VAI TRÒ
CỦA CÁC CHÚA TRỊNH THỜI LÊ TRUNG HƯNG Ở THÀNH TÂY ĐÔ VÀ CĂN CỨ BIỆN THƯỢNG
Dòng dõi
các chúa Trịnh trải qua 11 đời, sinh ra và lập nghiệp từ đất Vĩnh Lộc có truyền
thống văn hiến. Công lao to lớn nhất của các chúa Trịnh là đóng góp quyết định
vào sự nghiệp trung hưng nhà Lê, góp phần chấm dứt nội chiến Nam Bắc Triều và
giữ gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy sự phát triển của quốc gia Đại Việt trong
lịch sử dân tộc. Điều đó đã được phân
tích chứng minh, luận bàn và khẳng định qua rất nhiều cuộc hội thảo từ nhiều
thập kỷ nay. Tuy nhiên, thành công ấy của các chúa Trịnh thực sự gắn liền với
quê cha đất tổ, vừa là nơi phát tích cũng chính là bệ đỡ vững chắc để các chúa
Trịnh làm nên công danh, sự nghiệp là mối quan hệ hết sức chặt chẽ cần tiếp tục
nghiên cứu.
Tròn 50 năm (1543 -1593) là thời kỳ
chiến tranh Nam Bắc Triều, mở đầu của thời Lê Trung hưng, lịch sử dân tộc gắn
liền với hai địa danh nổi tiếng: Thành Tây Đô và căn cứ Biện Thượng cùng hai vị
chúa có công khai mở là Minh Khang Thái Vương Trịnh Kiểm và Bình An Vương Trịnh
Tùng, những địa danh và danh nhân lịch sử ấy đã gắn kết chặt chẽ với giá trị
của nhiều di sản quý giá mà tiêu biểu nhất là Di sản văn hóa thế giới Thành Nhà
Hồ và di tích lịch sử văn hóa Quốc gia Phủ Trịnh, Nghè Vẹt. Ở đây từ góc nhìn
lịch sử, những diễn biến cụ thể mà sử liệu cho biết chúng tôi muốn tìm hiểu sâu
hơn vai trò, vị trí của các chúa Trịnh (chủ yếu là Trịnh Kiểm và Trịnh Tùng)
với hai vùng đất đặc biệt quan trọng như đã nói trên.
Tượng
Triết Vương Trịnh Tùng
Ngược dòng lịch sử nhà Lê Sơ sau gần
100 năm tồn tại (1428 - 1527) với đỉnh cao của chế độ phong kiến nước ta đã đi
vào khủng hoảng. Tháng 6 năm 1527, tập đoàn phong kiến do Mạc Đăng Dung cầm đầu
đã thay thế nhà Lê, mở ra một cục diện Nam Bắc triều. Nhà Mạc vẫn đóng đô ở
Thăng Long, tiến hành xây dựng Dương Kinh ở Kiến An và chiếm giữ Tây Đô, một
căn cứ quân sự trọng yếu. Thanh Hóa, một lần nữa trở thành chỗ dựa căn bản để
Nguyễn Kim, một cựu thần nhà Lê và tiếp theo là Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng giương
cao ngọn cờ phù Lê diệt Mạc, khôi phục lại những trang sử hào hùng mà nhà Lê
từng có. Năm 1533, vua Lê Duy Ninh (Trang Tông) được Nguyễn Kim lập nên làm vua
ở đất Ai Lao, đặt nguyên hiệu là Nguyên Hòa.
Năm 1539, do có nhiều công lao đánh
Mạc ở Lôi Dương, lại có công sang Ai Lao đón vua Lê Trang Tông về, được vua Lê
phong làm Dực tướng quân, Trịnh Kiểm tỏ ra một vị tướng tài năng, cầm quân đánh
bật quân Mạc khỏi địa bàn Lôi Dương. Mùa xuân năm 1543, với quyết tâm nhanh
chóng giành lại địa bàn Thanh Hóa và lập căn cứ khôi phục nhà Lê, Lê Trang Tông
cùng Trịnh Kiểm tiến quân vây thành Tây Đô, Trung hậu hầu Dương Chấp Nhất (giữ
thành Thanh Hóa) không dám chống cự phải đem quân ra cửa Nam thành đầu hàng.
Vua Trang Tông dùng thành Tây Đô làm đại bản doanh, tổ chức lực lượng tấn công
trấn Sơn Nam (vùng Ninh Bình, Hà Nam, Nam Định…) công cuộc trung hưng hãy còn
dang dở, Nguyễn Kim người khởi xướng sự nghiệp trung hưng bị hành tướng Dương
Chấp Nhất hãm hại. Vua Lê phong Trịnh Kiểm (con rể Nguyễn Kim) làm Đô tướng
tiết chế các xứ thủy bộ Chư dinh kiêm nội ngoại, Bình Chương quân quốc trọng sự
Thái sư Lạng quốc công, được toàn quyền xét xử trù liệu mọi việc. Từ đây, vai
trò vị trí của Trịnh Kiểm cũng như vị chúa kế nghiệp xuất sắc là con trai ông,
Trịnh Tùng nổi lên sáng láng gắn liền với vùng đất tổ Vĩnh Lộc. Với Trịnh Kiểm
được vua Lê giao cho chính quyền, “từ quyền quân sự, ở ngoài đến sự vụ quốc
gia, công việc đánh dẹp và phong tước bổ chức đều được tùy tiện quyết định rồi
tâu lên vua biết”(1), đây là công việc hết sức nặng nề. Để nhanh chóng thu phục
toàn bộ đất nước, ông đã khẩn trương cho xây dựng kinh đô trung hưng Vạn Lại
Yên Trường vào năm 1546 và củng cố pháo đài quân sự Tây Đô cũng như căn cứ Biện
Thượng. Năm 1553, Thái sư Trịnh Kiểm lập hành cung và đóng đồn binh ở Biện
Thượng, lập kế hoạch chống Mạc.
Phủ Trịnh
Dưới góc nhìn quân sự, hành chính,
vùng đất Biện Thượng từ thời Trần về trước là huyện Vĩnh Ninh cho đến thời Lê
Trung hưng đổi gọi là huyện Vĩnh Phúc (do kiêng tên húy vua Trang Tông Lê Duy
Ninh). Đến thời Nguyễn đổi thành Vĩnh Lộc. Thời Đồng Khánh (1886 - 1888), tổng
Biện Thượng là một trong 7 tổng của huyện Vĩnh Lộc bao gồm 8 xã, thôn(2) có thể
tương ứng với các xã: Vĩnh Hùng, Vĩnh Tân, Vĩnh Minh, Vĩnh Thịnh, Vĩnh An mà
trung tâm là xã Vĩnh Hùng bây giờ. Căn cứ Biện Thượng được Thái sư Trịnh Kiểm
lựa chọn, xây dựng nằm ở tả ngạn sông Mã. Phía Bắc là huyện Thạch Thành có núi
rừng trùng điệp. Sông Mã ở đoạn này, sát với đê có nhiều núi đá không cao cùng
những quần tụ dân cư đông đúc tạo thành những làng xóm ven sông. Từ đây lại có
thể ngược sông lên Tây Đô, Thạch Thành và xuôi xuống đồng bằng ven biển, thực
là vị trí đắc địa cho các nhà cầm quân khi lập căn cứ quân sự.
Mùa thu năm Ất Mão (1555), trước sự
lớn mạnh của quân Lê Trịnh, Mạc Phúc Nguyên sai Mạc Kính Điển trực tiếp cầm
quân đi đánh dẹp Thanh Hóa, hòng tiêu diệt lực lượng trung hưng giành lại địa
bàn Thanh Hóa. Quân Mạc chia làm 2 đạo thủy bộ: Một do Thọ quận công làm tiết
chế với hơn 100 chiến thuyền làm lực lượng tiên phong; một do Mạc Kính Điển
đích thân chỉ huy hẹn cùng nhau họp quân ở sông Đại Lại (sông Lèn) sau đó Thọ
quận công theo đường thủy ngược lên đóng quân ở núi Kim Sơn (thuộc xã Vĩnh An
ngày nay). Biết trước kế hoạch của quân Mạc, Thái sư Trịnh Kiểm đã họp các
tướng lĩnh bàn cách chống giặc. Ông đã cắt cử các tướng đi trấn an dân chúng
không được hoảng loạn để gây thế chủ quan cho quân Mạc. Mặt khác, ông chia quân
bản bộ làm 3 mũi đem quân phục kích ở hữu ngạn sông Mã, đội thuyền chiến chắn
giữ thượng lưu sông Mã và một mũi do Thái sư Trịnh Kiểm đích thân đem đại quân
mai phục ở tả ngạn từ núi Kim Sơn đến núi Bạch Thạch với 50 thớt voi và từng
quãng đều có quân mai phục. Khi quân Mạc tiến đánh ngang vùng núi Quân An, quân
Lê Trịnh từ hai bờ sông nghe tiếng súng lệnh, nhất loạt xông ra đánh. Quân hai
bờ sông ép lại, voi chiến của Trịnh Kiểm khóa đuôi, quân thủy của Phạm Đốc chặn
đầu, khiến cho quân Mạc tan tác: “giặc chết lấp kín sông, nước sông đều sắc đỏ.
Lấy được khí giới không kể xiết. Quân giặc hơn vài vạn chết gần hết”(3). Cuối
cùng, Mạc Kính Điển không chống đỡ nổi, phải thu nhặt tàn quân chạy trốn về
kinh như sử sách đã chép.
Tháng Giêng năm Bính Thìn (1556), Lê
Trang Tông băng hà. Trịnh Kiểm lập Lê Duy Bang (tức vua Lê Anh Tông) lên ngôi
hoàng đế trên đất Thanh Hóa, tiếp tục công cuộc trung hưng.
Trong
những năm 1558 - 1560, quân Lê do Trịnh Kiểm chỉ huy tấn công Bắc triều với các
đợt phản công lớn: Đánh Sơn Nam, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Kinh Bắc... mà điểm
xuất phát đều từ Vạn Lại, Tây Đô, Biện Thượng mỗi đợt tấn công tới 10 vạn binh
lính, đa phần là người Thanh Hóa.
Tháng 3 năm 1561, Trịnh Kiểm lại đốc
thúc các tướng đi đánh Mạc ở vùng Hải Dương, Kinh Bắc. Mạc Phúc Nguyên sai các
tướng một mặt đánh nhau với quân Trịnh Kiểm, một mặt sai Kính Điển đem theo một
đạo qân, vòng đường biển đánh úp Thanh Hóa. Tây Đô, Biện Thượng lại trở thành
nơi tranh chấp quyết liệt. Các tướng nhà Trịnh là Vũ Sư Thước, Lại Thế Khanh đã
tập trung binh lực chống trả quyết liệt, khiến cho quân Mạc thất bại, buộc phải
thu quân về kinh. Tháng 9 cùng năm, từ mặt trận phía Bắc, “Thái sư Trịnh Kiểm
liền đem quân về Thanh Hóa, lạy chào vua ở hành tại Yên Trường, cáo thắng trận
xong, đóng quân ở Cao Mật, phía Nam thành Tây Đô, thưởng chiến công đánh
giặc”(4).
Lịch sử lại cho thấy, tháng 2 năm Canh
Ngọ (1570), khi cuộc chiến tranh Nam Bắc Triều đang diễn ra quyết liệt thì Thái
sư Trịnh Kiểm ốm rồi mất. Trịnh Tùng (con
thứ của Trịnh Kiểm)được vua Lê Anh Tông sắc phong làm Trưởng quận công
tiết chế thủy bộ chư dinh, cầm quân đánh giặc. Dưới sự thống lĩnh của Tiết chế
Trịnh Tùng, quân Lê - Trịnh chia nhau chốt giữ các cửa lũy, các xứ, bố trí lực
lượng, kiên quyết chống trả quân Mạc. Sau chiến dịch đánh chiếm Thanh Hóa bị
bại, nhà Mạc vẫn không ngừng mưu đồ tiêu diệt nhà Lê. Do vậy, vùng Tây Đô, Biện
Thượng cũng như Thanh Hóa thường xuyên bị nhà Mạc quấy phá đặc biệt ở các năm
1572, 1573, 1575… nhưng đều bị thất bại.
Trong cuộc nội chiến Nam Bắc Triều,
thành Tây Đô như đã nói là một căn cứ quân sự hết sức trọng yếu của quân Lê -
Trịnh trong kháng chiến chống Mạc. Nhiều sự kiện lịch sử khác có liên quan đến
vai trò của tòa thành này cũng đã được ghi chép với những sự kiện quan trọng.
Ví như trận lũ lụt tháng 8 năm Kỷ Mùi (1559): “Ở Thanh Hóa, Nghệ An, nước lũ
tràn ngập, đê điều, đường sá bị vỡ lở, trôi mất vài trăm nhà. Trong thành Tây
Đô do vậy bị ngập, kho tàng phần nhiều bị ngập nước nhân dân đói kém”(5). Hoặc
trận lụt tháng 4 năm 1586: “Vùng Thanh Hóa trời không mưa gió mà nước sông Mã
bỗng dâng cao, thành Tây Đô bị ngập, ở ngoài nước xoáy, chảy xiết như bắn, cây
cối đổ lấp cả sông, các nhà ven sông phần nhiều bị trôi ra biển”(6). Những chi
tiết trên không chỉ phản ánh tình hình thiên tai, lũ lụt diễn ra ở vùng Tây Đô,
Biện Thượng trong thời gian này là hết sức nặng nề mà còn cho biết ngoài một
công trình quân sự, thành Tây Đô còn là kho tàng lớn, nơi dự trữ quân lương của
triều đình. Đây còn là diễn ra các sự kiện văn hóa, chính trị quan trọng của
đất nước. Sử chép, tháng 8 năm Nhâm Tuất (1562), để tuyển dụng nhân tài cho
triều đình, nhà Lê đã “lập trường thi Hương ở cửa Nam thành Tây Đô”(7). Rất
tiếc sử liệu không cho biết rõ những ai đậu đạt trong khoa thi này.
Cuối
năm 1591, quân Lê Trịnh dưới sự chỉ huy của Trịnh Tùng đã làm chủ được cục diện
chiến trường, tiến hành tổng công kích quyết liệt ra Bắc. Trịnh Tùng đã huy
động đến 6 vạn quân, chia thành 5 đạo cùng xuất phát: “Quân từ Tây Đô đi ra
theo đường huyện Quảng Bình, qua phủ Thiên quan đào núi, mở đường, luồn cây
xuyên rừng, vượt sông chui hang, đi gấp 10 ngày đến núi Mã Yên ở đầu Sơn Tây
thì đóng quân lại”(8). Thừa thắng, quân Lê Trịnh tấn công Thăng Long, Mạc Mậu
Hợp bỏ chạy. Cuối cùng, tháng 2 năm 1593, dưới sự chỉ huy của Tiết chế Trịnh
Tùng, quân Nam Triều đã đánh dẹp được nhà Mạc, kết thúc cục diện Nam Bắc Triều
kéo dài tròn nửa thế kỷ với nhiều biến động, thăng trầm. Trong sự nghiệp lớn lao
này, vị trí của các chúa Trịnh trong đó có Trịnh Tùng được sử gia Phan Huy Chú
nhận xét: “Năm Quang Hưng thứ 15 (1592), tiết chế Trịnh Tùng tiến quân lấy được
Đông Đô, Mạc Mậu Hợp chạy về kinh thành, Trịnh Tùng đuổi bắt được. Trong nước
khi ấy được bình định. Từ Lê Trang Tông trung hưng đóng đô ở Tây Đô đến đây
trải qua 3 đời, hơn 60 năm, cõi đất chia xé đến nay mới lại thống nhất”(9).
Trở lên, từ những ghi chép tản mạn của
chính sử, những lần điều tra thực địa trước đây, chúng tôi đã cố gắng xâu chuỗi
những sự kiện trọng yếu trong thời kỳ Nam Bắc Triều để khẳng định vùng đất Tây
Đô - Biện Thượng có mối quan hệ mật thiết, có vị trí chiến lược đặc biệt quan
trọng ở thời kỳ này. Từ vùng đất địa linh này đã sinh ra những nhân kiệt, ở đó
tên tuổi của Thái vương Trịnh Kiểm, của Bình An Vương Trịnh Tùng nổi bật, xứng
danh với một dòng họ có nhiều đóng góp cho dân tộc./.
Ghi chú:
(1). Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm
định Việt sử thông giám cương mục, T.2, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1998, tr.124.
(2). Viện nghiên cứu Hán Nôm, Đồng
Khánh địa dư chí, Nxb Thế giới, 2003, tr.131.
(3). Ngô Sĩ Liên và các sử thần nhà
Lê, Đại Việt sử ký toàn thư, T.3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1998, tr.140.
(4). Đại Việt sử ký toàn thư, Sđ d,
tr.134.
(5), (6), (7), (8). Đại việt sử ký
toàn thư, Sđ d, tr.132; tr.16; tr.135; tr. 168.
(9). Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, T.1, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992, tr.39 - 40.
Tác giả:
TS. Lê Ngọc Tạo
Phó Chủ
tịch Hội Khoa học Lịch sử Thanh Hóa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét