“Té ơi,
rặn đi...”
Từ Thành
Nhà Hồ xuôi theo quốc lộ 217 khoảng hơn 10 ki-lô-mét là đến làng Kênh Thủy hay
còn gọi là Bản Thủy, nay được chia thành 4 làng thuộc xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh
Lộc (Thanh Hóa).
Theo
lịch sử Đảng bộ xã Vĩnh Thịnh, với những kết quả các đợt khai quật di chỉ khảo
cổ học núi Hến - Đa Bút, Rú Hến - Kênh Thủy, khẳng định ở khu vực Núi Hến (nay
thuộc địa phận làng Đoài, xã Vĩnh Thịnh) có cư dân nguyên thủy cư trú. Sách
“Thanh Hóa tỉnh, Vĩnh Lộc huyện chí” của Lưu Công Đạo biên soạn thời Gia Long
thứ 15 (1816), viết: “Tương truyền, xã Khắc Kiệm xưa kia có một cái khe làm
thành hồ thủy, phát nguồn từ Yêu Cức, chảy vòng hợp ở phía trước, cư dân vì thế
mà thịnh vượng. Dân khang vật thịnh, địa linh nhân kiệt, sinh ra nhiều bậc Thám
hoa, Tiến sĩ. Sau này nhờ hiển đạt của các quan, nhân đó đổi thành xã Phú
Thịnh. Trong thời gian đó, xã Đa Bút cắt đứt mất khe nước mà cho chảy ra phía
Tây. Dòng nước bên hữu ở ngoài đường. Phía ngoài sợ hổ ra, cư dân nhiều người
bị hổ vồ, trở nên tiêu điều, rồi trở thành phiêu tán. Có thể nói dân cư có liên
quan đến phòng thủ là như thế”.
Chùa Hoa
Long mang dấu ăn văn hóa Chăm Pa ở làng Kênh Thủy, nay là xã Vĩnh Thịnh, huyện
Vĩnh Lộc
Chùa Hoa
Long mang dấu ăn văn hóa Chăm Pa ở làng Kênh Thủy, nay là xã Vĩnh Thịnh, huyện
Vĩnh Lộc
Theo các
cụ cao niên trong làng vẫn thường kể lại cho con cháu về gốc tích vùng đất quê
mình, rằng: Tương truyền, khu vực này vốn là vùng nước mênh mông, cá, tôm, cua,
ốc,… đầy đồng, đất đai màu mỡ. Cũng bởi lẽ, thấy vùng nước mênh mông nên người
ta gọi đây là đất Kênh Thủy, sau đó gọi là Bản Thủy. Tuy gọi là làng, nhưng giờ
đây là một xã, có bốn làng, gồm: Đoài, Trung, Đông, Sanh với dân số gần chục
ngàn người. Kênh Thủy không chỉ được biết đến là một vùng đất địa linh nhân
kiệt nằm bên bờ sông Mã, mà nơi đây còn tồn tại một thứ tiếng đặc trưng, mang
nét riêng biệt so với ngôn ngữ ở bất cứ vùng đất nào khác.
Qua lời
giới thiệu, chúng tôi tìm đến gia đình ông Nguyễn Mạnh Hùng, ở làng Sanh, là
một trong bốn làng của xã Vĩnh Thịnh ngày nay. Năm nay đã bước sang tuổi 67,
nhưng ông Hùng cũng không biết nguồn gốc thứ tiếng mà bản thân ông cũng như
người dân Kênh Thủy đang sử dụng hàng ngày bắt nguồn từ đâu. Trong suy nghĩ của
ông thì thứ tiếng đó như là nguồn cội của mình.
“Người
dân làng đi xa về mà dùng tiếng phổ thông là người ta gọi là mất gốc. Sử dụng
tiếng riêng của mình, chúng tôi thấy rất tự nhiên, thoải mái. Những người từ
nơi khác về làm dâu, rể dần dần cũng quen và nói được hết, chỉ có điều phát âm
không được như người bản địa. Nó cũng chỉ khác nhau về cách phát âm, còn ngôn
ngữ thì giống nhau”. Ông Hùng dẫn chứng: "Té ơi, rặn đi. Cằm triêng nác,
qua mầu rầy, mượn đôi chắng còng đôi trành ra triêng má lên đòng cao cho thày
chá". Thấy chúng tôi còn ngơ ngác, ông Hùng tươi cười, “phiên dịch”: “Bé
ơi, dậy đi. Cầm đòn gánh qua nhà bà dì, mượn đôi quang cùng đôi dành ra gánh mạ
lên đồng cao cho bố nhé”.
Làng
Kênh Thủy yên bình bên bờ sông Mã
Điều đặc
biệt với người dân nơi đây, từ bao đời nay đã tồn tại một thứ “song ngữ” trong
sinh hoạt, giao tiếp hàng ngày. Từ những vật dụng, cây cối, con vật...đều có
những từ riêng mà chỉ người Kênh Thủy nghe mới hiểu. Có thể lấy một số ví dụ
như: Tóc - tắc, mũi - mủn, răng - nanh, lưỡi - lản, chân - chò, vung nồi - bàng
xoong, nia - nâm cấm, gầu múc nước giếng - đài mốc nác, gầu tát nước - bẳn tát
nác, gáo múc nước - chuộc, giường - chằng, bàn thờ tổ tiên - chằng cao, con
nhện - con rạnh, con chuồn chuồn - bà bịm, con mèo - mẻo, châu chấu - chàu
chạu, con rết - con tít, con thạch sùng - con mốn, hạt tấm - mẳn, rơm - bui,
môi người - mui, vợ chồng - cấy nhông...
Chưa xác
định được nguồn gốc
Có thể
nói, thứ tiếng riêng được coi như tiếng mẹ đẻ và nó là niềm tự hào của những
con người sinh ra từ vùng đất này. Người dân vùng đất Kênh Thủy vốn là người
Kinh, tuy nhiên, chỉ mỗi khi đi ra, giao tiếp “đối ngoại” với người ngoài, họ
mới sử dụng bằng tiếng phổ thông, còn tất cả trong sinh hoạt, giao tiếp hàng
ngày giữa người dân trong làng với nhau thì họ dùng thứ tiếng riêng của mình.
Dù thứ
tiếng đó không thuộc một trong 54 ngôn ngữ của các dân tộc trên cả nước, chỉ
khác nhau về cách phát âm, tuy nhiên, nếu người dân nơi đây dùng thứ tiếng
riêng của mình thì người ngoài nghe qua không thể hiểu được. Để có được thứ
tiếng độc đáo, mang nét riêng biệt, phải khẳng định rằng, người dân vùng đất
Kênh Thủy có một vốn từ vựng phong phú, đa dạng và khác biệt so với các vùng,
miền khác ở xứ Thanh.
Với quan
niệm "chém cha không bằng pha tiếng" nên những người đi trước ở Kênh
Thủy luôn răn dạy lớp người đi sau về thứ tiếng địa phương mình. Dù lớn lên, đi
học hành hay làm ăn, sinh sống ở bất cứ nơi đâu thì người dân làng Kênh Thủy
cũng luôn ý thức giữ gìn tiếng mẹ đẻ của mình. Không chỉ ở Kênh Thủy, người dân
mới dùng thứ tiếng riêng của mình mà dù ở nơi khác, người cùng làng gặp nhau
thì họ cũng giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ, chứ không dùng tiếng phổ thông.
Với
những người từ nơi khác về làm dâu, rể ở Kênh Thủy, qua thời gian có thể hiểu
được ngôn ngữ nơi đây nhưng không thể phát âm chuẩn như người dân bản địa. Còn
những đứa trẻ sinh ra và lớn lên ở vùng đất này, dù không ai dạy nhưng đều nói
tiếng mẹ đẻ. Đến tuổi đi học thì học sinh đều nói tiếng phổ thông. Nhưng khi ra
khỏi lớp học, ngay lập tức, lũ trẻ lại trở về với thứ tiếng nói vốn có của
mình.
Ông Lê
Văn Sự - Chủ tịch Hội khuyến học huyện Vĩnh Lộc - nguyên là Trưởng phòng Văn
hóa Thông tin huyện Vĩnh Lộc cho biết, cả huyện chỉ có xã Vĩnh Thịnh là nói
bằng thứ ngôn ngữ này. Nhiều nhà nghiên cứu, tổ nghiên cứu đã về đây tìm hiểu.
“Họ nói như chim hót, mình nghe qua không hiểu. Đó là thứ ngôn ngữ riêng của họ
không lẫn vào đâu cả. Điều đặc biệt là không phải ngôn ngữ dân tộc của 54 dân
tộc, chỉ người ta nói với nhau bằng ngôn ngữ của họ thôi. Nói đoạn, như để minh
chứng cho sự độc đáo của tiếng làng Kênh Thủy, ông Sự làm một hơi: “Lạy cấy
chuộc rửa cấy chò lênh chằng mà ngơi”, chỉ đến khi ông dịch lại là: “Lấy cái
gáo rửa cái chân lên giường mà ngủ” thì chúng tôi mới hiểu được ý nghĩa của cụm
từ mà ông vừa phát âm.
Ông
Nguyễn Mạnh Hùng, làng Sanh, xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Lộc
“Đặc
điểm chung là hầu hết đều dùng thanh sắc. Đây được xem là thứ ngôn ngữ riêng
chứ không phải tiếng địa phương, nó độc đáo, mang bản sắc riêng của vùng đất
đó, không pha tạp và không lẫn lộn với ai cả. Mong các nhà nghiên cứu làm rõ
nguồn gốc của ngôn ngữ ở làng Kênh Thủy, bởi có biết bao nhiêu người muốn tìm
lại nguồn cội”, ông Sự mong muốn.
Hàng
chục năm qua, nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ học hàng đầu cũng như các đoàn của
Viện ngôn ngữ học Việt Nam cũng như các trường đại học đã về tìm hiểu tiếng nói
của người dân Kênh Thủy. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có được đáp án về nguồn
gốc của thứ tiếng đặc biệt này. Có giả thuyết cho rằng, cách phát âm của người
Kênh Thủy là do nguồn nước ở địa phương quyết định; hoặc do một bộ tộc người cổ
đến đây cư trú từ hàng ngàn năm trước tạo nên. Cũng có giả thuyết cho rằng,
tiếng nói của người dân bắt nguồn từ tiếng Việt - Mường cổ...Tuy nhiên, tất cả,
đó mới chỉ là những giả thuyết mà thôi.
Bài của Duy
Tuyên
Làng Cổ Định nói tiếng cổ ngàn năm dưới chân núi Nưa
Dưới chân núi Nưa - nơi có huyệt đạo linh thiêng nhất nước ở Thanh
Hóa - hiện có 1 ngôi làng cổ ngàn năm vẫn dùng thứ tiếng 'lạ' để nói chuyện
hằng ngày.
Ngôi làng có thứ tiếng lạ, độc đáo này là làng Cổ Định (xã Tân
Ninh, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa). Theo sử sách, đây là vùng đất cổ xưa
nằm dưới chân núi Nưa, nơi vào năm 248, nữ tướng Triệu Thị Trinh đã chọn làm
căn cứ chiêu mộ binh sĩ vùng lên chống giặc Ngô xâm lược. Dù cuộc chiến của bà
Triệu thất bại, nhưng cuộc khởi nghĩa do bà khởi xướng vẫn vang vọng mãi về
sau.
Làng Cổ Định, xã Tân Ninh, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa - nơi
người dân vẫn còn dùng tiếng cổ để giao tiếp hằng ngày
Ngày nay, núi Nưa hiện là điểm du lịch nổi tiếng của Thanh Hóa.
Hằng năm, có hàng vạn người về đây du lịch chiêm ngưỡng. Tương truyền núi Nưa
nơi có huyệt đạo thiêng (là 1 trong 3 huyệt đạo thiêng nhất nước) thường được
mở cổng trời vào ngày 9 Tết. Ngoài ngắm cảnh đẹp non nước hữu tình, chúng ta
còn có thể ghé thăm nhiều di tích độc đáo như đền Am Tiên, đền Nưa…
Đặc biệt, khi về vùng đất núi Nưa, du khách có thể bắt gặp nhiều
câu chào nhau, trò chuyện của người dân làng Cổ Định bằng 1 thứ tiếng cổ cứ như
"ngoại ngữ" mà chỉ người địa phương mới hiểu được.
Ông Lê Đình Sang, Phó Chủ tịch UBND xã Tân Ninh, cho biết Tân Ninh
hiện có 11 thôn, nhưng chỉ có thôn 3 (làng Cổ Định) là nói tiếng cổ. Ở đây, già
trẻ, gái trai hằng ngày vẫn nói chuyện, trao đổi với nhau bằng thứ tiếng này.
Tiếng cổ hiện chủ yếu những người già, trung tuổi là dùng nhiều
trong giao tiếp hằng ngày
Bà Hoàng Thị Lọc (71 tuổi, giáo viên về hưu) cho biết tiếng nói của
làng bà không biết có từ bao giờ, nhưng khi lớn lên biết đọc, biết viết là bà
đã biết nói rồi. "Tôi có nghe người già trong làng kể tiếng cổ có từ lâu
lắm rồi, cách đây phải cả ngàn năm. Ở làng, nhiều người đỗ đạt đi ra, nhưng khi
về làng họ vẫn dùng thứ tiếng của làng để trò chuyện"- bà Lọc kể.
Để minh chứng việc tiếng cổ vẫn nói hằng ngày, bà Lọc liệt kê cho
phóng viên rất nhiều từ ngữ bình thường chúng ta vẫn nói nhưng bằng tiếng ở
làng Cổ Định. "Đầu gối gọi là "trốc cún", đi cấy gọi là "đi
cấn", con trâu gọi "con tru", cái chổi gọi là "cái chủn",
con gà gọi là "con kha", đi chơi gọi là "đi nhỉn, con vịt gọi là
"con vệch"…"- bà Lọc liệt kê.
Cũng theo lời bà Lọc, nhiều người con gái khi lấy chồng về đây đều
phải học mới hiểu hết được ý nghĩa của tiếng cổ ở đây, vì hiểu không hết nghĩa
sẽ hiểu nhầm sang ý khác ngay.
Cụ bà Lê Thị Sâm chia sẻ về thứ tiếng "lạ" của làng làm
bà thường sử dụng khi còn bé
Tại làng Cổ Định, hiện có cụ Lê Ngọc Bá, nguyên trưởng Phòng Giáo
dục huyện Triệu Sơn, là người hiểu và có nhiều ghi chép về thứ tiếng
"lạ" của làng mình. Trong cuốn sổ đã ố màu, cụ Bá ghi chép rất nhiều,
trong đó có nhiều đoạn hội thoại được cụ ghi lại như sau: "Buổi sáng, bà
mẹ nói với đứa con: "Giẩu tru đếch xong, bốc chi đớp?". Chiều về bà
lại quát con: "Kêu mi vô rú, răng tru viền đướn ăn lọ?". Thằng con
khóc: "Ai hay chi mô. Tru mềnh hướn, lè lản liếm tru cấy, lồng chặn bứt
đứt chạc. Con chặn theo rạc cẳng, bổ ở ruộng cằn, rọt lộn lên cần cổ, trớt hết
bộng, bể cả trốc cún. Chưa chậy bới cấy chi". Bà mẹ quát: "Học không
học, giẩu tru không xong, ăn cho tốn cấu".
Thấy phóng viên ngơ ngác, cụ Bá dịch nghĩa: "Bà mẹ hỏi, giữ
trâu không xong, lấy cái gì mà ăn? Bảo mày vào rừng, sao trâu lại về dưới ăn
lúa? Đứa con trả lời: Ai biết gì đâu. Trâu mình động đực, lè lưỡi liếm trâu
cái, lồng lên chạy đứt dây thừng. Con chạy theo mỏi cả chân, ngã ở ruộng, ruột
bắn lên cổ, rách hết bụng, vỡ cả đầu gối. Giờ mẹ chửi cái gì". Câu cuối
cùng nghĩa là "học không học, chăn trâu không xong, ăn cho tốn gạo".
Cụ bà Lê Thị Sâm (năm nay đã ngoài 90 tuổi) cho biết, tiếng cổ hiện
nay lớp trẻ rất ít dùng nữa, nhiều người hiểu nói chuyện với nhau nhưng để viết
thì không nhiều người viết được. "Bây giờ, tiếng cổ chủ yếu những người có
tuổi như chúng tôi thường dùng hằng ngày, còn giới trẻ rất ít dùng. Thường thì
những dịp lễ hội làng hay những công việc đặc biệt, tiếng cổ mới được dùng
nhiều"- cụ Sâm chia sẻ.
Làng Cổ Định ở ngay dưới chân núi Nưa, nơi có đền Nưa linh thiêng
thờ nữ tướng Triệu Thị Trinh (bà Triệu)
Theo lãnh đạo xã Tân Ninh, người làng Cổ Định là người dân tộc
Kinh, tại đây hằng ngày vẫn sử dụng tiếng phổ thông và tiếng cổ để giao tiếp.
Tuy nhiên, khi giao tiếp với người nơi khác và các văn bản hành chính, người
dân vẫn dùng tiếng phổ thông. Tiếng cổ chỉ được dùng trong phạm vi hẹp của làng
Cổ Định.
Bài-ảnh của Thanh Tuấn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét