Tác
giả: Ngô Tất Tố
Mục sách
: Văn học Việt Nam
"Theo
tôi tiên tri, thì cuốn Tắt đèn còn phải sống lâu thọ hơn cả một số văn gia
đương kim hôm nay. Chị Dậu, đích là tác giả Ngô Tất Tố hóa thân ra mà thôi. Chị
Dậu là cái đốm sáng đặc biệt của Tắt đèn. Nếu ví toàn truyện Tắt đèn là một
khóm cây thì chị Dậu là cả gốc cả ngọn cả cành, và chính chị Dậu đã nổi gió lên
mà rung cho cả cái cây dạ hương Tắt đèn đó lên."
(Nguyễn
Tuân)
"Chị
Dậu là nhân vật điển hình được người đọc yêu mến. Và người yêu mến chị hơn cả
là Ngô Tất Tố. Giữa biết bao tệ nạn và cảnh đời bất công ngang trái ở nông thôn
Việt Nam cũ, Ngô Tất Tố đã hết lòng bảo vệ một người phụ nữ là chị Dậu. Nhiều
lần chị Dậu bị đẩy vào tình thế hiểm nghèo, rất có thể bị làm nhục nhưng Ngô
Tất Tố đã bảo đảm cho chị Dậu được bảo đảm an toàn phẩm toàn vẹn, giữ trọn phẩm
giá, không phải đau đớn. dằn vặt."
(Hà Minh
Đức)
Chương 1
Bắt đầu từ gà gáy một tiếng, trâu bò
lục-tục kéo thợ cầy đến đoạn đường phía trong điếm tuần.
Mọi ngày, giờ ấy, những con-vật này
cũng như những người cổ cầy, vai bừa kia, đã lần-lượt đi mò ra ruộng làm việc
cho chủ. Hôm nay, vì cổng làng chưa mở, chúng phải chia quãng đứng rải-rác ở
hai vệ đường, giống như một lũ phu vờ chờ đón những ông quan lớn.
Dưới bóng tối của rặng tre um-tùm,
tiếng trâu thở hì-hò, tiếng bò đập đuôi đen-đét, sen với tiếng người khạc
khúng-khắng.
Cảnh-tượng điếm tuần thình-lình hiện
ra trong ánh lửa lập-lòe của chiếc mồi rơm bị thổi. Cạnh giẫy sào, giáo ngả
nghiêng dựng ở giáp tường, một lũ tuần-phu lố-nhố ngồi trên lớp chiếu
quằn-quèo. Có người phì-phò thổi mồi. Có người ve-ve mồi thuốc và chìa tay chờ
đón điếu đóm. Có người há miệng ngáp dài. Có người đang hai tay dụi mắt. Cũng
có người gối đầu trên cái miệng hiệu sừng trâu, ngảnh mặt vào vách mà ngáy.
Cái điếu cày và cái đóm lửa bị năm,
sáu người chuyền tay, chiếu đi, chiếu lại độ vài ba vòng, ánh lửa lại tắt,
trong điếm chỉ còn tiếng nói chuyện rầm-rầm.
Gà gáy giục. Trời sáng mờ-mờ.
Trâu bò, con đứng, con nằm, thi nhau
quai hai hàm răng nhai trầu xuông và nhả ra những cục nước bọt to bằng cái
trứng.
Thợ cầy khắp lượt dùng bắp cầy, vai
cầy làm ghế ngồi, cùng nhau bàn tán băng-cua về chuyện sưu thuế.
Những con chèo-bẻo chẽo-choẹt hót
trên ngọn tre, như muốn họa lại khúc ca réo-rắt - mà người quê vẫn gọi là khúc
"váy cô, cô cởi" - của mấy con chào-mào đậu trên cành xoan, đon-đả
chào vẻ tươi đẹp của cảnh trời buổi sáng.
Toang cổng vẫn đóng chặt. Tuần-phu
lại lần lượt thổi mồi hút thuốc lào.
- Ông Trương ơi, ông làm ơn mở cổng
cho tôi đánh trâu ra đồng ạ. Mọi ngày bây giờ tôi đã cầy được ba sào ruộng rồi.
Hôm nay, bây giờ còn nhong-nhóng ở đây... Phỏng chừng từ giờ đến trưa, cầy sao
cho xong cái ruộng mẫu hai? Thôi ông làm phúc, làm đức...
Sau tiếng năn-nỉ của anh chàng
cục-mịch, vai vác cầy, tay cầm thừng trâu, trương-tuần quẳng cái điếu cầy xuống
đất, thở nốt khói thuốc trong miệng, rồi giương đôi mắt say thuốc lờ-đờ:
- Nay chẳng xong thì mai! Ông Lý đã
bảo thuế còn thiếu nhiều, không cho một con trâu, con bò nào ra đồng hết
thảy...
- Thưa ông, ông chủ tôi nóng tính
lắm kia! Ông ấy đã dặn buổi nay tôi phải cầy cho xong ruộng ấy, nếu không xong,
đến trưa về ăn cơm, ông ấy mắng như tát nước và nói như móc cơm ra... Chớ tôi
có muốn vất-vả vào mình làm gì? Vả lại, ông Lý sai tuần đóng cổng, cốt để bắt
trâu, bắt bò của người thiếu thuế kia chứ! Ông chủ tôi nộp thuế đủ từ hôm qua
rồi, xin ông mở cổng cho tôi...!
Trương-tuần nhăn mặt:
- Tôi không phải tộc-biểu, không
phải phần thu, biết điếc gì đâu ông chủ anh nộp thuế rồi hay chưa nộp. Bây giờ
mở cổng cho anh, chốc nữa ông Lý ông ấy chửi cha tôi lên, anh có-nghe hộ tôi
không?
Anh chàng cục-mịch lủi-thủi đánh
trâu gồng cầy lùi xuống, để nhường khu đất trước điếm cho người khác vác bừa và
đuổi trâu lên.
- Người ta trâu của nhà, ông chẳng
cho ra thì chớ. Ðây tôi, trâu thuê... đồng hai một buổi đáp, ông ạ. Xin ông
lượng tình mà ngỏ cổng cho tôi ra đồng kẻo trưa quá mất rồi.
Người ấy nói tuy thiết-tha,
trương-tuần chỉ đáp lại bằng cái lắc đầu:
- Nếu trưa quá thì bừa luôn đến
chiều. Trâu thuê sợ gì!
- Thế được thì còn gì nói truyện gì
nữa! Của một đống tiền, ai để cho mình ốp nó đến chiều? Chỉ đến non trưa, ông
chủ có trâu cho thuê đã ra tận ruộng tháo vai trâu mà dắt trâu về, muốn bừa
thêm một nửa đường nữa cũng không cho, ông ạ. Thôi! Mùa làm ăn, ông nghĩ lại...!
- Tôi chẳng nghĩ lại, nghĩ đi gì cả!
Bố tôi sống lại, bảo tôi mở cổng này bây giờ, tôi cũng xin chịu đừng nói anh...
Người ấy lại vác bừa, đưa trâu trở
lại chỗ cũ với cái sắc mặt thìu-thịu.
Mặt trời ngấp nghé mặt lũy, muốn
nhòm vào điếm. Tuần-phiên lẻ-tẻ vác sào, cắp chiếu, đeo hiệu đi về. Trong điếm
chỉ còn trương-tuần duỗi gối kiểu gọng bừa, ngồi trên chiếc chiếu điểm những
tro mồi, bã điếu, đốc suất mấy tên đàn em ở lại canh ngày.
Xa xa nẻo trong đình, một hồi mõ cá
thật dài, tiếp luôn đến trống ngũ-liên nện đủ ba hồi chín tiếng.
Như có vẻ kinh ngạc về những thứ
hiệu lệnh dữ dội, mấy con trâu bò đanh nằm còng queo trên đường, đồng thời
lóp-ngóp đứng dậy.
- Mẹ cha chúng nó! Hôm nay vẫn chưa
đóng thuế, chúng nó định để tội vạ cho ai? Ðược! Cứ bướng đi, ông mà bắt hết
trâu bò bán ráo!...
Tiếng chửi om-sòm như giục mấy chục
cặp mắt ngơ-ngẩn của bọn cầy đều phải nghiêng về phía đình. Ông lý nách cắp
cuốn sổ, một tay cầm cây gậy song, một tay xếch đôi ống quần móng lợn, vừa đi
vừa ra phía điếm tuần vừa thét mắng những người chậm thuế.
Ðã năm hôm nay, nghĩa là sau khi
bài-bổ trình phủ đã giao về với một chữ "y", Lý-trưởng Ðông-xá ngày
nào cũng vất-vả về thuế.
Ðầu tiên hắn còn cho mõ đi rao. Rồi
đến tộc-biểu, phần thu đi hỏi. Rồi đến đầy-tớ của hắn đưa đầy-tớ chánh-tổng đi
thúc từng người. Trong năm ngày nay, ngày nào cũng vậy, mõ cá, trống thúc liên
hồi, hiệu ốc, hiệu sừng thổi inh-ỏi. Suốt từ sáng sớm cho tới tối mịt, trong
làng lúc nào cũng như đám đánh cướp. Bây giờ đã gần đến ngày đổ thuế, công việc
càng gấp. Hôm qua hắn đã lên phủ, xin với ông phủ phái cho một người cai lệ và
hai người lính cơ về làng để trừng-trị những kẻ bướng-bỉnh.
Nhờ có cái thần-thế ấy, hắn mới chửi
rỡ, thét mắng khắp làng cho oai.
Thợ cầy và tuần-phu đều biết cái
hách- dịch của ông Lý, ai nấy chỉ đáp lại những câu chửi chùm chửi lợp bằng sự
nín im.
Trâu, bò nhiều con vẫy tai như muốn
chào một người chức-việc chăm-chỉ phận-sự trong khi người ấy qua trước mặt
chúng.
Bước lên sàn điếm, Lý-trưởng quăng
tạch cuốn sổ xuống sàn, giơ tay chỉ vào mặt mấy tên đàn em:
- Hiệu không thổi, để làm sỏ bố
chúng bay à?
Một hồi còi tu-tu đồng thời nổi lên,
hiệu sừng sen với hiệu ốc theo đúng hiệu ốc cố theo đúng mệnh của "nhất lý
chi trưởng".
Ðập hai bàn chân vào nhau, rũ cho
sạch bụi, rồi co chân lên ngồi vào chiếu, Lý-trưởng vớ luôn lấy chiếu điếu cầy
và sai tuần-phủ lấy đóm, thổi lửa.
Mấy anh thợ cày của những điền-chủ
đã nộp đủ thuế, bạo-dạn tiến đến trước mặt ông Lý:
- Thưa ông, trưa lắm rồi! Xin ông
cho tuần mở cổng để chúng tôi đánh trâu đi cầy!...
- Thong thả! Hãy đứng đấy! Cầy đã
nóng bằng thuế của nhà nước à?
Vừa nói, Lý-trưởng vừa giặt mồi
thuốc vào điếu, hút luôn một sạp ba điếu. Khói thuốc theo hai lỗ mũi tuôn ra
như hai ngà voi. Lý-trưởng dõng-dạc:
- Trương-tuần, anh bảo nó mở cổng
ra. Nhà nào đủ thuế thì cho trâu bò ra đồng. Còn nhà nào thiếu thì bắt trâu bò
điệu cả về đình cho tôi, để tôi liệu cho chúng nó!
Sau một tiếng dạ của Trương-tuần,
mấy tên đàn em loay-hoay tháo nêm, rút then cổng. Rồi cùng đứng doãi chân chèo,
cố lấy hết sức của lực điền, xuống gạch vì cối cổng đã mòn nhiều quá. Lý trưởng
đứng lên mở sổ sướng tên những người đủ thuế cho Trương-tuần nghe. Ước chừng
mươi con trâu bò được đi với bọn thợ cầy cùng ra ngoài cổng. Còn độ hai chục
con nữa đều phải vâng lệnh ông Lý, theo gót Trương-tuần và tuần-phu lũ-lượt kéo
vài sân đình, chờ khi phải chịu tội thay cho chủ.
Chương 2
Mõ cá
trên cột đình lạ há miệng nhận những cây dùi giận dữ. Trống cái dưới xá đình
lại lỳ mặt chịu những cái nện phũ phàng. Vừa dứt hồi vang của những tiếng mõ,
tiếng trống bị những lũy tre ngăn cản phải lật trở lại, Lý trưởng liệng dùi
trống xuống sân đình và quát một cách a dáng ra phết:
- Từ
sáng đến giờ vẫn chưa đem chiếu ra trải, thì cha nó ngồi vào đâu? À cái thằng
Mới láo thật! Xong thuế rồi ông tống cổ...
Mẹ Mới ở
phía sau đình lếch thếch ôm mấy chiếc chiếu đặt lên sàn đình:
- Bẩm
ông hôm qua ông dặn bố nó nhà con sáng nay phải đi chợ sớm...
- Trải
ra! Rồi đi gọi các ông phần việc đến đây... Kệnh dệnh, kệnh dệnh! Bố người ta
đấy mà hôm nào cũng bắt người ta phải mời... Chẳng qua việc là việc làng, chứ
việc riêng nhà ai!.. Ngày mai mà không đủ thuế, thì ông khai hết ra cho, thử
xem thằng nào ngồi tù?
Ðằng sau
có tiếng léo xéo:
- Làm gì
mà gắt gỏng dữ thế ông Lý? Bà cháu bận đi mang cơm thợ cầy, tôi phải nấu chín
nồi cám cho con lợn sề nó ăn. Vì nó mới đẻ, sợ bỏ đói thì nó mất sữa, rồi con
nó xấu. Bởi thế tôi mới chậm ra một chút, chứ có kệnh dệnh gì đâu?
Những
câu phân trần tha thiết kéo dài từ ngoài đường vào đến giọt đình. Thủ quỹ nhanh
nhảu bước lên thềm đình với cái tráp sơn đen bệ vệ nấp ở sườn tay phải. Lý
trưởng vội vàng nói chữa:
- Tôi
nói là nói người khác kia! Chứ ông... nhà neo, lắm việc, tôi có trách gì ông
đâu... Kìa các ông ấy đã ra cả kìa!
Chưởng
bạ ôm ống sổ và một tập sổ đi đầu một bọn độ hơn mười người: Thư ký lồng khăn
xếp vào cánh tay, Phó lý quần áo thâm trên cổ. Chánh hội vắt áo the bên vai,
năm sáu ông kỳ cựu và tộc biểu lệt xệt kéo đôi guốc gỗ đã mòn hết gót. Cả bọn
lật đật tiến từ xóm giữa vào đình. Ai nấy trụt guốc cầm tay, nhảy lên sàn đình,
đút guốc vào dưới gậm chiếu rồi ngồi lên trên.
Con vợ
thằng Mới cung kính đệ len bên cạnh cột đình một cái điếu đàn đựng trong một
chiếc bát gỗ đánh đai bằng lạt và cái mồi rơm dài chừng một sải. Hai đứa con nó
kỳ kệch khiêng lên chỗ đó nồi nước chè khô mới nấu, khói đương bốc lên nghi
ngút và chồng bát đàn sơn bằng những cáu nước chè.
Chánh
hội vừa khơi mào nói về chuyện thuế thì người nhà Lý trưởng lễ mễ bưng một bộ
khay đèn thuốc phiện rước Chánh tổng từ nẻo xóm dưới đi lên. Ông cai lệ và hai
ông lính cơ hộ tống cụ Chánh vào trước cửa đình. trong đám đông mỗi người một
câu:
- Cụ đã
ra!
- Lạy
cụ.
- Xin
mời cụ lên trên.
Chánh
tổng khoan thai bỏ giầy, bước qua một giẫy chiếu dưới, để lại mặt chiếu hai
hàng dấu chân đầy cát bụi, rồi vắt vẻo ngồi lên chiếc chiếu trên cùng. Bộ khay
đèn tự tay người nhà Lý trưởng sang tay cai lệ, lên nằm làm bạn với "quan
trong hàng tổng".
Ngay từ
sáng sớm, cụ Chánh đã có điểm tâm độ vài chục điếu ở nhà Lý trưởng, cho nên cụ
rất tỉnh táo. Nghiêm nghị, cụ lên giọng kẻ cả:
- Các
ông chức việc làng này thật lười quá. Hôm nay mà thuế còn thiếu be thiếu bét,
chưa thu được một nửa bài chỉ! Tôi hạn từ giờ đến tối phải thu cho đủ. Nếu
không đủ, sáng mai tôi phải trình quan.
Lý
trưởng đón:
- Vâng!
Xin cụ thúc giục đi cho! Chứ mấy hôm nay các ông ấy cứ ỳ ra đó, chẳng ông nào
chịu ra miệng ra tiếng.. thì phỏng ai nó nộp cho?
Mọi
người đều im lặng. Không phải sợ câu dọa nạt của Chánh tổng Lý trưởng, họ còn
mãi nhìn ra cổng đình.
Thằng
Mới kĩu kịt trên vai chiếc đòn gánh treo hai chiếc quang. Giằng trước là một
xanh vừa gan vừa phổi, vừa tiết để trên rỗ lòng. Ðằng sau thì một thúng thịt
lợn.
Lững
thững ở ngoài tiến vào, nó đặt quang gánh xuống sân đình, và mời ông Lý ra xem.
- Bẩm
ông, hôm nay thịt đắt, tất cả hết sáu đồng rưỡi.
Ông
Chánh hội, ông thủ quỹ và nhiều ông khác cùng đổ xô ra. Ai nấy đều biểu môi chê
đắt, Chánh tổng nằm trong giữa đình nói ra:
- Ðắt
với rẽ chẳng qua cũng của mấy đứa phụ canh, các ông có mất gì đâu! Thôi để cho
nó đem về làm đi, trưa lắm rồi!
Thằng
Mới mừng rỡ lại cất quang gánh lên vai. Lý trưởng dặn theo:
- Phải
đánh mỗi mâm một bát tiết canh, mày nhé!
Rồi mọi
người cùng lên sàn đình, bắt đầu nhúng tay vào việc.
Lý
trưởng quăng cuốn sổ điền ra chiếu và bảo thư ký:
- Ông
đọc cho các ông kia tính, xem rằng chủ nào bao nhiêu... rồi biên ghi vào mảnh
giấy. Tính những chủ chưa nộp đồng nào ấy thôi.
Thủ quỹ
mở tráp lấy ra cái bàn tính, cái bút chì và một tờ giấy tây, rồi đưa bàn tính
cho ông Lý cựu:
- Ông
tính ta, tôi tính tây, rồi cùng kháp lại, hễ hai đằng mà không sai nhau là
đúng.
Một
người đàn bà rón rén bước vào sàn đình với một chuỗi tiền chinh trong tay:
- Lạy cụ
Chánh, lại các cụ ạ...
Bên bàn
đèn, một cậu lính cơ ngẩng cổ lên quát:
- Làm gì
mà đến hôm nay mới đem nộp thuế? Lại còn vác những khải định ra đấy! Ai lấy
cho?
Lý
trưởng gạt đi:
- Người
nhà tôi đấy... các ông tính giùm, xem của bà ấy có bao nhiêu ruộng tất cả.
Thư ký
giở sổ đọc:
- Nguyễn
Thị Quí điền dĩ hạ: nhất sở Ðồng Bắc xứ bảy sào chín thước, nhất sở Ðồng Cá xứ
sáu sào ba thước hai thốn...
Lý cựu
vừa gẫy con toán lách tách vừa nhẩm:
- Nhất
ngũ như ngũ, nhị ngũ nhất thập chi, tam ngũ nhất thập ngũ...
Thủ quỹ
chăm chỉ để hai con mắt vào mảnh giấy tây dưới ngọn bút chì. Một hồi sau, Thư
ký đọc hết, Lý cựu hỏi:
- Có
phải ba mẫu bốn sào năm thước ba thốn hay không?
Thủ quỹ
đáp:
- Không
biết. Bây giờ tôi mới tính. Cộng bằng tính tây vẫn chậm hơn tính ta. Ông biết
thế.
Thị Quí
nói theo:
- Vâng,
ông thủ tính kỹ cho. Ruộng nhà cháu có đâu mà được ba mẫu!
Một hồi
nữa, thủ quỹ hì hục với cây bút chì, rồi ngẩng đầu lên mắng Thị Quí:
- Bà nói
lạ! Bốn mẫu hai ruộng cả thảy, sao dám bảo không được ba mẫu!
Thị Quí
thề sống, thề chết:
- Cháu
có ăn gian thì trời không chứng! Thật quả ruộng của nhà cháu chỉ có hai mẫu bẩy
sào...
Lý cựu,
Thủ quỹ cùng sô lại dồn Thị Quí. Người đàn bà ấy nhất định không chịu. Cái bàn
tính và cây bút chì phải làm việc thêm nhiều lần nữa.
Chánh
tổng sốt ruột, giục Lý trưởng:
- Ai
tính cứ tính, ai đi đốc cứ đi đốc. Chứ xúm nhau ở cả đây, thì đến tết cũng
không thể thu xong thuế!
Lý
trưởng lấy làm phải, liền sai mấy tên gia nhân đi đưa các ông lệ, lính cơ đầy
tớ Chánh tổng vào khắp những nhà đinh cùng và dặn:
- Ðứa
nào chưa có sưu hay chưa có thuế thì cứ trối cổ nó lại và điệu ra đây, để tôi
cho chúng một mẻ.
Mõ lại
thúc, trống lại giục, tù và lại inh ỏi thổi lên.
Ánh nắng bứt rứt chiếu đến nửa sân
đình. Mấy con trâu, bò vẫn nằm gò lưng dưới những gốc gạo, gốc đa, hơi thở
trong cổ họng kéo ra hồng hộc.
Chương 3
Nếp nhà tranh lủn củn nấp dưới rặng
tre là ngà, lặng lẽ úp lấy khu đất dề thành và kín đáo náu trong một con xóm
cuối làng Ðông xá, đứng xa ngó lại, có thể lầm với nơi nhốt lợn hay chứa tro,
đó là nhà của Nguyễn Văn Dậu.
Với tầm cao vừa xế mặt thành, giẫy
mái hiên cườm cượp nhòm ra ven thành, luôn luôn phạt kẻ ra vào bằng những cái
cộc bươu đầu choáng óc, nếu họ quên không cúi đầu.
Với lớp rêu xanh điểm những lá tre
vàng úa và những cỏ gấu phất phơ, cái sân đất rộng bằng đường bừa, lỗ chỗ vết
chân chó sen vết chân người, vừa làm đường đi, vừa làm khu vực "hoãn
xung", phòng bị những lúc mưa rào, đất ở chân thành khỏi lở vào thềm và
cửa.
Bao nhiêu bộ phận cần có của một gia
đình, đều được thu cả vào trong nhà.
Nhà cất theo lối kiến trúc phổ thông
của các cụ, toàn thể gồm có một chái và hai gian.
Gian đầu là buồng.
Bức mành rách mép lướt thướt rủ
ngoài cửa buồng, cũng như bức phên nan nứa sừng sững chắn ngang lòng nhà, đều
hết sức giữ cho trong buồng có vẻ bí mật. Trái lại, những khe hở ở cạnh cửa và
nhưng lỗ thủng ở chân phên lại cùng ra ý phô sòng, như muốn khai rằng: ngoài
chiếc giường tre gẫy giát, kê giáp bức bụa, trong này có một chum mẻ, vại hàn,
chen nhau đứng bên cạnh đống đất hang chuột.
Ðối với buồng, ấy là bếp đun, cảnh tượng
lại càng bề bộn.
Dưới từng máy chái thấp hẹp, những
luồng ánh sáng xanh tía, thông thống kéo thẳng từ nóc đến nền, cố hun cho khô
những chỗ đêm qua mưa dột.
Cạnh bó củi giong ẩm ướt, đoàn vung
sứt miệng hềnh hệch nằm ngửa trong những cái rế tre, như muốn cười với lũ mêu
đất thư nhàn, lông lốc lăn nghiêng lăn ngửa.
Trên bãi tro trấu tanh bành, nguội
lạnh, mấy hòn gạch vỡ chầu đầu vào nhau, nghiêng mình nằm theo thế chân vạc,
đương chờ đến lúc đội nồi.
Kề đó đến bàn thờ.
Chiếc ngưỡng tre uốn lưng gù gù đỡ
lấy một đố tre, dõng dạc đứng ra hình chữ "môn" và hộ vệ cho một mớ
nan tre lành phành long bựt, giường thờ giống như cái chạn đựng bát. lơ lửng
gác giữa khoảng cột của bếp và buồng.
Tờ giấy xanh lạnh lùng phủ ngoài
vách đất tỏ rằng nhà mới có tang.
Nhưng mớ mạng nhện chằng chịt quấn
trên đám chân hường lơ thơ, lại làm chứng cho một thời gian khá lâu, chủ nhân
không hề cúng lễ. Rồi ở giữa nhà, chiếc chiếu rách thủng xộc xệch phủ trên tấm
phản long đinh.
Rồi ở dưới phản, mấy con chó con đòi
ăn, ăng ẳng kêu không dứt tiếng.
Và ở ngoài hiên, quang, gánh, liềm,
hái sen, với áo yếm, áo, váy, quần, lôi thôi rủ suốt mấy gian ruổi.
Trong tay bồng đứa con gái hai tuổi,
chị Dậu thơ thẩn ngồi trên chiếc chõng long nan. Cái nhanh nhảu của đôi mắt sắc
ngọt, cái sinh sắn của cặp môi đỏ tươi, cái mịn màng của nước da đen giòn và
cái nuột nà của người đàn bà hai mươi bốn tuổi, vẫn không đánh đổ những cái lo
phiền buồn bã trong đáy tim. Nét mặt rầu rầu, chị im lặng nhìn sự ngoan ngoãn
của hai đứa con nhỏ.
Cái Tý và thằng Dần, đương hỳ hục
bới đống rễ khoai, tìm những củ mập, củ giày, bỏ vào trong rổ. Chúng nó mừng
reo hý hửng khi thấy một củ nguyên lành, và chúng nó cãi cọ lầu nhầu khi lục
mãi chẳng được gì cả.
Mặt trời gần đến đỉnh đầu.
Ánh nắng xuyên qua lũy tre chiếu
xuống trước thềm khoang cửa.
Ðằng sau gà gáy te te.
Nóc bếp láng giềng ngọn khói bốc lên nghi ngút.
Thằng Dần với bộ mặt thìu thịu, bỏ đống rễ khoai đứng dậy
lùng bùng:
- Nhặt mãi từ sáng đến giờ mới được ba mẫu khoai ranh!
Con không phải tội mà bới nữa. U đi mua gạo mau lên! Hàng xóm nấu cơm trưa rồi,
nhà ta vẫn chưa ăn cơm sáng! Chúng con đói quá!
Ngó con một cách đau đớn, chị Dậu ngọt ngào:
- Con hãy cố nhặt thêm vài chục mẫu nửa, rồi chị nó luộc
cho ăn, chứ u làm gì có tiền đông gạo?
Thằng bé phụng phịu:
- Hôm qua và hôm kia u bán hai gánh khoai lang được năm
hào mà... đã tiêu gì đâu!
Vừa nói nó vừa tung tăng chạy đến cạnh mẹ, toan lần dải
yếm của mẹ. Cái Tý thỏ thẻ khuyên em:
- Tiền bán khoai còn phải để dành đóng sưu cho ông Lý
chứ? Dễ được đem mà mua gạo đấy hẳn? Em có đói thì hãy ăn tạm củ khoai sống
vậy!
Câu nói nghĩa lý của con bé bảy tuổi, hình như có một sức
mạnh thần bí, khiến cho chị Dậu hai hàng nước mắt chạy quanh. Uể oải, chị bế
cái Tỉu lên sườn và lừ thừ đi ra ngoài cổng, để ngóng xem chồng đã về chưa.
Chồng chị, - anh Nguyễn Văn Dậu - tuy mới hai mươi sáu
tuổi, nhưng đã học nghề làm ruộng đến mười bảy năm.
Với cái sức khỏe mạnh, với cái tính nhanh nhẩu, với cái
đức chịu thương chịu khó trong nghề cầy thuê cuốc mướn, những năm son rỗi, vợ
chồng nhà anh cũng vẫn kiếm được thừa ăn. Mấy năn nay phần vì thóc cao, gạo
kém, phần thì con đẻ thêm ra, vợ bận mọn luôn, sự tiêu dùng của anh mới không
được rồi rào như trước, vặt mũi chỉ đủ đút miệng mà thôi.
Rồi tháng tám năm ngoái, mẹ anh bị bệnh qua đời. Lại
tháng giêng năm nay, thằng em trai của anh cũng vì phải gió mà chết. Dầu anh
hết sức tằn tiện, hai cái ma ấy cũng cứ lôi kéo đi mất của anh hai món là làng
hết đúng sáu đồng, và hai cổ quan tài hết gần tám đồng. Nhà không có, anh phải
quang co tần tảo cho có. Hai cái rớp ấy cũng đủ đưa anh lên đến bậc nhì, bậc
nhất trong hạng cùng đinh rồi. Hơn nữa, tháng ba đến giờ thần bệnh sốt rét ở
đâu kéo đến, nó bắt anh cứ phãi nghĩ việc nằm nhà.
Thế là gần ba tháng trời, những sự đóng góp chi tiêu của
một gia đình năm miệng ăn, hết thảy trông vào hai bàn tay trắng của người đàn
bà con mọn.
Sự đói rách của con và sự lầm than của vợ, đắp đổi tiến
đến trước mắt, đã làm cho anh gan ruột nẫu nà. Thêm mấy bữa nay, Lý trưởng ngày
ngày sai người giục thuế, anh càng luống cuống như con kiến bò trong chảo nóng,
không biết lo liệu thế nào. Sớm ngày, cơn sốt đã tan anh phải gắng gượng chống
gậy ra đi, cũng định vay mượn lấy một vài đồng, trả cho xong "món nợ nhà
nước". Nhưng đi thì đi, chính anh cũng không tự biết mình sè đi đến nhà a,
và chừng bao giờ thì về.
Mong mãi không thấy bóng chồng, chị Dậu lại bỗng cái Tỉu
trở vào, ngồi phịch xuống chõng.
Cái Tý vẫn loay hoay với đống rễ khoai. Thằng Dần đương
ráu ráu nhai mẫu khoai sống.
Bên nhà láng giềng có tiếng mâm bát lạch cạch. Mấy con
nít tíu tít gọi nhau ăn cơm. Mùi canh rưa và mùi cá khi theo ngọn gió nồm đưa
sang ngào ngạt.
Thằng bé háu đói nuốt vội miếng khoai trong miệng, vớ tấm
áo nâu toạc vạt khoác luôn vào mình, đon đả chạy lại vỗ vào vai mẹ:
- Con sang chơi bên nhà ông Bác, u nhé!
Cái Tý chừng mắt:
- Bên ấy sắp sửa ăn cơm ấy mà...! Sang làm gì? Rồi bà Bác
lại đuổi oai oái như hôm nọ ấy. Thôi, đói thì chịu vậy, chứ em cứ nhặt cố lấy
mấy củ nữa, rồi chị đứng lên bắc nồi.
Thằng Dần quăng tọt cái áo vào chõng, ngoảnh đít quay
lại, trên mặt đầy vẻ thất vọng:
- Khổ lắm, bao nhiêu củ ngon củ lành, u đã lựa hết đem
bán, ở đây chỉ còn những rễ và rễ, lấy đâu ra khoai mà nhặt?
Cái Tý lại dịu nét mặt:
- Chả bán thì lấy tiền đâu đóng sưu?... Em hãy chịu khó
nhặt đi với chị! Hãy còn vô khối củ mẫm ra đấy.
- Nhưng mà em còn đói vàng cả mắt, không nhặt được
nữa...!
Nói xong, thằng Dần bước đến bên cạnh rổ khoai, chọn lấy
một củ lớn nhất, nó chùi vào bụng cho sạch cát bụi rồi cho vào mồm cắn...
Chị Dậu tuy vẫn ngồi im không nói,
nhưng ở khóe mắt, nước mắt lại cứ chan chứa chảy ra. Chừng như không muốn để
cho các con thấy sự đau lòng của mình, chị vờ ngảnh mặt nhìn vào trong vách.
Chương 4
Con chó cái nằm ở gậm phản bỗng chốc
vẫy đuôi rối rít, tỏ ra dáng bộ vui mừng.
Anh Dậu lữ thử từ cổng tiến vào với
cái vẻ mặt xanh ngắt và buồn rứt như kẻ sắp bị tù tội.
Cái Tý, thằng Dần cùng vỗ tay reo:
- A! Thầy đã về! A! Thầy đã về!...
Mặc kệ chúng nó, anh chàng ốm yếu im
lặng dựa gậy lên tấm phên cửa, nặng nhọc chống tay cào gối và bước lên thềm.
rồi lảo đảo đi đến cạnh phản, anh ta lăn kềnh lên trên chiếc chiếu rách.
Chị Dậu ôm con vào ngồi bên phản, sờ
tay vào trán chồng và sẽ sàng hỏi:
- Thế nào? Thầy em có mệt lắm không?
Sao chậm về thế? Trán đã nóng lên đây mà!
Anh Dậu nằm thừ không cựa, cũng
không trả lời. Chị Dậu lại gặng:
- Chắc thầy em mệt lắm thì phải? Từ
sáng đến giờ đi những đâu? Hỏi vay của ai?
Vắt tay lên trán, anh Dậu thở một
tiếng dài và cất cái giọng lề dề của người ốm:
- Tôi lên nhà lão Hội Ích.
- Có được đồng nào hay không?
- Chẳng được gì cả. Tôi cũng biết
cái thằng già ấy nó bẩn như chó, mình đả mắc nợ của nó, chẳng khi nào nó lại
cho mình vây thêm. Nhưng vì bí quá cho nên phải nhắm mắt đi liều. Quả nhiên mới
cất miệng hỏi, nó đã mắng sấm xơi sới, rồi lại dọa rằng: "Ba đồng cầm đất
cầm nhà, lãi mười hai phân, đến tháng sáu này thì vừa hết hạn, tính thành ra
năm đồng một hào sáu xu. Nếu không trả được nó sẽ cắm cả nhà đất để làm chuồng
xí".
Chị Dậu cau đôi lông mày:
- Trời đất ơi! Cắm cả nhà đất để làm
chuồng xí! Ăn nói như thế thì còn trời đất nào nữa?... Thế sao thầy em không
đến ông cậu hỏi tạm lấy một đồng vậy?
- Có! Tôi có hỏi! nhưng cũng chẳng
ăn thua gì. Ông ấy nhiếc mãi vợ chồng sức dài, vai rộng mà có vài ba đồng bạc tiền
sưu cũng không chạy nổi...
Chị Dậu giậm chân xuống đất:
- Khốn nạn! Ấy ông cậu đấy! Ông cậu
giàu có nứt đổ lá vách, cả đời cháu mới hỏi vay mấy đồng, còn nỡ nhiếc móc như
thế, trách chi người ngoài!... Thế bây giờ thầy em đã định hay chưa?
Anh Dậu nín lặng một hồi, rồi lại
thở dài tiếng nữa:
- Tôi đã nói với cụ Nghị Quế ở thôn
Ðoài... hay là bán quách...
Ðương nói giở câu, anh Dậu ngập
ngừng lại thôi, như có vật gì nghẹn ở cổ họng. Chị Dậu cố gắng:
- Bán quách cái gì? Thầy em cứ nói,
ở đây có ai mà sợ!
Anh Dậu đơm dớm nước mắt:
- Hay là bán quách cái Tý cho cụ ấy?
Chị Dậu cũng nước mắt chảy qua gò má
dòng dòng. Chị cứ cúi gầm mặt xuống, không biết trả lời ra sao. Cái Tý nghe
thấy ru,ng rời củ khoai trong tay, vội vàng đứng lên năn nỉ:
- Con van thầy! Con van U! thầy u để
con ở nhà chơi với em con. Con van thầy! Con van U! Thầy U đừng đem bán con.
Thằng Dần nhả vội miếng khoai trong
miệng, và sụt sịt khóc:
- Em không, nào! Em không, nào! em
không cho bán chị Tý nào! Có bán thì bán cái Tỉu kia kìa!
Anh Dậu cũng như chị Dậu, ai náy sè
sẽ gạt thầm nước mắt và cũng giả cách làm thinh.
Cái Tý vẫn bai bải van như tế sao,
một hai xin thầy u đừng bán nó đi, tội nghiệp cho nó.
Chừng như cầm lòng không đậu với
những lời ngây thơ và thê thảm của con bé ngoan ngoãn. Chị
Dậu xoa suýt cái Tỉu và yên ủi cái
Tý:
- Không! Thầy con nói đùa ấy thôi!
Bán con thì lấy ai ẩm con bé này cho u đi làm?
Cái Tý vui vẻ ngồi vào cạnh đống rễ
khoai, nó lại hý hoáy bới bới nhặt nhặt.
Một bầu không khí tẻ ngắt bao phủ cả
mấy gian nhà, người ta có thể nghe rõ tiếng dập ở hai trái
tim của hai vợ chồng anh trai cùng.
Ngoài đường có tiếng chó sủa xô xát.
Rồi tiếng roi quất vào vách đèn đẹt. Rồi tiếng người hỏi dữ dội:
- Ðĩ Dậu có nhà đấy không?
Chị Dậu lật đật bỗng con bé con ra
cổng đuổi chó. Anh Dậu cũng ngồi nhỏm dậy và ngó ra sân.
Người nhà Lý trưởng nghênh ngang múa
chiếc tay thước với sợi dầy thừng, đưa ông Cai lệ và cây
roi song hùng dũng bước vào trong
cổng. Hai người cùng ra oai giộ con chó cái và cùng nhẩy lên thềm. Phủ đầu, ông
Cai lệ chỉ cây roi vào mặt anh Dậu và quát:
- Sưu đâu? Sao không đem nộp? Người
ta vào hỏi vẫn còn ngồi ỳ ra đó!
Anh Dậu lẩy bẩy đứng dậy. Cái mặt
xanh xao khi ấy đã đổi ra sắc tái mét. Run run, anh sẽ giơ tay gãi tai:
- Thưa ông, tôi chưa có.
Ông Cai lệ thị hùng bằng hai con mắt
giương tròn:
- Cả năm chỉ có hai đồng bảy hào
tiền sưu, bây giờ anh vẫn chưa có bao giờ anh định mới có?
Với cái dáng điệu có vẻ van lơn, anh
Dậu hổn hển thở và đáp:
- Thưa ông, vì tôi đau yếu, nên chưa
lo kịp, xin ông thư cho đến mai. Thuế còn năm bữa nữa mới đăng trường kia mà!
- À! thuế còn năm hôm nữa mới đăng
trường, cho nên anh không nộp vội, phải không?
Hỏi vậy nhưng ông Cai lệ không để
cho kẻ bị hỏi được có thời gian phân trần. Nhanh như cắt, ông chuyển phắt cây
roi song sang tay trái và nắm chặt năm ngón tay phải, đưa luôn vào ngực anh Dậu
một mớ quả thụi. Cái thụi chuyên môn của người công khác hẳn thứ thụi phổ thông
của thường dân. Anh Dậu chỉ ức ức mấy tiếng, chứ không thể kêu lên được. Thuận tay,
ông Cai lệ túm lấy cổ áo anh Dậu và ngảnh lại bảo ông người nhà lý trưởng;
- Thừng đâu? Trói cổ nó lại. Có một
suất sưu bây giờ chưa nộp lại còn chực giở lý sự?
Tức thì hai người xúm lại, mỗi người
nắm một cánh tay anh Dậu bẻ quặt ra đằng sau lưng, rồi luồn thừng vào và riết
thật chặt. Họ trói anh chàng khốn nạn giống kiểu như nhà quê trói chó để làm
thịt vậy.
Thằng Dần òa khóc:
Cái Tý mếu máo nhếch nhác, chạy đến
cạnh ông Cai lệ, chắp tay vái lấy vái để:
- Cháu lạy hai ông! Hai ông tha cho
thầy cháu. Hai ông đừng trói thầy cháu!
Sẵn cây roi trong tay, ông Cai lệ
quất luôn cho nó mấy cái vào đít và quát:
- Bước ngay!
Con bé đau quá. Nó lăn đành đạch
xuống đất và nó rẫy rụa như con gà phải nước nóng. Thằng Dần càng khóc dữ.
Ông Cai lệ đương cơn thịnh nộ, lại
thẳng tay giơ cay roi song, toan trừng phạt thằng bé này. Chị Dậu lếch thếch ôm
con bé con chạy vào:
- Thôi. Tôi xin ông Cai! Ông tha cho
cháu... Chúng nó hãy còn bé bỏng.
Lời nói tiết tha của người đàn bà có
duyên vẫn có đôi chút hiệu lực. Thằng bé ngây thơ đã được ông Cai ân xá.
Ngảnh lại thấy chồng bị trói chặt
quá, mặt mũi nhăn như chuột kẹp, chị Dậu lạ dẽ dàng kêu van ông Cai:
- Nhà tôi đương ốm... Xin ông làm
phúc nới rộng nút thừng ra cho!
Lần này không có kết qủa, những lời
nằn nì của chị chỉ được ông Cai đáp lại bằng một giọng oai nghiêm:
- Không phải nới! Trói thế cũng chưa
chết nào! Mà có chết nữa, chồng chị càng khỏi đóng sưu.
Anh Dần nói xen:
- Nhưng tôi đau quá... xin ông hãy
nới lỏng ra cho tôi một tý. Nào tôi có chạy mất đâu!
Ông Cai lệ nổi cơn lôi đình, tặng
luôn anh Dậu năm bảy cái tát vào mặt và hằm hè:
- Bướng với ông à. Mày có tội thì
ông mới trói. Lại còn bướng với ông à!
Chị Dậu nhìn ông Cai lệ bằng đôi con
mắt đỏ ngầu:
- Thôi, tôi cũng lạy ông nữa! Chẳng
qua nay mai đủ thuế thì thôi, làm gì ông phải hành hạ chồng tôi quá vậy? Có
đánh thì ông cứ đánh tôi này. bao nhiêu tội tôi xin chịu cả. Chồng tôi đau ốm
chẳng làm nên tội.
- À! Mày thách ông phải không? Hừ!
Thấy ông nể mặt mày càng làm già! Ðược! Ông thử cho mày biết tay! Này thách!
Này thách! Này thách!!!
Mỗi tiếng " này thách" từ
miệng ông Cai đã đưa ra, chị Dậu lại được hai ba quả thụi vào ngực.
Ðứng không vững, chị này ngã phịch
xuống đất. Cái Tỉu nằm trong lòng mẹ khóc ngặt khóc nghẻo. Cái Tý, thằng Dần mỗi
đứa nấp một xó cột nhìn trộm bố mẹ phải đòn. Cả hai đứa cùng nức nở khóc không
ra tiếng.
Người nhà Lý trưởng chỉ cái tay
thước vào mặt chị Dậu:
- Không thấy người nào lắm đều như
chị. Nếu nhà ai cũng bướng như nhà này, có lẽ thuế của nhà nước đến bỏ. Thôi!
Ðứng dậy mà đi chạy sưu cho chồng, đừng ngồi ăn vạ đây nữa!
Rồi hai ông hằm hằm túm lấy đầu
thừng, sền sệt điệu anh Dậu xuống thềm. Tới cổng, anh chàng khốn nạn quay lại
dặn vợ:
- U nó để cái Tỉu ở nhà, sang ngay
bên cụ Nghị Quế cho tôi
Chương 5
Bước vào khỏi cổng thôn Ðoài, đã
thấy nhà ông Nghị Quế.
Nó là một đám bung xung nhọn như
ngọn tháp, hùng dũng úp trên đoàn bịch vừa đồ sộ, dường như
phô nhà mình thóc để hàng bốn, năm
mùa.
Nó là một lũ đốn rơm, đốn rạ lớn
bằng trái núi, chen nhau đứng bên cạnh ngọn mít, ngọn sung, dường như khoe ông
chủ cầy cấy đến mấy trăm mẫu.
Nó là những tòa mái ngói muốn bảo
tồn quốc túy bằng những "đấu" vuông tròm trõm, những sôi tầu cong
rướn và những con cá chép " mảnh sứ" há miệng nằm giáp tường hồi.
Nó là một ngôi dương cơ rộng chừng
ba mẫu, quây quần trong bốn bức tường gạch cắm mảng chai, cảnh tượng phức tạp,
giống như ngôi chợ đóng trong khu trại, họp đủ các vật sang, hèn, các kiểu cũ,
mới.
Cái cơ nghiệp ấy tuy tự tổ tiên để
lại, ông Nghị cũng có khai thác thêm nhiều.
Ông không đi buôn, không đi thầu,
chỉ làm ông chủ ruộng kiếm ông chủ thả lãi.
Ðụng đến của ông nhẹ nhất cũng là
mười phân. Và vay từ một đồng trở lên, đều phải viết ruộng
hay nhà, hoặc phải gửi vật gì khác
làm đồ bảo đảm. Quá hạn thì mất. Dương cơ ông ở cũng nhờ ruộng nương ông cấy,
hạc đồng, lọ sứ ông thờ, phần nhiều là của những người vay nợ hết hạn không
trả, bị ông chiếm lấy và bắt lấy.
Nhà ông đời đời phát phát về bên
hào. Bước đường công danh của ông cũng bắt đầu từ chức Lý trưởng vượt qua những
bậc Phó tổng, Chánh tổng rồi, cơm rượu, bò lợn và quan phủ, quan tỉnh hiệp sức
vó nhau đưa ông lên ghế nghị viên.
Không như những kẻ mặt người dạ thú,
mượn tiếng "thay mặt dân" để hót Chánh phủ mà xin xỏ việc này việc
kia, ông ra nghị trường, chỉ cốt mua cái "vị thứ tân thời", lấy chỗ
mỗi năm vài lần, ăn uống và... ngồi nằm với bọn tai mặt trong xứ.
Cái đức "không thèm
biết...chữ" của ông hơn hẳn các bạn đồng viện, tuy những ông ấy chỉ xuất
thân bằng nghề lái lợn hay cai phu. Vào viện ông cũng như hầu hết các ông nghị
khác, không bàn và không cần nghe ai bàn. Nhưng, ông cũng chỉ ngáp vặt, chớ
không ngủ gật bao giờ, vì sợ đôi giầy chí long để dưới chân ghế lỡ bị mất trộm
trong khi ông phải co chân đặt lên mặt ghế cho hợp thói quen của ông.
Từ ngày "giữ chức ông
Nghị", danh tiếng của ông đã bay khắp tỉnh Trung sơn. Thế nhưng suốt năm
chí tối, ông không phải thết một ông khách sáo, trừ ra hai ngày giỗ cha và giỗ
mẹ.
Cố nhiên, ông phải là một người cơ
chỉ, so kè từ một đồng xu trở đi. Vậy mà lắm khi ông lại rất hào. Nhất là những
dịp tết ta, tết tây, không dịp nào ông quên không bắt chim ngói, gà mái theo
những thúng gạo tám thơm vào cửa mấy ông to lớn.
Với ông, vợ chồng Ðĩ Dậu không có họ
hàng thân thích gì cả. Nhưng vì các hắn cầy thuê cấy mướn
cho ông đã nhiều, nên đều biết nhà,
biết người.
Sau khi Cai lệ và người nhà Lý
trưởng đã dẫn anh Dậu ra đình, chị Dậu theo lời chồng dặn, trao con bé con cho
cái Tý, vớ chiếc nón rách đeo vào cổ tay. Thằng dần khóc nhếch khóc nhác, rầm
rĩ kêu đói. Giả điếc, chị cứ lủi thủi cắp nón ra đi.
Ánh nắng tháng năm rát như lửa chàm
vào mặt. Hơi nước dưới đồng bốc lên, nóng như hơi trong chõ xôi. Những con cua
chửa và những con rắn nước chịu không nổi sức nóng của nước trong ruộng, rủ
nhau bò lên mặt đường và núp vào các khóm cỏ.
Ðông xá với Ðoài thôn vẫn là một xã,
cách nhau độ ba cây xộ trong lúc nắng gắt, người ta coi đoạn đường ấy như con
đường thiên lý trong bãi cát già. Nhưng, với chị Dậu nó không mùi gì, vì đời
chị đã quen hàng ngày rạn mặt với thần nắng.
Nhờ sức che chơ của chiếc nón rách,
chị chỉ bước rảo một thôi thì tới cổng nhà Nghị Quế. Mặt trời
đứng bóng. Trâu bò lũ lượt lôi thợ
cầy ở ngoài đồng về. Thập thò ngoài cổng, chị nâng vạt áo nâu mốc lau những
giọt mồ hôi nhễ nhoại trên đôi lông mày và mở to đôi mắt quáng nắng nhòm vào
trong cổng.
Trên cái sân gạch Bát tràng mông
mênh như bãi đá bóng, không điểm một vết bóng râm. Ðàn chim bồ câu chổng mông
mổ trên nong đỗ. Con gà mái ấp cục tác từ trên cửa chuồng nhảy xuống, ưỡn đít
bón một bãi phân cho chậu lan. Mấy con lợn con theo mẹ nghễu nghện diễu chung
quanh chậu nước vo gạo.
Không có người nào qua lại. Ðánh
bạo, chị Dậu xăm xăm tiến vào sân. Một đàn chó dữ như đàn hùm ở đâu nhất tề sồ
ra. Chúng nó nhảy chồm lên tận mặt người lạ.
Hoảng quá, chị Dậu ngồi phịch xuống
gạch, vừa vung cái nón khua đuổi những con ác thú, vừa kêu:
- Anh bếp có nhà không? Làm phúc
đánh chó cho tôi với!
Trong nhà có tiếng thét ra the thé,
nghe rõ là tiếng đàn bà:
- Làm gì mà nheo nhéo thế? Nhà ai
không có chó? Làm sao đi không mang gậy? Thằng bếp còn bận việc khác, nó không
phải hầu chúng bay!
Rồi lại im. Thì ra vợ chồng ông Nghị
đương ăn cơm ở nhà khách. Nghe tiếng chị Dậu léo xéo, bà Nghị bực mình, quát
đổng vài câu cho oai, chứ bà không thèm đứng dậy. Tính bà xưa nay vẫn thế,
chẳng khi nào lại chịu hạ mình mà đi mắng chó, đuổi chó cho kẻ vay nợ hay người
làm thuê.
Ðàn chó cứ vây kín chung quanh chị
Dậu như quân đèn cù. Hình như chúng nó muốn cố làm hết phận sự với chủ: con nào
con ấy nhe răng lè lưỡi, chỉ chực vồ vào hai chân chị chàng đáng thương. Cái
nón dùng làm khí giới đã bị đàn vật cắn rách tan tành. Chị Dậu luống cuống
không biết làm thế nào. Bí quá, chị phải giơ hai nắm tay đánh nhau bộ với
"đội lính coi nhà" của ông Nghị.
Một mụ thợ cấy ở dưới nhà bếp lật
đật vác gậy chạy lên. Mụ đuổi đàn chó tán loạn mỗi con chạy đi mỗi ngả.
Chị Dậu lóp ngóp đứng dậy và đi đến
trước nhà khách. Bàn tay phải bị chó cắn vào lúc nào không biết, máu chảy đầm
đìa. Ghé răng, chị xé một miếng ở đầu dải yếm, buộc chặt lấy chỗ bị thương. Rồi
rụt rè, chị lên bực thềm:
- Thưa lạy hai cụ ạ!
Bà Nghị gắt:
- Chó cắn vào tay phải không? Cho
chết!
Ðương lúc người ta ăn uống, ai bảo
cứ dẫn xác vào? Hỏi gì?
Ông Nghị đặt bát xuống mâm, vừa nhai
nhồm nhoàm vừa đón:
- Sáng ngày chồng nó đã sang xin bán
đứa con. Chắc nó đến để nói nốt chuyện ấy, chứ gì nữa.
- Bẩm cụ phải, con sang thưa cụ về
việc ấy.
Bà Nghị đưa mắt ra hiệu cho ông Nghị
rồi bảo chị Dậu:
- Thong thả! Hãy ngồi đấy! Ðể cho
người ta ăn xong cái đã. Ðừng quấy rầy!
Ông Nghị như đã hiểu ý của vợ, cứ
việc chan chan gắp gắp, không nói không rằng.
Khép nép, chị Dậu ngồi phệt xuống
mặt thềm gạch. Mọi ngày tuy vẫn làm mướn cho ông Nghị ấy,
nhưng chi, chỉ thì thọt ra vào trong
mấy gian bếp, chưa biết nhà trên thế nào. Hôm nay bạ men tới đây, ấy là lần đầu
chị được trông thấy cảnh tượng nhà khách của ông dân biểu. Trong mắt chị nhà ấy
lịch sự vô cùng. Nào ở cạnh bức hoàng phi khảm trai, mấy cô con gái tồng ngồng
đùi, vú vừa nằm, vừa tủm tỉm cười tình.
Nào ở giữa đôi câu sơn then thiếp
vàng hai thằng bé con béo tròn và xoay trần, lễ mễ khiêng hộp sữa bò cao lớn
gần bằng chúng nó.
Nào ở bên chiếc độc bình men đỏ, cái
điếu ống vất vểu vươn cành xe trúc dài thườn thượt như cái cần câu.
Rồi ở trong cái tủ chè chạm dây nho,
một rổ trứng gà đầy lùm, ngất nghểu chồng trên bộ khay chè
trắng bóng. Rồi ở trước cái sập gụ
lên nước, bốn chiếc ghế gụ mặt đá cùng chầu vào một chiếc bàn
mây sơn xanh. Và ở đầu cái giường
tây sơn quang dầu, quần lĩnh thâm và khăn quàng nhiễu xanh cùng vắt một chỗ.
Biết bao của quí vật lạ, chị Dậu nhìn vẫn chưa khắp. Trên bàn ăn có tiếng leng
keng.
Ông Nghị đâm chéo đôi đũa qua mặt
mâm, bưng bát nước canh, trợn mắt húp một cái đánh "soạt". Rồi ông
vừa nhai, vừa nuốt, vừa giục thằng nhỏ lấy tăm. Bà Nghị cầm đĩa dò kho ăn dở,
chút vào trong niêu, sai thằng bếp treo lên lao màn và dặn:
- Bà đã đếm kỹ từng miếng rồi đấy.
Còn mười bốn miếng tất cả. Hễ mất miếng nào thì chết với bà!
Thằng bếp bưng mâm cơm ra. Thằng nhỏ
đệ chậu nước vào. Ông Nghị, bà Nghị mỗi người dúng ba
ngón tay vào chậu, vuốt qua hai mép
một lượt, rồi cùng uống nước, xỉa răng. Hai đứa đầy tớ đứng hai
bên cầm quạt phẩy lại. Bà Nghị mở
cái tráp tròn lấy trầu và cau nhai với một vài sợi thuốc. Ông Nghị
nhắc cái điếu ống để trên trốc tủ,
giặt thuốc, châm lửa, vít cái xe chúc vào miệng. Bắt chân chữ "Ngũ"
ông vểnh mặt hút sòng sọc một hơi:
- Con mẹ kia! Bán con bán cái thế
nào? Vào mà nói chuyện với bà... !
Rón rén, chị Dậu đứng nép vào cửa và
ngập ngừng:
- Thưa lạy hai cụ, nhà con túng quá,
xin hai cụ cứu giúp con.
Bà Nghị nhả miếng bã trầu cầm tay,
quai thật dài cặp môi cắn chỉ:
- Chẳng cứu với vớt gì cả! Mày có
bán đứa con gái tao mua!
- Xin vâng!
- Sáng ngày chồng mày nói rằng con
bé ấy đã lên bẩy tuổi, xin lấy ba đồng. Cụ ông tưởng nó nói thật, bằng lòng cho
nó hai đồng. Nhưng giờ nghe nói con mày mới có sáu tuổi, thì tao triết đi một
nửa, chỉ cho một đồng thôi. Thuận bán thì về đưa nhau sang đây!
Chị Dậu ngơ ngác:
- Thưa cụ, thật quả cháu đã lên bẩy,
nó đẻ tháng dần năm Tý. Chúng con không dám nói dối thưa cụ!
- Tao không thể tin cái miệng vợ
chồng nhà mày! Người ta mách tao là nó lên sáu, thì tao hay nó lên sáu. Chứ tao
biết đâu nó đẻ năm tý hay đẻ năm tỵ năm tỳ.. !
Chị Dậu đờ mặt, không biết nói sao.
Bà Nghị tiếp:
- Vì cái hai bên kia...
Ông Nghị cau mặt ngắt lời:
- Sao bà cứ gọi con bằng lối xách mé
như vậy? Tôi đã dặn bà phải gọi nó là mợ... Bây giờ ở nhà các quan, con gái đều
được kêu là mợ tất cả. Tôi hèn ra cũng là một Nghị viên, có lúc ngồi với quan
Sứ quan Thượng, danh giá không kém gì một ông quan. Bà có gọi con gái bà là mợ,
cũng không quá lạm kia mà!
Bà Nghị cười ngặt, cười nghẹo:
- Thế thì ông lầm rồi! Con dâu
kia... người ta mới gọi là mợ; con gái thì người ta gọi là cô. Chẳng cứ gì nhà
các quan, tôi thấy những nhà ông ký, ông phán, những nhà buôn bán ở Hà Nội đều
như thế cả.
- Miễn là đừng có gọi chúng nó bằng
cái kiểu tục tằn của những nhà bố cu, bố đĩ... Mợ thì mợ, cô thì cô....
Bà Nghị ra bộ đắc ý:
- Vâng, thì cô!... Cô hai bên kia
hiếm hoi mấy lần xem bói, thầy bói đều bảo cô ấy phải nuôi con nuôi thì mới
đứng số. Bởi thế, tao muốn mua cho cô ấy một đứa, để nó "gánh vác đỡ
đi". Chứ nhà tao đây thiếu gì người hầu hạ? Vả lại, con bé mới lên sáu
tuổi, đã làm được công trạng gì mà tao phải chuốc? Huống chi nó sang ở với cô
ấy, cơm no áo lành, lại không sung sướng gấp trăm gấp nghìn ở nhà với vợ chồng
mày hay sao? Ðáng lẽ biếu không thì phải... Cho một đồng cũng quá lắm rồi.
Không phải nài nẫn gì nữa!
Chị Dậu ngồi đờ như gỗ, không biết
trả lời ra sao.
Chương 6
Bà Nghị chỉ tay quát thằng nhỏ lấy
nước. Bà uống một hớp dấp giọng rồi hỏi chị Dậu:
- Thế nào mày nghĩ tao nói có đúng
hay không?
Chị Dậu dơm dớm nước mắt:
- Vâng. Thưa hai cụ ý con cũng biết
rằng cháu được sang đó nương nhờ hai cụ và cô Hai, thật là phúc cho nó lắm... Nhưng
vì, nhà con thiếu hơn hai đồng tiền sưu, mới phải đến kêu cửa cụ. Nếu chỉ có
một đồng, thì còn hơn một đồng nữa, chúng con không biết chạy vào đâu được. Vậy
xin hai cụ đón tay làm phúc...
Ông Nghị quát:
- Thiếu bao nhiêu mặc kệ mày, kể lể
gì? Mày định bổ vào nhà tao đấy à?
Chị Dậu thèn lẹn nâng dải yếm sẽ
chùi vào mắt.
Bà Nghị yên ủi:
- Thiếu một đồng nữa thì xem trong
nhà còn có cái gì đáng tiền, đem mà bán nốt đi vậy! Chứ đứa con gái sáu tuổi,
bây giờ cho không cũng không đắt thay, ai động rồ mà trả mày hơn....
- Thưa lại hai cụ, thật quả nhà con
không còn cái gì đáng giá hai hào.
Bà Nghị cười nhạt:
- Sao bảo nhà mày có con chó cái
khôn lắm?
- À, thưa cụ có! Nhưng nó mới đẻ,
con nó hãy còn non lắm, có bán cũng không ai mua. Nếu có người mua cho, chúng
con không phải bán con cháu.
- Nó đẻ mấy con? Con nó đả mở mắt
chưa?
- Bẩm bốn con! Nó đả biết ăn cơm hai
hôm nay... hay là xin cụ đỡ con hai đồng, lờ lã thế nào con cũng xin vâng. Chỉ
độ hai phiên chợ nữa, mấy con chó ấy cứng cát, bán được thì con xin nộp cụ.
Bà Nghị bĩu môi:
- Tiền tao có phải vỏ hến mà tao
quẳng ra cho mày bây giờ? Dễ tao hám lãi của mày lắm đấy? Thôi.
Thế này này: Chó non tao cũng mua
vậy. Bắt cả con chó cái và đàn con chó con sang đây, tao trả cho một đồng nữa.
Với con bé kia một đồng là hai.. Thế là nhà mày đủ tiền nộp sưu, lại khỏi nuôi
chó, khỏi nuôi con. Sướng nhé!
Rồi bà Nghị vui vẻ nhìn mặt ông
Nghị:
- Ấy tôi cứ hay thương người thế
đấy! Người khác thì họ mặc kệ, ai hơi đâu? kêu lắm thì bã bọt mép.
Chị Dậu lại chứa chan nước mắt. Buồn
rầu, chị sẽ ngồi xuống bực cửa và nói chầu lên:
- Vâng! Con cũng biết cụ có lòng
thương nhà con mới thế. Chứ đàn chó vừa mới mở mắt, ai mua làm gì...? Nhưng,
thưa cụ, giá chó bây giờ cũng không rẻ lắm, một con chó cái, con đem ra chợ bán
ít nhất cũng được đồng rưỡi. Còn bốn con chó con, nếu nuôi thêm vài phiên chợ
nữa, thế nào cũng được năm hào một con. Vậy là tất cả đến ba đồng rưỡi, cụ cho
một đồng thì thiệt con quá. Xin cụ trông lại!
Ông Nghị đập tay xuống sập:
- Ðem ngay đi chợ mà bán! Không nói
lôi thôi! Mất thì giờ! Thời Tây bây giờ, thì giờ là vàng bạc, không ai công đâu
mặc cả với mày.... Hừ! Vừa mới ngoen ngoẻn nói rằng "bán không ai mua
", người ta làm phúc mua cho, lại còn nhằng ngằng kêu rẻ! Rẻ thì đem ngay ra
chợ mà bán. Ra ngay!
Chị Dậu nhổm đít toan đứng lên. Bà
Nghị thẽ thọt:
- Chúng bay cứ cái thói ấy, không
trách chẳng ai buồn thương, khổ là đáng kiếp. Trong lúc thuế má ngặt ngòi, đồng
bạc cho vay, lãi ngày năm xu, người ta đã phải bỏ ra mà mua đàn chó mới mở mắt,
thế là người ta làm ơn cho mày. Mày tưởng người ta không
thể mua đâu được chó đấy chắc? Hay là chó của nhà mày bằng vàng? Thôi, cho thêm
hào nữa, thế là vừa con, vừa chó, cả thảy được hai đồng
mốt. Bằng lòng không?
Chị Dậu lại tần ngần ngồi xuống:
- Bẩm cụ, một vài hào ở cụ chẳng thắm vào đâu, nhưng, ở
con thì nó lớn lắm. Xin cụ cho con lấy năm hào nữa vậy.
Bà Nghị ra bộ dễ dãi:
- Con mẹ mày cũng ghê gớm lắm! Thấy bở thì đào mãi! Ừ,
thì tao trả thêm một hào. Là hai đồng hai.
Bằng lòng thì lên nói với ông giáo làm văn tự cho. Và
phải trả ông ấy hai hào giấy mực. Nghe không!
Chị Dậu thất vọng:
- Thế thì con chỉ được hai đồng đem về...
Ông Nghị lại cáu:
- Chứ bao nhiêu nữa? Hai chục nữa nhé! Thôi, cho thế cũng
đắt lắm rồi. Bán thì đi làm văn tự. Không bán thì về. Về thẳng!
"Về thì đăm đầu vào đâu? Ðể chồng bị trói đến bao
giờ nữa?... Thôi, trời đã bắt tội, cũng đành nhắm mắt liều... " Bên tai
chị Dậu, văng vẳng có tiếng như vậy. Nước mắt ứa ra, chị lại đứng dậy với bộ
mặt não nùng:
- Vâng con xin bán hầu hai cụ. Nhờ các cụ cho bảo ông
giáo làm giấy giúp con!...
Bà Nghị dõng dạc gọi xuống nhà dưới:
- Ðứa nào lên nhà học mời ông giáo xuống đây cho tao!
Ðồng hồ trên tủ thong thả đánh mười một tiếng. Giấy cót
sổ ra xoe xòe.
Bà Nghị tươi cười nói với ông Nghị:
- Sao bây giờ mới mười một giờ? Hay là đồng hồ nhà ta
chạy sai?
Ông Nghị rung đùi, vuốt chồm râu tây cong vắt trên mép
ngậm tăm:
- Bà quê lắm! Ðồng hồ của Tây làm ra có bao giờ sai? Bây
giờ mười một giờ là đúng. Nhà ta ăn cơm khi sớm.
Bóng nắng xuống thềm gần một hàng gạch.
Xe lửa "một giờ" toe toe hét còi.
Ông giáo kéo đôi giầy vá từ đầu nhà thờ đi sang. Trong
tay đủ cả quản bút, lọ mực, giấy trắng và
giấy thấm.
Với cái búi tóc ngất ngưởng trên đầu, với cái sức học chữ
Nho bằng rưỡi quốc ngữ, ông ấy gọi là thầy đồ thì đúng hơn. Chỉ vì về phần nhà
chủ nuôi cơm, tiếng nuôi ông đồ không bằng tiếng nuôi ông giáo, cho nên ông ấy
phải đổi sang ngạch "thầy giáo", để dậy mấy đứa trẻ học tam tự kinh
và A B C, và viết văn tự cho những người đến nhà ông Nghị cầm cố vay mượn. Vào
nhà khách, ông giáo se sẽ đẩy thúng gạo nếp trên chiếc tràng kỷ gỗ lát và lễ
phép ngồi vào chỗ đó.
Sau một hồi để ý nghe lời ông Nghị dặn dò, ông giáo
nghiêm trang cúi vào mặt bàn. Trịnh trọng ông ấy viết.
Cả nhà im lặng.
Năm phút, mười phút, nửa giờ... ông giáo ngẩng lên ngó
mặt chị Dậu:
- Chị kia, sang đây tôi đọc cho nghe, rồi điểm chỉ vào!
Dón dén, chị Dậu đến cạnh tràng kỷ. Ông giáo đằng hắng ba
tiếng, rồi bằng giọng cắt nghĩa cho học trò, ông ấy đọc:
"Tên tôi là Nguyễn Văn Dậu, hai mươi sáu tuổi ở làng
Ðông xá, và vợ tôi là Lê thị Ðào, hai mươi bốn tuổi, cũng ở làng ấy, có mượn
ông của ông bà Hoàng thị Sẹo, năm mươi tám tuổi, vợ cả ông Nghị viên Trần Ðức
Quế ở làng Ðoài thôn, một đôi hoa tai bằng vàng nặng ba đồng cân, đáng giá hai
chục đồng bạc. Hạn trong năm năm phải trả. Nếu không trả, chúng tôi xin chịu
tội bội tín. "Giấy này làm tại làng Ðoài thôn ngày... tháng...
năm..."
Chị Dậu nghe rồi rẫy nẩy:
- Thưa ông, ông lầm rồi. Tôi bán con và chó, chứ có mượn
hoa tai của bà đâu?
Ông Nghị rút vội cái tăm trong miệng mình, đặt ngang vào
miệng tách nước:
- Không ai thèm đánh lừa chúng bay. Bây giờ luật mới
nghiêm cấm cha mẹ bán con, cho nên văn tự phải viết như thế, chứ không nói con,
nói chó vào được. Sau này, mày cứ để cho con mày ở mãi với cô hai, thì cái giá
ấy tao cũng coi như không có. Nếu mày trở mặt mà đem con về, tao sẽ chiếu giấy
bỏ tù cả vợ lẫn chồng. Giấy làm như vậy, chỉ cốt giữ cho nhà mày khỏi lật nhà
tao, chứ nhà tao không đời nào thèm lật nhà mày. Thế là bao giờ tao cũng nắm
đằng chuôi, chứ tao không cầm đằng lưỡi. Nghe không?
Dứt mạch diễn thuyết, ông Nghị bưng tách nước uống mọt
hớp lớn, súc miệng òng ọc mấy cái, rồi nhổ toẹt xuống nền nhà:
- Tùy đấy mày có tin nhà ta thì điểm chỉ vào đem về cho
chồng mày ký tên, và xin chữ lý trưởng nhận thực tử tế. Rồi mang sang đây, thì
tao sẽ giao tiền cho. Nếu mày không tin thì thôi. Ðây tao không ép.
Hai hàng nước mắt hòa với những giọt mồ hôi thánh thót
rơi xuống gò má, chị Dậu cắm mặt đứng im. Một lát sau, chị quả quyết:
- Con xin vâng theo lời cụ
Thế rồi chị giơ bàn tay buộc rẻ chìa hai ngón tay để cho
ông giáo bôi mực và in vào bứa văn tự. Xong việc, chị gập bức văn tự, giắt vào
dải lưng. Bước ra thềm, chị nhặt lấy cái mê nón bị chó cắn rách. Ngần ngại, chị
đặt mê nón lên đầu, cúi chào vợ chồng ông Nghị và ông giáo. Bà Nghị căn vặn
nhắc đi nhắc lại:
- Nhớ lấy cái gì đậy cho mấy con chó con, kẻo nó bị nắng.
Chương 7
Bóng cây ngã đến gần đường bao lan. Mặt trời chênh chếch
nhòm vào gốc đa, gốc gạo. Những con trâu, bò bị bắt và bị ký giam chỏng gọng
nằm dưới ánh nắng, uể oải nhai những rễ khoai hoặc cỏ héo của chủ ban cho. Một
lũ đàn bà chờ đợi nộp thuế, lê la ngồi khắp thềm đình.
Ðàn chó chui trong gậm đình, chực cướp xương rơi, con nọ
cắn con kia ăng ẳng. Trên đình ăn uống đã tàn. Chánh tổng ngậm tăm nằm cạnh bàn
đèn, hai mắt lim dim giở ngủ.
Cai lệ ngồi nhổm hai chân cạo lọ cặp môi thâm xịt nhành
ra gần tới mang tai.
Cậu lính cơ lấy hết gân guốc trên bộ mặt đỏ gay, ra sức
nghiền cục sái trong cái chén mẻ.
Mấy ông Hương trưởng, Tộc biểu, Trương tuần xúm quanh cái
điếu đàn và chiếc ấm tay, kẻ hút
thuốc, người phùng miệng thổi bát nước nóng.
Lý trưởng tựa lưng bên bức câu lơn, thù tiếp Chánh hội,
Phó hội bằng mâm cỗ chỉ còn rau chuối và lá tía tô. Thư ký, Chưởng bạ lễ phép
chìa đũa, mời nhau gắp mấy miếng thịt mỡ khô cong các cạnh. Lý cựu, Phó lý, Thủ
quỹ châu đầu trên lớp bát đĩa đầy những nhặng xanh, gật gù nhắc chén lên lại
đặt chén xuống.
Người nhà Chánh tổng, người nhà Lý trưởng. mấy anh tuần
phu canh ngày, ken vai vây lấy rá cơm "đi hơi" và chầu nước suýt ruồi
chết nổi lều bều soàn soạt vừa và, vừa nuốt.
Mỗi người mỗi miệng, ai nói nấy nghe. Sự ầm ầm càng giúp
sức cho sự nóng nực. Chị Dậu về đến cổng đình, vừa thấy tiếng ông Lý cựu quát
vang trong đình:
- Thằng Mới đâu? Vào ty lấy thêm mấy chai rượu nữa ra
đây! Chúng tao còn uống! Ai thôi mặc ai.
Tiếp đến tiếng ông Chánh hội:
- Hãy gượm! Rượu còn đấy các ông cứ uống cho hết. Ðể nó
đi mua vài đồng thuốc phiện nữa đã. Cụ chánh đợi đã lâu rồi.
Rồi đến tiếng ông Hương trưởng:
- Thong thả hãy mua thuốc phiện cũng được. Miệng tao còn
chưa rửa đây! Ra giếng múc tao chậu nước.
Rồi đến tiếng ông Thủ quỹ:
- Rồi hãy đi múc nước! Mày đi rót một tí nước mắm vào đây
cái đã!
Rồi đến lượt ông Lý cựu vắt lại:
- Các ông đừng có bỉ mặt nhau! Tôi đương bảo nó đi lấy
thêm rượu, các ông lại nỡ vỗ vào mặt tôi, người này sai nó việc này, người kia
sai nó việc khác... Khỉnh nhau vừa vừa chứ!
Bạo dạn chị Dậu bước lên cửa đình, hạ cái mê nón ở trên
đầu xuống:
- Chào các cụ, chào các ông.
Cả đình đổ xô trông ra. Người nhà Lý trưởng cháo ngược
đôi đũa chỉ vào mặt chị:
- Sưu của anh ấy đủ chửa? Ðem mà nộp đi.
Cai lệ vừa cạo hết sái trong lọ, ngẩng đầu trông lên:
- À! Con vợ thằng gì ở xóm cuối làng phải không? Chị ta
cứng cổ lắm, lý sự lắm. Sáng nay nếu không vội đi bắt đứa khác thì tôi biếu
thêm chị ấy vài chục quả phật thủ nữa.
Phó lý chõ vào:
- Nó là vợ thằng Ðĩ Dậu chứ thằng gì? Sao ông không giã
thêm cho nó một mẻ? Ông lý tôi mời ông về đây, chỉ cần có thế.
Lý trưởng rung đùi ra bộ đắc ý:
- Tôi nói trên có Cụ Chánh, có Ông Cau và đông các ông
tất cả: Vụ thuế này tôi làm kể cũng cứng lắm. Không cần gì hết, đứa nào trái ý,
đánh luôn. Mà cũng có thế mới được. Chúng tôi làm vua làm việc, quanh năm đầu
trầy đít thớt, chỉ có những lúc "hồng thủy trướng giật" và những khi
"sưu thuế giới kỳ" như thế này, thì mới có quyền. Tha hồ đánh, tha hồ
trói, trai làng thằng nào bướng bỉnh... đánh chết vô tội vạ.
Chị Dậu chẳng nói chẳng rằng. Ðiềm tĩnh, chị nhìn khắp
mấy gian đình. Góc đình trong cùng, chừng hơn mười anh trai đinh doãi chân ngồi
sắp hàng sau đám mâm bát lổng chổng. Ai cũng như nấy, khuỷu tay gô vào chấn
song bởi một sợi dây thừng kếch xù.
Cố nhiên, đàn bà con gái không thể đi qua trước chỗ dân
làng ăn uống. Chị Dậu bèn lùi trở xuống, quành ra cửa sau, rồi lẻn đến chỗ
chồng ngồi.
Anh Dậu ngả đầu vào bức chấn song, mắt nhắm nghiền, miệng
há hốc ra và thở hổn hển, mười đầu ngón tay xuống máu xưng lớn bằng mười quả
chuối.
Chị Dậu rụng rời nổ đốt:
- Trời đất ơi, chồng tôi làm sao thế này?
Những bạn bị trói của anh Dậu, mỗi người trả lời một câu:
- Anh ấy lên cơn sốt rét từ hồi non trưa kia đấy. Bây giờ
chừng như mệt quá, hắn mới lả đi và mới im được một lát, lúc nãy còn vừa run
vừa rét, làm sốt cả ruột người ngoài.
- Thôi! Liệu mà vay mượn bán chác mau lên, cố lo cho đủ
tiền sưu, rồi đem anh ấy về nhà. Chúng tôi khỏe mạnh thế này mà bị người ta
trăng trói, cũng còn đau rức khổ sở đây, huống chi anh ấy đương ốm...!
Chị Dậu sụt sùi:
- Khốn nạn! Nào tôi có tiếc gì đâu? Trông thấy chồng con
thế kia dầu có ruột gan là sắt cũng phải đau đớn. Nhưng vay chưa được, bán chưa
kịp, các bác ạ!
Vừa nói, chị Dậu vừa nước mắt giàn giụa, ngồi xuống, chị
sè sẽ vỗ vai chồng:
- Thầy em! Thầy em ơi! Tỉnh dậy cái
nào!
Anh Dậu vẫn lì bì, lịch bịch.
Phó lý ở ngoài lòng đình ra oai:
- Con mẹ đĩ Dậu! Mày có câm đi,
không thì ông vả vào mồm bây giờ! Ðình làng chứ xó buồng của vợ chồng mày đấy
à? Ai cho chúng bay đú đởn với nhau ở đấy? Ðàn bà thối thây, suốt năm có một
suất sưu của chồng mà không chạy nổi, lại còn nỏ mồm,.."thầy em" với
"thầy anh"... Ngứa tai chúng ông!
Chị Dậu như không nghe biết chi hết,
cứ việc nắm lấy vai chồng lay đi lay lại, như người ta cứu kẻ ngộ gió. Lâu lâu,
anh Dậu lờ đờ mở to hai mắt trắng dã và rên hầm hừ.
Chị Dậu mếu máo:
- Thầy em làm sao thế? Có phải lên
cơn sốt rét hay không? Hay là chỗ trói đau quá?
Anh Dậu ú ớ:
- U nó đã ra đấy ư? Ði lấy cho tôi bát nước. Khát lắm,
ráo cả họng từ sáng đến giờ.
Chị Dậu vội gạt nước mắt đứng dậy, mượn thằng Mới cái bát
yêu đàn, chị ra giếng xin một bát nước bưng vào. Anh Dậu vục đầu vào bát, òng
ọc nốc một hơi dài, rồi anh ngửa cổ ra bức chấn song mà thở. Bụng sủi ầm ầm như
suối reo.
Bên ngoài, mấy ông lý dịch vẫn uống rượu, vẫn hút thuốc,
vẫn quạt phành phạch, vẫn giở lý luật cãi nhau lộn bậy.
Chị Dậu sờ trán chồng, sờ chân chồng, sờ cổ tay chồng,
rồi chị lân la sờ cái nút thừng ở đằng lưng chồng, toan tính cởi trộm cho nó
rộng ra một chút. Nhưng cái nút ấy, người thắt kiểu "móng lợn" và
riết chặt lắm, chị không thể nào mà nới ra được. Một lát sau, anh Dậu hơi tỉnh,
mơ màng nhìn vợ:
- Thế nào? U nó đã sang nhà cụ Nghị Quế hay chưa?
- Ðã. Tôi ở bên ấy về đây.
- Cụ ấy bằng lòng đấy chứ?
- Bằng lòng. Nhưng người ta bắt viết văn tự và bắt đèo
thêm...
Chị không nỡ nói hết câu, ngập ngừng, chị cởi dải lưng,
lấy mảnh giấy tây trao cho chồng:
- Tôi đã nhờ ông giáo bên ấy viết hộ văn tự rồi đây. Thầy em coi xem thế nào.
Anh Dậu tuy đón lấy bức văn tự,
nhưng vì cánh tay bị dây thừng ghì lại chặt quá, anh không thể đưa nó lên dến
gần mắt mà coi. Chị Dậu lại phải cầm lấy và chìa lên tận ngang mặt cho chồng
lẩm nhẩm đánh vần.
Lý trưởng ngước mắt ngó thấy, cơn
lôi đình nổi lên tức thì:
- Giấy má gì đấy! Con mẹ đĩ Dậu? Ðơn
kiện phải không? Ừ được, có giỏi thì đi kiện ngay ông đi! Ông thử cho mày thêm
một trận nữa, để mày đi kiện luôn thể.
Rồi hắn đứng choàng ngay dậy, giơ
chân toan bước. Nhưng cái cây thịt nó cứ ảo đảo như người lên đồng, xiêu xiêu,
sẹo sẹo, chỉ chực ngã xuống sàn đình. Hắn phải vịn vào cột đình, và lại ngồi
phịch xuống chiếu. Cậu lính cơ hùng hổ đứng lên:
- Ông lý trưởng cứ ngồi đấy. Ðể tôi
trị chúng nó! Muốn đi kiện thì được đi kiện, khó gì?
Chương 8
Vừa nói cậu Cơ vừa đùng chạy lại,
giơ thẳng cánh tay tát đánh bốp vào mặt anh Dậu một cái. Và, mắm môi, mắm lợi,
cậu thét:
- Mày đi kiện đi, ông xem! Bây giờ
vẫn chửa nộp sửu, còn chực sinh sự với ông à?
Anh Dậu chết điếng người đi. Nước
mắt chảy ra như mưa, anh sẽ đập đầu vào bức chấn song và kêu:
- Trời đất ơi! - cha mẹ ơi! Thân tôi
sao mà nhục đến thế này? Nào tôi có định kiện tong gì ai cho cam!
Chị Dậu ậm ực muốn khóc, nhưng không
khóc được. Những người bên cạnh đứng rớt nước mắt.
Cậu Cơ vẫn nét mặt hầm hầm. Nắm chặt
bàn tay, cậu chĩa vào mặt anh chàng khốn nạn:
- Mày muốn vu vạ, bảo ông?
Luống cuống, chị Dậu vội đứng dậy.
Một tay giơ bức văn tự, một tay nắm lấy cổ tay cậu Cơ thê thảm, chị nói bằng
giọng van lơn:
- Thôi, em xin ông quyền. Nhà em đau
yếu, ông tha cho! Có phải đơn kiện đơn tong gì đâu? Ðây ông coi, cái văn tự của
em bán con bé cháu để lấy tiền nộp sưu cho nhà em đấy mà.
Chừng muốn tỏ ra mình là người thạo
chữ, cậu Cơ đón bức văn tự, trầm tĩnh xem hết từ đến cuối.
Rồi cậu dịu giọng sẽ gắt:
- Nói láo! Cái giấy mượn đôi hoa tai
bằng vàng đấy chứ, văn tự đâu mà văn tự?
Chị Dậu lễ phép:
- Thưa ông. thật văn tự đấy ạ ! Lúc
nẫy, ở bên cụ Nghị, ông giáo viết xong, đọc cho em nghe. em cũng ngạc nhiên và
đã nói như ông vừa nói. Cụ Nghị bảo rằng: Luật mới không cho cha mẹ được phép
bán con, nên phải viết thế, chứ có hoa tai hoa tang gì đâu ? Nhà em kiết
"xác mồng tơi", ai còn giám rời hoa tai cho mượn ?
Những lời êm ái của chị hình như
cũng có sức mạnh, làm cho nhà binh dằn lòng đứng lại, nghe cho hết câu. Rồi, cố
liếc con mắt cho có vẻ tình để nhìn vào mặt chị chàng nhà quê, cậu Cơ trao trả
chị này tờ giấy văn tự và hỏi một cách lả lơi:
- Ðức ông chồng vẫn chưa ký tên đây
mà ! Sao không bảo đức ông chồng ký vào, rồi đi lấy tiền mà nộp sưu cho xong
đi, cử để lôi thôi mãi thế ?
Ngay thật, chị chàng nhà quê không
biết cải mối mánh khoé, vẫn đáp bằng giọng rầu rĩ:
- Em vừa giơ lên chao nhà em coi,
các ông tưởng là đơn kiện, đã cùng đánh mắng om sòm...
Cậu Cơ nhăn răng vả cười hềnh hệch:
- Thế ra đức ông chồng phải đòn oan
nhỉ.Nhưng thôi bây giờ đức ông chồng cho tên vào đó cũng chưa muộn gì.
Chị Dậu năn nỉ:
- Cánh tay nhà em bị trói chặt quá,
không thể cầm bút ký được. Ông làm phúc cởi trói ra cho nhà em, thì em ơn ông
vạn bội.
Cậu Cơ vẫn tủm tỉm:
- Tôi muốn làm... ơn cho chị lắm
lắm... Nhưng còn quyền ở ông Lý.
Lý trưởng nghe nói tên mình, liền
cất cái giọng nhè nhẹ:
- Ông Lý cái gì ? Việc gì mà nói đến
ông Lý đấy ?
Cậu Cơ tơi tả chạy đến trả lời:
- Nhà chị gì kia, chị ta muốn xin
ông cởi trói cho đức ông chồng, để đức ông chồng chị ta ký vào văn tự.
Lý trưởng lại kéo dài cái giọng khề
khà:
- Thế nó không đi kiện nữa à, mà còn
muốn xin cởi trói cho chồng ? Cậu bảo nỏ: "Không có phép" nhé ! Nộp
đủ tiền sưu thì đây cởi cho !
Nếu mà tiền sưu chưa đủ, ông trời
xuống đây cũng không tháo được cái thừng ở tay thằng Dậu. Đây còn trói. Có giỏi
cứ đi kiện. Đây chỉ trói cho mà đi kiện !
Lý cựu bưng bát rượu kề gần lên môi,
và gật gật gù gù:
- Mặc ! Ðây không biết. Ai trói cứ
trói, ai cởi cứ cởi, mả ai đi kiện cứ đi kiện ! Ðây qua cầu rồi, cứ việc đánh
chén cho đẫy ! Thằng Mới đâu ? Ông cho mày lấy thêm rượu, làm sao tự nẫy đến
giờ chưa thấy ? Đừng láo, ông thì chẻ xác mày ra !
Chánh hội quăng tọt đôi đũa xuống
mâm và nói dõng dạc:
- Ông Lý cựu ! Việc gì đến ông mà
ông "đâm ba chầy củ" vào đấy ? Uống rượu cứ việc uống, người ta nói
gì thì mặc người ta. Câu nào cũng chõ mồm vào, không để cho ai bàn bạc gì nữa !
Lý cựu đặt bát rượu vào mâm và đấm
thật mạnh xuống sàn đình:
- À ! Ông cấm tôi nói à ? Quyền ông được thế phải không ?
Ông Chánh hội !
Chánh hội vểnh bộ mặt hách dịch:
- Ừ đấy ! Quyền tôi được thế ! Quan sức cho tôi
"hiệp dữ Lý trưởng" thôi đốc vụ thuế năm nay, người nào gai ngạnh tức
là "hãn trở thuế sự", tôi gông cổ lại cho mà xem !
Lý cựu sừng sộ:
- Miệng ông, ông nói; đình làng, ông ngồi ! Đố thằng nào
làm gì được ông !
Chánh hội hùng hằng đứng lên, rốt lại loạng-choạng ngồi
xuống, và quát:
- Tuần đâu ! Chúng bay trói thằng Lý cựu lại cho ông !
Tội đâu ông chịu !
Tuần phu im lặng không thưa, Lý cựu sắn nắn vén hai tay
áo lên đến khuỷu tay:
- Cha thằng náo không trói được ông !
Chánh hội vớ luôn chai rượu cạnh mâm, toan liệng ra chỗ
Lý cựu. Phó hội nhanh tay giằng được và can:
- Thôi ông ! Làm gì mà nóng lính thế ? Ông Lý cựu ông ấy
say rượu đấy mà.
Lý cựu gằn gọc:
- À ! Ông Phó hội ! ông bảo tôi say rượu phải không ? Ừ
thì tôi say ! Rượu uống chả say, thì ra rượu đổ vào hang chuột à ? Nhưng mà đây
tôi không say, ông đừng nói bậy ! Thuế làng bổ hai đồng một mẫu, các ông thu
của ngoại canh ba đồng năm hào, có ai nói với tôi được câu nào không ? Các ông
mời tôi ra đây uống vài chén rượu, lại còn khà khịa ! Tôi khòng cần, đây tôi
uống của mấy đứa phụ canh, không thèm uống nhờ thằng nào.
Lý trưởng động lòng:
- Tiền của phụ canh, nỏ vẫn dắt ở cạp váy nó ấy. Chúng nó
ngồi dưới giọt đình kia kìa. Xuống lần cạp váy chúng nó mà uống. Bữa rượu hôm
nay tiền túi của ông bỏ ra, ông muốn mời ai thì mời, ông không phải nói với đứa
nào hết. Ông thu "lạm" đấy ! Thằng nào làm gì được ông ?
Lý cựu hung hăng như người điên:
- À ! Thằng Lý đương ! Mày bảo ông uống máu mấy con ngoại
canh đãy à ?
Đánh "xoảng" một cái, cái bát ở mâm Lý cựu bay
thẳng sang mâm Lý đương, và đánh "chát" một cái, cái chậu ở chiếu Lý
đương cũng đập luôn vào cây cột bên cạnh Lý cựu. Nước canh, nước mắm bắn ra tứ
tung. Hết thẩy mọi người đều lố nhố đứng dậy. Rồi, hết thẩy mọi người lại lảo
đảo ngồi xuống. Tuần phu và người nhà Lý trưởng, người nhà Chánh tổng sấn sổ
chen vào, chạy hết mâm, bát, chai, chén xuống sân đình.
Cai lệ rước chén thuốc phiện và bộ khay đèn sang thẳng
gian đình bên kia.
Thủ quỹ cố ôm tráp bạc đứng dậy, nhưng không đứng được,
lại phải ngồi thụp xuống.
Chánh tổng sực tan giấc mộng, ngơ ngác hỏi giật hỏi
giọng:
- Cái gì thế ? Cái gì thế ? Nốc cho lắm rồi nói bậy !
Người nào gây chuyện với người nào ?
Trong đám đông mỗi người mỗi câu:
- Bẩm, ông Lý cựu với ông Chánh hội.
- Bẩm, ông Lý cựu với ông Lý đương.
Chánh tổng lên giọng hống hách:
- Tuần đâu ? Mày điệu cổ thằng Lý cựu xuống sân đình kia
cho ông ! Nó định ăn cướp tiền thuế của Lý trưởng à ? Rồi ông trình quan cho nó.
Lý cựu vớ miệng mảnh chậu ở cạnh cột
đình, toan rạch vào trán. Trương tuần vội vàng chạy đến giật được, vứt đi. Hẳn
xốc vào nách Lý cựu và vực ra cửa. Rượu, thịt, rau, đậu tự trong miệng ông Lý
cựu thông thốc tuôn ra thềm đình.
Chương 9
Hương trưởng, Tộc biểu, những người
vô sự lẻ tẻ đứng dậy cố dìu Lý cựu về nhà. Chỉ còn mấy ông chức dịch đương thứ
phải ở lại đây lo lắng việc thuế.
Chị Dậu chờ cho tan cơn ồn ào, mới
dám rón rén bước lại nói với lý trưởng
- Thôi con lạy ông! Xin ông hãy tạm
tha trói nhà con một lúc, để nhà con ký vào văn tự, con mới có tiền đóng sưu
Lý trưởng vẫn giận dữ:
- Ðừng lằng nhằng! Trói cũng ký
được. Không phải tha.
- Bẩm ông, xin ông trông lại! Thật
quả nhà con bị trói chặt quá, cánh tay quặt mãi ra đằng sau lưng, không sao ký
được! Chứ nếu nhà con ký được thì đâu dám kêu van cho rác tai ông!
- Ðưa văn tự đây ta xem!
Chị Dậu sẽ sàng nâng mảnh văn tự
trao cho Lý trưởng, rồi im lặng chị nén lòng ngồi đợi ở cạnh câu lơn.
Mặt trời đã nghiêng sang phía sau
đình.
Ánh nắng luồn qua chấn song, thấp thoáng
soi chỗ anh Dậu.
Thằng Mới lật đật quét dọn cơm rau
rơi vãi và mãnh bát, mảnh chậu ném ở sàn đình.
Vợ nó cặm cụi ngồi dưới sân đình rửa
bát, rửa mâm, vét vói những bát thịt thừa canh dở.
Mấy mụ đàn bà ngoại canh lần lượt
lên đình nói với Thủ Quỹ dở sổ tính thuế.
Lý trưởng đánh vần hết bức văn tự,
liền thở hơi rượu vào mặt chị Dậu:
- Chỉ cần chồng mày lý vào văn tự
thôi à?
- Cụ Nghị bắt phải xin triện của ông
nhận thực cho nữa. Nhưng con sợ ông, nên chưa dám nói.
Lý trưởng cười nói khinh bỉ
- Triện của ông có phải củ khoai? Dễ
ông đóng không cho mày đấy chắc!
- Xin ông thương con... Nếu không có
triện của ông, cụ Nghị lại không giao tiền.
- Một đồng bạc! Nghe chửa! Thế là
ông thương mày đấy, người khác thì phải năm đồng.
- Lạy ông, ông xét lại cho. Con bán
cả con lẫn chó mới được có hai đồng bạc.
Mặc kệ. Không biết, đủ một đồng bạc
thì ông sẽ đóng triện cho.
Chị Dậu vừa nói vừa khóc:
- Nếu ông không thương, con không
lấy đâu được tiền nộp sưu
- Chẳng có tiền sưu thì chồng mày
ngồi tù.
Thất vọng, chị Dậu rũ rượt ngồi im.
Ðến lượt anh Dậu năn nì thay vợ
- Thưa ông, con có muốn chi thế này!
Trời làm vận hạn đau yếu nên con phải chịu. Xin ông thương lại vợ chồng nhà
con, một đồng bạc con cũng xin vâng, nhưng con hãy khất ngày mai đóng thuế con
bắt nhà con cấy trừ hầu ông.
Chánh tổng phì cười;
- Bây giờ lại có lối đóng triện cấy
trừ nữa. Thôi cũng được! Ông Lý nhận lời cho nó đi, đừng để chúng nó nói mãi
điếc tai
Lý trưởng làm bộ khó khăn
- Vâng! Tôi nghe lời cụ Chánh
Rồi bèn quay hỏi chị Dậu
- Mầy định cấy trả nhà tao bao
nhiêu?
- Con xin cấy hầu ông một mẫu
- Ðồng bạc một mẫu thế ra một hào
một sào kia à? Không được, phải một mẫu rưỡi.
- Ông dạy thế nào con cũng xin vâng
Chuyện êm, anh Dậu được tạm thoát ly
sợi thừng để đề tên vào văn tự. Nhưng anh bị trói đã lâu cánh tay sưng lớn và
bại liệt, các đầu ngón tay tê tái, bấm không biết đau, lóng ngóng mãi không
viết được một chữ.
Chương 10
Thoáng thấy mẹ về đến cổng thằng Dần
mừng nhẩy chân sáo:
- U đi đâu từ lúc non trưa đến giờ?
Có mua được gạo hay không? Sao u lại về không thế?
Cái Tý ở trong cửa bếp sa sả mắng
ra:
- Ðã bảo u không có tiền, lại cứ
nhằng nhằng nói mãi! Mày tưởng người ta dám bán gạo chịu cho nhà này sao? Thôi!
Khoai chín rồi đây, để tôi đổ ra cho ông xơi, ông đừng làm tội u nữa.
Rồi nó tất tả bồng em chạy ra trước
thềm, đon đả chào mẹ:
- U đã về ạ! Ông Lý cởi trói cho
thầy con chưa hử u? Cái nón của u làm sao bị rách tan tành thế ấy?
Tay u làm sao lại phải buộc rẻ thế
kia?
Chị Dậu không trả lời. Thơ thẩn, chị
đón lấy con bé con và ngồi ghé vào bên mép chõng. Cái Tý xoa đầu cái Tỉu kể lể
bằng giọng hú hí:
- Cô ả này hôm nay quấy lắm đấy u ạ!
U đi khỏi nhà, cô ta cứ ra rả khóc không dứt miệng. Dỗ thế nào cô ta cũng không
nín cho. Ðặt ngồi xuống phản, cô ta lại níu lấy con và cố đứng lên. Con vừa đèo
đẽo cắp cô ta ở sườn, lại vừa hì hục rửa khoai, tra nồi, xin lửa, dóm bếp. Củi
thì ướt chẩy ướt nhã, lì lụt mãi vẫn không cháy cho. Thế mà con cũng luộc được
chín nồi khoai rồi đấy! U bảo con có ngoan không?
Chị Dậu vẫn không nói gì. Buồn rầu,
chị kéo "chéo yếm" cài trong dải lưng, vạch bầu vú nổi gân xanh lè,
và bóp mạnh cổ vú, vắt những sữa chua xuống đất.
Thằng Dần lần thần đứng bên cạnh mẹ
hau háu nhìn những tia sữa bằng hai con mát tiếc rẻ ngậm ngùi.
Cái Tỉu vừa ngậm vú mẹ vừa khóc lằng
nhằng. Sữa trong vú chẩy ra không đủ sức nó nuốt. Nhả bên nọ, nguập bên kia, bú
bên này, lại sờ bên khác, con bé vần hai đầu vú giống như con mèo vờn cái bong
bóng bẹp hơi.
Mấy nét dăn dúm hiện trên sống mũi
và mấy tiếng xuýt xoa sè sẽ tự trong đầu lưỡi đưa ra, chị Dậu chừng cũng rát
ruột về sự phàm ăn của con. Tuy vậy, chị vẫn hết sức nín nhịn, và vẫn luôn luôn
vuốt tay vào vú, cố ý dồn cho sữa xuống.
Cạnh chõng, nghi ngút một đám khói
bay.
Cái Tý lễ mễ bưng rổ khoai luộc
ghếch vào chân cột, và dặn thằng Dần:
- Hãy còn nóng lắm đấy nhé! Em đừng
mó vào mà bỏng thì khốn.
Vừa nói, nó vừa tung tăng chạy đến
rổ bát, lục lấy hai cái bát to và một đoi đũa, đem lại. Bới từ trôn rổ bới lên,
nó gắp những mẫu khoai to xếp đầy hai bát. Bằng cái dáng bộ vui vẻ, nhẹ nhành
nó đặt một bát lên chõng:
- Mời u xơi khoai đi ạ!
Rồi nhanh nhảu, nó bưng một bát,
bước qua tấm phản cặp khênh, ngửa cổ để lên bàn thờ, và quay xuống, nó bảo
thằng Dần:
- Bát này chị để phần thầy đấy nhé!
Chốc nữa thầy về thầy ăn. Ðứa nào ăn "vèn" của thầy thì chị không cho
đi chơi với chị.
Thằng bé không để tiếng nào vào tai,
nó cứ ngồi sán bên cạnh rổ khoai và nuốt nước rải ừng ực.
Cái Tý lật đật chạy đi tìm cái quạt
nan, để quạt cho khoai chóng nguội.
Rổ khoai vừa đi hết khói, hai đứa
xúm lại, lê la ngồi phệt dưới đất, mỗi đứa nhón lấy mỗi củ, không kịp bóc vỏ,
chúng nó vừa thổi phù phù vừa cắn ngấu nghiến. Giống hai con cọp trong chuồng
bách thú vớ miếng thịt bò tươi, đứa nào đứa ấy nhai nuốt một cách ngon lành gọn
vẹn. Trừ ra khi gặp củ nào "hà nhậy", đắng quá không thể nuốt được,
chúng nó mới chịu nhổ đi, và khi bị củ nào nhiều sơ, dai quá không thể nhai
được, chúng nó mới chịu nhả bã.
Những sự hiếu thảo, ngoan ngoãn của
hai đứa trẻ ngây thơ vô tình lộ ra từ nãy đến giờ, hình như đều là những lưỡi
dao găm cắt từng khúc ruột chị Dậu. Càng nhìn chúng nó, chị càng nước mắt ngắn
dài.
Ngạc nhiên, cái Tý thỏ thẻ giục mẹ:
- U ăn khoai đi, để lấy sửa cho em
nó bú. Từ sáng đến giờ, u chưa ăn gì, đói quá chịu làm sao được?
Chị Dậu vẫn cứ rầu rĩ nét mặt, những
giọt nước mắt rơi xuống càng mau.
Với vẻ mặt băn khoăn, cái Tý lại
bưng bát khoai chìa tận mặt mẹ:
- Này u ăn đi! Ðể mãi! U có ăn thì
con mới ăn. U không ăn, con cũng không muốn ăn nữa.
Nể con, chị Dậu cầm lấy một củ, rồi
chị lại đặt xuống chõng Vẻ nghi ngại hiện ra sắc mặt, con bé hóm hỉnh hỏi mẹ
một cách thiết tha:
- Sáng ngày người ta đấm u có đau
lắm không?
Chị Dậu sẽ gạt nước mắt;
- Không đau, con ạ!
- Thế làm sao u cứ khóc mãi mà không
ăn khoai? Hay là u thương chúng con đói quá? Không, chúng con không đói nữa
đâu. Hai đứa ăn hết ngần kia củ khoai thì no mòng bụng ra rồi, còn đói gì nữa?
U cứ ăn đi, u cứ ăn hết bát khoai ấy đi! Nếu u không ăn, lấy đâu ra sửa cho em
nó bú?
Chị Dậu vừa nói vừa mếu:
- Thôi u không ăn, để phần cho con.
Con chỉ được ăn ở nhà bữa nay nữa thôi. U không muốn ăn tranh của con. Con cứ
ăn cho thật no, không phải nhường nhịn cho u.
Cái Tý chưa hiểu hết ý câu nói của
mẹ, nó xám mặt lại và hỏi bằng giọng luống cuống:
- Vậy thì bửa sau, con ăn ở đâu?
Ðiểm thêm một giây nức nở, chị Dậu
ngó con bằng cách xót xa:
- Con sẽ ăn ở nhà cụ Nghị thôn Ðoài
Cái Tý nghe nói giẫy nẩy, giống như
sét đánh bên tai, nó liệng củ khoai vào rổ và òa lên khóc:
- U bán con thật đấy ư? Con van u,
con lạy u, con còn bé bỏng, u đừng đem bán con đi, tội nghiệp. U để cho con ở
nhà chơi với em con.
Thằng Dần cũng khóc tru tréo, bỏ
luôn rổ khoai đứng dậy, ngoay ngoảy lắc cái mông đít, nó nhắc lại câu đã nói
sáng ngày:
- Em không! Nào! Em không cho bán
chị Tý! Nào! Nào! Có bán thì bán cái Tỉu này này!
Chị Dậu chỉ thổn thổn thức thức
không nói thêm được câu gì. Bộ mặt sầu thảm dần dần ngã xuống, đối thẳng với
mặt con bé đương bú.
Bên đám lông mày cong rướm, mấy sợi
tóc mai thả rủ xuống, hình như làn khói thuốc lá phớt phơ bay trước khuôn
gương. Và trên cái gò má đỏ bừng, vài dòng nước mắt thánh thót đuổi nhau, chẳng
khác hạt sương buổi mai lánh đọng trong cánh hoa hồng mới nở.
Chương 11
Gió chiều thổi đám tre tơi tả. Nắng
Tây gay gắt soi đến nửa thềm. Thằng Dần cái Tý thôi không ăn khoai, lải nhải
vừa van vừa khóc.
Cái Tỉu bú đã lưng dạ, hớn hở ngảnh
ra cười đùa. Chị Dậu lại càng rũ rợi. Chống tay lên trán, chị như nghĩ ngợi
phân vân. Một lúc sau, chị đứng phắt dậy với cái dáng điệu quả quyết:
- Thôi, phải tội với trời, mẹ chịu!
Cảnh nhà đã thế, mẹ đành dứt tình với con!
Tức thì, chị chùi nước mắt và đi làm
những việc mà chị cho là đau đớn.
Cái Tỉu lại bậu bên sườn cái Tý.
Con chó cái chúi đầu vào sợi xích
sắt để cho bà chủ buộc vào cột nhà.
Ðàn chó con phải bắt vào trong rổ
thưa, trên có mẹt đậy và có lạt chằng chắc chắn.
Cái việc xong hết chị lại đón cái
Tỉu, cho nó bú thêm lúc nữa. Sau khi đã kéo chiếc chiếu thủng
rách trên phản trải xuống giữa nhà,
chị đặt con nhỏ vào chiếu và sai thằng Dần ngồi đó trông em. Chị lục tất cả
quần áo của cái Tý và gói chung làm một gói. Rồi một tay nưng cổ chó con lên
đầu, một tay cầm sợi xích sắt định giắt luôn con chó cái ra cửa, sụt sịt chị
bảo cái Tý:
- Con hãy đội cái mê nón cho đỡ
nắng, và con cắp lấy gói quần áo rồi sang bên cụ Nghị Quế với u?
Chừng như lúc nãy thấy bắt cả chó
lớn, chó con, cái Tý vần tưởng những con vật ấy sẽ đi thế mạng cho mình, cho
nên nó đã vững dạ ngồi im. Bây giờ nghe mẹ giục nó phải đi, nó lại nhếch nhác
mếu khóc:
- U nhất định bán con đấy ư? U không
cho con ở nhà nữa ư? Khốn nạn thân con thế này. Trời ơi! Ngày mai con chơi với
ai? Con ngủ với ai?
Chị Dậu lại lã chã hai hàng nước
mắt.
- U van con, lạy con, con có thương
thầy thương u, thì con cứ đi với u, đừng khóc lóc nữa, đau ruột u lắm. Công u
nuôi con sáu, bẩy năm trời, tốn kém bao nhiêu tiền của! Bây giờ phải đem con đi
bán, u đã chết từng khúc ruột rồi đây con ạ. Nhưng mà tiền sưu không có, thầy
con đau ốm là thế, vẫn bị người ta đánh trói, sưng cả hai tay lên kia... Nếu
không bán con, thì lấy tiền đâu nộp sưu? Ðể cho thầy con khổ sở đến nước nào
nữa? Thôi u van con, u lạy con, con có thương thầy thương u, thì con cứ đi với
u!
Cái Tý vẫn khóc rưng rức. Chị Dậu
cũng vừa đội rổ chó con vừa khóc nức nở, nhưng vẫn cố kiếm lấy những lời thấm
thía xót xa để khuyên con.
Lâu lâu, cái Tý chừng như cũng hiểu
những nỗi đau lòng của mẹ, nó không khóc nữa. Lau sạch nước mắt, nó chạy đến
chỗ cái Tỉu, cúi đầu tận mặt con này, nó hôn mỗi má mấy cái, và nó lại mếu:
- Tỉu ở nhà nhé! Tỉu ở nhà với anh Dần
nhé! Chị phải đi đây. Chị sang ở với cụ Nghị kia đây. Từ rầy trở đi, Chị không
được ẩm Tỉu nữa. Bao giờ Tỉu lớn, Tỉu sang bên ấy tìm chị, Tỉu nhé!
Rồi nó ôm lấy thằng Dần, rồi cũng
hôn luôn hai má thằng ấy. Vừa nói nó vừa giàn giụa nước mắt:
- Dần có thương chị không? Dần có
nhớ chị không? U bán chị rồi, Dần ở nhà chơi với Tỉu vậy. Nó khóc thì Dần dỗ
nó, không được đánh nó đấy nhé. Bao giờ nó lớn, thì Dần rủ nó sang nhà cụ Nghị
với chị. Thôi Dần ở nhà, chị phải đi với u đây chị không được về nữa đâu, Dần
ạ!
Thằng Dần níu lấy áo chị và khóc rầm
rĩ:
- Chị phải ở nhà với em! Em không
cho chị sang nhà cụ Nghị. Nếu chị sang nhà cụ Nghị, rồi thì em chơi với ai?
Cái Tý lại khóc hu hu. Nó cứ quấn
quýt thằng Dần, không muốn rời ra. Ngảnh lại nhìn mặt chị Dậu, nó nói bằng
giọng năn nỉ:
- Con nhớ em quá! Hay là u hãy cho
con ở nhà một đêm nay nữa, để con ngủ thêm với em để con nói chuyện với em.
Sáng mai con xin đi sớm.
Chị Dậu càng tỏ ra bộ đau đớn:
- Thôi, u van con, u lạy con, con có
thương thầy, thương u thì đi ngay bây giờ cho u. Nếu con chưa đi,
cụ Nghị chưa giao tiền cho, u chưa
có tiền nộp sưu, ông Lý lại trói thầy con thêm một đêm nữa, thì không khéo thầy
con sẽ chết ở đình, chứ không sống được. Thôi, u van con, u lạy con, con có
thương
thầy, thương u, thì con đi ngay bây
giờ cho u.
Và chị cố kiếm cho được cái giọng
ngon ngọt để dỗ thằng Dần:
- Dần buông chị ra, đi con! Dần
ngoan lắm nhỉ! U van Dần, u lạy Dần! Dần hãy để cho chị đi với u, đừng giữ chị
nữa. Chị nó có đi, u mới có tiền nộp sưu, thầy Dần mới được về với Dần chứ!
Sáng ngày người ta đánh trói thầy Dần như thế, Dần có thương không. Nếu Dần
không buông chị ra, chốc nữa ông Lý vào đây, ông ấy trói nốt cả u, trói nốt cả
Dần nữa đấy.
Thằng Dần vẫn sợ ông Lý, như đứa trẻ
khác sợ ông ngoáo ộp, nghe nói đến tên ông ấy nó đã mất vía đi rồi. Lập tức nó
rời vạt áo cái Tý và nó ỏn ẻn dặn mẹ:
- Em chỉ cho chị Tý đi một lúc thôi.
Lấy tiền được rồi, u phải đem chị ấy về đây với em.
Chị Dậu buột miệng:
- Ừ...
Rồi hình như có ý hối vì mình đã nói
dối trẻ con, tức thì chị lại nói chữa:
- Ừ, hễ cụ Nghị bằng lòng để cho chị
con về nhà vài hôm, thì u lại đem nó về với con.
Cái Tý với hai hàng nước mắt dòng
dòng, hôn hít các em lượt nữa, rồi lủi thủi nó đội mê nón trên đầu và cắp gói
áo vào nách.
Chị Dậu vừa dặn thằng Dần ngồi coi
cái Tỉu, vừa cởi dây xích lôi con chó cái.
Con vật ấy ở nhà chị Dậu, tuy không
làm "tên lính gác nhà" như các bạn nó ở bào những nơi giàu
có, nhưng cũng là hạng "tôi
tớ" cần dùng. Những lúc con cái chủ nhà đau dạ lạnh lòng!... Công
việc"vệ sinh" trong nhà, phận sự nó phải gánh vác tất cả. Sự quan hệ
giữa nó với chủ tuy chỉ có thế, song mà trời đã sinh nó làm một loài vật
"giầu lòng trung thành" thì, ăn lương của chủ, nó phải hết lòng mến
chủ, cũng như nó phải hết lòng vâng theo lời chủ. Cái bản tính ấy, khiến nó chỉ
muốn "làm việc" với chủ suốt đời, không muốn có ngày "hưu
trí". mặc dầu chủ vẫn coi nó là vật hèn. Vì vậy, nay thấy chị Dậu xích nó,
lôi nó, đối với nó có vẻ khác hẳn mọi ngày, hình như nó cũng biết rằng chủ nó
sắp sửa "đổi" nó đi đâu hoặc là đem nó đến chỗ làm tình làm tội gì
đó. Khăng khăng ghì lại nhất định nó không chịu đi. Chị Dậu càng kéo, nó càng
tỏ ra thái độ van lơn. Nếu có một nhà "đô/ng vật tâm lý học" đứng ở
cạnh nó lúc ấy, tất nhiên người ta có thể đoán rằng: "nó đương lạy chủ,
xin chủ cho nó ở lại thêm một hạn nữa".
Vô hiệu! Chủ nó cứ dùng cương quyền,
điệu nó sềng xệch ra đường.
Tuy vậy, nó vẫn còn mong chủ thương.
Cho nên ra khỏi cổng rồi, nó cứ còn lăn, còn rẫy, còn ngoe
ngoảy đuôi, còn kêu hừng hực khi
nghe tiếng mấy con chó con ăng ẳng ở trên đầu chủ.
Mặt trời đã xế. Bóng người ngã xuống
mặt ruộng, dài thườn thượt như bóng cây cau. Trâu bò không phải cầy chiều nghễu
nghện theo đàn trẻ chăn ra các bờ ruộng gậm cỏ.
Với những tiếng thổn thức trong đáy
tim và những giọt nước mắt luôn đọng lại ở gò má, chị Dậu cố sống cố chết,
nhũng nhẵng dẫn con cà chó lẽo đẽo dưới ánh nắng mùa hè. Con vẫn lướt mướt
khóc, chó vẫn ý ẳng kêu, chị vẫn nhất định giả câm giả điếc, mong cho chóng đến
nhà cụ Nghị.
Chương 12
Nắng quái in ánh vàng trên giẫy ngọn
tre.
Ðàn liếu điếu líu tíu kêu trong cành
khế.
Mấy con triền triện ríu rít gọi nhau
trên tầu cau.
Nghị Quế vểnh râu đứng trong sân
gạch ngắm đôi bồ câu gật gù gụ nhau ở cửa chuồng. Nhác thấy mẹ con bị Dậu nhô
vào, hắn hỏi một cách thật đổng:
- Làm gì bây giờ mới dắt nhau đến?
Ðể cho người ta chờ đợi mấy giờ đồng hồ! Dính với chúng bây lúc nào bực mình
lúc ấy, không có đứa nào giữ được đúng hẹn bao giờ!
Lễ phép, mẹ con chị Dậu cùng cúi đầu
chào:
- Bẩm cụ, vì nhà con bị trói ở đình,
con phải nói mãi các ông ấy mới cởi ra cho để ký văn tự... vả lại, đường cũng
hơi xa, con đi khí chậm, xin cụ tha lỗi cho!
- Bà ở nhà khách ấy, đem nhau vào mà
nói với bà!
Rồi hắn gọi chõ vào phía trong sân:
- Ðứa nào ra coi chó cho chúng nó!
Như anh phường trò đón dịp, thằng
bếp dạ một tiếng thật dài, rồi nó cằm gậy đuổi chó, đưa mẹ con chị Dậu và con
chó cái lên tòa nhà mà chị đã vào lúc nãy.
Mụ Nghị phủ đầu bằng giọng gắt gỏng:
- Ðã bảo lấy cái gì đậy cho mấy con
chó con, kẻo nó bị nắng, sao lại chỉ úp cho nớ một cái mẹt ranh thế kia?
Thèn lẹn, chị Dậu chỉ trả lời bằng
câu "lạy cụ". Rồi, nhờ thằng bếp buộc cái xích của con chó cái vào
cột, chị thong thả hạ rổ chó xuống thềm.
Mụ Nghị liếc nhìn cái Tý, the thé,
mụ mắng chị Dậu:
- Thế mà cả vợ lẫn chồng dám xưng
xưng con đã lên bẩy. Lên bẩy mà bằng cái nhãi thế à? Bà biết ngay mà! Cái đời
nhà chúng bay còn có câu nào nói thật!
- Bẩm cụ, chúng con không dám nói
dối, thật quả cháu đã lên bẩy tuổi, thằng em nó lên năm, còn con bé nữa lên
hai. Con được ba cháu cả thảy.
Nghị Quế ở sân vừa vào, chỉ mặt chị
Dậu, hắn tỏ ra người rất oai:
- Im cái mồm. Ðứng giở con cà con kê
ra đây! Mấy cháu mặc kệ nhà mày! Dẻ lắm thì bán nhiều, chớ làm trò gì? Mở cái
rổ ra... tao xem mấy con chó con!
Mụ Nghị tiếp theo lời chồng:
- Ấy đấy! Ông tính nó nói như thế có
nghe được không?
Rồi mụ ngoảnh trông chị Dậu:
- Này liệu hồn! Bà thì tổng cổ cả
đi, không thèm mua bán gì nữa bây giờ; Dễ bà bằng đôi bằng lứa với mày hay sao?
Chưa nói mày đả cãi liền! Láo quen! Con bé bằng ngần kia, mày dám xoen xoét bảo
nó lên bảy, nói cho chó no nghe à?
Cái Tý đứng nép sau cột, nét mặt
thìu thịu, như lo mình mới đánh rơi một tuổi lúc nào. Chị Dậu đờ mặt ngồi thừ
với những giọt nước mắt đọng ở trong đám long mi lóng lánh.
Hai bên thái dương Nghị Quế nổi
những sợi gân tím bầm để báo tin một câu giận dữ:
- Nó vẫn không mở mấy con chó con ra à? Có tiếc đem về mà
nuôi!
Nước mắt rỏ xuống gạch thềm thánh thót, chị Dậu cắm cúi
cởi mấy nút lạt buộc ở rạp cổ và bỏ cái mẹt ra thềm, Nghị Quế vội vàng ngồi
xuống cạnh rỗ. Bốn con chó con lần lượt bị hắn túm cổ xách lên, xem tai, xem
mắt, xem lưỡi, xem chân, xem bu,ng, xem đuôi, xem ngực, có con bị hắn tỉ mỉ bới
vạch từng cái lông tơ. Rồi hắn ngắm nghía đến cho chó cái. Một lát sau, vẻ mặt
hơi dịu, hắn vào ngồi bắt chân chữ " ngũ" trong sập và bảo chị Dậu:
- Văn tự đâu? Ðưa đây tao xem.
Chị Dậu ró ráy cởi cái văn tự ở đầu dải yếm, khúm núm đặt
lên trên sập. Cầm bức văn tự, Nghị Quế chỉ nhìn đi nhìn lại ở chỗ Lý trưởng
đóng triện. Lâu lâu, quay ra hắn bảo thằng nhỏ:
- Mày đi lấy mấy bát cơm nguội, lấy nhiều nhiều vào, để
tao cho đàn chó này ăn thử, xem sao!
Thằng nhỏ "ba chân bốn cẳng" chạy xuống nhà
ngang sau một tiếng dạ gọn ghẽ.
Mẹ con chị Dậu ro ró ngồi nép bên cột, người nọ nhìn cái
mặt chan hòa nước mắt của người kia.
Bốn con chó con lau nhau đi đến ven thềm, mỗi con chiếm
mỗi vú của con chó cái.
Nghị Quế vui vẻ bảo vợ:
- Bà thử trông xem, có phải không có con nào bị đuôi chấm
sống?
- Tôi cũng đương nhìn, hình như không
cả thì phải.
Chương 13
Thằng nhỏ ở nhà ngang lên với rá cơm
nguội đầy ụ. Nghị Quế bảo mẹ con Chị Dậu bắt đàn chó con thả sang đầu thềm bên
này. Tất tả hắn chạy luồn ra, bưng lấy rá cơm súc cho mỗi con một bát. Chị Dậu
nói thật, bốn con chó con đều biết ăn cả rồi. Riêng con chó cái, hình như vừa
mệt vừa lo, chỉ ăn nhỏ nhẻ vài miếng lại nghĩ.
Bằng cái sắc mặt ôn hòa dễ dãi, Nghị
Quế nhìn vào chị Dậu:
- Con chó cái nhà mày mua ở đâu thế?
- Bẩm của mẹ con mua ở Lầu cai đem
về cho con!
- Ừ, có thế chứ! Chắc là giống chó
mông tự, chứ ở nhà quê làm gì có thứ chó này!
Mụ Nghị đon đả kể công:
- Bởi thấy nhiều người mách rằng nhà
nó có con chó cái khôn lắm, cho nên sáng ngày tôi mới cố mua lấy được. Chứ bỗng
không, ai có động rồ mà chuốc đàn chó vừa mới mở mắt? Thế còn bốn con chó con
thế nào?
Nghị Quế lẩm bẩm gật đầu:
- Ðẹp cả! Bốn con bốn kiểu: một con
"huyền đề", một con "lốt hổ", một con "đen
tuyền", một con "tứ túc mai hoa". Con nào cũng cúp tai, ngắn
mặt, mắt xếch lá đề, đẹp lắm!
Vừa nói, hắn vừa tung tăng đi vào
trong sập. Vẫn cái kiểu ngồi bắt chân kiểu chữ "Ngũ", hắn vít lấy xe
điếu ống, hút một hơi thuốc lào, rồi hắn rung đùi ra bộ đắc ý:
- Biết cái gì vất vả cái ấy! Ông Phủ
Ðăng, ông Nghị Bùi, ông Phán Tiên, và ông cửu Xung trên tỉnh, các ông ấy đều
biết tôi xem chó rành lắm, ông nào cũng khẩn khoản nhờ tôi mua hộ. Tôi định khi
nào bốn con chó này khá lớn, thì cho mỗi người một con. Nhưng lại tiếc con chó
đẹp tuyền, muốn để nhà nuôi. VÌ giống chó ấy lợi chủ, nuôi nó trong nhà làm ăn
thịnh vượng...
Mụ Nghị ngắt lời bằng giọng nói nửa
thật nửa đùa:
- Chả có của đâu mà cho. Ai muốn
được giống chó tốt, phải có tiền đây cho tôi, không thì tôi để nuôi ráo!
- Nhà đã mười bốn con chó cả thảy,
nuôi làm gì nữa? Cơm đâu!
- Tôi nuôi để nó coi nhà. Nuôi chó
còn hơn là nuôi đứa ở. Nhà rộng thênh thang thế này, mười mấy con chó, nhiều
gì?
Rồi mụ cười ròn khanh khách và chõ
vào mặt chị Dậu:
- Cơm chó nhà tao cũng tốn bằng mấy
"cơm người" của nhà mày đấy.
Chị Dậu nhường như tủi thân, cúi
xuống gạt thầm nước mắt, chị không biết nói thế nào.
Mấy con chó con thôi ăn, kéo nhau
trở lại chỗ con chó cái, bỏ dở cả mấy đống cơm.
Nghị Quế sai thằng nhỏ hốt hết vào
rá, đưa cho cái Tý. Ra giọng nhân từ ông đại biểu của dân bảo
đứa con nít khốn nạn:
- Con bé kia! Cầm lấy rá cơm ăn đi,
kẻo phí của trời. Ăn bốc cũng được, không phải đũa bát.
Nước mắt chảy ra như mưa, cái Tý
ngần ngại nhìn rá cơm nguội, không muốn chìa tay ra đón.
Ông đại biểu cho dân hầm hầm nét
mặt:
- Mày không ăn thừa cơm chó phải
không?
Bà Nghị nổi cơn tam bành:
- Mẹ mày dạy mày thế đấy chứ? Con
ranh con! Ở đây với bà mà mày cứ giữ cái thói khoảnh ấy, thì bà dần từng cái
xương. Này bà bảo cho mà biết: mày ăn cơm chó nhà bà cũng chưa đáng đâu. Con
chó nhà bà còn được mấy chục, con người như mày, bà chỉ mua có một đồng đấy
thôi. Ðừng khoảnh với bà!
Nghị Quế hạch lạc chị Dậu:
- Con mẹ khốn nạn! Mày ngồi giương
mắt ra đấy, không biết bảo con làm sao. Hay mày sợ con phải ăn cơm chó thì mày
xấu hổ?
Dường như thương mẹ bị quở, cái Tý
vội vàng đón lấy rá cơm. Rụt rè nó bốc một nắm bỏ vào miệng, uể oải nhai như bò
nhai trấu.
Mụ Nghị nghiến răng kèn kẹt và chỉ
vào mặt con bé:
- Bà truyền đời báo danh cho mày, tự
giờ đến mai, phải ăn hết cái rá cơm ấy, rồi mới được ăn cơm khác!
Chị Dậu chỉ gục đầu vào cột, nức nở
khóc thầm. Nghị Quế quát hỏi:
- Thế, con mẹ kia có lấy tiền không?
Hay còn tiếc con tiếc chó?
Chị Dậu vội chùi nước mắt đứng dậy:
- Bẩm cụ...
Không để cho chị nói hết, Nghị Quế
giục vợ:
- Bà trả tiền cho nó về đi, để nó
ngồi mãi ở đây tôi không chịu được!
Cái chuông trong hòm leng keng kêu
một hồi đài, mụ Nghị cầm hai chuỗi "chinh" quăng tọt ra thềm:
- Ðấy, tiền đấy!
Chị Dậu lom khom cúi nhặt tiền, toan
tình cởi ra đếm lại. Mụ Nghị sa sả:
- Không ai thèm làm thiếu đồng hồ
nào! Không phải đếm chác gì nữa!
Chị Dậu giắt tiền vào lưng, rồi chị
sụt sùi bảo với cái Tý:
- Thôi con ở đây hầu hạ hai cụ, u về
nhé!
Cái Tý ôm chầm lấy mẹ và khóc như
mưa như gió:
- U đừng về vội! U hãy ngồi đây với
con lúc nữa.
Nghị Quế đùng đùng đứng dậy, giơ cái
bàn tay hộ pháp tát cho con bé một cái đánh đốp, và hắn hét lên như ông đại
tướng trong rạp tuồng:
- Thằng nhỏ lôi cổ nó xuống nhà bếp
kia...
Tức thì cái Tý liền phải lìa mẹ ra
xềnh xệch theo tay cậu hầu cận của ông Dân biểu xuống thềm. Bộ mặt bồ nhếch bồ
nhác ngảnh lại với cái miệng mếu xệch, nó nhìn theo mẹ và nói bằng giọng nức
nở:
- Ngày mai u đem thằng Dần sang đây
chơi với con nhé, con nhớ em lắm.
Chương 14
Hai cái bầu vú đầy sửa mẩy găng, sửa
ở trong vú rỉ ra, ướt đầm cả một lần yếm, làm cho chị Dậu bồn cồn xót ruột về
con bé ở nhà. Bởi vì theo sự kinh nghiệm của đàn bà con mọn, những lúc xa con,
sửa chảy như thế, ấy là đứa con vắng mẹ đã đói và đương gào khóc đòi bú. Chị
không dám nghĩ đến cái Tý nữa, sấp ngửa chị cắp cái rổ, cái mẹt và cái mê nón
tất tả ra cổng thôn Ðoài.
Mặt trời đã lặn xuống tận mặt đất.
Ðàn quạ khoang dập dùi là xuống các bãi tha ma. Còi lá dứa của lũ mục đồng rối
rít thúc trâu bò về nghĩ.
Tới làng Ðông xá, trời nhá nhem.
Trong đình vắng tanh vắng ngắt. Ðàn dơi bắt muỗi xập xè bay khắp lòng đình.
Ngọn đèn dầu ta loe trên hương án cố
sức phun những ánh sáng úa vàng, soi cho mấy nén hương đen lù mù cháy ở dưới
cửa võng. Cả mấy gian đình chỉ còn sự tối tăm giúp sức cho sự kinh trợn. Người
ta đã đem hết tiếng ầm ầm vào nhà Lý trưởng từ lâu.
Chừng cũng đoán biết như vậy, chị
Dậu lủi thủi theo chỗ có tiếng tù và "rúc hồi" đi vào.
Dưới ánh lửa sáng quắc của ngọn đèn
hai giây, quang cảnh trong nhà Lý trưởng lúc này cũng như
quang cảnh ngoài đình lúc nãy. Anh
Dậu và bọn trai đình thiếu sưu đều giơ khuỷu tay cho sợi dây thừng buộc vào cột
nhà. Ðàn ông, đàn bà chờ đợi nộp thuế còn lố nhố suốt một bực cửa.
Lính cơ, Cai lệ vẫn nằm chầu Chánh
tổng ở bên bàn đèn, thủ quỹ, Thư ký, Chánh hội, Phó hội và chức dịch ngổn ngang
ngồi ở cạnh những cuốn sổ sách bề bộn.
Cái mặt "bồ hôi nước mắt"
vừa ló vào thềm, chị Dậu liền được mấy ông chức dịch nhao nhao thét hỏi:
- Ðã bán được con rồi chớ! Ðem tiền
nộp sưu, mau lên.
- Thưa đã!
Vừa nói, chị vừa giở chuỗi tiền
chinh giắt ở dải lưng và tám hào con, tiền bán khoai mà chị vẫn khư khư buộc
đầu dải yếm. Bớt lại một hào, chị sẽ đón dén đặt hai đồng bẩy lên trước Lý
trưởng:
- Thưa ông, nhà cháu không kịp đi
đổi tiền giấy, xin ông làm ơn nhận cho
Lý trưởng cầm chuỗi tiền chinh đưa
cho thủ quỹ đếm lại và bảo chị Dậu:
- Mỗi đồng phải các ba xu, bỏ luôn
ra đây, tao nhận cho. Nhưng sao lại có hai đồng bẩy hào?
Ngơ ngác, chị Dậu vừa đưa đồng hào
để trả tiền các, vừa đáp bằng giọng lớ ngớ:
- Thưa ông, cháu tưởng năm nay sưu
bổ mỗi xuất chỉ có bấy nhiêu.
- Phải rồi. Tiền sưu năm nay mỗi
xuất chỉ có hai đồng bảy hào. Nhưng nhà mầy nộp hai suất, nghe không? Một suất
của chồng mày, một suất nữa của thằng Hợi.
- Thưa ông chú nó chết hồi tháng
giêng rồi mà. Nhà con vẫn còn chưa khai tử hay sao?
Lý trưởng phát gắt:
- Khai tử rồi cũng phải đống sưu? Ai
bảo nó không chết tồi hồi tháng mười năm ngoái?
Chị càng ngẩn ngơ ra bộ không hiểu,
như có ý ngờ người ta ăn hiếp nhà mình:
- Thưa ông người chết đã gần năm
tháng, sao lại còn phải đóng sưu?
Lý trưởng quát:
- Mày đi mà hỏi ông Tây, tao không
biết.
Thư ký dõng dạc cắt nghĩa:
- Chết cũng không trốn được sưu nhà
nước! Là vì thằng em chồng chị mới chết tháng giêng An nam, mà sổ "thông
qui" của làng đã làm từ đầu năm tây, tức là tháng một An nam năm ngoái. Sổ
ấy có tên thằng Hợi, lúc ấy nó còn chưa chết, khi đệ lên tỉnh, tòa Sứ cứ theo
số đinh trong sổ mà làm bài chỉ đưa sang sở Kho Bạc, rồi đến kỳ thuế, sở kho
bạc lại cứ theo đúng số thuế ghi trong bài chỉ mà thu. Nó chết tháng giêng, chứ
dẫu nó chết tháng chạp cũng vậy, bài chỉ làm rồi, người ta không có chữa lại
bao giờ, "khai tử" hay chẳng "khai tử" mặc kệ! Bởi thế, bài
chỉ làng ta năm nay vẫn không trừ được số sưu của thằng Hợi nhà chị. Nó chết,
vợ con chưa có ông Lý trưởng cứ lấy vào thân nhân, chồng chị không nộp cho nó
thì ai nộp?
Chị Dậu dở nói dở khóc:
- Cháu là đàn bà, biết đâu việc quan
như thế. Khốn nạn, chú nó chết đi, nhà cháu thật như mất cánh tay phải! Còn nó,
chúng cháu có đâu đến nỗi khổ sở như này? Bây giờ nó đã chẳng may thiệt phận,
đành rằng xuất sưu của nó, nhà cháu phải đóng, nhưng cháu xin các ông cho khất
đến mai. Hôm nay cháu hãy đóng trước một suất, các ông tha cho nhà cháu về, kẻo
người yếu đau bị trói cả ngày, không khéo chết mất.
Lý trưởng trừng mắt:
- Chết thì ông chôn! Mày tưởng chồng
mày chết mà ông sợ à? Muốn chồng khỏi trói, về đem nốt hai đồng bẩy nữa ra đây.
Nếu không thì ông còn trói, ông trói cho đến bao giờ đủ sưu mà thôi.
Chị Dậu chừng như uất quá, ngồi sụp
xuống chỗ cạnh chồng, chị khóc tru tréo:
- Trời ơi! Tôi bán cả con lẫn chó và
hai gánh khoai, mới được hai đồng bẩy bạc. Tưởng rằng đủ tiền nộp sưu cho
chồng, thì chồng tôi khỏi bị hành hạ đêm nay? Ai ngờ lại còn xuất sưu của người
chết nữa! Khốn nạn thân tôi! trời ơi! em tôi chết rồi còn phải đóng sưu, hở
trời? Tôi biết đâm đầu vào đâu cho được hai đồng bẩy bạc bây giờ?
Cai lệ ngồi phắt trở dậy gân cổ thét
ra:
- Chỗ mày kêu khóc đấy à, con mẹ
kia? Muốn sống thì câm cái mồm, không thì ông sẽ cho một trận nữa!
Anh Dậu run run khuyên vợ:
- Thôi, u nó đi về với con, kẻo có
hai đứa ở nhà nó khóc hết hơi. Mặc tôi ở đây, bị trói thêm một đêm nữa cũng
chẳng chết nào. Ðừng nói nữa người ta đánh đập khổ thân.
Chị Dậu vẫn không dứt được cơn hậm
hực.
Thủ quỹ vừa đếm xong hai chuỗi tiền
chinh, hắn gọi chị Dậu và bảo:
- Này chị kia, đừng khóc nữa, vào
đây mà xem, mỗi đồng thiếu mất bốn xu đây này! Một hào của chị đưa trả tiền các
trừ vào chỗ này hết tám xu rồi, còn thiếu bốn xu nữa nhé.
Chị Dậu lại mếu:
- Khốn nạn! Tôi vẫn chắc mẩm còn
thừa một hào, đem về đong gạo cho con ăn. Bây giờ hết cả vẫn chưa đủ! Gớm! Cái
bà Nghị, giàu thế mà còn làm điêu!
Rồi chị cứ rũ rượi ngồi khóc.
Anh Dậu thiết tha giục:
- Thôi u nó nghe tôi, có thương tôi
thì hãy đi về với con. Ðừng cứ ngồi đây mà khóc cho tôi càng thêm não ruột.
Các bạn bị trói của anh Dậu ra ý
thương hại và hỏi:
- Con bé lớn chị đã bán rồi, hai đứa
bé còn ở nhà với ai?
Chị Dậu sụt sịt đáp:
- Anh em chúng nó ở nhà với nhau,
chớ có ai đâu các bác?
Những người ấy ra ý áy náy;
- Khốn nạn! Thằng bé lên năm phải
giữ con bé lên hai! Tội nghiệp quá!
- Cứ như các ông ấy phải vừa mới nói
đó, thì người chết rồi cũng phải đóng sưu. Vậy là nhà chị vẫn thiếu một suất
sưu nữa. Nếu không có tiền đem nộp, dẫu chị ở đây đến sáng cũng không thể xin
cho anh ấy được khỏi trói đâu. Nói lắm mỏi miệng, ai thương? Thà chị về với các
cháu cho khỏi khổ thân con trẻ.
- Phải, bác ấy nói phải. Hãy cứ đành
lòng để mặc anh ấy ngồi đây, chị về mà nghỉ với con. Chứ chị ở đây chẳng qua
chỉ thêm đau lòng, ích gì? Rồi nhịn chẳng được, ngứa mồm nói một vài câu, lại
tổ làm cho anh ấy phải đòn.
Bấy nhiêu lời diễn thuyết tuy chứa
chan những giọng tử tế, nhưng không giúp cho chị Dậu tí gì vì ý chị cũng nghĩ
như người ta nói. Buồn rầu chị sẽ ghé vào tai chồng:
- Cái Tý để phần thầy em một đĩa
khoai đấy. Tôi bưng sang đây cho nhé!
Anh Dậu lắc đầu:
- Miệng tôi đắng lắm, không thể ăn
gì bây giờ. U nó cứ về với con. Không phải lo đến sự ăn uống của tôi.
Chào chồng bằng hai hàng nước mắt,
chị Dậu lủi thủi ra với cái mẹt, cái rổ, và cái mê nón.
Chương 15
Vầng trăng đã vượt khỏi ngọn tre.
Mặt nước các ao đã lóng lánh như nồi vàng đường chẩy. Trong mấy bụi cây rậm
rạp, tiếng quốc kêu khi thưa khi nhặt, khắc khoải hòa với tiếng rền rĩ rên khóc
của giun, dế vườn hoang.
Tuy mới chập tối, các nhà đã đóng
cửa im ỉm, không đâu còn một chút đèn lửa. Những kẻ cầy sâu cuốc bẫm suốt ngày
mệt nhọc, khi ấy đều phải "trả nợ mắt" để nuôi lấy sức làm việc cho
ngày mai. Trừ xóm Lý trưởng, các xóm khác đều im phăng phắc như cánh đồng
không, nếu thỉnh thoảng không có tiếng chó sủa bọn người người đi thúc sưu và
tiếng xay lúa giã gạo ở mấy nhà hàng xay hàng xáo.
Chị Dậu về đến đầu nhà đã nghe tiếng
khóc khàn khàn của hai đứa trẻ.
Sấp ngửa, chị chạy vào cổng, quẳng
cả rổ mẹt, mê nón xuống sàn, rồi vội vàng chị vào trong nhà.
Thằng Dần vẫn ngồi cạnh em, hai mắt
sưng húp, mặt mũi xám mét như đứa vừa bị ngã ao, hãy còn
kinh khiếp chưa hoàn hồn. Nó không
thể tỏ chút dấu mừng rỡ khi thấy mẹ về, tuy sự ấy là sự đáng mừng rỡ của nó.
Trái lại, nó càng ra bộ tủi thân và òa lên khóc như muốn nhắc cho mẹ biết những
nỗi lo sợ từ nãy đến giờ. Nhưng hình như trong lúc mẹ nó đi vắng, nó đã kêu gào
nhiều quá, cổ rát, hơi hết, nó chỉ có thể đưa ra cái tiếng khô khan như người
khóc thầm.
Chị Dậu không kịp hỏi đến thằng bé
ấy, hốt hoảng chị vớ lấy con bé con. Trời ơi, một sự ghê gớm kinh sợ.
Ðôi mắt nó mọng đỏ như quả nhót. Mồm
mép, chân tay, lưng, bụng, cổ áo, tay áo của nó bê bết một lượt cứt với nước
đái, đầm lầm hòa nhau. Nó khóc nhưng không ra tiếng, chỉ có cái miệng hông hốc
há ra như miệng cà mè. Sẽ sàng, chị Dậu nhắc nó ra cạnh vại nước, tắm rửa qua
loa cho sạch dơ bẩn. rồi chị bồng nó lên lòng. Lần này không còn thì giờ vắt bỏ
sữa chua, chị vội vạch yếm lôi cái đầu vú ấn vào miệng nó. Vừa cho con bé này
bú, chị vừa lật đật trở vào đón thằng bé kia.
Thằng bé ấy lệch thệch ra đến giọt
thềm, nó vẫn khóc nức, khóc nở, thân hình lem luốc như cái tượng đá vừa đào ở
dưới lỗ lên.
Giắt nó một lần nữa chị ra vại nước.
Một tay bế con bé con, một tay chị vừa giội nước và vừa kỳ cọ cho thằng bé lớn.
Rồi hai tay hai đứa chị ẵm chúng nó vào trong cái phản cập kênh.
Chiếc chiếu ở đấy lúc chiều chị đã
đem giải xuống đất đẻ đặt cái Tỉu, và đã bị nó đái ỉa đầm đìa. Thằng Dần phải
đứng xuống phản, để chị bồng con em bó vào buồng, cuốn lấy chiếc chiếu trong giường
và trải ra đó.
Từ sáng đến giờ chị chỉ long đong
chạy đi, chạy về chưa được ăn uống miếng gì. Chừng như cũng đã đói và mệt. Uể
oải chị ngả lưng xuống chiếu. Hai đứa con gối đầu vào hai cánh tay.
Cái Tỉu đã hơi tĩnh, vừa bú nó vừa
mân mê nghịch cái bầu vú của mẹ. Lâu lậu nó lại thổn thức vài tiếng. Thằng Dần
tan cơn nức nở, lại cứ ra rả kêu đói và kè nhè giục mẹ mua gạo nấu cơm.
Trong óc chị Dậu vẫn còn đĩa khoai
cái Tý cất trên bàn thờ. Nhổm dậy, chị định nhắc xuống cho
thằng bé này ăn nốt. Nhưng món lương
thực ấy đã bị chuột tha gần hết, chỉ còn ba bốn mẫu con
Thằng Dần giơ tay xua lấy xua để:
- Con không ăn. Ðĩa khoai ấy của
thầy con đấy. Lúc nãy chị Tý đã bảo đứa nào ăn vèn của thầy chị
ấy không chơi với. Con chả ăn, chị
ấy mắng con
Thế là nó lại nhớ đến cái Tý. dửng
sốt nó hỏi:
- Bây giờ chị Tý đâu rồi? Sao u
không đem chị ấy về đây với con?
Nước mắt chị Dậu lại theo lời nói
ngây ngô của thằng bé ngây thơ ứa ra chứa chan. Ðặt mấy củ khoai xuống phản,
chị ôm đầu nó vào nách, xoa xoa xuýt xuýt, chị ngọt ngào dỗ dành:
- Chị Tý ở nhà cụ Nghị. U đã bán cho
cụ Nghị ấy rồi, đem về thế nào được nữa?
Thằng Dần tru tréo:
- Con không! Nào! Lúc chiều con đã
bảo u lấy được tiền rồi thì đem chị ấy về đây với con kia mà!
Sao u lại để chị ấy ngủ ở bên ấy?
- Nhưng mà cụ ấy không cho nó về,
thì u làm thế nào được? Thôi, con ăn mấy củ khoai cho đỡ đói, rồi nằm ngủ đi,
mai kia u đưa sang chơi với chị.
- Con không mai kia! Nào! Nào! U phải đem ngay chị ấy về
đây bây giờ, để chị ấy ngủ với con.
Chị Dậu sụt sùi sẽ gạt nước mắt:
- Ðêm nay con hãy ngủ tạm với u!... Con ngủ với u chóng u
yêu, nhỉ!
- Con không ngủ với u nào! Con thèm vào chơi với u nữa. U
bán chị Tý đi rồi! Chốc nữa thầy về, con mách thầy cho!
Rồi nó gào khóc rầm rĩ, nhất định bắt mẹ phải đem cái Tý
về ngay. Chị Dậu hết ngọt lại xẵng, hết xẵng lại ngọt, nào dỗ, nào rứ, nào dọa,
nào mắng, giở đã hết cách, nó vẫn không nín. Chị đành mặc cho nó khóc, rồi chị
cũng khóc như nó.
Thấy chị khóc nó càng khóc dữ. Lăn đùng ra phản. nó đập
hai chân xuống phản đành đạch, và cứ lảm nhảm gọi mãi "chị về với
em". Chán chê, ê ẩm, hình như nó đã mệt lử, tiếng khóc dần dần nhỏ sẽ. Một
lát sau, nó chỉ ủn ỉn. Hai mắt thiu thiu nhắm lại, hơi thở đưa ra phì phò. Nó
ngủ.
Cái Tỉu cũng nghỉ mút sữa. Ðầu vú ở miệng con bé từ từ
buột ra. Rồi đôi mắt lờ đờ, con này cũng sắp sửa ngủ. Chị Dậu đón dén ngả lưng
xuống chiếu, chực lừa cái Tỉu.
Muỗi bay vo vo và đốt vào chân nhoi nhói. Chị sè sẽ giơ
tay phe phảy, không dám cựa mạnh, sợ
hai đứa con thức dậy
Cái Tỉu ngủ im. Thằng Dần bỗng cười khanh khách và nói
léo xéo:
- A a! Chị Tý đã về. Chị vào ăn cơm,
cơm sới rồi đấy.
Rồi nó im. Rồi nó thổn thức, rồi nó
lại nói:
- Bây giờ chị phải ở nhà với em,
đừng sang cụ Nghị nữa nhé! Em nhớ chị quá!
Thình lình nó ngồi phắt dậy, ngơ
ngác nhìn ra ngoài sân và bỡ ngỡ, nó hỏi chị Dậu:
- Chị Tý đâu rồi? Chị Tý em đau rồi
hử u?
Chớp mắt một cái, hình như nó chợt
nghĩ ra cái gì, ngó vào tận mặt chị Dậu, nó khóc hu hu:
- U vẫn chưa đem chị Tý về đây cho
con kia ư? Con bắt đền đấy? Con bắt đền u đấy. Sao u lại bán chị ấy của con? U
đi dậy đi! Ði dậy sang gọi chị Tý về đi! Sao u cứ nằm mãi? Con không cho u nằm
nữa!
Chị Dậu ró ráy nhắc cánh tay ra, đặt
đầu cái Tỉu xuống phản. Ngồi dậy, chị bế thằng Dần vào lòng. Trong nhà tuy
không có đèn, ánh sáng ngoài cửa soi vào, còn đủ sức sáng để chị nhìn thấy bộ
mặt rầu rỉ của nó. Nó vẫn khóc, vẫn ủn ỉn bắt mẹ đi gọi cái Tý.
- Con hãy nín đi, cho em nó ngủ, để
u ẩm con đi chơi.
Nó không nín lại càng khóc thêm.
Xếch nó lên vai, chị Dậu với mấy mẫu khoai trong đĩa, rồi chị bồng nó ra thềm.
Trước thềm, sáng như ban ngày.
Chương 16
Vầng trăng thăm thẳm từ trên đỉnh
đầu chiếu xuống. Bầu trời vắt như một khối thủy tinh. Gió nồm từ các ngọn cây
đưa lại hiu hiu. Bóng lá tre in dưới sân rêu luôn luôn lay động như đám bèo nổi
trên mặt sóng.
Thằng Dần gục vào mẹ và khóc ti tỉ,
chốc chốc lại thúc giục mẹ đi tìm chị nó. Chừng như thương con đói quá, không
thể ngủ được, chị dậu tỉ mỉ bóc sạch cả mấy mẫu khoai và dỗ nó ăn. Nhưng nó
khăng khăng một mực để phần cho thầy. Nó lại thiu thiu buồn ngủ.
Bồng nó vào trong nhà, chị Dậu sè sẽ
tìm cái quạt nan và sè sẽ đuổi muỗi cho con bé con. Rồi chị lại ẵm nó ra ngoài
sân.
Ði đi lại lại dưới bóng trăng, chị
vừa vỗ về thằng bé, vừa rầu rĩ cất cái giọng thê thảm ru cho nó ngủ.
Ánh trăng nhòm vào cặp mắt dưng dưng
nước mắt, nhắc lại cho chị cái đời ngây thơ của chị ngày xưa.
Phải, trong hồi chị còn ngây thơ,
còn độ lên sáu, bẩy, tuy không sung sướng cho lắm, nhưng cũng được cha mẹ nuông
chiều. Bấy giờ, chị chỉ ăn rồi chơi, chưa phải ẵm em, chưa phải quét nhà, đun
bếp như cái Tý nhà chị bây giờ. Những đem trời khô, trăng sáng như đêm nay, chị
vẫn luôn luôn được nô đùa với trẻ con hàng xóm. Chúng nó đã giở ra với chị biết
bao là trò mua vui. Nào nhảy nô, nào hú tìm, nào đánh rồng rắn...
Những cuộc vui ấy chị vẫn còn nhớ
rành rành. qua tuổi trẻ con đến khi mười bốn, mười lăm, chị vẫn được sẵn cơm
ăn, sẵn việc làm, chưa hề phải lam lũ. Không biết tội nợ vì đâu, và từ khi lấy
chồng đến giờ, tình cảnh nhà chị cứ mỗi ngày thấy mỗi khổ thêm. Hết năm ấy sang
năm khác, vợ chồng đầu tắt mặt tối, không dám chơi không ngày nào. Thế mà vần
cứ cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc. Bao nhiêu công trình khó nhọc, bao nhiêu
thuốc cam thuốc sài, nuôi từ hòn máu nuôi đi, mới được đứa con bảy tuổi. Bây
giờ chỉ vì một xuất tiền sưu, đã phải rứt ruột đem nó đi bán, lại đèo thêm hai
gánh khoai và năm con chó nữa, cũng vẫn chưa đủ. Chồng vẫn bị đánh bị trói suốt
ngày suốt đêm. Không biết trong lúc đau ốm, lại bị hành hạ như thế, anh ấy có
thể sống được đến mai hay không. Và ngày mai chạy đâu cho ra hai đồng bảy bạc
để chuộc chồng về? Nếu không lo đủ được số tiền ấy, số phận anh ấy sẽ ra sao?
Vả lo được đủ tiền chuộc được chồng về đi nữa, cũng đã thiệt mất một đứa con
rồi, sau này còn có ngày nào đem được nó về nhà nữa không? Từ chiều đến giờ nó
ăn với ai, nó ngủ với ai?....
Thế rồi chị trở vào thềm, rũ rượi
ngồi tựa cột hiên, nước mắt rơi xuống lã chã. Bóng trăng chênh chếch nhòm vào
trong thềm. Bụi tre trước nhà, con cú sắp đi kiếm mồi, báo hiệu bằng những
tiếng ghê sợ buồn rầu, có thể tưởng như ma quỷ, yêu quái. Mấy con cò ngủ giật
mình thức giấc, phành phạch vỗ cánh, tự trong bóng tối bay ra. Các nhà láng
giềng, gà gáy te te. Trống canh ngoài đình gắt gỏng điểm dịp ba tiếng.
Cái Tỉu cựa dậy và khóc lu loa. Chị
Dậu se sẽ đứng lên toan và ru con bé ấy, thằng Dần ở trên vai chị lại cũng thức
nốt. Nó mở choàng mắt, và nó nói luôn cái câu vẫn nói trong mọi đêm:
- Chị Tý đem em đi đái!
Chị Dậu vội bế nó đến cổng, tức thì
nó đã nghĩ ra, và nói luôn câu khác:
- Con không khiến u! Chị Tý kia! Con
không khiến u mang con đi đái. Nào! Nào!
Rồi nó kêu gào "bỏng
giọng" và nó giẫy giụa ở trên sườn mẹ. Cái Tỉu trong nhà vẫn khóc như beo
như ngắt. Luống cuống, chị phải đặt vội thằng này xuống đất, để vào đón con bé
kia. Quả nhiên nó đã chờ choạng lăn ra dề phản, chút nữa thì ngã. Sấp ngửa nhắc
con bé ấy, chị lại tất tả ra sân để ẩm thằng bé kia. Lại, hai nách hai con, chị
bế chúng nó vào ngồi trong chõng. Cái Tỉu đã phải im khóc vì một bầu vú của mẹ
lấp kín mồm miệng. Thằng Dần vẫn cứ ra rả:
- U đưa con đi tìm chị Tý, mau lên!
Chị Dậu dở khóc dở mếu:
- Ðêm khuya rồi, gà gáy nửa đêm rồi.
Ra đường ngáo nó cắn cho, con ạ
- Ngáo cắn chết thì thôi! Con không
cần. Con cứ đi tìm chị Tý, để chị ấy về ngủ với con! U phải đưa con đi ngay bây
giờ!
Chị Dậu ngồi ỳ không biết nói sao.
Nó thục tay vào trong yếm mẹ, lôi tuột đầu vú ở miệng cái Tỉu cà nó vừa khóc
vừa mắng con này:
- Ông không cho mày bú nữa. Nhả ra!
Nhả ra để u đưa ông đi tìm chị Tý.
Cái Tỉu lại khóc ngằn ngặt. Thằng bé
lớn vẫn cứ núc nã, thúc thả, nó kéo tóc, nó kéo tai, nó lôi cổ áo của mẹ, bắt
mẹ phải đứng dậy đi ngay.
Thì mẹ nó vẫn phải chiều nó. Bởi vì
nó yêu chị nó, nó thương chị nó, nó nhớ chị nó mọi đêm hai chị em nó vẫn nằm
với nhau và chị nó vẫn nghêu ngao hát cho nó nghe. Bây giờ tự nhiên mất chị nó,
phải bồn cồn nóng nẩy, muốn được thấy chị ngay lúc bấy giờ, cho nên nó phải làm
tình làm tội cái người đã đem chị nó di bán. Sự quấy nhiễu của nó là vô tội.
Ðối với mẹ nó, nó vẫn có lý và vẫn đáng thương.
Vầng trăng lui xuống phía sau lũy
tre. Mặt đường khuất dưới bóng lá khoang khuếch chỗ vàng chỗ đen giống như bức
tranh thủy mạc. Những nhà cạnh đường hãy còn ngủ im thin thít.
Chị Dậu với cái Tỉu ở sườn này,
thằng Dần ở sườn kia, lẽo đẽo đi hết ngò này sang ngõ khác. Hai đứa nín im, cái
Tỉu còn bận nhai bầu vú chẩy nhão, thằng Dần tìm hy vọng sẽđược thấy chị.
Trời khuya, canh vắng, ba mẹ con thơ
thẩn ôm nhau trên đường, chị Dậu thấy mình là người điên rồ. Mấy lần chị toan
quay về ngõ nhà, thằng Dần nhất định không nghe, nó bắt chị cứ phải điên rồ như
thề.
Bờ rào sột soạt, đàn chó của nhà bên
đường sủa vang, mấy con chó khác của các nhà khác lần lượt sủa theo Những người
gần đấy chợt tan giấc ngủ, choàng dậy kêu trộm rầm rĩ. Ngoài đình và ở các
điếm, hiệu sừng hiệu ốc nhất tề thổi lên tu tu.
Tiếng chó sủa, tiếng người thét,
tiếng hiệu rúc hồi, báo động suốt cả mấy xóm.
Chương 17
Những tiếng thét đâm, thét đánh đã
yên. Người ta không nỡ bắt trói chị Dậu, tuy gặp chị lò mò trong bóng tối, và
biết chị đích thị là thủ phạm đã gây ra vụ chó sủa, người la, tù và rúc khắp
làng.
Là vì xưa nay chị vẫn ngay thẳng
thật thà, không hề "tắt mắt" của ai vật gì đáng bằng cái tơ cái tóc.
Hơn nữa lúc ấy, chị lại hai tay hai con, một đứa đương khóc, một đứa đương bú,
dù kẻ ghét chị đi chăng nữa cũng không thể buộc chị là người định đi ăn trộm.
Mây vẫn, sao thưa dần. Sương mù bắt
đầu pha đục bầu trời. Mặt trăng tà tà đến gần mặt lũy. Tiếng gà te tê lần lượt
từ nhà nọ truyền đến nhà kia.
Dưới lớp mái lụp xụp của túp lều tranh,
chị Dậu và vầng trăng tàn thơ thẩn nhìn nhau, dường như đôi bên đều có riêng
một tâm sự.
Cái Tỉu no bụng, tỉnh ngủ: hớn hở
nằm trong lòng mẹ đùa với cái bóng thằng Dần. Thằng Dần chết khiếp vì trận quát
tháo vừa rồi, nó chỉ thổn thức, không dám khóc, cũng không dám giục mẹ đi tìm
cái Tý.
Ðến lượt cái Tý làm tội mẹ nó. Mọi
đêm, cứ đến gà gáy một tiếng, chị Dậu trở dậy sắp sửa nấu cơm, con bé ấy đã đon
đả đón lấy cái Tỉu, nó dụ, nó hát, nó nói thỏ thẻ với em những câu ngây thơ.
Bây giờ vắng nó, trong nhà tẻ ngắt như nhà có tang. Nào nó có tội tình gì.
Chẳng qua vì một suất sưu của bố, khiến cho nó phải lìa bố, lìa mẹ, lìa các em,
đem thân đánh đổi lấy một đồng bạc. Tội nghiệp cái thân con trẻ nhà nghèo, làm
tôi một nhà giàu có, hách dịch như nhà Nghị Quế, còn khi nào được một câu ỏ ê
của chủ nhà! Khốn nạn thân nó, đêm nay nó ở bên ấy, ngoài một con chó cái và
bốn con, không còn ai là bạn quen.
Nước mắt theo sự nghĩ ngợi chảy ra
như mưa, chị Dậu tự thấy trong ngực nóng như lửa đốt.
Văng vẳng nẻo xa có tiếng chó sủa.
Rồi, như theo một vệt đường, những giọng ăng ẳng kéo tiếp
nhau, ganh thi nhau, dần dần gần
lại, dần dần lớn thêm. Nó xô xát dữ dội ở mấy nhà giữa xóm và nó kéo dài vào
ngõ láng giềng chị Dậu.
Ngoài cổng, có tiếng giật giọng:
- Chị Dậu còn thức hay ngủ?
Giật mình, chị vội quay nhìn ra
cổng, và chị run sợ kinh khiếp khi thấy mấy người lố nhố dưới bóng tối của rặng
tre.
Không phải họ đến bắt chị về chuyện
huyên náo động lúc nãy, người ta đem lại cho chị một cái xác người.
Cái xác người ấy rũ rợi giục ở sau
lưng một người nhà lý trưởng, hai tay thong thả đằng trước, lủng lẳng như hai
quả bầu dài, hai bên có hai anh nữa, cũng người nhà Lý trưởng, đỡ ở hai vai,
giữ cho nó khỏi bị lả sang bên cạnh.
Hoảng hốt, chị Dậu bồng cả hai con
đứng dậy, và hỏi một cách thất kinh:
- Ai làm sao thế, hử các ông?
Hình như mấy người ấy, khi ở giữa
đường, đã nhiều lần phải thay đổi nhau đài tải một vật nặng nề, ai nấy đều thở
hồng hộc như bò cầy nắng. Họ không kịp trả lời chị Dậu, bệu rệch họ vực cái xác
người ấy sầm sập tiến vào trong nhà và đặt xuống phản. Một người cố nói mấy câu
như kẻ đứt hơi:
- Anh ấy phải cảm đấy. Chị xem nhà
ai có dầu bạc hà xin một ít mà bôi cho hắn, may ra hắn tỉnh được chăng.
Và họ rảo cẳng bước ra, không ai dám
quay cổ lại.
Hết cả hồn vía, chị Dậu đặt luôn hai
đứa con nhỏ xuống đất, tất tả chạy đến cạnh chồng. Anh Dậu
nằm còng queo trên phản, chân tay
không hề động cựa. Trước ánh sáng bẽ bàng của vầng trăng tàn úa, hai mắt đều
nhắm lim dim.
Sờ khắp trán, mặt, tay, chân của
chồng, chị Dậu chỉ thấy chỗ nào cũng giá ngăn ngắt, nhưng ở tinh mũi và cuối
cằn hãy còn ôn hòa, hai lỗ mũi hãy còn hơi thở man mát. Kề miệng vào tai chồng
chị gọi:
- Thầy em! Tỉnh dậy! Thầy em! Tỉnh
dậy!
Chỉ có hai đứa bé con ỷ ẻo khóc ở
dưới đất. Anh Dậu vẫn nằm ngay như khúc gỗ.
Sấp ngửa, chị chạy ra cổng và réo
thật to:
- Ba hồn bảy vía anh Dậu ở đâu thì
về với vợ với con.
Lồng từ ngõ trong ra ngõ ngoài, lại
tế từ ngõ ngoài vào ngõ trong, chị hú hồn chồng mới được sáu lượt, thì lưỡi líu
lại, không nói được nữa. Chân nọ đá chân kia, chị lại trở về ngồi ở đầu phản.
Cuống quýt không biết chạy chữa bằng cách nào, chị để tay vào trán chồng, vừa
lay vừa gọi " thầy em tỉnh dậy".
Anh Dậu vẫn không tỉnh. Hai đứa bé
con dưới đất vẫn khóc tru tréo.
Chương 18
Trống tan canh.
Gà im gáy.
Trời tang tảng rạng đông.
Chị Dậu tuyệt vọng khi ngó mặt chồng
thất sắc sám nhợt như người chết trôi. Tưởng chừng anh ta không thể sống lại,
chị đập tay xuống phản, kêu trời, kêu đất, kêu cha, kêu mẹ. Rồi chị đứng dậy đi
ra vại nước, lấy cái chậu sành múc đầy chậu nước đem vào. Lật khăn vuông ở trên
đầu xuống, chị dúng vào nước, lau trán, lau mặt, lau qua chân tay cho chồng, để
chồng được sạch sẽ trước khi "hết cơm gạo về với tổ tiên".
Hàng xóm, láng giềng tấp nập đổ đến.
Kẻ đón cái Tỉu, người ẩm thằng Dần, kẻ vào sờ sà anh Dậu, người ghé tận tai anh
ta mà gọi. Có kẻ rút rát, chảng vãng đứng tít ngoài thềm ghé vào, có kẻ sốt
sắng, chạy tốc ra mãi ngã ba, hú hồn anh Dậu thêm một lần nữa.
Trong nhà chật ních, người đứng vòng
trong, vòng ngoài. Họ hỏi thăm bệnh tình. Họ thương hại anh Dậu. Họ khuyên can
chị Dậu đừng khóc. Họ cả quyết anh Dậu không việc gì. Rồi họ rối rít, mỗi người
chạy đi làm giúp mỗi việc.
Bà này bắt thằng Dần cố sức
"rặn đái" đái vào chậu sành. Ông kia lấy chiếc lược thưa ghè hai hàm
răng anh Dậu. Bác nọ múc ít nước đái đổ vào trong miệng anh ấy. Bà kia bưng
chậu nước đái xoa mãi vào mặt, vào mũi, vào cổ, vào gáy, vào hai thái dương anh
ta. Cô nọ chạy về nhà mình lấy ít bồ kếp đốt than để vào cửa mũi người ốm. Chị
kia sang nhà bên cạnh xin cái chổi sể châm lửa cho cháy đùng đùng ở giữa nhà.
Ồn ào một hồi lâu.
Anh Dậu dần dần thở mạnh, rồi lờ đờ
sẽ mở hai mắt. Mọi người hớn hở mừng reo:
- Tỉnh rồi, anh ấy tỉnh rồi đấy.
Thì ra không phải anh ta phải gió,
chỉ vì bị trói chặt quá, mạch máu nghẽn lại, máu xông lên óc khiến cho anh ta
ngất đi. Nhờ có chậu nước lạnh của chị Dậu rửa mặt cho chồng và chậu nước đái
của bà con hàng xóm đổ vào miệng, xoa vào đầu, mặt anh ta, máu lại xuôi xuống
dần dần, cho nên anh ấy lại tỉnh.
Câu chuyện bắt đầu vui vẻ.
Người ta hỏi đến cái Tý vì từ nãy
đến giờ không thấy nó đâu.
Sau khi đã nghe chị Dậu vừa mếu vừa
thuật lại đầu đuôi việc chị thiếu sưu phải bán nó và 5 con
chó cho ông Nghị Quế thôn Ðoài, lấy
hai đồng bạc, thì ai nấy đều có vẻ ái ngại. Và ai nấy đều khuyên chị Dậu phải
yên lòng mà thuốc men cơm cháo cho chồng, không nên lo phiền về cái Tý nữa.
Người ta bảo nó lớn thì nó lại về, chẳng có khi nào mất con.
Anh Dậu vẫn lì bì mệt nhọc. Thằng
Dần mếu máo kêu đói.
Thấy nói từ sáng hôm qua đến giờ,
thằng bé chỉ ăn có vài mẫu khoai, vợ chồng chị Dậu đều phải
nhịn xuông, một bà hàng xóm có lòng
xởi lởi liền chạy về nhà lấy sang cho vay độ hơn đấu gạo, rồi bảo chị Dậu hãy
đi nấu cháo để cả nhà ăn tạm.
Cảm động, chị Dậu cám ơn bà ấy bằng
những giọt nước mắt chứa chan. Rồi chị đón lấy cái Tỉu vừa cho nó bú, vừa bắc
nồi cháo. Mặt trời lên cao, ánh nắng lọt lỗ nẻ bức cửa, chiếu vào lòng nhà.
Anh Dậu dần dần tỉnh thêm, có thể
tiếp chuyện bà con bằng giọng rền rĩ dề đà.
Các cô con gái lẻ tẻ về trước. Các
ông đàn ông và mấy bà đàn bà lục tục về sau.
Trong nhà lại thấy cảnh buồn tẻ của
sự thiếu vắng.
Chị Dậu bế cái Tỉu ngồi cạnh anh
Dậu, vừa bóp nặn chân tay cho chồng, vừa dỗ dành thằng Dần
chốc chốc lại phải đứng ra thổi lửa
dóm bếp.
Ngoài đình trống lại thúc, mõ lại
khua, tù và rúc liên thanh bất chỉ.
Sau nhà có tiếng gọi léo xéo.
Thằng Mới nó giục bác đàn em tuần ở
nhà kế bên ấy ra đình sắp sửa cờ trống đi đón quan.
Anh Dậu vật vã thở dài:
- Trời ơi, từ giờ đến lúc quan về,
chạy đâu cho được hai đồng bẩy nữa? Nếu không có, chúng nó làm tình làm tội,
không khéo thì mình đến chết.
Nước mắt ứa ra, anh Dậu quay mặt vào
bức phên nứa, sụt sùi nức nở, anh khóc thằng Hợi, anh khóc cái Tý, rồi anh khóc
đến số phận của anh.
Chị Dậu đương ở trong bếp, vội vàng
chạy lại ngồi kề sau chồng, nỉ non khuyên giải:
- Thôi, tôi xin thầy em. Ðừng kêu
khóc nữa, khổ tôi lắm. Chú Hợi nó chết rồi, dù có thương xót, nó cũng không thể
sống lại, cái Tý tuy bị đem bán, nhưng nó sang bên ấy chắc là cũng được cơm no
áo lành. Sau này trời cho làm ăn khá giả, thì lại sang chuộc nó về, có sao đâu?
Còn như mấy đồng tiền sưu, tuy có nóng thật, nhưng lo chưa kịp thì khất. Thịt
người tanh, chẳng ai ăn được. Thầy em cứ yên tâm nằm nghĩ, không phải lo lắng
gì cả. Nếu thầy em cứ kêu khóc mãi, lỡ ra cơn bệnh vật lên, lại lả người đi,
thì tôi biết làm thế nào?
Anh Dậu chừng sũng thương vợ, liền
giơ bàn tay, run rẩy lau khô nước mắt. Và ngoảnh mặt trở ra, anh cố làm ra bo
tươi tỉnh để tỉ tê hỏi chuyện cái Tỉu.
Nồi cháo đã sủi, bọt trắng trào ra
cổ nồi, chẩy xuống lòng bếp xèo xèo, làm tắt bếp lửa trong bếp.
Chị Dậu vội đặt cái Tỉu nằm ở cạnh
chồng, rồi chị đến bếp hì hục thổi mấy cục than sắp tàn. Thằng
Dần lệch thệch theo lại sau mẹ. Nó
nhất định bảo cháo chín rồi, và nằng nặc giục mẹ bắt ra.
Ngoài cổng, lạch cạch mấy tiếng gậy
đập cột vách. Người nhà Lý trưởng hách dịch hỏi từ đầu ngõ hỏi vào:
- Thế nào? Anh Dậu còn sống hay đã
chết rồi? Im lặng thế này hẳn là chửa chết. Tiền sưu đâu? Ðem nộp nốt đi! Mau
lên. Quan sắp về kia!
Chị Dậu ngồi trong bếp ngọt ngào nói
ra:
- Bác tính từ lúc gà gáy đến giờ,
tôi chạy chữa cho thầy cháu, nào đã lo kịp? Nhờ bác nói với ông Lý hãy cho nhà
tôi khất đến chiều mai.
Anh kia mát mẻ:
- Ðến chiều mai, chị nói dễ nghe
nhỉ! Thuế của nhà nước, chị tưởng chuyện chơi hay sao?
Chị Dậu nằn nì:
- Tôi cũng biết thuế nhà nước không
phải chuyện chơi. Nhưng bây giờ chưa có, nên tôi phải khất. Bạn nghèo với nhau,
bác nói khéo với ông Lý giúp tôi.
- Tôi không dám bạn với nhà chị. Tôi
không biết nói khéo. Tôi không có quyền được nhận lời khất của chị. Lát nữa, để
chị khất với ông Cai lệ.
Rồi hắn hầm hầm vác gậy đi ra.
Lửa lại nỏ. Chị Dậu ngồi luôn cạnh
bếp cầm chiếc đũa cả quấy nồi cháo khỏi trào. Ánh nắng gắt
gao xuyên lỗ thủng mái bếp soi vào
những giọt bồ hôi lóng lánh trên gò má đỏ bừng.
Trời đã thững buổi. Thằng Dần lại
sạo sục kêu đói. Nó vần kè nhè ngồi ở cạnh mẹ, hau háu nhìn vào nồi cháo.
Chương 19
Về phía đầu làng, nghe có tiếng còi
ô tô toe toe. Rồi
đến tù và tu tu đổ hồi. Rồi đến trống cái thong thả điểm từng tiếng một.
Bà lão láng giềng lật đật chạy sang, hớt hơ hớt hải nói
với chị Dậu.
- Nhà bác chạy đủ sửu chưa?
Chị Dậu vậm vội:
- Thưa cụ, nhà cháu mới nộp một suất, còn một suất nữa ạ!
- Sao lại phải đóng hai suất?
- Thưa cụ, một suất của thầy con cháu và một suất của chú
Hợi nó.
- Anh Hợi chết rồi, còn phải đóng sưu nữa à?
- Vâng, cháu thấy các ông ấy bảo chú nó chết dở năn tây,
nên còn phải đóng xuất sưu năm nay. Nếu nó chết chẵn năm tây thì mới được trừ
- Khốn nạn! Người ta chết đã sắp giỗ đầu, anh em còn phải
đóng đậy tiền sưu! Sao lại có lệ thế nhỉ?
Bây giờ nhà bác chưa có thì làm thế nào? Nghe như quan đã
về đấy!
- Phải, cháu cũng đoán chừng quan Phủ đã về. Nhưng không
có tiền thì phải khất vậy. Cụ bảo làm thế nào được?
Bà lão ái ngại trở ra.
Cháo chín, chị Dậu bắc mang ra giữa nhà, ngả mâm bát múc
ra la liệt. Rồi chị lấy quạt cho chóng
nguội.
Tiếng trống và tiếng tù và đã thủng thẳng đưa nhau từ
phía đầu làng đến đình.
Tiếng chó sủa vang các xóm.
Bà lão láng giềng lại lật đật chạy sang:
- Bác trai đã khá rồi chứ?
- Cảm ơn cụ, nhà cháu đã tỉnh táo như thường. Nhưng xem ý
hãy còn lề bề, lệt bệt chừng như vẫn mỏi mệt lắm
- Này, bảo bác ấy có trốn đi đâu thì trốn. Chứ cứ nằm
đấy, chốc nữa họ vào thúc sưu, không có, họ lại đánh trói thì khổ. Người ốm dề
dề như thế, nếu lại phải một trận đòn, nuôi mấy tháng cho hoàn hồn?
- Vâng, cháu cũng đã nghỉ như cụ. Nhưng để cháo nguội,
cháu cho nhà cháu ăn lấy vài húp cái đã.
Nhịn xuông từ sáng hôm qua đến giờ còn gì.
- Thế thì phải giục anh ấy ăn mau mau đi, kẻo nữa người
ta sắp sửa keo vào rồi đấy!
Rồi bà lão lại lật đật trở về với vẻ mặt băn khoăn.
Cháo đã hơi nguội.
Thằng Dần vục đầu vừa thổi vừa húp soàn soạt.
Chị Dậu đón dén bưng một bát lớn đến chỗ chồng nằm:
- Thầy hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột.
Rồi chị đón lấy cái Tỉu và ngồi xuống đó, như có ý chờ
xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không.
Anh Dậu uốn vai ngáp dài một tiếng. Uể oải, chống tay
xuống phản, anh vừa rên vừa ngỏng đầu lên. Run rẩy cất bát cháo, anh mới kề vào
đến miệng. Cai lệ và người nhà lý trưởng đã sầm sập tiến vào với những roi
song, tay thước và dây thừng.
Gõ đầu roi xuống đất, Cai lệ thét bằng giọng khàn khàn
của người hút nhiều sái cũ;
- Thằng kia, ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à?
Nộp nốt tiền sưu! Mau!
Hoảng quá anh Dậu vội để bát cháo xuống phản, lăn đùng ra
đó, không nói được một câu gì. Người nhà lý trưởng cười cách mỉa mai:
- Anh ta sắp phải gió như đêm qua đấy!
Rồi hắn chỉ luôn vào mặt chị Dậu:
- Chị khất tiền sưu đến chiều mai phải không? Ðấy chị hãy
nói với ông Cai, để ông ấy ra đình kêu với quan cho! Chứ ông Lý tôi thì không
có quyền dám cho chị khất một giờ nào nữa.
Chị Dậu run run:
- Nhà cháu đã túng, lại phải đóng cả xuất sưu của chú nó
nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bễ tiền sưu của nhà nước đâu!
Hai ông làm phúc nói với ông Lý hãy cho cháu khất....
Cai lệ không để cho chị được nói hết câu, trợn ngược hai
mắt, hắn quát;
- Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước,
mà dám mở mồm xin khất
Chị Dậu vẫn cố thiết tha:
- Khốn nạn! Nhà cháu đã không có, dẫu ông chửi mắng cũng
đến thế thôi. Xin ông trông lại
Cai lệ vẫn giọng hằm hè:
- Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thì ông sẽ
rỡ cả nhà mày đi, chửi mắng thôi à
Rồi hắn quay ra bảo anh người nhà Lý trưởng:
- Không hơi đâu mà nói với nó, trói cổ thằng chồng nó
lại, điệu ra đình kia Người nhà Lý trưởng hình như không dám hành hạ một người
ốm nặng, sợ hoặc xảy ra sự gì, hắn cứ lóng ngóng ngơ ngác, muốn nói mà không
dám nói. Ðùng đùng, Cai lệ giật phắt cái thừng trong tay anh này và chạy sầm
sập đến chỗ Anh Dậu
Chị Dậu xám mặt, vội vàng đặt con bé con xuống đất, chạy
đến đỡ lấy tay hắn:
- Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông
tha cho
- Tha này, tha này!
Vừa nói hắn vừa bịch luôn vào ngực chị Dậu, mấy bịch, rồi
lại sấn đến để trói anh Dậu
Hình như tức quá không thể chịu được, chị Dậu liều mạng
cự lại
- Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ.
Cai lệ tát vào mặt chị một cái bốp, rồi hắn cứ nhẩy vào
cạnh anh Dậu, Chị Dậu nghiến hai hàm răng:
- Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!
Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn giúi ra cửa. Sức lẻo khoẻo của
anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn
ngã chỏng quèo trên mặt đất, miệng vẫn nham nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu
sưu.
Người nhà Lý trưởng sấn sổ bước đến, huơ gậy chực đánh
chị Dậu. Nhanh như cắt, chị Dậu nắm ngay được gậy của hắn. Hai người giằng co
nhau du đẩy nhau, rồi ai nấy đều buông gậy ra, áp vào vật nhau. Hai đứa trẻ con
kêu khóc om sòm. Kết cục, anh chành "hầu cận ông Lý" yếu hơn chị
chàng con mọn, hắn bị chị này túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.
Anh Dậu sợ quá muốn dậy can vợ, nhưng mệt đắm ngồi lên
lại nằm xuống, vừa run vừa rên:
- U nó không được thế! Người ta đánh mình không sao, mình
đánh người ta thì mình phải tù phải tội.
Chị Dậu vẫn chưa nguôi giận;
- Thà ngồi tù. Ðể cho chúng nó làm
tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được...
Người nhà lý trưởng hết cơn lặng cá,
lóp ngóp bò dậy hắn chỉ vừa thở vừa chửi chị Dậu, không
dám động đến thân thể chị nữa. Chị
Dậu lại đón cái Tỉu vào lòng, và cũng sa sả chửi giả
Anh Dậu không biết làm thế nào mà
can đôi bên, chỉ nằm mắng vợ và xin lỗi ông... người nhà Lý trưởng.
Một hồi hiệu ốc rú từ ngoài đình rúc
vào. Mấy bác tuần phu gậy tầy mã thò theo chân Lý Trưởng, Cai lệ kéo đến. Thì
ra trong lúc chị Dậu và anh người nhà Lý trưởng vật nhau, Cai lệ đã chạy thoát
ra đình báo với Lý trưởng. Lý trưởng liền đem tuần phu vào bắt vợ chồng chị
Dậu. Họ đã giảng giải ra đình hầu quan tất cả tiếng rên của người ốm, tiếng
khóc của hai đứa trẻ con, và tội cán của người đàn bà táo bạo.
Chương 20
Ðôi lọng xanh nằm tráo đầu đuôi
trước cửa đại đạo. Cái trống cái và cái đòn tre chơ chỏng lăn bên tường bao
lan. Chín, mười lá cờ rũ rợi, rủ dưới giọt đình. Một đoàn giáo, mác loi thoi
chĩa mũi nhọn trên mái giải vũ.
Quang cảnh ngoài đình hôm nay khác
hẳn hôm qua. Phó lý, Trương tuần cũng như tộc biểu, tuần phu, tuy không phải
làm việc gì, ai nấy vẫn sơ tóc gáy chạy xuôi chạy ngược. Phó hội, thủ quỹ đối
nhau với thư ký, chưởng bạ, mỗi người khoanh tay đứng tựa mỗi cột, dáng bộ len
lét như rắn mồng năm. Chánh tổng ngồi ngáp vặt cạnh bức câu lơn, con ruồi đậu
mép không muốn đuổi. Chánh hội luôn tay giở cuốn sổ thuế, hai mắt vẫn lấm lét
trông đi đằng nào.
Vợ chồng chị Dậu không can đảm hơn
thằng Dần, vừa ló mặt lên thềm đình, đã mất vía về bộ râu của quan phụ mẫu.
Cái râu mới lạ làm sao! Nó đen như
vệt hắc in và cong như cái lưỡi liềm. Nó nhọn như mũi dùi nung và bầu như đầu
dao trổ. Nó khum khum quắp lấy hai mép, giống như hai cái cánh dơi. Nó vất vểu
vểnh ra hai mang tai, gần như hai sừng củ ấu. Nó chầu đầu ở dưới ống mũi, như
sắp chui vào trong cái mũi dọc dừa. Nó lại giúp cho cái mồm lèn bèn thêm sự dữ
dội.
Nếu không biết quan phủ xuất thân từ
chức thông phán, người ta sẻ tưởng ngài được làm quan chỉ vì bộ râu.
Và nếu không rõ là ông quan, người
ta lại có thể lầm ngài với ông cai xe hay ông cai thầu khoán.
Dựa tay vào mặt cái bàn phủ tấm thảm
đỏ của tế chủ vẫn thường đứng lễ, quan Phủ ngất ngưởng
ngồi vào chiếc chiếu cạp đỏ trải
trên ghế ngựa quang dầu. Dưới vành khăn xếp nhiễu tây, cái mặt
phèn phẹt luôn luôn hằm hằm như sắp
rơi xuống sàn đình đánh "huỵch"
Cạnh ngài, một tên tuần đinh lực
lưỡng vác cái quạt lông đứng đằng xa xa phẩy vào.
Trước ngài, thầy Thừa và anh Nho đều
mướt bồ hôi với mấy cuốn biên lai thu thuế của Lý trưởng.
- Bẩm ông lớn! "thừa" lệnh
ông lớn, chúng con và tên người nhà Lý trưởng vào nhà tên Nguyễn Văn Dậu bắt nó
đem tiền nộp sưu, vợ tên ấy muốn tháo cho chồng, nó đánh con, đánh cả tên người
nhà Lý trưởng, hiện có Lý trưởng cùng bọn tuần phu đều biết. Lạy ông lớn, xin
ông lớn...
Cai lệ chưa nói hết câu, Lý trưởng
đứng ở đằng sau vội vàng cướp lời:
- Bẩm ông lớn, con mẹ ấy tên là Thị
Ðào, nó bướng bỉnh thứ nhất làng con. Năm, sáu hôm nay, hôm nào chúng con cũng
sai người nhà đến giục tên Nguyễn Văn Dậu đóng sưu, nó xui chồng nó nhất định
không đóng. Chúng con bảo nó thuế sắp đăng trường, nếu không đóng sẽ phải trình
quan phụ mẫu, nó nói quan phụ mẫu nó cũng không cần. Hôm nay "thừa"
bóng ông lớn về đây, anh Cai lệ và người nhà con vào đốc, nó dám đánh lại tất
cả. Hiện mắt chúng con và nhiều người nữa trông thấy. Ông lớn là đèn trời, xin
ông lớn xét tình chúng con, bắt nó bỏ tù, chúng con và anh Cai lệ được đội ơn
ông lớn.
Quan Phủ vểnh cái mặt nặng trịch và
đập tay xuống mặt bàn:
- Không đóng sưu! Lại đánh cả lính! Nó định làm giặc à? Bắt cổ ra
đây!
Một tiếng dạ vang năm gian đình. Vợ chồng chị Dậu và hai
đứa bé xềnh xệch lên đình theo đầu thừng trong tay Lý trưởng.
- Bẩm ông lớn, chúng con đả giải tên Dậu và Thị Ðào ra
hầu ông lớn!
Dứt lời Lý trưởng, quan Phủ giương đôi mắt trắng rã, nhìn
vào mặt anh Dậu:
- Mày định trốn sưu của nhà nước? Thằng kia?
Anh Dậu run như cầy sấy:
- Bẩm lạy quan lớn, tiền sưu con đã nộp rồi.
Quan Phủ quát hỏi Lý trưởng:
- Nó đã nộp rồi, sao mày bảo nó chưa nộp?
Lý trưởng vội kêu:
- Bẩm ông lớn, tên ấy "man" cửa ông lớn, thực
quả tên ấy chưa nộp...
Quan Phủ không để cho Lý trưởng hết lời, ngài vặn anh Dậu:
- Mày nộp rồi thì biên lai đâu?
- Bẩm lạy quan lớn, con không lấy giấy biên lai, nhưng
khi nộp có cụ Chánh tổng, ông Thủ Quỹ và các ông chức dịch cùng biết...
Quan Phủ nhìn mặt Thủ quỹ và Chánh tổng:
- Các thầy có trông thấy nó nộp sưu cho Lý trưởng không?
Thủ quỹ ngó trộm Lý trưởng rồi thưa:
- Bẩm ông lớn, đêm qua, Thị Ðào có nộp anh Lý chúng con
hai đồng bẩy hào tiền chinh, anh Lý chúng con giao cho chúng con đếm lại...
Xen vào câu nói của Thủ quĩ, thằng Dần kéo vạt áo mẹ và
giục:
- U đem con về mau lên. Con chả ở đây nữa! Nào!
Quan Phủ trừng mắt và quát Lý trưởng:
- Sao lại cho nó giắt cả con nít lên đấy? Ông thì đập vào
mặt mày bây giờ!
Sắc mặt sám như gà cắt tiết, Lý trưởng vội vàng một tay
giằng sấp cái Tỉu trên tay chị Dậu, một tay túm đầu thằng Dần, đưa xuống thềm
đình, rồi đem tít ra ngoài cổng đình, giao cho đứa lớn ngồi giữ đứa bé.
Hai đứa cùng khóc ngặt nghẽo, thằng Dần nheo nhéo gọi u.
Mặc kệ chúng nó ở đấy, Lý trưởng lại quay lên đình.
Quan phủ đương hỏi Thủ quĩ:
- Tiền đếm rồi mày đưa cho ai?
- Bẩm quan lớn, con đưa cho anh Lý chúng con.
Lý trưởng nói đón:
- Số tiền ấy mới là xuất sưu của thằng Hợi.
Quan phủ cau mày:
- Thằng Hợi là tên nào? Sao thằng Dậu lại phải nộp sưu
cho nó?
- Bẩm ông lớn, tên Hợi là em ruột anh Dậu. Hắn chết từ
đầu tháng giêng... Vì tên Dậu là thân nhân của hắn, cho nên chúng con bắt phải
nộp thay.
Quan phủ hỏi gặng:
- Thế làm sao mày lại không đưa biên lai cho nó? Ðịnh thu
lạm thuế phải không?
Rồi ngảnh lại nhìn viên thừa phái, quan Phủ nói bằng giọng
nghiêm nghị:
- Thầy thảo biên bản, nói rằng nay tôi về đây khám thuế,
bắt được Lý trưởng thu thuế của tên Dậu mà không biên nhận cho nó. Rồi bảo
Chánh tổng ký vào. Nghe không?
Sau tiếng dạ gọn ghẽ của viên thừa phái, Lý trưởng chắp
tay đến cạnh quan Phủ và gãi tai;
- Bẩm ông lớn, chúng con là tôi con ông lớn, xin ông lớn
thương... thực quả chúng con tình oan.
Quan phủ càng ra bộ giận dữ;
- Vụ thuế này mày kiếm được của những đứa ngoại canh được
mấy trăm đồng... Còn chực thu lạm của thằng cùng đình! Ông thì cách cổ...!
Lý trưởng lại nằn nì nhắc lại câu vừa mới nói:
- Bẩm ông lớn, chúng con là tôi con ông lớn, xin ông lớn
thương... thực quả chúng con tình oan.
Quan phủ dịu giọng:
- Mai lên phủ hầu. Nghe không?
Lý trưởng dạ một tiếng dài, rồi khúm núm đi lùi trở ra.
Quan phủ hỏi đến chị Dậu:
- Mày đánh lính và người nhà Lý trưởng để tháo cho chồng
mày trốn sưu phải không?
Chị Dậu cất giọng run run:
- Bẩm lạy quan lớn, con không đánh
các ông ấy, vì các ông ấy định đánh chồng con, con sợ chồng con đương ốm mà lại
phải đòn thì chết, nên con phải can.
Lý trưởng nói sen;
- Bẩm ông lớn, đích thị ấy có đánh
người nhà chúng con và anh Cai lệ, mắt con trông thấy.
Quan phủ gạt đi:
- Im cái mồm! Không ai hỏi mày!
Rồi ngài lại dồn chị Dậu:
- Mày can, tức là mày đánh nhau với
chúng nó... À! Con này dám chống cự với lính trong khi làm phận sự! Muốn vào tù
Chị Dậu nín lặng, không biết nói
sao, Quan phủ cất giọng hách dịch:
- Cho ra ngoài kia!
Thầy Thừa vừa thảo xong tờ biên bản,
đệ lên trước mặt quan phủ. Nhìn qua biên bản một lượt, quan phủ bảo Chánh tổng
đóng triện và mấy người hương chức ký tên làm chứng. rồi ngài mới kiểm đến
thuế.
Trước mặt Chánh tổng và các hương
chức, Lý trưởng đổ tráp bạc cho thầy Thừa đếm. Tất cả bạc giấy, bạc hào mới
được sáu trăm và ba chục đồng. So với tiền đã biên trong sổ Lý trưởng, thì dội
ra đến hai chục đồng.
Quan phủ đập tay xuống bàn và dọa lý
trưởng:
- Mày không thu lạm, làm sao tiền
thuế lại thừa? Xong vụ thuế này, ông thu bằng triện.
Lý trưởng sợ tái mặt, chỉ núc hau
tay như người bắt quyết và nói đi nói lại một câu "xin ông lớn
thương"
Quan phủ đổi giọng ngọt ngào:
- Mai lên phủ hầu! Giải cả con vợ
thằng Dậu lên nữa. Nghe không?
Rồi ngài chững chạc đứng dậy, đi
xuống giọt đình.
Tù và, trống cái và cờ quạt lũ lượt
tiễn ngài lên phía đầu làng.
Chương 21
Tan buổi hầu kiện, chị Dậu lật đật
chạy xuống cổng đình tìm con. Không thấy đứa nào ở đấy. Chị sợ quá, cuống quít
đi hỏi những người gần quanh. Thì ra trong lúc chúng nó bị ông Lý trưởng điệu
xuống bỏ đó, một người đàn bà trong làng đi qua trông thấy thương hại, đã bế
cái Tỉu cho bú và giắt thằng Dần đưa đến tận nhà chị rồi.
Không kịp đợi chồng, chị vội bon
luôn về nhà với con.
Cái Tỉu bú no, nằm ngủ thin thít.
Thằng Dần đương bưng bát cháo vừa thổn thức vừa húp soàn soạt.
Chị Dậu bước vào đến thềm, thằng bé
chợt ngửng đầu lên. Nó khóc òa lên và hỏi:
- Thầy em đâu rồi, hử u?
Chị Dậu xua tay:
- Nói sẽ chứ! Cho em nó ngủ! Thầy
con đương về sau đấy!
Rồi chị rón rén bước vào trong nhà.
Bà lão láng giềng vừa sang:
- Thế nào? Bác không bị bắt lên phủ,
lại được tha về đấy ư?
Vừa nói, bà lão vừa nhanh nhảu tiến
lên trên thềm và ngồi vào chiếc chõng nát, rồi tiếp;
- Tôi cũng khen cho bác ngỗ nghịch!
Ai lại một người đàn bà con mọn, dám đánh hai người đàn ông?
Nếu phải đứa khỏe, chúng nó đánh lại
thì làm thế nào?
Cái Tỉu thức giấc và khóc ngằn ngặt.
Chị Dậu vừa đón con bé vừa tiếp bà khách:
- Cháu cũng biết rằng đàn bà hành
hung như thế là hư thân lắm, chứ không hay gì. Nhưng mà chúng nó đè én chúng
cháu tệ quá, cháu đã cố nhịn mà không nhịn được. Cụ tính nhà cháu đau ốm như
thế, mà cả hai đứa, cứ xông vào đánh, thì phỏng còn gì là người! Vì thế cháu
phải liều với chúng nó.
Bà lão giở gói trầu thuốc đưa cho
chị Dậu một miếng;
- Nói vậy thì nói, chứ cái thói tàn
ác của quân lính lệ, ai mà chịu nổi? Tôi là người ngoài, nghe chuyện cũng còn
tức thay, huống chi bác! Thế công việc bây giờ ra sao?
Chị Dậu đón lấy miếng trầu và đáp:
- Quan bảo cho về, ngày mai lên hầu.
Bà lão lại hỏi:
- Bác trai đi đâu chưa về? Hay lại
bị giải lên phủ rồi chăng?
- Không!...
Chị Dậu đương nói giở câu thì ngoài
cổng nghe có tiếng rên hầm hừ. Anh Dậu lẩy bẩy tiến vào trước thềm với bộ mặt
đỏ gay như người đun bếp.
Chào qua bà lão láng giềng, rồi anh
run rẩy chống tay vào gối để bước lên thềm. Chị Dậu vội vàng bỗng con đứng dậy,
cầm cánh tay chồng kéo lên.
Bà lão láng giềng ra ý ái ngại:
- Khốn nạn! Bác lại lên cơn sốt rét
đấy ư?
Anh Dậu lò dò đi vào trong phản, ngả
mình xuống cạnh thằng Dần, vừa thở vừa nói:
- Vâng! từ nãy đến giờ, cháu thấy
trong mình gây gấy, hình như nó lại sắp sửa lên cơn rồi đấy Thằng Dần ăn cháo
đã xong. Nó mang đũa bát ra sân bỏ vào nồi nước vo gạo. Chị Dậu đưa cái Tỉu cho
bà lão láng giềng:
- Cháu hãy gửi cụ một lát!
Rồi chị bưng mâm cháo đặt lên bàn thờ
ông công, và ngồi vào cạnh anh Dậu:
- Thầy em có dức đầu không? Ðể tôi
nặn cho cái nào!
Anh Dậu xua tay và rên khừ khừ:
- Thôi, tôi mệt lắm. Ðể tôi nằm nghỉ
một lát. U nó ra mà ẵm con, để cụ...
Bà lão láng giềng vội đón:
- Ðược! Hôm nay tôi cũng thong thả.
Cứ để tôi ôm cháu cho. Bác gái có đi làm gì cứ đi!
Chị Dậu sẽ sàng đứng dậy:
- Thế thì cháu hãy quấy cụ lúc nữa.
Vừa nói, chị vừa chạy ra cuốn chiếc
chiếu rách cái Tỉu đái ỉa hôm qua, đem ra ao giặt.
Anh Dậu vừa rên vừa tiếp bà lão;
- Cháu không ngờ những thằng lính lệ
nó ác đến thế. Sáng ngày nếu không có nhà cháu cự lại với nó, có lẽ nó sẽ đánh
cháu đến chết.
Bà lão nhổ bãi cốt trầu xuống thềm:
- Thôi! Còn phải kể! Bạc thì dân,
bất nhân thì lính. Tục ngữ nói có sai đâu. Ấy là nhà bác không có gì nữa. Chứ
nếu trong nhà còn có con gà, con chó, chúng nó cũng đập chết mà ăn với nhau,
không tha cho đâu. Bây giờ những đứa ấy còn ở đây hay là đi rồi?
- Hình như nó đã theo quan về phủ
thì phải
- Bác gái đã chạy được nốt số tiền
sưu chưa?
- Thưa cụ chưa. Từ sáng hôm qua đến
giờ, nó những lật đật về cháu, chạy vào đâu được! Khốn nạn!
Cái thân đàn bà như nó, thật là khổ
sở đủ đường.
Rồi anh dấp dính nước mắt.
Bà lão thỏ thẻ yên ủi:
- Thấy tình cảnh nhà bác, tôi thật
ái ngại. Nhưng thôi, sông có khúc, người có lúc, mình cứ ăn ở hiền lành, rồi
cũng có ngày trời mở cửa cho!
Bóng nắng vừa đến giọt nhà. Chị Dậu
ở ngoài ao về với chiếc chiếu ướt và một nắm lá.
Sau khi đã vắt chiếc chiếu lên cõi
rào, chị đem nắm lá thả trong một chậu nước lạnh rồi đặt vào
gậm bàn thờ
Bà lão hỏi:
- Lá dành, lá ruối phải không?
Chị Dậu nhanh nhảu:
- Phải. Cháu thấy người ta mách
rằng: Những người sốt rét, cứ lấy hai thứ ấy vò ra, phơi sương mà uống, bệnh
nặng đến đâu cũng khỏi. Vậy cháu thử làm cho nhà cháu uống xem sao.
Bà lão ra ý vui vẻ:
- Ừ! Tôi cũng thấy nói lá dành lá
ruối chữa bệnh sốt rét hay lắm. Thế mà tôi cứ khuấy quên, vẫn không nhắc bác.
Rồi nhả miếng bã trầu trong miệng và
ném xuống sân, bà lão hỏi tiếp:
- Từ sáng đến giờ, các bác đã ăn gì
chưa?
Chị Dậu đến cạnh bà lão để đón cái
Tỉu và đáp:
- Nào đã ăn vào lúc nào hở cụ? Sáng
ngày nhà cháu vừa bưng bát chái đến miệng, thì họ kéo vào....
- Thế thì để tôi hãy ẵm cháu cho.
Bác đi lấy cháo cho bác trai ăn, kẻo nữa bác ấy đói quá.
Anh Dậu ngắt lời:
- Cháu đắng miệng lắm, không muốn ăn
uống gì cả
Bà lão cố bầu:
- Phải cố ăn đi mới được, bác ạ!
Chẳng ăn nhiều thì ăn ít. Chứ cứ nhịn mãi thì sức yếu đi, bệnh càng nặng thêm.
Và lại, ăn cháo cũng không độc đâu mà sợ.
Chị Dậu nói theo:
- Cụ bảo phải đấy! Thầy em cố ăn vài
miếng cho đỡ xót ruột. Kẻo nữa, đã ốm lại đói thì chịu làm sao!
Rồi chị bưng một bát cháo đến cạnh
chồng và nằn nì:
- Nào, thầy em gượng dậy ăn đi, cho
tôi bằng lòng.
Anh Dậu như nể lời vợ, uể oải ngồi
dậy, anh đón bát cháo, nhắm mắt nhám mùi, cố húp gần hết nửa bát, rồi kêu đắng
lắm không nuốt được nữa.
Bà lão lại khuyên chị Dậu:
- Bác gái cũng phải ăn đi, để lấy
sửa cho cháu nó bú. Mình đà vậy, còn con. Ðàn bà con mọn cần nhất phải ăn cho
đủ thì mới có sữa. Nếu không đủ, thì con hay sài.
Anh Dậu cũng dề đà giục vợ:
- Cháo sắp vữa cả rồi đấy. U nó ăn
cho hết đi. Rồi đi chạy cố mấy đồng nữa.
Chị Dậu nhắc mâm cháo xuống phản.
Bớt lại một bát, chừng muốn để dành cho thằng Dần, rồi chị vừa húp chập cuội
vừa ứa nước mắt:
- Ngày nay nhờ cụ cho vay, còn có
cái ắn, ngày mai thì trông vào đâu?
Bà lão láng giềng ra vẻ cảm động:
- Trời sinh voi, trời sinh cỏ, sợ
gì! Bên kia còn nửa nồi gạo nữa, tôi chưa ăn đến. Lát nữa bác đem thúng sang,
tôi hãy cho vay. Khi nào bác trai khỏe mạnh trả tôi cũng được.
Ngoài cổng có tiếng hiệu rúc. Ðàn
chó hàng xóm thi nhau sủa từ phía ngoài sủa vào. Lý trưởng với cây gậy song và
hai người tuần hùng hổ xông đến trước nhà. Chỉ gậy vào mặt anh Dậu, hắn quát:
- Sưu đâu? Thằng kia? Ðem nộp nốt
đi!
Bà lão láng giềng nhanh miệng khất
hộ:
- Bác ấy vừa ở đình về, làm gì đã
có? Ông hãy làm ơn để cho người ta đến mai.
Lý trưởng mắng như tát nước:
- Không việc gì đến bà! Mà chõ mồm
vào đấy. Nó không có, thò tôi dỡ nhà nó đi cho mà xem.
Rồi hắn chỉ gậy vào mặt chị Dậu;
- Chỉ vì vợ chồng nhà mày để quan
hành ông... Ông hạn cho mày từ giờ đến tối nếu không chạy đủ hai đồng bẩy nữa,
thì mày sẽ biết tay ông!
Chương 22
Thằng Dần cái Tỉu hãy còn ngủ say.
Chị Dậu bưng bát nước lá dành lá duối cho anh Dậu uống, rồi chị ngả mâm, lấy
bát, ra bếp bắc cơm. Hôm nay có gạo của bà láng giềng cho vay, chị định nấu cơm
ăn sớm, để chốc nữa còn phải lên phủ hầu quan.
Anh Dậu trong mình hơi tỉnh, nên
cùng ngồi ăn với vợ. Nhưng anh nhỏ nhẻ nhai không buồn nuốt, chỉ ăn vài miếng
lại thôi. Chị Dậu cũng mới và hết một bát, thì Lý trưởng vừa sầm sập vào với
hai người tuần và một sợi dây thừng.
Hắn xông đến chỗ chị Dậu và nói thật
lớn;
- Ðứng dậy, đi lên phủ!
Chị Dậu phát cáu;
- Lên phủ thì lên. Tôi có trốn đâu?
Nhưng ông hãy để cho tôi ăn xong bữa cơm cái nào!
Lý trưởng sừng sộ:
- Mày chẳng ăn xong thì mặc kệ mày.
Việc quan ông cứ đúng phép ông làm.
Rồi hắn đùng đùng sấn lại, túm tay
chị Dậu lôi dậy và thét hai người tuần.
- Trói cổ nó lại, điệu đi cho ông!
Bát cơm trên tay chị Dậu đổ lật
xuống mâm đánh xoảng, cơm canh bắn tung khắp nhà.
Cái thừng trong tay người tuần tức
thì bị lồng vào hai cánh tay chị Dậu và gò ra đằng sau lưng.
Anh Dậu nhìn vợ bằng những giọt nước
mắt thánh thót.
Lý trưởng trừng trợn hạch lạ:
- Còn đời mày nữa. Từ giờ đến trưa
nếu không nộp nốt tiền sưu, thì ông trẻ xác ra cho. đừng lấy ốm mà lần khân với
ông!
Cái Tỉu trong buồng giật mình thức
dậy, khóa chu, khóc chéo như bị beo ngắt Chị Dậu dấn dịu với Lý trưởng:
- Xin ông làm phúc để tôi cho cháu
nó bú cái đã...
Lý trưởng hùng hổ chĩa bàn tay vào
mặt chị Dậu:
- Ông thì vã cho vỡ mồm bây giờ! Mày
nói cho cha mày nghe đấy à! Sắp đi hầu quan, còn đòi ở nhà để cho con bú. Dễ
ông đứng đây đợi mày đấy chắc?
Thế là hắn túm đầu thừng đẩy sấp đẩy
ngửa chị Dậu xuống thềm. Vừa đi hắn vừa sa sả chửi mắng.
Tới đình, hắn sai tuần phu trói chặt
chị Dậu vào một cột đình. Thằng Mới lễ mễ bưng mâm lòng
lợn đậu phụ đặt vào chiếc chiếu giữa
đình Lý trưởng ngồi xếp bằng tròn bên cạnh bao lan, vừa uống rượu vừa cà giêng
cà tỏi:
- Con mẹ đĩ Dậu! Mày đã biết nhục
chưa con! Ông còn làm cho bõ ghét mới thôi Chị Dậu lúc ấy hình như tức quá, sắc
mặt tái xanh, chỉ cúi gầm xuống, không nói gì cả. Lý trưởng lại kè nhè:
- Chỉ vì vợ chồng nhà mày, cho nên
hôm qua quan mới hạch ông, mày có biết không? Việc này chưa biết ông sẽ lo liệu
thế nào cho xong. Có lẽ hơn trăm đồng bạc kiếm được trong vụ thuế này, ông phải
đổ đi... vì mày tất cả...
Rồi hắn đập tay xuống sàn đình!
- Mày làm hại ông đến thế, chứ còn
đến thế nào nữa! Con mẹ kia! Ông giết chết mày cũng không oan mà!
Cứ thế, cứ cái giọng ấy, hắn lảm
nhảm một mình cho đến khi chai rượu đả hết già nửa.
Chị dậu chừng cũng không muốn giây
với kẻ say, cho nên hắn nói thế nào mặc hắn, chị cứ giả điếc
làm lơ.
Mặt trời lên khỏi ngọn tre độ một
con sào
Mấy đĩa đậu phụ, lòng lợn trong mâm
đã sạch ngoen ngoẻn. Bấy giờ Lý trưởng mới chịu bo mâm đứng dậy, trong miệng
còn nhồm nhoàm nhai dở miếng cơm trưới với nước mắm.
Không kịp chùi miệng, uống nước, hắn
gọi một người tuần phu và giục:
- Trưa quá rồi! Giải cổ nó đi, không
thì lỡ buổi hầu sáng.
Chị Dậu được thoát ly cái cột đình
để theo hắn và người tuần phu lên phủ.
Trời đương nắng gắt, tự nhiên thấy
tối sầm lại. Một đám mây đen lù lù tiến từ phía Nam lên phía Bắc. Chân trời
nhấp nhoáng hiện mấy luồng chớp. Tiếng sấm sét theo cơn giông đồng thời kéo
đến. Nước mưa đổ xuống ầm ầm.
Bởi đường đi trong một cánh đồng
không, ca bọn đều không có chỗ mà ẩn. Lý trưởng tuy có cầm ô nhưng cũng bị ướt
lướt sướt như chị Dậu và người tuần phu. Vì ô của hắn tức là một món trang sức,
chỉ dùng để làm giá ngự chớ có giương được bao giờ.
Với cơn căn tức của hắn, sự rủi ro
ấy không khác gì lửa cháy thêm dầu, hắn càng lèm nhèm chửi mắng chị Dậu.
Nước mắt theo nước mưa chảy xuống
dàn dụa, chị Dậu không biết than thở cùng ai, thỉnh thoảng chị chỉ kêu trời cho
hả.
Một lát sau, gió im dần, mưa tạnh
dần, trời cũng quang dần, rồi thì ánh nắng lại ở trên đầu dọi xuống như thiêu
như đốt.
Tới cổng phủ, các quần áo ướt vừa
khô. Nhưng đã tan buổi hầu sáng, Lý trưởng phải dẫn chị Dậu vào trong hàng cơm
để đợi buổi hầu chiều.
Cố nhiên trong mùa sưu thuế, hàng
cơm phố phủ vẫn phải đông khách hơn các ngày thường. Trên những giẫy phản ken
liền, trên những chiếc tràng kẻ giát nứa, người nọ chen vai người kia. Họ ăn,
họ uống, họ nói chuyện, họ cãi lý sự với nhau. Chỗ này gọi cơm, chỗ kia gọi
rượu, chỗ khác lại gọi nước mắm. Thằng nhỏ nhà hàng cuống cẳng chạy không kịp.
Mùi tỏi, mùi rượu, mùi mắm tôm hòa với mùi bồ hôi của những người đã lâu không
tắm, làm thành một bầu không khí khó tả, ai không quen ngửi sẽ phải buồn nôn.
Chị Dậu với sợi thừng gò ở hai cánh
tay vẫn ngồi do gió dưới chân cột để nghe những tiếng chửi của Lý trưởng mỗi
khi có người hỏi hắn lên phủ làm gì.
Ruột chị lúc ấy như bị đứt ra từng
đoạn.
Chồng ta hôm nay có dứt cơn sốt rét
hay không? Cái Tỉu từ sáng đến giờ xin bú ai được? Thằng
dần có chịu chơi ngoan hay lại gào
khóc quấy bố? Cái Tý ở nhà lão Nghị có được yên thân hay vẫn bị chửi bị đòn?
Bấy nhiêu câu hỏi kế tiếp nhau quấy
rối ở trong óc, nó làm cho chị lúc nào hai mắt cũng đỏ ngầu ngầu.
Thình lình trong hàng có tiếng nói
lớn:
- Bà này nghiệt quá! còn để chúng
tôi vào hàng nữa thôi?
Giật mình, chị vội ngẩng mặt trông
lên.
Trước một đống ô vá nũm và không tay
cầm, bà hàng đương co kéo mấy ông tổng lý, nhất định
không cho đi ra. Một ông trong bọn
chỉ vào đống đồ vật ấy và nói:
- Thiếu có hai hào rưỡi bạc, chúng
tôi đã gàn mười một cái ô, mà bà vẫn không bằng lòng, thật không biết điều chút
nào.
Nhà hàng vẫn khăng khăng một mực:
- Các ông bảo mười một cái ô bán cho
ai được hai hào rưỡi? Nếu không cho tiền thì các ông phải để cho tôi một cái áo
the kha khá lại đây. Chứ tôi giữ ô của các ông để làm "gắp chả" dõi
à!
- Nhưng mà chúng tôi còn phải hầu
bây giờ. Ðể áo the đây thì khoác cái áo cánh nâu mà vào quan ư?
- Tôi không biết. Nếu không gửi áo
thì các ông phải trả tiền tôi.
Cả bọn ngơ ngác nhìn nhau, ông kia
gắt ông nọ:
- Tôi đã bảo đừng lấy thêm chai rượu
sau nữa, thì có việc gì phải lôi thôi thế này. Thật là xấu với hàng phủ.
Một ông liền móc dạ cá lôi ra một
khối đồng vuông đưa cho nhà hàng và nói:
- Gần năm trăm đồng bạc mới được cục
đồng này đây. Tôi hãy gửi bà, chiều mai tôi xin đem tiền lên chuộc.
Trong phủ, tiếng trống thong thả
điểm luôn ba hồi. Những ông hương lý tấp nập đem bộ mặt đỏ vào hầu. Lý trưởng
Ðông xá cởi trói cho chị Dậu, rồi đưa chị vào phủ.
Hắn chỉ cho chị ngồi vào dưới một
gốc bàng ở trước công đường, để chờ khi quan hỏi đến.
Lần này là lần đầu chị chàng nhà quê
được biết cửa công. Trước tai, mắt chị, cái gì cũng lạ. Lạ
nhất là trong buồng giấy của quan
phủ, luôn luôn đưa ra những tiếng "bẩm tỉnh" "cách cổ" và
"bỏ tù", và những người đến đó ai cũng vào với một cái đĩa không, rồi
lại ra với một cái đĩa không.
Mặt trời đã xế. Lý trưởng Ðông Xá
mới được vác cái đĩa không đến trước bàng quan phủ. Sau một hồi thét lác của
ông "phụ mẫu", anh ta lầm rầm nói vài, bốn câu gì đó, rồi hắn chạy ra
gốc bàng, dẫn chị Dậu đến trước nhà giấy.
Liếc mắt nhìn qua chị dậu, quan phủ
dõng dạc:
- Lính đâu, giam cổ con này xuống
trại!
Chương 23
Phía sau công đường, chợt có tiếng
còi toe toe. Tiếp luôn đến tiếng máy chạy sình sịch. Một chiếc ô tô mui kính từ
nẻo nhà tư từ từ bò ra đậu ở phía trước công đường và chìa đầu ra ngoài cổng
phủ.
Sau bức chấn song của cửa sổ trại
lệ, chị Dậu thình lình nhòm ra.
Với quan phủ đi kèm bên cạnh, một
người đàn bà từ thềm gạch hoa bước xuống bằng bộ điệu vùng
vằng giận dỗi.
Chiều trời tuy đã gần tối, sức mắt
chị Dậu còn đủ nhận rõ hình dạng và nhan sắc người đàn bà ấy.
Cái xác đẫy đà như không chịu nổi sự
chật hẹp của tấm áo bom bay mầu xanh, đôi vú vẫn thỗn
thện lộ ra trước ngực. Trong chiếc
khăn tua quấn xòa từ đầu đến cổ, lượt phấn rầy bự che không kín hai nét răn lớn
trên tô cập môi son.
Ðến cạnh ô tô, người đàn bà ấy mở
cái "bị da" lấy chiếc gương con soi mặt Quan phủ nhanh nhảu mở một
cánh cửa ô tô và giục;
- Thôi mợ lên xe đi đi! Kẻo nữa tối
nay thứ bẩy, ngài lại đi chơi đâu chăng.
Người đàn bà làm bộ dằn dỗi;
- Thân tôi thật là nhục hơn con chó.
Những đứa giăng há chẳng qua nó cũng thế này.
Quan Phủ ngọt ngào;
- Sao mợ lại nói thế nhỉ? Ðã hay
rằng mợ không ưa sự đó, nhưng cái đời nó như thế, người ta thế mình cũng phải
thế. Tôi còn chịu được nữa mợ! Tục ngữ đã nói "giầu về bạn, sang về
vợ" năm nay mà tôi được thăng, tức là công mợ...
Quan phủ ngừng lại giây lát để nhìn
mặt người đàn bà ấy và tiếp:
- Vả lại... đâu vẫn đấy, nào mình có
mất một chút gì đâu.
Lúc ấy chị Dậu mới biết người đàn bà
ấy tức là bà Phủ. Thấy quan phủ cười, bà phủ ra giọng gắt gửi:
- Thôi đừng nói chuyện con khỉ. Ðã
đau cả ruột lại còn pha trò.
Rồi thì bà ấy rón rén bước len trên
xe. Chỉnh chệm ngồi tựa vào chiếc đệm da, và mở "ví da" lấy chiếc
gương con soi lại lần nữa.
Quan phủ đóng cửa ô tô và sẽ dặn
người tài xế:
- Ðưa bà vào dinh, rồi mày lại đánh
xe ra ngay. Ðộ một giờ rưỡi thì hãy đem xe ra đón. Một giờ rưỡi.
Nghe không?
Tiếng máy lại kêu sình sịch lấp
tiếng trả lời của người tài xế. Rồi chiếc ô tô thong thả từ trước công đường
chạy ra sau mấy tiếng còi rất lễ phép. Quan phủ chào vợ một cách sung sướng.
- Thôi mợ đi cho được việc.
Và ngài đứng đó trông theo cho đến
khi bóng xe đã khuất cổng phủ mới vui vẻ trở vào.
Chị Dậu còn đương ngơ ngẩn cố tìm ý
nghĩa của những câu chuyện vợ chồng nhà quan mới nói với
nhau mà chưa tìm ra, thì người Cai
lệ vừa ở công đường đi xuống. Hắn lật đật mở rương, lấy ra một bộ đủ áo the
thâm, khăn vuông thâm, khăn vấn xa tanh, yếm trắng giải lụa bạch, dây lưng
nhiễu xanh, áo cánh lụa trắng và một cái quần lụa thâm cặp màu cánh sen, vừa
trao cho chị, vừa chỉ vào đôi guốc gỗ cạnh đó và nói:
- Cầm lấy bộ quần áo này và đôi guốc
kia ra nhà tắm ở đằng sau trại, cái nhà vuông con có che cót đó, tắm cho sạch
đi.
Chị Dậu ngạc nhiên:
- Thưa ông, ông bảo tôi ạ?
Cai lệ cau mày:
- Chẳng bảo mày thì bảo ai. Còn ai
được mặc những quần áo này?
Chị Dậu òa khóc:
- Xin ông xét lại cho tôi. Tôi mới
bị giam một lúa, sao ông đã bắt tôi mặc quần áo tù?
Cai lệ phì cười:
- Quân mới ngu chứ! Quần áo tù được
thế này à? Ðó là quần áo của... trời cho đấy. Cứ ra tắm đi, rồi mặc vào. Không
được hỏi đi hỏi lại lôi thôi.
Chị Dậu vội chùi nước mắt:
- Thôi! Cháu không tắm! Cháu không
thay. Ông cho cháu cứ mặc quần áo của cháu...
Cai lệ ra vẻ bực mình;
- Nhưng mà còn bẩn không ai chịu
được. Mày tưởng giường phản nhà quan cũng như giường chiếu nhà mày đấy à? Tắm
đi và mặc bộ quần áo này một đêm nay thôi. Sáng mai lại mặc những thứ tốt đẹp
của mày, không ai cấm!
Chị Dậu vẫn không hiểu, rụt rè như
muốn hỏi nữa. Cai lệ liền quát:
- Bảo không nghe thì ông tống cổ
xuống nhà vuông bây giờ. Ðừng thấy nói ngọt càng làm bộ.
Bằng cái dáng bộ sợ hãi, chị Dậu đón
lấy bộ quần áo và sách đôi guốc, rồi đi qua phía sau trại lệ. Trong buồn tắm,
nước lạnh, xà phòng, chậu thau, khăn mặt, các thứ đều sẵn sàng cả. Vào đó giây
lát, chị lại trở ra và cứ thập thò ở phía đầu trại, Cai lệ sáng ý liền hỏi:
- Mày sợ ướt cái váy mốc của mày
phải không? Ðóng cửa lại... Không ai thèm nhòm!
Chị Dậu ngần ngại đi vào nhà tắm.
Nửa giờ sau, cánh cửa buồng tắm ngỏ
ra, chị chàng cũ kỹ nhà quê nghiễm nhiên thành một người
óng ả nuột nà rõ ra vẻ cầu Lim, đình
Cẩm.
Cai lệ quàng cho chị Dậu cái lược bí
và cái gương vuông:
- Chải đầu đi, rồi vấn khăn cho thật
tử tế!
Chị Dậu ngơ ngác ngồi một lúc lâu,
như muốn nghĩ xem người ta sắp sửa bắt mình làm gì. Cai lệ nóng ruột lại giục
lần nữa. Bấy giờ chị mới bẽn lẽn cầm lấy gương lược, xổ đầu ra trải.
Một người lính Lệ đứng cạnh mỉm
cười;
- Sướng nhé! Mấy khi đã được quan
giam!
Người khác nói sen;
- Con bé đẹp thật đấy nhỉ! Của này
nếu được thắng bộ cánh bốp thì.. kém gì đời!
Người nửa nói góp:
- Chả đẹp, chúng mình lại phải sách
nước cho nó... ? Nhưng còn phải cái bộ mặt ủ rũ luôn luôn, hẳn là chị ta lo
lắng gì đó.
Rồi hắn nhìn mặt chị Dậu:
- Sao mày không tươi lên em! Tươi
lên để chúng tao nhìn một cái cho bỏ cái công gánh nước cho mày...
Cả bọn cùng cười ầm lên. Chị Dậu nín
lặng như không nghe biết gì cả. Vì ruột gan chị lúc ấy đương để cả vào chồng và
con ở nhà.
Chương 24
Ðồng hồ trên vách đánh luôn bẩy
tiếng. Hồi trống thu không đã tan. Ngọn đèn đất trong trại bất đầu châm lửa. Người
Cai lệ ở trên nhà tư chạy xuống vừa cười vừa bảo với người Biên lệ:
- Nay quan thời cơm sớm quá, mới sáu
giờ rưỡi đã giục bếp bưng mâm lên rồi... Dùng rượu sâm mày ạ!
Biên lệ cũng gật gù:
- Thôi, hôm nay chả dùng rượu sâm
còn để hôm nào! Sức ấy mà lại tẩm bổ thì phải biết!
Trên chòi canh tùng tùng ba tiếng
trống báo. Một chiếc ô tô sơn xanh. lù lù tiến vào trước sân.
Biên lệ nói nhỏ với Cai lệ:
- Xe của ông huyện Minh Hảo.
Rồi hắn tất tả chạy lên trước thềm
công đường.
Ông huyện Minh Hảo mở tung thềm cửa
xe bước xuống, vui vẻ hỏi người Biên lệ:
- Quan nhà mày có nhà hay đã moong
rồi?
Biên lệ lễ phép:
- Bẩm cụ lớn, quan con đương dùng
cơm.
Ông huyện bước lên bậc thềm một cách
hùng dũng:
- Sao mà quan nhà mày ăn cơm sớm
thế? Mới có bẩy giờ...! thôi! vào bảo với quan nhà mày cứ ăn cơm cho xong. Tao
ngồi đợi đây cũng được!
Rồi thì ông huyện đi vào phòng giấy.
Biên lệ diễu lên nhà tư, giây lát,
hắn xuống trại lệ với bộ diệu ỡm ờ:
- Ngài cáu! Chúng bay ạ. Hôm nay đứa
nào vô phúc mà trái ý ngài...
Cai lệ cười nhạt:
- Thôi, việc đến nơi lại bị khách
ám, ai mà không tức! Thế, ngài có ra tiếp khách hay cứ ngồi ăn?
- Ngài tha chửi cho là tốt, lại còn
tiếp nữa! Tao vào bẩm quan Minh Hảo sang chơi, ngài đã phát khùng mà rằng: Kệ
hắn! Ông ăn xong đà! Rồi ngài cứ việc rung đùi đánh chén.
- Chắc là đêm nay thứ bẩy quan kia
đến rủ quan này lên tỉnh, chứ gì!
- Hôm khác thì đi ngay đấy, nhưng
hôm nay, sét đánh ngài cũng ở nhà.
- Chả ở nhà, dễ ngài đi cho mày đấy
hẳn? Ðêm nay mày còn hầu nhọc, con ạ. Tháng việc này của mày bở đấy. Ðã hỏi
tiền canh giam hay chưa?
- Nào đã hỏi vào lúc nào được?
Biên lệ liền quay mặt sang phía chị
Dậu:
- Con mẹ kia! Ðưa năm hào ra nộp
tiền hàng đội!
Chị Dậu vẫn ngồi trên chiếc chõng
tre xó trại, tuy có nghe thấy hắn hỏi, nhưng không trả lời, vì chị không biết
là hắn hỏi ai. Biên lệ lại gặng:
- Mồm mày câm à! Con mẹ Ðông Xá?
Chị Dậu ngớ ngẩn:
- Ông hỏi tôi ạ?
- Chứ hỏi con chó nào nữa!
- Thưa ông, tiền hàng đội là tiền gì
ạ!
Biên lệ nắm chặt tay phải, xăm xăm
chạy tế đến gần chị Dậu và gân cái cổ bạc ác:
- À mày muốn giở lý sự đấy chứ?
Cai lệ huých thêm:
- Biếu cho chị ta mấy quả phật
thủ...
Chị Dậu vội vàng xin lỗi bằng giọng
run sợ:
- Thưa hai ông, cháu là đàn bà đâu
giám dở lý sự với các ông! Vì mới vào quan lần này là một, cháu không biết tiền
hàng đội là tiền gì, cho nên phải hỏi. Các ông tha lỗi cho.
Biên lệ như cũng nguôi giận, hắn lại
thẽ thọt:
- Nó là tiền giường, tiền chiếu mày
ngồi tiền cơm mày ăn lúc nẫy, chứ là tiền gì? Năm hào! Ấy là ta thương mày
nghèo, nên lấy có thế. Ðưa ra nộp đi!
- Thưa ông, thật quả cháu không có.
Thuế ở nhà cũng chưa nộp đủ nữa là...
Biên lệ sừng sộ:
- Không có thì chốc nữa cho chân vào
cùm.
Rồi hắn chỉ tay vào một khúc gỗ dài
thườn thượt như cái cối giã gạo kê ở giáp vách gian trại bên kia:
- Cái cùm kia kìa. Trông thấy chưa?
không có tiền thì một lát nữa sẽ được đút chân vào đấy.
Trên công đường leng keng một hồi
kêu. Cai lệ, Biên lệ mỗi người dạ một tiếng thật lớn, rồi cùng lật đật chạy
lên.
Lâu lâu một lúc, thì có tiếng cười,
tiếng nói lơi lả từ trong buồng giấy sô ra. quan chủ tiễn quan khách xuống
thềm. sau khi ông kia đã lên ngồi ô tô, ông này còn nắm tay lại và dặn:
- Thôi! Ðể thứ bẩy sau vậy. Ðúng hẹn
đấy nhé!
Ánh sáng đèn pha phun ra chói sân
công đường. Còi điện báo hiệu khởi hành bằng mấy tiếng hách dịch. Chiếc xe chạy
ra cổng phủ rồi biến vào trong bóng tối. Quan phủ gọi biên lệ nói nhỏ mấy câu
rất ngắn, rồi ngài đi lên công đường.
Cái kiểng của trại Lệ gióng với cái
trống cái bên trại Cơ, điểm luôn ba tiếng dịp nhau
Chị Dậu đương ngồi gục đầu dưới bóng
đèn với những cơn đau đớn lo sợ, thì Biên lệ rón rén ở
ngoài cửa vào, sẽ đến cạnh chị và
hỏi:
- Con mẹ này thức hay ngủ? Ði lên
quan đòi.
Chị Dậu giật mình vội ngẩng đầu dậy:
- Quan đòi cháu bây giờ làm gì hử
ông?
Biên lệ cố làm ra vẻ nghiêm nghị:
- Không phải hỏi! lên đấy thì biết
Chị Dậu thấy trong mình hồi hộp,
tiếng nói tự nhiên run run:
- Cháu tưởng việc quan thì làm ban
ngày, chứ sao lại làm ban đêm?
Biên lệ ra bộ giận dữ:
- Bây giờ giữa lúc sưu thuế gấp
ngặt, nhiều việc cần kíp, ban ngày làm không hết, nên quan phải làm ban đêm,
chứ làm sao!
Chị Dậu vẫn chưa hết sợ:
- Cháu lạy ông van lạy ông xin ông
kêu quan để cho cháu sáng mai.
- Không được! Việc quan không phải
chuyện chơi! nếu quan đòi mà không lên hầu, thì được tra chân vào cùm lập tức
Chị Dậu vẫn ngồi im chẳng nói chẳng
rằng, trống ngực mỗi lúc mỗi nện mạnh.
Cai lệ ở đâu chạy vào:
- Nó bướng, không chịu đi chứ? Cùm
cổ nó lại
Tức thì hai ông đầu trâu mặt ngựa
sấn lại, dắt tay chị dậu lôi sang gian bên kia. Một người nhắc đầu cây cùm, một
người bắt chị bắt tréo hai chân xỏ vào hai lỗ ở giữa, rồi họ đập cây gỗ xuống.
Chị Dậu nhăn như chuột kẹp. Lúc đầu hình như chị định bấm gan cố chịu, nhưng
chỉ giây lát, thì thấy đau như đứt ruột, không thể nào mà chịu được nữa, chị
phải mếu khóc, vái lia, vái lại:
- Cháu lạy hai ông! hai ông tháo ra
cho cháu!
Biên lệ ra bộ đắc sách:
- Mẹ mày! Ðã biết cái lối cùm treo
của chúng ông chưa?
Rồi hắn tháo chốt, nâng cây gỗ trên
cho chị rút hai chân ra, và hắn hỏi:
- Thế nào, bây giờ mày đã chịu đi
hay chưa?
Chị Dậu vẫn còn mếu máo:
- Cháu xin vâng lời hai ông. Nhưng
các ông hãy để cho cháu thuần chân cái đã.
Biên lệ liền đưa cho chị cái khăn
mặt ướt, bảo chị lau mặt và lau hai chỗ ống chân bị thương. rồi hắn bắt chị xỏ
chân vào guốc, dẫn chị qua dầu công đường vào phía nhà tư. Theo lời hắn, chị
vừa bước chân vào khỏi cửa phòng nhà tư, cánh cửa liền đóng sập lại.
Chương 25
Trên chiếc tủ giường, ngọn đèn măng
sông im lặng tỏa ra ánh sáng xanh lè. Trong bức màn luyn lòa xòa rủ chiếc
giường Hồng công, tấm khăn trắng nuốt phủ trên chiếc đệm, không có một vết răn
rúm. Bức chăn gấm đặt trên một trồng hòm sơn cũng như chiếc khăn xếp và tấm áo
sa treo ở cây mắc, hết thảy in bóng lên khuôn gương vuông nghiêng nghiêng đứng
dưới trần nhà. Trong phòng sáng như ban ngày, nhưng vắng ngắt không có ai cả.
Chị Dậu như đã hiểu đó là một chỗ
không hay cho chị, loay hoay vặn cái quả bàng, chị chực ngỏ
cửa chạy ra. Bỗng cánh cửa ngách hé
mở. Một người đàn ông với bộ quần áo lụa trắng và đôi giầu
kinh tự phía sau cửa nhô ra
Chiếc cánh cửa lại khép chặt lại
Nhờ cái đặc biệt của hai chòm râu,
chị Dậu nhận ra ông phủ, trống ngực nện thình thịch, chị vội run run chắp tay
và vái một vái:
- Bẩm lạy quan lớn ạ!
Quan phủ đáp bằng giọng nhẹ nhàng:
- Ðịnh đi đâu mà mở cửa? Ðứng ra
dưới cái gương kia ta hỏi!
Chị Dậu khúm núm sẽ đi đến chỗ quan
Phủ đã chỉ. quan phủ ghé ngồi vào giường đối mặt với mặt chị Dậu. sau khi đã
thưởng thức cái dung nhan óng ả của chị gái quê, ngài đứng dậy, đi đến cạnh
chị. Cúi xuống, ngài định hôn vào đôi gò má đỏ bừng. Chị Dậu vội nghiêng mình
tránh và chạy ra gần cánh cửa. quan phủ theo sau, ngài nắm tay chị, lôi lại và
ngọt ngào:
- Hãy vào trong giường này đã... mày
đánh lính trong khi làm việc phận sự, tội nặng lắm... vào đây... rồi tao châm
chước đi cho.
Chị Dậu càng run:
- Con lạy quan lớn, chúng con là gái
có chồng, quan lớn tha cho...
Quan phủ vừa co tay chị, vừa trả
lời:
- Không được! Có chồng mặc kệ có
chồng...
Ngày mai cho về với chồng. Ai giữ làm gì?
Chị Dậu nhất định cố giằng tay ra và cứ một mực:
- Con lạy quan lớn! Chúng con là gái có chồng, quan lớn
tha cho Dường như cơn hăng nổi lên.
Nhưng mà chị này khỏe hơn, vừa rẫy rụa, vừa buột miệng
gắt gỏng:
- Ô! Nhà ông này mới hay chứ! Có buông ra không thì tôi
kêu lên bây giờ!
Quan phủ không trả lời. Ngài mắm thật chặt hai môi.. chị
Dậu hết sức vùng vẫy để nhoài mình ra
Trận hùy huỵch kéo dài đến hơn mười phút. Chị Dậu du được
bên địch ngã kềnh xuống đất, rồi chị
chạy ra cửa và đứng tựa lưng vào tường để giữ thế thủ.
Quan phủ lóp ngóp đứng dậy, mở ví lấy nắm giấy bạc độ hơn
chục đồng, chìa vào tận mặt chị Dậu.
Ngài thở và nói:
- Có muốn tiền, tao cho!
Chị Dậu giằng nắm giấy bạc vứt tọt xuống đất
Giương tròn hai mắt, quan phủ sấn lại giơ tay..... chị
này hăng hái đẩy ra
Ngoài cổng bỗng có trống báo dật giọng. rồi còi ô tô rít
lên. Rồi tiếng ô tồ sình sịch đi vào
Quan phủ luống cuống, vội mở cửa sau đẩy chị Dậu ra và
nói hai tiếng vắn cộc:
- Thôi bước!
Trong bóng tối, có người ghé tai chị Dậu nói thầm:
- Muốn sống bám ngay vào vai tao này.
Tiếp đó, một cái lưng người phàn phạt chĩa sát vào trước
chị Dậu. Hoảng quá, chị liền ôm luôn lấy
cổ người ấy. Hắn cõng chị xuống thềm, và lom khom bò
quanh trở ra
Tiếng sình sịch của máy ô tô đã vào đến trước công đường.
Tiếp luôn đến tiếng đanh đá nghe rõ ra tiếng đàn bà.
- Cậu còn thức hay đi ngủ rồi?
Trong cửa nhà tư, quan phủ vừa đi vừa nói:
- Tôi chưa ngủ, vẫn chờ mợ đây! Sao mợ về sớm thế? Có gặp
ngài không?
Trên công đường liền có tiếng the thé:
- Cậu làm gì mà thở hồng hộc lên thế?
Rồi tiếng the thé vào cửa nhà tư
Ai mở cửa sau làm gì thế kia? Tiền
bạc ở đâu lại vung ra đấy? Guốc của đứa nào bỏ đó? Làm sao
cái khăn trải đệm lại bị răn reo thế
này?
Sen vào mấy tiếng giậm chân thình
thịch, rồi lại đến tiếng tru tréo:
- Cậu giết tôi đi! Cậu làm thế này
thì còn trời đất nào! Này! Dao đây, cậu đâm chết ngay tôi đi cho rảnh! Tôi nhục
về cậu biết chừng nào!
Người cõng chị Dậu khi ấy bò vào đến
nhà tắm. Hắn đặt chị xuống và ghé tai chị sẽ bảo:
- Quần áo của mày để đâu? Lấy mà
thay đi
Rồi hắn trở ra.
Phía đầu nhà tư có tiếng nheo nhéo
- Thằng Biện tư đâu? Lên đây! Lên...
ngay đây!
Một tiếng dạ kéo dài ở trại lệ. Kế
đến tiếng chân chạy thình thịch. Cuối cùng là một câu hỏi đầy giọng tức tối:
- Thằng Biện tư đấy chứ? Cha đẻ mẹ
mày! Chém cha con đẻ mẹ mày! Mày giắt con nào vào đây vừa rồi! Nói ngay! Nói...
ngay! Không thì bà xé xác mày bây giờ!
Cách quãng giây lát để nhường chỗ
cho những tiếng lẩm bẩm và tiếng đánh song đen đét, rồi cái giọng giận dữ lại
tiếp tục:
- Không à! Cha đẻ mẹ mày! Chém cha con đẻ mẹ mày! Không
à! Bà xuống trại lệ bây giờ thì mày phải chết với bà.
Mấy tiếng sau cùng như đi kèm với sự lồng phách, nó hét
rất dài từ đầu nhà tư xuống gần trại lệ, không khác búa bổ vào tai chị Dậu, làm
cho cái dịp trống ngực của chị lại càng mạnh hơn lúc nẫy.
Một người đàn ông rón rén đi vào nhà
tắm sẽ nói tiếng "đi ra". Rồi hắn nắm vạt áo chị kéo ra sau trại giắt
chị đi đường quanh đến cổng phủ và tống chị ra.
Tiếng gầm gào trong phủ vẫn chưa dứt
hẳn.
Chương 26
Trống trên chòi đã điểm canh tư. Hơi
sương đọng giọt nhỏ xuống lá cây lác đác. Bầu trời ngoài cổng phủ chỉ là một
đám mịt mù, người tà không thể trông được xa ngoài ba thước.
Theo ánh sáng lấp lánh của các ao
các ruộng, chị Dậu lần đường đến nhà hàng cơm ban trưa, định xin trú chân đến
sáng.
Cửa còn ngỏ. Trong nhà bếp đèn thắp
sáng trưng. Mấy bàn tài bàn tổ tôm đương trói chân mấy ông tổng lý trong cuộc
đen đỏ.
Thoáng thấy chị Dậu thập thò ngoài
cửa, một người đàn bà õng ẹo trong bộ quần áo nửa quê nửa tỉnh, vênh cái mặt nạ
dòng đứng ở trước thềm hỏi ra:
- Người nào kia? Ngấp nghé dòm nom
gì đấy?
Cơn sợ hãi chưa hết, chị Dậu rụt rè
bước vào để nói mấy câu run run:
- Lạy bà! Cháu bị giam trong phủ mới
được tha ra, tối quá không về nhà được. Bà làm phúc cho cháu ngồi nhờ đến sáng.
- Cái đó chị hỏi bà chủ. Tôi cũng là
khách...
Bà lão hàng cơm vừa ở trong buồng
bước ra:
- Có phải nhà chị lúc trưa bị ông Lý
Ðông xá trói ở cái cột kia không?
- Thưa phải
- Ngủ trọ phải hai xu một tối. Nếu
chị không ăn cơm, ăn quà.
- Thưa cụ, trong mình cháu thật quả
không có xu nào, cháu không giám xin ngủ, chỉ xin cụ cho ngồi đây một lát...
- Chẳng có xu nào thì ra, chứ chị ở
đây để ăn cắp của các ông ấy à?
Mụ khách ra bộ nhân nghĩa:
- Thôi cụ làm ơn cho chị ta ngồi nhờ
đây ít lâu. Tôi trông mặt mũi chị ấy cũng hiền lành, không phải là người ăn
cắp.
Rồi mụ ngồi vào đầu phản, tỷ tê hỏi
chuyện chị Dậu vì sao bị trói bị giam. Và sau khi nghe chị kể qua đầu đuôi cảnh
nhà, thì mụ có ý ái ngại:
- Bây giờ bác có muốn đi làm không?
- Thưa bà làm gì ạ?
- Ở vú. Tôi không phải là người đưa
người, nhưng nếu bác muốn đi làm vú sữa thì tôi mách cho một chỗ.
- Thưa bà, thế bà ở đâu?
- Tôi là vợ ông Cửu Xung trên dinh
quan về đây có chút việc riêng. Bây giờ quan đương cần mấy người vú sữa, nếu
bác muốn làm, thì tôi đưa vào.
- Thưa bà, cháu đương con mọn
Mụ Cửu cười cách chế nhạo:
- Bác này mới lẩn thẩn chứ. Chả con
mọn thì làm vú sữa bằng gì! Vả lại, làm vú nhà quan, ăn sung mặc sướng, lại
được cao công, chả hơn ở nhà đèo cái váy mốc, đánh miếng cơm khoai, quanh năm
không kiếm được đồng nào à?
- Nhưng con còn bé để cho ai được?
- Mướn người nuôi kèm, rồi lấy tiền
công của mình mà trả, cũng còn thừa chán.
Chị Dậu chừng cũng bùi tai, liền
hỏi:
- Thế thì bao giờ mới đi?
- Ði ngay sáng mai là tiện nhất...
- Nếu vậy, cháu không đi được! Vì còn quyền ở thầy nó nhà
cháu. Thầy nó có bằng lòng cho đi, thì cháu mới đi.
- Nhà bác có xa lắm không?
- Cũng không xa lắm. Từ đây về đến làng cháu, chỉ có tám
cây lô mếch.
- Có đường đi xe hay không?
- Xe tay có thể vào đến giữa làng.
- Ðược rồi! Lát nữa, để tôi cùng về bàn với bác trai giúp
bác. Nếu như bác ấy bằng lòng, thì tôi hãy bỏ cho vay mười đồng mà may quần áo,
rồi đến tháng lương trả tôi.
Mấy bàn tài bàn tổ tôm vừa tan, vì có mấy ông hết tiền. Những
người thắng trận ầm ỹ gọi nhà hàng dọn rượu. Mụ Cửu cũng bảo nhà hàng dọc quà
để mình ăn tạm và bảo chị Dậu ngồi tiếp bên cạnh. Nhưng chị nhất định từ chối.
Trời sáng, Mụ Cửu sai chị ra thuê cái xe về làng Ðông Xá,
rồi cho chị lên cùng ngồi với mình. Bằng những thần thế của quan cụ và cảnh
sung sướng của tôi tớ người nhà điểm trong câu chuyện dọc đường, mụ Cửu đã làm
cho chị dậu quên sự khủng khiếp ở trong phủ và phục mụ là một người phúc hậu,
đủ điều.
Xe tới Ðông Xá giữa buổi người ta đem cơm thợ cầy. Cả
làng đều lấy làm lạ khi thấy chị Dậu được ngồi chung xe với một người đàn bà,
mà trong mắt họ đã coi là bực sang trọng. Họ ngơ ngác nhìn, họ tò mò theo hai
người từ lúc xuống đến xe đến lúc tới nhà anh Dậu, như để xem cái cứu cánh của
sự kỳ dị ấy.
Anh dậu cũng như thằng Dần, hết sức mừng rỡ trong phút
thoạt thấy chị Dậu bước chân vào cổng
nhà. Nhưng sự đon đả của anh phải hãm ngay lại vì thấy
sau chị lại có một bà khách lạ
Mời mụ Cửu ngồi tạm vào chiếc chõng nát, rồi chị dậu ôn
tồn hỏi chồng về tình hình trong nhà từ sáng hôm qua đến giờ.
Thì ra anh dậu hôm nay đã cất cơn sốt rét. Những lúc vắng
chị, cái Tỉu vẫn được bà lão láng giềng đem về bên ấy, ôm ẵm chầm vập.
Có tiếng trẻ con út ích từ cổng tiến vào,
Bà lão láng giềng nghe tin chị về vội đem cái Tỉu sang
trả và để hỏi thăm những công việc của chị
trên Phủ
Chị Dậu ứa nước mắt nói cho mụ Cửu biết rằng bà ấy là ân
nhân số một trong đời mình sau khi chị
đã nhanh nhảu ra đón cái Tỉu và cảm ơn bà lão một cách
thành thật và cảm động
Thằng Dần ton ton chạy ra núp vào sau mẹ. Xoa xít thằng
bé và ngượng ngào nhìn mặt anh Dậu,
gò má chị tự nhiên thấy đỏ bừng bừng
Mở đầu bằng câu "lão phủ tư ân đểu quá", những
truyện trên phủ của chị được ôn lại với cả nhà, cặn kẽ từ đầu đến cuối.
Anh Dậu hồi họp nóng ruột khi nghe những phút chị phải
kháng cự với con quỷ dâm dục để bảo toàn cho cái trong sạch của thân mình. Và
anh tươi cười đắc ý khi nghe một cuộc đắc thắng của vợ.
Mụ Cửu thay lời chị Dậu, kết luận bằng việc mụ ấy gặp chị
ở hàng cơm và muốn đưa chị lên Dinh quan cụ làm vú sữa. rồi mụ hỏi gặng anh
Dậu:
- Tôi về đây chỉ có việc thế. Bác có bằng lòng thì tôi ở
đây để chờ bác gái cùng đi, nếu không thì tôi lên tỉnh bây giờ.
Anh Dậu còn lúng túng ra vẻ nghĩ ngợi. Ngoài cổng đã thấy
người nhà Lý trưởng vào giục tiền sưu.
Mụ Cửu nhân dịp bắt vào câu chuyện của anh:
- Cảnh nhà như thế, mà hai vợ chồng cứ dáu dáu ở nhà với
nhau để cho chết cả nút à? Tôi tưởng bác cho bác gái đi làm là phải. Nếu bác
nghe tôi, thì tôi hãy cho mượn trước mấy đồng bạc để bác trang trải các món.
Anh Dậu ngập ngừng chỉ vào cái Tỉu:
- Thưa bà tôi cũng muốn thế, nhưng còn ngại con bé con
này. Mẹ nó đi vắng, tôi nuôi thế nào được nó
Bà lão láng giềng đón lời:
- Tôi nói câu này, nên thì các bác nghe, không nên thì
lời tôi lại trả tôi.
- Vâng, cụ cứ nói.
- Thằng cả nhà tôi mới bỏ mất con bé cháu, mấy hôm nay vợ
nó buồn lắm, khóc lóc suốt ngày. Nó hãy còn sữa, từ sáng hôm qua đến giờ nó vẫn
ôm ấp cái Tỉu hộ nhà bác đấy. Xem ý nó cũng mến cháu, tôi muốn xin các bác cho
nó nuôi giúp con Tỉu, đến năm nó 12 tuổi thì lại trả bác.
Mụ Cửu bàn vào:
- Thôi thế còn gì bằng nửa! Hai bác
nên nghe lời cụ đi là phải.
Anh Dậu cảm động:
- Ðược thế thì quí hóa lắm. chúng
cháu xin vâng lời cụ.
Mụ Cửu mở túi lấy năm đồng bạc đưa
cho anh Dậu và nói:
- Khi nào bác gái lên tỉnh, tôi cho
mượn thêm năm đồng nữa để bác ấy sắm sửa quần áo.
Chị Dậu gửi con bà láng giềng, chạy
đi mua trứng gà và nước mắm để làm cơm thết mụ Cửu, và mời bà lão ở lại tiếp
khách giúp mình.
Mặt trời xế bóng, vợ chồng người con
bà ấy sang nhà anh Dậu để xin cái Tỉu đem về. Trong lúc bồng con trao sang tay
người, chị không khỏi thánh thót hai hàng nước mắt. Và những giọt nước mắt ấy
cứ kế tiếp nhau tưới mãi xuống gò má chị, rồi nó trào ra như suối, khi chị giã
chồng, giã con, giã cái lầu tranh ở xó lũy tre mà theo mụ Cửu ra ga đi xe lửa
lên tỉnh Trung sơn để bước vào một cuộc đời mới.
Chương 27
Lửa tắt nồi cơm sôi. Anh bếp ưỡn ẹo
chống tay vào sườn và cười hềnh hệch:
- Ăn khoai mà cũng đẹp thế. Ba con
rồi, vẫn mơn mởn như gái mười tám. Chỉ tiếc hai cái oản bụt hơi xệ!
Bác tài đủng đỉnh ở ngoài sân vào:
- Khổ cho tôi quá. Tôi còn trai tơ,
thế mà trông thấy u em, tôi cứ tưởng là nhà tôi. Này... u em, hay là bước đi
bước nữa. Tội đếch gì ở với cái thằng chân lấm tay bùn! Lấy chồng tài xế là
tiên, lấy chồng cài quốc là duyên nợ nần. U em có nghe người ta hay hát thế
không?
Giả điếc như không nghe tiếng, chị
Dậu cố phùng đôi má đỏ gay để thổi cho bếp lửa cháy lên. Bồ hôi đổ ra, ướt đầm
cả lần áo cánh.
Ðã ba hôm nay, chị vẫn phải giữ chức
phụ bếp để chờ vào ngôi vú sữa chính ngạch. Mọi ngày, công việc của chị có vài
lần rửa bát, nhặt rau. Hôm nay vì trời nực quá, các vị gia thần của quan cụ đều
sợ gần lửa, người ta mới thêm cho chị cái việc nấu cơm.
Lửa nỏ. Cơm đã cạn. Mụ Cửu Xung trở
vào với cái dáng bộ đắc sách:
- Nhà chị Ðông Xá, cơm đã chín chửa?
Tắm gội và thay áo đi! Ðược làm rồi đấy! Giấy của quan thày thuốc vừa mới gửi
đến, nói rằng sửa chị tốt lắm. Cụ lớn bà cho chị năm đồng một tháng. Nếu ngoan
ngoãn chịu khó, sau này cụ lại cho thêm.
Vui vẻ, chị Dậu cắp gói quần áo ra
hồ. Tắm xong, theo lệnh của cu, lớn bà, chị phải đi với vú Ðình lên nhà trên
hầu cố.
Cố, năm nay gần tám mươi tuổi, cái
tuổi mà trời bắt tội cả hai hàm răng không còn cái nào để cho bao nhiêu cao
lương mỹ vị đều không có hân hạnh được vào cái mồm móm mém của cố. Tuy ngày
ngày cố vẫn dùng nước thịt ép, nhưng theo lời dặn của đốc tờ, thì không gì bổ
bằng sữa người, phải có sữa người mới đủ tẩm bổ cho sức khỏe của cố. Vì thế
quan cụ mới dùng đến chị.
Cũng như vú Ðinh, chức vụ của chị
mỗi ngày chỉ vài lần dùng vú cao su hai vòi úp vào vú mình hút sữa ra để dưng
cho cố.
Công việc tuy có rát ruột một lúc,
nhưng mà cũng được nhàn thân, không lúc nào phải dầu dãi ở dưới bóng nắng.
Từ đó trở đi, ngày nào cũng như ngày
ấy, ngoài lúc làm việc bổn phận và lúc hầu hạ các cô, thì giờ của chị chỉ để
thương chồng, nhớ con và mong cho hết tháng để lĩnh lương gửi về nhà.
Cơm của quan như nước cành dương, nó
đã rửa cho cái nước da đen giòn của chị thành ra mầu da
thắng nõn. Phụ với nó, lai thêm có
đôi mắt sắc, cặp môi tươi, khiến cho chị cành trở nên một người
đáng để ý
Quan cụ ra ý thương chị. Những lúc
vắng cụ lớn bà, ngài thường gọi chị sai bảo lặt vặt. Có lúc cao hứng, ngài đã
hỏi đến chồng chị có muốn ra làm lý trưởng thì ngài cho làm. Nhưng nghĩ cái
thân phận con nhà nghèo hèn, không dám mơ tưởng đến sự danh mệnh, nên chị vẫn
lễ phép từ chối.
Ðêm ấy, vào tiết đầu thu, đến lượt
vú Ðinh phải sang ngủ ở phòng cố. Trong lúc buồng các vú chỉ có mình chị với
ngọn đèn hoa kỳ le lói trên hòm khóa chuông, cái hòm quần áo của vú Ðinh.
Những giọt mưa ngâu rả rích như khêu
cơn buồn cho kẻ xa nhà. Cảnh khổ cực của chồng và con tự nhiên kéo đến đầy
trước mắt chị.
Ðứng không yên, ngồi không yên. Buồn
bã, chị giở gói áo xin được của các cô thải ra, cắt lại và may lại, để khi được
phép về chơi nhà thì đem về cho các con.
Ðêm đã khuya, chị thấy đau lưng, mới
ngả mình xuống giường, toan nghĩ một lát, rồi lại trở dậy khâu nữa. Không ngờ
mỏi quá, chị thiu thiu chợp mắt rồi ngủ đi mất.
Trong lúc mơ màng, thình lình chị
thấy như có người nào sờ tay vào ngực. Giật mình, chị tỉnh dậy. Ngọn đèn hoa kỳ
đã tắt lúc nào, cánh cửa khép kín. Trong phòng tối om. Hoảng hốt chị nắm cái
bàn tay ấy và giật giọng hỏi:
- Ai đấy?
Mang tai chị thấy hơi rầm rạm như bị
những sợi râu ngắn quét vào rồi thấy có tiếng thì thào.
- Tao! Tao đây. Cụ.... đây. Nằm im.
- Bẩm cụ chúng con là phận tôi tớ...
- Nói khẽ chứ. Tắt đèn nhà ngói như
nhà tranh. Tao không cần gì cái đó.
Buông tay, chị vội choàng dậy, mở
cửa chạy té ra sân. Trời tối như mực và như cái tiền đồ của chị.
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét