SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 66
Sau khi đánh chiếm được Lesnhiup, sư đoàn kỵ binh lI
chiến đấu tràn qua Stanislavchich, Razivilov, Brody và đến ngày mười lăm tháng
tám thì triển khai thế trận ở gần thành phố Kamenka- Strumilovo. Tập đoàn quân
tiến theo sau sư đoàn nầy, các đơn vị bộ binh được tập trung ở các khu vực quan
trọng về chiến lược, các ban tham mưu và các đoàn xe nhà binh kéo đến đầy các
đầu mối giao thông. Mặt trận kéo dài từ biển Ban- tích xuống như một cái bùi
nhùi đầy tử khí. Các ban tham mưu đang thảo những kế hoạch tấn công rộng lớn,
các tướng lính bù đầu trên những tấm bản đồ. Bọn sĩ quan liên lạc phi ngựa long
tóc gáy đem những mệnh lệnh chiến đấu tới các nơi. Hàng chục vạn chiến binh lên
đường về cõi chết…
Trinh sát báo cáo có những lực lượng kỵ bính rất lớn của
địch đang kéo về thành phố. Đã có những cuộc đụng độ trong các khu rừng nhỏ hai
bên đường cái. Những đội trinh sát Cô- dắc đã chạm trán với trinh sát địch.
Sau khi chia tay với anh, suốt những ngày chiến dịch,
Grigori cố tìm cho mình một chỗ dựa tinh thần để đi sâu suy nghĩ về những điều
làm chàng đau khổ và lấy lại tâm trạng bình thản xưa kia, nhưng chẳng tìm thấy
đâu. Từ các đại đội mới bổ sung gần đây nhất, có những gã Cô- dắc khoá ba được
biên chế thêm vào trung đoàn.
Trong số đó có một gã người tấn Kazanskaia, tên là
Aleksey Uriupin bị đưa đến trung đội của Grigori. Uriupin cao lớn, lưng gù gù
hàm dưới nhô hẳn về phía trước, cặp ria nom cứ như hai bím tóc của dân Kalmys,
hai con mắt vui vẻ, gan lì chẳng lúc nào không có nét cười. Tuy tuổi không
nhiều, nhưng đầu gã hói bóng, chỉ hai bên cái sọ to lù lù còn thấy lơ thơ vài
sợi tóc đỏ. Mới ngày đầu, bọn Cô- dắc đã đặt ngay cho gã cái biệt hiệu
"Tóc trái đào".
Sau cuộc chiến đấu ở gần Brody, trung đoàn được nghỉ ngơi
một ngày một đêm. Grigori và "Tóc trái đào" cùng ở chung một căn nhà
nhỏ của nông dân. Hai người thường xuyên chuyện trò với nhau.
- Grigori ạ, cậu cứ như thằng mất hồn ấy.
- Sao lại mất hồn? - Grigori cau mày.
- Thẫn thờ, lử khử lừ khừ như có bệnh ấy, - "Tóc
trái đào" nói rõ thêm.
Hai người cho ngựa ăn ở chỗ cọc buộc ngựa và dựa lưng vào
dãy hàng rào thấp lung lay, đầy rêu để hút thuốc. Bọn kỵ binh nhẹ dóng hàng tư
đi qua phố. Dưới chân dãy hàng rào còn ngổn ngang những xác chết chưa được mang
đi (trong khi đánh đuổi quân Áo, đã có giao chiến trong các phố ở ngoại ô). Toà
giáo đường Do Thái bị đốt chỉ còn lại một đống hoang tàn khói bốc nghi ngút.
Trong giờ phút trước lúc hoàng hôn, thành phố hiện lên trên nền trời rực rỡ
trong những màu sắc huy hoàng với cả một vẻ hoang tàn, lạnh lẽo.
- Mình vẫn khỏe đấy chứ, - Grigori không nhìn "Tóc
trái đào", nhổ bãi nước bọt.
- Nói láo! Mình nhìn thấy rất rõ.
- Cậu nhìn thấy rõ như thế nào?
- Cậu sợ à, cái thằng nhát như cáy? Sợ chết phải không?
- Cậu chỉ là một thằng ngu xuẩn, - Grigori nói bằng một
giọng khinh bỉ rồi nheo mắt nhìn những móng tay của mình.
Thế thì cậu bảo cho mình biết: cậu đã giết người bao giờ
chưa l
- "Tóc trái đào" hỏi rành rọt từng tiếng và
nhìn vào mặt Grigori, mắt nhìn như dò xét.
- Giết rồi. Thế thì sao?
- Rồi bị lương tâm cắn rứt phải không?
- Cắn rứt ấy à? - Grigori cười nhại.
"Tóc trái đào" rút thanh gươm khỏi vỏ.
- Cậu có muốn mình chém đầu cậu không?
- Rồi thì sao?
Mình sẽ giết cậu không một tiếng thở dài, trong lòng mình
sẽ không có một ý thương hại gì đâu? - Hai con mắt "Tóc trái đào" vẫn
cười nhưng Grigori nghe giọng nói của gã và nhìn hai cánh mũi gã phập phồng như
loài thú rừng, hiểu rằng gã không nói đùa.
- Cậu là một thằng man rợ, một đồ quái đản? - Grigori
chăm chú nhìn vào mặt "Tóc trái đào".
- Trái tim của cậu nó nhão nhoét. Cậu đã được biết đường
gươm Baklanov chưa? Trông đây nầy!
"Tóc trái đào" chọn một cây bạch dương rất già
mọc trong mảnh vườn hoa nhỏ, rồi bước thẳng tới, gù gù cái lưng, nheo mắt nhắm.
Hai cánh tay gân guốc dài ngoẵng của gã thõng xuống không động đậy bàn tay sao
mà quá khổ.
- Xem đây!
"Tóc trái đào" từ từ đưa gươm lên, hơi khuỵu
chân xuống, rồi bất thình lình chém đánh vụt một nhát chéo, đà chém mạnh kinh
người.
Cây bạch dương đứt phăng làm đôi phía trên gốc hai ác-
sin, đổ vật xuống, có những cành bám vào những khung cửa sổ không có cánh, cào
lên tường nhà.
- Nhìn thấy chưa? Cậu hãy cố học lấy. Xưa có ông ataman
Baklanov, cậu nghe nói tới ông ấy chưa? Ông ấy có thanh gươm, bên trong lưỡi đổ
thuỷ ngân, nâng lên thì nặng, nhưng chém xuống thì có thể chặt đứt đôi con
ngựa. Như thế đấy!
Grigori tập mãi mà không nắm được bí quyết phức tạp của
đường gươm.
- Cậu cũng có lực đấy, nhưng chém như một thằng đần độn.
Phải chém thế nầy nầy. - "Tóc trái đào" giảng cho Grigori, và lưỡi
gươm của gã lại phạt chéo xuống, hạ mục tiêu với một sức mạnh kinh người.
- Chém con người thì cứ mạnh dạn mà chém. Con người chỉ
nhão như bột bánh thôi. - "Tóc trái đào" vừa dạy vừa cười bằng mắt. -
Cậu chớ có nghĩ ngợi lôi thôi những chuyện chém cái gì và chém như thế nào. Cậu
là một thằng Cô- dắc, công việc của cậu là chém, không cần hỏi han phải trái gì
cả. Giết kẻ địch trong chiến đấu là một việc thiêng liêng. Cậu chém thêm được
một thằng, Thượng đế sẽ tha thêm cho cậu một tội, cũng như khi giết được một
con rắn ấy. Gia súc nếu không cần thì không được giết hại, đối với bò bê, vân
vân, thì như thế, còn con người thì cậu cứ việc tiêu diệt. Con người là một
giống bẩn thỉu… Nó là đồ yêu quái, làm thối bẩn cả mặt đất, sống chẳng khác gì
loài nấm độc.
Nghe Grigori nói lại, "Tóc trái đào" chỉ cau
mày, nhất định không nói thêm gì nữa.
Grigori rất lấy làm lạ khi nhận thấy rằng bất kỳ con
người nào cũng vô duyên vô cớ sợ "Tóc trái đào". Mỗi khi gã tới chỗ
buộc ngựa, con nào con nấy cụp tai đứng sát vào nhau, tưởng chừng có con thú dữ
chứ không phải một con người đang đi tới gần. Ở gần Stanislavchich, đại đội tấn
công trên một vùng có nhiều rừng và bãi lầy, mọi người phải xuống ngựa. Bọn
lính giữ ngựa dắt ngựa đến một chỗ đất trũng để che giấu. "Tóc trái
đào" bị phân công giữ ngựa nhưng gã khăng khăng từ chối.
- Uriupin, mày làm sao thế, đồ chó đẻ, có gì mà làm bộ
làm tịch hử? Sao mày không chịu coi ngựa hử? - Tên hạ sĩ của trung đội cho
"Tóc trái đào" một trận.
- Chúng nó sợ thằng nầy. Thật thế đấy! - "Tóc trái
đào" giấu nét cười không bao giờ rời khỏi hai con mắt gã, nói quả quyết.
"Tóc trái đào" không bao giờ đi coi ngựa. Gã
rất dịu dàng đối với con ngựa của gã, rất chăm nom nó, nhưng bao giờ Grigori
cũng nhận thấy một điều là mỗi khi thấy chủ bước tới, hai tay không đung đưa mà
cứ áp chặt vào hai bên đùi theo thói quen, con ngựa lại có một cơn run chạy rân
rân trên lưng: nó sợ.
- Nầy, người anh em, tại sao con ngựa nào cũng kinh kinh
cậu thế nào ấy? - Có lần Grigori hỏi.
- Có trời hiểu được chúng nó! - "Tóc trái đào"
nhún vai - Mình vẫn yêu thương chúng nó đấy chứ.
- Thằng nào say rượu thì ngựa nó ngửi thấy mùi nó sợ là
phải, nhưng cậu lại không nghiện rượu mới lạ.
- Ngựa nó cảm thấy ở mình một trái tim cứng rắn đấy.
- Tim cậu là tim chó sói, mà có thể còn không có tim nữa,
một hòn đá đã được đặt thay vào chỗ đó.
- Có thể như thế lắm - "Tóc trái đào" sẵn sàng
đồng ý.
Khi tiến tới gần thành phố Kamenka- Strumilovo, toàn
trung đội cùng viên sĩ quan chỉ huy trung đội đi trinh sát: trước đấy một hôm
một tên lính Tiệp đào ngũ đã báo cáo cho ban chỉ huy biết về cách bố trí các
đơn vị quân Áo và về cuộc phản công trù tính là địch có thể phát động theo
tuyến Grosa- Stavinsky; vì thế đã có yêu cầu phải thường xuyên theo dõi con
đường được giả thiết là đường tiến quân của các đơn vị địch. Nhằm mục đích ấy
viên trung đội trưởng để bốn gã Cô- dắc ở lại mép rừng cùng với tên hạ sĩ của
trung đội, rồi cùng với số quân còn lại cho ngựa tiến về phía một cái thôn mới
được thành lập mà những cái mái ngói đã thấy hiện ra sau trái núi nhỏ.
Grigori, tên hạ sĩ và ba tay Cô- dắc trong đám còn trẻ:
Silanchev, "Tóc trái đào" và Miska Kosevoi ở lại chỗ ven rừng, bên
toà nhà thờ cổ nóc nhọn hoắt, có cây thánh giá mang hình chúa Giêsu đóng đanh
câu rút đã hoen rỉ.
- Quàng quàng lên các cậu - Tên hạ sĩ ra lệnh - Miska,
dắt ngựa ra đằng sau mấy cây thông kia, phải rồi, đằng sau mấy cái cây ấy đấy,
chọn những cây thật rậm vào.
Mấy binh sĩ Cô- dắc nằm hút thuốc bên cây thông đổ héo
khô.
Tên hạ sĩ dán mắt vào ống nhòm. Cách mọi người chừng mươi
bước, cánh đồng lúa mạch đen gợn sóng, lúa chín già mà chưa gặt, mặc cho hạt
rơi rụng. Những bông lúa bị gió thổi xơ xác gục xuống với những tiếng loạt soạt
thê thảm. Toán Cô- dắc nằm chừng nửa tiếng đồng hồ, thỉnh thoảng lại lười nhác
trao đổi nhau vài câu. Không biết từ chỗ nào bên phải thành phố, tiếng đạn pháo
rền vang trầm bổng không lúc nào ngớt. Grigori bò tới sát đồng lúa rồi chọn vài
bông thật nặng, vò ra nhai nhai những hạt rắn đanh vì để lại lâu quá ngoài
đồng.
- Hình như quân Áo thì phải. - Tên hạ sĩ khẽ kêu lên.
- Ở đâu thế? - Silanchev giật mình hỏi.
- Đằng kia kìa, từ trong rừng ra.
Cậu nhìn sang phải một chút.
Một toán người cưỡi ngựa đang tiến
ra khỏi cánh rừng nhỏ đằng xa. Họ dừng lại, nhìn khắp cánh đồng từ chỗ mũi rừng
nhô ra xa xa, rồi cho ngựa tiến về toán lính Cô- dắc.
- Grigori? - Tên hạ sĩ gọi.
Grigori bò tới chỗ mấy cây thông.
- Cứ cho tới gần nữa rồi mình sẽ nổ súng đều một loạt.
Sẵn sàng cả chưa, các cậu? - Tên hạ sĩ khẽ nói, giọng có vẻ luống cuống.
Bọn kỵ binh địch rẽ sang phải, cho ngựa đi bước một. Bốn
anh chàng Cô- dắc nín thở, nằm im dưới một gốc thông.
- Au- khơ- to capran 1! - Gió đưa tới tai họ một giọng
nói trẻ, sang sảng.
Grigori ngẩng đầu: sáu tên kỵ binh nhẹ Hungary đang cho
ngựa đi túm tụm thành một đám, chúng mặc những chiếc áo vét rất đẹp đính dây
lằng nhằng. Tên đi đầu cưỡi con ngựa huyền rất to, tay cầm khẩu ca- ra- bin.
Hắn khẽ cười, giọng ồm ồm.
- Bắn! - Tên hạ sĩ khẽ ra lệnh.
- Pằng- pằng- pằng! - Một loạt đạn nổ đều.
- Apa- pa- pa- pa- ác? Tiếng vọng vẳng tới từ phía sau
nghe như chó sủa.
- Các cậu bắn cái gì thế? - Miska ở phía sau mấy cây
thông hốt hoảng kêu lên rồi lại quát bốn con ngựa - Tơ- r- rơ con chết tiệt?
- Mày phát rồ à? Suỵt? Đồ quỷ! Giọng Miska vàng lo lạ thường.
Bọn kỵ binh nhẹ cho ngựa tản ra thành đội hình chiến đấu,
phi trên đồng lúa. Một thằng trong đám tên cưỡi con ngựa huyền béo núc chạy
trên hàng đầu, bắn một phát lên trời. Tên cuối cùng cho ngựa tụt lại phía sau,
rạp mình xuống cổ ngựa, vừa phi ngựa vừa đưa tay trái lên giữ chiếc mũ kê- pi,
ngoái nhìn lại.
"Tóc trái đào" nhảy chồm lên trước tất cả mọi
người, gã cầm ngang khẩu súng trường xông lên phía trước, nhưng hai chân cứ
vướng trong những đám lúa. Cách đó chừng một trăm xa- gien, một con ngựa bị ngã
đang giãy dụa, bốn chân đạp lung tung. Một tên kỵ binh nhẹ Hungary đứng cạnh
con ngựa, đầu không còn mũ, đang nắn bên đầu gối bị ngã đau. Từ xa hắn đã kêu
lên không biết những gì rồi giơ hai tay lên nhưng vẫn ngoái nhìn mấy thằng đồng
đội phi ngựa đằng xa.
Tất cả các việc đó xảy ra nhanh đến nỗi mãi khi "Tóc
trái đào" giải tên tù binh về tới gốc thông, Grigori mới vỡ lẽ.
- Tháo cái nầy ra, lính với tráng! "Tóc trái
đào" giật thanh gươm, quát giọng thô bạo.
Tên tù binh bối rối mỉm cười, tay chân luống cuống. Hắn
ngoan ngoãn bắt đầu tháo dây da, nhưng tay run bần bật, không làm thế nào gỡ
được khoá. Grigori nhẹ nhàng giúp hắn. Tên kỵ binh nhẹ còn trẻ, người cao lớn,
má phinh phính, một hạt cơm nhỏ xíu như dán gần mép cái môi trên ria cạo nhẵn
nhụi. Hắn mỉm cười gật đầu cám ơn Grigori và có vẻ rất hí hửng vì đã được người
ta giải thoát cho không còn phải mang vũ khí nữa. Hắn vừa nhìn thấy mấy anh
chàng Cô- dắc vừa thọc tay vào hết túi nọ đến túi kia, cuối cùng lấy ra một cái
túi đựng thuốc lá bằng da và giơ tay ra hiệu mời mọi người hút thuốc, miệng lắp
bắp không biết những gì.
- Nó thết chúng mình đấy - Tên hạ sĩ mỉm cười và chính
hắn cho tay vào túi tìm giấy.
- Hút thử thuốc ngoại xem sao cái? - Silanchev cười khà
khà.
Bọn Cô- dắc cuốn thuốc châm hút. Thứ thuốc lá đen vẫn để
hút píp nên rất nặng, xông cả lên óc.
- Súng trường của nó đâu? - Tên hạ sĩ móp má rít một hơi
dài và hỏi.
- Có đây rồi? - "Tóc trái đào" kéo từ sau lưng
gã ra một cái dây da màu vàng có đường máy.
- Giải nó về đại đội mới được. Có lẽ trên ban tham mưu
đang cần có một cái "lưỡi" 2 Thế nào các cậu, cậu nào giải nó đi bây
giờ? - Tên hạ sĩ húng hắng ho rồi vừa hỏi vừa đưa cặp mắt lờ đờ nhìn mọi người
một lượt.
- Để tôi - "Tóc trái đào" nhận làm việc đó.
- Được thì cậu giải nó đi.
Hình như tên tù binh cũng hiểu ý. Hắn mỉm nụ cười cay
đắng, nom đến là thảm hại, rồi cưỡng lại bản thân, luống cuống lộn mề gà các
túi tìm thấy một miếng súc cù là ẩm xì, nhão nhoét, và dúi vào tay bọn Cô- dắc.
- Ru- xinich… ru- xin… ních- tơ Áp- xtơ- rít 3! - Giọng
hắn ngọng nghịu, hai tay múa lên ra hiệu nom rất buồn cười và cố nhét vào tay
mấy anh chàng Cô- dắc miếng chocolatte nát bét, thơm phức.
- Mày còn có vũ khí gì khác nữa không? - Tên hạ sĩ hỏi
tên tù binh. - Nhưng mày đừng lắp bắp như thế nữa, chúng tao không hiểu gì đâu.
Có súng "nục" không? Có cái "pằng pằng" không? - Tên hạ sĩ
bóp một cái cò tưởng tượng.
Tên tù binh ra sức lắc đầu.
- Không có! Không có!
Hắn ngoan ngoãn để cho khám xét, hai má phinh phính run
run.
Chiếc quần đi ngựa của hắn bị rách ở đầu gối, máu chảy
ròng ròng trông thấy cả vết rách trên làn da hồng hồng. Hắn lấy chiếc khăn tay
áp vào chỗ đau, nhăn mặt, bập bập môi và cứ nói luôn miệng… Mũ kê- pi của hắn
vẫn còn để lại bên cạnh con ngựa bị giết, hắn xin phép ra đấy lấy chăn, mũ và
cuốn sổ tay trong đó có ảnh của những người thân thuộc. Tên hạ sĩ cố hiểu xem
hắn nói những gì nhưng hoài công vô ích. Cuối cùng hắn vẫy tay một cách tuyệt
vọng:
- Giải nó đi!
"Tóc trái đào" nhận con ngựa cửa gã trong tay
Miska, ngồi lên yên, sửa lại dây đeo súng, rồi giơ tay chỉ:
- Thôi đi thầy quyền, lính tráng gì cái thớ mày, mẹ khỉ!
Tên tù binh thấy "Tóc trái đào" cười, cũng mạnh
dạn thêm. Hắn mỉm cười đi bên cạnh con ngựa, thậm chí còn vỗ vào chỗ đầu gối
giơ xương của "Tóc trái đào", vẻ muốn làm quen lấy lòng. "Tóc
trái đào, nghiêm nét mặt hất tay hắn ra, rồi kéo dây cương, cho tên tù binh đi
lên trước.
- Đi đi, đồ quỷ! Mày đùa với tao đấy phỏng?
Tên tù binh rảo bước ra vẻ biết tội, dáng đi nghiêm túc
hơn, nhưng chốc chốc vẫn quay lại nhìn bọn Cô- dắc còn ở lại.
Mấy món tóc xoăn trăng trắng dựng đứng trên đỉnh đầu hắn
nom đến là nghịch ngợm. Trong trí nhớ của Grigori còn ghi lại hình ảnh như thế
của tên tù binh: chiếc áo vét kỵ binh nhẹ thêu diêm dúa khoác chéo trên vai,
mấy món tóc xoăn trăng trắng dựng đứng và dáng đi tin tưởng mạnh dạn.
- Grigori, ra tháo lấy yên ngựa của nó, tên hạ sĩ ra lệnh
rồi nhổ nước bọt vào mẩu thuốc đã cháy tới ngón tay, có vẻ tiếc rẻ.
Grigori tháo cái yên trên lưng con ngựa chết rồi không
hiểu sao tự nhiên nhấc chiếc mũ kê- pi nằm lăn lóc ở gần đấy. Chàng ngửi lần
lót mũ thấy có mùi thơm của xà phòng rẻ tiền và mùi mồ hôi. Chàng xách cái yên
về nhóm, tay trái nhẹ nhàng cầm cái mũ kê- pi của kỵ binh nhẹ. Bọn Cô- dắc ngồi
xổm bên gốc thông, lục tung các túi yên, xem đi xem lại kiểu yên lạ mà họ chưa
từng thấy bao giờ.
- Thuốc lá của nó ngon quá, kể ra cũng nên xin để cuốn
thêm điếu nữa, - Silanchev nói có vẻ tiếc rẻ.
- Phải, đứt đuôi con nòng nọc là thuốc ngon rồi.
- Hút vào cứ ngọt lịm, trôi tuồn tuột xuống cổ như bơ ấy…
- Tên hạ sĩ thở dài nhớ lại điếu thuốc vừa hút rồi nuốt miếng nước bọt.
Vài phút sau, từ sau cây thông bỗng thấy ló ra cái đầu
của một con ngựa. "Tóc trái đào" đã trở về.
- Sao thế? - Tên hạ sĩ sợ hãi đứng chồm lên. - Mày thả nó
rồi à?
"Tóc trái đào" vung vảy cái roi, cho ngựa đi
tới, rồi xuống ngựa, dướn thẳng người, vươn vai.
- Mày làm gì với thằng lính Áo ấy rồi hả? - Tên hạ sĩ
bước tới hỏi thêm.
- Có gì mà làm ầm ĩ như thế? - "Tóc trái đào"
nói giọng hằn học - Nó bỏ chạy… nó định chạy trốn…
- Thế mày thả cho nó chạy à?
- Vừa ra tới chỗ rừng trống là nó giở trò… Tôi bèn cho
luôn nó một nhát.
- Mày nói láo! - Grigori gầm lên - Nó chẳng làm gì mà mày
cũng giết nó.
- Có gì mà ngậu xị lên như thế? Chuyện nầy can gì đến
cậu? - "Tóc trái đào" ngửng lên nhìn Grigori bằng hai con mắt lạnh
như tiền.
- Sa- a- a- ao? - Grigori từ từ đứng dậy, sờ soạng chung
quanh, hai tay run bần bật.
- Chớ có dính vào chuyện không cần dính vào! Hiểu chưa
hử!
- Đừng có dính vào? - "Tóc trái đào" nhắc lại, giọng
gay gắt.
Grigori giật dây đeo súng, thoắt cái đã giương súng lên
vai.
Ngón tay chàng run bắn lên, mãi không đặt đúng cò súng,
mặt chàng tím lại, méo xệch một cái rất lạ lùng.
- Không được thế! - Tên hạ sĩ chạy lại chỗ Grigori quát
lên giọng hăm doạ. - Phát súng chưa kịp nổ, tên hạ sĩ đã hất được tay Grigori,
viên đạn rít một tiếng dài, làm lá trên cây thông rụng xuống lả tả.
- Sao lại thế! - Miska kêu lên.
Silanchev thì từ đầu đến cuối cứ há hốc miệng ngồi sững
sờ.
Tên hạ sĩ đấm vào ngực Grigori, giằng lấy khẩu súng
trường, chỉ "Tóc trái đào" là vẫn đứng yên như phỗng, một chân đưa
sang bên, tay trái đặt trên dây lưng.
- Bắn nữa đi!
- Tao sẽ giết mày! - Grigori giằng ra nhảy tới trước mặt
gã.
- Chúng mày làm sao thế hử? Sao lại thế? Muốn ra toà,
muốn bị xử bắn phải không? Cất súng đi? - Tên hạ sĩ quát to, đẩy Grigori ra,
rồi đứng giữa hai người, hai tay dang rộng như bị đóng đanh câu rút.
- Mày nói láo, có mà dám giết! - "Tóc trái đào"
rung rung bên chân dạng ra, cười rất bình tĩnh.
Mọi người trên đường về thì trời đã hoàng hôn. Grigori là
người đầu tiên nhìn thấy xác tên lính bị chém chết ở chỗ rừng trống. Chàng cho
ngựa vượt lên cả bọn, tiến gần tới cái xác. Con ngựa hí lên.
Grigori ghìm nó lại, đưa mắt nhìn kỹ: kẻ bị chém nằm sóng
soài trên lớp rêu loăn xoăn, một bàn tay lật ngửa vươn hẳn ra ngoài, mặt rúc
vào lớp rêu. Bàn tay đặt trên cỏ vàng đục, nom như chiếc lá mùa thu.
Nhát gươm khủng khiếp, chắc chắn là chém từ sau lưng, đã
bổ đôi người tên tù binh, chéo từ một bên vai xuống tới thắt lưng.
- Bổ xả dọc thằng bé… - Tên hạ sĩ nói giọng trầm trầm.
Trong khi cho ngựa đi qua, hắn sợ hãi liếc nhìn những món tóc xoăn trắng của
người bị giết rũ xuống trên cái đầu vặn ngoặt sang bên.
Toán Cô- dắc ngậm tăm về tới chỗ đại đội đóng quân. Bóng
tối đã dày đặc. Một làn gió hiu hiu dồn những đám mây đen lờm xờm như bông từ
phía trời tây. Không biết từ chỗ nào trên khoảng đầm lầy bốc lên cái mùi ngai
ngái của ao đầm, của khí ẩm, của những vật thối rữa. Có tiếng một con te te kêu
trầm trầm. Trong bầu không khí lặng thiếp như trong một giấc mơ thỉnh thoảng
lại có tiếng đồ thắng ngựa va vào nhau lách cách, tiếng một thanh gươm bất thần
đập vào bàn đạp, tiếng lá thông loạt soạt dưới vó ngựa. Mặt trời đã lặn còn để
lại những vết đỏ sẫm loáng thoáng trên thân những cây thông trong khoảng rừng
trống. "Tóc trái đào" hút thuốc hết điếu nọ đến điếu kia. Ánh lửa âm
ỉ dưới tàn thuốc chiếu lên những ngón tay thô ấn chặt điếu thuốc, với những
móng tay phồng phồng đen kịt.
Đám mây đen lơ lửng bên trên khu rừng càng làm đậm thêm
những mầu sắc ảm đạm, buồn không sao tả xiết của lúc cuối chiều đang trùm lên
mặt đất.
--- ------ ------
------ -------
1 … thầy cai
(phiên âm tiếng Đức (ND).
2 Tù binh bắt để
khai thác tài liệu (ND).
3 Người Ru- ten…
Ru- ten… không phải là dân Áo đâu! (phiên âm tiếng Đức).
Ru- ten là người
gốc Ukraina ở Galixi (ND).
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 67
Cuộc chiến đấu đánh chiếm thành phố mở màn lúc tờ mờ
sáng.
Các đơn vị bộ binh phải tiến ra khỏi khu rừng để tấn công
lúc trời mới rạng. Kỵ binh được đặt sẵn ở hai bên sườn các đơn vị bộ binh và ở
vị trí lực lượng dự bị. Nhưng ở một nơi đã xảy ra chuyện rắc rối: hai trung
đoàn bộ binh không tới nơi đúng giờ, vì thế trung đoàn khinh binh 211 nhận được
lệnh phải chuyển sang sườn bên trái.
Trong lúc một trung đoàn khác vận động vu hồi thì trung
đoàn 211 bị một đại đội pháo của chính nó bắn vào, gây một tình trạng hỗn loạn
không thể tưởng tượng được. Sự lộn xộn tai hại ấy đã phá vỡ các kế hoạch, và
trận tấn công có nguy cơ nếu không đưa tới sự tan vỡ của phía tấn công, thì dù
sao cũng sẽ thất bại. Giữa lúc bộ binh đang bị điều loạn lên từ chỗ nọ sang chỗ
kia, giữa lúc pháo binh đang cố cứu những cỗ ngựa và những khẩu pháo đêm qua đã
bị đẩy đến vùng đồng lầy không biết theo lệnh của ai, thì giữa lúc ấy sư đoàn
11 bắt đầu xuất kích. Địa hình vừa rừng vừa bãi lầy không cho phép dàn một thế
trận rộng lớn để tấn công quân địch. Ở một số khu vực các đại đội kỵ binh của
quân ta đã phải tẩn công từng trung đội.
Đại đội bốn và đại đội năm của trung đoàn 12 được điều
sang lực lượng dự bị, các đại đội còn lại lao mình vào làn sóng tấn công.
Mười lăm phút sau, những tiếng nổ ầm ầm và tiếng gào thét
rung trời chuyền đất đã vẳng đến tai những người ở lại:
"Rrra- a- a- a - r- a- a- a -
rrra- a- a- a!"
- Quân ta xuất kích rồi!
- Bắt đầu tiến lên rồi.
- Súng máy đã nổ nhiều thêm.
- Có lẽ chúng nó đang quét anh em
mình đấy…
- Lại lặng đi rồi, sao thế hả?
- Như thế là tiến tới nơi rồi.
- Bọn mình sắp bị lôi vào cuộc rồi
đấy, - Binh sĩ Cô- dắc trao đổi nhau những ý kiến nhát gừng.
Các đại đội kỵ binh đứng trong một
khoảng rừng trống. Những cây thông dựng đứng chặn tầm mắt của họ. Một đại đội
bộ binh tiến qua, gần như với tốc độ bước chạy. Một viên quản coi bộ khá hùng.
hổ đi hơi chậm lại, chờ cho những hàng cuối cùng tiến qua rồi hô bằng một giọng
khàn khàn:
- Không được chạy rối hàng ngũ!
Tiếng chân đại đội bộ binh dẫm rầm
rập một lát, hoà lẫn tiếng bình toong đập loong coong, rồi đại đội ấy khuất sau
đám liễu đỏ.
Tít đằng xa, từ sau một sườn dốc đầy
cây cối, lại vẳng tới những tiếng hô xa dần, yếu dần, ầm ì như sấm rền:
"Ra- a- a- a- a- ar- ra- a- a! Aa- a?" Rồi bỗng nhiên tiếng hô lắng
bặt, như bị cắt đứt.
Không khí chết lặng đặc sệt, gây cảm
giác nhức nhối.
- Bây giờ mới tiến tới nơi đấy!
- Mỗi đứa xả một thằng… Tha hồ mà
đâm chém!
Mọi người đều căng thẳng, hết sức
lắng nghe, nhưng chẳng có gì xuyên qua được bầu không khí ngưng đọng. Ở sườn
bên trái, pháo binh của quân Áo giã giò lên các đơn vị tấn công, những khẩu
súng máy bắn liên hồi chọc vào tai như kim máy khâu.
Grigori đưa mắt nhìn một lượt trung
đội chàng. Bọn lính Cô- dắc đầy vẻ bồn chồn lo lắng, những con ngựa thì bực bội
lồng lộn như bị mòng cắn, "Tóc trái đào" mắc chiếc mũ cát- két của gã
lên mũi yên, chùi mồ hôi trên khoảng đầu hói xám ngoét. Bên cạnh Grigori, Miska
rít lấy rít để điếu thuốc loại tồi. Mọi vật chung quanh đều hiện lên rõ mồn
một, đều "thật" hơn cả mức bình thường: những khi thức trắng đêm
người ta thường thấy như thế.
Hai đại đội kỵ binh ở lại trong lực
lượng dự bị chừng ba tiếng đồng hồ. Tiếng súng lắng đi một lát rồi lại dội mạnh
lên một đợt mới. Một chiếc máy bay không biết của bên nào kêu vù vù trên đầu họ
và lượn vài vòng. Chiếc máy bay lượn tròn trên tầng không cao tít rồi bay về
phía đông, mỗi lúc một cao. Bên dưới nó, những quả đạn ghém nổ làm bung ra
những đám khói trắng đục như sữa trên nền trời xanh ngắt: pháo phòng không đang
bắn.
Mãi giữa trưa lực lượng dự bị mới
được đem sử dụng. Khi gã kỵ binh nhẹ làm liên lạc phi ngựa tới thì tất cả số
thuốc lá còn lại đã hút sạch, còn người thì đều mệt lử vì chờ đợi. Viên đại đội
trưởng đại đội bốn lập tức dẫn đại đội ra khoảng rừng trống rồi đưa tới một nơi
nào đó ở bên cạnh (Grigori có cảm tưởng như quay trở về). Đại đội đi qua rừng
rậm trong khoảng hai mươi phút, đội hình rối loạn cả.
Những tiếng ầm ầm của trận chiến đấu
vẳng tới mỗi lúc một gần. Ở một chỗ nào đó phía sau, không xa lắm, một đại đội
pháo bắn với tốc độ nhanh. Những trái đạn pháo vượt sức cản của không khí rú
lên, rít lên bay qua đầu mọi người. Đại đội Cô- dắc bị phân tán vì phải đi len
lỏi trong rừng, ùa ra một khoảng đồng trống, không còn trật tự gì nữa. Cách đó
chừng nửa vec- xta, một đám kỵ binh nhẹ Hungary đang chém các pháo thủ của một
đại đội pháo Nga ngay ven rừng.
- Đại đội, đội hình chiến đấu!
Binh sĩ chưa kịp triển khai thì đã
có lệnh:
- Đại đội gươm tuốt trần, xung pho-
o- ong!
Những lưỡi thép tuốt ra rào rào
loang loáng ánh xanh biếc. Đại đội cho ngựa chạy nước kiệu mỗi lúc một nhanh
rồi chuyển sang nước đại.
Chừng sáu tên kỵ binh nhẹ Hungary
đang rối rít quanh cỗ ngựa kéo khẩu pháo gần nhất. Một tên nắm dây hàm thiếc
lôi mấy con ngựa đang lồng. Thằng thứ hai dùng kiếm đánh ngựa. Những thằng khác
xủống ngựa, bắt tay vào nan hoa các bánh xe, cố giúp con ngựa kéo khẩu pháo đi.
Gần đấy, một sĩ quan vênh vang trên con ngựa cái cộc đuôi màu chocolatte. Hắn
ra lệnh. Bọn lính Hungary nhìn thấy đơn vị Cô- dắc bèn bỏ khẩu pháo, phi ngựa
chạy.
"Lộp cộp, lộp cộp, lộp
cộp!" - Grigori thầm đếm các sải chân ngựa. Một bên chân chàng chợt tuột
khỏi bàn đạp trong một giây.
Chàng cảm thấy mình ngồi trên yên
không vững, bèn đượchân tìm bàn đạp, trong lòng cũng có hoảng lên. Chàng cúi
gập người, bắt được bàn đạp, bèn lồng mũi bàn chân vào. Chàng vừa ngẩng đầu lên
thì nhìn thấy một cỗ sáu con ngựa kéo một khẩu pháo. Trên một con ngựa chạy
đầu, gã coi ngựa bị chém gục xuóng ôm cổ con ngựa bằng cả hai tay, áo sơ- mi
lầy nhầy những máu và óc. Vó của một con ngựa dẫm lên xác một tên pháo thủ bị
giết làm cái thây kêu răng rắc. Còn hai cái thây nữa nằm vật bên một hòm đạn
lật sấp. Một tên khác nằm sóng xoài ngay trên giá pháo. Silanchev phi ngựa vượt
lên trước Grigori. Viên sĩ quan Hungary cưỡi con ngựa cái cộc đuôi nổ súng vào
hắn, gần như ngay đầu mũi súng. Silanchev nhảy chồm lên một cái trên yên rồi
gục xuống, nhưng trước khi ngã, hắn còn vươn hai tay lên như muốn ôm lấy bầu
trời xanh xa lắc… Grigori giật cương định cho ngựa chạy sang bên kia để chém
cho thuận tay, nhưng tên sĩ quan đã đoán được ý chàng, bèn luồn tay phải xuống
dưới tay trái nổ súng luôn. Hắn bắn về phía Grigori hết một kẹp đạn súng ngắn
rồi rút gươm ra. Xem ra thằng cha cũng là một tay kiếm cừ khôi vì Grigori chém
ba nhát chí mạng, hắn đều đỡ được như bỡn. Grigori dướn người trên bàn đạp, méo
miệng chém nhát thứ tư mới trúng (hai con ngựa chạy gần như song song. Grigori
nhìn thấy rõ mồn một bên má cạo nhẵn nhụi, da thẳng căng, xám ngoét như tro của
tên sĩ quan Hungary và con số thêu trên cổ áo quân phục của hắn). Chàng chém dứ
một nhát để đánh lạc hướng chú ý của tên Hungary, rồi chuyển đường gươm thúc
ngược mũi gươm lên. Nhát thứ hai của chàng trúng ngay cổ hắn, chỗ đầu xương
sống. Tên Hungary thõng tay buông cương, dướn thẳng người lên, ưỡn ngực ra như
bị cắn, rồi gục xuống mũi yên. Grigori cảm thấy trong lòng nhẹ nhõm hẳn đi một
cách lạ lùng, bèn bồi thêm cho hắn một nhát vào đầu. Chàng nhìn thấy thanh gươm
cắm phập vào xương sọ phía trên tai một chút, ngập đến rãnh đường phay.
Một nhát gươm khủng khiếp chém từ
phía sau vào đầu bỗng làm Grigori bất tỉnh. Chàng cảm thấy trong miệng có chất
máu vừa nóng vừa mặn, biết thế nào mình cũng ngã. Từ một chỗ nào đó bên cạnh,
mặt đất cùng với những gốc rạ trên đó bỗng quay lộn ập tới, vụt cái đâm sầm vào
chàng.
Chàng ngã xuống, người bị đập một
cách tàn nhẫn xuống đất, nên tỉnh lại trong một giây. Chàng mở mắt, máu chảy như
suối tràn vào hai con mắt. Bên tai có những tiếng vó ngựa rầm rập và những
tiếng con ngựa thở nặng nề: "Phì phì, phì!" Grigori mở mắt lần cuối
cùng, nhìn thấy hai cái lỗ mũi hồng hồng của con ngựa nở to, và có chiếc ủng
không biết của ai luồn vào bàn đạp. "Thế là hết!", một ý nghĩ nhẹ
nhàng khoan khoái luồn vào trong đầu óc chàng như một con rắn.
Bên tai ầm ầm lên một trận rồi chỉ
còn đen ngòm và trống rỗng.
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 68
Mấy ngày đầu tháng tám, viên trung
uý Evgeni Litnhitki quyết tâm xin chuyển từ trung đoàn ngự lâm cận vệ Atamansky
tới một trung đoàn Cô- dắc nào khác của bộ đội chiến đấu. Hắn gửi đơn lên trên
rồi ba tuần sau đã xin được quyết định điều đến một trong những trung đoàn đang
chiến đấu. Sau khi làm xong các thủ tục nhận nhiệm vụ mới, lúc sắp rời khỏi
Petrograd, hắn viết một bức thư ngắn báo tin cho bố biết về quyết định của
mình:
"Thưa cha, con đã chạy chọt xin
được điều khỏi trung đoàn Atamansky để ra đơn vị chiến đấu. Hôm nay con vừa
nhận được giấy điều động và sắp tới chịu quyền chỉ huy của quân đoàn trưởng
quân đoàn hai. Chắc chắn là cha sẽ ngạc nhiên khi thấy con quyết định làm như
thế, nhưng con xin trình bày như sau để cha rõ về hành động nầy: con rất đau
khổ về cái hoàn cảnh trong đó con đã phải quẩn quanh trong thời gian qua. Những
cuộc diễu binh, đón tiếp, những buổi canh gác, tất cả các công việc phục vụ như
thế trong cung điện đã làm con chán ngấy. Tất cả các món đó con đã phải ăn đến
nôn ra được. Con chỉ muốn làm một việc gì cho có sức sống, và nếu cha muốn, con
còn mong lập được chiến công. Chắc là trong người con đang biểu hiện tính chất
dòng máu vinh quang của họ Litnhitki, một họ ngay từ cuộc chiến tranh giữ nước
1 đã đan thêm những nhánh nguyệt quế vào vòng vinh quang của sự nghiệp nước
Nga. Con sắp ra trận. Xin cha chúc phước cho con. Tuần qua, trước khi hoàng đế
ngự giá ra đại bản doanh, con đã được bái kiến long nhan. Con vốn sùng bái
hoàng đế. Hôm ấy con đang làm nhiệm vụ cảnh vệ trong cung điện. Hoàng đế đi
cùng Rozienko 2 và khi đi qua trước mặt con, Người có đưa mắt về phía con rồi
mỉm cười nói bằng tiếng Anh: "Đây là đội ngự lâm vinh quang của trẫm đây.
Khi cần trẫm sẽ dùng nó để đánh bại con bài của Vinhem 3". Con sùng bái
hoàng đế chẳng khác gì một nữ học sinh trung học. Tuy con đã quá hai mươi tám
thổi, nhưng con vẫn có thể thu nhận như thế mà chẳng thấy hổ thẹn gì cả. Con
rất phẫn nộ vì trong cung đang có những người đơm đặt bám lên thanh danh trong
sáng của hoàng đế như những cái mạng nhện. Con không tin những người đó và
không thể nào tin được. Mấy hôm trước, thiếu chút nữa thì con nổ súng vào viên
đại uý Gromov, vì con đang có mặt ở đấy mà hắn dám cả gan thốt ra những lời vô
lễ về hoàng đế bệ hạ. Thật là đê tiện, và con đã nói thẳng vào mặt hắn rằng chỉ
có những kẻ có dòng máu nông nô chảy trong người mới hạ mình tung ra những lời
đồn nhảm bẩn thỉu như thế. Sự việc đã xảy ra trước mặt vài sĩ quan nữa. Con
điên tiết tới cực độ đã rút khẩu súng ngắn và định nhả một viên đạn vào thằng
đốn mạt, nhưng các bạn của con đã tước mất vũ khí của con. Phải sống trong một
hoàn cảnh bẩn thỉu như thế nầy, càng ngày con càng cảm thấy nặng nề. Trong các
trung đoàn ngự lâm, nhất là trong giới sĩ quan, chẳng làm gì có tinh thần yêu
nước chân chính, và nói ra thì kể cũng đáng sợ, ngay đến lòng yêu mến hoàng
triều cũng không có. Không còn ra tầng lớp quý tộc nữa, mà chỉ là một phường
lưu manh. Về căn bản dó là nguyên nhân làm cho con cắt đứt với trung đoàn. Con
không thể nào giao du tiếp xúc với những con người mà con không kính trọng.
Thôi, có lẽ con thưa với cha như thế là đủ rồi.
Có những chỗ viết có phần tản mạn,
xin cha thứ lỗi cho, vì con đang vội còn phải xếp vali và tới chỗ quan tư lệnh.
Cầu mong cha mạnh khỏe. Đến đơn vị con sẽ gửi về nhà một bức thư tường tận.
Evgeni của cha"
Chuyến xe lửa đi Vacsava chuyển bánh
lúc tám giờ tối. Evgeni đi xe ngựa ra ga. Petrograd nằm lại sau lưng hắn với
những ánh đèn xanh xanh xám xám. Ngoài ga đông nghịt những người, tiếng ầm ầm
như vỡ chợ. Phần lớn, là quân nhân. Người phu khuôn vác xếp va- li cho Evgeni
xong, nhận vài đồng tiền lẻ, rồi chúc quan lớn lên đường may mắn. Evgeni tháo
đai đeo kiếm và áo ca- pôt, cởi giày da, rồi trải lên chiếc ghế dài một cái
chăn lụa hoa vùng Karpelz. Ở tầng ghế dưới, một lão cố đạo gầy gò, mặt nom như
người tu đạo cấm dục, đang ngồi ăn bên cạnh cửa sổ. Trên chiếc bàn nhỏ bày
những thức ăn uống làm ở nhà mang đi. Lão vừa rũ những mẩu bánh mì vụn vướng
trên chòm râu to sợi, vừa mời một cô gái ngồi trước mặt ăn. Cô gái gầy gầy, da
ngăm ngăm, mặc đồng phục học sinh trung học.
- Con thử nếm một chút xem. Thế nào?
- Xin cám ơn cha.
- Con làm khách quá đấy. Tạng người
như con thì phải ăn nhiều hơn mới được.
- Xin cám ơn cha.
- Con cứ nếm thử cái bánh sữa nầy
xem. Còn ngài sĩ quan, có lẽ ngài cũng nếm thử cái chứ?
Evgeni cúi đầu nhòm xuống:
- Cha gọi con phải không?
- Vâng, vâng, - Hai con mắt âm thầm của người cố đạo nhìn
như khoan vào Evgeni. Lão chỉ cười bằng cặp môi mỏng dính sau hàng ria thảm
hại, to sợi và ẩm như cỏ mùa tuyết tan.
- Xin cám ơn cha. Con không muốn ăn.
- Cần gì phải giữ kẽ như thế. Các thứ đưa được vào miệng
thì chẳng có gì hại cả. Có phải ngài ra đơn vị chiến đấu không?
- Vâng.
- Cầu Chúa che chở cho ngài.
Trong lúc đã thiu thiu ngủ, Evgeni có cảm tưởng như giọng
nói trầm trầm của lão cố đạo vẳng tới tai hắn từ một nơi xa lắm. Không những
thế hắn còn thấy như không phải là lão cố đạo đang nói bằng cái giọng trầm than
vãn nầy, mà là tên đại uý Cô- dắc Gromov.
- Gia đình cha, con có biết không, đồng ra đồng vào ít
lắm. Bây giờ cha theo các trung đoàn làm công việc rửa tội đây. Nhân dân Nga
không thể không có tín ngưỡng được. Mỗi năm, con biết không, đức tin lại càng
được củng cố thêm. Tất nhiên cũng có những người xa rời đạo Chúa, nhưng họ đều
thuộc giới trí thức, còn người mu- gích thì vẫn một lòng theo Chúa. Phải… Vốn
là như thế đấy… - cái giọng trầm thở dài thườn thượt, rồi lại tuôn ra một thôi
một hồi những lời lần nầy không còn lọt được vào ý thức của Evgeni nữa.
Evgeni ngủ thiếp đi. Những điều cuối cùng mà hắn cảm thấy
trong lúc còn tỉnh là mùi sơn mới trên trần toa xe ghép bằng những thanh gỗ hẹp
và tiếng kêu bên ngoài cửa sổ:
- Phòng hành lý đã nhận rồi, không còn liên can gì đến
tôi nữa!
"Phòng hành lý đã nhận cái gì thế nhỉ?" - Đầu
óc của hắn hoạt động thêm một chút nhưng luồng suy nghĩ lại bị đứt quãng lúc
nào không biết. Sau hai đêm liền không ngủ, hắn đánh một giấc li bì rất lại
sức. Xe lửa chạy khỏi Petrograd được một chặng chừng bốn mươi vec- xta thì
Evgeni tỉnh dậy. Bánh xe kêu lạch xạch đều đặn, toa xe lắc lư theo từng đợt lao
mạnh của đầu máy. Ở ngăn bên cạnh không biết có ai khẽ hát. Ngọn đèn dầu in
những cái bóng xiên xiên tím ngắt.
Trung đoàn, nơi viên trung uý Evgeni Litnhitki được phái
đến, vừa bị thương vong rất nhiều trong mấy trận vừa qua, và đã được điều khỏi
khu vực chiến đấu để bổ sung người và ngựa.
Trung đoàn bộ đóng tại một làng buôn bán lớn tên là
Berenhagi. Evgeni bước trên toa xe xuống ở một nhà ga xép không lên tuồi. Một
bộ phận quân y dã chiến cũng xuống xe ở đấy.
Evgeni hỏi người bác sĩ xem trạm quân y nầy chuyển đến
đâu và được biết rằng trạm nầy được điều từ mặt trận Tây Nam về khu nầy và sẽ
lập tức lên đường theo tuyến Berenhagi - Ivanovka - Krysovins - Kote. Người bác
sĩ to lớn, mặt đỏ như gấc, nói chẳng có ý gì ngợi khen về các thủ trưởng trực
tiếp của ông ta. Ông ta kết lội các sĩ quan tham mưu sư đoàn rồi rũ sù bộ râu,
long lanh hai con mắt đầy vẻ tức tối sau cái kính kẹp mũi khung vàng, tuôn ra
cho người ngẫu nhiên nói chuyện với mình nghe tất cả nỗi đắng cay bực bội trong
lòng mình.
- Ngài có thể cho tôi đi nhờ xe đến Berenhagi được chứ? -
Evgeni ngắt lời người bác sĩ.
- Trung uý ạ, ngài cứ ngồi lên chiếc xe hai bánh kia.
Ngài cứ đi với chúng tôi. - Người bác sĩ nhận lời và vừa xoay xoay một cách
suồng sã cái khuy trên áo ca- pôt của viên trung uý để tìm kiếm sự đồng tình,
vừa cười khồ khồ bằng giọng trầm cố ghìm cho bớt to:
- Trung uý ạ, ngài thử nghĩ xem: chịu lắc hai trăm vec-
xta trên những toa xe chở bò ngựa nầy để về nhởn nhơ vô công rồi nghề ở đây
trong khi khu vực mà trạm quân y của tôi vừa rời khỏi đã có những trận chiến
đấu đổ máu ghê gớm, còn lại bao nhiêu là thương binh đang cần được chúng tôi
cấp tốc cứu giúp. - Người bác sĩ nhấn lại mấy tiếng "đổ máu cực kỳ ghê
gớm" với một giọng khoái trá, quái ác, và trong khi kêu lên, ông ta dằn
rất mạnh vào các âm "gh", "g".
- Vì sao lại có chuyện quái đản vô nghĩa lý như thế? -
Viên trung uý hỏi thêm vì lịch sự.
- Vì sao ấy à? - Người bác sĩ giương hai hàng lông mày
bên trên cái kính kẹp mũi, gầm lên đầy vẻ châm biếm - Cái thói trống đánh xuôi
kèn thổi ngược, khờ khạo, ngu xuẩn của các cấp lãnh đạo, đó là vì sao đấy! Cái
bọn đê tiện ấy cứ ngồi đấy mà làm tất cả rối tinh rối mù lên. Chẳng có chút
năng lực giải quyết gì cả, đúng là không có đến sự khôn ngoan thông thường nữa.
Ngài còn nhớ cuốn "Nhật ký người thầy thuốc của Veresaev" 4) chứ?
Đúng thế đấy! Chúng mình đang nhai lại những cái trò đó ở cấp bình phương.
Evgeni đưa tay lên vành mũ chào rồi đi về phía đoàn vận
tải, nhưng sau lưng hắn người bác sĩ vẫn quàng quạc những lời sấm truyền:
- Trung uý ạ, chúng ta sẽ thua trong trận chiến tranh nầy
thôi! Bị bọn Nhật Bản đánh bại một lần rồi mà còn chưa mở mắt ra 5 cứ tưởng như
đánh hai thằng địch dễ như trở bàn tay, nhưng sự thật đâu có như thế…- Rồi
người bác sĩ rầu rĩ lắc đầu, bước qua những vũng nước có váng dầu óng ánh những
sắc cầu vồng đi theo đường sắt.
Trạm quân y đến được Berenhagi thì trời đã hoàng hôn. Gió
lay những gốc rạ nom như những đám lông cứng vàng vàng. Bên phía trời tây, mây
ùn ùn kéo tới, thành gò thành đống. Phần trên của các đám mây đen lại với một
ánh tim tím, nhưng xuống tới bên dưới thì mây mất dần cái màu kỳ quái ấy, đổi
sắc, toả ra nền trời sin xỉn như vải thô những ánh tím ngát mung lung rất dịu
mắt. Giữa cái đám ộn lên không ra hình thù gì nhồi nhét đầy, nom cứ như những
tảng băng chỗ tắc trên sông trong mùa băng trôi, lại có một khoảng mây thưa ra,
những tia mặt trời hoàng hôn màu da cam đổ ào ào vào lỗ hổng ấy rồi toả ra như
nan quạt gãy khúc và xuyên thẳng từ trên xuống với những đám bốc lên như bụi.
Còn ở dưới lỗ hổng ấy, các tia sáng đan lại với nhau, tạo thành một cuộc cuồng
loạn của các màu sắc quang phổ.
Một con ngựa hồng bị bắn chết nằm ở gần cái rãnh bên
đường. Một chân sau của nó giơ ngược lên, nom rất man rợ, cá móng sắt mòn mất
nửa, lấp loáng. Chiếc xe hai bánh chạy rất xóc làm Evgeni nhảy chồm chồm nhưng
hắn vẫn cố nhìn kỹ cái xác ngựa.
Người tải thương ngồi cùng xe với hắn nhổ toẹt bãi nước
bọt vào cái bụng đã trương phềnh của con ngựa, rồi giải thích:
- Thóc đấy cứ tọng thật nhiều vào… ăn đến bội thực. - Anh
ta đưa mắt nhìn viên trung uý, nói chữa lại, và còn muốn nhổ thêm bãi nước bọt
nữa, nhưng lại giữ lễ nuốt đi, rồi đưa tay áo va- rơi lên chùi miệng. - Ngựa
chết mà cũng chẳng buồn đem chôn. Người Đức, họ đâu có như người mình.
- Nhưng tại sao anh biết được?
Evgeni hỏi bằng một giọng không hiểu sao đầy vẻ bực bội
và trong lúc nầy hắn cũng vô duyên vô cớ ghét cay ghét đáng cái bộ mặt lạnh
nhạt, hơi thoáng một vẻ vừa kiêu ngạo vừa khinh thị của người tải thương. Khuôn
mặt ấy xám xám, tẻ ngắt như cánh đồng tháng chín, khi chỉ còn những cuống rạ và
chẳng có chút gì khác những khuôn mặt của hàng ngàn người lính bộ binh mu- gích
mà viên trung uý đã gặp hay đuổi theo trên con đường từ Petrograd ra mặt trận.
Tất cả những người ấy không hiểu sao đều như bạc màu, đều có một vẻ đần độn
ngưng đọng trong những cặp mắt xám, xanh da trời, xanh lá cây hay những màu
khác, đều làm người ta nghĩ tới những đồng tiền đã qua tay nhiều người, đúc đã
lâu ngày.
- Trước chiến tranh tôi đã từng sống ba năm ở Đức. -
Người lải thương thủng thẳng trả lời. Trong giọng nói của anh ta lại lộ ra cái
vẻ tự đại khinh người mà viên trung uý đã nhận thấy trong hai con mắt. - Tôi đã
làm việc tại nhà máy thuốc lá Quenisberg - người tải thương vừa nói bằng một
giọng chán ngán vừa dùng cái nút trên dây cương đánh con ngựa nhỏ nhưng kéo rất
khỏe.
- Thôi anh hãy im đi một lát - Evgeni nói giọng nghiêm
khắc rồi quay lại nhìn cái đầu con ngựa chết với tùm bờm xoã xuống mắt và hàm
răng nhe ra trước gió và ánh nắng. Bên chân giơ lên của con ngựa gập lại ở đầu
gối, móng luy có bị đóng nứt ra một chút, nhưng vành móng vẫn chắc, xám bóng.
Viên trung uý nhìn cái chân ngựa với chỗ khớp xương phía trên móng thon nhỏ,
đoán rằng con ngựa còn non và tốt giống.
Chiếc xe hai bánh chạy long xòng xọc mỗi lúc một xa trên
con đường làng mấp mô. Các màu sắc trên khoảng trời đằng tây đã mờ đi gió đã
thổi tan những đám mây đen. Cái chân của con ngựa chết hiện lên đen sì sau toà
nhà thờ cụt đầu. Evgeni vẫn dán mắt vào cái chân ấy. Bỗng nhiên có một dé nắng
tròn chiếu ngay vào con ngựa, cái chân ngựa với đám lông hồng hồng mọc sát mượt
trên đó sáng rực lên, đẹp lạ lùng, như một cành cây thần không có lá, màu da
cam.
Khi tới lối vào Berenhagi, đoàn xe của trạm quân y gặp
một đoàn xe chở binh lính bị thương.
Chủ chiếc xe đầu là một người Belorussia có tuổi, râu cạo
nhẵn nhụi. Người ấy đi bên cạnh con ngựa, những đoạn dây cương làm bằng thừng
cuốn trên tay. Một gã Cô- dắc không mũ, đầu quấn băng, chống khuỷu tay nằm
trong xe. Hai con mắt nhắm lại đầy vẻ mệt mỏi, gã nhai bánh mì rồi nhổ ra một
đám đen đen nhão nhão như cháo. Một người lính bộ binh nằm sấp sóng sượt bên
cạnh gã. Hai bên mông hắn, cái quần rách như xơ mướp phồng lên, cứ cong cong vì
máu đọng. Người lính bộ binh không ngửng đầu lên, cứ nằm như thế mà chửi một
cách man rợ. Evgeni lắng nghe giọng chửi bất giác thất kinh: những người tin
Chúa nhất cũng thường say sưa nguyện kinh bằng một giọng như thế. Trong chiếc
xe thứ hai, sáu tên lính bộ binh nằm chen nhau như cá hộp. Trong đám có một tên
vui mừng hớn hở, nheo cặp mắt sưng mọng, sáng như trong cơn sốt, kể chuyện:
- Hình như sứ thần của hoàng đế chúng nó đã đến nêu đề
nghị ký hoà ước thì phải. Điều chủ yếu là làm thế nào gặp được một con người
thành thực. Mình hy vọng nó sẽ không đến nỗi bịp bợm.
- Khó có chuyện như thế lắm. - Tên thứ hai lắc lắc cái
đầu tròn xoe mang những dấu vết đã có từ lâu của bệnh tràng nhạc.
- Cậu cứ chờ mà xem, Philip ạ, chưa biết chừng đúng là có
đến đấy. - Tên thứ ba ngồi quay lưng về phía trước, nói giọng dịu dàng như dân
vùng Vonga.
Trong chiếc xe thứ năm thấy đỏ lòe mấy cái vành mã cát-
két Cô- dắc. Ba tên lính Cô- dắc chiếm thoải mái một chiếc xe tải rất rộng.
Chúng lặng thinh nhìn Evgeni và trên những bộ mặt khắc khổ đầy bụi, không thấy
chút bóng dáng nào của cái vẻ phục tùng sợ sệt thường thấy trong hàng ngũ.
- Chào bà con đồng hương! - Viên trung uý chào ba gã Cô-
dẳc.
- Chúc ngài khỏe mạnh. - Gã Cô- dắc đẹp trai lông mày
rậm, có hàng ria trắng như bạc, ngồi cạnh chủ xe, trả lời uể oải.
- Trung đoàn thế nào? - Evgeni cố nhìn con số trên cái
lon vai màu lam của gã Cô- dắc.
- Trung đoàn mười hai.
- Trung đoàn của các anh bây giờ ở đâu?
- Chúng tôi không thể biết được.
- Thế thì các anh đã bị thương ở đâu?
- Ở gần cái làng kia, không xa đâu.
Ba gã Cô- dắc thì thầm với nhau không biết những gì, rồi
một gã nhẹ nhàng đưa bên tay lành lên đỡ bên tay bị thương buộc bằng một miếng
vải thô, nhảy trên xe xuống.
- Thưa quan lớn, xin quan lớn hượm cho một lát. - Hắn
nâng rất cẩn thận bên tay bị đạn đã bắt đầu mưng mủ, vừa dận hai bàn chân đất
trên mặt đường; vừa mỉm cười với Evgeni.
- Quan lớn có phải là người trấn Vosenskaia không? Có
phải là công tử Litnhitki không ạ?
- Phải phải.
- Chúng tôi cũng đoán là như thế. Thưa quan lớn, quan lớn
có thể cho xin ít thuốc hút được không? Quan lớn hãy vì Chúa mà thết chúng tôi
một chầu. Không có thuốc hút chúng tôi chết mất!
Gã dựa tay vào cái thành sơn màu của chiếc xe hai bánh,
đi bên cạnh. Evgeni lấy hộp thuốc lá ra.
- Xin quan lớn cho độ mươi điếu thì tốt quá. Chúng tôi có
ba anh em cơ. - Gã Cô- dắc mỉm cười van lơn.
Evgeni còn bao nhiêu thuốc dốc cả vào tay gã Cô- dắc, bàn
tay nâu xịt, to đến là to. Cho xong hắn hỏi:
- Trung đoàn có nhiều người bị thương không?
- Chừng hai chục.
- Thương vong nhiều lắm à?
- Chết trận nhiều lắm. Xin quan lớn bật cho cái lửa. Cám
ơn quan lớn! - Gã Cô- dắc đứng lại hít một hơi, rồi kêu với theo - Ở thôn
Tatarsky, gần trang trại của quan lớn ấy, hôm nay bị giết mất ba. Lần nầy anh
em Cô- dắc đại bại.
Gã khoát tay rồi đuổi theo chiếc xe của gã. Gió thổi phần
phật chiếc áo va- rơi ka- ki không thắt dây lưng.
Viên trung đoàn trưởng trung đoàn Evgeni được cử đến công
tác ở Berenhagi trong nhà lão cố đạo. Vào đến bãi làng thì viên trung uý chào
từ biệt người bác sĩ tốt bụng dành cho hắn một chỗ trên chiếc xe quân y hai
bánh, rồi vừa đi vừa phủi bụi trên chiếc áo quân phục. Hắn gặp ai cũng hỏi
trung đoàn bộ đóng ở đâu. Một lão quản có bộ râu rậm đỏ như lửa đang dẫn lính
đi tuần từ phía trước tới. Lão đừa tay lên vành mũ chào viên trung uý, trả lời
câu hỏi và chỉ ngôi nhà nhưng chân đi vẫn bước. Ngôi nhà của trung đoàn bộ lặng
tờ như mọi ban chỉ huy đóng xa tuyếl lửa. Vài gã văn thư chúi đầu xuống một
chiếc bàn rộng. Một viên đại uý có tuổi cười trong ống dây nói dã chiến với
người đang nói chuyện với hắn. Những con ruồi vo ve trên các khung cửa sổ của
căn nhà rộng thênh thang.
Những tiếng chuông điện thoại xa rên rỉ như tiếng muỗi.
Một tên lính cần vụ dẫn viên trung uý tới gặp trung đoàn trưởng ở nhà. Viên đại
tá tiếp Evgeni ở phòng ngoài một cách chẳng có gì là thân thiện. Ông ta cao
lớn, dưới cằm có một vết sẹo hình tam giác, mặt mày không hiểu sao đầy vẻ buồn
phiền.
- Tôi là trung đoàn trưởng. - Ông ta trả lời câu hỏi rồi
sau khi nghe viên trung uý báo cáo có vinh dự được tới chịu quyền chỉ huy của
ông ta, bèn chẳng nói chẳng rằng, đưa tay mời Evgeni vào phòng trong. Ông ta
bước vào, đóng cửa lại rồi đưa tay lên vuốt tóc, cử chỉ nom vô cùng mệt mỏi.
Ông ta nói giọng nhẹ nhàng, tẻ nhạt:
- Hôm qua lữ đoàn bộ cũng đã truyền đạt cho chúng tôi
biết về việc nầy. Mời ngài ngồi.
Ông ta hỏi han Evgeni về công tác trước kia, về tin tức ở
kinh đô về đường xá. Suốt trong cuộc nói chuyện ngắn ngủi giữa hai người, ông
ta không ngước mắt lên nhìn người nói chuyện với mình lần nào, cặp mắt cứ như
bị một sự mệt mỏi rã rời kéo trĩu xuống.
"Chắc hẳn ông tướng nầy vừa bị một mẻ ra trò ngoài
mặt trận. Mệt mỏi thẫn thờ như một cái xác không ấy", - Evgeni nhìn vầng
trán cao có vẻ rất thông minh của viên đai tá và bỗng có ý nghĩ thương hại.
Nhưng viên đại tá đưa đầu cán gươm lên gãi gãi chỗ tinh mũi, nói như muốn làm
cho viên trung uý vỡ mộng:
- Trung uý hãy đi làm quen với anh em sĩ quan. Ngài biết
không, tôi đã không ngủ ba đêm liền. Ở cái nơi khỉ ho cò gáy nầy, ngoài quân
bài chai rượu ra chẳng còn làm gì được nữa đâu.
Evgeni đưa tay lên vành mũ chào, nụ cười trên môi hắn
chứa đựng cả một sự khinh bỉ đến cực độ. Hắn bỏ ra rồi mà còn bực bội nhớ lại
cuộc gặp mặt và cứ tự giễu mình về những ý nghĩ kính trọng bất giác nảy ra
trong lòng hắn trước vẻ mệt mỏi và vết sẹo trên cái cằm rộng của viên đại tá.
--- ------ ------ ------ -------
1 Tức là cuộc
chiến tranh Nga Pháp năm 1812, lần đó quân Nga đã đánh bại quân Napôlêông (ND).
2 (1859 - 1924)
một chính khách phản động thời Nicolai đệ nhị, hồi nầy làm chủ tịch viện Duma
(ND).
3 Tức Vinhem 11
(1859 - 1941). Hoàng đế nước Đức, thoái vị ngày 28- 11- 1919 (ND).
4 (1867 - 1945)
Một tác giả Nga theo chủ nghĩa hiện thực. Tác phẩm nổi tiếng của ông "Nhật
ký người thầy thuốc" miêu tả nỗi khổ tâm, lòng hoài nghi của một người
thầy thuốc trẻ trong chế độ cũ (ND).
5 Chỉ cuộc chiến
tranh Nga - Nhật (1904 - 1905) trong đó quân Nga bị đại bại (ND).
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 69
Sư đoàn nhận được nhiệm vụ vượt sông Styra rồi tiến vào
hậu phương của địch ở gần Lovichtri.
Trong vài ngày, Evgeni đã kịp làm quen dần với đám sĩ quan
trong trung đoàn. Hoàn cảnh chiến đấu đã mau chóng lôi cuốn hắn, xua khỏi tâm
hồn hắn thói quen sống an nhàn và mơ mộng hoà bình.
Sư đoàn đã hoàn thành rất xuất sắc cuộc chiến đấu vượt
sông. Họ đã đánh vào sườn bên trái một binh đoàn khá lớn của địch rồi tiến vào
hậu phương của chúng. Ở gần Lovichtri, quân Áo có kỵ binh Hungary hiệp đồng tác
chiến, định chuyển sang phản công, nhưng chúng đã bị các đại đội pháo Cô- dắc
quét sạch bằng đạn ghém. Các đại đội kỵ binh Hungary đã triển khai xong lại
phải rút lui hỗn loạn, và bị tiêu diệt dưới hoả lực súng máy bắn lướt sườn, sau
lưng họ lại còn có quân Cô- dắc truy kích.
Evgeni cùng trung đoàn của hắn tham gia trận phản xung
phong. Sư đoàn của hắn bám sát gót quân địch rút lui. Trung đội ba do Evgeni
chỉ huy có một tên Cô- dắc bị giết và bốn tên bị thương.
Viên trung uý cố giữ vẻ bình tĩnh trên nét mặt để cho
ngựa chạy qua chỗ Losenov và chỉ mong sao không nghe thấy cái giọng nhỏ nhẻ
khàn khàn của người lính. Losenov là một gã Cô- dắc còn trẻ, mũi gồ người trấn Kratnokaskaia.
Con ngựa bị bắn chết nằm đè lên người gã. Gã bị thương ở cánh tay, cứ phải nằm
yên đấy mà nhe răng ra van những toán Cô- dắc phi ngựa qua:
- Các anh em thân mến ơi, đừng bỏ mình? Kéo giúp mình ra,
các anh em thân mến…
Giọng kêu van khe khẽ ngắc ra vì đau nghe đến là thê
thảm. Nhưng lòng dạ bọn Cô- dắc phi ngựa qua còn đang rối bời như thế thì làm
sao có được niềm trắc ẩn, mà dù có chăng nữa, lý trí cũng chẳng để cho sự
thương hại ấy lộ ra, cũng phải luôn luôn nén nó xuống. Trung đội cho ngựa đi
bước một chừng năm phút để những con ngựa chạy đã thở như kéo bễ được một lát
lấy lại hơi. Những đại đội kỵ binh Hungary đang tháo chạy toán loạn cách họ
chừng nửa vec- xta. Giữa những chiếc áo vét viền lông rất đẹp của họ thấp
thoáng những chiếc áo quân phục màu xám xanh của bộ binh. Đoàn xe vận tải của
quân Áo bò trên đường cống đồi. Những phát đạn ghém tuôn ra những đám khói
trắng đục như sữa bên trên những chiếc xe như để từ biệt. Ở một chỗ nào đó bên
trái có một đại đội pháo nhả đạn với tốc độ nhanh vào đoàn xe vận tải. Những
tiếng rền vang dội chạy rần rần khắp cánh đồng, gây ra rất nhiều tiếng vọng từ
khu rừng gần đấy.
Trung tá Safronov dẫn đầu sư đoàn ra lệnh cho ngựa chạy
nước kiệu. Ba đại đội tản ra, kéo dài đội hình, tiến nước kiệu nặng. Dưới các
chàng kỵ sĩ những con ngựa lảo đảo, mồ hôi sủi bọt, rơi xuống từng đám như
những đoá hoa hồng vàng vàng. Đêm ấy, họ đóng quân trong một ngôi làng nhỏ.
Mười hai sĩ quan của trung đoàn chen chúc trong một căn
nhà nhỏ. Mệt mỏi tưởng đứt hơi, chưa được miếng nào vào bụng, họ đã lăn ra ngủ.
Gần nửa đêm xe nhà bếp dã chiến mới đến. Viên thiếu tá Trubov xách về một cà
mèn súp bắp cải. Mùi súp béo ngậy làm các sĩ quan tỉnh dậy cả, và mười lăm phút
sau, mắt còn sưng vù, bọn sĩ quan đã chẳng nói chẳng rằng, ăn ngốn ngấu như
thần trùng để bù lấy phần sức lực đã hao tổn trong hai ngày chiến đấu. Sau bữa
ăn khuya khoắt như thế, chẳng còn ai nghĩ đến ngủ nghê. Các sĩ quan ăn nặng
bụng, ngả người xuống những tấm áo khoác bằng dạ hay những đống rơm hút thuốc.
Thượng uý Kalmykov là một viên sĩ quan thấp thấp, người
tròn xoay. Không riêng cái tên, mà cả khuôn mặt hắn cũng mang những đặc điểm
của dòng máu Mông cổ. Hắn vừa nói vừa hoa tay múa chân rất dữ:
- Cuộc chiến tranh nầy đâu phải nổ ra cho mình tham gia.
Mình đã ra đời muộn mất chừng bốn thế kỷ. Cậu có biết không, Petre. - Kalmykov
nói với viên trung uý Cherinchev, nhưng trong từ "Petro, hắn phát chệch âm
"o" thành "e" nặng. - Mình sẽ không sống được tới khi cuộc
chiến tranh nầy chấm dứt đâu.
Thôi bỏ những chuyện tướng số ấy đi, giọng Cherinchev ồm
ồm dưới tấm áo khoác bằng dạ.
- Chẳng có tướng số gì đâu. Kết cục ấy là do tiền định.
Mình vốn có một chứng di truyền cách đại 1. Vì thế mình ở đây chỉ là một người
thừa. Hôm nay, trong khi tiến công dưới hoả lực địch, mình đã điên tiết run bắn
cả người. Hễ trông thấy địch là mình không chịu nổi. Cái cảm giác thổ tả ấy
cũng ngang với sự sợ hãi. Chúng nó ở cách mình hàng mấy vec- xta, nã pháo vào
mình, còn mình thì ngồi trên lưng con ngựa, cứ như con vịt trời trên đồng cỏ
trước mũi súng của thằng thợ săn nhằm vào mình.
- Ở Kupalka tôi có được xem một khẩu lựu đạn pháo của
quân Áo. Trong các ngài đã có ai được thấy chưa, thưa các ngài? - Viên trung uý
Atamantrukov vừa hỏi vừa thè lưỡi liếm những miếng thịt hộp vụn vướng trên hàng
ria hung tung, tỉa theo kiểu Anh.
- Thật là tuyệt vời! Riêng bộ phận nhằm đã là cả một cơ
cấu, vượt mức hoàn thiện. - Viên thiếu uý Trubov trầm trồ nhận xét. Hắn đã kịp
đánh sạch cà- mèn xúp thứ hai.
- Tôi cũng được trông thấy, nhưng tôi sẽ không nói cảm
tưởng của tôi đâu. Về pháo binh thì tôi là một thằng ngoại đạo. Theo tôi thì
loại pháo nào cũng chỉ là pháo, chuyên ngáp ruồi.
- Tôi ghen tị với những con người xưa kia chiến đấu với
những phương tiện nguyên thuỷ, - Kalmykov nói tiếp, nhưng lần nầy hắn nói với
Evgeni. - Trong một cuộc chiến đấu đàng hoàng thẳng thắn, chém giết địch, dùng
một thanh gươm xả con người ra làm đôi, chuyện ấy thì tôi hiểu được. Ngoài ra
chẳng còn biết quỷ quái gì nữa - Trong những cuộc chiến tranh tương lai, vai
trò của kỵ binh sẽ chỉ là con số không.
- Nói đúng hơn thì không còn có kỵ binh nữa.
- Chà, đó mới chỉ là giả thuyết?
- Chuyện ấy không còn gì đáng nghi ngờ nữa.
- Nầy, Cherinchev ạ, không thể nào lấy máy móc thay cho
con người được đâu. Tuyệt đối là như thế.
- Mình không nói về con người, mà về con ngựa. Mô- tô
hoặc ô- tô sẽ thay con ngựa.
- Mình đang thử hình dùng một ét- ca- đơ- rông 2 ô- tô.
- Thật là nguy xuẩn! - Kalmykov phát cáu. - Ngựa sẽ còn
phục vụ cho các đạo quân. Một sự hoang đường phi lý! Hai ba trăm năm nữa sẽ ra
sao, chúng ta còn chưa biết, còn như ngày nay thì trong bất kỳ trường hợp nào,
kỵ binh…
- Nầy ông Dmitri Donskoi 3 ơi, nếu người ta đào chiến hào
làm vành đai vây quanh mặt trận thì ông sẽ làm thế nào? Hả? Thế nào, trả lời
đi!
- Mở đột phá khẩu, đột kích, biệt kích thọc sâu vào hậu
phương quân địch, đó là công việc của kỵ binh.
- Chỉ nói lung tung.
- Thôi các ngài ạ, đến lúc ấy chúng ta sẽ thấy.
- Chúng mình đi ngủ thôi.
- Nầy các ngài ạ, đã đến lúc cắt đứt câu chuyện rồi đấy,
nhiều người muốn ngủ đấy.
Cuộc tranh cãi sôi nổi một lát rồi lắng đi. Có người ngáy
và thở như huýt sáo dưới áo choàng dạ. Evgeni không tham gia câu chuyện. Hắn
nằm ngửa, hít cái mùi hăng hắc của lớp rơm lúa mạch đen lót dưới lưng. Kalmykov
làm dấu phép rồi nằm xuống bên cạnh.
- Trung uý ạ, ngài thử nói chuyện với thằng lính tình
nguyện Buntruc mà xem. Nó ở ngay trung đội của ngài đấy. Một thằng hay lắm!
- Hay như thế nào? - Evgeni vừa hỏi vừa xoay lưng về phía
Kalmykov.
- Một thằng Cô- dắc mà biến thành người Nga. Nó đã sống ở
Moskva. Một thằng thợ quèn mà chẳng có vấn đề gì nó không biết. Một thằng cực
kỳ liều lĩnh nhưng bắn súng máy thì tuyệt vời.
- Chúng mình ngủ đi thôi, - Evgeni nói.
- Nào, thì ngủ, - Kalmykov đang nghĩ về một chuyện gì
riêng. Hắn trả lời và vừa ngọ nguậy mười đầu ngón chân, vừa cau mày nói ra vẻ
biết mình có lỗi - Trung uý ạ, ngài thứ lỗi cho tôi nhé, hai chân tôi nó cứ
xông lên cái mùi như thế nầy… Ngài có biết không, ba tuần liền không được tháo
ủng, bít tất mủn ra vì mồ hôi… Thật là kinh tởm, ngài cũng biết đấy! Phải kiếm
lấy vải bọc chân ở chỗ bọn Cô- dắc mới được.
- Không sao đâu, - Evgeni lầu bầu rồi thiếp dần.
Evgeni đã quên câu chuyện nói với Kalmykov, nhưng ngay
hôm sau đã có một dịp làm cho hắn gặp người lính tình nguyện Buntruc. Trời vừa
tảng sáng viên đại đội trưởng đã ra lệnh cho hắn đi trinh sát và nếu có thể thì
bắt liên lạc với trung đoàn bộ binh hiện đang tiếp tục tấn công ở sườn bên
trái. Trong lúc còn tranh tối tranh sáng, Evgeni đi dò dẫm khắp cái sân, giữa những
tên Cô- dắc nằm ngủ ngổn ngang, để tìm gã hạ sĩ của trung đội.
- Cắt cho tao năm thằng Cô- dắc đi trinh sát. Bảo chúng nó thắng cho
tao con ngựa. Nhanh lên.
Năm phút sau có một gã Cô- dắc thấp
thấp đi tới ngưỡng cửa căn nhà nhỏ.
- Bẩm quan lớn. - Anh ta nói với
viên trung uý đang bỏ thuốc lá vào hộp, - hạ sĩ không cắt tôi đi trinh sát vì
chưa đến phiên tôi. Quan lớn cho phép tôi đi có được không?
- Mày muốn lập công à? Mới phạm tội
gì phải không? - Viên trung uý vừa hỏi vừa cố nhìn rõ mặt gã Cô- dắc trong bóng
tối xám xám.
- Tôi không phạm tội gì cả.
- Không sao, cho mày đi. - Evgeni
quyết định rồi đứng dậy.
- Nầy, thằng kia! - Gã Cô- dắc đã
quay ra, nhưng Evgeni gọi với theo. - Quay lại đây?
Gã kia bước tới.
- Mày ra bảo thằng hạ sĩ…
- Họ của tôi là Buntruc, - Gã Cô-
dắc ngắt lời hắn.
- Lính tình nguyện à?
- Vâng.
- Anh ra bảo hạ sĩ, - Evgeni luống
cuống một phút, rồi trấn tĩnh được và nói lại, - bảo hắn… Nhưng thôi được, anh
đi đi, để tự tôi bảo cũng được.
Bóng tối đã tan dần. Đội trinh sát
ra khỏi cái làng nhỏ, vượt qua những vọng tiêu và tuyến cảnh giới, tiến theo
hướng cái làng đã được ghi trên bản đồ.
Sau khi đi được nửa vec- xta, viên
trung uý cho ngựa chuyển sang bước một.
- Lính tình nguyện Buntruc!
- Có tôi.
- Mời anh lại đây.
Buntruc cho con ngựa hạng bét của
anh ta tiến lên ngang con ngựa thuần giống của viên trung uý.
- Anh người trấn nào thế? - Evgeni
vừa hỏi vừa nhìn kỹ hình trông nghiêng của khuôn mặt anh lính tình nguyện.
- Novocherkaskaia.
- Tôi có thể biết lý do thúc đẩy anh
tình nguyện vào lính được không?
- Vâng không sao, - Buntruc kéo dài
giọng trả lời với một vẻ hơi có chút giễu cợt rồi nhìn viên trung uý bằng cặp
mắt rất đanh, phớt phớl màu xanh lá cây. Mắt anh ta nhìn không chớp với một vẻ
rất kiên định. - Tôi muốn tìm hiểu nghệ thuật quân sự. Tôi muốn nắm được nghệ
thuật quân sự.
- Muốn vậy đã có những trường quân
sự.
- Vâng, vẫn có.
- Thế thì vì sao anh lại làm thế
nầy?
- Đầu tiên tôi muốn thử với thực tế
xem sao đã. Lý luận sẽ đến sau.
- Trước chiến tranh anh làm nghề gì?
- Tôi làm thợ.
- Anh đã làm việc ở đâu?
- Ở Peterburg, Rostov trên sông
Đông, ở nhà máy chế tạo vũ khí Tula… Tôi muốn xin được chuyển sang đội súng
máy.
- Anh đã quen với súng máy rồi à?
- Tôi có biết các kiểu Sốt, Bécchiê,
Málxen, Maxim, Hotkít, Bécman, Uýchoơ, Liuít, Sáclốt.
- Chà chà… Tôi sẽ thưa với quan
trung đoàn trưởng.
- Xin quan lớn thưa giúp cho.
Viên trung uý quay sang nhìn một lần
nữa cái thân hình không cao lớn nhưng chắc nịch của Buntruc, cái thân hình hao
hao gợi lên hình ảnh của cây ca- ra- ít vùng sông Đông. Chẳng có gì đập vào
mắt, chẳng có gì đặc biệt cả đều bình thường, chỉ có cái cằm nhô mạnh ra và cặp
mắt nhìn dễ bắt người ta phải quay đi làm cho khuôn mặt Buntruc có điểm phân
biệt được với muôn vàn khuôn mặt khác.
Buntruc không hay cười, mỗi khi cưởi
hai bên mép nhăn lại, nhưng hai con mắt vẫn không vì cười mà dịu đi chút nào,
vẫn giữ nguyên cái ánh sáng đùng đục nó làm người ta rất khó gần. Khắp người
Buntruc đều nghèo màu sắc, đều lạnh lùng, kín đáo, đúng là một cây ca- ra- ít,
thứ cây mọc thẳng đứng, rắn như thép, mọc trên đất chất đầy sỏi cát của vùng
sông Đông ảm đạm thê lương.
Hai người cùng cưỡi ngựa đi bên nhau
một lát, chẳng ai nói gì cả.
Hai bàn tay to bè bè của Buntruc đặt
trên chỗ mũi yên màu xanh lá cây đã tróc sơn. Evgeni lấy ra một điếu thuốc và
trong khi châm húl bằng que diêm do Buntruc đánh, hắn cảm thấy bàn tay Buntruc
có cái mùi mồ hôi ngựa ngọt ngọt như mùi nhựa chưng Những đám lông trên hai mu
bàn tay ấy mọc dầy như lông ngựa. Evgeni bất giác muốn vuốt vuốt những đám lông
ấy. Hắn nuốt một hơi khói đắng và nói:
- Anh hãy cùng với một gã Cô- dắc
nữa theo con đường mòn bên trái kia ra khỏi rừng. Có trông thấy không?
- Vâng.
- Nếu trong khoảng nửa vec- xta mà
không gặp bộ binh của ta thì quay trở lại.
- Xin tuân lệnh.
Hai người cho ngựa chạy nước kiệu.
Những cây bạch dương giống "bạn gái" mọc thành một đám sin sít, tách
rời hẳn khu rừng.
Phía sau đám bạch dương, những cây
thông lùn choằn choằn làm khổ con mắt với cái màu lá vàng vàng không vui vẻ
chút nào, những khoảng cây nhỏ thưa thớt, loăn xoăn, những bụi rậm bị nghiền
nát dưới những bánh xe vận tải của quân Áo. Ở bên phải, đằng xa kia, tiếng ầm
ầm của hoả lực pháo binh đang đè nén mặt đất, nhưng ở đây trong đám bạch dương
nầy, không khí sao mà êm ả… Đất thoả chí uống sương mai. Tất cả các thứ cỏ đua
nhau nở hoa xum xuê, hồng hồng, tươi thắm, nở xô bồ lúc sắp sang thu để báo
trước cái chết sắp tới của hoa, Evgeni cho ngựa đứng lại bên một cây bạch dương
nhỏ, dùng ống nhòm quan sát ngọn núi gồ lên như một cái bướu sau cánh rừng. Một
con ong xòe cánh đến kiếm mật trên đầu cán gươm của hắn.
- Ngu xuẩn thật - Buntruc nhận xét
cái sai lầm của con ong, khẽ nói, giọng thương hại.
- Cái gì hử? Evgeni buông ống nhòm
xuống.
Buntruc đưa mắt chỉ cho hắn xem con
ong. Evgeni mỉm cười.
- Mật nó gây sẽ đắng đấy. Anh thấy
thế nào?
Đã không phải là Buntruc trả lời
hắn. Không biết từ chỗ nào, sau đám thông đằng xa có một khẩu súng máy khạc đạn
với những tiếng chối tai như một con chim ác là, xé tan bầu không khí yên lặng.
Những viên đạn rú lên, xuyên rào rào
vào đám bạch dương. Một cành cây nhỏ bị đạn cứa đứt quay lộn, ngả nghiêng trên
không rồi rơi xuống bờm con ngựa của viên trung uý.
Cả nhóm miệng quát tay quật thúc
ngựa phi về cái làng nhỏ. Sau lưng họ, khẩu súng máy của quân Áo bắn một loạt
hết sạch băng đạn, không một lần nào dừng lại lấy hơi.
Sau hôm ấy, Evgeni còn có nhiều dịp
gặp anh lính tình nguyện Buntruc, và lần nào hắn cũng phải kinh ngạc trước ý
chí quật cường nó làm sáng hai con mắt đanh thép của Buntruc. Hắn chỉ có thể
ngạc nhiên mà không thể nào đoán ra điều gì đang ẩn sau cái vẻ kín đáo khó hiểu
nó phủ lên khuôn mặt một con người bề ngoài nom bình thường như vậy, chẳng khác
gì một bóng mây. Mà Buntruc cũng tựa như chẳng bao giờ nói hết ý mình, bao giờ
cũng có một nét cười in chặt lên hai bên mép kiên định, bao giờ cũng như đi
theo một con đường ngoằn ngoèo quanh một chân lý mà chỉ một mình anh biết.
Buntruc đã được chuyển sang đội súng
máy. Chừng mươi ngày sau (hôm ấy trung đoàn được nghỉ một ngày một đêm). Evgeni
đang đi tới chỗ viên đại đội trưởng thì đuổi kịp Buntruc. Buntruc đi qua một
cái nhà kho cháy trụi, vừa đi vừa nghịch nghịch, vung vẩy bàn tay trái.
- A- a, anh lính tình nguyện?
Buntruc quay đầu lại, đưa tay lên
vành mũ chào rồi đứng tránh sang bên đường.
- Anh đi đâu đây? - Evgeni hỏi.
- Tôi lên gặp ngài đội trưởng.
- Có lẽ chúng ta cùng đi một đường.
- Vâng, có lẽ thế.
Hai người đi trên dãy phố của cái
làng bị phá tan hoang, và cùng nín lặng một lát. Có những người lăng xăng bận
rộn trong những sân nhà gần những cái nhà kho, hiếm hoi còn nguyên vẹn, Một số
kỵ binh qua qua lại lại. Chiếc xe nhà bếp dã chiến bốc khói nghi ngút ngay giữa
phố với một hàng dài những gã Cô- dắc chờ đến lượt lĩnh khẩu phần. Mưa rơi lâm
râm xuống đầu mọi người.
- Thế nào, anh vẫn nghiên cứu chiến
tranh chứ? - Evgeni liếc nhìn Buntruc đi hơi lui về phía sau rồi hỏi.
- Vâng… tôi vẫn nghiên cứu.
- Anh định sau chiến tranh sẽ làm
gì? - Không hiểu sao Evgeni hỏi như thế, và cứ nhìn hai bàn tay lông lá của
người lính tình nguyện.
- Ai trồng dưa thì được dưa, trồng
đậu thì được đậu, còn tôi… tôi còn đang chờ xem - Buntruc nheo mắt trả lời.
- Nên hiểu ý anh nói như thế nào?
- Thưa trung uý, ngài có biết câu
phương ngôn: (hai con mắt Buntruc càng ti hí và càng sắc) "Kẻ nào gieo gió
thì gặt bão" không? Vấn đề là như thế đấy.
- Anh đừng có ví với von, hãy nói rõ
hơn đi.
- Như thế cũng đã rõ rồi. Xin tạm
biệt trung uý, tôi phải rẽ sang trái.
Buntruc đưa những ngón táy lông lá
lên lưỡi trai chiếc mũ cát- két Cô- dắc rồi rẽ sang trái.
Viên trung uý nhún vai, đưa mắt nhìn
theo Buntruc rất lâu.
"Không hiểu nó là một thằng như
thế nào, nó cố ý lập dị hay chỉ là một thằng cha có những ý nghĩ kỳ quặc!"
- Evgeni vừa bực bội nghĩ thầm vừa bước vào căn hầm sạch sẽ ngăn nắp của viên
đại đội trưởng.
--- ------ ------ ------ -------
1 Chứng di
truyền xuất hiện cách một đời hoặc nhiều đời (ND).
2 Đại đội
kỵ binh (ND).
3 (1380 -
1389) Một vị anh hùng dân tộc Nga, năm 1350 đánh bại đại quân Tarta ở vùng sông
Đông đặt cơ sở cho việc giải phóng người Nga khỏi ách thống trị của người Tarta
(ND).
Được đề
xuất cho bạn
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 70
Cả lính khoá ba cũng bị gọi đi cùng
một lượt với lính khoá hai. Các trấn, các thôn hai bên sông Đông đều vắng tanh
vắng ngắl, cứ như tất cả nhân dân vùng sông Đông đều đi gặt, đi làm các công
việc ngày mùa.
Năm ấy, một vụ gặt cay đắng đã diễn
ra rầm rộ trên các vùng biên giới: Thần chết đã xách cổ không biết bao nhiêu
người dân lao động, và đâu phải chỉ có một người đàn bà Cô- dắc đầu tóc rũ rượi
gào khóc người đã khuất: "Ôi anh yêu dấu, anh ơi là anh ơ- ơ- ơi! Anh bỏ
em để đi với ai thế nầy, anh ơi là anh ơi? "
Những người thân yêu gục xuống khắp
bốn phương, đổ ra như suối dòng máu Cô- dắc, và không bao giờ mở mắt nữa, không
bao giờ tỉnh lại nữa, mà chỉ tan rữa dưới lời cầu hồn của hoả lực pháo binh ở
Áo, ở Ba Lan, ở Phổ… Có lẽ gió đông cũng không đưa lại cho họ nghe thấy tiếng
khóc của mẹ già vợ dại. Tinh hoa của dân Cô- dắc đã rời bỏ nhà cửa xóm làng và
tiêu ma trong chết chóc, chấy rận, kinh hoàng tại các nơi đó.
Một ngày tháng chín đẹp trời, có đám
mây mỏng dính như mạng nhện, mầu trắng sữa óng ánh những sắc cầu vồng, xốp như
bông, bay qua thôn Tatarsky. Vùng mặt trời băng huyết gắng gượng nở một nụ cười
goá bụa, màu xanh đồng trinh, khắc khổ của nền trời mom tinh khiết và kiêu hãnh
đến khó chịu. Bên kia sông Đông, khu rừng bắt đầu nhuốm sắc vàng hiện lên sầu
thảm, những cây tiêu huyền phản chiếu một thứ ánh sáng bềnh bệch, những cây sồi
để rơi vài chiếc lá hiếm hoi đầy những hoa văn chạm khắc, chỉ những cây xích
dương là xanh rờn như chọc vào mắt, và sức sống hừng hực ấy đã làm vui mắt
những con ác là bay nhanh vùn vụt.
Hôm ấy ông Panteley Prokofievich
nhận được một bức thư từ đơn vị chiến đấu gửi về. Bức thư ấy do Dunhiaska mang
từ nhà dây thép về. Khi trao bức thư ấy, người chủ sự dây thép đã hạ mình cúi
chào, lắc lắc cái đầu hói, khoát rộng hai tay:
- Cô hãy vì Chúa mà thứ lỗi cho tôi,
tôi đã lỡ bóc bức thư nầy ra xem trước. Cô về nói hộ với ông nhà như thế nầy
nhé: cô bảo rằng bác Firk Sidorovich bác ấy đã bóc thư như vậy chỉ vì bác ấy
rất muốn biết tình hình ngoài ấy đánh nhau ra sao thôi… Thôi cô thứ lỗi cho tôi
nhé và cô về thưa hộ với cha, với ông Panteley Prokofievich như thế nhé.
Khác hẳn ngày thường, nom người chủ
sự dây thép ngơ ngơ ngác ngác. Ông ta đưa tiễn Dunhiaska mà không biết rằng mũi
mình đang dây đầy mực:
- Bên nhà ta đừng bực mình vì tôi
nhé, lạy Chúa cứu thế… tôi có là nơi quen thuộc thì mới… - Người chủ sự dây
thép lắp bắp nói sau lưng Dunhiaska những lời chẳng mạch lạc gì cả, rồi lại cúi
chào lần nữa. Cô bé thấy vậy giật nẩy mình, và cảm thấy như đã được báo trước
điều gì.
Về tới nhà, Dunhiaska hồi hộp quá,
mãi không lấy được bức thư trong ngực áo ra.
- Có nhanh lên không, con bé nầy?
Ông Panteley Prokofievich vừa quát lên vừa vuốt chòm râu nảy bần bật.
Dunhiaska lấy được chiếc phong bì
ra, nói liến thoắng:
- Bác chủ sự dây thép bác ấy bảo vì
địa chỉ cho nên bác ấy đã lỡ đọc bức thư, và cha đừng giận bác ấy.
- Mặc xác bác ấy! Của thằng Griska
à? - Ông già sốt ruột hỏi, hơi ông thở hổn hển phả cả vào mặt Dunhiaska - Hình
như của thằng Grigori phải không? Hay của thằng Petro?
- Không phải đâu cha ạ… thư nầy tay
người khác viết đấy.
- Thôi mày đọc đi, đừng làm tình làm
tội người ta nữa? - Bà Ilinhitna kêu lên rồi nặng nề lăn tới chiếc ghế dài (hai
chân bị sũng nặng, nên khi đi bà rất ít nhấc chân, thành thử nom cứ như lăn
trên những bánh xe nhỏ).
Natalia hổn hển chạy từ ngoài sân
vào đứng bên bếp lò. Nàng áp chặt hai bàn tay lên ngực, cái cổ tàn tật còn mang
vết sẹo vẹo sang một bên, nụ cười run run xao xuyến trên môi như một điểm nắng.
Nàng chỉ chờ được Grigori hỏi thăm
một lời, được Griska nhắc tới, dù chỉ sơ sơ, qua quít, miễn là có gì đền bù cho
cả tấm lòng quyến luyến, trung thành của nàng chẳng khác gì của một con chó.
- Còn con Daria đâu rồi? - Bà già
khẽ hỏi.
- Có câm đi không! - Ông Panteley
Prokofievich gầm lên (ông điên tiết, hai con mắt trợn tròn xoe) rồi ra lệnh cho
Dunhiaska đọc
"Tôi xin báo để ông rõ…-
Dunhiaska vừa bắt đầu đọc đã khuỵu trên chiếc ghế dài xuống, người run bần bật,
rồi thất thanh gào lên - Cha ôi! Cha yêu của con ơi! Ới mẹ ơi? Anh Griska nhà
ta! Hu! Hu! Anh Griska! bị chúng nó giết rồi!
Một con ong vò vẽ lăn vào vướng
trong đám là cây phong lử thảo héo hon, cứ vo vo đập mình mãi vào một khung cửa
sổ. Ngoài sân, một con gà mái kêu cục cục, coi bộ đến là bình an vô sự. Qua
cánh cửa mở toang, một tiếng cười của con nít vẳng từ xa vào trong phòng, lanh
lảnh như tiếng nhạc ngựa.
Mặt Natalia rúm ró như bị chuột rút,
nhưng nụ cười vừa nãy rung rung hai bên mép chưa kịp tan hẳn.
Ông Panteley Prokofievich đứng dậy,
đầu ngật ngẩt như lên chứng kinh giật. Ông ngơ ngác, ngây dại nhìn Dunhiaska
lăn lộn dưới đất.
" Tôi xin báo để ông rõ là con
trai ông, chiến binh Cô- dắc Grigori Panteley Melekhov thuộc trung đoàn Cô- dắc
sông Đông số 12 đã chết trận đêm 16 tháng mười Hai năm nay trong trận chiến đấu
ở gần thành phố Kamenko- Strumilovo. Con trai ông đã hy sinh anh dũng, mong
rằng đối với ông đó cũng là một niềm an ủi trước một sự mất mát không gì đền bù
lại được. Các đồ vật riêng còn lại sẽ chuyển cho người anh ruột của chiến binh
là Petro Melekhov. Con ngựa sẽ giữ lại trung đoàn.
Đại đội trưởng đại đội bốn, thượng
uý Polkonikov
Bộ đội chiến đấu
Ngày 18 tháng chín năm 1914".
Sau khi nhận được tin báo Grigori
chết trận, ông Panteley Prokofievich lập tức suy nhược hẳn đi. Trước mắt những
người thân thuộc, mỗi ngày ông già đi trông thấy. Kết cục nặng nề hình như đang
xồng xộc đến với ông, không tránh đâu cho thoát. Trí nhớ ông sút kém, xét việc
cũng đâm ra lẩm cẩm. Ông cứ gù gù cái lưng lang thang khắp nhà, da đen xạm lại
như màu gang, toàn bộ lâm trạng hỗn loạn của ông đều lộ rõ trong ánh mắt lừ đừ,
nóng rực.
Ông tự tay cất bức thư của viên đại
đội trưởng xuống dưới chỗ để các hình thánh. Mỗi ngày ông ra phòng ngoài đến
mấy lần, giơ ngón tay vẫy Dunhiaska.
- Ra đây cha bảo.
Dunhiaska bước ra.
- Mày mang bức thư viết về thãng
Grigori ra đây. Đọc đi! - Ông lão ra lệnh rồi lo lắng đưa mắt về phía cái cửa
ăn vào phòng trong.
Sau cánh cửa ấy, bà Ilinhitna đang
bị hành hạ bởi nỗi đau buồn không lúc nào nguôi.
- Mày đọc thật khẽ thôi nhé, cứ như
đọc thầm cho mình nghe ấy, - Ông nháy mắt nom rất láu cá, rồi thu nhỏ người
lại, đưa mắt về phía cái cửa, - đọc khẽ thôi nhé, kẻo mẹ mày… đến tai vạ mất…
Dunhiaska nuốt nước mắt đọc câu đầu.
Ông Panteley Prokofievich thường là ngồi xổm xuống nghe, nhưng vừa nghe đến đấy
ông đã giơ thẳng bàn tay đen thủi, to lù lù như móng ngựa.
- Thôi! Phần dưới tao biết rồi… Lại
đem vào, đặt xuống dưới những hình thánh đi… Thật khẽ thôi nhé, nếu không mẹ
mày… - Rồi ông lại nháy mắt một cách đáng ghét, người co quắp như miếng vỏ cây
bị bén lửa.
Tóc ông bạc từng đám, chẳng bao lâu
trên đầu đã đầy những đốm trắng loá mắt, chòm râu cũng mỗi ngày một thêm nhiều
sợi bạc.
Ông bắt đầu ăn như thần trùng, ăn
bừa bãi bẩn thỉu, ăn nhiều vô kể.
Sau lễ cầu hồn chín ngày, cha
Visarion và bạn bè thân thuộc được mời đến dự bữa ăn tưởng nhớ đứa con chết
trận Grigori của gia đình.
Ông Panteley Prokofievich nuốt vội
nuốt vàng, ăn lấy ăn để, những sợi mì bám từng vòng từng vòng trên râu ông. Mấy
ngày gần đây bà Ilinhitna đã lo sợ theo dõi chồng. Bà thấy vậy, khóc oà lên:
- Kìa bố nó? Bố nó làm sao thế?
- Có gì mà làm sao? - Ông già luống
cuống rời cặp mắt đục ngầu khỏi cái bát đã vơi hẳn.
Bà Ilinhitna xua tay quay đi, được
chiếc khăn tay thêu hoa vo tròn lên chùi nước mắt.
- Cha ạ, cha ăn cứ như người ba ngày
chưa có gì vào bụng ấy! - Daria trừng mắt nói giọng đanh ác.
Ăn ấy à? Ừ, phải, thế… thế… thế… tôi
sẽ không thế nữa… - Ông Panteley Prokofievich lúng túng, ngơ ngác nhìn một lượt
những người ngồi quanh bàn rồi nhay nhay cặp môi, nín lặng, mặt mày nhăn nhăn
nhó nhó, ai hỏi gì cũng không trả lời nữa.
- Phải cứng rắn lên mới được,
Prokofit ạ. Tại sao con lại tuyệt vọng đến như thế? - Sau bữa ăn tưởng niệm,
lão cố đạo Visarion an ủi ông. - Cái chết của Grigori là một cái chết thần
thánh con chớ nên làm Thượng đế giận dữ. Có con trai vì đức vua, vì Tổ quốc độ
vòng gai chịu nạn mà con… Như thế là tội lỗi đấy, Panteley Prokofievich ạ, con
có tội đấy… Thượng đế sẽ không tha thứ cho đâu!
- Con sẽ làm như thế, thưa cha… con
sẽ cứng rắn "Hy sinh anh dũng", ông đại đội trưởng cũng đã viết như
thế.
Ông già hôn tay lão cố đạo rồi vịn
tay vào cái rầm cửa, khóc oà lên, người run bần bật. Đây là lần đầu tiên ông
khóc suốt trong thời gian từ khi được tin con trai chết trận đến nay.
Từ hôm ấy, ông đã thắng được cái yếu
đuối của mình và tinh thần dần dần trở lại bình thường.
Mỗi người hàn gắn một cách vết
thương trong lòng mình.
Sau khi nghe Dunhiaska đọc tin báo
Grigori chết trận. Natalia chạy vùng ra sân nuôi gia súc: "Tự tử quách cho
xong? Đối với mình bây giờ tất cả thế là hết! Mau mau lên thôi!" - ý nghĩ
ấy theo đuổi nàng, rát như lửa bỏng. Natalia vật vã lăn lộn trong tay Daria và
chỉ cảm thấy nhẹ nhõm một cách sung sướng khi đã bất tỉnh.
Nhưng tránh sao được cho nàng, lúc
tỉnh lại và nhớ ngay những chuyện xảy ra. Nàng sống một tuần trong trạng thái
nửa tỉnh nửa mê rồi lại quay về với thế giới thực tế, người đổi khác hẳn, trầm
lặng hẳn đi, chìm trong một sự suy nhược đen tối… Người chết vô hình đã đến ở
trong nhà Melekhov, và những người sống cứ phải thở cái hơi thây ma như phớt
ánh xanh xanh.
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 71
Mười hai ngày sau khi có tin Grigori
chết trận, nhà Melekhov đã nhận được liền một lúc hai bức thư của Petro.
Dunhiaska đã đọc ngay thư ở nhà dây thép, rồi chạy tế về nhà như ngọn cỏ trong
cơn gió lốc, nhưng có lúc cô bé lại lảo đảo, đứng dựa vào hàng rào.
Dunhiaska làm cả thôn nháo lên một
trận rồi đem về nhà một niềm xúc động, không sao tả xiết:
- Anh Griska còn sống! Anh Griska
yêu dấu của nhà ta còn sống! - Từ xa Dunhiaska đã mếu máo gào lên - Anh Petro
có thư về! Anh Griska chỉ bị thương chứ không chết đâu! Còn sống, còn sống đấy!
"Thưa cha mẹ kính mến, - Petro
viết trong bức thư ngày hai mươi tháng chín. - Con xin báo tin để cha mẹ biết
rằng thằng Griska nhà ta thiếu chút nữa thì về chầu Chúa, nhưng hiện nay, ơn
Chúa, nó vẫn còn sống, khỏe mạnh như thường, và chúng con cũng cầu Chúa cho cha
mẹ được khỏe mạnh, và bình yên vô sự. Trung đoàn của thằng Griska đã chiến đấu
ở gần thành phố Kamenka - Strunmilovo. Trong lúc xung phong, anh em Cô- dắc
cùng trung đội với nó có trông thấy nó bị một thằng kỵ binh nhẹ Hunggary chém,
và thằng Grigori đã ngã ngựa, nhưng sau đó ra sao thì chúng con không được biết
gì cả. Con đã cố tìm cách hỏi anh em bên ấy, nhưng họ đã không thể cho biết gì
thêm. Mãi sau con mới được thằng Miska nhà Kosevoi cho biết (thằng Miska đến
liên lạc với trung đoàn con) rằng thằng Griska nằm đấy đến đêm, nhưng đến đêm
thì nó tỉnh dậy và lại bò đi. Nó đang tìm đường theo hướng sao bò về thì gặp
một sĩ quan của quân ta. Vị sĩ quan ấy bị thương và là trung tá một trung đoàn
long kỵ binh. Ông ta đã bị đạn pháo làm bị thương ở bụng và ở chân. Thằng Griska
đã cõng và kéo ông ta đi sáu vec- xta. Vì thế nó được tặng thưởng huân chương
chữ thập thánh Gióoc và được đề bạt làm hạ sĩ. Tình hình là như thế đấy! Vết
thương của thằng Griska cũng không can hệ gì lắm, thằng địch dùng gươm chém vào
đầu nó chỉ róc mất một mảng da. Nó đã ngã ngựa và mê đi. Nó sắp trở về đơn vị
đến nơi rồi, thằng Miska bảo thế. Cha mẹ thử lỗi cho con vì thư viết quấy quá
như thế nầy, con viết trên yên, lắc ghê quá".
Trong bức thư sau, Petro xin ở nhà
gửi cho mình ít anh đào khô "trồng trên những mảnh vườn của vùng sông Đông
yêu dấu" và nhắc đừng quên viết thư nhiều hơn. Cũng trong bức thư ấy,
Petro tỏ vẻ tức bực với Grigori vì theo lời bọn lính Cô- dắc, Grigori đã không
chăm nom con ngựa cẩn thận. Petro rất tức giận vì con Hạt Dẻ là con riêng anh
ta và là một con ngựa thuần giống. Petro xin bố viết thư bảo ban hộ Grigori.
"Con đã nhờ anh em Cô- dắc bảo
cho nó biết rằng nếu nó không chăm nom con ngựa ấy như chính là ngựa của nó thì
đến lúc gặp nhau con sẽ đánh bật máu mồm nó ra, dù cho bây giờ nó là một thằng
mang huân chương chữ thập", - Petro đã viết như thế, rồi tiếp theo đó là
không biết bao nhiêu lời thăm hỏi. Nhưng qua những hàng chữ viết trên bức thư
nhầu nát, hoen ố vì nước mưa, cứ thấy phảng phất một nỗi buồn cay đắng. Xem ra
Petro làm việc quan cũng chẳng có gì hởi lòng hởi dạ.
Nhìn ông Panteley Prokofievich trong
lúc ông đang sung sướng đến không còn biết trời đất gì nữa như thế nầy thì
không khỏi thương hại. Ông vồ lấy cả hai bức thư rồi mang đi khắp thôn, đón bắt
những người biết chữ, ép họ đọc, không phải để cho mình nghe, mà để khoe với bà
con toàn thôn niềm vui đến quá muộn của mình.
- Chà chà! Bác đã thấy thằng Griska
nhà tôi nó như thế nào chưa?
- Ông vừa nói vừa giơ thẳng bàn tay
bè bè như cái móng ngựa lên khi người đọc đánh vần từng tiếng, vấp váp mãi mới
tới chỗ Petro kể lại chiến công của Grigori cõng ngài trung tá bị thương đi sáu
vec- xta.
- Cả thôn ta có nó được thưởng huân
chương trước tiên đấy, - Ông già nói bằng một giọng kiêu hãnh rồi vội vã giằng
lại bức thư, cất kỹ vào trong lần lót của chiếc mũ cát- két nhầu nát và tất
tưởi đi kiếm một người biết chữ khác.
Cả đến lão Sergey Platonovich ngồi
trong khuôn cửa sổ nhỏ của cửa hiệu nhìn ra thấy ông cũng bước tới ngả chiếc mũ
lưỡi trai xuống chào.
- Ông Prokofievich, ông tạt vào chơi
một lát đã nào.
Lão chìa bàn tay múp míp trắng hếu
bắt tay ông giả và nói:
- Chà, xin chúc mừng ông, xin chúc
mừng ông… Hừm… Có được một cậu quý tử như thế thì cũng đáng lấy làm kiêu hãnh,
thế mà ông bà bên ấy lại làm lễ tưởng niệm cậu ấy. Tôi đọc trong các báo cáo
cũng được biết về chiến công của cậu ấy rồi.
- Cả trên mặt báo cũng có viết à? -
Cổ họng ông Panteley Prokofievich co thắt lại làm ông nấc lên.
- Đã có thông báo, tôi đã đọc rồi,
tôi đã đọc rồi.
Sergey Platonovich tự tay lấy trên
giá hàng xuống ba bao thuốc lá sợi Thổ nhĩ kỳ thượng hảo hạng, rồi không cần
cân kẹo gì cả, đổ một số kẹo đắt tiền vào một cái túi giấy, đưa luôn tất cả cho
ông Panteley Prokofievich và nói:
- Nhờ ông gửi tặng cậu Grigori
Pantelevich ít quà, xin ông chuyển giúp lời chào hỏi của tôi và những cái nầy.
Lạy Chúa tôi? Thằng Griska danh giá
đến thế cơ à? Đầu thôn cuối xóm chỗ nào cũng nói đến nó… Mình sống được đến lúc
nầy cũng hả lòng hả dạ… - Ông già vừa lẩm bẩm vừa rời khỏi bậc thềm của cửa hiệu
Mokhov. Ông hỉ mũi, đưa tay áo trermen lên lau những giọt nước mắt chảy xuống
làm má ông buồn buồn, bụng bảo dạ: "Đúng là mình già mất rồi. Đã bắt đầu
mau nước mắt… Chao ôi, Panteley, Panteley, anh đã phí hoài cuộc đời vào những
việc gì rồi? Trước kia cứng rắn như tảng đá, vác được dưới thuyền lên những bao
hàng tám pút, thế mà bây giờ. Thằng Griska đã có phần làm mình yếu đuối đi
rồi!"
Ông khập khiễng đi theo dãy phố, tay
ôm khư khư gói kẹo trước ngực, và như con dẽ mào trên bãi lầy, đầu óc ông cứ
quẩn quanh với chuyện Grigori, những lời trong bức thư của Petro luôn luôn hiện
lên trong trí nhớ của ông. Giữa lúc ấy ông gặp ông thông gia. Miron
Grigorievich gọi ông Panteley Prokofievich trước.
- Ơ nầy ông thông gia, hượm cái đã
nào!
Từ ngày tuyên bố chiến tranh đến
nay, hai người chưa gặp nhau lần nào. Sau khi Grigori bỏ nhà ra đi, quan hệ
giữa hai người tuy không phải là thù địch, nhưng cũng lạnh nhạt và căng thẳng.
Miron Grigorievich bực mình với Natalia vì nàng đã chịu nhục trước Grigori, đã
cầu xin Grigori rủ lòng thương. Vì thế nên ngay đến ông, Miron Grigorievich
nầy, cũng bị bắt phải chịu một sự nhục nhã cũng như thế.
- Con chó cái hoang ấy, - Lúc chỉ có
vợ chồng con cái với nhau, ông chửi Natalia, - Ở nhà với bố chẳng ở, lại vác
mặt sang nhà bố mẹ chồng mà ở. Bên nhà nó gạo trắng nước trong hơn ở đây chắc?
Chỉ vì nó, cái con đần độn ấy mà bố nó cũng phải chịu nhục chịu nhã, phải cúi
đầu trước mặt người ta.
Miron Grigorievich đi tới sát ông
thông gia và giơ bàn tay lấm tấm tàn hương, khum khum như chiếc thuyền con.
- Ông có khỏe không, ông thông gia?
- Ơn Chúa, chào ông thông gia!
- Hình như ông đi mua hàng về phải
không?
Ông Panteley Prokofievich giơ bên
tay phải không vướng gì lên, lắc đầu.
- Ông thông gia ạ, đây là quà tặng
người anh hùng của chúng ta đấy. Ông Sergey Platonovich hằng tâm hằng sản đọc
trên báo chí biết được chiến công của nó, nên đã tặng nó kẹo và thuốc lá thơm
đấy. Ông ấy bảo: "Nhờ ông gửi tới người anh hùng của chúng ta lời chào
mừng và quà tặng của tôi, mong sau nầy cậu ấy vẫn tỏ ra xuất sắc như thế".
Ông ấy nói thế mà nước mắt cứ tuôn ra ròng ròng ấy, ông có biết không, ông
thông gia? - Ông Panteley Prokofievich khoe khoang không còn mức độ gì nữa và
cứ nhìn chằm chằm vào mặt ông thông gia, cố dò xem lời mình nói có tác động như
thế nào.
Nhưng dưới hai hàng mi trắng phếch
của ông thông gia chỉ thấy tụ lại hai điểm sáng sáng làm cho cặp mắt nhìn xuống
của ông ta có vẻ như cười nhạo.
- À- à ra thế, - Miron Grigori nói
khàn khàn rồi đi qua phố sang dãy hàng rào bên kia.
Ông Panteley Prokofievich hấp tấp
chạy theo vừa mở túi kẹo.
Ông tức quá, mười ngón tay run lên
bần bật:
- Ông thử xơi một chiếc kẹo xem, kẹo
mật ong đấy, - Ông mời ông thông gia, giọng châm chọc. - Mời ông xơi đi, tôi
mời thay con rể ông đấy… Cuộc đời ông kể ra cũng chẳng ngọt bùi gì cho lắm, có
lẽ ông xơi một miếng thì cậu nhà ta may ra cũng được danh giá như thế, kẻ lại
chẳng có gì cả…
- Ông chớ động đến cuộc đời của tôi.
Đời tôi thế nào tôi biết.
- Ông nếm thử một chiếc cho tôi được
vinh dự mời ông nào! - Ông Panteley Prokofievich chạy vòng lên phía trước ông
thông gia, cúi đầu chào với một vẻ ân cần quá mức, mấy ngón tay lòng khòng mở
tờ giấy thiếc rất mỏng, bóc cái kẹo.
- Chúng tôi không quen ăn của ngọt,
- Miron Grigorievich gạt tay ông thông gia. - Chúng tôi không quen, răng nhà
chúng tôi ăn của người khác cho sẽ nát vụn ra ngay. Mà cả ông nữa, ông thông
gia ạ, ông cũng đừng nên đi bám lấy người ta mà quyên của bố thí cho con trai
như thế. Nếu có thiếu, ông cứ lại nhà tôi. Tôi cũng có thể cho con rể… Con Natalia còn sang nhà ông mà
ăn cơ mà. Ông có nghèo tôi cũng có thể cho ông được đấy.
- Họ nhà tôi chưa từng có ai ngửa tay đi xin của bố thí
bao giờ, ông đừng dùng những lời nặng nề mà nói bậy nói bạ, ông thông gia ạ!
Ông thật quá huênh hoang kiêu ngạo, ông thông gia ạ! Huênh hoang kiêu ngạo quá
lắm! Chắc hẳn chính vì ông sống quá sung túc nên con gái ông mới sang ở nhà
chúng tôi như thế đấy.
- Thôi đi! Miron Grigorievich nói giọng như ra lệnh. -
Chúng ta chẳng có gì đáng nặng lời với nhau đâu. Ông thông gia ạ, tôi đến đây
không phải để chửi bới cãi cọ, ông hãy nguôi đi. Có chút việc, chúng ta hãy
cùng bàn.
- Chẳng có việc gì đáng bàn cả.
- Có có đấy. Chúng ta đi đi!
Miron Grigorievich nắm tay áo trermen của ông thông gia,
kéo vào một cái ngõ. Hai người đi qua vài cái sân, ra đồng cỏ.
- Có việc gì thế? - Ông Panteley
Prokofievich hỏi. Cơn giận của ông đã nguôi nguôi nên giọng ông cũng tỉnh táo.
Ông liếc nhìn khuôn mặt trắng bệch đầy tàn hương của Miron Grigorievich vén hai
tà áo ngoài rất dài, ngồi lên bờ một cái rãnh, rồi lấy ra cái túi thuốc cũ, có
tua viền.
- Ông có thấy không, ông Panteley
Prokofievich, chẳng hiểu sao ông cứ sừng sừng sộ sộ với tôi như con gà chọi ấy.
Người trong nhà với nhau mà như thế thì không tốt đâu. Có lẽ như thế không tốt
đâu ông thấy thế nào? Tôi muốn hỏi xem, - Miron Grigorievich bắt đầu nói bằng
một giọng đổi khác, cứng rắn, hơi thô bạo, - con trai ông còn định bêu giếu con
Natalia bao lâu nữa? Ông hãy bảo cho tôi biết!
- Chuyện ấy thì ông đi tìm nó mà
hỏi.
- Tôi chẳng có gì phải hỏi nó, ông
là đầu não của cả gia đình ông, chính vì thế tôi đã tìm ông để nói chuyện.
Ông Panteley Prokofievich ấn nát cái
kẹo đã bóc giấy trong lòng bàn tay. Chất nước chocolatte lầy nhầy chảy theo
những kẽ ngón tay ông. Ông chùi tay xuống cái ụ đất nâu nâu xốp xốp bên bờ rãnh
rồi chẳng nói chẳng rằng, lấy thuốc ra hút. Ông cuốn một mẩu giấy, nhét vào một
đám thuốc lá sợi Thổ nhĩ kỳ trong bao thuốc rồi đưa bao thuốc cho ông thông
gia. Miron Grigorievich không khách khứa gì cả, tiếp ngay lấy và cuốn một điếu
bằng món quà mà lão chủ hiệu Mokhov vừa hào phóng đem tặng. Hai người cùng hút
thuốc… Trên đầu họ một đám mây trắng ưỡn bộ ngực lồm xồm bay lơ lửng. Một cái
mạng nhện bị gió đưa vụt lên khỏi mặt đất, tới một độ cao khó tưởng tượng và
nhẹ nhàng lượn lờ trên đó.
Mặt trời đã sắp lặn. Không khí mùa
thu tịch mịch, êm ả một cách lạ lùng, cứ như ru ngủ. Bầu trời dạo nầy đã mất
cái ánh chói loà của mùa hè, và chuyển thành màu lam đùng đục. Những cái lá táo
có trời biết từ đâu bay tới đổ xuống mặt rãnh một màu đỏ tía lộng lẫy.
Con đường chia thành nhiều nhánh lẩn
ra sau dãy sóng núi nhấp nhô như sóng gợn. Nó chào mời con người đi về phía đó,
về sau đường chân trời xanh xanh mầu ngọc bích, mung lung như một giấc mơ, để
tới một khoảng không gian chưa biết trước sẽ như thế nào, nhưng nó mời mọc đến
mấy cũng hoài công vô ích, vì con người đang bị trói buộc trong gông cùm của
nơi ở, của đời sống hàng ngày, bị mệt mỏi rã rời trong công việc làm ăn, bị
kiệt hết sức lực trong những buổi đập lúa, do đó, con đường, cái vệt dài đầy
buồn phiền và hoang vắng đó, cứ trườn đi cắt ngang đường chân trời, tới nơi
không thể nhìn tới được. Và trên mặt đường chỉ có bụi tung, gió quét.
- Thuốc lá nhẹ quá, như cỏ ấy, -
Miron Grigorievich vừa nói vừa thở ra một đám khói thuốc mãi không tan.
- Cũng hơi nhẹ đấy, nhưng… dễ hút
lắm, - Ông Panteley Prokofievich đồng ý.
- Ông thông gia ạ, ông hãy trả lời
tôi đi. - Miron Grigorievich hỏi giọng uể oải rồi dụi tắt điếu thuốc.
- Thằng Grigori chẳng viết gì về
chuyện ấy. Nó lại bị thương.
- Tôi có nghe nói thế…
- Còn sau nầy ra sao thì tôi không
biết. Cũng có thể là thật nó bị giết. Mà nếu thế thì sẽ ra sao?
- Sao lại thế được, ông thông gia? -
Miron Grigorievich hấp háy con mắt, mặt ngơ ngơ ngác ngác nom đến là thảm hại.
- Con bé nhà tôi bây giờ sống con gái không ra con gái, đàn bà có chồng không
ra đàn bà có chồng, cũng chẳng phải là ở goá chính chuyên, thật là nhục nhã.
Nếu trước kia biết được rằng bây giờ đi đến nông nỗi nầy thì tôi đã chẳng để
cho mối manh bên ông bén mảng đến ngưỡng cửa nhà tôi. Nếu thế thì đâu đến nỗi
như bây giờ? Chao ôi, ông thông gia, ông thông gia… Con cái mình, ai mà chẳng
thương… Cái dòng máu, nó cứ gọi ơi ới…
- Tôi thì còn làm được gì bây giờ? -
Ông Panteley Prokofievich bắt đầu tấn công, ông đã điên lên rồi, nhưng vẫn cố
nhịn. - Ông hãy nói rõ cho tôi biết. Chẳng nhẽ thằng con tôi bỏ nhà ra đi, tôi
sung sướng lắm đấy phỏng? Hay là tôi nhờ chuyện ấy mà có lợi lộc gì? Người đâu
mà lạ!
- Ông hãy viết thư cho nó, - Miron
Grigorievich nói như ra lệnh, giọng trầm trầm. Theo nhịp những lời ông nói, một
dòng đất sét vụn lạo xạo tuôn từ bàn tay ông xuống cái rãnh như những con suối
nâu nâu trẻ con chơi nghịch, - bảo nó phải nói dứt khoát lấy một lời.
- Nó lại có con với con kia rồi…
- Con gái tôi cũng sẽ cố con với nó,
- Miron Grigorievich đỏ mặt tía tai quát lên. - Chẳng nhẽ đối với một người còn
sống mà có thể đối xử như thế hay sao? Hả? Đưa nó đến chỗ chết một lần rồi, bây
giờ tàn tật như thế nầy… lại còn muốn xô nó xuống mồ nữa hay sao? Hả? Cũng phải
có lương tâm chứ, cũng phải có lương tâm chứ! - giọng Miron Grigorievich chuyển
thành thầm thì, nghẹn ngào. Một tay ông cào lên ngực, còn tay kia kéo tà áo ông
thông gia.
- Hay là quả tim nó là tim lang tim sói?
Ông Panteley Prokofievich thở phì
phì quay mặt đi.
- Con bé thì cứ héo hon vì nó, cả
cuộc đời chỉ còn hy vọng có nó. Cứ ở nhà ông mà làm tôi mọi hay sao?
- Nó ở nhà tôi được quý hơn con đẻ
đấy! Ông im cái mồm đi! - Ông Panteley Prokofievich quát lên rồi đứng vùng dậy.
Hai người bỏ đi mỗi người một ngả,
chẳng ai chào ai.
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 72
Cuộc sống tràn ra ngoài dòng chảy
của nó, phân thành muôn ngàn nhánh nhỏ. Khó mà đoán trước được diễn biến giảo
quyệt, tinh quái của nó sẽ hướng theo nhánh nào. Ở chỗ hôm nay dòng đời cạn đi
như con sông ở khúc nông, cạn đến trông thấy cả những vật lắng trầm bẩn thỉu,
tởm lợm của nó, thì ngày mai nước sẽ chảy mênh mông, tràn trề…
Không hiểu sao trong lòng Natalia
bỗng nhiên chín muồi quyết tâm đến Yagonoie gặp Acxinhia để van lơn, cầu xin
Acxinhia trả lại Grigori cho mình. Không hiểu sao Natalia có cảm tưởng như tất
cả đều tuỳ thuộc vào Acxinhia và cứ đến xin Acxinhia thì Grigori cùng hạnh phúc
trước kia sẽ trở lại với mình. Nàng cũng không suy tính xem điều đó có thể thực
hiện được không và Acxinhia sẽ nghe lời yêu cầu kỳ quặc của mình như thế nào.
Bị thúc đẩy bởi một tình cảm nằm sâu trong tiềm thức, nàng chỉ muốn thực hiện
mau chóng quyết tâm đột ngột của mình. Đến cuối tháng, nhà Melekhov nhận được
bức thư của Grigori. Sau những lời thăm hỏi mẹ cha, Grigori đã gửi lời chào và
nói lên lòng kính trọng hết sức sâu sắc đối vớì Natalia Mironovna. Chẳng hiểu
Grigori làm thế vì một nguyên nhân bí mật nào, nhưng dù sao đối với Natalia đó
cũng là một điều khuyến khích. Vì thế vừa tới chủ nhật nàng sửa soạn đi Yagonoie
ngay.
- Chị đi đâu thế, chị Nataska? -
Dunhiaska thấy Natalia soi khuôn mặt mình một cách chăm chú và khắt khe trong
mảnh gương vỡ bèn hỏi.
- Chị về thăm nhà cái, - Natalia nói
dối rồi đỏ mặt. Lần đầu tiên nàng hiểu rằng mình đang đi chịu một điều hết sức
nhục nhã, một cuộc thử thách tinh thần rất lớn.
- Natalia à, sao thím chẳng cùng tôi
ra bãi chơi lấy một lần, - Daria vừa trang điểm vừa hỏi. - Tối nay thím đi nhé!
- Tôi cũng chẳng biết, đi mà làm gì.
- Chà, cái thím nầy, cứ như tu kín
không bằng! Chỉ còn có chị em chúng mình thôi mà, các đức ông chồng của chúng
mình có nhà đâu - Daria nháy mắt nói tếu, rồi mềm mại gập đôi người, soi trong
chiếc gương cái vạt chiếc váy mới màu da trời nhạt.
Từ ngày Petro lên đường, Daria biến
đổi hẳn: cảnh sống vắng chồng đã ảnh hưởng đến nhiều tới chị chàng. Trong cặp
mắt, dáng đi và mọi cử chỉ của Daria đều thấy lộ một vẻ bồn chồn xao xuyến. Cứ
chủ nhật là Daria trang điểm đỏm dáng, mãi khuya mới ở bãi chơi trở về. Có lần
Daria than phiền với Natalia, tròng con mắt tối sầm lại đầy tức tối:
- Tai hại thật, có Chúa chứng giám!
Bao nhiêu gã Cô- dắc tạm dùng được đều bị xách cổ đi hết cả rồi, trong thôn còn
lại độc một loại không nhãi ranh thì cũng già sóc.
- Thế thì can gì đến chị?
- Sao lại không? - Daria ngạc nhiên.
- Ra bãi chơi chẳng còn anh chàng nào mà dấm dớ nữa. Ít nhất cũng phải tìm cách
láng cháng ra nhà máy xay một mình, nếu không thì đừng hòng thoát khỏi bố
chồng…
Rồi Daria trâng tráo hỏi toạc móng
heo Natalia:
- Sao thế, cô em thân mến, không có
một gã Cô- dắc bên cạnh mà chịu mãi được à?
- Thôi không nói chuyện ấy nữa, chị
thật không biết xấu! - Mặt Natalia đỏ lên như gấc.
- Thế thím không muốn à?
- Còn chị thì có lẽ chị muốn đấy
chắc?
- Muốn hẳn đi chứ, cô nàng ạ? Daria
cười phá lên, mặt đỏ bừng, lông mày rung rung cong lên thành hai vòng cung. -
Chẳng cần phải giấu giếm làm gì… Bây giờ thì bất kỳ lão già nào tôi cũng có thể
làm cho nóng điên lên được, thật đấy! Thím thử ngẫm mà xem, không có anh Petro
ở nhà đã hai tháng rồi.
- Chị đến mang vạ vào thân thôi, chị
Daria ạ.
- Thôi đi bà cụ non! Chúng tôi đã biết chán các chị chàng
tẩm ngẩm tầm ngầm như thế nầy rồi. Có lẽ thím không chịu thú nhận đấy thôi.
- Tôi chẳng có gì phải thú nhận.
Daria liếc nhìn Natalia một cách nhạo báng rồi cắn môi
bằng những cái răng nhỏ như răng chuột nom rất đanh ác và kể cho Natalia nghe:
- Hôm nọ trên bãi chơi, thằng Timoska Manykov, con trai
lão ataman, sán đến gần tôi. Nó cứ ngồi đấy, mồ hôi đổ ra như tắm. Tôi thấy rõ
là thằng nhóc sợ không dám động chân động tay… Mãi sau nó mới đánh liều luồn
tay vào nách tôi, bàn tay run bần bật. Tôi chẳng nói chẳng rằng, cố ngồi yên,
nhưng trong lòng tức sôi lên rồi.
Nếu nó là một thằng thanh niên thì chẳng nói làm gì, đằng
nầy lại xỉ mũi còn chưa sạch? Nó mới khoảng mười sáu, chỉ thế là cùng, thím thử
xem cái thớ nó thì giở được trò gì… Tôi cứ lặng thinh ngồi đấy, còn thằng nhóc
con thì mân mê mó máy một lát rồi rỉ tai tôi: "Sang cái kho lúa bên tôi
đi!" Chà, tôi mới cho nó một trận nên thân!
Daria vui vẻ phá lên cười, trên mặt chị chàng hai hàng
lông mày nẩy nẩy, cặp mắt nheo lại long lanh theo tiếng cười.
- Tôi bèn đẩy cổ nó ra, nhảy chồm lên: "À cái thằng
chết dẫm nầy! Đồ chó con miệng còn hơi sữa! Mày lại dám thở ra với tao những
lời như thế à? Mày đã thôi đái dầm ra quần ban đêm được bao lâu rồi hử!"
Rồi tôi lại cho nó thêm một tràng nữa!
Giữa Natalia và Daria đã có được mối quan hệ thẳng thắn
và thân mật. Lòng hiềm ghét mà hồi đầu Daria có cảm thấy đối với em dâu đã dịu
dần và hai người đàn bà tính nết khác nhau, tất cả các mặt đều chẳng có gì
giống nhau, lại vẫn ăn ý, sống hoà hợp với nhau.
Natalia mặc áo xống xong, ra khỏi
phòng trong.
Daria đuổi kịp Natalia ở phòng
ngoài.
- Hôm nay thím mở cửa cho tôi nhá!
- Có lẽ tôi sẽ ngủ đêm bên nhà tôi.
Daria đưa cái lược lên gãi gãi chỗ
tinh mũi, ngẫm nghĩ một lát rồi lắc đầu:
- Thôi, thím cứ đi đi. Tôi không
muốn nhờ Dunhiaska làm việc nầy, nhưng có lẽ cũng đến phải nhờ thôi.
Natalia nói với bà Ilinhitna rằng
nàng về nhà rồi bước ra phố.
Mấy chiếc xe ở trong chợ chạy qua
bãi thôn, bà con trong thôn đang ở nhà thờ về. Natalia đi qua hai cái ngõ rồi rẽ sang
trái. Nàng vội vã lên dốc. Lên đến con đường đèo nàng quay đầu nhìn lại: bên
dưới kia, cái thôn nằm dài dưới nắng đổ xuống ào ào như nước lũ, những căn nhà
nhỏ quét vôi trắng loá, nắng xiên khoai chiếu vào cái mái thoai thoải của nhà
máy xay, phản chiếu lấp loáng, chất sắt tây sáng rực lên như quặng bị nung
chảy.
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 73
Cả Yagonoie cũng bị chiến tranh lôi mất người đi.
Venhiamin và Tikhol đã bị gọi ra lính. Sau đó trang trại càng âm thầm, lặng lẽ
và buồn thảm hơn. Acxinhia phải hầu hạ viên tướng già thay Venhiamin. Mụ
Lukeria mông to tầy dành bây giờ gầy đi, giữ việc nấu ăn cho đầy tớ và trông
nom gà vịt. Cụ Xaska kiếm cả hai việc coi ngựa và trông nom vườn tược. Chỉ thêm
một người đánh ngựa mới là Nikichit, dân Cô- đắc, đã nhiều tuổi, tính nết chín
chắn.
Năm nay lão địa chủ giảm bớt diện tích gieo trồng, đem
chừng hai mươi con ngựa bổ sung cho quân đội, chỉ giữ lại những con ngựa thuần
giống chạy nước kiệu và một cỗ ba con ngựa sông Đông dùng cho các nhu cầu của
công việc đồng áng. Lão giết thời giờ bằng cách đi săn, cùng Nikichit đi săn
vịt trời, và lâu lâu đem đàn chó đi săn đuổi, làm náo động cả vùng xung quanh.
Acxinhia không nhận được thư của Grigori luôn, có nhận
được thì cũng chỉ vài dòng ngắn ngủi báo tin chàng còn sống, vẫn khỏe mạnh, vẫn
bận việc quan. Không biết là chàng gan góc chịu đựng hay không muốn viết ra
trong thư sự yếu đuối của mình mà chẳng lần nào thấy Grigori viết một chữ nào
cho biết rằng mình đau khổ, buồn chán. Những bức thư ấy toát ra một cái gì lạnh
nhạt, cứ như bắt buộc phải viết, và mãi đến lúc cuối cùng mới hở ra một câu:
"… lúc nào anh cũng trong hàng ngũ, và hình như anh đã chán ngấy cái việc
đánh nhau, ngấy cái kiểu luôn luôn đeo sẵn cái chết trong túi yên ngựa".
Thư nào chàng cũng hỏi thăm con gái và dặn Acxinhia viết cho chàng biết tin
con: "… em viết cho anh biết con Tanhiuska của anh đã lớn ngần nào rồi,
hiện nay như thế nào rồi? Mới đây anh đã nằm mơ thấy con lớn lắm, mặc áo dài
đỏ".
Bề ngoài Acxinhia có vẻ chịu đựng được cảnh chia ly một
cách cứng rắn. Toàn bộ tình yêu của nàng đối với Grigori, nàng đem dồn hết cho
con, nhất là sau khi nàng đã chắc chắn rằng mình đã sinh ra một đứa con đúng là
con của Grigori. Đời sống đã đem lại những bằng chứng không ai bác bỏ được;
lượt tóc đỏ sẫm rụng xuống nhường chỗ cho những món tóc mới, vừa đen vừa xoăn;
cả hai con mắt cũng đổi màu, đen lại, đuôi mắt kéo dài ra. Càng ngày đứa bé
càng giống bố nó một cách lạ lùng, ngay đến nụ cười cũng cho thấy một cái gì
của nhà Melekhov, của Griska, một nụ cười hơi man rợ, như của thú rừng. Bây giờ
thì mỗi khi nhìn con, Acxinhia đã nhận ngay ra bố nó, không còn chút nghi ngờ
gì nữa, vì thế lòng yêu con ngày càng bừng bừng trong lòng nàng như lửa đốt,
khác hẳn trước kia, hồi nàng còn bước lại gần cái nôi, lảo đảo vì tìm thấy trên
khuôn mặt nhỏ nhoi của đứa con gái đang ngủ một cái gì chỉ có chút hao hao, một
cái gì hơi phảng phất, gợi lại những nét trên bộ mặt Stepan mà nàng ghét cay ghét
đắng.
Ngày nọ nối ngày kia trôi qua, và mỗi ngày để lại thêm
trong lòng Acxinhia một chút của niềm cay đắng nung nấu. Nỗi lo lắng cho tính
mệnh người yêu xoắn sâu vào trong óc nàng ban ngày không buông tha nàng, ban
đêm lại càng ập tới, và chính ban đêm là lúc tất cả những cái gì tích luỹ trong
lòng, bị ghìm hãm chờ đến lúc tự do, phá vỡ những cái đê ngăn giữ nó: thâu đêm
Acxinhia lăn lộn, khóc không ra tiếng, nước mắt đầm đìa; nàng cắn vào tay mình,
cố giữ cho con khỏi thức giấc. Cái đau đớn về thể xác đã nén được cái đau đớn
trong lòng và chặn được tiếng khóc. Nàng cứ nghĩ tới vẻ mặt ngây thơ của con mà
tuôn hết nước mắt xuống tã lót của nó: "Con của Griska, có lẽ tự nhiên anh
ấy cũng phải cảm thấy rằng mình buồn nhớ anh ấy như thế nào".
Sau những đêm như thế, nàng tỉnh dậy như người vừa ăn một
trận đòn hội chợ: khắp người nàng đau dần, cứ như có những cái búa bằng bạc dai
dẳng đập coong coong vào hai bên thái dương nàng, không lúc nào ngừng. Một nỗi
đau khổ chịu đựng rất dũng cảm hiện rõ trên hai bên mép cặp môi trước kia mọng
đỏ như môi con gái nhưng nay đã trề xuống. Những đêm đau thương dằn vặt đã làm
Acxinhia già đi…
Một ngày chủ nhật, nàng đem bữa sáng lên cho lão địa chủ
ăn xong, vừa bước ra thềm thì thấy một người đàn bà đi vào cổng trang trại. Dưới
chiếc khăn trắng bịt đầu bừng bừng một cặp mắt nom quen đến rợn người. Người
đàn bà ấy đẩy then cửa, bước vào trong sân, Acxinhia nhận ra Natalia, tái mặt
đi, từ từ bước ra đón. Hai người gặp nhau ở giữa sân. Một lớp bụi đường rất dầy
bám trên đôi ủng mũi nhọn của Natalia. Nàng đứng lại, hai bàn tay lao động rất
to thõng xuống như không còn sức sống. Nàng thở hổn hển, cố giữ thẳng cái cổ
tàn tật nhưng không được, thành thử có cảm tưởng như nàng nhìn sang một chỗ nào
khác.
- Tôi đến gặp chị đây, chị Acxinhia ạ… - Nàng vừa nói vừa
dưa cái lưỡi khô bỏng ra liếm cặp môi bị gió thổi nứt nẻ.
Acxinhia đưa nhanh mắt về phía dãy cửa sổ của ngôi nhà
chính rồi lặng lẽ đi về nhà đầy tớ, vào gian của mình. Natalia lẽo đẽo theo
sau. Tiếng loạt soạt của chiếc áo dài Acxinhia mặc cứ như chọc vào tai nàng,
đến là khó chịu.
"Có lẽ trời oi quá nên tai mình mới đau như thế
nầy" - Một ý nghĩ nảy ra lẫn với những ý khác rối như bòng bong trong đầu
óc Natalia.
Acxinhia để Natalia vào rồi đóng cửa. Đóng cửa xong, nàng
luồn hai tay xuống dưới chiếc tạp dề trắng, đứng ngay giữa phòng, bắt đầu làm
chủ tình thế ngay.
- Cô đến đây làm gì thế? - Giọng nàng ngọt xớt, gần như
thầm thì.
- Cho tôi xin hớp nước… - Natalia hỏi xin rồi đưa cặp mắt
nặng nề nhưng quật cường khắp căn phòng.
Acxinhia đứng chờ. Natalia bắt đầu nói, nàng phải cố gắng
lắm mới cất được giọng:
- Chị đã cướp chồng tôi… Chị hãy trả Grigori cho tôi!
Chị… đã hại cả một đời tôi… Chị thấy không, bây giờ tôi như thế nào…
- Trả chồng cho cô à? - Acxinhia nghiến răng ken két và
những lời nàng nói ra cũng dè sẻn như những giọt mưa rơi trên đá - Trả chồng
cho cô à? Cô đi xin xỏ ai thế hử? Cô vác mặt đến đây làm gì hử? Việc đi xin nầy
cô nghĩ ra muộn quá đấy! Muộn mất rồi!
Acxinhia cười nhạt một cách rất đanh đá, lắc lư toàn thân
tiến sát lại. Nàng nhìn thẳng vào mặt kẻ tình địch bằng cặp mắt giễu cợt. À ra
đây, đây chính là con vợ chính thức bị bỏ rơi bây giờ nhục nhã, đau khổ, vác
xác đến trước mặt mình. Đây chính là cái con vì nó mà Acxinhia nầy phải chia ly
với Grigori, phải khóc hết nước mắt, cái con đã gây ra trong tim mình một vết
thương rỉ máu, để rồi trong lúc Acxinhia nầy nhớ nhung chết đi được, nó lại hú
hí với Grigori và có lẽ còn giễu mình là đứa mê trai hạng bét bị bỏ rơi nữa là
khác.
- Thế là cô đến xin tôi bỏ anh ấy à? - Acxinhia thở hổn
hển - Chà cái hạng cô, đồ rắn độc! Chính cô mới là kẻ đầu tiên cướp mất Griska
của tôi! Cô cướp chứ không phải tôi cướp… Cô đã biết rằng anh ấy ăn ở với tôi
rồi mà sao còn đi lấy anh ấy? Tôi dành lại chồng tôi Griska là của tôi. Tôi đã
có con với anh ấy, còn cô…
Acxinhia nhìn vào mắt Natalia với cả một lòng căm hờn sục
sôi, hai tay vung loạn xạ, miệng tiếp tục tuôn ra một tràng những lời cay độc:
- Griska là của tôi, tôi sẽ không nhường cho ai cả? Của
tôi! Của tôi? Cô có nghe thấy không? Của tôi! Xéo đằng nào thì xéo, đồ chó cái
vô liêm sỉ, cô không phải là vợ anh ấy. Cô muốn cướp bố của một đứa bé phải
không? Ái chà chà! Sao trước kia cô không đến? Thế nào, sao trước kia cô không
đến hử?
Natalia đi nghiêng nghiêng tới bên chiếc ghế dài, ngồi
phịch xuống, đầu gục xuống hai bàn tay che mặt.
- Chị đã bỏ chồng chị… Đừng làm rầm lên như thế…
- Ngoài Griska ra, tôi chẳng có chồng nào khác. Trên đời
nầy không có ai cả!
Acxinhia cảm thấy trong lòng mình nung nấu một mối căm
hờn không lối thoát. Nàng nhìn món tóc đen mượt tuột khỏi chiếc khăn bịt đầu
xoã xuống tay Natalia.
- Anh ấy cần cô lắm phỏng? Xem kìa, cái cổ cô vặn vẹo như
thế kia? Thế mà cô còn tưởng anh ấy thèm có được cô lắm phải không? Lành lặn
người ta còn bỏ, tàn tật thế nầy thì thèm muốn cái nỗi gì? Cô sẽ không được
nhìn thấy Griska nữa đâu! Thôi xéo đi!
Acxinhia lồng lộn bảo vệ một cách hung dữ cái tổ ấm của
nàng, và bây giờ chính là lúc nàng trả thù về tất cả những điều đã phải chịu
đựng trước kia. Nàng thấy rằng tuy cổ Natalia có vẹo đi một chút, nhưng Natalia
vẫn còn đẹp như xưa, má và miệng vẫn tươi tắn, chưa bị thời gian làm nhăn nheo,
còn như nàng, Acxinhia nầy, chẳng phải chính vì con Natalia nầy mà dưới hai con
mắt nàng, những vết nhăn đã nhằng nhịt như mạng nhện trước tuổi hay sao?
- Chị tưởng tôi mong xin lại được đấy chắc? - Natalia
ngước hai con mắt như mắt người say rượu vì đau khổ.
- Thế thì cô đến đây làm gì hử? - Acxinhia vừa thở vừa
hỏi.
- Tôi buồn khổ quá nên đến đây thôi.
Đứa con gái của Acxinhia nằm trên giường nghe tiếng người
nói to giật mình thức dậy, nhỏm lên và khóc. Người mẹ bước tới bế con rồi ngồi
quay ra cửa sổ. Natalia nhìn đứa trẻ mà toàn thân run bắn lên. Cổ nàng khô đi,
tức nghẹn. Cặp mắt của Grigori trên mặt đứa trẻ nhìn nàng với một vẻ rất hiểu
biết. Nàng nức nở, lảo đảo bước ra thềm. Acxinhia không ra tiễn.
Một phút sau, cụ Xaska bước vào phòng.
- Chị chàng nào vừa đi ra đấy? - Cụ hỏi có vẻ đã đoán ra
điều gì.
- Một cô ả cùng thôn cháu đấy thôi.
Natalia ra khỏi trang trại, đi chừng ba vec- xta, đến nằm
dưới một bụi mận dại. Nàng lịm đi, đầu óc không nghĩ ngợi điều gì cả, chỉ có
một nỗi buồn khổ không nói ra được đè nặng trên người… Cặp mắt đen âm thầm của
Grigori trên mặt đứa bé cứ chập chờn trước mắt nàng, luôn luôn ám ảnh nàng.
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 74
Grigori nhớ cái đêm hôm ấy hết mức rành rọt, rành rọt đến
loá mắt đau đầu. Chàng tỉnh lại trước lúc trời rạng, đưa tay quờ quạng, chạm
vào những cuộn rạ nhọn như gai. Chàng rên rỉ vì khắp đầu đau nhói. Chàng cố hết
sức giơ một tay, đưa lên trán sờ thấy cái bờm tóc cứng cong cong, bết máu đọng.
Một ngón tay chàng chạm phải vết thương ở thịt, cảm thấy như đặt một hòn than
hồng vào đấy. Chàng nghiến răng một tiếng dài, nằm ngửa ra. Những cái lá cây
trên đầu chàng cháy vàng vì sương muối đầu mùa kêu lách cách như tiếng thuỷ
tinh. Đường viền của những cành cây đen sì hiện lên rành rọt trên nền trời xanh
thẳm, lấp lánh những vì sao. Grigori mở mắt trừng trừng, nhìn không chớp. Chàng
có cảm tưởng như đó không phải là những ngôi sao, mà là những trái cây rất lạ
rất mọng, lủng lẳng xanh xanh vàng vàng ở những cuống lá.
Sau khi nhớ lại những điều xảy ra với mình, chàng cảm
thấy rằng thể nào mình cũng sắp hoảng lên bèn nghiến răng lổm ngổm bò đi.
Vết thương hành hạ chàng một cách quái ác, có lúc vật
ngửa chàng ra… Grigori có cảm tưởng như mình đã bò một thời gian dài ghê gớm,
bèn bắt buộc mình ngoái nhìn lại, thì thấy cái cây nơi chàng lăn ra bất tỉnh
chỉ cách đó chừng năm chục bước. Có lần chàng bò qua một cái thây người chết,
phải chống khuỷu tay lên cái bụng hõm sâu rất cứng của cái xác. Vì mất nhiều
máu nên trong miệng cứ lợm lợm buồn nôn. Chàng khóc như con nít, phải cắn những
sợi cỏ đẫm sương mai nhạt thếch để khỏi mê đi. Bò đến một hòm đạn lật sấp thì
Grigori đứng dậy được. Chàng lảo đảo đứng giờ lâu rồi bước đi.
Chàng thấy mình đã có thêm sức lực, chân bước rắn rỏi hơn
và đã có thể đoán được đâu là hướng đông: chòm sao Đại hùng dẫn đường cho
chàng.
Grigori ra đến lề rừng thì có một tiếng quát trầm trầm
làm chàng phải đứng lại:
- Không được tới gần, không tôi bắn!
Rồi có tiếng cối súng ngắn lách cách. Grigori đưa mắt
nhìn về phía tiếng động: một người nửa nằm nửa ngồi dưới một gốc thông.
- Anh là ai? - Grigori vừa hỏi vừa lắng nghe tiếng của
chính mình và có cảm tưởng như tiếng một người lạ.
- Người Nga à? Lạy Chúa tôi! Lại đây! - Người nằm dưới
gốc thông bò ra mặt đất.
Grigori bước tới gần.
- Cúi xuống.
- Tôi không cúi được.
- Sao vậy?
- Tôi mà ngã lần nầy thì không còn đứng dậy được nữa, tôi
bị chém vào đầu.
- Mày ở đơn vị nào?
- Trung đoàn sông Đông số mười hai.
- Giúp ta nào, anh chàng Cô- dắc…
- Bẩm quan lớn, tôi sẽ ngã mất. (Grigori đã nhìn rõ những
cái lon trên vai áo ca- pôt viên sĩ quan).
- Đưa tay cho ta vậy.
Grigori giúp viên sĩ quan đứng dậy.
Hai người bắt đầu đi. Nhưng mỗi bước viên sĩ quan bị thương một trĩu nặng trên
tay Grigori.
Trong khi cố leo lên khỏi một khoảng
đất trũng, viên sĩ quan nắm chặt lấy tay áo va- rơi của Grigori, lập cập đập
hai hàm răng vào nhau nói:
- Bỏ ta lại đây thôi, anh chàng Cô-
dắc ạ… Ta bị thương… xuyên thủng bụng.
Dưới cái kính kẹp mũi, ánh mắt viên
sĩ quan nom mờ đi, miếng hắn há hốc, hơi thở khò khè. Viên sĩ quan ngất đi.
Grigori xốc hắn đi, ngã xuống, nhỏm dậy rồi lại ngã lăn ra. Chàng đã bỏ lại
gánh nặng của chàng hai lần, nhưng cả hai lần chàng đều quay lại lôi hắn dậy,
và lại bước lảo đảo như trong giấc mơ.
Đến mười một giờ trưa thì một đội
liên lạc lượm được hai người và đưa về trạm băng bó.
Cách một ngày sau, Grigori trốn luôn
khỏi trạm băng bó. Trên đường đi, chàng giật phắt cái băng buộc đầu, vừa đi vừa
vung vẩy đoạn băng đầy những vết đỏ lòm.
- Mày ở đâu mò ra thế? - Viên đại
đội trưởng rất đỗi ngạc nhiên.
- Bẩm quan lớn, tôi trở về đơn vị
đây.
Ở chỗ viên trung uý ra, Grigori gặp
tên hạ sĩ của trung đội.
- Con ngựa của tôi… Con Hạt Dẻ đâu
rồi?
Vẫn còn nguyên vẹn đấy, người anh em
ạ. Bọn mình vừa tống tiễn bọn Áo đi là vớ được cu cậu ở ngay chỗ đó. Còn cậu
thì sao lại thế nầy? Bọn mình đã làm lễ tiễn cậu lên thiên đàng rồi đấy.
- Các cậu vội quá đấy - Grigori cười
nhạt.
TỜ SAO MỆNH LỆNH
"Vì có công cứu được tính mạng
của trung tá Gustav Grotek, trung đoàn trưởng trung đoàn long kỵ binh số 9,
binh sĩ Cô- dắc Grigori Melekhov thuộc trung đoàn Cô- dắc sông Đông số 12 được
đề bạt hạ sĩ và được đề nghị tặng thưởng Huân clương chữ thập thánh Gióoc hạng
bốn".
° ° °
Đại đội đóng ở thành phố Kamenka-
Strumilovo đã được hai ngày đêm, sửa soạn đến đêm thì lên đường. Grigori tìm
được chỗ ở của anh em Cô- dắc trong trung đội, bèn tới thăm con ngựa của chàng.
Trong cái túi yên thấy thiếu một bộ đồ lót và một chiếc khăn mặt.
- Grigori ạ, chúng nó đã lấy cắp
ngay trước mắt mình, - Miska Kosevoi nói như nhận tội vì con ngựa đã được trao
cho anh chàng coi - Có một bọn bộ binh được đưa đến ở nhà nầy, đông vô kể,
chúng nó lấy cắp đấy.
- Quỷ tha ma bắt chúng nó đi, cho
chúng nó dùng. Nhưng mình đang cần có cái gì quấn đầu đây, băng ướt đẫm cả rồi.
- Cậu lấy cái khăn mặt của mình vậy.
Hai người đang nói chuyện với nhau
trong nhà kho thì "Tóc trái đào" bước vào. Gã chìa tay bắt tay
Grigori, tựa như giữa hai người chẳng có chuyện gì xảy ra.
- À Griska! Cậu còn sống cơ à, cừ
thật!
- Còn sống một nửa thôi.
- Trán cậu có máu đấy, chùi đi.
- Mình sẽ lau, còn kịp chán.
- Để mình xem chúng nó chữa cho cậu
như thế nào.
"Tóc trái đào" vít mạnh
đầu Grigori xuống, mũi hít hít.
- Sao lại để chúng nó cạo đi một
mảng tóc như thế nầy? Nom còn ra cái thể thống gì nữa! Bọn bác sĩ chúng nó xỏ
cậu đấy, để mình chữa cho.
Rồi chẳng cần hỏi Grigori có đồng ý
hay không, gã lấy luôn trong băng đạn ra một viên, tháo đầu đạn ra rồi dốc chỗ
thuốc đen đen lên lòng bàn tay.
- Miska, kiếm ít mạng nhện lại đây.
Miska dùng mũi lưỡi gươm với trên
dầm nhà xuống một nắm mạng nhện lờm xờm như bông, đưa cho "Tóc trái
đào". "Tóc trái đào, dùng ngay lưỡi gươm ấy đào lấy một miếng đất
nhỏ, trộn miếng đất với mạng nhện và thuốc đạn, bỏ vào miệng nhai rất lâu. Rồi
gã lấy miếng thuốc đặc sệt ấy bôi lên vết thương còn chảy máu trên đầu Grigori.
Gã mỉm cười:
- Sau ba ngày ba đêm thì bóc ra. Cậu
thấy không, mình chăm nom cho cậu như thế mà cậu lại định cho mình ăn kẹo đạn.
- Chăm nom thì cám ơn, nhưng nếu
giết được cậu thì trong lòng mình đỡ mang nặng một tội.
- Cậu là một thằng đến là đơn giản.
- Mình vốn như thế đấy. Trên đầu
mình như thế nào?
- Nhát gươm dài đến một phần tư ác-
sin ấy. Để lại cho cậu một kỷ niệm.
- Mình sẽ không quên đâu.
- Mà dù muốn quên, cậu cũng sẽ không
quên được. Bọn Áo chúng nó không mài gươm nên mới chém cho cậu một nhát gươm
cùn. Bây giờ thì cậu sẽ mang suốt đời một cái sẹo to tướng.
- May cho cậu đấy, Grigori ạ, nhát
gươm chém trượt, nếu không cậu đã bị chôn xác nơi đồng đất nước người, - Miska
mỉm cười.
- Mình làm gì với cái mũ cát- két
bây giờ nhỉ?
Grigori ngơ ngác quay quay trong tay
chiếc mũ cát- két, đỉnh mũ bị chém rách, bê bết máu.
- Quẳng mẹ nó đi, những con chó sẽ
nhá ngay cho mà xem.
- Các cậu ơi, họ mang cái ăn về rồi
đấy, ra lấy đi, - Ngoài cửa căn nhà có tiếng gọi.
Bọn lính Cô- dắc ra khỏi nhà kho.
Con Hạt Dẻ lẽo đẽo theo sau Grigori, nó đưa cặp mắt lồi lồi liếc nhìn chủ rồi
hí lên một tiếng.
- Nó nhớ cậu đấy, Griska ạ, - Miska
hất đầu về phía con ngựa. - Mình cũng lấy làm lạ, nó không chịu ăn mà lại chỉ
khẽ hí lên như thế thôi.
- Lúc mình ở chỗ ấy bò về, cứ gọi nó
mãi, - Grigori quay mặt ra chỗ khác, nói trầm trầm, - Mình biết rằng nó sẽ
không bỏ mình, mà người khác bắt nó cũng khó, nó không chịu đầu hàng người lạ
đâu?
- Đúng đấy, bọn mình phải chật vật
mãi mới bắt được nó. Phải ném vòng thòng lọng.
- Con ngựa tốt lắm, của ông anh
mình, của Petro đấy, - Grigori quay mặt đi, không muốn để cho bạn thấy vẻ cảm
động trong cặp mắt mình.
Hai người đi vào trong nhà. Ở phòng
ngoài, Egor Zarkov đang ngáy khò khò trên tấm đệm lò xo kéo trên giường xuống
trải dưới đất. Cảnh nhà cửa lộn xộn không rời nào tả được cho biết rằng chủ nhà
đã vội vã bỏ nhà ra đi. Những mảnh bát đĩa vỡ, giấy rách, sách vở ngổn ngang,
những miếng nỉ lênh láng mật ong, những đồ chơi, giày dép cũ, bột mì vãi tung
tóe, tất cả đều bị ném bừa dưới đất thành một cảnh hỗn độn kinh người, nói lên
cả một sự tan vỡ.
Grosov Emelian và Prokho Zykov dọn
quang một chỗ rồi ngồi luôn xuống đấy ăn bữa trưa. Zykov nhìn thấy Grigori bèn
trợn tròn cặp mắt dịu dàng như mắt bò non.
- Gri- i- sca? Cậu ở đâu mò ra thế?
- Từ thế giới bên kia trở về.
- Có chạy mau đi lấy xúp cho nó ăn
không? Làm gì mà mắt cứ trợn lên đến trán thế hử? - "Tóc trái đào"
quát lên.
- Mình đi ngay đây. Nhà bếp ở ngay
đây, ngay trong ngõ.
Prokho cắn một miếng bánh rồi chạy
ra sân.
Grigori mệt mỏi ngồi vào chỗ Zykov
vừa đứng lên.
- Mình cũng chẳng nhớ lần trước ăn
vào lúc nào nữa, - Chàng mỉm cười như nhận lỗi.
Những phân đội của quân đoàn ba đang
tiến qua thành phố. Những dãy phố chật hẹp đầy ních lính bộ binh. Cơ man nào xe
vận tải và đơn vị kỵ binh chen chúc nhau. Các ngã tư đều tắc đường, người và
ngựa xe cứ xoay tròn. Tiếng hành quân ầm ầm vọng vào qua cánh cửa đóng. Chẳng
mấy chốc đã thấy Prokho trở về với một ga- men xúp và một gầu vải cháo kiều
mạch.
- Cháo đổ vào đâu bây giờ?
- Lấy cái xoong có quai kia kìa, -
Grosov lấy trên cửa sổ xuống một cái bô dùng ban đêm vì ắn không biết nó dùng
làm gì.
- Cái xoong của cậu khắm quá. -
Prokho nhăn mặt.
- Không sao đâu. Cậu cứ dốc cái gầu
vải xuống, bọn mình sẽ chia nhau hết ngay thôi.
Prokho dốc cái gầu vải, cháo đặc sệt
thơm phức bốc hơi ngùn ngụt, mỡ ở viền chung quanh nổi lên như một cái vòng hổ
phách.
Mọi người vừa ăn vừa chuyện trò.
Prokho lấy nước bọt cọ cọ một vết mỡ trên cái nẹp quần đã bạc mầu của hắn và kể
chuyện:
- Ngay bên sân nhà chúng ta có một
đại đội sư đoàn sơn pháo ngựa kéo. Chúng nó đang cho ngựa ăn đấy. Thằng thượng
sĩ kỵ binh bên ấy đọc báo thấy viết rằng đồng minh đã đánh tan quân Đức.
- Melekhov ạ, cậu về muộn quá, sáng
nay chúng mình được khen đấy! - "Tóc trái đào" nói lúng búng, miệng
gã đang đầy cháo.
- Ai khen?
- Sư đoàn trưởng trung tướng Phôn
Divid đã duyệt binh chúng mình và khen chúng mình đã đánh bại bọn kỵ binh nhẹ
Hungary và cứu được một đại đội pháo của quân mình. Vì thiếu chút nữa thì chúng
nó lôi được những khẩu pháo đi. Trung tướng nói: "Anh em Cô- dắc dũng cảm,
Đức vua và Tổ quốc sẽ không quên công của anh em".
- Thế ư?
Ngoài phố có một tiếng súng nổ khô
khan, lại một tiếng nữa, rồi súng máy nổ rền một hồi.
- Ra ngoài cả! - Ngoài cửa có tiếng
la to.
Anh em Cô- dắc ném thìa xuống, nhảy
ra sân. Trên đầu họ, một chiếc máy bay đang nhẹ nhàng lượn tròn rất thấp. Động
cơ của nó nổ ầm ầm đầy vẻ hăm doạ.
- Nằm ngay xuống chân hàng rào!
Chúng nó bắt đầu ném bom ngay bây giờ đấy! Có biết một đại đội pháo đang đóng
bên cạnh không? - "Tóc trái đào" kêu to.
- Gọi Egor dậy? Nó sẽ bị bắn chết
trên đệm cho mà xem?
- Đưa mình khẩu súng trường!
"Tóc trái đào" nhìn rất
cẩn thận, đứng ngay trên thềm nổ súng.
Lính bộ binh chạy ngoài phố, không
hiều họ khom lưng xuống làm gì. Trong sân nhà bên có tiếng ngựa hí và tiếng hô
giật giọng. Grigori nã hết một kẹp đạn rồi đưa mắt nhìn qua hàng rào: bọn pháo
thủ bên ấy đang rối rít đẩy một khẩu pháo xuống dưới hiên nhà kho.
Trời xanh loá như có gai châm,
Grigori nheo mắt theo dõi con chim vừa kêu ầm trời vừa là xuống thấp. Giữa lúc
đó từ con chim có một cái gì bật ra, nhấp nhoáng trong một dé nắng. Một tiếng
nổ ghê gớm làm căn nhà nhỏ rung chuyển, những gã Cô- dắc dang nằm áp sát vào
cạnh thềm nảy cả lên. Trong sân nhà bên, một con ngựa sắp chết rống lên. Mùi
diêm sinh nồng nặc trong đám cháy xông ra qua dãy hàng rào.
- Tìm chỗ mà nấp đi! - "Tóc
trái đào" kêu lên và chạy trên thềm xuống.
Grigori nhảy ra theo, lăn ngay xuống
chân hàng rào. Một bộ phận bằng nhôm trên cánh chiếc máy bay lấp loáng. Chiếc
máy bay nhẹ nhàng ngoặt đuôi lượn vòng. Súng ngoài phố bắn liên hồi, tiếng nổ
lúc thì rền từng loạt, lúc thì vang lên loạn xạ. Grigori vừa ấn được một kẹp
đạn mới vào súng thì một tiếng nổ còn dội mạnh hơn lúc nãy đã hất chàng văng ra
cách hàng rào đến một xa- gien. Một tảng đất đập vào đầu Grigori, nặng quá đè
bẹp chàng xuống, đất phủ cả lên mắt chàng.
"Tóc trái đào" chạy lại
vực Grigori dậy. Mắt bên trái đau nhói làm Grigori không nhìn thấy gì cả. Chàng
gắng gượng mãi mới mở được mắt bên phải ra thì thấy nửa ngôi nhà đổ sụp. Gạch
đổ xuống thành một đống nháo nhào đỏ lòm, một làn bụi hồng hồng bốc lên mù mịt
trên đống gạch. Egor Zarkov bò ra bằng hai tay từ trong khoảng thềm nhà bị phá
nham nhở. Cả khuôn mặt gã chỉ còn là hiện thân của một tiếng kêu. Hai dòng nước
mắt đỏ ngầu những máu tuôn ra từ hai con mắt lồi hẳn ra ngoài, chảy ròng ròng
xuống má. Egor rụt đầu vừa bò vừa kêu rống lên, cặp môi đen sịt như môi người
chết gần như không mở ra:
- A- i- i- i- i! A- i- i- i- i! A-
i- i- i- i!
Phía sau Egor lệt sệt một bên chân
bị cắt rời từ đùi trở xuống nằm ngang trên ống quần cháy xém, chỉ còn một mảng
da mỏng nối liền vào thân. Chân bên kia không còn nữa. Egor từ từ đổi tay, bò
ra ngoài. Tiếng kêu the thé, thít đi như tiếng con nít vẫn không ngớt. Rồi Egor
bặt tiếng kêu, nằm lăn kềnh sang bên, mặt áp xuống khoảng đất thô bạo, ẩm ướt,
nhơ nhớp phân ngựa, gạch vụn ngổn ngang. Không một ai bước tới gần gã.
- Khiêng cậu ấy đi chứ! - Grigori
kêu lên, tay vẫn úp trên mắt bên trái.
Một nhóm bộ binh chạy vào trong sâm.
Chiếc xe hai bánh của bọn lính điện thoại đến đỗ ngay bên cổng.
- Đi đi đỗ lại làm gì hử? - Một tên
sĩ quan cười ngựa qua chỗ bọn lính điện thoại quát chúng. - Bọn súc sinh nầy,
quân khốn kiếp.
Một ông già mặc chiếc áo ngoài đuôi
tôm màu đen và hai người đàn bà bước tới không biết từ chỗ nào. Đám người đứng
vây quanh Egor. Grigori len vào trong, thấy Egor còn thở, đang khóc nức nở,
người run lên bần bật. Những giọt mồ hôi rất to đổ ra trên vừng trán đã vàng
như trán người chết.
- Khiêng đi chứ! Các cậu sao vậy… là
người hay là quỉ hử?
- Cậu làm gì mà cắn ngậu lên thế? -
Một gã bộ binh cao lớn hằm hằm nói trả. - Khiêng đi, khiêng đi, thế khiêng đi
đâu bây giờ? Cậu có thấy không, chết đến nơi rồi còn gì?
- Đứt mất cả hai chân.
- Máu chảy ra ghê không?
- Thế cứu thương đâu?
- Ở đây thì làm gì có cứu thương…
- Nhưng cậu ấy vẫn còn tỉnh cơ mà.
"Tóc trái đào" đứng sau
lưng Grigori đặt tay lên vai chàng.
Grigori quay lại.
- Thôi đừng động đến làm cậu ấy khổ
thêm, - "Tóc trái đào" khẽ nói, - cậu sang bên nầy mà xem.
Gã xô đẩy những người đứng bên cạnh,
đi sang phía bên kia, những ngón tay vẫn không rời tay áo va- rơi của Grigori.
Grigori nhìn thêm lần nữa rồi gù gù cái lưng, bước vào trong cổng. Phía dưới
bụng Egor, một đám ruột xổ ra hồng hồng xanh xanh, hơi bốc ngùn ngụt. Một đầu
đám ruột nằm ngay trên cát và phân ngựa, cứ ngọ nguậy, mỗi lúc một trương to
lên. Một tay của người hấp hối đặt nghiêng, như chèo thuyền…
- Lấy cái gì phủ lên cho cậu ấy, -
Một người góp ý.
Bỗng nhiên Egor chống hai tay nhổm
lên, đầu ngửa hẳn ra sau, gáy đập vào chỗ hõm giữa hai cái xương bả vai, rồi gã
gào lên giọng khàn đặc, không còn ra tiếng người nữa.
- Anh em ơi, giúp hộ tôi chết đi!
Anh em ơi! Anh em ơi! Sao cứ đứng nhìn thế na- a- ày! A- ha- ha- a- a- a- a!
Anh em ơi… giúp mình chết đi!
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 75
Toa xe nhẹ nhàng đung đưa, bánh xe
lạch xạch như ru ngủ. Ngọn đèn chiếu một khoảng ánh sáng vàng vàng tới nửa
chiếc ghế dài.
Thật là thống khoái khi được nằm
thẳng thoải mái, hai chân được tháo ủng, hoàn toàn tự do sau hai tuần liên tiếp
bị hấp hơi trong ủng, không cảm thấy rằng trên vai mình còn có nhiệm vụ gì nữa,
đồng thời biết rằng tính mạng mình không bị một điều gì nguy hiểm đe doạ, và
cái chết đang ở rất xa. Điều đặc biệt thú vị là lắng nghe tiếng bánh xe lạch
xạch chẳng ăn khớp nhau chút nào, vì sau mỗi lần bánh xe quay một vòng, sau mỗi
lần đầu máy giật một cái, mặt trận lại xa thêm một chút. Và Grigori nằm yên
lắng nghe, mười ngón chân không giày không ủng tha hồ ngọ nguậy, khắp người nhẹ
nhàng sung sướng trong bộ đồ lót sạch, mới thay hôm nay. Chàng có cảm giác như
mình vừa được lột được xác bẩn thỉu, bắt đầu bước vào một cuộc sống khác hẳn,
sạch sẽ, không bị vấy bẩn.
Niềm vui lặng lẽ, thanh thản đó chỉ
bị đứt quãng những lúc con mắt bên trái đau nhói. Cái đau khi thì lắng đi, khi
thì bất thình lình quay trở lại, làm con mắt như bị lửa đốt, nước mắt bất giác
chảy ra dưới lớp băng. Ở nhà thương Kamenka- Strumilovo có một bác sĩ Do Thái
còn trẻ khám mắt cho Grigori, rồi viết không biết những gì trên một mẩu giấy.
- Phải đưa anh về hậu phương mới
được. Con mắt có chuyện khá phiền đấy.
- Tôi có chột mất mắt không?
- Sao vậy, cái anh nầy, - Người bác
sĩ nhận thấy vẻ kinh hoàng không giấu giếm trong giọng nói, bèn dịu dàng mỉm
cười, - anh cần được chữa chạy, có lẽ sẽ phải mổ. Chúng tôi sẽ chuyển anh về
thật xa trong hậu phương, về Petrograd hay Moskva chẳng hạn.
- Rất cám ơn bác sĩ.
- Anh đừng lo, con mắt sẽ còn giữ
được. - Người bác sĩ vỗ vai Grigori, dúi mẩu giấy vào tay chàng, rồi khẽ đẩy
chàng ra hành lang. Sau đó anh ta xắn tay áo, sửa soạn vào mổ.
Sau rất nhiều chuyện phiền phức khổ
sở, Grigori mới lên được đoàn xe lửa quân y. Chàng nằm một ngày một đêm, tận
hưởng cái thú được yên tĩnh. Chiếc đầu máy cổ lỗ và nhỏ bé đem hết sức lực còn
lại kéo đoàn tầu gồm rất nhiều toa. Đã gần tới Moskva.
Đoàn tàu tới nơi ban đêm. Những
người bị thương nặng được cáng. Những ai có thể đi được không cần người đỡ tự
ra đầu toa xe sau khi đã đăng ký. Viên bác sĩ đi cùng đoàn tàu dựa theo danh
sách gọi tên Grigori rồi chỉ vào chàng và nói với một người nữ y tá:
- Nhà thương chữa mắt của bác sĩ
Suegirov? Ngõ Konpatnyi.
- Anh có mang theo hành lý đấy chứ?
- Người nữ y tá hỏi.
- Một anh chàng Cô- dắc thì làm gì
có hành lý? Độc chiếc túi- dết và cái ca- pôt nầy thôi.
- Ta đi đi.
Người nữ y tá vừa bước đi vừa nhét
lại món tóc dưới cái mũ bịt đầu, cái áo dài kêu loạt soạt. Grigori chập chững
bước theo. Hai người đi xe ngựa. Những tiếng động trong một đô thị lớn dã ngủ
thiếp, tiếng chuông xe điện, ánh đèn điện lấp lánh xanh xanh tất cả tác động
tới Grigori như đè nén chàng. Chàng ngả lưng ra chiếc ghế của chiếc xe ngựa nhẹ
bốn bánh, chăm chú nhìn những dãy phố đêm rồi mà còn đông nghịt. Hơi ấm ngây
ngất của một cơ thể đàn bà ở ngay bên cạnh gây cho chàng một cảm xúc rất lạ.
Moskva đã nặc hơi thu: lá những cái cây hai bên các đường cây dưới ánh những
ngọn đèn phản chiếu một màu vàng nhợt. Trời đêm lành lạnh. Các tấm đá lát hè
phố nhấp nhoáng ánh nước. Các ngôi sao trên đường chân trời sáng sủa toả ra thứ
ánh sáng lạnh lẽo của sao mùa thu.
Chiếc xe ngựa chạy từ trung tâm
thành phố tới một cái ngõ vắng tanh. Vó ngựa đập lộp cộp trên đá trải đường,
người đánh xe mặc chiếc áo xanh tương tự như kiểu áo nỉ của các cha cố, ngồi
ngất ngưởng trên chiếc ghế đánh xe, vung những đầu dây cương đánh con ngựa gầy
yếu. Ở ngoại ô không biết chỗ nào có tiếng đầu máy xe lửa rúc còi. "Có lẽ
bây giờ có đoàn tàu nào chạy về vùng sông Đông chăng?" - Grigori rũ đầu
xuống trong nỗi buồn nhớ nhoi nhói nhự những mũi kim châm.
- Anh ngủ gật đấy à? - Người nữ y tá
hỏi.
- Không.
- Chúng ta sắp đến nơi rồi.
- Các vị muốn gì ạ? - Người đánh xe
quay lại hỏi.
- Bác cứ cho xe chạy đi.
Sau một dãy hàng rào dài bằng sắt,
nước trong một cái ao nhấp nhoáng như dầu, thấp thoáng cái bến nhỏ có lan can
với con thuyền buộc ở bến. Hơi ẩm thoảng bốc tới.
"Cả đến nước cũng bị người ta
giam hãm sau hàng rào sắt, chẳng bù với sông Đông…"- Grigori có một ý nghĩ
mung lung. Lá cây lạo sạo dưới những bánh cao su của chiếc xe ngựa.
Chiếc xe đỗ lại trước một ngôi nhà
ba tầng. Grigori sửa lại áo ca- pôt nhảy xuống.
- Đỡ tôi cái - Người y tá khom lưng.
Grigori nắm lấy một bàn tay nhỏ nhắn
mềm mại, đỡ người y tá xuống xe.
- Mồ hôi lính trên người anh xông
lên khiếp quá, - Người y tá ăn vận khá đẹp khẽ cười rồi bước lên thềm, bấm
chuông.
- Cô y tá ạ có lẽ cô nên ra ngoài ấy
mà xem, rồi người lại không xông lên một mùi gì nữa ấy à, - Grigori nói hơi có
vẻ bực bội.
Người gác ra mở cửa. Hai người leo
một cái thang lan can mạ vàng rất đẹp, lên tầng hai. Người nữ y tá lại bấm
chuông lần nữa.
Một người đàn bà mặc áo choàng trắng
mở cửa cho hai người vào.
Grigori ngồi xuống bên một chiếc bàn
tròn nhỏ. Người nữ y tá nói không biết những gì với người đàn bà áo trắng.
Người kia ghi ghi chép chép.
Ở cửa các phòng bệnh hai bên đãy
hành lang vừa hẹp vừa dài, có những người đeo kính màu khác nhau ngó đầu nhìn
ra.
- Anh cởi áo ca- pôt ra - Người đàn
bà mặc áo choàng đề nghị.
Một người hộ lý nam, cũng mặc áo
trắng, tiếp lấy cái áo ca- pôl trong tay Grigori rồi đưa chàng vào buồng tắm.
- Anh cởi hết quần áo ra.
- Cởi làm gì?
- Phải tắm mới được.
Trong khi Grigori vừa cởi quần áo
vừa kinh ngạc nhìn căn phòng với những vuông kính mờ trên các cửa sổ, người hộ
lý vặn nước chảy vào thùng tắm, đo nhiệt độ rồi mời chàng ngồi vào.
- Tôi không quen tắm thùng… -
Grigori ngượng ngùng đưa một chân đen thui thủi, những lông cùng lá, vào trong
thùng tắm.
Người hộ lý giúp chàng tắm rửa cẩn
thận, rồi đưa cho chàng vải trải giường, đồ lót, dép đi đêm và một cái áo dài
mặc trong nhà màu xám có dây lưng.
- Còn quần áo của tôi? - Grigori
ngạc nhiên.
- Anh sẽ mặc các thứ nầy. Quần áo
của anh sẽ trả lại cho anh khi nào anh được ra viện.
Ra tới phòng ngoài, Grigori đi qua
một cái gương lớn mắc trên tường. Chàng không nhận được ra mình nữa: cao lớn,
mặt đen xạm, hai gò má gồ nhọn, má đỏ bừng bừng như màu gạch, áo ngủ có dây
lưng, bộ tóc đen với cái mũ chụp lên trên, thật chỉ còn một chút hao hao như
anh chàng Grigori xưa kia mà thôi. Ria chàng mọc rậm thêm, một bộ râu tơ loăn
xoăn dưới cằm.
"Trong thời gian qua mình đã
trẻ hẳn ra" - Grigori mỉm cười gượng gạo.
- Phòng số sáu, cửa thứ ba bên phải
- Người hộ lý chỉ cho chàng.
Lúc Grigori bước vào căn phòng rộng
quét vôi trắng, một người thầy tu mặc áo ngủ, đeo kính màu lam đứng dậy.
- Láng giềng mới à? Rất sung sướng,
thế là đỡ buồn rồi. Tôi từ Daraisk đến đấy, người ấy nói giọng xởi lởi và đẩy
cho Grigori chiếc ghế dựa.
Vài phút sau, một người nữ y sĩ có
bộ mặt to bè bè khó coi bước vào phòng.
- Melekhov, mời anh ra để chúng tôi
khám con mắt của anh. - Người ấy nói bằng một giọng trầm phát ra từ trong ức,
rồi lánh sang bên cho Grigori bước ra hành lang.
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 76
Trên mặt trận tây nam, trong khu vực
Seven, bộ tư lệnh tập đoàn quân quyết định dùng một đợt tấn công đại qui mô
bằng kỵ binh để chọc thủng trận tuyến của địch. Một chi đội kỵ binh lớn có
nhiệm vụ thọc sâu vào hậu phương địch, rồi liên tục đột kích dọc theo mặt trận,
tiến đến đâu phá huỷ các tuyến giao thông liên lạc, làm tan rã các đơn vị của
địch bằng những cuộc tập kích bất ngờ. Bộ tư lệnh đã đặt rất nhiều hy vọng vào
việc thực hiện có kết quả kế hoạch nầy: một lực lượng kỵ binh lớn chưa từng
thấy đã được điều tới khu vực chỉ định. Trong số các trung đoàn kỵ binh bị ném
vào khu vực nầy, có cả trung đoàn Cô- dắc của Litnhitki. Trận tấn công đáng lẽ
phải được thực hiện ngày hai mươi tám tháng tám, nhưng vì trời mưa nên bị hoãn
đến ngày hai mươi chín.
Từ sáng, sư đoàn đã tập hợp thành
đội hình trên một cơ địa xuất phát rất rộng, sẵn sàng tấn công.
Ở cách sườn bên phải chừng tám vec-
xta, bộ binh tổ chức một cuộc tấn công nghi binh để thu hút hoả lực của địch.
Những phân đội của một sư đoàn kỵ binh di động theo một hướng nghi binh khác
Phía trước, trong khoảng tầm mắt có thể bao quát được, chẳng thấy có địch ở đâu
cả. Trước mặt đại đội của hắn chừng một vec- xta, Evgeni chỉ nhìn thấy những
đường ụ chiến hào bị vứt bỏ hiện lên, đen sì như những cái hang thú rừng. Đằng
sau các đường chiến hào ấy là những cánh đồng lúa nhấp nhô dưới làn sương mù
xám xám trước lúc hoàng hôn bị gió quật ngang quật dọc.
Không biết bộ chỉ huy của quân địch
đã được biết về trận tấn công đang được chuẩn bị hay đã dự đoán trước mà trong
đêm hai mươi chín, các đơn vị địch đã rời bỏ chiến hào, lui về phía sau chừng
sáu vec- xta, chỉ để lại những điểm mai phục có súng máy. Chính các điểm mai
phục nầy đã quấy nhiễu bộ binh ta trên khắp khu vực.
Ở một chỗ nào đó trên cao, sau những
đám mây bông, mặt trời mọc bắt đầu chiếu sáng, trong khi thung lũng tràn ngập
một lớp sương mù vàng vàng màu kem. Có lệnh tấn công, các trung đoàn xông lên.
Hàng bao nhiêu ngàn vó ngựa trải ra khắp vùng một thứ tiếng rầm rập trầm trầm,
nghe như vang từ dưới đất lên. Evgeni ghìm con ngựa thuần giống của hắn, không
cho chuyển sang nước đại. Bên tấn công đã để lại phía sau một khoảng chừng một
vec- xta rưỡi. Hàng ngũ chỉnh tề, mỗi lúc họ tiến một gần tới một dải đất trồng
lúa. Lúa mạch đen cao quá thắt lưng đan lẫn với những cây thổ ti bám rất chắc
và cỏ dại, làm cho ngựa chạy hết sức vướng chân.
Phía trước vẫn là lúa mạch đen rập
rờn như những bờm ngựa, còn phía sau lúa má đều bị vó ngựa dẫm lụi xuống. Sau
khi chạy đến vec- xta thứ tư, những con ngựa bắt đầu vấp chân, mồ hôi đổ khá
nhiều. Nhưng địch vẫn chẳng thấy tăm hơi đâu. Evgeni đưa mắt nhìn viên đại đội
trưởng: mặt viên đại uý âm thầm đầy vẻ thất vọng…
Sau khi chạy một chặng sáu vec- xta
vất vả tới mức khó tưởng tượng, những con ngựa đã kiệt sức, một số quỵ xuống
cùng với những kẻ cưỡi trên lưng, những con dai sức nhất cũng lảo đảo, cố dùng
nốt số sức lực còn lại. Đến lúc đó, súng máy của quân Áo mới bắt đầu quét,
những loạt đạn nổ ròn đều đặn… Hoả lực khủng khiếp của chúng phạt rụng ngay
những hàng đầu. Bọn kỵ binh nhẹ rối loạn hàng ngũ, cho ngựa quay trở lại trước
tiên. Trung đoàn Cô- dắc cũng mất hết tinh thần. Trong lúc cuống cuồng tháo
chạy, họ bị những trận mưa đạn súng máy tưới như bình phun nước hoa và bị pháo
binh giã giò. Do thóì cẩu thả tội ác của bộ tư lệnh tối cao, trận tấn công quy
mô chưa từng thấy kết thúc bằng một thất bại hoàn toàn. Vài trung đoàn mất tới
nửa số người ngựa. Trung đoàn của Evgeni cũng bị thương vong khoảng bốn trăm
binh sĩ và mười sáu sĩ quan.
Con ngựa Evgeni bị bắn chết, chính
hắn cũng bị hai vết thương: ở đầu và ở chân. Lão quản Trebotarev nhảy trên yên
xuống, ôm lấy Evgeni, xốc hắn lên yên, chạy thoát.
Tham mưu trưởng sư đoàn, viên đại tá
của bộ tổng tham mưu Golovachev chụp được vài bức ảnh chớp nhoáng trong trận
tấn công, rồi đem cho bọn sĩ quan xem. Viên trung uý bị thương Trecviakov là
người đầu tiên cho hắn một cú quai hàm. Bọn Cô- dắc chạy tới xé tan xác ngay Golovachev,
rồi làm tình làm tội cái xác chết rất lâu trước khi quẳng nó xuống cái rãnh bên
đường, vào những vật bẩn thỉu. Trận tấn công nổi tiếng về tính chất nhục nhã
của nó đã kết thúc như thế.
Từ nhà thương Vacsava, Evgeni báo
tin cho biết rằng sau khi chữa lành các vết thương hắn sẽ về với lão ở Yagonoie
trong thời gian nghỉ phép. Lão già nhận được thư con bèn khoá chặt cửa phòng
làm việc của lão lại, mãi hôm sau mới mò ra, mặt mày nhăn nhó.
Lão ra lệnh cho Nikichit thắng một
con ngựa chạy nước kiệu vào chiếc xe nhẹ, ăn sáng qua quít rồi phóng lên trấn
Vosenskaia. Lão gửi cho thằng con bốn trăm rúp bằng ngân phiếu điện tín kèm
theo một bức thư ngắn:
"Cha chỉ có thể lấy làm sung
sướng vì con, con trai yêu của cha, đã ra hoả tuyến lần đầu. Một vận mệnh cao
quý thì phải ở ngoài đó, đâu phải ở nơi cung đình. Con quá trọng danh dự và
cũng đã thông minh nên tất nhiên không thể nào khom lưng uốn gối trước mặt
người khác mà lương tâm không bị cắn rứt. Trong gia đình nhà ta không một ai có
cái thói đó. Vì thế nên ngay ông nội con đã bị cấp trên ghét bỏ và phải về sống
nôt cuộc đời ở Yagonoie, không hy vọng mà cũng chẳng mong chờ bậc đế vương gia
ân. Evgeni ạ, cầu mong con khỏe mạnh, chóng lại sức. Con hãy nhớ rằng, trên đời
nầy cha chỉ có một mình con thôi. Cô con gửi lờí hỏi thăm con, cô vẫn khỏẹ
mạnh. Còn về phẩn cha thì chẳng có chuyện gì đáng viết, con cũng biết cha sống
như thế nào rồi. Tình hình hiện nay ở ngoài ấy, trên mặt trận là như thế nào?
Chẳng nhẽ không có được những người thông minh một chút hay sao? Cha không tin
các tin tức thông báo trên báo chí, láo toét cả thôi. Kinh nghiệm những năm xưa
đã cho cha biết như thế. Evgeni, chẳng nhẽ chúng ta thua trận nầy hay sao?
Cha nóng lòng sôt ruột mong con về
nhà!"
Của đáng tội thật quả lão Litnhitki
cũng chẳng có gì đáng viết về đời sống của lão. Cuộc sống ấy vẫn đơn điệu như
xưa, chẳng có gì thay đổi. Chỉ có điều nhân công tăng giá và rượu xem ra không
đủ uống thôi. Lão địa chủ uống rượu nhiều hơn trước, trở nên bẳn tính, hay bới
chuyện. Một hôm, lão gọi Acxinhia vào một giờ chẳng thích hợp chút nào và nói:
- Công việc mày làm như mèo mửa. Tại
sao hôm qua bữa sáng đem vào lại nguội. Tại sao tách cà phê không rửa sạch? Nếu
còn như thế nữa, mày nghe rõ chưa, tao sẽ tống cổ ra khỏi cửa. Tao không chịu
được những đứa làm ăn bẩn thỉu! - Lão địa chủ vung mạnh tay - Nghe rõ chưa? Tao
không chịu được đâu.
Acxinhia mím chặt môi rồi bất chợt
khóc oà lên.
- Thưa cụ Nicolai Alekseevich! Con
bé cháu nó ốm. Xin cụ cho nghỉ tạm ít bữa… Tôi không sao để cháu một mình được.
- Nó bị thế nào hử?
- Cổ họng cháu khó thở…
- Sốt phát ban à? Sao không nói sớm
hử, đồ ngu khổ ngu sở? Chà, quỷ dữ lột da mày ra, quân khốn kiếp! Chạy ngay đi
bảo thằng Nikichit thắng ngựa vào xe lên trấn đón tên y sĩ về đây. Nhanh lên!
Acxinhia chạy tế ra ngoài. Tiếng lão
già ồm ồm như sấm vẫn như nã bom sau lưng nàng:
- Đàn bà gì mà ngu khổ ngu sở! Đàn
bà gì mà ngu khổ ngu sở! Đồ ngu xuẩn!
Đến sáng thì Nikichit mời được người
y sĩ đến. Người ấy khám cho con bé nằm mê mệt, người nóng như lửa, rồi không
trả lời câu hỏi của Acxinhia, đi ngay lên nhà trên gặp lão địa chủ. Lão
Litnhitki đứng tiếp người ấy ở phòng ngoài, cũng không thèm chìa tay cho bắt.
- Con bé ra sao? - Lão vừa hỏi vừa
chào giả người y sĩ bằng một cái gật đầu khinh bạc.
- Bẩm cụ lớn, sốt phát ban.
- Nó sẽ khỏi được chứ? Có hy vọng gì
không?
- Vị tất đã qua khỏi được. Con bé sẽ
chết mất… Xin cụ lớn cũng tính một điều là tuổi nó quá nhỏ.
- Đồ ngu xuẩn! - Lão địa chủ đỏ mặt
tía tai. - Người ta đã dạy anh những gì hả? Chữa cho khỏi đi!
Rồi đóng sầm cánh cửa trước mũi
người y sĩ hết hồn hết vía, và cứ đi đi lại lại trong phòng khách.
Acxinhia gõ cửa bước vào.
- Bẩm ông y tá xin ngựa trở về trấn.
Lão già xoay gót giầy quay phắt lại.
- Bảo với nó rằng nó là một thằng
ngu! Truyền lời cho nó biết rằng không chữa được con bé cho tao thì đừng hòng
đi khỏi nơi nầy? Dọn cho nó căn phòng ở chái nhà, cho nó ăn đi! - Lão già vung
nắm tay xương xẩu, quát. - Cho nó uống, tọng cho nó phễnh bụng ra, nhưng không
được đi đâu cả? - Lão không nói nữa, bước ra cửa sổ, gõ gõ những ngón tay, rồi
lại gần bức ảnh phóng to chụp thằng con nằm trong tay người vú nuôi. Lão lùi
hai bước, nheo mắt nhìn rất lâu như không nhận ra.
Ngay hôm đầu, hôm đứa bé vừa lăn ra
ốm, Acxinhia đã nhớ lại câu nói cay đắng của Natalia: "Nước mắt của tôi
rồi sẽ chảy sang mắt chị…" và nàng cho rằng Chúa phạt mình về tội đối xử
tàn tệ với Natalia.
Rầu rĩ, hốt hoảng vì lo cho tính
mạng của con, Acxinhia không còn có thể suy nghĩ thế nào là đúng sai nữa. Nàng
chạy lăng xăng không mục đích, công việc làm chẳng đầu và đâu.
"Chẳng nhẽ Chúa đòi nó về hay
sao?" - Một ý nghĩ rát như lửa luôn luôn ám ảnh nàng, nhưng nàng không
tin, hết sức không muốn tin. Nàng cầu nguyện như điên như cuồng, cố xin Chúa
ban ơn lần chót; giữ cho nàng cái mạng của đứa con.
"Lạy Chúa tôi, xin Chúa tha tội
cho tôi? Xin người đừng đòi nó về? Cầu Chúa rủ lòng thương, cầu Chúa ban
ơn!"
Bệnh tật đã bóp chết cái sinh mạng
nhỏ nhoi.
Đứa bé nằm liệt giường, qua cái cổ
họng sưng phồng nghe khè khè có tiếng thở rất khó khăn. Người y sĩ trên trấn ở
chái nhà, mỗi ngày đến thăm bệnh cho nó khoảng bốn lần, tối tối đứng giờ lâu
bên thềm nhà đầy tớ hút thuốc và nhìn các sao thu lạnh lẽo lấm tấm trên trời.
Đêm nào Acxinhia cũng quỳ bên giường
đến sáng. Những tiếng thở khò khè lọc ọc cứ đâm nhói vào tim nàng.
- M- mẹ… - có tiếng thều thào qua
cặp môi nhỏ xíu khô cứng.
- Hạt thóc nhỏ của mẹ, con gái yêu
của mẹ? - Người mẹ cố nén tiếng kêu. - Đoá hoa nhỏ nhoi của mẹ, đừng bỏ mẹ mà
đi, Tanhiuska! Con ngoan con đẹp của mẹ, mở mắt ra đi con ơi! Con yêu con quý
của mẹ, con bé mắt đen của mẹ… Sao lại thế nầy, lạy Chúa tôi?
Năm thì mười hoạ con bé mới hé hai
hàng mi sưng mọng, cặp mắt nhỏ xíu đờ đẫn, đầy gân đỏ có một cáỉ nhìn trơn tuột
khó hiểu.
Người mẹ khao khát cố bắt gặp cái nhìn
ấy, cái nhìn có vẻ như nhìn vào bên trong, buồn thảm, chịu đựng.
Đứa bé chết trong tay mẹ. Lần cuối
cùng, cái miệng nhỏ xíu xám ngoét ngáp ngáp nức nở, cái thân hình nhỏ nhoi dướn
lên, đờ ra, cái đầu đẫm mồ hôi ngật sang bên lăn khỏi tay Acxinhia, hai con mắt
âm thầm của nhà Melekhov nheo lại, nhìn như có điều gì ngạc nhiên với hai tròng
con mắt không còn sức sống.
Cụ Xaska đào một cái huyệt tí hon
bên bờ ao, ngay dưới gốc cây tiêu huyền già cành vươn rất rộng. Cụ kẹp dưới
nách chiếc quan tài nhỏ xíu rồi chôn vội chôn vã, cái vội vã chưa từng thấy ở
cụ bao giờ.
Cụ kiên nhẫn đứng chờ rất lâu, nhưng
Acxinhia vẫn không chịu đứng lên để rời khỏi nấm mồ đắp bằng đất sét. Cụ không
chờ mãi được bèn hỉ mũi như tiếng roi quất, bước về chuồng ngựa… Cụ lấy trên gác
rơm xuống một lọ nước hoa Côlônhơ và một bình cồn vơi đã biến chất, trộn hai
thứ với nhau trong một cái chai, rồi vừa lắc, vừa ngắm màu rượu và nói:
- Ta uống để tưởng nhớ cháu. Cháu sẽ
được lên thiên đàng. Linh hồn thiên sứ đã xuất hiện.
Cụ uống một hơi hết chỗ rượu, lắc
lắc đầu như người mất trí, bóp bẹp một quả cà chua để nhắm, rồi cảm động nhìn
cái chai và nói:
- Cháu đừng quên ta, cháu yêu của
ta, còn ta sẽ không quên cháu đâu? Rồi cụ lại khóc sướt mướt.
° ° °
Ba tuần sau, Evgeni Litnhitki gời một
bức điện báo tin hắn đã được nghỉ phép và đang trên đường về nhà. Người ta đánh
ra ga chiếc xe ba ngựa để đón hắn. Tất cả đầy tớ trong nhà đều bấn cả lên:
người ta giết gà tây, giết ngỗng, cụ Xaska làm thịt một con cừu, cứ như sửa
soạn đại tiệc đón khách khứa đến đông.
Một cỗ ngựa đã được đánh lên làng
Kamenka trước một ngày để thay cho ba con ngựa kia khi về. Đến đêm cậu công tử
con cụ chủ mới về đến nhà. Mưa lâm râm, ánh đèn rọi xuống những vũng nước ảm
đạm trên đường. Mấy con ngựa dừng bước trước cái thềm, tiếng nhạc ngựa leng.
Evgeni mỉm cười, bước ra khỏi cái thùng xe che mui, vẻ mặt cảm động. Hắn ném
vào tay cụ Xaska chiếc áo mưa ẩm, bước lên thềm, chân rõ ràng có khập khiễng.
Từ trong phòng khách, lão địa chủ vội vàng xô bàn xô ghế, lệt sệt chạy ra.
Acxinhia đem bữa tối lên phòng ăn
rồi đi mời hai bố con sang ăn. Nàng nhìn qua lỗ khoá thấy lão địa chủ ôm chặt
lấy thằng con, hôn vai nó; cổ lão nhăn nheo lũng nhũng như mọi người già, khẽ
run run.
Nàng chờ vài phút rồi lại nhòm vào:
Evgeni phanh tà áo quân phục màu ka- ki, quỳ trước tấm bản đồ lớn trải trên
sàn.
Lão địa chủ hút píp, vừa thở ra
những vòng khói lờm xờm, vừa gõ những ngón tay xương xẩu lên thành ghế bành,
nói ồm ồm giọng phẫn nộ:
- Aleseyev à? Không thể thế được!
Tao không tin.
Evgeni chỉ ngón tay lên bản đồ, khẽ
nói rất lâu không biết những gì để thuyết phục bố. Lão già cố tự chủ trả lời
giọng trầm trầm:
- Trong trường hợp nầy thì Bộ tư
lệnh tối cao không đúng. Thật là hẹp hòi thiển cận! Nhưng thôi, Evgeni ạ, bây
giờ cha kể cho con nghe một thí dụ tương tự trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật.
Con đã thấy chưa? Con đã thấy chưa, con đã thấy chưa?
Acxinhia gõ cửa.
- Thế nào, bữa ăn đã dọn lên rồi à?
Ra ngay đây.
Lão già bước ra, hoạt bát vui vẻ,
mắt long lanh, nom trẻ hẳn ra.
Hai cho con lão uống với nhau một
chai rượu vang mới đào dưới đất lên hôm qua. Tờ nhãn hiệu mốc xanh vẫn còn giữ
được con số bạc màu: năm 1879.
Trong khi đứng hầu và nhìn hai bộ
mặt tươi vui ấy, Acxinhia càng cảm thấy thấm thía hơn nỗi cô quạnh của mình.
Nỗi đau khổ không thể khóc cho nguôi cứ luôn luôn làm tình làm tội nàng. Mấy
ngày đầu sau khi con chết, nàng muốn khóc lắm nhưng không sao khóc được Tiếng
khóc đã dồn lên đến họng, nhưng không có nước mắt, vì thế nỗi đau trong lòng đè
xuống như đá lại càng nặng gấp đôi.
Acxinhia ngủ rất nhiều (nàng cố ngủ
mê mệt cho khuây khoả), nhưng ngay trong giấc mơ, tiếng gọi hư ảo của đứa con
cứ ơi ới đuổi theo nàng. Nàng có cảm tưởng như con gái còn nằm bên cạnh, nên
thỉnh thoảng lại né ra, quờ tay lên giường tìm con. Có lúc lại như có tiếng gọi
thều thào: "Mẹ, nước".
- Con yêu đứt ruột đứt gan của mẹ… -
Cặp môi buốt giá của Acxinhia thì thầm.
Thậm chí ban ngày ban mặt, giữa lúc
nhận thấy rõ ràng nỗi đau khổ đè nặng trong lòng mình, đôi lúc nàng cảm tưởng
như đứa bé đứng áp vào đầu gối mình, và nàng bắt gặp mình đưa tay định xoa
những món tóc loăn xoăn trên đầu nó.
Evgeni về nhà đến ngày thứ ba thì
hắn xuống chỗ cụ Xaska ngồi rất khuya, nghe cụ kể những câu chuyện chất phác về
thời xưa, về cuộc sống tự do ở vùng sông Đông trước kia. Đến chín giờ hắn mới ở
đấy bước ra. Ngoài sân gió thổi vù vù, chân dẫm trên bùn ộp oạp. Vừng trăng non
vàng ệch lang thang giữa những kẽ mây.
Evgeni xem đồng hồ dưới ánh trăng
rồi đi về phía nhà đầy tớ. Đến bên thềm, hắn châm thuốc hút, đắn đo một lát rồi
nhún vai, tặc lưỡi đứng lên. Hắn nhẹ nhàng đẩy cái then cửa, cánh cửa cọt kẹt
mở ra.
Hắn bước vào gian Acxinhia ở, đánh
que diêm.
- Ai thế? - Acxinhia vừa hỏi vừa kéo
chăn lên che thân.
- Tôi đây.
- Tôi mặc áo ngay đây.
- Không cần. Tôi chỉ đến một phút
thôi.
Evgeni hất chiếc áo ca- pôt trên
vai, ngồi xuống mép giường.
- Chị vừa mất con bé cháu.
- Nó chết rồi. - Acxinhia trả lời
như tiếng vọng.
- Chị đổi khác nhiều quá. Còn sao
nữa, tôi cũng hiểu mất đứa con là chuyện như thế nào. Nhưng tôi nghĩ rằng chị
chỉ tự mình làm khổ mình một cách vô ích mà thôi, có cách nào cứu sống nó lại
được đâu. Mà chị còn trẻ, còn có con được nữa cơ mà. Không nên thế! Phải cứng
cỏi lên mới được, phải biết chịu đựng… Mà xét đến cùng thì dù sao cũng không nên
vì con bé không còn nữa mà vứt bỏ hết thảy. Trước mặt còn cả cuộc đời, chị thử
ngẫm mà xem!
Evgeni nắm lấy tay Acxinhia, vuốt ve
nàng, dịu dàng âu yếm, với vẻ một người có quyền làm như thế. Trong khi đó hắn
vẫn tiếp tục vận dụng những nốt trầm trong giọng nói. Rồi hắn chuyển sang thì
thầm và đến khi hắn cảm thấy toàn thân Acxinhia run bần bật trong tiếng khóc ấm
ức cuối cùng oà lên thành tiếng nức nở thì hắn bắt đầu hôn hai bên má đẫm nước
mắt của nàng, hôn mắt nàng…
Trái tim người đàn bà vốn thèm khát
thương yêu, ve vuốt. Acxinhia đang đau khổ và tuyệt vọng đến mê dại, không còn
biết mình đang làm gì nữa, đã hiến thân cho hắn với cả một sự cuồng si sôi nổi
mà nàng đã quên từ lâu. Nhưng đến khi làn sóng hưởng lạc vô sỉ nó làm tâm hồn
trống rỗng, đen tối như chưa từng thấy, đã rút đi như nước thuỷ triều, thì nàng
bừng tỉnh, kêu lên một tiếng thất thanh, và mất cả lý trí, cứ gần như trần
truồng chạy ra thềm, trên mình chỉ có chiếc áo lót. Evgeni hấp tấp chạy ra
theo, mặc cho cánh cửa mở toang. Hắn bước vội vã, vừa đi vừa cài cúc áo ca-
pôt, và đến khi hắn thở hổn hển leo lên sân thượng nhà trên thì trên môi hắn nở
nụ cười sung sướng, thoả mãn. Một niềm vui khoái trá tràn ngập lòng hắn. Sau
khi đã nằm lên giường, hắn xoa bộ ngực phồng to, mềm nhẽo thì thầm: "Về
phía một con người chính trực làm như thế là đê tiện, vô luân lý. Grigori… Mình
đã lấy cắp của đồng loại, nhưng phải biết rằng ngoài kia, ngoài mặt trận, mình
đã đem tính mạng ra mạo hiểm. Viên đạn rất có thể chệch sang bên phải một chút
và xuyên qua đầu mình. Nếu thế thì bây giờ mình đã thối rữa ra rồi, xác thịt
mình đang nuôi béo dòi bọ rồi… Cần phải sống gấp từng giây, từng phút mới được.
Đối với mình việc gì cũng được phép làm tuốt!". Các ý nghĩ của hắn đã làm
hắn hoảng lên trong một phút, nhưng trong óc tưởng tượng của hắn lại hiện ngay
rõ mồn một quang cảnh rùng rợn của trận tấn công cùng giây phút hắn nhổm lên từ
cái xác con ngựa bị giết rồi gục xuống vì trúng những viên đạn.
Ngay khi đã thiu thiu, hắn còn tự
nhủ, cố làm cho mình yên tâm: "Chuyện ấy hãy để đến mai, bây giờ ngủ đã,
ngủ đã…"
Sáng hôm sau, lúc chỉ có mình hắn
với Acxinhia trong phòng ăn, hắn nở một nụ cười như nhận tội, bước tới gần
nàng, nhưng nàng đứng áp mình vào tường, vươn hai tay ra, căm giận khẽ kêu lên
một câu làm hắn cảm thấy rát như lửa đốt:
- Đừng tới gần tôi, đồ khốn nạn?
Đời sống bắt con người phải theo
những quy luật không có ai viết thành văn. Ba hôm sau, ban đêm Evgeni lại mò
vào phòng Acxinhia, và Acxinhia đã không tống cổ hắn ra.
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 77
Nhà thương chữa mắt của bác sĩ
Snegirov có mảnh vườn nhỏ. Các ngõ ở ngoại ô Moskva có rất nhiều mảnh vườn
không làm người ta thoải mái với những cây bị xén tỉa như thế nầy. Trong các
vườn ấy con mắt không được nghỉ ngơi, không quên được cái chán ngán nặng tựa đá
đeo của thành phố và càng nhìn lại càng nhớ một cách sâu sắc và đau khổ hơn cái
cảnh tự do man rợ của núi rừng.
Mùa thu đang ngự trị trong mảnh vườn
nhà thương: màu đồng thau của lá rụng đã phủ đầy con đường nhỏ; sương muối ban
mai làm những bông hoa héo rũ; mầu xanh mọng nước tràn ngập các thảm cỏ Những
ngày đẹp trời, người bệnh đi dạo trên những con đường nhỏ, lắng nghe những hồi
chuông nhà thờ dóng dả trên thành phố
Moskva ngoan đạo. Những ngày xấu
trời (mà năm ấy phần nhiều lại là những ngày xấu trời), họ láng cháng từ phòng
nầy sang phòng khác hoặc nằm dài trên giường, chẳng nói chẳng rằng, tự mình làm
mình chán ngấy, hoặc làm nhau chán ngấy.
Người bệnh trong nhà thương phần lớn
là dân thường, binh lính bị thương ở chung một phòng, tất cả có năm người: Yan
Vareykit, một anh chàng tóc đỏ cao lớn người Ladvia có chòm râu xén tỉa vừa
rộng vừa rậm; Ivan Vrublevsky, một gã long kỵ binh đẹp trai hai mươi tám tuổi,
quê ở tỉnh Vladimir, gã khinh binh Kosyk người Sibiri; Burdin, một gã bộ binh
nhỏ bé, da vàng ệch, động đậy luôn chân luôn tay và Grigori Melekhov. Đến cuối
tháng chín lại có thêm một người nữa được đưa đến. Mọi người đang uống trà buổi
tối thì có tiếng chuông réo rắt rất lâu. Grigori nhìn ra hành lang.
Ba người bước vào phòng ngoài: một
người nữ y tá và một người mặc áo tréc- két 1 cùng xốc nách một người thứ ba.
Chắc hẳn vừa ở nhà ga tới đây: chứng cớ rành rành là chiếc áo va- rơi bộ binh
bẩn thỉu trên ngực đầy những vết máu nâu nâu. Ngay tối hôm ấy anh ta phải lên
bàn mổ. Sau những công việc sửa soạn ngắn ngủi (tiếng luộc đồ mổ lách cách vẳng
tới các phòng), người mới đến được đưa vào phòng mổ. Vài phút sau, từ trong đó
vang ra tiếng khe khẽ: trong khi người ta nạo nốt phần còn lại của con mắt bị
mảnh đạn bắn lòi ra anh ta được đánh thuốc mê, nên hết cất tiếng hát lại ú ớ
văng tục. Mổ xong, anh ta được đưa về phòng thương binh. Hai mươi bốn giờ sau,
đầu óc anh ta thoát khỏi trạng thái mê mệt li bì vì thuốc mê, và anh ta kể lại
rằng mình đã bị thương ở gần Verberg trên mặt trận Đức Anh ta vốn là một tay
bắn súng máy, họ là Garangia, người tỉnh Trecnigov. Chỉ vài ngày Garangia đã
đặc biệt chơi thân với Grigori vì giường hai người kê cạnh nhau. Sau giờ kiểm
tra buổi tối, hai người còn thì thầm to nhỏ với nhau rất lâu.
- Thế nào, anh chàng Cô- dắc, tình
hình cậu ra sao?
- Trắng như bồ hóng ấy.
- Còn con mắt: hiện giờ thế nào?
- Mình vẫn đi tiêm.
- Họ tiêm cho bao nhiêu mũi rồi?
- Mười tám.
- Có đau không?
- Không, dễ chịu lắm.
- Sao cậu không xin họ nạo quách đi
cho xong.
- Đâu phải ai cũng có thể mang con
mắt chột được?
- Ừ phải đấy.
Chàng láng giềng của Grigori vưa dễ
cáu vừa ác khẩu. Garangia không vừa lòng về tất cả: anh ta chửi chính quyền,
chửi chiến tranh, chửi số phận mình, chửi các món ăn của nhà thương, chửi gã
nấu bếp, chửi các bác sĩ, chửi tất cả những cái gì vô phúc vướng phải cái lưỡi
cay độc của anh ta.
- Mình với cậu, hai cái thằng hạng
bét nầy, đánh nhau làm gì nhỉ?
- Tất cả mọi người đánh nhau vì cái
gì thì chúng mình cũng vì cái ấy.
- Thế cậu hãy nói rõ cho mình nghe
xem, nói thật rõ vào.
- Thôi cậu hãy để mình yên?
- Hà? Cái thằng đến là ngốc? Việc
nầy còn phải xem xét thật kỹ mới được. Chúng mình đánh nhau cho bọn tư sản, cậu
có thấy thế không? Mà tư sản là cái gì? Là một giống chim sống trong những đám
cây đay.
Garangia giảng cho Grigori nghe
những từ khó hiểu và luôn miệng đưa thêm vào lời nói của anh ta những câu chửi
xói móc cay độc;
- Thôi đừng ba hoa thiên địa nữa!
Mình nghe không hiểu cái giọng khô- khon của cậu đâu, - Grigori ngắt lời
Garangia.
- Chà cái cậu nầy! Thế cậu, cái
thằng moskan nầy, cậu không hiểu à?
- Cậu hãy nói chậm một chút.
- Nhưng mình có nói nhanh lắm đâu,
người anh em thân mến.
- Cậu bảo vì nhà vua, nhưng nhà vua
là cái gì hử? Nhà vua là một con sâu rượu, hoàng hậu là một con đĩ. Chiến tranh
đổ thêm tiền bạc vào túi bọn "pan", còn chúng mình thì chỉ được lồng
vào cổ… một cái vòng thòng lọng. Cậu có hiểu không? Hử? Chủ nhà máy rượu nốc
đến họng, binh lính rận giết chán tay, cả hai bên đều nhọc nhằn cả… Chủ nhà máy
nhét tiền lãi đầy túi, còn thợ thuyền quần áo rách hở da hở thịt, cái trật tự
hiện nay là như thế đấy… Cứ phục vụ đi, anh chàng Cô- dắc, cứ phục vụ đi! Rồi
cậu sẽ được tặng thêm một chữ thập nữa, một chữ thập thật đẹp, bằng gỗ sồi… -
Garangia vốn nói tiếng Ukraina, nhưng năm thì mười hoạ, trong những phút quá
sôi nổi, anh ta chuyển sang nói tiếng Nga thì lại nói rất rõ ràng, cùng với
những lời chửi rủa.
Ngày nầy qua ngày khác, Garangia đã
dần dần đưa được vào đầu óc Grigori những điều chân lý mà cho đến nay chàng
chưa từng biết tới. Anh ta vạch trần các nguyên nhân chân chính đã làm nổ ra
chiến tranh và chế giễu một cách cay độc chính quyền độc tài Nga hoàng.
Grigori cũng tìm cách cãi lại, nhưng
Garangia đã dồn chàng vào ngõ cụt bằng những câu hỏi đơn giản, đơn giản nhưng
chết người, và Grigori bắt buộc phải đồng ý.
Điều đáng sợ nhất là trong thâm tâm
Grigori cảm thấy Garangia nắm phần chân lý, còn mình thì hoàn toàn bất lực
không thể đưa ra những lý lẽ cãi lại, cái lý lẽ ấy không có và không thể nào
tìm ra được. Grigori kinh hoàng nhận thấy rằng anh chàng Ukraina thông minh và
hung dữ nầy đã tuần tự, nhưng từng bước chắc chắn phá tan tất cả cái khái niệm
xưa kia của chàng về nhà vua, về Tổ quốc và về nghĩa vụ đi lính của người Cô-
dắc.
Một tháng sau khi Garangia đến nhà
thương, tất cả những điều tưởng chừng vững chắc làm cơ sở cho ý thức của
Grigori đều tan thành tro bụi. Các cơ sở ấy đã mục nát, tính chất ngu xuẩn quái
đản của chiến tranh đã đục khoét nó như rỉ ăn sắt, và bây giờ chỉ cần có một
cái gì đẩy mạnh. Cái gì đẩy mạnh ấy đã có rồi, tư duy đã bừng tỉnh, đã làm kiệt
sức, đã đè bẹp cái đầu óc đơn giản và ngây thơ của Grigori. Chàng lăn lộn, cố
tìm lối thoát, tìm cách giải bài toán vượt quá trí thông minh của chàng, và
chàng đã thoả mãn tìm thấy cách giải bài toán ấy trong những câu trả lời của
Garangia.
Có một đêm, đã khuya lắm Grigori
đang nằm trên giường nhỏm dậy đánh thức Garangia. Chàng sang ngồi trên giường
Garagia. Ánh trăng tháng chín hơi có màu xanh lá cây, chiếu vào cửa sổ qua tấm
rèm hạ xuống một phần. Garangia tỉnh dậy, hai bên má anh ta hõm xuống, sẫm lại
như màu cát, con mắt đen sâu hoắm long lanh ướt ướt. Anh ta ngáp một cái, rồi
thấy lạnh, bèn lấy chăn quấn vào chân.
- Còn chưa ngủ à?
- Chẳng làm thế nào chợp được mắt.
Cái ngủ nó chuồn khỏi người mình rồi. Cậu hãy giảng cho mình nghe cái chuyện
nầy: chiến tranh làm lợi cho một số người, làm hại những người khác…
- Thế sao? A- ha- a- a… - Garangia
lại ngáp.
- Để mình nói đã! - Grigori nổi xung
lên khẽ nói. - Cậu bảo chính vì nhu cầu của bọn nhà giàu mà họ đẩy chúng mình
đến chỗ chết, nhưng còn nhân dân thì sao? Chẳng nhẽ nhân dân không hiểu hay
sao? Chẳng nhẽ không có những người có thể nói ra hay sao? Tất sẽ có người bước
ra mà nói: "Anh em ơi, anh em phải đổ máu mà chết là vì thế nầy nầy".
- Thế nào, bước ra mà nói ấy à? Cậu
bảo sao, nói lên ấy à? Được, mình cũng muốn xem cậu bước ra nói như thế nào
đấy. Trong lúc nầy hai chúng mình cứ phải thì thầm như hai con ngỗng trong bãi
lau, và chỉ cần nói to lên một tiếng sẽ là có viên đạn bay tới ngay. Nhân dân
đang sống trong cảnh ngu dốt đen tối. Chiến tranh sẽ làm cho họ thức tỉnh. Sấm
nổ trong mây là mưa sắp đổ ào đến nơi…
- Thế thì phải làm gì bây giờ? Nói
đi, đồ chó đẻ! Cậu đã làm cho lòng dạ mình rối bời bời đây nầy!
- Lòng dạ cậu cảm thấy thế nào?
- Mình cũng chẳng hiểu, - Grigori
thú nhận.
- Kẻ nào muốn đẩy mình xuống vực thì
mình sẽ đẩy nó xuống trước. Điều cần thiết là không ngại ngùng quay mũi súng
trở lại. Cần phải nã một viên đạn vào đầu kẻ nào đẩy con nhà người ta vào lò
sát sinh. Cậu phải biết rằng, bão to lên một trận là tất cả sẽ sạch quang.
Grigori nhỏm dậy, nghiến răng, vươn
hai tay ra:
- Thế theo ý cậu thì… phải đặt lại
tất cả đầu xuống đất chân lên trời hay sao?
- Đúng! Phải quẳng cái chính quyền
nầy đi như một cái quần bẩn. Phải lột da bọn "pan" ra, phải vặn hết
răng chúng nó, vì chính chúng nó đã cho nhân dân ăn quai hàm.
- Nhưng dưới chính quyền mới thì sẽ
làm thế nào với chiến tranh? Con người ta vẫn cứ giết nhau, không chúng ta thì
cũng con cái chúng ta… Dùng cái gì mà chặt ngắn được chiến tranh? Làm thế nào
diệt hẳn được chiến tranh, mà con người thì đã đánh nhau từ đời xửa đời xưa
rồi?
- Đúng thế, chiến tranh đã có từ đời
xửa đời xưa và chiến tranh sẽ không thể bị diệt bỏ chừng nào trên thế giới nầy
còn có những chính quyền ngu xuẩn. Thế đấy! Nếu nước nào cũng có chính quyền
của thợ thuyền thì lúc đó người ta sẽ không đánh nhau nữa. Đó chính là điều cần
phải có cho kỳ được. Còn bọn hiện nay thì phải tống mẹ chúng nó vào sáu tấm gỗ
sồi! Mà rồi sẽ như thế đấy!
Người Đức cũng như người Pháp, ở mọi
nước rồi sẽ lập nên chính quyền của thợ thuyền và dân cày. Đến lúc ấy thì chúng
ta còn đánh nhau làm gì nữa! Biên giới, hết mẹ biên giới! Thù dân tộc, hết mẹ
thù dân tộc! Trên khắp thế giới đều chỉ có một cuộc sống đẹp như vàng mười.
Chà? - Garangia thở dài rồi nhai nhai hai đầu hàng ria, long lanh con mắt duy
nhất còn lại, mỉm một nụ cười mơ mộng. - Grigori ạ, mình sẽ nhỏ dần từng giọt
máu để được sống tới ngày ấy… Trong lòng mình cứ như lửa đốt ấy…
Hai người chuyện trò với nhau đến
lúc trời hửng. Grigori thiếp đi trong bầu không khí tranh tối tranh sáng xám
ngoét, giấc ngủ chẳng yên tĩnh chút nào.
Đến sáng có tiếng người lao xao và
tiếng khóc làm chàng thức giấc. Ivan Vrublevsky đang nằm úp mặt xuống giường
khóc nức nở.
Người nữ y sĩ, Yan Vareykit và Kosyk
đứng chung quanh gã.
- Có gì mà cậu ấy sụt sịt thế? -
Burdin thò đầu ra khỏi chăn hỏi giọng khàn khàn.
- Con mắt giả của cậu ấy vỡ mất rồi.
Vừa lấy nó trong cái cốc ra thì đánh rơi ngay xuống sàn, - Kosyk trả lời, giọng
nói có vẻ khoái trá một cách độc ác hơn là thương hại.
Có một lão người Đức vào làng Nga
làm nghề bán mắt giả. Lão động lòng yêu nước, đem hàng của lão tặng cho binh sĩ
không lấy tiền. Hôm qua người ta vừa mới chọn và lắp cho Vrublevsky một con mắt
thuỷ tinh làm hết sức tinh vi, cũng màu xanh da trời và đẹp như mắt thật. Con
mắt giả đã được chế tạo khéo đến nỗi dù để ý xem xét thật kỹ cũng không thể
phân biệt con mắt thật với con mắt giả.
Vrublevsky sướng quá cười như con
nít.
- Mình về nhà sẽ lừa được bất cứ con
nào, - Hắn nói giọng vùng Vladimir. - Mình sẽ cưới xong xuôi rồi mới thú thực
là có một con mắt thuỷ tinh.
- Sẽ lừa được đấy? - Burdin phá lên
cười. Lúc nào gã cũng chỉ ê a một bài nói về Đunhia và con dán cắn mất chiếc áo
dài không có tay của Đunhia. Nhưng chuyện bất ngờ không may vừa nãy đã xảy ra,
thế là anh chàng đẹp trai nhà ta về làng vẫn chỉ có một con mắt.
- Thôi đừng khóc nữa, họ sẽ cho cậu
con mắt khác, - Grigori dỗ gã.
Vrublépsky ngẩng bộ mặt khóc đến
sưng vù, một cái lỗ ươn ướt đỏ lòm thay cho con mắt.
- Họ sẽ không cho đâu. Con mắt ấy,
giá của nó là ba trăm rúp đấy. Họ sẽ không cho đâu.
- Thật là mắt ra mắt! Vẽ đủ không
thiếu một mạch máu nào, - Kosyk trầm trồ kêu lên.
Sau bữa trà sáng, Vrublépsky cùng
người nữ y sĩ đến cửa hiệu của lão người Đức, lão lại chọn ngay cho một con mắt
khác.
- Người Đức họ tốt hơn người Nga! -
Vrublépsky sướng như điên.
- Tìm đến một lão lái buôn Nga thì
đừng hòng mà xin. Lão nầy thì cho ngay mà chẳng nói một lời.
° ° °
Tháng chín đã trôi qua. Thời gian dè
sẻn buông thả từng ngày. Ngày nọ nối ngày kia, dài tưởng không bao giờ hết,
ngày nào cũng tràn ngập một nỗi buồn chết người. Sáng sáng, đến chín giờ thì
uống trà. Mỗi người bệnh được phát một cái đĩa nhỏ trên có hai lát bánh mì
nướng kiểu Pháp, cắt mỏng đến nhìn suốt qua được và một mẩu bơ bằng ngón tay
út. Ăn bữa trưa xong, người bệnh ra về, bụng đói vẫn hoàn đói. Đến tối lại nước
trà, muốn đổi món thì có thể đổ thêm nước lạnh vào. Hàng ngũ con bệnh cũng có
thay đổi. Trong "phòng quân sự" (các người bệnh trong nhà thương gọi
như vậy phòng của binh lính bị thương), người đầu tiên ra viện là gã Kosyk
người Sibiri, rồi đến gã Vareykit người Ladvia. Và đến cuối tháng mười Grigori
cũng được cấp giấy ra viện.
Viên bác sĩ chủ nhà thương. Snegirov
là một người đẹp trai có chòm râu xén tỉa ngay ngắn. Hắn thử mắt cho Grigori
xong, nói rằng sức nhìn của chàng là ở mức thoả mãn. Trong một căn phòng tối,
người ta cho Grigori xem những chữ và con số to được chiếu sáng, đặt cách chàng
một khoảng nhất định. Chàng được ra viện và chuyển đến nhà thương ở đường Tverkaia
vì vết thương trên đầu đã chữa khỏi rồi lại bỗng nhiên há miệng và hơi có mủ.
Lúc chia tay với Garangia, Grigori hỏi:
- Chúng ta còn gặp nhau nữa không?
- Núi thì có bao giờ gặp núi…
- Thôi cậu khô- khon, cám ơn cậu đã
mở mắt cho mình. Bây giờ mình đã sáng mắt và đã… ác rồi!
- Cậu về trung đoàn sẽ nói các
chuyện ấy với anh em Cô- dắc nhé.
- Được.
- Nếu cậu có dịp qua làng Gorokhovka
vùng Trecnigov thì cứ hỏi nhà bác thợ đóng móng ngựa Andrey Garangia, ông cụ
nhà mình sẽ rất sung sướng được gặp cậu. Thôi tạm biệt, người anh em!
Hai người ôm lấy nhau. Trí nhớ của
Grigori còn ghi lại rất lâu hình ảnh của anh chàng Ukraina độc nhỡn long có con
mắt nghiêm khắc những đường nét dịu dàng của cái miệng, và hai cái má xám như
màu cát.
Grigori phải nằm nhà thương chừng
mười ngày. Chàng ấp ủ trong lòng một quyết tâm chưa thành hình dứt khoát. Tinh
thần phẫn nộ trong những lời giảng của Garangia truyền đi khắp người chàng.
Chàng rất ít chuyện trò với những
người nằm cùng phòng bệnh. Mỗi cử chỉ cử động của chàng đều lộ rõ cả một tâm
trạng bối rối băn khoăn. Lúc tiếp nhận người bệnh, lão giám đốc nhà thương nhìn
qua mặt Grigori, một bộ mặt không phải của người Nga, đã nhận định chàng là
"tâm thần không yên tĩnh".
Mấy hôm đầu, Grigori bị sốt. Chàng
nằm lì trên giường lắng nghe những tiếng vang như chuông không lúc nào ngớt
trong tai. Chính trong những ngày ấy đã xảy ra chuyện dưới đây.
Một nhân vật trong hoàng tộc từ
Voronez tới, rủ lòng thương cao cả đến thăm nhà thương. Được báo tin đó từ buổi
sáng, các nhân viên y vụ anh nào anh náy chạy tới chạy lui rối rít như những
con chuột trong một nhà kho đang cháy. Các binh lính bị thương được cho ăn mặc
sạch sẽ, khăn trải giường chưa đến kỳ đã thay làm họ băn khoăn. Viên bác sĩ trợ
lý thậm chí còn cố dạy cho mọi người biết cách trả lời nhân vật cao quý ấy, và
khi nói năng với ngài thì tư thế phải như thế nào. Tâm trạng lo lắng lây sang
cả các thương binh: một số đã bắt đầu chỉ nói thì thầm ngay trước cuộc viếng
thăm. Đến giữa trưa thì nghe thấy tiếng còi ô tô bí bo ở cổng nhà thương. Vị
hoàng thân bước vào giữa hai cánh cổng mở toang, theo sau là một đoàn tuỳ tùng
với nhân số xứng đáng với địa vị của ngài. (Một thương binh tính vui nhộn và
hay pha trò cam đoan với các bạn của anh ta rằng khi các vị khách trứ danh ấy đến
nơi, lá cờ mang chữ thập đỏ của nhà thương đột nhiên đập phần phật tuy lúc đó
trời rất quang và chẳng gợn một chút gió nào, đồng thời bên kia đường, anh
chàng công tử bột tóc xoăn vẽ trên tấm biển chiêu hàng của hiệu thợ cạo cũng
làm một cử động tựa như khuỵu đầu gối xuống chào).
Cuộc đi thăm các phòng bệnh bắt đầu.
Nhân vật cao quý hỏi những câu kỳ quặc, vô nghĩa lý, thích hợp với địa vị và
hoàn cảnh của ngài.
Theo lời dặn của viên bác sĩ trợ lý,
anh em thương binh giương mắt to hơn cả mức quy định trong hàng ngũ trả lời:
"Bẩm hoàng thân điện hạ, đúng như thế ạ" hoặc "Bẩm không
ạ", kèm theo cũng tước hiệu đó. Lão giám đốc nhà thương bình luận các câu
trả lời, người oặn oẹo như con rắn nước bị mũi chàng nạng chặn xuống đất, đứng
xa mà nhìn đến là đáng thương. Nhân vật trong hoàng tộc đi từ giường nọ sang
giường kia, phân phát những bức tượng thánh nhỏ.
Đám người bận đồng phục choáng lộn
đi tới gần Grigori giữa những làn sóng nước hoa đắt tiền xông ra nồng nặc như
những làn sóng.
Chàng đứng bên giường của chàng, râu
chưa cạo, mặt gấy rộc, mắt đỏ ngầu. Hai cái gò má nâu nhọn hơi run run lộ rõ cả
một niềm phẫn nộ trong lòng.
"Chính chúng nó đây, chính vì
sự sung sướng phè phỡn của bọn nầy mà chúng mình bị lôi cổkhỏi nhà, khỏi cửa và
bị ném vào chỗ khác. Chà, cái lũ rắn độc! Những thằng đáng nguyền rủa! Quân ăn
dơ! Chính cái lũ chấy rận hút máu trên sống lưng mình đây rồi! Chẳng phải vì
cái bọn nầy mà chúng mình cho ngựa dẫm nát hoa mầu lúa má của người ngoài, mà
chúng mình đi giết người hay sao? Còn chính mình phải bò trên những cuống rạ,
mà kêu la, phải chịu những cơn kinh hồn khiếp đảm, phải rời bỏ gia đình, tới
chịu cực chịu khổ trong trại lính, chẳng phải vì chúng nó hay sao? "Một mớ
bòng bong những ý nghĩ sôi sục quay lộn trong đầu chàng. Cơn tức giận hung dữ
làm miệng chàng méo xệch". Tất cả chúng nó đều sao mà béo tốt thế, sao mà
hào nhoáng thế. Cái quân ba lần chết tiệt nầy, phải cho chúng mày ra ngoài ấy
mới được! Phải cho chúng mày lên ngựa, đeo súng, cho chúng mày chấy rận đầy
người, phải nuôi chúng mày bằng bánh mốc, thịt giòi mới được!"
Grigori nhìn như xuyên thủng bọn sĩ
quan tuỳ tùng ăn vận lộng lẫy rồi dừng hai con mắt đục ngầu trên cặp má lũng
nhũng như hai cái túi của nhân vật trong hoàng tộc.
- Binh sĩ Cô- dắc sông Đông, đã được
thưởng huân chương thánh Gióoc. - Lão giám đốc nhà thương khom người chỉ
Grigori. Nghe giọng lão nói thì có thể tưởng như chính lão đã được thưởng huân
chương.
- Trấn nào? - Nhân vật cao quý hỏi,
tay cầm sẵn một bức tượng thánh.
- Bẩm hoàng thân điện hạ, trấn Vosenskaia.
- Được thưởng huân chương vì công
lao gì?
Cặp mắt sáng của nhân vật cao quý
nom trống rõng, đầy vẻ âu sầu chán ngán và phè phỡn thoả thuê. Hàng lông mày
hung hung bên trái giương lên đúng như đã được nghiên cứu kỹ lưỡng để gây ấn
tượng, Grigori bất giác thấy lạnh nhói trong ngực, y như cảm giác lúc bắt đầu
xung phong. Môi chàng không giữ được bình thường nữa, vẹo đi, run lên.
- Tôi muốn… Tôi cần phải đi… cần
phải, bẩm điện hạ… đi tiểu tiện… - Grigori lảo đảo như người kiệt sức, khoác
rộng tay chỉ xuống gầm giường.
Hàng lông mày bên trái của nhân vật
cao quý dựng đứng lên, bàn tay cầm bức tượng thánh đưa ra đến nửa đường thì
sững lại. Ngài ngạc nhiên trễ cái môi dưới của một người quen cằn nhằn, quay
lại nói một câu tiếng Anh với viên tướng tóc bạc theo hầu. Đám tuỳ tùng chỉ hơi
để lộ vẻ lúng túng: một viên sĩ quan cao lớn đeo dây ngù vai đưa bàn tay đeo
chiếc găng trắng như tuyết lên mắt; viên thú hai cúi đầu, viên thứ ba nhìn vào
mặt viên thứ tư như muốn hỏi gì…
Viên tướng tóc bạc cung kính mỉm
cười, dùng tiếng Anh thưa với hoàng thân điện hạ không biết những gì, và nhân
vật cao quý cũng gia ân nhét bức tượng thánh vào tay Grigori, thậm chí còn ban
cho chàng một cái ơn tối cao nữa là khẽ chạm tay vào vai chàng.
Sau khi các vị khách cao quý đã ra
về, Grigori nằm vật xuống giường. Chàng vùi đầu vào gối, nằm liền mấy phút, hai
vai rung lên. Không thể nào biết được là chàng khóc hay cười, nhưng lúc chàng
đứng dậy thì hai con mắt ráo hoảnh và sáng ra. Viên giám đốc nhà thương gọi
ngay chàng lên bàn giấy.
- Mày là một thằng lưu manh! - Hắn
đã mở miệng như thế, những ngón tay nắm chặt chòm râu màu lông thỏ.
- Đồ chó đẻ, tao không phải là một
thằng lưu manh như mày nói đâu! - Grigori vừa nói vừa đi tới trước mặt viên bác
sĩ. Hàm dưới trễ xuống, chàng cũng không kéo lên được. - Ngoài mặt trận có
trông thấy mặt chúng mày đâu? - Rồi chàng tự chủ được, giọng nói đã trầm tĩnh -
Cho tôi về nhà thôi!
Viên bác sĩ lùi lại tránh Grigori,
lão bước ra sau bàn giấy và nói bằng một giọng nhẹ nhàng hơn:
- Chúng tôi sẽ cho về. Thôi xéo đi
cho khuất mắt!
Grigori bước ra ngoài, miệng run run
cười, mắt long lên vì điên tiết với hành động quái đản, không thể tha thứ được
của Grigori trước mặt nhân vật cao quý, ban giám đốc nhà thương đã truất phần
ăn của chàng ba ngày ba đêm liền. Nhưng các bạn cùng phòng và người nấu bếp tốt
bụng mắc bệnh sa đì đã cho chàng ăn.
--- ------
------ ------ -------
1 Một kiểu
áo ngoài của đàn ông vùng Kavkaz bó sát người trên ngực có khâu nhiều lỗ mắc
đạn (ND
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 78
Đêm mồng bốn tháng mười một, Grigori
Melekhov về tới Hạ Yablonovsky, thôn Cô- dắc đầu tiên thuộc trấn Vosenskaia sau
khi xuống ga. Chỉ còn vài chục vec- xta là tới trang trại Yagonoie.
Grigori đi qua vài ngôi nhà thưa
thớt, làm những con chó cắn ngậu lên. Sau rặng liễu ven sông nghe có những
giọng con trai ít tuổi hát:
Từ sau rừng, giáo gươm loà chói.
Đang tiên la đoàn quân Cô- dắc rậm
ria.
Trên hàng đầu, chàng võ quan trẻ
tuổi.
Lôi cuốn theo các chiến binh trong
đại đội.
Một giọng nam cao cất lên rành rọt,
rất mạnh:
Hãy theo tôi, anh em ơi, đừng sợ!
Những giọng đồng ca rất ăn khớp hoà
theo ngang tàng:
Phi cho mau, ta tiến tới tường thành.
Ai tới trước sẽ vinh quang rạng rỡ.
Sẽ có huân chương, sẽ là chàng Cô- dắc xứng danh.
Grigori đã hát không biết đến bao nhiêu lần bài dân ca
Cô- dắc cổ xưa nầy, vì thế những lời hát quen thuộc đã gợi lên trong lòng chàng
một cảm giác vô cùng thân thương, vô cùng ấm áp. Người chàng bất thần lạnh
nhói, mắt mờ đi, ngực như bị bó chặt. Chàng hít lấy hít để mùi khói phân khô
đắng hắc trườn ra từ ống khói các căn nhà. Grigori đi qua thôn, tiếng hát cứ
vẳng theo:
Đứng trên thành ta vững như tường đá.
Mặc đạn bay, đạn, réo, như đàn ong.
Gươm ta chém, lưỡi lê ta dâm xả,
Thế mới là dân Cô- dắc sông Đông.
"Đã lâu lắm, hồi còn ít tuổi, mình cũng hay hát bài
nầy, nhưng bây giờ giọng mình khàn mất rồi, cuộc sống cắt đứt mất tiếng hát
rồi. Bây giờ thì về mà nghỉ ngơi ít bữa bên vợ một người khác, không nhà không
cửa, chẳng khác gì con sói dưới cái khe…" - Grigori nghĩ thầm, và bước
chân của chàng cũng mệt mỏi không kém gì các ý nghĩ ấy, trong khi chàng tự mình
chua xót giễu cợt cảnh đời éo le, kỳ quặc của mình. Grigori ra khỏi thôn thì
leo lên một cái gò dốc, ngoái nhìn lại: trong khung cửa sổ của ngôi nhà cuối
cùng, thấy cái ánh vàng vàng của một ngọn đèn treo, một người đàn bà Cô- dắc đã
có tuổi ngồi cạnh cửa sổ, sau cái xa quay sợi.
Grigori rời khỏi đường cái, bước lên lớp cỏ ẩm và ròn,
phủ đầy sương muối. Chàng quyết định đến thôn đầu tiên trên sông Tria thì sẽ
nghỉ đêm ở đấy để sớm hôm sau lên đường về tới Yagonoie. Đến nửa đêm Grigori
mới tới thôn Grachev. Chàng ngủ nhờ một nhà ở lề thôn rồi sáng hôm sau, trời
vẫn còn tim tím, tranh tối tranh sáng, đã lên đường.
Đến đêm thì tới Yagonoie. Chàng nhảy rất khẽ qua hàng
rào, đi qua chuồng ngựa. Từ trong đó vẳng ra tiếng cụ Xaska ho sặc sụa rất
vang. Grigori đứng lại gọi:
- Cụ Xaska, cụ ngủ rồi à?
- Hượm hượm đã, ai đấy? Giọng tôi nghe quen lắm… Ai thế
nhỉ?
Cụ Xaska khoác cái áo choàng bằng nỉ thô lên vai, bước ra
sân.
- Lạy các cha chí thánh! Griska! Dịch tả dịch hạch nào
lôi cậu ở đâu về đây thế nầy? Khách nầy mới là khách ra khách!
Hai người ôm lấy nhau. Cụ Xaska ngước nhìn vào mắt
Grigori và nói:
- Vào đây hút với tôi điếu thuốc đã.
- Không, mai hẵng hay. Tôi vào trong kia đây.
- Vào đây có chuyện cần nói với cậu.
Grigori miễn cưỡng nghe theo. Chàng
ghé ngồi lên cái giường ván, chờ cụ Xaska ho hết cơn.
- Thế nào, bố già, vẫn còn sống chứ.
Hai chân vẫn dẫm lên mặt đất chứ?
- Vẫn cứ dẫm qua dẫm quít thôi. Tôi
thì như cây súng kíp, không sao mòn được đâu.
- Còn Acxinhia?
- Cái gì Acxinhia… Acxinhia, ơn
Chúa…
Cụ già rặn ra ho. Grigori đoán là cụ
giả vờ ho, bèn cố giấu vẻ lo lắng.
- Cháu Tanhiuska chôn ở đâu hả cụ?
- Trong vườn, dưới gốc cây tiêu
huyền.
- Thế cụ có chuyện gì thì kể đi.
- Griska ạ, cái bệnh ho cứ làm khổ
tôi…
- Nào, cụ kể đi!
- Mọi người vẫn còn sống, vẫn khỏe
mạnh. Cụ chủ vẫn uống rượu. Cứ nốc mãi, con người đến là ngu xuẩn, bất chấp
phải trái.
- Nhưng Acxinhia thế nào?
- Acxinhia ấy à? Acxinhia bây giờ
làm hầu phòng.
- Tôi biết rồi.
- Cậu cuộn lấy điếu thuốc mà hút
chứ? Thế nào? Hút đi, tôi có thuốc lá hạng ngon nhất đấy.
- Tôi không muốn hút. Cụ nói thì
nói, không tôi đi đây. - Grigori nặng nề quay người lại, dưới thân hình của
chàng cái giường ván kêu răng rắc. - Tôi thấy như cụ đang giữ một chuyện gì
không chịu nói ra, cứ như ôm tảng đá trong bụng ấy. Cụ đánh tôi đi còn hơn.
- Thì tôi sẽ đánh!
- Đánh thì đánh đi.
- Tôi sẽ đánh. Tôi không đủ sức nín
lặng nữa rồi, mà Griska ạ, không nói ra thì tôi đau lòng lắm.
- Thế thì cụ kể đi, - Grigori âu yếm
đặt bàn tay nặng như đá lên vai ông cụ. Rồi chàng gù lưng xuống chờ nghe.
- Cậu đã ấp ủ một con rắn? - Bỗng
nhiên cụ Xaska kêu lên đến thất thanh, hai tay giơ lên một cách kỳ cục. - Cậu
đã nuôi một con rắn độc! Nó đã đi lại với thằng Evgeni rồi! Như thế còn ra thể
thống gì nữa?
Một dải nước bọt lóng lánh như hạt
cườm chảy xuống theo cái rãnh trên vết sẹo hồng hồng dưới cằm ông cụ. Cụ quệt
nó đi rồi chùi tay vào cái quần lót bằng vải thô sần sùi.
- Cụ nói thật đấy chứ?
- Chính mắt tôi trông thấy mà. Đêm
nào thằng cha ấy chẳng mò xuống với nó. Cậu về đi, có lẽ bây giờ thằng ấy đang
ở chỗ nó đấy.
- Lẽ nào lại thế nhỉ… - Grigori bẻ
đốt ngón tay răng rắc rồi gù gù cái lưng ngồi yên giờ lâu. Chuột rút vẹo bắp
thịt trên má, chàng phải đưa tay lên nắn lại. Trong khi chàng cứ như có những
cái chuông nhỏ rung mãi không thôi.
- Đàn bà chúng nó như loài mèo ấy.
Ai vuốt ve thì chúng nó chịn vào. Cậu chớ có tin, không thể tin được chúng nó
đâu? - Cụ Xaska nói.
Cụ cuốn cho Grigori một điếu thuốc
lá, châm lửa rồi dúi vào tay chàng.
- Hút đi.
Grigori hút hai hơi rồi lấy ngón tay
bóp tắt điếu thuốc. Chàng chẳng nói chẳng rằng bước ra ngoài. Đến bên cửa sổ
nhà đầy tớ, chàng đứng lại, thở hổn hển những hơi rất dài. Đã vài lần chàng
định giơ tay lên gõ cửa, nhưng bàn tay lại rơi xuống như bị đánh gãy. Lần đầu
chàng chỉ con ngón tay, gõ một cách dè dặt, nhưng rồi không tự chủ được nữa,
chàng khùng lên áp hẳn người vào tường, nắm tay đấm vào khung cửa một trận rất lâu.
Cái khung cửa lung lay, kêu răng rắc kèm theo tiếng kính rung, trên vuông kính
lấp loáng ánh đêm xanh ngắt.
Thoáng thấy khuôn mặt Acxinhia sợ
đến dài ra. Nàng mở cửa phòng, kêu lên. Grigori ôm lấy nàng ở ngay phòng ngoài,
nhìn thẳng vào mắt nàng.
- Anh đập ghê quá, mà em thì đã ngủ
thiếp đi… Không ngờ anh về. Anh yêu của em.
- Anh lạnh.
Acxinhia cảm thấy cả cái thân hình
lực lưỡng của Grigori rung lên trong những cơn run rất mạnh, còn hai tay chàng
thì nóng như lửa. Nàng khoác chiếc khăn lông chim lồm xồm lên đôi vai trần
trắng mờ, châm đèn, chạy đi chạy lại lăng xăng trong phòng, nhóm lửa vào chỗ
than đã vun lại thành đống trong lò, mọi việc nàng đều làm rối rít với một vẻ
bận rộn quá đáng:
- Em có ngờ đâu anh về… Đã lâu lắm
chẳng có bức thư nào của anh… Em cứ tưởng anh không về được… Anh đã nhận được
bức thư em viết gần đây nhất chưa? Em đã định gửi quà cho anh, nhưng sau lại
nghĩ bụng thôi hãy hượm đã, chưa biết chừng sẽ nhận được thư anh ấy…
Chốc chốc nàng lại đưa mắt nhìn
Grigori, nụ cười ngưng đọng không lúc nào tan trên cặp môi đỏ chót.
Grigori không cởi áo ca- pôt, cứ
nguyên quần áo ngồi trên chiếc ghế dài. Hai bên má đầy râu của chàng nóng như
lửa, chiếc mũ có tai in một cái bóng đen ngòm xuống hai con mắt nhìn xuống.
Chàng đã bắt đầu tháo dải mũ nhưng bỗng nhiên lại luống cuống lấy túi thuốc ra
và thọc tay vào các túi tìm giấy. Chàng thoáng nhìn qua mặt Acxinhia, trong
lòng buồn vô hạn.
Trong thời gian chàng vắng nhà, nàng
đã đẹp ra một cách lạ lùng.
Có một cái gì mới mẻ, đàng hoàng
đĩnh đạc trong dáng nàng ngửng, cái đầu rất đẹp. Chỉ những món tóc xoăn lồm xồm
rất to là vẫn như cũ và hai con mắt… Cái sắc đẹp chết người, cái sắc đẹp nảy
lửa nầy không còn là của chàng nữa rồi. Còn sao nữa, bây giờ nàng đã là nhân
tình của con trai một "cụ lớn" rồi.
- Em… chẳng có vẻ gì giống một con
hầu phòng nữa, là một bà quản gia thì đúng hơn.
Nàng khiếp hãi đưa nhanh mắt nhìn
chàng rồi bật cười gượng gạo.
Grigori lôi cái túi dết theo sau,
bước ra cửa.
- Anh đi đâu thế?
- Ra ngoài hút điếu thuốc.
- Em đã làm xong món trứng tráng
rồi, anh chờ một lát đã.
- Sẽ về ngay thôi.
Ra tới thềm, Grigori lôi tận đáy cái
túi dết của lính ra một chiếc khăn quàng thêu hoa gói cẩn thận trong chiếc áo
sơ mi có nhãn hiệu.
Cái khăn quàng nầy, chàng đã mua hai
rúp của một tên lái buôn Do Thái ở Zutomia và đã gìn giữ nó như con người. Trên
bước đường chinh chiến, thỉnh thoảng chàng lại lấy nó ra ngắm nghía những sắc
cầu vồng óng ánh, và cảm thấy thích thú trước về cảnh Acxinhia sẽ sung sướng
trầm trồ thế nào khi chàng về nhà và mở ra trước mặt nàng miếng lụa đầy những
đường thêu nầy. Thật là một món quà thảm hại! Grigori thì làm sao ganh nhau về
quà tặng với thằng con trai tên địa chủ giàu nhất vùng Đông Thượng nầy? Grigori
cố nén những tiếng nức nở đã dồn lên tới cổ, xé tan chiếc khăn ra làm trăm
mảnh, rồi nhét xuống dưới thềm. Chàng ném cái túi dết lên ghế dài, bước vào
trong phòng.
- Anh ngồi xuống đây, anh Griska, để
em tháo ủng cho.
Bằng hai bàn tay trắng muốt, đã mất
thói quen lao động, Acxinhia kéo khỏi chân Grigori đôi ủng lính nặng chình
chịch rồi ôm lấy hai đầu gối chàng, nức nở không ra tiếng. Grigori để nàng khóc
xong rồi hỏi:
- Làm gì mà rền rĩ thế, hay không
vui vì thấy tôi về?
Chẳng mấy chốc chàng đã ngủ thiếp
đi.
Acxinhia áo xống phong phanh bước ra
thềm và dưới làn gió lạnh thấu xương, nàng ôm cái cột ướt đẫm trong tiếng gió
bấc rú như đưa ma, và cho đến sáng vẫn cứ đứng như thế.
Sáng hôm sau, Grigori mặc áo ca- pôt
rồi lên nhà trên. Lão địa chủ đang đứng ngoài thềm. Lão mặc áo lông ngắn, đầu
đội chiếc mũ lông cừu non đã ngả màu vàng.
- À đây anh chàng được thưởng huân
chương thánh Gióoc đây rồi. Nhưng nom người anh em đã ra đàn ông đàn ang lắm
rồi!
Lão đưa tay lên vành mũ chào Grigori
rồi chìa tay ra.
- Về chơi có lâu không?
- Bẩm cụ lớn hai tuần.
- Con gái mày phải đem chôn mất rồi.
Thật đáng thương, thật đáng thương…
Grigori đứng lặng đi một lát. Evgeni
lồng đôi găng vào tay, bước ra thềm.
- Grigori đấy à? Mày ở đâu về thế?
Mắt Grigori tối sầm lại, nhưng chàng
vẫn mỉm cười.
- Ở Moskva về, tôi được nghỉ phép…
- À ra thế. Mày bị thương ở mắt phải
không?
- Vâng.
- Tao cũng có nghe nói. Nom nó hiên
ngang đấy chữ cha nhỉ? -
Tên trung uý hất đầu về phía Grigori
rồi quay mặt ra chuồng ngựa.
- Nikichit, dắt ngựa ra.
Anh chàng Nhikichit chững chạc khoan
thai thắng ngựa vào xe xong, liếc nhìn Grigori với ánh mắt chẳng có gì là thân
thiện, rồi dắt con ngựa chạy nước kiệu lông xám, đã già, tới trước thềm. Dưới
bánh chiếc xe đua rất nhẹ, mặt đất kết băng bị nén xuống kêu lạo xạo.
- Bẩm quan lớn, có lẽ quan lớn cũng
cho tôi được phép đánh xe hầu quan lớn để nhớ lại những ngày trước kia? -
Grigori nói với Evgeni kèm theo một nụ cười khúm núm.
"Cái thằng đáng thương, nó chưa
biết gì cả". - Thằng cha mỉm cười khoái trá, hai con mắt long lanh dưới
cái kính kẹp mũi.
- Được thôi, mày giúp tao nhé, chúng
ta cùng đi.
- Mày làm sao thế, vừa mới về ngồi
chưa nóng chỗ mà đã bỏ con vợ trẻ như thế ở nhà à? Chẳng nhẽ không nhớ nó hay
sao? - Lão địa chủ mỉm nụ cười độ lượng.
Grigori phá lên cười.
- Vợ không phải là gấu, nó không bỏ
vào rừng mất đâu.
Chàng ngồi lên ghế đánh xe, nhét cái
roi xuống dưới ghế, rồi gióng dây cương.
- Chà, quan lớn Evgeni Nicolaevich,
thế là tôi lại được đánh xe hầu quan lớn!
- Đánh xe đi, tao sẽ thưởng cho.
- Trước kia quan lớn ban ơn đã nhiều
rồi. Cũng xin cám ơn quan lớn đã nuôi… Acxinhia của tôi… đã cho nó… có miếng
ăn.
Grigori nói như thất thanh. Trong óc
viên trung uý thoáng có một ý nghi ngờ không thú vị. "Chẳng nhẽ nó biết
rồi sao? Không đâu, chỉ nghĩ bậy! Nó làm thế nào mà biết được? Không có chuyện
ấy đâu!". Rồi hắn ngả người ra lưng ghế, châm thuốc hút.
- Về cho sớm nhé! - Lão địa chủ kêu
với sau lưng hai thầy tớ.
Bánh xe hất tung những đám bụi tuyết
nhọn như kim.
Grigori kéo cương đến dứt bật môi
con ngựa, cho nó chạy như hoá rồ. Xe chạy chừng mười lăm phút thì vượt sang bên
kia ngọn gò.
Đến khoảng đất trũng đầu tiên.
Grigori nhảy trên ghế xuống, lôi cái roi dưới chỗ ngồi ra.
- Mày làm gì thế hử? - Tên trung uý
cau mày.
- Đây làm cái nầy nầy!
Grigori vung lên ngọn roi, quật vào
mặt tên trung uý với một sức mạnh kinh người. Rồi chàng lộn ngược đầu roi, đánh
bằng cán roi vào mặt, vào tay, không cho hắn kịp nghĩ ngợi gì nữa. Cái kính kẹp
mũi bị đập vỡ, một mảnh thuỷ tinh cắm vào phía trên lông mày hắn.
Máu chảy ròng ròng xuống mắt. Đầu
tiên, tên trung uý còn đưa hai tay lên che mặt, nhưng roi quật mỗi lúc một
nhanh. Hắn nhảy chồm lên, mặt không còn ra hình thù gì nữa vì những vệt tím bầm
và vì tức tối điên cuồng. Hắn cố tìm cách chống đỡ, nhưng Grigori lùi lại một bước,
cho nó luôn một roi vào bàn tay, làm bàn tay phải của hắn liệt đi.
- Vì Acxinhia nầy? Vì tao nầy? Vì
Acxinhia nầy? Thêm cho mày vì Acxinhia nầy! Vì tao nầy!
Ngọn roi rít lên không ngớt. Các đòn
đánh như ôm lấy tên trung uý. Rồi bằng hai nắm đấm, chàng đánh dụi hắn xuống
lớp đất cứng trên mặt đường, cho nó lăn lông lốc, và đá cho nó một trận man rợ
bằng đôi ủng lính đóng cá sắt. Đánh đã hết hơi hết sức, Grigori ngồi lên xe,
quát to một tiếng, cho ngựa phi luôn nước đại, bất chấp sức lực của con ngựa chuyên
chạy nước kiệu. Chàng quẳng chiếc xe ngoài cổng, vo tròn cái roi, chạy vào nhà
đầy tớ, chân vướng trong tà áo ca- pôt mở phanh.
Acxinhia nghe thấy tiếng mở cửa đánh
rầm, ngó đầu ra.
- Đồ rắn độc! Đồ chó cái!
Ngọn roi rít lên, ôm hẳn lấy mặt
nàng.
Grigori hổn hển chạy ra sân, rồi
cũng chẳng trả lời những câu hỏi của cụ Xaska, cứ thế đi khỏi trang trại. Đi
được một vec- xta rưỡi thì Acxinhia đuổi kịp Grigori.
Nàng thở như kéo bễ, nín thinh đi
bên cạnh Grigori, thỉnh thoảng lại sờ vào tay chàng.
- Anh Griska, anh tha thứ cho em?
Grigori nhe nanh, gù lưng xuống, đưa
tay lên kéo cao cổ áo ca- pôt.
Tới một chỗ sau nhà thờ thì Acxinhia
đứng lại. Grigori không nhìn lại một lần nào nên không trông thấy Acxinhia vươn
hai tay về phía mình.
Đến lúc xuống tới đoạn dốc về thôn
Tatarsky, chàng mới ngạc nhiên thấy cái roi vẫn còn lăm lăm trong tay mình.
Chàng vứt nó đi và bước những bước dài vào trong ngõ. Sau những khung cửa sổ có
những khuôn mặt áp sát vào kính nhìn chàng. Người ta ngạc nhiên thấy chàng xuất
hiện. Những người đàn bà gặp trên đường nhận ra chàng đều cúi đầu rất thấp chào
chàng.
Về đến cổng sân nhà thì thấy một cô
gái mắt đen rất đẹp, người hơi gầy gầy, kêu ầm lên và chạy bổ ra, đâm sầm vào
ngực chàng, ôm lấy cổ chàng. Grigori áp hai tay vào hai bên má cô gái, nâng đầu
cô gái lên và nhận ra Dunhiaska.
Ông Panteley khập khiễng bước từ
trên thềm ra, trong nhà có tiếng bà mẹ oà lên khóc rất to. Grigori chỉ đưa được
tay trái ra ôm lấy cha, vì tay phải đang bị Dunhiaska hôn lấy hôn để.
Tiếng ngưỡng cửa rít nghe quen thuộc
đến đau lòng. Thế
là Grigori lên đến trên thềm. Bà mẹ già chạy ra với bước chân thoăn thoắt của
một cô gái. Nước mắt bà chảy ướt đẫm những cái khuyết áo ca- pôt Grigori. Bà ôm
chặt lấy con, không buông ra nữa, và cứ lắp bắp những lời không đầu không đũa,
những ý nghĩ của riêng bà, không thể nào nói lên bằng lời. Trong phòng ngoài,
Natalia phải bám chặt lấy cửa cho khỏi ngã, mặt tái nhợt. Đến khi bắt gặp cặp
mắt ngỡ ngàng của Grigori, nàng mỉm cười nụ cười đau khổ, ngã gục xuống…
Đến đêm, ông Panteley Prokofievich đẩy tay vào sườn bà
Ilinhitna, khẽ rỉ tai bà:
- Bà khẽ nhòm vào xem chúng nó có nằm với nhau không?
- Tôi đã dọn giường cho hai đứa cùng nằm rồi mà.
- Nhưng cứ nhìn cái xem, cứ nhìn cái xem.
Bà Ilinhitna nhòm qua khe cửa vào phòng trong rồi quay
lại.
- Có nằm với nhau đấy.
- Thôi thế là ơn Chúa! Ơn Chúa! - Ông già chống khuỷu tay
lên làm dấu phép, khẽ sụt sịt.
SÔNG ĐÔNG
ÊM ĐỀM
Chương 79
Năm một nghìn chín trăm mười sáu.
Tháng mười. Đêm tối. Trời mưa và gió to. Một vùng đất trũng có nhiều rừng.
Những dãy chiến hào trên một bãi lầy mọc đầy liễu đỏ. Trước mặt là những hàng
rào dây thép gai. Dưới đáy các chiến hào toàn một thứ bùn lạnh giá.
Chiếc lá chắn đẫm nước che cho người
lính quan sát nhấp nhoáng một ánh ảm đạm. Vài ánh lửa thưa thớt le lói trong
những căn hầm đào hàm ếch bên vách các chiến hào. Một viên sĩ quan béo lùn dừng
chân trước cửa một căn hầm dành cho sĩ quan. Anh ta lần ngón tay ướt sũng theo
đường khuyết, vội vã cởi những cái cúc trên áo ca- pốt, giũ nước trên cổ áo,
chùi qua quít đôi ủng vào bó rơm đã bị dẫm lún xuống bùn, xong đâu đó mới đẩy
cửa, khom lưng, bước vào trong hầm.
Cây đèn dầu nhỏ chiếu lướt trên mặt
người mới đến một dé ánh sáng vàng vàng, nhớp nhúa như dầu. Viên sĩ quan nằm
trên giường ván nhỏm dậy trong chiếc áo vét mở phanh. Hắn đưa tay lên vuốt mớ
tóc hoa râm rối như bòng bong, ngáp dài:
- Đang mưa à?
Đang mưa đấy. - Người khách trả lời
rồi cởi áo ca- pốt, treo lên cái đinh bên cạnh cửa cùng với chiếc mũ cát- két
nát nhẽo vì sũng nước.
- Ở chỗ các ngài ấm quá. Nhiều người
cũng hấp hơi nhỉ?
- Chúng tôi vừa đốt lửa. Tệ hại nhất
là nước mạch dưới đất cứ rỉ lên. Quỷ quái nào biết được, mưa thế nầy chúng mình
cũng đến phải bán xới… có phải không? Ngài nghĩ thế nào, ngài Buntruc?
Buntruc sát sát hai tay vào nhau,
khom lưng, ngồi xổm bên cái bếp lò nhỏ:
- Các ngài nên lấy gỗ mà lát mặt
đất. Trong hầm của chúng tôi tuỵệt lắm, đi chân không cũng chẳng sao. Litnhitki
đâu thế nhỉ?
- Ngủ rồi!
- Đã lâu chưa?
- Đi tuần về là lăn ra giường.
- Đã đến lúc đánh thức dậy chưa?
- Ngài lay dậy đi. Đánh ván cờ chơi.
Buntruc đưa ngón tay trỏ miết cho
hết nước mưa trên hai hàng lông mày vừa thô vừa rậm rồi khẽ gọi, đầu vẫn không
ngửng lên:
- Ngài Evgeni Nicolaevich?
- Ngủ say rồi - Người sĩ quan tóc hoa
râm thở dài.
- Ngài Evgeni Nicolaevich?
- Gì thế - Evgeni Nicolaevich chống
khuỷu tay nhỏm dậy.
- Ta đánh cờ đi.
Evgeni Nicolaevich thõng chân, đưa
bàn tay nhẽo nhợt hồng hồng lên xát rất lâu bộ ngực mũm mĩm.
Sắp chơi xong ván đầu thì có hai
viên sĩ quan đại đội năm bước vào: đại uý Kalmykov và trung uý Trubov.
- Có tin mới đây! - Kalmykov vừa
bước tới ngưỡng cửa đã kêu lên. - Rất có thể là trung đoàn chúng ta sẽ được
điều khỏi nơi nầy.
- Tin từ đâu thế? - Viên thượng uý
tóc hoa râm Merkulov mỉm cười vẻ không tin.
- Bác không tin à, bác Petia?
- Tôi thú thật chẳng tin chút nào.
- Đại đội trưởng đại đội pháo gọi dây nói báo cho chúng
tôi biết đấy!
- Làm thế nào mà hắn biết được à?
- Hắn vừa ở ban tham mưu sư đoàn về hôm qua mà lại.
- Được tắm hơi nước một mẻ thì cũng thú đấy.
Trubốp mỉm cười khoái trá và làm ra vẻ như đang cầm cái
chổi đập vào hai bên mông hắn 1. Merkulov bật cười:
- Trong hầm chúng tôi chỉ cần đặt cái nồi lên là xong.
Nước thì ê hề, muốn bao nhiêu cũng có.
- Ẩm ướt quá, ẩm ướt quá, các ngài chủ nhà ạ - Kalmykov
đưa mắt nhìn khắp bức tường ghép bằng gỗ tròn và mặt đất sũng nước rồi lầu bầu.
- Bãi lầy ở sát cạnh sườn mà lại.
- Thôi các ngài hãy cảm tạ Đấng chí tôn đã cho các ngài
được ngồi trong bãi lầy, chẳng khác gì được nằm trong lòng Chúa cứu thế, -
Buntruc nói xen vào. - Ở các chỗ khô ráo sạch sẽ, người ta đang phải tấn công
đấy, còn chúng ta ở đây, thì cả một tuần mới bắn hết một băng đạn.
- Tấn công còn hơn là nằm ở đây để thối rữa dần ngay khi
còn sống sờ sờ.
- Thôi đi bác Petia ơi, người ta nuôi bọn Cô- dắc chúng
mình đâu phải để đem nướng trong những trận tấn công. Bác làm vẻ ngây thơ cụ
như thế chỉ là giả dối thôi.
- Thế theo ý cậu thì để làm gì?
- Theo một thói quen đã có từ xưa, mỗi khi cần chính phủ
tìm cách dựa vào dân Cô- dắc để chống đỡ.
- Cậu chỉ nói chuyện nhảm nhí, - Kalmykov xua tay.
Tại sao như thế lại là nhảm nhí?
Như thế đấy thôi, Thôi đi, ngài Kalmykov ơi, sự thật thì
không thể nào bác bỏ được đâu - Trong chuyện ấy làm gì có sự thật sự thiếc gì…
- Nhưng đó là một điều ai cũng biết. Bác vờ vẫn làm gì
nữa?
- Chú ý, xin các ngài sĩ quan chú ý. - Trubov hô to rồi
cúi chào như trên sân khấu, chỉ Buntruc. - Bây giờ thiếu uý Buntruc sẽ ra nói
tiên tri theo sách sấm của Đảng xã hội dân chủ 2
- Ngài làm trò múa rối đấy à? - Hai con mắt của Buntruc
làm Trubov phải nhìn ra chỗ khác, anh cười gằn.
- Nhưng không sao, ngài cứ tiếp tục đi, mỗi người đều có
năng khiếu và sứ mạng của mình. Tôi nói rằng từ giữa năm ngoái, chúng ta đã
không còn chính mắt nhìn thấy chiến tranh nữa rồi. Vừa bắt đầu chuyển sang
chiến tranh trận địa 3 là các trung đoàn Cô- dắc được phân ngay đến những nơi
thâm sơn cùng cốc và xếp xó để chờ đúng lúc cần thiết.
- Rồi sau đó thì sao? - Evgeni xếp những quân cờ hỏi.
- Rồi sau đó, khi nào trên mặt trận bắt đầu có những
phong trào phản đối (mà điều đó thì không thể tránh được: binh lính đã bắt đầu
chán ghét chiến tranh, chứng cớ rành rành là số lính đào ngũ đang ngày càng
tăng), lúc ấy lính Cô- dắc sẽ được tung đi dẹp các cuộc bạo động. Chính phủ giữ
bộ đội Cô- dắc cũng như người ta mắc sẵn một hòn đá lên đầu cái gậy. Khi cần sẽ
lăng hòn đá ấy để đập vỡ sọ cách mạng…
- Anh bạn hết sức thân mến của tôi ơi, anh mải mê đi quá
xa rồi đấy! Những điều anh giả thiết không đứng vững được đâu. Trước hết là con
người không thể nào biết bước phát triển của sự việc. Anh dựa vào đâu mà biết
rằng trong tương lai sẽ có những phong trào phản đối và gì gì nữa? Nếu chúng ta
giả thiết như thế nầy chẳng hạn: quân đội đồng minh đánh tan quân Đức, chiến
tranh kết thúc một cách vẻ vang thì lúc đó anh sẽ trao cho dân Cô- dắc vai trò
thế nào? Evgeni vặn lại.
Buntruc cười nửa miệng:
- Kết cục đâu có được như thế, hơn nữa lại còn đòi một
kết cục vẻ vang.
- Chiến sự còn đang kéo đài…
- Còn kéo dài lê thê nữa là khác - Buntruc nói trước.
- Cậu nghỉ phép về từ bao giờ thế - Kalmykov hỏi.
- Từ hôm kia. - Buntruc chúm môi, đá lưỡi, đẩy ra một đám
khói nhỏ, rồi nhổ mẩu thuốc còn lại.
- Cậu nghỉ phép ở đâu thế?
- Ở Petrograd.
- Thế ở trên ấy ra sao? Kinh đô náo nhiệt lắm đấy nhỉ?
Chà, mẹ khỉ, nếu được về đấy một tuần thì mất gì mình cũng chẳng tiếc.
- Chẳng có gì thú vị lắm đâu, - Buntruc nói, anh cân nhắc
từng tiếng, - Không có đủ bánh mì mà ăn. Trong các khu thợ thuyền chỉ thấy đói
kém, bất mãn và phản đối ngấm ngầm.
- Chúng ta sẽ không thể bình an vô sự rút chân ra khỏi
cuộc chiến tranh nầy đâu. Các ngài thấy thế nào, thưa các ngài? - Merkulov nhìn
tất cả mọi người, mắt có vẻ dò hỏi.
- Chiến tranh Nga - Nhật đã làm nổ ra cuộc Cách mạng một
ngàn chín trăm linh năm. Chiến tranh lần nầy sẽ lại chấm dứt bằng một cuộc cách
mạng nữa. Mà không phải chỉ cách mạng thôi đâu, còn nội chiến nữa là khác.
Trong khi nghe Buntruc nói, Evgeni có một cử chỉ không
dứt khoát định nói lên ý gì, có lẽ hắn muốn ngắt lời thiếu uý giữa lúc anh ta
chưa nói hết câu. Rồi hắn đứng dậy, đi đi lại lại trong hầm, mặt cau có. Hắn cố
ghìm vẻ phẫn nộ, bắt đầu nói:
- Tôi rất ngạc nhiên thấy trong giới sĩ quan chúng ta lại
có những phần tử như thế nầy, - Evgeni vung tay về phía Buntruc đang ngồi với
cái lưng gù gù. Tôi ngạc nhiên vì cho đến nay, tôi vẫn chưa nhìn thấy rõ thái
độ của anh ta đối với Tổ quốc, đối với chiến tranh… Một hôm trong lúc nói
chuyện, anh ta đã phát biểu ý kiến một cách rất mập mờ, nhưng dù sao cũng đủ
cho thấy rõ rằng anh ta muốn chúng ta thua trong cuộc chiến tranh nầy. Buntruc,
tôi hiểu ý anh như thế có đúng không?
- Tôi tán thành thua trận.
- Nhưng sao lại thế được? Theo tôi thì dù anh là một
người có những quan điểm chính trị như thế nào, nhưng mong muốn Tổ quốc mình
thua trận thì đó là… phản quốc. Đó là điều nhục nhã đối với bất cứ một người
đúng đắn nào!
- Các ngài còn nhớ không, cánh những người Bolsevich
trong Duma 4 đã vận động chống chính phủ, và chính như thế chẳng phải là góp
phần đẩy chúng ta tới thua trận hay sao? - Merkulov nói xen vào.
- Buntruc, anh tán thành quan điểm của họ phải không?
Evgeni hỏi.
- Nếu tôi tuyên bố tán thành thua trận thì như vậy là tôi
cũng tán thành quan điểm của họ. Nếu tôi, một đảng viên Đảng công nhân xã hội
dân chủ Nga mà không tán thành quan điểm của đảng đoàn đảng mình thật là buồn
cười. Evgeni Nicolaevich ạ, tôi ngạc nhiên hơn anh nhiều vì anh là một người có
học mà lại dốt nát về chính trị như thế…
- Tôi trước hết là một người lính trung với vua. Chỉ bóng
dáng một "đồng chí Đàng viên đảng xã hội" cũng đủ làm tôi nghịch mắt
rồi.
"Mày trước hết là một thằng ngu xuẩn, ngoài ra chỉ
là một thằng anh hùng rơm tự cao tự đại", Buntruc nghĩ thầm và dập tắt nụ
cười trên môi.
- Không có thượng đế nào khác, ngoài Ala 5 …
Trong giới quân nhân đã có một tình trạng thật là đặc
biệt, Merkulov nói xen vào giọng như tự nhận lỗi:
- Không hiểu vì sao tất cả chúng ta đều đứng ngoài chính
trị, anh nào cũng đèn nhà ai người ấy rạng.
Viên đại uý Kalmykov ngồi vê vê hai hàng ria quặp, cặp
mắt xếch như mắt người Mông cổ sáng bừng bừng, nom rất sắc sảo. Trubov nằm trên
giường, vừa lắng nghe giọng nói của mấy người điều qua tiếng lại, vừa ngắm bức
tranh Merkulov vẽ ghim trên tường, đã vàng khè vì ám khói thuốc lá: một người
đàn bà áo xống hở hang, mặt như bà thánh Madelen 6, mỉm nụ cười mệt mỏi và dâm
đãng, mắt cúi xuống nhìn bộ ngực thỗn thện của mình. Hai ngón bàn tay trái khẽ
kéo một nụ hoa nâu nâu, ngón tay út tách ra, giơ lên, cố giữ chiếc áo lót đang
tụt xuống, một vệt sáng mịn màng nổi lên trong chỗ hõm xương đòn gánh. Dáng nằm
của người đàn bà thật quá yểu điệu, tự nhiên quá, các màu sắc kín đáo đẹp không
tả được, vì thế Trubov bất giác mỉm cười, đắm đuối ngắm bức tranh vẽ với tài
nghệ bậc thầy, và những lời trao đổi tuy có đưa đến tai hắn, nhưng không lọt
được vào óc hắn.
- Tuyệt quá! - Trubov rời mắt khỏi bức tranh, kêu lớn
những lời khen trầm trồ ấy thật không đúng lúc, vì nó rứt vào ngay khi Buntruc
vừa nói xong câu:
- Chế độ Nga hoàng sẽ bị tiêu diệt, các ngài có thể tin
là như thế?
Evgeni vừa cuốn điếu thuốc, vừa mỉm cười chua chát. Hắn
hết nhìn Buntruc lại nhìn Trubov.
- Buntruc! - Kalmykov kêu lên. - Hượm cho mình nói đã,
Litnhitki… Buntruc, ngài có nghe thấy tôi nói không? Thôi được rồi, cứ cho là
chiến tranh nầy sẽ chuyển thành nội chiến… nhưng rồi sau sẽ ra sao cơ chứ?
Được, các ngài sẽ lật đổ chế độ quân chủ, nhưng theo ý ngài, cách cai trị sẽ
như thế nào? Chính quyền sẽ là chính quyền gì?
- Chính quyền của giai cấp vô sản.
- Nghị viện, có phải không?
- Thế thì chưa mùi gì? - Buntruc mỉm cười.
- Vậy đích xác là gì?
- Phải là nền chuyên chính của công nhân.
- À ra thế! Còn các phần tử trí thức và nông dân sẽ đóng
vai trò gì?
- Nông dân sẽ đi theo chúng tôi, một phần những người trí
thức biết suy nghĩ, còn thì… đối với số còn lại chúng tôi sẽ làm thế nầy nầy… -
Loáng một cái Buntruc đã xoắn chặt một tờ giấy cầm trong tay từ lúc nầy, lắc
lắc mấy cái, rồi nói rít rít qua kẽ răng - Đấy, chúng tôi sẽ làm như thế đấy!
- Các anh bay cao quá nhỉ… Evgeni
cười nhạo.
- Và cũng sẽ ngồi cao, Buntruc nói
thêm.
- Nếu thế cần phảỉ trải sẵn rơm.
- Không hiểu ma dẫn lối, quỉ đưa
đường thế nào mà ngài lại tình nguyện ra mặt trận thậm chí leo lên đến hàm sĩ
quan nữa? Những chuyện ấy thì làm thế nào ăn khớp với các quan điểm của ngài
được?
- Thật là kỳ quặc! Một con người
chống chiến tranh… hà hà… chống việc giết hại những người anh em giai cấp của
mình, thế mà đùng một cái… là một thiếu uý?
Kalmykov vỗ bồm bộp hai bàn tay vào
ống đôi ủng của hắn, cười phá lên một cách hồn nhiên.
- Thế ngài đã chỉ huy đội súng máy
của ngài đưa bao nhiêu công nhân Đức xuống thăm Diêm vương rồi? - Evgeni hỏi.
Buntruc rút trong một túi bên của áo
ca- pốt ra một cuộn giấy to tướng rồi quay lưng về phía Litnhitki, tìm kiếm
trong đó giờ lâu. Cuối cùng anh bước tới cái bàn, đưa bàn tay rộng bè bè, gân
guốc, vuốt phẳng một tờ giấy báo cũ vàng khè.
- Tôi đã bắn chết bao nhiêu công
nhân Đức rồi, đó… là một vấn đề đấy. Còn chuyện tôi tình nguyện đi lính thì chỉ
vì không tình nguyện cũng bị bắt đi như thường. Tôi nghĩ rằng những điều hiểu
biết thu lượm được ở đây, trong chiến hào, sẽ có ích sau nầy… có ích trong
tương lai. Đây, trong nầy viết như thế nầy nầy… - Và Buntruc đọc những lời của
Lênin:
"Chúng ta hãy xem quân đội hiện
đại. Đó là một trong những mẫu mực tốt về tổ chức. Và tổ chức nầy chỉ tốt vì nó
mềm dẻo linh hoạt, đồng thời có thể đem lại một ý chí thống nhất cho hàng triệu
người. Hôm nay, hàng triệu con người ấy còn ngồi ở nhà tại những miền khác nhau
trong nước: Nhưng ngày mai, có lệnh động viên là họ tập họp ngay được ở những
địa điểm đã chỉ định. Hôm nay họ còn nằm trong chiến hào: có khi nằm hàng
tháng. Nhưng ngày mai họ sẽ xông lên xung phong trong một cách sắp xếp khác.
Hôm nay họ làm những phép màu trong khi nấp tránh những đạn thường và đạn ghém.
Nhưng ngày mai họ sẽ làm những phép màu trong khi chiến đấu trên địa hình trống
trải. Hôm nay các chi đội tiên phong của họ đặt mìn dưới đất, nhưng ngày mai
các chi đội ấy sẽ tiến hàng chục vec- xta trên mặt đất theo sự hướng dẫn của
những người lái máy bay. Như thế gọi là tổ chức, khi hàng triệu con người, cùng
nhằm một mục đích chung, cùng sôi sục một ý chí chung, thay đổi hình thức quan
hệ và hình thức hành động của mình, thay đổi địa điểm và các phương thức hành
động, thay đổi các vũ khí và công cụ cho phù hợp với các hoàn cảnh và yêu cầu
đang thay đổi của cuộc đấu tranh. Vấn đề cũng như thế đối với cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản. Ngày nay còn chưa có tình
huống cách mạng…".
- Nhưng "tình huống" là gì
nhỉ? - Trubov ngắt lời Buntruc.
Buntruc ngọ nguậy như một người bất
thần bị đánh thức giữa lúc đang ngủ mê. Anh đưa khớp ngón tay cái lên cọ vào
cái trán sần sùi, cố nghĩ xem Trubov vừa hỏi gì.
- Tôi muốn hỏi cái từ "tình
huống" nghĩa là gì?
- Hiểu thì tôi hiểu, nhưng giải
nghĩa cho xác đáng thì tôi không làm được… - Buntruc nở một nụ cười trong sáng,
giản dị như con nít, kể cũng lạ khi nhìn thấy một nụ cười như thế trên khuôn
mặt âm thầm, to bè bè của Buntruc, chẳng khác gì trên một cánh đồng mùa thu,
rầu rĩ dưới mưa dầm lại thấy một chú thỏ non chưa thôi bú lông xám nhạt vừa
chạy qua vừa nhảy nhót nghịch ngợm. - Tình huống là tình thế, là cục diện, đại
khái có nghĩa là như thế. Không biết tôi nói có đúng không?
Evgeni khẽ lắc đầu, không hiểu ý hắn
ra sao.
- Anh đọc nữa đi.
- "Ngày nay còn chưa có tình
huống cách mạng, chưa có những điều kiện làm cho quần chúng sôi sục, nâng cao
tính tích cực của quần chúng, ngày nay người ta mới đặt vào tay anh một tấm
phiếu đi bầu, anh phải nắm lấy phải biết tổ chức, sao cho có thể dùng nó để đánh
bại những kẻ thù của mình, chứ không phải để đưa vào những chỗ êm ấm trong nghị
viện những kẻ cố bám lấy cái ghế bành vì sợ phải ngồi tù. Ngày mai người ta sẽ
lấy lại tấm phiếu bầu ấy của anh, sẽ đặt vào tay anh khẩu súng trường và cỗ đại
bác tuyệt diệu có tốc độ bắn rất nhanh, chế tạo với kỹ thuật cơ khí tối tân
nhất, anh hãy nắm lấy các công cụ gieo chết chóc và phá hoại ấy, chớ nghe theo
những kẻ tình cảm chủ nghĩa, chuyện than vãn rên rỉ, sợ chiến tranh. Trên thế
giới còn có quá nhiều những kẻ cần phải tiêu diệt bằng lửa và sắt thép để giải
phóng giai cấp thợ thuyền, và nếu lòng căm hờn và tuyệt vọng trong quần chúng
đã tăng lên, nếu đã có tình huống cách mạng, thì anh phải sẵn sàng thành lập
những tổ chức mới, đem dùng các công cụ gieo chết chóc và phá hoại rất có ích
ấy để chống lại chính phủ nước mình và giai cấp tư sản nước mình…".
Buntruc chưa đọc xong đã thấy tên
quản của đại đội năm gõ cửa, bước vào trong hầm.
- Bẩm quan lớn, có liên lạc trên
trung đoàn bộ - Hắn báo cáo Kalmykov.
Kalmykov và Trubov mặc áo rồi đi ra
ngoài. Merkulov vừa huýt sáo vừa ngồi xuống vẽ. Evgeni vẫn vê vê hai hàng ria,
đi đi lại lại trong hầm, không biết đang mưu tính chuyện gì. Chẳng mấy chốc
Buntruc cũng chào hai lên ra về. Anh đi lần theo dãy hào giao thông bùn lầy nhầy
nhụa, tay trái giữ cổ áo, tay phải khép tà áo ca- pôt. Gió thổi từng trận theo
lòng hào nhỏ hẹp, đập vào các bậc ụ đất trên vách hào, vừa rú vừa xoáy. Buntruc
bước trong bóng tối, không hiểu sao khẽ nhếch mép cười. Về đến căn hầm của anh
thì từ đầu đến chân anh đẫm nước mưa và nặc mùi lá liễu đỏ mục. Viên đội trưởng
đội súc máy đã ngủ từ bao giờ. Trên khuôn mặt da bánh mật có hàng ria đen xì
còn in những vết thâm quầng vì mất ngủ (hắn đã vùi đầu vào sát phạt ba đêm
liền). Buntruc lục lọi trong túi dết của lính mà anh vẫn còn giữ, lấy ra một
đống giấy mang ra gần cửa đốt. Anh nhét vào các túi quần hai hộp đồ hộp và vài
vốc đạn súng ngắn rồi ra ngoài. Cánh cửa vừa mở ra trong một giây, gió đã ùa
vào, thổi bay tứ tung đám tro xám còn lại sau khi Buntruc đốt đống giấy bên
ngưỡng cửa, làm ngọn đèn mù khỏi tắt ngấm.
Sau khi Buntruc ra về, Evgeni nín
thinh đi đi lại lại chừng năm phút, rồi đến bên chiếc bàn. Merkulov vẫn ngoẹo
đầu xuống vẽ.
Chiếc bút chì vót nhọn trải ra trên
tờ giấy trắng những đám đen đen chỗ đậm chỗ nhạt. Khuôn mặt của Buntruc hiện
lên trên tờ giấy hình vuông với nét cười nửa miệng ngày thường của anh, cái
cười như bất đắc dĩ.
- Cái mõm thằng cha nom rắn rỏi tệ,
- Merkulov rời tay khỏi bức vẽ, rồi ngước nhìn Litnhitki.
- Phải, nhưng thế nào cơ chứ? -
Litnhitki hỏi.
- Quỷ quái nào hiểu được nó? -
Merkulov vừa trả lời vừa cố đoán xem đích xác Litnhitki muốn hỏi gì. - Nó quả
là một thằng kỳ quặc. Bây giờ nó mới nói ra ý nghĩ của nó và nhiều điểm đã rõ
ràng, còn trước kia mình thật chẳng biết đường nào mà lần khi muốn "giải
mã" nó. Cậu biết không, trong bọn Cô- dắc, nó có ảnh hưởng lớn lắm đấy đặc
biệt là ở chỗ bọn súng máy. Cậu không nhận thấy điều đó.
- Phải, - Litnhitki trả lời mập mờ.
- Bọn súng máy thì tất cả chúng nó
đều là Bolsevich hết. Nó đã tuyên truyền xúi giục được bọn ấy rồi. Hôm nay mình
rất ngạc nhiên thấy nó lật hết các quân bài của nó. Để làm gì thế nhỉ? Hay là
nó muôn trêu gan chọc tức chúng mình, đúng thế đấy! Nó cũng biết trong đám
chúng mình chẳng có thằng nào tán thành các quan điểm như thế, thế mà nó vẫn
nói toạc móng heo tất cả ra. Mà nó đâu phải là một thằng bồng bột phổi bò. Một
phần tử nguy hiểm đấy.
Merkulov đặt bức vẽ xuống, rồi vừa
nói lên các ý nghĩ phân tích hành động kỳ dị của Buntruc, vừa cởi quần áo. Hắn
treo đôi bít tất ẩm sì lên phía trên cái bếp lò nhỏ, lên dây đồng hồ, hút hết
điếu thuốc rồi nằm xuống. Chẳng mấy chốc hắn đã ngủ thiếp đi.
Litnhitki ngồi xuống chiếc ghế đẩu
Merkulov vừa ngồi trước đó mười lăm phút. Hắn ấn đến gẫy chiếc bút chì gọt nhọn
hoắt, viết ngay lên mặt sau bức vẽ những chữ rất to.
"Bẩm quan lớn,
Những điều dự đoán mà trước kia tôi
đã có dịp báo cáo lên quan lớn đến nay đã được chưng thực hoàn toàn. Hôm nay,
trong cuộc nói chuyện với vài sĩ quan trong trung đoàn chúng tôi (ngoài tôi ra,
còn có mặt đại uý Kalmykov và trung uý Trubov thuộc đại đội năm thượng uý
Merlukov thuộc đại đội ba, thiếu uý Buntruc đã trình bày rõ ràng các nhiệm vụ
mà anh ta đang thực hiện theo chính kiến của anh ta và chắc hẳn theo chỉ thị
của những kẻ nắm quyền trong đảng của anh ra. Tôi thú thật là cĩtng không hiểu
hết anh ta nói ra như thế với mục đích gì. Anh ta còn mang trong người một cuộn
giấy có tính quốc cấm. Chẳng hạn anh ta có đọc một đoạn trích trong tờ
"Người cộng sản", cơ quan của đảng anh ta, in ở Geneve. Không còn
nghi ngờ gì nữa, thiếu uý Buntruc đang làm công tác bí mật trong trung đoàn
chúng ta (còn có thể đặt giả thiết rằng chính vì thế anh ta đã tình nguyện đi
lính và tới trung đoàn). Bọn lính súng máy đã là những đối tượng để anh ta trực
tiếp tuyên truyền vận động. Tinh thần chúng nó tan rã. Ảnh hưỏng tai hại của
Buntruc đã biểu hiện trong tinh thần trung đoàn: đã từng có những trường hợp từ
chối không thực hiện nhiệm vụ chiến đấu mà tôi đã kịp thời báo cáo lên Phòng
đặc vụ của sư đoàn,… vân vân.
Mấy ngày gần đây thiếu uý Buntruc
vừa hết phép trở về (anh ta đã nghỉ phép ở Petrograd) mang theo rất nhiều sách
báo phá hoại mà anh ta đã được cung cấp. Hiện nay anh ta đang hết sức khẩn
trương tìm cách mở rộng hoạt động.
Sau khi tổng hợp tất cả những điều
trình bày trên đây, tôi xin đi tới mấy kết luận như sau:
a) Tính chất phạm pháp của thiếu uý
Buntruc đã được xác định (các sĩ quan có mặt trong buổi nói chuyện với anh ra
có thể tuyên thệ chứng nhận những điều tôi báo cáo),
b) Nhằm mục đích chặn đứng hoạt động
cách mạng của Buntruc ngay bây giờ cần phải bắt giữ anh ta và trao anh ta cho
toà án binh dã chiến xét xử.
c) Cần phải tức tốc kiểm tra chặt
chẽ đội súng máy, thanh trừ các phần tử đặc biệt nguy hiềm, còn lại bao nhiêu
thì chuyển về hậu phương hoặc phân tán xuống các trung đoàn.
Xin quan lớn đừng quên rằng tôi sốt
sắng, thực lòng muốn phục vụ Tổ quốc và Đức Vua. Tôi có gửi bản sao bức thư nầy
cho S.T. Kov.
Đại uý Evgeni Litnhitki
Ngày 20 tháng mười năm 1916
Tiểu khu 7
° ° °
Sáng hôm sau, Evgeni sai tên lính
hầu mang bản báo cáo lên sư đoàn bộ. Ăn sáng xong, hắn ra khỏi hầm. Sau vách
chiến hào, bùn nhão nhầy nhụa, sương mù chập chờn trên bãi lầy, vương từng đám
trên bờ hào như bị ghim vào gai của những hàng rào dây thép. Bùn lõm bõm dưới đáy
hào, dầy đến nửa vét- sốc 7 Những dòng suối nhỏ nâu nâu chảy ra trong các lỗ
châu mai. Vài người lính Cô- dắc mặc những chiếc áo ca- pôt ẩm sì bùn lấm bê
bết đang ngồi xổm hút thuốc và nấu nước trà trong những cái nồi kê trên những
lá chắn súng máy, súng trường dựa trên vách hào.
Evgeni bước tới nhóm lính Cô- dắc
đầu tiên ngồi quanh đống lửa khói um. Hắn quát lên, giọng hung hãn.
- Đã bảo chúng mày bao nhiêu lần là
không được nhóm lửa trên lá chắn rồi hử? Bọn khốn nạn chúng mày không hiểu hay
sao?
Hai người lính miễn cưỡng đứng dậy.
Số còn lại vẫn vén tà áo ca- pốt ngồi nguyên đấy hút thuốc. Một gã râu xồm, da
ngăm ngăm, có cái vòng bạc lúc lắc dưới dái tay nhăn nheo, vừa đút thêm một nắm
củi vụn xuống dưới đáy nồi vừa trả lời:
- Bẩm quan lớn, chúng tôi cũng sẽ
rất sung sướng nếu không phải dùng đến lá chắn, nhưng làm thế nào nhóm được lửa
bây giờ? Quan lớn thử xem nước ngập ngụa như thế nầy! Không tới một phần tư ác-
sin ấy à?
- Rút lá chắn ngay?
- Như thế là chúng tôi phải nhịn đói
ngồi đây hay sao? Ra thế… - Một gã Cô- dắc mặt to bè, đầy tàn hương, vừa nói
vừa cau có đưa mắt nhìn sang bên.
- Tao bảo mày… rút lá chắn ra? -
Evgeni đưa ủng đá một cành cây đang cháy ra khỏi đáy nồi.
Gã râu xồm đeo vòng tai mỉm cười vẻ
bối rối và tức tối, vừa múc nước mới ấm ấm trong nồi ra vừa khẽ nói:
- Thôi các cậu ạ cứ coi như là được
uống nước trà rồi.
Bọn lính Cô- dắc âm thầm nhìn theo
viên đại uý đi xa dần trong chiến hào. Trong hai con mắt ướt ướt của gã râu xồm
có những ánh long lanh rung rung.
- Thằng chó, nó làm nhục mình!
- Chao ôi! Một người khác lồng dây
đeo súng lên vai, thở dài thườn thượt.
Evgeni đi đến khu vực trung đội bốn
thì Merkulov đuổi kịp hắn. Merkulov thở hổn hển bước tới, chiếc áo vét da còn
mới tinh loạt soạt mùi thuốc lá hạng tồi nồng nặc. Hắn gọi Evgeni ra một chỗ,
nói hấp tấp:
- Cậu biết tin chưa? Đêm qua Buntruc
đào ngũ rồi…
- Buntruc ấy à? Sa- a- ao?
- Nó đào ngũ rồi… Cậu có hiểu không? Thằng Ichnachit đội
trưởng súng máy nằm cùng hầm với thằng Buntruc nói rằng sau khi ở chỗ chúng ta
ra, Buntruc không về hầm nó nữa. Như vậy là vừa ở chỗ chúng ta ra nó đã chuồn
thẳng… Câu chuyện là như thế đấy.
Evgeni nheo mắt lau rất lâu cái kính kẹp mũi.
- Hình như cậu hồi hộp xao xuyến lắm thì phải? - Merkulov
nhìn Evgeni có vẻ dò hỏi.
- Mình ấy à? Cậu làm sao thế, đầu óc vẫn bình thường đấy
chứ?
- Làm sao mà chuyện ấy lại làm mình xao xuyến? Việc xảy
ra bất ngờ nên mình ngạc nhiên thôi.
--- ------ ------ ------ -------
1 Khi tắm hơi
nước, người Nga cầm cái chổi bện bằng những nhánh bạch dương đập vào người
(ND).
2 Nguyên văn
"Sách giải mộng của Đảng xã hội dân chủ", Đảng xã hội dân chủ là tiền
thân của Đảng cộng sản Liên Xô (ND).
3 Năm 1915 quân
đội các nước đánh nhau trên mặt trận miền Đông đã kiệt sức, phải chuyển từ
chiến tranh vận động sang chiến tranh trận địa (chiến tranh chiến hào), Mặt
trận miền Tây đã chuyển sang trận đia chiến sớm hơn, từ cuối năm 1914 (ND).
4 Quốc hội nước
Nga thời Nga hoàng, thành lập năm 1906, cải tổ năm 1907, bị người Bolsevich
giải tán năm 1917 (ND).
5 Dịch nghĩa khẩu
hiệu của người theo đạo Hồi trong các cuộc chiến tranh đánh những người theo
đạo khác "La in is- kha- in- a- la". Ý Buntruc muốn bảo Evgeni.
"Mày chỉ là một thằng cuồng tín" (ND).
6 Theo Kinh
thánh, là một người đàn bà trụy lạc, được Giêsu cứu về sau hiển thánh, lễ ngày
22 tháng bảy (ND).
7 Mỗi véc- sốc là
4,4cm.
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 80
Sáng hôm sau, lão quản hốt hoảng chạy vào hầm Evgeni. Lão
ngập ngừng một lát rồi báo cáo:
- Bẩm quan lớn, sớm nay bọn Cô- dắc đã tìm thấy trong các
chiến hào những mẩu giấy nầy. Chuyện xảy ra không hay như thế đấy… Chính vì thế
tôi phải chạy đến báo cáo quan lớn. Nếu không lại chuốc lấy vạ vào thân…
- Những mẩu giấy gì hử? Evgeni đang nằm trên giường nhổm
dậy hỏi.
Lão quản đưa cho hắn vài tờ giấy vo tròn nằm trong tay.
Trên một tờ giấy rẻ tiền rọc tư hiện lên rõ ràng những dòng đánh máy.
Evgeni đọc một hơi:
Vô sản tất cả các nước, liên hiệp lại!
CÁC ĐỒNG CHÍ BINH SĨ!
Cuộc chiến tranh chết tiệt nầy kéo dài hai năm rồi. Đã
hai năm trời, các đồng chí phải chịu đắng cay khổ cực trong chiến hào để bảo vệ
những quyền lợi không phải của mình. Thợ thuyền và dân cày trong cả nước đã
phải đổ máu hai năm trời. Hàng chục vạn người bị giết và trở thành tàu phế,
hàng chục vạn trẻ mồ côi rà đàn bà goá, đó là những thành tích của lò sát sinh
nầy nầy. Các đồng chí chiến đấu để làm gì? Các đồng chí bảo vệ những quyền lợi
của ai? Chính phủ Nga hoàng đã đẩy hàng triệu binh sĩ lên tuyến lửa, hòng cướp
đoạt những vùng đất mới và áp bức nhân dân các vùng đó, cũng như nó đang áp bức
những người dân bị nô dịch ở Ba Lan và những nước khác. Những tên chủ nhà máy
trên thế giới không chia nhau được các thị trường có thể tiêu thụ các thứ hàng
do nhà máy của chúng chế tạo, chúng không chia nhau được tiền lãi vì thế việc
phân chia đang được thực hiện bằng sức mạnh vũ trang của các đồng chí. Vì không
hiểu biết nên trong chộc đấu tranh cho quyền lợi của chung, các đồng chí đang
đi đến chỗ chết, đi giết hại những người lao động cũng như các đồng chí.
Máu của những người anh em với nhau đố như thế là đủ rồi!
Hãy tỉnh lại đi, hỡi anh em lao động! Kẻ thù của các đồng chí không phải là
lính Áo và lính Đức, những con người cũng bị lừa gạt như các đồng chí, mà là
tên Nga hoàng của các đồng chí, là bọn chủ nhà máy và chủ đất của các đồng chí.
Các đồng chí hãy quay mũi súng chống lại chúng. Các đồng chí hãy bắt tay thân
thiện với những người lính Đức và Áo. Các đồng chí hãy giơ tay cho nhau qua các
hàng rào dây thép gai ngăn cách các đồng chí với nhau như những con thú rừng.
Các đồng chí vốn là những người anh em trong lao động. Trên bàn tay các đồng
chí còn chưa hết dấu vết của những chỗ thành chai đẫm máu vì lao động, không có
gì ngăn cách các đồng chí. Đả đảo chế độ chuyên chế! Đả đảo chiến tranh đế
quốc! Tình đoàn kết không gì lay chuyển nổi của anh em lao động toàn thế giới
muôn năm!"
Mấy dòng cuối, Evgeni vừa đọc vừa thở hổn hển. "Bắt
đầu giở trò gì đây!" - Hắn nghĩ thầm trong lòng sôi sục căm hờn, cổ như
nghẹn tắc vì các dự cảm ập tới. Hắn gọi dây nói cho viên trung đoàn trưởng, báo
cáo về việc vừa xảy ra.
- Bẩm quan lớn, ngài ra lệnh làm gì bây giờ? - Cuối cùng
hắn hỏi.
Qua những tiếng vo vo như tiếng muỗi và những tiếng
chuông điện thoại xa, ống nghe đưa tới những lời lỏn nhỏn của viên tướng:
- Lập tức cùng với tên quản và các sĩ quan phụ trách
trung đòi tiến hành lục soát. Khám tất cả, không trừ một ai, kể cả các sĩ quan.
Hôm nay tôi xin chỉ thị của sư đoàn bộ xem trên đó định bao giờ sẽ cho trung
đoàn chuyển địa điểm. Tôi sẽ cố giục. Nếu trong khi lục soát ngài phát hiện
thấy gì thì báo cáo ngay cho tôi biết.
- Tôi cho rằng việc nầy là do bọn chúng làm.
- Thế à? Tôi sẽ ra lệnh ngay cho Ichnachit lục soát bọn
Cô- dắc ở chỗ ông ta. Chúc ngài mọi sự tốt lành.
Litnhitki cho gọi các sĩ quan chỉ huy trung đội tới hầm
của hắn, rồi truyền đạt cho họ biết mệnh lệnh của trung đoàn trưởng.
- Thế nầy thì còn ra thể thống gì nữa! - Merkulov phẫn nộ
- Thế nào, chúng mình sẽ khám xét lẫn nhau à?
- Bắt đầu khám từ ngài trở đi, ngài Litnhitki -
Radorchev, một viên trung uý còn trẻ, chưa có ria, kêu lên.
- Chúng ta sẽ rút thăm.
- Làm theo thứ tự A, B, C đi - Thưa các ngài, xin các
ngài để lúc khác hãy đùa, - Evgeni ngắt lời mọi người, giọng nghiêm khắc. - Tất
nhiên ông lão nhà chúng ta cũng có quá tay một chút: các sĩ quan trung đoàn
chúng ta thì cũng như vợ của Cedar 1 Chỉ có một thằng thiếu uý Buntruc thì nó
đã đào ngũ rồi. Còn bọn Cô- dắc thì phải lục soát chúng nó. Gọi lão quản đây.
Lão quản bước vào. Một gã Cô- dắc đã có tuổi. Huân chương
thánh Gioóc bậc ba. Lão húng hắng ho, đưa mắt nhìn khắp lượt bọn sĩ quan.
- Trong đại đội, anh thấy có những thằng nào đáng nghi?
Anh thử nghĩ xem, các lờ truyền đơn nầy có thể do tên não ném? Evgeni hỏi lão
quản.
- Bẩm quan lớn, không có hạng người như thế đâu. - Lão
quản nói chắc chắn.
- Song các tờ truyền đơn lại nhặt được ngay trong khu vực
đại đội ta? Có thằng nào ở những đại đội khác lai vãng đến chiến hào không?
- Không có ai lạ mặt cả. Cũng không có ai từ các đại đội
khác đến đây. Thôi chúng ta lần lượt khám lại tất cả - Merkulov khoát tay bước
ra cửa.
Cuộc lục soát bắt đầu. Nét mặt của bọn lính Cô- dắc cho
thấy những tình cảm hết sức khác nhau: có những gã nhăn nhở thắc mắc, có những
gã hốt hoảng nhìn bọn sĩ quan lục lọi trong những gói tài sản thảm hại của
lính, lại có những gã cười nhạo. Một gã hạ sĩ trinh sát khá ngang tàng hỏi:
- Nhưng các quan cứ cho biết các quan tìm gì đi? Nếu có
mất mát gì thì may ra cũng có người trông thấy đấy.
Sục sạo mãi mà chẳng có kết quả gì cả. Chỉ tìm được một
tờ truyền đơn vo tròn trong túi áo ca- pôt của một gã Cô- dắc trung đội một.
- Mày đã đọc chưa? - Morkulov vừa hỏi vừa quẳng tờ giấy
mới móc ra với vẻ hoảng sợ rất buồn cười.
- Tôi nhặt để hút thuốc đấy. - Gã Cô- dắc mỉm cười, mắt
không nhìn lên.
- Mày cười cái gì hử.- Evgeni nổi nóng quát lên. Hắn đỏ
mặt tía tai bước tới trước mặt gã Cô- dắc. Dưới cái kính kẹp mũi, hai hàng lông
mi vàng óng ngắn cũng háp háy như lên cơn thần kinh.
Vẻ mặt gã Cô- dắc lập tức trở nên nghiêm trang, nói cười
tựa như đã bị gió thổi bay đi.
- Bẩm quan lớn, xin quan lớn thứ lỗi cho? Tôi vốn gần như
chẳng có chữ nghĩa gì cả! Tôi đọc khó khăn lắm. Tôi đã nhặt nó vì không có giấy
để cuốn thuốc lá, thuốc thì còn, mà giấy thì hết. Nhìn thấy tờ giấy là nhặt
thôi.
Gã Cô- dắc nói giọng sang sảng, hậm hực, rõ ràng gã tức
lắm rồi.
Evgeni nhổ bãi nước bọt, bỏ đi chỗ khác. Mấy viên sĩ quan
kia đi theo hắn.
Hai ngày sau, trung đoàn được rút khỏi trận địa, chuyển
về hậu phương. Đội súng máy có hai người bị bắt, đưa ra toà án binh, còn bao
nhiêu thì một phần bị điều về những trung đoàn dự bị, một phần bị phân tán tới
các trung đoàn thuộc sư đoàn Cô- dắc số hai. Sau vài ngày nghỉ ngơi, trung đoàn
đã có phần lấy lại trật tự. Binh sĩ Cô- dắc được tắm rửa, giặt giũ, cạo râu ria
sạch sẽ. Ở đây không còn dùng đến cái phương pháp đơn giản nhưng khá đau mà họ
thường phải tìm đến trong chiến hào để khử các đám rễ tre trên mà là đánh diêm
thui cho lửa lan lem lém trên râu, và sắp làm bỏng da là phải lau má ngay bằng
một chiếc khăn mặt đã nhúng nước sẵn. Phương pháp nầy đã được đặt cái tên là
"làm lợn".
- Mình sẽ cạo râu cho cậu theo kiểu "làm lợn"
hay thế nào? - Một chàng tư húi nào đó của trung đội hỏi khách hàng.
Trung đoàn nghỉ ngơi. Bề ngoài bọn Cô- dắc đã trở nên dỏm
dáng, vui vẻ hơn trước. Nhưng Evgeni cũng như tất cả các sĩ quan khác đều biết
rằng cái vui vẻ nầy cũng chẳng khác gì tháng mười một được một ngày đẹp trời:
có được hôm nay, ngày mai đã không còn nữa rồi. Chi cần đả động tới chuyện ra
mặt trận là sẽ thấy vẻ mặt họ thay đổi ngay tức khắc, là bất mãn và căm hờn đã
lừ lừ hiện ra dưới những hàng mi nhìn xuống. Có thể nhận thấy ở họ một sự mệt
mỏi chết đi được, sức cùng lực kiệt, và tình trạng mệt mỏi ấy tất nhiên dẫn tới
dao động tinh thần. Litnhitki biết rõ lắm: một con người ở trong trạng thái ấy
mà vươn tới một mục đích nào đó thì đáng sợ như thế nào.
Năm 1915, hắn đã tự mắt nhìn thấy một đại đội bộ binh
xung phong năm lần liền bị thương vong nhiều vô kể và sau mỗi lần lại nhận được
lệnh: "Xung phong lại". Bọn tàn binh của đại đội ấy đã tự ý rời bỏ
khu vực họ phụ trách, chạy về phía sau. Evgeni cùng đại đội của hắn được lệnh
giữ họ lại. Đến khi hắn cho đại đội dàn ra định chắn đường về của họ thì họ bắt
đầu nổ súng vào chúng. Đại đội bộ binh ấy không còn quá sáu mươi người, nhưng
Evgeni đã thấy những con người ấy chống lại bọn Cô- dắc với một tinh thần dũng
cảm quyết tử điên cuồng như thế nào. Họ gục xuống dưới những nhát gươm, họ chết
nhưng vẫn cứ xông lên bất chấp tất cả tới chỗ chết, tới chỗ bị tiêu diệt, vì họ
nghĩ rằng nhận lấy cái chết ở chỗ nào thì cũng thế thôi.
Trường hợp ấy đã hiện lên trong trí nhớ của Evgeni như
một hồi ức rùng rợn, và hắn xao xuyến nhìn một cách khác hẳn trước kia vào mặt
những tên lính Cô- dắc, bụng bảo dạ: "Chẳng nhẽ ngay cả những thằng nầy
rồi sẽ có lúc cũng quay trở lại như thế, xông lên như thế, và ngoài cái chết,
sẽ chẳng có gì đủ sức ngăn giữ chúng?"
Rồi hắn lại bắt gặp những cặp mắt mệt mỏi rã rời đầy phẫn
nộ và kết luận một cách thành thực: "Chúng nó sẽ xông lên đấy!".
So với những năm trước, bọn Cô- dắc đã thay đổi một cách
căn bản. Ngay các bài hát cũng là những bài mới, ra đời trong chiến tranh, đượm
một mầu buồn thảm đen tối. Đại đội Cô- dắc đóng trong căn nhà kho rộng mênh
mông của một nhà máy. Tối tối mỗi khi đi qua chỗ ấy, Evgeni phần nhiều nghe
thấy một bài đầy nhớ nhung, buồn không sao tả xiết. Bao giờ nó cũng được hát ba
bốn bè. Vượt lên trên những giọng trầm đặc quánh, bè nam cao bay vút lên, rung
lên trong và mạnh khác thường:
Ôi mảnh đất chôn nhau cắt rốn,
Thôi từ nay đành vĩnh biệt ngươi.
Thế là hết, hết được nghe, được thấy
Trong vườn cây hoạ mi đón mặt trời.
Con xin mẹ, thưa mẹ hiền yêu dấu,
Mẹ chớ buồn lo quá vì con
Vì đâu phải thưa mẹ hiền yêu dấu
Ai ra đi cũng bỏ xác rừng gươm.
Evgeni đứng lại lắng nghe. Hắn bất giác cảm thấy rằng cái
buồn chất phác trong bài hát xâm chiếm tâm hồn hắn, không sao cưỡng lại được.
Cứ như có một sợi dây đàn căng thẳng trong nhịp lim đập mỗi lúc một nhanh.
Giọng trầm của bè phụ động vào sợi dây đàn ấy, bắt nó phải đau đớn rung len.
Evgeni đứng ở một chỗ gần nhà kho, đăm đăm nhìn vào làn sương mù buổi tối mùa
thu, tự nhiên thấy mắt mình ướt, mí mắt ngọt ngọt cay cay.
Các giọng trầm còn chưa hát xong mấy tiếng cuối thì giọng
nam cao đã bật tung lên, át tất cả, và những âm thanh rung rung như hai cái
cánh của con vịt trời ngực trắng loá vừa bay vừa hối hả gọi đàn, kể lể:
Viên đại chì réo
Cắm giữ ngực ta.
Gục xuống cổ ngựa,
Máu đen thấm đẫm bờm chiến mã.
Suốt thời gian trung đoàn đóng quân nghỉ ngơi, chỉ có một
lần Evgeni được nghe những lời hào hứng, sảng khoái trong một bài hát cổ của
người Cô- dắc. Trong khi đi dạo buổi chiều như thường lệ. hắn bước tới gần nhà
kho. Những tiếng cười tiếng nói dở tỉnh dở say vẳng tới tai hắn. Evgeni đoán
rằng có lẽ tên trung sĩ quân nhu lên cái thị trấn nhỏ Nevitka lĩnh lương thực
thực phẩm về đã mang theo ít rượu nặng và thết bọn Cô- dắc. Mấy tên Cô- dắc nốc
rượu đại mạch đã ngà ngà say không biết đang tranh cãi về chuyện gì mà cười ha
hả. Trên đường về, từ xa Evgeni đã nghe thấy những tiếng hát rền vang mạnh mẽ
cùng tiếng huýt sáo đệm man rợ, chói tay, nhưng đúng nhịp.
Chưa ra trận
Thì chưa sợ.
Ngày dầm mưa, đêm đến rét run
Suốt năm canh không một giấc con con.
"Phi- u- u- u- u- u- u? Phi- u- u- u- u- u- u! Phiu-
u- u- !" - tiếng huýt sáo rung lên, chảy liên tục như dòng suối, rối xoáy
trôn ốc bay vút cao. Sau đó có ít nhất ba mươi giọng gầm lên, át tiếng huýt
sáo.
Từng ngày từng giờ, Khắp đồng không, kinh hoàng và đau
khổ. Một thằng cha nghịch ngợm, có lẽ trọng số gã còn trẻ, chợt huýt lên những
tiếng sáo dồn dập, inh tai nhức óc, rồi đập hai chân lên sàn gỗ nhảy điệu pri-
xi- át- ca. Tuy bị những tiếng hát trùm lên, nhưng tiếng đế ủng đập chan chát
vẫn vang ra rõ mồn một.
Hắc Hải gẩm,
Chiến thuyền lung linh ánh lửa.
Ta dập tắt lửa
Bóp chết bọn Thổ,
Vinh quang thay người Cô- dắc sông Đông.
Evgeni bất giác mỉm cười, vừa đi vừa cố dóng bước theo
nhịp các giọng hát. Hắn nghĩ bụng: "Có lẽ các đơn vị bộ binh không cảm
thấy nhớ ni là gay go đến thế nầy đâu". Nhưng lý trí của hắn lại gợi ra
những ý nghĩ vặn lại lạnh lùng: "Nhưng chẳng nhẽ bộ binh là những con
người khác hay sao. Tất nhiên bọn lính Cô- dắc phản ứng mạnh hơn trước hoàn
cảnh bị bắt buộc phải ngồi bó gối trong chiến hào, do đặc điểm của cách phục vụ
trong quân đội, chúng đã quen luôn luôn vận động. Thế mà đã hai năm rồi chúng
nó phải ngồi một xó hoặc giậm chân tại chỗ trong những mưu đồ tấn công chẳng
đem lại kết quả gì. Quân đội chưa từng bạc nhược như thế nầy bao giờ.
Đang cần phải có một bàn tay sắt. một thắng lợi thật lớn,
một đợt tiến quên về phía trước, có thế mới lắc cho nó hăng lên được. Tuy lịch sử
đã cho thấy những thí dụ về chuyện trong những thời kỳ chiến sự kéo dài, tinh
thần của những quân đội kiên cường nhất, có kỷ luật nhất cũng dao động. Ngay
Suvorov 2 cũng đã từng thể nghiệm điều đó… Nhưng dân Cô- dắc sẽ giữ vững cho mà
xem. Lính Cô- dắc mà bỏ trốn thì phải là những thằng cuối cùng bỏ trốn. Dù sao
đây cũng là một dân tộc nhỏ đặc biệt, có truyền thống thượng võ, chứ đâu phải
là một bầy ô hợp toàn dân thợ huyền hay mu- gích.
Như cố ý làm Evgeni vỡ mộng, trong nhà kho bỗng có một gã
nào cất một giọng rè rè, đứt quãng, hát bài "Đoá bạch cầu". Có thêm
những giọng khác hoà theo. Evgeni đi xa rồi vẫn còn nghe thấy cả một nỗi đau
thương đan quyện trong bài hát:
Người sĩ quan trẻ đang cầu Chúa,
Chàng thanh niên Cô- dắc xin về:
- Xin ngài sĩ quan trẻ,
Buông tha tôi về
Buông tha tôi về
Với cha, với cha, với mẹ
Với cha, với mẹ
Với người vợ trẻ thân thương!
° ° °
Buntruc trốn khỏi mặt trận đến hôm nay đã là ngày thứ tư.
Anh đến một thị trấn buôn bán lớn vào buổi tối. Các căn nhà đã lên đèn. Tiết
trời hơi băng giá làm các vũng nước phủ một váng băng mỏng. Từ xa đã nghe thấy
tiếng bước chân của vài người qua lại lèo tèo.
Buntruc vừa đi vừa hết sức lắng nghe. Anh tránh các phố
có đèn sáng, cứ len theo những ngõ vắng. Lúc mới bước chân vào thị trấn, thiếu
chút nữa Buntruc chạm trán với một đội tuần tra, vì thế bây giờ anh phải đi sát
vào những dãy hàng rào, chân bước thoăn thoắt như con chó sói, tay phải không
rút khỏi túi chiếc áo ca- pôt nhớp nhúa không tưởng tượng được: anh đã rúc vào
một đống trấu cám, nằm suốt một ngày.
Trong thị trấn nầy có đặt căn cứ của một quân đoàn, vài
đơn vị nào đó cũng đóng ở đây. Đụng đầu phải những đội tuần tra thì rất nguy
hiểm, vì thế những ngón tay lông lá của Buntruc cứ nắm đến nóng cái cán gạch
khía của khẩu súng ngắn kiểu Nagan giấu trong túi áo ca- pôt.
Đến đầu kia thị trấn, Buntruc đi rất lâu trong cái ngõ
vắng tanh. Anh nhìn qua cổng chú ý xem xét hình dáng của từng căn nhà tiều tụy.
Đi chừng hai mươi phút thì tới một căn nhà nhỏ xấu xí ở góc dường. Buntruc ghé
mắt vào kẽ cửa chớp nhìn vào bên trong rồi mỉm cười, mạnh dạn bước tới cửa hàng
rào. Nghe tiếng gõ cửa, một người đàn bà đã có tuổi, đầu bịt khăn, ra mở cửa
cho Buntruc.
- Bác Boris Ivanovich có ở nhà ta không thưa bà? -
Buntruc hỏi.
- Thưa có đấy ạ. Mời bác vào chơi.
Buntruc nghiêng nghiêng người bước qua trước mặt người
đàn bà. Tiếng then cửa lêu lách cách lạnh lùng sau lưng anh. Trong căn phòng
rất thấp, một người có tuổi mặc áo quân phục ngồi sau một cái bàn dưới ánh ngọn
đèn hạt đậu. Người ấy cau mày nhìn chăm chú một lát rồi đứng dậy, cố giấu vẻ
vui mừng đưa cả hai tay bắt tay Buntruc:
- Cậu ở đâu đến đấy?
- Từ mặt trận về.
- Anh cũng thấy đấy… - Buntruc mỉm cười đưa đầu ngón tay
sờ vào chiếc dây lưng lính của người mặc áo quân phục, hỏi rất khẽ - Anh có
phòng riêng không?
- Có, có. Vào trong nầy với mình.
Người ấy đưa Buntruc vào một căn
phòng còn hẹp hơn, rồi không châm đèn, bảo Buntruc ngồi xuống một cái ghế dựa,
khép cánh cửa thông sang phòng bên, kéo rèm che cửa sổ và nói:
- Cậu bỏ về hẳn rồi à?
- Về hẳn rồi.
- Ngoài ấy tình hình thế nào?
- Đâu đó sẵn sàng cả rồi.
- Cố những anh em tin cậy được chứ?
- Ô, có chứ!
- Mình thấy bây giờ cậu cởi áo ngoài ra đã, rồi chúng
mình sẽ nói chuyện. Thôi đưa cho mình cái áo ca- pôt của cậu. Mình sẽ lấy ngay
nước cho cậu lau rửa.
Trong khi Buntruc cúi xuống lau rửa trong một cái chậu
đồng rỉ xanh, người mặc áo quân phục vuốt vuốt bộ tóc cắt "cua", khe
nói giọng mệt mỏi:
- Hiện nay chúng nó còn mạnh hơn chúng ta không biết bao
nhiêu lần. Công việc của chúng ta là phải lớn mạnh lên, mở rộng ảnh hưởng,
không ngừng hoạt động giải thích các nguyên nhân thật sự đã gây ra cuộc chiến
tranh nầy. Rồi chúng ta sẽ lớn mạnh lên, cậu có thể tin như thế. Và những người
rời bỏ chúng nó tất nhiên sẽ đến với chúng ta. So với một thằng bé thì một
người lớn đương nhiên khoẻ hơn. Nhưng đến khi người lớn ấy già đi, trở nên hom
hem, thì sẽ bị chính thằng bé hất cẳng. mà trong trường hợp đó, chúng ta sẽ
nhận thấy không những một tình trạng già yếu suy nhược, mà còn thấy toàn bộ một
cơ thể dần dần bị tê liệt.
Buntruc lau rửa xong, lấy một cái khăn sợi thô cứng sát
kỹ lên mặt và nói:
- Trước khi bỏ đi tôi có nói cho bọn sĩ quan biết quan
điểm của tôi. Anh biết không, buồn cười đến chết được… Tôi đi rồi thì thế nào
anh em súng máy cũng sẽ bị làm phiền, có thể có anh em nào đó trong đám bị đưa
ra toà, nhưng chứng cớ không có thì làm gì nhau? Tôi mong rằng anh em sẽ bị
phân tán xuống các đơn vị, mà như thế sẽ có lợi cho ta: họ sẽ sinh sôi nảy nở
trên những đất mới… Chà, sao ở đấy lại có những anh em tốt đến thế! Thật là
lòng gang dạ đá.
- Mình có nhận được của Stepan một bức thư. Cậu ấy đề
nghị cử đến cho cậu ấy một anh em hiểu biết về quân sự. Cậu đến với cậu ấy nhé.
Nhưng còn giấy tờ thì thế nào? Có xong xuôi được không?
- Công việc ở đằng ấy là làm gì? - Buntruc vừa hỏi vừa
kiễng chân mắc chiếc khăn mặt lên cái đinh.
- Huấn luyện một số anh em. Nhưng cậu mãi chẳng cao thêm
được chút nào thế? - Chủ nhà mỉm cười.
- Cao mà làm gì? Buntruc xua tay - Nhất là trong hoàn
cảnh của tôi bây giờ. Cỡ người tôi chỉ nên bằng một quả đậu thôi, có thế mới đỡ
bị chú ý.
Hai người nói chuyện với nhau mãi tới lúc tờ mờ sáng. Hai
ngày sau, Buntruc rời thị trấn ra ga. Trước khi đi, anh đã thay quần áo và hoá
trang đến không thể nào nhận ra được nữa giấy tờ mang tên một người lính trung
đoàn 441 Orsavsky, được giải ngũ hẳn vì bị thương ở ngực.
--- ------ ------ ------ -------
1 Evgeni muốn nói
tới những lời đã trở thành thành ngữ mà hình như June Cedar đã hỏi để trả lời
các ý nghi ngờ mà người ta nêu lên với ông ta vê tư cách của vợ ông ta:
"Vợ của Cedar thì vượt ra ngoài mọi sự ngờ vực" (Lời chú của bản
tiếng Nga).
2 (1729 - 1800)
nguyên soái, một nhà chiến lược rất có tài người Nga, đã đánh lại quân đội Pháp
của Napoleon trong nhiều trận (ND).
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 81
Trong những ngày cuối tháng chín bắt đầu rục rịch chuẩn
bị tấn công theo hai hướng Vladimiro- Volynsky và Koven, trong khu vực hoạt
động của rập đoàn quân Đặc biệt (theo thứ tự thì tập đoàn quân nầy vốn mang số
mười ba, nhưng vì "13" là một con số xúi quẩy, mà cả các ông tướng to
đầu cũng không thoát khỏi bệnh mê tín, nên tập đoàn quân nầy đã được gọi là
"Đặc biệt").
Tại một nơi gần làng Svinyukha, bộ tư lệnh đã chọn một cơ
địa xuất phát rất tiện cho việc triển khai tấn công. Pháo binh bắt đầu bắn
chuẩn bị.
Một lực lượng pháo binh với số lượng chưa từng thấy được
điều tới địa điểm đã định. Chín ngày liền, hàng chục vạn phát đạn pháo các cỡ
đã cày rối cả khoảng đất do hai đợt chiến hào của quân Đức chiếm giữ. Ngay hôm
đầu, vừa bắt đầu chịu hoả lực mật tập, quân Đức đã vứt bỏ đợt chiến hào thứ
nhất, chỉ để lại những đài quan sát.
Vài ngày sau, họ bỏ thêm tuyến hai và chuyển về tuyến ba.
Đến ngày thứ mười, các đơn vị của Quân đoàn Turkestan toàn khinh binh, bắt đầu
tấn công. Họ tấn công theo phương thức của người Pháp là từng đợt liên tiếp.
Các chiến hào của quân Nga lùa ra mười sáu đợt. Như những làn nước đập vào bờ,
những đợt sóng người xám xịt ùa ra, lượn uyển chuyển, tản rộng rồi sủi bọt bên
những hàng rào dây thép gai rối như bòng bong. Nhưng về phía quân Đức từ sau
những gốc cây đổ cháy thui của khu rừng liễu đỏ xanh xám, từ sau những khoảng
dốc cát nhấp nhô, hoả lực địch gầm lên, khạc lửa vang rền không ngừng, làm rung
chuyển hết thảy, với những tiếng nổ nứt của những đám cháy.
Chiu...chiu... B...um!
Thỉnh thoảng lại có đại đội pháo bắn riêng lẻ một loạt
đạn, rồi lại là những tiếng nổ rền, bò lan, ập tới, trùm lên cả một vùng bao
nhiêu vec- xta.
- Chiu… Chiu...chiu…
- Tằng… tằng… tằng… - Các khẩu súng máy của quân Đức cũng
hấp tấp bắn như điên.
Trên một khoảng đường kính rộng đến một vec- xta, đạn
pháo nổ xoáy bốc lên những cái cột đen ngòm từ mặt cát bị băm vằm không còn
hình thù gì nữa, làm những làn sóng tấn công nát vụn, sôi sục, tung toé ra khỏi
những hố đạn hình phễu rồi vẫn bò, vẫn bò…
Những phát đạn pháo vẫn nổ đen ngòm mỗi lúc một nhào trộn
đất ghê gớm, dội nhiều hơn lên đầu những kẻ tiến công những viên đạn ghém xuyên
chéo với những tiếng rít xé màng tai, hoả lực súng máy mỗi lúc một quét mặt đất
hung dữ, tàn khốc hơn. Họ quyết bắn không cho kẻ địch tiến tới hàng rào dây
thép gai. Và kẻ địch đã không tiến tới được. Trong mười sáu làn sóng tấn công,
chỉ có ba lần cuối cùng tràn được tới những dãy hàng rào dây thép nát bét vươn
lên trời những cột cháy đen, với những dây thép bị vặn xoắn. Nhưng vừa lên tới
nơi, ba làn sóng ấy lại như va đầu phải đá, tan ngay thành từng con suối nhỏ,
từng giọt nhỏ, chảy lui trở về…
Hôm ấy, hơn chín ngàn nhân mạng đã bị rắc lên khoảng đất
cát sâu thảm cách làng Svinyukha không bao xa.
Hai giờ sau, trận tấn công được tiến hành lại. Các đơn vị
của sư đoàn 2 và sư đoàn 3 Quân đoàn khinh binh Turkestan đã bị đem dùng. Bên
trái họ, các đơn vị cửa sư đoàn bộ binh 53 và lữ đoàn khinh binh Sibiri 307
tiến theo những cái khe tới tuyến chiến hào thứ nhất. Sư đoàn kỵ binh nhẹ số 3
tiến ở sườn bên phải Quân đoàn Turkestan.
Trung tướng Gavrilov, quân đoàn trưởng Quân đoàn 80 thuộc
Tập đoàn quân Đặc biệt nhận được mệnh lệnh của bộ tư lệnh tập đoàn quân điều
hai sư đoàn tới khu vực Svinyukha. Đêm hôm ấy, trung đoàn 320 Trembarky trung
đoàn 319 Bugunminsky và trung đoàn 318 Trecnoiasky thuộc sư đoàn 80 được lệnh
rời vị trí cũ.
Khinh binh Ladvia và dân quân vừa được đưa ra mặt trận
đến thay thế họ. Các trung đoàn đã được điều đi ban đêm nhưng ngay buổi chiều,
một trong ba trung đoàn đã di động theo hướng ngược lại để nghi binh và mãi sau
khi đã chuyển quân mười hai vec- xta dọc theo mặt trận, họ mới nhận được lệnh
quay trở lại. Các trung đoàn tiến cùng một hướng, nhưng trên nhiều đường khác
nhau. Trung đoàn 283 Pavlogradsky và trung đoàn 284 Vengrovsky thuộc sư đoàn 71
tiến bên trái tuyến hành quân của sư đoàn 80. Trung đoàn Cô- dắc Ural và trung
đoàn trinh sát Cô- dắc 44 theo sát gót hai trung đoàn ây Trước khi chuyển tới
địa điểm mới, trung đoàn 318 Trecnoiasky đóng trên bờ sông Stokhot, trong khu
vực thị trấn nhỏ Sokan, cách trang trại Ruska- Morinskoie không xa. Sáng hôm
sau, sau chặng chuyển quân đầu tiên, trung đoàn đến đóng ở một khu rừng, trong
những cái hầm bị vứt bỏ để học tập chiến thuật tấn công theo kiểu Pháp trong
bốn ngày. Họ triển khai thành đội hình chiến đấu không phải từng tiểu đoàn mà
từng đại đội. Những người lính ném lựu đạn được huấn luyện cách cắt hàng rào
dây thép gai cho thật nhanh và tập lại khoa mục ném lựu đạn. Sau đó trung đoàn
lại lên đường. Ba ngày liền họ đi trên những con đường rừng hoang vu, nhằng
nhịt vết bánh xe pháo binh, hết rừng rậm lại đến rừng thưa. Gió dồn những đám
sương mù mong manh, trắng lờm xờm như bông. chập chờn bám vào những ngọn thông,
trôi trên những khoảng rừng trống, hoặc lượn tròn giữa những ngọn liễu đỏ, trên
những bãi lầy xanh xám bốc hơi ngùn ngụt, như những con diều hâu trên thây con
thú chết. Mưa nhỏ giọt từ màn sương mù trên trời. Ai nấy ướt như chuột lột, vừa
đi vừa căm gan tím ruột. Ba ngày sau, họ dừng lại gần khu vực tấn công, trong
hai làng Đại Porekh và Tiểu Porekh. Họ nghỉ ngơi một ngày một đêm: để sửa soạn
lên đường về cõi chết.
Trong khi đó, một đại đội Cô- dắc đặc biệt cũng di động
tới địa điểm sắp có chiến đấu cùng với sư đoàn bộ sư đoàn 80. Biên chế trong
đại đội nầy có cả bọn lính Cô- dắc đăng kỳ ba của thôn Tatarsky. Trung đội hai
gồm toàn các gã trong thôn: Marchin và Prokho, hai thằng em của gã cụt tay
Aleksey Samin, anh thợ máy Kotliarov của nhà máy xay chạy bằng hơi nước Mokhov,
chàng mặt rỗ Afonka Ozerov, Manứtcôp trước kia là ataman thôn, Eplanchi
Calinhi, gã láng giềng chân chữ bát có cái bờm tóc dài trước trán của nhà
Samin, chàng Cô- dắc khổng lồ Borsev, người vụng về dài ngoẵng, gã Dakha
Korolev, cổ ngắn chùn chũn, dáng đi như con gấu. Nhưng "cái đinh" đem
lại chút vui nhộn cho toàn đại đội là Gavrila Likhovidov, một gã Cô- dắc vẻ
người nom hết sức man rợ, nhưng nổi tiếng vì thường xuyên cắn răng để bà mẹ bảy
mươi tuổi và mụ vợ xấu như quỉ dạ xoa, tính đĩ rơi đĩ rụng, đánh đập tàn nhẫn.
Còn nhiều gã khác trong thôn cũng ở trung đội hai hoặc
các trung đội khác trong đại đội. Trước kia một số lính Cô- dắc làm liên lạc ở
sư đoàn bộ, nhưng từ ngày mồng hai tháng mười, bọn lính kỵ binh nhẹ đã làm việc
ấy thay họ, và theo lệnh sư đoàn trưởng là tướng Kichenko, đại đội nầy đã bị
điều lên tuyến lửa.
Sáng sớm ngày mồng ba tháng mười, đại đội tiến vào thôn
Tiểu Porekh. Giữa lúc ấy tiểu đoàn một trung đoàn 318 Trecnoiasky cũng rời thôn
nầy. Bọn lính bộ binh chạy ra khỏi những căn nhà bỏ hoang đã gần đổ nát, đứng
xếp hàng ngay trên đường phố. Một viên chuẩn uý mặt vắt ra sữa, da ngăm ngăm,
luẩn quẩn bên cạnh trung đội đầu tiên Hắn mở xác- cốt, lấy ra một miếng
chocolatte (chocolatte còn bê bết quanh cặp môi mầu hồng nhợt của hắn). Hắn đi
dọc hàng quân, cái đuôi áo ca- pôt dài lượt thượt, đầy bùn khô đập đập giữa hai
chân như một đuôi cừu. Bọn lính Cô- dắc di bên trái đường phố. Anh thợ máy
Kotliarov đi bên phải một hàng của trung đội hai.
Anh rất chú ý nhìn xuống chân, cố bước qua các ổ gà đầy
nước. Chợt có tiếng gọi anh từ phía bọn lính bộ binh. Kotliarov quay lại, đưa
mắt nhìn lướt qua các hàng lính bộ binh.
- Kotliarov! Anh bạn thân mến!
Một anh lính bộ binh bé loắt choắt rời khỏi trung đội,
chạy lạch bạch tới gần Kotliarov. Anh ta vừa chạy vừa hất khẩu súng trường ra
sau lưng, nhưng dây súng cứ trượt xuống làm báng súng đập trầm trầm vào bình
toong.
- Không nhận ra à? Quên mình rồi hay sao?
Kotliarov nhìn người lính nhỏ bé đang chạy tới có bộ râu
cứng như lông nhím xam xám mầu khói mọc lên tới hai gò má, và mãi mới nhận ra
"Bồi".
- Cậu ở đâu mò tới đây thế, cái cốc đong rượu?
- Cậu xem đấy… Mình đang đi lính mà.
- Thế trung đoàn nào?
- Trung đoàn ba trăm mười tám Trecnoiasky. Thật không
ngờ… không ngờ còn được gặp anh em mình ở đây.
Bàn tay cứng như thép của Kotliarov không buông bàn tay
nhỏ bé bẩn thỉu của "Bồi" ra nữa. Anh mỉm cười sung sướng cảm động.
"Bồi" cố theo kịp những bước chân khổng lồ của
Kotliarov, cứ phải chạy tế lên. Hắn đưa mắt từ dưới lên, nhìn vào mắt Kotliarov,
và chưa bao giờ thấy hai con mắt đầy căm hờn, rất gần tinh mũi của
"Bồi" ướt và dịu dàng như thế nầy.
- Chúng mình sắp sửa tấn công đấy… Cậu xem…
- Bọn mình cũng thế.
- Dạo nầy cậu thế nào, Kotliarov?
- Ối dào, còn có gì đáng nói nữa.
- Mình cũng thế thôi, từ năm một nghìn chín trăm mười
bốn, mình không mò ra khỏi chiến hào. Nhà cửa chăng có, vợ con thì không: làm
vương làm tướng gì cho ai bây giờ… Một thân một mình thì thiết gì.
- Cậu còn nhớ Stokman không. Stokman của chúng ta thật là
một hòn ngọc. Bây giờ mà có Stokman thì chúng ta đã được nghe phân tích tất cả
rõ ràng rồi. Một con người ra con người… có phải không? Sao lại có người cừ đến
thế nhỉ… có phải không?
- Stokman thì có thể nhìn thấy rõ tất cả rồi! -
"Bồi" vung nắm tay hào hứng kêu lên, khuôn mặt nhỏ choắt lồm xồm
những đám râu cứng như lông nhím của anh chàng cười nhăn nhúm - Mình còn nhớ
Stokman lắm! Mình còn hiểu Stokman hơn cả hiểu bố mình đấy. Đối với mình thì bố
mình chẳng có gì đáng kể… Nhưng cậu có được tin gì về Stokman không? Không có
tin tức gì à?
- Stokman đang ở Sibiri, - Kotliarov thở dài - Đang ngồi
nốt hạn tù
- Sao hả? - "Bồi" hỏi lại và vẫn cứ nhảy cỡn
lên như con chim bạc má bên cạnh người cùng đi với anh la, hai vành tai nhọn
vểnh lên.
- Đang ngồi tù. Mà chưa biết chừng bây giờ đã chết mất
rồi.
"Bồi" đi lầm lì một lát, chẳng nói chẳng rằng,
lúc thì ngoái nhìn phía sau, chỗ đại đội tập họp, lúc thì ngửa cổ lên nhìn cái
cằm phẳng bẹt với vết hõm tròn tròn sâu sâu nằm ngay dưới chỗ giữa môi dưới của
Kotliarov.
- Thôi tạm biệt? - "Bồi" rút tay khỏi bàn tay
xương xẩu lạnh giá của Kotliarov. - Có lẽ chúng mình không còn được trông thấy
nhau nữa đâu.
Kotliarov đưa tay trái lên bỏ chiếc mũ cát- két xuống rồi
cúi xuống ôm lấy hai cái vai gầy gò của "Bồi". Hai người ôm chặt lấy
nhau, hôn nhau nữa, tựa như để không bao giờ gặp nhau nữa, rồi "Bồi"
đứng lại. Đột nhiên "Bồi" luống cuống rụt đầu, chỉ còn hai vành tai
nhọn hồng hồng nâu nâu nhô lên khỏi cái áo ca- pốt mầu tro của lính, rồi gù
lưng bước đi, đường thì phẳng mà chân vẫn vấp. Kotliarov bước ra khỏi hàng, gọi
giọng run run:
- Nầy, người anh em. "Bồi" thân mến của mình!
Cậu trước kia là một thằng tợn tạo như thế nào… còn nhớ không? Trước kia vốn là
một thằng rắn rỏi cơ mà, có phải không?
"Bồi" quay lại nước mắt làm mặt anh chàng già
hẳn đi. Hắn vừa kêu lên vừa đấm thùm thụp vào bộ ngực đen thui, gầy giơ cả
xương sườn hiện ra dưới cái áo ca- pôt mở phanh và cổ áo sơ mi rách như sơ
mướp.
- Đúng! Xưa kia thì rắn rỏi, nhưng nay đã bị chúng nó làm
cho tiều tụy đến thế nầy rồi đây! Con ngựa xám nầy đã bị chúng nó bắt chạy kiệt
sức mất rồi!
"Bồi" còn gào lên những gì nữa, nhưng đại đội
Cô- dắc đã rẽ sang phố khác, nên Kotliarov không còn trông thấy hắn nữa.
- Có phải "Bồi" đấy không? - Prokho Samin đi
sau lưng Kotliarov hỏi.
- Đúng cậu ấy đấy, - Kotliarov trả lời âm thầm, môi run
run, vuốt vuốt khẩu súng trường trên vai. Bây giờ chỉ còn khẩu súng nầy làm vợ!
Đại đội ra khỏi thôn thì bắt đầu gặp những người lính bị
thương. Đầu tiên từng người lẻ tẻ, nhưng sau có những nhóm vài người một và
cuối cùng thì hàng đoàn lốc nhốc. Vài chiếc xe tải bị nhét đầy những người bị
thương nặng, gần như không lăn nổi bánh. Những con ngựa già kéo xe gầy đến rợn
người. Sống lưng ngựa nhọn hoắt, roi quấl liên hồi làm rách cả da, lộ những đầu
xương hổng hồng lấm tấm đỏ, dôi chỗ còn dính những sợi lông những con ngựa thở
hồng hộc, gân cổ kéo những chiếc xe bốn bánh, bọt sùi ra đầy những cái mõm chúc
xuống gần sát bùn. Đôi khi có một con ngựa đang kéo thì đứng lại. Nó thở phồng
hai bên sườn giơ xương hom hem, cố kéo một cách bất lực, cái đầu to tướng vì
thân quá gầy gục xuống. Ngọn roi quất xuống đã bức nó phải lê bước. Đầu tiên nó
chúi về một bên, rồi chúi thêm một cái về bên kia, cuối cùng làm chiếc xe
chuyển bánh và đi tiếp. Những người lính bị thương lốc nhốc vây quanh, bám lấy
thành xe, cố lê theo.
- Đơn vị nào thế? - Viên đại đội trưởng Cô- dắc chọn một
khuôn mặt hiền lành nhất để hỏi.
- Quân đoàn Turkestan. Sư đoàn ba.
- Mới bị thương hôm nay à?
Người lính bộ binh quay đi, không trả lời. Đại đội Cô-
dắc rẽ khỏi đường cái, tiến về phía khu rừng, nom chỉ còn cách chừng nửa vec-
xta. Sau lưng họ, các đại đội thuộc trung đoàn 318 Trecnoiasky vừa rời khỏi
thôn cũng nặng nhọc dẫm lõm bõm theo tốc độ hành quân của bộ binh. Xa xa, một
chiếc khinh khí cầu có dây buộc xuống đất của quân Đức in một vết vàng vàng xám
xám lơ lửng không động đậy trên nền trời bạc màu vì mưa bụi.
- Xem kìa, anh em đồng hương, có cái của quái quỷ gì đang
lơ lửng trên kia kìa!
- Một khúc xúc xích khổng lồ đấy.
- Cái của chết tiệt, quân đội di động như thế nào, nó ở
trên ấy nhìn thấy tất tần tật.
- Thế cậu tưởng chúng nó vô công rồi nghề đem nó thả lên
cao như thế đấy phỏng?
- Chà cao ơi là cao?
- Chẳng cao thì thấp à? Đạn pháo có
lẽ bắn cũng không tới.
Tới khu rừng thì đại đội đầu tiên
của trung đoàn Trecnoiasky đuổi kịp đại đội Cô- dắc. Cho tới hoàng hôn, mọi
người đứng sát nhau dưới gốc những cây thông sũng nước. Nước luồn vào trong cổ
áo, lạnh rùng cả lưng. Đã có lệnh cấm nhóm lửa, mà của đáng tội, mưa thế nầy
thì nhóm lửa cũng không phải chuyện dễ. Mãi khi trời sắp tối, đại đội mới được
đưa vào một cái hào ẩn nấp. Đáy hào không sâu lắm, thành hào chỉ qua đầu người
một chút, nước lõng bõng đến một phần tám xa- gien. Mùi bùn và lá thông mủn
xông lên nồng nặc, lại thêm mùi nước mưa nhạt thếch, dịu dịu. Bọn lính Cô- dắc
vén tà áo ca- pôt, ngồi xổm xuống hút thuốc và trao đổi nhau những câu chuyện
nhạt nhẽo chốc chốc lại đứt quãng. Chia xong suất thuốc lá hạng tồi phát trước
khi ra đi, trung đội hai đứng túm tụm ở một chỗ rẽ, vây quanh tên hạ sĩ của
trung đội. Tên hạ sĩ ngồi trên một cuộn dây thép bị vút bỏ, kể chuyện tướng
Kopulovsky bị chết trận hôm thứ hai trước. Ngay từ thời hoà bình, gã đã đi lính
trong lữ đoàn của viên tướng nầy. Gã chưa kể hết câu chuyện thì viên trung đội
trưởng đã hô: "Chuẩn bị tập hợp!" Bọn lính Cô- dắc đứng chổm dậy, cố
hút nốt những điếu thuốc, bỏng cả tay. Đại đội lại chui ra khỏi dãy hào, đi vào
một khoảng rừng thông mỗi lúc một tối thêm. Họ vừa đi vừa pha trò để làm cho
nhau đỡ sợ. Một anh chàng nào đó còn cất tiếng huýt sáo.
Ra tới khoảng rừng trống nhỏ, họ gặp
một dãy dài những xác chết. Những cái xác nằm song song, sát vai nhau, đủ mọi
kiểu, lắm tư thế nom rất bẩn mắt, rất khủng khiếp. Ngay chỗ có người lính bộ
binh mang súng trường đi đi lại lại, mặt nạ phòng hơi độc đeo ở dây lưng, bên
cạnh sườn. Quanh đám xác chết, mặt dất ẩm ướt bị dẫm bê bết còn hằn rõ những
vết chân người, và vết bánh xe tải ăn sâu xuống cỏ. Đại đội chỉ đi cách dãy xác
chết có vài bước. Mùi người chết nặng nề, lờm lợm xông lên nồng nặc. Viên đại
đội trưởng cho bọn Cô- dắc đứng lại rồi cùng những tên trung đội trưởng đi tới
chỗ người lính gác. Họ nói với nhau những gì không bict. Trong khi đó, bọn lính
Cô- dắc phá ròi hàng ngũ, bước tới gần những cái xác. Họ bỏ mũ, nhìn những
người bị giết với tâm trạng hồi hộp sợ hãi cố che giấu và cái tò mò của thú vật
mà con người sống đều cảm thấy khi đứng trước sự huyền bí của cái chết. Tất cả
những người bị giết đều là sĩ quan. Bọn lính Cô- dắc đếm được cả thảy bốn mươi
bảy cái xác.
Phần lớn còn trẻ, xem ra chỉ hai
mươi tới hai mươi nhăm là cùng, riêng người nằm cuối cùng bên phải, đeo lon
thượng uý, đã có tuổi. Hai hàng ria đem rậm rì chảy xuống hai bên miệng mở hoác
ra như còn muốn gào nốt tiếng kêu cuối cùng. Hai hàng lông mày rậm nhíu lại,
xếch ngược lên rất ngang tàng đã trắng bệch ra sau khi chết. Chỉ vài người bị
giết mặc những chiếc áo vét da, bùn lấm bê bết, những người khác đều mặc áo ca-
pôt. Hai ba người không có mũ cát- két.
Bọn lính Cô- dắc đặc biệt đứng nhìn
rất lâu một viên trung uý, chết rồi mà người vẫn còn rất đẹp. Anh ta nằm ngửa,
bàn tay trái đưa lên áp chặt vào ngực, tay phải duỗi sang bên nắm khư khư cán
khẩu súng ngắn. Rõ ràng đã có người định lấy khẩu súng, vì trên bàn tay to vàng
vàng còn hằn vài vết sây sứt trắng trãng, nhưng bàn tay nắm chắc như thép đã
nhất định không chịu mở ra. Cái đầu có bộ tóc xoăn màu bạch kim đã rơi mất mũ,
áp một bên má xuống đất như làm nũng. Cặp môi màu da cam hơi mang ánh xanh
xanh, méo xệch đi, nửa như đau khổ, nửa như ngạc nhiên. Người bên cạnh anh ta
lại nằm xấp mặt xuống đất, cái áo ca- pôt bị bật đai phồng lên như cái bướu
trên lưng, lật ra để lộ hai chân rất khoẻ, với những bắp thịt hằn rõ dưới quần
kaki. Đế của đôi ủng dạ bốc- can đều trẹo sang bên.
Đầu anh ta không còn mũ, cả nửa trên
sọ cũng không còn vì đã bị mảnh đạn pháo phạt ngọt đi rồi. Một chất nước hồng
hồng: nước mưa, nhấp nhoáng trong cái sọ rỗng, giữa một vành tóc đâm cứng lại
như những que băng. Sau anh ta là một người vạm vỡ, lùn lùn, một cái vét da mở
phanh và chiếc áo quân phục rách mướp. Người nầy không có mặt. Hàm dưới nằm vẹo
trên bộ ngực trần, còn dưới bộ tóc có thể thấy một dải hẹp của cái trán với đám
da cháy xém, cuộn lại thành những cái ống nhỏ. Giữa quai hàm và nửa trên trán
chỉ còn những mẩu xương vụn và một thứ cháo vữa lầy nhầy chỗ đen chỗ đỏ. Sau
nữa là một đống lẫn lộn những mẩu chân tay, những mảnh áo ca- pôt được nhặt
nhạnh vào một chỗ, một mẩu chân nát bét được đặt thay vào chỗ các đầu. Người
nằm xa chút nữa hoàn toàn còn là một thiếu niên với cặp môi mọng mọng và khuôn
mặt trái xoan. Một tràng đạn súng máy đã cắt ngang ngực nó, bốn chỗ thủng hiện
rõ trên chiếc áo ca- pôt, những túm lông cháy xém lồi ra ở các lỗ thủng.
- Cái cái thằng nhỏ nầy lúc sắp chết
đã gọi ai nhỉ? Gọi mẹ chăng? - Kotarov hỏi lắp bắp, hai hàm răng anh đập lập
cập. Anh nói xong quay phắt đi, chậm chững bước ra chỗ khác như người mù.
Bọn lính Cô- dắc làm dấu phép hấp
tấp bỏ đi, không ngoái lại nữa.
Từ lúc ấy mọi người ngậm tăm rất
lâu, cứ lầm lì len lỏi trong khoảng rừng trống hẹp, chỉ mong xua khỏi được đầu
óc mình những điều vừa trông thấy. Đại đội dừng lại gần một dãy những hầm mỏ bỏ
không, đào rất gần nhau. Các sĩ quan bước vào một cái hầm cùng với người liên
lạc vừa đi ngựa lừ trung đoàn bộ trung đoàn Trecnoiasky tới. Mãi lúc đó gã mặt
rỗ Afonka Ozerov mới nắm lấy tay Kotliarov, khẽ bảo:
- Nầy, cái thằng nhỏ… thằng cuối
cùng ấy… cậu xem đấy, có lẽ suốt đời nó chưa từng hôn con bé nào bao giờ… Giết
nó đi như thế thì còn trời đất nào nữa?
- Sao chúng nó lại bị khiêng đến đây
như thế nhỉ? - Dakha Korolev nói xen vào.
- Bọn nầy đã lên tấn công đấy.-
Thằng bộ binh đứng gác cái xác chết bảo như thế.
Bọn lính Cô- dắc đứng lại trong tư
thế "nghỉ". Bóng đêm đã trùm lên khắp cánh rừng. Gió đuổi theo những
đám mây, thổi tan ra, để lộ những ngôi sao xa lắc nom như những hòn than màu
tím nhạt.
Trong khi đó, trong căn hầm có bọn
sĩ quan của đại đội tập họp, viên đại đội trưởng cho tên lính liên lạc trở về
rồi mở phong bì, soi nến xem qua nội dung và đọc to:
"Rạng sáng ngày mồng ba tháng
mười, quân Đức đã dùng hơi ngạt làm ba tiểu đoàn của trung đoàn 256 trúng độc
rồi chiếm tuyến thứ nhất trong các chiến hào của ta. Tôi ra lệnh cho ngài tiến
tới tuyến chiến hào thứ hai, bắt liên lạc với tiểu đoàn một trung đoàn 318
Trecnoiasky, chiếm lĩnh một khu vực trên tuyến chiến hào thứ hai để ngay đêm
nay đánh bật quân địch ra khỏi tuyến chiến hào thứ nhất. Ở sườn bên phải của
các ngài sẽ có hai đại đội tiểu đoàn hai của trung đoàn Fanagorisky sư đoàn
trịch đạn binh số ba"
Sau khi nhận định tình hình và hút
xong mỗi người một điếu thuốc, các sĩ quan ra khỏi hầm. Đại đội Cô- dắc lại
tiếp tục tiến lên.
Trong khi đại đội Cô- dắc nghỉ ngơi
bên cạnh căn hầm, tiểu đoàn một của trung đoàn Trecnoiasky đã vượt lên trước
họ, tiến tới cái cầu bắc qua sông Stokhot. Một tiểu đội mạnh có trọng liên của
một trong các trung đoàn trịch đạn binh bảo vệ cầu nầy. Tên quản báo cáo tình
hình với tiểu đoàn trưởng, rồi tiểu đoàn vượt qua cầu và được phân công như
sau: hai đại đội tiến về bên phải, một đại đội tiến về bên trái, còn đại đội
cuối cùng thì đi cùng viên tiểu đoàn trưởng, làm nhiệm vụ hậu bị. Các đại đội
tản khai thành đội hình chiến đấu và tiến lên. Khu rừng thưa thớt đã bị đạn nổ
làm thủng lỗ chỗ. Bọn lính bộ binh vừa đi vừa đưa chân dò cẩn thận mặt đất.
Chốc chốc lại có một anh chàng ngã và khẽ văng tục. "Bồi" tiến trong
đại đội ở đầu sườn bên phải và là người thứ sáu tính từ đầu tuyến tản khai.
Nghe thấy lệnh "chuẩn bị chiến đấu" "Bồi" bật chốt an toàn
trên khẩu súng trường, chĩa mũi súng về phía trước, mũi lưỡi lê chạm vào các
bụi rậm, làm sướt thân những cây thông. Hai viên sĩ quan đi qua bên cạnh
"Bồi" dọc theo đội hình chiến đấu, vừa đi vừa nén giọng nói chuyện
với nhau. Viên đạị đội trưởng than vãn bằng một giọng nam trung già dặn, ngọt ngào.
- Vết thương cũ của tôi lại mở miệng
rồi. Sao ma quỷ không lôi cái gốc cây ấy đi! Ngài có biết không, ngài Ivan
Ivanovich, đêm tối như bưng thế nầy, tôi đã vấp chân vào một gốc cây. Kết quả
là vết thương lại toác miệng không thể đi được nữa đâu, phải quay trở lại đây -
Giọng nam trung của viên đại đội trưởng lắng đi một phút rồi lại vẳng tới, xa
dần, mỗi lúc một nhỏ. - Ngài sẽ nắm quyền chỉ huy nửa đại đội thứ nhất.
Bordanov sẽ chỉ huy nửa đại đội thứ hai, còn tôi tôi thú thực là không thể gắng
gượng được nữa rồi. Tôi bắt buộc phải quay trở lại.
Viên chuẩn uý Belikov trả lời bằng
giọng nam cao khàn khàn; oăng oẳng như chó sủa:
- Kỳ quặc thật! Cứ sắp chiến đấu là
những vết thương cũ của ngài lại mở miệng.
- Ngài chuẩn uý, tôi đề nghị ngài im
đi! - Viên đại đội trưởng cất cao giọng.
- Xin ngài làm ơn đừng nói như thế!
Ngài có thể quay trở lại cũng được?
"Bồi" lắng nghe những
tiếng bước chân của mình và của người khác thấy sau lưng có những tiếng dẫm
loạt soạt, vội vã, biết rằng viên đại đội trưởng đã chuồn. Một phút sau,
Belikov cùng tên quản chuyển sang cánh bên trái của đại đội, hắn vừa đi vừa lẩm
bẩm:
- Quân đê tiện, chúng nó đánh hơi
biết trước rồi mà! Hễ tình hình sắp gay go là lăn ra ốm, là các vết thương cũ
mở miệng. Còn những thằng lớ ngớ chưa biết gì lại phải dẫn nửa đại đội tiến
lên… Quân đểu cáng! Tao thì đem bọn lính nầy…
Tiếng nói bỗng lặng đi,
"Bồi" chỉ còn nghe thấy tiếng chân mình dẫm lõm bõm và tiếng ù ù
trong tai.
- Nầy, người anh em đồng hương? -
Chợt bên trái có người thì thầm giọng khàn khàn:
- Gì thế?
- Cậu vẫn tiến đấy à?
- Vẫn tiến. - "Bồi" vừa
trả lời vừa ngã phệt xuống một hố đạn đầy nước.
- Trời tối quá… - Lại có tiếng người
bên trái.
Hai người cứ đi như thế chừng một
phút: chẳng ai trông thấy ai, nhưng bất thình lình cái giọng khàn khàn lúc nầy
lại vang lên ngay bên tai "Bồi":
- Chúng mình cùng đi với nhau nhá!
Như thế sẽ đỡ sợ…
Cả hai lại lặng thinh dẫm đôi ủng
sũng nước trên mặt đất ẩm ướt. Vành trăng lưỡi liềm vẩn đục bỗng ló ra từ sau
mép một đám mây, lấp loáng vài giây như một cái vẩy cá vàng vàng, rồi lại ngẩn
như con cá giếc vàơ những đám mây trôi cuồn cuộn như những đợt sóng, cuối cùng
ngoi ra được một khoảng trời quang và dội xuống dưới một thứ ánh sáng ảm đạm.
Lá thông ướt lấp lánh như lân tinh. Có cảm tưởng như dưới ánh trăng, mùi lá
thông xông ra mạnh hơn, hơi đất ẩm bốc lên lạnh hơn. "Bồi" đưa mắt
nhìn người đi bên cạnh.
Bỗng nhiên anh ta đứng sững lại,
miệng há hốc, đầu lảo đảo như vừa bị ăn một đòn.
- Cậu xem kìa! - Anh ta thều thào.
Cách hai người chừng ba bước, có một
anh chàng dạng rộng hai chân, đứng dựa lưng vào một cây thông.
- Có một người, - "Bồi"
không biết rằng mình đã nói hay mới định nói.
- Ai? - Người lính đi bên cạnh
"Bồi" bỗng giương súng lên vai quát lên - Anh là ai hử? Nó không tôi
bắn!
Anh chàng đứng dưới gốc thông vẫn
ngậm tăm. Đầu hắn gục xuống, vẹo sang bên, như một bông hướng dương.
- Nó đang ngủ! - "Bồi"
cười khàn khàn. Anh chàng cười gượng gạo để lấy can đảm và run run bước tới.
Hai người đi tới mặt kẻ đứng ở gốc
cây. "Bồi" vươn cổ ra nhìn.
Người bạn mới của "Bồi"
lấy báng súng khẽ đụng vào cái hình người xam xám đứng không động đậy.
- Nầy, cái cậu dân Penza 1 nầy! Ngủ
đấy à? Người anh em đồng hương! - Anh ta nói giọng giễu cợt.
- Kỳ quặc thật: làm sao thế nầy hử?
Rồi anh ta bỗng tắc họng, - Một xác chết! - Anh ta kêu lên, nhảy lùi lại.
"Bồi" cũng nhảy vọt về
phía sau, hai hàm răng thi nhau tranh trưởng. Ở ngay chỗ trước đây một giây hai
người còn đặt chân, anh chàng đứng dưới gốc thông đã lăn đùng ra như cái cây bị
cưa ngang.
Hai người lật ngửa cái xác lên xem
và lúc nầy mới đoán được rằng đây là một người lính bộ binh thuộc một trong ba
tiểu đoàn của trung đoàn bộ binh 256. Anh ta bị trúng độc, cố chạy trốn thần
chết, nhưng hơi độc đã ngấm vào tới phổi nên đã tìm thấy chỗ nghỉ chân cuối
cùng ở gốc thông nầy. Còn trẻ, cao lớn, vai rất rộng, anh ta nằm ngật hẳn đầu
ra sau, bún dính nhớp bám bê bết vào mặt trong lúc anh ta ngã xuống, hai con
mắt bị hơi độc ăn mọng lên, cái lưỡi to đần đẫn, những thịt là thịt, thòi ra
qua hai hàm răng nghiến chặt, thoạt nhìn không biết là một cục gì vừa đen vừa
bóng.
- Thôi đi đi! Đi đi thôi, lạy Chúa
tôi! Cứ mặc hắn nằm lại đây, - Người cùng đi kéo tay "Bồi", khẽ nói.
Hai người vừa bỏ đi thì vấp ngay
phải cái xác thứ hai. Các xác chết gặp thấy mỗi lúc một nhiều. Ở vài chỗ, những
người bị trúng hơi độc nằm chống chất thành đống, có người đang ngồi xổm thì
chết cứng, có người nom như đang bò lổm ngổm ăn cỏ. Ở ngay cửa cái hào giao
thông dẫn tởi tuyến chiến hào thứ hai, có một người nằm co quắp, nắm tay bị cắn
nát trong khi quằn quại vẫn còn đút trong miệng.
"Bồi" và anh lính cùng đi
chạy đuổi theo đội hình chiến đấu, rồi vượt lên trước, và vẫn đi bên cạnh nhau.
Hai người cùng nhảy vào một đường chiến hào đen ngòm chạy chữ chi vào sân trong
bóng tối.
Cuối cùng hai người đi theo hai ngả
khác nhau.
- Phải sục các hầm mới được. May ra
còn có gì mà nhai. Anh lính kia ngập ngừng một lát rồi bàn với "Bồi".
- Ừ, thì sục.
- Cậu rẽ sang phải, mình rẽ sang
trái. Chúng mình thử lục soát cho đến lúc chúng nó lên tới đây.
"Bồi" đánh que diêm, thấy
cửa căn hầm thứ nhất mở toang bèn bước vào, nhưng lại nhảy phắt ra ngay như bị
một chiếc lò xo hất bật ra: trong đó có hai cái xác nằm chồng lên nhau, chéo
chữ thập.
"Bồi" sục liền trong ba
căn hầm, nhưng lần nào cũng ra tay không. Anh chàng vừa đưa chân đạp cửa cãn
hầm thứ tư thì thiếu chút nữa ngã ngừa vì từ bên trong vang ra một giọng choang
choang như tiếng kim khí:
- Wer ist das?(Ai đấy? - tiếng Đức
trong nguyên văn).
Như phải bỏng, "Bồi" chẳng
nói chẳng rằng, nhảy lùi lại.
- Cậu đấy à, Otô? Sao cậu tới muộn
thế? (Tiếng Đức trong nguyên văn. - Một tên Đức hỏi. Hắn bước trong căn hầm ra
vừa lười nhác hất vai xốc lại chiếc áo ca- pôt khoác trên lưng.
- Giơ tay lên! Giơ tay lên! Đầu hàng
đi? - "Bồi" quát lên, giọng khàn khàn, rồi ngồi thụp xuống như khi có
lệnh "Chuẩn bị bắn".
Kinh ngạc đến cứng cả lưỡi: tên Đức
từ từ vươn hai tay, rồi xoay người sang bên. hai con mắt ngây dại dán vào mũi
lưỡi lê nhọn hoắt lấp loáng chĩa vào mình. Cái áo ca- pôt tụt khỏi vai để lộ chiếc
áo quân phục xanh xám chỉ có một hàng cúc giữa, nách áo nhăn nhúm: hai bàn tay
thợ to bè giơ lên run lẩy bẩy, những ngón tay nẩy bần bật như đang bấm những
phím đàn vô hình. "Bồi" vẫn ngồi không động đậy, anh chàng đưa mắt
nhìn khắp cái thân hình cao lớn, vạm vỡ của tên Đức: hàng khuy bằng kim khí
trên áo quân phục, đôi ủng thấp có đường khâu bên cạnh, cái mũi không có lưỡi
trai đội hơi lệch. Rồi bóng nhiên "Bồi" chuyển sang thế ngồi khác,
người lảo đảo ngọ nguậy như muốn giũ bỏ cái áo ca- pôt xấu xí vướng víu. Từ
trong họng "Bồi" phát ra một thứ tiếng lạ lùng, không ra ho, cũng
không ra nấc. "Bồi" bước tới gần tên Đức:
- Chạy đi! - "Bồi" nói
thều thào, giọng vỡ ra. - Chạy đi, anh người Đức? Tôi không có thù oán gì với
anh. Tôi sẽ không bắn anh đâu.
"Bồi" dựa cây súng vào
vách chiến hào, kiễng chân dướn người, nắm lấy bàn tay phải của người Đức.
Những cử chỉ không có gì đáng lo ngại của "Bồi" đã chinh phục được
người tù binh. Anh ta buông tay, lắng nghe những âm thanh kỳ dị của thứ tiếng
nước ngoài.
"Bồi" không do dự gì cả,
đưa luôn bàn tay rán chai, đầy những vết sẹo ngang dọc vì hai mươi năm lao
động, nắm lấy những ngón tay lạnh buốt, mất hết khí lực của anh chàng người Đức
và kéo bàn tay anh ta lên. Ánh trăng lưỡi liềm như những cánh hoa tử đinh hương
toả xuống bàn tay nhỏ, vàng vàng, trên đó những chỗ thành chai không biết từ
bao giờ nổi lên thành những núm nâu nâu.
- Tôi là một người thợ, -
"Bồi" nói, người run run như lên cơn sốt. Tôi giết anh làm gì? Thôi
chạy đi? - Nói xong "Bồi" khẽ đưa tay phải đẩy vai người lính Đức và
chỉ về phía dải rừng đen ngòm. - Chạy đi, đồ ngớ ngẩn nếu không chẳng mấy chốc
quân bên tôi…
Người lính Đức vẫn nhìn chằm chằm
bàn tay lật ngửa của "Bồi" người hơi ngả về phía trước. Anh ta vừa
nhìn vừa căng óc cố hiểu ý nghĩa thầm kín của những lời mà anh ta không hiểu.
Cứ như thế chừng một hai giây rồi khi mắt anh ta bắt gặp hai con mắt của
"Bồi" thì trong đó bỗng nhiên thấy rung rung một nét cười sung sướng.
Anh ta lùi một bước. mở rộng hai bàn
tay nắm chặt lấy tay "Bồi" mà lắc, hai hàm răng trắng loá trong một
nụ cười cảm động. Anh ta cúi xuống nhìn vào mắt "Bồi".
- Anh thả cho tôi đi à? Ồ, bây giờ
thì tôi hiểu rồi. Anh là một công nhân Nga à? Đảng viên Đảng xã hội dân chủ như tôi à? Đúng
thế à? Ồ! ồ! Thật cứ như trong mộng… Người anh em của tôi, tôi quên làm sao
được? Tôi không tìm ra lời mà nói được nữa. Anh thật là một thanh niên hiếm có,
một thanh niên dũng cảm… Tôi… (nguyên văn bằng tiếng Đức)
Trong tất cả cái dòng cuồn cuộn những lời nói bằng tiếng
nước ngoài đó. "Bồi" chỉ nghe được mấy tiếng quen thuộc, nói với
giọng có ý hỏi "Soizial Demokrat" 2
- Ừ phải, tôi là đảng viên Đảng xã hội dân chủ. Còn anh
thì chạy ngay đi… Tạm biệt người anh em. Đưa tay tôi bắt cái nào! Hiểu nhau nhờ
linh cảm, hai người nhìn vào mắt nhau, một bên là anh chàng người Bavaria cao
lớn, cân đối, và một bên là anh lính bộ binh Nga bé loắt choắt. Anh chàng người
Bavaria khẽ nói:
- Trong cuộc đấu tranh giai cấp sau nầy chúng ta sẽ cùng
đứng trong một chiến hào, có phải không, đồng chí? (Tiếng Đức trong nguyên văn)
Nói xong anh ta nhảy lên ụ chiến hào như một con thú lông
xám không lồ.
Trong rừng đã vang lên tiếng những bước chân dẫm lõm trên
bùn của đội hình chiến đấu tiến tới gần. Đi đầu là đội trinh sát Tiệp Khắc do
một viên sĩ quan chỉ huy. Thiếu chút nữa thì họ nổi súng vào người lính mò cái
ăn vừa chui ra khỏi một căn hầm.
- Người mình đây mà! Không trông thấy sao… đang đi kiếm
cái bỏ miệng đây! - "Bồi" trông thấy con mắt đen ngòm của cái miệng
súng trường chĩa vào mình sợ cuống cuồng kêu lên.
- Người mình đây mà - Anh ta vừa nhắc lại vừa ghì một ổ
bánh mì đen vào ngực nom cứ như người bế con.
Tên hạ sĩ nhận ra "Bồi", bèn nhảy qua chiến
hào, ra sức nện cho "Bồi" một báng súng vào lưng.
- Ông thì đánh cho què lê què liệt? Ông thì đánh cho mày
bật máu mũi! Mày đi đâu từ nãy đến giờ hử?
"Bồi" cảm thấy mình bủn rủn cả người, không còn
chút sức lực gì nữa, ngay cái báng súng nện vào lưng cũng không có được tác
động cần thiết. Anh chàng lảo đảo, làm cho tên hạ sĩ hết sức ngạc nhiên bằng
một câu trả lời hiền lành ngoan ngoãn chưa từng nghe thấy ở "Bồi" bao
giờ.
- Tiến lên phía trước chứ còn gì? Còn anh thì chớ đánh
người ta như thế.
- Còn mày thì vẫy cái đuôi chó vừa chứ! Lúc thì tụt lại
đằng sau, lúc lại vượt lên trước. Mày không thuộc điều lệnh quân đội à? Mới vào
lính năm đầu hay sao? - Hắn nín lặng một lát rồi hỏi - Có thuốc lá không?
- Phải cái vụn quá.
- Dốc cho mình một ít.
Tên hạ sĩ cuốn thuốc hút rồi bỏ đi về phía cuối trung
đội.
Mãi lúc trời sắp hửng bọn trinh sát Tiệp Khắc mới chạm
trán với một bốt quan sát Đức. Quân Đức phá tan bầu không khí yên lặng bằng một
loạt súng. Rồi chúng nã thêm hai loạt nữa với khoảng cách bằng nhau. Một quả
đạn líu chíu đỏ bay vọt lên trên những dãy chiến hào. Vẳng ra tiếng người nhốn
nháo. Những tia đỏ tía của quả đạn tín hiệu còn chưa kịp tắt trên không thì
pháo binh địch bắt đầu nhả đạn.
- Đoàng Đoàng? - Rồi tiếp theo hai tiếng nổ đầu tiên rất
vang, lại có hai tiếng nữa: Đoàng! Đoàng!
Các- các- các các vi- i- iu. Các quả đạn pháo bay vùn vụt
qua đầu bọn lính nửa đại đội thứ nhất với những tiếng rú mỗi lúc một mạnh,
không khí như bị những lưỡi khoan xuyên quan. Lặng đi một khoảnh khắc, rồi đằng
xa địa điểm vượt sông Stokhot, vẳng tới những tiếng nổ nghe yếu đi: Bụp! Bụp!
Đội hình chiến đấu tiến sau bọn trinh sát Tiệp Khắc chừng
bốn mươi xa- gien. Ngay sau loạt đạn thứ nhất, họ đã nằm rạp xuống.
Quả đạn tín hiệu làm bừng lên một vùng đỏ loé. Dưới làn
ánh sáng, "Bồi" nhìn thấy bọn lính bò như những con kiến giữa những
bụi rậm và những gốc cây, bùn bẩn cũng chẳng sợ, chỉ cốt sao áp thật sát người
xuống đất, kiếm được một vật che thân. Cái rãnh nào cũng lúc nhúc những người,
mặt đất hơi nhô lên một chút là có anh chàng phủ phục bên cạnh, mỗi cái hố đều
có người rúc đầu vào. Nhưng đến khi hoả lực súng máy bắn quét vù vù, đạn nảy
tung toé, làm nát cả cánh rừng như trận mưa rào tháng năm thì quân Nga không
còn chịu đựng được nữa. Họ bò lộn trở lại, đầu hết sức rụt vào vai, người áp
xuống đất như những con sâu, tay không dám co, chân không dám nhổm lên cứ trườn
như những con rắn, kéo lê phía sau những vệt dài trên bùn… Một số người nhảy
chồm lên chạy bán sống bán chết. Những phát đạn nô trong rừng, làm rụng hết lá,
xé loạc thán những cây thông, cắm xuyên xuống đất với những tiếng rít như những
con rắn, bật lên và nổ như những tiếng chép môi.
Nửa đại đội thứ nhất quay về với tuyến chiến hào thứ hai
thì đếm thiếu mười bảy người. Ở một chỗ gẩn đó, bọn Cô- dắc thuộc đại đội đặc
biệt chỉnh đốn đội hình. Vừa rồi họ đã tiến bên phải nửa đại đội thứ nhất, tiến
rất thận trọng và chưa biết chừng họ đã bất ngờ đánh úp được quân Đức sau khi
tiéu diệt trước những tên lính gác, nhưng đến khi địch nã một loạt đạn vào bọn
trinh sát Tiệp Khắc thì quân Đức náo động trên toàn khu vực. Chúng bắn vu vơ
giết hai tên lính Cô- dắc và làm bị thương một. Bọn Cô- dắc mang về được cả tên
bị thương lẫn hai xác chết. Chúng vừa chỉnh đốn hàng ngũ vừa bàn nhau:
- Phải tự tay chôn lẩy anh em mình mới được.
- Mình chẳng chôn nó cũng chôn.
- Ở đây thì cần phải nghĩ tới người sống, chứ người chết
thì cần gì mấy.
Nửa giờ sau thì nhận được lệnh từ trên trung đoàn bộ:
"Tôi ra lệnh sau khi pháo binh bắn chuẩn bị xong, tiểu đoàn phải phối hợp
với đại đội Cô- dắc đặc biệt, tấn công địch và đánh bật chúng ra khỏi tuyến
chiến hào thứ nhất".
Pháo binh bắn chuẩn bị thưa thớt kéo dài tới mười hai giờ
trưa. Cô- dắc cũng như lính bộ binh đều đặt vọng tiêu canh gác rồi vào nghỉ
trong những căn hầm. Đến giữa trưa họ lên tấn công. Đạn pháo nổ ầm ầm bên trái,
trên khu chủ công. Phía ấy đã lại xuất kích.
Ở cuối cánh bên phải là những người Cô- dắc vùng
Zabaikan, bên trái là trung đoàn Trecnoiasky và đại đội Cô- dắc đặc biệt, sau
đó là trung đoàn trịch đạn binh Fanagorinsky, trung đoàn bộ binh 208, trung
đoàn bộ binh 211, trung đoàn Pavlogradsky trung đoàn Vengrovsky; các trung đoàn
thuộc sư đoàn 53 triển khai tấn công ở khu giữa; sư đoàn khinh binh Turkestan
số 2 phụ trách tất cả cánh bên trái. Súng nổ ầm ầm trên khắp khu vực: quân Nga
tấn công ở khãp các nơi Đại đội Cô- dắc đặc biệt tiến trong một đội hình tấn
công thưa thớt. Sườn bên trái của họ sát với sườn bên phải của trung đoàn
Trecnoiasky. Họ vừa nhìn thấy đỉnh các ụ đất trên chiến hào của địch thì quân
Đức đã nhả đạn như giông bão. Đại đội tiến một đoạn, không một tiếng kêu, rồi
nắm xuống, bắn kỳ hết các hộp đạn súng trường, rồi lại xông lên. Cuối cùng họ
nằm xuống cách các chiến hào chừng năm mươi bước: tay bắn mà đầu không ngẩng
lên. Suốt dọc tuyến chiến hào, quân Đức đã đặt những vật cản kiểu sừng hươu và
hàng rào dây thép gai, Afonka Ozerov ném hai trái lựu đạn, cả hai đều trúng dây
thép, bật trở lại rồi mới nổ. Hắn vừa nhổm dậy một chút, định ném trái thứ ba
thì trúng ngay một viên đạn dưới vai trái.
Viên đạn ra khỏi người hắn ở chỗ xương cùng. Kotliarov
nằm ngay gần đây chỉ thấy Afonka hơi co hai chân lại rồi không động cựa gì nữa.
Prokho
Samin, em gã cụt tay Aliuska, cũng bị giết. Người thứ ba nằm lại trên chiến
trường là Manytkov, trước là ataman thôn.
Rồi ngay sau đó gã Evlanchi Kalinin
chân vòng kiềng, có cái bờm tóc dài trước trán, láng giềng của anh em nhà
Samin, cũng trúng đạn.
Chỉ nửa tiếng đồng hồ, riêng trung
đội hai đã toi mất tám mạng. Viên đại uý đại đội trưởng và hai viên sĩ quan chỉ
huy trung đội cũng chết trận. Thế là đại đội Cô- dắc như rắn không đầu, phải bò
trở lại.
Sau khi ra khỏi phạm vi hoả lực địch
hoành hành, bọn lính Cô- dắc dần dần tập trung vào một chỗ, quân số vợi hẳn một
nửa. Những tên trong trung đoàn Trecnoiasky cũng chạy lui. Tiều đoàn một thương
vong còn nhiều hơn, tuy vậy trung đoàn bộ vẫn ra lệnh: "Lập tức tấn công
lại, đánh bật quân địch ra khỏi tuyến chiến hào thứ nhất bằng bất cứ giá nào.
Kết quả chỉ việc khôi phục tình thế đầu tiên sẽ quyết định thắng lợi cuối cùng
của cuộc chiến tranh trên toàn trận tuyến".
Đại đội Cô- dắc tản ra thành đội
hình chiến đấu loãng như mắt ma. Họ lại tiến lên. Hoả lực quân Đức bắn tiêu
điệt quá dữ, vì thế họ phải nắm xuống cách các chiến hào chưng trăm bước. Quân
số của các đơn vị lại bắt đầu giảm thêm. Những con người trở nên điên dại nằm
áp má xuống đất như mọc rễ, họ nằm lì ra, đầu khòng ngóc lên, tay chân không
động đậy, chìm trong nỗi kinh hoàng trước thảm cảnh chết chóc.
Lúc sắp hoàng hôn nửa thứ hai của
đại đội lính trung đoàn Trecnoiasky dao động bỏ chạy. Tiếng kêu "bị vu hồi
rồi" vang đến tai bọn lính Cô- dắc. Đại đội Cô- dắc cũng nhổm lên, chuồn
về phía sau, họ vừa chạy vừa ngã làm nát cả những bụi cây mất cả súng.
Vừa chạy tới một nơi an toàn,
Kotliarov ngã ngay xuống gốc một cây thông đã bị đạn pháo bắn gẫy, lấy lại hơi
giữa lúc ấy anh thấy Gavrila Likhovidov ngất ngưởng bước tới. Hắn lăn hai chân
như thằng say rượu, mắt dán xuống đất, một tay bắt chuồn chuồn trong không khí,
còn tay kia cứ như đang gỡ một mạng nhện vô hình trên mặt, súng chẳng có, gươm
thì không, những món tóc mướt đẫm mồ hôi mầu nâu xẫm lủng lẳng trước mặt. Sau
khi lang thang trên khoảng rừng trống Likhovidov bước tới trước mặt Kotliarov.
Hắn đứng lại, hai mắt luôn luôn đưa đi đưa lại, nhìn hiêng hiếng, vẫn không rời
mặt đất. Đầu gối hắn run run, hai chân khuỵu dần, Kotliarov có cảm tưởng như
Likhovidov nhún người để sắp sửa bay vụt lên:
- Kìa… sao cậu lại thế nầy… -
Kotliarov vừa bắt đầu nói thì mặt Likhovidov giật giật.
- Đứng lại! - Likhovidov quát to rồi
thụp xuống, mười ngón tay xoè ra, hai mắt lơ láo nhìn quanh, đầy kinh hoàng -
Vểnh tai mà nghe nhé? Mình sắp hát một bài đây. Chàng phượng hoàng bay đến nhà
chị cú hát rằng:
Nầy nầy chị cú
Kupreanovka
Chức trọng quyền cao
Ai oai hơn cú.
Đại bàng làm chúa,
Thiếu tá diều hâu
Cô- dắc bồ cu
Đại uý chim ó
Ngự lâm đã có
Gấu nhà đảm đang
Thường bị quạ khoang,
Kalmys sáo đá,
Ác là trí trá
Là gái Di- gan.
Quý tộc phu nhân,
Là chị sáo sậu,
Vịt xám lùn xấu
Đăng vào bộ binh,
Vịt trời linh tinh
Đàn bà Moldav,
- Hượm cái đã! - Kotliarov nói, mặt lái đi, - Likhovidov,
cậu làm sao thế? Cậu ốm à? Hả?
- Đừng quấy rầy! - Likhovidov đỏ mặt tía tai trả lời và
lại dành cặp môi ra cười, một nụ cười hết sức ngớ ngẩn. Cái giọng kể lể nghe
rợn cả người lại vang lên:
Vịt trời linh tinh
Đàn bà Moldav,
Le nước ba láp
Ngỗng thích cãi nhau.
Quạ trắng pháo thao,
Quạ đen cố đạo,
Rái cá kéo nhị…
Kotliarov đứng chồm dậy:
- Thôi ta cùng đi đi, về với anh em đi, kẻo lại bị bọn
Đức tóm cổ bây giờ! Cậu nghe thấy mình nói gì không?
Likhovidov giằng tay ra nước rớt nước rãi chảy ròng ròng
bên mép và vẫn liến thoắng gào lên:
Hoàng anh nhạc binh
Nhạn "khổng lồ binh"
Bạc má thu thuế.
Sẻ sẻ hạ sĩ…
Nhưng bất thình lình cái giọng kể lể ấy bắt đi nhường chỗ
cho những tiếng hát ê a, khàn khàn. Rồi không phải là tiếng hát nữa, mà là
tiếng chó sói hú mỗi lúc một to bật ra từ cái miệng nhe hết răng lợi. Những
giọt nước rãi long lanh chảy ròng ròng dưới hàm răng nanh nhọt hoắt. Kotliarov
kinh hoàng nhìn cặp mắt lác xệch điên dại, những món tóc dính bết trên đầu và
hai cái tai như nặn bằng sáp ong của người bạn mà anh mới quen không bao lâu.
Likhovidov gầm lên, giọng tức giận:
Vinh quang lang rền, kèn trận thổi.
Ta vượt sông Đanúp.
Chiến thắng Subtan 3 Thổ Nhĩ Kỳ
Giải phóng con chiên cho Chúa
Như hoàng trùng, ta sà xuống núi
đôi.
Súng béc- đan- ca 4 nào ta bắn,
Toàn thể anh em Cô- dắc sông Đông.
Bọn Thổ chúng lui, như đàn gà,
Có bao lông ta vặt trụi.
Vợ con chúng mi!
Lốc nhốc trở thành tôi mọi!
- Marchin? Marchin! Lại đây với mình
đã! - Kotliarov chợt trông thấy Marchin Samin khập khiễng đi qua khoảng rừng
trống, vội kêu lên.
Marchin chống khẩu súng trường thay
gậy bước tới.
- Cậu thấy chưa? Giúp mình xốc nó về
nhé. - Kotliarov đưa mắt nhìn về phía người lính hoá dại. - Nó chịu đựng quá
mức rồi. máu xông cả lên óc.
Marchin xé tay áo sơ mi lót băng lại
chân bị thương, rồi cnẳng buồn đưa mắt nhìn Likhovidov tới xốc một bên nách hẳn
bên kia là Kotliarov lôi hắn đi.
Như hoàng trùng, ta sà xuống núi
đôi.
Giọng Likhovidov đã nhỏ hơn. Marchin
đau đớn nhăn mặt, cố van hắn:
- Thôi cậu đừng làm ầm lên như thế
nữa? Cậu hãy vì Chúa mà im đi. Bây giờ cậu đã được bay bổng đủ rồi đấy. Thôi im
đi!
Bọn Thổ chúng lui, như đàn gà,
Có bao lông ta vặt trụi.
Người lính điên vùng chạy khỏi tay
hai anh chàng Cô- dắc và vẫn hát không ngơi miệng. Thỉnh thoảng hắn đứng lại,
đưa hai tay lên ấn mạnh vào thái dương, răng nghiến ken két, gò má trễ xuống
rung rung. Cơn điên làm máu xông lên đầu hắn, nóng như lửa đốt.
--- ------ ------ ------ -------
1 Một thành
phố công nghiệp ở Nga (ND).
2 Đảng viên
Đảng xã hội dân chủ. (Tiếng Đức trong nguyên văn).
3 Quốc
vương Thổ Nhĩ Kỳ (ND).
4 Một thứ súng
trường bắn phát một, nạp đạn từ phía sau lấy tên người chế tạo (Mỹ) (ND)
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 82
Trận chiến đấu diễn ra bên dưới sông Stokhot chừng bốn
mươi véc- xta. Hoả lực bắn tập trung của pháo binh nổ rền không lúc nào ngớt
trong hai tuần liền. Đêm đêm bầu trời tim tím, xa thẳm lại bị cắt ngang cắt dọc
bởi những chùm sáng của đèn chiều. Các luồng sáng nhâp nhánh ũùng đục với những
sắc cầu vồng truyền một cảm giác kinh hoàng không bút nào tả xiết cho những
người theo dõi từ đây những ánh lửa chiến tranh đang bùng lên và lan rộng.
Trung đoàn Cô- dắc số 12 đóng trên một khu vực hoang vu
nhiều đồng lầy. Ban ngày, năm thì mười hoạ họ mới phải nổ súng vào một vài tên
lính Áo chạy từ chỗ nầy sang chỗ khác trong những đường chiến hào nông choèn
choẹt. Đêm đến được bãi lầy che chờ, họ lăn ra ngủ hoặc chúi đầu vào đánh bài,
chỉ mấy anh chàng lính gác phải theo dõi những làn ánh sáng màu da cam rùng rợn
loé lên ở những nơi đang có chiến đấu.
Một đêm băng giá, giữa lúc những ánh đèn xa đan nhau trên
nền sáng khác thường. Grigori Melekhov bước trong hầm ra, len lỏi theo hào giao
thông, lần vào cánh rừng mọc sau các đường chiến hào, như những đám tóc bạc
trên mái cỏ đen xì của một ngọn đồi không cao lắm. Chàng nằm xuống một khoảng
đất rộng toả ra những mùi rất dễ chịu. Trong căn hầm tối tăm, khói um, lớp khói
thuốc nâu nâu trải ra như tấm khăn bàn có tua trên một cái bàn nhỏ quanh đó
chừng tám gã Cô- dắc vẫn còn vùi đầu vào quân bài. Nhưng trong rừng, trên đỉnh
đồi, gió hiu hiu, rất khẽ, cứ như từ hai cái cánh của một con chim vô hình bay
qua. Lớp cỏ chết úa vì sương giá toả ra một mùi hương u uất khó tả. Bóng đêm
trùm dày đặt khu rừng bị đạn pháo làm gãy nát nham nhở. Trên trời, đống lửa bốc
khói mù mịt của các chòm sao chung quanh Đại, Tiểu hùng tinh đã gần tàn lụi.
Đại hùng tinh nằm xoay lưng về sông Ngân hà như chiếc xe bị lật với cái gọng xe
chổng lên nghiêng nghiêng. Chỉ về phía Bắc còn thấy ngôi Bắc đầu vừa thỉu dần
đi vừa toả ra một ánh sáng lấp lánh đều đặn.
Grigori nheo mắt nhìn sao Bắc đẩu. Như một con mắt lờ mờ
nhưng nhìn rất sắc, ánh sáng giá băng của ngôi sao làm rỉ ra dưới hàng mi của
chàng vài giọt nước mắt cũng lạnh buốt như thế.
Trong khi nằm ở đây trên gò, không hiểu sao chàng bỗng nhớ
lại cái đêm mình đi từ thôn Hạ Yablonovsky về Yagonoie với Acxinhia.
Nghĩ tới nàng, lòng Grigori lại đau như cắt, trí nhớ tạo
lại những đường nét mông lung đã bị thời gian xoá nhoà phần nào những đường nét
vô vàn thân thương nhưng vẫn xa lạ của khuôn mặt Acxinhia. Tim Grigori bỗng
nhiên đập thình thịch. chàng cố hồi tưởng khuôn mặt ấy như trong lần gặp gỡ
cuối cùng với vết roi đỏ tía hằn ngang má, khuôn mặt hoàn toàn đổi sắc vì đau
đớn. Nhưng trí nhớ cứ gan bướng làm hiện lên khuôn mặt khác, một khuôn mặt hơi
cúi cúi với nụ cười chiến thắng trên môi. Kìa nàng đã quay đầu lại nghịch ngợm
âu yếm, hai con mắt đen láy cháy bừng bừng như hai hòn than nhìn từ dưới lên,
cặp môi đỏ mọng, đa tình và thèm khát đang thầm thì một lời gì sôi nổi và vô
cùng trìu mến. Rồi Acxinhia từ từ đưa mắt ra chỗ khác, quay đầu, cho thấy hai
món tóc xoăn rất dầy, bông bông trên cái gáy rám nắng… hai món tóc đúng như xưa
kia Grigori rất thích hôn…
Grigori rùng mình. Chàng có cảm tưởng như thoáng ngửi
thấy trong giây phút mùi hương hết sức kín đáo, nhưng rất ngây ngất của làn tóc
Acxinhia. Chàng co hẳn người, cánh mũi phập phồng, nhưng… chẳng còn gì nữa! Chỉ
thấy có mùi lá bị nén lâu nó dễ làm người ta xao xuyến. Hình bầu dục của khuôn
mặt Acxinhia mờ đi, tan dần. Grigori nhắm mắt, đặt hai bàn tay lên mặt đất sần
sùi, rồi lại mở bừng mắt, nhìn không chớp rất lâu ngôi sao Bắc đẩu lấp lánh như
con bướm xanh rất đẹp vỗ cánh đứng yên một chỗ sau cây thông gãy ở đường chân
trời.
Những mẩu hồi ức không đầu không đũa khác đã hiện ra, làm
mờ hình ảnh của Acxinhia. Grigori nhớ lại tuần lễ chàng về thôn Tatarsky ở với
gia đình, sau khi cắt đứt với Acxinhia. Đêm nào Natalia cũng âu yếm vuốt ve
chàng một cách đắm đuối, điên cuồng, tựa như cố bù lại những ngày nàng còn giữ
cái lạnh lùng của người con gái đồng trinh. Ban ngày, lúc nào chàng cũng thấy
có sự chăm nom gần như lấy lòng của gia đình cùng với sự trọng vọng của bà con
trong thôn đối với người lính đầu tiên được thưởng huân chương thánh Gioóc. Bất
cứ chỗ nào ngay trong gia đình, Grigori cũng bắt gặp những cặp măt liếc nhìn
mình đầy ngạc nhiên và kính trọng tựa như người ta chưa tin rằng đây chính là
cáỉ thằng Grigori phóng đãng và hay đàn đúm chơi bời trước kia. Ngay các cụ già
cũng chuyện trò với chàng bên bãi họp việc làng như với một người ngang hàng:
và gặp chàng ở đâu các cụ cũng ngả mũ chào. Bọn đàn bà con gái thì công nhiên
trầm trồ ngắm cái thân hình hùng dũng, hơi gù gù của chàng trong tiếng áo ca-
pốt với tấm huân chương đính trên một mảnh băng có gạch. Chàng thấy ông
Panteley Prokofievich lộ rõ vẻ kiêu hãnh khi ông đi cùng con trai tới nhà thờ
hay ra thao trường. Như một chất thuốc độc phức tạp, tinh vi, tất cả các thái
độ tâng bốc, trọng vọng, thán phục đó dần dần giết mất, làm tan mất trong ý
thức của Grigori cái hạt giống chân lý mà Garangia đã gieo vào đó Grigori ở mặt
trận về là một người khác nhưng trở ra mặt trận lại là một người khác. Cái vốn
dĩ của chàng cái bản chất Cô- dắc đưa vào người Grigori bằng sữa mẹ, được nuôi
dưỡng suốt một đời đã thắng chân lý vĩ đại của loài người.
Hôm chia tay, sau khi uống vài chén đã ngà ngà, ông
Panteley Prokofievich xúc động vuốt vuốt bộ tóc hoa râm nói:
- Griska ạ, cha đã biết, từ lâu cha đã biết thể nào mày
lớn lên cũng trở thành một thằng Cô- dắc tốt. Năm mày vừa đầy tuổi tôi, theo
phong tục Cô- dắc các cụ truyền lại từ đời xưa, cha đem mày ra sân gia súc, bà
còn nhớ không, bà lão? Và đặt mày lên lưng một con ngựa. Chà, cái thằng chó đẻ
nầy, hai bàn tay còn nhỏ xíu như thế mà đã chộp lấy bờm ngựa rồi? Ngay hôm ấy,
cha đã đoán biết rằng nuôi mày khôn lớn sẽ không mất công toi. Mà quả đã thế
thật.
Grigori đã trở lại mặt trận như một tay Cô- dắc chính
cống. Cuộc chiến tranh nầy vô nghĩa lý, trong lòng chàng không có chút nào thoả
hiệp về điểm nầy, nhưng chàng thẳng thắn hết lòng gìn giữ cái vinh quang của
mình là một thằng Cô- dắc.
° ° °
Năm một nghìn chín trăm mười lăm. Tháng năm. Trung đoàn
thép số 13 của quàn Đức tấn công trong đội hình bộ binh qua cánh đồng cỏ màu
xanh nhạt ờ gần làng Olkhovtrik. Những khấu súng máy hạng nặng nổ rền như tiếng
ve sầu. Khẩu trọng liên của đại đội quân Nga bố trí trên bờ sông tằng tằng liên
hồi một cách nặng nề.
Trung đoàn Cô- dắc số 12 nhận chiến. Grigori chạy vượt
từng chặng trong đội hình chiến đấu của những gã Cô- dắc khác trong đại đội.
Chàng ngoảnh lại nhìn thấy vừng mặt trời tròn như cái đĩa đang tan chảy trên
bầu trời giữa trưa, và một vừng thứ hai cũng hệt vậy nằm ngang trên khuỷu sông
rậm rì những cây liễu rủ vàng vàng như lông cừu non. Bên kia sông, những tên
lính giữ ngựa đang ẩn náp sau những cây tiêu huyền, còn trước mặt là đội hình
chiến đấu của quân Đức với những con đại bàng bằng đồng vàng loé lấp loáng trên
chiếc mũ sắt. Gió rung rinh những làn khói đạn xám xám, hắc như mùi ngải cứu.
Grigori bắn không vội vã, chàng nhắm bắn rất cẩn thận, và
giữa hai lần nổ súng, chàng láng nghe lệnh của viên trung đội trưởng chỉ định
thước nhắm. Như vậy chàng vẫn đủ thời giờ giũ khỏi tay áo quân phục một con bọ
rùa lốm đốm. Rồi đến lúc xung phong…
Grigori dùng báng súng ốp sát đánh gục một tên trung uý
Đức cao lớn, bắt được ba tên lính Đức làm tù binh rồi bãn doạ trên đầu chúng,
bắt chúng phải chạy tới bờ sông.
Tháng bảy năm 1915, Grigori cùng một trung đội Cô- dắc
đoạt lại được một đại đội pháo Cô- dắc đã bị quân Áo chiếm mất ở gần Rava-
Ruskaia. Cũng tại đấy, trong khi chiến đấu, chàng đã luồn vào sau lưng quân
địch, nhả đạn khẩu trung liên, làm cho trận tấn công của quân Áo biến thành một
cuộc tháo chạy.
Khi qua Baianot, trong một trận giáp lá cà, chàng bắt
sống được một sĩ quan to béo người Áo. Grigori quẳng hắn nằm ngang yên ngựa như
một con cừu, phi ngựa về, và suốt chặng đường chàng cứ phải ngửi mùi phân người
thối hoắc bốc lên từ tên sĩ quan và cảm thấy những cơn run của cái thân hình
phục phịch, đổ mồ hôi như tắm vì sợ.
Trong khi nằm trên ngọn đồi trọc đen ngòm. Grigori nhớ
lại rành rọt trường hợp đặc biệt chàng chạm trán với kẻ thù không đội trời
chung của chàng là Stepan Astakhov. Việc ấy xảy ra khi trung đoàn 12 bị rút
khỏi mặt trận và điều sang Đông Phổ. Vó ngựa Cô- dắc dẫm nát những cánh đồng vuông
vắn được chăm nom rất cẩn thận của người Đức. Lính Cô- dắc đốt trụi nhà cửa của
dân Đức. Trên đường họ qua chỉ trơ những bức tường cháy thui đổ nát và những
mái ngói nứt nẻ. Ở gần thành phố Stolypin: trung đoàn 12 tấn công cùng với
trung đoàn Cô- dắc sông Đông 27. Grigori thoáng nhìn thấy cạnh người anh ruột
gầy nhom của chàng, gã Stepan râu cạo nhẵn nhụi và một số anh em Cô- dắc cùng
thôn. Hai trung đoàn đã bị thua trong trận chiến đấu. Họ bị quân Đức bao vây,
và khi mười hai đại đội lần lượt xông lên mở đường máu trong vòng vây địch mỗi
lúc một khép chặt. Grigori nhìn thấy Stepan nhảy ra khỏi con ngựa huyền bị bắn
chết trong khi anh ta đang cưỡi nó, rồi lăn tít như một con quay. Grigori chợt
nảy ra một quyết tâm làm chàng cảm thấy sung sướng. Chàng vất vả lắm mới ghìm
được con ngựa đứng lại và khi đại đội cuối cùng phóng qua, thiếu chút nữa thì
chà lên người Stepan, chàng cho con ngựa phi tới gần Stepan kêu to:
- Nắm lấy bàn đạp?
Stepan nắm lấy đoạn dây da trên bàn đạp, chạy bên cạnh
con ngựa của Grigori chừng nửa vec- xta.
- Đừng phóng nhanh quá! Đừng phóng nhanh quá, hãy vì chúa
Giêsu cứu thế! - Anh ta thở hổn hển, cố van.
Hai người vượt qua đột phá khẩu được bình an vô sự. Chỉ
còn một trăm xa- gien là cùng thì tới được khu rừng, nơi các đại đội phá vòng
vây xuống ngựa, nhưng giữa lúc đó Stepan bị trúng một viên đạn vào chân. Anh ta
buông tay khỏi bàn đạp, ngã ngửa. Gió thổi bay mất chiếc mũ cát- két của
Grigori bờm tóc trước trán xoã xuống mắt chàng. Grigori hất tóc lêno ngoái nhìn
lại thấy Stepan khập khiễng chạy vàO một bụi cây. Anh ta vứt chiếc mũ cát- két
vào trong đó, rồi ngồi thụp xuống, vội vã cởi cái quần đi ngựa có những nẹp đỏ
loé.
Grigori hiểu ngay: Stepan muốn sống nên vứt bỏ cái quần
Cô- dắc để lộn sòng làm bộ binh: hồi ấy quân Đức đâu có bắt lính Cô- dắc làm tù
binh. Nghe theo liếng gọi của lương tâm, Grigori cho ngựa quay ngoặt lại, phóng
tới bụi cây và nhảy xuống đất trong lúc ngựa còn đang chạy:
- Ngồi lên yên đi…
Mắt Stepan chớp chớp rất nhanh. Grigori không bao giờ
quên được cái chớp mắt ấy. Chàng giúp Stepan ngồi lên yên, còn mình thì nắm lấy
bàn đạp, chạy bên cạnh con ngựa mồ hôi đầm đìa.
Chiuu - Một phát đạn nóng rãy rít bay qua, và khi tai
không còn nghe thấy tiếng rít nữa, nó nổ đánh bục!
Trên đầu Grigori, trên bộ mặt nhợt nhạt như đá phấn của
Stepan, hai bên sườn hai người, chỗ nào cũng có những tiếng đạn rít như xuyên,
như khoan: chiuu- bục! Chiuu- bục… Còn sau lưng hai người, những phát súng nổ
lốp bốp liên hồi như tiếng nứt của những quả xiêm gai quá chín.
Púc pắc! Púc pắc! Ta ta ta ta!
Vào đến trong rừng, Stepan tụt trên yên xuống, mặt nhăn
nhó vì đau. Anh ta quẳng dây cương, khập khiễng bước sang bên cạnh. Màu trào ra
trên mép ống ủng bên chân trái, và mỗi khi bên chân bị thương dẫm xuống đất,
một tia máu nhỏ mầu anh đào lại rỉ ra dưới cái đế ủng đã long. Stepan dựa lưng
vào thân một cây sồi có những cái cành vươn rất rộng, vẫy ngón tay gọi Grigori.
Grigori bước tới.
- Máu chảy ra đẩy cả ủng, - Stepan nói Grigori nhìn ra
chỗ khác chẳng nói chẳng rằng.
- Griska ạ- hôm nay trong lúc chúng xông lên tấn công…
Anh nghe rõ không, Grigori? - Stepan vừa nói vừa đưa hai con mắt sâu hoắm cố
tìm cặp mắt Grigori - Trong lúc tấn công tôi ở đằng sau đã ba lần nổ súng vào
anh… nhưng Chúa đã không cho tôi giết anh.
Mắt hai người gặp nhau. Từ sau hai cái hố con mắt hõm sâu
cặp mắt Stepan long lanh. sắc ngọt, làm người nhìn vào rất khó chịu. Nó nói gần
như không hé hai hàm răng siết chặt:
- Anh đã cứu tôi thoát chết… Tôi cám ơn… Nhưng còn chuyện
Acxinhia thì tôi không thể tha thứ được. Tình cảm trong lòng thì không cưỡng ép
được… Anh đừng ép buộc tôi Grigori ạ…
- Tôi không ép buộc gì cả - Lúc ấy Grigori đã trả lời như
thế.
Lúc chia tay hai người vẫn là hai kẻ thù quyết liệt như
xưa…
Và còn nữa… Đến tháng năm, trung đoàn cùng với các đơn vị
khác của Tập đoàn quân Brusilovskaia chọc thủng mặt trận ở Ludk 1 vận động
ngang dọc ở sau lưng địch, lúc thì đánh địch, lúc thì bị địch đánh. Ở gần Lvov
2, Grigori đã chủ động lôi cuốn cả đại đội của chàng xông lên xung phong, chiếm
được một đại đội súng cối của quân Áo, bắt được cả những tên bắn súng cối. Một
tháng sau, có một đêm Grigori bơi qua sông Búc tìm bắt một "cái lưỡi"
3.
Chàng đánh ngã một tên gác ở vọng tiêu, nhưng nó là một
thằng Đức vai u thịt bắp, khoẻ như trâu. Grigori gần trần như nhộng cứ bám chặt
lấy nó. Nó vật lộn với chàng rất lâu, kêu như bò rống, nhất định không chịu để
Grigori trói.
Grigori nhớ lại chuyện đó bất giác mỉm cười.
Đã không ít những ngày bị dùng phí hoài như thế ở những
nơi diễn ra những trận chiến đấu gần đây và trước kia. Grigori kiên quyết giữ
vững vinh quang là một thằng Cô- dắc: chàng không bỏ lỡ một dịp nào để tỏ rõ
lòng dũng cảm không bờ của mình, chàng đã mạo hiểm như một thằng điên cải trang
luồn vào sau lưng quân Áo, không nhỏ một giọt máu mà diệt được cả một vọng tiêu
của địch.
Chàng Cô- dắc đã phô hết tài năng và cảm thấy trong lòng
mình đã mãi mãi mất đi niềm đau xót cho loài người đã đè lên mình trong những
ngày đầu của cuộc chiến tranh. Trái tim của Grigori đã chai sạn, khô cứng lại,
chẳng khác gì một thửa đất mặn ngày đại hạn. Và cũng như đất mặn không thấm
nước nữa, trái tim Grigori không thể còn có chỗ lòng trắc ẩn. Chàng lạnh lùng
coi khinh, chàng đùa rỡn với tính mạng của mình cũng như của người khác; vì thế
đã lừng danh một tay gan dạ, đã được tặng thưởng bốn huân chương thánh Gioóc và
bốn huy chương năm thì mười hoạ có duyệt binh, Grigori lại được đứng dưới lá cờ
trung đoàn ám khói thuốc súng của bao nhiêu trận chiến đấu. Nhưng Grigori biết
rằng mình sẽ không bao giờ còn có thể cất tiếng cười như xưa nữa. Chàng biết
rằng hai con mắt mình đã sâu trũng xuống, và gò má mình đã nhô lên nhọn hoắt.
Chàng biết rằng nếu hôn một đứa con nít thì sẽ khó mà nhìn thẳng vào cặp mắt
tươi sáng của nó. Grigori biết ràng chàng đã phải trả một giá đắt như thế nào
để có được cả một chuỗi huân chương và những lần đề bạt.
Chàng nằm trên ngọn gò, tà áo ca- pôt đệm dưới sườn,
khuỷu tay trái tì xuống đất. Trí nhớ ngoan ngoãn làm sống lại những đoạn đời đã
qua, và xen lẫn với những hồi ức phiến đoạn nghèo nàn về chiến tranh. một mẩu
chuyển nào đó trong thời thơ ấu xa xưa lại đan thêm vào như một sợi chỉ rất
mảnh màu xanh da trời. Con mắt bên trong của Grigori âu yếm và man mác buồn
nhìn lướt qua mẩu chuyện đó trong giây phút rói lại chuyển ngay sang những việc
mới xảy ra gần đây. Bên các chiến hào của quân Áo, không biết có ai chơi măng-
đô- lin nghe thật tuyệt. Tiếng đàn thánh thót, hối hả chập chờn theo gió, vang
từ bên đó qua sông Stokhot và nhẹ nhàng là xuống khoảng đất đã bao lần đẩm máu
người những ngôi sao trên đỉnh đầu sáng lèn bừng bừng bóng lối mỗi lúc một dày
đặc làn sương mù lúc nửa đêm uyển chuyển uốn lưng trên bãi lầy. Grigori hút
liền hết hai điếu thuốc, vuốt ve đoạn dây đeo súng một cách thô bạo, rồi chống
năm ngón tay trái nhỏm dậy: rời khỏi khoảng đất từ nãy ân cán đón khách, và lại
len lỏi trong những đường chiến hào.
Những tên trong hầm vẫn còn chúi đầu vào sát phạt.
Grigori gieo mình xuống tấm ván gỗ, đầu óc vẫn còn muốn thơ thẩn qua những mảng
hồi ức, theo những con đường mà mình đã từng đi qua, những con đường bỏ lâu quá
nay đã rậm rì. Nhưng cái buồn ngủ đã làm chàng đờ đẫn, và chẳng mấy chốc chàng
đã thiếp đi trong cái dáng nằm rất không thoải mái lúc mới đặt lưng xuống.
Trong giấc mơ, chàng nhìn thấy một ánh đồng cỏ vô biên vô tận, bị gió hanh thổi
khô cháy hết, những bụi thử cúc thảo hồng hồng tím tím, những vết móng ngựa
không đóng cá sắt giữa những đám bách lý hương tím ngát, rũ rượi như những bờm
tóc… Đồng cỏ không một bóng người, yên tĩnh một cách rờn rợn. Grigori đi trên
một lớp đất nhiều cát rất rắn, nhưng không nghe thấy những tiếng bước chân của
chính mình, vì thế bông hoảng lên… Grigori giật mình tình dậy, ngửng đầu lên,
trên má hằn mấy vệt chéo do nằm không khéo. Hai hàm răng của chàng cứ nhai
nhai, chẳng khác gì một con ngựa bất thần ngửi thấy mùi hương lạ của một thứ cỏ
nào đó rồi lại hít mãi mà không thấy nữa. Sau đó chàng lại lăn ra ngủ như chết
không còn mộng mị gì nữa. Hôm sau Grigori tỉnh dậy với một nỗi nhớ nhung cồn
cào không rõ vì sao. "Tóc trái đào" thấy thế hỏi:
- Sao hôm nay cậu thẫn thờ rầu rĩ như thế? Lại nằm mơ
thấy thôn trấn có phải không?
- Cậu đoán đúng đấy. Mình lại mơ thấy đồng cỏ. Trong lòng
rối bời bời, ước gì được tạt về nhà một cái. Ghét cay ghét đắng cái trò đi lính
cho nhà vua như thế nầy rồi.
"Tóc trái đào" bật cười kẻ cả. Gã luôn ở cùng
hầm với Grigori và có vẻ rất tôn trọng Grigori. Sự tôn trọng mà một con thú
khoẻ cảm thấy trước một con thú khác cũng khoẻ như mình. Sau cuộc xô xát đầu
tiên xảy ra năm 1914 giữa hai người từ đó không còn có điều qua tiếng lại gì
nữa, và rõ ràng "Tóc trái đào" đã có tác động đối với tính tình và
tâm lý Grigori. Chiến tranh đã làm cho cách "Tóc trái đào" nhìn thế
giới biến đổi rất nhiều. Gã ngả dần sang phía chống lại chiến tranh một cách
khó khăn, nhưng chuyển biến nầy diễn ra không ngừng, không gì ngăn chặn được.
Gã nói rất nhiều về chuyện những viên tướng phản quốc và những mụ người Đức rồi
lù lù ngay trong hoàng cung. Có lần gã lỡ miệng nói một câu: "Đừng chờ đợi
một điều gì tốt lành, vì ngay hoàng hậu đã mang trong người dòng máu Đức. Nếu
có dịp là mụ đem ngay chúng ta bán lấy một cái hắt hơi đấy…"
Một hôm Grigori nói cho "Tóc trái đào" nghe
phần cơ bản trong những điều Garangia đã giảng giải cho chàng nhưng "Tóc
trái đào" không đồng tình:
- Bàỉ hát kể cũng hay đấy, nhưng tiếc rằng giọng hơi
khàn, gã mỉm cười có vẻ chế nhạo, vừa nói vừa vỗ vỗ vào chỗ đầu hói xám ngoét.
- Chuyện ấy thì thằng Miska Kosevoi cũng đã gáy rầm lên như con gà trống trên
hàng rào rồi còn gì. Các cuộc cách mạng như thế chẳng đem lại lợi lộc gì đâu, toàn
chuyện đem ra dỗ trẻ. Cậu phải nhớ rằng chúng ta, dân Cô- dắc, chỉ cần có chính
quyền của mình thôi, không cần một thứ chính quyền nào khác cá. Chúng ta cần có
một ông vua Nga cứng rắn, đại loại như Nicolai Nicolaievich ấy 4. Còn bọn mu-
gích thì chúng ta không đi cùng đường với chúng nó được: ngỗng đâu có thể làm
bạn với lợn. Bọn mu- gích muốn thừa cơ cướp ruộng cướp đất, bọn thợ thuyền thì
mong được tăng công xá, còn chúng ta thì chúng nó sẽ cho cái gì? Ruộng đất của
chúng ta đã ê hề ra đấy! Ngoài thế chúng ta còn cần gì nữa? Mà của đáng tội
chúng nó còn có quái gì cho chúng ta đòi hỏi? Chúng ta có một lão vua thật là
đoảng vị, cứ nói toạc móng heo ra như thế chăng cần phải giấu giếm làm gì.
Thằng bố lão còn cứng rắn một chút, chứ lão thì đã để cho cách mạng bùng nổ,
như năm một nghìn chín trăm linh năm, thế là tất cả đều lộn tùng phèo, đều
xuống dốc không phanh. Những chuyện như thế chẳng có lợi gì cho chúng ta. Nếu
chẳng may Chúa để cho chúng tống cổ được vua Nga, thì chúng nó cũng sẽ tính
chuyện cả với chúng ta. Đến lúc ấy chúng nó sẽ nhớ tới thù cũ, sẽ đem ruộng đất
của chúng ta cắt chia hết cho bọn mu- gích. Không liệu tỉnh táo giữ miếng thì
không xong đâu…
- Bao giờ cậu cũng chỉ nghĩ có một mặt, - Grigori cau có.
- Còn cậu thì toàn chuyện tầm phào. Cậu còn trẻ người non
dạ, chưa phải là thằng từng trải. Nhưng cứ chờ đấy mà xem, chúng nó sẽ vần cậu
như dưa, rồi lúc đó mới rõ được ai phải ai trái.
Các cuộc nói chuyện thường chấm dứt như thế. Grigori
không nói gì nữa, còn "Tóc trái đào" thì cố lảng sang chuyện khác.
Hôm ấy một trường hợp bất ngờ đã làm Grigori bị dây vào
một chuyện khó chịu. Đến giữa trưa, cũng như mọi ngày, chiếc xe nhà bếp đã
chiến từ bên kia ngọn gò chạy đến đổ ở chỗ cũ. Bọn lính Cô- dắc tranh nhau chạy
tới theo các hào giao thông. Miska Kosevoi đi lĩnh thức ăn cho trung đội ba:
lúc về dùng một chiếc gậy dài gánh những chiếc cà mèn khói bốc nghi ngút. Nhưng
vừa bước vào hầm anh chàng đã kêu toáng lên:
- Như thế nầy thì không thể được, anh em ạ! Còn nghĩa lý
ra sao nữa chúng ta có phải là chó đâu.
- Câu nói chuyện gì thế. - "Tóc trái đào" hỏi.
- Chúng nó cho bọn mình ăn xác những con vật chết! -
Miska phẫn nộ kêu lên.
Nói xong, Miska hất ra sau gáy cái bờm lóc vàng óng, nom
như một chùm hốt bố dại, rồi vừa đặt những cái cà mèn lên chiếc giường ván, vừa
liếc nhìn "Tóc trái đào" và bảo:
- Cậu thử ngửi mà xem, xúp bắp cải gì mà thối thế nầy!
"Tóc trái đào" cúi xuống chiếc cà- mèn của gã,
rung rung cánh mũi, mặt nhăn như bị. Miska bất giác bắt chước "Tóc trái
đào", phập phồng lỗ mũi, nhăn bộ mặt bềnh bệch.
- Nấu bằng thịt thúi rồi, - "Tóc trái đào" nhận
định.
Gã đẩy cái cà- mèn ra một cách dè bỉu rồi đưa mắt nhìn
Grigori.
Grigori nhổm phắt dậy trên cái giường ván, khom lưng, dí
cái mũi nhòm mồm vào gần món xúp, rồi ngửa người ra sau, lười nhác đưa chân hất
cái cà mèn gần nhất xuống đất.
- Sao cậu lại làm như thế? - "Tóc trái đào" hỏi
giọng ngập ngừng.
- Thế cậu không thấy lại làm sao à? Dí mắt vào mà xem. Hay cậu thong manh rồi?
Cái gì đây nào? - Grigori chỉ chất nước đục ngầu đang chảy lan ra bốn phía dưới
chân mọi người.
- Ô- ô ô? Dòi! Ối bố mẹ ơi! Thế mà
mình không nhìn thấy gì cả! Bữa trưa của chúng mình thế nầy đây. Không phải là
súp bắp cải mà là mì sợi. Chúng nó đã lấy dòi nấu thay lòng lợn.
Dưới đất chung quanh một miếng thịt
đỏ hỏn trong những váng mỡ tròn tròn thấy [bad word] nhổn những con dòi đã nấu
chín trắng hếu, mình những đốt là đốt.
Một hai ba bốn… - Miska lầm nhẩm đếm
và không biết để làm gì.
Mọi người lặng đi một phút. Grigori
nhổ một bãi nước bọt qua kẽ răng. Miska rút thanh gươm ra và nói.
- Chúng ta sẽ bắt giữ ngay món xúp
nầy và giải lên đại đội trưởng.
- Phải! Đúng đấy! - "Tóc trái
đào" tán thành.
Gã hấp tấp tháo lưỡi lê và nói:
- Bọn mình sẽ áp giải món xúp nầy,
còn cậu, Griska ạ cậu sẽ phải đi theo. Cậu sẽ báo cáo với đại đội trưởng.
"Tóc trái đào" và Miska
Kosevoi dùng lưỡi lê khiêng một cà- mèn xúp đầy, gươm tốt trần lăm năm trong
tay. Grigori hộ tống phía sau. Theo sau ba người, những tên lính Cô- dắc trong
các căn hầm cũng túa ra, lốc nhốc đi trong đường hào chữ chi như một làn sóng
xám xanh.
- Có gì thế?
- Báo động à?
- Có lẽ về chuyện hoà ước chăng?
- Làm gì có chuyện như thế? Cậu thì
muốn có hoà ước, thế không muốn phải ăn bánh khô chứ?
- Chúng nó bắt giữ món xúp dòi đấy.
Đến trước cửa căn hầm của bọn sĩ
quan, "Tóc trái đào" và Miska Kosevoi đứng lại. Grigori khom lưng,
đưa tay trái lên giữ chiếc mũ lưỡi trai bước vào trong "hang cáo".
- Đừng có đẩy! - "Tóc trái
đào" giận dữ nhe nanh lườm một tên lính Cô- dắc xô vào lưng gã.
Viên đại đội trưởng vừa cài khuy áo
ca- pôt bước ra. Hắn băn khoăn, thậm chí có phần lo lắng đưa mắt nhìn Grigori,
người cuối cùng ra khỏi hầm:
- Có việc gì thế, anh em? - Hắn nhìn
một lượt qua đầu bọn lính Cô- dắc.
Mọi người lãng thinh. Grigori bước
lới trước mặt hắn trả lời:
Chúng tôi áp giải đến đây một kẻ bị
bắt giữ.
- Kẻ nào bị bắt giữ?
- Chính nó đây… - Grigori chỉ chiếc
cà- mèn súp bắp cải đặt dưới chân "Tóc trái đào". - Đây là kẻ bị bắt
giữ… Xin ngài thử ngỉn xem anh em Cô- dắc dưới quyền ngài được cho ăn những gì.
Một bên lông mày Grigori giương lên
thành hình tam giác không đều đặn, khẽ rung rồi trở lại như cũ. Viên đại đội
trưởng theo dõi vẻ mặt của Grigori bằng cặp mắt thăm dò, rồi cau mày, đưa mắt
nhìn xuống.
- Họ đã bắt đầu cho anh em ăn thịt
những con vật chết rồi! - Miska nóng nảy kêu lên. - Phải thay một trung sĩ quân
nhu khác mới được!
- Con rắn độc!
- Còn nó thì ăn hốc béo căng béo
núc, đồ quỉ dữ?
- Nó chén toàn súp nấu với bầu dục
bò…
- Còn đây thì nấu với dòi! Những
người đứng gần nói hoà theo.
Đại đội trưởng chờ những tiếng nhao
nhao lắng đi rồi nói giọng gay gắt:
- Im ngay! Bây giờ không ai được nói
nữa! Mọi điều đã nói cả rồi. Ngay hôm nay tôi sẽ thay trung sĩ quân nhu khác.
Tôi sẽ chỉ định một Uỷ ban điều tra các hoạt động của nó. Nếu chất lượng của
thịt không tốt…
- Thì đưa nó ra toà! - Mọi người
phía sau gầm lên như sấm.
Những tiếng kêu lại vang lên như một
làn sóng át cả tiếng viên đại đội trưởng.
Việc đổi tên trung sĩ quân nhu đã
phải tiến hành trên đường hành quân. Vài giờ sau khi bọn lính Cô- dắc biểu tình
bắt giữ và áp giải món súp bắp cải tới hầm viên đại đội trưởng, trung đoàn bộ
trung đoàn 12 nhận được mệnh lệnh rút khỏi trận địa và dựa theo kế hoạch lộ
trình kèm theo mệnh lệnh trung đoàn tiến sang Rumani theo đội hình hành quân.
Đêm ấy khinh binh Sibiri đã tới thay thế trung đoàn Cô- dắc. Trung đoàn kiểm
tra lại ngựa tại thị trấn nhỏ Rynvid rồi sáng hôm sau tiến vào đất Rumani với
tốc độ hành quân cấp tốc. Những binh đoàn rất lớn đã được tung sang cứu viện
cho quân đội Rumani vừa thua liên tiếp hết trận nọ đến trận kia. Chỉ một việc
dưới đây cũng đủ cho thấy rõ tình hình: ngay hôm hành quân đầu tiên, lúc trời
sắp tối, bộ phận được phái đi trước để chuẩn bị chỗ đóng quân đến một thôn được
chỉ định cho đơn vị nghỉ đêm theo kế hoạch lộ trình, nhưng họ đã phải về không,
vì toàn thôn đã đầy ních bộ binh và pháo binh, các đơn vị nầy cũng đang tiến về
phía biên giới Rumani. Trung đoàn bắt buộc phải đi thêm tám vec- xta để kiếm
chỗ ở.
Họ hành quân mất mười bảy ngày.
Những con ngựa gầy sọp đi vì thiếu ăn. Bị chiến tranh tàn phá, cả một dải biên
giới không còn có gì cho gia súc ăn. Dân chúng đã bỏ chạy vào bên trong nước
Nga hoặc ẩn nấp trong rừng. Các căn nhà nông dân trống huếch trống hoác âm thầm
phơi những bức tường trần trụi đen sì. Trong phố vắng tanh, năm thì mười hoạ
binh lính Cô- dắc mới bắt gặp bộ mặt nhăn nhó, khiếp hãi của một người dân,
nhưng hễ thoáng bóng một người đeo súng là dân chúng vội vã bỏ trốn ngay. Bọn
Cô- dắc kiệt sức vì hành quân liên miên vì rét cóng đã trở nên hung hãn vì bản
thân họ vì những con ngựa, vì tất cả những điều nọ đã phải chịu đựng.
Họ dỡ cả mái tranh của những căn
nhà. Trong các làng xóm chưa bị tàn phá, họ không ngại ăn cắp chút ít lương
thực cho ngựa còn sót lại. Các cấp chỉ huy đe doạ đến mấy cũng không ngăn nổi
các hành động trộm cướp bậy bạ cùa họ.
Trong một làng nhỏ giàu có cách lãnh
thổ Rumani không xa, "Tóc trái đào" đã dùng mẹo lấy cắp được trong
một nhà thóc chung một bị đại mạch. Bị chủ nhà bắt quả tang. "Tóc trái
đào" đã nện cho người dân Besarabi hiền lành và đã có tuổi ấy một trận,
còn thóc thì gã đàng hoàng mang cho ngựa ăn. Viên trung đội trưởng bắt gặp
"Tóc trái đào" ở chỗ cọc buộc ngựa. "Tóc trái đào" đeo bị
thóc vào cổ con ngựa đi đi lại lại, vuốt vuốt cái lưng con ngựa gầy giơ cả
xương bằng hai bàn tay run run và cứ nhìn vào mắt con ngựa chẳng khác gì nhìn
vào mắt người.
- Uriupin! Đồ chó đẻ, đem ngay thóc
trả lại người ta đi! Mày làm như thế sẽ bị họ đem xử bắn đấy, đồ khốn nạn!
"Tóc trái đào" liếc nhìn
viên sĩ quan bằng hai con mắt đục ngầu, rồi gã quẳng cái mũ lưỡi trai xuống
chân và từ ngày đến trung đoàn, đây là lần đầu tiên gã gào lên, giọng thất
thanh.
- Các người đem xử thì đem xử! Đem
bắn thì đem bắn! Giết ngay thằng nầy ở đây thì cứ giết đi, nhưng thóc thì thằng
nầy không trả đâu? Sao, muốn bắt con ngựa của thằng nầy phải chết đói hay sao?
Hả? Thằng nầy không trả thóc đâu? Một hạt cũng không trả!
Hai bàn tay "Tóc trái đào"
lúc thì đưa lên ôm đầu, lúc thì vuốt bờm con ngựa đang rúc xuống nhai lấy nhai
để, lúc thì nắm lấy đốc gươm.
Viên sĩ quan không nói gì nữa, hắn
đứng yên một lát nhìn phần trên hai chân sau con ngựa gầy tọp đi một cách đáng
sợ, rồi hắn gật đầu nói:
- Con ngựa vừa chạy, mình còn nóng
thế kia mà đã cho ăn thóc. Giọng nói của hắn rõ ràng có vẻ luống cuống.
- Không đã mát rồi đấy - "Tóc
trái đào" trả lời gần như thầm mì.
Gã vừa nói vừa nhét vào trong lòng
bàn tay những hạt thóc rơi vãi trong bị ra rồi ném vào cho con ngựa ăn.
Trong những ngày đầu thảng mười một
trung đoàn ra tới mặt trận. Gió lóc cuốn xoáy khắp vùng núi Trasivania mây mù
lạnh giá tích đầy các khe núi thành gò thành đống. Trong các khu vực rừng thông
bị sương giá đốt cháy vàng, mùi nhựa xông lên nồng nặc.
Mặt tuyết đầu mùa còn sạch bong trên
núi càng ngày càng phơi ra trước mắt con người nhiều vết chân thú rừng: chó
sói, hươu nai, dê rừng hoảng sợ trước chiến tranh đã bỏ các vùng biên giới
hoang vu, chạy vào sâu trong nước.
Ngày mồng bảy tháng mười một, trung
đoàn 12 tấn công lên cao điểm "320". Hôm trước, các chiến hào còn do
quân Áo chiếm giữ, nhưng đến hôm tấn công, chúng đã được thay bằng bọn lính
Sarson vừa bị chuyển từ mặt trận Pháp về. Quân Cô- dắc tiến trong đội hình bộ
binh trên những sườn núi đã phủ một lớp tuyết xốp mỏng. Chân họ dẫm lên những
hòn đá vụn giá băng, làm bụi tuyết bốc lên như khói. Grigori đi bên cạnh
"Tóc trái đào". Chàng nói với gã với nụ cười của một kẻ biết mình có
lỗi, nụ cười chưa bao giờ có vẻ ngượng ngùng như thế nầy:
- Không hiểu sao hôm nay mình sợ sợ
thế nào ấy… Cứ như mình lên tấn công lần đầu ấy.
- Thật à? "Tóc trái đào"
ngạc nhiên.
Gã hạ khẩu súng trường trên vai
xuống, xách súng bằng dây da, vừa đi vừa mút những miếng băng nhỏ bám trên ria.
Quân Cô- dắc tiến lên núi trong
những đội hình tấn công nham nhờ, chỉ liến mà không nổ súng. Đỉnh các ụ chiến
hào của địch cũng chết lặng một cách rùng rợn. Chỗ ấy bên quân Đức sau một ụ
đất dốc, một viên trung uý người Sarson có khuôn mặt đỏ tía vì gió và cái mũi
bong da, đang ngửa hằn người ra sau, mỉm cười và kêu lên một cách ngang tàng
với bọn lính:
- Các bạn! Chúng ta đã từng đánh bọn
áo xanh nầy (chỉ lính Cô- dắc) nhiều lần rồi! Nào, cả lần nầy nữa chúng ta cũng
sẽ cho chúng nó biết rằng chạm trán với chúng ta nghĩa là thế nào. Các bạn hãy
chịu khó chờ thêm. Đứng bắn vội! (Tiếng Đức trong nguyên văn).
Các đại đội Cô- dắc tiến lên tấn
công. Dưới chân họ là chất đá bở, dẫm xuống vụn ra rơi lả tả. Grigori nhét lại
hai cái tai của chiếc mũ trùm gáy đã biến thành màu hung hung đỏ, mỉm một nụ
cười xao xuyến. Một ánh xanh xanh vàng vàng hiện lên trên cặp má hõm lồm xồm
những sợi râu đen nhánh, cứng như rơm, đã lâu không cạo, và trên cái mũi dài
nhòm mồm của chàng. Hai con mắt đen như hai hòn than gầy âm thầm sáng lên dưới
cặp lông mày đầy sương muối.
Grigori đã mất cái bình tĩnh thường
ngày. Chàng cố cưỡng lại cái cảm giác sợ hãi đáng nguyền rủa bỗng nhiên quay
trở lại, bèn nheo hai con mắt đầy nghi ngại nhìn đường đỉnh ụ chiến hào tuyết
phủ trắng xoá và nói với "Tóc trái đào".
- Chúng nó cứ ngậm tăm. Để chúng
mình lại gần hơn. Còn mình thì thấy sợ, nhưng mình chẳng thấy hổ thẹn chút nào…
Nếu bây giờ mình quay lưng, bỏ chạy trở về thì sao nhỉ?
- Sao hôm nay cậu ăn nói lung tung
như thế? - "Tóc trái đào", hỏi bực bội. - Người anh em thân mến, ở
đây cũng như trong khi chơi bài thôi: mất niềm tin ở mình là chúng nó xin ngay
cái đầu. Mặt cậu vàng như nghệ ấy. Griska ạ… Một là cậu ốm, hai là hôm nay
chúng nó sẽ đưa cậu về với ông bà ông vải. Cậu thử nhìn xem! Đã thấy chưa?
Trên chiến hào bỗng có một tên Đức
áo ca- pôt ngắn, mũ sắt nhọn đứng thẳng lên trong một giây rồi lại ngồi sụp
ngay xuống.
Người tiến bên trái Grigori là một
gã Cô- dắc đẹp trai: tóc màu hạt dè nhạt người Elanskaia. Gã vừa đi vừa tháo
chiếc găng bên tay phải ra rồi lại đi vào và cứ làm đi làm lại như thế không
biết bao nhiêu lần. Gã bước vội vã, đầu gối gập lại rất khó khăn và thỉnh
thoảng lại cất tiếng ho rất to. "Thật y như thằng đi đêm một mình… Cứ rặn
ra mà ho, cho đỡ sợ". - Grigori nghĩ thầm. Sau gã Cô- dắc nầy có thể nhìn
thấy cái má đầy tàn hương của tên hạ sĩ Marsaev, sau nữa là Emelian Grosov.
Thằng cha chĩa cây súng ra phía
trước một cách vững vàng, mũi súng hơi đưa sang bên. Grigori nhớ rằng vài ngày
trước đây, trên đường hành quân, Emelian đã dùng chiếc lưỡi lê nầy phá khoá cửa
một nhà kho lương thực, ăn cắp túi ngô của một người Rumani. Miska Kosevoi đi
gần như ngang với Emelian. Anh chàng hút thuốc một cách thèm khát, thỉnh thoảng
lại sỉ mũi rồi chùi ngón tay vào mặt ngoài của tà áo ca- pôt bên trái.
- Mình khát nước quá - Marsaev nói.
- Emelian ạ, còn mình thì đi đôi ủng
chật quá. Với cái của nầy thì nhấc chân lên không được nữa. - Miska Kosevoi
than vãn.
Emelian tức giận ngắt lời Miska:
- Ở đây không phải là chỗ nói chuyện
ủng iếc gì cả! Cậu hãy cố chịu đựng. Bọn Đức sẽ quét súng máy ngay cho mà xem.
Ngay loạt đạn đầu tiên đã bắn quỵ
Grigori. Chàng chỉ ối chà được một tiếng là ngã xuống. Chàng định buộc bên tay
bị thương, bèn luồn tay vào chiếc túi dết dựng bông băng cấp cứu, nhưng chợt
cảm thấy một dòng máu nóng hổi tuôn ra phùn phụt trong ống tay áo, nên không
còn chút sức lực gì nữa. Chàng nằm sóng soài, cái đầu nặng tựa đá đeo nấp sau
một tảng đá, rồi thè cái lưỡi khô bỏng ra liếm một dám tuyết lồm xồm. Môi chàng
run run hớp lấy hớp để những miếng tuyết xóp. Chưa bao giờ Grigori thấy sợ như
lúc nầy.
Chàng run như cầy sấy lắng nghe
tiếng đạn réo khô khan gay gắt và tiếng súng nổ ầm ầm tràn ngập không gian.
Chàng ngầng đầu nhìn thấy những tên Cô- dắc trong đại đội đang chạy nháo nhào
xuống chân núi người trượt, người ngã, vừa chạy vừa bắn lung tung, chẳng có mục
đích gì cả về phía sau và lên trời. Chính cái sợ không gì có thể nói rõ lý do
có thể bào chữa cho Grigori trong lúc nầy đã làm cho chàng đứng dậy, và bắt
chàng cũng phải chạy xuống phía dưới tới khoảng lề rừng thông lởm chởm răng cưa
nơi lúc nãy trung đoàn bắt đầu triển khai công kích. Grigori chạy vượt Emelian
Grosov. Emelian vừa chạy vừa lôi theo gã trung đội trưởng bị thương. Trên sườn
núi rất dốc, viên trung uý chạy chân nam đá chân siêu như thằng say rượu, thỉnh
thoảng lại bám chặt lấy vai Emelian để nhổ ra những cục máu đặc đen sì. Như một
trận tuyết lở, các đại đội tuôn xuống ào ào vào trong khu rừng. Một số xác chết
nằm lại trên những sườn dốc màu tro, nom như những đống gì xám xám. Những người
bị thương, chưa kịp được mang đi thì phải tự bò về.
Súng máy địch bắn quét sau lưng họ.
U- u- u ca- ca- va! - Đạn nổ rền như
tiếng vỗ tay.
Grigori dựa vào tay Miska Kosevoi
lẩn vào trong rừng. Đạn bật nảy loạn xạ trên cái bãi thoai thoải ở ven rừng.
Khẩu súng máy hạng nặng ở sườn bên trái quân Đức vẫn bắn liên hồi. Như có bàn
tay rất khoẻ ném ra một hòn đá, hòn đá ấy vừa nảy vừa khêu vang trên lớp băng
mỏng manh đầu mùa.
U u u- u- ca- ca- ca- ca.
Chúng nó đã dội cho anh em mình một
mẻ ra trò! - "Tóc trái đào kêu như thích thú lắm.
Gã dựa vào cái thân màu hung hung
của một cây thông, lười nhác nổ súng vào những tên Đức chạy đi chạy lại trên
các chiến hào.
- Những thằng ngu xuẩn thì phải cho
một bài học mới mở mắt ra! Phải cho một bài học! - Miska giăng một tay khỏi tay
Grigori thở hổn hển kêu lên - Hạng chó má! Còn tồi tệ hơn nữa là khác. Phải chờ
đổ hết máu rồi mới hiểu được vì sao chúng nó đập vào đầu mình.
- Cậu nói cái gì đấy hả? - "Tóc
trái đào" nheo mắt hỏi.
- Người thông minh thì tự nhiên tất
phải hiểu, còn kẻ ngu xuẩn… đối với kẻ ngu xuẩn thì còn cách gì nữa? Nhồi vào
đầu đến mấy cũng không hiểu được đâu.
- Cậu còn nhớ lời thề không hử? Cậu
đã tuyên thệ hay chưa? - Tóc trái đào" hỏi vặn.
Miska không trả lời, chỉ quỳ xuống,
đưa hai bàn tay run lẩy bẩy lấy lên một vốc tuyết dưới đất, vừa ngốn lấy ngốn
để vừa ho sù sụ người khẽ run run.
--- ------ ------ ------ -------
1 Thành phố
Ba Lan (ND).
2 Thành phố
Ba Lan, sau thế chiến hai thuộc về Ukraina.
3 Tù binh
bắt để khai thác tin tức (ND).
4 Nicolaievich
(1858 - 1929). Đại công tước, làm tổng tư lệnh tối cao của quân đội Nga từ khi
chiến tranh thế giới bùng nổ. Trong thời kỳ Nội chiến, bỏ chạy ra nước ngoài.
Tại đấy, có sự ủng hộ của Vrănghen và phần lớn các phần tử bảo hoàng là một
trong những kẻ có tham vọng lên ngôi vua nước Nga (Lời chú của bản tiếng Nga).
Xem tiếp:
Xem tiếp:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét