XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Chủ Nhật, 21 tháng 9, 2025

HUYỆN BÁ THƯỚC



NƠI ĐẺ ĐẤT ĐẺ NƯỚC

Bỏ sau lưng Hà thành

Ta trốn về  Bá  Thước

Rừng xanh níu bước chân

Reo trắng đầu thác nước

Sóng lúa xanh bậc thang

Buồm bay hay mây trắng?

Dưới thung bóng ai đi

Lấp lóa như đốm nắng…

(Trích bài thơ: Về thăm Bá Thước)

     Tháng 8/2022, tôi có chuyến đi cùng bạn bè từ Hà Nội về lại Bá Thước. Trước cảnh vật tinh khôi và thanh bình của núi rừng nơi đây, tôi đã viết bài thơ mở đầu bằng mấy câu trên. Và, lúc ấy cũng không nghĩ lại có lúc viết về vùng đất Bá Thước như hôm nay. Âu cũng là cái duyên với Bá Thước mà những năm còn ở tỉnh tôi đã "khiếp đảm” về lòng mến khách “bằng rượu” ở huyện này.

        Bá Thước là huyện miền núi, nằm giữa vùng núi cao và núi thấp của Thanh Hóa. Mặc dù là vùng đất có lịch sử lâu đời, nhưng Bá Thước lại là đơn vị hành chính cấp huyện khá trẻ. So với các huyện láng giềng, Bá Thước là huyện sinh sau đẻ muộn. Năm Khải Định thứ 10 (1925) châu Tân Hóa được thành lập trên cơ sở cắt 4 tổng Cổ Lũng, Thiết Ống, Sa Lung và Điền Lư của hai châu Lang Chánh và Quan Hóa. Sau cách mạng tháng Tám 1945, châu Tân Hóa được đổi tên là huyện Bá Thước. Định danh tên Bá Thước là cách chính thể mới vinh danh thủ lĩnh người Thái nổi tiếng của núi rừng xứ Thanh trong phong trào Cần Vương chống Pháp ở Thanh Hóa - danh nhân Cầm Bá Thước.

     Theo “Đồng Khánh dư địa chí” và “Đại Nam nhất thống chí”, vùng đất Bá Thước đầu thời Nguyễn thuộc huyện Cẩm Thủy,  phủ Quảng Hóa.  Huyện Cẩm Thủy có 9 tổng, 79 xã, thôn, trong đó có 4 tổng Điền Lư có 7 xã, Sa Lung có 5 xã, Cổ Lũng có 9 xã, Thiết Ống có 6 xã. 4 tổng này chính là phần đất của huyện Bá Thước sau này. 

   Theo “Địa Chí Thanh Hóa” tập I, Địa lý và Lịch sử: “Xa xưa, nơi đây là vùng rừng núi đại ngàn, chỉ có đồng bào dân tộc Mường sinh sống: Mường Ống, Mường Ai được coi là Mướng gốc. Thời Lý trở về trước là phần đất nằm trong huyện Đô Lung rồi Vô Biên (thuộc Hán); Cát Lung (thuộc Tề). Thời Trần, Hồ Là phần đất thuộc huyện Lỗi Giang. Thời thuộc Minh là phần đất thuộc huyện Lạc Thủy. Thời Lê Nguyễn, là phần đất thuộc huyện Cẩm Thủy (Lê Sơ có lúc đổi là huyện Ba Long, lại đổi là Đa Cẩm; Lê Quang Thuận mới đổi là Cẩm Thủy) thuộc phủ Thiệu Thiên. Đến Thành Thái cắt 4 tổng: Cổ Lũng, Thiết Ống, Sa Lung, Điền Lư thuộc huyện Cẩm Thủy để ghép vào châu Lang Chánh và châu Quan Hóa”.* 

    Như vậy, sách Địa chí Thanh Hóa chỉ nêu ngắn gọn thời Thành Thái cắt 4 tổng ghép vào châu Lang Chánh và châu Quan hóa, không nói năm nào và tổng nào về Quan Hóa, tổng nào về Lang Chánh. 

     Sách “Đất nước Việt Nam qua các đời” của tác giả Đào Duy Anh cho biết: “Năm Thành Thái thứ 14 (1902) trích tổng Cổ Lũng lệ vào châu Quan Hóa,  tổng Thiết Ống lệ vào châu Lang Chánh, năm thứ 17 trích hai tổng Sa Lung và Điền Lư lệ vào châu Quan Hóa”.** 

   Như trên đã nêu, đến năm Khải Định thứ 10 (1925) nhà Nguyễn lại cắt 4 tổng trên của hai châu Quan Hóa và Lang Chánh để thành lập ra châu mới là Tân Hóa. Châu Tân Hóa có 4 tổng, 30 xã, 221 chòm bản. 

    Đến năm 1943 lại tách châu Tân Hóa làm hai, tổng Điền Lư và Sa Lung nhập vào huyện Cẩm Thủy, Cố Lũng và Thiết Ống nhập vào châu Quan Hóa. Mặc dù các tổng thuộc hành chính châu huyện như vậy nhưng cơ bản quản lý, điều hành ở vùng đất này vẫn do các tổ ty, lang, đạo cai quản. Các thổ ty, thổ mục người Thái; lang, tạo (đạo) người Mường cai quản các mường vừa theo luật tục vừa là các chức dịch của bộ máy chính quyền, theo chế độ cha truyền con nối. Các dòng họ lớn cai quản các mường ở đây là họ Hà, họ Trương, họ Phạm. 

    Bá Thước là quê hương của ba dân tộc Thái, Mường Kinh cùng chung sống, trong đó người Thái và người Mường là hai dân tộc lâu đời và chiếm số lượng đông nhất. Người Kinh từ vùng xuôi nhập cư lên Bá Thước chủ yếu từ những năm thực hiện chính sách khai hoang, phát triển kinh tế miền núi đầu những năm 1960. 

     Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, với việc thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa,  tháng 11/1945 Ủy ban Cách mạng lâm thời tỉnh Thanh Hóa đã quyết định đổi tên châu Tân Hóa thành châu Bá Thước. Địa danh Bá Thước xuất hiện từ đây với vị trí là đơn vị hành chính cấp huyện. Tháng 4 năm 1946 châu Bá Thước được đổi thành huyện Bá Thước với 7 xã: Quốc Thành, Ban Công, Long Vân, Hồ Điền, Quý Lương, Thiết Ống và Văn Nho. 

          Huyện Bá Thước nằm ở phía bắc của Thanh Hóa, theo đường chim bay cách trung tâm tỉnh lỵ hơn 80km. Phía bắc giáp các huyện Mai Châu, Tân Lạc và Lạc Sơn của tỉnh Hòa Bình, ba phía còn lại giáp các huyện của tỉnh Thanh Hóa. Bá Thước có 2 đường quốc lộ 15A và 217 chạy qua, lại có dòng sông Mã vắt ngang huyện nên thuận tiện trong giao thông, giao lưu với các vùng miền khác trong tỉnh, trong nước và nước bạn Lào. Với diện tích 775,22km2, chiếm 6,96% diện tích của tỉnh, Bá Thước đứng thứ 5 trong các huyện rộng nhất của tỉnh. 

     Theo các nhà chuyên môn về tài nguyên môi trường, Bá Thước có địa hình đồi núi chia cắt rất phức tạp, với đặc điểm chung là núi thấp, đồi cao, độ dốc lớn, khe suối nhiều, hang động lắm. Sông Mã chảy xuyên qua huyện Bá Thước, chia đôi huyện thành hai phần bắc và nam sông. Các dãy núi ở Bá Thước đều nghiêng, dốc và chạy theo hướng tây bắc -  đông nam. 

     Phía bắc sông Mã là dãy núi đá vôi liền mạch và núi đất đồ sộ chạy từ Phong Thổ, Lai Châu kéo về Bá Thước rồi trùng điệp dọc theo ranh giới Thanh Hóa với  Hòa Bình, Ninh Bình và kết thúc ở Nga Sơn. Nơi đây đã phát hiện ra nhiều hang động như: hang Chà Vài, Mái đá Điều, Hang Lặn. Ngọn núi cao nhất ở dãy Pù Luông là đỉnh Pha Phứng cao 1.598m.  Dãy núi Pù Luông lớn nhất vùng tây bắc Thanh Hóa, nơi có khu du lịch nổi tiếng Pù Luông (nghĩa là núi lớn) nằm ở khu vực này. Dân gian ở đây có câu: “Pù Mới bằng cái muông (giỏ đựng cá)/ Pù Luông bằng con bò/ Pha Dua bằng cái sọt” để so sánh mức độ lớn nhỏ giữa các ngọn núi.

      Phía nam sông Mã là các dãy núi đồi thấp, sườn thoải, có các thung lũng khá rộng và bằng phẳng bao quanh. Nơi đây là dãy núi Pù Đền, nơi có đồi Lai Li Lai Láng, vùng đất huyền thoại, nơi in đậm dấu ấn lịch sử văn hóa đặc sắc, có “cây Chu Đá, lá Chu Đồng, bông thau quả thiếc” trong bộ Mo Mường, sử thi “Đẻ đất đẻ nước” nổi tiếng. 

     Trong sinh cảnh núi đồi của Bá Thước, khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông là nơi có hệ động thực vật phong phú và đa dạng, có giá trị cao về bảo tồn cũng như về khoa học, du lịch và kinh tế. Vùng Son – Bá – Mười tại Lũng Cao nằm trong vùng lõi của khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông, ở độ cao 1180,  có khí hậu mát mẻ được coi là Đà Lạt của xứ Thanh. 

     Trong hệ thống sông suối hồ ở Bá Thước, sông Mã là con sông lớn nhất, hầu hết khe suối của huyện đều đổ về sông Mã. Các sông suối Bá Thước đều ngắn, dốc, nước chảy xiết, lắm ghềnh thác. Đó là suối Kế, suối Cha, suối Nga, suối La, suối Khô, suối Nủa…Trong hệ thống suối và thác nước Bá Thước, không thể không kể đến thác Hiêu, thác Muốn là những thác có giá trị về cảnh quan và du lịch sinh thái trải nghiệm khám phá. 

      Bá Thước là vùng đất đã có nhiều phát hiện lớn với hàng loạt  các di tích khảo cổ  học, một minh chứng cho người tiền sử cư trú rất sớm ở đây. Điều kiện tự nhiên thuận lợi, khí hậu mưa nhiều, cây cối xanh tươi, hệ thống núi đá vôi với nhiều hang động, sông Mã chảy qua cùng với hệ thống sông  suối lớn nhỏ đã tạo cho Bá Thước môi trường thuận lợi để người nguyên thủy chọn làm nơi cư trú. Đó là các di chỉ hang làng Tráng xã Lâm Xa, các di chỉ Mái đá Nước, hang Ma Xá, hang Anh Rồ, hang Chuông, Mái đá Điều thuộc xã Hạ Trung, hang Cuôn xã Tân Lập, hang Điền Hạ 1,2,3 ở xã Điền Hạ, hang Dơi xã Ban Công…Trong các di chỉ trên, di chỉ Mái đá Điều được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Đây là di tích cung cấp những thông tin về bước chuyển tiếp từ hậu kỳ đá cũ sang sơ kỳ đá mới, một bước chuyển quan trọng từ Văn hóa Sơn Vi lên Văn hóa Hòa Bình.

   Trong thời kỳ nhà nước Văn Lang, trên đất Bá Thước đã phát hiện nhiều di vật thuộc văn hóa Đông Sơn như rìu lưỡi xéo, thạp đồng, giáo đồng và trống đồng làng Cốc ở xã Thiết Ống. 

   Trong cuộc kháng chiến 10 năm chống giặc Minh của Lê Lợi, Bá Thước là vùng đất gần với Lam Sơn và Chí Linh,  cái nôi và địa bàn chiến lược cuộc khởi nghĩa, nên nhân dân Bá Thước có nhiều đóng góp quan trọng. Các địa danh vùng đất Lỗi Giang xưa (sông Mã), Bá Thước nay gắn liền với cuộc khởi nghĩa vẫn còn được truyền tụng trong dân gian như Chiềng Lẫm, Pù Tên, đền thờ Đon Ban, các trận đánh ác liệt tại Chiềng Lẫm, Bồ Mộng, Bồ Thị Lang, Điền Lư, đèo Ống. 

   Trong phong trào Cần Vương chống Pháp, Bá Thước là một trong những địa phương hưởng ứng chiếu Cần Vương và hình thành căn cứ chống Pháp sớm nhất của Thanh Hóa. Tiêu biểu cho những người con Bá Thước chống Pháp là Hà Văn Mao, người mường Khô, tổng Điền Lư. Bài vè “Nghe tiếng Cai Mao” ca ngợi Hà Văn Mao lưu truyền đến ngày nay cho ta biết về uy tín của ông và quy mô cuộc kháng chiến: 

    "Trông ra dãy phố hai hàng

   Đồn đây có tiếng một chàng Cai Mao

   Người này thật đấng anh hào

   Quân dư năm vạn, người cao bằng vời

   Bình yên thì cũng xuống chơi

   Đến ngày loạn lạc trấn nơi cửa rừng…

   Nghe tiếng tù trưởng cai Mao

   Mặc áo xống vào, vác súng lên vai

   Không súng thì tuốt dao mài

   Hay vác gậy dài, cầm nỏ, cầm gươm”

     Từ căn cứ Điền Lư, Hà Văn Mao đã tấn công quân Pháp tại đồn Bái Thượng (Thọ Xuân), La Hán, làng Si… “Người mường Khoòng đánh ra/ Người Ca Da đánh xuống/ Người mường Khô lên La Hán đánh đồn/ Mường Ai lập lũy hào luôn”. Trước uy tín của Hà Văn Mao và thế mạnh của nghĩa quân, Tôn Thất Thuyết thừa ủy nhiệm của vua Hàm Nghi đã trao chức vụ Tán lý quân vụ cho Hà Văn Mao để ông lãnh đạo phong trào chống Pháp ở miền núi Thanh Hóa. Hà Văn Mao không chỉ mở rộng địa bàn hoạt động ở miền núi mà còn xây dựng căn cứ Mã Cao (Yên Định), phối hợp với nghĩa quân Cầm Bá Thước ở miền tây Thanh Hóa, tràn xuống đồng bằng phối hợp với Tống Duy Tân khi nghĩa quân Ba Đình thất thủ lui về Mã Cao. Năm 1887, với khí tiết kiên trung lẫm liệt, khi bị bao vây để không rơi vào tay giặc Pháp Hà Văn Mao đã tự sát. Cùng với Hà Văn Mao, thủ lĩnh Hà Văn Nho người tổng Thiết Ống cùng với Tống Duy Tân tiếp tục kháng chiến chống Pháp tại châu Quan Hóa, đến năm 1892 khi Tống Duy Tân và Hà Văn Nho bị bắt, phong trào mới chấm dứt.

      Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, với vị trí giáp tỉnh Hòa Bình, là cửa ngõ vùng tự do Thanh- Nghệ -Tĩnh, Bá Thước là hành lang quan trọng để chi viện từ vùng tự do cho chiến khu Việt Bắc và nước bạn Lào. Để khống chế miền tây Thanh Hóa  và chốt chặn hành lang liên lạc tiếp tế, Pháp đã đánh vào Bá Thước, thiết lập đồn Cổ Lũng và La Hán tại đây . Tháng 5/1947, dân và quân Bá Thước đã phối hợp với bộ đội địa phương bao vây, tấn công và thu hồi đồn Cổ Lũng và La Hán từ tay Pháp. Về sau Pháp quay lại tái chiếm xây dựng đồn Cổ Lũng và sân bay Cổ Lũng  thành căn cứ kiên cố. Tháng 12 năm 1949, bằng bao vây và binh vận ta đã bức đồn Cổ Lũng phải đầu hàng. Từ năm 1950 đến chiến thắng Điện Biên Phủ, quân dân Bá Thước đã cùng với nhân dân Thanh Hóa làm tốt vai trò hậu cứ, xây dựng hành lang tiếp tế, tham gia dân công tiếp vận, góp phần quan trọng vào chiến dịch Quang Trung, chiến dịch Hòa Bình, chiến dịch Thượng Lào và đặc biệt góp phần quan trọng chi viện cho chiến dịch Điện Biên Phủ.

       Trong lĩnh vực văn hóa xã hội, diện mạo văn hóa của Bá Thước đậm đặc dấu ấn của hai dân tộc, chủ nhân của vùng đất này là người Thái và người Mường. Tập tính tộc người, thói quen canh tác và tập quán lâu đời của dân tộc Thái và Mường được thể hiện trước hết ở địa bàn cư trú, hình thành bản làng. Người Thái cư trú tập trung ở các thung lũng núi vùng cao của Bá Thước. Người Mường cư trú ở các thung lũng rộng, ven chân đồi thoải của vùng thấp trong huyện. Một trong những nét đặc sắc của không gian cư trú của người Thái - Mường là hình thành các lãnh thổ, cộng đồng tự quản do các lang, đạo đứng đầu gọi là các MƯỜNG. Mỗi “mường” gồm nhiều bản làng đứng chân trên không gian cư trú truyền thống, có luật tục, lễ hội riêng. Bá Thước được coi là thủ phủ của xứ Mường Trong, Thanh Hóa. Nếu xứ Mường Ngoài (Hòa Bình) tự hào với các mường gốc như “Nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động” thì Mường Trong (Thanh Hóa) có Mường Ống, Mường Ai, mường Khô, mường Tiền, mường Đèn của dân tộc Mường. Bộ sử thi đồ sộ “Đẻ đất đẻ nước” đã lý giải việc “đẻ mường” qua hình ảnh cây si thần buông cành, đổ xuống đất tạo nên các mường được phát tích tại mường Ống, mường Ai. Ở Bá Thước, người Thái có 3 mường lớn là mường Ký, mường Lau và mường Khoòng. Mường Khoòng là nơi ra đời truyện thơ Khăm Panh nổi tiếng của dân tộc Thái. Mặc dù nguồn gốc các dân tộc Thái, Mường sống ở các  mường khác nhau nhưng trong quá trình sinh sống và làm ăn, các dân tộc sống xen cư và hòa huyết, tạo nên mối quan hệ gắn bó khăng khít giữa các tộc người Bá Thước. Chính vì thế, giữa người Thái và người Mường quá trình giao thoa, tiếp nhận văn hóa là một tất yếu tự nhiên trong lịch sử. Quá trình xen cư, cộng canh, đói no cùng chia sẻ, hoạn nạn cùng gánh vác giữa các tộc người Thái - Mường đã diễn ra quá trình “Mường hóa”, “Thái hóa” lẫn nhau. Quá trình đó diễn ra lâu dài, qua nhiều thế hệ nên sự giao thoa, hòa nhập văn hóa, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, trở thành điểm tương đồng về văn hóa là không tránh khỏi. Điều này thể hiện trong kho tàng văn hóa phi vật thể rất phong phú của hai dân tộc nơi đây qua kiến trúc, ca dao, dân ca, trang phục, văn hóa ẩm thực, tập quán, lễ tục, lễ hội, tín ngưỡng, phương ngôn, tục ngữ, truyện thơ, trò chơi.. 

    Người Mường có câu: “Nơi thấp làm ruộng, nơi bằng làm bãi, nơi dốc dốc làm nhà ở”, thì người Thái có câu: “Cơm dưới chân bản dẻo hơn, nương sau lưng bản đẹp hơn”. Người Mường nói: “Mường Ống nhiều trâu, mường Ai nhiều sanh, nhiều niếng”, “Làm cơm, cơm có, làm lọ, lọ nên”, “Con gái thạo chỉ, thạo nương/ Trên nhà lọ (lúa) đầy đụn/ Dưới sàn lắm trâu, nhiều bò”, thì người Thái nói: “Nuôi bò cho đầy bờ phai/ Nuôi trâu cho đầy khúc  suối”. Kho tàng ca dao, tục ngữ, phương ngôn của hai dân tộc là rất phong phú, có thể điểm qua: “Người Thái dạy con không dùng roi/ Người Mường dạy con không dùng đòn”, “Con trai thổi khèn ban ngày là con trai nhác/ Con gái chơi đêm trong bản là con gái hư”, “Mười bản không bằng bản treo cau/ Sáu mường không bằng mường cắt rốn/ Nơi còn nhỏ bố mẹ bế bồng”, “Mẹ vợ mắng con rể thì gở/ Bố chồng chửi con dâu thì kiêng”, “Việc vừa sức không nhờ đừng làm/ Mở rượu cần, không mời đừng đến”, “Muốn ăn chim phải vót tên ná/ Muốn ăn cá phải sắm chài”, “Mương mường Ai/ Phai mường Khoòng”, “ Rẫy đầy đồng cỏ tranh không bằng một khoanh ruộng mạ”, “Ruộng nương bao la không bằng ruộng nhà một thửa”, “Muốn ăn cơm vào Mô, Má/ Muốn ăn cá ra bến Khô, Ai/ Muốn ăn thịt hoẵng, thịt nai lên mường Ký, Ống”, “Mường Ai họ Trương/ Mường Khô họ Hà/ Mường Khà họ Phạm”, “Bao giờ sấm dậy Mã Đà/ Sông Mã hết nước, họ Hà hết quan”, “Cá làng Song/ Mong đồi Muốn”, “Mưa núi Mốc thì trông/ Mưa núi Ông chớ mừng”, “Hay làm sang: lũng Xuội/ Hay cấy về cuối: làng Dồn/ lắm khoai môn: làng Chiết”, “To bụng làng Xay/ Hay ngủ ngày làng Mén”, “Lắm trái dẻ: núi Đòn/ Lắm chó con: làng Ráy”, “Nghênh ngang như lang đạo Măng Mòn”, “Thứ nhất đồng Ký, thứ nhì đồng Phấm, đồng Danh”, “Rượu trong thì ngọt/ Rượu bọt thì chua”…

    Trong tập quán ăn uống, người Mường thường dùng các món cơm đồ, cơm lam, canh đắng, canh loóng, rượu nếp cẩm, chè củ mài mật ong, cá nướng, ăn gỏi, măng mu… Đối với  người Thái,  cách chế biến thức ăn là nấu, nướng, đồ, lam từ các sản vật của núi rừng, nương rẫy bản mường. 

      Các lễ tục trong năm của người Mường, người Thái ở Bá Thước  rất phong phú, sắc thái văn hóa rất độc đáo. Người Mường có lễ yên nhà, tết cơm mới, lễ hạ điền, lễ thượng điền, lễ cầu vía lúa, thờ mó nước, lễ rửa lá lúa, lễ cầu yên... Lễ tục theo vòng đời có lễ Nạ Mụ, lễ cầu vía, lễ tục trong hôn nhân, làm vía số tuổi già, lễ kéo si, tang lễ, lễ Pôồn Pôông. Lễ tục của người Thái có lễ cầu mưa, lễ mừng lúa mới, lễ vía lúa, lễ cúng thần đất… Đặc biệt, tại vùng đất  này, lễ hội Mường Khô của người Mường, lễ hội Căm Mương của người Thái là những lễ hội lớn, có ảnh hưởng rộng rãi, thu hút người dân từ các mường tham dự.

      Trong kho tàng của người Mường Bá Thước, mo Mường có vị trí đặc biệt, trong đó mo “Đẻ đất đẻ nước” là bộ mo sử thi thần thoại đồ sộ, có giá trị lớn và thể hiện sức sáng tạo hết sức phong phú của văn hóa Mường. Truyện thơ nàng Ờm – chàng Bông Hương với mối tình đã được nhân hóa thành “cây bùa yêu” nơi đây. Người Mường còn có các loại hình dân ca có giá trị đặc sắc như rang, xường, bộ mẹng, hát ru, hát Séc bùa..

     Đối với người Thái, truyện thơ Khăm Panh là tài sản vô giá và niềm tự hào vốn cổ của dân tộc mình. Truyện thơ Khăm Panh xuất hiện ở vùng mường Khoòng, được lưu giữ bằng truyền miệng và chữ Thái, vốn được coi là truyện thơ Thái hay nhất Việt Nam. Cùng với truyện thơ, loại hình Khặp của người Thái là di sản văn hóa phi vật thể hết sức đặc sắc. Trong truyện thơ Khăm Panh, nàng Mứn với vẻ đẹp “Tóc nàng buông lượn sóng trên lưng/ Chân nàng bước như trống chim công nhảy múa/ Tiếng nàng nói như nước đùa dưới suối/ Gương mặt nàng tươi như lá trầu không”. Và khi nàng cất lời khặp thì “Nàng khặp bên suối, nước suối quên chảy, nàng khặp bên lửa, lửa đống to quên cháy, khặp trong rừng cây, hoẵng nai quên gặm cỏ”. 

      Bá Thước cũng là mảnh đất xuất hiện nhiều nhân vật xuất sắc, có công lao trong xây dựng và bảo vệ quê hương, bản làng. Thời phong kiến có những nhân vật như Hà Nhân Chính quê mường Khoòng, tổng Cổ Lũng, người có công giúp nhà Lê Trung hưng nên được phong chức Tư đồ, tước Thụy Quận công. Hà Thọ Lộc là con trai Hà Nhân Chính giúp vua Lê đánh thắng nhà Mạc, khôi phục nhà Lê, được giao làm Trấn thủ Thannh Hoa, phong chức Thiếu úy tước Lân Quận công. Trương Công Hãn người Ái Thượng, có công với nhà Nguyễn được phong tước 3 lần và cấp sắc phong thần. Phạm Công Chính được giao chức Tướng quân trấn ải sơn phòng Thung Chấn thời Lê Trung hưng. Hà Công Thái được vua Gia Long phong Quận công, khâm sai chánh thống lãnh thượng đạo trấn Thanh Hoa, khi mất được thờ tại chùa Mèo ở mường Khô (Điền Trung). Hà Văn Mao là cháu Hà Công Thái lãnh tụ phong trào Cần Vương ở miền núi Thanh Hóa trong chống Pháp. Hà Văn Nho người mường Ký (Văn Nho) hưởng ứng phong trào Cần Vương chống Pháp, bị địch bắt, tra tấn dã man nhưng không mua chuộc được ông nên bị chúng hành quyết. Về sau tên ông được lấy để đặt tên cho xã quê hương ông, xã Văn Nho.

     Thời kỳ hiện đại, Bá Thước tự hào có các anh hùng LLVT Hà Văn Kẹp người Kỳ Tân, anh hùng Bùi Xuân Chúc người Điền Quang, anh hùng Lương Văn Xuân người Lũng Cao. Bá Thước có 34 Bà Mẹ Việt Nam anh hùng. 

     Là địa bàn quan trọng về chính trị, văn hóa và an ninh quốc phòng, đến những năm đầu thế kỷ 21 Bá Thước có 21 xã thị trấn. Là vùng đất huyền thoại “Đẻ đất đẻ nước”, Bá Thước mang trong mình nguồn tài nguyên văn hóa rất phong phú và đặc sắc. Thực hiện cuộc cách mạng về tổ chức bộ máy và chính quyền địa phương hai cấp, Bá Thước sắp xếp còn 8 xã, đó là: Văn Nho, Thiết Ống, Bá Thước, Cổ Lũng, Pù Luông, Điền Lư, Điền Quang, Quý Lương. Điều đáng mừng là cùng với các xã có tên từ lâu đời và tên Bá Thước vẫn được chọn để định danh cho xã, một số xã có tên mới cũng rất hay, góp phần định vị giá trị thương hiệu cho vùng đất này như xã Pù Luông, xã Quý Lương. Tôi xin được mượn mấy câu thơ của bài thơ đã mở đầu của bài viết để kết lại bài viết về vùng đất Bá Thước huyền thoại và tươi đẹp. 

Chén rượu mãi cầm tay

Điệu Khặp sao tình tứ

Rừng lặng lẽ trong đêm

Như say lời sơn nữ

Trở về thăm Bá Thước

Như gặp lại cố nhân

Dấu chân nào ngày trước

Đang đợi ta tần ngần!

Ghi chú;

*Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh Thanh Hóa, Địa chí Thanh Hóa, Tập I, NXB VHTT, 2000, tr294.

* Đào Duy Anh, Đất nước Việt nam qua các đời, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1964, tr 157 & 170.

Ảnh: sông Mã chảy qua Bá Thước

          Pù Luông (ảnh Hà Thu)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét