“Vua luồng” xứ Thanh
(Nguyễn Trãi – Đại cáo bình Ngô).
"Nhìn Linh Sơn cao vút nhớ những ngày gian khổ
Vỗ nghiệp vương bền vững, không một ngày xao lãng”
"Nguyễn Trãi – Chí Linh sơn phú).
"Một dải quanh co bao bọc, không thể hình trạng; thật cũng trời dành mà đất giấu, bí hiểm muôn vàn.
…Nghìn trượng đá cao, kể cũng kim thang chốn hiểm; lưng trời vách núi, xem tày bách nhị cửu quan, núi bày ngọn giáo, cây dựng cờ phan.
...Khen quả núi khéo chăm lo chức vụ, sắp cơ ngơi để đón rước xe loan”
"Nguyễn Mộng Tuân – Phú núi Chí Linh).
Khi đọc những vần thơ, phú trên đây hẳn có người sẽ không biết Linh Sơn chính là núi Pù Rinh (còn gọi là núi Chí Linh, Bù Rinh). Theo tiếng Thái, Pù nghĩa là đỉnh núi, Rinh là phiên âm của Linh. Pù Rinh, Bù Rinh, Chí Linh, Linh Sơn là một ngọn núi của huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa.
Theo “Đồng Khánh địa dư chí” thì huyện Lang Chánh lúc bấy giờ là châu Lang Chánh. Sách chép: “Châu Lang Chánh thuộc phủ Thọ Xuân (phủ Thọ Xuân miền núi, không phải Thọ Xuân hiện tại) do phủ kiêm nhiếp. Châu hạt phía đông giáp huyện Thụy Nguyên, phía tây giáp huyện Sầm Da, phía nam giáp châu Thường Xuân, phía bắc giáp huyện Cẩm Thủy. Đông tây cách nhau 141 dặm. Nam bắc cách nhau 62 dặm. Toàn châu có 8 tổng, gồm 43 xã. Tổng Hoài Chính 4 xã, tổng Thuận Chính 4 xã, tổng Quy Chính 6 xã, tổng Tòng Chính 9 xã, tổng Tam Lô 5 xã, tổng An Thọ 5 xã, tổng Nhân Sơn 5 xã, tổng Thiện Thổ 5 xã”.
Về phong tục của Lang Chánh “Đồng Khánh địa dư chí” ghi “cũng giống châu Thường Xuân”. Cụ thể là: “Trong hạt đều là dân Thổ (người Thái). Xưa gọi ái lạo là thổ ty, thổ mục, lang đạo, đời đời được cha truyền con nối làm chức đó. Tiếng Thổ gọi cha là bố, gọi mẹ là mạ, gọi anh là ái, gọi em là nùng, đàn ông là chi, đàn bà là hạo. Con trai là lục chi, con gái là lục hạo. Chữ Thổ viết thằng hàng mà nét ngang, ngoằn ngoèo như sâu bò, chữ nào cũng na ná giống nhau, chỉ thêm một hai nét chấm cho hơi khác để phân biệt. Họ không có sách vở, học được chữ chỉ đủ để đáp ứng công việc mà thôi. Nay nhà Lang đạo cũng mời người Kinh đến dạy cho con em học chữ Hán, còn dân thường thì cấm không cho học. Nhà ở thì năm ba nhà tụ lại với nhau rải rác trong các lũng núi, nhân theo núi bắc giá, chôn cột gác ván ngang làm nhà sàn mà ở, lên xuống thì trèo cầu thang. Bò, dê, lợn, gà thì quây chuồng nuôi dưới sàn. Cơm ăn hàng ngày thì ăn cơm nếp, gạo tẻ rất ít. Nấu cơm thì dùng nồi đồng, nồi đất, cũng có khi dùng ống tre cho gạo và nước vào rồi đem đốt, đốt chín thì bổ ống tre lấy cơm ra ăn. Thức ăn thì có thịt gà rừng, vịt nhà luộc chín chấm muối mà ăn, không biết cách điều hòa nấu nướng. Nhu dụng hàng ngày thì vào rừng săn bắn, xuống suối bắt cá đem về nhà tự nuôi sống mình, không có chợ búa trao đổi. Thuốc chữa bệnh thì truyền bảo cho nhau, lấy lá cây rễ cỏ vài chục thứ tùy theo bệnh mà chữa, thứ thì bôi, thứ thì uống, cũng phần nhiều khỏi bệnh. Làm ruộng thì cuốc núi làm ruộng, lấy dao làm cày, lấy lửa làm bừa (dĩ đao vi canh, dĩ hỏa vi nậu), đào đất trỉa hạt giống chứ không gieo mạ. Chỗ ruộng có nước thì lùa trâu bò vào dẫm đạp cho nát đất rồi gieo thẳng thóc giống xuống ruộng. Gặp năm đói nhà nào cất trữ được thóc gạo, khoai sắn thì các nhà khác cùng ăn chung, đói thì cùng đói, no thì cùng no, dù là nhà lang đạo cũng không dám giữ riêng cho mình. Quần áo đàn ông dùng vải thô màu xanh, đàn bà dùng lụa có vân (tục gọi là phá quất). Nhà lang đạo thỉnh thoảng mới mua được lụa quyến của các nhà buôn người Kinh để mặc. Cưới vợ gả chồng thì ngày ăn hỏi, nhà gái cho năm sáu người cầm roi đứng đợi dưới cầu thang, khi họ hàng nhà trai đến thì những người kia cầm roi quất tới tấp, bên nhà trai phải nhanh chân chạy vọt lên cầu thang thì mới khỏi, nếu chậm chân có khi bị đánh đau. Hai nhà coi đó là cuộc vui cười lớn. Việc tang ma thì đặt quan tài ở góc nhà mời thầy mo đến khấn khứa đọc chú đến 3 tháng, gọi là luyện thần. Quan tài để trong nhà như vậy 3 năm mới đem chôn. Chôn cất xong thì niệm chú nửa ngày để cho thần được yên. Phàm có gia sản gì thì chia một nửa bày ra ngoài mộ , gọi là lễ vật để tặng cho người chết. Thờ cúng thì mọi người trong nhà đều phải gác một cái sàn nhỏ ở góc nhà để thờ, gọi là thờ ma xó. Đồ thờ không có ghế, chiếu, mâm, chén gì cả, chỉ bày rượu và thức ăn ra sàn nhà để cho ma xó hưởng mà thôi. Mỗi năm chỉ ngày mùng một tết Nguyên đán làm lễ một lần rồi thôi, các lễ tiết như giỗ chạp, thanh minh, trung thu, trùng ngũ, trùng cửu … đều không cả. Tế thần bên ngoài thì chỉ làm 2 lễ là lễ thượng điền và lễ thường tân quét đất cúng thổ thần, mà không có đàn miếu như người Kinh. Dân không theo đạo mà cũng không theo Thiên chúa giáo”.
Trong sách “Đại Nam nhất thống chí tỉnh Thanh Hóa, tập thượng” có ghi: “Châu Lang Chánh ở phía tây tỉnh, cách 130 dặm. Phía đông tới châu Ngọc Lặc; phía tây giáp dân Mán huyện Sầm Tớ, thuộc phủ Trấn Man; phía nam tới châu Thường Xuân; phía bắc tiếp huyện Cẩm Thủy phủ Quảng Hóa. Thời cổ là đất của Ai Lao. Triều Trần gọi là Tẩm Mang, cũng gọi là Ái Lèo. Năm Quang Thuận triều Lê mới đặt tên châu, cho thuộc vào phủ Thanh Đô, do viên thổ tù họ Lê rõi đời quản trị. Đời Tây Sơn đổi ra là Lang Chánh. Khoảng đời Gia Long triều Nguyễn vẫn để theo cũ. Năm Minh Mạng thứ 16, đem đất huyện Thọ Xuân cũ gồm nhập cả vào và đặt ra tên châu hiện nay. Năm thứ 18, đổi các động sách ra làm xã thôn, bắt đầu đặt quan cai trị, rồi lại tách đất huyện Thọ Xuân cũ cho thuộc vào châu Thường Xuân. Năm Tự Đức thứ 3, bớt tri châu, cho thuộc vào phủ Thọ Xuân kiêm lý. Nguyên trước lãnh 8 tổng. Năm Thành Thái 12, đổi đặt chức Châu úy, lại tách ra tổng Nhân Sơn cho thuộc về châu Thường Xuân. Hiện nay lãnh 7 tổng, 37 xã thôn”.
Sách “Địa chí Thanh Hóa”, tập I, Địa lý và Lịch sử, trong phần chép về quá trình hình thành và tên gọi huyện Lang Chánh như sau: “Thời thuộc Hán về trước vùng dất Lang Chánh là rừng núi đại ngàn, dân thưa, việc quản lý hành chính chưa vươn tới. Thởi thuộc Hán miền đất này thuộc huyện Đô Lung và huyện Vô Biên. Đến Tề, lại tách Đô Lung ra mà đổi thành Cát Lung. Thời Tam Quốc đến Tùy là phần đất thuộc huyện Di Phong. Thời Đường là phần đất nằm trong huyện Trường Lâm. Thời Đinh, Lê, Lý có lẽ cũng như trên. Thời Trần, Hồ: đời Trần gọi là Mường Một thuộc huyện Nga Lạc trong châu Ái. Thời Lê, huyện Lang Chánh có 13 động là Lô Hạ, An Khương, Lương Sơn, Khương Chính, Thổ Nang, Cự Lạc, Bất Một, An Nhân, Lò Sưởi, Sơn Cao, Giao Lão, Lô Thượng, Thọ Nghĩa và Thốn Luận. Lê Quang Thuận thứ 10 (1469) mới đặt Châu Lang Chính cho lệ vào phủ Thanh Đô, thổ tù họ Lê nối đời quản lãnh. Thời Tây Sơn đổi là Lương Chính. Thời Nguyễn chia thành 4 tổng 8 Mường như sau: Tổng Yên Thọ có Mường Ngày, Mường Đeng, Mường Đôn. Tổng Thiên Thổ có Mường Bồ, Mường Nang, Mường Giao Lão. Tổng Tùy Chính có xã Tam Văn và một phần xã Quang Hiến (ngày nay). Tổng Quy Chánh có Mường Chính, Mường Khạt. Minh Mệnh 16 (1835) ghép huyện Thọ Xuân (cũ, không phải huyện Thọ Xuân ngày nay) với Lang Chánh và lấy tên cũ là Châu Lang Chính. Minh Mệnh 18 (1837) mới động và sách làm xã và thôn, cắt huyện Thọ Xuân (cũ) lệ vào châu Thường Xuân và đặt lưu quan. Năm Tự Đức thứ 3 mới bỏ Tri Châu và cho vào phủ Thanh Đô kiêm lý. Sau Cách mạng tháng Tám 1945 đổi thành huyện Lang Chánh. Năm 1977 ghép 2 huyện Lang Chánh và Ngọc Lặc thành huyện Lương Ngọc. Năm 1982 lại tách ra thành 2 huyện như trước”.
Như vậy, tên Lang Chánh giữa “Đại Nam nhất thống chí” thời Nguyễn và “Địa chí Thanh Hóa” ghi khác nhau. “Đại Nam nhất thống chí” chép “Đời Tây Sơn đổi ra Lang Chánh”, còn “Địa chí Thanh Hóa” ghi “Thời Tây Sơn đổi là Lương Chính” nhưng không ghi rõ tên Lang Chánh đặt vào triều đại nào. Lại chép năm Minh Mệnh 16 (1835) ghép huyện Thọ Xuân với Lang Chánh và lấy tên là châu Lang Chính. Như vậy, tên Lang Chánh được đặt dưới thời Tây Sơn như “Đại Nam nhất thống chí” đã ghi là đáng tin cậy hơn cả.
Lang Chánh là huyện có địa hình đồi núi chia cắt khá phức tạp, đặc điểm lớn nhất là núi thấp, đồi cao. Các dãy núi của Lang Chánh phần lớn chạy theo hướng tây bắc – đông nam, là tiếp nối của các dãy núi chạy từ Lào và huyện Quan Sơn về. Có hai ngọn núi cao được “Đại Nam nhất thống chí” của nhà Nguyễn ghi lại là núi Chí Linh và núi Biều Doanh (Địa chí Thanh Hóa ghi là núi Doanh Biều).
“Núi Chí Linh (Chí Linh Sơn) ở giáp với châu Lương Chính, phía tây nam huyện Thụy Nguyên (Theo Lam Sơn thực lục thì núi này ở về Mường Giao Lão, mà mường Giao Lão hiện nay thuộc về châu Lương Chính. Nghĩa là núi này ngang suốt cả hai châu huyện vậy). Theo sử nhà Lê, trước đây khoảng năm Mậu Tuất (1418), vua Lê Thái Tổ bị quân Minh tập kích, đã cùng các tướng sĩ nấp ở núi này” (Đại Nam nhất thống chí tỉnh Thanh Hóa, tập thượng).
Núi Chí Linh (Pù Rinh) là ngọn núi có độ cao là 1.291m, cao nhất và hiểm yếu nhất của Lang Chánh, trên địa bàn các xã Trí Nang, Giao An, Yên Khương (Lang Chánh) và Xuân Khao, Yên Nhân, Bát Mọt (Thường Xuân). Miền tây Thanh Hóa vẫn lưu truyền câu: “Pù Rinh là con chó, Pù Gió là con mèo, Pù Sèo là con chuột” để so sánh 3 ngọn núi ở đây. Sách “Lam Sơn thực lục” có ghi “Núi Chí Linh ở mường Giao Lão. Đối với nghĩa quân Lam Sơn, núi Chí Linh là căn cứ quan trọng sau đất Lam Sơn. Trong khoảng năm sáu năm đầu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Bình Định vương rút về căn cứ Linh Sơn 3 lần để củng cố lực lượng, tránh đối đầu với giặc Minh người đông, ngựa khỏe”. Cũng chính tại núi Chí Linh đã xảy ra sự kiện Lê Lai “dịch bào thế quốc” đóng giả Lê Lợi, liều mình cứu Chúa để bảo toàn lực lượng và minh chủ của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Núi Biều Doanh (Biều Doanh Sơn) “thuộc về châu Lương Chính. Thế núi trùng điệp cao vót, là một ngọn trấn sơn trong cả một châu. Khi vua Thái Tổ nhà Lê khởi nghĩa, thường đóng quân ở đó, tới nay vẫn còn sót lại một ngôi cổ miếu. Núi này sản quế rất nhiều” (Đại Nam nhất thống chí tỉnh Thanh Hóa, tập thượng).
Do cấu tạo của địa hình nên các con sông trên đất Lang Chánh đều ngắn và dốc. Huyện có 3 con sông chính là sông Am, sông Cảy và sông Sạo. Đây là 3 con sông có vị trí đặc biệt quan trọng với cư dân Lang Chánh. Người dân Lang Chánh tụ cư dọc theo bờ 3 con sông này, sử dụng nước sông để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, nước sinh hoạt và đánh bắt thủy sản. Sông Âm là con sông lớn nhất huyện Lang Chánh, bắt nguồn từ Sầm Tớ (Lào) chảy từ tây sang đông huyện rồi đổ về Ngọc Lặc tại xã Vân Am. Sông Âm có chiều dài chảy qua địa phận Lang Chánh là 55km. Người Thái gọi là sông Âm là sông Nậm Pít, người Mường gọi là sông Um. Sông Âm là nhánh của sông Chu, trung bình hàng năm cung cấp khoảng 14% tổng lượng nước cho hệ thống sông Chu. Sông Cảy bắt nguồn từ sườn đông của núi Pù Rinh ở địa phận xã Trí Nang, nhập vào sông Âm tại làng Bắc Nậm. Sông Cảy có chiều dài khoảng 15km, chảy theo hướng tây – đông. Trên sông Cảy có ngọn thác Ma Hao đẹp nổi tiếng. Đây là ngọn thác tại bản Năng Cát (xã Trí Nang) có độ dốc cao 100m. Gắn liền với dấu tích của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn tại vùng đất này là các địa danh như Huổi Vớ, Huổi Láu, vườn cam trên núi Pù Rinh rất hấp dẫn khách du lịch. Nhà thơ người Mường Vương Anh đã viết về thác Ma Hao: “Như dải lụa trời mừng/ Trao nước lành cây, quả/ Thác muôn đời vẫn trẻ/ Tiếng quân reo dội về/ Như dải lụa trời chia/ Thác tung tăng, nước trẩy/ Ấm một thời Lê Lợi/ Luộc củ rừng nuôi quân”. Sông Sạo bắt nguồn từ làng Pọong (Giao Thiện) có chiều dài 17km và đổ ra sông Âm tại làng Um (Vân Am – Ngọc Lặc). Người Thái gọi là sông Sa Láo, người Mường gọi là sông Tháo.
Lang Chánh là vùng đất có truyền thống lịch sử lâu đời, đặc biệt là thời kỳ cùng với Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống giặc Minh, giải phóng dân tộc. Trong mười năm (1418 – 1428) của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, vùng đất Lang Chánh là căn cứ đặc biệt quan trọng, vừa là hậu phương, vừa là chiến trường chính trong những năm đầu cuộc khởi nghĩa. Nhiều địa danh gắn với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn vẫn còn dấu ấn đến ngày nay. Thác Ma Hao theo tiếng Thái là chó ngáp, có truyền thuyết gắn với cuộc khởi nghĩa. Huối Vớ nghĩa là “suối lá chảy” gắn với tích Nguyễn Trãi thả lá “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần” ở đây. Huối Láu là “suối Rượu” tương truyền là nơi Lê Lợi và binh sĩ “hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”…
Là vùng đất cổ ở phía tây Thanh Hóa, cư dân Lang Chánh bao gồm người Thái, người Mường và người Kinh. Người Thái là cư dân có dân số lớn nhất, chiếm hơn 53% dân số của huyện. người Mường có dân số chiếm khoảng 35% dân số của huyện, bao gồm cư dân bản địa, từ Hòa Bình di cư vào đã có mặt lâu đời ở đây. Người Kinnh chiếm tỷ lệ 14% tổng số dân Lang Chánh, chủ yếu do chính sách phát triển kinh tế miền núi sau này.
Với đặc điểm tự nhiên, dân cư như vậy, sự giao thoa, tiếp biến văn hóa của vùng đất Lang Chánh diễn ra rất sớm và mạnh mẽ, trong đó nổi bật là văn hóa Thái – Mường. Với đặc điểm đó, các loại hình văn học dân gian, truyện kể, sự tích tên đất, tên làng, dân ca của người Thái (khặp, khắp), Xường của người Mường, tục ngữ, phương ngôn của Lang Chánh rất phong phú. Các phong tục trong giao tiếp cộng đồng, hôn nhân, tang ma, sinh đẻ, kiêng kị, lễ tục như lễ mừng lúa mới, lễ cầu mưa, lễ cúng vía lúa, lễ cúng cơm mới, lễ mừng thọ, mừng trẻ sơ sinh, mừng nhà mới, làm vía… ở Lang Chánh là hết sức độc đáo, thấm đẫm triết lý nhân sinh của các tộc người nơi đây. Các lễ hội tiêu biểu của Lang Chánh có Lễ hội Chá Mùn, lễ hội Chá Một của người Thái; lễ hội Pồn Pôông của người Mường.
Trong khặp Thái có khặp về lao động sản xuất, về xin rước dâu, về mừng nhà mới, về ca ngợi bản mường, hát đối đáp… Người Thái có thể khặp ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào nhưng đặc biệt là dịp mừng năm mới, ngày lễ hội, đám cưới, mừng nhà mới…Các bài khặp phần lớn là ngẫu hứng tự sáng tác của người Thái nên luôn mang hơi thở cuộc sống, xóa đi mệt mỏi trong lao động sản xuất, mang lại niềm vui sống cho người dân nơi đây.
Xường là loại hình dân ca rất đặc trưng, hấp dẫn, giàu bản sắc của người Mường. Xường có nhiều loại như xường chúc, xường kể, xường rang, xường trai gái… Hát Xường phần lớn được tổ chức trong dịp lễ tết, ngày xuân, đám cưới… Qua hát xường người Mường thể hiện tình yêu cuộc sống, bản mường, tình yêu nam nữ và tình cảm gắn bó với quê hương.
Từ cuộc sống lao động sản xuất, gắn bó với núi rừng bản mường, người Thái, người Mường Lang Chánh đã sáng tạo nên kho tàng tục ngữ, phương ngôn phong phú.
Những câu tục ngữ phương ngôn của người Thái như “Nương bao la không bằng ruộng nhà một thửa”, “Lúa dưới ruộng, cá dưới nước/ Khéo làm có ăn, siêng nằm chết đói”, “Sống rừng nuôi, chết rừng chôn”, “Học khôn học đến khi chết/ Học khéo học đến lúc già”, “Của xin không đủ ngày/ Của mua không đủ năm/ Chăm làm có ăn, siêng nằm chết đói”, “Một người nghĩ không nổi/ Một người lội không khắp”, “Nhiều mây trời mới đổ mưa/ Nhiều người mới nên làng, nên bản”, “Nói phải suy/ Đi phải nhìn”, “Khách đến nhà đừng đánh chó/ Có bạn đến chớ đánh con”, “Muốn ăn ngọt thì trồng chuối/ Muốn có tội thì trộm trâu/ Muốn mất đầu thì yêu vợ người khác”, “Hay ngủ đừng đốt củi mục/ Hay nói tục chớ ở gần đường”, “Gà đẹp do bộ lông/ Người sang do quần áo”, “Cây đổ còn gỗ/ Bố chết còn con”...
Người Mường Lang Chánh có vốn tục ngữ, phương ngôn phong phú, là kho tàng tri thức nói về cuộc sống lao động nơi đây. Có thể kể đến các câu: “Luồng châu Lang đổi vàng đổi bạc/ Thác Ma Hao chó ngáp cụt đường”, “Cơm Mường Đeng, canh Mường Mò”, “Rượu Chiềng Nưa, ruộng to Chiềng Khạt/ Vót lạt Chiềng Đôn, cơm ngon Chiềng Ngáy”, “Con gái đẹp Mường Nang/ Luồng vàng Châu Chếnh/ Cá dưới, cơm trên Mường Ban”, “Chóng mặt thì đến Yên Khương/ Đau ngực thì qua Mường Đáng”, “Cúng ma rước thầy mo làng Phống/ Giã luống thì lên tận Chiềng Nưa”, “Nhất chùa Hương, nhà chùa Hà, ba chùa Chu”, “Muốn vui thì về Quang Hiến/ Nghe chuyện dân gian thì về Giao An", “Lúa nếp Đồng Lương/ Luồng, bương Quang Hiến”, “Trống chiêng làng Ảng/ Khung dệt làng Giáng/ Mõ rộn làng Tiu”…
Về âm nhạc dân gian, Lang Chánh có các loại nhạc cụ như khua luống (quách loóng), cồng chiêng, gõ ống, kèn bè, sáo Ôi, sáo đứng, sáo ngang, sáo nghiêng, thổi ống, thổi lá, sáo ngắn… Qua đó thấy âm nhạc dân gian ở đây đa dạng về thể loại và đời sống âm nhạc rất phong phú, giàu bản sắc.
Trong Văn hóa ẩm thực ta thấy rất rõ bản sắc dân tộc của người Thái, người Mường qua các món ăn hàng ngày. Đó là các món cơm nếp đồ, cơm lam, rượu siêu, rượu cần, canh chua, canh môn, canh loóng, canh đắng, canh uôi, chẻo xịa, chẻo cá, măng chua, chẻo trám, nặm pịa, các món nướng như cá, thịt cuốn lá bưởi. Người Mường thường nấu các món cơm nấu, cá hấp, gà rang, thịt rang, cá kho, cá gỏi, cá muối. Người Mường ít dùng rượu cần, rượu siêu như người Thái mà chủ yếu dùng rượu nấu.
Là vùng đất gắn liền với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, mặc dù không có nhiều nhưng các di tích lịch sử của huyện Lang Chánh cũng đậm đặc dấu ấn của cuộc khởi nghĩa. Chùa Mèo thuộc xã Quang Hiến được dựng vào thời Nguyễn trên một ngọn núi, bên dòng sông Âm. Tương truyền chùa có từ thời Trần với tên gọi chùa Chu. Khi Lê Lợi khởi nghĩa có về chùa Chu thắp hương lễ Phật cầu cho cuộc kháng chiến thắng lợi. Khi đến đây Lê Lợi chỉ thấy trong chùa còn lại một con mèo nên đã mang theo. Về sau, khi kháng chiến thắng lợi, Lê Lợi cho xây dựng lại chùa và đổi tên là chùa Mèo. Hiện nay Bảo tàng Tỉnh Thanh Hóa còn lưu giữ chiếc chuông đồng của chùa Mèo, một bảo vật được đúc vào năm Vĩnh Thịnh thứ 14 triều Lê (1718). Năm 2005 chùa Mèo đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Thác Ma Hao thuộc làng Năng Cát, xã Trí Nang cũng được công nhận là danh thắng cấp tỉnh năm 2007. Suối Vớ thuộc xã Giao An, ngọn suối tương truyền là nơi Nguyễn Trãi thả lá cây “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”. Tại làng Năng Cát, xã Trí nang có đền Lê Lợi vẫn được nhân dân hương khói.
Núi Chí Linh (Pù Rinh, Bù Rinh, Linh Sơn) là nơi lưu giữ dấu tích của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và đi vào thơ phú của nhiều nhà nho triều Hậu Lê. Nếu như Lam Sơn là đất tổ, nơi phát tích cuộc khởi nghĩa Lam Sơn thì núi Chí Linh là căn cứ địa quan trọng, nơi hiểm yếu ẩn dấu, nuôi giữ và bảo toàn lực lượng khi cuộc khởi nghĩa đang còn trứng nước. Nguyễn Mộng Tuân đã viết: “Núi Lam phất cờ, núi Chí Linh đặt nền tảng/ Như Cối Kê, như Mang, Đãng, trước sau chói lọi ánh sáng”. Lý Tử Tấn cũng ca ngợi núi Chí Linh “Trời dựng núi mấy chừ cao ngất/ Hổ phục, rồng chầu chừ hai bên/ Nghiệp lớn muôn đời thịnh trị/ Xã tắc trăm họ bình yên/ Đây hình thế núi Chí Linh/ Án ngữ nơi miền tây nước Việt/ Sừng sững khoảng trời đất vô biên… Chí Linh cao ngất tuyệt vời/ Rồng chầu hổ phục đất trời khai thông/ Dài muôn dặm, cao muôn trùng/ Nền tảng nghiệp đế, bình phong nước nhà/ Miền Tây muôn thuở nguy nga/ Đây là cõi thọ, đây là đài xuân”.
Nói đến Lang Chánh không thể không nói đến đặc sản nổi tiếng của Thanh Hóa, đó là cây luồng. Mặc dù cây luồng có ở hầu hết các huyện miền núi xứ Thanh nhưng Lang Chánh vẫn là “Vua Luồng”. Câu ca “Gái Lang Chánh dao gài sau dón/ Sáng chặt luồng, chiều cuốn sông Âm” đã nói lên vẻ đẹp lao động nguyên sơ của con người và cảnh vật vùng đất nơi đây. Khóm luồng Thanh Hóa trồng bên lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Hà Nội chính là giống luồng mang ra từ Lang Chánh.
Trước khi thực hiện sắp xếp tổ chức theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, huyện Lang Chánh có 10 xã, thị trấn. Sau sắp xếp Lang Chánh còn 6 xã. Đó là các xã: Linh Sơn (thị trấn Lang Chánh và xã Trí Nang), Đồng Lương (xã Tân Phúc và xã Đồng Lương), Văn Phú (xã Tam Văn và xã Lâm Phú), Giao An (xã Giao An và xã Giao Thiện), Yên Khương (giữ nguyên) và Yên Thắng (giữ nguyên). Việc đặt tên xã mới Linh Sơn là rất tuyệt vời để ghi dấu ấn lịch sử của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn tại vùng đất này với ngọn núi thiêng của huyện. Tuy nhiên, thật tiếc khi cái tên Lang Chánh – một cái tên được đặt từ thời Tây Sơn, dưới triều vua Quang Trung – một cái tên được đặt cho Châu Lang Chánh - đã tồn tại từ thế kỷ thứ 18 đã không được dùng làm danh xưng cho bất cứ xã nào. Hơn nữa, chỉ có trường PT Dân tộc NT huyện được giữ được tên Lang Chánh, còn các trường Mầm non, Tiểu học, TH cơ sở mang tên Lang Chánh trước đây đều bị chuyển đổi thành tên Linh Sơn hoặc Chí Linh.
Là vùng đất lâu đời đậm dấu ấn lịch sử, vùng đất kết tinh đa sắc màu văn hóa, vùng đất với những danh thắng linh thiêng, huyện Lang Chánh dẫu không còn nhưng vẫn còn đó núi sông, con người, văn hóa nơi đây. Hy vọng cùng với sự sắp xếp lại hệ thống hành chính, khai thác nội lực còn tiềm ẩn và vươn lên trong lao động xây dựng quê hương bản làng, vùng đất này sẽ có chỗ đứng xứng đáng trong sự đi lên của xứ Thanh.
Ảnh: 1. Núi Chí Linh
2. Thác Ma Hao
3. Luồng Lang Chánh
Bài của Ngo Hoai Chung
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét