*TƯ
CHÍNH- DK.1*
NHỚ LẠI
... và..SUY NGHĨ!....
Thưa các
đồng chí và các bạn,
...Mấy
ngày nay cả nước tri ân Anh hùng Liệt sĩ trong lúc ngoài biển Tư Chính đang nổi
sóng : kẻ thù đang lăm le xâm chiếm !!!...Nhiều tiếng nói chính nghĩa đanh thép
đã vang lên trên mạng xã hội, trên báo chí, trên các phương tiện thông tin đại
chúng ...Tuy nhiên cũng không ít thông tin sai lệch do thiếu hiểu biết, do muốn
đánh bóng tên tuổi, và có cả những kẻ cố tình xuyên tạc bóp méo sự thật với
dụng ý xấu...
....Từ
khi tôi " Rửa tay gác kiếm" viết xong .."Hồi ức N.Q- 50 năm cầm
súng.." với phương châm TRUNG THỰC , TÔN TRỌNG SỰ THẬT nói cả cái hay và
cái dở, cả thành công và thất bại nên đụng chạm cũng nhiều mà trước tiên là
phải đấu tranh với chính bản thân mình...
....Liên
tục mấy ngày nay nhiều đồng chí, đồng đội gọi điện đến ...rồi đâu đây cả tiếng
các đồng chí đã khuất nhắc tôi ..-" Là người trong cuộc từ những ngày đầu
xây dựng công trình DK1 với cương vị chủ trì nhiều năm Anh lên tiếng để Sự Thật
được đúng đắn sáng tỏ đi chứ???..". Thực lòng tôi rất ngại không muốn nói
về mình vì theo tôi chứng kiến thì xây dựng thành công hệ thống công trình DK1
công đầu thuộc về Đô đốc Giáp Văn Cương , Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh , Thượng
tướng Đào Đình Luyện và sau đó là công lao của hàng vạn người đóng góp trí tuệ,
công sức và xương máu của các liệt sĩ đã ngã xuống ...
....Theo
yêu cầu của các đồng chí , tôi xin phép tóm tắt kể lại khái quát sự ra đời DK1
trong đó có Tư Chính...
1-VẠN SỰ
KHỞI ĐẦU NAN
...Với
tầm nhìn chiến lược Đô đốc Giáp Văn Cương đã chỉ đạo Lữ đoàn 171 khảo sát trong
thềm lục địa Nam Biển Đông nước ta có 6 bãi đá ngầm san hô có đỉnh nhô cao dưới
mặt nước biển từ 9-50m..Phía Bắc là Phúc Tần (160km2),Huyền Trân (40km2), phía
Đông Nam là Ba Kè (1.000km2) ,phía Tây Nam là Tư Chính (700km2), nằm giữa Phúc
Tần và Tư Chính là Phúc Nguyên (300km2) và Quế Đường (90km2). Như thế vùng biển
DK1 rộng khoảng 80.000km2, có vị trí đặc biệt quan trọng về An ninh -Quốc
phòng, là rào chắn phía ngoài vùng khai thác dầu khí, khu vực rất giàu tài
nguyên khoáng sản và tài nguyên biển, là tiền đồn phía Nam Trường Sa và nó án
ngữ trên đường hàng hải Quốc tế qua biển Đông...
...Theo
đề nghị của Tư lệnh Hải quân và Bộ Quốc phòng , Bộ Chính trị quyết định và ngày
17/10/1988 Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã ký QĐ số 19/NQ-TW chủ trương tiến
hành xây dựng các công trình trên tất cả các bãi đá ngầm với tên gọi "
Trạm dịch vụ kinh tế - khoa học kỹ thuật...." ( gọi tắt là công trình
DK1). Ngày 05/7/1989 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng( nay là Thủ tướng CP) ra Chỉ
thị số 180/CT thực hiện, thành lập Ban Chỉ đạo DK1 do Phó CT Trần Đức Lương làm
Trưởng ban, phó ban là Thượng tướng Đào Đình Luyện và đ/c Trương Thiên.., đại
diện các Bộ là Uỷ viên gồm các đ/c Lê Danh, Hồ Tế , Khúc văn Thành,Phạm văn
Huân, Lại văn Cử, Trần Văn Lự...Quyết định của Chính phủ ngày 16/1/1989 yêu cầu
..." Khẩn trương, bí mật, khoán gọn, vừa thiết kế vừa thi công, vừa là hợp
đồng kinh tế, vừa là lệnh của Nhà nước phải hoàn thành hợp đồng với bất cứ giá
nào, hoàn thành tốt sẽ được khen thưởng thích đáng.. Xây dựng xong trong Quý
3/1989 là ở Tư chính ( DK1/1), ở Phúc Tần ( DK1/3)và Ba Kè ( DK1/4), quý 3/1990
là DK1/2..."
...Theo
chỉ đạo :-Ban quản lý công trình dầu khí Vũng Tầu làm phần chân đế theo phương
án móng cọc, thi công trên biển DK1/1.
- Viện
Nghiên cứu thiết kế cơ khí GTVT làm phần hạ tầng theo phương án trọng lực (
Ponton ), thi công trên biển DK1/3, DK1/4.
- Bộ
Quốc phòng giao cho BTL Công Binh và Tư lệnh CB giao cho tôi - Cục trưởng Cục
Kỹ thuật làm Tổng chỉ huy các lực lượng thiết kế,sản xuất, thi công 4 thượng
tầng và trang bi vũ khí, trang thiết bị theo biên chế.Chủ trì thiết kế là Viện
kỹ thuật Công binh, sản xuất là Nhà máy X.49.
...Phát
huy truyền thống trách nhiệm, cần cù, sáng tạo trong hoàn cảnh vừa thiết kế
,vừa sản xuất , vừa chỉnh sửa X49 lao động không kể ngày đêm hoàn thành một
khối lượng khổng lồ hàng trăm tấn sắt thép " siêu trường, siêu trọng"
với độ chính xác cao. ..
...Kinh
nghiệm làm Nhà cao chân Trường Sa phải lắp dựng thử, chỉnh sửa, tháo ra , đánh
dấu, bó lại từng cấu kiện chở ra tầu hoả chuyển vào Sài gòn và Vũng Tầu...Vậy
đánh dấu thế nào để khỏi lẫn lộn và giữ được bí mật.. Một thoáng suy nghĩ tôi
quyết định.-Ở Tư Chính là DK1/1, Phúc Nguyên là DK1/2, Phúc Tần là DK1/3 và Ba
Kè là DK1/4...Không ngờ phiên hiệu DK1/1..DK1/2... nối nhau nay đến
DK1/20..DK1/21 đã được khai sinh từ ngày ấy , trở thành tên gọi đến bây giờ và
mãi mãi sau này......
...Để
phối hợp với các chân đế , chỉ huy lắp dựng thượng tầng DK1/1 và DK1/2 ở Vũng
Tầu do đ/c Lê Huy Huyễn và Ks Trần Văn Bá cùng Phó GĐ X49 Cao Văn Minh.Ở Tân
Cảng lắp dựng thượng tầng DK1/4 do Ks Trần Anh Tuấn, lắp dựng DK1/3 do D77 trực
tiếp chỉ huy là D trưởng Mai Xuân Chiến và CTV Nguyễn Tiến Thành...Viện Kỹ
thuật cử TS Nguyễn Xuân Kiều cùng TS Phạm Ngọc Nam , KS Lê Trung Dũng vào giám
sát thi công lắp dựng công trình...Hết sức gọn nhẹ giúp tôi điều hành chỉ huy
chỉ có Trưởng phòng Nguyễn Thành Định và TB Tài chính Nguyễn Gia Cát...
...Chiều
6/5/1989 tại Văn phòng CP ở TP Hồ Chí Minh , Chủ tịch Đỗ Mười chủ trì giao ban
với các đơn vị .Tư lệnh Công Binh - Thiếu tướng Vũ Trọng Hà vừa đi Trường Sa về
cùng tôi tham dự..Cuộc họp khá căng thẳng ...Sáng chủ nhật 7/5 anh Hà bị tai
biến nặng phải cấp cứu...Cả ngày 8/5 Thượng tướng Đào Đình Luyện và Đô đốc Giáp
Văn Cương đến kiểm tra công tác lắp dựng công trình tại Vũng Tầu và Tân Cảng,
sau đó vào Viện 175 thăm anh Hà...Trăm công, ngàn việc đầu óc tôi căng như sợi
dây đàn...
...Ngày
1/6 Thủ trưởng Luyện bay vào, gọi tôi đến ..-" Bộ Chính trị đã họp..Tổng
bí thư đã quyết định :- Khẩn trương sớm đưa công trình ra biển lắp dựng...Được
cả 3 thì tốt nếu không kịp thì 1 cái cũng được, đặc biệt ưu tiên ở Tư Chính .
Tổng Bí thư gửi lời khen các cậu đấy!..."
...Như
được tiếp thêm sức mạnh chúng tôi lao vào làm 3 ca liên tục . Quần quật ngoài
trời 40-41 độ trên nắng, dưới nóng bỏng chân đoàn quân kỹ thuật Công binh vẫn hừng
hực khí thế lao động quên mình...
...Và
ngày ấy đã đến!...DK1/3 ..rồi...DK1/4 liên kết với chân đế...Ngày 9/6/1989!..
Giờ G đã đến!..Lệnh hành quân hướng ra biển Đông xuất kích !..Từ Tân Cảng Sài
gòn DK1/3, DK1/4 và sau đó từ Vũng Tầu DK1/1.. KS Lê Trung Dũng và KS Trần Văn
Bá được cử đi theo giám sát thi công trên biển. Ba công trình DK1 đầu tiên trở
thành 3 tiền đồn cắm mốc chủ quyền của Tổ quốc ta trên 3 đảo chìm DK1 ở Tư
Chính ( 4/7/1989) DK1/3 ở Phúc Tần và DK1/4 ở Ba Kè ( 14/6/1989) tạo thế chân kiềng
trên 1 vùng biển rộng lớn của Tổ Quốc....
(Số phận
3 chàng Dũng sĩ này thế nào tôi sẽ kể sau nhé!...)
.... Cầm
giấy giới thiệu của Thủ trưởng Bộ Quốc phòng ..-" Đại tá Nguyễn Quý- Đặc
phái viên Bộ QP- Cục trưởng Cục Kỹ thuật BTL Công Binh-Chỉ huy xây dựng phần
thượng tầng công trình DK1.." 14h ngày 31/7/1989 tôi tới Lữ đoàn 171 Hải
quân ở Vũng Tầu dự Hội nghị Tổng kết xây dựng công trình DK1 đợt đầu tiên do
Phó chủ tịch HĐBT - Trưởng ban Chỉ đạo DK1 chủ trì. Hội nghị có đông đủ Thủ
trưởng các Bộ, Ban ngành TW tham dự. Ngoài Thượng tướng Đào Đình Luyện - Thứ
trưởng Bộ QP- Phó ban Chỉ đạo DK1 , Quân đội chỉ có Đô đốc Giáp văn Cương- Tư
lệnh Hải quân và tôi được mời tham dự...Hội nghị đánh giá cao sự nỗ lực, sáng
tạo của các đơn vị đã hoàn thành rất xuất sắc nhiệm vụ mà Bộ Chính trị và Chính
phủ giao cho...Tuy nhiên cũng đặt ra nhiều khó khăn thách thức không nhỏ..Từ
thực tiễn thiết kế và thi công, tôi cũng tham gia đóng góp và kiến nghị
-"....Vì sự bền vững của công trình, ngoài việc cung cấp số liệu khí tượng
hải văn chính xác, cần có bước khảo sát diện mạo mặt bằng đáy biển nơi dự kiến
xây dựng công trình để chọn vị trí thuận lợi nhất, tiến hành khoan địa chất để
thiết kế chân đế và cọc cho phù hợp ...Hiện nay ta đã lắp dựng được 3 công
trình nhưng đã bộc lộ chân đế có nguy cơ không trụ vững nên cần có phương án
gia cố, gia cường ngay..." Cuối cùng tôi mạnh dạn đề nghị-"Hiểu về
biển có lẽ không ai bằng Hải quân, nhất là Đô đốc- Tư lệnh Hải quân...DK1 lại
do Hải quân quản lý, cán bộ chiến sĩ Hải quân trấn giữ nên tôi đề nghị bổ sung
đ/c Tư lệnh HQ- Đô đốc Giáp Văn Cương vào Ban Chỉ đạo DK1..."... Ý kiến
của tôi được Ban chỉ đạo hoan nghênh tiếp thu đưa vào nghị quyết Hội nghị...
...Rời
phòng họp , Đô đốc vỗ vai tôi:-"......Thế mà hôm nay cậu lại giới thiệu tớ
vào Ban chỉ đạo !!...Bây giờ muộn rồi mày về đâu???.." Lữ trưởng 171 Phạm
Xuân Hoa nhanh nhẩu:-" Báo cáo Tư lệnh?..171 mới anh Quý ở lại chơi với
chúng em... nhưng thú thực nhà em đang có nạn...rệp !.." Anh Cương gạt
ngay:-" Đã nóng há mồm, lại rệp thì xin vái Thủ trưởng...Thôi ta ra khách
sạn 1 bữa...." Thế là Đô đốc kéo tôi đi.....
...Liên
tiếp mấy ngày sau, Đô đốc mời tôi cùng dự bàn các phương án gia cố chân đế
DK1/1....Làm đã khó gia cố, gia cường lại càng khó hơn...Chuyện này xin khất
nói sau...
...Việc
hệ trọng cần phải thay đổi cơ chế nên Chủ tịch HĐBT quyết định giao cho Bộ QP
chức năng quản lý Nhà nước (bên A) đối với công trình DK1 theo QĐ 363/CT ngày
18/12/1989...Ngày 26/2/1990 theo điện triệu tập Tư lệnh CB Nguyễn Hữu Yên và
tôi lên Bộ họp...Nhiều ý kiến bàn đi tính lại cuối cùng toàn thể thống nhất tín
nhiệm và Thủ trưởng quyết định -Giao BTL Công binh là Chủ đầu tư công trình DK1
và ngày 26/2/1990 Thủ trưởng Bộ Quốc phòng ra quyết định số 60/QĐ-QP thành lập
Ban Xây dựng công trình DK1 và bổ nhiệm:-Đại tá Nguyễn Quý- Cục trưởng Cục
KTVTTB-Binh chủng Công binh làm Trưởng ban.
- Phó
ban thường trực: Đại tá Vũ Quý Khôi-Phó Viện trưởng Viện KTCB.
- Phó
ban: Đại tá Lê Văn Chừng-Trưởng phòng Quân chủng - Bộ Tổng Tham mưu và Trung tá
Phan Năng Giả- Trưởng phòng Công Binh - BTL Hải quân.
Cả 4
chức danh này đều vẫn là ...kiêm nhiệm...Tư lệnh Công Binh quyết định Thiếu tá
Nguyễn Thành Định làm Trưởng phòng Kế hoạch-Tài chính , Thiếu tá Nguyễn Quang
Ánh làm Trưởng phòng Kỹ thuật .. .
...Đồng
thời Chính Phủ quyết định thành lập Hội đồng nghiệm thu cấp Nhà nước do Giáo sư
Đặng Hữu- Chủ nhiệm Uỷ ban KHKT Nhà nước ( sau là Bộ KHCN) làm Chủ tịch...Bắt
đầu từ đây từ thiết kế, dự toán, sản xuất trên bờ, thi công trên biển, nghiệm
thu, thanh quyết toán đều phải thông qua Hội đồng 3 cấp : cấp cơ sở (BTL Công
Binh) - cấp Bộ Quốc phòng và cấp Nhà nước.....
....Khi
thi công trên biển Nhà nước ra quyết định cử tôi là Tổng chỉ huy các lực lượng
thi công và bảo vệ công trình, cử 1 tổ lập đường dây nóng đi theo thường xuyên
liên lạc về Trung tâm ...Khi hoàn thành công trình làm lễ thượng cờ tôi có
trách nhiệm thay mặt Nhà nước động viên, giao nhiệm vụ cho cán bộ chiến sĩ quản
lý công trình, bảo vệ vùng trời, vùng biển theo quy định...
Thưa các
đồng chí, đồng đội thân yêu của tôi...
...Từ
khi tham gia làm các công trình cho Trường Sa rồi DK1 từ DK1/1 đến DK1/16 liên
tục 8-9 năm trời (1988-1996) với tôi xây dựng mỗi công trình là 1 trận chiến,
mỗi năm là 1 chiến dịch nên không sao kể xiết ...xin phép tạm dừng tại đây để
nói về Tư Chính...
2- TƯ
CHÍNH-MỘT QUYẾT CHIẾN ĐIỂM TRÊN BIỂN ĐÔNG !..
Như các
đồng chí đã biết bãi ngầm Tư Chính rộng lớn (700km2)như chúng tôi khảo sát
chiều dài tới 52km ( có tài liệu nói 61km) chiều rộng 11km ( có chỗ phình ra
hơn 20 km) lại ở vị trí chiến lược rất quan trọng, gần khu mỏ dầu chúng ta đang
khai thác và cũng là nơi ta đã và đang thăm dò (ngày 6/10/1994 tôi và đoàn Thủ
trưởng Bộ QP do Thượng tướng Nguyễn Chơn dẫn đầu khi bay trực thăng ra thăm
DK1/11 ở Tư Chính đã hạ cánh thăm giàn khoan Tam Đảo khi đã khoan
tới..2.926m...Khi về đến Hà Nội anh Ngô Thường San-TGĐ Vietsopetro điện cho tôi
báo tin mừng -" Có dầu rồi , anh Quý ơi!...").
....1Nếu
kẻ thù chiếm Tư Chính thì nó như con dao kề vào cổ khu mỏ dầu chúng ta, nó
khống chế toàn bộ khu DK1...Thế là chúng tôi đã đụng độ với "họ "từ
...30 năm nay rồi... Vì thế nên ở Tư Chính phải xây dựng nhiều công trình mới
được... Ta nghèo thôi thì hãy cứ" chặn đầu, khoá đuôi " đã ...
- Năm
1989: DK1/1 -Tư Chính 1(4/7/1989).
- Năm
1990: DK1/5- Tư Chính 2(3/11/1990).
Đến ngày
26/3/1994 khi đi thi công DK1/10 ở Cà Mâu về đến Vũng Tầu chưa lên bờ thì tôi
nhận được điện khẩn của Tổng Tham mưu trưởng " Đồng chí không về Hà Nội mà
ở lại hợp đồng ngay với Vietsopetro và các B làm tiếp ngay 2 công trình ở Tư
Chính theo dự kiến.." Khi về Bộ, anh Luyện mới cho tôi biết là "
họ" đã đưa giàn khoan định vào Tư Chính đấy...Ta đã chủ trương Quyết chiến
!...nên chắc " họ" đánh hơi thấy đi nửa đường đành quay đầu...Nhưng
chưa phải " họ" đã từ bỏ dã tâm đâu nên ta phải xây dựng để giữ cho
kín...Cậu đi đâu, làm gì " họ" biết cả đấy!...Điều này thì chúng tôi
đã gặp , và
đối mặt
với " họ" trên biển nhiều lần rồi, TTMT ạ!..
- Năm
1994- DK1/11-Tư Chính 3 (6/8/1994).
DK1/12-Tư
Chính 4 (9/8/1994).
- Năm
1995- DK1/14-Tư Chính 5 (20/4/1995)..
....Theo
thiết kế các công trình DK1 thế hệ đầu quy định có tuổi thọ là 25 năm nên mấy
năm nay một loạt công trình thế hệ mới được xây dựng đàng hoàng hơn, to đẹp
hơn, vững chải hơn nối liền với các DK1 cũ như truyền hình đã thông tin rộng
rãi rồi...với lý do " thay thế DK1 cũ !!!.."
3- LÀ
MỘT NHÂN CHỨNG...XIN PHÉP CÓ Ý KIẾN.
..***Cách
đây đã 30 năm ,ngay từ đầu Đảng và Nhà nước ta đã khảng định toàn bộ vùng DK1
trong đó có Tư Chính là thuộc chủ quyền của nước ta, cũng không dính dáng gì
đến Trường Sa mà Trung Quốc muốn sập xí, sập ngầu để coi là "có tranh chấp
" và để sau này đòi .." ăn chia!!!..." Ý thức vấn đề này sau khi
nghiệm thu DK1/2 tôi báo cáo và được Hội đồng nghiệm thu Nhà nước chấp thuận :
1-Ghi rõ
công trình xây dựng trên bãi đá ngầm tên Việt Nam là Tư Chính, Phúc Tần , Phúc
Nguyên, Huyền Trân, Quế Đường, Ba Kè...Trên 1 bãi sẽ có nhiều công trình nên
thêm số thứ tự như Tư Chính 1,..2..,3..4.., 5...
2-
Trường Sa là thuộc tỉnh Khánh Hoà vậy đối chiếu về địa lý thì các DK1 thuộc
tỉnh Bà Rịa- Vũng Tầu...Từ đó trên tất cả các công trình DK1 đều sơn Quốc kỳ và
hàng chữ..Ví dụ: Cộng Hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tỉnh Bà
Rịa- Vũng Tầu
TRẠM
DỊCH VỤ KT-KHKT TƯ CHÍNH 3.
Vì vậy
tôi đề nghị trên mạng xã hội, báo chí, các kênh truyền hình lưu ý tránh sai sót
đừng mắc mưu kẻ thù lợi dụng " đánh lận con đen!!.."
***30
năm qua hầu hết các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội chủ trì những
năm đầu xây dựng công trình DK1 đã qua đời... Là 1 người may mắn chứng kiến khá
tường tận, đầy đủ tôi thấy lãnh đạo của chúng ta rất sáng suốt, quyết đoán, xử
lý các tình huống rất linh hoạt , mềm dẻo , rất thành công...Chỉ có điều từ đầu
chúng tôi được phổ biến là Tuyệt đối bí mật, bất ngờ nên cứ Lặng lẽ làm không
nói, cấm tuyên truyền khoa trương...Mấy năm gần đây ta mới công khai nhưng lại
có những ý kiến không đúng, thậm chí phê phán , lên án, buộc tội, nên tôi phải
lên tiếng khá dài dòng để bảo vệ sự trong sáng của Sự Thật và danh dự của những
người có công lớn với Tổ quốc nay đã khuất...
***Là
người gắn bó 7-8 năm với công trình, đã từng nhiều lần vật lộn với bão dông
khủng khiếp nên thực lòng chúng tôi rất thương cán bộ chiến sĩ trấn giữ trên
công trình nhiều năm, thiếu thốn tình cảm, nước ngọt, rau xanh, căng thẳng khi
kẻ thù lăm le gây chiến...Vì thế ai, tổ chức nào quan tâm, ủng hộ, tiếp viện để
cuộc sống anh em khá hơn ,tôi rất hoan nghênh và biết ơn..."Chú khoẻ, anh
mừng,.."
.....Nhưng
cũng có bài báo nói không đúng ,quá khổ sở , đen tối dẫn tới hiểu lầm sự quan
tâm của Nhà nước, của Quân đội và Quân chủng Hải quân..làm cho nhiều người cho
là.." mang con, bỏ chợ!!!..." Vì vậy tôi thấy cần công khai, minh
bạch để mọi người hiểu đúng sự thật...
* Về
nước ngọt: Trên công trình đã bố trí 1 bể dung tích 45m3 ..Khi thi công xong tầu
dịch vụ đã bơm nước ngọt đầy bể. Có hệ thống ống dẫn nước mưa từ mái vào bể
nước...
* Về
thắp sáng: Ngay từ đầu đã trang bị máy phát điện cùng 1 bể xăng dầu để thắp
sáng và dự phòng cấp cho trực thăng ở công trình mái là sân bay. Đến 1993 lắp
hệ pile mặt trời nhưng lượng dầu vẫn cấp đủ ...
* Về
thông tin văn hoá: Lúc đầu ở xa không bắt được tín hiệu đã trang bị tủ sách , 1
radio cassette cùng 1 số băng đĩa ca nhạc..Đến 1993 theo chỉ đạo của PTT Trần
Đức Lương đã lắp đặt hệ Antel Parabol + Tivi đã bắt được các kênh VTV và Thể
thao quốc tế.Sau khi nghiệm thu tốt, tôi đã cho cáp níu chặt rổ Antel để an
toàn sử dụng lâu bền...
* Về an
toàn phòng sự cố: Đã trang bị đầy đủ phao cá nhân, phao bè, phao cứu sinh theo
tiêu chuẩn Quốc tế.
* Năm
1993 được trang bị Radar Furuno có tầm hoạt động xa 48 hải lý giúp cho bộ đội
có tầm cảnh giới xa hơn, bao quát hơn..Đồng thời theo thông lệ Quốc tế đã lắp
đèn báo vật cản ( hải đăng) để tầu bè qua lại ban đêm không va quệt vào công
trình...
...Sau
khi công khai, hàng năm nhiều đoàn ra thăm đã động viên, uý lạo, tiếp tế ủng hộ
tạo điều kiện sinh hoạt ngày càng khá hơn...
Thưa các
đồng chí và các bạn,
....Bài
đã dài, tôi cũng đã mệt nhưng vẫn thiếu sót nếu dịp này tôi không gửi lời chân
thành cảm ơn đến các đơn vị , cá nhân đã giúp tôi và Ban DK1 hoàn thành nhiệm
vụ. 30 năm!..Đã 6 đời Trưởng ban DK1, năm nay đã có đ/c Trưởng ban thứ
..7!..Cho dù kể đến cả trang cũng vẫn thiếu sót nên thay mặt anh chị em Ban DK1
tôi chân thành cảm ơn tất cả những người đã từng góp công sức, trí tuệ để làm
nên những công trình đặc biệt này...Thế hệ trước đã khai trương mở lối...Chúng
tôi hy vọng và tin tưởng thế hệ ngày nay và mai sau sẽ bảo vệ, tôn tạo để các
DK1 sẽ mãi mãi trường tồn với Tổ Quốc Việt Nam!!...
***NGUYỄN
QUÝ***
TÊN BÁC HỒ CHÍ MINH CÓ TỪ BAO GIỜ
Trả lờiXóa1-Cuối năm 1939, Bác rời Mat-xcơ-va qua các nước Nam Á thuộc Liên Xô cũ,Tân Cương, Tây An, Diên An (căn cứ địa của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Hồng Quân Công Nông Trung Hoa). Bác vừa làm việc tại Diên An hai tuần, rồi trở lại Tây An. Ông Diệp Kiếm Anh - Tổng tham mưu trưởng Bát Lộ Quân đón Bác tại một địa điểm trên Cao Nguyên Vân Quý (Vân An - Quý Châu). Ông giới thiệu Bác với Ban chỉ huy và chiến sĩ: “Thiếu tá Hồ Quang về làm việc tại đây, các đồng chí có trách nhiệm đặc biệt bảo vệ đồng chí Hồ Quang”.
Chỉ một thời gian ngắn, với nếp sống giản dị, phong cách cởi mở, thiếu tá Hồ Quang đã mau chóng hoà hợp với hơn 100 sĩ quan và chiến sĩ, nên họ không gọi Bác là Hồ thiếu tá như điều lệnh quy định, mà lại gọi Bác là Bác Hồ (Hồ bá bá) để tở lòng kính mến, gần gủi. Còn ông Chu Ân Lai, bạn thân của Bác thời ở Pháp, khi nhận được thông tin “Hồ Lão Đại” (Anh Cả Hồ) thì biết ngay đó là Bác.
2-Vào khoảng cuối tháng 6/1942 tại Pắc - Pó, ông Vũ Anh (Trịnh Đông Hải) được giao nhiệm vụ chuẩn bị hành trang cho Bác và ông Lê Quảng Ba đi Trùng Khánh (Trung Quốc) về hội đàm với ông Chu Ân Lai và Chính phủ Trung ương Quốc Dân Đảng. Ngoài quần áo, tiền đi đường, ông Vũ Anh còn chuẩn bị cho Bác những giấy tờ cần thiết theo chỉ dẫn của Bác:
- Danh thiếp của Bác mang tên Hồ Chí Minh, dưới hàng tên là hàng chữ: “Phân hội Việt Nam Hội Quốc tế chống xâm lược”.
- Danh thiếp của Bác mang tên Hồ Chí Minh, dưới hàng tên có hàng chữ: “Ký giả thông tấn xã quốc tế”.
- Giấy giới thiệu của Việt Nam Độc lập Đồng minh hội và giấy giới thiệu của Phân hội Việt Nam Quốc tế chống xâm lược (cả hai có dấu khắc tay, những nét rất gọn, rất sắc).
- Vậy là từ đó Bác có tên là Hồ Chí Minh. Đây là điều khảng định. Bởi ngày 19/05/1941, khi Bác ra lời kêu gọi quốc dân đồng bào nhân dịp thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng minh (Việt Nam) Bác vẫn lấy tên Nguyễn Ái Quốc.
3-Ông Từ Vĩ Tâm ở Pù Nông, một trong những anh em kết nghĩa với Vương Tiên Sinh (Trần Tiên Sinh, Vương Tiên Sinh là danh tính Bác thường dùng, đến khi Bác về nước tháng 2/1941) gọi Bác là anh Hai, bác Hai. Bà Nông Mộng Chỉ, vợ ông Từ Vĩ Tâm nói: “Lần này, (tháng 2/1942) Bác Hai sang đây với tên Hồ Chí Minh, nhưng chúng tôi vẫn quen gọi là Bác Hai như mọi lần”.
4-Trong tập sách nhỏ “Trăng sáng trong thơ Bác, trong tên Bác” tác giả Nguyễn Tất Hiển chiết tự rất tỉ mỉ ba từ HỒ CHÍ MINH. Tên gọi Hồ Chí Minh là sự khẳng định một đức tin, một phẩm giá của lãnh tụ cách mạng, đồng thời là một lời kêu gọi có tính cách thuyết phục cao, nhất là đối với tầng lớp nhân dân có học thức, vì tầng lớp trí thức có vai trò quan trọng, có tính quyết định, lực lượng cách mạng chủ chốt lúc này là: Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh (Từ Sĩ đứng trước các từ khác).
Khát khao độc lập tự do đối với Bác là vận mệnh của đất nước. Trong tình thế quyết định nhất, là lãnh tụ cách mạng, để kêu gọi và thuyết phục toàn dân; Bác cần tỏ ra mình là:
-Nhân vật thông kim bác cổ (từ Hồ)
-Người có tâm quyết với chí khí vươn cao (từ Chí)
-Luôn luốn lấy kinh nghiệm sáng suốt của tổ tiên (từ Minh)
Vì vậy, tên gọi Nguyễn Ái Quốc chuyển sang tên gọi Hồ Chí Minh vào thời điểm này là thích hợp nhất.
5- Hồ Chí Minh biên niên sử tập II, trang 161: Ngày 13/8/1942 với tên gọi Hồ Chí Minh, Bác rời Pắc - Pó sang Trung Quốc để gặp ông Chu Ân Lai đang xuống phía Nam để bàn về Liên minh hợp tác chống Phát xít Nhật. Ra đi mới 14 ngày sau đó, ngày 23/8/1942 Bác bị quân Tưởng Giới Thạch bắt giam, đến ngày 3/9/1943 mới được thả ra. Điều này cho chúng ta thấy rõ tên gọi là Hồ Chí Minh xuất hiện đầu tiên tại Việt Nam là thời điểm đặc biệt hệ trọng và vô cùng cấp thiết, là thời cơ có một không hai trong lịch sử, cần phải đi vào cuộc vận động lớn, tổ chức và lãnh đạo toàn dân Việt Nam đứng lên giành toàn thắng cho cuộc cách mạng tháng 8/1945.