BÀI THƠ LẠ "MẾN CẢNH XUÂN"
1. Bài
thơ gốc: (Khuyết danh?)
Ta mến
cảnh xuân ánh sáng ngời
Thú vui
thơ rượu chén đầy vơi
Hoa cài
giậu trúc cành xanh biếc
Lá quyện
hương xuân sắc thắm tươi
Qua lại
khách chờ sông lặng sóng
Ngược
xuôi thuyền đợi bến đông người
Xa ngân
tiếng hát đàn trầm bổng
Tha
thướt bóng ai mắt mỉm cười.
2. Ðọc
ngược bài gốc từ dưới lên:
Cười mỉm
mắt ai bóng thướt tha
Bổng
trầm đàn hát tiếng ngân xa
Người
đông bến đợi thuyền xuôi ngược
Sóng
lặng sông chờ khách lại qua
Tươi
thắm sắc xuân hương quyện lá
Biếc
xanh cành trúc giậu cài hoa
Vơi đầy
chén rượu thơ vui thú
Ngời
sáng ánh xuân cảnh mến ta.
3. Bỏ
hai tiếng đầu mỗi câu trong bài gốc:
Cảnh
xuân ánh sáng ngời
Thơ rượu
chén đầy vơi
Giậu
trúc cành xanh biếc
Hương
xuân sắc thắm tươi
Khách
chờ sông lặng sóng
Thuyền
đợi bến đông người
Tiếng
hát đàn trầm bổng
Bóng ai
mắt mỉm cười.
4. Bỏ
hai tiếng cuối mỗi câu trong bài gốc, đọc ngược từ dưới lên:
Mắt ai
bóng thướt tha
Ðàn hát
tiếng ngân xa
Bến đợi
thuyền xuôi ngược
Sông chờ
khách lại qua
Sắc xuân
hương quyện lá
Cành
trúc giậu cài hoa
Chén
rượu thơ vui thú
Ánh xuân
cảnh mến ta.
5. Bỏ ba
tiếng cuối mỗi câu trong bài gốc:
Ta mến
cảnh xuân
Thú vui
thơ rượu
Hoa cài
giậu trúc
Lá quyện
hương xuân
Qua lại
khách chờ
Ngược
xuôi thuyền đợi
Xa ngân
tiếng hát
Tha
thướt bóng ai.
6. Bỏ ba
tiếng đầu mỗi câu trong bài gốc, đọc ngược từ dưới lên:
Cười mỉm
mắt ai
Bổng
trầm đàn hát
Người
đông bến đợi
Sóng
lặng sông chờ
Tươi
thắm sắc xuân
Biếc
xanh cành trúc
Vơi đầy
chén rượu
Ngời
sáng ánh xuân.
7. Bỏ
bốn tiếng đầu mỗi câu trong bài gốc:
Ánh sáng
ngời
Chén đầy
vơi
Cành
xanh biếc
Sắc thắm
tươi
Sông
lặng sóng
Bến đông
người
Ðàn trầm
bổng
Mắt mỉm
cười.
8. Bỏ
bốn tiếng cuối mỗi câu trong bài gốc, đọc ngược từ dưới lên:
Bóng
thướt tha
Tiếng
ngân xa
Thuyền
xuôi ngược
Khách
lại qua
Hương
quyện lá
Giậu cài
hoa
Thơ vui
thú
Cảnh mến
ta.
Nguồn:
Bác Nguyễn Bá Vượng chia sẻ trong Nhóm "Câu lạc bộ Nghệ ngữ" của FB.
BigSchool:
Sau khi chúng tôi đăng bài trên thì bạn Minh Lê cho biết bài thơ gốc có tên là
"Mến cảnh Xuân" và tác giả của bài thơ là thi sĩ Hàn Mạc Tử. Đối
chiếu với các tư liệu khác, có thể tin rằng thông tin mà bạn cho biết là đáng
tin cậy. Cảm ơn bạn nhiều. Tác giả Hàn Mạc Tử rất ưa lối chơi thơ theo kiểu
biến hóa bằng cách lật ngược bài, đảo câu, bớt từ để tạo thành những bài thơ
mới cũng rất hay, đầy thi vị. Cảm phục thay!
Thi sĩ
Hàn Mạc Tử
Không
chỉ ở bài thơ trên mà thi sĩ Hàn Mạc Tử còn những bài thơ khác cũng chơi thơ
theo cách có thể biến hoá từ bài thơ ban đầu để có bài thơ khác. Xin chia sẻ
tiếp tục với các bạn 2 bài như thế!
ĐI
THUYỀN
Bèo trôi
nước gợn sóng mênh mông
Cỏ mọc
bờ xa bóng liễu trông
Chèo
vững thiếp qua vời khổ hải
Chí bền
chàng đến vận trung không
Theo lần
nguyệt xế mây mờ mịt
Hoạ đáp
thông reo trống não nồng
Neo thả
biết đâu nơi định trước
Bèo trôi
nước gợn sóng mênh mông
Đọc
ngược:
Mông
mênh sóng gợn nước trôi bèo
Trước
định nơi đâu biết thả neo
Nồng não
trống reo thông đáp họa
Mịt mờ
mây xế nguyệt lần theo
Không
trung vận đến chàng bền chí
Hải khổ
vời qua thiếp vững chèo
Trông
liễu bóng xa bờ cỏ mọc
Mông
mênh sóng gợn nước trôi bèo
CỬA SỔ
ĐÊM KHUYA
Hoa cười
nguyệt rọi cửa lồng gương
Lạ cảnh
buồn thêm nỗi vấn vương
Tha
thướt liễu in hồ gợn sóng
Hững hờ
mai thoảng gió đưa hương
Xa người
nhớ cảnh tình lai láng
Vắng bạn
ngâm thơ rượu bẽ bàng
Qua lại
yến ngàn dâu ủ lá
Hoà đàn
sẵn có dế bên tường.
Đọc
ngược:
Tường
bên dế có sẵn đàn hòa
Lá ủ dâu
ngàn yến lại qua
Bàng bẽ
rượu thơ ngâm bạn vắng
Láng lai
tình cảnh nhớ người xa
Hương
đưa gió thoảng mai hờ hững
Sóng gợn
hồ in liễu thướt tha
Vương
vấn nỗi thêm buồn cảnh lạ
Gương
lồng cửa rọi nguyệt cười hoa
Nhà thơ
Hàn Mạc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng
Bình ngày 22/9/1912, lớn lên ở Quy Nhơn và mất ngày 11/11/1940. Nguyễn Trọng
Trí làm thơ từ năm 16 tuổi lấy hiệu là Phong Trần rồi Lệ Thanh. Đến năm 1936,
khi chủ trương ra phụ trương báo Saigon mới đổi hiệu là Hàn Mạc Tử, sau ông lại
đổi thành Hàn Mặc Tử. "Hàn Mạc Tử" nghĩa là chàng trai đứng sau bức
rèm lạnh lẽo, trống trải. Sau đó bạn bè gợi ý ông nên vẽ thêm Mặt Trăng khuyết
vào bức rèm lạnh lẽo để lột tả cái cô đơn của con người trước thiên nhiên, vạn
vật. "Mặt Trăng khuyết" đã được "đặt vào" chữ
"Mạc" thành ra chữ "Mặc". Hàn Mặc Tử có nghĩa là
"chàng trai bút nghiên".
Xin
trích ý kiến của các nhà thơ, nhà phê bình văn học nói về thi sĩ Hàn Mặc Tử:
"Trước
không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu
trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình"
"Tôi
xin hứa hẹn với các người rằng, mai sau, những cái tầm thường, mực thước kia sẽ
biến tan đi, và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mạc
Tử."
(Nhà thơ
Chế Lan Viên)
"Sẽ
không thể giải thích được đầy đủ hiện tượng Hàn Mặc Tử nếu chỉ vận dụng thi
pháp của chủ nghĩa lãng mạn và ảnh hưởng của Kinh thánh. Chúng ta cần nghiên
cứu thêm lý luận của chủ nghĩa tượng trưng và chủ nghĩa siêu thực. Trong những
bài thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử, người ta không phân biệt được hư và thực, sắc
và không, thế gian và xuất thế gian, cái hữu hình và cái vô hình, nội tâm và
ngoại giới, chủ thể và khách thể, thế giới cảm xúc và phi cảm xúc. Mọi giác
quan bị trộn lẫn, mọi lôgic bình thường trong tư duy và ngôn ngữ, trong ngữ
pháp và thi pháp bị đảo lộn bất ngờ. Nhà thơ đã có những so sánh ví von, những
đối chiếu kết hợp lạ kỳ, tạo nên sự độc đáo đầy kinh ngạc và kinh dị đối với
người đọc."
(Nhà phê
bình văn học Phan Cự Đệ)
"Hàn
Mặc Tử có khoảng bảy bài hay, trong đó có bốn bài đạt đến độ toàn bích. Còn lại
là những câu thơ thiên tài. Những câu thơ này, phi Hàn Mặc Tử, không ai có thể
viết nổi. Tiếc là những câu thơ ấy lại nằm trong những bài thơ còn rất nhiều
xộc xệch..."
(Nhà thơ
Trần Đăng Khoa)
"...Theo
tôi thơ đời Hàn Mặc Tử sẽ còn lại nhiều. Ông là người rất có tài, đóng góp xứng
đáng vào Thơ mới."
(Nhà thơ
Huy Cận)
"...Một
nguồn thơ rào rạt và lạ lùng..." và "Vườn thơ Hàn rộng không bờ không
bến càng đi xa càng ớn lạnh..."
(Nhà phê
bình văn học Hoài Thanh)
CHÚ Ý
THÊM: Thơ thuận nghịch độc, thơ xuôi ngược hay còn gọi là thơ lục chuyển hồi
văn, đây là thể thơ độc đáo có nhiều cách đọc. Đó là cách gọi chung cho những thể
thơ thuận nghịch độc, tuy nhiên, thơ lục chuyển hồi văn có thể đọc theo 6 cách
khác nhau, thơ thuận ngược chỉ đọc được 2 kiểu đơn thuần là xuôi và ngược, còn
thơ thuận nghịch độc nói chung thì có rất nhiều cách đọc.
– Cách
đọc thơ thuận nghịch độc:
Ðọc
xuôi
Ðọc ngược
Bỏ 2 từ đầu đọc xuôi
Bỏ 2 từ đầu đọc ngược
Bỏ 2 từ sau đọc xuôi
Bỏ 2 từ sau đọc ngược
Bỏ 3 từ đầu đọc xuôi
Bỏ 3 từ đầu đọc ngược
Bỏ 4 từ đầu đọc xuôi
Bỏ 4 từ đầu đọc ngược
Bỏ 3 từ đầu, lấy từ 5 đảo làm 4 – đọc xuôi
Bỏ 3 từ cuối, lấy từ 3 đảo làm 4 – đọc
ngược
Ghép chéo câu thơ đọc xuôi
Ghép chéo câu thơ đọc ngược
Có thể đọc theo nhiều kiểu khác nữa.
– Cách
đọc thơ lục chuyển hồi văn:
Ðọc xuôi
Ðọc ngược
Bỏ 2 chữ đầu đọc xuôi
Bỏ 2 chữ đầu đọc ngược
Bỏ 2 chữ sau đọc xuôi
Bỏ 2 chữ sau đọc ngược
– Cách
đọc thơ thuận ngược: Đọc xuôi & đọc ngược.
Hai bài
thơ của thi sĩ Hàn Mạc Tử mới giới thiệu thêm với các bạn là thể thơ chuyển lục
hồi văn, các bạn thử theo các cách đọc hướng dẫn trên để có thêm những bài thơ
mới.
HOẠ THƠ
CỦA HÀN MẠC TỬ
Học tập
kiểu chơi thơ này, nhân dịp Xuân Nhâm Thìn (2012), bạn Nguyễn Hồng Trân (Đại
học Huế) đã có bài hoạ lại bài thơ gốc của Hàn Mạc Tử:
MỪNG
XUÂN VỀ
Tươi
xuân nắng ấm sáng ngời ngời
Đượm
thắm tình ai thấy bóng vơi
Phơi nở
đào mai khoe sắc thắm
Giỡn đùa
trai gái quý hồn tươi
Trời
tung cánh nhạn mong tìm bạn
Lá giọt
sương đêm đợi gặp người
Chơi thú
vui mừng chào đón Tết
Lời vang
khúc nhạc tiếng reo cười.
Khi đọc
ngược lại bài thơ trên ta có bài thơ:
XUÂN
TƯƠI
Cười reo
tiếng nhạc khúc vang lời
Tết đón
chào mừng vui thú chơi
Người
gặp đợi đêm sương giọt lá
Bạn tìm
mong nhạn cánh tung trời
Tươi hồn
quý gái trai đùa giỡn
Thắm sắc
khoe mai đào nở phơi
Vơi bóng
thấy ai tình thắm đượm
Ngời
ngời sáng ấm nắng xuân tươi.
Hy vọng
nhận được từ các bạn yêu thơ Đường luật những bài thơ theo kiểu chơi thơ như
trên để chúng ta cùng thưởng thức.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét