn. Chàng rời mắt trong một giây khỏi làn
sóng kỵ binh của địch đã tan vụn để nhìn xuống cổ con ngựa. Hai cái tai màu
hung hung của nó áp chặt vào nhau ra vẻ rất bực bội, cổ nó rung rung theo một
nhịp đều đặn và vươn thẳng ra như cái cổ của kẻ tử tù trên cái thớt chém.
Grigori dướn thẳng người trên yên, hít lấy hít để không khí vào đây lồng ngực,
rồi thọc sâu mũi ửng vào bàn đạp, quay đầu nhìn lại. Đã bao lần chàng nhìn thấy
những làn sóng tấn công của kỵ binh phi ầm ầm, người và ngựa đúc yới nhau thành
một khối, nhưng lần nào tim chàng cũng kinh sợ se lại trước một sự xúc động man
rợ, thú tính, không thể nào giải thích được nó ập tới trong lòng chàng. Từ lúc
bắt đầu cho con ngựa xông lên đến khi phi tới sát quân địch, có một khoảnh khắc
biến hoá nội tâm rất ngắn, không thể nhận thức được. Trong khoảnh khắc khủng
khiếp ấy, lý trí, sự bình tĩnh, khả năng cân nhắc, tất cả đều rời bỏ Grigori.
Chỉ còn một thứ bản năng thú tính nó khống chế ý chí của chàng một cách hoàn
toàn, mãnh liệt. Nếu trong giờ phút xung phong mà có ai được đứng bên nhìn
Grigori thì chắc hẳn người ấy sẽ nghĩ rằng mọi cử động của chàng đều chịu sự
điều khiển của một bộ óc minh mẫn, hoàn toàn tỉnh táo, vì tất cả các cử động đó
đều có vẻ chắc chắn, chuẩn xác và có tính toán kỹ càng.
Khoảng cách giữa hai bên thu ngắn
hết sức mau lẹ, làm trong lòng cảm thấy nhẹ nhõm hẳn đi. Các hình người hình
ngựa to dần. Các vó ngựa của hai làn sóng xung kích kỵ binh từ hai đầu xông tới
ngốn dần hết khoảng đất nhỏ phủ tuyết, mọc đầy cỏ dại mà dân trong thôn để hưu
canh. Grigori nhìn thấy một chiến sĩ kỵ binh phi vượt lên trước đại đội tới ba
thân ngựa. Con ngựa cao lớn lông nâu đen loang mũi loang bẹn của anh ta phi
những bước ngắn như con chó sói. Người chiến sĩ hoa lên trong không khí một
thanh gươm sĩ quan, vỏ gươm bằng bạc đập đập vào bàn đạp, nắng chiếu vào loáng
lên như lửa. Chỉ một giây sau Grigori đã nhận ra người chiến sĩ kỵ binh. Đó là
Petr Xemiglazov, một đảng viên cộng sản, dân ngụ cư trấn Karginskaia. Năm một
ngàn chín trăm mười bảy, sau cuộc chiến tranh Nga - Đức, anh ta đã là người đầu
tiên bỏ về nhà với đôi xà cạp chưa ai trông thấy bao giờ. Hồi ấy Xemiglazov mới
là một chàng thanh niên hai mươi tư tuổi. Anh về nhà đem theo cả một niềm tin
vào đảng Bolsevich và một ý chí kiên cường đã được tôi luyện trên mặt trận. Và
đến nay anh vẫn còn là một người cộng sản.
Anh đã tham gia Hồng quân và trước
khi cuộc phiến loạn bùng nổ, anh đã ở đơn vị trở về tổ chức Chính quyền Xô viết
trong trấn. Chính anh chàng Xemiglazov ấy đang điều khiển con ngựa một cách
vững vàng, phi thẳng tới trước mặt Grigori với thanh gươm sĩ quan vung lên như
trong tranh, thanh gươm mà anh ta đã tịch thu trong một cuộc khám xét chỉ thích
hợp với những cuộc diễu binh.
Grigori nhe hai hàm răng nghiến
chặt, giật cương, con ngựa ngoan ngoãn chạy nhanh hơn. Trong khi xung phong,
Grigori có một đường gươm đặc biệt mà chỉ một mình chàng biết sử dụng. Chàng
thường dùng đến nó mỗi khi linh tính hay con mắt giúp chàng nhận ra một kẻ địch
mạnh, hoặc mỗi khi chàng muốn hạ thủ kẻ địch một cách hoàn toàn chắc chắn, một
nhát chết tươi, bất kỳ trong trường hợp nào. Từ nhỏ Grigori đã quen dùng tay
trái. Chàng cầm cùi dìa bằng tay trái và làm dấu phép cũng bằng tay trái. Vì
thế chàng đã bị ông Panteley Prokofievich nện cho những trận nên thân. Bọn trẻ
cùng tuổi đã đặt cho chàng cái biệt hiệu là "thằng Griska ăn tay
trái". Có lẽ những lần đánh chửi đã có tác dụng đối Grigori hồi chàng còn
nhỏ. Từ năm lên mười trở đi, chàng đã quen dùng tay phải thay cho tay trái, vì
thế cái biệt hiệu "ăn tay trái" cũng theo đó mà mất đi. Nhưng cho đến
ngày nay, tay phải làm được gì, chàng cũng có thể dùng tay trái làm thay rất có
kết quả. Mà tay trái của chàng còn khỏe hơn tay phải nữa là khác. Trong các
cuộc xung phong bao giờ Grigori cũng thu được kết quả nếu chàng lợi dụng ưu thế
ấy. Chàng cho con ngựa chạy về phía kẻ địch mà chàng đã chọn, và cũng như tất
cả mọi người thường làm, chàng hướng sang trái như để chém bằng tay phải. Cả
đến kẻ phải đọ gươm với Grigori cũng cố làm như thế. Nhưng khi địch thủ chỉ còn
cách độ một chục xa- gien và đã hơi nghiêng người sang bên, vung gươm lên, thì
Grigori chuyển thanh gươm sang tay trái đồng thời nhẹ nhàng rẽ ngoặt con ngựa
sang phải. Kẻ địch mất tinh thần đành phải thay đổi tư thế, nhưng chém qua đầu
ngựa từ phải sang trái thì rất vướng, vì thế anh ta hết tin tưởng và hơi thở
của Thần chết đã phả vào mặt… Grigori chém với một sức mạnh khủng khiếp, chém
xuống rồi còn giật lại.
Từ ngày "Tóc trái đào" dạy
Grigori bí quyết của đường gươm "Baklanov" đến nay, nước sông Đông
chảy đã nhiều. Qua hai cuộc, chiến tranh, tay Grigori chém đã nhuần. Nắm vững
thanh gươm đâu có giống như đi theo cái cày. Chàng đã tiến bộ rất nhiều về kiếm
thuật.
Grigori không bao giờ lồng bàn tay
vào dây gươm 1: đó là để trong nháy mắt, trong một khoảnh khắc hết sức bất ngờ,
có thể chuyển ngay thanh gươm từ tay nọ sang tay kia. Chàng hiểu rằng trong khi
chém mạnh, nếu lưỡi gươm không được hướng theo một mặt vát đúng góc thì thanh
gươm sẽ bật khỏi tay hoặc bàn tay sẽ trật khớp ngay. Chàng biết được một mẹo mà
rất ít người nắm vững là chỉ hơi động tay mà đánh bật được vũ khí của địch,
hoặc chỉ chạm một cái rất nhanh, rất khẽ, mà tay địch bị liệt đi. Về cái thuật
giết người bằng bạch binh, Grigori đã học được rất nhiều.
Trong khi người ta chém cành nho,
nếu nhát gươm đưa khéo thì thân cây bị chém chéo sẽ rơi xuống mà giàn nho vẫn
không rung, không động đậy một chút nào. Đầu nhọn của đoạn bị nhát gươm chém
rời sẽ nhẹ nhàng cắm phập xuống đất ngay sát bên cạnh gốc cây Anh chàng
Xemiglazov, mặt hơi có vẻ Kalmys kia cũng nhẹ nhàng tụt xuống như thế từ trên
yên con ngựa đang đứng chồm lên, hai bàn tay áp lên lồng ngực bị phạt chéo. Cái
áo lạnh buốt của Thần chết đã phủ lên người anh.
Trong khi đó Grigori dướn người trên
yên, hai chân đứng thẳng trên bàn đạp. Một chiến sĩ Hồng quân thứ hai không còn
đủ sức ghìm ngựa sủi bọt ngẩng cao lên, Grigori chưa nhìn rõ mặt người cưỡi
ngựa đã nhận thấy lưỡi gươm cong cong với cái rãnh phay đen sì. Chàng tập trung
hết sức lực, ghìm dây cương, đỡ và đánh bật nhát gươm sang bên rồi thu dây
cương trong tay phải, chém vào cái cổ đỏ tía, cạo nhẵn đang cúi xuống.
Chàng là người đầu tiên phi ngựa ra
khỏi đám người rách tả tơi trong trận hỗn chiến. Trước mắt chàng là cả một đống
người ngựa lúc nhúc. Bàn tay chàng ngứa ngáy, giật giật như trong một cơn thần
kinh. Chàng tra gươm vào vỏ, rút khẩu Mauser và quay ngựa cho phi hết tốc độ
trở về. Bọn Cô- dắc ùa theo. Các đại đội phóng ngựa chạy tán loạn. Chỗ nào cũng
thấy những chiếc mũ lông kiểu Kavkaz hay những chiếc mũ da kiểu Kirghist quấn
băng trắng áp sát cổ ngựa.
Phi ngựa bên cạnh Grigori là một gã
hạ sĩ đội chiếc mũ ba tai làm bằng lông cáo, mình mặc chiếc áo khoác ngắn mầu cứt
ngựa. Gã nầy chàng có quen. Má gã bị chém toạc từ tai xuống tới cằm. Cứ như có
người nghiền nát trên ngực gã cả một giỏ anh đào chín. Hai hàm răng gã nhe ra
đỏ lòm những máu.
Tinh thần các chiến sĩ Hồng quân đã
dao động, một nửa đã muốn bỏ chạy và thực tế đã quay ngựa trở lại. Nhưng khi
thấy quân Cô- dắc rút lui họ cũng hăng lên cho ngựa đuổi theo. Một gã Cô- dắc
chạy chậm bị ngã như bị gió thổi bay từ trên yên xuống rồi bị những vó ngựa dẫm
loạn lên trên lớp tuyết. Trước mặt đã hiện ra cái thôn với những lùm cây đen
đen trong các mảnh vườn, toà nhà thờ nhỏ trên một ngọn gò, một cái ngõ rất
rộng. Chỉ chừng một trăm xa- gien là tới dãy hàng rào của khu rừng ven thôn,
nơi đại đội phục kích bố trí. Lưng những con ngựa đã ngầu bọt mồ hôi và máu.
Grigori vừa phóng ngựa vừa bóp cò một cách hung dữ. Bỗng một viên đạn bị tắc,
khẩu súng không dùng được nữa, chàng đút nó vào cái hộp gỗ rồi hô to như đe
nạt:
- Tản ra!
Hai đại đội Cô- dắc đang phi ngựa
lẫn lộn như đúc với nhau bỗng cuồn cuộn tẽ ra làm hai nhánh như dòng sông lúc
xô phải một tảng núi đá, để lộ cả làn sóng kỵ binh Hồng quân. Đại đội Cô- dắc
phục kích sau dãy hàng rào nhắm vào họ nổ một loạt, hai loạt, ba loạt súng…
Những tiếng kêu la inh ỏi vang lên. Một con ngựa ngã lộn cùng với người chiến
sĩ Hồng quân trên lưng. Một con khác quỵ, gối, rúc mõm xuống tuyết đến mang
tai. Thêm ba bốn chiến sĩ Hồng quân nữa bị đạn bắn ngã nhào từ trên yên xuống.
Số còn lại đang phi như bay thành một đám cố quay ngựa trở lại. Trong khi đó
bọn Cô- dắc bắn thêm mỗi tên một kẹp đạn rồi thôi. Grigori chỉ kịp gào lên một
tiếng như xé họng: "Đại đô- ô- ội!" thì hàng ngàn vó ngựa đã quay
ngoắt lại làm tuyết bắn loạn lên, truy kích theo. Nhưng bọn Cô- dắc chỉ đuổi
theo một cách miễn cưỡng và đều ghìm ngựa. Chúng chỉ cho ngựa chạy chừng một
vec- xta rưỡi rồi lại quay trở về.
Chúng lột quần áo các chiến sĩ Hồng
quân bị hy sinh, tháo lấy yên các con ngựa bị giết. Gã Aleksey Samin cụt tay
giết ba chiến sĩ bị thương. Gã bắt họ đứng quay mặt vào hàng rào rồi lần lượt
chém chết hết. Sau đó bọn Cô- dắc đứng túm tụm rất lâu quanh những người bị
chém chết, vừa hút thuốc vừa xem những cái xác. Cả ba đều có chung một đặc điểm
là thân họ bị chém chếch từ xương đòn gánh xuống tới thắt lưng.
- Có ba đứa mà mình hoá phép thành
sáu, - Aleksey khoe. Mắt gã nháy lia lịa, hai bên má giật giật.
Những tên khác săn đón mời gã hút
thuốc và cứ ngắm nghía hai bàn tay và bộ ngực của gã với một vẻ khâm phục không
chút giấu diếm. Nắm tay gã chỉ bằng quả dưa dại to, nhưng bộ ngực lại rất nở,
độn phồng cả chiếc trermen.
Bọn Cô- dắc nới đai bụng cho những
con ngựa đẫm mồ hôi được phủ áo ca- pốt đứng run cầm cập bên dãy hàng rào. Ở
trong ngõ chúng xếp hàng bên bờ giếng chờ đến lượt lấy nước. Nhiều gã cầm cương
dắt những con ngựa mệt mỏi lê bước rất khó khăn.
Grigori cùng năm gã Cô- dắc nữa ra
đi trước. Hai con mắt chàng tựa như đã bỏ được một cái khăn bịt mặt từ nãy.
Cũng như trước lúc xung phong, chàng lại nhìn thấy mặt trời chiếu sáng muôn vật
và tuyết tan bên những đống rơm, lại nghe thấy tiếng chim sẻ mùa xuân ríu rít
khắp thôn, lại ngửi thấy những mùi rất thanh tú của những ngày xuân đã ập đến
ngưỡng cửa. Sự sống đã quay trở lại với chàng, không vì cuộc đổ máu vừa nãy mà
ảm đạm, cằn cỗi chút nào, trái lại càng được những niềm vui hiếm hoi và giả dối
tăng thêm tính hấp dẫn. Trên cái nền đen xạm của mặt đất đã tan tuyết, các mảng
tuyết nhỏ đang tan dở bao giờ cũng sáng hơn, cũng thu hút mắt con người hơn.
--- ------ ------ ------ -------
1 Gươm Cô-
dắc cũng như gươm trec- ket đều không có vòng bao tay ở cán (ND)
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 158
Cuộc nổi loạn nổ to thêm, lan tràn
như nước lũ, ngập hết miền ven sông Đông và cả những vùng đồng cỏ bên kia sông
trong một chu vi bốn trăm vec- xta. Hai vạn năm ngàn gã Cô- dắc đã lên ngựa.
Các thôn của khu Đông - Thượng đã động viên một vạn bộ binh. Chiến tranh diễn
ra theo những hình thái xưa nay chưa từng thấy.
Ở một nơi gần sông Dones, đội quân
sông Đông đang giữ mặt trận, yểm hộ Novocherkask, chuẩn bị một trận giao tranh
quyết định thắng bại. Trong khi đó ở hậu phương của hai tập đoàn Hồng quân số 8
và số 9, cuộc phiến loạn đang diễn ra sôi sục, làm cho nhiệm vụ đánh chiếm vùng
sông Đông vốn dĩ đã khó khăn lại càng trở nên phức tạp gấp bội.
Đến tháng Tư, Uỷ ban quân sự cách
mạng của nước cộng hoà đã nhìn thấy hoàn toàn rõ ràng một nguy cơ rất lớn là
quân phiến loạn sắp liên hợp với mặt trận của bọn Trắng. Tình hình đòi hỏi dù
sao cũng phải trấn áp cho kỳ được cuộc phiến loạn trước khi nó kịp nuốt hết một
khu vực trên mặt trận của Hồng quân và nhập làm một với quân đội sông Đông.
Những lực lượng ưu tú nhất đã được điều tới làm nhiệm vụ trấn áp ấy: trong số
các đơn vị viễn chinh có thêm những đoàn thuỷ binh của hạm đội Bantích và hạm
đội Hắc hải, những trung đoàn đáng tin cậy nhất, những đội xe lửa thiết giáp và
những đơn vị kỵ binh dũng cảm nhất. Năm trung đoàn thuộc sư đoàn thiện chiến
Bogutra đã bị điều từ mặt trận về, tất cả có tới tám ngàn tay súng, vài đại đội
pháo và năm trăm khẩu súng máy. Đến tháng Tư học sinh quân các lớp quân sự ở
Ryazan và Tambob đã chiến đấu trên các khu vực của mặt trận chống quân phiến
loạn với một tinh thần dũng cảm tuyệt vời, sau đó còn đến thêm một đơn vị của
trường thuộc Uỷ ban chấp hành trung ương toàn Nga. Bộ binh Ladvia cũng đã chiến
đấu chống quân phiến loạn ở gần Sumilinskaia.
Quân khu Cô- dắc đang thở không ra
hơi vì thiếu súng đạn. Đầu tiên chúng không có đủ súng trường, đạn bắn cũng đã
hết. Muốn có súng đạn chúng phải đem máu ra đổi lấy, phải xung phong hoặc tập
kích đêm mà cướp lấy. Và chúng cũng đã kiếm được. Đến tháng Tư quân phiến loạn
đã có đầy đủ số súng trường cần thiết, sáu đại đội pháo và chừng một trăm rưởi
khẩu súng máy.
Hồi chúng mới nổi loạn, trong kho
quân khí ở Vosenskaia còn có năm triệu viên đạn không có đầu đạn. Xô viết 1
Quân khu đã động viên những tay thợ rèn, thợ nguội, thợ súng cừ nhất. Ở
Vosenskaia đã tổ chức một xưởng đúc đầu đạn, nhưng không có chì, không có gì để
đúc đầu đạn. Lúc đó, theo lời kêu gọi của Xô viết Quân khu; tất cả các thôn đều
bắt tay vào thu nhặt chì và đồng. Toàn bộ số chì và hợp kim Baptit dự trữ trong
các nhà máy xay chạy hơi nước đều bị trưng thu. Những tên liên lạc cưỡi ngựa
được phái tới các thôn mang theo một lời kêu gọi ngắn ngủi: "Chồng, con và
anh em các người không còn có gì để bắn nữa rồi. Họ chỉ bắn bằng những gì cướp
được trong tay kẻ thù đáng nguyền rủa. Các người hãy đem hiến tất cả những thứ
gì trong nhà có thể dùng để đúc đầu đạn. Hãy tháo cái rây bằng chì trong quạt
hòm ra!"
Một tuần sau, toàn khu không còn một
cái quạt thóc nào còn có rây.
"Chồng, con và anh em các người
không còn có gì để bắn nữa rồi…" Thế là những người đàn bà đem đến các Xô
viết thôn tất cả những thứ gì dùng được và không dùng được. Ở các nơi diễn ra
các trận chiến đấu, bọn trẻ con các thôn móc lấy những viên đạn rìa bắn vào các
bức tường, bới dưới đất tìm những mảnh đạn. Nhưng không phải người nào cũng làm
được việc nầy với một tinh thần nhất loạt như nhau. Có những người đàn bà trong
tầng lớp bần nông không muốn bị mất những đồ dùng lặt vặt cuối cùng trong nhà,
đã bị bắt giải lên khu vì tội "đồng tình với bọn Đỏ". Ở thôn
Tatarsky, những lão già có của ăn của để đã đánh thừa sống thiếu chết gã Xemon
"Đầu gang" ở đơn vị về nghỉ phép chỉ vì gã vạ miệng nói độc một câu
"Cứ để cho bọn giàu có phá quạt hòm nhà họ. Có lẽ họ sợ bọn Đỏ hơn sợ phá
sản".
Tất cả các số chì thu được đều đem
lên đúc ở xưởng Vosenskaia. Nhưng các đầu đạn đúc không có vỏ kền bắn thì chảy
ra… Sau khi bắn, các đầu đạn chế tạo theo kiểu thủ công chỉ còn là những hòn
chì lỏng khi ra khỏi nòng súng, và cứ bay vù vù với một tiếng rít man rợ. Các
đầu đạn ấy chỉ cắm được vào mục tiêu ở cự ly dưới một trăm hai mươi xa- gien,
nhưng vết thương gây ra lại hết sức khủng khiếp. Sau khi tìm hiểu rõ tình hình,
anh em chiến sĩ Hồng quân đôi khi tiến thật sát các đội trinh sát Cô- dắc và hô
to: "Chúng mày bắt bọ hung mà bắn đấy à? Đầu hàng đi, đằng nào tất cả
chúng mày cũng sẽ bị đánh tan thôi".
Ba vạn năm nghìn tên phiến loạn được
biên chế thành năm sư đoàn và một lữ đoàn đánh số sáu theo thứ tự. Sư đoàn 3
dưới quyền chỉ huy của Egorov chiến đấu trong khu vực Meskovskaia - Setrakov -
Vegie. Sư đoàn 4 phụ trách khu vực Kazanskaia - Doneskoie - Sumilinskaia. Chỉ
huy sư đoàn nầy là gã chuẩn uý Koldrat Medvedev, một tên mặt mũi lầm lì, kiếm
thuật rất giỏi, vào trận thì đúng là một con quỷ dữ. Sư đoàn 5 chiến đấu trên
mặt trận Slasevskaia - Bukanovskaia, do tên Usakov chỉ huy. Tên quản Merkulov
chỉ huy sư đoàn 2 tác chiến ở hướng các thôn thuộc trấn Elanskaia, trấn Ust-
Khopeskaia và Gorbatov. Đấy cũng là khu vực của lữ đoàn độc lập số 6, một đơn
vị rất chặt chẽ, hầu như chưa bị sứt mẻ gì cả, vì tên chuẩn uý Bogatyrev chỉ
huy nó, một gã Cô- dắc người trấn Marsaevskaia, là một tên tính nết thận trọng,
biết suy tính trước sau, không bao giờ mạo hiểm và không để cho binh lực bị hy
sinh vô ích. Grigori Melekhov thì dàn sư đoàn I của chàng trên sông Tria. Khu
vực của chàng là chính diện của mặt trận, các đơn vị Hồng quân bị điều từ mặt
trận về đều tấn công từ phía nam vào sư đoàn của chàng, nhưng chàng không những
đã đánh bật được các cuộc tấn công của địch mà còn chi viện được cho sư đoàn 2
là một đơn vị kém kiên cường, bằng cách điều những đơn vị bộ binh và kỵ binh
đến giúp.
Cuộc phiến loạn không lan được sang
các trấn của hai khu Khopesky và Ust- Medvedisky. Ở các trấn ấy tình hình cũng
sôi sục và cũng đã có những đại diện sang yêu cầu điều lực lượng tới sông
Buzuluk và vùng thượng du sông Khop để phát động dân Cô- dắc nổi lên, nhưng bộ
tư lệnh quân phiến loạn không quyết định đưa quân ra khỏi địa giới khu Đông -
Thượng vì chúng biết rằng quần chúng cơ bản của vùng sông Khop ủng hộ chính
quyền Xô viết và sẽ không chịu cầm vũ khí chiến đấu. Ngay những tên đại diện
cũng không hứa hẹn trước kết quả gì. Chúng nói thẳng ra rằng trong các thôn
không có nhiều kẻ bất mãn với Hồng quân, thành thử những tên sĩ quan còn ở lại
trong các vùng khỉ ho cò gáy của khu Khopesky cũng phải chui rúc trốn tránh,
không thể tập hợp được những lực lượng đáng kể tán thành bạo động, vì bọn cựu
chiến binh thì chúi xó ở nhà hoặc đi theo Hồng quân, còn bọn bô lão thì bị bắt
phải nen nét một bề như những con bò trong chuồng, không còn chút gì của cái
thực lực và uy tín năm xưa nữa.
Về phía nam, trong các làng của
người Ukraina, Hồng quân đã động viên thanh niên. Số thanh niên nầy rất vui
lòng tham gia các trung đoàn của sư đoàn thiện chiến Bogutra để chiến đấu chống
quân phiến loạn. Cuộc phiến loạn đã bị bó hẹp trong địa giới khu Đông - Thượng.
Kể từ bộ tư lệnh phiến loạn trở xuống, tất cả mọi người đều càng ngày càng thấy
rõ rằng chúng không còn có thể giữ lấy quê hương thân yêu được lâu la gì nữa,
và chẳng chóng thì chầy, chúng sẽ bị Hồng quân ở vùng sông Donesk quay trở lại
đè bẹp.
Ngày mười tám tháng Ba, Kudinov
triệu tập Grigori Melekhov về Vosenskaia họp hội nghị. Sau khi trao quyền chỉ
huy sư đoàn cho sư đoàn phó là Raiptrikov, tảng sáng hôm ấy chàng cùng với gã
cần vụ lên đường về quân khu.
Chàng bước vào bộ tư lệnh giữa lúc
Kudinov đang tiếp một tên phái viên của trấn Alekseevskaia đến thương lượng.
Lúc ấy Xafonov cũng có mặt. Kudinov gù gù cái lưng ngồi sau bàn giấy, những
ngón tay xương xẩu nâu nâu ngoáy ngoáy đầu chiếc dây lưng kiểu Kavkaz. Hắn hỏi
gã Cô- dắc trước mặt, hai con mắt sưng húp và đầy rử vì những đêm không ngủ
chẳng buồn ngước nhìn lên:
- Còn chính các anh thì sao? Về phía
các anh, các anh nghĩ thế nào.
- Đối với chúng tôi thì chuyện ấy
cũng tất nhiên… Nhưng tự chúng tôi thì có lẽ chẳng làm được gì. Tâm địa của
người khác như thế nào thì ai mà biết được. Nhưng dân chúng bên ấy, đồng chí
biết nó như thế nào không. Chúng nó sợ. Kể ra cũng muốn làm đấy, nhưng lại sợ…
- "Cũng muốn làm…",
"Sợ…". - Kudinov cáu đến tái cả mặt, quát lên và cứ cựa quậy trên
chiếc ghế bành, như đang ngồi trên một cái gì rất nóng. - Tất cả các anh đều
như bọn con gái dậy thì ấy! Vừa muốn, vừa sợ đau, lại vừa bu không cho phép?
Thôi, anh hãy trở về cái trấn Alekseevskaia nhà anh mà bảo với bọn bô lão của
các anh rằng nếu chính các anh không tự bắt tay vào làm lấy trước thì một trung
đội chúng tôi cũng không điều đến cái trấn của các anh đâu. Mặc cho bọn Đỏ
chúng nó treo cổ tất cả các anh lên!
Bàn tay đỏ tía của gã Cô- dắc khổng
lồ phải cố gắng lắm mới đẩy nổi ra sau gáy chiếc mũ kiểu Kavkaz làm bằng một
thứ lông cáo lấp lánh. Theo những vết nhăn trên trán, mồ hôi gã chảy ròng ròng
như nước mùa xuân trong những cái khe, hai hàng lông mày ngắn cũn, trắng phếch
chớp chớp liên hồi, cặp mắt nhìn tươi cười và như nhận lỗi.
- Tất nhiên là như thế rồi, có ôn
dịch nào bắt các đồng chí phải đến trấn của chúng tôi đâu. Nhưng ở đây tất cả
mọi việc đều phải dựa vào một bước đầu, mà cái bước đầu ấy thì quý hơn cả tiền
bạc…
Grigori vừa chăm chú nghe những lời
trao đổi vừa né sang bên cho một người lùn lùn ria đen bước qua. Người ấy không
gõ cửa, đi từ ngoài hành lang vào trong phòng, trên mình mặc một chiếc áo khoác
ngắn bằng da thuộc. Hắn gật đầu chào Kudinov, ngồi vào bàn và đưa một bàn tay
trắng trẻo lên tì má. Grigori đã quen mặt tất cả các tên trong bộ tư lệnh, hôm
nay chàng mới gặp tên nầy lần đầu nên cứ nhìn hắn chằm chằm. Khuôn mặt ngăm
ngăm đen nhưng không dãi dầu nắng gió với những nét thanh tú, bàn tay trắng
trẻo mềm mại, phong độ của một phần tử trí thức, tất cả đều cho biết rằng hắn
không phải là dân địa phương.
Kudinov đưa mắt chỉ người lạ mặt,
nói Grigori:
- Cậu hãy làm quen đi, Melekhov! Đây
là đồng chí Georgitze. Đồng chí ấy… - Nói đến đây hắn ngập ngừng một lát, quay
quay con giống bằng bạc đã xỉn đen đeo trên chiếc dây lưng rồi đứng dậy nói với
gã đại diện trấn Alekseevskaia - Thôi, còn anh thì, người anh em đồng hương ạ,
anh hãy về đi. Bây giờ chúng tôi có việc phải làm ngay đây. Anh hãy trở về và
chuyển lời của tôi với những ai cần phải biết.
Gã Cô- dắc đang ngồi trên chiếc ghế
dựa đứng dậy. Chiếc mũ lông cáo đỏ như lửa lấm tấm vài sợi lông đen gần chạm
tới trần. Và lập tức hai cái vai rộng bè bè của gã, che cả ánh sáng, làm căn
phòng trở nên nhỏ bé, chật chội.
- Anh đến xin giúp đỡ à? - Grigori
hỏi gã, nhưng lòng bàn tay vẫn còn cái giác khó chịu lúc bắt tay tên sĩ quan
nhỏ bé người Kavkaz.
- Phải, phải! Xin giúp đỡ. Nhưng
đồng chí xem, kết quả là như thế đấy… - Gã Cô- dắc sung sướng quay mặt về hướng
Grigori, đưa mắt tìm kiếm sự đồng tình. Khuôn mặt gã đỏ tía, cùng màu với chiếc
mũ lông, nom ngơ ngác và dổ nhiều mồ hôi đến nỗi bộ râu và hai hàm ria chạy xệ
đều long lanh như rắc hạt cườm.
- Cả các anh cũng không thích chính
quyền Xô viết à? - Grigori làm như không nhìn thấy những cử chỉ nóng nảy của
Kudinov, vẫn hỏi tiếp.
- Người anh em ạ, có lẽ nó cũng
chẳng sao đâu. - Gã Cô- dắc khổng lồ trầm giọng xuống, nói có cân nhắc. - Nhưng
chỉ sợ sau nầy nó sẽ trở nên tồi tệ hơn thôi.
- Ở chỗ các anh có những chuyện bắn
giết không?
- Không đâu, cầu Chúa cứu giúp!
Không nghe nói đến những chuyện như thế đâu. Nhưng dù sao họ cũng lấy mất ngựa,
thóc lúa, và tất nhiên có bắt những người nói những lời chống đối. Nói tóm lại
là sợ lắm.
- Nhưng nếu quân Vosenskaia tới bên
ấy, các anh có nổi lên không? Tất cả có nổi lên không?
Cặp mắt ti hí dãi nắng đến óng lên
như mạ vàng của gã Cô- dắc nheo lại một cách giảo quyệt, cố tránh hai con mắt
Grigori. Trong giây phút ấy, cái mũ lông tụt hẳn xuống vầng trán đầy những vết
nhăn và những chỗ lồi lõm nổi lên do những ý nghĩ căng thẳng.
- Làm thế nào mà nói thay tất cả mọi
người được? Song các hộ Cô- dắc có tài sản thì tất nhiên sẽ tham gia đấy.
- Còn các hộ nghèo, không có tài sản
thì sao?
Từ nãy Grigori vẫn cố tìm cách nhìn
vào hai con mắt của người đang nói chuyện với mình, mãi lúc nầy chàng mới bắt
đầu gặp cái nhìn thẳng thắn, ngạc nhiên như con nít của anh ta.
- Hừm… Những đứa lười chảy thây đâu
có chịu đánh chiếc xe thắng năm ngựa? Chúng nó sống chết với cái chính quyền ấy
đấy, sự thật là như thế.
- Thế thì các anh vác mặt đến đây
làm gì, đồ yêu quái, đồ khốn nạn? - Kudinov không giấu vẻ tức tối nữa, hắn quát
to, cái ghế bành hắn ngồi rít một tiếng dài. - Anh đến xúi bẩy chúng tôi làm gì
hử? Chẳng nhẽ ở bên các anh tất cả đều là những nhà giàu hay sao? Mỗi thôn chỉ
lèo tèo vài người nổi dậy thì bạo… bạo động cái đếch gì? Xéo ngay khỏi chỗ nầy
đi! Xéo ngay, tôi bảo anh xéo ngay! Con gà rán 2 nó còn chưa mổ vào mông các
anh, nhưng đến khi bị chúng nó mổ rồi thì chẳng có chúng tôi giúp đỡ các anh
cũng sẽ bắt đầu chiến đấu? Quân chó đẻ, cứ quen cái thói nấp sau lưng người
khác mà cày trộm! Tốt nhất đối với các anh là cứ nằm yên trên bếp lò, và lấy
thêm kê nóng mà ấp cho ấm… Thôi xéo đi, xéo ngay đi! Cứ nhìn cái của quỷ như
anh mà buồn nôn.
Grigori cau mày quay đi. Những vết đo đỏ mỗi lúc một hiện
rõ trên mặt Kudinov. Georgitze vê vê hàng ria, hai lỗ mũi phập phồng trên cái
mũi quặp hẳn xuống như bị bào vẹt.
- Nếu thế thì chúng tôi xin lỗi. Còn quan lớn thì tôi xin
ngài đừng làm rầm lên, đừng nạt nộ như thế, vì đây là chuyện thân thiện. Tôi đã
chuyển tới ngài lời đề nghị của các bô lão bên chúng tôi và sẽ đem về cho các
bô lão bên chúng tôi câu trả lời của các ngài, chẳng có gì đáng phải to tiếng!
Không biết người ta còn quác lác với dân Chính giáo đến bao giờ mới thôi? Quân
Trắng quát tháo, quân Đỏ quát tháo, bây giờ lại đến lượt các ngài quát tháo.
Chính quyền nào cũng muốn ra oai thế, cũng muốn đè đầu cười cổ người ta… Chao
ôi cái đời thằng nông dân cũng chẳng khác gì đời con chó ghẻ?
Gã Cô- dắc phát khùng chụp mạnh cái mũ lên đầu, bước
nhanh ra hành lang như một khối đất lớn, rồi khe khẽ khép cửa. Nhưng khi ra
khỏi phòng rồi, gã đã mặc cho cơn tức tối trong người nổ bùng ra, gã đóng cửa
ngoài đánh sầm, làm thạch cao rơi lả tả xuống sàn và xuống các bậu cửa sổ trong
năm phút liền.
- Chà, cái dân nầy thật là lạ! - Kudinov đã có nụ cười
vui vui. Hắn nghịch nghịch cái dây lưng, nét mặt nom mỗi lúc một hồn hậu hơn. -
Mùa xuân năm một nghìn chín trăm mười bảy, tôi có dịp ra nhà ga. Hồi ấy vào
khoảng lễ Phục sinh, đang mùa cày, dân Cô- dắc bắt đầu được tự do đang cày và
đúng là vì bị tự do làm mê mẩn tâm thần, họ đã cày tất cả các đường đi lối lại,
cứ như vẫn còn thiếu ruộng đất. Khi đi quá thôn Tokin, tôi thấy một thằng cha
đang cày như thế bèn gọi nó đến bên cạnh xe ngựa: "Đồ chết tiệt, tại sao
lại cày cả đường sá lên thế nầy". Cu cậu hoảng lên nói: "Tôi sẽ không
làm như thế nữa, xin ngài thứ lỗi cho, bây giờ san bằng lại cũng vẫn
được". Sau đó tôi còn dùng cách ấy doạ hai ba thằng nữa. Đến khi đi quá
thôn Grachev, tôi lại thấy đường cái bị cày lên, một thằng còn trẻ ranh đi sao
cái cày. Tôi bèn quát rầm lên với nó "Nầy, lại đây?" Nó bước tới
"Mầy có quyền gì mà cày cả mặt đường lên như thế hử?" Cái thằng Cô-
dắc tiểu yêu đến là táo tợn, nó long hai con mắt rất sáng lên nhìn tôi rồi
chẳng nói chẳng rằng, nó quay đi, chạy về chỗ hai con bò. Tới nơi, nó tháo ở
vai cày ra một chốt sắt rồi lại chạy tế đến chỗ tôi. Nó bám lấy một bên thành
xe, leo lên bục xe và nói: "Mầy là cái thớ gì hử? Chúng mầy còn hút máu
hút mủ chúng tao bao giờ nữa mới thôi? Mày có muốn tao cho một cái vỡ toang sọ
ra không? Và nó vung cái chốt sắt định đánh tôi. Tôi bèn bảo nó: "Sao lại
thế, anh Ivan, tôi chỉ đùa một chút thôi mà". Nó nói luôn: "Bây giờ tao
không phải là Ivan nữa, mà là ông Ivan Yosif rồi. Tao sẽ đánh dập mõm mầy về
cái thô lỗ láo xược ấy". Tôi nói thật đấy, hôm ấy tôi đã phải chật vật lắm
mới thoát thân. Thằng cha nầy cũng thế, đầu tiên chảy nước mắt nước mũi, rạp
đầu van xin, nhưng cuối cùng vẫn cứ nổi sung lên. Lòng tự hào trong dân chúng
đã trỗi lên rồi. Đó chỉ là cái thói lỗ mãng tục tằn của chúng nó trỗi dậy và
phát tiết ra thôi, đâu phải là lòng tự hào. Ngày nay thái độ thô lỗ láo xược đã
được coi là một điều hợp pháp.
Tên trung tá người Kavkaz nói bằng một giọng bình thản
rồi không chờ nghe những lời nói lại, kết thúc luôn câu chuyện:
- Tôi đề nghị bắt đầu họp đi. Tôi muốn về trung đoàn ngay
hôm nay.
Kudinov gõ vào tường, gọi to:
- Xafonov! - rồi hắn nói với Grigori
- Cậu hãy ở lại với chúng mình một lát, chúng ta sẽ cùng bàn. "Trí lực một
người thì tốt, nhưng trí lực hai người thì tồi tệ hơn 3", câu tục ngữ ấy
cậu có biết không? Cũng may cho chúng mình đồng chí Georgitze ngẫu nhiên còn ở
lại Vosenskaia, và bây giờ sẽ giúp đỡ chúng ta. Đồng chí ấy cấp trung tá, đã
tốt nghiệp học viện lục quân đấy.
- Sao ngài còn ở lại Vosenskaia? -
Grigori hỏi. Không hiểu sao trong lòng chàng bỗng lạnh nhói và có ý đề phòng.
- Hồi Mặt trận phía bắc bắt đầu rút
lui, tôi bị thương hàn nên họ đã để tôi ở lại thôn Dudarevsky.
- Trước kia ngài ở đơn vị nào?
- Tôi ấy à? Không, tôi không ở đơn
vị chiến đấu. Tôi vốn làm việc tại bộ tư lệnh một binh đoàn đặc biệt.
- Binh đoàn nào? Của tướng quân
Xitnhikov à?
- Không…
Kể ra Grigori cũng muốn hỏi thêm vài
câu nữa, nhưng nét mặt tên trung tá có vẻ tập trung hết sức căng thẳng, làm cho
chàng cảm thấy rằng hỏi dồn thêm thì không tiện, vì thế chỉ hỏi đến nửa chừng
thì thôi.
Chẳng mấy chốc đã thấy tên trưởng
ban tham mưu Xafonov bước vào cùng với tên Koldrat Medvedev sư trưởng sư đoàn
Bốn và tên chuẩn ý má hồng răng trắng Bogatyrev lữ đoàn trưởng lữ đoàn độc lập
số sáu. Kudinov căn cứ vào các báo cáo nhận được, trình bày tổng hợp một cách
ngắn gọn tình hình mặt trận cho mấy tên đến dự hội nghị nghe. Người đầu tiên
xin phát biểu ý kiến là tên trung tá.
Hắn từ từ trải lên bàn tấm bản đồ ba
vec- xta 4 và nói một cách khéo léo đầy tự tin, giọng hơi rõ âm địa phương.
- Đầu tiên tôi nhận thấy là tuyệt
đối cần phải điều đơn vị dự bị của sư đoàn Ba và sư đoàn Bốn tới khu vực mà sư
đoàn Melekhov và lữ đoàn độc lập của chuẩn uý Bogatyrev đang phụ trách. Dựa vào
những tin bí mật mà chúng tôi nắm được và qua việc hỏi cung tù binh thì đã có
thể thấy hoàn toàn rõ ràng là bộ chỉ huy quân Đỏ đang chuẩn bị giáng cho chúng
ta một đòn nghiêm trọng ở ngay khu vực Kamenka - Karginskaia - Bokovskaia. Qua
lời những tên đào ngũ và tù binh đã xác định được rằng bộ tư lệnh Tập đoàn quân
Hồng quân số Chín đã rút từ Opiliva và Molozovskaia về hai trung đoàn kỵ binh
lấy ở sư đoàn Mười hai, năm chi đội đánh chặn, phối thuộc có ba đại đội pháo và
những đại đội súng máy. Theo ước tính sơ lược những sự tăng viện nầy sẽ đem lại
cho địch năm ngàn rưỡi quân. Như vậy rõ ràng là chúng sẽ chiếm ưu thế về quân
số. Đó là chưa nói rằng ưu thế về trang bị cũng nằm trong tay chúng.
Mặt trời vàng hoe như đoá hướng
dương nhìn từ phía nam vào trong phòng và nằm ngay sau một hình chữ thập trên
khung cửa sổ. Một làn khói màu xanh lơ đọng không động đậy bên dưới trần nhà.
Mùi thuốc lá nhà trồng lấy hắc hắc hoà lẫn với cái mùi thum thủm của những đôi
ủng ướt sũng. Ngay sát trần nhà, không biết chỗ nào có con ruồi bị ngộ độc vì
khói thuốc vo vo một cách tuyệt vọng.
Grigori nhìn ra cửa sổ, chàng buồn
ngủ rũ ra vì đã hai đêm liền chưa được chợp mắt, mí mắt sưng mọng và nặng như
chì cứ trĩu xuống, cảm giác buồn ngủ ấy đã thấm vào khắp người chàng cùng với
hơi ấm trong căn phòng đốt lửa rất nóng. Cả ý chí lẫn ý thức của chàng đều yếu
đi trong một trạng thái mệt mỏi ngây ngất. Nhưng bên ngoài cửa sổ, gió xuân vẫn
thổi từ vùng hạ du tới từng đợt, những đám tuyết cuối cùng sáng loá óng lên
hồng hồng trên đỉnh gò của thôn Batki, những ngọn cây tiêu huyền biên kia sông
Đông ngả nghiêng trước gió mạnh đến nỗi Grigori nhìn thấy thế cứ tưởng như đang
nghe thấy những tiếng xào xạc trầm trầm không lúc nào ngớt.
Giọng nói rành rọt và kiên quyết của
tên trung tá đã làm Grigori phải chú ý. Chàng cố gắng lắng nghe, rồi cái cảm
giác buồn ngủ đờ đẫn bỗng chốc biến mất lúc nào không biết, cứ như bị gió thổi
bay.
- Việc địch giảm bớt hoạt động trên
mặt trận của sư đoàn Một và ngày càng cố gắng chuyển sang thế công trên tuyến
Migulinskaia - Meskovskaia bắt chúng ta phải tỉnh táo đề phòng. Tôi cho rằng…
Tên trung tá định nói hai tiếng
"đồng chí" nhưng tắc họng không thốt ra được, hắn giật giọng nói to
hơn và hoa hai tay trong trong, trắng hếu như tay đàn bà - tư lệnh Kudinov có
sự ủng hộ của Xafonov đã phạm một sai lầm cực lớn là coi các hoạt động nghi
binh của bọn Đỏ là chuyện thật, đi đến làm yếu khu vực do Melekhov phụ trách.
- Thưa các ngài, xin các ngài lượng
thứ cho? Điều lực lượng của địch đi chỗ khác để bất thần ập tới tấn công, đó
chỉ là một điều sơ đẳng về chiến lược…
- Nhưng Melekhov không cần đến trung
đoàn dự bị, - Kudinov ngắt lời hắn.
- Đâu có thế? Chúng ta cần nắm sẵn trong
tay một phần lực lượng dự bị của sư đoàn Ba để trong trường hợp bị quân địch
chọc thủng còn có gì tung ra ngăn chặn.
- Xem ra Kudinov cũng không thèm hỏi
xem tôi có muốn cho đội dự bị hay không. - Grigori nổi sung. - Nhưng tôi thì
tôi không cho. Một đại đội cũng không cho?
- Thôi việc nầy, người anh em ạ… -
Xafonov vuốt hàng ria vàng hoe mỉm cười kéo dài giọng.
- Chẳng có "người anh em"
gì cả! Không cho là không cho có thế thôi!
- Về mặt tác chiến…
Anh đừng mang cái mặt tác chiến ra
mà nói với tôi. Tôi chịu trách nhiệm về khu vực của tôi và các anh em dưới
quyền tôi.
Tên trung tá Georgitze đã cắt đứt
cuộc đấu khẩu nổ ra bất ngờ như thế. Cây bút chì đỏ trong tay hắn khoanh vùng
bị uy hiếp bằng một đường chấm chấm và đến khi mấy tên dự cuộc họp chụm đầu
trên bản đồ thì tất cả đều nhận thấy rõ ràng, không còn nghi ngờ gì nữa là cuộc
tấn công mà bộ chỉ huy Hồng quân đang chuẩn bị thực tế chỉ có thể đánh vào khu
vực phía nam, vì đó là nơi gần sông Dones nhất và thuận lợi nhất về mặt giao
thông liên lạc.
Một giờ sau hội nghị bế mạc. Gã
Koldrat Medvedev, một anh chàng mặt mũi cau có, vẻ người cũng như dáng đi đều
hệt như một con chó sói, mãi cuối cùng mới phát biểu ý kiến. Gã vốn ít chữ
nghĩa nên suốt cuộc hội nghị cứ câm như hến, hai con mắt gã gườm gườm nhìn tất
cả mọi người.
- Giúp đỡ Melekhov thì chúng tôi sẽ
giúp. Nhưng chỉ có một ý nghĩ cứ làm tôi canh cánh, thật là thổ tả! Nếu quân
địch bắt đầu dồn tới, từ tất cả các phía, thì chúng ta sẽ chạy đi đâu? Chúng nó
sẽ quây chúng ta thành đống, và chúng ta sẽ lâm vào một tình thế chẳng khác gì
những con rắn nước trên một cái gò trong mùa nước lụt. Rắn nước còn biết bơi,
chứ chúng ta thì chẳng bơi đi đâu đước.
Bogatyrev cười khồ khồ.
- Chuyện ấy bọn chúng tôi cũng đã có
nghĩ tới, - Kudinov nói, vẻ đăm chiêu. - Nhưng không sao, đến bước đường cùng
chúng ta sẽ bỏ lại tất cả những người không cầm được vũ khí, bỏ gia đình để
chiến đấu mở đường máu chạy về sông Dones. Lực lượng của chúng ta chẳng phải là
nhỏ, hàng ba vạn quân.
- Nhưng bọn "Kadet" có
chịu nhận chúng ta không? Chúng nó vốn căm dân Đông - Thượng lắm đấy.
- Gà mẹ đã vào ổ, thì trứng… Vấn đề
nầy còn có gì phải bàn nữa!
Grigori chụp cái mũ lên đầu, bước ra
hành lang. Qua cánh cửa chàng còn nghe thấy Georgitze cuộn loạt soạt tấm bản đồ
và trả lời:
- Dân Vosenskaia cũng như nói chung
tất cả những người khởi nghĩa sẽ chuộc được tội đối với sông Đông và nước Nga,
nếu vẫn cứ chiến đấu anh dũng chống lại bọn Bolsevich như thế nầy…
"Đồ rắn độc, miệng nó xơn xớt
như thế nhưng trong bụng lại cười thầm mình!" - Grigori lắng nghe giọng
nói, bụng bảo dạ. Và cũng như trong những giây phút đầu tiên, lúc chàng mới gặp
tên sĩ quan đột nhiên xuất hiện ở Vosenskaia, Grigori lại cảm thấy trong lòng
có điều gì canh cánh và một sự tức tối vô duyên vô cớ.
Grigori ra tới cổng của bộ tư lệnh
thì Kudinov đuổi kịp. Hai người cùng đi, nhưng trong một lát không ai nói gì
cả. Gió thồi ràn rạt làm nhăn những vũng nước trên cái quảng trường đầy phân
gia súc. Trời đã hoàng hôn. Với những đường cong tròn trặn, những đám mây trắng
nặng nề trôi thẫn thờ từ phía nam tới như những con thiên nga, chẳng khác gì
trong một ngày hè. Mùi đất đang tan tuyết thơm và ẩm, như truyền thêm sức sống.
Bên các dãy hàng rào, cỏ đã nhú lên xanh rờn, và thực tế gió đã đưa từ bên kia
sông Đông với tiếng xào xạc xao xuyến lòng người của những cây tiêu huyền.
- Băng trên sông Đông sắp tan đến
nơi rồi. - Kudinov húng hắng ho nói.
- Phải.
- Làm thế quái nào mà biết được…
Không có thuốc hút thì bọn mình nguy mất. Một cốc thuốc lá địa phương mà đến
bốn mươi rúp Kerensky.
- Anh hãy bảo, - Grigori vừa đi vừa
quay lại hỏi, giọng gay gắt, - cái thằng sĩ quan vừa nãy, cái thằng trec- ket
ấy, nó đến chỗ anh làm gì thế?
- Georgitze ấy à? Trưởng phòng tác
chiến đấy. Cái thằng quỷ sứ ấy cừ lắm đấy? Các kế hoạch chính là do hắn thảo ra
cả. Về chiến lược thì chúng mình thua hắn hết.
- Nó luôn luôn ở Vosenskaia à?
- Không, bọn mình phái hắn đến trung
đoàn Chernovsky, chỗ đội vận tải.
- Nếu vậy thì nó làm thế nào theo
dõi được các công việc?
- Cậu cũng thấy đấy, hắn thường đến
đây luôn. Hầu như ngày nào cũng đến.
- Nhưng tại sao các anh không giữ nó
ở lại Vosenskaia? - Grigori cố hỏi dồn cho ra lẽ.
Kudinov vẫn cứ đưa tay lên che miệng
húng hắng ho và trả lời miễn cưỡng:
- Bọn Cô- dắc nhìn thấy hắn thì
không tiện. Cậu cũng biết anh em mình chúng nó như thế nào rồi chứ? Chúng nó
lại bảo: "Xem đây, bây giờ bọn sĩ quan lại được nâng lên rồi, vẫn ngựa
quen đường cũ. Lại những thằng có lon vai…" và còn gì gì nữa ấy chứ.
- Trong quân đội còn có những thằng
khác như nó không?
- Ở Kazanskaia có hai ba thằng gì
đó… Griska ạ, cậu đừng quá khó chịu. Mình cũng đã thấy cậu muốn như thế nào
rồi. Người anh em thân mến ạ, ngoài bọn "Kadet" ra, chúng ta chảng
còn chỗ nào mà dựa nữa đâu. Có thật như thế không? Hay cậu lại định tổ chức
riêng một nước cộng hoà với một chục cái trấn nầy? Trong chuyện nầy chẳng còn
gì mà nói nữa rồi… Chúng ta sẽ cúi đầu nhận tội để về nói với Krasnov:
"Thưa ngài Petro Mikolait, chúng tôi đã chót lầm lỡ một chút, chúng tôi đã
bỏ mặt trận!"
- Lầm lỡ ấy à? - Grigori hỏi lại.
- Nếu không thì còn sao nữa? - Kudinov trả lời với một vẻ
ngạc nhiên rất thành thật và cố tránh vũng nước nhỏ.
- Nhưng tôi lại nghĩ rằng… - Grigori sầm mặt, nhưng vẫn
cố nặn ra một nụ cười. - Tôi lại cho rằng chúng ta đã lầm lỡ khi nổi lên bạo
động. Anh đã nghe cái thằng vùng sông Khop nói gì rồi chứ?
Kudinov không nói gì, chỉ liếc ngang nhìn Grigori có ý
thăm dò. Hai người đi hết quảng trường đến chỗ ngã tư thì chia tay.
Kudinov đi qua trường trung học về chỗ hắn ở. Grigori
quay về bộ tư lệnh, chàng giơ tay ra hiệu cho gã cần vụ dắt ngựa tới. Sau khi
ngồi lên yên, chàng từ từ đóng lại dây cương, sửa cái dây đeo khẩu súng trường,
nhưng vẫn cố nghĩ xem tại sao mình đã có cái cảm giác thù địch và đề phòng giữ
miếng khó hiểu khi nhận ra có tên trung tá trong bộ tư lệnh. Rồi bỗng nhiên
chàng hoảng lên nghĩ thầm: "Nếu bọn Kadet đã chủ tâm đặt sẵn những thằng
sĩ quan có trình độ hiểu biết nầy ở lại trong vùng chúng ta để bọn nầy xúi bẩy
chúng ta nổi dậy trong hậu phương của bọn Đỏ rồi chỉ đạo chúng ta theo kiểu
chúng nó, theo kiểu bọn học giả thì sao? " Rồi ý thức cứ quái ác gợi lên
cho chàng những điều ức đoán và những kết luận. "Nó không chịu nói là
thuộc đơn vị nào… nó ngần ngà ngần ngừ… Một thằng cán bộ tham mưu mà đến đây
lại không ở bộ tư lệnh… Ma dẫn lối, quỷ nào đưa đường nó đến Dudarevsky, đến
cái nơi khỉ ho cò gáy nầy làm gì? Chao ôi, không phải không có duyên cớ đâu?
Chúng ta đã làm công việc rối lên như bòng bong rồi…" Và những điều suy
nghĩ ấy đã lột trần cho chàng thấy bộ mặt thật của cuộc đời. Với ý thức của một
con người cùng đường, chàng nghĩ thầm một cách đau khổ: "Cái bọn lắm chữ
nghĩa ấy đã làm rối việc của chúng ta rồi! Chúng nó đã trói buộc cuộc đời của
chúng ta như người ta trói hai chân sau của những con ngựa và mượn tay chúng ta
để thực hiện các mưu đồ của chúng nó. Dù những việc lặt vặt cũng không thể tin
vào ai được nữa rồi…".
° ° °
Sang đến bên kia sông Đông, chàng cho ngựa phi nước đại.
Phía sau nghe thấy cọt kẹt tiếng yên ngựa của gã cần vụ, một tên Cô- dắc dũng cảm
chiến đấu rất cừ, người thôn Olsansky, Grigori đã chọn những tên như thế để
cùng mình xông vào những nơi nước sôi lửa bỏng, và chàng đã tập hợp được chung
quanh mình một số tên đã qua thử thách từ trận chiến tranh chống Đức. Gã cần vụ
nầy trước kia là trinh sát, suốt chặng đường gã chẳng nói chẳng rằng. Ngựa đang
chạy nước kiệu, gã vẫn có thể đập đá lửa châm thuốc hút ngay ngoài gió, một nắm
mđỉ thơm phức lùi tro hướng dương nóng nằm lỏn trong bàn tay to bè. Trong khi
xuống dốc tới thôn Tokin, gã khuyên Grigori:
- Nếu không có gì phải vội thì chúng ta hãy vào đây mà
nghỉ đêm. Hai con ngựa đã mệt lử rồi, phải cho nghỉ mới được.
Hai thầy trò nghỉ đêm ở Trukarin. Trong một túp lều cũ
nát gồm hai phòng nối với nhau bằng một lối đi kín, họ cảm thấy dễ chịu và ấm
áp như được về gia đình sau khi phơi mặt ra gió lạnh. Sàn nhà bằng đất nện xông
lên nồng nặc cái mùi mằn mặn của nước đái bò và nước đái dê. Từ trong bếp lò
đưa ra một mùi nhạt thếch như bánh mì nướng trong lá bắp cải đã hơi cháy. Chủ
nhà là một mụ già Cô- dắc đã tiễn ba con trai và cả lão già đi theo quân phiến
loạn. Grigori miễn cưỡng trả lời những câu mụ vặn hỏi chàng. Mụ nói giọng trầm
trầm, đầy vẻ kẻ cả, luôn luôn ra cái điều ta đây là kẻ già cả và ngay từ những
lời đầu tiên, mụ đã quát Grigori một cách thô lỗ:
- Tuy anh là cấp trên, là chỉ huy của cái bọn Cô- dắc ngu
xuẩn ấy thật, nhưng đối với tôi, đối với mụ già nầy, anh chỉ đáng tuổi con
thôi, chớ có lên cái mặt hách dịch. Thôi nầy con chim ưng kia, anh hãy làm ơn
tiếp chuyện tôi một lát. Đừng có cái kiểu ngáp ngắn ngáp dài làm như không thèm
nói chuyện với đàn bà ấy, thật chẳng còn biết tôn trọng nữa. Nhưng anh phải tôn
trọng mới được. Tôi đã đưa ba thằng con đi tham gia cái cuộc chiến tranh chết
tiệt nầy rồi.
Lại thêm ông lão nhà tôi nữa. Anh thì chỉ huy chúng nó,
nhưng chúng nó, mấy thằng con tôi ấy, tôi lại là người đẻ ra chúng nó, cho bú,
cho ăn, bế chúng nó trong cái vạt váy nầy đi khắp các vườn rau vườn dưa, đau
đớn khổ sở vì chúng nó. Làm được như thế cũng không dễ đâu! Thế thì anh chớ có
hợm hĩnh, chớ có hống hách, mà phải nói rõ ràng cho tôi biết: đã sắp giảng hoà
chưa?
- Sắp rồi đấy… Nhưng đi ngủ đi, bà mẹ ạ - Lại sắp rồi!
Nhưng làm thế nào mà sắp được! Mà anh thì đừng có bảo tôi đi ngủ. Ở đây chủ nhà
là tôi chứ không phải là anh. Tôi còn phải ra sân bắt mấy con cừu con vào đây.
Chúng nó còn nhỏ quá đêm nào cũng phải đem từ ngoài sân vào. Thế trước lễ phục
sinh đã giảng hoà được chưa?
- Chúng tôi tống cổ bọn Đỏ đi rồi sẽ giảng hoà.
- Đã lạ chửa? - Mụ già để rơi tay xuống hai cái đầu gối
quắt queo nhòn hoắt, hai bàn tay sưng vù với những ngón co quắp vì lao động và
iê thấp. Mụ nhai nhai cặp môi khô nâu xịt như vỏ mận. - Ôn dịch nào bắt được
chúng nó chịu thua các anh? Mà việc gì các anh lại đánh nhau với chúng nó chứ?
Con người thật đã hoá điên hoá ngộ… Những thằng trời không dung đất không tha
như các anh chỉ thích nổ súng đùng đoàng và nghênh ngáo trên lưng ngựa, nhưng
các bà mẹ thì như thế nào? Những thằng bị giết chẳng phải là con của các bà mẹ
hay sao? Không biết những đứa nào đã nghĩ ra cái trò chiến tranh…
- Thể chúng tôi không phải là con của các bà mẹ thì là
con của những con chó cái à? - Những lời của mụ già đã làm gã cần vụ của
Grigori chối tai không chịu được nữa, gã tức tối nói giọng khàn khàn trầm hẳn
xuống. - Chúng nó giết chúng tôi mà bà lại bảo chúng tôi "nghênh ngáo trên
lưng ngựa!" Cứ làm như những người làm mẹ đau khổ hơn những đứa bị giết
không bằng! Nhà bà thật là hồ đồ. Chúa cho sống đến lúc tóc bạc như thế nầy mà
còn ăn nói lung tung… cứ thao thao như nước sông Đông, như nước biển, không để
cho người ta chợp mắt được một lúc nữa…
- Đồ ôn dịch, anh còn được ngủ chán mắt! Làm gì mà trợn
trừng trợn trạo lên như thế hử? Lầm lầm lì lì mãi như con chó sói độc rồi kiếm
được chuyện là nổ ra đùng đùng. Xem kìa! Cáu lên đến khản cả tiếng rồi kìa.
- Anh Grigori Panteleevich ạ, mụ chẳng cho chúng ta ngủ
nữa - Gã cần vụ kêu lên một cách tuyệt vọng rồi đập đá lửa hút thuốc mạnh đến
nỗi cả một dé tia sáng tóe ra dưới hòn đá lửa.
Trong lúc cái mồi lửa cháy và bốc khói khét lẹt, gã dùng
một giọng cay độc đánh gục mụ chủ nhà lắm mồm.
- Bà quen cái thói bẻ hành bẻ tỏi và làm phiền người ta
dai không kém gì một con ong vò vẽ! Có lẽ nếu lão già nhà bà bị giết ngoài mặt
trận, thì lúc sắp nhắm mắt lão cũng thấy nhẹ nhõm cả người. Lão sẽ bảo:
"Thôi, ơn Chúa, thế nầy là mình thoát khỏi tay mụ già rồi, cầu cho trái
đất đối với mụ cũng chỉ nhẹ như một nắm lông thiên nga!"
- Đồ hung thần ác quỷ, sao lưỡi anh không mọc đầu đanh
ra?
- Thôi ngủ đi, bà hãy vì Chúa cứu thế mà ngủ đi. Đã ba
đêm nay chúng tôi không được chợp mắt lúc nào rồi đây. Thôi ngủ đi! Cái kiểu
như thế có thể làm con nhà người ta chết không cần rửa tội đấy.
Grigori phải vất vả lắm mới hoà giải được hai người. Lúc
thiếp đi chàng ngửi thấy cái mùi ấm ấm chua chua rất dễ chịu của chiếc áo
choàng may bằng lông cừu đắp trên mình. Trong khi mơ màng, chàng nghe thấy
tiếng cửa mở và cảm thấy một làn không khí lành lạnh ẩm ẩm trùm quanh hai chân
mình. Rồi có
tiếng một con cừu non kêu be be rất to ngay bên tai. Những cái móng nhỏ xíu của
nó đập rất nhanh xuống đất. Thoảng có những mùi tươi mát, sảng khoái của cỏ
khô, của sữa cừu bốc hơi, của sương giá, của sân gia súc…
Đến nửa đêm thì Grigori không ngủ
được nữa. Chàng nằm rất lâu với hai con mắt mở trừng trừng. Trong cái bếp lò
dưới đất đã phủ kín, loáng thoáng thấy đỏ rực vài hòn thàn qua lớp tro màu đá
mắt mèo. Mấy con cừu non rúc vào nhau thành một đống nằm ngay ở chỗ nóng nhất,
bên miệng lò. Trong bầu không khí lặng tờ êm dịu của lúc nửa đêm, có thể nghe
thấy tiếng những con cừu nghiến răng trong giấc ngủ, thỉnh thoảng lại có con
hắt hơi và thở phì phì. Vừng trăng vành vạnh nhòm qua cửa sổ từ một nơi xa lắc.
Một con cừu nhỏ lông đen tính hay nô nhảy cỡn và đạp lung tung trong vuông ánh
sáng vàng vàng dưới sàn đất. Một dải bụi màu ngọc trai nằm tréo dài theo dải
ánh sáng trăng. Ánh sáng trong nhà xanh xanh vàng vàng, gần như ban ngày. Mảnh
gương gài trên lò sưởi lấp loáng. Chỉ góc phòng phía trước là tôi tối, với
những ánh bạc bềnh bệch trên những hình thánh… Grigori lại băn khoăn với những
ý nghĩ về cuộc hội nghị ở Vosenskaia, về gã phái viên của vùng sông Khop, và
đến khi nhớ lại thằng trung tá cùng vẻ người và lối nói năng cư xử xa lạ của
nó, của một kẻ trí thức, chàng bất giác cảm thấy trong lòng xao xuyến, phiền
não và khó chịu. Một con cừu non leo lên cái áo lông, đứng ngay trên bụng
Grigori. Nó giương cặp mắt đần độn nhìn giờ lâu rồi vẫy vẫy tai, liều lĩnh nhảy
hai ba cái và đột nhiên dạng hai cái chân loằng ngoằng. Một dòng nước dải nhỏ
rè rè chảy từ cái áo lông cừu xuống bàn tay dâng rộng của gã cần vụ ngủ bên
cạnh Grigori. Gã kia lầm bầm tỉnh dậy, chùi tay vào quần và lắc đầu một cách
đau khổ.
- Đái ướt cả người ta rồi, cái con
khốn kiếp… Xéo! - Gã nói xong búng vào giữa trán con cừu con một cách khoái
trá.
Con cừu kêu be be một tiếng như chọc
vào tai, nhảy từ trên cái áo choàng xuống rồi tới liếm rất lâu bàn tay của
Grigori, cái lười nhỏ xíu vừa ráp vừa ấm.
--- ------ ------ ------ -------
1 Xô viết
Quân khu của bọn phiến loạn (ND).
2 Chỉ Hồng
quân (ND).
3 Đúng phải
là: "… nhưng trí lực hai người thì tốt hơn". Không hiểu anh chàng
Kudinov nầy cố ý nói đùa hay dẫn tục ngữ mà cũng không nên thân (ND).
4 Bản đồ vẽ
theo tỉ lệ một in (2,54cm) trên bản đồ bằng ba vec- xta.
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 159
Sau khi chạy khỏi thôn Tatarsky,
Stokman, Miska, Kotliarov và mấy anh chàng Cô- dắc trước kia làm công an, đều
đến với trung đoàn Bốn Damursky. Hồi đầu năm một nghìn chín trăm mười tám trung
đoàn nầy đã rút về từ mặt trận trước mặt quân Đức về và sáp nhập toàn bộ vào
một chi đội Hồng quân. Sau một năm rưỡi chiến đấu trên nhiều mặt trận của cuộc
nội chiến, nó vẫn còn giữ nguyên thành phần cơ bản. Các chiến sĩ trung đoàn
Damursky được trang bị rất đầy đủ, ngựa của họ đều được nuôi béo tốt và huấn
luyện cẩn thận. Đặc điểm của trung đoàn nầy là có khả năng chiến đấu, tinh thần
kiên định, các chiến sĩ được huấn luyện tốt về thuật điều khiển ngựa nên họ
cưỡi ngựa với tư thế rất duyên dáng.
Hồi cuộc phiến loạn mới bùng nổ, các
chiến sĩ trung đoàn Damursky được trung đoàn bộ binh số một Moskva giúp đỡ, đã
gần như đơn độc chống lại được sức ép của quân phiến loạn đang tìm cách chọc
thủng vào Ust- Medvedicha. Sau đó đến thêm viện binh, trung đoàn nầy không phân
tán làm những nhiệm vụ khác, mà chiếm lĩnh hẳn khu vực Ust- Khopeskaia, dọc theo
con sông Krivaya.
Đến cuối tháng Ba, sau khi chiếm một
phần các thôn của trấn Ust- Khopeskaia, quân phiến loạn dồn các đơn vị Hồng
quân ra khỏi khu du mục của trấn Elanskaia. Cán cân lực lượng đã có phần nào
cân bằng, thế cân bằng nầy đã làm cho mặt trận không di động trong gần hai
tháng trời. Để che chở cho trấn Ust- Khopeskaia về phía tây, một tiểu đoàn của
trung đoàn Moskva được một đại đội pháo yểm trợ đã chiếm thôn Krutovsky trên
sông Đông. Dưới chân một nhánh núi chạy ra sông ở phía Nam Krutovsky, một đại
đội pháo Hồng quân ngụy trang trong một sân đập lúa ở ngoài đồng ngày nào cũng
giã giò lên đầu những tên phiến loạn đến tập trung trên những ngọn gò bên hữu
ngạn, yểm hộ các tuyến chiến đấu của trung đoàn Moskva rồi di chuyển hoả lực,
rắc đạn lên thôn Elansky nằm bên kia sông Đông. Những đám khói đạn ghém rất nhỏ
bung ra khi cao khi thấp trên những ngôi nhà nằm sát sin sít rồi tan rất nhanh.
Đạn lựu pháo khi thì nổ trong thôn, làm cho gia súc hoảng lên như phát điên,
phá hàng rào chạy lồng lên trong các ngõ, còn người thì khom lưng chạy toán
loạn, khi thì nổ trong cái nghĩa địa cựu giáo, gần những cái cối xay gió, trên
những ngọn đồi cát vắng tanh không một bóng người, làm bắn tung lên những đám
đất nâu nâu nát vụn, chưa tan hết tuyết.
Ngày mười lăm tháng Ba, Stokman,
Miska Kosevoi và Kotliarov được tin ở trấn Ust- Khopeskaia đã thành lập một đội
nghĩa dũng gồm những đảng viên cộng sản và cán bộ chính quyền Xô viết vừa chạy
khỏi các trấn nổi loạn. Ba người đang ở thôn Trebotarev bèn tới trấn Ust- Khopeskaia.
Gã Cô- dắc cựu giáo đánh xe có khuôn mặt hồng hào sạch sẽ nom có vẻ con nít,
đến nỗi Stokman nhìn gã cũng bất giác phải nheo mép cười. Tuy còn trẻ nhưng gã
đã để một bộ râu màu hạt dẻ nhạt xoăn tít rất rậm. Cái miệng đỏ tươi nằm giữa
đám râu nom cứ như lát dưa hấu. Sát cạnh mỗi bên mắt có một đám lông tơ vàng
óng. Không biết vì chòm râu xồm hay vì làn da hồng hào tốt máu mà hai con mắt
màu lam nom trong suốt một cách đặc biệt.
Suốt chặng đường Miska cứ lầm rầm
hát hết bài nọ đến bài kia. Kotliarov đặt ngang khẩu súng trường trên đầu gối,
cau có ngồi co ro phía sau xe. Còn Stokman thì tán gẫu với gã đánh xe, bắt đầu
từ những chuyện đâu đâu.
- Đồng chí thì chẳng phải than phiền
gì về mặt sức khỏe đấy nhỉ? - Anh hỏi.
Gã cựu giáo hừng hực sức sống giữa
tuổi trai tráng phanh cái áo khoác ngắn may bằng lông cừu, mỉm một nụ cười hồn
hậu:
- Không, tôi cũng chẳng làm gì nên
tội để Chúa phải giận. Nhưng làm thế nào mà ốm được cơ chứ? Dân chúng tôi từ
bao đời nay không hút thuốc, rượu thì tất nhiên cũng có uống, từ nhỏ lại ăn
toàn bánh nướng bằng bột lúa mạch. Vậy thì bệnh tật nó có đường nào mà mò tới
được?
- Thế có đi lính rồi chứ?
- Cũng có đi ít lâu. Bị bọn Kadet
bắt đi.
- Nhưng tại sao không tới vùng sông
Dones?
- Đồng chí nói gì mà kỳ quặc? - Gã
ném bộ dây cương tết bằng lông đuôi ngựa xuống, tháo đôi găng tay không có
ngón, lau miệng rồi cau mày có vẻ bực mình. - Tôi thì sang bên ấy để làm gì? Đi
tìm những bài hát mới à? Trước kia nếu không bị bọn Kadet ép buộc thì tôi cũng
chẳng đi lính cho họ làm gì. Chính quyền của các đồng chí kể ra cũng công bằng
chỉ phải cái có đôi điều làm không đúng…
- Những điều gì thế? - Stokman cuốn
điếu thuốc, châm hút rồi chờ rất lâu câu trả lời.
- Tại sao đồng chí lại đốt cái của
độc địa nầy làm gì? - Gã Cô- dắc quay mặt đi và nói. - Đồng chí xem, chung
quanh không khí mùa xuân trong sạch biết bao, thế mà đồng chí lại đem cái hơi
khói hôi thối nầy làm bẩn cả lồng ngực… Tôi không ưa làm như thế. Còn những
điều các đồng chí làm không đúng thì tôi sẽ nói: các đồng chí o ép dân Cô- dắc,
có những hành động ngu dại, nếu không chính quyền của các đồng chí sẽ không thể
suy suyển được. Các đồng chỉ có nhiều anh chàng ngu xuẩn quá, chính vì thế mà
đã nổ ra cuộc bạo động đấy.
- Họ đã hành động ngu dại như thế
nào? Như thế tức là theo ý anh chúng tôi đã làm những việc ngu xuẩn à? Có phải
thế không? Những việc gì vậy?
- Có lẽ chính đồng chí cũng biết
rồi… Đem người ta đi xử bắn. Đồng chí xem, hôm nay một người, ngày mai người
nữa… Ai lại muốn ngồi chờ đến lượt mình bị tóm cổ đi! Chọc tiết con bó nó còn
ngọ nguậy cái đầu nữa là. Đấy, cứ xem như ở trấn Bukanovskaia chẳng hạn… Cái
trấn ấy từ chỗ nầy cũng có thể nhìn thấy được. Đồng chí có trông thấy toà nhà
thờ của họ không? Cứ nhìn theo ngọn roi tôi chỉ đây nầy, đã thấy chửa? Nghe nói
có một chính uỷ, tên là Mankin, đóng ở chỗ họ cùng với một chi đội. Đấy, thử
hỏi xem ông ta đối xử với nhân dân có công bằng hay không? Chuyện như thế nào
tôi sẽ kể ngay đây. Ông ta đã lôi cổ một số bô lão ở các thôn tới, đưa vào
trong rừng, vào đến trong ấy thì cho tất cả hồn lìa khỏi xác, rồi lột trần như
nhộng và thậm chí không cho gia đình người ta chôn cất. Điều tai vạ đối với các
bô lão ấy là trước kia họ có được bà con trong trấn bầu lên làm bồi thẩm. Nhưng
đồng chí có biết họ là những bồi thẩm như thế nào không? Người thì hỳ hà hỳ hục
mãi mới ký xong cái tên, người thì phải nhúng tay vào mực điểm chỉ, hoặc chỉ
nguệch ngoạc được một chữ thập. Các ông bồi thẩm như thế thường chỉ ngồi làm
vì. Toàn bộ công lao là có được bộ râu dài, có người đã già lụ khụ đến quên cả
cài cúc quần. Đối với họ thì có thể bắt họ phải chịu trách nhiệm gì? Cả bọn đều
đã quay trở lại cái thời con nít. Thế mà cái ông Mankin ấy cứ làm như mình là
Thượng đế, nắm quyền sinh sát đối với người khác. Trong lúc đó có một lão già
biệt hiệu là "Dây chão" đi qua thao trường. Lão đang cầm một đoạn dây
buộc mõm ngựa đi về sân đập lúa nhà lão để thắng con ngựa cái. Nhưng có vài đứa
trẻ gọi đùa lão: "Cụ tới đằng ấy đi Mankin gọi cụ đấy". Lão Dây chão
bèn làm cái dấu phép dị giáo của chúng nó, vì dân bên ấy đều tin theo đạo mới,
rồi lão bỏ mũ ra ngay từ trên bãi tập. Lão hết cả hồn vía, đi đến nơi và hỏi:
"Ngài cho gọi tôi à?" Mankin cười như nắc nẻ, cười ghê quá đến nỗi
phải đưa hay bàn tay lên giữ lấy hai bên cạnh sườn. Ông ta bảo: "À đã tự xưng
là nấm thì cứ chui vào làn. Chẳng có ai gọi lão cả, nhưng lão đã dẫn xác đến
thì đi ra với bọn kia. Các đồng chí, bắt lấy lão! cho lão vào loại thứ
ba". Thế là tất nhiên lão đã bị bắt và lập tức bị đưa vào rừng. Mụ già đợi
mãi, đợi mãi chẳng thấy chồng về. Lão đã ra đi và chết mất xác. Thế là lão đã
đem cả đoạn dây buộc mõm ngựa lên thiên đàng. Một lão già khác tên là Mirofan
người thôn Andreanovsky bị Mankin bắt gặp ngoài phố và gọi lại "Ở đâu đến?
Họ tên là gì?" - Rồi ông ta cười như nắc nẻ và bảo: "Xem kìa, lão để
bộ râu dài như đuôi con cáo ấy? Với bộ râu nầy nom lão hệt như một tên nịnh
thần của thằng Nicolai 1 ấy". Rồi ông ta lại bảo "Chúng ta sẽ đem
lão, đem cái con lợn béo núc nầy đi nấu xà phòng! Cho lão vào loại thứ
ba!" Thật là tội nợ, ông lão nầy quả cũng có một bộ râu không kém gì cái
chổi bện bằng rơm kê. Thế là đã bị đem bắn chỉ vì không để mắt tới bộ râu và
dẫn xác đến trước mặt Mankin vào một giờ dữ. Những chuyện như thế chẳng phải là
xúc phạm tới nhân dân hay sao?"
Ngay từ lúc gã đánh xe bắt đầu kể
chuyện. Miska đã ngừng tiếng hát. Cuối cùng anh điên tiết nói:
- Bịa đặt chẳng ra đầu ra đuôi gì
cả, cái nhà bác nầy!
- Anh hãy cố mà bịa đặt giỏi hơn đi!
Trước khi bảo người ta là bịa đặt, anh hãy tìm hiểu thật hư ra sao rồi hãy nói.
- Còn anh thì những chuyện ấy, anh
có biết đích xác hay không?
- Người ta đã nói như thế.
- Người ta! Người ta nói rằng có thể
vắt sữa gà, nhưng gà thì làm gì có vú? Cứ đi nghe những chuyện bịa đặt rồi nói
lại lung tung như đàn bà ấy!
- Các bô lão ấy đều là những con
người hiền lành…
- Cái nhà anh nầy! Hiền lành! -
Miska tức giận nhại lại. - Mấy lão già mà anh nói là hiền lành biết đâu chẳng
đang sửa soạn nổi loạn, và trong sân nhà bọn bồi thẩm biết đâu có chôn giấu
súng máy. Thế mà lại bảo là bị xử bắn vì bộ râu làm như đem người ta đi xử bắn
chỉ để làm trò đùa… Sao người ta không mang anh ra xử bắn vì bộ râu? Mà bộ râu
của anh thì rậm kém gì râu con dê già?
- Tôi mua về được cái gì thì lại đem
cái nấy đi bán thôi. Ôn dịch nào biết được, cũng có thể là thiên hạ đã nói láo,
cũng có thể là họ cũng ngấm ngầm có những âm mưu gì đó chống lại chính quyền… -
Gã cựu giáo luống cuống nói lắp bắp.
Gã nhảy từ trên ghế đánh xe xuống,
đi lõm bõm giờ lâu trên lớp tuyết đang tan. Hai chân gã dạng rộng, xới tung một
dải tuyết xốp xốp phớt ánh xanh xanh vì thấm nước. Mặt trời âu yếm chiếu sáng
trên đồng cỏ. Bầu trời xanh nhạt ôm chặt lấy đường viền của những ngọn gò và
mấy cái đèo xa xa. Trong làn gió thổi tới rất nhẹ, có cảm tưởng như đã thấy
được hơi thở thơm thơm của mùa xuân không còn lâu la gì nữa. Về phía đông, sau
đường nét trắng trắng ngoằn ngoèo chữ chi của những ngọn núi ven sông Đông,
thấy hiện lên đỉnh núi cao ngất của trấn Ust- Medvedskaia trong một làn sương
mù tím ngát. Ở nơi rất xa, sát đường chân trời, những đám mây trắng bông như
lông cừu non trải sát xuống đất, chẳng khác gì một tấm thảm khổng lồ rập rình
như sóng.
Gã đánh xe nhảy lên xe, rồi lại quay
sang nói với Stokman, nét mặt có vẻ gay gắt hơn:
- Ông cụ sinh ra bố tôi đến bây giờ
vẫn còn sống, năm nay đã một trăm linh năm tuổi. Ông cụ cũng được biết ông cụ
sinh ra bố ông cụ. Ông tôi có kể lại là trong đời ông tôi, tức là đời cụ ngũ
đại của tôi, hoàng đế Petr có phái đến vùng thượng lưu sông Đông chúng tôi một
lão công tước, cầu Chúa giúp cho tôi trí nhớ, không biết tên là Dlinnorukov hay
Dolgorukov 2 gì đó. Cái lão công tước ấy đã đem binh từ Voronez xuống triệt hạ
những thị trấn Cô- dắc vì dân Cô- dắc không chịu theo cái đạo khốn nạn của lão
Nicol 3 và không chịu quyền thống trị của vua Nga. Dân Cô- dắc đã bị bắt giữ,
bị cắt mũi, có người còn bị treo cổ trên những cái bè thả trôi theo sông Đông.
- Anh nói thế là định đi đến chuyện
gì thế hử? - Có ý đề phòng, Miska hỏi giọng nghiêm khắc.
- Tôi muốn nói rằng tuy lão ta là
Dlinnorukov nhưng có lẽ nhà vua cũng chẳng trao cho lão những quyền hành như
thế đâu. Còn cái ông chính uỷ Mucanovskaia, ông đã quát tháo chẳng hạn như:
"Cái bọn chó đẻ, tao sẽ làm cho chúng mày hết giở trò Cô- dắc, cho chúng
mày nhớ đời?". Ông ta đã ra bãi họp ở Bukanovskaia quát lác trong cuộc họp
toàn trấn như thế đấy. Nhưng chính quyền Xô viết có trao cho ông ta những quyền
hành như thế không? Vấn đề là ở chỗ ấy! Có lẽ chẳng làm gì có giấy uỷ nhiệm cho
làm những việc như thế, cho đối xử với tất cả mọi người đồng loạt như nhau. Cô-
dắc thì cũng có năm bảy đường Cô- dắc…
Da trên hai gò má Stokman nhăn nhúm
lại.
- Tôi đã nghe anh nói rồi, bây giờ
anh hãy nghe tôi nói đây.
- Cũng có thể là tôi hồ đồ, nói năng
có điều không đúng, đồng chí cũng thứ lỗi cho tôi.
- Thôi hượm đã, hượm đã… Thế nầy
nầy. Những điều anh vừa kể. Về cái anh chàng chính uỷ nào ấy đúng là không thật
như thế đâu. Tôi sẽ thẩm tra lại chuyện ấy. Và nếu đúng như thế, nếu quả thật
hắn có làm nhục người Cô- dắc và chuyên quyền làm bậy, chúng tôi sẽ không tha
thứ cho hắn đâu.
- Ồ cần gì phải thế?
- Không phải là cần gì phải thế, mà
đích xác phải thế mới được! Hồi mặt trận tràn đến thôn các anh, chẳng phải anh
em Hồng quân đã xử tử một chiến sĩ trong đơn vị của họ về tội cướp của một
người đàn bà Cô- dắc hay sao? Chuyện nầy bà con thôn anh đã kể cho tôi nghe
đấy.
- Phải, phải! Hắn ta đã lục trong
cái rương của nhà vua Perfilevna. Có chuyện như thế đấy. Đúng là như thế đấy!
Điều đó thì tất nhiên… Nghiêm lắm. Chuyện nầy đồng chí nói là đúng. Hắn ta đã
bị xử bắn đằng sau những cái sân đập lúa. Sau đó bà con trong thôn cứ bàn nhau
mãi xem nên đem hắn ta đi chôn ở đâu. Có người bảo đem chôn ở nghĩa dịa. Song
những người khác lại không nghe, nói rằng như thế thì sẽ làm ô uế nơi đó. Vì
thế người ta đào hố chôn hắn ta, cái anh chàng bất hạnh ấy, ở ngay bên cạnh một
cái sân đập lúa.
- Đã có một chuyện như thế phải
không? - Stokman vội vã cuốn một điếu thuốc.
- Có có, tôi không bảo là không có,
- Gã Cô- dắc đồng ý ngay, vẻ mặt hoạt bát hẳn lên.
- Thế thì tại sao anh lại nghĩ rằng
chúng tôi sẽ không trừng trị cái anh chàng chính uỷ kia nếu đã xác định là hắn
có tội?
- Đồng chí thân mến ạ! Có lẽ các
đồng chí không tìm đâu ra ở chỗ các đồng chí một người nào cao cấp hơn ông ta
đâu. Phải thấy một đằng là binh bét, còn một đằng lại là chính uỷ…
- Như thế thì mức đòi hỏi đối với
hắn càng phải cao hơn? Anh đã hiểu chưa? Chính quyền Xô viết chỉ trấn áp kẻ thù
thôi. Những người đại diện nào của chính quyền Xô viết mà không công bằng, mà
xúc phạm đến nhân dân lao động, thì chúng tôi sẽ trừng trị thẳng tay.
° ° °
Trong bầu không khí lặng lờ của buổi
giữa trưa tháng Ba trên đồng cỏ, chỉ nghe thấy tiếng đòn trượt tuyết rít và
tiếng vó ngựa dẫm lõm bõm. Chợt có tiếng đạn pháo nổ ầm ầm như núi lở. Sau loạt
đạn đầu tiên lại tiếp luôn ba loạt nữa với những khoảng cách đều nhau. Đại đội
pháo ở thôn Krutovsky lại tiếp tục bắn phá bên tả ngạn.
Câu chuyện trên chiếc xe trượt tuyết
bị ngừng lại. Tiếng đạn pháo bất thần vang lên mạnh mẽ theo một âm giai khác
hẳn đã phá tan bầu không khí mộng ảo thẫn thờ của đồng cỏ mơ màng mệt mỏi lúc
trời sắp sang xuân. Hai con ngựa nhanh nhẹn vẫy vẫy tai, nhẹ nhàng giậm chân
xuống đất, bước dài hơn, đều hơn.
Khi ra đến con đường của các vị
Ghet- man, trước mắt bốn người ngồi trên xe đã thấy hiện ra một vùng bát ngát
bên sông Đông, loang lổ lấm tấm với những đám cát vàng đã tan tuyết lộ ra như
những cái đầu trọc, những mũi đất nhô ra và những rừng liễu và xích dương xanh
xanh xám xám nom như những hòn đảo nhỏ.
Tới Ust- Khopeskaia, gã đánh xe cho
ngựa chạy tới ngôi nhà dùng làm trụ sở Uỷ ban quân sự cách mạng. Ban chỉ huy
trung đoàn Moskva đóng ngay bên cạnh.
Stokman thọc tay vào túi, lấy trong
cái túi đựng thuốc lá ra một tờ giấy bạc Kerensky bốn mươi rúp, đưa cho gã Cô-
dắc. Gã cười nở mặt nở mày, nhe cả mấy cái răng vàng vàng dưới hàng ria ướt
đẫm, rồi luống cuống ngập ngừng nói:
- Sao lại thế, đồng chí, lạy Chúa
tôi! Tiền nong làm gì?
- Cứ cầm lấy đi, hai con ngựa của
anh đã nai lưng kéo xe. Còn đối với chính quyền thì anh đừng có hoài nghi gì
cả. Anh hãy nhớ rằng chúng tôi chiến đấu cho chính quyền của thợ thuyền và dân
cày. Song các kẻ thù của chúng ta: những tên kulak, ataman, sĩ quan đẩy các anh
đi theo bọn phiến loạn. Chính chúng nó là nguyên nhân căn bản làm nổ ra các
cuộc nổi loạn. Còn nếu trong chúng tôi có người nào không công bằng, xúc phạm
đến nhân dân lao động Cô- dắc, đến những người đồng tình với chúng tôi, giúp đỡ
cách mạng, thì sẽ có thể tìm ra cách trừng trị những kẻ áp bức xúc phạm như
thế.
- Có lẽ đồng chí cũng biết câu tục
ngữ: trời thì cao và vua thì xa… Vua của các đồng chí cũng xa lắm lắm… Gặp kẻ
mạnh chớ đọ sức, gặp kẻ lắm tiền chớ dây chuyện quan nha. Mà các đồng chí thì
vừa mạnh, lại vừa lắm tiền. - Nói đến gã nhe răng cười với vẻ mặt rất giảo
quyệt - Xem đồng chí đấy, đồng chí cho tôi bốn mươi đồng, tròng khi tiền xe quá
lắm chỉ năm đồng là cùng. Thôi, cầu Chúa che chở!
- Đồng chí ấy cho anh như thế vì câu
chuyện lúc nãy đấy, - Miska Kosevoi mỉm cười nhảy trên xe xuống rồi vừa rũ quần
vừa nói, - và vì bộ râu đẹp của anh nữa. - Cái anh chàng ngốc nghếch nầy, anh
có biết anh vừa đánh xe cho ai đấy không? Một ông tướng Hồng quân đấy.
- Thế à?
- Lại còn "thế à"! Người
với ngợm như anh! Cho ít thì sẽ rêu rao khắp nơi: "Đấy, đánh xe cho một
ông đồng chí, thì cho một tờ năm đồng, lại còn thế nầy thế nọ!" Rồi sẽ là
tức tối bực dọc suốt một mùa đông cho mà xem. Nhưng nếu cho nhiều thì cũng lại
nói: "Xem đấy, họ lắm tiền chưa! Một chuyến cho cả bốn mươi đồng. Tiền
tiêu như rác…" Như tôi thì một xu tôi cũng chẳng cho? Mặc cho oán thán thế
nào thì oán thán. Vì đằng nào anh cũng không vừa ý cơ mà. Thôi, ta vào đi… Tạm
biệt nhé, anh bạn râu xồm!
Thấy Miska tuôn ra một tràng sôi nổi
như thế, Kotliarov đang cau cau có có cuối cùng cũng phải tủm tỉm cười.
Một chiến sĩ của đội trinh sát kỵ
binh cưỡi một con ngựa nhỏ lông dài giống Sibiri chạy từ trong sân nhà ban chỉ
huy trung đoàn ra.
- Xe trượt tuyết từ đâu đến đấy? -
Người chiến sĩ thu ngắn dây cương quay phắt ngựa hỏi to.
- Đồng chí có việc gì thế? - Stokman
hỏi.
- Tải đạn lên Krutovsky. Cho xe vào đây!
- Không, đồng chí á, cái xe nầy
chúng tôi cho về rồi.
- Nhưng các đồng chí là ai?
Người chiến sĩ Hồng quân, một chàng
thanh niên rất đẹp trai, cho ngựa tiến sát tới gần.
- Chúng tôi thuộc trung đoàn
Damursky. Đồng chí đừng giữ cái xe nầy lại.
- À. Thế thì được, thôi cho đi. Đánh
xe đi, ông lão.
--- ------ ------ ------ -------
1 Vua Nga
vừa bị truất ngôi (ND).
2 Cả ba từ
nầy đều hàm nghĩa là "tay dài", "Dolgorukov" còn hàm nghĩa
là "tham quan". (ND).
3 (1605 -
1681), đại chủ giáo Moskva, năm 1654 triệu tập hội nghị tôn giáo tại Moskva
định ra những sự cải cách trong nghi thức làm lễ và trong kinh bổn, gây ra một
sự phân biệt trong nhà thờ của nước Nga, bị chính quyền vua Nga cách chức năm
1680 (ND).
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 160
Sau khi điều tra thì thấy ở trấn
Ust- Khopeskaia không thành lập được một đội nghĩa dũng nào. Kể ra cũng có tổ
chức được một đội, nhưng không phải ở Ust- Khopeskaia, mà ở Bukanovskaia.
Người thành lập đội nầy lại chính là
anh chàng chính uỷ Mankin mà gã Cô- dắc cựu giáo đã nói tới trong khi đi đường.
Mankin đã được bộ tư lệnh Tập đoàn quân Hồng quân số 9 cử đến các trấn vùng hạ
du sông Khop. Những người đảng viên cộng sản và cán bộ chính quyền Xô viết ở
các trấn Elanskaia, Bukanovskaia, Slasevskaia và Kumyngienskaia, có một số
chiến sĩ Hồng quân đến bổ sung, đã tổ chức được một đơn vị chiến đấu khá mạnh
gồm hai trăm tay súng cùng vài chục tay gươm của đội trinh sát kỵ binh phối
thuộc với họ.
Đội nghĩa dũng nầy tạm thời đóng ở
Bukanovskaia cùng một đại đội của trung đoàn Moskva để chặn quân phiến loạn
đang cố tấn công xuống từ các miền thượng lưu hai con sông Elanca và Dimovna.
Sau khi nói chuyện với trưởng ban
tham mưu, một sĩ quan chủ lực cũ mặt mũi cau có, tính tình nóng nảy, và chính
uỷ, một công nhân Moskva trước kia làm ở nhà máy Mikhenxon, Stokman quyết định
ở lại Ust- Khopeskaia, gia nhập tiểu đoàn hai của trung đoàn. Stokman đã nói
chuyện rất lâu với chính uỷ trong một căn phòng nhỏ khá sạch sẽ đầy những bó xà
cạp, những cuộn dây điện thoại và những thứ đồ quân dụng khác. Người chính uỷ
lùn choằn choằn, da mặt vàng ệch, đang khổ vì những cơn đau ruột thừa. Anh nói
giọng chậm rãi:
- Đồng chí thấy không, đây là một bộ
máy rất phức tạp. Phần lớn các anh em ở chỗ tôi là dân Moskva và Ryazan, một số
ít ở Nizegrod. Các anh em nầy rất kiên cường, phần lớn là công nhân. Nhưng ở
đây cũng có một đại đội kỵ binh, thuộc sư đoàn Mười bốn, toàn là những tạy tự
do vô kỷ luật. Chúng tôi đã phải trả họ về Ust- Medvediskaia… Đồng chí hãy ở
lại đây, công việc nhiều lắm. Cần phải làm công tác trong dân chúng, phải giải
thích. Đồng chí cũng rõ đấy, cái dân Cô- dắc nầy… ớ đây cần phải đề phòng, phải
lắng tai nghe ngóng mới được.
Hai con mắt người chính uỷ nom rất
đau khổ, lòng trắng vàng khè. Stokman nhìn cặp mắt ấy, mỉm cười trước cái giọng
kẻ cả của anh ta và nói:
- Tất cả các chuyện ấy, tôi cũng
hiểu rõ không kém gì đồng chí đâu. Nhưng đồng chí hãy bảo cho tôi biết đồng chí
chính uỷ ở Bukanovskaia là một người như thế nào?
Người chính uỷ vuốt bộ ria xám xám
tỉa ngắn, lởm xởm như bàn chải, trả lời bằng một giọng thẫn thờ, lâu lâu mới
ngước hai hàng mi quầng xanh, trong trong, nhìn lên:
- Ở bên ấy, có một thời gian đồng
chí ấy đã quá mạnh tay. Kể ra cũng là một anh chàng tốt, nhưng không nhận thức
được đặc biệt rõ ràng tình hình chính trị. Nhưng dù sao chặt cây cũng không thể
nào tránh khỏi văng cành… Hiện nay đồng chí ấy đang bắt đàn ông trong dân các
trấn chuyển vào sâu trong nước Nga… Đồng chí hãy qua quản lý, hắn sẽ ghi danh
sách tính sinh hoạt phí cho các đồng chí. - Người chính uỷ vừa cau mày nói một
cách đau khổ, vừa dùng một tay kéo cái quần bông nhớp nhúa.
Sáng hôm sau, tiểu đoàn Hai nghe
thấy hiệu kèn "Cầm súng" bèn chạy ra tập họp điểm danh. Một giờ sau
tiểu đoàn đã tiến về phía thôn Krutovsky theo đội hình hành quân. Stokman,
Miska và Kotliarov cùng đi trong một hàng bốn người.
Đến Krutovsky, một đội trinh sát kỵ
binh được phái sang bên kia sông Đông. Đội hình hành quân của tiểu đoàn bám sát
phía sau để vượt sông. Nước đọng từng vũng trên con đường đất nhão, đầy những
dòng nước phân gia súc nâu nâu. Băng trên mặt sông toàn một màu xanh đục, lỗ
chỗ bọt nước. Các chiến sĩ lót hàng rào lên những khoảng nước không lớn lắm ven
sông để đi qua. Sau lưng họ, từ trên ngọn núi, đại đội pháo nã từng loạt đạn
vào các lùm cây trong các khu rừng tiêu huyền ven thôn, có thể nhìn thấy sau
thôn Elansky. Tiểu đoàn có nhiệm vụ vượt qua thôn Elansky mà quân Cô- dắc vừa
rút bỏ, để tiến về hướng trấn Elanskaia và đánh chiếm thôn Antônov sau khi bắt
liên lạc với đại đội của tiểu đoàn một tấn công từ Bukanovskaia tới. Theo mệnh
lệnh tác chiến, tiểu đoàn trưởng phải cho đơn vị tiến theo hướng thôn
Betborodov. Chẳng mấy chốc trinh sát kỵ binh đã về báo cáo rằng họ không phát
hiện thấy địch ở Betborodov, nhưng bên phải thôn chừng bốn vec- xta, có những
tiếng súng trường bắn rất dày.
Đạn pháo binh bay rất cao qua đầu
các đội hình hàng dọc của Hồng quân kèm theo những tiếng rít, tiếng rú. Những
tiếng nổ cách đó không xa của đạn trái phá làm rung chuyển cả mặt đất. Phía
sau, băng nứt răng rắc trên sông Đông. Kotliarov quay đầu nhìn lại.
- Có lẽ nước đang lên.
- Bây giờ mà vượt sông Đông thì cũng
chẳng thú gì. Băng sẽ tan lúc nào không biết, - Miska lầu bầu có vẻ bực bội.
Anh chàng chưa làm thế nào quen được với bước chân của bộ binh, vẫn chưa đi
được dứt khoát và đúng chân.
Stokman nhìn những cái dây lưng
nhằng nhịt dây đeo của những người đi trước, những nòng súng trường đưa đi đưa
lại đều đặn cùng với những cái lưỡi lê màu xám khói, nước bám lấm tấm như mồ
hôi. Anh quay đầu nhìn lại thấy những khuôn mặt nghiêm trang và bình thản của
các chiến sĩ Hồng quân, những khuôn mặt khác nhau mà cũng giống nhau lạ lùng,
thấy những cái mũ xám đính ngôi sao đỏ năm cánh ngật ngưỡng theo nhịp chân,
những chiếc áo ca- pốt xám cũ quá đã vàng khè, còn những chiếc nào mới hơn thì
màu sáng hơn và sần sùi. Anh nghe thấy tiếng những bước chân viễn chinh nặng nề
của đoàn người đang dẫm lõm bõm, tiếng nói chuyện trầm trầm, tiếng ho đủ các
giọng, tiếng bình toong đập lanh canh. Anh ngửi thấy mùi ủng ẩm ướl, mùi thuốc
lá hạng tồi, mùi dây đeo đạn. Anh dõi mắt cố đi cho khỏi nhầm chân, và cảm thấy
trong lòng mình dạt dào những tình cảm rất ấm cúng đối với những anh em mà hôm
qua mình còn chưa quen, bụng bảo dạ: "Hay thật, không hiểu sao trong lúc
nầy mình lại đặc biệt thấy yêu, thấy thương những anh chàng nầy như thế? Không
hiểu có cái gì ràng buộc mình với họ! Chà, lý tưởng chung chứ còn gì nữa?
Không, có lẽ đây không phải là lý tưởng, mà còn là sự nghiệp. Nhưng còn gì nữa
không? Có lẽ còn có hoàn cảnh cùng ở gần sự nguy hiểm, gần cái chết? Nhưng
không hiểu sao lại thân thiết một cách đặc biệt như thế nầy… - Rồi một nét cười
chế nhạo thoáng hiện trong con mắt anh. - Chẳng nhẽ mình đã già mất rồi?"
Stokman có một cảm giác sung sướng
tương tự như cảm giác của một người cha khi nhìn cái lưng cánh phản, rất thẳng,
rất khỏe và khoanh cổ hồng hào, căng tròn hở ra giữa cổ áo và cái mũ của người
chiến sĩ Hồng quân đi trước mắt anh. Anh đưa mắt nhìn người đi bên cạnh, thấy
một khuôn mặt cạo nhẵn nhụi, da ngăm ngăm với những đám hồng hồng đầy sức sống,
cặp môi mỏng và dũng cảm, và cái thân hình cao lớn nhưng cân đối như một con bồ
câu. Người chiến sĩ đi gần như không vung bên tay không giữ súng, mắt lúc nào
cũng nheo nheo khó chịu, đuôi mắt có những vết nhăn như mạng nhện của người
già. Stokman bỗng cảm thấy muốn bắt chuyện.
- Đồng chí vào bộ đội đã lâu chưa?
Cặp mắt màu nâu nhạt của người chiến
sĩ đi bên cạnh liếc nhanh nhìn khắp người Stokman, ánh mắt lạnh lùng và thăm
dò.
- Từ năm Một nghìn chín trăm mười
tám, - Anh ta trả lời qua kẽ răng.
Câu trả lời dè dặt ấy không làm
Stokman nản lòng.
- Đồng chí quê ở đâu thế?
- Bố già định tìm đồng hương à?
- Nếu gặp được đồng hương thì thú
lắm.
- Tôi là dân Moskva.
- Công nhân à?
- Phải.
Stokman đưa nhanh mắt xuống nhìn bàn tay người đi bên cạnh.
Thời gian còn chưa xoá nhoà dấu vết của những ngày làm đồ
sắt.
- Thợ kim khí à?
Cặp mắt nâu nâu kia lại lướt trên mặt Stokman, trên bộ
râu đã hơi hoa râm của anh.
- Thợ tiện kim khí. Đồng chí cũng thế à?
Anh nghiêm khắc trong đuôi con mắt nâu nâu tựa như ấm
lại.
- Trước kia tôi là thợ nguội… Nhưng tại sao đồng chí cứ
nhăn nhăn nhó nhó thế?
- Ủng hong quá khô, bị sát chân. Đêm qua tôi nằm ở vọng
tiêu bí mật, bị ẩm chân.
- Đồng chí không sợ à? - Stokman mỉm cười, vẻ thông cảm.
- Sợ cái gì cơ chứ?
- Còn sao nữa, chúng mình đang đi vào một trận đánh…
- Tôi là một đảng viên cộng sản.
- Thế đảng viên cộng sản không sợ chết hay sao? Không
phải là người hay sao? - Miska nói xen vào câu chuyện.
Người đi bên cạnh Stokman xốc lại rất nhanh khẩu súng trường,
ngẫm nghĩ một lát rồi trả lời, nhưng văn không nhìn Miska:
- Người anh em ạ, cậu còn chưa đi sâu vào các chuyện như
thế nầy. Tôi thì không thể nào sợ được. Tự mình phải ra lệnh cho mình, cậu hiểu
không? Tay chưa đeo găng sạch thì chớ tìm cách mò mẫm trong tâm hồn tôi… Tôi
biết tôi chiến đấu vì cái gì và chiến đấu chống lại kẻ nào, tôi biết rằng chúng
ta sẽ chiến thắng. Mà đó là điều chủ yếu. Ngoài ra tất cả đều không đáng kể. -
Anh ta mỉm cười như với một hồi ức nào đó, rồi đưa mắt nhìn nghiêng khuôn mặt
của Stokman và nói - Năm ngoái tôi tham gia chi đội của Kraxavchev ở Ukraina,
hồi ấy đang có chiến đấu. Chúng tôi đã luôn luôn bị đánh lui. Tổn thất nhiều.
Thương binh bắt đầu bị bỏ lại. Nhưng đến một nơi gần Zomerinka, chúng tôi bị
bao vây. Phải lợi dụng đêm tối vượt qua trận tuyến của bọn Trắng, phá nổ một
cái cầu trên con sông nhỏ trong hậu phương của chúng nó để chặn xe lửa thiết
giáp của chúng nó, vì chúng ta phải vượt qua một đoạn đường sắt. Cấp trên kêu
gọi người tình nguyện. Nhưng không ai đứng ra. Các đảng viên cộng sản, hồi ấy
không đông lắm, bèn nói: "Sẽ rút thăm xem trong số chúng ta ai sẽ
đi". Tôi nghĩ đi nghĩ lại thế nào bèn xin đi. Tôi mang thuốc nổ, dây cháy
chậm, một bao diêm, từ biệt các đồng chí rồi ra đi. Đêm đã tối lại có sương mù.
Đi được chừng một trăm xa- gien thì phải bò. Bò qua một khoảng lúa mạch đen
chưa gặt rồi xuống một cái rãnh. Tôi còn nhớ lúc bắt đầu bò từ dưới cái rãnh
lên đã có một con chim không biết con gì bay vụt ngay từ dưới mũ tôi lên. Pha-
a- ải… Tôi bò cách vọng gác của địch mười xa- gien, lần tới được cái cầu. Quân
địch có một vọng tiêu súng máy bảo vệ cầu. Tôi nằm chừng hai tiếng đồng hồ chờ
đến lúc có thể hành động rồi đặt thuốc nổ và kéo tà áo che để đánh diêm, nhưng
diêm bị ẩm không cháy. Vì tôi bò sấp, nên sương thấm vào người, đến vắt được ra
nước, các đầu diêm đều ẩm sì. Thế rồi, bố già ạ, lúc ấy tôi bắt đầu thấy sợ.
Trời đã sắp hửng, tay tôi run lên, mồ hôi đầm đìa, chảy cả vào mắt. Tôi nghĩ
thầm: "Hỏng bét rồi" nhưng lại tự nhủ: "Nếu không phá nổ mình sẽ
tự cho mình một phát!" Hỳ hục mãi, hỳ hục mãi, rồi cuối cùng vẫn đốt được,
sau đó tôi bỏ chạy. Khi phía sau có tiếng nổ tôi đã núp được sau nền đường sắt,
dưới chân những bảng tín hiệu.
Quân địch kêu rầm lên. Chúng nó báo động. Hai khẩu súng
máy bắn loạn xạ. Nhiều thằng kỵ binh phi ngựa qua chỗ tôi, nhưng giữa đêm lối
thì tìm được cái gì? Tôi rời khỏi chỗ những cái bảng tín hiệu, xuống được đồng
lúa. Và mãi đến lúc ấy, bố già có biết không, chân tay tôi mới rã rời, không
động đậy được nữa, thật là tai hại! Tôi đành nằm lại đấy. Lúc đi đến nơi thì
chẳng sao cả, tinh thần hoàn toàn vững vàng nhưng xong việc trở về thì lại thế
nầy… Và bố già có biết không, tôi bắt đầu ọe, có bao nhiêu nôn thốc ra kỳ hết!
Tôi đã cảm thấy rằng trong bụng không còn chút gì nữa, thế mà vẫn cứ nôn. Đúng
thế đấy… Nhưng tất nhiên cuối cùng tôi vẫn về được với anh em. - Anh chàng sôi
nổi hẳn lên, hai con mắt mầu nâu sáng từng lên một ánh ấm áp và đẹp ra một cách
lạ lùng. - Đến sáng, sau trận chiến đấu, tôi kể lại cho anh em nghe cái tiết
mục mà bao diêm đã diễn ra với tôi, nhưng một thằng bạn của tôi bảo: "Thế
cái bật lửa, cậu đánh mất rồi à, Sergey?" Tôi đưa tay lên túi ngực thì vẫn
thấy nó còn đấy! Tôi lấy nó ra, bật một cái, bố già có tưởng tượng được không,
lập tức cháy ngay.
Từ đám tiêu huyền đằng xa bị gió thổi rạp, nom như một
hòn đảo, có hai con quạ đen bay vụt lên rất cao, rất nhanh. Gió thổi hai con
chim bay dạt đi từng đợt. Đến khi chúng chỉ còn cách đội hình của đại đội chừng
một trăm xa- gien, khẩu pháo đặt trên ngọn núi của thôn Krutovsky lại bắt đầu
nhả đạn sau một giờ nghỉ. Quả đạn pháo bắn điều chỉnh bay tới mỗi lúc một gần,
tiếng rú mỗi lúc một to. Khi tiếng rú hình như đã lên tới mức cao nhất, thì một
trong hai con quạ, con bay cao hơn bỗng nhiên quay tròn một cách điên cuồng như
một mảnh vỏ bào bị cuốn trong cơn gió lốc, rồi nó xả chếch hai cánh, lộn xuống
theo đường trôn ốc tuy vẫn còn cố lấy thăng bằng, và cuối cùng rơi thẳng xuống
như một tầu lá đen rất to.
- Lao đầu vào Diêm vương rồi! - Một chiến sĩ Hồng quân đi
sau Stokman kêu lên một cách khoái trá. - Quả đạn làm nó quay lộn có ghê không,
hay thật!
Đại đội trưởng phi ngựa từ trên đầu đội hình xuống. Tuyết
dang tan dở bắn tung từ phía dưới bốn vó con ngựa cái cao lớn lông nâu đen, mũi
và bẹn loang trắng.
- Tản khai!
Ba chiếc xe trượt tuyết chở súng máy chạy phóng qua, hất
những đám tuyết vào đầy người Kotliarov từ nãy vẫn ngậm tăm cắm cúi đi.
Ba chiếc xe chạy long xòng xọc. Một
chiến sĩ súng máy ngã lộn xuống từ chiếc xe cuối cùng. Các chiến sĩ Hồng quân
cười rộ lên một cách thích thú cho đến khi anh chàng đánh xe vừa văng tục vừa
quay quắt hai con ngựa chạy đương hăng, cho người chiến sĩ vừa ngã lại nhảy lên
được chiếc xe đang chạy.
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 161
Trấn Karginskaia đã trở thành điểm
tựa của sư đoàn phiến loạn số 1. Sau khi cân nhắc đầy đủ về ưu thế chiến lược
của trận địa ở gần Karginskaia, Grigori Melekhov đã quyết định là trong bất kỳ
trường hợp nào cũng không để mất trấn nầy. Các ngọn núi kéo dài trên bờ bên
trái sông Tria là những cao địa khống chế đem lại cho quân Cô- dắc khả năng
phòng thủ rất tốt. Thị trấn Karginskaia nằm ở bên dưới, bên kia sông Tria, sau
đó là đồng cỏ nằm trải dài về phía nam như một tấm thảm mịn màng, thỉnh thoảng
lại có cái khe hay dải đất trũng cắt ngang. Trên ngọn núi, Grigori đã tự mình
chọn vị trí, đặt một đại đội pháo gồm ba khẩu đội. Gần đấy có vị trí quan trắc
rất tốt là một nấm Kurgan đắp cao khống chế cả vùng chung quanh, lại có một
rừng sồi và những nếp đất nhấp nhô che chở.
Gần như ngày nào cũng có những trận
đánh diễn ra ở gần Karginskaia. Hồng quân thường tấn công từ hai phía: một đằng
từ phía nam qua đồng cỏ, về phía một làng của dân ngụ cư Ukraina tên là
Axtaknovo; một đằng từ phía đông, tiến ngược theo sông Tria về phía trấn
Bokovskaia, qua những thôn Cô- dắc nối tiếp nhau. Các tuyến phòng ngự của quân
Cô- dắc được đặt cách Karginskaia một trăm xa- gien, chúng rất ít khi bắn trả.
Gần như bao giờ hoả lực ác liệt của Hồng quân cũng bắt chúng phải rút lui về
trấn, rồi men theo những cái khe vừa hẹp vừa dốc leo lên núi. Nhưng Hồng quân
không có đủ lực lượng để đuổi theo. Số lượng kỵ binh cần thiết không có đủ đã
ảnh hưởng xấu tới kết quả của các chiến dịch tấn công. Có đủ kỵ binh thì sẽ có
thể vận động vu hồi bên sườn, bắt quân Cô- dắc phải rút xa hơn nữa và thu hút
lực lượng của chúng, giúp cho các đội bộ binh do dự giậm chân tại chỗ ở các
đường vào trấn có thể rảnh tay hoạt động. Cả bộ binh cũng không thể tận dụng để
tiến hành lối chiến đấu vận động như thế vì thiếu linh hoạt, không có khả năng
di chuyển mau lẹ, và cũng vì quân Cô- dắc chiếm ưu thế về kỵ binh, bất cứ lúc
nào cũng có thể bôn tập tấn công vào bộ binh, nhờ đó không để cho bộ binh hoàn
thành nhiệm vụ cơ bản.
Ưu thế của quân phiến loạn còn ở chỗ
chúng rất thuộc địa thế nên thường không bỏ lỡ những cơ hội có thể điều những
đại đội kỵ binh tiến theo những khe núi tập kích vào sườn và phía sau quân
địch, luôn luôn uy hiếp địch và làm quân địch bị tê liệt không tiến thêm được.
Hồi ấy Grigori đã nghĩ chín một kế hoạch đánh tan lực lượng Hồng quân mà chàng
đang phải đối phó. Chàng dự định giả vờ rút lui để dụ Hồng quân tiến vào
Karginskaia, nhưng đồng thời phái Riaptrikov đem một trung đoàn kỵ binh vận
động theo khe Gunxynskaia từ phía tây, và theo thôn Gratri từ phía đông, đánh
vào sườn Hồng quân, bao vây họ và giáng một đòn chí mạng. Kế hoạch đã được
nghiên cứu rất cẩn thận. Trong một cuộc hội nghị vào buổi chiều, bọn chỉ huy
các đơn vị độc lập đã nhận được những chỉ thị và mệnh lệnh tỉ mỉ. Theo ý
Grigori, vận động bao vây sẽ phải bắt đầu từ lúc tờ mờ sáng để có thể giữ bí
mật tới mức cao nhất. Tất cả đều đơn giản như trong một ván cờ. Sau khi đã kiểm
tra thật cẩn thận, và điểm lại trong óc tất cả tình huống bất ngờ có thể xảy
ra, tất cả những điều chưa dự tính có thể trở ngại việc thực hiện kế hoạch của mình,
Grigori uống hai cốc rượu đế rồi không cởi quần áo, nằm lăn xuống giường, kéo
vạt áo ca- pốt ẩm xì trùm lên đầu, đánh một giấc như chết.
Hôm sau, mới gần bốn giờ sáng các
tuyến chiến đấu của Hồng quân đã chiếm được Karginskaia. Một phần của bộ binh Cô-
dắc chạy qua thị trấn lên núi để đánh lạc hướng mục tiêu. Một chiếc xe ngựa
quay ngựa một cách táo bạo ở lối vào Karginskaia, để hai khẩu súng máy nặng đặt
trên xe tằng tằng bắn đuổi theo chúng, Hồng quân từ từ tiến vào các phố.
Lúc ấy Grigori đang có mặt ở sau nấm
Kurgan, bên cạnh đại đội pháo. Chàng nhìn thấy bộ binh Hồng quân chiếm lĩnh
Karginskaia và tập kết ở gần sông Tria. Trước đó đã có ước định là sau đợt hoả
lực pháo binh đầu tiên, hai đại đội Cô- dắc sẽ bố trí trong các mảnh vườn dưới
chân núi, đồng thời trung đoàn chịu trách nhiệm vu hồi sẽ bắt đầu vận động bao
vây. Tên đại đội trưởng đại đội pháo muốn dùng lối nhằm trực tiếp bắn vào một
chiếc xe ngựa chở súng máy đang phóng như bay trên cái gò Klimovsky xuống
Karginskaia. Nhưng giữa lúc ấy tên quan trắc viên báo cáo rằng trên cái cầu của
thôn Hạ Latysevsky, cách đấy chừng ba vec- xta, phát hiện thấy một khẩu pháo:
Hồng quân đồng thời tấn công cả hướng Bokovskaia.
- Lấy súng cối giã cho chúng nó một
trận, - Grigori góp ý, mắt vẫn không rời chiếc ống nhòm kiểu Zeis.
Gã giữ máy nhằm trao đổi vài câu với
tên quản nắm quyền chỉ huy đại đội pháo, rồi loáng một cái đã xác định xong
thành phần xạ kích. Bọn xạ thủ chuẩn bị xong, khẩu súng cối mà bọn Cô- dắc gọi
là bốn đi- um rưỡi nặng nề gầm lên, đuôi bàn đế cày nát cả mặt đất.
Nhưng mới bắn phát đầu tiên mà đã
trúng ngay đầu cầu. Giữa lúc ấy khẩu đội thứ hai của đại đội pháo Hồng quân
đang tiến lên cầu. Quả đạn đã quét bay cỗ xe ngựa. Sau nầy hỏi ra thì được biết
rằng trong sau con chỉ sống sót có một, nhưng người chiến sĩ gịữ ngựa cưỡi con
nầy đã bị một mảnh đạn phạt ngọt mất cái đầu. Grigori nhìn thấy một đám khói
lớn vàng vàng xám xám bốc lên phía trước khẩu pháo rồi nặng nề nở to ra. Mấy
con ngựa đứng chồm thẳng lên giữa đám khói rồi lăn vật xuống như bị cắt ngang.
Người thì vừa chạy vừa ngã. Người chiến sĩ Hồng quân cưỡi ngựa đang ở bên cạnh
phần trước khẩu pháo trong lúc quả đạn súng cối rơi xuống bị hất bổng lên, ném
xuống băng cùng với con ngựa và một đoạn lan can cầu.
Bọn Cô- dắc trong đại đội pháo không
ngờ bắn được một phát trúng đích ngay như thế. Tất cả lặng đi một phút dưới
chân nấm kurgan bên cạnh khẩu pháo. Chỉ có gã quan trắc ở cách đấy không xa là
quỳ dậy vung tay loạn xạ và kêu lên không biết những gì.
Và lập tức ở bên dưới, từ trong khu
rừng ven thôn và những khu vườn anh đào rậm rạp, nhao nhao vẳng lên những tiếng
"hu- ra" và những tiếng súng ttường nổ lúc mau lúc thưa. Grigori quên
cả thận trọng, chạy luôn lên nấm Kurgan. Các chiến sĩ Hồng quân chạy theo các
dãy phố, từ dưới đó vẳng lên những tiếng nói lao xao, những khẩu lệnh chỉ huy
giật giọng, những đợt súng bắn dồn dập.
Một trong những chiếc xe ngựa chở
súng máy đã xông lên gò, nhưng ngay lúc đó, ở gần nghĩa địa, một khẩu súng máy
đã quay ngoắt lại nhằm vào những tên Cô- dắc đang chạy từ trong các khu vườn
ra, bắn qua đầu các chiến sĩ Hồng quân rạp mình xuống chạy.
Grigori đăm đăm quan sát đường chân
trời, chỉ mong mau chóng nhìn thấy đội hình tấn công của kỵ binh Cô- dắc. Kỵ
binh dưới quyền chỉ huy của Riaptrikov đã bắt đầu vận động vu hồi nhưng vẫn còn
chưa thấy xuất hiện. Bộ phận Hồng quân ở sườn bên trái đã chạy tới cái cầu bắc
qua khe Daburun, cầu nầy nối liền thị trấn Karginskaia với thôn Arkhipovsky ở
ngay bên cạnh. Trong khi đó các chiến sĩ ở sườn bên phải đã chạy theo dọc trấn
và ngã gục dưới những làn đạn của bọn Cô- dắc chiếm lĩnh hai căn phố gần sông
Tria.
Cuối cùng từ sau ngọn gò thấy xuất
hiện đại đội đầu tiên của Riaptrikov, rồi sau đó là các đại đội thứ hai, thứ
ba, thứ tư… Các đại đội tản khai, rẽ ngoặt sang trái, cắt ngang toán Hồng quân
đang chạy theo sườn đồi về Klimovka. Grigori vò đôi găng trong tay, bồi hồi
theo dõi sự phát triền của trận chiến đấu. Chàng bỏ ống nhòm xuống, dùng mắt
nhìn những đội hình tản khai của kỵ binh lao rất nhanh tới con đường đi Klimovka.
Chàng nhìn thấy các chiến sĩ
Hồng quân quay ngược trở lại chạy về
các ngôi nhà trong thôn Arkhipovka, đội hình rối loạn, chỗ thì túm tụm từng
đám, chỗ thì từng người rời rạc. Nhưng đến đấy thì họ vấp phải hoả lực của số
bộ binh Cô- dắc truy kích ngược dòng sông Tria, vì thế lại chạy ùa ra đường
cái. Chỉ một số không đáng kể trong Hồng quân xông được về Klimovka. Cuộc đâm
chém bắt đầu diễn ra trên ngọn gò, rất lặng lẽ nên càng khủng khiếp. Các đại
đội của Riaptrikov chuyển hướng về Karginskaia rồi dồn ngược Hồng quân trở lại
như gió thu quét lá. Bên cái cầu qua khe Daburun, chừng ba chục chiến sĩ Hồng
quân thấy mình bị cắt đứt đường tiến, không còn lối thoát nữa, bèn bắt đầu bắn
trả. Họ có một khẩu trọng liên và khá nhiều băng đạn. Bộ binh của quân phiến
loạn vừa ló đầu trong các khu vườn ra thì khẩu súng máy bắt đầu hoạt động với
một tốc độ như lên cơn sốt rét. Bọn Cô- dắc ngã xuống, bò tới ẩn nấp sau những
nhà kho và những bức tường đá vây quanh những sân gia súc. Đứng trên gò có thể
nhìn thấy mấy tên Cô- dắc vừa chạy vừa lôi một khẩu súng máy chạy theo một dãy
phố ở Karginskaia. Đến bên một trong những ngôi nhà gần thôn Arkhipovka nhất,
chúng ngập ngừng một lát rồi chạy vào trong sân. Chẳng mấy chốc từ trên nóc căn
nhà kho trong cái sân ấy nổ ra những tiếng tằng tằng rất mạnh. Grigori nhìn
trong ống nhòm thấy rõ cả mấy gã súng máy. Một gã mặc chiếc quần đi ngựa rộng
thùng thình lồng trong đôi bừ tất trắng, dạng rộng chân, khom người sau lá
chắn, rồi nằm soài một mình trên mái nhà. Một tên khác leo lên cái thang với
những băng đạn quấn nhằng nhịt quanh mình. Bọn Cô- dắc trong đại đội pháo quyết
định chi viện cho bộ binh. Một loạt đạn ghém bắn trùm lên nơi tập trung của đám
Hồng quân đang chống cự. Một quả đạn phá cuối cùng nổ tách hẳn ra xa.
Mười lăm phút sau khẩu súng máy của
Hồng quân ở gần Daburunnyi bất thần lắng bặt và lập tức vang lên những tiếng
"hu- ra" ngắn ngủi. Những cái bóng của bọn kỵ binh Cô- dắc lấp loáng
sau những thân liễu trần trụi.
Tất cả thế là xong.
Theo lệnh của Grigori, dân chúng Karginskaia và
Arkhipovka đã dùng những cái móc và câu liêm lôi xác của một trăm bốn mươi bảy
chiến sĩ Hồng quân bị chém chết xuống một cái hố chung rồi vùi nông toen hoẻn ở
ngay bên cạnh khe Daburunnyi. Riaptrikov cướp được sáu chiếc xe hai bánh chở đạn
còn nguyên ngựa và đạn, cùng một chiếc xe bốn bánh chở một khẩu súng máy đã mất
khoá hậu. Ở Klimovka đã chiếm được bốn mươi hai chiếc xe chở đồ quân dụng. Quân
Cô- dắc chết bốn và bị thương mười lăm.
Sau trận chiến đấu, tình hình ở Karginskaia yên tĩnh được
một tuần. Quân địch chuyển sang đánh sư đoàn Hai của quân phiến loạn và chẳng
bao lâu đã dồn đuổi được sư đoàn ấy, chiếm được liền mấy thôn của trấn
Migulinskaia: thôn Alekseevsky, làng Trecnetskaia và tiến tới thôn Thượng
Trirsky.
Từ vùng dó, sáng sớm tinh sương hôm nào cũng vọng tới
tiếng đạn pháo nổ ầm ầm, song tin tức về diễn biến của các trận chiến đấu nhận
được rất muộn, không đem lại một ý niệm rõ ràng về tình thế mặt trận của sư
đoàn Hai.
Trong những ngày ấy, Grigori cố trốn chạy những ý nghĩ
đen tối, chàng tìm cách tự mình làm tê dại ý thức của mình, không cho mình suy
nghĩ về những chuyện đang xảy ra chung quanh, những việc mà mình là một kẻ tham
gia quan trọng, vì thế chàng bắt đầu rượu chè.
Quân phiến loạn thiếu bột mì một cách ghê gớm tuy chúng
có những kho lúa mì dự trữ rất lớn (các nhà máy xay không kịp cung cấp cho quân
đội, vì thế bọn Cô- dắc nhiều khi phải ăn lúa mì luộc). Nhưng chúng không hề
thiếu rượu. Rượu tự nấu lấy chẩy thành sông. Bên kia sông Đông, một đại đội của
bọn Cô- dắc thôn Dudaevsky rượu say bí tỉ rồi ngật ngưỡng lên ngựa dàn trận
xung phong, húc thẳng đầu vào súng máy và bị tiêu diệt hẳn một nửa. Các hiện
tượng say rượu ra vị trí chiến đấu trở thành chuyện thông thường. Bọn Cô- dắc
sẵn sàng kiếm rượu cho Grigori. Prokho Zykov tỏ ra đặc biệt xuất sắc trong công
tác nầy. Sau trận chiến đấu ở Karginskaia, theo yêu cầu của Grigori, hắn mang
về ba vò rượu nặng, mỗi vò đựng được đến một thùng rồi gọi vài gã hát hay tới.
Thế là Grigori cùng bọn Cô- dắc tuý luý càn khôn cho đến sáng, trong lòng sung
sướng vì cảm thấy mình không còn bị ràng buộc gì nữa, được thoát khỏi tình hình
thực tại, không còn phải suy nghĩ gì cả. Sáng hôm sau chàng lại uống thêm cho
giã rượu, nằm ngủ một giấc và đến chiều lại cảm thấy cần có bên cạnh mình những
tay hát hay, những tiếng cười nói vui nhộn, những cảnh nhảy múa chen chúc ồn
ào, tất cả những cái gì có thể tạo ra ảo tưởng của một niềm vui như thật để che
lấp cái thực tại tàn khốc mà chàng thường nhìn thấy những khi đầu óc sáng suốt.
Sau đó cái nhu cầu tìm thú say sưa đã rất nhanh chóng trở
thành thói quen. Buổi sáng, vừa ngồi vào bàn ăn, Grigori đã cảm thấy thèm có
một hớp vodka, không sao nhịn được. Chàng uống rất nhiều rượu, nhưng không hề
uống đến mất tỉnh táo, hai chân bao giờ cũng còn đứng vững. Ngay khi trời sắp
rạng, lúc những tên khác đã nôn mửa rồi ngủ gục trên bàn hay trùm áo ca- pôt
hoặc áo ngựa nằm lăn dưới sàn chàng vẫn còn giữ được vẻ ngoài tỉnh táo, mặt chỉ
có phần nhợt nhạt thêm, mắt nhìn gay gắt hơn và chốc chốc lại rủ bờm tóc trước
trán đưa hai tay lên ôm đầu.
Sau ba bốn ngày cuồng hoan thâu đêm suốt sáng, mặt chàng
đã sị ra khá nhiều, lưng gù xuống, hai đám da thâm quầng, lũng nhũng như hai
cái túi dưới hai con mắt, trong con mắt càng hay thấy bừng lên một ánh tàn bạo
vô duyên vô cớ.
Đến ngày thứ năm, Prokho Zykov mỉm một nụ cười đầy hứa
hẹn, đề nghị với chàng:
- Ở Likhovidov có một ả hay lắm, chúng ta đến đấy nhé!
Thế nào có được không? Nhưng anh Grigori Panteleevich ạ, anh chớ có ngáp mới
được. Nom cô ả ngon như một miếng dưa hấu ấy! Tuy tôi chưa được nếm mùi, nhưng
cũng biết chắc chắn như thế. Chỉ phải cái bất kham, cái con quỷ cái? Cứ như một
con ngựa rừng. Những đứa như thế thì chớ có đòi hỏi ngay, nó không để cho vuốt
ve ngay đâu. Nhưng rượu nó nấu thì chẳng đâu bằng. Tay nấu rượu cừ nhất vùng
sông Tria đấy. Chồng nó đã rút lui, đang ở bên kia sông Dones đấy - Hắn nói nốt
như chỉ tiện thể cho biết thêm.
Cả bọn kéo nhau đi Likhovidov từ lúc hoàng hôn. Cùng đi
với Grigori có Riaptrikov, Kharlampi, Ermakov, gã cụt tay Aleksey Samin và tên
Koldrat Medvedev sư đoàn trưởng sư đoàn Bốn vừa ở khu vực hắn phụ trách đến.
Prokho Zykov cho con ngựa của hắn dẫn đầu cả đoàn. Vào đến trong thôn, hắn cho
ngựa chuyển sang bước một, rẽ vào một cái ngõ, rồi đẩy một cái cửa vào sân đập
lúa. Grigori thúc ngựa đi theo. Con ngựa của chàng nhảy qua đống tuyết rất lớn
đang tan dở bên cạnh cổng. Hai chân trước của nó thụt xuống tuyết, nó hí lên
một tiếng, đứng thẳng lên, bước qua đống tuyết nằm ngang trước cổng và lấp đến
đỉnh hàng rào. Riaptrikov xuống ngựa, nắm đoạn dây cương buộc mõm dắt con ngựa
đi. Grigori và Prokho cho ngựa đi chừng năm phút qua những đống rơm và cỏ khô
rồi tiến vào một mảnh vườn anh đào trụi lá dội tiếng như thuỷ tinh. Trên trời,
cái tách màu vàng óng của vành trăng non nằm nghiêng nghiêng dốc xuống một làn
ánh sáng xanh biếc, các ngôi sao rung rinh, dệt thành một màn không khí tịnh
mịch mê hồm mà tiếng chó sủa xa xa cũng như những tiếng vó ngựa dẫm ràn rạt
không phá tan mà chỉ nhấn mạnh thêm. Một đốm lửa vàng hoe chiếu qua mảnh vườn
với những cây anh đào mọc sát sin sít và một cây táo cành đâm ngang dọc.
Prokho cúi rạp người trên yên đẩy giúp mọi người cái cửa
xép kêu ken két. Vành trăng rung rinh soi mình trong vũng nước kết băng bên
thềm. Con ngựa của Grigori dẫm một vó xuống nát mép băng trên vũng nước và đứng
lại thở. Grigori nhảy trên yên xuống, buộc dây cương lên lan can của thềm nhà,
bước vào căn phòng ngoài tối om. Riaptrikov cùng mấy gã Cô- dắc khác sau lưng
chàng nhốn nháo vừa xuống ngựa vừa hát rì rầm.
Grigori sờ soạng tìm thấy nắm đấm cửa, bước vào một căn
bếp rộng thênh thang. Một người đàn bà Cô- dắc đang đứng dựa lưng vào bếp lò
đan bít tất. Người ấy còn trẻ, thấp thấp nhưng thân hình cân đối, nom như một
con gà gô với khuôn mặt ngăm ngăm và cặp lông mày đen nổi hẳn lên. Một đứa con
gái tóc trắng phếch chừng lên mười dang tay nằm ngủ trên bếp lò. Grigori không
cởi áo ca- pôt, ngồi ngay vào bàn.
- Có vodka không?
- Không đáng chào một tiếng hay sao? - Người chủ nhà hỏi
nhưng không ngước lên nhìn Grigori mà vẫn loang loáng ngoáy những đầu kim đan.
- Nếu muốn thì chào vậy! Có vodka không?
Ả kia ngước hai hàng mi, mỉm cười với Grigori bằng cặp
mắt màu hạt dẻ tròn xoe và lắng nghe những tiếng nói lao xao và tiếng chân bước
trong phòng ngoài.
- Vodka thì có. Nhưng các anh, các ông đến nghỉ đêm có
đông không?
- Đông đấy. Cả một sư đoàn…
Từ ngưỡng cửa, Riaptrikov đã ngồi sụp xuống đập mũ lông
vào ống ủng nhảy điệu pri- xi- át- ca, thanh gươm lệt sệt trên sàn nhà. Mấy tên
Cô- dắc khác đứng ộn lại ở cửa, trong bọn có một gã cầm hai cái muỗng gỗ gõ với
nhau rất nhanh rất khéo thành một nhịp vũ rộn ràng.
Chúng cởi áo ca- pôt chất đống lên giường, còn vũ khí thì
xếp trên những chiếc ghế dài. Prokho nhanh nhẹn giúp người chủ nhà sửa soạn bàn
ăn. Gã cụt tay Aleksey Samin xuống dưới hầm nhà lấy bắp cải muối. Gã trượt chân
trên thang nên đã leo lên với những mảnh đĩa vỡ và một đống bắp cải ướt đẫm đùm
cả trong tà áo trermen.
Đến nửa đêm cả bọn đã uống hết hai thùng vodka, ngốn
không biết bao nhiêu bắp cải muối, rồi mới quyết định làm thịt một con cừu.
Prokho mò mẫm trong chồng bắt một con cừu cái tơ.
Kharlampi Ermakov vốn không phải là một tay gươm loại
xoàng. Gã dùng gươm chém phăng đầu con cừu và lập tức lột da ngay dưới nhà kho.
Ả chủ nhà nhóm lò, và đặt lên một nồi gang thịt cừu to bằng đến một thùng.
Tiếng muỗng gỗ gõ thành điệu nhảy lại nổi lên. Riaptrikov
bước ra, quay hai đầu gối ra ngoài, đập mạnh bàn tay vào ống ủng và hát lên
bằng một giọng nam cao the thé nhưng rất dễ nghe:
- Bây giờ cứ rượu, cứ chơi.
Vì bò chẳng có mà lôi về chuồng
- Mình muốn chơi cho ra chơi! - Ermakov gầm lên và cứ
muốn dùng lưỡi gươm thử xem khung cửa sổ có chắc không.
Grigori vốn rất thích Ermakov với cái tinh thần dũng cảm
đặc biệt và cái gan liền rất là Cô- dắc của hắn. Chàng bèn đập cái cốc bằng
đồng xuống bàn, ngăn hắn lại:
- Kharlampi, đừng làm bậy!
Ermakov ngoan ngoãn tra mạnh thanh gươm vào vỏ, rồi lại
gục xuống uống ừng ực một cốc rượu mạnh coi vẻ hết sức thèm khát.
- Có được một lòng dũng cảm như thế nầy thì chết cũng
không sợ - Aleksey Samin vừa nói vừa ngồi xuống bên cạnh Grigori, - anh Grigori
Panteleevich ạ, anh là niềm tự hào của chúng tôi! Chúng tôi còn sống trên đời
nầy cũng chỉ vì có anh mà thôi? Hai chúng mình sẽ uống cạn với nhau một cốc nữa
nhé! Prokho, rượu ra đây!
Mấy con ngựa chưa tháo yên cương được thả tự do bên cạnh
đống rơm. Bọn Cô- dắc thay nhau ra kiểm tra.
Mãi khi trời sắp rạng, Grigori mới cảm thấy mình hơi say.
Chàng nghe thấy tiếng nói của những tên kia như vọng tới từ một nơi xa. Chàng
nặng nề tráo hai cái lòng trắng đỏ ngầu, cố căng thẳng tinh thần giữ cho mình
còn tỉnh.
- Lũ lon vàng ấy chúng nó lại đè đầu cưỡi cổ bọn mình
rồi! Chúng nó lại nắm hết quyền hành rồi! - Ermakov ôm lấy Grigori, gào lên.
- Lon gì? - Grigori gỡ hai tay Ermakov ra và hỏi.
- Ở Vosenskaia ấy. Sao thế, anh không biết à? Một thằng
công tước dân Kavkaz đang ngồi chồm chỗm ở đấy! Một thằng trung tá đấy! Tôi sẽ
chém chết nó! Anh Melekhov ạ! Cuộc đời của tôi, tôi đặt xuống chân anh đấy,
đừng để chúng tôi bị toi mạng vô ích! Anh em Cô- dắc đang sôi sục lên rồi. Anh
hãy đưa chúng tôi lên Vosenskaia, chúng tôi sẽ nện cho chúng nó tan nát tơi
bời, sẽ biến tất cả thành tro bụi! Cả thằng Paska Kudinov lẫn thằng trung tá,
chúng tôi sẽ cho hết về với ông bà ông vải! Chúng nó quạng vào mõm bọn mình đến
thế là đủ rồi! Chúng ta hãy nện cả bọn Đỏ lẫn bọn Kadet? Lòng dạ tôi đang muốn
như thế đấy! Chúng ta sẽ giết thằng trung tá. Nó cố ý ở lại đấy… Kharlampi!
- Chúng ta hãy sụp lạy dưới chân Chính quyền Xô viết:
chúng tôi là những kẻ có tội… - Grigori bỗng tỉnh trở lại, chàng xệch miệng ra
cười - Mình nói đùa đấy thôi, Kharlampi ạ, thôi uống đi.
- Có gì mà đùa, Melekhov? Cậu đừng có đùa, chuyện nầy nói
đứng đắn đấy. - Medvedev nói giọng nghiêm nghị. - Bọn mình muốn thay béng cái
chính quyền nầy đi. Thay tất cả rồi đặt cậu lên. Mình đã nói với anh em Cô-
dắc, chúng nó đều đồng ý. Chúng ta sẽ bảo thằng Kudinov và thằng O- prin- trin
1 của nó: "Thôi cút khỏi chính quyền đi. Các anh không thích hợp với chúng
tôi đâu". Nếu chúng nó xéo đi thì tốt, bằng không chúng ta sẽ điều một
trung đoàn về Vosenskaia, và cho chúng nó về với ông bà ông vải!
- Không nói cái chuyện ấy nữa. - Grigori nổi xung quát
lên.
Medvedev nhún vai bước ra khỏi bàn và thôi không uống
nữa. Trong khi đó ở góc phòng, Riaptrikov vẫn nằm thườn thưỡn trên một cái ghế
dài, mặc cho cái đầu bù xù thõng hẳn xuống. Hắn quờ quạng hai bàn tay trên mặt
đất bẩn thỉu và lải nhải hát bằng một giọng kể khổ:
- Em hỡi em,
Em đáng thương,
cậu bé nhỏ nhoi,
Hãy ngả đầu,
Hãy ngả đầu áp xuống ngực tôi,
Xuống bên phải, xuống bên trái, ối
chao ôi!
Bên phải, bên trái ngực tôi trắng
ngần.
Hoà theo cái giọng nam cao ai oán và
cảm động như giọng phụ nữ của Riaptrikov, Aleksey Samin kéo dài cái giọng trầm
khàn khàn của gã:
- Áp đầu xuống ngực,
Rồi thở dài ấm ức…
Rồi thở dài ấm ức
Và nói lên lời trăng trối cuối cùng:
"Thư cho anh, mối tình xưa,
vĩnh biệt,
Mối tình xưa, mối tình ô trọc!"
Lúc ả chủ nhà dìu Grigori vào buồng
trong, ánh bình minh đã toả ra tím ngắt bên ngoài cửa sổ.
- Đừng có đổ cho ông ấy uống nữa?
Thôi buông người ta ra, đồ quỷ dữ! Có thấy không, không còn được tích sự gì nữa
rồi đây nầy, Ả vừa nói vừa hỳ hục một tay đỡ Grigori, một tay đẩy Ermakov vẫn
lẽo đẽo bám theo sau với một cốc rượu lớn trong tay.
- Muốn hú hí với nhau cho kịp trời
sáng có phải không? - Ermakov nháy mắt, lảo đảo làm cốc rượu trào cả ra.
- Phải, đi ngủ đây.
- Bây giờ thì đừng nằm với hắn,
chẳng còn làm được trò gì nữa đâu…
- Không can gì đến anh! Anh không
phải là bố chồng tôi!
- Cố kiếm lấy thằng con nhé! - Ermakov
hý lên như con ngựa và ngã lăn chiêng lăn kềnh trong một trận cười say.
- Nầy, nầy đồ quỷ dữ vô liêm sỉ! Mắt
ngầu rượu lên thế kia rồi thở ra toàn những lời mất dạy!
Ả đẩy Grigori vào trong phòng, đặt
chàng nằm lên giường và trơng cảnh tranh tối tranh sáng cứ đăm đăm nhìn bộ mặt
nhợt nhạt như mặt người chết và cặp mắt mở trừng trừng nhưng không nhìn thấy gì
của Grigori với cả một niềm kinh tởm và thương hại.
- Hay uống ít nước mứt hoa quả nhé!
- Cứ lấy đi!
Ả mang tới cho Grigori một cốc nước
mứt anh đào lạnh rồi ngồi lại trên giường, vừa gỡ vừa vuốt bộ tóc rối bù của
Grigori cho đến khi chàng ngủ thiếp đi. Ả lên bếp lò nằm với đứa con gái nhưng
Samin đâu có để cho ả chợp mắt. Gã gục đầu xuống khuỷu tay, ngáy ầm ầm như
tiếng hí của con ngựa bị khiếp hãi, rồi bất thần tỉnh dậy như có người lay và
gào lên bằng một giọng khàn khàn:
- Giải ngũ hồi hương!
Ngực đeo lon,
Vai mắc huân
Nhưng gã lại gục ngay đầu xuống tay
và vài phút sau lại giương mắt nhìn chung quanh một cách man rợ và lại bắt đầu:
- Chàng Cô- dắc giải ngũ hồi hương!
--- ------ ------ ------ -------
1 Quý tộc
hoặc dũng sĩ phục vụ cho Ivan đệ tứ, nghĩa bóng là kẻ tay sai áp bức bóc lột
nhân dân (ND).
2 Bài hát nầy vốn
là:
Chàng Cô- dắc
giải ngũ hồi hương,
Vai đeo
lon,
Đầy ngực
huân chương (ND).
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 162
Sáng hôm sau, Grigori tỉnh dậy, nhớ
lại câu chuyện nói với Ermakov và Medvedev. Đêm qua chàng chưa đến nỗi hoàn
toàn say bí tỉ nên không cần moi óc lắm cũng có thể hồi tưởng được câu chuyện
về đảo chính. Chàng bắt đầu thấy rõ là cuộc rượu be bét ở Likhovidov đã được
sắp xếp nhằm một mục đích rõ rệt: bọn kia muốn kích chàng làm một cuộc chính
biến. Một số tên Cô- dắc có tư tưởng khuynh tả đang bày mưu đặt kế chống lại
Kudinov vì tên nầy công khai nói ra ý muốn tiến tới sông Dones và hợp nhất với
quân đội sông Đông. Chúng ngấm ngầm mơ ước cắt đứt hẳn với chính quyền vùng
sông Đông và tổ chức ở địa phương một cái gì đại loại như một chính quyền Xô
viết không có người cộng sản. Chúng muốn lôi kéo Grigori vì chúng không nhìn
thấy toàn bộ hậu quả tai hại của một sự hiềm khích, phân tranh trong nội bộ
hàng ngũ phiến loạn, giữa lúc mặt trận của Hồng quân đang rập rình ở vùng sông
Dones và bất kỳ giờ phút nào cũng có thể quay lại quét sạch chúng cùng với cả
cuộc "nội chiến" của chúng. "Thật là trò trẻ con", -
Grigori thầm nghĩ như thế rồi nhẹ nhàng nhảy từ trên giường xuống. Chàng mặc
quần áo xong, đánh thức Ermakov và Medvedev dậy, gọi cả hai vào phòng trong và
đóng chặt cửa lại.
- Thế nầy nầy, hai người anh em ạ:
câu chuyện nói tối hôm qua, các cậu chớ có tưởng màng gì đến nữa và đừng có đem
đi nói lung tung, nếu không sẽ khốn cho các cậu đấy! Vấn đề đâu có phải ở chỗ
ai chỉ huy. Vấn đề không phải là có Kudinov nữa hay không, mà là chúng ta đang
nằm trong vòng vây, đang như cái thùng bị đánh đai. Không nay thì mai cái đai
ấy sẽ siết chặt quanh chúng ta. Cần phải điều các trung đoàn không phải về
Vosenskaia, mà về Migulin, về Krasnokurskaia, - chàng nói nhấn mạnh, giọng đầy
ý nghĩa, mắt vẫn không rời khuôn mặt âm thầm và đờ đẫn của Medvedev. - Đúng là
như thế đấy, Koldrat ạ, chẳng cần phải khuấy lộn thêm cái thế giới nầy làm gì!
Các cậu phải cân nhắc cho kỹ và phải nhớ rằng nếu chúng ta lật đổ bộ chỉ huy và
làm bất cứ một cuộc đảo chính nào là sẽ đi ngay đến chỗ chết đấy. Phải ngả hẳn
về một bên, một là trắng, hai là đỏ. Không thể rập rình ở giữa được, nếu không
sẽ bị dẫm chết ngay.
- Nầy phải cẩn thận, câu chuyện
không được nói hở ra đấy, - Ermakov quay mặt đi đề nghị. - Chúng mình sẽ cùng
sống chết với nhau, nhưng với điều kiện là các cậu phải thôi, không được khuấy
lộn bọn Cô- dắc lên nữa. Còn Kudinov và những thằng cố vấn của nó thì sao?
Chúng nó làm gì có đầy đủ quyền lực? Mình biết được đến đâu thì sẽ chỉ huy sư
đoàn của mình đến đấy. Chúng nó đang lâm vào một tình thế gay go, điều đó không
cần nói cũng biết, chúng nó đang muốn lôi kéo anh em mình về với bọn Kadet,
chuyện ấy cũng tất nhiên rồi. Nhưng chúng ta sẽ theo về đâu bây giờ? Mọi con
đường, mọi mạch sống của chúng ta đều đã bị cắt đứt cả rồi!
- Như thế thật đấy… - Medvedev miễn cưỡng
phải đồng ý và suốt cuộc nói chuyện, đây là lần đầu tiên hắn ngước nhìn Grigori
với hai con mắt ti hí đầy tức tối như mắt con gấu.
Sau lần ấy, Grigori còn tới những
thôn ở gần thị trấn Karginskaia rượu chè hai ngày hai đêm liền, mặc cho cuộc
đời say sưa trôi trong quán rượu. Mùi rượu ngấm cả vào cái đệm trải trên yên
ngựa. Vài người đàn bà và vài cô gái mất xuân sắc đã qua tay chàng, cùng chàng
chia sẻ những cuộc tình khoảnh khắc. Nhưng trời vừa sáng, Grigori đã chán ngấy
sự đam mê trong một cuộc hoan lạc chiếu lệ. Chàng tỉnh táo, nghĩ một cách lạnh
nhạt như về người khác: "Mình đã sống và đã nếm đủ mùi đời trong những năm
tháng đã sống. Đàn bà con gái mình đã yêu nhiều, mình đã cưỡi những con ngựa
hay… Chà! Mình đã ruổi rong trên đồng cỏ, đã hưởng cái phúc làm bố và đã giết
người, chính mình đã xông vào những nơi chết chóc, đã vùng vẫy thoả sức dưới
bầu trời xanh. Cuộc đời còn đem lại được cho mình một cái gì mới mẻ nữa hay
không? Chẳng còn cái gì mới mẻ nữa đâu? Đã có thể chết được rồi. Mình chẳng sợ
gì cả Vì thế trong chiến tranh mình có thể không cần tính tới nguy hiểm, cũng
như một tay đánh bạc trường tồn. Thua bao nhiêu cũng chẳng coi là nhiều!"
Thời thơ ấu chập chờn hiện lại trong
đầu óc chàng trong những hồi ức không đầu không đũa xanh biếc như một ngày nắng
đẹp: những con sáo đá trên những khối xây bằng đá, cặp chân đất của thằng bé
Griska trên lớp bụi nóng hổi, sông Đông chảy lặng lờ trang nghiêm với dải rừng
màu xanh lá cây in hình dưới làn nước, những khuôn mặt con nít của bạn bè, thân
hình cân đối của người mẹ trẻ…
Grigori đưa tay lên che mắt và trong
cái thị giới nội tâm của chàng lần lượt hiện ra những bộ mặt quen thuộc, những
sự việc đôi khi rất nhỏ nhưng không hiểu sao vẫn cứ in sâu trong trí nhới của
chàng. Trong ký ức của chàng vang lên giọng nói hầu như đã quên của những người
quá cố, những câư chuyện phiến đoạn, những chuỗi cười đủ giọng. Trí nhớ của
chàng chiếu một tia hồi ức vào một phong cảnh mà chàng đã từng trông thấy nhưng
đã lãng quên từ lâu và bất thần trong óc Grigori bừng lên hình ảnh cánh đồng cỏ
bát ngát, con đường cái dùng về mùa hạ cái xe bò có người cha ngồi phía trước,
cặp bò, khoảng đất cày với những gốc rạ vàng óng, đàn quạ đen đậu rải rác trên
mặt đường… Grigori bới tung trong mớ hồi ức rối như tơ vò về cuộc đời đã qua
không bao giờ trở lại, bỗng thấy hình ảnh Acxinhia hiện lên và chàng nghĩ thầm:
"Em yêu dấu! Acxinhia mà anh không bao giờ quên được?" rồi chàng kinh
tởm lánh xa người đàn bà nằm bên cạnh mình, thở dài, nóng lòng chờ sáng. Mặt
trời vừa trả ở đằng đông một tấm thảm tím nhạt viền kim tuyến, chàng đã vùng
dậy, lau rửa, vội vã ra lấy ngựa.
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 163
Cuộc phiến loạn làm mưa làm gió như
một đám cháy trên đồng cỏ gặp cái gì thiêu tan cái nấy. Mặt trận đã thắt một
vòng đai sắt quanh các trấn cứng đầu cứng cổ. Bóng đen của định mệnh tàn khốc
đã đóng một cái dấu nung lên mọi con người. Bọn Cô- dắc đem tính mạng ra liền
với may rủi như người ta chơi sấp ngửa, và một số không nhỏ gieo tiền đã thấy
"sấp". Bạn trẻ thì sôi nổi chìm đắm trong chuyện yêu đương, những kẻ
nhiều tuổi hơn thì nốc vodka đến u mê đần độn, đánh bài lấy tiền và đạn (đạn đã
được coi như vật quí hơn hết thảy), cố tìm dịp về qua thăm nhà để có thể dựa
cây súng trường đáng ghét lên tường dù chỉ trong một phút, cầm lấy cái rìu hay
cái bào, cho trái tim được nghỉ ngơi giây lát trong khi đan những nhành liễu đỏ
thơm phức để làm một đoạn hàng rào, hoặc sửa soạn cái cày cái xe cho công việc
đồng áng mùa xuân. Và nhiều gã, sau khi được hưởng đôi chút cảnh sống bình an
vô sự, trở về đơn vị mà vẫn còn say tuý luý, rồi đến lúc tỉnh lại, chúng đem
theo cả một mối căm hằn đối với "cuộc sống trong cái hộp sắt tây"
tiến lên xung phong trong đội hình bộ binh, xông thẳng vào họng súng máy, hoặc
hung hãn phi ngựa như điên, không còn cảm thấy rằng mình đang ngồi trên mình
ngựa nữa để tham gia một trận tập kích đêm và hễ bắt được tù binh là chúng đem
ra hành hạ với cả một sự dã man nguyên thuỷ rồi cuối cùng kết liễu đời họ bằng
lưỡi gươm để tiết kiệm đạn.
Nhưng mùa xuân năm ấy lại sáng sủa
với những màu sắc rực rỡ chưa từng thấy. Những ngày tháng Tư nối tiếp nhau,
nắng ráo và trong vắt như thuỷ tinh. Những đàn vịt trời và những đàn sếu kêu
lanh lảnh như tiếng đồng chập chờn, chập chờn vượt những đám mây, bay về phương
Bắc trên bầu trời xanh cao ngất. Trên tấm thảm màu xanh lá cây nhạt của đồng
cỏ, những con thiên nga hạ cánh xuống kiếm mồi bên cạnh đám ao đầm lóng lánh
như rắc ngọc trai.
Trên những cánh đồng cỏ dại ven sông
Đông, chim chóc kêu hót hoà với nhau thành một thứ tiếng râm ran không lúc nào
ngớt. Trong những khoảng đồng cỏ ngập nước, những con ngỗng trời sắp cất cánh
bay lên hối hả gọi nhau trên những bậc đất và những cái khe khô Những con vịt
trời đực đê mê trong cuộc yêu đương quàng quạc không ngơi trong những đám thuỳ
dương. Hoa liễu buông từng chùm xanh rờn. Những mầm non dính nhớp và thơm phức
nhú đầy những cụm tiêu huyền. Đồng cỏ tràn ngập một thứ ma lực không rời nào tả
xiết, nom đã có phần xanh hơn, tràn trề mùi hương cổ kính của đất đen và cái
mùi vĩnh viễn thanh xuân của cỏ non.
Cuộc chiến tranh phiến loạn nầy càng
được bọn Cô- dắc yêu thích vì tên nào cũng có ngôi nhà thân yêu kè kè bên sườn.
Nếu chán không muốn canh gác hay đi nằm rình ở bộ tiêu bí mật, nếu chán những
cuộc trinh sát lang thang trên núi dưới khe, thì chúng xin phép tên đại đội
trưởng về nhà để người cha già khọm hay đứa con trai chưa đến tuổi trưởng thành
cưỡi con ngựa chiến đến thay mình.
Vì thế các đại đội bao giờ cũng có
đủ quân số nhưng thành phần lại luôn luôn thay đổi. Song có những gã ranh ma đã
nghĩ ra một cách thế nầy: mặt trời vừa sắp lặn, chúng đã từ nơi đóng quân của
đại đội lên đường, rồi ra sức đánh ngựa phi nước đại, chạy một mạch chừng ba
chục, có khi bốn chục vec- xta, để đến lúc trời vừa tối hẳn thì về đến nhà.
Chúng ngủ đêm với vợ hay với người yêu rồi gà vừa gáy đợt hai là thắng ngựa.
Hai chòm sao Đại Tiểu hùng tinh còn chưa tan biến hẳn chúng đã lại có mặt ở đại
đội. Nhiều gã vui tếu yêu đời không thể nào không thích cái kiểu chiến tranh
bên dãy hàng rào thân yêu như thế nầy. "Tội gì mà chết" những gã Cô-
dắc hay về thăm vợ thường pha trò.
Bộ tư lệnh đặc biệt lo xảy ra những
vụ đào ngũ khi bắt đầu ngày mùa. Kudinov phải thân chinh xuống các đơn vị và
tuyên bố với một giọng cứng rắn không thường thấy ở hắn.
- Cứ mặc cho gió lộng trên đồng
ruộng của chúng ta, cứ mặc cho không hạt thóc nào được gieo xuống đất, việc bọn
Cô- dắc rời khỏi đơn vị thì tôi không cho phép đâu! Những tên nào tự ý bỏ đi sẽ
bị chém chết, bắn chết!
Xem tiếp:
Xem tiếp:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét