Tuyên
ngôn độc lập của Hoa Kỳ do ngài Thomas Jefferson soạn thảo, ghi dấu ảnh hưởng
của triết học Khai sáng và cả kết quả của Cách mạng Anh năm 1688. Nội dung
chính của bản tuyên ngôn được dựa trên tư tưởng của một triết gia người Anh ở
thế kỷ 16, John Locke. Theo lý thuyết của John Locke, ba quyền cơ bản không thể
bị tước đoạt của con người là quyền được sống, quyền tự do và quyền sở hữu.
Quyền sở hữu được Jefferson đề cập tới trong bản tuyên ngôn là “quyền được mưu
cầu hạnh phúc”. Những ý tưởng khác của John Locke cũng được Jefferson đưa vào
bản tuyên ngôn như sự bình đẳng, Nhà nước hạn chế (quy mô nhỏ), quyền được lật
đổ Chính quyền khi Chính quyền không còn phù hợp. Bản tuyên ngôn cũng vạch tội
nhà cầm quyền Anh, đại diện là vua George III, bởi chính sách thuế khóa nặng nề
và tàn bạo.
Bản
tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ 4/7/1776, lưu giữ tại Thư viện Quốc hội Mỹ
Bản
dịch:
Trong
tiến trình phát triển của nhân loại, khi một dân tộc nào đó cần thiết phải xóa
bỏ những mối liên kết chính trị giữa họ với một dân tộc khác và khẳng định
trước các lực lượng trên toàn trái đất vị thế độc lập và bình đẳng mà các quy
luật của tự nhiên và thượng đế đã ban cho họ, thì sự tôn trọng đầy đủ đối với các
quan điểm của nhân loại đòi hỏi họ phải tuyên bố những nguyên do dẫn họ đến sự
ly khai đó.
Chúng
tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng,
rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có
quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc. Rằng để đảm bảo cho
những quyền lợi này, các chính phủ được lập ra trong nhân dân và có được quyền
lực chính đáng trên cơ sở sự đồng ý của nhân dân, rằng bất cứ khi nào một thể
chế chính quyền nào đó phá vỡ những mục tiêu này, thì nhân dân có quyền thay
đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó và lập nên một chính quyền mới, đặt trên nền
tảng những nguyên tắc cũng như tổ chức thực thi quyền hành theo một thể chế sao
cho có hiệu quả tốt nhất đối với an toàn và hạnh phúc của họ.
Thật
vậy, sự thận trọng sẽ buộc người ta hiểu rõ rằng một chính quyền đã được thiết
lập qua một thời gian dài thì không nên thay đổi chỉ vì những lý do đơn giản,
nhất thời. Mọi kinh nghiệm đều đã chứng tỏ điều đó, rằng khi cái xấu còn trong
chừng mực chịu đựng nổi, thì nhân loại dễ cam chịu nó, hơn là dám tự trao cho
mình quyền loại bỏ những thể chế mà họ đã quen thuộc. Nhưng khi hàng loạt các
hành vi lạm quyền và chiếm đoạt theo đuổi những mục tiêu giống nhau, lộ rõ ý đồ
áp chế họ dưới ách chuyên quyền độc đoán, thì họ có quyền và bổn phận phải lật
đổ chính quyền đó và bổ nhiệm những chiến sĩ mới để bảo vệ nền an ninh của họ
trong tương lai.
Nói như
trên, những thuộc địa này đã phải cắn răng chịu đựng, nhưng bây giờ đã đến lúc
buộc họ phải xóa bỏ thể chế chính quyền cũ. Lịch sử của vua nước Anh hiện nay
là lịch sử của những nỗi đau thương và sự tước đoạt triền miên, tất cả đều nhằm
mục đích trực tiếp là thiết lập ách chuyên chế bạo ngược ở những bang này. Để
chứng minh cho điều này, ta hãy để cho các sự việc tự nó lên tiếng với cả thế
gian ngay thẳng.
Ông ta
đã từ chối không phê chuẩn một số đạo luật, tốt đẹp và cần thiết nhất đối với
lợi ích của công chúng.
Ông ta
đã cấm đoán không cho các viên thống đốc thông qua những đạo luật mang tính cấp
bách và khẩn thiết, hoặc đình chỉ việc thực thi những đạo luật này để chờ được
ông phê chuẩn và trong khi đình chỉ như vậy, ông đã hoàn toàn bỏ mặc, không còn
bận tâm về chúng nữa.
Ông ta
đã từ chối không thông qua những đạo luật về cư trú của những vùng dân cư lớn,
trừ phi đám dân này từ bỏ quyền đại diện trong cơ quan lập pháp, một quyền vô
cùng quí giá đối với họ nhưng lại rất đáng sợ đối với những tên bạo chúa.
Ông ta
đã triệu họp các cơ quan lập pháp ở những địa điểm không bình thường, không
tiện nghi, cách xa những kho lưu giữ hồ sơ công cộng và chỉ nhằm mục đích duy
nhất là làm cho họ do mệt mỏi mà phải tuân theo các chủ trương của ông ta.
Ông ta
đã nhiều lần giải tán các hạ nghị viện vì đã cương quyết chống lại sự xâm phạm
của ông đối với các quyền của nhân dân. Rồi sau khi giải tán, một thời gian dài
ông ta đã từ chối không cho bầu lại những cơ quan này. Mặc dù nay, những quyền
lập pháp không gì xóa bỏ được đã được trao lại cho dân chúng thực thi, nhưng
trong thời gian đó, nhà nước đã đứng trước các nguy cơ ngoại xâm bên ngoài và
nội loạn bên trong.
Ông ta
đã ra sức ngăn cản việc tăng dân số ở các bang này. Với mục đích đó, ông ngăn
cản việc thực hiện luật nhập quốc tịch cho người nước ngoài, từ chối không
thông qua những đạo luật khác khuyến khích nhập cư và tăng thêm các điều kiện
đối với quyền sở hữu đất đai.
Ông ta
đã ngăn cản việc thực thi công lý bằng cách từ chối không thông qua những đạo
luật thiết lập các cơ quan tư pháp. Ông ta đã buộc các quan tòa phải lệ thuộc
vào ý chí của ông bằng những quy định về nhiệm kỳ cũng như các khoản lương bổng
trả cho họ.
Ông ta
đã lập ra rất nhiều cơ quan mới và bổ nhiệm vào đó vô số những quan lại mới để
xách nhiễu dân chúng và vơ vét tài sản của họ. Trong những thời kỳ hòa bình ông
ta vẫn duy trì những đội quân thường trực trên đất nước ta mà không được sự
đồng ý của các cơ quan lập pháp của chúng ta. Ông ta đã tác động để cho ngành
quân sự độc lập và vượt lên trên quyền lực dân sự.
Ông ta
đã cùng với một số đối tượng khác buộc chúng ta phải tuân theo nền pháp quyền
xa lạ với hiến pháp của chúng ta và không được luật pháp của chúng ta công
nhận. Rồi ông ta phê chuẩn những đạo luật giả dối sau đây:
– Cho phép những đội quân có võ trang đông đảo
đồn trú trên đất nước ta.
– Qua những phiên tòa giả hiệu, che chở cho
chúng khỏi bị trừng phạt trước hậu quả của những vụ sát hại dân cư ở các bang
của ta.
– Cắt đứt những quan hệ thương mại giữa chúng
ta với các khu vực khác trên thế giới. Áp đặt các khoản thuế khóa mà không được
chúng ta đồng ý. Trong nhiều trường hợp, tước đoạt của chúng ta quyền được xét
xử trước đoàn hội thẩm.
– Đưa chúng ta sang phía bên kia đại dương để
xét xử về các tội trạng không có thật.
– Xóa bỏ thể chế tự do của luật pháp nước Anh
ở một tỉnh lân cận (1) và thiết lập ở đó một chính quyền độc đoán; rồi mở rộng
ranh giới, coi đó là mẫu mực và công cụ thích hợp để du nhập ách cai trị chuyên
chế vào các thuộc địa này.
– Tước đoạt hiến chương của chúng ta, huỷ bỏ
những bộ luật giá trị của chúng ta và thay đổi một cách căn bản những thể chế
chính quyền của chúng ta.
– Đình chỉ các cơ quan lập pháp của chúng ta
rồi tự tuyên bố là có quyền lập pháp cho chúng ta trong mọi trường hợp.
– Ông ta đã từ bỏ chính phủ ở đây và tuyên bố
rằng chúng ta không còn được ông che chở và bảo vệ, rồi tiến hành cuộc chiến
tranh chống lại chúng ta.
– Ông ta đã vơ vét biển cả, tàn phá các bờ
biển, thiêu đốt các thị trấn, huỷ hoại sinh mạng của chúng ta.
– Trong thời gian này, ông ta đang đưa sang
những đội quân lớn gồm các lính đánh thuê nước ngoài để thực thi các công việc
giết chóc, tàn phá và bạo ngược đã được bắt đầu với những cảnh tượng tàn ác và
xảo trá mà ngay cả trong thời đại dã man nhất cũng khó mà sánh được, ông ta
hoàn toàn không xứng đáng với người đứng đầu của một quốc gia văn minh.
– Ông ta đã cưỡng ép các công dân của chúng ta
bị bắt ngoài biển khơi phải cầm súng chống lại đất nước mình, trở thành những
đao phủ giết hại bạn bè và anh em mình, hoặc buộc họ phải tự giết hại mình.
– Ông ta đã kích động những cuộc phiến loạn
trong nội bộ chúng ta và cố công đưa vào vùng dân cư ở các miền biên cương nước
ta sự man rợ tàn bạo kiểu Indian mà các hình thức chiến trận khét tiếng của nó
chính là sự huỷ diệt không phân biệt lứa tuổi, giới tính và điều kiện sinh
sống.
Trong
các giai đoạn xảy ra tình trạng áp bức như vậy, chúng ta đều có kiến nghị yêu
cầu thay đổi với lời lẽ hết sức khiêm nhường, nhưng những kiến nghị lặp đi lặp
lại của chúng ta chỉ được đáp lại bằng những nỗi đau xót liên tiếp. Một ông
hoàng với tính cách được thể hiện qua các hành vi mà ta chỉ có thể gọi đúng tên
là bạo chúa, thì không xứng đáng là người cai trị của một dân tộc tự do.
Không
phải chúng ta không muốn lưu ý các bạn của chúng ta ở nước Anh. Đã nhiều lần
chúng ta cảnh báo họ về những ý đồ của các cơ quan lập pháp của họ muốn bành
trướng quyền tài phán không thích hợp sang đất nước chúng ta. Chúng ta đã nhắc
nhở họ về tình trạng nhập cư và cư trú của chúng ta ở nơi đây. Chúng ta đã dựa
vào ý thức công bằng, lòng hào hiệp và cả những mối liên hệ ruột thịt giữa đôi
bên để kêu gọi họ từ bỏ những cuộc chiếm đoạt đã gây cản trở cho mối quan hệ và
giao thiệp giữa hai phía. Họ đã không thèm lắng nghe tiếng nói của chính nghĩa
lẫn tình máu mủ. Vì vậy, chúng ta phải đi tới đối xử với họ giống như mọi người
khác trong nhân loại: trong hoà bình là bè bạn, trong chiến tranh là kẻ thù.
Vì vậy,
chúng ta, những đại biểu dự Đại hội của Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ yêu cầu các trọng
tài tối cao của thế giới hãy công nhận những ý đồ chính đáng của chúng ta trong
việc nhân danh và thực thi quyền lực của nhân dân có thiện chí ở các thuộc địa
này, trịnh trọng công khai và tuyên bố rằng các thuộc địa liên minh với nhau
này đã và có quyền phải là Quốc gia Tự do và Độc lập, rằng họ từ bỏ mọi sự
trung thành đối với vương miện của Anh Quốc, rằng những liên hệ chính trị giữa
họ với nước Anh đã và phải hoàn toàn bị xóa bỏ, rằng với tư cách là Quốc gia Tự
do và Độc lập, họ hoàn toàn có quyền tiến hành chiến tranh, ký kết hiệp ước hòa
bình, xây dựng liên minh, thiết lập quan hệ thương mại và thực thi mọi công
việc thuộc quyền của những Quốc gia Độc lập. Vững tin vào sự bảo hộ thiêng
liêng của thượng đế, chúng ta nguyện cùng hiến dâng tính mạng, tài sản và danh
dự thiêng liêng của mình để bảo đảm cho bản tuyên ngôn này.
Theo
nuocmy.net
John Adams và Thomas Jeffersons ký tên vào bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ 4/7/1776 (Ảnh: military.com)
John Adams và Thomas Jeffersons ký tên vào bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ 4/7/1776 (Ảnh: military.com)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét