SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 26
Natalia sống hoà hợp ngay với gia đình Melekhov. Miron Grigorievich
thật biết dạy con. Tuy giàu có, và ngoài các con ra trong nhà còn có người làm,
nhưng ông vẫn bắt các con ông phải lao động cho quen công quen việc. Natalia
hay lam hay làm nên được mẹ chồng quý mến. Daria thích làm dáng làm đỏm nên bà
Ilinhitna ghét ngầm con dâu trưởng. Còn Natalia thì mới vài ngày đầu, bà đã yêu
quý nàng ngay.
- Cứ ngủ nữa đi, cứ ngủ nữa đi, con yêu của mẹ? Mày làm gì mà dậy
sớm thế? - Bà vừa lê cặp chân to đần đẫn đi lại trong bếp, vừa âu yếm khẽ bảo
con dâu. - Lại vào trong nhà đi, cứ ngủ đến sáng đi, không có mày công việc vẫn
làm xong cơ mà!
Natalia đã dậy từ tảng sáng để giúp công việc bếp núc. Nàng nghe
nói thế lại vào nhà trong ngủ thêm.
Ông Panteley Prokofievich vốn rất nghiêm khắc đối với gia đình, thế
mà ông cũng thường bảo vợ:
- Bà mày có nghe thấy không, đừng gọi con Natalia dậy nhé. Ban ngày
nó tối mắt tối mũi như thế là đủ rồi. Lại còn phải sắp sửa đi cày với thằng
Griska nữa. Còn cái con Daria, con Daria thì phải quật cho nó mới xong. Đàn bà
gì mà ườn thây ườn xác, hư thân mất nết… Hết đánh má hồng lại tô lông mày, cái
con chó đẻ.
- Năm đầu hãy cho chúng nó hú hí với nhau đã, - Bà Ilinhitna thở
dài nhớ lại cuộc đời lao động cực nhọc của mình.
Grigori cũng dần dần có phần quen quen với cuộc sống mới của chàng,
cuộc sống của một kẻ có vợ. Nhưng sau chừng ba tuần, chàng vừa bực bội vừa
hoảng sợ nhận thấy rằng trong thâm tâm, mình vẫn chưa cắt đứt được hẳn với
Acxinhia, và trong lòng vẫn còn sót một cái gì như một cái gai. Mà nỗi đau khổ
ấy thì không phải ngày một ngày hai mà gạt bỏ được. Grigori đã từng đinh ninh
rằng trong hoàn cảnh có vợ, được sống thoả mãn, mình sẽ gạt bỏ được hết dễ như
trở bàn tay: tất cả rồi cũng sẽ quên đi… Nhưng đến nay chàng lại thấy là không
thể nào quên được và mỗi khi nhớ lại thì vết thương lại rỉ máu. Ngay từ hồi còn
chưa cưởi, có lần Petro đã hỏi Grigori trong lúc đập lúa trên sân:
- Griska à, mầy định sẽ như thế nào với con Acxinhia?
- Sao cơ chứ?
- Có lẽ bỏ thì thương?
- Tôi bỏ thì lại có người nhặt chứ sao? - Hôm ấy Grigori còn cười
mà nói thế.
- Nhưng mày phải cẩn thận đấy. - Petro nhay nhay một đám ria nhai
đã nát nhừ. - Nếu không mầy lấy vợ thật không đúng lúc.
- Ăn no béo mầm, việc gì chẳng quên. - Grigori pha trò.
Nhưng rồi tình hình đâu có diễn ra như thế. Đêm đêm, trong khi
Grigori làm nhiệm vụ người chồng âu yếm vuốt ve vợ, trong khi chàng cố truyền
cho Natalia cái lửa tình ngùn ngụt của tuổi trẻ, thì lại chỉ gặp thấy về phía
Natalia một thái độ lạnh lùng, vâng chịu ngượng ngùng. Việc vợ chồng đi lại với
nhau, Natalia làm rất miễn cưỡng, vì ngay từ khi lọt lòng, nàng đã được mẹ
truyền cho một dòng máu thờ ơ hờ hững, chảy như rất chậm. Nhớ lại cái kiểu yêu
đương đến cuồng dại của Acxinhia, Grigori thở dài:
- Natalia à, chắc hẳn ông cụ nhà em đã làm bà cụ nhà em thụ thai ra
em trên băng… Em băng giá quá chừng.
Còn Acxinhia thì mỗi lần gặp Grigori, nàng đều mỉm một nụ cười ỡm
ờ, tròng con mắt đục đi, giọng nói dính như keo:
- Chào anh, anh Griska yêu quý! Lấy cô vợ trẻ như thế, nâng niu
chìu chuộng nhau thế nào?
- Vẫn sống như thường thôi. - Grigori trả lời qua loa cho xong
chuyện, và chỉ mong mau chóng thoát khỏi ánh mắt ve vuốt của Acxinhia.
Stepan thì hình như đã làm lành với vợ. Anh ta đã bớt la cà ở quán
rượu và một buổi chiều, trong khi quạt thóc trên sân đập lúa, lần đầu tiên sau
chuyện lục đục vừa qua, Stepan bảo vợ:
- Acxiutca à, ta thử hát một bài đi!
Hai vợ chồng ngồi dựa lưng vào đống lúa mạch mới đập xong còn đầy
bụi. Stepan cất giọng hát một bài của lính, Acxinhia hoà theo bằng một giọng
rất cao, rất mạnh, phát ra từ trong ức. Hai người hát rất ăn giọng, cứ như đang
sống lại tuần trăng mật.
Lại có lần, trong khi ráng chiều phủ khắp cánh đồng một làn ánh
sáng đỏ tía, Stepan đi làm đồng về ngồi lắc lư trên chiếc xe tải, kéo dài giọng
hát một bài cổ, giọng hát trường và buồn, như con đường trên cánh đồng cỏ hoang
vu đầy cỏ dại, không một bóng người. Acxinhia ngả hẳn đầu lên bộ ngực nở nang
của chồng, hát tiếp. Hai con ngựa kéo chiếc xe chạy cót két, gọng xe lắc sang
bên nầy rồi lại lắc sang bên kia. Từ xa, mấy cụ già trong thôn lắng nghe bài
hát:
- Stepan kiếm được cô vợ đến là tốt giọng.
- Nghe mà xem… họ hát ăn giọng quá!
- Cả giọng của Stepan cũng tốt nhỉ, sang sảng như tiếng chuông ấy!
Mấy cụ già ngồi trên những bức tường đất đắp quanh nhà đưa tiễn ánh
chiều đỏ rực, mung lung sương khói nói vọng với nhau qua đường phố:
- Họ đang hát bài của trung đoàn Nizovsky đấy.
- Ông bạn đồng ngũ ạ, bài nầy được soạn ở Gruzia.
- Mồ ma bác Kiriuska thích bài nầy lắm!
Chiều nào Grigori cũng nghe thấy hai vợ chồng nhà Astakhov cùng hát
với nhau (sân đập lúa nhà Grigori nằm sát sân đập lúa nhà Stepan). Mỗi lần đập
lúa, chàng lại nhìn thấy Acxinhia với cái vẻ tự tin, hình như hạnh phúc như
xưa. Ít nhất là chàng có cảm tưởng như thế.
Stepan không chào hỏi những người trong nhà Melekhov nữa. Anh ta
vác cái chàng nạng đi đi lại lại trong sân, cặp vai rộng nhưng xuôi khẽ động
đậy, và thỉnh thoảng lại nói đùa với vợ một câu.
Acxinhia cười, cặp mắt đen láy long lanh dưới khăn bịt đầu. Grigori
nhắm mắt lại vẫn thấy cái váy màu xanh lá cây của Acxinhia gợn sóng trước mắt.
Một sức mạnh vô hình cứ xoay cổ của Grigori, làm cho chàng chốc chốc lại quay
đầu nhìn sang sân nhà Stepan.
Chàng không biết rằng tuy Natalia đang giúp ông Panteley
Prokofievich xếp các bó lúa, nhưng lần nào nàng cũng bắt gặp cái nhìn không tự
chủ của chồng bằng cặp mắt vừa buồn vừa ghen.
Grigori cũng không thấy rằng trong khi đuổi mấy con ngựa chạy vòng
tròn, Petro hếch mũi nhìn mình với một nụ cười châm biếm kín đáo.
Giữa những tiếng ầm ì trầm trầm (tiếng rên siết của mảnh đất bị
hành hạ dưới những quả lăn bằng đá), đầu óc Grigori rối bời với những ý nghĩ
mung lung. Chàng cố tìm cách nắm những mảnh ý nghĩ vụn vặt trơn tuồn tuột lẩn
trốn ý thức, nhưng không tài nào năm nổi.
Từ những sân đập lúa ở gần cũng như ở xa, tiếng đập lúa, tiếng trẻ
chăn bò đuổi đàn bò, tiếng roi quất đen đét, tiếng hòm quạt thóc kêu phành
phạch, vẳng tới rồi lại tan đi trên bãi cỏ hoang ven sông.
Thôn xóm béo đẫy ra trong ngày mùa nằm đê mê dưới cái nắng tháng
chín mát rượi trải ra trên sông Đông như con rắn thuỷ tinh nằm vắt ngang đường.
Trong mỗi căn hộ nằm giữa những dãy hàng rào, dưới mỗi mái nhà đều có một cuộc
sống riêng quay tít như con thò lò, một cuộc sống sôi nổi, đầy đắng cay ngọt
bùi, tách biệt với các cuộc sống khác: cụ Grisaka bị lạnh, đang đau khổ vì đau
răng; Sergey Platonovich quỵ xuống sau cái nhục vừa qua, đang đưa hai tay lên
vo chòm râu chải tẽ sang hai bên, và cứ nghiến răng, khóc thầm một mình; Stepan
vẫn mang nặng trong lòng mối thù với Grigori, đêm đêm lại vò nát cái chăn đã
rách bươm trong hai bàn tay rắn như thép; Natalia chạy vào nhà kho, lăn mình
xuống đống phân kho, nằm co quắp, khóc nức nở vì hạnh phúc của mình bị người ta
phá hoại; Khristonhia đi chợ phiên, đem số tiền bán con bê ăn nhậu sạch, đang
bị lương tâm dày vò; Grigori đau khổ vì những dự cảm trong khi các thèm khát
của chàng chưa được thoả mãn, và vì vết thương lòng lại mở miệng, đang thở dài
thườn thượt; Acxinhia vừa vuốt ve đi lại với Stepan vừa tưới nước mắt lên lòng
căm thù không sao nguôi được đối với chồng. Chàng thợ cán bột Davydka bị đuổi
khỏi nhà máy xay ngồi thâu đêm trong căn nhà đắp bằng đất trộn rơm của
"Bồi". "Bồi" long lanh hai con mắt đầy căm hờn nói:
- Khô- ô- ông, khô- ô- ông thể như thế được. Chẳng bao lâu nữa
người ta sẽ cắt mạch máu của chúng nó. Đối với chúng nó thì một cuộc cách mạng
còn chưa đủ. Chúng nó sẽ phải nếm lại cái năm một nghìn chín trăm linh năm lần
nữa 1, lúc đó chúng ta sẽ tính sổ? Chúng ta sẽ tính sổ! - "Bồi" giơ
một ngón tay đầy sẹo lên doạ rồi nhún vai sửa lại cái áo vét- tông khoác trên
lưng.
Nhưng thời gian vẫn trôi qua trên thôn xóm, hết ngày lại đêm, hết
tuần nầy qua tuần khác. Hết tháng nọ qua tháng kia. Gió vẫn thổi, trời dông bão
vẫn làm những ngọn núi ầm ầm tiếng sấm, và sông Đông in hình bầu trời thu xanh
trong suốt vẫn thờ ơ trôi ra biển.
--- ------ ------ ------ -------
1 Ý muốn nói cuộc cách mạng
tư sản thất bại ở nước Nga năm 1905 (ND).
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 27
Đến cuối tháng
mười, vào một ngày chủ nhật, Fedot Bodovskov đánh xe lên trấn.
Hắn mang ra chợ bốn
đôi vịt béo căng nhốt trong một cái lồng, bán được hết rồi vào hiệu mua cho vợ
ít vải hoa rất diêm dúa. Hắn đã tì chân vào vành bánh xe, siết chặt đoạn dây
buộc dưới cổ ngựa, sắp sửa ra về, thì vừa lúc ấy có một người dân vùng khác,
không phải là trong trấn, bước tới:
- Chào bác! - Người
ấy đưa những ngón tay ngăm ngăm lên vành chiếc mũ dạ đen chào Fedot.
- Chào bác! - Fedot
nheo cặp mắt xếch như mắt người Kalmys, nói lí nhí qua kẽ răng, chờ xem có
chuyện gì.
- Bác ở đâu đến
thế?
- Tôi ở dưới thôn
lên, không phải người ở đây đâu.
- Thế bác ở thôn
nào vậy?
- Thôn Tatarsky.
Người lạ kia lấy
trong túi bên ra một cái hộp thuốc lá bằng bạc, nắp hộp có chạm hình một chiếc
thuyền nhỏ. Anh ta mời Fedot hút điếu thuốc và hỏi tiếp:
- Thôn ta có to
không bác?
- Cám ơn bác, tôi
vừa hút xong. Thôn chúng tôi ấy à! Một thôn khá đấy. Có lẽ chừng ba
trăm bộ.
- Có nhà thờ không?
- Còn sao nữa, phải có chứ.
- Có thợ rèn không?
- Lò rèn ấy à? Lò rèn cũng có đấy.
- Thế nhà máy xay đã có xưởng nguội
chưa?
Con ngựa không chịu đứng yên, Fedot
phải giữ chặt dây cương. Hắn nhìn một cách không thân thiện cái mũ dạ đen cùng
những vết nhăn trên khuôn mặt trắng bệch của người lạ, các vết nhăn nầy đều
hướng cả vào chòm râu đen ngăn ngắn.
- Bác cần gì mà hỏi thế?
- Tôi chuyển đến ở thôn bác đây. Tôi
vừa ở chỗ ông ataman trấn ra. Bác về xe không à?
- Vâng, xe không.
- Bác cho tôi về cùng nhé. Nhưng tôi
không phải chỉ đi một mình đâu, còn cả nhà tôi và hai chiếc hòm chừng tám pút.
- Về cùng cũng được thôi.
Tiền xe ngã giá là hai rúp. Fedot đánh
xe đến nhà mụ làm bánh mì vòng Frotka, nơi người đi nhờ xe của hắn thuê phòng,
đón một người đàn bà tóc vàng, gầy yếu lên xe, rồi khiêng hai chiếc hòm đánh
đai sắt đặt lên phía sau xe.
Ra khỏi trấn. Fedot chặc lưỡi, vung
đoạn dây cương bện bằng lông đánh con ngựa nhỏ nhưng chạy rất khỏe. Chốc chốc
hắn lại quay cái đầu méo mó trên cái gáy phẳng đứng để nhìn lại: hắn không
cưỡng nổi tính tò mò. Hai người khách đi xe của hắn ngồi khiêm tốn phía sau,
chẳng nói chẳng rằng. Đầu tiên Fedot xin đốt điếu thuốc rồi hỏi.
- Hai bác từ đâu về ở thôn chúng tôi
thế?
- Từ Rostov.
- Cố cựu ở đấy à?
- Bác bảo sao?
- Tôi hỏi bác ở sinh quán ở đấy à?
- À, phải phải, tôi vốn người ở đấy, ở
Rostov.
Fedot ngẩng hai gò má màu đồng thau,
nhìn kỹ những đám cỏ dại mọc xa tít trên đồng cỏ: con đường của các Ghết- man
kéo dài tới chỗ ngoặc, và trên sống đồi, trong đám cỏ khô nâu nâu, cách con
đường chừng nửa vec- xta, cặp mắt giàu kinh nghiệm, tinh như mắt người Kalmys
đã nhận ra những cái đầu nhỏ xíu của vài con vịt trời đang di động rất khó
thấy.
- Tiếc là không mang súng, nếu không
chúng ta dã tạt vào đấy kiếm vài chú vịt trời. Bác trông nó đang đi kia kìa… -
Fedot thở dài giơ tay chỉ.
- Tôi chẳng thấy gì cả. - Người khách
đi xe thú nhận, hai con mắt anh ta hấp háy như mắt người thong manh.
Fedot đưa mắt theo dõi mấy con vịt trời
sà xuống một cái khe, rồi quay lại nhìn người thuê xe. Khách là một người tầm
thước, xương xương, có hai con mắt linh lợi long lanh rất gần chỗ tinh mũi lồi
lên. Trong khi nói chuyện, anh ta rất hay cười. Người vợ quấn một chiếc khăn
choàng đan tay, ngủ gà ngủ gật. Fedot không trông thấy mặt người đàn bà.
- Vì sao mà hai bác phải đến ở thôn
chúng tôi?
- Tôi làm thợ nguội, muốn đến mở một
cửa hiệu thợ nguội. Tôi còn làm cả đồ mộc.
Fedot nhìn hai bàn tay to bè bè của
người khách đi xe, có ý nghi ngại. Người kia bắt gặp ánh mắt của Fedot bèn nói
thêm:
- Tôi cũng làm thêm đại lý cho hãng
"Singer" cung cấp máy khâu - Thế tên bác là gì? - Fedot hỏi.
- Họ của tôi là Stokman.
- Có lẽ bác không phải là người Nga?
- Không, tôi là người Nga đấy. Nhưng
ông nội tôi gốc ở Latvia.
Chỉ một lát sau, Fedot đã được biết
rằng anh thợ nguội Stokman Yosif Davidovich trước kia làm việc ở nhà máy
"Acxai", sau đó đến một nơi nào đó ở Kuban, rồi vào làm tại xưởng sửa
chữa đường sắt Đông Nam. Ngoài ra Fedot vốn tính tò mò còn hỏi được thêm rất
nhiều chi tiết về cuộc đời của anh ta.
Xe chạy tới rừng cấm thì câu chuyện cạn
dần. Con ngựa chạy đã toát mồ hôi, Fedot cho nó uống nước ở một cái giếng bên
cạnh đường Xe lắc trên chặng đường bắt đầu làm Fedot thần ra, hắn ngủ gà ngủ
gật. Từ đây về đến thôn còn chừng năm vec- xta.
Fedot cuộn dây cương, thõng chân, ngả
người ra cho thoải mái. Nhưng hắn đã không được chợp mắt.
- Vùng ta sinh sống như thế nào hả bác?
- Stokman bị lắc rất ghê, cứ nhảy chồm chồm trên ghế, nhưng anh ta vẫn hỏi.
- Chúng tôi vẫn sống, vẫn có bánh mì
ăn.
- Bà con Cô- dắc nói chung có vừa ý với
cuộc sống không?
- Có người vừa ý, có người thì không.
Làm thế nào mà tất cả mọi người đều vừa ý được?
- Đúng đấy, đúng đấy… - Người thợ nguội
tỏ vẻ đồng ý. Anh ta nín lặng một lát rồi lại đưa ra những câu hỏi như có hàm
một ý ngầm gì đó - Bác bảo mọi người đều no đủ à?
- Cuộc sống cũng khá sung túc.
- Nhưng có lẽ công việc nhà binh cũng
là một gánh nặng đấy nhỉ? Có phải không?
- Công việc nhà binh ấy à? Chúng tôi đã
quen rồi. Còn sống thì còn nằm trong quân số.
- Tai hại nhất là người Cô- dắc phải tự
trang bị lấy tất cả.
- Còn sao nữa, mẹ chúng nó chứ! - Fedot
bắt đầu hăng lên. Hắn liếc nhìn có ý nghi ngại người đàn bà lúc nầy đã quay đầu
sang bên. Với cái bọn quan lớn như thế thì thật là tai hoạ… Hồi tôi đi lính,
phải bán mấy con bò đi sắm một con ngựa. Nhưng họ mang đi khám xong lại bảo là
không đủ tiêu chuẩn.
- Bảo là không đủ tiêu chuẩn à? - Người
thợ nguội vờ ngạc nhiên.
- Hoàn toàn đúng thế đấy. Họ bảo chân
có khuyết tật. Tôi cố nài: "Xin các ngài cứ nhận cho. Bốn chân nó có gì khác
một con ngựa thi giật giải. Chỉ có điều là nước kiệu chạy nom giống con gà
trống… Nó có cái nước kiệu kiểu gà trống mà lại". Nhưng họ vẫn không nhận.
Thế là hết nghiệp!
Câu chuyện nói mỗi lúc một thêm rôm rả.
Mải mê với câu chuyện, Fedot vui vẻ nhảy từ trên xe xuống, sẵn sàng kể về bà
con trong thôn, hết chửi lão ataman thôn về chuyện chia bãi cỏ không công bằng,
lại khen hết lời lối làm ăn ngăn nắp ở Ba Lan, nơi trung đoàn của Fedot đóng
trong thời gian hắn ở đơn vị. Fedot đi bên cạnh xe. Hai con mắt sắc như dao
nheo lại rất nhỏ của người thợ nguội nhìn khắp người hắn. Anh ta hút một thứ
thuốc lá nhẹ bằng một cái bót xương trên có những câi vòng nhỏ, một nụ cười
luôn nở trên môi. Nhưng chéo ngang vầng trán hơi dốc, da rất trắng, có một vết
nhăn hằn sâu, vết nhăn nầy di động chậm chạp, nặng nề, cứ như bị đẩy lên đẩy
xuống từ bên trong bởi những ý nghĩ gì thầm kín.
Xe về tới thôn trước khi trời hoàng
hôn.
Theo lời khuyên của Fedot, Stokman
xuống xe trước nhà mụ goá Lukeska Popopa và thuê của mụ hai gian phòng.
- Bác đưa ai từ trên trấn về đấy? - Mấy
mụ láng giềng đã chờ Fedot ở cổng để hỏi.
- Một người đại lý.
- Đại lý gì cơ chứ?
- Chà ngốc gì mà ngốc khổ ngốc sở! Tôi
xin nói cho các bà các chị biết rằng người đại lý nầy bán máy khâu. Ai đẹp được
biếu không, còn xấu như thím, thím Maria ạ, thì phải trả tiền.
- Đồ quỷ dữ tay chuối mắn như bác mà cứ
tưởng mình đẹp đẽ lắm đấy phỏng. Cái mặt Kalmys của bác thì cứ nhìn mà tởm… Đến
ngựa cũng chẳng dám gần: trông thấy đã đủ khiếp.
- Nầy thím chớ tưởng đùa, trên thảo
nguyên thì chỉ có người Kalmys và người Tarta là nhất đấy thôi! - Fedot cố
chống chế rồi bỏ đi.
Anh thợ nguội Stokman đã dọn xong chỗ ở
tại nhà mụ Lukeska, một người đàn bà vừa lác vừa lắm mồm. Anh ta chưa kịp ngủ
yên một đêm, khắp thôn đã thấy bọn đàn bà bàn ra tán vào.
- Nầy bà bạn đỡ đầu, bác đã nghe thấy
chuyện chưa?
- Chuyện gì thế?
- Gã Kalmys Fedot đưa ở đâu về một
thằng Đức đấy.
- Thật ư?
- Tôi dám thề trước Đức Mẹ là đúng như
thế đấy! Đội mũ dạ, tên là Stôpôn hay Stôcan gì đó…
- Hay là mật thám?
- Nhân viên phòng thuế đấy, bà bạn thân
mến ạ.
- I- i i các bà các
chị ạ, thiên hạ nói láo tuốt. Nghe nói hắn ta làm kế toán cũng như cậu cả con
cha Pankrati thì phải.
- Paska, con yêu
của mẹ, mày thử chạy đến tìm bác Lukeska, hỏi bác ấy khẽ khẽ thôi nhé:
"Bác ơi, xe đưa ai về nhà bác thế?" Chạy ù lên nhé, thằng bé đến là
ngoan!
Hôm sau, người mới
đến ngụ cư tới gặp lão ataman thôn Fedor Manykov giữ cái gậy ataman 1 đến nay
đã được ba năm.
Lão lật đi lật lại
mãi trong tay tờ giấy thông hành bọc vải dầu đen. Rồi đến lượt viên thư ký Egor
Zakov cũng lật lật xem qua. Hai tên đưa mắt cho nhau, rồi theo thói quen của
một viên quản kỵ binh, lão ataman trịnh trọng khoát tay:
- Ông được ở lại
đây.
Người mới đến cúi
chào rồi ra ngoài. Suốt một tuần liền anh ta chẳng ló mặt đi đâu, cứ sống ru rú
như một con chuột đồng trong hang. Bắt đầu có tiếng rìu đẽo chan chát, rồi
xưởng thợ nguội được đặt trong gian bếp mùa hè, bỏ không từ lâu. Bọn đàn bà
trước kia tò mò dò hỏi không biết chán, đến nay không còn để ý gì nữa, chỉ còn
bầy trẻ là ngày nào cũng leo lên hàng rào nhìn người khách lạ của thôn.
--- ------ ------
------ -------
1 Mỗi ataman các cấp đều có một cái gậy tượng trưng chức quyền của mình
(ND).
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 28
Vợ chồng Grigori đi
cày ba ngày trước lễ Đức Mẹ 1 Ông Panteley Prokofievich bị mệt cũng ra đưa
tiễn. Ông chống cái nạng, chỗ thắt lưng đau quá chốc chốc lại làm ông kêu lên.
- Griska à, mày hãy
cày trước hai mảnh sau bãi chăn bò chung ở cái khe nước Đỏ ấy nhé.
- Vâng, vâng. Thế
còn cái khoảng ở gần bờ Vách Liễu thì sao? - Grigori khẽ hỏi, khàn khàn. Chàng
đi câu bị cảm, phải quấn một cái khăn quanh cổ.
- Qua lễ Đức Mẹ
hẵng hay. Đi một lần cày hai mảnh ấy đủ rồi.
Chỗ gần khe nước Đỏ
cũng đến một kruk 2 rưỡi rồi đấy. Đừng quá tham.
- Thế anh Petro
không đến giúp thêm à?
- Nó với con Daria
còn phải ra nhà máy xay. Hôm nay phải xay cho xong, nếu không sẽ quá lượt mất.
Bà Ilinhitna giúi
vào trong cái áo ngắn của Natalia vài cái bánh mềm và khẽ bảo nàng:
Hay bảo con Dunhiaska
đi thêm cho nó đánh bò?
- Hai chúng con làm
cũng được rồi.
- Thôi cẩn thận
nhé, con yêu của mẹ. Cầu Chúa che chở cho con.
Dunhiaska khiêng
một đống quần áo ướt, nặng quá oằn cả cái lưng mảnh dẻ. Cô bé chạy qua sân để
ra sông giũ.
- Chị Natasa, chị Natasa
yêu quý, ở khe nước Đỏ quả toan mô mọc nhiều lắm đấy, chị nhớ hái về đấy! 3
- Ừ chị sẽ hái, chị
sẽ hái.
- Câm ngay, léo nha
léo nhéo như con mẹ ranh! - Ông Panteley Prokofievich vung cái nạng.
Ba cặp bò mộng kéo
lê trên đường cái cày gieo hạt lật ngửa, vạch hằn một vệt trên mặt đất vốn đã
rắn lại bị khí trời mùa thu thiếu mưa làm càng rắn thêm. Grigori húng hắng ho
đi bên lề đường, thỉnh thoảng lại sửa cái khăn cuốn cổ. Natalia đi bên cạnh
Grigori, túi thức ăn lủng lẳng sau lưng.
Ra đến ngoài thôn,
không khí trên đồng cỏ lặng như tờ, vừa trong vừa lạnh. Sau bãi chăn nuôi
chung, sau ngọn gò nom như cái lưng gù những lưỡi cày đang xới tung mặt đất,
trẻ chăn bò huýt sáo ầm ĩ nhưng ở đây, hai bên con đường cái nầy, chỉ có những
bụi ngải cứu thấp lè tè màu xanh da trời lốm đốm như tóc hoa râm, những bụi
linh lăng hương dại cừu cắn nham nhở, những đám gô- riu- nốc 4 khom khom như
người làm lễ ở nhà thờ, ngoài ra chỉ có bầu trời dội tiếng, trong vắt như thuỷ
tinh, mỗi lúc một lạnh. Loáng thoáng có những cái mạng nhện lấp loáng màu ngọc
quý bay lơ lửng.
Sau khi đưa tiễn
hai vợ chồng Grigori đi cày, Petro và Daria cũng sửa soạn ra nhà máy xay. Petro
treo một cái máy sàng trong nhà thóc, bắt đầu quạt thóc. Daria đổ thóc vào
những chiếc bao tải, mang ra chiếc britka.
Ông Panteley
Prokofievich thắng ngựa xong còn sửa lại rất cẩn thận các đồ thắng.
- Đã sắp xong chưa?
- Chúng con xong
ngay đây, - Petro trả lời vọng ra từ trong nhà thóc.
Tại nhà máy xay,
mọi người đang luân phiên đưa bột vào xay.
Những chiếc xe tải
đỗ san sát trên cái sân. Người ta chen nhau quanh bàn cân. Petro ném
dây cương cho Daria rồi nhảy trên chiếc britka xuống.
- Sắp đến số của tôi chưa? - Petro hỏi
"Bồi" đang đứng ở bàn cân.
- Anh đến vừa kịp đấy.
- Đang xoá số bao nhiêu thế?
- Ba mươi tám.
Petro ra khiêng những bao thóc xuống.
Giữa lúc ấy trong nhà cân bỗng vang lên tiếng chửi nhau. Không biết người nào
quát lên, giọng khàn khàn, hung hãn, nghe như tiếng chó sủa:
- Ngủ cho béo mắt để quá lượt, bây giờ
còn muốn leo lên à? Cút ngay đi, đồ khốn, không ông nện cho bây giờ!
Petro nghe giọng, đoán là gã Yakov Móng
ngựa bèn chú ý lắng nghe thêm. Trong phòng cân có tiếng kêu to vang ra qua
cửa.
Rồi có tiếng một
miếng đòn rất gọn, và từ trong cửa phòng, một người Tavria 5 râu xồm đã có tuổi
lăn vật ra, cái mũ lưỡi trai đen tụt xuống sau gáy.
- Sao mày đánh tao?
- Người ấy ôm lấy một bên má, kêu lên.
- Ông không cho mày
gãy răng không xong!
- Không dễ đâu, mày
chờ đấy sẽ biết!
- Mikíchvo, lại
đây?
Hồi Yakov đi lính,
một hôm gã đóng móng ngựa, bị con ngựa lồng lên, đá vào mặt. Gã bị dập cái mũi,
toạc cả môi, và cái móng ngựa đã in hình trên mặt gã. Vết thương để lại một cái
sẹo hình bầu dục, xám ngoét, những cái đinh nhọn cũng in những chấm đen, vì thế
mới có cái biệt hiệu Móng ngựa. Yakov Móng ngựa vốn là tay pháo thủ can đảm,
vạm vỡ. Gã xắn tay áo, chạy trong cửa ra. Một người Tavria cao lớn, mặc sơ- mi
màu hồng, đuổi theo, giáng cho gã một quả đấm nên thân. Móng ngựa lảo đảo,
nhưng vẫn còn đứng được.
- Anh em ơi, chúng
nó đánh người Cô- dắc!
Như bị dốc trong
ống tay áo ra, những người Cô- dắc và người Tavria đổ xô từng đám, từng đám từ
trong cửa nhà máy xay ra khoảng sân ngổn ngang xe cộ. Trước đó họ đã kéo tới
đây từng toán đông.
Cuộc loạn đả nổ ra
ở ngay cổng chính. Cái cửa kêu răng rắc vì bị bao nhiêu thân người ùa ra cùng
xô mạnh. Petro ném bao thóc xuống, kêu lên rồi lon ton chạy về phía phòng máy
xay. Daria nhổm người trên xe, nhìn thấy Petro xô gạt những người gần anh ta,
len vào giữa đám. Đến khi thấy Petro bị đấm dồn vào tường, bị đánh ngã xuống và
bị đạp túi bụi, Daria kêu rầm lên, Mitka Kosevoi nhảy cỡn từ trong góc phòng
máy ra, tay vung một chiếc bù- loong sắt.
Chính người Tavria
lúc nãy đánh vào sau lưng Móng ngựa, bây giờ chạy vùng ra khỏi đám người, một
tay áo màu hồng rách toạc đập lõng thõng sau lưng hắn như cái cánh con chim bị
thương. Hắn khom lưng xuống thật thấp, hai tay quệt xuống đất, chạy tới chiếc
xe tải đầu tiên, rồi tháo ra rất dễ dàng một cái càng. Trên sân nhà máy xay ầm
ầm những tiếng la thét kéo dài, khản cả giọng:
- A- a- a- a…
- Ôi - i- i- a- a-
a…
Tiếng đánh đấm.
Tiếng đập phá. Tiếng rên la. Tiếng gào rú…
Ba anh em nhà Samin
ở trong nhà chúng chạy ra. Gã cụt tay Aleksey vướng chân vào những đoạn dây
cương không biết có ai ném ra, ngã lăn xuống chỗ cái cửa xép ở hàng rào. Nhưng
gã chồm ngay dậy, nhét bên tay áo rỗng vào bụng, và nhảy qua những chiếc gọng
xe đặt san sát. Gã Marchin, em của Aleksey thấy một ống quần của gã tuột ra
ngoài chiếc bít tất trắng bèn cúi xuống định nhét lại, nhưng giữa lúc ấy, từ
bên nhà máy xay vang tới một tiếng rú.
Không biết tiếng
người nào kêu mà bay vút lên rất cao trên cái mái rất dốc của nhà máy xay, như
một cái mạng nhẽn bị cuốn đi trong cơn gió lốc, Marchin lại đứng thẳng dậy,
vùng chạy theo Aleksey.
Daria đứng trên xe
cứ vặn ngón tay, thở hổn hển nhìn ra chung quanh. Chỗ nào cũng có tiếng phụ nữ
rít the thé hoặc gào khóc ầm ĩ. Những con ngựa hoảng sợ vểnh tai, những con bò
đứng sát vào những chiếc xe tải và xe britka kêu rống lên… Sergey Platonovich
mím môi mím lợi khập khiễng chạy qua, mặt cắt không còn hột máu, cái bụng tròn
xoay như một quả trứng khổng lồ lúc lắc dưới chiếc áo gi- lê. Daria trông thấy
gã người Tavria mặc chiếc áo sơ- mi màu hồng rách tả tơi cầm chiếc càng xe phạt
ngã Mitka Korsunov, nhưng chính gã cũng ngã lăn kềnh ra, chiếc càng xe bị gãy
văng khỏi tay. Gã Aleksey cụt tay dẫm chân lên gã người Tavria và giáng xuống
gáy gã những nắm đấm nặng như chì. Những cảnh đòn hội chợ không đầu không đũa
diễn ra loang loáng trước mắt Daria như những mảnh giẻ rách muôn màu. Sergey
Platonovich vừa chạy qua, Mitka Korsunov quì luôn dậy, cho lão một cú bù loong
sắt.
Daria thấy vậy,
chẳng ngạc nhiên chút nào. Sergey Platonovich vươn hai tay lên trời ngoáy loạn
xạ, rồi bò lổm ngổm về phía nhà cân như một con tôm. Lão bị những chân người
dẫm lên lăn kềnh ra… Daria phá lên cười như hoá dại, cặp lông mày lô đen hình
vòng cung cong gập hẳn lại. Nhưng mắt Daria bỗng bắt gặp Petro thế là tiếng
cười rồ dại tắt ngấm. Petro lảo đảo len ra khỏi đám người đang ngả nghiêng gào
rú, lần đến nằm dưới gầm một chiếc xe tải và nhổ ra một bãi máu. Daria gào lên,
chạy bổ tới chỗ chồng. Trong khi đó, dân Cô- dắc trong thôn tiếp tục cầm gậy
gộc chạy tới, một người vung cái thuốn sắt vẫn dùng để chọc băng. Cuộc loạn đả
lan ra tới mức độ kinh người. Đâu chỉ như những cuộc say rượu đánh nhau trong
quán hay những cuộc xô xát trong ngõ nhân lễ tiễn mùa đông.
Một thanh niên
người Tavria bị đánh vỡ đầu nằm thẳng cẳng ở cạnh cửa nhà cân. Hai chân anh ta
dạng rộng, đầu ngâm trong vũng máu đen đã vón cục, vài món tóc xoã xuống mặt.
Xem ra linh hồn chàng trai nầy đã về tới thiên đàng…
Những người Tavria
đã bị dồn lại thành một đám lúc nhúc như đàn cừu ở trước gian xưởng nhỏ. Vụ nầy
có lẽ sẽ kết thúc tai hại hơn nhiều nếu một cụ già người Tavria không nghĩ ra
một kế: cụ nhảy vào trong gian xưởng, rút trong lò ra một thanh củi lửa bắn
tung tóe.
Rồi cụ chạy ra khỏi
cửa, đến nhà kho chứa thóc đã xay, trong có hơn một ngàn pút thóc. Qua vai ông
cụ người ta thấy khói bốc lên như một làn lụa mỏng, những tia lửa tóe ra tứ
phía, nom chỉ lờ mờ dưới ánh sáng ban ngày.
- Lão đốt đây! - Cụ
gầm lên, giọng man rợ rồi giơ thanh củi gần mái lau, lửa vẫn nổ lách tách.
Bọn Cô- dắc rùng
mình, ngừng tay không đánh nhau nữa. Gió hanh thổi từng đợt từ phía đông, tạt khói
từ trên mái gian xưởng nhỏ xuống đám người Tavria đang đứng túm tụm một chỗ.
Mái lau cũ đã bết
chắc lại, rất khô, vì thế chỉ một tàn lửa khá to bắn vào là khói lửa sẽ trùm
lên khắp thôn…
Những tiếng kêu
trầm trầm, ngắn ngủi vang lên trong đám dân Cô- dắc. Có người đã bị giật lùi về
phía gian máy xay. Ông lão người Tavria kia vẫn vung thanh củi, những tàn lửa
vẫn văng tung tóe qua làn khói xám. Cụ vẫn gào lên:
- Lão đốt đây? Đốt
đây! Ra khỏi sân mau!
Gã Yakov Móng ngựa,
kẻ gây ra cuộc loạn đả, là tên đầu tiên rời khỏi sân nhà máy xay với nhiều chỗ
xanh tím trên khuôn mặt bất thành nhân dạng của gã. Những gã Cô- dăc khác cũng
vội vã đổ xô ra theo.
Bọn người Tavria
cũng bỏ những bao thóc đấy để ra thắng ngựa vào xe. Họ vung những nút dây
cương, quất roi đen đét, in những vạch dài trên lưng ngựa. Đoàn xe xông ra khỏi
sân, chạy long xòng xọc qua phố ra ngoài thôn.
Gã cụt tay Aleksey
đứng ngay giữa sân, đầu ống tay áo sơ- mi rỗng buộc túm lại, lủng lẳng trước
cái bụng dài ngoẵng nhưng rất chắc, mắt và má giật lia lịa trong cơn kinh giật
thường ngày.
- Anh em Cô- dắc
lên ngựa!
- Đuổi theo chúng
nó?
- Chúng nó sẽ không
kịp chạy quá đường sống đồi đâu?
Mitka Korsunov né
né người chạy trong sân ra. Bọn Cô- dắc đứng túm tụm bên cạnh gian máy xay lại
nhốn nháo hẳn lên, ồn ào như một đợt sóng. Nhưng giữa lúc ấy, từ trong buồng
máy thấy có một người đội mũ dạ đen đi ra rất nhanh. Người ấy lạ mặt nhưng từ
nãy chẳng có ai chú ý đến anh ta. Hai con mắt sắc ngọt của người ấy nheo hẳn
lại, lướt trên đám người như hai lưởi bào. Người ấy giơ tay:
- Hượm cái đã!
- Anh là ai hử? -
Móng ngựa nhíu hai hàng lông mày rung rung.
- Hắn ở đâu mò ra
thế?
- Trói nó lại!
- Hừ!
- Phì!
- Bà con hãy hượm
cái đã!
- Chỉ bọn chó cộc 6
mới bà con với anh!
- Đồ mu- gích!
- Đồ guốc gỗ!
- Cho nó một trận,
Yakov?
- Đấm vào hai con
mắt nó ấy! Cho nó một quả vào mắt ấy!
Người kia mỉm một
nụ cười ngượng nghịu, nhưng không có vẻ gì sợ hãi. Anh ta bỏ mũ, đưa tay lên
xoa trán, cử chỉ rất hồn nhiên. Cuối cùng nụ cười của anh ta đã tước được vũ
khí của bọn Cô- dắc.
- Có việc gì vậy? -
Người ấy vung cái mũ dạ gập đôi, chỉ đám máu đen đã ngấm xuống đất bên cạnh cửa
phòng cân.
- Đánh bọn khô-
khon, - Gã cụt tay Aleksey trả lời, giọng ôn hoà, cả má lẫn mắt đều giật lia
lịa.
- Nhưng vì sao đánh
chứ?
- Để xếp hàng cho
có trật tự. Khỏi có cái lỗi chèn lên trên. - Móng ngựa vừa bước lên trước, vừa
khoát rộng tay quệt một đám nước mũi đỏ lòm.
- Cho chúng nó nhớ
đến già.
- Chà, nếu đuổi kịp
chúng nó nhỉ… Trên đồng cỏ thì đừng có hòng đốt được cái gì.
- Ban nãy chúng
mình hoảng sợ đấy thôi, chứ có lẽ nó chẳng dám đốt đâu - Con người đã đến lúc
liều mạng thì phóng hoả cũng là chuyện dễ như trở bàn tay.
- Cái bọn khô-
khon, chúng nó chúa là dễ nổi nóng. - Afonka Ozerov cười nhạo.
Người lạ mặt vung
cái mũ dạ về phía Afonka:
- Thế anh là người
gì?
Gã Afonka chúm cái
miệng rỗ nhằng rỗ nhịt, nhổ một bãi nước bọt ra vẻ khinh bỉ, rồi dạng chân nhìn
theo những tia nước bọt rơi xuống đất.
- Tôi là người Cô-
dắc, còn anh có phải dân Di- gan không?
- Không. Tôi cũng
như anh, cả hai chúng mình đều là người Nga.
Anh nói láo! -
Afonka nói dằn từng tiếng. - Người Cô- dắc bắt nguồn từ người Nga đấy. Anh có
biết điều đó không?
- Còn tôi thì tôi
bảo cho anh biết tổ tiên của người Cô- dắc là người Cô- dắc.
- Xưa kia những
người nông nô bỏ bọn địa chủ, chạy trốn đến vùng sông Đông, chính họ đã được
gọi là Cô- dắc đấy.
- Thôi anh bạn thân
mến ạ, anh hãy cứ đi con đường của anh. - Gã cụt tay Aleksey nắm chặt những
ngón tay xưng vù, khuyên bằng một giọng tức tối cố trấn tĩnh và nháy mắt càng
dữ.
- Trong thôn lại
đến thêm một thằng chết tiệt? Chà, đồ chó chết, nó lại muốn biến mình thành dân
mu- gích.
- Nó là đứa nào thế
hả? Cậu có biết không, Afonka?
- Nó là một thằng
cha nào đó mới đến đây. Nó thuê phòng ở nhà mụ lác Lukeska đấy.
Bây giờ mà đuổi
theo thì đã muộn. Bọn Cô- dắc kéo nhau ra về, họ vừa đi vừa bàn tán sôi nổi về
trận ẩu đả vừa nãy.
° ° °
Đêm ấy, ở một nơi
trên đồng cỏ cách thôn tám vec- xta, Grigori nằm cuộn tròn trong chiếc áo
choàng lông cứng rất bền, buồn rầu nói với Natalia:
- Natalia cứ như
một người xa lạ thế nào ấy… Natalia chẳng khác gì vừng trăng kia: không làm tôi
lạnh, cũng chẳng sưởi cho tôi ấm. Tôi nói Natalia đừng giận, nhưng tôi không
yêu Natalia. Tôi đâu muốn nói như thế, nhưng rõ ràng là không thể sống mãi như
thế nầy được nữa rồi… Tôí thương Natalia, và hình như trong những ngày gần đây
chúng ta có gần gũi nhau hơn, nhưng trong lòng vẫn chẳng cảm thấy chút gì… Hoàn
toàn trống rỗng. Y như cánh đồng cỏ trong lúc nầy.
Natalia không nói
gì, nàng chỉ ngước nhìn lên cánh đồng sao mà mình không tài nào với tới, nhìn
tấm màn hư ảo và âm thầm của những đám mây chập chờn trên đầu hai người. Từ
trên kia, trên tít khoảng không xanh thẫm, vài con sếu lạc đàn cất lên những
liếng gọi lanh lảnh như tiếng chuông bạc.
Từ lớp cỏ cuối mùa
xông lên một mùi hương u uất, đầy tử khí. Ở một chỗ nào đó trên ngọn gò, lấp
loáng ánh lửa đo đỏ nhỏ xíu còn lại trong đống củi mà những người đi cày đã
nhóm…
Grigori thức giấc
trước khi trời hửng. Tuyết phủ trên tấm áo choàng dầy tới hai véc- sốc. Đồng cỏ
nằm chết lịm dưới lớp tuyết đầu mùa nhấp nhoáng một màu xanh đồng trinh. Bên
cạnh chỗ nghỉ đêm còn hằn rõ những vết chân xanh xanh của con thỏ bị lớp tuyết
mới rơi làm cho lạc đường.
--- ------ ------
------ -------
1 Theo lịch của người Nga lễ Đức Mẹ vào ngày mồng một tháng mười.
2 Một kruk bằng bốn héc ta. (Lời chú của bản tiếng Nga).
3 Quả toan mô đốt ra than có thể dùng để giặt quần áo (ND).
4 Một thứ rau đắng ỏ vùng sông Đông (ND).
5 ở vùng sông Đông, người Tavria là cái tên dùng để gọi những người
Ukraina mà tổ tiên đã theo lệnh nữ hoàng Ekaterina đệ nhị di cư đến đây từ
những địa điểm miền Nam sát với Krym (Tavria), (Lời chú của bản tiếng Nga).
6 Chỉ người Tavria (ND).
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 29
Từ những thời rất
xa xưa các cụ đã truyền lại rằng nếu trên con đường đi Minlerovo mà một người
Cô- dắc đơn thương độc mã chạm trán với vài người Ukraina (các làng của người
Ukraina bắt đầu từ thôn Hạ Yablovsky và kéo dài tới Minlerovo trên một khoảng
bảy mươi lăm vec- xta) mà không nhường đường thì sẽ bị những người Ukraina kia
đánh cho thừa sống thiếu chết. Vì thế hễ họ lên trấn là phải có mấy chiếc xe
cùng đi để nhỡ có một cuộc chạm trán trên đồng cỏ thì cũng không sợ đấu khẩu.
- Nầy, thằng khô-
khon! Tránh đường mau? Đồ chết tử chết tiệt, mày sống ngụ cư trên đất của người
Cô- dắc mà không muốn tránh cho chúng ông đi hay sao?
Cả đến người
Ukraina cũng không cảm thấy thoải mái khi phải chở thóc ra kho thóc
Paramonovskaia bên sông Đông. Tại đấy những cuộc đánh lộn thường nổ ra vì bất
cứ nguyên nhân nhỏ mọn nào, dù chỉ vì hai tiếng "khô- khon". Hễ
"khô- khon" là choảng nhau liền.
Một trăm năm trước
đây đã có một bàn tay tìm mọi cách gieo rắc trên mảnh đất nầy hạt giống của sự
bất hoà giữa các tầng lớp và vun bón chăm sóc cho nó đâm chồi nảy lộc. Trong
các cuộc loạn đả, máu của người Cô- dắc cũng như máu của dân ngụ cư, Nga và
Ukraina đã tưới đẫm mảnh đất nầy.
Hai tuần sau vụ
đánh nhau ở nhà máy xay, viên cảnh sát trưởng và viên dự thẩm trên trấn đã
xuống thôn.
Người đầu tiên bị
gọi tới thẩm vấn là Stokman. Viên dự thẩm là một công chức còn trẻ, xuất thân
trong một gia đình quý tộc Cô- dắc.
Hắn lục lọi trong
cái cặp, hỏi:
- Trước khi đến đây
ông ở đâu?
- Ở Rostov.
- Năm một nghìn
chín trăm linh bảy vì sao ông bị kết án tù?
Stokman nhìn lướt
qua cái cặp và đường ngôi lệch đầy gàu trên cái đầu cúi gầm của viên dự thẩm.
- Vì gây mất trật
tự.
- Hừ- ừ- ừm… Thế
hồi ấy ông làm việc ở đâu?
- Ở xưởng sửa chữa
xe lửa.
- Nghề nghiệp?
- Thợ nguội.
- Ông có phải là
dân Do Thái không? Có phải là dân công giáo mới theo đạo không?
- Không. Tôi nghĩ
rằng…
- Tôi không cần
biết ông nghĩ gì. Ông đã bị đi đày phải không?
- Vâng, có.
Viên dự thẩm ngẩng
đầu lên khỏi cái cặp. Hắn nhay nhay cặp môi cao nhẵn nhụi, đầy mụn nhọt:
- Tôi khuyên ông
nên đi khỏi nơi nầy… - Rồi hắn tự nói với mình - Mà mình cũng phải làm cho kỳ
được việc đó…
- Vì sao vậy, thưa
ngài dự thẩm.
Trả lời câu hỏi ấy
lại là một câu hỏi:
- Hôm xảy ra vụ
đánh nhau ở nhà máy xay ông đã nói những gì với những người Cô- dắc địa phương?
- Thật ra…
- Thôi, ông có thể
ra ngoài.
Stokman bước ra
khỏi sân thượng của nhà Mokhov (bọn quan lại bao giờ cũng tránh ở nhà trọ và
đến ở nhà Sergey Platonovich) rồi nhún vai, ngoái cổ lại nhìn hai cánh cửa sơn.
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 30
Hạt lúa nẩy mầm,
trồi lên những cái lá nhọn hoắt, xanh rờn, rồi lớn dần. Một tháng rưỡi sau, một
con quạ đã có thể trốn vào trong đó, kín cả đầu, không để người ta trông thấy.
Cây lúa hút màu dưới đất đâm bông rồi nở hoa. Phấn hoa vàng óng phủ kín bông.
Hạt lúa mọng lên chất sữa vừa thơm vừa ngọt. Người nhà nông ra đồng, cứ ngắm
nhìn mà nở ruột nở gan. Nhưng không biết từ đâu có một đàn gia súc lạc vào đám
lúa, dẫm lung tung, nát cả những bông lúa nặng trĩu trên đồng. Nhìn chỗ đàn gia
súc xéo nát cả một khoảng lúa, thì không căm giận, không đau lòng sao được.
Tình cảnh Acxinhia
cũng như thế đôi ủng da dầu nặng chình chịch của Grigori đã dẫm nát cái tình
cảm vừa nở rộ thành những bông hoa vàng óng. Thế là tất cả đều cháy ra tro, tất
cả đều bị làm ô uế.
Sau khi ở vườn
hướng dương nhà Melekhov về, Acxinhia cảm thấy lòng mình trống rỗng và hoang
dại như một cái sân đập lúa bị bỏ quên, đầy gai và cỏ dại. Nàng vừa đi vừa nhay
nhay một góc chiếc khăn bịt đầu, trong khi đó tiếng khóc cứ dồn lên đến cổ, chỉ
muốn bật ra.
Vừa vào được tới
phòng ngoài, Acxinhia nằm vật ngay xuống sàn. Nàng cảm thấy nghẹt thở vì nước
mắt, vì đau khổ, vì cái trống rỗng đen ngòm tràn ngập trong đầu… Nhưng sau đó,
tất cả rồi cũng qua. Chỉ trong đáy lòng còn có cái gì rất nhọn cứ day dứt làm
tình làm tội nàng.
Cây lúa bị bò ngựa
dẫm nát vẫn cứ vươn đậy. Có sương mai, có ánh sáng mặt trời, thân cây lúa bị
giúi xuống đất lại ngửng đầu lên. Đầu tiên nó vẫn còn khom khom như người khuỵu
xuống dưới một sức nặng không thể kham nổi, nhưng sau đó vẫn rướn thẳng dậy,
ngửng lên, để hưởng ánh mặt trời và vẫn như xưa lại ngả nghiêng trước gió…
Đêm đêm, Acxinhia
vuốt ve âu yếm chồng như điên như dại, nhưng đầu óc nàng lại nghĩ đến một người
đàn ông khác. Trong lòng nàng, căm thù và tình yêu lớn lao trộn lẫn làm một.
Trong tư tưởng, người đàn bà đã đi tới một ý định rồ dại mới, một sự cuồng si
như cũ: Nàng quyết đoạt lại Griska từ trong tay Natalia, một con người sung
sướng chưa từng nếm qua cái đau khổ cũng như niềm vui trong tình yêu. Đêm đêm,
trong lúc cặp mắt ráo hoảnh của nàng chớp chớp trong bóng tối, Acxinhia đắn đo
cân nhắc một mớ không biết bao nhiêu ý nghĩ. Stepan gối lên cánh tay phải của
nàng. Cái đầu rất đẹp của anh ta nặng thêm ra trong khi ngủ, với bờm tóc xoắn
dài chải lật sang bên. Miệng Stepan he hé, thở phì phò. Một bàn tay đen xạm
sắt, lao động đến nứt nẻ, luôn luôn ngọ nguậy. Acxinhia suy nghĩ. Nàng tính
toán. Nàng rà đi xét lại. Nhưng chỉ có một điều mà nàng quyết tâm làm kỳ được
dành lại Griska từ tay tất cả mọi người, làm cho Griska chìm ngập trong tình
yêu của mình, chiếm hẳn lấy Griska cũng như trước kia. Và tận đáy trái tim
nàng, một cái gì nhọn nhọn, tương tự như cái vòi của mà con ong đốt còn để lại,
cứ ăn sâu thêm làm nàng đau nhức nhối.
Nhưng đó chỉ là ban
đêm thôi, chứ ban ngày thì Acxinhia lại nhận chìm tất cả các ý nghĩ ấy trong
những nỗi quan tâm lo lắng khác trong những công việc nội trợ bận rộn. Thỉnh
thoảng nàng cũng có gặp Grigori ở một nơi nào đó. Mỗi lần như thế, nàng thường
tái mặt đi, lại đưa cái thân hình tuyệt đẹp luôn luôn thèm nhớ chàng diễu qua
mặt chàng, và cặp mắt trâng tráo gợi tình của nàng thì cứ nhìn sâu tới đáy cặp
mắt đen láy của Grigori.
Sau mỗi lần gặp
Acxinhia, Grigori lại cảm thấy nhớ nhung day dứt. Chàng thường vô duyên vô cớ
phát khùng, chàng đổ nỗi bực dọc của mình lên Đanhiasca, lên mẹ, nhưng phần
nhiều chàng lấy thanh gươm, rồi ra sân sau nhà, chém những cành cây to chôn
dưới đất, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, những hòn tròn tròn lên lên xuống xuống hai
bên má. Chỉ một tuần mà Grigori đã chém một đống tướng.
Ông Panteley
Prokofievich thấy thế chửi rầm lên, cả cái vòng tai lẫn lòng trắng con mắt ông
đều long lanh:
- Đồ quỷ dữ, đồ
khốn nạn, mầy chém như thế là phí toi hai cái hàng rào rồi! Mẹ mầy chứ, tưởng
làm vương làm tướng gì. Đi mà thi bổ củi… Đồ nhãi ranh, mầy hãy chờ ít lâu nữa
thôi, đi lính tha hồ mà bổ! Ở đấy thì chẳng mấy ngày người ta sẽ trị được những
thằng như mầy.
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 31
Để sửa soạn đoàn xe
đón dâu, nhà trai trang hoàng bốn chiếc xe hai ngựa. Một đám người quần lành áo
tốt như trong ngày hội, đứng túm tụm quanh những chiếc britka đỗ trong sân nhà
Melekhov.
Phù rể Petro đứng
cạnh chú rể. Petro mặc một chiếc vét- tông đen và một cái quần rộng màu xanh đa
trời có nẹp, quanh tay áo bên trái buộc hai chiếc khăn trắng. Sau bộ ria màu
lúa chín luôn luôn thấy nở một nụ cười mát đầy vẻ tự tin.
- Griska nầy, đừng
có rụt rè e thẹn nhé? Phải ngẩng cao đầu lên như một con gà trống mới được. Sao
lại ỉu xìu cau cau có có thế?
Quang cảnh chung
quanh mấy chiếc xe thật là ầm ĩ, rối tinh rối mu.
- Phù rể đi đâu mất
rồi? Đã đến giờ lên đường rồi đấy. Ông bạn đỡ đầu ơi!
- Gì thế?
- Ông bạn đỡ đầu ạ,
bác đi chiếc xe thứ hai nhé! Bác có nghe thấy không, ông bạn đỡ đầu!
- Có mắc thêm những
cái sàn treo lên xe không nhỉ?
- Có lẽ không có
sàn treo, bác ngồi cũng không đến nỗi long mất chân tay đâu. Xe chạy êm lắm!
Với cái váy len màu
tiết dê, người thon và mềm mại như nhành liễu đỏ, Daria chạy ra hích Petro một
cái và giương cao cặp lông mày tô đen thành hai đường vòng cung:
- Đến giờ lên đường
rồi đấy. Anh ra nói với cha đi. Bây giờ có lẽ bên ấy họ đang chờ rồi đấy.
Chợt thấy ông bố
khập khiễng bước ra không biết từ chỗ nào. Petro thì thầm với ông vài câu rồi
ra lệnh:
- Xin mời bà con cô
bác lên xe! Năm vị lên chiếc britka của tôi, cùng với chú rể. Anh Anikey cầm
cương nhé!
Mọi người đã ngồi
yên chỗ. Bà Ilinhitna trịnh trọng ra mở cổng lớn mặt bà đỏ như gấc. Bốn chiếc
britka đuổi nhau trên đường phố.
Petro ngồi bên cạnh
Grigori, Daria ve vẩy chiếc khăn tay bằng đăng- ten, ngồi trước mặt hai người.
Thỉnh thoảng những chỗ ổ gà hay những đoạn sống trâu trên đường lại làm ngắt
quãng tiếng hát ê a. Những vành mũ cát- két Cô- dắc đỏ lóe, những chiếc áo quân
phục, áo vét tông xanh hay đen, những cánh tay áo buộc những mảnh khăn trắng,
những chiếc khăn choàng của phụ nữ nổi như một chiếc cầu vồng bị cắt thành
nhiều đoạn, những cái váy sặc sỡ, bụi kéo dài sau mỗi chiếc britka như những
cái đuôi áo bằng voan mỏng. Đoàn xe của nhà trai đi đón dâu.
Anikey, láng giềng
của nhà Melekhov, điều khiển hai con ngựa.
Tính ra Anikey là
anh em con chú con bác với Grigori. Hắn cúi rạp người, như sắp ngã từ trên ghế
xuống và không ngừng miệng quát, tay quất roi đen đét. Hai con ngựa đầm đìa mồ
hôi kéo căng dây thắng, vươn thẳng mình ra như sợi dây đàn.
- Quất chúng nó đi!
Quất đi! - Petro gào lên.
Anh chàng không râu
không ria Anikey nháy mắt với Grigori, cười nhăn cả khuôn mặt nhẵn thín như mặt
đàn bà, rồi vừa rít lên vừa vung roi quất tới tấp hai con ngựa.
- Tránh ra!
Ông Ilia Ogiôghim,
cậu của chú rể, vừa vượt chiếc xe của Anikey, vừa gầm lên như sấm. Sau lưng
ông, Grigori thoáng nhìn thấy khuôn mặt sung sướng của Dunhiaska với cặp má
bánh mật núng nính.
- Không, chờ đấy mà
xem! Anikey nhảy lên đứng thẳng trên ghế, kêu lên rồi huýt một tiếng sáo inh
tai nhức óc.
Những con ngựa đua
nhau phi như điên như cuồng.
- Khéo ngã ngã bây
giờ? - Daria đứng chồm dậy, vừa thét lên vừa đưa hai tay ôm lấy đôi ủng véc ni
của Anikey.
- Cố lên nhé! - Cậu
Ilia ở xe bên kia gào to. Nhưng tiếng của ông chìm ngay trong những tiếng bánh
xe long sòng sọc.
Hai chiếc britka
còn lại cũng chạy song song trên đường. Trên xe đầy những người quần áo sặc sỡ
như nở hoa, luôn miệng la hét om sòm. Mấy con ngựa đều khoác những cái áo đỏ
tía, xanh da trời hoặc hồng nhạt, bờm và lông trán con nào con nấy đều kết hoa
giấy cùng với những dải màu, con nào cũng vươn dài mình trên quãng đường gập
ghềnh, nhạc leng keng, mồ hôi sủi lên như bọt xà phòng chảy ròng ròng xuống
đất. Trên những cái lưng ngựa ướt đẫm, những tấm áo ngựa bị gió thốc lên đập
phần phật, nhăn nhúm lại.
Bên cổng nhà
Korsunov, một đám trẻ nhỏ đã chờ đón đoàn xe đón dâu. Thấy trên đường có bụi
bốc lên, chúng chạy ùa vào trong sân.
- Họ đến rồi!
- Ngựa phi ghê
không kìa!
- Trông thấy rõ
rồi?
Getko chạy ra, bọn
trẻ vây ngay lấy anh ta.
- Làm gì mà xúm
đông xúm đỏ thế nầy? Có cút cả đi không, lũ chim sẻ đáng ghét nầy? Léo nha léo
nhéo điếc cả tai người ta?
- Khô- khon 1, ê,
đồ bán nhựa chưng? Có giỏi thì cứ trêu nhau đi? Khô- khon! khô- khon…! Cái
thằng bán nhựa chưng! - Bọn trẻ hò la inh ỏi, nhảy cỡn, chung quanh cái quần
rộng thùng thình của Getko với hai ống quần nom như hai cái bao tải.
Getko gãi gãi cái
bụng vừa dài vừa căng, mỉm nụ cười độ lượng, nhìn đàn trẻ la thét như hoá rồ.
Anh ta cúi hẳn xuống như người ta nhìn xuống một cái giếng.
Mấy chiếc britka
chạy ầm ầm vào trong sân, Petro đưa Grigori lên thềm. Những người trong đoàn
đón dâu lũ lượt vào theo.
Cái cửa từ phòng
ngoài vào bếp bị đóng chặt, Petro gõ cửa:
- Lạy Đức Chúa Giê-
su, xin Người tha nợ cho chúng tôi?
- Amen! - Bên kia
cửa có tiếng trả lời.
Petro gõ cửa ba lần
và nhắc lại câu trên ba lần. Bên trong cũng ba lần có tiếng trả lời trầm trầm.
Nhà ta có cho phép
chúng tôi vào không ạ?
- Chúng tôi rất hân
hạnh được mời!
Cửa mở toang. Phù
dâu, mẹ đỡ đầu của Natalia, một người đàn bà goá còn đẹp lắm, ra đón phù rể.
Phù dâu cúi chào, miệng cười chúm chím, đỏ mọng như một trái đùm đùm.
- Xin mời chàng phù
rể uống cho khỏe người.
Phù dâu đưa cho
Petro một cốc kvas đục ngầu, còn chưa ngấu.
Petro vuốt ria,
uống cạn, húng hoắng ho. Mọi người chung quanh cố nín cười.
- Chà cô phù dâu
thân mến của tôi thết tôi như thế đấy! Thôi chờ lát nữa, quả đũm hương xinh đẹp
của tôi ạ, tôi sẽ không chỉ thết cô như thế nầy thôi đâu. Không khóc với tôi không
xong đâu!
- Có gì không phải
cũng xin chàng phù rể thứ lỗi cho? - Phù dâu nghiêng đầu xin lỗi và tặng cho
Petro một cái cười rất tinh quái.
Trong lúc phù dâu,
phù rể thi nhau khoa môi múa mép, theo đúng ước hẹn trước, người ta đem ra mời
mỗi người trong họ nhà trai ba cốc vodka.
Natalia ngồi ở bàn
và bị canh giữ. Nàng đã mặc áo cưới, đầu choàng khăn voan mới. Marisca cầm lăm
lăm một cái trục cán bột giơ thẳng trước mặt. Còn Gripka thì lắc lắc một cái
xẻng gieo hạt, vẻ mặt rất nghịch ngợm.
Lúc nầy vodka đã
làm cho Petro ngà ngà say, mồ hôi đầm đìa.
Anh chàng cúi chào
rồi đưa cho mỗi đứa một đồng năm mươi kopek bỏ trong một cái cốc nhỏ. Phù dâu
nháy mắt với Marisca.
Marisca bèn đập cái
trục cán bột xuống bàn:
- Rẻ quá! Không bán
cô dâu đâu!
Petro bèn bỏ thêm
vào cái cốc một dúm vài đồng tiền lẻ bằng bạc, tiếng tiền rơi leng keng.
- Không bán đâu! -
Hai đứa bé vẫn găng và hích khuỷu tay vào Natalia, Natalia cứ cúi gầm mặt
xuống.
- Sao lại thế! Trả
như thế quá đắt rồi.
- Thôi bằng lòng
bán đi, hai con bé nầy! - Miron Grigorievich ra lệnh và mỉm cười len ngồi vào
bàn. Bộ tóc hung đỏ của ông chải bằng bơ nấu lỏng nặc mùi mồ hôi và mùi phân
bò.
Họ hàng bạn bè của
cô dâu đang ngồi quanh bàn đều đứng dậy nhường chỗ cho ông.
Petro giúi vào tay
Grigori đầu một chiếc khăn rồi nhảy lên một chiếc ghế dài, vươn tay qua cái
bàn, dẫn Grigori tới chỗ cô dâu ngồi, dưới những bức hình thánh, Natalia cầm
lấy đầu kia của chiếc khăn trong bàn tay đẫm mồ hôi vì ngượng.
Quanh bàn, người ta
ăn uống nhồm nhoàm, người ta lấy tay xé thịt gà luộc, rồi chùi tay lên đầu.
Anikey gặm một chiếc đùi gà, mỡ gà vàng ệch chảy sền sệt trên cái cằm nhẵn thín
xuống tới cổ áo.
Grigori tiếc rẻ
nhìn hai cái cùi dìa của mình và của Natalia bị buộc liền với nhau bằng một
chiếc khăn nhỏ, rồi lại nhìn món mì bốc khói nghi ngút trong một cái bát men.
Chàng đói lắm rồi, bụng cồn cào đến là khó chịu.
Daria ngồi ăn thoải
mái bên cạnh cậu Ilia. Cậu Ilia xé một miếng sườn cừu bằng những cái răng nanh
rất to. Chắc hẳn cậu đang rỉ tai Daria những điều tục tĩu gì đó, vì thấy Daria
nheo mắt, rung rung hai hàng lông mày, đỏ mặt phá lên cười.
Mọi người ăn cật
lực, ăn mãi không thôi. Mùi mồ hôi đàn ông nặng như mùi nhựa chưng xông lên,
lẫn với mùi mồ hôi đàn bà hăng hắc. Cất lâu trong hòm mới lấy ra, những cái
váy, những cái áo ngoài của đàn ông, những chiếc khăn quàng đều nặc mùi băng
phiến, ngoài ra còn một cái mùi nồng nặc, ngầy ngậy, y như mùi quần áo lễ cũ
nát của các bà già.
Grigori liếc nhìn
Natalia. Đến bây giờ chàng mới nhận thấy lần đầu tiên rằng môi trên của nàng
hơi dầy, hơi trều ra ngoài môi dưới.
Chàng còn nhìn thấy
thêm một nốt ruồi nâu nâu trên má bên trái, hơi dưới gò má một chút. Trên cái
nốt ruồi ấy lại có hai sợi lông vàng óng. Và tự nhiên Grigori thấy khó chịu làm
sao ấy. Chàng bỗng nhớ tới những món tóc loăn xoăn, mềm mại trên cái cổ tròn
trặn của Acxinhia. Và chàng có cảm giác như bị người ta vạch cổ áo, rắc xuống
cái lưng đẫm mồ hôi của mình một nắm cỏ ngứa. Grigori rùng mình, cố nén cái cảm
giác buồn nhớ ngao ngán, và cứ nhìn đám người đang nhai nhồm nhoàm, gặm rau
ráu, nuốt ừng ực.
Khi hai họ đứng
lên, rời khỏi bàn ăn thì có một người thở ra toàn mùi vư- dư- va 2 và mùi bánh
mì chua loét, cúi xuống nhét vào ống đôi ủng của Grigori một dúm kê, làm như
thế là để chú rể khỏi gặp phải chuyện gì chẳng lành nếu bị người nào có con mắt
ác độc nhìn mình. Suốt đường về, những hạt kê cứ lộm cộm lạo xạo dưới chân.
Cổ áo sơ mi chật bó
lấy cổ rất khó thở, Grigori bị khổ sở vì các nghi thức của lễ cưới cứ chửi thầm
trong một tâm trạng tức tối tuyệt vọng.
--- ------ ------
------ -------
1 Tên người Cô- dắc dùng để gọi một cách khinh miệt những người Ukraina
đến ở vùng sông Đông (ND).
2 Một thứ mứt làm bằng hoa quả khô và nho khô thắng với mật ong (ND).
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 32
Sau khi được nghỉ
ngơi ở nhà Korsunov những con ngựa lại dốc tất cả sức lực còn lại để phi về sân
nhà Melekhov. Mồ hôi ngựa sủi bọt từng đám trên những dây thắng bằng da, chảy
xuống ròng ròng.
Mấy anh chàng đánh
xe chuếnh choáng hơi men thẳng tay đánh ngựa, không chút thương tiếc.
Hai ông bà Melekhov
ra đón đám rước dâu. Ông Panteley Prokofievich bê một bức hình thánh, vài sợi
bạc loáng thoáng trong bộ râu đen láy của ông. Bà Ilinhitna đứng bên cạnh với
cặp môi mỏng mím chặt như tạc trong đá.
Grigori và Natalia
bước tới cho cha mẹ chúc phúc, trên người đầy những hạt hốt bố và hạt lúa mì.
Trong khi chúc phúc cho hai con, ông Panteley Prokofievich lỡ để rơi vài giọt
nước mắt, vì thế ông luống cuống, cau có tự trách mình sao lại để người ta bắt
gặp mình có những phút yếu đuối như thế.
Cô dâu chú rể bước
vào trong nhà. Mặt đỏ bừng bừng vì vodka, vì chặng đường trên xe ngựa, vì dãi
nắng, Daria chạy bổ lên thềm, vấp phải Dunhiaska đang từ trong bếp chạy ra:
- Anh Petro đâu
rồi?
- Em chẳng thấy đâu
cả.
- Đã đến lúc phải
đến nhà đức cha rồi mà cái ông chết tiệt ấy lại dẫn xác đi đâu mất hút.
Petro đã uống quá
nhiều vodka, nên đang rên rỉ nằm thẳng cẳng trên chiếc xe bò đã tháo phần
trước. Daria vồ lấy Petro như con diều hâu:
- Nốc nữa vào, ông
mãnh? Có chạy đến nhà đức cha không thì bảo! Dậy ngay đi!
- Mày xéo đi đằng
nào thì xéo? Ông không thèm nhận mày nữa đâu! Làm gì mà như bà tướng ấy?
Petro vừa lý sự vừa
sờ soạng hai bàn tay trên mặt đất, quơ lấy một nắm vừa cứt gà vừa rơm bò ngựa
ăn thừa.
Daria mếu máo thọc hai
ngón tay vào miệng chồng, ấn cái lưỡi nói năng nhảm nhí xuống, giúp cho Petro
nôn ra. Petro còn đang sững sờ trước một cuộc tấn công bất ngờ như thế thì
Daria đã dội tuôn lên đầu đức ông chồng một thùng nước giếng, rồi thuận tay vớ
luôn cái đệm lót lưng ngựa lau cho khô, và lôi đến nhà cố đạo.
Một giờ sau,
Grigori đã đứng trong nhà thờ bên cạnh Natalia.
Dưới ánh nến, nom
Natalia càng đẹp ra. Grigori nắm chặt trong tay một cây nến sáp ong, hai con
mắt chàng như chẳng nhìn thấy gì, cứ đờ đẫn lướt qua những người đang thì thầm
đứng sát với nhau thành cả một bức tường. Lúc nầy trong óc chàng chỉ có một ý
nghĩ ám ảnh: "Từ nay hết léng phéng nhé… Từ nay hết léng phéng nhé…".
Petro đứng sau lưng Grigori húng hắng ho, mặt xị ra.
Trong đám người
thoáng thấy long lanh cặp mắt của Dunhiaska cùng vài bộ mặt như quen như lạ.
Những giọng đồng ca lạc điệu và tiếng đọc kinh kéo dài của lão trợ tế vẳng đến
tai Grigori. Chàng không thể nào giũ bỏ được cái tâm trạng dửng dưng với tất
cả. Trong khi đi quanh giá kinh, chàng dẫm cả lên một gót ủng mòn vẹt của cha
Visarion đang ê a cầu kinh bằng một giọng ngạt mũi. Mãi đến lúc bị Petro khẽ
kéo tà áo, Grigori mới đứng lại, và đưa mắt nhìn những ánh nến chập chờn, cố
chống lại cái chán ngán buồn ngủ nó đang làm cho chàng đần độn, mụ người ra.
- Hai con trao nhẫn
cho nhau đi! - Cha Visarion nhìn Grigori với ánh mắt ấm áp.
Hai người trao nhẫn
cho nhau, Grigori liếc sang bên, bắt gặp còn mắt của Petro bèn hỏi bằng mắt:
"Sắp xong cả chưa?" Petro cố nín cười, chỉ khẽ động bên mép: "Sắp
xong rồi". Sau đó Grigori hôn ba lần cặp môi ướt nhưng vô vị của vợ. Trong
nhà thờ nồng nặc cái mùi mê muội của khói nến mới tắt. Những người đứng chen
nhau dưới vòm của nhà thờ bắt đầu ra ngoài.
Grigori nắm trong
tay chàng bàn tay vừa to vừa ráp của Natalia, bước ra thềm nhà thờ. Không biết
có ai chụp cho chàng cái mũ cát- két lên đầu.
Một luồng gió hiu
hiu, ấm áp, mang từ phía nam tới mùi ngải cứu. Từ đồng cỏ thỉnh thoảng cũng có
một luồng gió mát rượi thổi tới ở một chỗ nào đó bên kia sông Đông thoáng thấy
một ánh chớp lằng nhằng xanh lè.
Sắp mưa đến nơi
rồi. Nhưng bên ngoài bức tường trắng vây quanh sân nhà thờ, tiếng người lao xao
hoà lẫn với tiếng những con ngựa dẫm chân làm rung những cái nhạc, tiếng nhạc
ngựa leng keng nghe sao mà tha thiết dịu dàng.
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 33
Mãi sau khi cô dâu
chú rể đã được đưa đi nhà thờ, bên nhà Korsunov mới sang. Trước khi nhà gái
tới, chốc chốc ông Panteley Prokofievich lại ra khỏi cổng, nhìn dọc theo dãy
phố nhưng con đường xám xám nằm giữa những bụi gai nhọn như kim, vẫn không một
bóng người, cứ như bị cái gì liếm sạch. Ông lại chuyển tầm mắt sang bên kia
sông Đông. Khu rừng bên đó đã vàng hẳn ra rồi. Những dải lau già lờm xờm mệt
mỏi gục đầu xuống trên những mảnh hồ nhỏ và trên những đám hương bồ. Bầu trời
xanh ngắt lúc sắp sang thu rầu rĩ, mơ màng, chìm trong ánh hoàng hôn đang trùm
lên thôn Tatarsky, lên sông Đông, lên những trái núi đá phấn, lên những khu
rừng nấp dưới màn sương tím ngắt bên kia sông Đông, lên đồng cỏ. Sau chỗ rẽ ra
đường cái, ở ngã tư cái nóc nhọn hoắt của toà nhà thờ in một hình thanh thanh
trên nền trời.
Chợt vẳng đến tai
ông Panteley Prokofievich những tiếng bánh xe lọc cọc nghe rất gấp nhưng cũng
rất khẽ và tiếng chó sủa oăng oẳng. Hai chiếc britka xông thẳng từ bãi họp vào trong
thành phố.
Trên chiếc xe đầu,
hai vợ chồng Miron Grigorievich và Lukinhitna ngồi lắc lư bên nhau trên cái ghế
treo. Cụ Grisaka ngồi trước mặt hai người. Cụ mặc chiếc áo quân phục mới có đeo
những huân chương và huy chương thánh Gioóc, Mitka ngồi cầm cương một cách thờ
ơ trên ghế xà ích. Nó cũng chẳng buồn cho hai con ngựa huyền trông thấy cái roi
nhét dưới chỗ ngồi, nhưng cặp ngựa được nuôi no đủ đã hăng lên sau chặng đường.
Trên xe thứ hai, gã Mikhey ngửa hẳn người ra sau để ghìm cương, cố cho hai con
ngựa đang phi chuyển sang nước kiệu. Khuôn mặt gầy guộc không có lông mày của
Mikhey đã ửng lên một ánh tím tứn, mồ hôi đổ ra như tắm dưới cái lưỡi trai nứt
đôi.
Ông Panteley
Prokofievich mở rộng cổng lớn, hai chiếc britka theo nhau chạy vào trong sân.
Bà Ilinhitna bước lạch bạch trên thềm xuống như một con ngỗng cái, cái váy của
bà quét lệt sệt trên những rác rưởi và phân ở ngưỡng cửa.
- Xin rước cụ và
ông bà thông gia yêu quý quá bước vào tromg nhà ạ! Nhà chúng tôi thanh bạch hân
hạnh được đón tiếp cụ và ông bà! - Bà nói xong cố khom cái lưng cánh phản.
Ông Panteley
Prokofievich nghiêng đầu, dang rộng hai tay:
- Thưa cụ và ông bà
thông gia yêu quý! Xin kính mời cụ và ông bà vào nhà trong. - Ông nói rất to
rồi quát người trong nhà ra tháo ngựa và bước tới trước mặt ông thông gia.
Miron Grigorievich
chùi bàn tay vào quần cho hết bụi. Hai bên chào hỏi nhau xong, cùng bước lên
thềm. Bị lắc mạnh quá trong một chuyến đi xe mà đã lâu cụ mất thói quen, cụ
Grisaka đi chậm lại phía sau. Bà Ilinhitna thấy thế vội nói:
- Cụ thông gia yêu
quý, xin rước cụ, xin rước cụ vào nhà ạ!
- Bà cứ để tự nhiên
cho, xin cám ơn bà… chúng tôi sẽ vào ngay.
- Chúng tôi mong cụ
và ông bà mãi, xin rước cụ vào cho. Chúng tôi sẽ lấy ngay cái chổi để cụ thông
gia phủi sạch áo quân phục. Hôm nay bụi mù mịt, chẳng làm thế nào thở được nữa.
- Vâng, đúng thế
đấy, trời hanh quá… Vì thế nên nhiều bụi.
- Nhưng thưa bà
thông gia, bà cứ mặc tôi, tôi chỉ cần… - Thấy mẹ chồng con cháu mình quá chậm
hiểu, cụ Grisaka đành cúi chào, đi giật lùi về phía nhà kho rồi lần ra sau cái
máy quạt thóc vừa sơn lại.
- Bà thật là ngu
khổ ngu sở, sao cứ quấn lấy chân ông lão như thế? - Ông Panteley Prokofievich
chờ bà Ilinhitna lên đến trên thềm, rồi cho luôn một trận. - Ông cụ có cái việc
cần riêng của người già, thế mà mụ thì cứ… Sì, trời ơi là trời, ngốc ơi là
ngốc!
Nhưng tôi làm thế
nào mà biết được? - Bà Ilinhitna luống cuống.
- Cũng phải biết
hiểu ra chứ. Thôi, bà chẳng có việc gì ở đây cả, ra mà tiếp bà thông gia của bà
đi.
Quanh những cái bàn
thức ăn bày la liệt, những người khách chếnh choáng hơi men đang lè nhè chuyện
trò ầm ĩ. Bên nhà gái được mời ngồi vào bàn ở phòng trong. Chẳng mấy chốc hai
vợ chồng trẻ đã ở nhà thờ về. Ông Panteley Prokofievich rót rượu trong bình,
nước mắt ròng ròng.
- Nào, xin mời cụ
và ông bà thông gia yêu quý mừng cho hai cháu. Chúc cho chúng nó được mọi sự
tốt lành, được thuận vợ thuận chồng như chúng ta vậy… Chúc cho chúng nó được
sống một cuộc đời sung sướng và khỏe mạnh…
Người ta đổ cho cụ
Grisaka một cái ly tròn xoe đầy rượu, một nửa lọt được vào cái miệng xồm xoàm
những đám râu xanh xanh, một nửa chảy lênh láng xuống cái cổ đứng của áo quân
phục. Hai họ ra sức uống, uống chạm cốc cũng có, uống tuỳ thích chẳng kể gì đến
ai cũng có. Ồn ào quá là vỡ chợ, Nikifo Koloveydin, một lão cựu chiến binh
trung đoàn Atamansky, có họ xa với nhà Korsunov, ngồi ở tít đầu bàn bên kia.
Lão giơ tay gào lên:
- Gorka 1!
- Gorka! - Mọi
người quanh bàn đều hùa theo.
- Nào, Gorka? -
Những người chen chúc như nêm trong bếp cũng nhao nhao hưởng ứng.
Grigori cau mày hôn
cặp môi nhạt thếch của vợ rồi lừ lừ nhìn quanh, hai con mắt cứ như mắt con thú
rừng bị vây đánh.
Những khuôn mặt đỏ
rừ, những cặp mắt đục ngầu vì hơi men, những cái nhìn và những nụ cười sỗ sàng
thô bỉ, những cái miệng nhai khoái trá, nước rớt nước rãi sặc sụa mùi rượu chảy
lòng thòng xuống những tấm khăn bàn thêu. Tóm lại là một cuộc nhậu nhẹt như
điên.
Lão Nikifo
Koloveydin lại giơ tay, hoác cái miệng móm gần hết răng:
- Gorka!
Trên tay chiếc áo
quân phục màu xanh da trời của trung đoàn Atamansky hiện lên nhăn nheo ba gạch
lon vàng: Koloveydin vốn là lính tái đăng.
- Gor…ka!
Grigori căm hờn
nhìn cái miệng móm mém của Koloveydin mỗi khi lão la lên: "Gorka" thì
cái lưỡi đỏ lòm và lầy nhầy của lão lại thòi lòi ra như một cái tẩu thuốc trong
khoảng trống của những cái răng gãy.
- Hôn nhau đi, cô
dâu chú rể… - Petro rung rung chòm ria đẫm vodka khẽ nhắc.
Trong bếp, Daria đã
ngà ngà say, mặt đỏ hây hây. Chị chàng cất tiếng hát một bài. Mọi người hoà
theo. Tiếng hát vang vào trong phòng:
Qua sông thì đã có
cầu,
Xe phóng lên cầu,
Xe vượt qua sông…
Các giọng hát quyện
lấy nhau. Tiếng Khristonhia vượt trước mọi người, gầm lên như sấm, rung cả cửa
kính:
Nếu ai đem rượu ra
đây,
Chúng ta sẽ uống
hêt ngay tức thì.
Cánh đàn bà trong
phòng ngủ đồng thanh hát the thé:
Lạc mất rồi,
Lạc mất rồi,
Lạc mất giọng tôi
rồi.
Để góp thêm sức,
một giọng nam già rung lên như tiếng đai thùng:
Lạc mất rồi,
Lạc mất rồi,
Lạc mất giọng tôi
rồi.
Vì tôi bay lạc vườn
người,
Ăn phải trái ai chua.
- Nào, xin mời quan viên hai họ cứ vui
chơi cho thoả…!
- Mời bác nếm thử món thịt cừu.
- Chân với cẳng, có thu lại không nào…
chồng tôi nó đang nhìn kia kìa!
- Gorka- a- a!
- Phù rể cừ lắm, đối đáp được với phù
dâu đấy.
- Không, khô- ô- ông đâu, bác đừng thết
tôi món thịt cừu làm gì…
- Có lẽ tôi ăn một miếng cá chiên
chăng… Nhưng tôi cũng thử một miếng xem sao nào, be- e- éo ra béo.
- Ông bạn đỡ đầu Proska ạ, chúng ta
cùng cạn với nhau một chén nào.
- Chà cháy cả họng…
Semion Gordeevich!
- Gì thế?
- Ông Semion
Gordeevich!
- Cút mẹ ông đi!
Trong bếp, sàn nhà
chao đảo, cong xuống dưới những đế giày đập chan chát. Một cái cốc rơi xuống,
những tiếng loảng xoảng ấy chìm ngay trong tiếng ầm ầm chung, Grigori nghểnh
nhìn vào bếp qua đầu những người ngồi quanh bàn, một nhóm phụ nữ đang vừa nhảy
vòng tròn vừa rú lên, rít lên, vừa rung những cặp mông to tầy dành (mỗi người
mặc năm bảy cái váy thì kiếm đâu ra người gầy). Họ vung những chiếc khăn tay
đăng- ten, ngoáy ngoáy khuỷu tay.
Tiếng một chiếc
accordeon ba dãy phím bỗng vang lên mạnh mẽ, giục giã. Anh chàng chơi đàn bắt
đầu dạo một điệu vũ Cô- dắc bằng những nốt rung láy trầm.
- Xin đành cho một
vòng tròn? Cho một vòng tròn!
- Xin mời bà con
tránh ra lấy chỗ! - Petro vừa kêu gọi vừa đẩy vào bụng mấy chị đàn bà nhảy đã
mệt nhoà, mồ hôi đầm đìa.
Grigori tự nhiên
thấy vui. Chàng nháy mắt ra hiệu cho Natalia:
- Em xem kìa, anh
Petro sắp nhảy điệu Cô- dắc đấy?
- Anh ấy nhảy với
ai thế?
- Thế em không
trông thấy à? Nhảy với bà cụ nhà em đấy.
Bà Lukinhitna chống
nạnh hai tay vào sườn, trong tay trái có một chiếc khăn.
- Nào, anh tiến lên
trước đi, nếu không tôi lên trước đấy!
Petro đi rất nhanh
những bước rất ngắn, tiến tới trước mặt bà Lukinhitna, khuỵu đầu gối chào hết
sức duyên dáng, rồi lại quay về chỗ cũ. Bà Lukinhitna kéo gấu váy lên như muốn
lội qua vũng nước, đập mũi giầy đánh nhịp, rồi lăng chân theo kiểu đàn ông,
tiến lên giữa những tiếng trầm trồ của mọi người.
Cây accordeon chơi
một nốt rung thật trầm. Tiếng nhạc rung ấy đã làm cho Petro nảy bật người lên,
hô to một tiếng và ngồi sụp xuống nhảy điệu pơ- ri- xi- át- ca, hai tay đập bôm
bốp vào ống ủng, một đầu ria ngậm ở một bên mép. Rồi hai chân Petro rung lên,
hai đầu gối đưa ra đưa vào loang loáng, mắt người xem nhìn không kịp nữa. Ngay
cái bờm tóc đẫm mồ hôi nảy bán bật trên trán cũng không theo kịp nhịp chân.
Vì ngồi sau lưng
những người đứng túm tụm ở cửa phòng nên Grigori không trông thấy Petro mà chỉ
nghe thấy tiếng hai đế ủng đóng cá sắt đập chan chát xuống sàn, cứ như tiếng
một mảnh ván gỗ thông cháy, và những tiếng hò khuyến khích của quan viên hai họ
đã say mềm.
Cuối cùng Miron
Grigorievich nhảy với bà Ilinhitna. Miron nhảy cần cù và nghiêm túc cũng như
khi ông làm tất cả các việc khác. Mọi người đều nhảy điệu Cô- dắc, cả những tay
lão luyện lẫn những anh chàng còn chưa biết co chân cho đúng. Ai cũng ra sức hò
la:
- Đừng làm người ta
cụt hứng?
- Ngắn bước lại?
Chà, thằng cha nầy!
- Hai chân kể cũng
lẹ đấy, nhưng nặng phao câu quá.
- Nhanh lên, nhanh
nữa lên?
- Cứ nhất toàn khu
ta đấy.
- Cho ít vư- dư- va
đây, nếu không…
- Chướng bụng lên
rồi phải không, đồ của nợ! Nhảy đi, nếu không ông lại cho một chai vào đầu bây
giờ!
Cụ Grisaka uống đã
khá say. Cụ vòng tay ôm cái lưng cánh phản của lão láng giềng cùng ghế và cứ ghé
sát tai lão ta mà rì rầm như con muỗi:
- Cụ tuyên thệ 2
năm nào nhỉ?
Người ngồi bên cạnh
cụ là một lão già vai u thịt bắp, nom cứ như một cây sồi cổ thụ. Lão vung tay,
ồm ồm trả lời:
- Năm băm chín, con
ạ.
- Năm nào? Hả? - Cụ
Grisaka vểnh cái vành tai nhăn nheo.
- Năm băm chín, đã
bảo rồi mà.
- Thế quý danh cụ
là gì vậy? Người đâu ta?
- Chánh quản kỵ
binh Maxim Bogatyrev thuộc trung đoàn Baklanov. Ta vốn quê ở thôn… thôn Kratnyi
Ia.
- Thân thuộc với
nhà Melekhov à?
- Cái gì hử?
- Tôi hỏi, thân thích
với nhà nầy à?
- À ta là hàng ông chú rể đấy.
- Thế là cụ vốn ở trung đoàn Baklanov
à?
Lão già đưa cặp mắt lờ đờ nhìn cụ
Grisaka rồi gật đầu, một miếng thức ăn nhai mãi không nát đưa đi đưa lại trên
cái lợi móm hết răng.
- Như thế là cụ có dự chiến dịch ở
Kavkaz à 3?
- Ta đã phục vụ trực tiếp dưới quyền
cựu tướng quân Baklanov đấy, cầu cho tướng quân được hưởng phúc nơi thiên
đường. Trung đoàn ta đã bình định vùng Kavkaz. Trung đoàn ta gồm những tay Cô-
dắc thật là hiếm có… Chọn toàn những thằng cao lớn như lính ngự lâm, tuy rằng
có những đứa hơi gù… Đứa nào cũng tay dài, vai rộng, đến những thằng Cô- dắc
ngày nay nằm ngang cũng vừa… Đấy, con xem, hồi ấy là những con người như thế
đấy… Hồi còn quan lớn tướng quân, quan lớn tướng quân đã có lần cầm roi quật ta
ở bản Trelengig đấy…
- Tôi thì đã có mặt trong chiến dịch
Thổ nhĩ kỳ… Còn sao nữa?
- Tôi đã dự kiến chiến dịch ấy đấy,
đúng thế đấy. - Cụ Grisaka ưỡn bộ ngựa khô gầy, làm những chiếc huân chương và
huy chương thánh Gioóc kêu lách cách.
- Bọn ta đã chiếm được bản ấy lúc trời
rạng, đến giữa trưa thì có kèn báo động…
- Chúng tôi đã có dịp được phục vụ Bạch
hoàng đế của chúng ta 4 Trong trận Rossis, trung đoàn chúng tôi, trung đoàn Cô-
dắc sông Đông số mười hai đã đánh nhau với bọn gian- ni- xe 5 của chúng nó đấy
- Khi có kèn báo động…
gười lính của trung đoàn Baklanov không
chú ý nghe cụ Grisaka vẫn nói tiếp.
- Bọn gian- ni- xe của chúng nó thì
cũng tựa như anh em trung đoàn Atamansky của chúng ta ấy. Đúng như thế… - Cụ
Grisaka đang hoa chân múa tay, nói mỗi lúc một hăng. - Chúng nó cũng phục vụ
vua của chúng nó, mà đứa nào cũng đội trên đầu một cái túi trắng. Thật đấy!
Thằng nào cũng đội một cái túi trắng trên đầu.
- Ta bèn nói với một thằng cùng trung
đoàn: "Nầy Timosa ạ, chúng ta sắp rút lui đấy. Cậu giật tấm thảm trên
tường xuống đi, chúng ta sẽ buộc vào cái đai da ở sau yên…".
- Tôi đã được thưởng hai huân chương
thánh Gióoc đấy! Tôi đã được thưởng về tinh thần chiến đấu dũng cảm? Tôi đã bắt
sống được một thằng thiếu tá Thổ nhĩ kỳ…
Cụ Grisaka vừa khóc vừa nắm bàn tay khô
héo đấm thùm thụp vào cái lưng kêu rất vang, bè bè như lưng gấu của ông lão
lính cũ trung đoàn Baklanov. Nhưng lão nầy đang ngoáy một miếng thịt gà vào bát
mứt anh đào mà cứ yên trí rằng đó là nước củ cay, hai con mắt nhìn không sức
sống cứ dán xuống chiếc khăn trải bàn bê bết những mì, cặp môi chảy sệ lắp ba
lắp bắp:
- Con ạ, thế là ma quỷ đã xui khiến ta
làm một điều tội lỗi như thế… - Hai con mắt của lão già cứ đờ đẫn nhìn trân
trân những vết nhăn trên chiếc khăn bàn trắng, tưởng chừng trước mắt lão không
phải là tấm khăn bàn lênh láng vodka và mì sợi, mà là dãy núi Kavkaz tuyết phủ
trắng loá. - Trước lần ấy, lão nào có tơ hào cái gì của ai bao giờ đâu… Thường
mỗi lần chiếm được một bản của dân Tréc- két, trong các nhà dân địa phương
thiếu gì đồ quý, nhưng ta có thèm đâu… Đúng là quỷ dữ đã làm cho ta hám của
người khác… Thế là lần ấy… tấm thảm cứ hút lấy con mắt ta… với những cái viền
có ngù… Ta cứ nghĩ sẽ dùng nó làm cái đệm lót yên ngựa…
- Chúng tôi đã nhìn thấy đủ điều kỳ lạ.
Chúng tôi cũng đã tới những vùng đất ở hải ngoại…
Cụ Grisaka cố nhìn vào mắt ông bạn cùng
bàn, nhưng hai lỗ con mắt ông lão kia cứ lẩn kín sau những đám lông mày và râu
bạc rậm rì, chẳng khác gì hai cái hang mọc đầy cỏ dại. Cụ Grisaka chẳng làm thế
nào mò được ra hai con mắt ấy chỗ nào cũng toàn những món râu cứng rối như bòng
bong. Cụ đành phải dùng mẹo. Để thu hút sự chú ý của ông láng giềng vào phần lý
thú nhất trong câu chuyện mình kể, cụ bèn bắt đầu ngay bằng đoạn giữa câu
chuyện mà chẳng cần phi lộ gì cả.
- Thượng uý Tersintev bèn ra lệnh:
"Các trung đội thành hàng dọc, nước đại… tiến!".
Ông lão lính cũ trung đoàn Baklanov
ngẩng cao đầu lên như con ngựa chiến khi nghe thấy tiếng kêu trận. Lão đấm nắm
tay xương xẩu xuống bàn, khẽ hô:
- Hời anh em trung
đoàn Baklanov! Giáo sẵn sàng chiến đấu! - Đến đây thì giọng ông lão bất thần
trở nên rắn rỏi, cặp mắt đang ảm đạm bỗng long lanh, cháy rực lên cái ánh lửa
xưa kia nay đã bị tuổi già dập tắt. - Hỡi các chàng trai dũng cảm trung đoàn
Baklanov! - lão mở hoác cái miệng chỉ có hai cái lợi vàng ệch, không còn cái
răng nào, gầm lên - Xung phong… tiến!
Rỗi lão quay sang
nhìn cụ Grisaka bằng cặp mắt thông minh rất trẻ. Nước mắt chảy xuống cằm rất
ngứa, nhưng lão cũng chẳng buồn đưa tay áo trermen nhem nhuốc lên lau.
Cụ Grisaka cũng
hăng lên:
- Thượng uý ra lệnh
cho chúng tôi như thế rồi vung gươm. Chúng tôi thúc ngựa xông tới, nhưng bọn
gian- ni- xe đã xếp thành đội hình như thế nầy nầy, - Cụ đưa ngón tay vạch lên
khăn bàn một hình vuông xiên xẹo, - rồi nổ súng vào chúng tôi. Chúng tôi đã
xung phong hai lần, nhưng lần nào cũng bị chúng nó đẩy lui. Chợt thấy kỵ binh
của chúng nó từ một khu rừng nhỏ xông ra đánh vào sườn chúng tôi. Đại đội
trưởng của chúng tôi bèn ra lệnh. Chúng tôi rẽ sang phải, chỉnh đốn đội hình
rồi xông thẳng vè phía chúng nó. Chúng tôi đã đánh tan chúng nó. Làm gì có kỵ
binh nào chống lại được kỵ binh Cô- dắc? Đúng như thế đấy. Chúng nó kêu la inh
ỏi, chuồn thẳng vào rừng. Tôi chợt thấy ngay trước mặt có một thằng sĩ quan của
chúng nó đang phi trên một con ngựa nâu sẫm. Thằng sĩ quan ấy có vẻ khá can
đảm, bộ ria đen của nó chảy sệ xuống: Nó cứ luôn luôn ngoái lại nhìn tôi, rồi
nó rút súng ngắn trong bao ra. Nhưng bao súng lại vướng vào yên… Nó nổ súng
nhưng không trúng. Tôi bèn hết sức thúc con ngựa đuổi kịp nó. Đầu tiên tôi đã
định cho nó một nhát, nhưng sau lại thôi. Dù sao cũng là một mạng người… Tôi
bèn đưa tay phải ra và cụ có biết không, nó đã bị kéo thốc ra khỏi yên. Nó cắn
vào tay tôi, nhưng tôi vẫn bắt sống được nó…
Cụ Grisaka kiêu
hãnh nhìn ông bạn cùng bàn, nhưng ông lão nọ đã gục cái đầu to tướng và xương
xẩu xuống ngực, ngáy o o, đánh một giấc thoải mái từ lúc nảo lúc nào.
--- ------ ------
------ -------
1 Theo phong tục người Nga, nếu trong tiệc cưới có người hô: Gorka!
(đắng) thì cô dâu chù rể phải hôn nhau (ND).
2 Tuyên thệ khi nhập ngũ (ND).
3 Tức là chiến dịch đàn áp cuộc nổi dậy chống chính quyền Nga hoàng của
những người dân Kavkaz do Samin lãnh đạo. Cuộc vận động dân tộc nầy đã bị dập
tắt năm 1859 (ND).
4 Trước cách mạng Tháng Mười, các dân tộc không phải người Đại Nga
thường gọi hoàng đế Nga là Bạch hoàng đế (ND).
5 Lính cận vệ của Thổ nhĩ kỳ ngày xưa. (1329 - 1826).
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 34
Gia phả
nhà Sergey Platonovich còn ghi được những ông tổ xa xưa. Dưới triều hoàng đế
Petr đệ nhất 1, có lần một chiếc thuyền chở lương khô và thuốc súng của Nga
hoàng xuôi theo sông Đông ra biển Azop. Trên thượng lưu sông Đông, gần cửa
nhánh Khop, có thị trấn Trigonac, dân ở đây chuyên đầu trộm đuôi cướp. Bọn Cô- dắc
trong thị trấn đã lợi dụng đêm tối đánh úp chiếc thuyền, chém cổ tên lính gác
đang ngủ gà ngủ gật, cướp hết lương khô và thuốc súng, còn thuyền thì họ đánh
chìm xuống sông.
Theo
lệnh Nga hoàng, quân đội ở Voronez đã kéo đến đốt trụi thị trấn "cường
đạo" Trigonac ấy, và trong khi chiến đấu đã giết không chùn tay những tên
Cô- dắc tham gia đánh cướp chiếc thuyền.
Đại uý
Yakirka cùng bốn mươi gã Cô- dắc bị bắt. Quan quân đã đóng những chiếc giá trên
bè, treo cổ tất cả, rồi thả cho trôi xuống hạ lưu, hòng dùng những chiếc đu ấy
để răn đe các trấn đang sôi sục muốn làm loạn ở miền dưới.
Mười năm
sau, một số người Cô- dắc mới di cư đến và cả những người sống sót sau vụ tàn
sát, lại đến sinh cơ lập nghiệp ở ngay chỗ xưa kia những ngôi nhà của thị trấn
Trigonac đã chìm trong khói lửa.
Trấn nầy
lại mỗi ngày một lớn mạnh và đã đắp được một dãy luỹ chiến đấu vây quanh thị
trấn. Cũng từ hồi ấy, một tên thám tử là lão mu- gích Mokhov Nhikiska nhận sắc
lệnh của chính quỷền Nga hoàng từ Voronez đến đây làm tai mắt cho hoàng triều.
Lão buôn bán trăm thứ đồ lặt vặt cần dùng trong đời sống hàng ngày của người
Cô- dắc như cán dao, thuốc lá, đá lửa. Lão mua bán cả những đồ ăn cắp và mỗi
năm lão lại đi Voronez hai lần, ngoài miệng thì nói là để cất hàng, nhưng thật
ra chỉ để báo cáo, chẳng hạn tình hình trong trấn tạm thời vẫn yên tĩnh, dân
Cô- dắc chưa âm mưu phạm thêm một tội ác nào.
Dòng họ
những tên lái buôn Mokhov chính là bắt nguồn từ lão Mokhov Nhikiska nầy. Họ đã
sinh cơ lập nghiệp vững vàng trên mảnh đất Cô- dắc nầy. Hạt giống của họ đã bay
đến trấn nầy, đã bám rễ ở đây như loài cỏ dại "móng ngựa", rồi không
ai có tài nào nhổ hết. Con cháu nhà Mokhov đã gìn giữ như một vật thiêng liêng
tờ chứng chỉ gần mục nát mà tỉnh trưởng Voronez đã trao cho ông tổ của họ, khi
lão được phái đến cái trấn làm loạn nầy. Tờ chứng chỉ ấy đã được cất trong một
cái tráp gỗ đặt trên ổ tượng thánh. Chưa biết chừng nó còn giữ được đến ngày
nay, nếu mồ ma ông nội Sergey Platonovich, nó không bị đốt ra tro cùng với cái
tráp trong một đám cháy lớn. Lão già nầy máu mê cờ bạc, của chìm của nổi có bao
nhiêu nướng sạch rồi bị phá sản. Sau đó lão cũng xây đựng lại được cơ nghiệp,
nhưng thần lửa đã thiêu hết, thành thử đến đời Sergey Platonovich, tay nầy đã
phải làm lại từ đầu. Sau khi chôn xong thằng bố bán thân bất toại, lão đã bắt
tay vào kinh doanh với độc một đồng rúp cóc gặm. Đầu tiên lão lang thang qua
các thôn mua lông lợn và lông gà vịt. Sau năm năm sống cơ cực, năm năm lừa gạt,
bòn mót từng đồng xu nhỏ của bà con Cô- dắc các thôn lân cận, gã buôn lông lợn
Seriogia 2 đã nghiễm nhiên biến thành "ông"
Sergey
Platonovich, hầu như chỉ một sớm một chiều. Lão mở ngay ở trấn một quán hàng
tạp hoá nhỏ, lấy con gái lão cố đạo dở điên dở dại, đào mỏ được một món hồi môn
không phải là nhỏ, rồi khai trương một cửa hàng vải, Sergey Platonovich bước
vào nghề buôn vải thật là đúng lúc. Vùng tả ngạn sông Đông toàn là đất khô cằn,
nếu không là cát thì cũng là đất sét rắn như đá. Vì thế, theo lệnh chính quyền
quân khu, người Cô- dắc các trấn bên ấy đã phải di cư sang hữu ngạn từng thôn
một. Trấn Kratnokuskaia mới thành lập đã lớn lên vùn vụt, nhà cửa mọc như nấm.
Sát bên những khu đất cũ của bọn địa chủ, hai bên các sông Tria, Chernaia và
Florovka, những thôn mới thi nhau mọc lên ở những khe, những khoảng đất trũng
trên đồng cỏ, cho mãi tới rìa các làng của người Ukraina: Bà con các nơi ấy
thường phải đi hàng năm chục vec- xta hoặc xa hơn nữa mới mua được hàng, thế mà
nay lại thấy ngay một cửa hiệu với những cái giá bằng gỗ thông mới tinh, xếp
đầy các thứ vải vóc tơ lụa thơm phức. Vì thế nên việc buôn bán của Sergey
Platonovich mỗi ngày một kéo rộng ra như một chiếc accordeon. Ngoài các thứ
hàng vải vóc lão còn buôn tất cả các thứ cần thiết cho cuộc sống đơn giản ở
nông thôn: đồ da, muối, dầu hoả, hàng tạp hoá. Thời gian gần đây, lão còn cung
cấp cả máy móc nông nghiệp. Những chiếc máy gặt, máy cày, máy quạt thóc, máy
sàng thóc đã từ nhà máy Arsaisky đến xếp hàng ngay ngắn bên cửa hiệu hai cánh
màu xanh lá cây, mùa hè rất mát. Làm thế nào mà đếm được xem trong hầu bao
người ta có bao nhiêu tiền, nhưng chắc chắn là công việc buôn bán đã đem lại
cho con người thừa tài xoay xở Sergey Platonovich những món lời không phải nhỏ.
Ba năm sau, lão mở thêm một nơi thu mua và chứa lúa mì, rồi một năm sau, khi mụ
vợ thứ nhất của lão qua đời, lão lại bắt tay vào xây một nhà máy xay chạy bằng
hơi nước.
Trong
bàn tay ngăm ngăm, đầy những lóng thưa nhưng đen bóng, Sergey Platonovich đã
nắm rất chặt thôn Tatarsky cùng các thôn lân cận. Chẳng có nhà nào không phải
ký tên trên mảnh giấy màu xanh lá cây, viền hoa màu da cam nhận thực còn chịu
của Sergey Platonovich một món tiền mua máy gặt hoặc tư trang cho con gái về
nhà chồng (sắp đến ngày con gái mình phải về nhà người ta rồi mà kho thu mua
Paramonovsky lại dìm giá lúa mì quá hạ, thành thử cũng đành tặc lưỡi: "Ông
Sergey Platonovich, ông cho tôi mua chịu vậy!". Nhưng thiếu gì những
chuyện khác nữa… Nhà máy xay có chín công nhân, cửa hiệu thuê bảy người, thêm
kẻ hầu người hạ trong nhà bốn người nữa, hai chục miệng ăn ấy đều trông mong vào
sự ban ơn của lão lái buôn. Mụ vợ trước để lại cho lão hai đứa con: đứa con gái
tên là Lida và thằng con trai tên là Vladimir, kém chị nó hai tuổi, bị bệnh
tràng nhạc, người héo hon phờ phạc. Anna Ivanovna, người vợ kế mũi hỉn, khô
quắt, chẳng đẻ đái gì cả. Tâm trạng một người đàn bà mãi không có đứa con nào
để có chỗ dốc hết lòng yêu thương của mình, cùng cái tính cáu kỉnh bực bội mà
mụ tích luỹ đã lâu năm (sắp ba mươi tư tuổi mụ mới về làm vợ Sergey
Platonovich), tất cả những cái ấy hai đứa con chồng đã phải chịu đựng hết. Tính
tình nóng nảy của mẹ kế đã ảnh hưởng không tốt đến việc giáo dục hai đứa trẻ.
Còn người bố thì quan tâm đến con cũng chẳng hơn gì mức lão để ý tới hai anh
coi ngựa Nikita hay chị nấu bếp.
Công
việc làm ăn và các chuyến đi nơi nầy nơi nọ đã choán hết thời gian nhàn rỗi của
lão: khi thì Moskva, khi thì Nhitnhi, khi thì Uriupinskaia, khi thì chợ phiên ở
các trấn. Thế là hai đứa trẻ cứ lớn lên chẳng có ai chăm nom dạy dỗ. Mụ Anna
Ivanovna vốn thờ ơ ghẻ lạnh, nên cũng chẳng tìm cách đi sâu vào những điều thầm
kín trong tâm hồn con trẻ, hơn nữa công việc trong nhà lại bề bộn, nên mụ càng
không có tâm trí nào làm việc ấy. Vì thế hai chị em Lida chẳng giống nhau chút
nào cả, tính tình mỗi đứa một khác, chẳng có vẻ gì là cùng một bố mẹ sinh ra.
Vladimir càng lớn lên càng cô độc, ủ rũ, mắt nhìn quằm quặm, vẻ mặt nghiêm nghị
như ông cụ non, Lida thì luôn luôn lởn vởn chỗ bọn hầu phòng, nấu bếp, mấy ả
phóng đãng, nếm đủ mùi đời, vì thế đã sớm để ý tới mặt trái của cuộc sống. Mấy
ả đàn bà ấy đã gây cho Lida một tính tò mò không lành mạnh, ngay từ khi nó còn
là một cô bé rụt rè và ngượng nghịu. Thế là Lida đã lớn lên tự do, chẳng bị ai
ngăn giữ, cứ như một bụi sao hoa mọc hoang trong rừng.
Năm
tháng thủng thẳng trôi qua.
Như bao
giờ cũng vậy, người già thì ngày càng già, con con trẻ thì cứ lớn lên mơn mởn
như cỏ xanh.
Rồi một
hôm trong khi uống trà buổi tối, Sergey Platonovich đã vô cùng ngạc nhiên khi
lão để ý nhìn con gái lão. (Hồi ấy, Lida đã tốt nghiệp trung học, và đã kịp trở
thành một cô gái khá xinh). Lão nhìn con, cái tách đựng nước trà màu hổ phách
cứ nảy bần bật trong tay: "Sao nó giống mồ ma mẹ nó thế. Lạy Chúa tôi,
giống như lột ấy!"
- Lida,
nào, quay lại cho bố ngắm cái!
Lão đâu
có biết rằng ngay từ nhỏ, con gái lão đã giống mẹ nó như đúc. Vladimir Mokhov
là một học sinh lớp năm, gầy gò, có khuôn mặt vàng ệch của một đứa bé bệnh
hoạn. Nó đang đi trong sân nhà máy xay. Nó mới cùng chị nó về đây nghỉ hè chưa
được mấy ngày.
Cũng như
mọi lần, Vladimir vừa về nhà là tới thăm ngay nhà máy xay để nhìn ngang nhìn
dọc, láng cháng giữa những người bê bết bột mì, nghe tiếng những cái trục cán,
những bánh răng quay ầm ầm đều đặn, những cu- roa chạy loạt xoạt. Nó phổng mũi
trước những lời xì xào cung kính của mấy người Cô- dắc đến làm phu khuân vác:
- Cậu
chủ, sẽ hưởng thừa tự của ông chủ đấy… Nó đi rón rén, tránh những đống phân bò
và những cái xe tải để rải rác khắp sân. Vladimir đã ra tới cửa hàng rào mới
nhớ rằng nó còn chưa xem phòng máy. Nó bèn quay trở lại.
Gần một
cái phuy đỏ đựng dầu hoả đặt cạnh cửa phòng máy, ba người đang xắn quần móng
lợn lên đến đầu gối, nhào một bãi đất sét tròn rất to: anh thợ máy cán Timofey,
anh thợ cân biệt hiệu là "Bồi" 3 và anh phụ thợ cán Davydka, một anh
chàng còn trẻ có hàm răng trãng loá.
- A- a-
a, cậu chủ? - "Bồi" chào Vladimir bằng giọng chế nhạo.
- Chào
các anh.
- Chào
cậu cậu Vladimir Sergeevich!
- Các
anh làm gì đấy?
- Nhào
bùn chứ còn làm gì nữa. - Davydka cười nhạt bực bội cố rút chân ra khỏi chất
bùn đặc sệt nhớp nháp, sặc mùi phân bò - Ông cự nhà cậu tiếc một đồng rúp,
không chịu thuê vài mụ đàn bà, lại bắt chúng tôi phải làm. Thật là thần giữ
của! - Davydka nói thêm, hai chân vẫn dẫm ộp oạp.
Vladimir
đỏ mặt. Nó cảm thấy ghét cay ghét đắng cái gã Davydka lúc nào cũng nhăn nhăn
nhở nhở, ghét cái giọng khinh bạc, ghét cả hai hàm răng trắng nhởn của gã.
- Sao
lại thần giữ của?
Còn gì
nữa? Hà tiện vắt cổ chày ra nước. Iả ra rồi lại ăn vào được, - Davydka giải
thích gọn lỏn rồi lại mỉm cười.
"Bồi"
và Timofey cũng cười đồng tình. Vladimir cảm thấy bị xúc phạm đau nhói như kim
châm. Nó nhìn Davydka bằng cặp mắt lạnh như tiền.
- Sao
vậy, như thế là anh không vừa ý có phải không?
- Cậu
đứng vào đây, nhào một lát rồi sẽ biết. Có thằng ngu xuẩn nào mà lại vừa ý
được? Phải đưa ông cụ nhà cậu tới đây, lắc cho cái bụng của ông ấy nhỏ bớt đi
mới được!
Davydka
nặng nề đi vòng tròn, người lắc lư, chân nhấc lên rất cao. Lúc nầy nụ cười của
anh ta đã vui vẻ và chẳng còn chút gì ác ý nữa.
Vladimir
khoan khoái cảm thấy trước sự thích thú sau khi tìm ra câu trả lời cần thiết.
Nó đảo đi đảo lại các ý nảy ra trong óc và cuối cùng đã lựa chọn xong.
- Được -
Nó nói tách bạch từng tiếng, - Tôi sẽ nói lại với cha tôi rằng các anh bất mãn
với công việc.
Nó liếc
nhìn vào mặt Davydka và, bất giác kinh ngạc trước tác động của lời mình vừa
nói: Davydka dành môi ra cười gượng gạo nom đến là thảm hại, còn mặt hai người
kia thì nhăn như bị. Cả ba lầm lì nhào đống đất sét nhão trong một lát, chẳng
ai nói gì thêm.
Cuối
cùng Davydka không dán mắt xuống hai bàn chân nhớp nhúa của mình nữa, anh ta
ngước nhìn lên và nói bằng một giọng van lơn, nhưng đầy vẻ bực bội.
- Tôi
chỉ nói đùa một câu thôi mà, cậu Vladimir ạ… Thật đấy, chỉ nói cho vui thôi…
- Tôi sẽ
thưa lại với cha tôi những lời anh vừa nói.
Vladimir
cảm thấy nước mắt nó trào ra vì nhục cho mình, cho bố, cho cả cái mỉm cười thảm
hại của Davydka. Nó bước khỏi chỗ cái phuy dầu.
- Cậu
Vladimir! Cậu Vladimir Sergeevich! - Davydka hốt hoảng kêu lên rồi nhảy ra khỏi
đống bùn, làm cho ống quần tụt cả xuống hai cẳng chân lấm bê bết đến đầu gối.
Vladimir
đứng lại. Davydka hổn hển chạy tới trước mặt nó.
- Cậu
đừng nói với ông chủ nhà nhé. Tôi chỉ nói đùa thôi mà… Tôi ngu xuẩn quá, xin
cậu thứ lỗi cho tôi… Thật đấy, tôi chẳng có ý bậy bạ gì đâu? Chỉ nói đùa thôi
mà…
- Thôi
được Tôi sẽ không nói nữa! - Vladimir cau mày quát lên rồi đi về phía cửa hàng
rào.
Thế là ý
nghĩ thương hại Davydka đã chiếm phần thắng. Vladimir đi bên dãy hàng rào sơn
trắng, trong lòng nhẹ nhõm hẳn đi. Từ trong căn lò rèn dựng ở góc sân nhà máy
xay vang ra những tiếng búa đập rộn rã: một nhát trên sắt, trầm và chắc hai
nhát trên cái đe dội tiếng, kèm theo tiếng búa nảy.
- Cậu
dây vào nó làm gì hử? - Vladimir đi đã khá xa còn nghe thấy cái giọng trầm cố
nén thấp của "Bồi". - Không dây vào thì việc gì phải ngửi thối.
"Thằng
chó chết nầy, nó lại dám cắn càn, - Vladimir tức sôi lên, nghĩ thầm. - Mình sẽ
nói hay không nói bây giờ.
Nó ngoái
cổ lại, thấy Davydka vẫn nhe hai hàm răng trắng nhởn ra cười như mọi khi, bèn
quyết định: "Mình sẽ nói!".
Trên cái
bãi bên cạnh cửa hiệu có chiếc xe tải thắng một con ngựa, con ngựa bị buộc vào
một cái cột. Một bầy trẻ đang đuổi đàn chim sẻ lông xám xám ríu rít trên mái
nhà kho để các đồ chữa cháy.
Từ trên
sân thượng vẳng xuống cái giọng nam trung sang sảng của gã sinh viên Boiarykin.
Ngoài ra còn có một giọng rè rè, khàn khàn, không biết của ai.
Vladimir
bước lên thềm nhà. Giàn nho dại đung đưa rung rinh trên đầu nó, những đám cành
lá xum xuê đan vào nhau trên thềm và trên sân thượng, rủ lủng lẳng từ những
hình chạm xanh trên đường gờ của hàng hiên, nom như những cái mũ lồm xồm màu
xanh da trời.
Boiarykin
lắc lắc cái đầu cạo nhẵn thín, xám ngoét, nói với gã giáo viên Balanda ngồi bên
cạnh hắn, gã nầy còn trẻ mà đã râu ria xồm xoàm:
- Tôi
vốn là con một gia đình nông dân Cô- dắc do đó đã có sẵn một lòng căm ghét hoàn
toàn tự nhiên đối với tất cả các giai cấp được hưởng đặc quyền đặc lợi, nhưng
trong khi đọc cuốn sách của ông ta, thì ông thử tưởng tượng xem, tôi đã thương
hại một cách lạ lùng các tầng lớp đang chết dần chết mòn nầy. Bản thân tôi đã
hầu như biến thành một anh chàng quý tốc và địa chủ, tôi hân hoan đi sâu nghiên
cứu lý tưởng của người phụ nữ thuộc tầng lớp ấy, tôi ủng hộ các quyền lợi của
họ. Tóm lại là chẳng làm thế quái nào hiểu được nữa! Đấy, ông bạn thân mến ạ,
thiên tài là như thế đấy! Ngay đến niềm tin cũng có thể thay đổi được.
Balanda
mân mê cái ngù của chiếc dây lưng lụa, chỉ mỉm một nụ cười nhạo báng, mắt gã cứ
đăm đăm nhìn những đường hoa đỏ thêu bằng sợi len dưới gấu áo sơ- mi của gã.
Linda ngả người nằm thuồn thuỗn trên chiếc ghế bành. Xem ra cô nàng không cảm
thấy chút hứng thú gì đối với câu chuyện giữa hai gã. Vẫn với cặp mắt lúc nào
cũng như đang mất một vật gì, đang tìm kiếm một vật gì, Lida chán ngán nhìn cái
đầu xám ngoét, sẹo ngang sẹo dọc của Boiarykin.
Vladimir
cúi chào, bước qua, rồi tới gõ cửa phòng làm việc của bố. Sergey Platonovich
đang ngồi trên chiếc ghế bành bọc da dùng khi hóng mát, giở xem tập "Của
cải của nước Nga" 4 số tháng sáu. Một con dao bằng xương vàng khè bị rơi
nằm trên sàn.
- Con có
việc gì đấy?
Vladimir
rụt cổ, xốc lại một cách bực bội cái áo sơ- mi đang mặc.
- Con
vừa ở nhà máy xay về… - Nó bắt đầu nói, giọng hơi ngần ngại, nhưng chợt nhớ tới
nụ cười nhạo báng với hàm răng trắng nhởn của Davydka, bèn vừa nhìn cái bụng
căng tròn của bố dưới chiếc ghi- lê bằng tusso, vừa kiên quyết nói tiếp - Con
nghe thấy thằng Davydka nói rằng…
Sergey
Platonovich chăm chú nghe rồi nói:
- Ta sẽ đuổi cổ nó.
Thôi con ra ngoài đi. - Rồi lão è è trong họng, cúi xuống nhặt con dao.
Tối tối, giới trí thức
trong thôn thường tụ tập ở nhà Sergey Platonovich: Boiarykin, một sinh viên
trường Đại học kỹ thuật Moskva; gã giáo viên ho lao Balanda, một anh chàng gầy
nhom, luôn luôn bị cái thói tự ái làm tình làm tội, ả nhân tình cùng ở với gã là
nữ giáo viên Marfa Gerasimovna, người tròn xoay, tuổi không còn ít nữa nhưng
chẳng có vẻ gì là già, cái váy lót bao giờ cũng mặt thòi ra ngoài, nom hết sức
khó coi; chủ sự nhà dây thép, một thằng cha cổ quái, vợ chẳng có, con thì
không, người hôi như tổ cú luôn luôn nặc mùi xi đóng dấu và mùi nước hoa rẻ
tiền. Viên trung uý kỵ binh trẻ tuổi Epghênhi Litnhitki ở cái trại gần đây với
bố là một địa chủ quý tộc, năm thì mười hoạ cũng có tạt vào chơi.
Chiều chiều họ lên sân
thượng uống trà và kéo dài những câu chuyện vô vị. Mỗi khi cái chuỗi những lời
tán gẫu thẫn thờ đứt quãng, một người nào đó trong đám khách khứa lại ra lên
dây cót cái máy hát đắt tiền nạm đá quý của chủ nhà.
Hoạ hoằn lắm, nhân
những ngày lễ lớn, Sergey Platonovich cũng muốn làm ra vẻ một chút để che mắt
thế gian: lão mời khách đến ăn, cho họ uống những thứ rượu quý, cho ăn trứng cá
chiên tươi đặc biệt đặt mua trong dịp nầy ở Bataisk cùng những đồ nhắm ngon
nhất.
Ngày thường thì lão
sống rất bủn xỉn. Chỉ có một thứ duy nhất mà Sergey Platonovich không tiếc đối
với lão là sách. Lão thích đọc sách và điều gì lão cũng muốn tìm hiểu bằng bộ
óc bám dai như cỏ dại của lão.
Người chung vốn buôn
bán với Sergey Platonovich là Emelian Konstatinovich Atepin, một người tóc
vàng, có chòm râu nhọn hoắt và cặp mắt lươn ti hí. Ít khi Atepin đến nhà
Mokhov. Hắn lấy một mụ nữ tu đã bỏ nhà tu kín Ust- Medvedisk. Hai vợ chồng ăn ở
với nhau mười lăm năm trời, đẻ được tám đứa con. Phần nhiều hắn chỉ ru rú xó
nhà. Atepin đã từ một tên thư ký trung đoàn leo lên một địa vị nào đó trong xã
hội, vì thế hắn đã đem về gia đình cả một lối sống mốc meo, khúm núm, xu nịnh.
Có mặt bố, những đứa con chỉ dám đi rón rén, nói thầm thì. Sáng sáng, lau rửa
xong, chúng nó lại vào đứng xếp hàng trong phòng ăn, bên dưới chiếc đồng hồ
treo tường đen sì, to lù lù như một cái quan tài. Người mẹ đứng sau đàn eon. Từ
trong phòng ngủ vừa vẳng ra tiếng húng hoắng ho là tất cả đêu bắt đầu lao nhao
nguyện kinh bằng đủ mọi giọng, nhưng giọng nào cũng giả dối: "Lạy Chúa,
cầu Chúa cứu vớt con chiên của Chúa…", rồi "Lạy cha".
Vợ con Atepin vừa
nguyện kinh xong thì hắn cũng vừa kịp mặc xong quần áo. Hắn nheo cặp mắt lá răm
bước ra phòng ăn, rồi giơ bàn tay mũm mĩm không đeo găng, làm cứ như một ông
tổng giám mục. Bầy trẻ lần lượt tới hôn tay bố. Atepin hôn qua má vợ, rồi nói
với âm "tr" phát âm rất sai.
- Bà Polotka, đã pha
chà chưa?
- Tôi
pha rồi đấy, ông Emelian Konstatinovich ạ.
- Cho
đặc đặc vào nhé!
Hắn giữ
sổ sách kế toán của cửa hiệu. Dưới những chữ "Thu" và "Chi"
viết đậm nét, trong sổ nào cũng đầy những chữ và con số viết rất bay bướm,
những chữ và con số của một viên thư ký. Lão đọc tờ "Tin tức thị
trường", mắt chẳng sao mà cũng kẹp vào cái mũi sần sùi một cặp kính không
gọng. Đối với người làm hắn nói năng rất lịch sự
- Bác
Ivan Petrovich, bác để giúp cho cái ông người Tavria 5 nầy ít vải chúc bâu nhé.
Vợ hắn
gọi hắn là ông Emelian Konstatinovich, các con hắn gọi hắn là cha yêu, còn
người làm trong cửa hiệu thì gọi hắn là Chacha 6
Hai lão
cố đạo là cha Visarion và trưởng giáo Pankrati thì có thù cũ nên không đi lại
chơi bời với Sergey Platonovich. Nhưng trong cuộc sống hai người cũng chẳng ăn
ý gì với nhau. Cha Pankrati vốn tính ngang ngạnh, hay thưa kiện và hay xúi
nguyên giục bị, chia rẽ những người sống gần mình. Cha Visarion tính tình lại
hồ hởi nên không thích và lảng tránh trưởng giáo vì lão thấy trưởng giáo quá
kiêu ngạo và chỉ hay kiếm chuyện. Cha Visarion goá vợ, sống với một mụ quản gia
người Ukraina. Lão bị giang mai nên nói cứ ồm ồm giọng mũi.
Trừ gã
giáo viên Balanda, tất cả mọi người đều có nhà riêng trong thôn. Ngay trên bãi,
ngôi nhà to lù lù sơn xanh da trời của Mokhov đứng vênh vang với cái mái tôn
bóng nhoáng. Trước mặt, ngay giữa bãi, cửa hiệu của lão nằm dài ngang ngạnh với
cái cửa thông suốt và tấm biển treo đã bạc màu: "HÃNG BUÔN MOKHOV S.P VÀ
ATEPIN E.C"
Sát cạnh
cửa hiệu là dãy nhà kho có hầm vừa dài vừa thấp. Cách đó chừng hai mươi xa-
gien là bức tường bao bằng gạch ôm quanh nhà thờ như một cái nhẫn, cùng ngôi
nhà thờ có cái mái hình cầu nom chẳng khác gì một củ hành khổng lồ màu xanh lá
cây đã quá già.
Bên kia
nhà thờ là ngôi nhà trường quét vôi trắng, trang nghiêm với cái dáng của một
công thự. Ngoài ra còn có hai ngôi nhà đẹp: ngôi nhà màu xanh da trời có dãy
hàng rào sơn cùng màu của cha Pankrati, còn ngôi nhà màu nâu (cho khỏi giống)
có dãy tường bao chạm trổi và một cái ban- công rất rộng là của cha Visarion.
Ngôi nhà nhỏ của Atepin, xây hai tầng, cầu kỳ nhưng dơ dáng, nằm từ góc phố nầy
đến góc phố kia. Sau ngôi nhà nầy là nhà bưu điện, những cái mái rơm hay mái
tôn trên những căn nhà của bà con Cô- dắc, cái lưng xuôi xuôi của nhà máy xay
với những con gà trống bằng sắt tây gỉ trên mái.
Mọi
người sống tự cách biệt với toàn thế giới bên ngoài, cửa ngoài cửa trong đều
cài then đóng kín. Tối tối, nếu không đi thăm ai, người ta lại chốt cửa, thả
những con chó xích, và trong cái thôn chết lặng chỉ còn nghe thấy tiếng mõ cầm
canh của tuần phiên.
---
------ ------ ------ -------
1 Petr (đọc là Pi- ốt, 1672 - 1725) Hoàng
đế nước Nga, đã đánh bại quân Thụy- Điển ở Poltava, xây dựng thủ đô mới
Peterburg, áp dụng văn minh phương Tây vào nước Nga, và làm cho nước Nga trở
thành một cường quốc lớn ở châu Âu (ND).
2 Tên dùng để gọi Sergey một cách thân mật.
3 Một cây trong bộ bài tây, còn gọi là
"Trếch" hay "Ach" (ND).
4 Tạp chí xuất bản Peterburg từ khoảng 1890
rồi trở thành cơ quan của đảng Dân tuý, phản đối chủ nghĩa Mác (ND).
5 Tavria xưa nay là Krym (ND).
6 Biệt hiệu nầy chế giễu cái tật của Atepin
nói trệch âm "tr" thành âm "ch" (ND).
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 35
Đến cuối
tháng tám, Mitka Korsunov lại ngẫu nhiên được gặp Lida, con gái lão Mokhov bên
bờ sông Đông. Nó vừa ở bên kia sông về còn đang cho thuyền tiến vào sát một gốc
cây cụt thì thấy một chiếc thuyền nhỏ sơn màu nhẹ nhàng rẽ nước lướt tới. Con
thuyền bơi từ đằng chân núi về phía bến đò. Gã sinh viên Boiarykin cầm chèo. Mồ
hôi lóng lánh trên cái đầu trần của gã, những đường gân xanh nổi lên cả trên
trán lẫn hai bên thái dương.
Mitka đã
không nhận ra ngay Lida. Chiếc mũ rơm in một cái bóng xanh xanh xám xám xuống
tới mắt Lida. Hai bàn tay rám nắng của Lida áp vào ngực một bó hoa súng vàng
vàng.
- Anh
Korsunov! - Lida nhìn thấy Mitka, bèn khẽ gật đầu. - Anh đã nói dối tôi phải
không?
- Có gì
mà nói dối?
- Anh có
nhớ không, anh đã hứa đi câu với tôi cơ mà?
Boiarykin
quẳng mái chèo xuống, rướn thẳng lưng. Con thuyền lao bừa vào bờ, mũi thuyền
siết ràn rạt vào lớp đá phấn ven bờ và húc mũi lên đất.
- Anh
nhớ ra chưa nào? - Lida mỉm cười nhảy ra khỏi thuyền.
- Chẳng
còn lúc nào mà đi được nữa. Công việc bận quá, - Mitka vừa chống chế, vừa nhìn
cô gái đi về phía mình. Nó cảm thấy nghẹt thở.
- Không?
Không thể thế nầy được! Cô Elizaveta Sergeyeevna 1 ạ, tôi xin kiếu thôi. Nầy
chèo, nầy lái 2, trả lại cô đây, tôi không làm đầy tớ cho cô nữa đâu! Cô thử nghĩ
mà xem, người ta đã phải vượt một chặng dài như thế nào trên cái dòng nước đáng
nguyền rủa nầy rồi. Chèo đến thành chai, đến bật máu tay tôi ra rồi còn gì.
Chốc chốc lại một anh chàng!
Boiarykin
giậm rắn rỏi hai bàn chân không trên lớp đá phấn vụn nhọn như gai, rồi đưa cái
đỉnh mũ sinh viên nhăn nhúm lên lau trán.
Lida
chẳng buồn trả lời gã, cứ đi thẳng tới gần Mitka. Mitka nắm một cách vụng về
bàn tay Lida chìa ra.
- Thế
bao giờ chúng ta đi câu cá nào? - Lida ngửa đầu ra, dim mắt hỏi.
- Ngày
mai cũng được. Lúa đã đập xong, bây giờ đi được rồi.
- Anh
lại đánh lừa tôi phải không?
- Không,
không đâu!
- Anh
đến sớm chứ?
- Trước
lúc trời rạng.
- Tôi sẽ
chờ đây.
- Tôi sẽ
đến, thật đấy, thế nào tôi cũng đến!
- Anh
chưa quên phải gõ vào cửa sổ nào chứ!
- Tôi sẽ
tìm ra, - Mitka mỉm cười.
- Có lẽ
không bao lâu nữa tôi không còn ở đây nữa. Tôi cũng muốn thử đi câu một cái.
Mitka
lặng thinh quay quay chiếc chìa khoá thuyền han rỉ và cứ nhìn trân trân cặp môi
của Lida.
- Chuyện
sắp xong chưa nào? - Boiarykin vừa hỏi vừa xem một cái vỏ trai lằn vằn trong
tay gã.
- Chúng
mình đi ngay bây giờ đây.
Lida nín
lặng một lát, rồi không hiểu sao tự nhiên mỉm cười và hỏi:
- Nhà
anh vừa có đám cưới ai thì phải?
- Em gái
tôi vừa lấy chồng.
- Lấy ai
thế? Hỏi xong, chưa chờ Mitka trả lời, Lida đã mỉm một nụ cười ỡm ờ, khó hiểu.
- Thế nào anh cũng đến nhé!
Cũng như
hôm ấy, trong lần đầu tiên, trên sân thượng của nhà Mokhov, nụ cười của Linda
lại làm cho Mitka ngứa ngáy như xát phải lá han.
Mitka
đưa mắt tiễn cô gái ra tới thuyền. Boiarykin dạng chân đẩy thuyền ra. Lida nhìn
qua đầu Boiarykin, mỉm cười gật đầu chào Mitka. Lúc nầy anh chàng vẫn nghịch
nghịch chiếc chìa khó.
Ra khỏi
bờ chừng năm xa- gien, Boiarykin khẽ hỏi:
- Thằng
cha nào thế?
- Người
quen.
- Bạn
lòng phải không?
Mitka cố
nghe thấy hai người nói chuyện với nhau, nhưng đến câu trả lời của Lida thì
tiếng chốt mái chèo rít đã làm cho nó không nghe rõ. Nó chỉ thấy Boiarykin gò
người đẩy mái chèo rồi ngả ra sau phá lên cười. Lida ngồi quay lưng lại nên
Mitka không nhìn thấy mặt Lida ra sao. Một cái dải mũ màu tím ngát thõng xuống,
gió thổi rất nhẹ làm cái dải rung rung khẽ đập vào bên vai xuôi xuôi để trần.
Mắt Mitka mờ đi, nhưng cái dải tím vẫn cứ như chọc vào mắt nó.
Mitka
rất ít khi đi câu nên chưa bao giờ người ta thấy nó sửa soạn sốt sắng như chiều
hôm ấy. Nó bẻ vài miếng phân khô rồi ra vườn rau nấu ít cháo đặc bằng lúa mạch.
Dây câu đã ẩm mục, nó thay ngay.
Mikhey
đứng xem Mitka sửa soạn. Hắn hỏi:
- Cậu
Mitka cho tôi đi với. Một mình không câu được đâu.
- Một
mình vẫn câu được.
Mikhey
thở dài:
- Lâu
lắm cậu cháu mình chưa đi câu với nhau. Chưa biết chừng lần nầy có thể câu được
con cá chép đến nửa pút 3 đấy.
Cháo
trong chiếc nồi gang bốc lên thành một cột hơi nóng hổi, làm Mitka nhăn mặt. Nó
chẳng nói chẳng rằng, sửa soạn xong vào nhà trong.
Cụ
Grisaka đang ngồi bên cửa sổ đọc sách Phúc âm 4, một cái kính gọng đồng mắt
tròn chồm chỗm trên mũi cụ.
- Ông
ơi! - Mitka tựa vai vào cái đà ngang trên cửa sổ gọi.
Cụ
Grisaka nhìn ngước lên qua phía trên mắt kính.
- Cái gì
hử?
- Sáng
mai gà gáy xong đợt đầu thì ông gọi cháu nhé.
- Mới
bảnh mắt như vậy mày đã định đi đâu hử?
- Cháu
đi câu!
Ông cụ
thích ăn cá lắm nhưng vẫn vờ như không bằng lòng:
- Bố mày
bảo ngày mai còn phải đập đay cơ mà. Không chơi bời nghịch ngợm gì cả? Hừ, kiếm
được một buổi đi câu!
Mitka có
ngay mẹo đối phó. Nó rời vai khỏi mi cửa:
- Cháu
đi hay không thì cũng thế thôi. Chỉ muốn có con cá để ông xơi. Nhưng nếu phải
đập đay thì cháu chẳng đi nữa vậy.
- Hượm
cái đã. Mày định đi đâu bây giờ hử? - Cụ Grisaka hoảng lên, vội bỏ kính xuống.
- Tao sẽ bảo với thằng Miron, mày cứ đi cũng được. Nấu món cá ám, chén cái cũng
thú, ngày mai lại vừa đúng là thứ tư 5 Thôi được, tao sẽ gọi mày dậy. Đi đi, đi
đi, đồ ngu xuẩn! Làm gì mà nhăn nhăn nhở nhở như thế hử?
Mới nửa
đêm cụa Grisaka đã mò mẫm lán xuống những bậc thềm. Một tay cụ xốc cái quần
bằng vải thô, còn tay kia chống nạng dò đường. Cụ qua sân ra nhà thóc, chập
chờn như một bóng ma run rẩy. Mitka đang ngáy o o trên một tấm chăn đắp chân
trên xe. Cụ lấy nạng chọc nó. Trong nhà thóc nặc mùi lúa mới đập, mùi cứt chuột
và mùi mạng nhện lưu cữu, chua chua, của những nơi không có người ở.
Mitka
nằm trên chăn, bên cạnh vựa thóc. Đánh thức được thằng nầy đâu phải chuyện
chóng vánh. Đầu tiên cụ Grisaka còn khẽ lấy nạng chọc nó, gọi nhỏ:
- Nào
thằng Mitka của ông! Mitka! Nầy, cái thằng chết tiệt, Mitka!
Mitka co
chân, ngáy càng dữ hơn. Ông cụ bực mình lấy cái đầu nạng tròn ngoáy trên bụng
nó, rồi ngoáy xuống như một mũi khoan.
Mitka ối
chà một tiếng nắm lấy đầu nạng, tỉnh dậy:
- Ngủ gì
mà mê mệt? Ngủ thế nầy không sợ có ngày tai hoạ à! - Ông cụ chửi.
- Khẽ
chứ nào, khẽ chứ nào, ông đừng làm rầm lên nữa, - Mitka vừa khẽ nói, giọng còn
ngái ngủ, vừa sờ soạng dưới đất tìm đôi ủng.
Mitka ra
tới bãi. Gà trong thôn đã gáy đợt hai. Nó đi dọc theo dãy phố, qua nhà cha
Visarion thì nghe thấy trong chuồng gà, con gà trống đã vỗ cánh phành phạch,
cất tiếng gáy ồm ồm như giọng của một lão đại tư tế. Những con gà mái cũng
hoảng sợ khẽ cục cục rộn cả lên.
Gã tuần
phiên đang rúc mũi vào cái cổ áo lông cừu ấm áp, ngủ gà ngủ gật ngay trên bậc
thềm thấp nhất của cửa hiệu. Mitka đi tới bên hàng rào nhà Mokhov, đặt cần câu
và cái túi đựng các đồ đi câu khác xuống đất, rồi cố rón chân cho mấy con chó
khỏi nghe thấy, bước lên thềm. Nó đặt tay lên quả đấm cửa lạnh ngắt, thấy cửa
đã đóng chặt, bèn leo qua lan can, tới bên cửa sổ. Hai cánh cửa sổ nửa khép nửa
mở. Qua khe cửa đen ngòm thoảng cái mùi ngầy ngậy toát ra từ tấm thân ấm ấm của
một cô gái đang ngủ và một mùi nước hoa ngọt ngọt là lạ.
- Cô
Elizaveta Sergeyeevna!
Mitka có
cảm tưởng như nó gọi to lắm. Nó chờ một lát. Vẫn lặng như tờ. "Sao thế
nhỉ, sao lại nhầm cửa sổ được nhỉ? Nếu chính lão chủ hiệu nằm ở đây thì sao?
Thế thì bỏ mẹ… Lão sẽ cho mình ăn đạn mất" - Mitka ấn vào quả đấm trên
cánh cửa sổ!
- Cô
Elizaveta Sergeyeevna, dậy đi câu đi - Và nghĩ thầm - "Nhầm cửa sổ thì tha
hồ mà câu!"
- Có dậy
đi không nào? - Mitka tức giận nói rồị ngó cổ vào trong phòng.
- Gì
thế? Ai đấy? - Trong bóng tối có tiếng người hoảng hốt khẽ trả lời.
- Cô có
đi câu cá không? Tôi đây, Korsunov đây.
- Á- à-
à tôi dậy ngay đây.
Trong
phòng bắt đầu có tiếng loạt soạt: Giọng Lida ngái ngủ, ấm áp hình như thoáng có
mùi bạc hà. Mitka nhìn thấy một cái gì trắng trắng loạt soạt đi lại trong
phòng.
"Chà
vào nằm với nó nốt buổi sáng thì khoái nhỉ… Câu với kiếc làm cái gì… Ra ngồi
ngoài ấy, cóng bỏ mẹ…" Mitka hít hít cái hơi trong căn phòng ngủ, trong óc
thoáng những ý nghĩ không rõ rệt.
Trong
khung cửa sổ thấy hiện ra một khuôn mặt tươi cười, đầu bịt một khăn choàng
trắng.
- Tôi ra
qua cửa sổ, anh đỡ tôi một tay.
- Cô cứ
trèo qua đi. - Mitka đỡ Lida.
Lida tỳ
vào tay Mitka và nhìn sát vào mắt Mitka.
- Anh
xem tôi có nhanh không nào?
- Không
sao cả. Còn kịp chán.
Hai
người đi ra sông Đông. Lida đưa bàn tay hồng hồng lên dụi cặp mắt mòng mòng và
nói:
- Tôi
ngủ say quá. Đáng lẽ phải ngủ thêm một lát mới phải. Chúng ta đi sớm quá đấy.
- Đi thế
nầy là vừa đấy.
Hai
người xuống sông Đông theo cái ngõ đầu tiên trên bãi. Ban đêm không biết có
nước từ đầu dồn về mà con thuyền hôm qua buộc vào gốc cây khô, hôm nay đã tròng
trành, chung quanh toàn là nước.
- Phải
cởi giày ra thôi, - Lida đưa mắt ước lượng khoảng phải lội ra tới con thuyền và
thở dài.
- Hay
tôi bế cô ra nhé? - Mitka đề nghị.
- Như
vậy không tiện đâu… Để tôi cởi giầy thì hơn.
- Như
thế tiện hơn chứ.
- Không
nền đâu - Lida ngập ngừng, đỏ mặt.
Mitka
đưa luôn tay trái ra ôm lấy hai chân Lida phía trên đầu gối, nhẹ nhàng bế bổng
Lida lên, rồi lội xuống nước, bì bõm đi ra con thuyền. Lida miễn cưỡng ôm lấy
cái cổ rám nắng, chắc nịch của Mitka, khẽ cười khúc khích.
Bờ sông
có tảng đá trên đó những người đàn bà trong thôn thường dùng chày đập quần áo
giặt. Nếu Mitka không vấp phải tảng đá ấy thì đã chẳng có cái hôn chớp nhoáng
bất ngờ nầy. Lida ối chà một tiếng, áp chặt vào cặp môi khô nẻ của Mitka. Lúc
ấy Mitka đang đứng cách mạn thuyền sơn xám có hai bước. Nước tràn vào trong
ủng, hai chân lạnh cóng.
Mitka
tháo dây buộc thuyền, ra sức đẩy con thuyền rời khỏi gốc cây cụt rồi nhảy lên
trong lúc con thuyền đang trôi ra. Nó chèo đứng bằng một mái chèo ngắn. Nước
sau đuôi thuyền lọc ọc như nức nờ. Mũi thuyền hơi ngổng lên, nhẹ nhàng rẽ làn
nước, hướng về phía bờ bên kia. Cái cần câu nảy bần bật, kêu lạch xạch.
- Anh
định cho thuyền đến đâu? - Lida ngoái nhìn lại rồi hỏi.
- Sang
bờ bên kia.
Con
thuyền đến đậu ở một khoảng bờ cát dốc. Mitka chẳng nói chẳng rằng, bế thốc
luôn Lida vào một bụi sơn trà ven sông. Lida cắn vào mặt Mitka, cào cấu nó, hai
lần nghẹn ngào kêu lên, nhưng rồi cảm thấy chân tay mình rã rời, đành bực tức
khóc oà lên, nhưng chẳng có giọt nước mắt nào…
Hai
người trở về lúc khoảng chín giờ. Một làn sương vàng hồng hồng phủ khắp trời.
Gió như khiêu vũ trên sông Đông, làm mặt nước sờm cả lên. Con thuyền chồm qua
những làn sóng cuộn ngang trước mặt. Những dòng nước giá lạnh chảy xối lên từ
dưới đáy sông bắn tóe vào khuôn mặt nhợt nhạt của Lida, rồi chảy ròng ròng
xuống, đọng lại trên hai hàng mi, trên những món tóc tuột ra ngoài chiếc khăn
bịt đầu.
Lida mệt
mỏi nheo nheo cặp mắt trống rỗng, mấy ngón tay khẽ bẻ cuống một đoá hoa mang
theo lên thuyền. Mitka không nhìn Lida, cứ cắm cúi chèo, một con cá chép nhỏ và
một con cá diếc nằm sóng soài dưới chân nó. Trong lúc giãy chết, miệng hai con
cá đờ ra, những con mắt lồi ra trong vành mắt vàng da cam. Trên mặt Mitka
thoáng một vẻ ngượng ngùng của kẻ có tội, niềm thoả mãn trong lòng nó xen lẫn
một nỗi lo lắng…
- Tôi đưa Lida về bến
Semenovaya nhé. Từ đấy về nhà Lida gần hơn. - Mitka vừa nói vừa quay thuyền cho
trôi theo dòng.
- Cũng được, - Lida
khẽ nhận lời.
Trên bờ sông không một
bóng người. Những dãy hàng rào quanh các vườn rau ven sông đầy bột cá phấn, nom
khô héo tiều tụy dưới những làn gió nung nấu, và cứ làm không khí nồng nặc cái
mùi củi cháy. Những đoá hướng dương chín rũ, bị chim sẻ mổ nham nhở, nặng nề
trĩu đầu xuống đất, để rơi những hạt long ra. Bãi cỏ hoang ven sông hiện ra
xanh ngắt như ngọc bích với lớp chồi mới nhú sau lần cắt cỏ vừa qua. Xa xa mấy
con ngựa non nô rỡn, làn gió nồm nam đưa tới bờ sông tiếng nhạc buộc trên cổ
ngựa rền lanh lảnh như tiếng cười.
Lida bước trên thuyền
xuống, Mitka đưa cho Lida một con cá:
- Cá câu được Lida cầm
lấy nầy. Nào?
Lida sợ hãi chớp chớp
hai hàng mi, nhưng cũng nhận.
- Thôi, tôi về đây.
- Lida về nhé…
Lida ra về, một lòng
bàn tay quay ra ngoài xách con cá xâu bằng một nhành liễu nhỏ, nom thật thảm
hại. Cái vẻ tự tin và vui cười mới đây đã bỏ lại cả trong bụi sơn trà rồi.
- Lida?
Lida quay lại, trong
cặp lông mày gãy khúc có thể thấy cả một tâm trạng vừa tức giận vừa ngạc nhiên.
- Lại đây cái đã.
Khi Lida đã bước tới
gần hơn, Mitka vừa nói vừa bực mình vì bối rối:
- Lúc nãy chúng mình
không chú ý… ấy, đằng sau váy… có một vết nhỏ rất nhỏ thôi…
Mặt Lida đỏ bừng, đỏ
lan xuống tận xương đòn gánh.
Mitka nín lặng một lát
rồi khuyên:
- Đi vòng ra sau nhà
về vậy.
- Nhưng dù sao vẫn
phải đi qua bãi. Tôi đã định mặc một cái váy đen cơ đấy, - Lida khẽ nói, rồi
buồn rầu nhìn vào mặt Mitka và bất giác cảm thấy căm ghét nó lạ.
- Để tôi lấy lá bôi
xanh đi nhé? - Mitka góp ý một cách giản đơn, nhưng nó ngạc nhiên thấy nước mắt
Lida trào ra.
Cái tin "Con gái
Sergey Platonovich đã bị Mitka Korsunov chơi chán chê" được truyền đi khắp
thôn như cơn gió xào xạc trong rừng.
Chuyện ấy được bọn đàn
bà bàn ra tán vào trong ngõ lúc trời rạng, khi họ đuổi đàn bò ra đồng, dưới cái
bóng dài nghêu chìm trong làn bụi xám của cái cần kéo nước giếng, khi họ đổ
nước trong thùng ra, hay bên bờ sông, quanh những phiến đá tự nhiên, khi họ đập
quần áo đem giặt.
- Con không có mẹ thì
thế thôi.
- Lão ấy bận tối mắt
tối mũi, còn con mẹ kế thì cứ lờ đi như chẳng hay biết gì cả…
- Hôm kia lão phu tuần
Davydka "Tay thiếu ngón" có kể lại rằng: "Nửa đêm tôi nhìn ra
thì thấy có kẻ leo lên khung cửa sổ cuối cùng. Chà, tôi cứ ngỡ có trộm vào nhà
Platonovich. Tất nhiên tôi đã chạy tới. Ai thế nầy? Cảnh sát đây, lại đây mau?
Té ra vớ đúng ngay cu cậu đúng cái thằng Mitka".
- Các cô ấy bây giờ
thì vẫy tay một cái là theo ngay…
- Thằng Mitka có viết
thư cho thằng Mikiska nhà tôi. Nó viết: "Mình sẽ xin cưới".
- Bảo nó vắt mũi cho
sạch đã!
- Người ta nói rằng
thằng ấy cưỡng dâm con bé?
- Thôi đi ông bạn đỡ
đầu ơi!
Như những vết nhựa
chưng đặc xịt quệt trên một cái cửa gỗ mới, những lời bàn tán truyền lan trong
ngõ ngoài đường như thế đã bôi tro trát trấu lên thanh danh cô gái.
Những lời ấy đã đổ
xuống cái đầu hói của Sergey Platonovich, dúi nó xuống bùn đen. Hai ngày hai
đêm liền lão không dám vác mặt ra cửa hàng, cũng không tới nhà máy xay. Người
đầy tớ gái ở tầng dưới chỉ trông thấy lão lúc sắp ăn trưa.
Đến ngày thứ ba người
ta thắng con ngựa xám đốm hoa vào chiếc xe thi cho Sergey Platonovich lên trấn.
Gặp bà con Cô- dắc trên đường, lão gật cái đầu kiêu ngạo như không cho phép
người ta lại gần. Theo sau cái xe thi, một chiếc xe nhẹ kiểu Viên sơn véc- ni
bóng nhoáng lạo xạo chạy trong sân ra. Anh đánh xe Emelian cầm lại cho thuận
những đoạn dây cương bằng lụa màu lam. Trong miệng anh ta, cái tẩu cong đẫm
nước bọt làm cháy cả chòm râu hoa râm. Cặp ngựa huyền lồng lên, bắt đầu chạy
lộp cộp theo dọc phố. Sau cái lưng rất phẳng của Emelian, người ta nhìn thấy
khuôn mặt nhợt nhạt của Lida. Một chiếc va- li nhẹ xách trong tay, Lida mỉm một
nụ cười chẳng có gì vui vẻ, vẫy găng tay chào từ biệt Vladimir và mẹ kế.
Ông Panteley
Prokofievich khập khiễng đi trong cửa hiệu ra cũng muốn biết có chuyện gì xảy
ra, bèn hỏi anh đầy tớ Nikita:
- Cô tiểu thư của ông
chủ đi đâu thế anh?
Nikita cũng chiếu cố
cái nhược điểm đơn giản của con người là tính tò mò, bèn trả lời:
- Lên học trên Moskva,
vào đại học đấy.
Ngay hôm sau đã xảy ra
một chuyện mà người ta còn kể đi kể lại mãi ven sông Đông, dưới bóng những cái
cần kéo nước giếng, cũng như trong cái ngõ dành cho gia súc ra đồng… Lúc trời
sắp tối, (đàn bò đã được đuổi từ đòng cỏ về thôn), Mitka đến nhà Sergey Platonovich
(anh chàng cố ý đến muộn để khỏi có người trông thấy), đâu phải là đến chơi
suông mà là để hỏi lấy cô Elizaveta, con gái nhà người ta.
Trước hôm ấy, Mitka có
gặp Lida bốn lần, chỉ bốn lần là cùng thôi. Trong lần cuối, giữa hai người đã
có một cuộc trao đổi như thế nầy:
- Lida về làm vợ tôi
nhé, thế nào?
- Chuyện ngớ ngẩn!
- Tôi sẽ thương Lida,
sẽ chiều Lida… Việc nhà đã có đủ người làm, Lida sẽ chỉ ngồi bên cửa sổ đọc
sách thôi.
- Anh xuẩn lắm.
Mitka giận lắm không
nói gì nữa. Tối hôm ấy, nó về nhà rất sớm.
Sáng hôm sau, Miron
Grigorievich rất ngạc nhiên khi thấy thằng con đến nói với ông:
- Cha đi hỏi vợ cho
con đi.
- Mày vội quá đấy.
- Con nói thật đấy,
không đùa đâu.
- Mày không nhịn được
nữa à?
- Đâu phải chuyện ấy…
- Thế thì mày mê đứa nào,
mê con Marfuska dở người có phải không?
- Cha
đánh mối đến nhà Sergey Platonovich cho con.
Miron
Grigorievich đặt rất cẩn thận con dao cắt da xuống chiếc ghế dài (ông đang chữa
một đoạn đai mông ngựa) rồi phá lên cười:
- Con ạ,
hôm nay cha thấy mày nhộn quá đấy.
Chẳng
khác gì một con bò mộng húc tường, Mitka vẫn khăng khăng không nghe. Người bố
nổi xung:
- Đồ ngu
xuẩn! Nhà Mokhov vốn liếng có tới hơn mười vạn; họ là một nhà buôn, còn mày là
cái thớ gì? Xéo ngay cho khuất mắt tao, đừng có giở cái trò ngớ ngẩn như thế
nữa, nếu không sẵn có cái đai mông ngựa nầy, tạo lại cho luôn chú rể một trận
bây giờ!
- Nhà ta
cũng có mười bốn đôi bò, cơ ngơi đường hoàng như thế nầy, dù sao Sergey
Platonovich cũng chỉ là một lão mu- gích, còn nhà ta lại là người Cô- dắc.
- Xéo
ngay! - Miron Grigorievich ra lệnh gọn lỏn, ông vốn không thích nhiều lời.
Mitka
chỉ tìm được sự đồng tình ở cụ Grisaka. Ông cụ khập khiễng đi đến trước mặt con
trai và chống nạnh cái nạng xuống đất.
- Miron!
- Có
việc gì thế cha?
- Sao mày
lại phản đối hử? Nếu con bé ấy đã hợp với thằng Mitka…
- Cha ạ,
cha cũng quá là trẻ con, thật thế đấy! Thằng Mitka đã ngu xuẩn, mà cha cũng
thật là kỳ quặc…
- Câm
ngay cái mồm! - Cụ Grisaka đập nạng xuống sàn. - Chẳng nhẽ nhà ta không môn
đăng hộ đối với nhà nó hay sao? Nó phải lấy làm vinh dự được con trai một người
Cô- dắc đến hỏi con gái nó mới phải. Nó phải gả ngay con bé cùng với mọi thứ
hồi môn mới đúng. Nhà ta là những người mà toàn khu đều biết tiếng. Đâu phải là
phường khố rách áo ôm, ít nhất cũng có người ăn người ở hẳn hoi! Chẳng thế thì
còn gì? Thôi đi đi, Miron, không nói gì nữa? Bảo nó đem cái nhà máy xay làm của
hồi môn đi. Đi hỏi đi.
Miron
Grigorievich phì một cái rồi bỏ ra sân. Còn Mitka thì quyết định chờ đến tối sẽ
tự đi hỏi vợ lấy. Nó đã biết cái tính cố chấp không thể lay chuyển của bố, cứ
như một cây dâu da đã mọc rễ sâu: muốn uốn một chút thì còn được, chứ tìm cách
bẻ thì đừng hòng.
Trước
khi tới cái cổng lớn, Mitka còn vừa đi vừa huýt sáo. Nhưng vừa đến đấy thì nó
bỗng thấy ngài ngại. Nó đứng lại một lát rồi đi qua cái sân. Lên đến thềm, nó
hỏi một chị đầy tớ gái mặc chiếc tạp dề hồ bột kêu loạt soạt:
- Ông
chủ có nhà không chị?
- Ông
nhà đang uống trà. Anh chờ một lát.
Mitka
ngồi đợi. Nó hút hết điếu thuốc, dính nước bọt vào đầu ngón tay bóp tắt rồi dí
nát mẩu còn lại trên sàn. Sergey Platonovich bước ra, lão vừa đi vừa phủi những
miếng bích qui vụn trên áo gi- lê. Trông thấy Mitka, lão cau mày:
- Anh
vào trong nầy.
Mitka đi
trước vào căn phòng làm việc mát rượi, nặc mùi sách và mùi thuốc lá, và nó bỗng
cảm thấy rằng tất cả cái vốn dũng khí tích sẵn từ nhà chỉ đủ cho nó đi tới
ngưỡng cửa căn phòng làm việc nầy thôi.
Sergey
Platonovich bước tới bên cạnh cái bàn, rồi xoay mình trên hai gót giày rít như
hai cái trục.
- Nào nói
đi? - Lão chắp tay sau lưng, những ngón tay lão cào lên tấm ván của cái bàn
viết.
- Tôi
định đến hỏi xem… - Mitka cảm thấy như nó bị chìm trong cái chất lầy nhầy lạnh
như tiền của cặp mắt đang xoắn vào nó như lưỡi khoan. Nó so vai như bị lạnh, -
Có lẽ ông có thể gả Elizaveta cho tôi?
Quyết
tâm liều mạng, lòng căm tức và khiếp hãi làm hiện ra trên khuôn mặt đầy vẻ bối
rối của Mitka vài giọt mồ hôi lấm tấm như những giọt sương ngày hạn hán.
Hàng
lông mày bên trái của Sergey Platonovich run lên. Lão nhe nanh, môi trên cong
lật lên, để lộ mặt trong môi đỏ tía. Rồi lão vươn cổ ngả hẳn về phía trước:
- Cái
gì? Cái gì hư- ứ- ừ? Đồ đểu cáng! Cút ngay! Mày thì đáng bị xách cổ lên ông
ataman? Đồ chó đẻ? Đồ bẩn thỉu!
Càng
thấy lão kia hét to, Mitka càng cảm thấy mình thêm can đảm. Nó theo dõi những
đợt máu xanh tím dồn lên cổ Sergey Platonovich.
- Xin
ông đừng bực mình… Tôi chỉ muốn bù đắp việc mình đã làm sai.
Sergey
Platonovich long hai con mắt mọng những máu và nước mắt, lão ném một cái gạt
tàn thuốc lá đúc nguyên tảng bằng gang xuống trước mặt Mitka. Khối gang đập
xuống đất, bật lên trúng xương bánh chè chân trái của Mitka. Nhưng Mitka dũng
cảm chịu đau, đẩy mạnh cánh cửa. Vừa tức vừa đau, Mitka càng liều mạng, nó nhe
nanh quát lớn:
- Ông
Sergey Platonovich, ông muốn thế nào tuỳ ông, còn tôi đến đây chỉ vì thực lòng…
Con gái ông đã như thế thì còn ai muốn vời đến nữa? Tôi chỉ muốn che đậy cho
cái danh dự… Một miếng ăn thừa thì thử hỏi còn ai thèm. Có hoạ là chó.
Sergey
Platonovich vo tròn một chiếc khăn tay, tự bịt lấy miệng, rồi chạy theo sát gót
Mitka. Lão chặn đường ra cổng lớn, còn Mitka thì chạy ra sân. Gã đánh xe
Emelian đang đứng ở đấy. Sergey Platonovich đưa mắt cho Emilian. Trong khi
Mitka đang loay hoay với cái then cài rất chắc trên cửa xép hàng rào thì từ
trong một góc nhà kho bốn con chó vừa được tháo xích xồ ra. Thấy người lạ,
chúng lao thẳng qua cái sân quét sạch như lau.
Năm
1910, Sergey Platonovich mua được ở chợ phiên Nhigiơnhi về hai con chó con, một
con đực, một con cái. Cả hai đều mõm to, lông đen và quăn, mới một năm đã lớn
như thổi, bằng con bê đầy năm. Đầu tiên hai con chó chỉ xé váy những người đàn
bà đi qua nhà Mokhov, nhưng sau chúng đã biết vật họ xuống đất mà cắn đùi. Mãi
khi chúng cắn chết con bê của cha Pankrati và một đôi lợn sữa giống quý của
Atepin, Sergey Platonovich mới ra lệnh xích lại. Hai con chó chỉ được thả ban
đêm, ngoài ra mỗi năm một lần, đến mùa xuân, lại được cho nhảy nhau.
Mitka
chưa kịp quay mặt lại thì đã bị con đầu tiên tên là Baian chồm hai chân lên
vai, cắn chặt lấy cái áo bông ngắn. Bốn con chó thi nhau cắn xé, con lôi bên
nầy, con kéo bên kia, tất cả quay lộn thành một đống đen xì. Mitka dùng tay
chống cự, cố giữ cho mình khỏi ngã. Nó thoáng thấy Emilian đóng sập cái cánh
cửa sơn, bỏ đi vào trong bếp, những tàn lửa trên cái píp của hắn bắn vung ra
chung quanh.
Trên một
góc thềm, Sergey Platonovich đứng tựa lưng vào ống máng, nắm chặt hai bàn tay
nhỏ bé trắng hếu, đầy những sợi lông cứng đen nhánh. Mitka lảo đảo, cố mở chết
cửa. Hai chân đẫm máu của nó lôi theo sau đàn chó cắn nhặng xịa, mùi chó vừa
nóng vừa hôi xông lên nồng nặc, Mitka bóp họng con Baian đến chết, còn mấy con
kia thì những người qua đường phải vất vả lắm mới xua được vào nhà để cứu
Mitka.
--- ------ ------ ------ -------
1 Elizaveta là tên chính thức, Lida là tên
gọi tắt, thân mật. Gã sinh viên xưng hô rất long trọng với con gái lão lái buôn
(ND).
2 Nguyên văn: Nầy cổ ngựa, nầy cung càng xe
(ND).
3 Một pút bằng 16,38kg (ND).
4 Một trong hai phần của Kinh thánh, ghi
những lời nói và việc làm của Giêsu (ND).
5 Ngày kiêng ăn thịt (ND).
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 36
Natalia sống hoà
hợp ngay với gia đình Melekhov. Miron Grigorievich thật biết dạy con. Tuy giàu
có, và ngoài các con ra trong nhà còn có người làm, nhưng ông vẫn bắt các con
ông phải lao động cho quen công quen việc. Natalia hay lam hay làm nên được mẹ
chồng quý mến. Daria thích làm dáng làm đỏm nên bà Ilinhitna ghét ngầm con dâu
trưởng. Còn Natalia thì mới vài ngày đầu, bà đã yêu quý nàng ngay.
- Cứ ngủ nữa đi, cứ
ngủ nữa đi, con yêu của mẹ? Mày làm gì mà dậy sớm thế? - Bà vừa lê cặp chân to
đần đẫn đi lại trong bếp, vừa âu yếm khẽ bảo con dâu. - Lại vào trong nhà đi,
cứ ngủ đến sáng đi, không có mày công việc vẫn làm xong cơ mà!
Natalia đã dậy từ
tảng sáng để giúp công việc bếp núc. Nàng nghe nói thế lại vào nhà trong ngủ
thêm.
Ông Panteley
Prokofievich vốn rất nghiêm khắc đối với gia đình, thế mà ông cũng thường bảo
vợ:
- Bà mày có nghe
thấy không, đừng gọi con Natalia dậy nhé. Ban ngày nó tối mắt tối mũi như thế
là đủ rồi. Lại còn phải sắp sửa đi cày với thằng Griska nữa. Còn cái con Daria,
con Daria thì phải quật cho nó mới xong. Đàn bà gì mà ườn thây ườn xác, hư thân
mất nết… Hết đánh má hồng lại tô lông mày, cái con chó đẻ.
- Năm đầu hãy cho
chúng nó hú hí với nhau đã, - Bà Ilinhitna thở dài nhớ lại cuộc đời lao động
cực nhọc của mình.
Grigori cũng dần
dần có phần quen quen với cuộc sống mới của chàng, cuộc sống của một kẻ có vợ.
Nhưng sau chừng ba tuần, chàng vừa bực bội vừa hoảng sợ nhận thấy rằng trong
thâm tâm, mình vẫn chưa cắt đứt được hẳn với Acxinhia, và trong lòng vẫn còn
sót một cái gì như một cái gai. Mà nỗi đau khổ ấy thì không phải ngày một ngày
hai mà gạt bỏ được. Grigori đã từng đinh ninh rằng trong hoàn cảnh có vợ, được
sống thoả mãn, mình sẽ gạt bỏ được hết dễ như trở bàn tay: tất cả rồi cũng sẽ
quên đi… Nhưng đến nay chàng lại thấy là không thể nào quên được và mỗi khi nhớ
lại thì vết thương lại rỉ máu. Ngay từ hồi còn chưa cưởi, có lần Petro đã hỏi
Grigori trong lúc đập lúa trên sân:
- Griska à, mầy
định sẽ như thế nào với con Acxinhia?
- Sao cơ chứ?
- Có lẽ bỏ thì
thương?
- Tôi bỏ thì lại có
người nhặt chứ sao? - Hôm ấy Grigori còn cười mà nói thế.
- Nhưng mày phải
cẩn thận đấy. - Petro nhay nhay một đám ria nhai đã nát nhừ. - Nếu không mầy
lấy vợ thật không đúng lúc.
- Ăn no béo mầm,
việc gì chẳng quên. - Grigori pha trò.
Nhưng rồi tình hình
đâu có diễn ra như thế. Đêm đêm, trong khi Grigori làm nhiệm vụ người chồng âu
yếm vuốt ve vợ, trong khi chàng cố truyền cho Natalia cái lửa tình ngùn ngụt
của tuổi trẻ, thì lại chỉ gặp thấy về phía Natalia một thái độ lạnh lùng, vâng
chịu ngượng ngùng. Việc vợ chồng đi lại với nhau, Natalia làm rất miễn cưỡng,
vì ngay từ khi lọt lòng, nàng đã được mẹ truyền cho một dòng máu thờ ơ hờ hững,
chảy như rất chậm. Nhớ lại cái kiểu yêu đương đến cuồng dại của Acxinhia,
Grigori thở dài:
- Natalia à, chắc
hẳn ông cụ nhà em đã làm bà cụ nhà em thụ thai ra em trên băng… Em băng giá quá
chừng.
Còn Acxinhia thì
mỗi lần gặp Grigori, nàng đều mỉm một nụ cười ỡm ờ, tròng con mắt đục đi, giọng
nói dính như keo:
- Chào anh, anh
Griska yêu quý! Lấy cô vợ trẻ như thế, nâng niu chìu chuộng nhau thế nào?
- Vẫn sống như
thường thôi. - Grigori trả lời qua loa cho xong chuyện, và chỉ mong mau chóng
thoát khỏi ánh mắt ve vuốt của Acxinhia.
Stepan thì hình như
đã làm lành với vợ. Anh ta đã bớt la cà ở quán rượu và một buổi chiều, trong
khi quạt thóc trên sân đập lúa, lần đầu tiên sau chuyện lục đục vừa qua, Stepan
bảo vợ:
- Acxiutca à, ta thử hát một bài đi!
Hai vợ chồng ngồi dựa lưng vào đống lúa
mạch mới đập xong còn đầy bụi. Stepan cất giọng hát một bài của lính, Acxinhia
hoà theo bằng một giọng rất cao, rất mạnh, phát ra từ trong ức. Hai người hát
rất ăn giọng, cứ như đang sống lại tuần trăng mật.
Lại có lần, trong khi ráng chiều phủ
khắp cánh đồng một làn ánh sáng đỏ tía, Stepan đi làm đồng về ngồi lắc lư trên
chiếc xe tải, kéo dài giọng hát một bài cổ, giọng hát trường và buồn, như con
đường trên cánh đồng cỏ hoang vu đầy cỏ dại, không một bóng người. Acxinhia ngả
hẳn đầu lên bộ ngực nở nang của chồng, hát tiếp. Hai con ngựa kéo chiếc xe chạy
cót két, gọng xe lắc sang bên nầy rồi lại lắc sang bên kia. Từ xa, mấy cụ già
trong thôn lắng nghe bài hát:
- Stepan kiếm được cô vợ đến là tốt
giọng.
- Nghe mà xem… họ hát ăn giọng quá!
- Cả giọng của Stepan cũng tốt nhỉ,
sang sảng như tiếng chuông ấy!
Mấy cụ già ngồi trên những bức tường
đất đắp quanh nhà đưa tiễn ánh chiều đỏ rực, mung lung sương khói nói vọng với
nhau qua đường phố:
- Họ đang hát bài của trung đoàn
Nizovsky đấy.
- Ông bạn đồng ngũ ạ, bài nầy được soạn
ở Gruzia.
- Mồ ma bác Kiriuska thích bài nầy lắm!
Chiều nào Grigori cũng nghe thấy hai vợ
chồng nhà Astakhov cùng hát với nhau (sân đập lúa nhà Grigori nằm sát sân đập
lúa nhà Stepan). Mỗi lần đập lúa, chàng lại nhìn thấy Acxinhia với cái vẻ tự
tin, hình như hạnh phúc như xưa. Ít nhất là chàng có cảm tưởng như thế.
Stepan không chào hỏi những người trong
nhà Melekhov nữa. Anh ta vác cái chàng nạng đi đi lại lại trong sân, cặp vai
rộng nhưng xuôi khẽ động đậy, và thỉnh thoảng lại nói đùa với vợ một câu.
Acxinhia cười, cặp mắt đen láy long
lanh dưới khăn bịt đầu. Grigori nhắm mắt lại vẫn thấy cái váy màu xanh lá cây
của Acxinhia gợn sóng trước mắt. Một sức mạnh vô hình cứ xoay cổ của Grigori,
làm cho chàng chốc chốc lại quay đầu nhìn sang sân nhà Stepan.
Chàng không biết rằng tuy Natalia đang
giúp ông Panteley Prokofievich xếp các bó lúa, nhưng lần nào nàng cũng bắt gặp
cái nhìn không tự chủ của chồng bằng cặp mắt vừa buồn vừa ghen.
Grigori cũng không thấy rằng trong khi
đuổi mấy con ngựa chạy vòng tròn, Petro hếch mũi nhìn mình với một nụ cười châm
biếm kín đáo.
Giữa những tiếng ầm ì trầm trầm (tiếng
rên siết của mảnh đất bị hành hạ dưới những quả lăn bằng đá), đầu óc Grigori
rối bời với những ý nghĩ mung lung. Chàng cố tìm cách nắm những mảnh ý nghĩ vụn
vặt trơn tuồn tuột lẩn trốn ý thức, nhưng không tài nào năm nổi.
Từ những sân đập lúa ở gần cũng như ở
xa, tiếng đập lúa, tiếng trẻ chăn bò đuổi đàn bò, tiếng roi quất đen đét, tiếng
hòm quạt thóc kêu phành phạch, vẳng tới rồi lại tan đi trên bãi cỏ hoang ven
sông.
Thôn xóm béo đẫy ra trong ngày mùa nằm
đê mê dưới cái nắng tháng chín mát rượi trải ra trên sông Đông như con rắn thuỷ
tinh nằm vắt ngang đường. Trong mỗi căn hộ nằm giữa những dãy hàng rào, dưới
mỗi mái nhà đều có một cuộc sống riêng quay tít như con thò lò, một cuộc sống
sôi nổi, đầy đắng cay ngọt bùi, tách biệt với các cuộc sống khác: cụ Grisaka bị
lạnh, đang đau khổ vì đau răng; Sergey Platonovich quỵ xuống sau cái nhục vừa
qua, đang đưa hai tay lên vo chòm râu chải tẽ sang hai bên, và cứ nghiến răng,
khóc thầm một mình; Stepan vẫn mang nặng trong lòng mối thù với Grigori, đêm
đêm lại vò nát cái chăn đã rách bươm trong hai bàn tay rắn như thép; Natalia
chạy vào nhà kho, lăn mình xuống đống phân kho, nằm co quắp, khóc nức nở vì
hạnh phúc của mình bị người ta phá hoại; Khristonhia đi chợ phiên, đem số tiền
bán con bê ăn nhậu sạch, đang bị lương tâm dày vò; Grigori đau khổ vì những dự
cảm trong khi các thèm khát của chàng chưa được thoả mãn, và vì vết thương lòng
lại mở miệng, đang thở dài thườn thượt; Acxinhia vừa vuốt ve đi lại với Stepan
vừa tưới nước mắt lên lòng căm thù không sao nguôi được đối với chồng. Chàng
thợ cán bột Davydka bị đuổi khỏi nhà máy xay ngồi thâu đêm trong căn nhà đắp
bằng đất trộn rơm của "Bồi". "Bồi" long lanh hai con mắt
đầy căm hờn nói:
- Khô- ô- ông, khô- ô- ông thể như thế
được. Chẳng bao lâu nữa người ta sẽ cắt mạch máu của chúng nó. Đối với chúng nó
thì một cuộc cách mạng còn chưa đủ. Chúng nó sẽ phải nếm lại cái năm một nghìn
chín trăm linh năm lần nữa 1, lúc đó chúng ta sẽ tính sổ? Chúng ta sẽ tính sổ!
- "Bồi" giơ một ngón tay đầy sẹo lên doạ rồi nhún vai sửa lại cái áo
vét- tông khoác trên lưng.
Nhưng thời gian vẫn trôi qua trên thôn
xóm, hết ngày lại đêm, hết tuần nầy qua tuần khác. Hết tháng nọ qua tháng kia.
Gió vẫn thổi, trời dông bão vẫn làm những ngọn núi ầm ầm tiếng sấm, và sông
Đông in hình bầu trời thu xanh trong suốt vẫn thờ ơ trôi ra biển.
--- ------ ------
------ -------
1 Ý muốn nói cuộc cách mạng tư sản thất bại ở nước Nga năm 1905 (ND).
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 37
Đến cuối
tháng mười, vào một ngày chủ nhật, Fedot Bodovskov đánh xe lên trấn.
Hắn mang
ra chợ bốn đôi vịt béo căng nhốt trong một cái lồng, bán được hết rồi vào hiệu
mua cho vợ ít vải hoa rất diêm dúa. Hắn đã tì chân vào vành bánh xe, siết chặt
đoạn dây buộc dưới cổ ngựa, sắp sửa ra về, thì vừa lúc ấy có một người dân vùng
khác, không phải là trong trấn, bước tới:
- Chào
bác! - Người ấy đưa những ngón tay ngăm ngăm lên vành chiếc mũ dạ đen chào
Fedot.
- Chào
bác! - Fedot nheo cặp mắt xếch như mắt người Kalmys, nói lí nhí qua kẽ răng,
chờ xem có chuyện gì.
- Bác ở
đâu đến thế?
- Tôi ở
dưới thôn lên, không phải người ở đây đâu.
- Thế
bác ở thôn nào vậy?
- Thôn
Tatarsky.
Người lạ
kia lấy trong túi bên ra một cái hộp thuốc lá bằng bạc, nắp hộp có chạm hình
một chiếc thuyền nhỏ. Anh ta mời Fedot hút điếu thuốc và hỏi tiếp:
- Thôn
ta có to không bác?
- Cám ơn
bác, tôi vừa hút xong. Thôn chúng tôi ấy à! Một thôn khá đấy. Có lẽ chừng ba
trăm bộ.
- Có nhà thờ không?
- Còn sao nữa, phải có
chứ.
- Có thợ rèn không?
- Lò rèn ấy à? Lò rèn
cũng có đấy.
- Thế nhà máy xay đã
có xưởng nguội chưa?
Con ngựa không chịu
đứng yên, Fedot phải giữ chặt dây cương. Hắn nhìn một cách không thân thiện cái
mũ dạ đen cùng những vết nhăn trên khuôn mặt trắng bệch của người lạ, các vết
nhăn nầy đều hướng cả vào chòm râu đen ngăn ngắn.
- Bác cần gì mà hỏi
thế?
- Tôi chuyển đến ở
thôn bác đây. Tôi vừa ở chỗ ông ataman trấn ra. Bác về xe không à?
- Vâng, xe không.
- Bác cho tôi về cùng
nhé. Nhưng tôi không phải chỉ đi một mình đâu, còn cả nhà tôi và hai chiếc hòm
chừng tám pút.
- Về cùng cũng được
thôi.
Tiền xe ngã giá là hai
rúp. Fedot đánh xe đến nhà mụ làm bánh mì vòng Frotka, nơi người đi nhờ xe của
hắn thuê phòng, đón một người đàn bà tóc vàng, gầy yếu lên xe, rồi khiêng hai
chiếc hòm đánh đai sắt đặt lên phía sau xe.
Ra khỏi trấn. Fedot
chặc lưỡi, vung đoạn dây cương bện bằng lông đánh con ngựa nhỏ nhưng chạy rất
khỏe. Chốc chốc hắn lại quay cái đầu méo mó trên cái gáy phẳng đứng để nhìn
lại: hắn không cưỡng nổi tính tò mò. Hai người khách đi xe của hắn ngồi khiêm
tốn phía sau, chẳng nói chẳng rằng. Đầu tiên Fedot xin đốt điếu thuốc rồi hỏi.
- Hai bác từ đâu về ở
thôn chúng tôi thế?
- Từ Rostov.
- Cố cựu ở đấy à?
- Bác bảo sao?
- Tôi hỏi bác ở sinh
quán ở đấy à?
- À, phải phải, tôi
vốn người ở đấy, ở Rostov.
Fedot ngẩng hai gò má
màu đồng thau, nhìn kỹ những đám cỏ dại mọc xa tít trên đồng cỏ: con đường của
các Ghết- man kéo dài tới chỗ ngoặc, và trên sống đồi, trong đám cỏ khô nâu
nâu, cách con đường chừng nửa vec- xta, cặp mắt giàu kinh nghiệm, tinh như mắt
người Kalmys đã nhận ra những cái đầu nhỏ xíu của vài con vịt trời đang di động
rất khó thấy.
- Tiếc là không mang
súng, nếu không chúng ta dã tạt vào đấy kiếm vài chú vịt trời. Bác trông nó
đang đi kia kìa… - Fedot thở dài giơ tay chỉ.
- Tôi chẳng thấy gì
cả. - Người khách đi xe thú nhận, hai con mắt anh ta hấp háy như mắt người
thong manh.
Fedot đưa mắt theo dõi
mấy con vịt trời sà xuống một cái khe, rồi quay lại nhìn người thuê xe. Khách
là một người tầm thước, xương xương, có hai con mắt linh lợi long lanh rất gần
chỗ tinh mũi lồi lên. Trong khi nói chuyện, anh ta rất hay cười. Người vợ quấn
một chiếc khăn choàng đan tay, ngủ gà ngủ gật. Fedot không trông thấy mặt người
đàn bà.
- Vì sao mà hai bác
phải đến ở thôn chúng tôi?
- Tôi làm thợ nguội,
muốn đến mở một cửa hiệu thợ nguội. Tôi còn làm cả đồ mộc.
Fedot nhìn hai bàn tay
to bè bè của người khách đi xe, có ý nghi ngại. Người kia bắt gặp ánh mắt của
Fedot bèn nói thêm:
- Tôi cũng làm thêm
đại lý cho hãng "Singer" cung cấp máy khâu - Thế tên bác là gì? -
Fedot hỏi.
- Họ của tôi là
Stokman.
- Có lẽ bác không phải
là người Nga?
- Không, tôi là người
Nga đấy. Nhưng ông nội tôi gốc ở Latvia.
Chỉ một lát sau, Fedot
đã được biết rằng anh thợ nguội Stokman Yosif Davidovich trước kia làm việc ở
nhà máy "Acxai", sau đó đến một nơi nào đó ở Kuban, rồi vào làm tại
xưởng sửa chữa đường sắt Đông Nam. Ngoài ra Fedot vốn tính tò mò còn hỏi được
thêm rất nhiều chi tiết về cuộc đời của anh ta.
Xe chạy tới rừng cấm
thì câu chuyện cạn dần. Con ngựa chạy đã toát mồ hôi, Fedot cho nó uống nước ở
một cái giếng bên cạnh đường Xe lắc trên chặng đường bắt đầu làm Fedot thần ra,
hắn ngủ gà ngủ gật. Từ đây về đến thôn còn chừng năm vec- xta.
Fedot cuộn dây cương,
thõng chân, ngả người ra cho thoải mái. Nhưng hắn đã không được chợp mắt.
- Vùng ta sinh sống
như thế nào hả bác? - Stokman bị lắc rất ghê, cứ nhảy chồm chồm trên ghế, nhưng
anh ta vẫn hỏi.
- Chúng tôi vẫn sống,
vẫn có bánh mì ăn.
- Bà con Cô- dắc nói
chung có vừa ý với cuộc sống không?
- Có người vừa ý, có
người thì không. Làm thế nào mà tất cả mọi người đều vừa ý được?
- Đúng đấy, đúng đấy…
- Người thợ nguội tỏ vẻ đồng ý. Anh ta nín lặng một lát rồi lại đưa ra những
câu hỏi như có hàm một ý ngầm gì đó - Bác bảo mọi người đều no đủ à?
- Cuộc sống cũng khá
sung túc.
- Nhưng có lẽ công
việc nhà binh cũng là một gánh nặng đấy nhỉ? Có phải không?
- Công việc nhà binh
ấy à? Chúng tôi đã quen rồi. Còn sống thì còn nằm trong quân số.
- Tai hại nhất là
người Cô- dắc phải tự trang bị lấy tất cả.
- Còn sao nữa, mẹ
chúng nó chứ! - Fedot bắt đầu hăng lên. Hắn liếc nhìn có ý nghi ngại người đàn
bà lúc nầy đã quay đầu sang bên. Với cái bọn quan lớn như thế thì thật là tai
hoạ… Hồi tôi đi lính, phải bán mấy con bò đi sắm một con ngựa. Nhưng họ mang đi
khám xong lại bảo là không đủ tiêu chuẩn.
- Bảo là không đủ tiêu
chuẩn à? - Người thợ nguội vờ ngạc nhiên.
- Hoàn toàn đúng thế
đấy. Họ bảo chân có khuyết tật. Tôi cố nài: "Xin các ngài cứ nhận cho. Bốn
chân nó có gì khác một con ngựa thi giật giải. Chỉ có điều là nước kiệu chạy
nom giống con gà trống… Nó có cái nước kiệu kiểu gà trống mà lại". Nhưng
họ vẫn không nhận. Thế là hết nghiệp!
Câu chuyện nói mỗi lúc
một thêm rôm rả. Mải mê với câu chuyện, Fedot vui vẻ nhảy từ trên xe xuống, sẵn
sàng kể về bà con trong thôn, hết chửi lão ataman thôn về chuyện chia bãi cỏ
không công bằng, lại khen hết lời lối làm ăn ngăn nắp ở Ba Lan, nơi trung đoàn
của Fedot đóng trong thời gian hắn ở đơn vị. Fedot đi bên cạnh xe. Hai con mắt
sắc như dao nheo lại rất nhỏ của người thợ nguội nhìn khắp người hắn. Anh ta
hút một thứ thuốc lá nhẹ bằng một cái bót xương trên có những câi vòng nhỏ, một
nụ cười luôn nở trên môi. Nhưng chéo ngang vầng trán hơi dốc, da rất trắng, có
một vết nhăn hằn sâu, vết nhăn nầy di động chậm chạp, nặng nề, cứ như bị đẩy
lên đẩy xuống từ bên trong bởi những ý nghĩ gì thầm kín.
Xe về tới thôn trước
khi trời hoàng hôn.
Theo lời khuyên của
Fedot, Stokman xuống xe trước nhà mụ goá Lukeska Popopa và thuê của mụ hai gian
phòng.
- Bác đưa ai từ trên
trấn về đấy? - Mấy mụ láng giềng đã chờ Fedot ở cổng để hỏi.
- Một người đại lý.
- Đại lý gì cơ chứ?
- Chà ngốc gì mà ngốc
khổ ngốc sở! Tôi xin nói cho các bà các chị biết rằng người đại lý nầy bán máy
khâu. Ai đẹp được biếu không, còn xấu như thím, thím Maria ạ, thì phải trả
tiền.
- Đồ quỷ dữ tay chuối
mắn như bác mà cứ tưởng mình đẹp đẽ lắm đấy phỏng. Cái mặt Kalmys của bác thì
cứ nhìn mà tởm… Đến ngựa cũng chẳng dám gần: trông thấy đã đủ khiếp.
- Nầy thím chớ tưởng
đùa, trên thảo nguyên thì chỉ có người Kalmys và người Tarta là nhất đấy thôi!
- Fedot cố chống chế rồi bỏ đi.
Anh thợ nguội Stokman
đã dọn xong chỗ ở tại nhà mụ Lukeska, một người đàn bà vừa lác vừa lắm mồm. Anh
ta chưa kịp ngủ yên một đêm, khắp thôn đã thấy bọn đàn bà bàn ra tán vào.
- Nầy bà bạn đỡ đầu,
bác đã nghe thấy chuyện chưa?
- Chuyện gì thế?
- Gã Kalmys Fedot đưa
ở đâu về một thằng Đức đấy.
- Thật ư?
- Tôi dám thề trước
Đức Mẹ là đúng như thế đấy! Đội mũ dạ, tên là Stôpôn hay Stôcan gì đó…
- Hay là mật thám?
- Nhân viên phòng thuế
đấy, bà bạn thân mến ạ.
- I- i i
các bà các chị ạ, thiên hạ nói láo tuốt. Nghe nói hắn ta làm kế toán cũng như
cậu cả con cha Pankrati thì phải.
- Paska,
con yêu của mẹ, mày thử chạy đến tìm bác Lukeska, hỏi bác ấy khẽ khẽ thôi nhé:
"Bác ơi, xe đưa ai về nhà bác thế?" Chạy ù lên nhé, thằng bé đến là
ngoan!
Hôm sau,
người mới đến ngụ cư tới gặp lão ataman thôn Fedor Manykov giữ cái gậy ataman 1
đến nay đã được ba năm.
Lão lật
đi lật lại mãi trong tay tờ giấy thông hành bọc vải dầu đen. Rồi đến lượt viên
thư ký Egor Zakov cũng lật lật xem qua. Hai tên đưa mắt cho nhau, rồi theo thói
quen của một viên quản kỵ binh, lão ataman trịnh trọng khoát tay:
- Ông
được ở lại đây.
Người
mới đến cúi chào rồi ra ngoài. Suốt một tuần liền anh ta chẳng ló mặt đi đâu,
cứ sống ru rú như một con chuột đồng trong hang. Bắt đầu có tiếng rìu đẽo chan
chát, rồi xưởng thợ nguội được đặt trong gian bếp mùa hè, bỏ không từ lâu. Bọn
đàn bà trước kia tò mò dò hỏi không biết chán, đến nay không còn để ý gì nữa,
chỉ còn bầy trẻ là ngày nào cũng leo lên hàng rào nhìn người khách lạ của thôn.
---
------ ------ ------ -------
1 Mỗi ataman các cấp đều có một cái gậy
tượng trưng chức quyền của mình (ND)
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 38
Vợ chồng
Grigori đi cày ba ngày trước lễ Đức Mẹ 1 Ông Panteley Prokofievich bị mệt cũng
ra đưa tiễn. Ông chống cái nạng, chỗ thắt lưng đau quá chốc chốc lại làm ông
kêu lên.
- Griska
à, mày hãy cày trước hai mảnh sau bãi chăn bò chung ở cái khe nước Đỏ ấy nhé.
- Vâng,
vâng. Thế còn cái khoảng ở gần bờ Vách Liễu thì sao? - Grigori khẽ hỏi, khàn
khàn. Chàng đi câu bị cảm, phải quấn một cái khăn quanh cổ.
- Qua lễ
Đức Mẹ hẵng hay. Đi một lần cày hai mảnh ấy đủ rồi.
Chỗ gần
khe nước Đỏ cũng đến một kruk 2 rưỡi rồi đấy. Đừng quá tham.
- Thế
anh Petro không đến giúp thêm à?
- Nó với
con Daria còn phải ra nhà máy xay. Hôm nay phải xay cho xong, nếu không sẽ quá
lượt mất.
Bà
Ilinhitna giúi vào trong cái áo ngắn của Natalia vài cái bánh mềm và khẽ bảo
nàng:
Hay bảo
con Dunhiaska đi thêm cho nó đánh bò?
- Hai
chúng con làm cũng được rồi.
- Thôi
cẩn thận nhé, con yêu của mẹ. Cầu Chúa che chở cho con.
Dunhiaska
khiêng một đống quần áo ướt, nặng quá oằn cả cái lưng mảnh dẻ. Cô bé chạy qua
sân để ra sông giũ.
- Chị
Natasa, chị Natasa yêu quý, ở khe nước Đỏ quả toan mô mọc nhiều lắm đấy, chị
nhớ hái về đấy! 3
- Ừ chị
sẽ hái, chị sẽ hái.
- Câm
ngay, léo nha léo nhéo như con mẹ ranh! - Ông Panteley Prokofievich vung cái
nạng.
Ba cặp
bò mộng kéo lê trên đường cái cày gieo hạt lật ngửa, vạch hằn một vệt trên mặt
đất vốn đã rắn lại bị khí trời mùa thu thiếu mưa làm càng rắn thêm. Grigori
húng hắng ho đi bên lề đường, thỉnh thoảng lại sửa cái khăn cuốn cổ. Natalia đi
bên cạnh Grigori, túi thức ăn lủng lẳng sau lưng.
Ra đến
ngoài thôn, không khí trên đồng cỏ lặng như tờ, vừa trong vừa lạnh. Sau bãi
chăn nuôi chung, sau ngọn gò nom như cái lưng gù những lưỡi cày đang xới tung
mặt đất, trẻ chăn bò huýt sáo ầm ĩ nhưng ở đây, hai bên con đường cái nầy, chỉ
có những bụi ngải cứu thấp lè tè màu xanh da trời lốm đốm như tóc hoa râm,
những bụi linh lăng hương dại cừu cắn nham nhở, những đám gô- riu- nốc 4 khom
khom như người làm lễ ở nhà thờ, ngoài ra chỉ có bầu trời dội tiếng, trong vắt
như thuỷ tinh, mỗi lúc một lạnh. Loáng thoáng có những cái mạng nhện lấp loáng
màu ngọc quý bay lơ lửng.
Sau khi
đưa tiễn hai vợ chồng Grigori đi cày, Petro và Daria cũng sửa soạn ra nhà máy
xay. Petro treo một cái máy sàng trong nhà thóc, bắt đầu quạt thóc. Daria đổ
thóc vào những chiếc bao tải, mang ra chiếc britka.
Ông
Panteley Prokofievich thắng ngựa xong còn sửa lại rất cẩn thận các đồ thắng.
- Đã sắp
xong chưa?
- Chúng
con xong ngay đây, - Petro trả lời vọng ra từ trong nhà thóc.
Tại nhà
máy xay, mọi người đang luân phiên đưa bột vào xay.
Những
chiếc xe tải đỗ san sát trên cái sân. Người ta chen nhau quanh bàn cân. Petro
ném dây cương cho Daria rồi nhảy trên chiếc britka xuống.
- Sắp đến số của tôi
chưa? - Petro hỏi "Bồi" đang đứng ở bàn cân.
- Anh đến vừa kịp đấy.
- Đang xoá số bao
nhiêu thế?
- Ba mươi tám.
Petro ra khiêng những
bao thóc xuống. Giữa lúc ấy trong nhà cân bỗng vang lên tiếng chửi nhau. Không
biết người nào quát lên, giọng khàn khàn, hung hãn, nghe như tiếng chó sủa:
- Ngủ cho béo mắt để
quá lượt, bây giờ còn muốn leo lên à? Cút ngay đi, đồ khốn, không ông nện cho
bây giờ!
Petro nghe giọng, đoán
là gã Yakov Móng ngựa bèn chú ý lắng nghe thêm. Trong phòng cân có
tiếng kêu to vang ra qua cửa.
Rồi có
tiếng một miếng đòn rất gọn, và từ trong cửa phòng, một người Tavria 5 râu xồm
đã có tuổi lăn vật ra, cái mũ lưỡi trai đen tụt xuống sau gáy.
- Sao
mày đánh tao? - Người ấy ôm lấy một bên má, kêu lên.
- Ông
không cho mày gãy răng không xong!
- Không
dễ đâu, mày chờ đấy sẽ biết!
- Mikíchvo,
lại đây?
Hồi
Yakov đi lính, một hôm gã đóng móng ngựa, bị con ngựa lồng lên, đá vào mặt. Gã
bị dập cái mũi, toạc cả môi, và cái móng ngựa đã in hình trên mặt gã. Vết
thương để lại một cái sẹo hình bầu dục, xám ngoét, những cái đinh nhọn cũng in
những chấm đen, vì thế mới có cái biệt hiệu Móng ngựa. Yakov Móng ngựa vốn là
tay pháo thủ can đảm, vạm vỡ. Gã xắn tay áo, chạy trong cửa ra. Một người
Tavria cao lớn, mặc sơ- mi màu hồng, đuổi theo, giáng cho gã một quả đấm nên
thân. Móng ngựa lảo đảo, nhưng vẫn còn đứng được.
- Anh em
ơi, chúng nó đánh người Cô- dắc!
Như bị
dốc trong ống tay áo ra, những người Cô- dắc và người Tavria đổ xô từng đám,
từng đám từ trong cửa nhà máy xay ra khoảng sân ngổn ngang xe cộ. Trước đó họ
đã kéo tới đây từng toán đông.
Cuộc
loạn đả nổ ra ở ngay cổng chính. Cái cửa kêu răng rắc vì bị bao nhiêu thân
người ùa ra cùng xô mạnh. Petro ném bao thóc xuống, kêu lên rồi lon ton chạy về
phía phòng máy xay. Daria nhổm người trên xe, nhìn thấy Petro xô gạt những
người gần anh ta, len vào giữa đám. Đến khi thấy Petro bị đấm dồn vào tường, bị
đánh ngã xuống và bị đạp túi bụi, Daria kêu rầm lên, Mitka Kosevoi nhảy cỡn từ
trong góc phòng máy ra, tay vung một chiếc bù- loong sắt.
Chính
người Tavria lúc nãy đánh vào sau lưng Móng ngựa, bây giờ chạy vùng ra khỏi đám
người, một tay áo màu hồng rách toạc đập lõng thõng sau lưng hắn như cái cánh
con chim bị thương. Hắn khom lưng xuống thật thấp, hai tay quệt xuống đất, chạy
tới chiếc xe tải đầu tiên, rồi tháo ra rất dễ dàng một cái càng. Trên sân nhà
máy xay ầm ầm những tiếng la thét kéo dài, khản cả giọng:
- A- a-
a- a…
- Ôi -
i- i- a- a- a…
Tiếng
đánh đấm. Tiếng đập phá. Tiếng rên la. Tiếng gào rú…
Ba anh
em nhà Samin ở trong nhà chúng chạy ra. Gã cụt tay Aleksey vướng chân vào những
đoạn dây cương không biết có ai ném ra, ngã lăn xuống chỗ cái cửa xép ở hàng
rào. Nhưng gã chồm ngay dậy, nhét bên tay áo rỗng vào bụng, và nhảy qua những
chiếc gọng xe đặt san sát. Gã Marchin, em của Aleksey thấy một ống quần của gã
tuột ra ngoài chiếc bít tất trắng bèn cúi xuống định nhét lại, nhưng giữa lúc
ấy, từ bên nhà máy xay vang tới một tiếng rú.
Không
biết tiếng người nào kêu mà bay vút lên rất cao trên cái mái rất dốc của nhà
máy xay, như một cái mạng nhẽn bị cuốn đi trong cơn gió lốc, Marchin lại đứng
thẳng dậy, vùng chạy theo Aleksey.
Daria
đứng trên xe cứ vặn ngón tay, thở hổn hển nhìn ra chung quanh. Chỗ nào cũng có
tiếng phụ nữ rít the thé hoặc gào khóc ầm ĩ. Những con ngựa hoảng sợ vểnh tai,
những con bò đứng sát vào những chiếc xe tải và xe britka kêu rống lên… Sergey
Platonovich mím môi mím lợi khập khiễng chạy qua, mặt cắt không còn hột máu,
cái bụng tròn xoay như một quả trứng khổng lồ lúc lắc dưới chiếc áo gi- lê.
Daria trông thấy gã người Tavria mặc chiếc áo sơ- mi màu hồng rách tả tơi cầm chiếc
càng xe phạt ngã Mitka Korsunov, nhưng chính gã cũng ngã lăn kềnh ra, chiếc
càng xe bị gãy văng khỏi tay. Gã Aleksey cụt tay dẫm chân lên gã người Tavria
và giáng xuống gáy gã những nắm đấm nặng như chì. Những cảnh đòn hội chợ không
đầu không đũa diễn ra loang loáng trước mắt Daria như những mảnh giẻ rách muôn
màu. Sergey Platonovich vừa chạy qua, Mitka Korsunov quì luôn dậy, cho lão một
cú bù loong sắt.
Daria
thấy vậy, chẳng ngạc nhiên chút nào. Sergey Platonovich vươn hai tay lên trời
ngoáy loạn xạ, rồi bò lổm ngổm về phía nhà cân như một con tôm. Lão bị những
chân người dẫm lên lăn kềnh ra… Daria phá lên cười như hoá dại, cặp lông mày lô
đen hình vòng cung cong gập hẳn lại. Nhưng mắt Daria bỗng bắt gặp Petro thế là
tiếng cười rồ dại tắt ngấm. Petro lảo đảo len ra khỏi đám người đang ngả
nghiêng gào rú, lần đến nằm dưới gầm một chiếc xe tải và nhổ ra một bãi máu.
Daria gào lên, chạy bổ tới chỗ chồng. Trong khi đó, dân Cô- dắc trong thôn tiếp
tục cầm gậy gộc chạy tới, một người vung cái thuốn sắt vẫn dùng để chọc băng.
Cuộc loạn đả lan ra tới mức độ kinh người. Đâu chỉ như những cuộc say rượu đánh
nhau trong quán hay những cuộc xô xát trong ngõ nhân lễ tiễn mùa đông.
Một
thanh niên người Tavria bị đánh vỡ đầu nằm thẳng cẳng ở cạnh cửa nhà cân. Hai
chân anh ta dạng rộng, đầu ngâm trong vũng máu đen đã vón cục, vài món tóc xoã
xuống mặt. Xem ra linh hồn chàng trai nầy đã về tới thiên đàng…
Những
người Tavria đã bị dồn lại thành một đám lúc nhúc như đàn cừu ở trước gian
xưởng nhỏ. Vụ nầy có lẽ sẽ kết thúc tai hại hơn nhiều nếu một cụ già người
Tavria không nghĩ ra một kế: cụ nhảy vào trong gian xưởng, rút trong lò ra một
thanh củi lửa bắn tung tóe.
Rồi cụ
chạy ra khỏi cửa, đến nhà kho chứa thóc đã xay, trong có hơn một ngàn pút thóc.
Qua vai ông cụ người ta thấy khói bốc lên như một làn lụa mỏng, những tia lửa
tóe ra tứ phía, nom chỉ lờ mờ dưới ánh sáng ban ngày.
- Lão
đốt đây! - Cụ gầm lên, giọng man rợ rồi giơ thanh củi gần mái lau, lửa vẫn nổ
lách tách.
Bọn Cô-
dắc rùng mình, ngừng tay không đánh nhau nữa. Gió hanh thổi từng đợt từ phía
đông, tạt khói từ trên mái gian xưởng nhỏ xuống đám người Tavria đang đứng túm
tụm một chỗ.
Mái lau
cũ đã bết chắc lại, rất khô, vì thế chỉ một tàn lửa khá to bắn vào là khói lửa
sẽ trùm lên khắp thôn…
Những
tiếng kêu trầm trầm, ngắn ngủi vang lên trong đám dân Cô- dắc. Có người đã bị
giật lùi về phía gian máy xay. Ông lão người Tavria kia vẫn vung thanh củi,
những tàn lửa vẫn văng tung tóe qua làn khói xám. Cụ vẫn gào lên:
- Lão
đốt đây? Đốt đây! Ra khỏi sân mau!
Gã Yakov
Móng ngựa, kẻ gây ra cuộc loạn đả, là tên đầu tiên rời khỏi sân nhà máy xay với
nhiều chỗ xanh tím trên khuôn mặt bất thành nhân dạng của gã. Những gã Cô- dăc
khác cũng vội vã đổ xô ra theo.
Bọn
người Tavria cũng bỏ những bao thóc đấy để ra thắng ngựa vào xe. Họ vung những
nút dây cương, quất roi đen đét, in những vạch dài trên lưng ngựa. Đoàn xe xông
ra khỏi sân, chạy long xòng xọc qua phố ra ngoài thôn.
Gã cụt
tay Aleksey đứng ngay giữa sân, đầu ống tay áo sơ- mi rỗng buộc túm lại, lủng
lẳng trước cái bụng dài ngoẵng nhưng rất chắc, mắt và má giật lia lịa trong cơn
kinh giật thường ngày.
- Anh em
Cô- dắc lên ngựa!
- Đuổi
theo chúng nó?
- Chúng
nó sẽ không kịp chạy quá đường sống đồi đâu?
Mitka
Korsunov né né người chạy trong sân ra. Bọn Cô- dắc đứng túm tụm bên cạnh gian
máy xay lại nhốn nháo hẳn lên, ồn ào như một đợt sóng. Nhưng giữa lúc ấy, từ
trong buồng máy thấy có một người đội mũ dạ đen đi ra rất nhanh. Người ấy lạ
mặt nhưng từ nãy chẳng có ai chú ý đến anh ta. Hai con mắt sắc ngọt của người
ấy nheo hẳn lại, lướt trên đám người như hai lưởi bào. Người ấy giơ tay:
- Hượm
cái đã!
- Anh là
ai hử? - Móng ngựa nhíu hai hàng lông mày rung rung.
- Hắn ở
đâu mò ra thế?
- Trói
nó lại!
- Hừ!
- Phì!
- Bà con
hãy hượm cái đã!
- Chỉ
bọn chó cộc 6 mới bà con với anh!
- Đồ mu-
gích!
- Đồ
guốc gỗ!
- Cho nó
một trận, Yakov?
- Đấm
vào hai con mắt nó ấy! Cho nó một quả vào mắt ấy!
Người
kia mỉm một nụ cười ngượng nghịu, nhưng không có vẻ gì sợ hãi. Anh ta bỏ mũ,
đưa tay lên xoa trán, cử chỉ rất hồn nhiên. Cuối cùng nụ cười của anh ta đã
tước được vũ khí của bọn Cô- dắc.
- Có
việc gì vậy? - Người ấy vung cái mũ dạ gập đôi, chỉ đám máu đen đã ngấm xuống
đất bên cạnh cửa phòng cân.
- Đánh
bọn khô- khon, - Gã cụt tay Aleksey trả lời, giọng ôn hoà, cả má lẫn mắt đều
giật lia lịa.
- Nhưng
vì sao đánh chứ?
- Để xếp
hàng cho có trật tự. Khỏi có cái lỗi chèn lên trên. - Móng ngựa vừa bước lên
trước, vừa khoát rộng tay quệt một đám nước mũi đỏ lòm.
- Cho
chúng nó nhớ đến già.
- Chà,
nếu đuổi kịp chúng nó nhỉ… Trên đồng cỏ thì đừng có hòng đốt được cái gì.
- Ban
nãy chúng mình hoảng sợ đấy thôi, chứ có lẽ nó chẳng dám đốt đâu - Con người đã
đến lúc liều mạng thì phóng hoả cũng là chuyện dễ như trở bàn tay.
- Cái
bọn khô- khon, chúng nó chúa là dễ nổi nóng. - Afonka Ozerov cười nhạo.
Người lạ
mặt vung cái mũ dạ về phía Afonka:
- Thế
anh là người gì?
Gã
Afonka chúm cái miệng rỗ nhằng rỗ nhịt, nhổ một bãi nước bọt ra vẻ khinh bỉ,
rồi dạng chân nhìn theo những tia nước bọt rơi xuống đất.
- Tôi là
người Cô- dắc, còn anh có phải dân Di- gan không?
- Không.
Tôi cũng như anh, cả hai chúng mình đều là người Nga.
Anh nói
láo! - Afonka nói dằn từng tiếng. - Người Cô- dắc bắt nguồn từ người Nga đấy.
Anh có biết điều đó không?
- Còn
tôi thì tôi bảo cho anh biết tổ tiên của người Cô- dắc là người Cô- dắc.
- Xưa
kia những người nông nô bỏ bọn địa chủ, chạy trốn đến vùng sông Đông, chính họ
đã được gọi là Cô- dắc đấy.
- Thôi
anh bạn thân mến ạ, anh hãy cứ đi con đường của anh. - Gã cụt tay Aleksey nắm
chặt những ngón tay xưng vù, khuyên bằng một giọng tức tối cố trấn tĩnh và nháy
mắt càng dữ.
- Trong
thôn lại đến thêm một thằng chết tiệt? Chà, đồ chó chết, nó lại muốn biến mình
thành dân mu- gích.
- Nó là
đứa nào thế hả? Cậu có biết không, Afonka?
- Nó là
một thằng cha nào đó mới đến đây. Nó thuê phòng ở nhà mụ lác Lukeska đấy.
Bây giờ
mà đuổi theo thì đã muộn. Bọn Cô- dắc kéo nhau ra về, họ vừa đi vừa bàn tán sôi
nổi về trận ẩu đả vừa nãy.
° ° °
Đêm ấy,
ở một nơi trên đồng cỏ cách thôn tám vec- xta, Grigori nằm cuộn tròn trong
chiếc áo choàng lông cứng rất bền, buồn rầu nói với Natalia:
-
Natalia cứ như một người xa lạ thế nào ấy… Natalia chẳng khác gì vừng trăng
kia: không làm tôi lạnh, cũng chẳng sưởi cho tôi ấm. Tôi nói Natalia đừng giận,
nhưng tôi không yêu Natalia. Tôi đâu muốn nói như thế, nhưng rõ ràng là không
thể sống mãi như thế nầy được nữa rồi… Tôí thương Natalia, và hình như trong
những ngày gần đây chúng ta có gần gũi nhau hơn, nhưng trong lòng vẫn chẳng cảm
thấy chút gì… Hoàn toàn trống rỗng. Y như cánh đồng cỏ trong lúc nầy.
Natalia
không nói gì, nàng chỉ ngước nhìn lên cánh đồng sao mà mình không tài nào với
tới, nhìn tấm màn hư ảo và âm thầm của những đám mây chập chờn trên đầu hai
người. Từ trên kia, trên tít khoảng không xanh thẫm, vài con sếu lạc đàn cất
lên những liếng gọi lanh lảnh như tiếng chuông bạc.
Từ lớp
cỏ cuối mùa xông lên một mùi hương u uất, đầy tử khí. Ở một chỗ nào đó trên
ngọn gò, lấp loáng ánh lửa đo đỏ nhỏ xíu còn lại trong đống củi mà những người
đi cày đã nhóm…
Grigori
thức giấc trước khi trời hửng. Tuyết phủ trên tấm áo choàng dầy tới hai véc-
sốc. Đồng cỏ nằm chết lịm dưới lớp tuyết đầu mùa nhấp nhoáng một màu xanh đồng
trinh. Bên cạnh chỗ nghỉ đêm còn hằn rõ những vết chân xanh xanh của con thỏ bị
lớp tuyết mới rơi làm cho lạc đường.
--- ------ ------ ------ -------
1 Theo lịch của người Nga lễ Đức Mẹ vào
ngày mồng một tháng mười.
2 Một kruk bằng bốn héc ta. (Lời chú của
bản tiếng Nga).
3 Quả toan mô đốt ra than có thể dùng để
giặt quần áo (ND).
4 Một thứ rau đắng ỏ vùng sông Đông (ND).
5 ở vùng sông Đông, người Tavria là cái tên
dùng để gọi những người Ukraina mà tổ tiên đã theo lệnh nữ hoàng Ekaterina đệ
nhị di cư đến đây từ những địa điểm miền Nam sát với Krym (Tavria), (Lời chú
của bản tiếng Nga).
6 Chỉ người Tavria (ND).
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 39
Từ những
thời rất xa xưa các cụ đã truyền lại rằng nếu trên con đường đi Minlerovo mà
một người Cô- dắc đơn thương độc mã chạm trán với vài người Ukraina (các làng
của người Ukraina bắt đầu từ thôn Hạ Yablovsky và kéo dài tới Minlerovo trên
một khoảng bảy mươi lăm vec- xta) mà không nhường đường thì sẽ bị những người
Ukraina kia đánh cho thừa sống thiếu chết. Vì thế hễ họ lên trấn là phải có mấy
chiếc xe cùng đi để nhỡ có một cuộc chạm trán trên đồng cỏ thì cũng không sợ
đấu khẩu.
- Nầy,
thằng khô- khon! Tránh đường mau? Đồ chết tử chết tiệt, mày sống ngụ cư trên
đất của người Cô- dắc mà không muốn tránh cho chúng ông đi hay sao?
Cả đến
người Ukraina cũng không cảm thấy thoải mái khi phải chở thóc ra kho thóc
Paramonovskaia bên sông Đông. Tại đấy những cuộc đánh lộn thường nổ ra vì bất
cứ nguyên nhân nhỏ mọn nào, dù chỉ vì hai tiếng "khô- khon". Hễ
"khô- khon" là choảng nhau liền.
Một trăm
năm trước đây đã có một bàn tay tìm mọi cách gieo rắc trên mảnh đất nầy hạt
giống của sự bất hoà giữa các tầng lớp và vun bón chăm sóc cho nó đâm chồi nảy
lộc. Trong các cuộc loạn đả, máu của người Cô- dắc cũng như máu của dân ngụ cư,
Nga và Ukraina đã tưới đẫm mảnh đất nầy.
Hai tuần
sau vụ đánh nhau ở nhà máy xay, viên cảnh sát trưởng và viên dự thẩm trên trấn
đã xuống thôn.
Người
đầu tiên bị gọi tới thẩm vấn là Stokman. Viên dự thẩm là một công chức còn trẻ,
xuất thân trong một gia đình quý tộc Cô- dắc.
Hắn lục
lọi trong cái cặp, hỏi:
- Trước
khi đến đây ông ở đâu?
- Ở
Rostov.
- Năm
một nghìn chín trăm linh bảy vì sao ông bị kết án tù?
Stokman
nhìn lướt qua cái cặp và đường ngôi lệch đầy gàu trên cái đầu cúi gầm của viên
dự thẩm.
- Vì gây
mất trật tự.
- Hừ- ừ-
ừm… Thế hồi ấy ông làm việc ở đâu?
- Ở xưởng
sửa chữa xe lửa.
- Nghề
nghiệp?
- Thợ
nguội.
- Ông có
phải là dân Do Thái không? Có phải là dân công giáo mới theo đạo không?
- Không.
Tôi nghĩ rằng…
- Tôi
không cần biết ông nghĩ gì. Ông đã bị đi đày phải không?
- Vâng,
có.
Viên dự
thẩm ngẩng đầu lên khỏi cái cặp. Hắn nhay nhay cặp môi cao nhẵn nhụi, đầy mụn
nhọt:
- Tôi
khuyên ông nên đi khỏi nơi nầy… - Rồi hắn tự nói với mình - Mà mình cũng phải
làm cho kỳ được việc đó…
- Vì sao
vậy, thưa ngài dự thẩm.
Trả lời
câu hỏi ấy lại là một câu hỏi:
- Hôm
xảy ra vụ đánh nhau ở nhà máy xay ông đã nói những gì với những người Cô- dắc
địa phương?
- Thật
ra…
- Thôi,
ông có thể ra ngoài.
Stokman
bước ra khỏi sân thượng của nhà Mokhov (bọn quan lại bao giờ cũng tránh ở nhà
trọ và đến ở nhà Sergey Platonovich) rồi nhún vai, ngoái cổ lại nhìn hai cánh
cửa sơn.
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 40
Trời không chuyển
sang mùa đông. Tuyết đã rơi trước lễ Đức mẹ, nhưng sau ngày lễ người ta lại có
thể cho gia súc ra ăn cỏ ngoài đồng. Gió nồm thổi suốt một tuần, trời ấm lại,
mảnh đất lại tỉnh táo, ngoài đồng cỏ, cỏ xanh cuối mùa loăn xoăn như rêu cố nở
vớt những đoá hoa tươi thắm.
Thời tiết ấm trở
lại cho đến ngày lễ thánh Misen. Sau đó lại bắt đầu rét ngọt, tuyết đổ xuống
như trút, và mỗi ngày một rét dữ. Lại rơi thêm một phần tư ác- sin tuyết. Trong
các vườn rau hoang vắng ven sông Đông, những chuỗi vết chân thỏ hình cánh hoa
chạy qua bên dưới những dãy hàng rào tuyết phủ đến ngọn, nom như những hình
thêu rua trên áo các cô gái. Phố xá không một bóng người.
Khói phân khô bốc
lên tãi ra khắp thôn. Vài con quạ đen tìm đến chỗ có người ở đi đi lại lại gần
đống tro đổ ven đường. Xe trượt tuyết chạy trong thôn vạch thành những đường
ngoằn ngoèo trông như những dải vải xanh bạc màu.
Một hôm trên bãi
họp việc làng có một cuộc họp: sắp đến ngày chia phần chặt củi. Dân trong thôn,
kẻ áo da dài, người áo da ngắn, đứng chen chúc bên thềm nhà hội đồng, những
chiếc ủng dạ dẫm ken két. Vì lạnh nên mọi người ùa cả vào trong nhà. Những
người già cả, râu bạc như cước, được trọng vọng thì được ngồi ở cái bàn bên
cạnh lão ataman và viên thư ký. Còn bọn Cô- dắc ít tuổi hơn, râu đủ các màu
hoặc chưa có râu thì đứng túm tụm từng đám, chuyện trò ầm ĩ qua những cái cổ ấm
của áo lông cừu. Viên thư ký viết những dòng li ti trên một tờ giấy. Lão ataman
nhìn qua vai hắn xem hắn viết. Trong khi đó căn phòng của nhà hội đồng ầm ĩ
những giọng nói cố nén thầm:
- Cỏ bây giờ thì…
- Hừ- hừ… Cỏ ngoài
bãi còn cho bò ngựa ăn được, chứ trên đồng cỏ thì chỉ có loại linh lăng hương
chẳng được tích sự gì.
- Thời các cụ xưa
có thể thả bò ngựa cho ăn cỏ tới Nô- en cơ đấy.
- Thế thì thú cho
bọn Kalmys lắm nhỉ?
- Hừ- ừ- ừm…
- Cổ của lão ataman
cứ như cổ chó sói ấy: lão có xoay đầu được đâu?
- Lão bạnh cổ ấy ăn
hốc lắm vào, béo như con lợn, thật là của quỷ!
- Thế nào ông thông
gia, ông sợ lạnh à? Sao phải mặc một cái áo da ghê gớm như thế nầy…
- Hôm nay có thằng
Di- gan bán chiếc áo da.
- Một đêm Nô- en,
bọn Di- gan ngủ trên đồng cỏ, chẳng có gì đắp. Một thằng đắp cái lưới đánh cá,
ruột già ruột non lạnh cứng cả lại. Nó tỉnh dậy, thò một ngón tay qua mắt lưới,
rồi bảo mẹ nó: "Hừ- hừ, mẹ ơi, sao ngoài sân lạnh dữ đến thế nầy!"
- Lạy Chúa tôi,
đường trơn đến nơi rồi.
- Đến phải đóng
móng sắt cho bò mất, chẳng còn cách nào khác cả.
- Mấy hôm nọ mình
đi chặt liễu trắng ở khe Con quỷ, đẹp đẹp là.
- Zakha à, có cài
khuy quần vào không… Cóng sun lại thì cái mụ nhà bác đến tống cổ bác đi thôi.
- Nầy, bác Apdeit,
bác chăn còn bò mộng giống của thôn đấy phải không?
- Tôi không nhận
chăn nữa rồi. Mụ Paranca Mrykhina chăn đấy. Mụ ta bảo: "Tôi goá chồng,
chăn cho vui cửa vui nhà". Tôi bảo: "Chịu khó mà chăn, may ra còn
sinh con đẻ cái…"
- A- hà- hà- hà-
hà!
- Ô- khồ khồ- khồ-
khồ?
- Thưa các cụ bô
lão? Cái chuyện chia củi chúng ta sẽ giải quyết thế nào đây? Khẽ chứ nào!
- Tôi bảo rằng nếu
có sinh con đẻ cái… tôi sẽ làm bố đỡ đầu cho…
- Yên lặng một
chút! Chúng tôi tha thiết đề nghị!
Cuộc họp bắt đầu.
Lão ataman vuốt cái na- xê- ca 1 lấm tấm hơi nước, réo họ tên những người được
chia, hơi lão thở ra trắng như khói và thỉnh thoảng lão lại đưa ngón tay út lên
gỡ những miếng băng nhỏ trên râu. Sau lưng lão, bên cái cửa luôn đập thình
thình, người ta chen chúc, hơi bốc ngùn ngụt, tiếng sì mũi ầm ĩ.
- Thứ năm không thể
lấy làm ngày đốn củi được đâu? - Gã Ivan Tomilin nghiêng cái đầu đội mũ cát-
két màu lam của lính pháo binh, xát xát hai cái tai đỏ tía, cố hét át tiếng lão
ataman.
- Tại sao vậy?
- Nầy cái anh pháo
thủ hạng bét kia, giứt béng hai cái tai đi cho xong!
- Chúng ta sẽ khâu
thay vào cho hắn hai tai bò.
- Thứ năm, đến nửa
thôn phải tập trung đi chở cỏ rồi còn gì. Chúng ta hãy bàn cho kỹ đã!
- Thế thì đi đốn
củi ngày chủ nhật vậy.
- Thưa các cụ bô
lão?
- Chẳng sao cả!
- Chúc mọi sự tốt
lành!
- Khư- ừ- ừ- ừ- ừ?
- Khô ồ- ồ- ồ ồ?
- Khà à- à- à- à!
Lão già Matvey
Casulin vươn mình qua cái bàn lung lay như răng bà lão, cầm cái nạng làm bằng
gỗ tần bì nhẵn thín xỉa xỉa về phía Tomilin. Lão bực tức rít lên:
- Cái chuyện cỏ hãy
để lại đã! Có gì phải lo cơ chứ? Việc ấy là việc chung… Anh vốn dĩ chỉ quen
chọc gậy bánh xe mà thôi. Anh bạn trẻ của tôi ạ, anh xuẩn vừa chứ! Đây nầy! Anh
hãy xem? Đây nầy…
- Chính lão mới là cái thằng đến già mà
vẫn phải dựa vào trí khôn của láng giềng… - Gã cụt tay Aleksey đứng ở những
hàng sau nhô đầu lên phía trước nói liến thoắng. Gã nháy mắt lia lịa, bên má
thủng lỗ chỗ giật giật như lên cơn thần kinh.
Đã sáu năm nay, gã mang thù với lão
Casulin chỉ vì một mẩu đất cày dôi. Mùa xuân năm nào gã cũng nện cho lão già
một trận, mà của đáng tội, lão kia cũng chỉ chiếm của gã một mảnh đất bằng một
phần tư con chim sẻ 2, nhăn mặt một cái là có thể nhổ phẹt bãi nước bọt từ bên
nầy sang bên kia.
- Thôi câm đi, cái thằng kinh giật!
- Tiếc là quá xa, không với tới, nếu
không ông đã cho mày một quyền đổ máu mũi rồi!
- Nầy, cái thằng cụt tay nháy mắt!
- Thôi cả hai im đi, lại gây sự với
nhau rồi!
- Có muốn cắn nhau thì cút ra sân mà
cắn nhau? Đúng thế đấy.
- Thôi đi, Aleksey, cậu xem kìa, lão
già đã hết hồn hết vía rồi, cái mũ lông trên đầu lão đang nảy bần bật lên kia
kìa.
- Những ai đánh nhau cãi nhau thì cho
vào nhà giam!
Lão ataman đấm mạnh xuống chiếc bàn ọp
ẹp:
- Tôi gọi cảnh sát bây giờ đây! Có im
đi không!
Những tiếng ầm ầm lặng đi, lan dần
xuống tới những hàng cuối cùng rồi im hẳn.
- Thứ năm trời rạng là đi đốn củi ngay.
- Thưa các cụ bô lão, các cụ thấy thế
nào?
- Mong mọi sự tốt
lành?
- Cầu Chúa che chở!
- Ngày nay chúng nó
không chịu nghe lời người già nữa rồi…
- Không lo, rồi
chúng nó sẽ phải vâng lời thôi. Chẳng nhẽ không kiếm được cách nào trị chúng nó
hay sao? Cái thằng Alosa thổ tả nhà tôi, định đánh cả tôi. Tôi đã làm cho nó
phải câm miệng ngay: "Tao sẽ ra trình với ông ataman và bô lão trong thôn,
người ta sẽ lôi mày ra bãi họp việc làng mà nện cho một trận…". Thế là nó
phải biết thân ngay, phải nằm rạp xuống như ngọn cỏ dưới nước lũ.
- Còn việc nầy nữa,
thưa các cụ bô lão, tôi vừa nhận được lệnh của ông ataman trấn. - Lão ataman
thôn đổi giọng, xoay xoay đầu cái cổ đứng của chiếc áo quân phục nâng hẳn lên,
siết chặt lấy cổ lão - Thứ bảy nầy, những ai đến tuổi tráng đinh đều phải làm
lễ tuyên thệ. Trước lúc trời tối đã phải có mặt ở nhà hội đồng trấn.
Ông Panteley
Prokofievich co bên chân thọt, đứng bên cạnh ông thông gia ở chỗ cái cửa sổ sát
với cửa ra vào. Miron Grigori phanh chiếc áo da dài ngồi trên bậu cửa sổ, một
nụ cười lấp loáng sau chòm râu hung hung. Sương muối long lanh trên hai hàng mi
ngắn cũn, trắng phếch. Những cái nốt ruồi nâu to tướng mọng máu vì lạnh xám
ngắt đi. Cạnh đấy, một đám Cô- dắc trẻ hơn đứng túm tụm, nháy mắt cho nhau, mỉm
cười. Lão Apdeit, biệt hiệu là Vua nói phét, kiễng chân đứng lắc lư giữa đám
với chiếc mũ lông đỉnh màu lam có đính chữ thập bạc của trung đoàn Atamansky
lật ra sau cái gáy phẳng lì. Apdeit cùng tuổi với ông Panteley Prokofievich
nhưng chưa có vẻ gì là già, cặp má lúc nào cũng đỏ hồng hồng như quả táo chín.
Apdeit có đi lính
trong trung đoàn ngự lâm Atamansky. Lúc đi lão còn mang cái họ là Xinhilin,
nhưng lúc về lão đã trở thành… Vua nói phét.
Lão là người đầu
tiên trong thôn được biên chế vào trung đoàn Atamansky và một điều quái đản đã
xảy ra với lão Cô- dắc nầy, Apdeit đã lớn lên cũng như tất cả các thanh niên
khác, chỉ phải cái hồi ít tuổi hơi ngớ ngẩn một chút, nhưng đi lính về thì mồm
mép liến thoắng không lúc nào ngơi. Ngay hôm đầu, vừa về thôn, Apdeit đã bắt đầu
kể cho mọi người nghe những mẩu chuyện lạ lùng về thời gian lão đóng trong cung
điện của vua Nga, và về những việc phi thường lão đã làm ở Peterburg. Đầu tiên
người ta còn kinh ngạc, há hốc miệng ra nghe, tin là thật, nhưng sau cũng biết
là Apdeit nói khoác. Quả thật từ khi các cụ thành lập thôn nầy cho đến nay,
chưa từng thấy có một tay nói khoác như thế nầy bao giờ. Khi đã có chứng cớ
rành rành là những chuyện kỳ dị của lão đều do lão bịa ra, người ta cười ngay
vào mũi lão, nhưng lão cũng chẳng đỏ mặt (có lẽ lão cũng có đỏ mặt đấy, nhưng
vì da lão lúc nào cũng đã đỏ rồi nên người ta không nhận ra thôi) và sau đó vẫn
tiếp tục nói khoác như thường. Về già, lão càng thêm điên cuồng rồ dại. Nếu bị
hỏi vặn đến cứng lưỡi thì lão nổi khùng, gây sự đánh nhau, nhưng nếu người ta
lặng thinh, chỉ mỉm cười chế nhạo thì lão càng một tấc đến trời, bất chấp những
lời thiên hạ chế giễu.
Trong công việc làm
ăn, Apdeit là một tay Cô- dắc tháo vát, chăm chỉ cần cù, việc gì cũng làm đâu
vào đó, có khi còn khôn ngoan ranh ma nữa là khác. Nhưng hễ động đến chuyện lão
đi lính ở trung đoàn Atamansky… là bất cứ ai cũng phải khoát tay vì ngạc nhiên
hay ôm bụng ngồi xuống đất mà cười nôn ruột.
Hôm nay Apdeit lại
lắc lư trên đôi ủng dạ mòn gót, đứng giữa một đám Cô- dắc xúm đông chung quanh.
Lão đưa mắt nhìn khắp lượt rồi nói bằng một giọng trầm trầm đầy vẻ nghiêm
trọng:
- Những thàng Cô-
dắc ngày nay hoàn toàn là của vứt đi. Loắt choắt, nhỏ bé, chẳng được tích sự gì
cả. Bất cứ thằng nào cũng xỉ mũi bẻ cái làm đôi được. Nói tóm lại… - Lão mỉm
một nụ cười khinh bỉ, lấy mũi ủng di di bãi nước bọt. - Ở trấn Vosenskaia tôi
đã từng thấy những xương người chết, đó mới thật là người Cô- dắc, đúng thế
đấy!
- Đào được ở đâu
thế, bác Apdeit? - Gã Anikey mặt mũi nhẵn thín vừa hỏi vừa hích khuỷu tay vào
gã đứng bên.
- Thôi ông bạn đồng
ngũ ơi, tết nhất đến nơi rồi, đừng khoác lác nữa làm gì. - Ông Panteley
Prokofievich nheo cái mũi mỏ quạ, lắc lắc chiếc vòng tai. Ông vốn không ưa
những chuyện ba hoa.
- Không đâu ông bạn
ạ, từ thủa cha sinh mẹ đẻ đến giờ tôi có nói điều gì không đúng sự thật bao giờ
đâu, - Apdeit tuyên bố rất long trọng rồi ngạc nhiên giương mắt nhìn Anikey run
bần bật như lên cơn sốt rét. - Tôi đã được thấy những cái xương người chết ấy,
hôm người ta làm nhà cho cậu em vợ tôi. Vừa bắt đầu đào móng là quật lên được
một ngôi mộ. Đúng là xưa kia ven sông Đông, ở gần nhà thờ đã có một cái bãi tha
ma.
- Thế những cái
xương ấy như thế nào? - Ông Panteley Prokofievich đã sắp sửa bỏ đi chỗ khác,
nhưng lại bực mình hỏi thêm.
- Tay thì thế nầy
nầy, - Apdeit vung rộng hai tay như hai cái cào.
- Còn cái đầu, thật
đấy, tôi không nói ngoa đâu, chẳng kém gì một cái nồi Ba Lan.
- Nầy bác Apdeit ạ,
tốt nhất bác hãy kể cho bọn trẻ nghe chuyện bác bắt tên cường đạo ở Saint
Peterburg thì hơn. - Miron Grigorievich xúi thêm rồi khép tà áo lông, tụt trên
bậu cửa sổ xuống.
- Chuyện ấy thì có
gì mà kể. - Apdeit vờ khiêm tốn.
- Thôi kể đi bác?
- Tôi van bác đấy?
- Nể chúng tôi một
chút, bác Apdeit!
- Thôi được câu
chuyện đã xảy ra như thế nầy nầy. - Apdeit húng hắng ho, lấy trong túi quần ra
một túi thuốc lá. Rồi lão khum khum bàn tay, dốc ra ít thuốc vụn và bỏ lại vào
túi thuốc hai đồng tiền đồng rơi trong đó ra. Xong đâu đó lão mới sung sướng
đưa mắt nhìn một lượt tất cả những người đứng nghe. - Có một tên hung thủ bị
bắt vừa vượt ngục, trốn khỏi pháo đài. Đã tìm khắp chốn khắp nơi mà chẳng thấy
bóng vía nó đâu cả. Quan lớn quan bé đều chẳng còn biết đằng nào mà lần. Chim
trời cá nước, thế là biệt tăm biệt tích? Đến đêm ngài sĩ quan giám thủ cho gọi
mình. Mình bèn lên gặp… Phải… Quan giám thủ nói: "Anh hãy vào cung bái yết
hoàng đế bệ hạ… Hoàng đế cho vời anh đấy". Tất nhiên mình cũng có lo,
nhưng vẫn cứ đến. Mình bước vào, đứng nghiêm và Người, đấng Đại ân đại đức của
chúng ta, đưa tay vỗ vai mình và bảo: "Có chuyện thế nầy, Ivan Apdeit ạ,
tên hung phạm nguy hiểm nhất đối với quốc gia đã trốn mất rồi. Dù phải thăng
thiên độn thổ, nhà ngươi cũng phải tìm bắt cho được nó. Nếu không đừng vác mặt
về trông thấy trẫm nữa!". Mình bèn trả lời: "Thần xin lĩnh chỉ, thánh
thượng vạn tuế?" Chà- à- à, các cậu ạ thật là một chuyện làm mình tơi bời
ruột gan… Mình bèn vào chuồng ngựa của hoàng đế, thắng những con tuấn mã hạng
nhất vào một chiếc troika 3, thế là xuất phát, xuất phát. - Apdeit châm thuốc
hút, rồi đưa mắt nhìn một lượt những người đang cúi đầu lắng nghe. Lão phấn
khởi hẳn lên, cất giọng oang oang qua làn khói thuốc chập chờn quanh đầu - Ngày
rong ruổi, đêm ruổi rong, đến ngày thứ ba thì tóm cổ được cu cậu ở gần Moskva.
Mình quẳng luôn anh bạn thân mến ấy lên xe rồi lại đường cũ đánh nước mã hồi.
Nửa đêm mới về đến nơi, từ đầu đến chân những bùn là bùn, nhưng mình vẫn đi
thẳng đến chỗ Ngài ngự. Tất cả các công tước, bá tước to nhỏ đủ mọi kiểu không
cho mình vào, nhưng mình vẫn cứ vào. Phải… Mình gõ cửa: "Muôn tâu thánh
thượng, thần xin phép được vào, Ngài ngựa hỏi: "Ngươi là ai thế? Mình
thưa: "Tâu thánh thượng, thần đây, Ivan Apdeit đây". Trong nhà lục
đục loạn cả lên, rồi mình nghe thấy chính Ngài ngự quát: "Bà Maria
Fedorovna 4 đâu? Dậy mau lên, mang samova 5 ra đây, Ivan Apdeit về rồi
đấy?"
Những hàng phía sau
phá lên cười như nắc nẻ. Viên thư ký đang đọc tờ thông báo về gia súc bị thất
lạc bị tắc ở câu: "chân trái vá trắng tới gót". Lão ataman vươn cổ
như con ngỗng, gương mắt nhìn đám người đang cười ngặt nghẽo.
Apdeit bỏ chiếc mũ
lông ra, cau mày, ngơ ngác đưa mắt nhìn từng người một.
- Hượm đã nào!
- Ô- hô- ha- ha-
ha!
- Chao ôi, chê- ê-
ết cười được!
- Khặc- khặc- khă-
khă- khặc?
- Apdeit, cái con
chó hói, ô- hô- hô!
- "Mang samova
ra đây, Ivan Apdeit về rồi đấy?" ái chà chà!
Những người đến họp
bắt đầu ra về. Những cái ngưỡng cửa làm bằng gỗ ở thềm bị lạnh giá cọt kẹt mãi
không thôi. Stepan Astakhov cùng một gã Cô- dắc đang vật nhau trên đống tuyết
bị dẫm nát bên cạnh nhà hội đồng cho nóng người. Gã nầy cao lớn, chân dài
nghêu, là chủ cái máy xay gió kiểu Hà Lan.
- Bẻ quặt tay qua
đầu? - bọn Cô- dắc đứng vây quanh mách miếng.
- Stepan, lắc cho
nó phọt cám ra đi!
- Cậu không đủ sức
chộp được nó đâu? Thằng cha nầy láu cá lắm đấy! - Lão Casulin thích quá, cứ
nhảy cỡn như một con chim sẻ vì quá mải mê theo dõi, lão không biết rằng một
giọt nước mũi sáng sáng rất to đang lủng lẳng ở đầu cái mũi xám ngoét của lão.
--- ------ ------
------ -------
1 Gậy tượng trưng cho chức quyền ataman (ND).
2 Nguyên văn: "bằng một phần tư con chim sẻn (ND).
3 Một loại xe ba ngựa kéo, rất nhẹ, có thể dùng làm xe thi (ND).
4 Tên cúng cơm của hoàng hậu (ND).
5 Một loại ấm đun nước của người Nga luôn giữ cho nước sôi, dùng để pha
trà (ND).
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 41
Ông Panteley
Prokofievich vừa ở chỗ họp thôn trở về đã vào thẳng ngay căn buồng bên, nơi ông
vẫn ở với bà già. Mấy hôm nay bà Ilinhitna bị mệt. Khuôn mặt phù thũng của bà
đầy vẻ mệt mỏi và đau đớn. Bà nằm dài trên một cái đệm nhồi lông chim rất dầy,
lưng tựa vào một cái gối dựng đứng. Nghe tiếng những bước chân quen thuộc, bà
quay đầu ra, đưa mắt nhìn đức ông chồng với cái vẻ nghiêm khắc từ lâu đã ăn sâu
trên khuôn mặt của bà. Mắt bà dừng lại trên những món râu quăn ướt đẫm vì hơi
thở ôm chặt lấy miệng ông chồng, cùng hàng ria ẩm bị nén lại, mọc liền với bộ
râu quai nón. Bà phập phồng cánh mũi, nhưng ông lão chỉ mang về hơi lạnh cùng
mùi da cừu chua loét. "Hôm nay không có chai bố chai con gì rồi" - Bà
vui vẻ nghĩ thầm rồi đặt lên cái bụng tròn xoe của bà chiếc bít tất đan chưa
xong gót cùng với những chiếc kim đan.
- Việc đốn củi như
thế nào hả ông?
- Đã quyết định là
ngày thứ năm. - Ông Panteley Prokofievich vuốt ria. - Thứ năm, ngay từ sáng, -
Ông vừa nhắc lại vừa ngồi xuống cái hòm kê bên cạnh giường. Thế nào, bà thấy
trong người thế nào? Có nhẹ nhõm được chút nào không?
Bà Ilinhitna sầm
mặt lại:
- Vẫn cứ thế… Các
khớp xương đau như dần, khắp người ê ẩm.
- Sao bà cứ ương
ương dở dở thế, đã bảo mãi là mùa thu thì chớ có mò xuống nước: Biết mình bệnh
khổ bệnh sở như thế thì chớ có dính vào? - Ông Prokofievich phát khùng lên, vừa
nói vừa cẩm cái nạng ngoáy những cái vòng rộng trên mặt đất. - Nhà còn ít đàn
bà hay sao? Cái đống đay của bà thật ba lần đáng nguyền rủa: đi mà ngâm nước
cho nó, để rồi bây giờ… Trời ơi là trơ- ơ- ời! Khổ quá lắm!
- Đay thì không thể
để hỏng được. Mà đàn bà con gái có đứa nào ở nhà đâu? Thằng Grisca và vợ nó thì
đi cày, thằng Petro và con Điria thì chúng nó đưa nhau đi đâu không biết.
Ông già hà hơi vào
hai bàn tay chụm vào nhau, cúi xuống sát giường.
- Con Natasa thế nào hả bà?
Bà Ilinhitna sôi nổi hẳn lên, giọng bà
trả lời đầy vẻ lo lắng:
- Tôi cũng chẳng biết làm thế nào nữa.
Hôm kia nó lại khóc. Lúc ấy tôi ra sân gia súc, thấy cửa nhà thóc có người mở.
Tôi định đến đóng lại, nhưng người vừa bước vào thì đã thấy con bé đứng bên cái
vựa kê. Tôi hỏi nó: "Con yêu của mẹ, con làm sao thế?". Nó trả lời:
"Con nhức đầu thế nào ấy, mẹ ạ". Sự thật là như thế nào thì tôi hỏi
sao nó cũng không hé răng.
- Hay nó ốm chăng?
- Không đâu, tôi đã hỏi kỹ rồi… Chỉ sợ
có đứa nào bùa chài hại nó, hoặc có chuyện gì với thằng Grisa thôi…
- Hay là thằng ấy với con ấy… nhỡ ra
còn tằng tịu với nhau?
- Ông làm sao vậy, cái ông lão nầy? -
Bà Ilinhitna hoảng sợ vỗ tay đen đét. - Thế Stepan, nó là một thằng ngớ ngẩn
đấy chắc? Tôi chẳng nhận thấy gì cả, không có chuyện gì đâu.
Ông già ngồi thêm một lát rồi bỏ ra
ngoài.
Grigori đang ngồi trong phòng của
chàng, dùng giũa mài nhọn những cái móc để lắp vào lưới đánh cá. Natalia bôi mỡ
lợn rán chảy vào những cái móc rồi lấy giẻ rách bọc cẩn thận từng cái một. Ông
Panteley Prokofievich khập khiễng bước qua, đưa mắt nhìn kỹ xem Natalia ra sao.
Trên cặp má vàng úa như tàu lá mùa thu của nàng loáng thoáng một màu hồng héo
hon. Một tháng nay, Natalia gầy rộc đi, hai con mắt có một cái gì rất đáng
thương, chưa từng thấy ở nàng bao giờ. Ông già đứng lại một lát ở cửa.
"Chà, nó chăm chút vợ nó thế đấy!" - Ông vừa nghĩ thầm vừa nhìn lại
lần nữa cái đầu chải mượt của Natalia, từ nãy vẫn cúi gầm xuống chiếc ghế dài.
Grigori ngồi bên cửa sổ vẫn cắm cúi
giũa, cái bờm tóc đen rối như bòng bong đập đập trên trán.
- Vứt mẹ tất cả đi! - Ông già bất thình
lình nổi xung, mặt đỏ như gấc. Ông quát to, tay nắm chặt cán cái nạng.
Grigori run bắn người, giương mắt nhìn bố,
chẳng hiểu ra sao.
- Con định giũa cả hai đầu, cha ạ.
- Tao bảo mày là thôi ngay! Sửa soạn mà
đi đốn củi!
- Con sửa soạn ngay đây.
- Xe trượt tuyết chẳng còn một cái chốt
nào nữa, thế mà lại móc với miếc. - Giọng ông già có vẻ đã dịu đi. Ông nói xong
còn đứng trùng trình một lát ở cửa phòng (hình như ông còn có gì muốn nói thêm)
rồi bước ra ngoài và trút hết phần còn lại của cơn giận lên đầu Petro.
Grigori mặt chiếc áo bông ngắn vào rồi
còn nghe thấy tiếng bố quát ngoài sân:
- Sao bây giờ còn chưa cho bò ngựa uống
nước hả, mày nhòm ngó đến những việc gì hả, đồ mày là đồ gì hả? Đứa nào lấy rơm
ở cây rơm bên hàng rào thế nầy? Tao đã bảo đứa nào là không được động đến cây
rơm ở đầu cùng hử? Bọn chết tiệt, có ít rơm tốt nhất đem dùng hết thì sang xuân
cày vỡ lấy gì cho bò ăn hử?
Đến hôm thứ năm, còn hai giờ nữa trời
mới rạng, bà Ilinhitna đã gọi Daria dậy.
- Dậy đi thôi, nhóm bếp đi thì vừa.
Daria chạy tới bếp lò, trên mình mặc
độc một chiếc áo sơ- mi lót, rồi mò mẫm trong ngách tường, tìm được bao diêm,
châm lửa.
- Làm bếp quáng quàng lên nhé. - Petro
giục vợ. Anh chàng hút thuốc ho sặc sụa, đầu tóc rối như ổ quạ.
- Người ta thương con Natalia hay sao
mà không gọi nó dậy? Cái con mặt dày, bây giờ còn ngủ. Để tôi phải tự xé mình
ra làm hai hay sao? - Daria, lầu bầu, giọng ngái ngủ, đầy vẻ tức tối.
- Thì vào đánh thức nó dậy. - Petro bảo
vợ.
Nhưng Natalia đã dậy mà không cần ai
gọi. Nàng mặc cái áo ngắn vào rồi ra lấy một ít phân khô.
- Đem mồi lửa lại đây! - Nàng dâu
trưởng ra lệnh.
- Con Dunhiaska đã bị sai đi gánh nước
rồi, mày có biết không.
- Daria? - Bà Ilinhitna lê rất vất vả
hai cái chân trong bếp, nói khàn khàn.
Trong bếp nặc mùi hốt bố tươi, mùi
những đồ thắng ngựa bằng da, mùi hơi người nóng ran. Daria chạy kéo lê đôi ủng
dạ, quăng loảng xoảng những cái nồi gang. Dưới chiếc áo sơ- mi lót màu hồng,
hai tay xắn lên đến khuỷu, cặp vú nho nhỏ của chị chàng cứ nẩy tâng tâng. Xem
ra cuộc sống có chồng chẳng làm Daria héo hon tiều tụy chút nào: vẫn cái thân
hình dong dỏng, thanh thanh, mềm mại như một nhành liễu đỏ, nom cứ như một cô
gái chưa chồng. Đi đứng thì ưỡn à ưỡn ẹo vai đong đưa, chồng quát chỉ nhe hai
hàm răng nhỏ sin sít ra cười nhạo, cặp môi đanh ác mỏng dính.
- Đáng là phải bỏ phân khô vào hong từ
tối hôm qua. Xếp bên lò thì làm gì chẳng khô rồi - Bà Ilinhitna không vừa ý,
lầu bầu.
- Con quên khuấy đi mất, mẹ ạ. Tai hại
thật! - Daria trả lời thay mọi người.
Nấu nướng xong thì trời vừa hửng. Ông
Panteley Prokofievich ăn vội quá, húp cháo bỏng cả miệng. Grigori nhai rất
chậm, mặt chàng nhăn nhó, mấy cái hòn tròn tròn cứ lên lên xuống xuống bên dưới
hai gò má. Dunhiaska đau răng phải buộc chặt lấy má. Petro cứ rình những lúc bố
không biết, chốc chốc lại chòng em gái.
Trong thôn đã có tiếng xe trượt tuyết
cót két. Vài chiếc xe bò chạy ra sông Đông trong làn sương mai xám xám. Grigori
và Petro ra sân thắng bò vào xe. Grigori thở phải không khí lạnh lại hanh, vừa
đi vừa quấn chiếc khăn quàng cổ mềm: quà của cô vợ chưa cưới tặng cho anh chồng
chưa cưởi. Một con quạ đen bay qua sân buông xuống một tiếng kêu phát thoả sức
từ trong họng nó ra. Trong cái lạnh đại hàn nghe rõ mồn một tiếng soàn soạt của
hai cánh vẫy chậm rãi, Petro nhìn theo hướng con chim bay yà nói:
- Nó bay về nơi ấm áp, về miền nam đấy.
Một vành trăng lưỡi liềm mỏng manh ẩn
hiện trên trời, sau một đám mây nhỏ đang nhuộm hồng, tươi tắn như nụ cườì một
cô gái.
Khói từ trong ống khói bốc thẳng lên
cao, như một người cụt tay, cổ vươn tới cái lưỡi mài sắc ngọt, vàng óng, xa lắc
không sao với tới được của vành trăng khuyết.
Ngay trước nhà Melekhov, sông Đông còn
chưa đóng băng. Nhưng sát ven bờ có một dải băng hơi có ánh sáng xanh lá cây
bên dưới những đống tuyết bị dồn tới dã rắn chắc lại. Dưới dải băng ấy, nước
không bị luồng nước mạnh giữa sông cuốn theo vẫn lừ đừ sủi bọt. Nhưng ra quá
giữa sông, khoảng gần bờ bên kia, chỗ những mạch nước chảy xối từ trong cái
vách đen ra, có một khoảng nước chưa đóng băng, đen ngòm đến rợn người, nằm
giữa một viền tuyết trắng. Trong cái hố nước ấy, vài con vịt trời ở lại qua mùa
đông đang hụp xuống ngoi lên, nom chỉ như những nốt ruồi đen.
Mọi người qua sông từ cái bãi giữa
thôn.
Ông Panteley Prokofievich không chờ hai
con trai, đã đi trước với hai con bò già. Petro và Grigori nán lại một lát rồi
cũng đi theo.
Đến chỗ dốc xuống sông hai anh em đuổi
kịp Anikey. Anikey thắt lưng vải xanh lá cây. Hắn gài chiếc rìu mới thay cán
vào bên cạnh xe trượt tuyết và đi bên hai con bò. Vợ hắn, một người đàn bà nhỏ
bé, đau yếu cầm cương. Từ xa Petro đã kêu lên:
- Nầy, bác láng giềng, đem cả bác gái
đi theo cơ à?
Anikey vốn là một anh chàng hay cười.
Hắn nhảy cỡn tới cái xe của hai anh em:
- Đem theo, đem
theo cho đỡ lạnh lùng.
- Gầy như que củi
thế kia thì lấy đâu ra hơi ấm?
- Nuôi toàn bằng
yến mạch mà vẫn chẳng khá lên được chút nào.
- Hai nhà chúng ta
cùng chung một phần củi phải không? -
Grigori nhảy trên
xe xuống rồi hỏi.
- Nếu cho tôi hút
thuốc thì cùng phần.
- Cái anh Anikey
nầy, lọt lòng mẹ đã sống bám vào người khác.
- Của ăn cắp hệt
của đi xin, bao giờ ăn cũng ngon hơn. - Anikey cười khà khà, khuôn mặt nhẵn
thín như mặt đàn bà của hắn nhăn nhúm lại.
Vợ chồng Anikey và
anh em Petro cùng đi với nhau. Một màu trắng khắc nghiệt, trùm lên khu rừng đầy
những đám sương muối, rủ xuống như đăng- ten. Anikey đi trước, vừa đi vừa cầm
roi quất vào những cành cây trĩu xuống bên trên con đường. Vợ hắn trùm kín
người ngồi trên xe bị tuyết xốp nhọn như kim rơi lả tả từng đám xuống khắp
người.
- Đồ quỷ sứ, đừng
có làm trò khỉ? - Mụ rũ áo phành phạch kêu rầm lên.
- Giúi đầu mụ mẹ
ranh xuống tuyết đi! - Petro vừa kêu lên vừa cố quất cái roi cho trúng dưới
bụng con bò để thúc cho nó đi nhanh hơn.
Đến chỗ rẽ sang cái
khe lở Bà già thì gặp Stepan. Stepan đang đuổi hai con bò đã tháo dây thắng
nhưng còn mang ách. Anh ta bước những bước đài, đôi ủng dạ đóng đế da dẫm loạt
soạt trên tuyết. Dưới cái mũ đội lệch, bờm tóc xoăn đầy sương muối rủ xuống như
một chùm nho trắng.
- Nầy, Stepan, lạc
đường à? - Anikey đi đến ngang Stepan thì hỏi to.
- Lạc đường cái gì,
mẹ kiếp!… Xe vừa xuống dốc thì đòn trượt húc đánh rầm vào một gốc cây, gãy đôi.
Thế là phải quay về.
Stepan vặc thêm một
câu tục tĩu rồi bước qua mặt Petro. Dưới hai hàng mi dài, cặp mắt nhạt màu nom
như mắt thằng ăn cướp nheo nheo ngang ngược.
- Thế xe quẳng lại
đấy à? - Anikey ngoái cổ lại hỏi to thêm.
Stepan chỉ khoát
tay. Gã giơ roi quất hai con bò định rẽ sang khoảng đất hoang ven đường và nhìn
theo Grigori rất lâu, lúc nầy Grigori đang lẽo đẽo đi theo xe trượt tuyết. Đến
cách cái khe lỡ thứ nhất không xa, Grigori nhìn thấy một chiếc xe trượt tuyết bỏ
chỏng gọng giữa đường. Acxinhia đứng bên cạnh, tay trái nàng khép tà chiếc áo
lông kiểu sông Đông, mắt đăm đăm nhìn theo con đường, đón hai chiếc xe đang đi
tới.
- Nầy cô nàng không
phải vợ anh, tránh ra ngay không anh cho xe chẹt bây giờ? - Anikey quát.
Acxinhia mỉm cười
lui sang bên và ngồi lên chiếc xe bị lật nghiêng không có đòn trượt.
- Đã có bác gái
ngồi kia cùng đi với bác rồi đấy!
- Mụ ấy cứ bám lấy
tôi như quả ké bám vào đuôi con lợn, nếu không tôi đã mời cô lên rồi.
- Thôi cũng xin giả
ơn bác.
Petro đi đến ngang
Acxinhia thì liếc nhanh mắt nhìn Grigori.
Grigori đang đi
tới, một nụ cười xao xuyến trên môi. Mỗi cử động của chàng đều cho thấy cả một
tâm trạng lo lắng và chờ đợi.
- Chào chị láng
giềng, chị có khỏe không? - Petro đưa chiếc găng tay lên vành mũ chào.
- Ơn Chúa!
- Xe bị gãy đấy à
chị?
- Vâng, xe bị gãy,
- Acxinhia kéo dài giọng trả lời, nhưng mắt lại không nhìn Petro. - Nàng đứng
dậy, quay nhìn Grigori đang đi tới.
- Anh Grigori
Panteleevich, tôi có chuyện cần nói với anh…
Grigori quay sang
nhìn Acxinhia rồi nói theo Petro lúc nầy vẫn tiếp tục đi:
- Anh trông hộ bò
nhé!
- Hừ, được, - Petro
cười mỉa một cách khả ố, rồi nhét một món ria đắng khói thuốc lá vào miệng.
Hai người đứng
trước mặt nhau, chẳng nói chẳng rằng. Acxinhia lo lắng nhìn quanh rồi ngước cặp
mắt ướt đen láy nhìn Grigori.
Nàng thở hổn hển,
trong lòng vừa xấu hổ vừa sung sướng. Hai má nàng nóng rực, môi khô bỏng.
Hai chiếc xe của
Anikey và Petro đã lấp sau cánh rừng sồi.
Grigori nhìn thẳng
vào mắt Acxinhia thấy bừng bừng một ánh nũng nịu liều lĩnh.
- Thế nào, anh
Griska, anh muốn thế nào thì muốn, chứ thiếu anh, em không sao sống được, -
Acxinhia nói giọng rất kiên quyết rồi mím chặt môi, chờ Grigori trả lời.
Grigori không nói
gì. Bầu không khí chết lặng bó chặt lấy khu rừng như cái đai sắt. Không gian
trong vắt rung lên trong tai như tiếng chuông. Con đường bị mài nhẵn bóng dưới
đòn trưọt của những chiếc xe, bầu trời xám xịt với những đám mây rách mướp, khu
rừng câm tiếng, thiếp lặng như chết… Chợt có tiếng quạ quang quác ngay gần đấy,
Grigori bừng tỉnh sau giấc mơ ngắn ngủi. Chàng ngẩng đầu lên nhìn, thấy con
chim có bộ lông đen bóng hơi phớt ánh xanh lam đang co chân, lặng lẽ vẫy cánh
như từ biệt. Grigori bất giác nói như nói một mình:
- Trời sắp ấm rồi.
Nó bay về nơi ấm áp… - Chàng rùng mình, bật cười khàn khàn… - Nào… - chàng dim
mắt ngây ngất nhìn quanh như một thằng ăn cắp, rồi ôm phắt Acxinhia vào lòng.
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 42
Cứ tối đến lại có
những người rất khác nhau kéo đến gian Stokman thuê của mụ lác Lukesa:
Khristonhia, "Bồi" ở nhà máy xay với chiếc áo vét- tông bê bết dầu mỡ
khoác trên vai; anh chàng Davydka hay cười sống vất vưởng đã ba tháng nay; anh
thợ máy Kotliarov. Anh thợ giày Finka năm thì mười hoạ cũng lại chơi.
Nhưng người khách
đến đều nhất là Miska Kosevoi, một chàng trai Cô- dắc chưa đến tuổi đi lính
thường trực.
Đầu tiên mọi người
chỉ đánh bài liên miên, nhưng một hôm Stokman đưa ra khéo léo tập thơ nhỏ của
Nekrasov 1 Anh em đọc to và thấy thích. Xong Nekrasov thì chuyển sang Nikitin
2, nhưng đến khoảng lễ Nô- en thì Stokman bảo mọi người thử đọc một quyển vở
nhàu nát, không có bìa. Trước kia Miska đã tốt nghiệp trường tiểu học của nhà
chung, vì thế anh chàng được mọi người bảo đọc to để cùng nghe. Miska nhìn
quyển vở nhớp nhúa, con mắt có vẻ coi thường.
- Cắt ra nấu làm mì
sợi được. Béo lắm đấy.
Khristonhia phá lên
cười khồ khồ, Davydka cũng nhe hai hàm răng trắng loá ra cười, nhưng Stokman
chờ cho mọi người cười xong mới nói:
- Cậu thử đọc xem,
Miska. Cuốn nầy viết về người Cô- dắc đấy. Hay lắm.
Miska cúi đầu làm
cái bờm tóc vàng óng xoã xuống bàn, và bắt đầu đọc tách bạch từng tiếng:
"Lịch sử tóm tắt về tầng lớp Cô- dắc sông Đông". Đọc xong Miska nheo
mắt nhìn tất cả mọi người có vẻ chờ đợi.
- Cậu đọc đi -
Kotliarov nói như ra lệnh.
Họ đọc ba tối liền.
Về Pugachev 3, về cuộc sống tự do, về Stepan Radin 4 và Kondrati Bulavin 5. Rồi
họ đọc tới những thời kỳ gần đây. Tác giả vô danh đã dùng những lời dễ hiểu
nhưng sâu cay để chế giễu cuộc sống thảm hại của người Cô- dắc, chế giễu các lề
thói thủ tục và chế độ cai trị, chế giễu chính quyền của vua Nga và ngay cả
tầng lớp Cô- dắc dấn thân làm những tên tay chân giúp vua Nga đàn áp. Mọi người
đều bị kích động. Một cuộc tranh luận sôi nổi nổ ra. Khristonhia dựa ngay đầu
vào cái dầm trên đầu, nói oang oang như lệnh vỡ. Stokman thì cứ ngồi bên cạnh
cửa phòng, hút thuốc bằng cái bót xương có nạm những cái vòng nhỏ, và chỉ cười
bằng hai con mắt.
- Đúng lắm! Nói
thật là chí lý? - Khristonhia nói ngay.
- Không phải là lỗi
của chúng ta, chính chúng nó đã làm cho người Cô- dắc đi tới tình trạng nhục
nhã thế nầy. - Miska khoát hai tay đầy vẻ băn khoăn, khuôn mặt rất đẹp có hai
con mắt sẫm màu nhăn lại.
Người Miska vạm vỡ,
vai và hông rộng ngang nhau, thành thử trông cứ như hình vuông. Cái cổ đần đẫn
đỏ như gạch đặt rất vững vàng trên một cái nền chắc nịch như đúc bằng gang.
Nhưng chỉ lạ một điều là trên cái cổ như thế lại có một cái đầu nhỏ nhắn, với
cặp má trắng mịn mang những đường nét của phụ nữ, cái miệng nhỏ nhưng bướng
bỉnh, hai con mắt màu sẫm dưới một bộ tóc loăn xoăn vàng óng rất dầy. Anh thợ
máy Kotliarov là một người Cô- dắc cao lớn to xương, tranh cãi rất hăng. Mỗi tế
bào của cái thân hình xương xẩu đó đều thấm đẫm các truyền thống Cô- dắc.
Kotliarov long lanh hai con mắt lồi tròn xoe để đập Khristonhia và bênh vực
người Cô- dắc.
- Cậu biến thành
một thằng mu- gích mất rồi, Khristonhia ạ, cậu đừng cãi làm gì vô ích… Trong
cái máu bẩn thỉu của cậu, cả một thùng chỉ có được một giọt máu Cô- dắc mà
thôi. Bà cụ nhà cậu đã ngủ với một thằng bán trứng ở Voronez đẻ ra cậu chứ gì!
- Sao cậu ngu khổ
ngu sở thế? - Chà, cậu đúng là một thằng ngu xuẩn, người anh em ạ. - Giọng
Khristonhia trầm trầm - Mình chỉ bảo vệ sự thật thôi.
- Mình chưa từng đi
lính trung đoàn Atamansky bao giờ. - Kotliarov nói ác. - Chỉ trung đoàn
Atamansky mới toàn là một phường ngu xuẩn…
- Nhưng các đơn vị
khác còn có những thằng điên rồ bằng vạn.
- Thôi cậu im đi,
đồ mu- gích!
Thế mu- gích không
phải là người hay sao!
- Chúng nó là mu-
gích chính là vì chúng nó được làm bằng vỏ cây bằng cành khô.
- Người anh em ạ,
hồi mình đi lính đóng ở Peterburg, mình đã được thấy đủ hạng người. Và một lần
đã có một câu chuyện như thế nầy, - Khristonhia nhấn rất mạnh vào âm
"a" của tiếng cuối cùng. - Bọn mình phải canh gác hoàng cung, nhưng
khi yên tĩnh cũng có những giờ phải ra bên ngoài. Ở bên ngoài bọn mình cưỡi
ngựa đi dưới chân hoàng thành: hai thằng đi theo hướng nầy, hai thằng đi theo
hướng kia. Hễ gặp nhau lại hỏi nhau: "Tất cả đều bình an vô sự chứ! Không
có chuyện nổi loạn chứ?" - "Chẳng có gì cả" thế là mỗi đằng lại
đi một nẻo, nán lại nói với nhau thêm vài câu cũng không được phép. Bọn mình
thì người ngợm cũng phải lựa chọn: họ bắt hai thằng cùng đứng ở một cái cửa
phải giống nhau như hai giọt nước.
Thằng tóc đen đứng
với thằng tóc đen, thằng tóc vàng đứng với thằng tóc vàng. Không riêng tóc mà
cả khuôn mặt cũng phải giống nhau. Chính vì những chuyện ngu xuẩn ấy mà có lần
lão thợ cạo đã nhuộm cả bộ râu của mình. Hôm ấy mình phải đứng gác với thằng
Nikifo Meseriakov. Đại đội của mình vốn có một thằng Cô- dắc trấn Tefikinskaia
tên là như thế. Thằng quỷ quái ấy, râu tóc nó đỏ rực như lửa ấy. Dịch tả dịch
hạch nào biết được vì sao, hai thái dương nó cứ như có lửa cháy bùng bùng. Tìm
đi tìm lại mãi mà trong các đại đội chẳng thấy có thằng nào râu tóc cùng màu
như thế. Lão đại đội trưởng Báckin bèn bảo mình: "Mày ra ngay hiệu thợ cạo
bảo nó nhuộm thật nhanh râu ria đi". Mình bèn đi nhuộm… Nhưng vừa soi
gương thì thấy lạnh cả tim: mình đang cháy! Đúng là mình cháy bùng bùng, hoàn
toàn là thế? - Mình đưa tay lên nắm lấy râu, ngón tay cứ như phải bỏng. Đúng
thế đấy!
- Nầy, Khristonhia
ạ, cậu nói toàn những chuyện ba láp gì ấy! Cậu định bắt đầu nói về cái gì thế
hử? - Kotliarov ngắt lời Khristonhia.
- Mình đang nói về
con người mà.
- Được thế thì cậu
kể nốt đi. Còn bộ râu của cậu thì có quan hệ quái gì đến chúng mình.
- Đây mình nói ngay
đây: Một lần mình phải cưỡi ngựa đi tuần. Cùng đi còn có một cậu nữa. Chợt thấy
một bọn sinh viên đổ ra từ một góc tường. Đông ơi là đông. Bọn chúng nó trông
thấy hai đứa chúng mình bèn hò la rầm lên: "Ha- a- a- a- a…!" Rồi lại
lần nữa: "Ha- a- a- a- a?" Chúng mình chưa kịp hiểu đầu đuôi ra sao
đã bị vây chặt. "Nầy, hai anh Cô- dắc, hai anh cưỡi ngựa đi chơi đâu thế?"
Mình bèn trả lời: "Chúng tôi đi tuần đây, còn anh thì bỏ dây cương ra,
không được nắm như thế!" - mình vừa nói vừa nắm lấy cán gươm. Nhưng gã kia
lại nói: "Nầy, anh bạn đồng hương ơi, anh đừng nghi ngờ gì cả, chính chúng
tôi chôn rau cắt rốn ở trấn Kamenskaia đấy, tôi đến đây theo học trường cao…
cao cẳng", đại khái cao chân cao cẳng gì đó. Lúc ấy mình lại thúc ngựa
tiến lên, nhưng một gã mũi to rút trong ví ra một tờ mười rúp và bảo: "Nầy
hai anh Cô- dắc, hai anh hãy cầm lấy uống vì vong linh ông cụ nhà tôi, ông cụ
nhà tôi nay đã mồ yên mả đẹp rồi". Gã đưa cho chúng mình mười rúp rồi lấy
trong cặp ra một bức chân dung và nói: "Đây là mặt mũi ông cụ nhà tôi đây,
hai anh hãy giữ lấy làm kỷ niệm". Thế là chúng mình nhận tấm ảnh vì không
nhận cũng không tiện. Sau đó bọn sinh viên bỏ đi và lại: "Ha- a- a- a-
a?" rồi cứ thế tiến về phía đại nộ (lộ) Nhepxki. Lão đại đội trưởng đem
một trung đội phi ngựa từ cổng sau hoàng cung tới chỗ chúng mình. Phi ngựa đến
nơi lão ta hỏi: "Có chuyện gì thế?" Mình bèn trả lời: "Vừa có
một đám sinh viên đến vây quanh chúng tôi và bắt chuyện. Chúng tôi chiếu theo
điều lệnh đã định rút gươm ra chém, nhưng sau họ lại buông chúng tôi ra, vì thế
chúng tôi lại đi". Bọn mình được thay phiên xong bèn nói với lão chánh
quản: "Thưa ngài Lukit, chúng tôi vừa kiếm được mười đồng rúp nầy đây,
nhưng chúng mình phải mua rượu uống hết để vong linh ông bố già nầy được yên
nghỉ nơi thiên đàng" và chúng mình cho lão xem bức chân dung. Đến tối lão
chánh quản đem vodka tới, bọn mình tuý luý càn khôn hai ngày hai đêm liền, nhưng
sau mới vỡ lẽ là bị chơi xỏ. Gã sinh viện nọ, cái thằng chó chết ấy, nó không
đưa cho mình ảnh thằng bố nó mà lại đưa bức hình chụp lão trùm phiến loạn người
Đức. Mình đã tin lời nó, nhận lấy và đem treo ngay lên đầu giường để tưởng nhớ,
vì mình thấy người trên bức chân dung có chòm râu bạc phơ, mặt mày cũng phúc
hậu, y như một lái buôn vậy. Nhưng lão đại đội trưởng nhìn thấy lại hỏi:
"Đồ thổ tả, mày tha bức chân dung nầy ở đâu về đây hử?" Mình bèn trả
lời: "Như thế, như thế đấy". Lão bèn chửi rầm lên, cho mình mấy cú
vào quai hàm, rồi lại một chập nữa… Lão gầm lên: "Mày có biết không, đây
là lão ataman của chúng nó, là Karl…" Chà, mình quên khuấy đi mất rồi.
Không biết tên lão ta là gì nhỉ, cầu Chúa ban cho mình trí nhớ…
- Karl Marx? -
Stokman mỉm cười khẽ nhắc.
- Đúng đấy, đúng
đấy? Đúng lão ta là Karl Marx đấy… - Khristonhia sung sướng nói. - Chính lão đã
chơi mình bị một vố suýt chết… Có khi chính đông cung thái tử Aleksey cũng cùng
với các thầy dạy của thái tử tới thăm phòng cảnh vệ. Họ có thể nhìn thấy, và
nếu thế thì không biết câu chuyện sẽ như thế nào.
- Thế mà cậu cứ
khen bọn mu- gích nữa đi. Xem đấy, chúng nó đã cho cậu một bài học như thế đấy.
- Kotliarov giễu Khristonhia.
- Nhưng dù sao bọn
mình cũng đã đem mười rúp mua vodka uống sạch. Tuy là uống vì lão Karl râu xồm
nhưng dù sao cũng đã uống rồi.
- Vì Karl Marx thì
cũng đáng cạn chén lắm đấy, - Stokman mỉm cười nghịch nghịch cái vòng trên cái
bót bằng xương vàng khè vì khói thuốc lá.
- Thế ông lấy đã
làm được điều gì tốt? - Miska hỏi.
- Lần sau mình sẽ
kể, hôm nay khuya mất rồi, - Stokman gõ cái bót vào lòng bàn tay, tống đầu điếu
thuốc đã tắt ra.
Sau một thời gian
sàng sảy và lọc đi lọc lại rất lâu, trong căn nhà nhỏ của mụ lác Lukeska đã
thành lập được một nhóm nòng cốt chừng mười anh chàng Cô- dắc. Stokman là hạt
nhân của nhóm, anh kiên nhẫn tiến về phía một mục đích mà chỉ mình anh biết.
Như con mọt đục khoét thân một cây gỗ, anh ăn mòn dần những khái niệm và thói
quen sơ lược cũ, nhen lên một niềm kinh tởm, căm thù chế độ hiện hành. Đầu tiên
anh cũng có vấp phải chất thép lạnh của lòng hoài nghi, nhưng anh vẫn không lui
bước, vẫn cứ gặm cho kỳ thủng…
--- ------ ------
------ -------
1 Nicolai Alekseevich Nekrasov (1821 - 1877). Nhà thơ lớn nước Nga, theo
phái cách mạng dân chủ (ND).
2 Ivan Savich Nikitin (1824 - 1861). Nhà thơ trữ tình Nga, theo phái
cách mạng dân chủ (ND).
3 Emelian Ivanovich Pugachev (chết 1775) thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa của
nông dân Nga, vốn là lính Cô- dắc, xưng vương, sau những thắng lợi đầu tiên, bị
bắt và bị xử tử (ND).
4 Stepan Radin (chết 1671) thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa của nông dân
Nga, bị xử tử sau khi thất bại (ND).
5 Kondrati Bulavin (1660 - 1707) lãnh tụ cuộc khởi nghĩa của dân Cô- dắc
ở miền Nam nước Nga trong hai năm 1707 - 1708, bị xử tử
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 43
Trấn Vosenskaia nằm
trên bờ cát thoai thoải ở tả ngạn sông Đông. Trong số các trấn vùng thượng lưu,
đó là trấn có trước nhất. Trước kia tên nó vốn là Trigonac, nhưng dưới triều
hoàng đế Petr đệ nhất, Trigonac đã bị phá trụi rồi sau đó di tới đây và đổi tên
là Vosenskaia. Có thời kỳ Vosenskaia đã từng là một chặng quan trọng trên con
đường thuỷ lớn từ Voronez ra biển Azop. Sông Đông chảy đến trước thị trấn thì
uốn cong như chỗ lượn của một cái bao cung Tarta, làm người ta tưởng như nó rẽ
sang trái, nhưng khi đến gần thôn Batki, nó lại uy nghiêm tiến thẳng theo hướng
cũ, cuốn những làn nước xanh lá cây in màu da trời, qua những nhánh núi đá phấn
và những thôn nằm san sát trên bờ bên phải, qua những trấn thưa thớt trên bờ
bên trái ra biển, ra tới biển Adôp xanh biếc.
Tới ngang trấn Ust-
Khopeskaia, sông Đông hợp làm một với sông Khop, và ở trước mặt trấn Ust-
Medvedíkaia nó nhận thêm sông Medvedisa. Từ đấy về xuôi nó chảy với cơ man nào
là nước giữa những thôn trấn đông dân làm ăn rất phát đạt.
Vosenskaia toàn là cát vàng. Một trấn
buồn tẻ, trơ trụi, không có vườn hoa. Trên quảng trường chính có một toà nhà
thờ cổ, xám xịt qua thời gian, sáu dãy phố chạy song song với dòng sông. ỏ chỗ
sông Đông lượn vòng để rời thị trấn chảy về thôn Batki, trong những đám tiêu
huyền um tùm, bắt đầu có một cái hồ nom như một ống tay áo, rộng bằng lòng sông
Đông mùa nước cạn. Chỗ cái hồ chấm dứt thì cũng vừa hết thị trấn. Trên một cái
bãi nhỏ mọc đầy những bụi gai vàng óng, nhọn như kim, có ngôi nhà thờ thứ hai
với cái mái màu xanh lá cây cũng như cái nóc tròn, lẫn với màu xanh của những
cây tiêu huyền mọc trên bờ hồ bên kia.
Ra khỏi trấn đi về phía bắc thì toàn là
một thứ cát vàng như nghệ, với đám thông còm cõi, những cái khe lở đáy toàn đất
sét đỏ nên nước cũng ánh màu hồng. Và trên những khoảng cát bị ngập khi có nước
lũ, trên những gò cát to hạt đàng xa, lá đác có vài chòm thôn xóm, vài khu vườn
quả bên lề các thôn hoặc vài đám cây liễu lởm chởm màu hung hung, nom như những
hòn đảo.
Một ngày chủ nhật tháng mười hai, một
đám có tới năm trăm chàng trai Cô- dắc từ tất cả các thôn trong trấn kéo đến
đem ngòm trên bãi trước nhà thờ cổ. Trong nhà thờ đang làm lễ mi- sa sắp xong,
những nhịp chuông "Tôn xưng Chúa" vang lên dóng dả. Một viên thượng sĩ
ra lệnh "tập hợp". Đó là một lão Cô- dắc khá nhiều tuổi, coi bộ rất
hùng dũng, tay áo đeo lon tái đăng. Đám người vừa nãy còn ồn ào láo nháo chạy
tản ra rồi đến xếp thành hai hàng dài so le. Vài tên hạ sĩ chạy dọc theo các
hàng sửa lại các đoạn lượn vòng hoặc đứt quãng.
- Thành bốn hàng ngang… - Lão thượng sĩ
kéo dài giọng khoát tay với một cử động không hiểu có ý như thế nào, rồi hô
nốt: - Bước!
Lão ataman trấn đi vào bên trong dãy
tường bao. Lão mặc quân phục, chiếc áo ca- pốt sĩ quan mới tinh, đinh thúc ngựa
đập vào nhau leng keng. Một tên phái viên quân sự đi theo lão.
Grigori đứng cạnh Mitka. Hai người khẽ
nói chuyện với nhau.
- Một bên ủng của mình bó chặt lấy
chân, mình không chịu được nữa đâu, - Mitka than vãn.
- Cố mà chịu, rồi sau nầy sẽ làm
ataman.
- Họ sẽ lôi cổ đi ngay đấy?
Như để chứng thực cho câu nói của
Mitka, lão thượng sĩ lùi một bước, xoay mình trên gót ủng:
- Bên phải… quay!
Năm trăm cặp chân đi ủng quay lạo xạo.
- Vai trái đưa lên trước, đi đều… bước!
Cái cửa xép trên dãy tường bao nhà thờ
mở toang, đội hình hàng dọc của đám thanh niên Cô- dắc tiến vào, những cái mũ
lông cất khỏi đầu lấp loáng. Tiếng chân bước rầm rập vang lên đến cái nóc bán
cầu của nhà thờ.
Lão cố đạo đọc lời tuyên thệ. Grigori
đứng đấy chẳng chú ý nghe một lời nào. Chàng liếc nhìn vào mặt Mitka, thấy nó
cứ nhăn như bị vì đau và xoay đi xoay lại bên chân bị bó chặt trong chiếc ủng.
Cánh tay Grigori giơ lên tuyên thệ đã tê cứng, những ý nghĩ đắm đuối, hỗn loạn,
quay cuồng trong đầu óc chàng. Chàng bước tới gần cây thánh giá, hôn chất bạc
đã đẫm nước bọt của bao nhiêu miệng người, nhưng cứ hết nghĩ tới Acxinhia lại
nghĩ tới vợ. Những hồi ức phiến đoạn liên tiếp thay nhau lóe lên trong óc
Grigori như những ánh chớp lằng nhằng chữ chi: khoảng rừng, những thân cây nâu
nâu dưới những cái tán xum xuê trắng toát như đeo những đai thắng huy hoàng
bằng bạc, cái ánh ươn ướt, sáng bừng bừng trong hai con mắt đen láy của
Acxinhia dưới chiếc khăn bịt đầu lồm xồm.
Mọi người quay ra bãi. Lại đứng thành
hàng ngũ. Lão thượng sĩ sỉ mũi, lén chùi ngón tay vào mặt lót áo quân phục, rồi
bắt đầu nói:
- Bây giờ các anh không còn là trẻ con
nữa, mà đã là những tráng đinh Cô- dắc. Đã tuyên thệ thì phải hiểu rõ nhiệm vụ,
bổn phận của mình. Một khi các anh đã lớn lên thành tráng đinh Cô- dắc thì phải
bảo vệ danh dự của người Cô- dắc, phải vâng lời bố mẹ và phải cư xử cho đúng về
tất cả các mặt khác. Trước kia là trẻ con thì còn có thể nghịch ngợm lung tung,
có lẽ còn giật bờm tóc của nhau ở ngoài đường, nhưng từ nay thì phải nghĩ tới
việc phục vụ sau nầy trong quân đội. Chỉ một năm nữa là các anh đã trở thành
những binh sĩ hiện dịch. - Nói đến đây lão thượng sĩ lại sỉ mũi, lắc cho hết
nước mũi trong lòng bàn tay, rồi lại đeo chiếc găng lông thỏ rất đẹp vào và
nói:
- Còn bố mẹ anh thì bắt đầu lo trang bị
cho các anh thì vừa. Phải sắm cho mỗi anh một con ngựa chiến, nói chung đại thể
là như thế… Thôi bây giờ các chàng trai dũng mãnh về nhà, cầu Chúa che chở cho
các anh?
Grigori và Mitka ra tới chỗ cái cầu thì
đứng lại chờ các bạn trong thôn cùng về. Mọi người đi dọc theo bờ sông. Khói
trong các ống khói tan ra bên trên thôn Batki. Vẳng tiếng chuông nhà thờ nhẹ
nhàng, lanh lảnh. Mitka chống một đoạn cọc gãy có rất nhiều mấu, khập khiễng đi
sau tất cả.
- Cậu tháo ủng ra đi. - Một gã khuyên.
- Mình bị cóng hỏng chân mất. - Mitka
đứng lại, trù trừ.
- Cậu cứ mang bít- tất mà đi.
Mitka ngồi xuống tuyết, mím môi mím lợi
kéo ủng ra, rồi khập khiễng đi với một bên chân tháo ủng. Lớp tuyết xốp xốp
trên đường in rõ vết chiếc bít- tất móc tay rất dày.
- Chúng mình về bằng đường nào bây giờ.
- Aleksey Bêtnhiac nói. Nó là một thằng lùn choằn choằn, để bờm tóc rất dài.
- Đi trên sông mà về. - Grigori trả lời
thay cho tất cả.
Mọi người chuyện trò huyên thuyên, vừa
đi vừa xô đẩy nhau.
Theo thoả thuận chung, từng người một
lần lượt bị vật xuống tuyết rồi bị tất cả những người khác đè tên thành một
đống. Trên đoạn đường giữa hai thôn Batki và Gromkovsky, Mitka là người đầu
tiên trông thấy một con chó sói vượt sông Đông.
- Nầy các cậu, có con chó sói độc… nó
kia kìa! Hu- u- u- u! A- liu- liu- liu- liu- liu!
- Hu- u- u
Con chó sói chạy thêm vài xa- gien, vẻ
lười nhác, rồi nghiêng nghiêng mình đứng lại cách bờ bên kia không xa.
- Tóm lấy nó!
- Ha!
- Hu! Cái con chết tiệt!
- Mitka ạ, nó lấy làm lạ không hiểu sao
mày chỉ đi bít- tất mà không đi ủng đấy.
- Xem kìa, nó cứ đứng nghiêng nghiêng,
cổ nó cứng đờ. Nó không quay cổ được đâu.
- Xem kìa, xem kìa, nó bỏ đi rồi?
Con thú lông xám đen, nom như tạc bằng
đá thiên nhiên, đuỗi thẳng cái đuôi như cái gậy, đứng lại một lát, rồi bất
thình lình nhảy vọt sang bên, hoảng sợ chạy vào đám liễu mọc thành một đường
viền trên bờ sông.
Mọi người về tới thôn thì trời đã tối,
Grigori đi trên lớp băng về tới ngõ nhà rồi mới leo tới cổng. Trong sân còn
ngổn ngang mấy chiếc xe trượt tuyết bỏ không dùng nữa. Một đàn chim sẻ ríu rít
trên đống củi xếp bên cạnh hàng rào. Đã ngửi thấy cái mùi quen thuộc của những
nơi có người ở, mùi bồ hóng cháy và cái mùi hâm hấp của sân gia súc.
Grigori bước lên thềm, ghé mắt qua cửa
sổ nhìn vào trong nhà.
Cây đèn treo toả ra trong bếp một thứ
ánh sáng vàng đục. Petro đứng dưới ánh đèn, lưng quay ra cửa sổ. Grigori cầm
cái chổi quét hết tuyết trên ủng rồi bước vào trong bếp giữa một làn hơi nước
mù mịt như đám mây.
- Tôi về rồi đây. Xin chào cả nhà.
- Mày về sớm nhỉ. Có lẽ cóng lắm phải
không? - Petro trả lởi, giọng vội vã.
Ông Panteley Prokofievich ngồi gục đầu,
hai khuỷu tay tì xuống đầu gối. Daria đạp cái guồng kéo sợi quay vo vo. Natalia
xoay lưng về phía Grigori, đứng cạnh bàn, nhưng không quay lại.
Grigori đưa nhanh mắt nhìn quanh căn
bếp, rồi nhìn kỹ Petro. Nhìn thấy mặt của Petro đầy vẻ chờ đợi lo lắng, Grigori
hiểu rằng đã có chuyện gì xảy ra.
- Mày tuyên thệ rồi chứ?
- Rồi.
Grigori từ từ cởi áo ngoài, cố dành thì
giờ để điểm thật nhanh trong óc tất cả các trường hợp ngẫu nhiên có thể gây ra
bầu không khí chết lặng và cuộc đón tiếp khá lạnh nhạt nầy.
Bà Ilinhitna ở nhà trong bước ra, vẻ
mặt có đôi phần bối rối.
"Chuyện Natalia rồi". -
Grigori vừa nghĩ thầm vừa ngồi xuống bên cạnh bố trên chiếc ghế dài.
- Mang ra cho nó ăn tối đi. - Bà
Ilinhítca đưa mắt chỉ Grigori và bảo Natalia.
Daria ngừng tiếng vo vo của chiếc guồng
quay sợi, khẽ nhún nhảy hai vai cùng cả cái thân hình thon thon chẳng có vẻ gì
là của một người đàn bà đã có chồng. Trong bếp lại lặng như tờ. Bên cạnh cái
bếp lò dưới đất, hai mẹ con con dê vừa mới sinh nằm sưởi, thỉnh thoảng lại thở
phì phì.
Grigori ăn súp bắp cải, chốc chốc lại
đưa mắt nhìn Natalia nhưng không thấy mặt nàng. Natalia ngồi chếch với Grigori,
đầu nàng cúi gầm xuống đôi kim đan. Ông Panteley Prokofievich là người đầu tiên
không chịu nổi cái cảnh tất cả mọi người đều ngậm tăm như thế nầy! Ông húng
hắng ho, tiếng ho khàn khàn, rất không tự nhiên.
- Natalia định trở về nhà nó đấy.
Grigori chẳng nói chẳng rằng, cứ vun
những miếng bánh mì rơi vãi, viên tròn lại.
- Như thế là vì sao hử? - Ông bố hỏi,
và người ta có thể trông thấy môi dưới của ông run bần bật (đó là triệu chứng
đầu tiên báo trước một cơn cuồng nộ sắp nổ ra).
- Con cũng chẳng rõ vì sao. - Grigori
nheo mắt đẩy cái bát ra rồi vừa làm dấu phép vừa đứng dậy.
- Nhưng tao thì tao biết! - Người bố
nói giật giọng.
- Đừng làm rầm lên như thế, đừng ầm cửa
ầm nhà lên ông ơi? - Bà Ilinhitna can.
Nhưng tao thì tao đã biết rõ vì sao!
- Thôi, có việc gì mà phải to tiếng như
vậy, - Petro rời chỗ cửa sổ đứng ra giữa phòng. - Đây là một chuyện cần phải
giải quyết nhẹ nhàng cho thoả đáng: muốn ở lại thì ở, chẳng muốn ở thì đi đâu
cũng được - Tao không trách con Natalia, tuy dù sao đó cũng là một điều nhục nhã
và có tội với Chúa. Tao không trách nó: tội lỗi không do nó gây ra, mà chính là
do cái thằng chó đẻ nầy? - Ông Panteley Prokofievich lúc nầy đã đứng tựa lưng
vào bếp lò.
- Thế tôi có lỗi với ai?
- Mày không biết về bản thân mày à? Mày
không biết à, đồ khốn nạn?
- Tôi không biết.
Ông Panteley Prokofievich đứng chồm
lên, hất đổ cái ghế dài, xông đến sát trước mặt Grigori. Natalia để rơi cuộn
len xuống đất, chiếc kim đan tuột ra nảy lên. Con mèo đang ở trên bếp lò nghe
thấy tiếng lách cách bèn nhảy xuống rồi vẹo đầu, khòng chân, vờn cuộn len cho
lăn tới bên chiếc rương.
- Bây giờ thì tao bảo cho mày biết. -
Ông già bắt đầu nói bằng một giọng cố trấn tĩnh và dằn từng tiếng - Nếu mày
không muốn sống với con Natalia nữa thì cút ngay khỏi nhà tao, bước đi đằng nào
thì bước! Tao đã nói thế đấy! Muốn bước đi đằng nào thì bước. Ông nhắc lại bằng
một giọng bình tĩnh như ngày thường rồi quay lại nhấc cái ghế dài lên.
Dunhiaska ngồi trên giường, sợ quá, cứ
tròn xoe con mắt mà nhìn.
- Cha ạ, con nói thế nầy cha đừng bực
mình. - Giọng Grigori trầm nhưng rất vang, - không phải tự con đi lấy vợ, mà là
cha lấy vợ cho con. Con có theo tán Natalia đâu. Nếu bây giờ muốn về với bố thì
tuỳ ý?
- Cả mày nữa cũng xéo khỏi nhà nầy?
- Thì con xéo.
- Cút mẹ mày đi ngay!
- Tôi đi đây, lôi đi đây, cha chẳng
phải giục! - Grigori cầm tay áo kéo lấy cái áo lông ngắn trên giường, lỗ mũi
phập phồng, người run bắn lên trong một cơn tức giận điên cuồng, y như bố.
Trong người hai bố con cùng chảy một
dòng máu có pha máu Thổ nhĩ kỳ, vì thế trong lúc nầy, cả hai giống nhau một
cách kỳ quặc.
- Mày định đi đâu bây giờ hở con? - Bà
Ilinhitna rền rĩ bíu lấy tay Grigori, nhưng Grigori đẩy mạnh mẹ ra và thuận tay
đón bắt luôn chiếc mũ lông rơi trên giường xuống.
- Mặc cho nó xéo đi, con chó dái dâm
đãng nầy! Cút ngay, đồ đáng nguyền rủa! Xéo, xéo, cút ngay! - Ông già mở toang
cánh cửa, gầm lên.
Grigori chạy lao ra phòng ngoài, và
những âm thanh cuối cùng mà chàng nghe thấy là tiếng Natalia oà lên khóc.
Màn đêm giá băng trùm lên thôn xóm. Bột
tuyết rơi từ trên bầu trời đen kịt xuống, nhọn sắc như kim. Băng trên mặt sông
Đông nứt ra, nổ ầm ầm như tiếng đại bác. Grigori thở hổn hển chạy ra khỏi cổng
chính. Đầu thôn đằng kia, có những tiếng chó sủa oăng oẳng đủ mọi giọng. Bóng
tối mông lung như khói bị thủng lỗ chỗ vì những đốm lửa vàng vàng.
Grigori chạy không mục đích theo dọc
phố. Màu đen trong mấy khung cửa sổ của nhà Stepan lấp loáng như kim cương.
- Griska! - Tiếng gào đau khổ của
Natalia vọng từ trong cửa.
"Tao không yêu được mày thì sao mày
chẳng chết đi cho xong!" - Grigori nghiến răng ken két, càng rảo bước hơn.
- Griska, quay lại
đi anh ơi!
Grigori bước lảo
đảo như thằng say rượu, rẽ vào cái ngõ đầu tiên, và nghe thấy lần cuối cùng
tiếng gọi ai oán, chỉ còn loáng thoáng vì quá xa:
- Griska, anh yêu
của em!
Grigori đi ngang
qua cái bãi, đến chỗ ngã ba đường thì đứng lại, để điểm trong óc lên tất cả các
bạn quen, xem có thể ngủ nhờ nhà ai.
Grigori dừng lại
trước nhà Miska Kosevoi. Miska ở tách hẳn ra bên ngoài thôn, ngay dưới chân núi.
Bà mẹ, Miska, đứa em gái chưa lấy chồng, và hai đứa em nhỏ: cả gia đình Kosevoi
có ngần ấy người.
Grigori bước vào
sân, gõ lên cái cửa sổ của căn nhà đắp bằng đất trộn rơm.
- Ai thế?
- Miska có nhà
không.
- Có nhà. Nhưng ai
thế?
- Mình đây mà, Grigori
Melekhov đây.
Miska vừa chợp mắt,
ngủ đang ngon, một phút sau mới mở cửa.
- Cậu đấy à Griska?
- Mình đây.
- Đêm hôm thế nầy
cậu có việc gì thế?
- Cho mình vào
trong nhà đã, vào trong ấy sẽ nói.
Vào đến phòng
ngoài, Grigori nắm lấy khuỷu tay Miska, nghĩ mãi chẳng biết nói sao cho tiện,
bực cả mình. Cuối cùng chàng khẽ nói:
- Cho mình qua đêm
nay ở nhà cậu nhé… Mình vừa cãi lộn với gia đình… Nhà cậu thế nào, có chật lắm
không? Mình thì nằm chỗ nào cũng được.
- Cậu cứ vào đã chỗ
nằm cũng sẽ tìm được thôi. Có chuyện gì mà cãi lộn thế?
- Ối chao, người
anh em ạ… sau hẵng hay… Cửa nhà cậu ở chỗ nào thế nhỉ? Mình chẳng thấy đâu cả.
Miska sửa soạn cho
Grigori nằm trên chiếc ghế dài. Grigori nằm xuống, rồi lấy cái áo lông ngắn
trùm kín đầu để khỏi nghe thấy những tiếng thì thầm của bà mẹ Miska ngủ cùng
giường với con gái.
"Không biết
bây giờ ở nhà thế nào nhỉ? Natalia có bỏ về không nhỉ? Thôi, từ nay cuộc sống
sẽ chảy theo một dòng khác rồi. Mình dựa vào đâu bây giờ!" Nhưng một ý
nghĩ đã nảy ra ngay trong đầu óc Grigori: "Ngày mai mình sẽ gọi Acxinhia,
sẽ cùng với Acxinhia đi Kuban, đi thật xa khỏi nơi nầy… thật xa, thật
xa…".
Tuy Grigori đã nhắm
mắt, nhưng trước mắt chàng cứ lờ mờ hiện ra những đỉnh núi trên đồng cỏ, những
thôn xóm, những thị trấn mà chàng chưa thấy bao giờ, những nơi xa lạ với lòng
chàng. Nhưng đằng sau những ngọn núi trập trùng dựng lên như những dãy tường
khổng lồ, bên kia con đường xám xịt lại là cả một vùng trời đất xanh ngát như
trong thần thoại đang vui vẻ đón chào, thêm vào đó còn có Acxinhia với mối tình
nở hoa muộn màng, ngỗ ngược của nàng.
Grigori ngủ thiếp
đi với cả một nỗi lòng xao xuyến trước những điều mới lạ khôn lường đang lừ lừ
tiến tới. Nhưng trước khi ngủ, chàng còn cố điểm lại xem có cái gì chưa nói ra
được cứ đè nặng trong đầu óc mình, nhưng nghĩ đến mấy cũng không ra. Trong lúc
chập chờn nửa tỉnh nửa mê như thế nầy, có cảm tưởng như những ý nghĩ trong đầu
đang nối tiếp nhau rất trơn tru, đều đặn như một con thuyền đang thuận dòng
trôi xuôi, bỗng bị một cái gì, có vẻ như một dải cát ngầm, chặn lại: Grigori
cảm thấy rất khó chịu, tức anh ách, và cứ trằn trọc hỳ hục vật lộn với mọi điều
ức đoán: "Có cái gì thế nhỉ? Có cái gì ngáng đường mình thế nầy nhỉ?"
Nhưng sáng hôm sau,
lúc Grigori tỉnh dậy, chàng đã nhớ ra: "Còn phải đi lính! Thế thì mang
Acxinhia đi đâu bây giờ? Sang xuân đã phải đến tập trung ở trại, đến mùa thu là
chính thức vào lính rồi… Đó chính là cái gậy chọc vào bánh xe đấy".
Ăn sáng xong,
Grigori gọi Miska ra phòng ngoài:
- Miska à, cậu đến
nhà Astakhov, nói lại hộ với Acxinhia rằng hôm nay trời bắt đầu nhá nhem thì
lại chỗ cái cối xay gió nhé.
- Thế còn Stepan? -
Miska ngần ngại.
- Cậu thử nghĩ cách
xem, cứ làm như đến có việc.
- Được, mình sẽ đi.
- Cậu đi đi! Bảo
giúp Acxinhia là thế nào cũng đến nhé.
- Được!
° ° °
Lúc trời bắt đầu
tối, Grigori đến ngồi bên cối xay gió, hút thuốc trong ốn tay áo. Sau lưng cái
cối xay, gió thổi ràn rạt giữa những thân ngô khô. Một mảnh vải tuột chỉ đập
phần phật trên những cánh quạt đã chốt chặt. Grigori cảm thấy như có con chim
khổng lồ đang vỗ cánh bay lượn vòng trên đầu mình, nhưng không bay đi được.
Vẫn chưa thấy
Acxinhia đến. Bên phía trời tây, ánh hoàng hôn tím ngát đang phủ lên nền trời
vàng đục. Bên phía trời đông, gió thổi một lúc một nhanh, một mạnh. Bóng đêm ập
tới đuổi vượt vầng trăng bị vướng trong đám liễu. Khoảng trời trên cái máy xay
đang màu da cam với những chỗ bầm xanh bỗng xám xịt lại như một cái thây ma. Từ
trong thôn vẫn còn vẳng ra những tiếng động của công việc bận rộn còn lại trong
ngày.
Grigori hút liền
một lúc ba điếu thuốc. Chàng dúi mẩu thuốc hút dở cuối cùng xuống tuyết rồi đưa
mắt nhìn quanh trong lòng vừa mong vừa giận. Từ cái cối xay gió tới trong thôn,
mọi vật cứ mờ dần rồi đen lại như nhựa chưng. Chẳng thấy có ai trong thôn ra. Grigori
đứng dậy, vặn lưng, làm xương vai kêu răng rắc, vươn vai rồi bước về phía ánh
đèn như mời chào trong khung cửa sổ nhỏ bên căn nhà của Miska. Chàng huýt sáo
qua kẽ răng, đã sắp về tới sân thì thiếu chút nữa đâm sầm phải Acxinhia. Có lẽ
nàng đang chạy hay ít nhất cũng cắm đầu cắm cổ rảo bước, vì thế cứ hổn hà hổn
hển, cặp môi mát rượi thoảng một mùi thanh thanh không biết là hơi gió hay
hương cỏ xa xôi trên đồng cỏ.
- Đợi mãi, cứ tưởng
em không đến.
- Mãi mới tống cổ
được Stepan đi…
- Làm anh chết cóng
rồi đây nầy, cái ả chết dẫm!
- Em thì đang nóng
ran đây, để em sưởi cho anh vậy. - Acxinhia mở rộng hai bên tà không cài khuy
của chiếc áo lông kiểu sông Đông, choàng quanh người Grigori như dây hốt bố ôm
quanh cây sồi - Nhưng anh gọi em có việc gì thế?
- Hượm đã, nhưng
buông tay ra… ở đây có người qua lại đấy.
- Có thật là anh
cãi lộn với gia đình không?
- Anh bỏ đi rồi.
Anh đã đến ở nhà Miska một ngày một đêm… Bây giờ sống như con chó hoang.
- Anh định thế nào
bây giờ? - Acxinhia đang ôm lấy Grigori bỗng buông hai tay ra rồi khép tà áo
lông như bị lạnh. - Griska ạ, ta vào bên hàng rào đi. Sao lại đứng giữa đường
thế nầy?
Hai người bước sang
bên đường. Grigori đá tung một đống tuyết để đứng dựa lưng vào một dãy hàng rào
giá băng kêu răng rắc.
- Anh biết không,
Natalia bỏ về nhà bố mẹ rồi đấy!
- Không biết… Nhưng
thế nào cũng phải về thôi. Nếu không thì ở lại nhà anh làm gì?
Grigori cầm lấy hai
bàn tay giá lạnh của Acxinhia, kéo vào trong ống tay áo mình và nắm chặt những
ngón tay trên bàn tay nhỏ nhắn của Acxinhia và hỏi:
- Chúng mình sẽ thế
nào bây giờ?
- Anh yêu của em,
em làm thế nào mà biết được? Anh thế nào thì em cũng thế.
- Em bỏ Stepan chứ?
- Bỏ không thương
tiếc gì cả. Ngay bây giờ cũng được.
- Cả hai chúng mình
sẽ cùng đi làm thuê ở nơi nào đó, chúng mình sẽ sống được thôi!
- Dù anh với em
phải đi chăn bò, anh Griska… Miễn là được sống với anh.
Hai người cứ đứng
như thế một lát, đem hơi nóng trong người mình sưởi ấm cho nhau. Grigori không
muốn bỏ về, cứ đứng quay đầu về hướng gió, mắt nhắm nghiền, cánh mũi phập
phồng.
Acxinhia rúc mặt
vào nách Grigori, hít lấy hít để mùi mồ hôi thân thuộc và ngây ngất của chàng.
Grigori không nhìn thấy cặp môi dâm đãng, nụ cười sung sướng vì hạnh phúc đã
được thực hiện.
- Mai anh sẽ đến
nhà Mokhov, may sẽ kiếm được một việc làm.
Grigori vừa nói vừa
nắm bàn tay có những ngón tay đẫm mồ hôi của Acxinhia. Acxinhia không nói gì.
Và cũng chẳng ngẩng đầu lên. Nụ cười vừa rạng lên trên môi nàng lúc nầy đã như
bị gió thổi bay đi đâu mất.
Hai con mắt nàng mở
trừng trừng, đầy buồn thảm và hốt hoảng như con thú bị vây bắt. "Nói hay
không nói bây giờ?" - Acxinhia chợt nhớ rằng mình đang có mang bèn tự hỏi.
"Phải nói mới được", - nàng vừa quyết định như thế đã rùng mình hoảng
sợ, xua ngay ý nghĩ rùng rợn đó. Linh tính của người đàn bà đã gợi cho nàng
hiểu rằng bây giờ chưa phải là lúc nói ra chuyện ấy. Nàng hiểu rằng làm thế thì
có thể vĩnh viễn mất Grigori, vì chính nàng còn chưa rõ trong hai người đàn
ông, người nào là cha của đứa bé đang ngọ nguậy trong lòng mình. Cuối cùng nàng
đã không nói nữa.
- Sao em run bần
bật thế? Lạnh à? - Grigori vừa hỏi vừa lấy tà áo lông cuốn chặt lấy người
Acxinhia.
- Em hơi lạnh một
chút… Nhưng phải về thôi, anh Griska ạ. Nhỡ Stepan về nhà lại không thấy em.
- Nó đi đâu thế?
- Em bảo mãi hắn
mới sang nhà Anikey đánh bài.
Hai người chia tay
nhau. Trên môi Grigori còn lưu mùi hương ngây ngất của cặp môi nàng, cặp môi
quyện cái mùi không biết là của gió đông hay mùi hương xa xôi, khó tả của cỏ
khô trên đồng sau trận mưa xuân.
Acxinhia rẽ vào một
cái ngõ. Nàng khom lưng, bước rảo gần như chạy. Đến trước cái giếng không biết
của nhà ai, chỗ gia súc dẫm nát nhoét một đống bùn tích lại từ mùa thu, nàng
bước không khéo bị trượt chân trên một mô đất giá băng. Bụng đau nhói, nàng phải
nắm lấy một cái cọc hàng rào. Một lát sau thấy bớt đau, nhưng ở bên sườn có cái
gì đầy sức sống cựa mình, giận giữ đạp mạnh liền mấy cái.
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 44
Sáng hôm sau,
Grigori đến nhà Mokhov. Sergey Platonovich vừa ở ngoài hiệu về uống trà. Lão
ngồi cùng với Atepin trong phòng ăn, tường dán một thứ giấy đắt tiền giả vân gỗ
sồi, và đang chuyên trà, một thứ trà đặc sánh, đỏ như rượu Boóc- đô. Grigori để
mũ ờ phòng ngoài rồi bước vào phòng ăn.
- Thưa ông Sergey
Platonovich, tôi xin phép gặp ông một lát.
- À, hình như anh
là cậu hai nhà ông Panteley Prokofievich thì phải.
- Vâng, đúng đấy ạ.
- Anh có việc gì
thế?
- Tôi muốn hỏi xem
ông có nhận tôi vào một chân làm công được không?
Chợt có tiếng cánh
cửa rít, Grigori quay đầu lại. Từ trong phòng khách, bước ra một sĩ quan trẻ
tuổi, tay cầm tờ báo gấp tư. Hắn mặc quân phục màu xanh lá cây, đeo lon trung
uý. Grigori nhận ra viên sĩ quan bị Mitka Korsunov vượt trong cuộc đua ngựa năm
ngoái.
Sergey Platonovich
đẩy một chiếc ghế dựa cho viên sĩ quan ngồi rồi nói:
- Sao thế, chẳng
nhẽ ông cụ nhà anh đã sa sút đến nỗi phải cho con trai đi làm thuê hay sao?
- Tôi không ở với
cha tôi nữa.
- Ra ở riêng à?
- Vâng.
- Tôi cũng rất muốn nhận anh vào làm,
vì tôi biết gia đình bên ấy lắm, toàn những người hay lam hay làm, nhưng hiện
nay lại không thiếu người.
- Có việc gì thế ông? - Viên trung uý
đến ngồi vào bàn, rồi đưa mắt nhìn Grigori và hỏi.
- Anh chàng muốn kiếm việc làm.
- Anh có biết chăm nom ngựa không? Đánh
xe có càng giữa thắng hai con ngựa có khá không? - Viên trung uý vừa hỏi vừa
khuấy chiếc cùi dìa nhỏ trong cái tách.
- Vâng được, nhà tôi cũng nuôi sáu con
ngựa của gia đình.
- Tôi đang cần một tay đánh xe. Thế các
điều kiện của anh như thế nào?
- Công xá tôi cũng không xin nhiều đâu…
- Nếu thế ngày mai anh cứ tới dinh cơ
ông cụ nhà tôi. Anh có biết trại của cụ Litnhitki Nicolai Alekseevich ở đâu
không?
- Vâng có biết.
Cách đây khoảng mười hai vec- xta thôi.
Mai vào buổi sáng nhé. Sang bên ấy ta sẽ thoả thuận với nhau.
Grigori ngập ngừng nán lại một lát. Cầm
quả đấm rồi, chàng mới nói:
- Thưa quan lớn, quan lớn cho gặp riêng
một lát, tôi có chuyện muốn thưa với quan lớn…
Viên trung uý bước theo Grigori ra
khoảng hành lang tranh tối tranh sáng. ánh sáng hồng hồng ngoài sân thượng lọt
vào dè sẻn qua những miếng kính mờ.
- Có việc gì thế?
- Tôi không phải chỉ có một mình… - Mặt
Grigori đỏ như gấc. - Cùng đến với tôi còn có một người đàn bà. Không biết có
kiếm được cho cô ấy một việc nào làm không?
- Vợ anh à? - Viên trung uý mỉm cười
hỏi, hai hàng lông mày giương lên, nắng chiếu vào nom hồng hồng.
- Vợ người khác.
- Chà, ra vậy. Cũng được thôi, chúng
tôi sẽ sắp xếp để nấu ăn cho bọn đầy tớ. Thế chồng cô ấy đâu?
- Ở ngay đây, cũng người thôn nầy.
- Sao vậy, anh cướp vợ của người ta à?
- Tự cô ấy theo đấy thôi.
- Câu chuyện cũng lãng mạn nhỉ? Thôi
được, sáng mai cứ lại. Bây giờ thì anh về được rồi, người anh em ạ.
Grigori đến Yagonoie, dinh cơ của nhà
Litnhitki, khoảng tám giờ sáng. Dãy tường bao bằng gạch loang lổ vây quanh cái
sân rất rộng, trong sân có những căn nhà phụ, cái ra cái vào chẳng thành hàng
lối gì cả: một dãy nhà ngang mái ngói, giữa mặt trước có con số 1910 đắp bằng
ngói, nhà đầy tớ, nhà tắm, tàu ngựa, nhà nuôi gà vịt chuồng bò, một nhà kho
dài, nhà để xe. Một toà nhà cổ rất to nằm giữa khu vườn, từ sân vào phải qua
dãy hàng rào. Sau nhà có cánh rừng dựng đứng như bức tường xám với những cây
tiêu huyền và dương liễu trơ trụi. Những cái tổ quạ nằm lắt lẻo trên cây nom
như những cái mũ màu nâu, nhưng quạ đã bỏ đi hết rồi.
Grigori chưa vào đến trong sân thì một
đàn chó mực giống Krym đã chạy ra đón chàng. Một con chó cái già, mắt ướt như
mắt bà lão, khập khiễng chạy tới đánh hơi Grigori trước nhất, rồi nó gục cái
đầu gầy khô lẽo đẽo đi theo chàng. Trong nhà đầy tớ, mụ nấu bếp đang chửi nhau
với chị hầu phòng còn trẻ, mặt đầy tàn hương. Một cụ già loắt choắt ngồi ở
ngưỡng cửa, giữa đám khói thuốc lá, như trong một cái túi ông cụ có cặp môi rất
dày. Chị hầu phòng dẫn Grigori vào trong nhà. Phòng ngoài nặc mùi chó và mùi da
thú chưa khô. Một cái bao súng hai nòng nằm bẹp trên mặt bàn, bên cạnh có một
chiếc túi dết với những ngù lụa màu xanh lá cây, tua đứt nham nhở.
- Công tử cho gọi anh vào - Chị hầu
phòng trong cửa bên ngó ra.
Grigori lo lắng nhìn xuống đôi ủng đầy
bùn của mình, bước tới cửa phòng.
Viên trung uý nằm dài trên chiếc giường
kê cạnh cửa sổ. Trên chăn có hộp ống giấy để nhồi thuốc lá và thuốc lá sợi.
Nhồi xong một điếu thuốc, hắn cài cúc cổ chiếc áo sơ- mi trắng rồi nói:
- Anh đến sớm quá đấy. Chờ một lát, ông
cụ nhà tôi sẽ sang đây ngay.
Grigori đứng chờ bên cửa. Một phút sau
có tiếng chân bước lệt sệt trên sàn gỗ ọt ẹt. Một giọng ồm ồm hỏi qua khe cửa:
- Con còn ngủ không đấy, Evgeni?
- Mời cha vào đi.
Một lão già đi ủng dạ đen kiểu Kavkaz
bước vào. Grigori đứng bên liếc nhìn lão. Điều đầu tiên đập vào mắt chàng là
cái mũi thanh thanh, gẫy sống và bộ ria bạc hình bán nguyệt rất rộng, chỗ dưới
mũi vàng khè vì khói thuốc. Lão cao như cây sào, người gầy nhưng vai rất rộng.
Một chiếc áo khoác dài bằng lông lạc đà thõng trên người lão cổ áo bó chặt cái
cổ nhăn nheo, da nâu sẫm. Hai con mắt đã bạc màu nằm ngay sát tinh mũi.
- Cha ạ, đây là gã đánh xe mà hôm qua
con đã thưa với cha là nên thuê đấy. Một anh chàng con nhà cũng tốt.
- Con nhà nào thế? - Giọng lão già nổ
ra ồm ồm như tiếng sấm.
- Melekhov ạ.
- Melekhov nào cơ chứ?
- Cha tôi là Panteley Melekhov.
- Ta có biết Prokofi, Panteley ta cũng
biết. Lão ấy khập khiễng có máu trec- ket phải không?
- Vâng đúng đấy ạ, có khập khiễng đấy
ạ. - Grigori rướn thẳng người như sợi dây cung.
Chàng nhớ lại vài câu chuyện đã được
nghe cha kể về vị tướng về hưu Litnhitki, anh hùng trong cuộc chiến tranh giữa
Nga và Thổ nhĩ kỳ.
- Sao phải đi làm thuê hử? - Cái giọng
ồm ồm như sấm lại từ trên cao dội xuống.
- Bẩm cụ lớn, tôi không còn ở với cha
tôi nữa.
- Đem thân đi làm thuê mà sống thì còn
gì là một thằng Cô- dắc? Chẳng nhẽ bố cho ra ở riêng mà không cho gì à?
- Bẩm cụ lớn, đúng thế đấy ạ, chẳng cho
gì cả.
- Nếu thế thì lại chuyện khác. Cùng đi
ở với vợ có phải không?
Viên trung uý cựa mạnh làm chiếc giường
kêu cọt kẹt. Grigori đưa mắt nhìn sang, thấy hắn nháy mắt, lắc đầu ra hiệu.
- Bẩm cụ lớn, vâng ạ.
- Đừng cụ lớn, cụ bé gì cả. Ta không
thích thế! Tiền công mỗi tháng tám rúp. Tính cho cả hai. Vợ mầy sẽ nấu nướng
cho bọn đầy tớ và thợ làm mùa. Có thuận không?
- Vâng ạ.
- Ngày mai cả hai sẽ phải đến ngay
trang trại. Mầy sẽ đến ở nhà đầy tớ bên nửa mà thằng đánh xe cũ đã ở ấy.
- Hôm qua cha đi săn thế nào? - Người
con hỏi lão già rồi bỏ thõng hai bàn chân nhỏ bé xuống chiếc thảm con.
Đến khe Gremiatri thì lùa được một con
cáo to tướng ở trong đó ra, đuổi tới cánh rừng. Nhưng con cáo già đã lừa được
đàn chó rồi mất hút.
- Con Katbech vẫn còn khập khiễng hả
cha?
- Có lẽ nó bị sai khớp. Thôi mau mau
lên, Evgeni, bữa sáng nguội mất bây giờ.
Rồi ông già quay về phía Grigori và bật
đánh tách một cái hai ngón tay gầy gò, xương xẩu.
- Đi đều bước! Ngày mai phải có mặt ở
đây trước tám giờ.
Grigori ra khỏi
cổng. Đàn chó săn đang nằm sưởi nắng bên bức tường sau lưng nhà kho, chỗ đất đã
khô không còn tuyết nữa. Con chó cái già có hai con mắt như mắt bà lão lon ton
chạy tới sau lưng Grigori, ngửi ngửi người chàng, rồi lại ủ rũ gục đầu, lẵng
nhẵng đưa tiễn Grigori đến khe núi đầu tiên. Đến đấy thì nó quay về.
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 45
Acxinhia nấu nướng
xong rất sớm. Nàng vun than vào một chỗ, quấn giẻ quanh ống khói, rửa bát đĩa
rồi nhìn ra khung cửa sổ nhỏ phía sân nuôi gia súc. Stepan đứng cạnh đống gỗ
chất thành hình chóp sát dãy hàng rào ngăn với sân gia súc nhà Melekhov. Một
điếu thuốc tắt ngấm còn ngậm rủ xuống bên mép cặp môi khô cứng; anh ta lục lọi
trong đống gỗ, chọn được một cái cột hợp với công việc. Góc bên trái nhà kho bị
sụt cần phải đóng thêm hai cái cột chắc chắn và lợp kín bằng chỗ lau còn sót
lại.
Từ sáng, hai gò má
Acxinhia cứ đỏ hây hây. Mắt nàng long lanh, nom trẻ hẳn ra. Stepan không khỏi
nhận thấy sự thay đổi. Lúc ăn sáng, anh ta hỏi:
- Nhà nó làm sao
thế?
- Em làm sao cơ
chứ? - Mặt Acxinhia càng đỏ bừng.
- Mặt cứ bóng nhẫy
như bôi dầu ấy.
- Đứng mãi bên bếp
lò nóng quá… bốc cả lên đầu. - Nàng trả lời rồi quay mặt đi, lấm lét đưa mắt ra
cửa sổ - Không biết con bé em gái Mitka Kosevoi có sang không?
Mãi lúc trời sắp
tối cô bé mới tới. Đang mong khổ mong sở nẫu ruột nẫu gan, Acxinhia tươi tỉnh
hẳn lên.
- Em đến tìm chị đấy à, Masa?
- Chị ra đây cái.
Stepan đang đứng trước mảnh gương gắn
trên mặt trước cái bếp lò quét vôi trắng. Hắn chải đầu xong, lại lấy cái lược
sừng bò ngắn cũn miết cho mượt bộ ria màu hạt dẻ.
Acxinhia lo lắng nhìn sang phía chồng.
- Anh lại sắp đi đâu phải không?
Stepan không trả lời ngay, anh ta bỏ
cái lược vào túi quần, rồi giơ tay với lấy bộ bài tây và túi thuốc để trên bếp
lò.
- Sang nhà Anikey, ngồi một lát thôi.
Thế bao giờ anh mới chán không đi nữa?
Ngưởi ta đã có lệnh cấm tiệt đánh bài rồi đấy, thế mà chẳng đêm nào các ông
không bài với bạc. Hễ ngồi với nhau là đến gà gáy.
Thôi đủ rồi, nghe mãi rồi.
- Anh lại chơi "Otko" 1 có
phải không?
- Thôi đừng lải nhải mãi nữa,
Acxinuska. Đang có ai chờ kia kìa, ra ngoài ấy đi.
Acxinhia nghiêng nghiêng người đi ra
phòng ngoài. Ra tới cửa thì nàng thấy Masa đang mỉm cười đứng chờ, khuôn mặt
đầy tàn hương của cô bé đỏ ửng.
- Anh Grigori về rồi đấy.
- Thật ư?
- Anh ấy dặn trời nhá nhem thì chị lại
nhà em.
Acxinhia vồ lấy hai bàn tay Masa, đẩy
cô bé ra sát cửa.
- Khẽ chứ, khẽ chứ nào, em yêu của chị.
Anh ấy bảo thế nào hả Masa? Chắc còn dặn em nói thêm gì nữa chứ?
- Anh ấy bảo chị có những thứ gì thì
thu dọn lại mang cả đi.
Acxinhia run bắn lên, khắp người nóng
ran như lửa đốt. Nàng xoay đầu đi xoay đầu lại, chốc chốc lại đảo mắt ra cửa,
giậm hết chân nọ đến chân kia, không thể đứng yên một chỗ nữa.
- Lạy Chúa tôi, làm thế nào bây giờ?
Hả? Sao lại gấp đến thế? Trời, mình làm thế nào bây giờ? Hượm cái đã, em về bảo
anh ấy rằng chị sẽ ra ngay… Thế anh ấy sẽ đợi chị ở đâu?
- Chị sẽ lại nhà em.
- Chao ôi, không được đâu!
- Thôi, không sao, em sẽ bảo, anh ấy sẽ
ra.
Stepan mặc áo ngoài, rồi kiễng chân
châm thuốc vào ngọn đèn treo.
- Nó đến có việc gì thế? - Hắn hỏi giữa
hai hơi thuốc.
- Ai cơ chứ?
- Con Masa nhà Kosevoi ấy.
- À, nó lại có chút việc riêng… Nó nhờ
cắt hộ nó cái váy.
Stepan thổi chỗ tàn đen trên điếu
thuốc, bước ra cửa.
- Nhà cứ ngủ trước đi nhé, đừng đợi làm
gì?
- Thôi được Acxinhia tới áp sát người
vào khung cửa sổ đóng băng, rồi khuỵu đầu gối xuống trước một chiếc ghế dài.
Tiếng bước chân Stepan lạo xạo trên lối mòn ra cửa hàng rào, mỗi lúc một xa.
Gió thổi bay vài cái tàn iửa trên đầu điếu thuốc, đưa tới tận bên cửa sổ. Hơi
thở của Acxinhia hà tan một khoảng sương muối tròn tròn trên khung kính, làm
cho nàng còn thấy trong một loáng ánh lửa của điếu thuốc chiếu sáng hình bán
nguyệt của chiếc mũ lông cừu đội lệch áp xuống một bên tai và cái má rám nắng.
Acxinhia cuống cuồng lôi ra từ một cái
hòm những đồ tư trang mà mình đã đem về nhà chồng; vài cái váy, áo ngắn mặc
ngoài, những chiếc khăn bịt đầu nhỏ, ném bừa tất cả vào một chiếc khăn choàng
lớn. Hai con mắt đầy vẻ hốt hoảng, nàng thở hổn hển tạt vào trong bếp lần cuối
cùng, dụi tắt lửa rồi chạy ra thềm. Trong nhà Melekhov không biết có ai ra sân
xem lại gia súc. Acxinhia chờ cho tiếng bước chân lắng đi mới lồng cái xích vào
vòng mắt xích trên cửa, rồi ôm chặt cái khăn gói, chạy ra sông Đông. Vài món
tóc tuột khỏi cái khăn len mềm, xoà xuống má, cọ cọ đến là buồn. Nàng chạy vòng
phía sau, tới được sân nhà Kosevoi thì mệt lử, hai chân nặng như chì, nhấc lên
gần như không nổi. Grigori đã đứng ở cổng đợi Acxinhia. Chàng xách hộ cái khăn
gói rồi chẳng nói chẳng rằng đi trước về phía đồng cỏ.
Đi quá được cái sân đập lúa, Acxinhia
bỗng bước chậm lại, kéo tay áo Grigori.
- Hượm một lát, anh.
- Hượm cái gì? Trăng sắp mọc đến nơi
rồi, phải rảo bước mới được.
- Hượm hượm đã, Griska, - Acxinhia đứng
lại oặt người xuống.
- Em làm sao thế? - Grigori cúi xuống
hỏi.
- Ấy đấy trong bụng cứ thấy làm sao ấy.
Hôm nay em đã khiêng nặng quá. - Acxinhia liếm cặp môi khô bỏng, đau quá đổ cả
đom đóm mắt, cứ phải nheo lại. Nàng ôm chặt lấy bụng, đứng lặng một lát, lưng
còng hẳn xuống, nom đến là đáng thương. Cuối cùng nàng nhét mấy món tóc xuống
dưới khăn, và lại đi tiếp.
- Thôi, hết đau rồi, ta đi đi!
- Em cũng chẳng hỏi anh đưa em đi đâu
nữa. Nhỡ lát nữa đến cái khe đầu tiên, anh đẩy xuống thì sao? - Grigori mỉm
cười trong bóng tối - Đối với em bây giờ thì dù có chuyện gì xảy ra cũng thế
cả… Đã đến nông nỗi nầy… - Tiếng cười xen trong giọng nói của Acxinhia chẳng có
gì vui vẻ.
Như bao giờ cũng vậy, hôm ấy đến nửa
đêm Stepan mới mò về. Anh ta vào tầu ngựa, vơ chỗ rơm bị ngựa dẫm nát ném lên
máng cỏ, tháo đai cổ cho con ngựa rồi bước lên thềm. "Có lẽ lại đi vui chị
vui em rồi" - Anh ta gỡ cái xích ra khỏi vòng xích nghĩ thầm. Rồi vào bếp,
đóng cửa thật chặt và quệt que diêm. Hôm nay anh chàng được bạc (đánh bài ăn
diêm), vì thế không cảm thấy tức tối hằn học gì mà chỉ buồn ngủ. Stepan châm
đèn, đưa mắt nhìn khắp các vật buông quăng bỏ vãi trong bếp, không nghĩ được ra
duyên cớ vì sao. Anh ta hơi ngạc nhiên, bước vào nhà trong, nhìn thấy ngay cái
nắp hòm mở hoác như một cái miệng đen ngòm và chiếc áo ngắn cũ mà vợ bỏ quên
trong lúc vội vàng còn nằm trên sàn. Stepan giật phắt cái áo lông ngắn trên vai
xuống, chạy bổ vào bếp lấy đèn. Anh ta nhìn quanh nhà trong một lượt, bất giác
vỡ lẽ. Stepan quẳng cây đèn xuống, và bây giờ thì dù chính mình đang làm gì,
anh ta cũng chẳng biết nữa. Anh ta giật thanh gươm trên tường xuống, mấy ngón
tay nắm cán gươm chặt đến tím lại. Anh ta lấy mũi gươm xốc cái áo màu xanh phớt
hoa vàng nhạt mà Acxinhia bỏ quên, hất tung lên, rồi vung thanh gươm loáng một
cái, chém phăng cái áo làm đôi giữa lúc nó chưa kịp rơi xuống.
Mặt Stepan xám ngoẹt, đau khổ làm anh
ta trở nên man rợ, hung dữ như con sói. Anh ta không ngừng hất những mảnh áo
xanh xanh đã bị chém nát lên trần, lưỡi thép mài sắc ngọt múa vù vù, chém ngang
chém dọc những mảnh vải đang bay.
Rồi anh ta dứt đứt dây ngù buộc gươm,
quẳng thanh gươm vào góc nhà, bỏ xuống bếp, ngồi xuống cạnh bàn, đầu ngoẹo
xuống, những ngón tay rắn như thép run bần bật xoa mãi cái mặt bàn chưa cọ rửa.
--- ------ ------
------ -------
1 Một lối chơi bài, tính trăm điểm (ND).
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 46
Hoạ nọ
chưa qua, rấp kia đã ập tới, chuyện đời bao giờ cũng thế.
Sáng hôm
ấy, do Getko không chú ý, con bò mộng đầu đàn của Miron Grigorievich đã văng
sừng làm rách toạc cổ con ngựa cái tốt nhất trong nhà. Getko chạy ngay lên nhà
trên, mặt mày hốt hoảng, cắt không còn hột máu, người run bần bật.
- Tai
hoạ rồi, ông chủ ơi! Con bò mộng, con bò mộng đáng nguyền rủa, chết mẹ nó đi…
- Con bò
mộng làm sao? Cái gì thế hử? - Miron Grigorievich hoảng lên, - Nó làm hỏng mất
con ngựa cái rồi… Nó văng sừng vào con ngựa cái. Tôi thấy…
Miron
Grigorievich chẳng nghĩ tới mặc thêm cái áo, cứ phong phanh nhảy luôn ra sân.
Bên cái giếng, Mitka đang vung cái cọc đánh lấy đánh để con bò mộng năm tuổi
lông đỏ. Còn con bò thì cứ ngoáy loạn xạ cái đầu chúi xuống thật thấp, làm cái
yếm da lùng nhùng trước ức nó bị kéo sệt trên tuyết. Nó cào chân xuống tuyết,
hất tuyết ra phía sau rất xa, cái đuôi xoắn như lò xo tung ra chung quanh một
đám bụi trắng như bạc. Tuy bị đòn đau, nhưng nó không chạy, chỉ gừ gừ và luôn
luôn chuyển hai chân sau từ chỗ nọ sang chỗ kia, có vẻ như sắp nhảy chồm lên
đến nơi.
Tiếng gừ
gừ trong họng con bò mỗi lúc một to, nó bắt đầu rống lên. Mikhey đứng phía sau
Mitka kéo dây lưng nó, nhưng Mitka chẳng để ý gì đến hắn, vẫn ra sức đánh vào
mặt, vào sườn con bò và không ngớt văng đến khản cả giọng những lời kinh tởm.
- Thôi
mặc nó đấy, cậu Mitka! Vì Chúa cứu thế, tôi van cậu!
- Nó húc
cậu bây giờ? - Kìa ông Grigorievich, sao lại đứng mà nhìn thế?
Miron
Grigorievich chạy ra giếng. Con ngựa đứng sát hàng roà, đầu thõng xuống nom đến
là thiểu não. Giữa những cái xương sườn, những đường hõm đẫm mồ hôi vừa đen vừa
sâu lên lên xuống xuống theo nhịp thở. Máu chảy xối trên cổ nó xuống tuyết,
xuống cả những bắp thịt tròn tròn trước ngực. Lớp lông màu hạt dẻ nhạt trên
lưng và trên sườn nó khẽ rung rung. Hai bên hông cũng run bần bật.
Miron
Grigorievich chạy tới gần. Trên cổ con ngựa có vết thương nứt hoác sang hai
bên, bốc hơi và sủi lên hồng hồng. Vết thương vừa dài vừa sâu, luồn bàn tay vào
cũng vừa. Mỗi lần con ngựa thở dốc lại có thể trông thấy cái cổ họng những đốt
là đốt. Con ngựa vẫn gục đầu đứng đấy. Miron Grigorievich nắm lấy bờm, kéo cao
đầu nó lên. Nó đưa cái tròng con mắt long lanh tím tím nhìn thẳng vào mắt chủ, tựa
như muốn hỏi: "Không biết rồi sẽ ra sao đây?" Như để trả lời câu hỏi
ấy, Miron Grigorievich quát lên:
- Mitka!
Bảo chúng nó sắc nước vỏ sồi. Có mau lên không?
Getko
chạy đi bóc vỏ cây sồi. Trong khi gã chạy, chỗ lộ hầu hình tam giác cứ rung
rung trên cái cổ ghét bám năm tầng bảy lớp. Mitka đi tới gần bố nhưng vẫn ngoái
cổ đề phòng con bò đang lồng lộn chạy vòng trong sân. Con bò vẫn rống lên không
ngớt và cứ xông đến khắp mọi chỗ trong sân, đỏ lòm trên màu trắng của tuyết
tan.
- Nắm
lấy bờm nó! - Người bố ra lệnh cho Mitka - Mikhey, chạy đi kiếm sợi dây! Quàng
lên không ông cho cái quai hàm bây giờ!
Cái môi
trên mượt như nhung, lơ thơ vài sợi lông của con ngựa được buộc bằng sợi dây.
Người ta lồng một cái que vào sợi dây, xoắn chặt lại, cho con vật bớt cảm thấy
đau. Cụ Grisaka bước tới. Cái tách vẽ hoa đựng chất thuốc sắc tím nâu như quả
sồi được mang ra.
- Để
nguội đã, có lẽ nóng quá đấy. Mày có nghe thấy không, Miron!
- Thôi
cha vào trong nhà đi, lạy Chúa tôi? Đứng đây lại cảm lạnh bây giờ!
- Còn
tao thì tao bảo mày để cho nguội đã. Muốn giết chết con ngựa hay sao?
Vết
thương đã rửa xong. Miron Grigorievich xâu sợi chỉ thô vào chiếc kim sào bằng
những ngón tay rét cóng rồi tự tay khâu kín miệng vết thương. Đường chỉ khâu
rất khéo. Miron Grigorievich chưa kịp rời khỏi chỗ cái giếng thì bà Lukinhitna
đã lon ton chạy ra. Lo âu càng làm cho cặp má nhẽo nhợt của bà nhăn nhúm thêm,
nom cứ như hai cái túi rỗng. Bà gọi chồng ra một chỗ để nói riêng:
- Con
Natalia nó bỏ về nhà đấy, ông Grigorievich ạ? Trời ơi là trời, lạy Chúa tôi?
- Lại
còn chuyện gì nữa hử? - Đầu tóc Miron Grigorievich xù lên, khuôn mặt trắng bệch
đầy tàn hương tái mét.
- Nó có
chuyện với thằng Grigori đấy… Thằng rể quý của ông nó bỏ nhà đi rồi? - Bà
Lukinhitna vỗ phành phạch vào váy, giơ ngang hai tay như con quạ đen sắp cất
cánh bay, và rít lên - Khắp làng trên xóm dưới đã nói ra nói vào rồi đấy! Lạy
Chúa tôi, sao mà tội nợ đến thế nầy? Chao ôi? Trời ơi là trời!
Natalia
đứng giữa bếp, đầu trùm khăn, mình mặc một chiếc áo rét ngắn. Hai giọt nước mắt
mọng mọng đã ứa ra ở gần tinh mũi, nhưng còn chưa rơi. Má nàng đỏ tía như màu
gạch.
- Làm
sao mà mày còn vác mặt về đây hử? - Người bố vừa bước chân vào bếp đã cho luôn
con một trận. - Mày bị chồng đánh à? Ăn ở với nhau không được êm thấm hay sao?
- Anh ấy
bỏ đi mất rồi. - Natalia cố nén tiếng nức nở đã dồn lên đến cổ. Nàng hơi lảo
đảo rồi quỳ sụp xuống trước mặt bố. - Cha ơi, cha yêu của con, đời con thế là
tan nát mất rồi? Cha cho con về sống ở nhà thôi! Griska bỏ đi với con nhân tình
của anh ấy rồi? Thế là từ nay con trơ trọi một thân! Cha yêu của con, bây giờ
cứ như có cái bánh xe nghiến lên người con ấy!
Natalia
mếu máo nói một tràng rất nhanh. Chưa dứt lời nàng đã ngước nhìn lên chòm râu
ngô của bố, hai con mắt đầy vẻ van xin.
- Thôi
đi có lẽ nào như thế được, hãy chờ xem đã!
- Con
không sống được ở bên ấy nữa đâu! Cha cho con về ở nhà thôi!… - Natalia bò
nhanh tới bên cái hòm và run run gục đầu xuống hai bàn tay. Chiếc khăn trên đầu
nàng tụt ra sau lưng làm lộ làn tóc đen chải mượt lão xoã bên hai vành tai nhợt
nhạt. Trong những giây phút đắng cay như thế nầy, nước mắt thật chẳng khác gì
cơn mưa ngày đại hạn tháng năm. Người mẹ ôm đầu Natalia vào bụng gầy hõm của bà
và cứ luôn miệng than vãn kể lể bằng một tràng những lời ngớ ngẩn, không đầu
không đũa của đàn bà. Còn Miron Grigorievich thì tức điên lên, chạy bổ ra ngoài
thềm.
- Thắng
hai con ngựa vào xe trượt tuyết! Có cái càng giữa.
Nghe
thấy tiếng quát như lệnh vỡ, con gà trống đang đạp mái một cách thành thạo bên
thềm hoảng lên vội nhảy ngay xuống. Nó khệnh khạng rời xa thềm nhà, vừa đi vừa
cục cục trong họng, ra vẻ tức giận lắm.
- Thắng
ngựa mau? - Miron Grigorievich đưa ủng đá nát những con tiện chạm trổ trên dãy
lan can. Mãi khi Getko chạy trong tàu ngựa ra với một cặp ngựa huyền, vừa chạy
vừa lồng vòng cổ ngựa, ông mới bỏ vào trong nhà, để lại dãy lan can gãy nát
không còn ra hình thù gì nữa.
Mitka và
Getko đánh xe đi lấy tư trang của Natalia về. Anh chàng Ukraina lơ đãng để xe
chẹt phải một con lợn sữa không kịp chạy khỏi lòng đường. Hắn nghĩ thầm:
"Xảy ra một chuyện như thế nầy thì may ra ông chủ sẽ quên được chuyện con
ngựa cái?" Với ý nghĩ như thế, hắn sung sướng thả lỏng dây cương.
"Nhưng
cái lão quỷ dữ hại người ấy, lão có quên chuyện gì bao giờ?" Ý nghĩ nầy
chợt nảy ra làm Getko nhăn mặt, bĩu môi.
- Có
nhanh lên không, con chết tử chết tiệt? Nầy ông cho mày biết mùi! - Hắn quát
lên rồi hết sức chú ý quất cho một con ngựa huyền một roi, trúng ngay chỗ lá
lách 1.
---
------ ------ ------ -------
1 Ngọn roi nầy rất hiểm. Ngựa bị đánh vào
chỗ nầy thì đau nhất (ND).
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 47
Viên trung uý kỵ
binh Evgeni Litnhitki làm sĩ quan trung đoàn ngự lâm cận vệ Atamansky. Trong
một cuộc đua ngựa của sĩ quan, hắn đã ngã ngựa, gãy mất cánh tay trái. Ở bệnh
viện ra, hắn xin nghỉ phép về Yagonoie ở với bố một tháng rưỡi.
Viên tướng già sống
một thân một mình ở Yagonoie. Lão đã goá vợ từ lâu. Vợ lão đã qua đời tại một
nơi ở ngoại ô Varsava trong những năm tám mươi thế kỷ trước. Vốn là kẻ địch
nhằm vào viên tướng Cô- dắc, nhưng lại bắn phải vợ lão cùng gã đánh xe và làm
chiếc xe bốn bánh thủng lỗ chỗ ở nhiều nơi, còn viên tướng thì thoát chết. Vợ
tướng Litnhitki chết đi để lại cho lão thằng Evgeni năm ấy mới lên hai. Sau đó
chẳng bao lâu viên tướng về hưu. Lão chuyển đến ở Yagonoie và bắt đầu sống một
cuộc đời khắc khổ, cách biệt hẳn với giới thượng lưu. (Đất đai của lão gồm bốn
ngàn đê- xi- a- chin nằm trong tỉnh Saratov. Số đất nầy đã được triều đình cắt
đất lập ấp cho đời tứ đại của lão sau khi ông nầy tham gia cuộc chiến tranh bảo
vệ Tổ quốc vĩ đại năm 1812).
Khi Evgeni lớn lên,
tướng Litnhitki gửi hắn vào học trường võ bị, còn mình thì tự quản lý lấy công
việc làm ăn: lão chăn nuôi gia súc giống tốt. Lão mua được ở trại nuôi ngựa của
hoàng đế những con ngựa giống chạy nước kiệu hay, cho nhảy những con ngựa cái
tốt nhất mua ở nước Anh và ở trại ngựa giống Provansky vùng sông Đông, cuối
cùng gây được một giống riêng. Trên phần đất mà lão được chia với tư cách là
dân Cô- dắc và trên các khoảnh mua thêm, lão nuôi những đàn ngựa và trồng lúa
mì (bằng tay người khác).
Mùa xuân và mùa thu
lão thường đem đàn chó đi săn và thỉnh thoảng lại đóng chặt cửa cái phòng khách
màu trắng, ở lì trong đó để tuý luý càn khôn hàng tuần. Cái bệnh đau dạ dày ác
nghiệt làm tình làm tội lão rất nhiều; vì thế bác sĩ hết sức nghiêm khắc cấm
lão nuốt các thức ăn mà lão đã nhai: lão chỉ nhai, mút lấy nước, rồi nhổ bã vào
một cái đĩa nhỏ bằng bạc. Venhiamin, gã hầu phòng trẻ tuổi, dân mu- gích 1,
luôn luôn đứng bên cạnh lão, đưa hai tay chìa cái đĩa bạc cho lão nhổ.
Venhiamin là một gã
dở hơi dở người, da bánh mật. Không phải là tóc mà là một đám nhung đen nhánh
mọc lên trên cái đầu tròn xoe của gã. Lão đã hầu cụ chủ Litnhitki sáu năm trời.
Đầu tiên, hồi mới phải cầm cái đĩa bạc đứng bên cạnh ông tướng, gã đã không
khỏi buồn nôn mỗi khi nhìn thấy lão già nhổ ra những miếng bã thức ăn xám xịt,
nhai nát nhừ. Nhưng rồi gã cũng quen dần.
Kẻ ăn người ở trong
dinh cơ, ngoài Venhiamin còn có mụ nấu bếp Lukeria, ông cụ chăn ngựa già yếu
hom hem Xaska, chàng chăn bò Tikhol, chàng đánh xe Grigori vừa mới đến làm cùng
với Acxinhia. Lukeria là một mụ da thịt nhẽo nhợt, rỗ nhằng rỗ nhịt, mông to
tầy dành, toàn thân tương tự như một đống bột bánh vàng chưa lên men. Ngay hôm
đầu, mụ đã đuổi không cho Acxinhia bén mảng tới bếp lò.
- Bao giờ sang hè,
cụ chủ thuê người làm thì cô hãy thổi nấu, còn bây giờ thì một mình tôi xoay sở
cũng xong việc.
Công việc của
Acxinhia là lau sàn nhà mỗi tuần ba lần, cho gà vịt chim chóc ăn và quét dọn
sân gà vịt cho sạch sẽ. Nàng mới bắt tay vào làm việc đã tỏ ra rất siêng năng,
cố làm vừa lòng tất cả mọi người, kể cả mụ Lukeria. Grigori làm việc phần lớn
thì giờ cùng với ông lão chăn ngựa Xaska trong cái tàu ngựa rộng thênh thang
dựng toàn bằng những khúc gỗ tròn. Ông cụ đã sống đến lúc râu tóc bạc phơ,
nhưng vẫn cứ là Xaska với cái tên hồi nhỏ. Chẳng ai muốn làm cụ vừa lòng bằng
cách gọi cụ với tên chính thức kèm tên theo bố còn họ của cụ là gì thì có lẽ
ngay lão già Litnhitki cũng chẳng biết, dù cho cụ đã sống ở nhà lão hơn hai chục
năm rồi. Hồi còn trai trẻ, cụ Xaska đánh xe ngựa, nhưng đến khi gần đất xa
trời, sức kiệt mắt kém, cụ phải vào làm trong tàu ngựa. Người cụ loắt choắt,
râu tóc toàn một màu bạc trắng có chút ánh xanh lá cây (ngay đến hai tay cụ
cũng mọc đầy những cái lông bạc). Từ hồi cụ còn nhỏ, mũi cụ đã bị một nhát vồ
đập tẹt dí. Lúc nào người ta cũng thấy cụ hấp háy hai con mắt ngây thơ, nhằng
nhịt những vết nhăn đỏ, nhìn mọi vật xung quanh với nụ cười hồn nhiên của con
nít.
Hồi đi lính, một
lần quá chén (cụ Xaska vốn là một dân "moskan" 2 ở Bogutra), cụ đã
không uống vodka mà vớ nhầm một chai nước cường toan 3. Dòng hoá chất nóng bỏng
như lửa đã gắn chặt môi dưới ông cụ xuống cằm, rồi chảy thêm đến đâu là để lại
đến đấy một cái sẹo chéo hồng hồng, râu không mọc được nữa, nom rất nhộn. Cứ
như có một con thú quái đản liếm qua chòm râu của cụ Xaska một cái, và cái sẹo
chính là dấu vết cái lười ráp như lưỡi giũa của no.
Cụ Xaska rất hay
uống vodka, và mỗi lần có tí tửu vào là cụ lại lang thang trong sân trang trại,
cứ như chính mình là ông chủ của dinh cơ nầy. Chân nam đá chân siêu, cụ đến
đứng trước cửa sổ phòng ngủ của cụ lớn, rồi giơ một ngón tay lên ngoáy ngoáy
một cách tinh quái trước cái mũi buồn cười của cụ.
- Micolai
Alechxeit! Micolai Alechxeit đâu thế hử? - Cụ gọi rất to, rất oai.
Nếu lúc ấy lão địa
chủ già đang ở trong phòng ngủ thì thể nào lão cũng ra đứng ở cửa sổ.
- Lại tọng phễnh
bụng rồi phải không, cái thằng ma men vô tích sự nầy? - Giọng lão ở trong cửa
sổ đưa ra ồm ồm như sấm.
Cụ Xaska xốc xốc
cái quần đang muốn tụt xuống, nheo mắt, mỉm cười láu lỉnh. Nụ cười hiện lên
theo một đường chạy chéo qua khắp mặt ông lão: từ hai con mắt bên trái nheo
nheo chếch xuống đến vết sẹo hồng hồng hằn lên từ mép bên phải, nom đến là
ngang ngược, nhưng lại rất dễ thương.
- Micolai Lechxeit,
quan lớn 5 ạ, ta biết rõ quan lớn lă- ă- ắm đấy nhé? - Cụ Xaska nói rồi giơ
thẳng ngón tay khô quắt, đen thui thủi lên doạ.
- Thôi đi ngủ đi
cho tỉnh rượu, - Lão địa chủ đứng trong cửa sổ mỉm cười làm lành, rồi đưa cả
năm ngón tay ám khói thuốc lá lên vê bộ ria chảy xệ.
- Chẳng ma quỷ nào
lừa nổi lão Xaska nầy đâu! - Cụ Xaska vừa cười vừa bước tới bên hàng rào. -
Micolai Alechxeit ạ, lão… lão thì cũng như ta thôi. Hai chúng mình thật như cá
với nước. Cá lặn xuống đáy sông, còn hai ta thì… thì ra sân đập lúa. Mà cả ta
lẫn lão đều giàu sang phú quý như thế nầy nầy! - Cụ Xaska dạng chân, dang rộng
hai tay. - Khắp quân khu sông Đông nầy, ai mà không biết hai chúng mình? Hai
chúng mình… - giọng cụ Xaska bỗng trở nên bi thảm và thấm thía. - Ta với quan
lớn, quan lớn ạ, thì mặt nào cũng đều tốt đẹp, chỉ phải hai cái mũi của chúng
mình cú thum thủm đấy thôi!
- Tại sao thế? -
Lão địa chủ cười đến tái xanh tái tím, râu ria rung loạn xạ; lão ngạc nhiên hỏi
cho rõ.
- Vì vodka chứ còn
sao nữa? - Cụ Xaska nói rành rọt từng tiếng, nháy mắt lia lịa và thè lưỡi ra
liếm dải nước bọt chảy theo vết lõm của cái sẹo hồng hồng. - Nầy, Micolai
Alechxeit ạ, đừng rượu chè nữa đấy, nếu không hai chúng mình đều bỏ mẹ cả thôi,
bao nhiêu của chìm của nổi đều khánh kiệt hết thôi!
- Thôi nầy, nốc
thêm vào cho hết say!
Lão địa chủ ném qua
cửa sổ một đồng hai mươi kopek, cụ Xaska đón bắt rất lẹ, rồi giấu đồng tiền vào
lần lót của cái mũ cát- két.
- Thôi tạm biệt ông
tướng nhé, - Cụ chào xong thở dài bỏ đi.
- Nhưng đã cho ngựa
uống nước chưa? - Lão địa chủ vừa hỏi vừa mỉm cười trước. Lão đã biết cụ Xaska
sẽ trả lời những gì.
- À cái thằng quỷ
ghẻ! Thật là đồ chó đẻ! - Cụ Xaska đỏ mặt tía tai gầm lên, giọng phá ra. Cơn
phẫn nộ làm cụ như lên cơn sốt rét. - Thằng Xaska nầy mà quên không cho ngựa
uống nước à? Sao lại có chuyện như thế được. Dù chết đến nơi, lão cũng bò lết
đem được cho mỗi con một thùng nước giếng, thế mà nó lại dám nghĩ như vậy? Cũng
ra cái điều!
Cụ Xaska giơ nắm
tay lên doạ, vặc rầm lên một trận rồi bỏ đi. Nhục nhã oan ức đến thế thì chịu
sao nổi?
Người ta tha thứ
cho cụ Xaska hết thảy: cả cái bệnh rượu chè lẫn cái thói suồng sã bừa bãi với
cụ chủ, vì kiếm đâu ra một người coi ngựa làm thay nổi cụ Xaska? Mùa đông cũng
như mùa hè, cụ đều ngủ dưới mái tàu ngựa, trong một khoang nhốt ngựa bỏ không.
Không ai chăm sóc ngựa được như cụ, cụ vừa coi ngựa vừa là một ông lang chữa
thuốc cho ngựa. Mùa xuân, hễ đến tháng Năm, khi các giống cỏ ra hoa cụ lại đi
kiếm cỏ dấu, đi đào những rễ cây thuốc ngoài đồng, trong những khe khô và khe
nước. Trên tường tàu ngựa treo rất cao những bó đủ mọi thứ cỏ khô: cỏ tảo xuân
chữa bỏng, cỏ mắt rắn chống nọc rắn, cỏ hắc diệp dùng khi ngựa gãy chân, một
thứ cỏ trắng mọc dưới gốc những cây liễu trong rừng, rất khó nhận ra, dùng khi
ngựa bỗng trở nên trái tính. Ngoài ra còn rất nhiều thứ cỏ khác không tên không
tuổi để chữa cho ngựa những lúc trái nắng trở trời.
Ở tàu ngựa, nơi cụ
Xaska ngủ trong khoang buộc ngựa, mùa đông cũng như hè, lúc nào cũng phảng phất
một mùi hương ngai ngái, lờm lợm, lơ lửng trong khôngkhí như cái mạng nhện. Cụ
nằm trên chiếc giường ván trải mảnh áo ngựa, lớp rơm đã nén lâu rắn như đá và
cái áo choàng bằng dạ thô của cụ. Ngoài cái áo choàng hôi sú nặc mùi mồ hôi
ngựa nầy và tấm áo da thuộc ngắn, gia tài của cụ Xaska chẳng còn gì khác.
Tikhol, gã Cô- dắc
môi dày, khỏe mạnh nhưng hơi ngớ ngẩn, cùng ở với mụ Lukeria. Tuy chẳng có bằng
chứng gì, nhưng gã cứ ghen bóng ghen gió với cụ Xaska. Chừng mỗi tháng một lần,
gã lại nắm lấy khuy áo chiếc sơ- mi nhớp nhúa của cụ Xaska, kéo cụ ra sau nhà.
- Nầy bố già, bố
đừng nhòm ngó vợ tôi đấy!
- Chuyện ấy thì nói
thế nào bây giờ nhỉ? - Cái nháy mắt của cụ Xaska đầy ý nghĩa.
- Nên thôi đi, bố
già ạ? - Tikhol van vỉ.
- Nhưng anh bạn
thân mến ạ, lão lại thích những ả mặt rỗ đấy. Chẳng cần cho lão một cốc rượu,
cứ đem đến cho lão một ả mặt rỗ là được rồi. Cái bọn khốn nạn ấy, chúng nó càng
rỗ nhằng rỗ nhịt lại càng yêu anh em mình.
- Bố đã sống đến
ngần nầy tuổi rồi thì cũng phải biết xấu hổ chứ? Làm như thế là có tội đấy. Mà
bố còn là thầy thuốc, bố biết chữa bệnh cho ngựa, biết lời thiêng…
- Lão là thầy thuốc
về tất cả các mặt đấy. - Cụ Xaska vẫn khăng khăng.
- Nên thôi đi, bố
già ạ? Không thể làm như thế được đâu.
- Nầy người anh em
ạ, mụ Lukeria nầy nhất định sẽ về tay lão cho mà xem. Cậu hãy chia tay với nó,
với con mụ thổ tả ấy đi. Lão sẽ chiếm lấy mụ? Mụ cũng như một cái bánh trứng có
nho khô ấy mà. Chỉ vì nho khô đã bị nạy đi cả cho nên mụ mới hơi rỗ một chút
như thế thôi. Lão vốn yêu những mụ như thế?
- Thôi cầm lấy nầy…
nhưng chớ có làm vướng chân tôi đấy, tôi thì giết. - Tikhol vừa nói vừa thở dài
móc trong túi thuốc ra vài đồng xu đồng.
Chẳng tháng nào
không có một lần như thế.
Cuộc sống ở
Yagonoie lên mốc lên meo trong một bầu không khí đờ đẫn ngái ngủ. Cái trang
trại hẻo lánh nầy nằm trong một khe núi khô, xa các đường cái, sang thu rồi là
chẳng còn dính líu đi lại gì với trên trấn cũng như với các thôn. Mùa đông,
trên ngọn gò dựa lưng vào khu rừng, nhô ra như một mũi cát trên mặt biển, đêm
đêm thường có những đàn chó sói qua mùa đông trong khu rừng Đen chạy ra gào hú,
làm cho những con ngựa hết cả hồn vía. Những lúc như thế, Tikhol lại vác khẩu
súng hai nòng của lão địa chủ vào rừng bắn đùng đoàng vài phát. Còn mụ Lukeria
thì quấn tấm chăn vải thô quanh cặp mông to bè bè như tám gang đậy lò, nín thở
chờ nghe tiếng súng. Mụ đăm đăm nhìn vào bóng tối, hai con mắt sưng húp trên
cặp má bánh dầy rỗ nhằng rỗ nhịt. Lúc nầy, đối với mụ, gã Tikhol dở hơi và hói
đầu của mụ là một chàng dũng sĩ đẹp trai dũng cảm tuyệt vời. Rồi đến khi cánh
cửa của nhà đầy tớ mở bật ra cho Tikhol vào cùng với một đám hơi nước mù mịt,
mụ lại nhường cho gã một chỗ trên giường, rồi vừa lẩm bẩm những lời âu yếm nựng
nịu, vừa sung sướng ôm lấy gã nhân tình đang rét run như cầy sấy.
Mùa hè, ở Yagonoie
đến khuya vẫn còn lao nhao tiếng những người đến làm công. Lão địa chủ gieo
khoảng bốn mươi đê- xi- a- chin những thứ lúa khác nhau, vì thế phải thuê thợ
gặt. Mùa hè, năm thì mười hoạ, Evgeni lại về trang trại. Hắn lang thang ngoài
vườn và trong khu rừng sát ven ấp, sống những ngày chán ngán, sáng sáng mang
cần câu ra ngồi lì bên bờ ao. Người hắn thấp, nhưng ngực nở nang, tóc để theo
kiểu Cô- dắc với một bờm tóc chải sang bên phải. Bộ quân phục sĩ quan may rất
khéo bó sát người hắn.
Hồi mới cùng
Acxinhia đến trang trại, mấy ngày đầu Grigori cũng thường hay lên chơi với cậu
chủ. Venhiamin bước vào nhà đầy tớ, nghiêng cái đầu có bộ tóc đen như nhung,
mỉm cưởi.
- Lên nhà đi,
Grigori, chỗ công tử ấy, công tử cho gọi cậu đấy.
Grigori bước vào,
đứng lại ở chỗ cái đà ngang cửa. Công tử Evgeni Nicolaevich hơi nhe hàm răng to
nhưng thưa, giơ tay chỉ một cái ghế dựa:
- Anh ngồi xuống
đi.
Grigori ngồi xuống
mép ghế.
- Anh có thích
những con ngựa của nhà ta không?
- Những con ngựa
tốt lắm. Con xám rất tốt.
- Anh hãy lấy nó đi
cưỡi nhiều hơn một chút. Nhưng chú ý đừng phóng nước đại.
- Cụ Xaska đã dặn
tôi rồi.
- Còn con Kreput
thì thế nào?
- Con hạt dẻ ấy à? Nó thì vô giá. Nhưng
móng bắt đầu có vết rồi đấy phải đóng móng lại mới được.
Cậu công tử nheo cặp mắt sắc ngọt hỏi:
- Nhưng đến tháng Năm nầy anh phải đến
trại lính cơ mà?
- Đúng thế đấy ạ.
- Tôi sẽ nói với ông ataman, anh sẽ
không phải đi.
- Xin cảm ơn quan lớn lắm.
Hai người nín lặng một lát. Viên trung
uý cởi cúc cổ áo quân phục, gãi gãi cái ngực trắng hếu như ngực đàn bà.
- Thế nào, anh không sợ thằng chồng của
Acxinhia đến lấy lại nó trong tay anh à?
- Nó bỏ rồi, không lấy lại nữa đâu.
- Ai nói với anh thế?
- Hôm lên trấn mua đinh đóng móng ngựa,
tôi có gặp một bà con trong thôn. Người ấy nói Stepan dạo nầy rượu chè không
còn biết trời đất là gì nữa. Nó bảo: "Tôi không thiết gì đến con Acxinhia
nữa, nó không còn đáng một đồng xu nhỏ. Mặc xác nó, tôi sẽ kiếm được một đứa
khá hơn nhiều".
- Acxinhia là một cô nàng đẹp đấy. -
Viên trung uý vừa nói vừa mơ màng nhìn cao hơn con mắt của Grigori, một nụ cười
dâm đãng nở trên môi hắn.
- Kể ra cũng được, - Grigori đồng ý rồi
cau mày.
Hạn nghỉ phép của Evgeni đã sắp hết.
Hắn đã có thể bỏ băng đeo, dễ dàng giơ tay, nhưng vẫn chưa gập được khuỷu.
Mấy ngày cuối cùng, hắn rất hay xuống
la cà dưới gian Grigori ở trong nhà đầy tớ. Acxinhia đã quét vôi lại căn phòng
mốc meo bẩn thỉu lau rửa các khung cửa sổ, lấy gạch vụn sát kỹ sàn nhà. Căn
phòng nhỏ trống huếch trống hoác nhưng tươi vui tràn ngập không khí ấm cúng của
nơi có mặt người đàn bà. Hơi nóng toả ra từ cái bếp lò chôn dưới đất. Viên
trung uý khoác lên vai chiếc áo măng- tô ngắn may kiểu Romanov bằng dạ xanh da
trời rồi láng cháng xuống nhà đầy tớ. Hắn cứ nhằm những lúc Grigori bận chăm nom
cho ngựa mới mò tới. Đầu tiên hắn tạt vào nhà bếp, pha trò vài câu với mụ
Lukeria rồi quay ra để rẽ vào nửa nhà bên kia. Hắn ngồi xuống chiếc ghế đẩu kê
bên cạnh bếp lò, gù hẳn lưng xuống và nhìn Acxinhia chằm chằm bằng hai con mắt
tươi cười rất vô liêm sỉ. Thấy Evgeni có mặt trong phòng, Acxinhia mất hết bình
tĩnh, đôi kim đan trên chiếc bít tất đan dở rung lên trong tay nàng.
- Acxuska, chị ở đây thấy thế nào? -
Viên trung uý hỏi rồi hà một hơi thuốc, khói xanh um cả căn phòng nhỏ.
- Xin cám ơn quan lớn.
Acxinhia ngước nhìn lên bắt gặp cặp mắt
trong suốt của viên trung uý, thấy trong đó nói lên không cần dùng lời tất cả
dục vọng của hắn. Nàng đỏ bừng mặt. Acxinhia cảm thấy bực bội khó chịu mỗi khi
nhìn thấy hai con mắt nhạt mầu, trần truồng của cậu chủ Evgeni Nicolaevich.
Nàng trả lời không đầu không đũa các câu hỏi vô vị của hắn, và chỉ tìm cách mau
chóng bỏ di chỗ khác.
- Tôi phải đi đây. Còn đổ thóc cho vịt.
- Chị ngồi thêm một lát nào. Còn kịp
chán. - Viên trung uý mỉm cười hai chân hắn run bắn lên trong cái quần cưỡi
ngựa may rất sát.
Hắn lân la hỏi mãi Acxinhia về cuộc đời
của nàng trước kia. Hắn cố ý dùng những âm trầm của cái giọng hệt như giọng của
bố hắn, trong khi đó hai con mắt sáng, trong như nước suối của hắn cứ nói lên
những điều thô bỉ, vô liêm sỉ.
Làm xong công việc, Grigori trở về nhà
đầy tớ. Tên trung uý dập tắt ngay ngọn lửa vừa nãy còn bừng bừng trong mắt hắn,
mời Grigori hút điếu thuốc rồi bỏ ra ngoài.
- Nó ngồi đây làm gì thế? - Grigori
không nhìn Acxinhia, hỏi giọng khàn khàn.
- Em làm thế nào mà biết được? - Nhớ
lại cặp mắt tên trung uý, Acxinhia bật cười, một tiếng cười chẳng tự nhiên chút
nào. - Nó vào trong nầy, ngồi xuống ở chỗ kia kìa, anh Griska ạ, anh hãy xem,
cứ như thế nầy nầy, - Nàng bắt chước kiểu tên trung uý ngồi, lưng còng xuống
rất giống. - Và nó cứ ngồi mãi ngồi mãi, làm em đến buồn nôn. Mà hai đầu gối nó
thì nhọn hoăn hoắt, nhọn ơi là nhọn.
- Và em thì tiếp chuyện nó, phải không?
- Grigori cau mày đầy vẻ bực tức.
- Em thiết gì cái
thớ nó!
- Nầy liệu liệu đấy,
kẻo tôi chỉ búng một cái là cho nó bắn ra ngoài thềm ngay.
Acxinhia mỉm cười
nhìn Grigori và không thể nào hiểu được là chàng nói thật hay nói đùa.
--- ------ ------
------ -------
1 Đây là nông dân không phải dân Cô- dắc (ND).
2 Moskan là cái tên mà dân Ukraina và dân Belorussia thường dùng để gọi
binh lính, nhân viên chính quyền và dân Nga một cách khinh bỉ (ND).
3 Một dung dịch hoá học gồm một phần acide nitric và ba phần một chất
muối làm cho dung dịch hoà tan được vàng (ND).
4 "Micolai" là hình thức xàm xỡ để gọi "Nicolai",
còn "Lechxeit" là cách gọi tắt "Alexeevich" (ND).
5 Riêng đối với hai chữ "quan lớn" của dòng nầy, không kể bên
dưới), nguyên văn là một hình thức kính trọng để xưng hô với một mục sư (ND).
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 48
Đến tuần chay thứ
tư trời bớt rét. Hai bên dòng sông Đông sùi lên, nom như những cái viền tua.
Lớp trên của băng tan một phần trương lên, thủng lỗ chỗ trắng ra. Chiều chiều
từ trong núi vang ra những tiếng ì ầm. Theo lời các cụ truyền lại thì đó là
triệu chứng sắp đại hàn, nhưng thật ra trời sắp trở ấm. Buổi sáng tiết trời rét
nhẹ còn phủ lên mặt đất một lớp băng mỏng, nhưng đến giữa trưa thì đất sạch
băng và không khí nặc mùi tháng ba, mùi vỏ cây anh đào bị giá, mùi rơm cỏ mục.
Miron Grigorievich
đã nhẩn nha sửa soạn việc cày bừa. Ngày đã dài ra, nhưng hôm nào ông cũng loay
hoay dưới mái hiên nhà kho để đẽo những cái răng bừa và cùng Getko làm hai cái
khung xe mới, kiểu xe có bánh. Cụ Grisaka ăn chay để đến tuần thứ thì chịu lễ
ban ơn thánh thể. Cụ ở nhà thờ về, rét quá, người tím lại như quả bồ quân. Cụ
than phiền với con dâu:
- Lão cố đạo làm
tình làm tội tao mãi, cha cố cái loại ăn hại, đúng thế đấy, làm lễ cứ như lái
trứng đánh xe. Đến là tai hại!
- Cha ạ, đáng là
cha nên chờ đến tuần trước lễ Phục sinh hãy ăn chay thì hơn, lúc ấy ấm áp hơn.
- Mày gọi con
Natalia vào đây cho tao. Phải bảo nó đan cho một đôi bit- tất thật dày mới
được. Còn đi thứ bit- tất hở gót nầy thì đến con sói xám cũng chết cóng.
Natalia về sống ở
nhà bố mẹ thật chẳng khác gì "một gã khô- khon lúc gần đất xa trời" 1
Nàng cứ có cảm tưởng như Grigori sẽ quay trở lại với mình. Mặc những lời rỉ tai
tỉnh táo của lý trí, con tim nàng vẫn một mực mong đợi. Đêm đêm lòng dạ nàng bị
thiêu đốt trong nhớ nhung. Chuyện nhục nhã bất ngờ và đầy oan khuất vừa qua đã
dày xéo, chà đạp lên nàng. Nhưng chưa hết tai nầy đã đến nạn khác, và Natalia
kinh hoàng, âm thầm chờ xem kết cục của cái nạn nầy sẽ ra sao. Bao nhiêu đêm
liền nàng trằn trọc trong căn phòng nàng đã ở hồi còn con gái, chẳng khác gì
con chim dẽ mào trúng đạn trong đám cỏ bên bờ đầm. Ngay từ mấy ngày đầu Mitka
đã bắt đầu nhìn Natalia bằng con mắt khác hẳn trước kia, và một lần nó đã giữ
nàng lại ở phòng ngoài, hỏi toạc móng heo:
- Mày buồn khổ vì
thiếu thằng Griska à?
- Việc gì đến anh?
- Tao muốn giúp mày
xua cái buồn ấy đi…
Natalia nhìn vào
mắt nó rồi sợ rủn cả người vì thấy mình đã đoán ra. Cặp mắt xanh lè như mắt mèo
của Mitka long lên, hai kẽ đồng tử lấp loáng đầy vẻ dâm đãng trong bóng tối của
phòng ngoài. Natalia đóng sầm cửa lại, nhảy thoắt vào căn phòng bên, phòng của
cụ Grisaka. Nàng đứng trong đó rất lâu, lắng nghe tiếng tim mình hoảng hốt đập
thình thịch. Ngay hôm sau Mitka lại sán đến bên Natalia ở sân nuôi gia súc. Lúc
ấy nó đang hất cỏ cho gia súc ăn, những sợi cỏ xanh còn vương trên bộ tóc mượt
và cái mũ lông kiểu Tây ban nha của nó. Natalia đang đuổi mấy con chó luẩn quẩn
bên cái máng lợn.
- Mày đừng tự làm
khổ mày nữa, Natasca ạ…
- Tôi gọi cha bây
giờ! - Natalia không dám nhìn nó bèn đưa hai tay lên che mặt và kêu rầm lên.
- Sao thế, mày điên
à?
- Cút đi đồ khốn
kiếp!…
- Làm gì mà mày kêu
toáng lên thế?
- Cút ngay đi, anh
Mitka? Tôi vào mách cha bây giờ đây! Sao anh cứ nhìn tôi bằng hai con mắt như
thế? Hừ, đồ vô liêm sỉ! Thế mà còn đứng được trên mặt đất à?
- Đất nó vẫn đỡ tao
như thường, có lún xuống đâu nào? - Để chứng thực cho lời nó nói, Mitka chống
nạnh hai tay và dận đế ủng xuống đất.
- Nầy anh Mitka,
đừng có sán đến gần tôi!
- Bây giờ thì tao
không đến gần mày đâu, nhưng đến đêm tao sẽ vào. Đúng thế đấy, thể nào tao cũng
vào.
Natalia bước ra
khỏi sân gia súc, người run cầm cập. Đến tối, nàng sắp xếp chỗ nằm trên chiếc
hòm to, rồi gọi con em gái út vào cùng ngủ với mình. Suốt đêm nàng trằn trọc,
mắt bừng bừng cố nhìn xuyên qua bóng tối, chỉ chờ có tiếng động là kêu rầm nhà
ngay.
Nhưng trong bầu
không khí lặng như tờ chỉ nghe thấy tiếng cụ Grisaka ngáy cạnh đấy, bên kia
tường, và tiếng con em bé dạng chân dạng tay nằm bên cạnh lâu lâu lại khịt mũi.
Những ngày bị đầu
độc bởi nỗi đau khổ khôn nguôi của một người đàn bà lần lượt trôi qua.
Mitka còn chưa
khuây khoả sau cái nhục mà nó đã phải chịu trong lần đi hỏi vợ trước kia. Nó
trở nên cau có và hung hãn. Tối tối nó lần đến bãi thanh niên múa hát chơi bời,
phần nhiều trời hửng mới thấy nó dẫn xác về. Nó tằng tịu với những mụ vợ lính
vắng chồng ngứa ngáy nghề hoặc đến nhà Stepan đánh "Otko". Tạm thời
Miron Grigorievich vẫn chưa nói gì, chỉ theo dõi riết.
Trước lễ Phục sinh,
một hôm Natalia bỗng gặp ông Panteley Prokofievich ở gần cửa hiệu Mokhov. Ông
bố chồng gọi nàng trước:
- Hượm lát đã,
Natalia!
Natalia đứng lại.
Nhìn bố chồng thấy cái mũi quặp và khuôn mặt hao hao như Grigori, nàng chợt cảm
thấy nhớ day dứt.
- Sao Natalia không
nhìn ngó tới ông bà già nầy nữa thế? - Ông già luống cuống tránh cặp mắt của Natalia,
cứ như chính mình có lỗi với nàng. - Bà lão ở nhà cũng nhớ Natalia lắm đấy, cứ
bảo không biết con về bên ấy thế nào… Thế nào, dạo nầy con ra sao?
Sau một phút bàng
hoàng mà nàng cũng không hiểu vì sao, Natalia đã trấn tĩnh lại được:
- Xin cám ơn… - Đến
đây thì nàng ngập ngừng (vốn là nàng định gọi ông già là cha nhưng lại thôi)
rồi lúng túng nói nốt - Ông Panteley Prokofievich.
- Sao Natalia không
lại thăm chúng tôi nữa thế?
- Cháu còn bận làm…
công việc trong nhà.
- Cái thằng Griska
nhà chúng tôi, chao ôi? - Ông già lắc đầu cay đắng. - Nó làm chúng tôi cũng đến
khổ, cái thằng mất dạy… Trước kia cả nhà sống êm ấm hoà hợp biết bao…
- Còn biết sao được
nữa, cha ơi… - Giọng Natalia cất cao lên, thất thanh, - có lẽ tại số đấy thôi.
Nhìn thấy cặp mắt
đẫm lệ của Natalia, ông Panteley Prokofievich cuống lên, không biết làm thế nào
nữa. Nàng mím chặt môi, cố nuốt nước mắt.
- Thôi tạm biệt,
con yêu của cha… Con đừng vì nó mà đau khổ nữa, cái thằng chó đẻ ấy nó không
đáng cái móng tay của con đâu. Nhưng có lẽ nó sẽ lại quay về thôi. Cha sẽ tìm
nó, rồi thể nào cũng lôi cổ được nó về.
Natalia bỏ đi, đầu
rụt lại như người bị đòn. Còn ông Panteley Prokofievich thì cứ đứng tại chỗ mà
giậm chân mãi như sắp sửa chạy tế lên. Natalia đi đến đầu phố quay đầu lại thấy
bố chồng đang nặng nề tì hẳn người lên cái nạng, khập khiễng đi trên bãi.
--- ------ ------
------ -------
1 Ý nói kẻ ngụ cư sắp chết nơi đống đất nước người (ND)
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 49
Các cuộc họp ở nhà
Stokman bắt đầu thưa dần. Trời sắp sang xuân. Bà con trong thôn đều sửa soạn
cho công việc đồng áng mùa xuân. Đến họp được chỉ có mấy anh chàng ở nhà máy
xay. "Bồi" và Davydka cùng anh thợ máy Kotliarov. Anh em đã gặp nhau
hôm thứ năm tuần Thánh 1, lúc trời sắp tối. Stokman ngồi ở bàn thợ, anh dùng
một chiếc dũa nhỏ giũa một cái nhẫn bạc làm bằng một đồng nửa rúp Một dé ánh
sáng của vừng mặt trời sắp lặn chiếu qua cửa sổ, in lên sàn một cái khung vuông
đầy bụi, màu hồng hồng vàng vàng. Kotliarov loay hoay với cái kìm bấm.
- Hôm nọ tôi có mặt
ở nhà lão chủ, tôi đã đến đấy để nói về chuyện cái pít- tông. Cần phải đem đi
Minlerovo, vì chỉ ở đấy mới có thể chữa đến nơi đến chốn, chứ chúng mình ở đây
thì làm gì được? Rạn một vết bằng ngần nầy nầy. - Kotliarov giơ ngón tay út ra
hiệu kích thước của vết rạn, không biết để ai xem.
- Hình như ở đấy có
một nhà máy lớn phải không? - Stokman hỏi, nhưng tay anh vẫn giũa, bụi bạc rất
mịn rơi lăn tăn chung quanh ngón tay anh.
- Có một lò
Máctanh. Năm ngoái tôi đã có dịp đến đấy.
- Anh em thợ có
đông không?
- Đông vô kể, đến
bốn trăm ấy.
- Thế đời sống của
họ thế nào? - Stokman vẫn vừa làm việc vừa hỏi. Đầu anh lắc lắc, giọng anh tách
bạch từng tiếng như người cà lăm cố gắng gượng nói như bình thường.
- Họ sống sung túc
lắm. Không phải là cái giai cấp vô sản của anh đâu, mà là… cứt mới đúng.
- Sao lại thế? -
"Bồi" thấy lạ bèn hỏi. Hắn ngồi bên cạnh Stokman, những ngón tay vừa
ngắn vừa thô đan vào nhau trên đầu gối.
Chàng thợ cán
Davydka cứ đi lại lại trong gian xưởng, bột mì bám đầy trên tóc làm đầu hắn nom
như bạc. Đôi ủng mũi nhọn thốc phoi tiện bắn tung ra. Hắn mỉm cười lắng nghe
tiếng loạt soạt vang lên kèm theo mùi dầu mỡ. Davydka có cảm tưởng như mình
đang đi trong một khe núi, lá rụng đỏ tía. Lớp lá lún xuống rất êm, và bên dưới
là chất đất ẩm của khe núi, non trẻ, co dãn.
- Đó là vì tất cả
chúng nó đều sống có của ăn của để. Thằng nào cũng có một ngôi nhà nhỏ riêng,
có vợ và mọi mặt thoả mãn sung sướng khác. Ngoài ra trong số ấy một nửa lại
theo bọn Báp- tít 2. Chính lão chủ nhà máy lại thằng truyền đạo của chúng nó.
Thế là tay nọ rửa tay kia, mà cả hai tay đều đầy cáu ghét, lấy xẻng cạo cũng
không thể nào sạch được.
- Anh Kotliarov
nầy, bọn Báp- tít là thế nào nhỉ? - Davydka nghe thấy một từ ngữ lại bèn đứng
lại hỏi.
- Bon Báp- tít ấy à? Bọn chúng nó tin
Thượng đế theo kiểu riêng của chúng nó. Cũng đại loại như bọn Pô- li- pôn 3 ấy
mà.
- Mỗi thằng xuẩn ngu đều có một cách
riêng để mất trí, - "Bồi" nói thêm.
- Thôi để mình kể nhé. Thế là mình đến
gặp Sergey Platonovich, - Kotliarov nói tiếp câu chuyện đã bắt đầu. Đến nhà lão
thì thấy Atepin "Chacha" ngồi ở đấy rồi. Lão bảo: "Anh hãy chờ ở
phòng ngoài đã". Mình bèn ngồi đợi. Qua cửa phòng có thể nghe thấy câu
chuyện họ nói với nhau. Lão chủ nói với Atepin rằng có lẽ chiến tranh với người
Đức sắp nổ ra đến nơi, và lão còn đọc thêm một đoạn trong sách. Còn
"Chacha" thì cậu có biết hắn ta trả lời ra sao không? Hắn ta bảo:
"Tất nhiên tôi không thể đồng ý với ông về chuyện "chiến chanh"
được".
Kotliarov nhại giọng Atepin giống quá,
làm Davydka há hốc miệng ra cười một tiếng ngắn, nhưng anh chàng chợt nhìn thấy
vẻ mặt nhạo báng của "Bồi", lại thôi ngay. Kotliarov tiếp tục kể lại
câu chuyện anh được nghe:
- Hắn bảo: "Không thể có chiến
"chanh" được với nước Nga được vì nước Đức sống bằng lúa mì của chúng
ta". Đến lúc ấy lại có một thằng nữa nói, nhưng tôi nghe giọng nói, không
nhận được ra là ai, mãi sau mới biết là thằng con lão địa chủ Litnhitki, một
tên sĩ quan. Thằng nầy nói: "Chiến tranh sẽ nổ ra giữa nước Đức và nước
Pháp để tranh dành những vườn nho, còn chúng ta thì chẳng có gì dính dáng đến
chuyện ấy".
- Anh Stokman nầy, anh thấy thế nào hả?
- Kotliarov hỏi Stokman.
Stokman đưa tay ra xa, chú ý ngắm nghía
chiếc nhăn đã giũa xong và trả lời như cho qua chuyện:
- Tôi không biết đoán trước chuyện sau
nầy đâu.
- Chúng nó choảng nhau thì chúng mình
cũng chẳng yên thân. Dù muốn hay không, hễ xảy ra chuyện gì mình sẽ bị nắm tóc
lôi vào cuộc thôi, - "Bồi" suy luận.
- Về chuyện nầy, các bạn ạ, vấn đề là
như thế nầy nầy… - Stokman vừa nói vừa nhẹ nhàng lấy lại cái kìm trong tay
Kotliarov.
Giọng anh nghiêm trang, rõ ràng là anh
định giảng giải cặn kẽ.
"Bồi" co lại cho thoải mái
hai chân trượt bàn thợ xuống. Trên khuôn mặt Davydka, cặp môi chúm lại vẫn chưa
che kín mấy cái răng bàn cuốc đẫm nước bọt. Với những lời lẽ rõ, gọn, chắc như
đinh đóng cột mà anh vẫn quen dùng, Stokman phác ra bức tranh về tình hình các
nước tư bản đấu tranh với nhau để dành thị trường và thuộc địa.
Cuối cùng Kotliarov nóng nảy ngắt lời
Stokman:
- Anh hãy hượm đã nào, nhưng chúng ta
thì có gì dính dáng vào những chuyện ấy?
- Cả cậu lẫn những anh chàng khác cũng
như cậu đều sẽ nhức đầu vì những kẻ khác say rượu đấy, - Stokman mỉm cười.
- Anh còn trẻ con gì nữa mà không biết,
- "Bồi" nói ác, - tục ngữ từ xưa đã có câu: "Trâu bò húc nhau
ruồi muỗi chết"v?
- Hừ- ừm, - Kotliarov nhăn mặt, cố gỡ
cả một khối rất to những ý nghĩ rối như tơ vò.
Cái thằng Litnhitki ấy, nó mò đến nhà
lão Mokhov làm gì thế? Định ngấp nghé con gái lão ta hay sao? - Davydka hỏi.
- Của ấy đã qua tay thằng ăn thừa tự
nhà Korsunov rồi còn gì? - "Bồi" vẫn ác khẩu.
- Anh nghe thấy
không, Kotliarov? Thằng sĩ quan ấy dí mũi vào đấy làm gì thế?
Kotliarov giật mình
đánh thót, cứ như bị người ta lấy roi quật vào đầu gối.
- Cái gì hử? Cậu
bảo sao?
- Ngủ gật đấy à? Ông
già? Đang nói về thằng Litnhitki đấy:
- Nó ra ga mà.
Nhưng còn có chuyện mới lạ nầy nữa: mình ở trong ấy bước ra thì thấy trên thềm
có một anh chàng, các bạn có đoán được ra là ai không? Thằng Griska nhà
Melekhov. Nó cầm một cái roi nhỏ đứng đấy. Mình hỏi: "Cậu đến đây làm gì
thế, Grigori?" Nó trả lời: "Tôi đưa công tử Litnhitki ra ga
Minlerovo".
- Nó đánh xe cho
nhà ấy đấy - Davydka nói xen vào.
- Nó đến ăn cơm
thừa của nhà địa chủ.
- "Bồi"
ạ, cậu đúng là một con chó xích, bất kỳ thấy ai cũng sủa.
Câu chuyện lắng đi
một chút. Kotliarov đứng dậy ra về.
- Anh vội đi nhà
thờ phải không? - "Bồi nói chọc theo.
- Mình thì ngày nào
cũng đi lễ.
Stokman tiễn ba
người khách quen ra về, rồi khoá cửa gian xưởng, đi vào nhà trong.
Đêm lễ Phục sinh,
những đám mây ưỡn những bộ ngực đen sì che kín bầu trời, mưa lộp bộp từng giọt.
Bóng tối đầy hơi ẩm đè nặng lên thôn xóm. Trên sông Đông, ngay từ lúc hoàng
hôn, băng đã nứt với những tiếng rên rỉ kéo dài lan dần ra xa. Tảng băng đầu
tiên bị cái khối khổng lồ những miếng băng vụn ép lại bắt đầu ngoi lên khỏi mặt
nước với những tiếng ràn rạt. Băng nứt liền một đoạn bốn vec- xta, cho tới khúc
đầu tiên sau khi con sông chảy ra khỏi thôn.
Rồi băng bắt đầu
trôi. Theo nhịp chuông nhà thờ dóng dả đều đặn, những cánh đồng băng trên sông
Đông xô vào nhau, tan vỡ, làm rung chuyển cả hai bên bờ. Băng trôi đến quãng
sông Đông ngoặt sang trái thì tắc lại. Tiếng nổ ầm ầm và tiếng nứt ràn rạt của
những tảng băng xô vào nhau vang đến trong thôn. Thanh niên kéo đàn kéo lũ đến
bên trong tường bao nhà thờ, trên cái sân lốm đốm những vũng băng tan nhấp
nhoáng. Từ trong nhà thờ, tiếng đọc kinh sang sảng vang ra tới thềm, rồi từ
thềm ra sân. ánh đèn nến ngày hội lunglinh vui vẻ sau chấn song các cửa sổ.
Trong khi đó, bên trong dãy tường bao bọn con trai sờ nắn cấu chí bọn con gái,
còn bọn con gái chốc chốc lại khe khẽ rít lên. Họ hôn nhau, họ thầm thì kể cho
nhau nghe những chuyện bù khú.
Từ những thôn xa
có, gần có, dân Cô- dắc đến dự buổi lễ thánh vui tươi. Họ đứng chen chúc trong
phòng giữ đồ thánh của nhà thờ. Kiệt sức vì mệt và vì không khí ngột ngạt trong
phòng, người ta lăn ra ngủ trên những chiếc ghế dài, trên các bậu cửa sổ, hoặc
ngay trên sàn nhà.
Có những người ngồi
trên những ngưỡng cửa sổ cũ nát hút thuốc, bàn tán về chuyện thời tiết nắng
mưa, chuyện công việc đồng áng mùa xuân.
- Bao giờ thì bà
con thôn bác bắt đầu ra đồng?
- Có lẽ đến thánh
Tôma thì bắt đầu.
- Nếu thế thì tốt
lắm, vì đồng cỏ bên bác có nhiều cát.
- Mấy năm nay đất
đã được thấm nhiều nước.
- Năm ngoái chúng
tôi cày thấy ròn như sụn ấy, cả một dải thượng đẳng điền thẳng cánh cò bay.
- Đunka, ở chỗ nào
thế? - Có tiếng léo nhéo bên dưới thềm nhà giữ đồ thánh.
Cạnh cửa hàng rào
nhà thờ, có tiếng lầu bầu, khàn khàn và thô bạo:
- Chúng mày không
kiếm được chỗ nào khác mà hôn nhau à? Chà hai đứa nầy… Xéo khỏi chỗ nầy ngay,
quân đốn mạt dơ dáy! Làm gì mà động cỡn lên thế?
- Ông đang thiếu
đôi hay sao? Đến kiếm con chó cái nhà tôi mà hôn vậy, - Trong bóng tối có một
giọng con trai đang vỡ tiếng cãi lại.
- Cho- o- ó cái à?
Nầy ông cho mày biết…
Rồi có tiếng chân
chạy lép nhép, tiếng cười rộ và tiếng váy con gái loạt soạt.
Nước nhỏ trên mái
xuống từng giọt, lanh lảnh như tiếng thuỷ tinh. Rồi lại vẫn cái giọng chậm rề
rề, lệt sệt như bùn đất đen:
- Hôm kia tôi có
đến mặc cả mua cái cày ở nhà Prokho, tôi đã trả mười hai rúp mà lão còn chưa
chịu bán. Với thằng cha ấy thì không bớt được đồng nào đâu.
Những tiếng hàng
rào, lạo sạo, răng rắc vẫn rền đều trên khắp sông Đông. Hình như dưới kia, bên
ngoài thôn, có một người đàn bà trang sức lộng lẫy, rất khỏe, cao như một cây
tiêu huyền, đang vừa đi vừa loạt soạt những cái vạt váy to lạ lùng.
Đến nửa đêm, khi
bóng tối đã đặc sệt như nước mứt hoa quả, bỗng thấy Mitka Korsunov cưỡi một con
ngựa không đóng yên phi đến bên tường bao nhà thờ. Nó xuống ngựa, buộc dây
cương lên bờm ngựa, rồi đưa tay vỗ vỗ con ngựa vừa chạy còn đương hăng. Nó đứng
lại một lát, lắng nghe tiếng vó ngựa dẫm lọp ọp dưới đất, rồi sửa lại dây lưng,
bước vào trong sân. Lên đến thềm nhà thờ, nó bỏ cái mũ lông xuống, cúi cái đầu
cạo dành món tóc như hình một cái ngoặc đơn không đều đặn để làm lễ. Lễ xong,
nó xô đẩy những người đàn bà, len tới trước bàn thờ. Ở bên trái là cánh đàn ông
chen chúc nhau như một đàn cừu đen, còn bên phải là những mầu sặc sỡ của quần
áo phụ nữ. Mitka đưa mắt tìm thấy bố đang đứng trên hàng đầu, bèn len tới gần.
Miron Grigorievich vừa đưa tay lên làm dấu phép thì Mitka nắm lấy khuỷu tay
ông, ghé sát miệng vào cái tai đầy lông lá của ông, khẽ nói:
- Cha ơi, cha ra
ngoài kia một lát.
Cánh mũi phập
phồng, Mitka lách qua cả một hàng rào người dày đặc, nồng nặc đủ mọi thữ mùi:
mùi khói nến lờm lợm, mùi những cơ thể đàn bà đầm đìa mồ hôi, mùi cải mả của
những bộ quần áo cất kín quá lâu (các bộ quần áo nầy chỉ được lôi từ dưới đáy
hòm ra nhân dịp lễ Thiên chúa giáng sinh hay lễ Phục sinh), mùi da giầy ướt mùi
băng phiến, mùi những chất bài tiết từ những cái dạ dày đói meo qua tuần chay.
Ra đến ngoài thềm,
Mitka tì ngực vào vai bố và nói:
- Con Natalia chết
mất!
--- ------ ------
------ -------
1 Tuần trước lễ Phục sinh (ND).
2 Còn gọi là giáo phái Tây lễ, một giáo phái của đạo Thiên chúa, chủ
trương người lớn tin đạo rồi mới chịu lễ rửa tội (ND).
3 Tên gọi nhại những người theo Cựu giáo (Lời chú của bản tiếng Nga).
4 Nguyên văn: "Địa chủ choảng nhau, nông nô bị nắm bờm tóc
lắc".
SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM
Chương 50
Grigori đánh xe đưa
Eghênhi đi Minlerovo rồi về ngay cho kịp ngày chủ nhật lễ Lá 1.
Ở một làng của
người Ukraina tên là Onkhovyi Rok cách nhà ga hai mươi nhăm vec- xta, thiếu chút
nữa thì chàng làm cho hai con ngựa chết đuối trong khi vượt sông. Chàng tới
làng nầy từ lúc còn chưa hoàng hôn. Đêm hôm trước băng vỡ, trôi đi, dòng sông
nhận thêm những luồng nước tuyết tan nâu nâu, dâng lên, sủi bọt, tràn vào các
ngõ.
Quán trọ nơi Grigori
nghỉ cho ngựa ăn trên đường ra nhà ga lại ở bờ bên kia. Qua đêm nữa thì nước
còn có thể dồn tới nhiều hơn, vì thế Grigori quyết định vượt sông ngay.
Chàng cho ngựa chạy
tới chỗ trước đó một ngày một đêm chiếc sẽ đã vượt sông trên băng. Bây giờ thì
con sông tràn lên hai bên bờ, cuốn theo lòng sông mở rộng những đám nước bẩn và
dễ dàng quay tít giữa dòng một đoạn hàng rào cùng với một nửa cái vành bánh xe.
Trên mặt cát đã
sạch hết tuyết, còn hằn những vết đòn trượt mới in, chỉ hơi mờ một chút.
Grigori cho ngựa dừng lại. Hai con ngựa chạy đã đẫm mồ hôi, chỗ háng sủi lên
như bọt xà phòng. Chàng nhảy trên xe xuống xem kỹ các vết đòn xe, thấy có những
vết rạn nứt rất nhỏ.
Ra tới mép nước,
các vết đòn đều hơi chệch sang trái một chút rồi mới chìm sâu xuống. Grigori
đưa mắt ước lượng khoảng cách: chỉ hai mươi xa- gien, không thể nhiều hơn nữa.
Rồi chàng trở về với hai con ngựa để xem lại các đồ thắng. Ngay lúc ấy, từ
trong ngôi nhà gần nhất, một người Ukraina có tuổi đi tới gần Grigori. Người ấy
đội cái mũ lông cáo có ba mảnh che gáy che tai.
- Chỗ nầy qua được
chứ ông? - Grigori vừa hỏi vừa vung dây cương chỉ dòng nước nâu nâu sôi sục.
- Qua được đấy.
Sáng nay vừa có người qua.
- Có sâu không?
- Không. Nhưng có
lẽ nước tràn được vào trong xe đấy.
Grigori lựa lại
những sợi dây cương, cầm ngọn roi sẵn sàng rồi thúc hai con ngựa bằng một tiếng
ra lệnh ngắn gọn "Đi!".
Hai con ngựa thở
phì phì, ngửi ngửi làn nước rồi cất bước một cách miễn cưỡng.
- Đi! - Grigori
đứng nhổm lên trên chỗ ngồi đánh xe, quất roi đánh đét.
Con ngựa lông hạt
dẻ có cặp mông rất to thắng ở bên trái. Nó lắc đầu: thôi cũng liều! Rồi bất
thần kéo mạnh dây thắng, Grigori liếc nhìn xuống chân; nước ngập tới thành xe.
Lúc đầu hai con ngựa chỉ lội đến đầu gối, nhưng sau bỗng nhiên ngụp tới ngực,
Grigori đã muốn quay trở lại, nhưng ngựa đã hẫng chân, bắt đầu bơi trên mặt
nước. Phần sau chiếc xe bị nước đẩy xuôi, hai con ngựa quay đầu lên thượng
nguồn. Nước tràn qua lưng ngựa, chiếc xe tròng trành rồi bị kéo trở lại rất
mạnh.
Ái chà! ái chà! Giữ
cho vững! - Người Ukraina chạy trên bờ kêu rầm lên, và không hiểu sao bác ta cứ
giựt cái mũ lông cáo trên đầu xuống mà vung loạn xạ.
Grigori tức sôi lên
một cách man rợ. Chàng quát luôn miệng, cố thúc hai con ngựa. Nước xoáy tít
phía sau chiếc xe bị chìm xuống một phần, thành những hình phễu nhỏ. Chiếc xe
chợt vấp mạnh vào một cái cọc nhô khỏi mặt nước (đó là dấu vết của một chiếc
cầu bị cuốn trôi) rồi lật sấp luôn, dễ như trở bàn tay. Grigori vừa kịp ái chà
một tiếng đã ngập đầu xuống nước, nhưng tay vẫn nắm chắc dây cương. Cứ như có
người nắm tà áo lông ngắn, kéo chân Grigori lôi chàng một cách nhẹ nhàng nhưng
dai dẳng, vật vã chàng bên cạnh chiếc xe luôn luôn ngả nghiêng. Tay trái của
chàng bỗng nắm được một cái đòn trượt, chàng bèn buông cương, thở hổn hển, bắt
đầu thay đổi hai tay, men dần tới cái đòn ngang phía trước. Những ngón tay
Grigori vừa nắm được cái đầu bọc sắt của cái đòn ngang thì đầu gối của chàng bị
chân sau của con Hạt Dẻ đạp mạnh: con ngựa đang cố giãy để chống lại dòng nước.
Grigori bị sặc nước, nhưng chàng vẫn bơi vài sải và túm được một dây cương.
Nước chảy mạnh làm chàng không lại gần được hai con ngựa và phải hết sức cố
gắng mới duỗi được những ngón tay. Khắp người lạnh buốt như bị những cái gai
lửa châm, Grigori xoài được tới đầu con Hạt Dẻ. Nó nhìn như xuyên vào hai cái
đồng tử nở căng của Grigori bằng hai con mắt đỏ máu, điên cuồng, đầy kinh
hoàng.
Đã mấy lần, những
sợi dây cương quá trơn tuột khỏi tay Grigori. Chàng vừa bơi vừa cố túm lấy,
song những cái dây da vẫn cứ trơn tuột đi. Cuối cùng không hiểu sao chàng vẫn
nắm được và hai chân chàng bỗng nhiên chạm tới đất.
- Đi i- i! -
Grigori hết sức lao mình về phía trước nhưng lại bị ngực của một con ngựa húc
phải, làm cho chàng mất thăng bằng, ngã lăn xuống một chỗ nước nông ngầu bọt.
Hai con ngựa dẫm
qua người Grigori, phóng lên như một cơn lốc, kéo được chiếc xe ra khỏi làn
nước, nhưng chỉ chạy thêm được vài bước, chúng đã mệt nhoài phải đứng lại. Hai
lưng ngựa ướt đẫm bốc hơi ngùn ngụt, run bắn lên.
Grigori không còn
biết đau nữa, chàng đứng chồm ngay dậy. Hơi lạnh bám lên người như thứ bột bánh
nóng không thể nào chịu được.
Grigori còn run hơn
con ngựa, chàng cảm thấy trong khi đứng, lúc nầy mình cũng yếu như đứa trẻ chưa
rời vú mẹ. Bỗng chàng nhớ ra, bèn lật lại chiếc xe cho hai đòn trượt xuống
dưới, rồi đánh ngựa phi nước đại, cho hai con ngựa nóng lên. Chiếc xe lao như
bay vào một dãy phố, cứ như trong một trận tấn công. Vừa thấy có một cái cổng
mở, chàng cho ngựa xông bừa vào ngay mà cũng chẳng ghìm chậm lại. Cũng may gặp
một người chủ nhà tốt bụng. Bác ta sai con trai ra làm các việc cần đối với hai
con ngựa, còn mình thì tự tay giúp Grigori cởi quần áo rồi ra lệnh cho vợ,
giọng không cho phép nói lại:
- Nhóm lò!
Grigori mặc chiếc
quần dài của chủ nhà, nằm nghỉ trên bếp lò, chờ quần áo của mình khô. Chàng ăn
tối với một món xúp không có thịt rồi đi ngủ.
Chàng lên đường lúc
trời còn tranh tối tranh sáng. Trước mặt còn chặng đường một trăm ba mươi nhăm
vec- xta, vì thế một phút cũng quý. Mùa xuân đường xá trên đồng cỏ luôn luôn có
thể hỏng không đi được Những dòng nước tuyết tan chảy ầm ầm trong tất cả các
khe các vực.
Hai con ngựa chạy
như bay trên con đường đen xì đã tan hết băng tuyết. Trong sương giá ban mai,
Grigori về tới một khu của người Tavria ở cách đường cái bốn vec- xta, rồi cho
xe dừng lại ở chỗ ngã ba. Hai con ngựa đẫm mồ hôi bốc hơi ngùn ngụt. Vết đòn xe
nhấp nhoáng phía sau trên mặt đất. Grigori bỏ chiếc xe trượt tuyết lại trong
khu người Tavria, rồi buộc cao đuôi hai con ngựa, cưỡi một con, còn con kia thì
nắm lấy dây cương dắt theo. Chàng về tới Yagonoie sáng hôm chủ nhật lễ Lá.
Lão địa chủ nghe
Grigori thuật lại cặn kẽ về chặng đường rồi ra thăm ngựa. Cụ Xaska đang dắt hai
con ngựa đi trong sân. Cụ nhìn những cái sườn ngựa hõm sâu xuống bằng con mắt
căm giận.
- Ngựa thế nào? -
Lão địa chủ bước tới hỏi.
- Cứ nhìn cũng đủ
biết - Cụ Xaska lầu bầu nhưng không đứng lại, chòm râu tròn trắng trắng xanh
xanh của cụ run lên.
- Có chạy hỏng mất
ngựa không!
- Chưa, chỉ có ngực
con Hạt Dẻ bị vòng cổ sát đau thôi. Không có gì đáng kể.
- Mày đi nghỉ đi. -
Lão địa chủ hất tay bảo Grigori lúc nầy vẫn đứng chờ bên cạnh.
Grigori trở về
phòng đầy tớ, nhưng chàng cũng chỉ được nghỉ có một đêm. Sáng hôm sau Venhiamin
đã tới với chiếc áo sơ- mi xa- tanh mới màu xanh da trời và nụ cười trên bộ mặt
phính phính như thường lệ.
- Grigori lên cụ
chủ gọi. Lên ngay nhé!
Viên tướng đang lệt
sệt đôi giày đế mỏng bằng dạ đi đi lại lại trong phòng khách. Grigori đứng lại
ngoài cửa, dặng hắng lần đầu, và giậm hết chân nọ đến chân kia. Chàng dặng hắng
lần thứ hai thì lão địa chủ ngẩng đầu lên.
- Mày có việc gì
thế?
- Thưa có Venhiamin gọi.
- À phải. Mày ra thắng con
ngựa non và con Kreput. Bảo con Lukeria đừng cho nó ăn. Đi săn.
Grigori vừa quay ra
thì lão địa chủ gọi giật lại.
- Nghe rõ chưa? Mày
sẽ đi với tao.
Acxinhia nhét vào
túi áo lông ngắn của Grigori một miếng bánh xốp nhạt, khẽ nói:
- Cái lão khốn
khiếp không để cho người ta ăn nữa? Sao ma quỷ không bắt lão đi - Anh Griska ạ,
quấn cái khăn vào nhé.
Grigori dắt hai con
ngựa yên cương sẵn sàng ra hàng rào rồi huýt sáo gọi chó. Lão địa chủ bước ra
sân. Lão mặc một cái áo ca- pôt dạ xanh, thắt một chiếc dây lưng rua thủng,
trên vai lủng lẳng một bình nước bằng kền lót gỗ bấc, chiếc roi gân bò xoắn
thõng dưới tay lủng lẳng phía sau như con rắn.
Grigori nắm dây
cương, chú ý nhìn lão già. Chàng không khỏi ngạc nhiên khi thấy lão đưa hết sức
nhẹ cái thân hình già sóc những xương cùng xẩu lên yên.
- Theo sát tao,
không được đứt quãng, - Viên tướng ra lệnh gọn lỏn, bàn tay đeo găng nhẹ nhàng
lựa lại dây cương.
Grigori cưỡi con ngựa non bốn tuổi. Nó
thích đi ngang, vừa đi vừa nghịch, đầu ngửng cao như con gà trống. Hai chân sau
chưa đóng móng, vì thế hễ dăm lên một đám băng mỏng ròn là nó bị trượt bốn vó
khuỵu xuống. Trên cái lưng rộng bè bè của con Kreput, lão địa chủ ngồi đung
đưa, lưng hơi gù một chút, nhưng dáng ngồi rất vững.
- Chúng ta đi đâu bây giờ? - Grigori
cho con ngựa lên ngang với lão rồi hỏi.
- Đến khe Liễu Đỏ! - Lão địa chủ trả
lời rất trầm.
Hai con ngựa chạy rất ăn nhịp. Con ngựa
non đòi thả lỏng dây cương. Nó uốn cong cái cổ ngắn, như một con thiên nga,
nhìn bằng con mắt lồi lồi và tìm cách cắn vào đầu gối người cưỡi nó. Hai người
lên tới một ngọn đồi thoai thoải thì lão địa chủ cho con Kreput phi nước đại. Đàn
chó chạy theo Grigori, dàn thành một hàng ngang hẹp. Con chó cái già lông đen
chạy bám sát, chạm cả cái mõm khum khum của nó vào cuối đuôi con ngựa. Con ngựa
non nổi nóng, khuỵu chân xuống, định đạp cho con chó quấy rầy nầy một cái,
nhưng con chó đã kịp chạy chậm lại. Grigori ngoái cổ xem có chuyện gì xảy ra
thì thấy nó âu sầu đưa cặp mắt bà già nhìn vào mắt chàng.
Ngựa chạy nửa giờ thì đến khe Liễu Đỏ.
Lão địa chủ cho ngựa chạy trên bờ cái khe lờm sờm những bụi ngải cứu già nâu
nâu.
Grigori lần xuống thấp, để ý nhìn cẩn
thận khoảng đáy khe bị nước chảy sói, nứt nẻ lung tung. Chốc chốc chàng lại đưa
mắt nhìn lão địa chủ. Qua tấm màn xám như màu thép của đám liễu đỏ thưa thớt,
trơ trụi có thể thấy thân hình lão già hiện lên rành rành như vẽ. Lão kiễng chân
trên bàn đạp, ngả hẳn người xuống mũi yên, lưng áo ca- pôt nhăn nhúm dưới chiếc
thắt lưng Cô- dắc. Đàn chó chạy túm tụm trên sườn đồi. Sau khi vượt qua một cái
khe rất dốc, Grigori ngả hẳn người sang một bên yên, tháo găng tay, vò loạt
soạt tờ giấy trong túi, bụng bảo dạ: "Hút điếu thuốc đã. Bây giờ thì thả
lỏng dây cương lấy túi thuốc".
- Thúc chó đuổi! - Tiếng quát trên bờ
khe nổ ra như phát súng.
Grigori ngửng đầu; lão địa chủ cho ngựa
nhảy lên đoạn bờ khe gỗ nhọn rồi giơ cao ngọn roi quất cho con Kreput phi như
gió.
- Thúc chó đuổi!
Một con sói màu nâu bẩn đang vượt qua
khoảng đáy rãnh bùn lầy đầy lau sậy. Nó chưa thay lông xong, sau bẹn còn lồm
xồm đám lông cũ. Con sói áp sát mình xuống đất chạy rất nhanh, vừa chạy vừa
trượt. Sau khi nhảy qua cái rãnh nước, nó đứng lại rồi quay phắt sang bên, nhìn
thấy đàn chó. Những con chó chạy sát nhau thành hình móng ngựa, cắt đường rút
lui của con sói vào khu rừng bắt đầu từ cuối cái khe.
Con sói rập rình như chiếc lò xo, nhảy
lên một mô đất nhỏ, có lẽ là ổ chuột đồng cũ, rồi lao vụt về phía cánh rừng.
Con chó cái già nhảy những bước ngắn gần như từ trước mặt con sói. Con chó đực
lông trắng rất cao tên là Latchev cũng kịp chạy tới từ phía sau. Con nầy vốn là
một trong những con chó săn đuổi tốt nhất và hung dữ nhất. Con sói trù trừ một
lát như còn chưa quyết định sẽ làm thế nào.
Grigori kéo vòng dây cương, cho con
ngựa nhảy từ dưới khe lên. Chàng mất hút con sói trong một phút, nhưng khi lên
tới đỉnh một ngọn gò thì thấy nó thấp thoáng mãi tít đằng xa. Những con chó đen
chạy chập chờn qua những đám cỏ dại trên dải đất đen kịt, màu lông lẫn với màu
đất. Chếch xa một chút, lão địa chủ đánh con Kreput bằng cán roi, bắt nó chạy
vòng một cái khe dốc đứng. Con sói cố lao tới cái khe bên cạnh. Đàn chó bám
sát, bao vây phía sau nó. Grigori nhìn từ đây cứ có cảm tưởng như con chó trắng
Latchev bị treo vào những đám lông lồm xồm ở háng con sói và nom nó chẳng khác
gì một mảnh giẻ trắng.
- Đuổi! - Tiếng quát bay đến tai
Grigori.
Grigori cho con ngựa non chạy hết sức.
Chàng cố nhìn xem tình hình phía trước như thế nào nhưng chỉ hoài công vì nước
mắt chảy ra giàn giụa không cho chàng thấy gì nữa, còn hai tai thì điếc đặc do
tiếng gió rít vù vù. Không khí cuộc săn đã xâm chiếm Grigori. Chàng rạp người
xuống cổ ngựa, hoàn toàn bị cuốn theo chặng phi ngựa như điên. Phi đến cái khe
thì sói chẳng có mà chó cũng không.
Một phút sau lão địa chủ đuổi kịp
Grigori. Lão thúc con Kreput chạy bạt mạng quát to:
- Nó chạy đường
nào?
- Có lẽ xuống khe.
- Mày phi đón đường
bên trái! Đuổi!
Con ngựa chồm lên
đứng thẳng trên hai chân sau, lão địa chủ thúc gót ủng vào hông nó, bắt rẽ bên
phải. Grigori kéo dây cương cho con ngựa xuống khe. Chàng thét lên một tiếng,
phi vụt sang bên kia. Tay quất miệng la, chàng thúc con ngựa non mồ hôi đầm đìa
chạy một chặng độ một vec- xta rưỡi. Chất đất nhầy nhụa chưa khô bám vào vó
ngựa, tóe lên đầy mặt Grigori. Cái khe dài ngoằn ngoèo ôm lấy ngọn đồi, ngoặt
sang phải rồi toả ra thành ba nhánh. Grigori nhìn thấy đằng xa đàn chó dàn
thành một hàng ngang đen sì đuổi theo con sói trên đồng cỏ, bèn vượt qua nhánh
khe nằm ngang trước mặt, phi lên một sườn dốc thoai thoải. Có lẽ con thú đã bị
đuổi ra khỏi lòng khe, nơi sồi và liễu đỏ mọc rất dầy. Ở chỗ cái khe không còn
dốc lắm và bị phân làm ba nhánh đen đen xanh xanh, con sói đã nhảy ra một
khoảng đất trống, chạy tắt được chừng trăm xa- gien, rồi loáng cái đã theo chân
núi lần vào một khoảng đất khô đầy những bụi cỏ dại lờm xờm mọc không biết từ
bao giờ và những bụi cây có gai khô quắt.
Grigori rướn người
trên bàn đạp theo dõi con sói, thỉnh thoảng lại phải đưa tay áo lên lau những
giọt nước mắt làm mờ hai con mắt bị gió quất như những ngọn roi. Chàng liếc
nhanh sang trái, nhận ra mảnh đất nhà mình. Mùa thu qua chàng đã cùng Natalia
đi cày mảnh đất bốn góc xiên xẹo nhưng màu mỡ nầy. Grigori cố ý cho con ngựa
non chạy qua khoảng đất cày. Nhưng chỉ vài phút ngắn ngủi khi con ngựa lắc lư,
khập khiễng đi trên những tảng đất đã làm nguội trong lòng Grigori cái say sưa
săn bắn đang xâm chiếm tâm hồn chàng. Đến khi Grigori thúc con ngựa thở phì
phì, chàng đã cảm thấy hoàn toàn thờ ơ. Chàng để ý xem lão địa chủ có nhìn mình
không rồi chuyển sang nước kiệu nhỏ.
Xa xa, bên khe Đỏ
thấy có cái lều thợ cày bỏ trống. Gần đấy, ba đôi bò mộng đang lê bước kéo một
cái cày trên khoảng đất cày dở ánh lên như nhung.
"Bà con thôn
mình đấy. Nhưng đất nhà ai thế nhỉ? À phải, có lẽ của Anikey". Grigori nheo
mắt nhìn lướt qua nhiều lần, cố nhận ra mấy con bò cùng người đi sau cái cày.
- Bắt lấy nó!
Grigori nhìn thấy hai anh chàng Cô- dắc
vứt cày đấy, chạy ra chặn đường con sói lúc nầy đang định phá vòng vây chuồn
xuống khe.
Một gã cao lớn vung một cái chốt sắt
tháo trong ách bò. Gã đội chiếc mũ cát két viền đỏ, đai mũ thõng xuống dưới
cằm. Giữa lúc ấy con sói bất thình lình ngồi sụp xuống, phần sau thân nó lọt
vào một luống cày sâu. Con chó trắng Latchev lao quá đà qua đầu nó, vội thu hai
chân trước và ngã lăn ra. Con chó cái già chịn mông xuống mặt đất cày lồi lõm,
cố hãm đà, nhưng không đứng lại kịp nên đâm sầm vào con sói. Con sói hất mạnh
đầu. Con chó bị tung ra xa, nằm sóng soài trên mặt đất. Đàn chó nhảy xổ vào con
sói thành một đám đen sì rất to, nghiêng bên nọ, ngả bên kia, lôi nhau trên đất
cày vài xa- gien rồi lăn như một quả bóng. Grigori phi ngựa tới nơi trước lão
địa chủ chừng nửa phút. Chàng nhảy trên yên xuống, quỳ gối, quặt bàn tay cầm
con dao săn ra sau lưng.
- Nó đây rồi! Ở bên dưới ấy! Cho nó một
nhát vào họng!
Gã Cô- dắc cầm chốt sắt chạy tới hổn
hển kêu lên, giọng nghe quen quen. Gã thở như kéo bễ, nằm phục xuống bên cạnh
Grigori. Thấy có con chó đực còn cắn vào bụng con sói, gã bèn nắm lấy đám da
trên cổ nó lôi ra rồi khoá chặt hai chân sau bằng một tay. Qua đám lông cứng
tua tủa trượt đi trượt lại trong tay, Grigori lần được cái cuống họng bèn đưa
dao cứa phắt.
- Chó! Chó! Xua hết đi! - Lão địa chủ
kêu lên giọng khàn đặc. - Lão ngã trên yên xuống mặt đất cày xốp, mặt xạm đi.
Grigori phải vất vả lắm mới xua được
đàn chó. Chàng quay lại nhìn lão địa chủ.
Stepan đứng cách đấy xa một chút với
chiếc mũ cát- két có đai véc- ni thõng xuống dưới cằm. Anh ta xoay đi xoay lại
trong tay cái chốt sắt, hàm dưới xám ngoét và hai hàng lông mày run run.
- Anh chàng nầy người ở đâu thế? - Lão
địa chủ hỏi Stepan. - Thôn nào hử?
- Thôn Tatarsky, - Stepan trùng trình
một lát mới trả lời rồi tiến một nước về phía Grigori.
- Họ gì?
- Astakhov.
- Thế anh chàng thân mến, bao giờ thì
anh về nhà?
- Tối hôm nay.
- Anh mang giúp chúng tôi con sói nầy
về nhé. - Lão địa chủ đưa chân chỉ con sói. Tròng lúc ngoắc ngoải, răng nó
thỉnh thoảng còn đập vào nhau lạch cạch, một chân sau duỗi ra, giơ thẳng lên
cao, chỗ khuỷu chân 2 có lông nâu nâu tuột ra sắp rụng. - Đáng bao nhiêu tôi sẽ
trả, - lão hứa như thế rồi đưa khăn quàng lên lau những giọt mồ hôi tầm tã trên
khuôn mặt đỏ lừ. Lau mặt xong, lão bỏ ra chỗ khác, vừa đi vừa nghiêng nghiêng
người tháo cái dây đeo bình nước khoác bên sườn.
Grigori bước tới bên con ngựa non.
Chàng vừa đặt chân lên bàn đạp vừa ngoái đầu nhìn. Stepan áp hai bàn tay vừa to
vừa nặng lên ngực, đi tới gần Grigori, cổ lắc lắc. Người anh ta run bắn lên,
không làm thế nào ghìm được.
--- ------ ------ ------ -------
1 Nguyên văn: "Chủ nhật Lá Liễu" Đúng theo truyền thuyết Nhà thờ
thì đáng là phải cắm lá kè, nhưng người Nga lại không có lá kè, phải cắm lá
liễu thay, vì thế gọi là "Chủ nhật Lá Liễu"(ND).
2 Nguyên văn: "chỗ mắt cá" (ND).
Xem tiếp:
Xem tiếp:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét