“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài...”
Đầu tháng Năm năm ngoái, tôi có dịp
theo đoàn nghệ thuật Q. (nơi tôi đang công tác) ra Hà Nội để tham gia hội diễn
toàn quân.
Đoàn tôi xuống sân bay Nội Bài
vào buổi cuối chiều. Hà Nội đã vào hạ, nhưng chưa nóng gay gắt như Sài Gòn,
thời tiết dịu dàng, vô cùng dễ chịu. Trên con đường cao tốc rất đẹp và hiện đại
nối sân bay với nội đô, không nhiều lắm xe cộ nối nhau lao vun vút, thỉnh
thoảng có những bác nông dân tỉnh bơ dắt trâu đủng đỉnh băng qua đường. Hai bên
đường, những thửa ruộng lúa chín vàng trải dài vút tầm mắt, cách quãng lại có
những tấm biển khổng lồ, quảng cáo điện thoại di động hay băng vệ sinh, biểu
hiện của một thành phố thời hiện đại.
Về tới nội thành, trời đã tối hẳn, đoàn
chúng tôi nghỉ tại một nhà khách quân đội ở đường Tầu Bay. Tối hôm đó tôi cứ
trằn trọc, chỉ mong tới sáng để đi thăm thủ thủ đô. Tất cả những vẻ nên thơ,
những địa danh nổi tiếng, những món ăn bất hủ của Hà Nội, thực ra tôi đều đã
biết, nhưng là biết qua tưởng tượng, qua những tập bút ký, những đoạn tản văn
hoặc những ca từ của các ca khúc viết về Hà Nội. Ôi những cây bàng lá đỏ; Ôi Hồ
Gươm, Tháp Rùa; Ôi Hồ Tây lộng gió; Ôi hoa sữa đường Nguyễn Du bên hồ Thiền
Quang thơ mộng... Ôi... Ôi... Ôi... Chưa kể các món ăn. Người Hà Nội sành ẩm
thực lắm, nào phở, nào bún ốc, nào chả cá Lã Vọng…, nghĩ tới tôi cứ tứa hết
nước dãi.
Sáng hôm sau, hai người bạn và
tôi tranh thủ lúc đoàn chưa có kế hoạch tập luyện bèn rủ nhau đi chơi ngay. Ra
khỏi nhà khách một quãng, thấy mấy thanh niên ngồi túm tụm, mỗi người trên một
chiếc xe máy, đồ chừng họ là xe ôm, nhưng không dám chắc lắm, bởi xe họ mới và
là loại khá “xịn.” Chúng tôi tiến lại gần, còn đang phân vân thì một người
trong bọn họ nhìn chúng tôi quát to:
"Thích soi à?"
Chúng tôi chưa kịp hiểu gì thì
một người khác lại quát:
"Cụp mẹ mày pha xuống!"
Rồi một người khác:
"Bố mút mẹ mày pha ra bây
giờ!"
Chúng tôi hoàn toàn không hiểu gì cả,
nhưng thấy họ có vẻ hung dữ nên chúng tôi vội lảng ra xa. May quá có một chiếc
tắc-xi đi ngang, chúng tôi leo lên tắc-xi và đi vào khu trung tâm. Ngồi trên
xe, tôi đem câu chuyện trên kể với anh lái tắc-xi và được anh cho biết
"soi" tức là nhìn, "pha" là mắt. Đại ý là mấy thanh niên
vừa rồi bảo chúng tôi không được nhìn và phải cụp mắt xuống.
Hồ Gươm quả thật danh bất hư
truyền, đẹp đến nao lòng. Tháp Rùa nổi lên giữa hồ trên một cù lao cỏ nhỏ xinh
xinh. Xung quanh hồ là những cây liễu thướt tha soi bóng, hoàn toàn đúng với
những gì các nhà văn đã từng viết. Thật là một vẻ đẹp vô cùng lãng mạn. Tháp
Bút đúng là hai cây bút, chọc thẳng lên trời, biểu hiện cho tri thức kẻ sĩ Bắc
Hà. Tuy xung quanh hồ có một vài toà nhà mang kiến trúc vô cùng dị hợm, nhưng
cũng không làm xấu được Hồ Gươm bao nhiêu. Có một điều khá đặc biệt, cách Tháp
Bút chừng hai trăm mét, ngay trên lối đi dạo quanh hồ là một công trình mang
kiến trúc của một cái lô cốt thời Tây. Rất nhiều người ra vào đó, người nào khi
vào mặt cũng khó đăm đăm, nặng trình trịch, khi ra thì rất tươi, cứ như họ vào
đó để chích “đô-phin (?).” Về sau mới biết, đó là cái “toa-lét” công cộng. Giời
ạ! Khác nào một hột mụn cơm, một nốt vá chó giữa má nàng hoa hậu.
Chúng tôi rủ nhau ăn sáng, thực đơn sẽ
quyết định là phở. Tôi ra sức ca tụng với hai người bạn (đều là dân Miền Tây)
rằng phở là món ăn quốc tuý của Việt Nam, nhưng phở với đầy đủ phẩm chất của nó
phải là phở Hà Nội. Chúng tôi vào một quán phở nằm trên một con đường tôi không
nhớ tên nhưng cũng thuộc khu trung tâm. Quán vắng tanh, nhưng ngay cạnh đó là
một quán phở khác, đông nghẹt. Khách ăn vào chen nhau mua ra, trên tay mỗi
người lăm lăm tô phở. Hết bàn ghế, họ ngồi xổm ngay trên vỉa hè húp xì xoạp,
vừa ăn vừa sỉ mũi xoèt xoẹt. Chúng tôi chọn quán này vì nó vắng, có bàn ghế mà
ngồi. Ông chủ quán bưng ra ba tô tái chín, bốc hơi nghi ngút, ngửi mùi tôi đã
rạo rực. Một anh bạn tôi, theo thói quen, nói rất dõng dạc:
"Cho xin chén giá chụng
đi."
Ông chủ quán quay lại nhìn chúng
tôi như nhìn người ngoài hành tinh, rồi bảo:
"Giá chụng hả? Vào Sà Ghềnh
mà ăn."
Ông ta nói với cách nhái giọng
Miền Nam, thái độ chẳng thân thiện gì. Tôi hết hồn, cấu mạnh vào đùi anh bạn,
rồi nói nhỏ vào tai hắn:
"Ăn đi, đòi hỏi vớ vẩn,
người Hà Nội họ nề nếp lắm, lần sau nói năng phải thưa gửi đàng hoàng."
Suốt buổi sáng và cho tới chiều hôm đó,
chúng tôi bát phố Hà Nội, toàn đi bộ, rạc hết cặp giò. Đường phố Hà Nội cũng
như Sài Gòn, nghĩa là rất nhiều xe máy, kẹt xe liên tục. Trước đây, tôi nghĩ
Sài Gòn chắc nhiều xe máy và sự chấp hành luật giao thông của người dân chắc
kém nhất Việt Nam. Nay tôi thấy tôi nhầm, lượng xe thì hai thành phố như nhau,
nhưng người Hà Nội chạy xe láo kinh khủng, không có luật lệ gì hết nếu không có
mặt cảnh sát. Về phương diện này dân Hà Nội là bậc thầy. Ngoại trừ khu vực được
gọi là phố cổ, người dân xây nhà với những lối kiến trúc kinh dị, không ai
giống ai, cái thì giống điện "Kremli," cái thì như lâu đài Ba Tư, lộn
xộn đứng gằm ghè bên nhau. Về mặt này, Hà Nội cũng ăn đứt Sài Gòn. Có lẽ do đặc
tính người Hà Nội là nghệ sĩ nên họ luôn thích sáng tạo.
Chúng tôi ghé vào một tiệm băng đĩa, (nghe
nói người Hà Nội cũng sành âm nhạc, hơn nữa có rất nhiều những CD
"độc," hàng Trung Quốc mà những tiệm Sài Gòn không bao giờ có, bởi
không nhập hàng này, người Sài Gòn không thích nhạc cổ điển) quả thật, tôi đã
không thất vọng. Chúng tôi chọn được mấy CD của Mozart, Tchaikovsky... do dàn
nhạc hoàng gia Anh trình bày đàng hoàng. Chợt nhìn thấy trên kệ có để một CD
của một cô bạn ca sĩ, tôi hỏi thử:
"Có bán CD của ca sĩ TT
không anh."
Anh chủ tiệm bĩu môi:
"Con dở hơi, có mà bán cho
chó."
Ở tiệm đĩa ra, tôi muốn về lắm rồi. Quả
thật tôi không còn tin vào những áng văn thơ trác tuyệt viết về Hà Nội mà tôi
đã đọc. Nào là “cây bàng lá đỏ...” Có đâu, đường phố trụi thùi lụi, có mà bàng
bê tông thì có. Nào là “quán cóc liêu xiêu...” Có đâu, toàn quán nhậu tạp nham.
Nào “Hồ Tây chiều nay, mặt nước vàng lay bờ xa mời gọi...” Có mà mời gọi, cứ
thử lên đó ngồi xem, kể cả ngồi xuống đất cũng có mấy thằng cô hồn ra đòi tính
tiền chỗ. Còn người Hà Nội thanh lịch thì bây giờ tôi cảm thấy rờn rợn, tự
nhiên tôi nghi ngờ sự hiểu biết của mình về nghĩa từ thanh lịch. Nhưng chúng
tôi vẫn chưa về được, vì một anh bạn nhất quyết đòi đi mua quần áo gì đó. Anh
bảo vợ dặn phải mua. Chúng tôi ghé vào một tiệm quần áo, sau khi xem, anh hỏi:
"Chị có kiểu quần X, áo Y,
váy Z... Mà của Trung Quốc ấy."
Chị chủ quán liếc xéo anh rồi
bảo:
"Anh giai thành phố Hồ Chủ
Tịch mà kém tắm thế, muốn đồ Trung Quốc hả? Lên Đồng Xuân, Bắc Qua ấy, đây chỉ
có hàng Anh, Mỹ... Anh dùng tạm, không thì phắn mẹ ló đi cho em nhờ. Cháo
ám!"
Tôi biết, thứ hàng Anh, Mỹ của
chị ta có bán rất nhiều trong khu bán sỉ trên chợ An Đông.
Chiều hôm đó, chúng tôi ăn cơm trong
một quán cơm bình dân gần nơi ở của đoàn. Nghe nói bia hơi Hà Nội ngon lắm,
thấy quán này cũng có bán, chúng tôi gọi uống thử. Không ngon như đồn đại, tôi
thấy nó nhạt và chua. Trong quán, có một anh cũng ngồi ăn và uống bia, anh ta
chắc là một tay buôn chuyến đồ nông phẩm, vì tôi thấy chiếc xe của anh hai bên
phía sau có chở hai cái sọt. Ăn xong, anh trả tiền, rồi càu nhàu:
"Bia với bọt nhạt như nước
nồn, chua noen noét như cứt mèo, nàm mẹ nó be rượu cho xong."
Chị chủ quán bình thản:
"Như lước l… thì ló mới
nghìn rưỡi, còn muốn không như lước l... thì những ba nghìn rưỡi cơ. Buôn cứt
người còn chê cứt mèo. Sốt ruột."
Anh chàng định sửng cồ, nhưng thấy chị
chủ quán tay lăm lăm con dao thái thịt, chắc không phải tay vừa, nên anh cun
cút đi mất.
Quả thật, cách đối thoại của
người Hà Nội vô cùng khó hiểu, hình như nó mang nhiều tính ẩn dụ. Thì người
Tràng An mà lại, ho ra thơ, thở ra văn. Có điều tôi thấy quá nhiều người phát
âm sai chính tả. Ở trong đoàn có mấy cô diễn viên múa là người Hà Nội, họ kể
rằng bây giờ người Hà Nội tạp nham, nói ngọng nhiều lắm. Nhưng tôi nghĩ, nói
ngọng tức phát âm không chuẩn do khiếm khuyết ở lưỡi hoặc dây thanh quản. Họ
không thế, họ không nói ngọng mà phát âm sai chính tả. Hình như đây là một thứ
mốt của người Hà Nội, kiểu như cái mốt nói chen tiếng Tây.
Tối hôm đó, tôi kể chuyện đi chơi và
phát biểu cảm tưởng của tôi cho mấy cô diễn viên múa người Hà Nội. Các cô cười
ngặt nghẽo và bảo:
"Hà Nội là như thế đấy, các
anh không quen nên thấy sốc đó thôi, bọn em thấy bình thường."
Đúng thật, những gì gây sốc hoặc dị ứng
cho ta, đều là do không quen, chứ không hẳn là những thứ đó không tốt. Một cô múa
tiết lộ với tôi:
"Ở Hà Nội còn nhiều nơi đẹp
thơ mộng lắm, không hề như những ấn tượng của anh đâu. Ở những nơi đó anh sẽ
thấy Hà Nội hiện ra đúng như những gì anh đã nghĩ. Em ví dụ cho anh nhé, như
vườn Bách Thảo chẳng hạn, ở gần Lăng Bác ấy, anh đã đi chưa? Không phải là bách
thú Thủ Lệ đâu nhé."
Mấy hôm sau, chúng tôi tới chơi
nhà của một trong mấy cô múa đó. Nhà cô ở khu phố cổ, rất gần với Hồ Gươm.
Chúng tôi chui vào một con hẻm. Lúc này là bốn giờ chiều, trời còn đang sáng
rỡ, vậy mà vừa bước chân vào hẻm, chúng tôi không còn nhìn thấy nhau nữa, nó
tối như hũ nút vì bên trên hẻm cũng là nhà. Đi chừng ba chục mét thì tới một
cái sân, rộng chừng hai chục mét vuông, là của chung cho tám hộ gia đình, trong
đó có hộ của cô bạn chúng tôi. Nhà cô, nhân khẩu có năm người, gồm bố mẹ và ba
đứa em cô, tất cả sinh hoạt gói trong mười lăm mét vuông. Cô cho biết, đây là
cảnh sống của tuyệt đại đa số cư dân phố cổ, nhưng sống tại phố cổ vẫn là ao
ước của nhiều người, nhà cửa ở đây đắt hơn kim cương. Tôi ngồi chơi một lát rồi
lỉnh đi mất, tôi có ý định tìm tới vườn Bách Thảo, mong lấy lại một chút thi vị của Hà
Nội.
Tôi tới vườn Bách Thảo thì trời đã nhá
nhem tối. Trong vườn, không khí nhẹ nhõm mát mẻ, quả thật cô diễn viên múa đó
đã không đánh lừa tôi. Đây đúng là một vườn địa đàng. Các loại cây cổ thụ xoè
tán uy ngiêm, trên gốc già cỗi là những loài cây kí sinh, chen nhau mọc xanh
rì, càng làm tăng vẻ huyền bí. Trong vườn cũng có hồ, có những con đường nhỏ
rải nhựa chạy uốn lượn ngoằn nghoèo. Giữa vườn có một trái núi đất (sau tôi
được biết tên, đó là Núi Nùng) có vẻ như là tự nhiên, chứ không phải như những
hòn giả sơn vẫn có nhan nhản trong các khu du lịch ở Sài Gòn. Núi Nùng rất đẹp,
đủ chủng loại cây mọc trên nó, có đường đi lên và trên đỉnh hình như có một ngôi
chùa hay một cái miếu gì đó. Dọc con đường nhỏ, có đặt những chiếc ghế đá, đây
đó có một vài cặp tình nhân đang ngồi tâm sự. Cảnh vật, không khí này, với vẻ u
tịch mơ màng khiến tôi chợt nhớ tới một bài ca về Hà Nội. Thậm chí tôi còn cất
tiếng hát khe khẽ.
Tôi theo con đường nhỏ leo lên
đỉnh Núi Nùng. Chà, núi cao ra phết, tôi đã khá mỏi chân. Chợt tôi thấy đâu đó
một mùi um um rất khó chịu, tôi nhìn quanh và phát hiện ra một đám cháy nho
nhỏ, xung quanh là mấy thằng nhóc chừng mười ba, mười bốn tuổi đang la hét cười
như nắc nẻ. Tò mò, tôi tiến lại gần, thì ra cái mùi là lạ kia phát ra từ đám
cháy. (Về sau, cô "diễn viên múa" có giải thích cho tôi rằng cái mùi
đó là do bọn trẻ con đốt hạt của một loại trái cây, thứ trái đó người ta gọi là
quả thối, một thứ quả đặc sản của Núi Nùng. Bọn trẻ đốt để khủng bố các cặp
tình nhân.) Thấy lạ quá, tôi tiến vào gần hơn, thì một thằng nhóc, mặt câng
câng hất hàm bảo tôi:
"Nhìn
cái đéo gì? Thích gì?"
Tôi hốt hoảng, bật lui rồi quay trở
xuống. Xuống đến chân núi, tôi đã mỏi chân lắm, thấy một chiếc ghế đá còn
trống, tôi bèn ngồi xuống. Vừa dựa lưng vào lưng ghế, tôi chợt thấy dính nhem
nhép đằng sau, đưa tay quờ ra sau, tôi linh cảm ngay thấy điều chẳng lành. Một
mùi thối hung hãn khủng khiếp bốc lên. Thôi đúng rồi, có đứa nào chơi ác, nó ỉa
lên lưng ghế. Thế là nguyên mảng lưng áo tôi dính nhoe nhoét, toàn cứt. Thực ra
cứt nó chỉ là sản phẩm của bộ máy tiêu hoá, với nguyên liệu đầu vào là những
thứ thơm tho. Có điều cũng nguyên liệu đó nếu đưa vào những bộ máy tiêu hoá
khác, như của con heo chẳng hạn, thì nó sẽ cho ra sản phẩm kém chất lượng hơn
nhiều, mùi cứt heo so với cứt người thì kém xa về độ tàn bạo. Chỉ có bụng dạ
con người mới có khả năng để cho ra những thứ thối tha như thế. Tôi lâm vào
tình thế khó xử quá, cởi áo vứt đi thì cởi trần từ đây về nhà sao được, từ đây
về tuốt đường Tầu Bay đâu có gần gụi gì. Mà nếu để nguyên thế này ra ngoài
đường thì thiên hạ họ chửi bố lên cho, có khi họ còn đánh ấy chứ. Dám lắm.
Cuối
cùng tôi quyết định cứ để nguyên thế mà về, tôi bảo anh xe ôm rằng tôi sẽ trả
tiền gấp đôi, anh ta mới chịu. Trên đường, tôi đi tới đâu, dân tình giạt ra tới
đó, có mấy thằng du côn khạc nhổ chửi bới ầm ĩ. Mặc kệ, tôi còn cảm thấy thích,
coi đây là một sự trả thù đời nho nhỏ.
Đoàn tôi đã thi xong. Mọi người đều
phấn khởi vì hôm thi, ai cũng làm tốt phần việc của mình, cả đoàn chắc mẩm đạt
được thành tích đề ra, tức là đứng thứ ba toàn đoàn. Thực lực đoàn tôi có thể
tranh chấp ngôi nhất nhì, nhưng vuốt mặt nể mũi, phải tôn trọng đoàn chủ nhà
chứ. Đấy là luật bất thành văn của bất kỳ cuộc hội diễn nào. Biết như thế nên
lãnh đạo đoàn chỉ đề ra chỉ tiêu đứng thứ ba. Thế nhưng mọi việc không như dự
tính, kết quả đoàn tôi đứng thứ hai từ dưới lên. Hôm đi nghe kết quả về, ông
trưởng đoàn mặt cứ như đưa đám, phen này về ăn nói ra sao với cấp trên, chương
trình đầu tư mấy trăm triệu chứ bỡn à.
Tôi nghe trong đoàn người ta bàn tán
rằng, hồi bắt đầu dàn dựng chương trình, ông A. (một cây đa cây đề trong làng
ca múa nhạc quân đội, trưởng ban giám khảo) đã vào đoàn và đặt thẳng vấn đề,
nếu đoàn đưa cho ông mấy trăm triệu đó, ông sẽ lo dàn dựng toàn bộ chương trình
và bảo đảm chỉ tiêu đứng thứ ba (giống như một thứ thầu khoán và bảo hành công
trình). Chả hiểu sao ông trưởng đoàn tôi không đồng ý.
Trong khi tất cả các đoàn phía Nam đều do
một tay ông A. lo hết. Thế bảo sao chả về áp chót. Ghê thật. Đúng là thời hiện
đại, kinh tế thị trường. Môi trường văn hoá nghệ thuật cũng không thoát khỏi sự
chi phối của nó. Các ông văn hoá đầy mình còn hành xử như thế, trách quái gì ba
cái chuyện nói ngọng với ỉa bậy.
Ngày mai đoàn tôi lại về Sài Gòn. Đoàn
đứng vị trí thứ mấy với tôi chẳng quan trọng, tôi chỉ là thằng nhạc công và tôi
đã làm tốt phần việc của mình. Những chuyện "maphia" đó thuộc phần
các vị chức sắc. Tôi chỉ biết, tôi đã được du hí nửa tháng trời ở thủ đô.
Thế là mãn nguyện...
Chuyến Đi Nhớ Đời-Vương Văn Quang
Nguồn : Facebook Le Chung
Bài “CHẲNG THƠM CŨNG THỂ HOA NHÀI
này” tác giả muốn đề cập đến Văn hoá của người Tràng An xưa ....cho đến khi hoà
bình lập lại 10/10/1954 (Không thơm cũng thể hoa nhài, dẫu không thanh lịch
cũng người Tràng An)
Vậy phải hiểu Văn hóa là gì ? Nếu hỏi google
thì có rất nhiều định nghĩa…
Theo tôi tất cả các định nghĩa về
văn hoá tôi tâm đắc nhất câu : "Cái gì còn lại khi tất cả những cái khác
bị quên đi- cái đó là văn hoá" của (E.Heriôt) câu này đơn giản nhưng súc
tích và đầy đủ nhất...và cái gì còn lại ở Hà Nội về văn hoá sau giải phóng Thủ
đô cho tới hôm nay tất nhiên chúng ta phải đi tìm nhất là sau khi được đọc bài
viết này.......Chắc trong mỗi chúng ta ai ai cũng nhớ câu ca dao thời bao cấp:
Con gái Khu Ba da trắng tóc xanh
Mỗi khi chồng gọi thưa anh gọi gì (nhưng đểu)
Con gái khu bốn chân cẳng đen xì
Mỗi khi chồng gọi chi chi rứa hề (lại chân tình)
Bàn về giọng nói và văn hoá của
người Hà Nội, trước hết phải bàn lịch sử trước hết, các đời vua Ngô, Đinh, Lê
Tiền, Lý, Trần, Hồ, Lê Sơ, Mạc, Lê Trung hưng và Lê Mạt, Tây Sơn, Nguyễn có vị
vua nào là người Hà Nội không? Vậy văn minh Hà nội có được là do đâu? không lẽ
do người ở quê các ông vua kia chạy về sống ở kinh thành mang lại, không lẽ lại
do các thương gia Trung, Ấn ở phố Hàng ngang, hàng Đào và Hàng Buồm mang lại.
Hay là do các nhân sỹ Bắc Hà vùng Châu thổ sông Hồng mang lại. Hay do các người
thành danh đỗ đạt khoa bảng ở Đông Cổ Am, Nam Hành Thiện, Nghệ Đông Thành,
Thanh Đông Biện đem tới; Người Hà Nội Giọng nói nghe phổ thông đấy nhưng chua
và không chuẩn (nói A&B thì lại nói là A với cả B), không thật, nói hay
nhưng không làm theo lời nói, hay nói tục và vô lễ với người trên, phụ nữ thì
lăng loàn. Sống ở SG Bạn có nghe trẻ con chửi ông bà già bao giờ chưa hay chỉ
có ở HN, đã được nghe vợ chửi chồng như hát hay chưa hay chỉ có ở HN. Mặt khác
người Hà nội không có quê, nên chẳng có gì đáng tự hào, chẳng qua chỉ là dân
góp nhiều nơi có học một chút hợp lại thành quần cư để sinh sống rồi trở thành người
kẻ chợ thôi. Bạn đã nghe ai nói tôi quê Hà Nội chưa? Họ chỉ dám nói tôi đang
sống ở Hà Nội hoặc nhiều đời sống ở chốn này. Từ sau Nghị quyết Đại hội đảng IV
nếu nói về phân vùng kinh tế và các khu kinh tế mới trong cả nước thì Khu kinh
tế mới của HN là huyện Lâm Hà tỉnh Lâm đồng, khu kinh tế mới của Nghệ An là HN
và đương nhiên người làm kinh tế mới phải đem đến nơi họ ở giọng nói mới, sinh
khí mới, phong tục, tập quán mới hay nói gọn đi đó là văn hoá mới......Người
Nghệ An có nhiều ở HN trong nửa cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21 là rất hợp lý vì
họ là quê hương của “đời vua cuối cùng” đồng thời học hành đỗ đạt cao hơn các
địa phương khác trong cả nước, nhưng so với chiều dài lịch sử thì rất ngắn (chỉ
hơn nửa thế kỷ) vậy thời kỳ ngắn này HN tạm chịu ảnh hưởng của Văn hoá xứ Nghệ.
Còn ngày xưa người xứ Nghệ chỉ làm Thần (cống nộp) hoặc siêng năng thờ thần
chẳng có gì đặc biệt, trong khi xứ Thanh hầu hết làm vua trong các thời kỳ (Tứ
vương Nhị Chúa…trừ triều Lý-Trần) lịch sử Việt Nam (cậy thế) vì vậy nên người
xưa có câu: “Xứ Thanh cậy thế, Xứ Nghệ cậy thần”. Tóm lại HN cổ chịu ảnh hưởng
lớn của văn hoá xứ Thanh (Văn hoá “Thế”) văn hoá của sự ly gián, đố kỵ và chà
đạp nhau để leo lên ngôi vua, trái với (Văn hoá Thần) “đoàn kết chống lại vua”
có lẽ vì vậy và cho đến bây giờ cũng vậy người Nghệ An thành lập hội đồng hương
dễ hơn và được lâu hơn người Thanh Hoá. Tôi nói như vậy có nghĩa là người Tràng
An (thanh lịch) xưa 90% chịu ảnh hưởng của văn hoá xứ Thanh và còn đọng lại cho
đến ngày nay (cái gì còn lại trong khi những cái khác lần lượt bị mất đi đó là
“Văn hoá”), rất ít người nhận ra điều này (hoặc giả vờ không nhận ra) vì cái đó
không đẹp đẽ gì (văn hoá Tôi, VH nói xấu người khác, VH đố kỵ, chà đạp, ghen
ghét không muốn cho ai hơn mình ngay cả đối với người thân trong gia đình cũng
đối xử như vậy) họ luôn nhăm nhăm phấn đấu để trở thành người (ăn trên, ngồi
trốc-từ này của Nghệ An), thành người “đi không phải báo, nói láo có người
nghe, đe có người sợ, vợ có người chăm, nằm có người bóp, họp có người ghi, chi
có người trả, ngã có người nâng, tâng có người hứng,..”. Buồn thay. Nếu bạn đọc
ca dao “mười yêu” qua các thời kỳ sẽ thấy rất rõ bản chất và thói quen của
người Hà Nội, bởi vì ca dao thường thể hiện lề lối, thói quen của các thời kỳ
được người lao động thừa nhận (SG: Năm
yêu mảnh áo ngắn tà. Sáu yêu quần trắng là đà gót sen, HN: Năm yêu không có bà
bô. Sáu yêu Văn Điển ông bô sắp về). Rất bất hiếu và khốn nạn. Tại sao vậy?
Phải chăng bị bọn nhà quê đảo lộn văn hóa ?
Theo tôi người Hà nội gốc cũng là
người nhà quê thôi...nhà quê ra tỉnh ăn nên làm ra nhưng không tôn trọng quê mà
lại khinh rẻ quê nên một khi người bị khinh rẻ đông hơn quay lại sống gần thì
cái giá phải trả là tất yếu....cái mà người đời trả thù đau nhất đó là thay đổi
phong tục, tập quán, lề lối, thói quen tóm lại là thay đổi văn hoá. Bởi vậy thơ
Nguyễn Bính thời nay được người Hà Nội cải biên lại như sau:
Hà Nội xưa ba sáu phố phường (Nguyễn Bính)
Hà Nội nay 63 Hội đồng hương (Nghệ An đông nhất)
Hà Nội rộng ra thành Hà Nội khác (Hà Lội)
Hà Nội rộng ra thành Hà Nội khác (Hà Lội)
Tìm Tràng An xưa biết hỏi mấy đường (Bỏ luôn khỏi tìm)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét