Tác giả: Ngô gia văn phái
Chương 1 : Đặng Tuyên Phi được yêu dấu đứng đầu hậu cung, Vương Thế Tử bị truất ngôi ra ở nhà kín
Thể Loại : Lịch Sử - Chính Trị
Hoàng Lê nhất thống chí hay còn gọi
là An Nam nhất thống chí, là tác phẩm văn xuôi viết bằng chữ Hán trong tùng thư
của Ngô gia văn phái, một tùng thư bao gồm nhiều tác phẩm văn, sử, triết có giá
trị của các tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai,
Hà Nội.
Chương 1 : Đặng Tuyên Phi được yêu dấu đứng đầu hậu cung, Vương Thế Tử bị truất ngôi ra ở nhà kín
Người
đăng: Hiếu Vũ
Triều Lê Trang tông Dụ hoàng đế (Tức Lê Trang
Tông, tên là Duy Ninh (1533-1548). Các chú thích từ đây trở đi đều của người
dịch) trung hưng cơ nghiệp ở sông Tất Mã (Tức sông Mã ở Thanh Hoá). Bấy giờ Thế
tổ Minh khang thái vương Trịnh Kiểm làm phụ chính, giúp vua dẹp yên được đảng
họ Mạc và trở lại kinh đô cũ. Rồi từ đó, họ Trịnh đời đời kế tiếp tước vương,
nắm giữ hết quyền bính trong tay, hoàng gia mỗi ngày một suy yếu dần.
Truyền
đến đời Hiển tông Vĩnh hoàng đế, niên hiệu Cảnh hưng (1740-1786), thì Thánh tổ
Thịnh vương (Tức Trịnh Sâm, mới lên ngôi chúa) chuyên quyền cậy thế, làm oai
làm phúc; vua Lê chỉ còn biết chắp tay rủ áo mà thôi.
Thịnh
vương là người cứng rắn, thông minh, quyết đoán sáng suốt, trí tuệ hơn người,
có đủ tài về văn lẫn võ, đã xem khắp kinh sử, biết làm văn làm thơ. Sau khi
Thịnh vương lên nối ngôi chúa, từ kỷ cương trong triều đến chính trị trong nước,
hết thảy đều được sửa đổi; bao nhiêu tướng giặc, đảng nghịch, đều lần lượt bị
dẹp tan, Chúa có cái chí muốn làm bá chủ, nào diệt giặc Trấn Ninh, nào phá bọn
Công Chất [đây là hai cuộc khởi nghĩa nông dân lớn ở thế kỷ 18. Cuộc khởi nghĩa
của Lê Duy Mật ở vùng Thanh-Nghệ, lấy Trấn Ninh làm căn cứ, kéo dài 32 năm
(1738-1770). Cuộc khởi nghĩa của Hoàng Công Chất ở vùng Sơn Nam và Tây Bắc, kéo
dài 30 năm (1739-1769)], quân nhà chúa đã đến, không chỗ nào là không thắng.
Lúc đó bốn phương yên ổn, kho đụn đầy đủ, chúa dần dần sinh bụng kiêu căng, xa
xỉ, phi tần thị nữ kén vào rất nhiều, mặc ý vui chơi thoả thích.
Một hôm,
tiệp dư (Một cấp bực của vợ vua, dưới bậc phi) Trần Thị Vịnh sai nữ tỳ Đặng Thị
Huệ bưng một khay hoa đến trước nơi chúa ngồi. ả họ Đặng này, quê ở làng Phù
Đổng, mắt phượng mày ngài, vẻ người mười phần xinh đẹp. Chúa nom thấy rất bằng
lòng, bèn tư thông với ả.
Từ đó,
Thị Huệ càng ngày càng được nhà chúa yêu quí, ả nói gì chúa cũng nghe và hễ có
việc gì là chúa cũng bàn với ả. Rồi ả được ở chung một nơi với chúa, y như một
cặp vợ chồng nhà thường dân. Xe kiệu, quần áo của ả cũng đều được sắm sửa hệt
như đồ dùng của chúa.
Thị Huệ
từ lúc được nhà chúa chiều chuộng, hơi có vẻ lộng hành. Hễ có chuyện gì không
vừa ý, là ả xây xẩm mặt mày, rồi kêu khóc thảm thiết để làm rối lòng chúa.
Chúa có
một viên ngọc dạ quang, lấy được trong khi đánh dẹp phương Nam, vẫn xâu ở trên
đầu khăn làm đồ trang sức. Một hôm Thị Huệ lấy tay mân mê viên ngọc. Chúa nói:
- Nhè
nhẹ tay chứ, đừng làm ngọc sây sát!
Thị Huệ
bèn ném viên ngọc xuống đất mà khóc rằng:
- Làm gì
cái hạt ngọc này! Chẳng qua vào Quảng Nam kiếm giả chúa hạt khác là cùng. Sao
chúa nỡ trọng của khinh người như vậy?
Rồi ả tự
ý bỏ ra ở cung khác, từ chối không gặp chúa nữa. Chúa phải dùng nhiều cách dỗ
dành cho ả vui lòng, lúc ấy ả mới chịu làm lành với chúa.
Kịp đến
khi Thị Huệ có mang, chúa liền sai người đi lễ khắp trăm thần để cầu sinh con
thánh. Đến kỳ, ả sinh được một trai, vào năm Đinh Dậu, niên hiệu Cảnh hưng 38
(1777). Chúa hết sức yêu mến đứa bé, lúc đầy trăm ngày, chúa lấy tên của mình
lúc nhỏ là Cán mà đặt cho nó, để tỏ ra nó cũng giống mình.
Khoa thi
hương năm ấy, chúa lấy hai câu: "Sơn xuyên anh dục, hà hải tú chung"
(Nghĩa là: "Khí thiêng của sông núi tụ lại, sự tốt đẹp của hồ biển đúc
nên", ý muốn chỉ về Trịnh Cán), để làm đề thi. Các quan văn võ đưa đón ý
chúa, cũng có nhiều kẻ lấy chữ: "Tính huy hải nhuận" (nghĩa là:
"Sao sáng, biển hoà" tức là điềm sinh ra bậc thánh) làm câu chúc
mừng.
Lúc
vương tử Cán đầy tuổi tôi, cốt cách tướng mạo khôi ngô, đẫy đà, khác hẳn người
thường. Đến khi biết nói, vương tử Cán đối đáp gãy gọn, cử chỉ không khác gì
người lớn. Mỗi khi các quan văn võ vào thăm, vương tử tiếp đón với dáng bộ
nghiêm chỉnh. Có người cách hàng năm mới gặp, vương tử cũng vẫn nhớ rõ họ, tên,
kể lại chuyện cũ vanh vách. Chúa sai quan từ hàn làm bài tụng 16 chữ, để viên a
bảo (viên quan trông nom việc nuôi nấng, dạy dỗ con cái của vua chúa) dạy
truyền miệng cho vương tử. Vương tử chỉ nghe qua một lượt là đọc thuộc liền.
Thấy vậy chúa càng quí vương tử Cán bội phần.
Cũng do
đó, Thị Huệ mới ngầm có ý muốn cướp ngôi thế tử.
Lại nói,
lúc ấy chúa đã có thế tử là Trịnh Tông (sau đổi là Trịnh Khải), do thái phi họ
Dương đẻ ra. Thái phi tên là Ngọc Hoan, người ở làng Long Phúc, huyện Thạch Hà.
Chị nàng là cung tần của Ân vương (cha Thịnh vương, tức là Trịnh Doanh), sinh
ra Thuỵ quận công, được Ân vương hết sức yêu quí. Nhờ chị, thái phi được kén
vào làm cung tần của Thịnh vương. Nhưng từ sau khi vào cung, nàng vẫn ngày đêm
sống cô quạnh. Bỗng một đêm, nàng nằm mơ thấy vị thần đem cho tấm đoạn có vẽ
đầu rồng. Nàng không hiểu đó là điềm gì, đem hỏi viên quan hầu là Khê trung
hầu. Khê trung hầu biết chắc là điềm sinh thánh.
Hôm sau,
chúa cho vời cung tần Ngọc Khoan vào hầu. Khê trung hầu cố ý giả làm nghe lầm,
đưa ngay thái phi Ngọc Hoan đến. Thấy nàng, chúa có vẻ không thích, nhưng đã
chót gọi đến, không nỡ đuổi ra. Sau đó chúa đòi Khê trung hầu vào trách mắng.
Khê trung hầu cúi đầu tạ tội, đoạn thuật rõ đầu đuôi chuyện thái phi nằm mơ cho
chúa nghe. Chúa cũng nín lặng không nói sao cả.
Thái phi
trải qua một trận mưa móc, liền có thai ngay. Đến kỳ, nàng sinh ra một trai.
Năm Quí-mùi, Cảnh hưng 24 (1763).
Chúa tự
nghĩ đầu rồng tuy có khí tượng làm vua, nhưng là rồng vẽ không phải rồng thật,
mà lại chỉ có đầu không có đuôi, như vậy chưa hẳn đã là điềm tốt cả. Vả lại ở
triều trước, Trịnh Cối, Trịnh Lệ (Trịnh Cối là con Trịnh Kiểm, Trịnh Lệ là con
Trịnh Doanh. Hai người này đều mưu đồ giành ngôi chúa, nhưng đều thất bại) cũng
do người Long Phúc đẻ ra và đều mưu sự phản nghịch mà không thành.
Do đó,
chúa có ý không vui. Các quan văn võ vào chúc mừng, chúa lấy cớ rằng đứa con ấy
không phải là vợ cả đẻ ra, từ chối không nhận lời mừng.
Khi thế
tử Tông đã lớn, dung mạo rất khôi ngô mà chúa cũng chẳng yêu chiều gì mấy.
Tính thế
tử ham võ nghệ, không thích học hành. Năm lên bảy tuổi, chúa sai Nguyễn Khản
(Nguyễn Khản là con Nguyễn Nghiễm, người huyện Nghi Xuân Nghệ Tĩnh có sách chép
là Nguyễn Lệ) tiến sĩ khoa Canh-thìn (1760), làm tả tư giảng, và Trần Thản,
tiến sĩ khoa Kỷ-sửu (1769), làm hữu tư giảng để rèn tập cho thế tử. Nhưng chẳng
bao lâu, Thản chết. Còn Khản thì đang được chúa tin dùng, phải quán xuyến mọi
công việc trong ngoài, nên cũng không mấy khi đến được chốn "màn
giảng", chỉ có năm sáu viên tuỳ giảng bảo ban việc học cho thế tử theo như
nếp cũ mà thôi. Chuyện đó chúa cũng có biết phần nào, nên lại càng không bằng
lòng.
Theo lệ
cũ, người con trai nối ngôi chúa hễ đến mười hai tuổi thì phải ra ở Đông cung.
Bấy giờ các quan cũng có tâu trình việc ấy; song chúa không cho, bắt thế tử
phải đến ở tại nhà riêng của quan a bảo là Hân quận công (Nguyễn Đĩnh). Như
vậy, ngôi đông cung vẫn bỏ trống, như có ý chờ đợi người khác.
Đến năm
thế tử mười lăm tuổi, thì con nhỏ là vương tử Cán ra đời, chúa hết sức yêu dấu
đứa con nhỏ đó. Ba năm sau, thế tử đúng mười tám tuổi. Theo lệ cũ, thế tử đáng
được mở phủ riêng; nhưng bấy giờ các quan chẳng ai dám tâu bày, mà chúa cũng
không hề nhắc tới việc ấy.
Như thế
là người nối ngôi vẫn chưa định, nên lòng người rất phân vân. Hễ ai thuộc về
thế tử Tông thì hùa theo thế tử Tông, ai thuộc đảng Thị Huệ thì vào phe vương
tử Cán. Trong phủ chúa dần dần sinh ra bè nọ cánh kia.
Thị Huệ
cho rằng thế tử Tông đã khôn lớn, lông cánh đã đủ; mà con mình hãy còn trứng
nước, nên càng mưu mô để gây thêm thế lực.
Khi ấy
Huy quận công Hoàng Tố Lý (nguyên trước là Hoàng Đăng Bảo) đang có danh vọng
lớn, thường dựa vào sự giúp đỡ của Thị Huệ; mà Thị Huệ thường cũng lấy quận Huy
làm chỗ nhờ cậy bên ngoài. Quận Huy người làng Phụng Công, là cháu Bình Nam
thượng tướng quân Việp quận công là Hoàng Ngũ Phúc, vẻ người thanh dật, là tay
văn võ toàn tài. Khoa thi hương năm ất-dậu (1765), Huy đi thi được trúng cách;
đến khoa thi võ năm Bính-tuất (1766) Huy lại đỗ luôn tạo sĩ. Hồi ấy Ân vương
còn đang trọng dụng quận Việp, mới gả con gái thứ cho quận Huy.
Uy quyền
quận Việp mỗi ngày một lớn. Có người ngờ sẽ xảy ra điều gì bất trắc, hoặc cũng
có kẻ bảo quận Việp sắp lấy thiên hạ để truyền cho quận Huy. Căn cứ vào lời sấm
hồi ấy có câu: "Nhất thỉ trục quần dương". (Một con lợn đuổi đàn dê);
có kẻ tán rằng: Thỉ tức là quận Huy, bởi vì quận Huy tuổi hợi (thuộc lợn), mà
dương đây chỉ vào chúa và thế tử, vì cả hai đều tuổi mùi (thuộc dê). Rồi những
kẻ hiếu sự lại còn đặt ra câu sấm: "Thảo nhất điền bát" (Cỏ một,
ruộng tám) để chỉ vào chữ Hoàng (thảo nhất điền bát chắp lại thành chữ Hoàng
chỉ Hoàng Ngũ Phúc). Có kẻ lại nói: "Thổ sất vân gian nguyệt, hoàng hoa
ánh nhật hương". (Mảnh đất sánh trăng trong mây; hoa cúc ánh hương mặt
trời). Thổ, sất, nguyệt là chữ tế (chữ tế nghĩa là con rể, chỉ quận Huy).
Hoàng, hoa, nhật là chữ Việp (Chữ Việp gồm chữ hoa và chữ nhất, còn chữ Hoàng
là họ Hoàng), chỉ quận Việp. Thêm nữa, tên cũ của quận Huy là Đăng Bảo (Có
nghĩa là: lên ngôi báu) người ta cũng lấy đó để dị nghị. Vì vậy quận Việp muốn
tránh sự hiềm nghi ấy mới bảo quận Huy đổi tên Đăng Bảo ra Tố Lý.
Sau quận
Việp lấy cớ mắc bệnh đau mắt để xin từ chức, chuyện ấy chẳng nhắc làm gì nữa.
Lại nói
năm Giáp-ngọ (1774), quận Việp phụng mệnh kéo quân vào đánh trong Nam, có đem
quận Huy đi theo. Quận Huy vốn đã học được phép dùng binh gia truyền của quận
Việp, nên được các tướng tá rất sợ phục. Huy lại khéo cắt đặt nhân tài, nên các
tay hào kiệt đều vui lòng chịu sai khiến. Huy có công luôn luôn phá được quân
địch, tiếng tăm mỗi ngày một lẫy lừng. Khi dẹp yên được xứ Thuận Hoá thì quận
Việp qua đời. Chúa bèn giao luôn cho quận Huy quản lĩnh số quân của quận Việp,
và cho làm trấn thủ Nghệ An.
Đóng ở
trấn Nghệ An. Huy ra sức tiêu diệt trộm cướp, cấm đổi tiền (đổi tiền đẹp để tích
trữ, làm cho tiền khan hiếm), trấn áp cường hào, ngăn chặn việc kiện cáo, làm
cho trong hạt rất thịnh vượng, Huy lại thu dụng những kẻ anh tài, đặt ra nhiều
chức liêu thuộc. Dưới trướng ông ta có những tên như tả, hữu tham quân chẳng
hạn. Thế là thiên hạ lại ồn ào lên, đồn rằng quận Huy sắp sửa làm phản.
Chúa
nghe tiếng, ngày ngày cùng viên triều thần tin cẩn là Nguyễn Khản và quan thế
tử a bảo Hân quận công Nguyễn Đĩnh bàn cách giết Huy. Trong lúc bàn bạc, ba
người vẫn dùng tiếng lóng "chữ thập" để chỉ quận Huy. Vì chữ thập
cũng na ná chữ nghệ (chữ thập xoay chéo thành chữ nghệ viết tắt) là trấn Nghệ
An, nơi quận Huy đóng quân.
Họ
thường đuổi mọi người đi để bí mật bàn bạc, chỉ có Thị Huệ là biết được.
Công
chúa vợ quận Huy, ngày đêm ra vào trong phủ luồn lọt Thị Huệ; Thị Huệ mới đem
việc kín nói cho công chúa nghe. Quận Huy trong dạ không yên, dâng thư xin về
triều. Chúa cho phép ngay.
Huy nghĩ
rằng Thị Huệ tuy được chúa yêu, nhưng con trai của Thị Huệ còn nhỏ, trong khi
đó thế tử đã lớn rồi, hùa theo Thị Huệ e không phải là kế lâu bền. Vì vậy, sau
khi đã vào hầu chúa, Huy liền lấy châu báu đút lót cho những kẻ chân tay của
thế tử, để xin nương tựa vào thế tử. Rồi Huy lại đem một trăm lạng vàng và mười
tấm đoạn Nam Kinh làm lễ yết kiến, để xin vào ra mắt thế tử. Nhưng thế tử không
nhận đồ lễ, cũng không cho vào gặp, nói riêng với bọn hầu cận rằng:
Thằng
giặc ấy sao không ở trấn làm phản, mà lại vội về triều? Rồi đây ta sẽ tịch thu
hết cả gia sản nhà nó, cần gì đồ lễ của nó bây giờ!
Quận Huy
biết thế tử không dung mình, bèn quyết ý hùa theo Thị Huệ và âm thầm có chí phế
lập.
Huy đem
dâng ngôi nhà cũ của quận Việp cho vương tử Cán làm dinh thự. Từ đó, Huy thành
ra người riêng của Thị Huệ. Mà trước mặt chúa, Thị Huệ cũng hết sức bao che cho
Huy. Do đó, quận Huy được vào chính phủ (phủ của chúa Trịnh để phân biệt với
triều đình của vua Lê) mở dinh quân Trung nhuệ, coi việc trong phủ, đồng thời
kiêm lĩnh chức trấn thủ trấn Sơn Nam (địa bàn của Sơn Nam thời Lê gồm: Hà Đông,
Hà Nam, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình), Quận Huy và Thị Huệ, trong ngoài liên
kết với nhau, thế lực nghiêng cả thiên hạ. Các viên quan võ như chức cai cơ,
trấn thủ, đều do cửa của họ mà ra. Lúc ấy, duy chỉ có Hồng lĩnh hầu Nguyễn
Khản, trấn thủ Sơn Tây hiện đang làm tả tư giảng cho thế tử, và Tuân sinh hầu
Nguyễn Khắc Tuân, trấn thủ Kinh Bắc tức con nuôi của Hân quận công, hiện đang
làm a bảo cho thế tử, là còn dám có ý kia khác với quận Huy mà thôi. Như vậy là
cái thế bè đảng đã thành rồi.
Lại nói,
từ khi vương tử Cán sinh ra, thế tử Tông có ý rất tức bực, chỉ sợ mình không
được lập làm chúa. Thế tử cùng với bọn gia thần là mấy tên hầu Thế Thọ, Thẩm
Thọ... nho sinh Đàm Xuân Thụ và tên xuất thân tạp lưu (là hạng thư lại không đỗ
đạt gì, không do chính ngạch mà ra) Vĩnh Vũ, ngày đêm bàn mưu, lo lắng không
biết nên làm thế nào.
Vừa lúc
đó, chứng bệnh cũ của chúa lại phát, bệnh tình rất nguy kịch. Một đêm thế tử
bỗng mơ thấy mình mặc áo chầu chàm, đội mũ chữ đinh, đứng ở phủ đường. Sáng mai
thế tử kể lại với bọn gia thần và nói:
- Ta mơ
như vậy là điềm có tang, trong cung nay mai chắc sẽ có biến; ta phải sớm lo
liệu trước mới được.
Bọn tôi
tớ ấy liền khuyên thế tử nên ngấm ngầm sắm sửa binh khí, chiêu mộ dũng sĩ; một
mai trong cung xảy ra chuyện chẳng lành, thì cứ việc đóng chặt cổng thành, giết
quận Huy, và bắt giữ cả hai mẹ con Thị Huệ, khiến vương tử Cán không thể lên
ngôi chúa. Mặt khác báo cho hai trấn Tây, Bắc (Sơn Tây, Kinh Bắc) đem quân vào
kinh, bắt ép các đại thần để dựng thế tử lên ngôi chúa.
Thế tử
nghe theo và phao lên rằng mình sắp được lệnh đem quân vào đánh miền Nam. Rồi
thế tử lại sai người báo ngầm cho Khê trung hầu, giao một ngàn lạng bạc cho nho
sinh Đàm Xuân Thụ để Thụ phân phát cho bọn tay chân đi mua sắm vũ khí. Tiếp đó,
thế tử mật báo cho các viên trấn thủ ở hai trấn Tây, Bắc, chiêu tập dũng sĩ.
Thế tử
cắt đặt xong thì bệnh của chúa cũng vừa khỏi, việc ấy bị tiết lộ. Hồi đó, có
Nguyễn Huy Bá người ở Gia Lâm (làng Phú Thị, huyện Gia Lâm) tính tình nham
hiểm, giảo hoạt, thường vẫn quen thói tố giác kẻ khác để kiếm quan chức. Năm
trước, chính vì Bá đã tố cáo âm mưu nổi loạn của Nguyễn Huy Cơ và Thuỵ quận
công (Thuỵ quận công tức Trịnh Lệ con Trịnh Doanh, định giành ngôi chúa với
Trịnh Sâm) mà y được làm chức tham nghị ở trấn Sơn Nam, dần dà, y ngoi lên chức
tiến triều (những người không đỗ tiến sĩ mà được làm quan ở sáu bộ thì gọi là
tiến triều), rồi lại thăng tới chức đốc đồng ở trấn Thái Nguyên. Lúc này vì có
lỗi bị cách chức, y đang nóng lòng mong lại được ra làm quan. Y bèn sai con dâu
cả vào làm đày tớ cho Thị Huệ; rồi thường nhặt nhạnh những chuyện chơi bời đùa
nghịch của Tông, xui con dâu kể lại cho Thị Huệ để nịnh nọt, lấy lòng. Mặt
khác, y lại ngầm sai người nhà tin cậy tới làm bộ hạ của hai viên trấn quan
Tây, Bắc để dò xét tình hình. Đến lúc ấy, y đã nắm được phần nào sự việc của
bọn này, liền vào báo với Thị Huệ.
Thị Huệ
đem việc đó bàn với quận Huy. Huy bảo Huy Bá viết bức thư kín, rồi Huy tự bỏ
vào trong tay áo, đi đến phủ chúa, đuổi hết những người chung quanh, đem thư ra
trình chúa.
Chúa xem
xong, cả giận, định sai người giao xuống trị tội tức khắc. Quận Huy can rằng:
- Thế tử
quả là có lỗi, nhưng sở dĩ thế tử dám làm chuyện to lớn như thế chính là do hai
viên trấn thủ Tây, Bắc chủ mưu. Nay hai viên ấy hãy còn cầm quyền ở ngoài, nếu
vội vã trừng trị thế tử, e sẽ có biến khác. Chẳng thà trước hết hãy gọi hai
viên ấy về triều, giam cả ở trong phủ, rồi bấy giờ hãy tuyên bố tội trạng và
trừng trị một thể.
Chúa cho
là phải. Hôm sau chúa đòi thế tử vào cung, vờ quở mắng về việc xao nhãng học
hành, rồi bắt thế tử phải đến ở trong một ngôi nhà ba gian trong Trạch các. Lại
sai tiến sĩ khoa Bính-tuất (1766) là Nguyễn Quýnh làm tả tư giảng, và tiến sĩ
khoa Mậu-tuất (1778) là Nguyễn Đích làm hữu tư giảng. Rồi sau đó chúa cho đòi
hai viên trấn thủ Tây, Bắc về triều; bữa ấy nhằm ngày 15 tháng 8 năm Canh tý
niên hiệu Cảnh hưng (1780).
Lại nói,
lúc ấy ở trấn Kinh Bắc (địa bàn Kinh Bắc gồm: Bắc Ninh, Bắc Giang, Phúc Yên) có
viên đốc đồng là Ngô Thì Nhậm (người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh
Hà Đông, con Ngô Thì Sỹ, sau làm quan với Tây Sơn), tiến sĩ khoa ất-mùi (1775)
vốn là gia thần và tuỳ-giảng của thế tử, thường vẫn rất ăn ý với trấn thủ Tuân
sinh hầu (Nguyễn Khắc Tuân). Về phía Tuân, không việc gì là không bàn với Nhậm,
duy chỉ có việc âm mưu của thế tử là Tuân không hề nói đến. Trước đó mấy ngày,
Sơn Thọ (có sách chép Hà Như Sơn) là gia thần của thế tử, lại từng là học trò
của Nhậm, được thế tử sai đến kể rõ mưu mô của thế tử cho Nhậm biết; rồi lại
ngầm ra lệnh cho Nhậm phái người cất lẻn lên vùng Lạng Sơn mua ngựa tốt để dùng
vào việc binh. Thì Nhậm hoảng sợ nói:
- Thế tử
là người sẽ nối ngôi chúa, mà nước là nước của thế tử, lo gì mất ngôi mà phải
lập mưu ấy? Đây ắt lại do bọn tôi tớ xúi giục. Thế tử trẻ người hăng máu, suy
nghĩ chưa chín chắn, nên mới nghe theo họ. Chúa thượng là người xét đoán sáng
suốt, há lại che giấu được ngài ư? E rằng tai hoạ sẽ xảy ra lúc nào không biết,
bọn gia thần của thế tử rồi không còn đất gửi thân đâu.
Đoạn Thì
Nhậm vội vã sang kể hết tình đầu cho Khắc Tuân nghe, và khuyên Tuân phải hoả
tốc về kinh, can ngăn thế tử đừng làm việc đó, để tránh tai vạ sau này.
Khắc
Tuân không nghe, nói rằng:
- Tiểu
chức này với quan lớn, chỉ biết việc tuần phòng khám xét; ngoài ra những việc
không dính líu đến ta, thì không nên hé răng.
Thì Nhậm
thở dài mà về.
Mấy ngày
sau, quả nhiên có lệnh đòi Khắc Tuân và Thì Nhậm. Hai người vội vàng cùng đi.
Tới kinh, họ thấy trấn thủ Sơn Tây (Hồng lĩnh hầu Nguyễn Khản) và a bảo Hân
quận công (Nguyễn Đĩnh) đều đã bị triệu về, còn đang ngồi đợi tội ở nhà Tả-xuyên.
Khắc Tuân xin vào điếm Quyển-bồng gặp chúa, nhưng chúa không cho vào, sai viên
quan hầu là Quyến trung hầu ra trách Khắc Tuân rằng:
- Cậu và
thằng Tông đã muốn làm giặc thì cậu cứ việc ra mà sắp sẵn binh mã, đây ta đã có
các tướng mạnh để đối địch với cậu!
Khắc
Tuân quay ra, gặp Thì Nhậm ở điếm Tiểu-bút, Tuân cầm tay Nhậm than:
- Tôi
thờ chúa từ khi lọt lòng đến giờ, nay chúa gọi tôi là giặc. Hôm nọ quan lớn nói
chuyện tôi cứ cho làm thường, nay việc đã như thế, tính sao bây giờ?
Thì Nhậm
cũng hoảng hốt chẳng biết trả lời thế nào.
Khắc
Tuân liền làm tờ khải, cung khai hết những việc trước rồi nhờ Quyến trung hầu
đưa vào dâng chúa. Nhưng chúa đang giận, không xem, lại sai Quyến trung hầu đem
tờ khải ra xé trước mặt Khắc Tuân.
Khắc
Tuân lượm lấy tờ khải bị xé ấy mà ra, nhưng sợ hãi luống cuống chẳng biết đi
đường nào.
Viên
trấn thủ Sơn Tây lúc ấy cũng rất lo sợ, có điều muốn nói mà không dám tự bày
tỏ. Ông ta bèn cùng Khắc Tuân nói với Thì Nhậm:
Bọn tôi
ở ngôi trọng yếu mà bị lời gièm pha nặng nề, bây giờ dù có nói gì, chúa cũng
chẳng tin. Ngài nên đem những điều nghe thấy viết một tờ khải, đổ tội cho lũ
tôi tớ, như vậy may ra bọn tôi mới khỏi bị oan, mà thế tử cũng sẽ được an toàn
không việc gì.
Thì Nhậm
bất đắc dĩ phải làm theo ý hai người. Chẳng ngờ chúa nhận được tờ khải, lại
càng giận dữ nói:
- Quả
như lời nói của người ta không sai!
Rồi chúa
sai Thì Nhậm và bọn quan hầu là Ngạn triêu hầu, Đường trung hầu, án trung hầu
cùng tra xét vụ án đó.
Thì Nhậm
cùng bọn quan hầu định tìm cách gỡ tội cho Khắc Tuân và viên trấn thủ Sơn Tây,
nhưng vì nhà có tang Nhậm phải bỏ việc quan mà về [Nhậm về chịu tang cha là Ngô
Thì Sĩ. Theo Việt sử thông giám cương mục (sau đây gọi tắt là Cương mục) thì
chính Nhậm hợp mưu cùng Huy Bá để tố cáo việc của Tông và Khắc Tuân. Ngô Thì Sĩ
đã cố sức can mà nhậm vẫn không nghe. Sau khi nghe tin Nhậm đã phát giác việc
ấy, Sĩ buồn bực, bèn uống thuốc độc tự tử. Nhậm vì có công tố giác, được thăng
hữu thị lang bộ Công. Do đó, người đương thời có câu rằng: "Sát tứ phụ nhi
thị lang" giết 4người cha để làm thị lang). Bốn cha là: Sĩ, thân phụ;
Tông, quân phụ; Khắc Tuân, và Xuân Hán, phụ chấp (bạn của bố). Có thuyết lại
nói tứ phụ là Sỹ và Nguyễn Khản, Phương Định, Khắc Tuân ba người bạn của bố].
Chúa bèn
giao cho viên đồng tham tụng là Nghĩa phái hầu Lê Quí Đôn, bảng nhãn khoa
Nhâm-thân (1752) làm thay việc tra xét. Cuối cùng, nắm được hết tình hình tội
trạng, chúa liền gọi các chính thần vào cung vừa khóc vừa nói:
- Quả
nhân không may gặp phải thằng con bất hiếu, lũ bầy tôi bất trung, chúng ngầm
mưu việc phản nghịch; hình tích cũng giống như vụ Thừa Kiền, nhưng tâm địa thì
tệ hơn nhiều. Việc bỏ con cả lập con thứ là bất đắc dĩ. Các ngươi cũng nên hiểu
rõ bụng ta, cứ theo phép nước mà định tội chúng nó đi!
Các quan
trong triều bàn rằng: mấy tên phạm tội đều nên xử tử, còn riêng về thế tử thì
không dám bàn.
Lời bàn
đó dâng lên, chúa cầm bút phê rằng:
"Cứ
xét theo nghĩa của kinh Xuân-thu thì phải trị tội tên Tông thật nặng. Nhưng
nghĩ tình cha con ruột thịt không nỡ như thế, vậy nên truất nó xuống làm con
út, trọn đời giữ đạo làm tôi. Còn bọn các quan, thì viên trấn thủ Sơn Tây và
Khê trung hầu, vốn đã theo hầu ta từ lúc chưa lên ngôi, cũng có công lao, đặc
ân cho được tự liệu lấy. Riêng a bảo Hân quận công là người thật thà không tham
dự và mưu đó cũng được tha tội chết, nhưng phải cách chức xuống làm dân
thường".
Mệnh
lệnh ban xuống, Khê trung hầu và Tuân sinh hầu đều uống thuốc độc tự tử.
Dưới
trướng Tuân sinh hầu có viên văn thư là Nguyễn Quốc Trấn cũng bị tội lây với
chủ, phải ghép án tử hình. Lúc sắp bị chém, Quốc Trấn quát lớn:
- Trời
không có mắt, triều đình không có quan, nỡ để Quốc Trấn mắc oan.
Rồi Trấn
dặn người thân thuộc để giấy bút vào tay áo mình và nói thêm:
- Sống
đã không bày tỏ nỗi oan được, chết phải kiện ở âm phủ.
Mọi
người nghe câu nói đó, ai cũng thương xót cảm động.
Thế tử
Tông bị truất rồi, chúa bắt cứ phải ở trong ngôi nhà ba gian, cho người giám
sát chặt chẽ; phàm những việc ăn uống Tông đều không được tự do. Bọn gia thần
của Tông cũng không được phép ra vào thăm hỏi. Do đó, phe đảng của thế tử, mỗi
người lẩn trốn đi mỗi nơi.
Còn phe
cánh của Thị Huệ thì mỗi ngày một mạnh. Các quan lớn nhỏ không ai là không nịnh
nọt, hùa theo, mà nhà chúa cũng càng trọng ả hơn trước.
Thừa dịp
ấy, Thị Huệ bèn hỏi con gái chúa là công chúa Ngọc Lan cho em trai mình là Đặng
Mậu Lân.
Công
chúa này tên chữ là Ngọc Thuyên, là cô con gái yêu quý nhất của chúa. Nguyên
chính phi họ Hoàng sinh được hai nàng công chúa. Cô lớn là công chúa Ngọc Anh,
tên chữ là Ngọc Loan, đã gả cho Đương trung hầu Bùi Thế Toại, con trai cả của
Đoan quận công Bùi Danh Đạt làm trấn thủ Nghệ An trước kia. Còn Ngọc Lan là cô
thứ hai, chưa có chồng, được chúa rất yêu chiều.
Ngọc Lan
vóc người yếu đuối, từ nhỏ vẫn ở trong cung thuỷ tinh, kiêng nắng, kiêng gió.
Nơi Ngọc Lan ở, chúa bắt thị tỳ phải nói năng sẽ sàng để cho nàng khỏi giật
mình. Khi Ngọc Lan đã lớn, mỗi lần vào thăm chúa, chúa đều cho phép cùng ngồi
với mình như lúc nàng còn bé. Phàm những điều Ngọc Lan cầu xin chúa, không có
lời nào là không đắt. Các quan vào hàng công thần, quí tộc, nhiều người đã tới
cầu hôn, nhưng chúa chưa hứa gả cho ai. Đã có lần chúa hạ chiếu chỉ cho các
quan văn võ, cùng con cháu các dòng họ công thần vào phủ để cho công chúa tự
kén chọn. Chúa bảo công chúa hễ chọn được ai vừa ý thì chúa sẽ gả cho người đó.
Nhưng Ngọc Lan vẫn chưa kén được ai vừa lòng.
Đến nay,
Thị Huệ cầu hôn cho em trai, chúa sợ mất lòng ả ta, bất đắc dĩ mà phải gượng
nhận lời.
Lại nói,
Đặng Mậu Lân này vốn là một tên hung bạo; từ khi Thị Huệ được chúa yêu dấu Lân
lại càng ỷ vào thế chị để làm những việc càn rỡ. Hết thảy áo quần, xe kiệu của
y, nhất nhất đều rập kiểu theo đúng như của vua chúa. Thường ngày, Lân vẫn đem
theo vài chục tên tay sai, cầm gươm vác giáo đi nghênh ngang khắp kinh ấp. Hễ gặp
xe kiệu, bất kỳ là của đám quan quân nào, Lân cũng đều cà khịa đánh nhau làm
cho họ nhục nhã, rồi lấy thế làm thích thú. Gặp đàn bà con gái giữa đường, hễ
người nào trông vừa mắt, tức thì Lân sai tay chân quây màn trướng ngay tại chỗ,
rồi lôi người ấy vào hiếp liền. Ai không chịu, Lân xẻo luôn đầu vú. Chồng hoặc
cha kẻ bị nạn, nếu dám hé răng kêu ca, lập tức Lân sai quân vặn gãy răng, hoặc
cũng có người bị đánh đến chết. Người thiên hạ sợ Lân hơn sợ beo sói.
Chúa
cũng biết thế, nên tuy đã trót nhận lời gả công chúa cho Lân mà trong bụng vẫn
còn có ý thương tiếc. Vả lại chúa nghĩ, công chúa người yếu ớt, mảnh khảnh,
không thể chịu nổi một tên đàn ông cường bạo như thế. Nến đến ngày về nhà Lân,
chúa lấy cớ rằng công chúa chưa từng lên đậu lên sởi, để không cho phép Lân hợp
cẩn (Theo lễ xưa, đêm tân hôn vợ chồng uống chung một chén rượu, gọi là hợp
cẩn). Rồi chúa sai quan a bảo cùng nhiều thị nữ đi theo để hộ vệ công chúa.
Tiếp đó, chúa lại phái thêm cả viên nội sai là Sử trung hầu đến làm giám chế,
không cho Lân xâm phạm tới công chúa.
Thật là:
Ái ân,
cô gái không e sợ
Hoan hỉ,
chàng trai lại dở dang.
Chưa
biết việc tới thế nào? Hãy xem hồi sau phân giải.
Chương 2 : Lập Điện đô, bảy quan nhận di chúc,
Giết Huy quận, ba quân phò Trịnh vương.
Người
đăng: Lịch sử Việt Nam
Lại nói, Đặng Mậu Lân tuy đã lấy được công
chúa Ngọc Lan, nhưng cứ mỗi lần vào với công chúa thì lại bị Sử Trung ngăn cản;
vì vậy Lân hết sức tức giận, nói với Sử Trung rằng:
- Chúa
bảo con gái chúa là tiên dưới trần, nhưng ta coi ra, thật không bằng con bé ở
xách giày nhà ta, có quý hoá gì? Đây ta không phải ham gì nhan sắc của nó;
nhưng tốn kém mất bao nhiêu tiền của mới lấy được một con vợ, nếu không ra hồn
thì cũng phải vần một trận cho nẫu nhừ ra như bùn, để đền đắp lại sự phí tổn, rồi
bấy giờ sẽ tống cổ nó đi. Còn mày, mày muốn sống muốn tốt thì hãy tìm đường
kiếm nẻo mà bước đi. Kẻo nữa lại kêu ta không bảo trước.
Sử Trung
đáp:
- Đó là
mật chỉ của chúa thượng, không phải tôi dám như vậy!
Lân nói:
- Mày
thử hỏi chúa, xem chúa ở vào địa vị tao liệu chúa có nhịn được không?
Sử Trung
nói:
- Quan
lớn đừng nên quá lời như vậy, nhà chúa không thể so sánh với người thường.
Lân nổi
giận đùng đùng mà rằng:
- à, mày
đem chúa để doạ tao phỏng? Chúa là cái quái gì?
Dứt lời,
Lân tuốt gươm chém Sử Trung. Sử Trung chết ngay.
Giết
xong Sử Trung, lân bèn sai đóng chặt cửa dinh, ra lệnh trong không được ra,
ngoài không được vào, định ngầm thủ tiêu cái thây Sử Trung.
Ngọc Lan
nghe chuyện, sợ quá, lập tức bảo một thị nữ chui qua một lỗ hở nhỏ chạy về phủ
chúa báo tin.
Chúa cả
giận, sai viên quan hầu đốc thúc một toán lính đến bắt Lân.
Lân cầm
gươm lăm lăm, đứng trước cửa doạ:
- Đứa
nào muốn chết thì cứ vào đây!
Chúa lại
phải sai quận Huy đem quân vây bắt Lân, giải về phủ, giao cho triều đình xử
tội. Các quan đều nói tội giết sứ giả đáng bêu đầu.
Thị Huệ
nghe tin, khóc lóc xin chết thay em. Chúa bất đắc dĩ phải tha cho Lân tội chết
và giảm xuống thành tội đi đày ở châu xa.
Lại nói,
vương tử Cán rất tuấn tú, thông minh, nhưng người vốn yếu đuối. Lúc còn ẵm
ngửa, vương tử đã mắc chứng cam: bụng to, rốn lồi, da nhợt, gân xanh, chân tay
gầy khẳng khiu. Chúa phải sai người đi tìm danh y khắp bốn phương về chữa cho
vương tử (Hải thượng lãn ông Lê Hữu Trác cũng đã từng bị triệu vào kinh để chữa
bệnh cho Cán (xem Thượng kinh ký sự)). Những người do nghề thuốc mà vào phủ đều
được thăng trưởng: Nguyễn Thực từ chức huấn đạo lên đến chức tiến triều; Chu
Nghĩa Long là người khách buôn Trung Quốc, được phong tước hầu coi việc quân.
Thuốc thang tốn kém kể có hàng trăm vạn, nhưng chạy chữa hết năm này qua năm
khác mà bệnh vẫn không khỏi.
Chúa lại
sai người đi lễ bái khắp các đền đài có tiếng linh thiêng; một mặt cho thiết
lập đàn tràng ở ngay trong cung để ngày đêm đèn nhang cầu khẩn. Vậy mà bệnh của
vương tử vẫn đâu hoàn đấy.
Có kẻ tố
cáo với chúa, nói là vì Tiệp dư (Tiệp dư đây không rõ ai, bản chữ Hán không ghi
tên họ người nào; bản dịch của Ngô Tất Tố, cho là Dương Ngọc Hoan có lẽ là
phỏng đoán như vậy) không được yêu, sinh ra ghen ghét, mượn bọn đồng cốt chôn
hình người gỗ ở trong cung để trấn yểm.
Chúa
giận lắm, sai bắt người nhà Tiệp dư để tra hỏi. Nhưng bọn ấy trốn hết, tìm khắp
tứ phía không lùng bắt được người nào cả. Sau, kẻ tố cáo tự dẫn người đến đào
chỗ chôn người gỗ, cũng không thấy gì, việc này mới thôi.
Tuy
nhiên, bụng chúa cũng vẫn còn ngờ, nên cứ để mặc cho Thị Huệ làm chay làm bùa,
tha hồ cúng lễ. Do đó, bọn đồng cốt ra vào tấp nập; mà bệnh của vương tử Cán
vẫn khi tăng khi giảm chẳng ra thế nào.
Đến khi
thế tử Tông bị tội, thì gặp lúc bệnh của vương tử Cán đã hơi đỡ. Năm sau vương
tử lên đậu, từ tuần nung mủ đến tuần đậu lặn đều không có gì quản ngại. Chúa
hết sức vui mừng nói:
- Thì ra
trẻ con cam sài cũng là sự thường, chẳng cần phải lo. Mà hễ nó đã lên đậu, lên
sởi thì tức là nên người rồi.
Bấy giờ
các quan trong ngoài đều có lời chúc mừng.
Nhiều
người khuyên chúa giáng chỉ lập vương tử Cán làm thế tử cho yên sự mong mỏi của
thiên hạ. Chúa nghe lời ngay.
Thánh
mẫu thái tôn (tức là mẹ Trịnh Sâm) được tin liền nói với chúa:
- Thế tử
Tông với vương tử Cán đều là cháu cả, già này thực không coi đứa nào hơn đứa
nào. Có điều thế tử đã lớn và khoẻ mạnh, còn vương tử thì nhỏ tuổi lại hay đau
yếu; khuyên chúa hãy nghĩ đến tôn miếu xã tắc, tạm dành ngôi đông cung lại đó,
may ra đứa con út (chỉ Tông vì Tông bị giáng xuống làm con út) kia nó biết hối
lỗi thì hay, bằng không, đợi lúc vương tử khôn lớn hãy lập trưởng cũng chưa
muộn gì.
Chúa
đáp:
- Tên
Tông và tên Cán đối với mẹ là cháu, chưa bằng đối với tôi là con. Người xưa đã
nói: "Biết con chẳng ai bằng cha". Tôi cũng chưa đến nỗi mê lẫn, vả
chăng triều đình bàn bạc chung như thế, chứ cũng chẳng phải vì tôi yêu đứa con
nhỏ mà bày đặt ra việc này. Mẹ há chẳng biết rõ rồi sao? Nay nếu không sớm định
người nối ngôi, bọn tiểu nhân đâm ra dòm nom, mong chờ, tôi e tai hoạ sẽ xảy
đến lúc nào không biết. Huống hồ ngôi báu của thiên hạ cốt phải giao phó vào
tay người xứng đáng. Đã coi tôn xã làm trọng, thì dẫu con đẻ ra cũng không được
tư túi; lẽ nào tôi lại dám tư túi với đứa con nhỏ? Nếu như cuối cùng bệnh của
Cán không khỏi, thì thà lập Côn quận công (có bản chép là Quế quận công, tức
Trịnh Bồng, anh em con chú bác với Sâm, con Trịnh Giang), trả lại dòng chính
cho nhà bác; chứ không thể nào giao cho cái thằng Tông bất hiếu, để nó làm hỏng
cơ nghiệp của tổ tiên.
Thánh
mẫu không dám nói gì nữa.
Chúa bèn
sai các quan trong triều làm tờ tâu lên vua Lê, xin lập vương tử Cán làm thế tử
(Bấy giờ có nhiều người không đồng tình việc lập Cán, nên đã đặt ra câu ca dao:
Đục cùn
thì giữ lấy tông:
Đục
long, cán gãy, còn mong nỗi gì?
Dùng chữ
tông và cán theo nghĩa đôi để chỉ vào Trịnh Tông và Trịnh Cán. ).
Lại nói,
từ mấy năm nay, bệnh cũ của chúa vẫn thường hay phát trở lại, khi thì một
tháng, khi thì nửa tháng. Mỗi lần bệnh phát thường hết sức nguy kịch, nhưng rồi
dần dần cũng lại khỏi. Chúa rất sợ nắng gió, bình thường phải ở luôn trong thâm
cung và nơi đó phải thắp nến suốt đêm ngày. Nếu không phải triều hội lớn, thì
không bao giờ chúa ra gặp các quan. Sập ngự trong phủ chúa có che trướng thuỷ
tinh, kiệu của chúa đi cũng treo rèm thuỷ tinh, để ngăn nắng gió. Các quan muốn
trình báo việc gì, đều do quan hầu đem tờ khải vào. Chúa muốn phán gì cũng do
quan thị truyền chỉ ra. Dẫu đến các bậc thân quí, cũng phải một năm hoặc nửa
năm mới gặp mặt chúa một lần. Còn các hàng văn võ trong triều, thì thường không
hề được thấy mặt rồng. Việc của phủ chúa, bên ngoài người ta đồn đại như là
việc thiên tào. Cứ như thế, sự ngăn cách, che lấp ngày càng thêm tệ.
Đến lúc
này, bện của chúa lại nguy kịch. Thị Huệ ngày đêm hầu hạ. Trong hàng đại thần
chỉ có quận Huy là được ra vào. Mẹ chúa và các con gái chúa cũng ít khi được
tới gặp, hàng ngày thăm hỏi sức khoẻ của chúa, họ chỉ đứng ngoài cửa buồng và
hỏi qua bọn quan hầu mà thôi.
Nhân cơ
hội ấy, Thị Huệ bèn nói với chúa:
- Thiếp
thờ chúa thượng, nhờ ơn được quá thương yêu, thành ra nhiều kẻ thù ghét; không
biết rồi đây mẹ con thiếp sẽ gửi thân vào đâu?
Chúa yên
ủi rằng:
- Thế tử
đã chính thức lên ngôi đông cung, nước là nước của nó; rồi đây khanh sẽ làm mẹ
cả thiên hạ, kẻ nào còn thay đổi được?
Thị Huệ
lại thưa:
- Sợ
không dự định trước, đến lúc tình thế khẩn cấp sẽ bị người khác cướp mất.
Bấy giờ
quận Huy cũng có ở đó. Chúa nhìn Huy nói:
- Sau
này ngươi cần hết sức giúp đỡ chính cung và thế tử, để cho yên lòng ta.
Quận Huy
thưa:
- Tôi
dám đâu chẳng hết lòng về việc này kỳ cho đến chết. Nhưng ngay bây giờ, nhân
lúc chúa còn tỉnh táo, xin hãy kịp thời truyền mệnh lệnh cho thế tử Cán nối
ngôi và lập chính cung làm vương phi, cùng coi việc nước, để cho có mệnh lệnh
sẵn sàng.
Chúa
khen:
- Phải
đấy! Khanh cần làm phụ chính cho vương tử.
Quận Huy
lại thưa:
- Vâng
lời di chúc làm người phụ chính, tôi chẳng dám gánh vác một mình. Hiện nay có
Khanh quận công là bậc chí thân, Hoàn quận công là bậc sư phó đại thần, Châu
quận công và Tứ xuyên hầu đều ở trong chính phủ, vốn có đức vọng, Diễm quận
công là a bảo của đông cung, Thuỳ trung hầu là bảo vệ của đông cung, đều là
những bầy tôi tin cậy. Vậy xin nhà chúa hãy cho phép những viên ấy cùng nhận cố
mệnh (mệnh dặn lại lúc sắp chết) với tôi.
Chúa
bằng lòng.
Quận Huy
liền sai Tứ xuyên hầu thảo tờ cố mệnh, và quan thiêm sai Nhữ Công Điền làm tờ
sách phong Tuyên phi. Giấy tờ lập xong, Huy bỏ vào tay áo đem dâng chúa để xin
điền tên.
Bấy giờ
bệnh chúa đã nguy kịch, nhân có thánh mẫu vào thăm, Thị Huệ phải ôm chúa ngồi
dậy. Thánh mẫu đứng ở đầu sập vừa khóc vừa hỏi han. Chúa cũng khóc mà rằng:
- Con
xin chắp tay cúi đầu lạy mẹ. Nay con chẳng may xấu số, không được thờ mẹ cho
đến cùng. Nghĩ đến đạo hiếu chưa tròn, ruột gan con đau như dao cắt. Xin mẹ hãy
ngự giá về cung, cố ăn ngủ cho thảnh thơi, đừng nghĩ gì đến con mà đau lòng mẹ.
Còn việc sớm hôm thăm hỏi sau này đã có tự vương (chúa nối nghiệp, chỉ Trịnh
Cán) thay con.
Thánh
mẫu nức nở, sụt sịt, ngập ngừng hồi lâu, ý muốn nói đến ngôi thế tử, nhưng vì
có Thị Huệ ở đấy nên cũng khó hé răng, dùng dằng mãi chưa ra.
Chúa
thấy vậy lại nói:
- Mẹ quá
thương con, không nỡ dứt tình mà đi. Con trông thấy mẹ cũng đau lòng không thể
nhắm mắt. Vậy cúi xin mẹ hãy ngự giá về cung.
Thánh
mẫu bèn ứa nước mắt trở ra.
Chúa
quay sang dặn Thị Huệ.
- Bệnh
ta không khỏi, không ở được cùng khanh đến lúc bạc đầu. Nay ta về chầu giời,
khanh ở lại phụng thờ thánh mẫu, nuôi nấng tự vương; còn duyên sắt cầm đành hẹn
đến kiếp khác.
Thị Huệ
nấc lên đến hơn một khắc, rồi ả cắt tóc thề rằng:
- Chúa
thượng chẳng thương thiếp, nỡ bỏ thiếp vò võ một mình! Thiếp xin liều thân mà
chết theo chúa. Thờ phụng thánh mẫu đã có hai công chúa, giúp rập tự vương đã
có các quan đại thần, chúa đừng giao những việc ấy cho thiếp.
Rồi thị
khóc oà lên.
Chúa
ngoảnh sang Thuỳ trung hầu nói:
- Sau
khi ta qua đời, các ngươi phải nên khuyên giải chính cung cho khéo, chớ để nàng
liều mình. Vạn nhất nếu không ngăn cản nổi ý chí của nàng, thì cứ để nàng chung
thuyền với ta mà đưa đi, cho nàng được hầu hạ ta ở nơi lăng tẩm.
Tiếp đó,
chúa cho đòi quận Khanh, quận Hoàn vào chịu cố mệnh.
Hai
người vào, chúa truyền miễn lạy và cho ngồi. Hai người khóc lóc hỏi han sức
khoẻ. Chúa nói:
- Con
xin chắp tay cúi đầu lạy chú, lạy thầy. Chẳng may con bị bệnh nặng, nay đã nguy
cấp, muốn cho thế tử Cán lên nối ngôi chúa. Vậy nhờ chú và thầy chung sức đồng
lòng, giúp cho qua khỏi bước khó khăn này.
Dứt lời,
chúa bảo Thị Huệ đặt mình nằm xuống.
Quận Huy
quì xuống, rút tờ cố mệnh trong tay áo dâng trình, nhưng chúa chỉ lấy tay xua
đi.
Quận Huy
lại thưa rằng:
- Nay
thánh thể không yên, mà chỗ đề tên họ trong tờ cố mệnh thì hãy còn để trống,
vậy xin chúa hãy để cho vương thân Khanh quận công viết thay.
Chúa
không còn nói được nữa, chỉ gật đầu mà thôi.
Quận
Khanh bèn lấy bút phê, rồi ngay trước sập chúa, lần lượt viết tên mấy người vào
chỗ bỏ trắng trong tờ cố mệnh. Viết xong, lại dâng cho chúa xem; nhưng lúc ấy
chúa đã nhắm nghiền hai mắt không biết gì nữa.
Thế là
Trịnh vương qua đời. Bữa ấy nhằm ngày 13 tháng quận Huy năm Nhâm-dần (1782).
Chúa thọ 44 tuổi, làm chúa được 16 năm.
Sau khi
chúa tắt thở, quận Huy một mặt cắt đặt cho các quan lo liệu việc tang lễ, một
mặt sai Thuỳ trung hầu sao lấy mấy bản thư cố mệnh và tờ sách phong Tuyên phi
đưa ra chính phủ, để cho các quan triều tâu lên vua Lê.
Ngay hôm
ấy, vua Lê hạ sắc dụ lập thế tử Cán làm Điện đô vương.
Trăm
quan liền đem nghi trượng, binh lính đến cửa Kính-thiên để rước sắc về phủ
chúa.
Đến phủ,
quan a bảo Diễm quận công bế thế tử-đã được mặc áo triều, đội mũ, mang đai màu
hoa quì-đứng đón ở sân, quỳ xuống nhận sắc.
Xong đó,
ngoài phủ đường đã đặt sẵn sập ngự, quận Diễm bồng thế tử Cán lên ngôi chúa.
Các quan theo thứ tự lần lượt vào lễ mừng. Lễ xong, quận Diễm lại bế chúa mới
(Trịnh Cán) vào cung Huỳnh để lạy thánh mẫu. Rồi sau đấy, mọi người đều thay
triều phục, mặc áo trở để làm lễ phát tang.
Lúc
Thịnh vương còn sống có soạn ra cuốn Vạn niên thư, phàm việc tang lễ từ lễ
"phạm hàm" đến lễ "đại tường", "nhập miếu" (Phạm
hàm: Lễ đặt vàng, ngọc hoặc các của quí khác vào trong miệng người chết. Đại
tường: Lễ giỗ sau khi chết hai năm. Nhập miếu: Lễ rước linh hồn vào nhà thờ, để
thờ chung với các tổ tiên), nghi tiết như thế nào đều đã chua rõ; cho cả đến
mấy chữ miếu hiệu "Thánh tổ Thịnh vương" cũng được ghi sẵn. Nay cứ
theo đó mà làm.
Bảy viên
đại thần ngày đêm túc trực ở trong phủ, chia nhau coi sóc mọi việc.
Lại nói
về bảy viên phụ chính này.
Khanh
quận công tên là Trịnh Kiều, tức là con thứ năm của Hy tổ Nhân vương, và là em
Nhị tổ Ân vương, đối với chúa mới là hàng ông chú. Kiều là bậc tuổi cao, đức
cả, song tính tình chất phác, thật thà, đối với công việc nên hay không nên
cũng mặc, chẳng có ý kiến gì.
Hoàng
quận công tên là Nguyễn Hoàn, người làng Lan Khê huyện Nông Cống, đỗ tiến sĩ
khoa Quí-hợi (1743). Trước Hoàn làm hữu tư giảng cho Thịnh vương, sau lên đến
chức thượng thư bộ Lại, rồi làm Tham tụng. Hoàn đã về trí sĩ nhưng lại bị gọi
ra tham dự triều chính, Hoàn là một vị trọng thần của nhà nước, nhưng tính
người hoà hoãn, chìm nổi theo đời, gặp việc thường dè chừng, không quyết đoán.
Tứ xuyên
hầu tên là Phan Lê Phiên (có sách chép Duy Phiên hoặc Trọng Phiên), người làng
Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, đỗ tiến sĩ khoa Đinh-sửu (1757). Phiên từng làm tả
thị lang bộ Hộ, làm tham tụng; là người có phong độ đoan trang, học vấn rộng
rãi, nhưng tính nết thâm trầm lại hay nương nhờ vào bọn quyền thế.
Châu
quận công, Diễm quận công và Thuỳ trung hầu đều xuất thân từ hàng quan hoạn.
Châu
quận công tên là Lê Đình Châu, người làng Liên Hồ, huyện Ngọc Sơn, hầu hạ các
chúa trải đã mấy triều. Châu có làm chức tri binh phiên cơ mật, là người trung
hậu, lúc đã già vì là bậc kỳ cựu, nên được vào chính phủ, nhưng không giữ việc
gì.
Diễm
quận công tức Trần Xuân Huy, người làng Khoái Lạc, huyện Thiên Bản; nguyên là gia
thần của Thịnh vương, khi vương chưa lên ngôi. Lúc Thịnh vương lên cầm quyền,
Huy được giao cho chức tri hộ phiên. Huy là người thuần thục, cẩn thận. Thịnh
vương rất tin, sai Huy làm a bảo cho thế tử, ngày đêm ở luôn bên cạnh thế tử,
không dự gì đến những việc bên ngoài.
Thuỳ
trung hầu tên là Tạ Danh Thuỳ, người làng Khang Thượng, huyện Yên Mô, từng làm
chức xuất nạp (một chức quan hầu cận của vua chúa chuyên giữ việc phát nhận
giấy tờ, và truyền đạt mệnh lệnh) rồi lại làm trấn thủ Thanh Hoa (thời Lê trung
hưng, Thanh Hoá gọi là Thanh Hoa). Thuỳ là người cơ trí, giỏi văn học, biện
luận như gió. Thịnh vương vốn tin trọng, sai Thuỳ làm chức bảo vệ cho thế tử;
nhưng vì Thuỳ tuổi trẻ chưa có danh vọng gì mấy, nên không tránh khỏi phải lép
vế và chiều theo ý những kẻ đồng liêu.
Bởi vậy,
hết thảy mọi việc trong thiên hạ đều do một tay quận Huy quyết định, không có
ai bàn qua nói lại gì hết.
Nguyên
sáu người kia, không phải hết thảy đều một lòng với quận Huy cả. Chẳng qua thấy
họ có địa vị và danh vọng, nên quận Huy mới lôi kéo họ vào cùng cánh với mình
để họ khỏi có ý khác mà thôi.
Chỉ Diễm
quận công vốn là phe đảng của Thị Huệ, xưa nay lại rất ăn ý với Tứ xuyên hầu;
nên hai người này đều một bụng một dạ với quận Huy. Song quận Diễm là người dốt
nát, ít hiểu biết, việc gì cũng phải nhờ Tứ xuyên hầu chỉ vẽ cho; mà Tứ xuyên
hầu thì cũng như quận Huy, đều đang mê mẩn trong tình thế lúc bấy giờ.
Còn Hoàn
quận công là bậc lão nho. Thuỳ trung hầu là hạng khôn vặt. Rút lại không lường
được bụng dạ của họ ra sao.
Trong
đó, thực thà không có ý gì, duy chỉ có Khanh quận công và Châu quận công mà
thôi.
Quận Huy
tự đứng làm chủ cuộc, phàm mọi việc đều tự mình gánh vác, không cần đùn đẩy cho
ai; người khác có đồng ý hay không, Huy cũng chẳng thèm kể đến.
Lúc đó,
chúa mới lên ngôi, vì còn thơ ấu nên người trong nước không khỏi có ý ngờ. ở
phố phường người ta túm năm tụm ba bàn tán. Kẻ nói chúa mới bị bệnh rất nặng,
chưa biết chừng ngày nào đó trong cung sẽ có biến; quận Huy uy quyền lớn quá,
không khéo hắn sẽ cướp nước mất. Người bảo chính cung tư thông với Huy, ả sắp
đem xã tắc giao phó cho quận Huy. Bấy giờ, đầu đường xó chợ có câu ca dao như
sau:
Trăm
quan ít sáng nhiều mờ (có sách chép: "Trăm quan có mắt như mờ" hoặc
"Sáu ông cố mệnh ngẩn ngơ");
Để cho
Huy quận vào rờ chính cung.
Huy nghe
tin, bèn sai quan đề lĩnh đem móc sắt và kéo treo khắp các chợ, doạ rằng những
ai còn dám tụ họp nói chuyện thì sẽ móc lưỡi cắt đi. Do đó, ở ngoài đường sá
người ta chỉ dám ghé mắt ngó nhau; dân chúng kinh kỳ đều sợ nơm nớp.
Lại nói
về thế tử cũ, từ khi chúa mới lên ngôi, Thị Huệ vẫn muốn ngầm hại thế tử, nhưng
Thuỳ trung hầu thường tìm lời khôn khéo để che chở cho. Thị Huệ bị lời lẽ Thuỳ
trung hầu giằng giữ, nên không dám quả quyết hành động. ả bèn bắt Tông ra ở tại
nhà Tả-xuyên, rồi giao cho bốn đội Nội-khuông, Nội-dực, Nội-nhưng, Nội-kiệu
giám sát. Mỗi ngày chỉ có ba bữa cúng cha, thế tử mới được vào phủ đường, lễ
xong lại về sở giam. Vì vậy, thế tử ngày đêm lo lắng, sợ rằng không giữ được
tính mạng.
Mẹ thế
tử là thái phi họ Dương nhờ người chị là quận phu nhân họ Dương kêu van với
quận Huy rằng:
- Em
thiếp là cung tần Dương thị mỗ và con út chúa là vương tử mỗ xin gửi lời lạy
trình quan lớn xét cho: Đứa con út đó có tội, gạt bỏ là phải, không dám phàn
nàn. Nhưng nay nó ở vào cảnh ngộ hiềm nghi, tình thế cấp bách, khôn xiết nguy
hiểm sợ hãi. Vậy muôn vàn lần mong mỏi quan lớn hãy rủ lòng thương, che chở cho
nó được toàn vẹn; công ơn cứu sống của ngài, mẹ con nó xin ghi xương tạc dạ.
Quận Huy
vừa khóc vừa trả lời:
- Tôi
thờ tiên chúa, được chịu ơn huệ đã nhiều, nghĩa tuy là vua tôi, nhưng tình là
cha con. Thế tử cũ cũng là con của chúa tôi, tôi có lòng nào, thì xin trời đất
tru diệt. Phu nhân trở về, cho tôi gửi lời trình trước màn tang của vương tử và
quý cung tần rằng, xin cứ yên lòng, tôi sẽ hết sức giúp đỡ, không có điều gì
phải lo ngại.
Rồi Huy
bí mật sức cho bốn đội quan quân, ra lệnh phải lỏng lẻo bớt trong việc giam giữ
thế tử. Từ đó các gia thần và các người thân tin cũ của thế tử mới được ra vào
dễ dàng, không ai xét hỏi.
Thế tử
có người đầu bếp tên là Dự Vũ, vốn là người cơ trí, nói năng rành mạch. Một
hôm, thế tử hỏi bên ngoài lòng người ra sao, Dự Vũ đáp:
- Nhà
chúa bỏ con cả lập con út, thiên hạ đều căm ghét, nhất là quân lính lại càng
bất bình lắm. Hôm nọ trong khi tân chúa lên ngôi, theo lệ có ban tiền bạc cho
các quân sĩ, nhưng trong quân nhao nhao, có kẻ không chịu nhận tiền ấy. Sau,
quận Huy phải ra lệnh nghiêm cấm, họ mới miễn cưỡng nghe theo, mà trong lòng
vẫn còn hậm hực.
Thế tử
mừng thầm, đem chuyện ấy bàn với một viên gia thần tên là Gia Thọ.
Thọ
người làng Bát Tràng, huyện Gia Lâm, cũng là kẻ tinh khôn; hắn nói với thế tử:
- Lòng
người như thế, nếu lấy nghĩa khí mà khích động, khiến cho họ một lòng tôn phù,
thì việc lớn ắt thành.
Thế tử
mừng lắm, bèn sai Dự Vũ làm cơm rượu, mời bọn biện lại trong đám thân quân tới
đánh chén, rồi nói với họ rằng:
- Thế tử
chẳng có tội gì, nhưng bị mụ đàn bà ác nghiệt họ Đặng làm mê hoặc tiên chúa, vu
tội hãm hại thế tử để cướp ngôi. Còn quận Huy vốn có chí phản nghịch, lợi dụng
vương tử Cán bé dại dễ kiềm chế, nên hắn mới vào hùa với mụ mà gây ra việc bỏ
người này lập người kia, để hắn làm phụ chính cho tiện cái mưu cướp nước của
mình. Nay tân chúa bị bệnh nặng, sự nguy biến chỉ trong sớm tối. Không biết rồi
đây cơ nghiệp nhà chúa sẽ do ai làm chủ? Ba quân đều là người ở đất "thang
mộc" ("thang mộc" nghĩa là tắm gội. Đất "thang mộc" là
đất thiên tử phong cho các chư hầu, để làm nơi cung đốn việc tắm gội hoặc nơi
ăn ngủ trước khi vào chầu. Do đó, đất "thang mộc" cũng dùng để trỏ
chung đất quê hương của vua chúa. ở đây đất "thang mộc" trỏ vào Thanh
Hoá, đất quê hương của vua Lê. ) và là binh lính ứng nghĩa, làm nanh vuốt của
nhà nước, ai cũng sẵn lòng trung nghĩa. Nếu anh em còn nghĩ đến cái ơn của nhà
chúa nuôi nấng trong hai trăm năm, thì hãy nên một lòng giúp đỡ nhà chúa. Mai
đây nếu trời cho xong việc, tất nhiên sẽ có sách son, khoán sắt (văn thư viết
bằng son, khoán ước chế bằng sắt, ban cho bầy tôi có công để tỏ ý cùng được
hưởng phú quí lâu dài với nhà vua) lưu truyền muôn đời.
Mọi
người đều nói:
- Chúng
tôi vẫn có bụng đó, nhưng chưa biết ý vương tử ra sao. Sợ đến lúc ấy nhỡ có
điều gì kinh động, người lại quở trách chúng tôi gây việc. Nay vương tử đã ngỏ
ý cho biết như thế, thì việc này chắc không khó gì.
Sau đó,
họ bèn ngầm đi báo cho nhau, hẹn ngày tụ họp ở chùa Khán Sơn (chùa Khán Sơn xưa
ở trên trái núi đất gần khu vực vườn Bách Thảo Hà Nội, chùa bị phá từ cuối đời
Cảnh-hưng).
Lúc quân
lính đến hội họp, bàn về việc ấy không ai là không hăng hái. Nhưng họ còn sợ
thanh thế quận Huy, nên chưa biết khởi sự như thế nào cho ổn thoả.
Giữa lúc
đang bàn bạc như thế, thì bỗng một người đứng phắt lên nói:
- Chỉ sợ
anh em không cùng một bụng thôi. Chứ nếu ba quân đồng lòng, thì bất quá chỉ
thừa dịp cúng cơm sáng xong (theo tang lễ xưa, người chết khi chưa chôn thì gia
đình mỗi ngày cúng hai lần cơm), đánh một hồi trống trong phủ làm hiệu, rồi kéo
ùa cả vào, nắm cẳng hắn, vứt chỏng gọng xuống dưới thềm một cái là xong thôi
mà!
Mọi
người đều reo mừng hưởng ứng, và cùng nhìn về phía kẻ mới nói, thì ra đó là
viên biện lại của đội Tiệp-bảo (đội thân binh hầu hạ) tên là Bằng Vũ.
Gã Bằng
Vũ này là người huyện Thanh Chương, xứ Nghệ An, ông cha vốn là công thần đời Lê
trung hưng. Về sau tập ấm (đây dịch theo hai chữ ấm tận. Trong chế độ phong
kiến, những kẻ làm quan, tuỳ theo thứ bực, con cháu đều được nối nghiệp làm
quan gọi là tập ấm; đến lúc nào không được hưởng tập ấm nữa thì gọi là ấm tận)
đã hết, con cháu trở nên nghèo nàn. Bằng Vũ được người làng thuê đi lính thay.
Gã người thấp bé, thanh nhã như dáng học trò. Sau khi vào đội Tiệp-bảo, nhờ
biết dăm ba chữ, gã được làm chân biện lại. ở kinh, gã thường làm mướn đơn kiện
cho người ta, vẫn lừng tiếng là tay điêu toa trong việc xui nguyên giục bị.
Lúc này
Bằng Vũ thủ xướng ra lời bàn đó, cả bọn liền bầu ngay gã làm chủ mưu, giao cho
gã đánh trống trước để thúc giục ba quân.
Bằng Vũ
mạnh bạo nhận lời. Rồi cả bọn cùng nhau uống máu ăn thề. Nhưng họ không dự định
ngày nào, chỉ hẹn nhau hễ nghe hiệu trống của Bằng Vũ thì cùng kéo đến để khởi
sự.
Mưu toan
bí mật đã bàn định xong. Chợt lại có người nói:
- Việc
này hết sức quan hệ. Nên nhờ quốc cữu tâu với thánh mẫu, xin lĩnh ý chỉ của
thánh mẫu mà làm. Vạn nhất quận Huy có biết, mình còn có mật lệnh làm cớ để mà
nói, tỏ rằng mình vẫn làm việc minh bạch. Như thế mới là kế vạn toàn!
Người ấy
là Bùi Bật Trực, quán làng An Toàn, huyện La Sơn, một tay danh sĩ xứ Nghệ. Bật
Trực trước đã từng làm chức viên ngoại lang, hồi này vì bị mất quan vẫn nương
nhờ ở trong nhà quốc cữu Viêm quận công (Viêm quận công Nguyễn Trọng Viêm là em
mẹ Trịnh Sâm, do đó gọi là quốc cữu). Khi bọn biện lại hẹn quân sĩ đến tụ tập ở
chùa Khán Sơn, Bật Trực cũng đã nghe phong thanh. Gã liền đem mưu mô của bọn
quân sĩ nói nhỏ với Chiếu lĩnh bá (tức Nguyễn Trọng Chiếu), con Viêm quận công,
và khuyên nên nhập bọn để hớt lấy công ấy. Còn bản thân gã thì đứng ra làm
người manh mối giữa Chiếu lĩnh bá và bọn quân sĩ. Vì thế, nên gã mới đến dự
cuộc họp để nói với bọn họ như vậy.
Quân sĩ
vốn không cần chỉ của thánh mẫu, nhưng thấy người nhà quốc cữu cũng có mặt
trong cuộc hội họp, khước từ sẽ lộ chuyện. Vả lại, lời của Bật Trực nghe cũng
có lý, họ bèn cùng đi với Bật Trực đến gặp quận Viêm.
Lúc quân
sĩ chưa đến, Chiếu lĩnh bá đã đem chuyện nói trước với cha. Cha hắn ta vốn là người
tầm thường, nghe thấy chuyện đó thì sợ lắm, bèn nói:
- Lũ
lính tráng này là đồ thô lỗ, khinh suất nên mới làm việc ấy: mình can dự vào
làm gì? "Con vua thì lại làm vua". Ai làm chúa ta cũng vẫn không mất
cái chân là quốc cữu tiền triều. Nay lại muốn cầu công trạng, nếu việc thành,
ta không thể giàu sang hơn thế này nữa; mà ngộ nhỡ công việc vỡ lở, hẳn là chết
không có đất chôn!
Chiếu
lĩnh bá đáp:
- Bọn họ
bàn bạc, ước hẹn với nhau đã đâu vào đấy rồi. Thế nào nay mai họ cũng ra tay,
mà đã ra tay là phải xong việc. Cự tuyệt họ tức là bỏ uổng cơ hội. Vả chăng sự
giàu sang của cha dẫu đã đầy đủ rồi thật, nhưng cha cũng nên để cho chúng con
nhân dịp này mà lập công danh. Hơn nữa con đã trót hứa với họ, bây giờ dù có
muốn thoái thác cũng không thể được.
Một lát
quân sĩ kéo đến. Quận Viêm bất đắc dĩ phải ra tiếp.
Sau khi
nghe họ nói, quận Viêm trả lời:
- Các
anh em còn có lòng vì nước, tôi đây há lại dám có bụng dạ nào khác. Có điều anh
em muốn xin ý chỉ của thánh mẫu, thì nên đến nhà cháu tôi là viên phó tri binh
phiên Nguyễn Kiêm mà bảo viên ấy vào bẩm với thánh mẫu. Viên ấy giữ chức tri
lệnh sử, nên ra vào cung Huỳnh người ta sẽ không nghi ngờ. Còn tôi, tôi cũng
xin gửi lời trình thêm với thánh mẫu nữa.
Quân sĩ
nghe lời, lại kéo cả sang nhà Nguyễn Kiêm.
Kiêm vốn
là hạng hèn nhát, nghe quân sĩ nói thì hoảng hốt chối đây đẩy. Nhưng bọn người
vẫn cố nèo:
- Việc
này cũng đã bẩm với quốc cữu và Người đã dạy như thế.
Rồi họ
thúc ép Kiêm phải đến nhà quận Viêm để nhận lời dặn mà vào tâu với thánh mẫu.
Nguyên
việc bỏ con lớn lập con nhỏ, thánh mẫu vốn không hài lòng, vì vậy khi được nghe
mưu toan ấy, thánh mẫu đã thấy hợp ý ngay. Nhưng dẫu sao cũng chưa thoát khỏi
chí khí đàn bà, thánh mẫu sợ nhỡ công việc bại lộ, quốc cữu sẽ bị vạ lây; nên
muốn hãy ngầm dỗ dành quận Huy để hắn đưa thế tử Tông lên quyền ngôi chúa cho
khỏi sinh biến. Lại nghĩ trong bọn bảy tên phụ chính, chỉ có quận Hoàn vừa là
thầy học của chúa trước vừa là bố vợ Kiêm, bụng dạ có thể tin được, mà lại là
bậc lão nho có nhiều mưu trí, có thể cùng bàn mọi việc với ông ta. Thánh mẫu
bèn bảo Nguyễn Kiêm một mặt báo cho bọn quân sĩ hãy chậm khởi sự lại vài ngày,
còn một mặt thì tới bàn mưu với quận Hoàn.
Quận
Hoàn nói:
- Nếu ba
quân làm như thế, tất sẽ gây ra rất nhiều việc lôi thôi. Nay thánh mẫu quyết
đoán sáng suốt như vậy, thực là phúc cho xã tắc. Lão thần đây cũng không thể
nghĩ hơn thế được. Nhưng xin thánh mẫu hãy hạ chỉ dụ quận Huy, còn tôi ở trong
sẽ nói thêm vào.
Kiêm đem
lời ấy tâu với thánh mẫu. Thánh mẫu bèn sai người bảo quận Huy rằng: "Nay
tân chúa bị đau, trong nước đang lo lắng, nghi ngờ. Tướng quân nếu còn coi xã
tắc là trọng thì, hãy nên tạm để cho vương tử Tông lên quyền ngôi chúa để yên
lòng người. Đợi khi nào tân chúa trưởng thành, vương tử Tông sẽ lại trao trả
chính quyền và lui về giữ trọn đạo làm tôi. Tướng quân nên đem ý đó bày tỏ với
Tuyên phi và để vương tử Tông nhận Tuyên phi làm mẹ nuôi, lấy tướng quân làm a
bảo. Mong rằng tướng quân hãy hết sức giúp đỡ cho được chu toàn!".
Quận Huy
đáp lại rằng: "Lý tôi gửi lạy dưới cửa thánh mẫu. Thánh mẫu đã lo đến việc
lớn của xã tắc, tôi đâu dám chẳng vâng mệnh. Nhưng có điều việc này không phải
ý của tiên vương. Tôi được tiên vương trao gửi con bồ côi, ngài đã dặn dò rất
cặn kẽ. Nay tử cung (quan tài của vua chúa) còn quàn tại đây mà đã thay đổi
mệnh ngài, lòng tôi tự thấy không yên. Vậy chuyện này xin hãy để liệu sau. Vả
tiên vương cũng không còn người con nào khác, chỉ có tân chúa và vương tử Tông
mà thôi. Nếu tân chúa không gánh vác nổi công việc, thì sau đó tất là phải đến
vương tử Tông. Lúc đó vương tử Tông cứ việc đường hoàng mà thay thế, há chẳng
tốt đẹp hơn sao, cần gì phải vội vã hấp tấp, làm việc trái với lẽ thường như
vậy? Còn như kẻ lo lắng, thì lâu rồi họ khắc yên lòng; kẻ nghi ngờ, lâu rồi họ
khắc tin tưởng. Dám xin thánh mẫu cứ yên tâm. . . ".
Sứ giả
ra chưa khỏi cửa, quận Huy đã hằn học:
- Việc
này dẫu có đánh chết ta cũng chẳng nghe!
Sứ giả
về thuật với thánh mẫu. Thánh mẫu biết chí của Huy không thể lay chuyển, bèn
đem lời Huy nói lại với Nguyễn Kiêm.
Kiêm sợ
việc lộ, vạ lây, lại đến bàn với quận Hoàn.
Quận
Hoàn nói:
- Bây
giờ sự thế đã như vậy, thôi thì mặc cho ba quân họ muốn làm gì thì làm!
Tình cờ
có một tên lính ở xã Vạn Lộc, huyện Động Sơn, đem các công việc báo với người
cùng làng làm viên thiêm tri binh phiên Trần Hữu Cầu. Cầu vốn tính hiếu sự, lại
giỏi làm văn, tức thì soạn ngay bài hịch Ba quân phò chính, rồi ngầm đem dán ở
khắp các đường phố. Do đó, trong kinh kỳ nôn nao cả lên.
Thấy
chuyện đã vỡ lở như vậy, bọn Bằng Vũ cho là thế không thể đừng được, bèn quyết
định ngay ngày hôm sau khởi sự, không cần phải tâu với thánh mẫu. Hôm ấy là
ngày 24 tháng 10 năm Nhâm dần (1782).
Bấy giờ
quận Huy cũng biết tai hoạ sắp xảy ra, liền nói toạc ra ở trong triều rằng:
- Ngày
mai có biến, tôi sẽ chết. Nhưng tôi chết cũng phải có dăm ba mạng đi theo.
Các quan
nói:
- Lẽ nào
lại có chuyện ấy?
Quận Huy
bèn đưa ra một tờ khải nói là Huy Bá tố cáo quận Viêm đang âm mưu làm phản và
xin các quan hãy tra xét để trừng trị.
Gặp lúc
trời sắp tối, người nhà quận Huy có kẻ khuyên hắn nên bế tân chúa đi trốn, rồi
gọi quân bên ngoài vào bắt bọn gian; có kẻ khuyên hắn nên đưa nghĩa sỹ vào
trong phủ để tự vệ. . . Nhưng quận Huy đều gạt đi mà rằng:
- Xưa
nay thói đời vẫn hay phao nhảm, chưa chắc việc đó đã có thật. Mà dù có đi nữa
thì cứ để thong thả rồi cũng tra ra, chúng nó trốn đi đằng nào được. Nếu việc
quá gấp không thể trị nổi bọn chúng, thì ta đây vâng mệnh của đấng tiên vương,
sống thác cũng cam, cần gì mà phải hốt hoảng!
Đêm ấy
quận Huy ngủ ở trong phủ, cũng chỉ đem theo vài người hầu như mọi ngày, không
hề phòng bị gì hết.
Sáng
mai, lễ cúng cơm bữa sáng vừa xong, các quan đang sắp lui trào, Bằng Vũ vào
trong phủ, đánh luôn ba hồi chín tiếng trống.
Các quan
ngơ ngác nhìn nhau. Quận Huy sai người đóng chặt cửa các, bắt trói Bằng Vũ đem
chém. Khi Bằng Vũ đã bị trói rồi, Thuỳ trung hầu bảo quận Huy rằng:
- Bọn
chúng lập mưu này không phải chỉ có một đứa, nếu chém Bằng Vũ thì đảng gian sẽ
lọt lưới hết. Chi bằng hãy giam nó lại, để tra xét thêm cho tiệt hết mầm loạn.
Quận Huy
cho là phải, thế là Bằng Vũ không bị giết chết.
Lại nói,
quân lính nghe thấy tiếng trống tức thì người nào cũng nhảy nhót hăng hái, cùng
cầm binh khí xô lấn nhau mà vào trong phủ.
Lúc ấy
cửa các đã đóng, quân lính ở bên ngoài không vào được, họ cứ đứng hò reo quát
tháo long trời lở đất.
Quận Huy
gọi quận Châu ra bảo:
- Cậu
(Quận Châu là bà con họ ngoại của chúa Trịnh, do đó gọi là cậu) giữ chức binh
phiên, làm sao không biết răn đe chúng nó?
Quận
Châu sợ hãi, vâng dạ mà ra.
Quận Huy
tự làm tờ khải rằng:
"Lý
tôi kính khải như sau: Tôi được tiên vương giao cho giúp đỡ nhà chúa. Nay đám
ba quân nổi loạn, làm cho kinh khuyết náo động. Tôi xin vâng lĩnh mệnh chúa đem
quân giết chúng. Nếu dẹp được, ấy là nhờ về oai linh của chúa, nhược bằng không
dẹp được, tôi cũng xin liều chết để xuống ra mắt tiên vương ở dưới âm
cung".
Khải làm
xong, quận Huy giao cho quan xuất nạp dâng trình, và xin lấy thanh bảo kiếm của
chúa để ra đánh giặc.
Khi bảo
kiếm đưa tới, quận Huy quỳ gối lĩnh nhận, rồi lập tức truyền lấy voi để ra
trận.
Lúc ấy
quận Châu đang đứng ở phía trái trong cửa các, cách quân lính một bức tường,
lên tiếng dụ họ rằng:
- Làm
lính phải biết lễ phép. Nay tử cung còn quàn ở đây, các người không được làm ồn
ào như vậy. Nếu có điều gì muốn nói, cứ về viết một tờ khải đem lại, ta sẽ
trình bày giúp.
Quân
lính thét lớn:
- Cậu
cũng định theo quận Huy làm phản à? Nếu cậu không mở ngay cửa ra, chúng tôi
trèo tường mà vào, thì xác cậu sẽ nát như cám!
Quận
Châu run sợ, phải mở cửa. Quân lính chen vai xông vào.
Quận Huy
chống kiếm lên voi, cưỡi ra giữa sân phủ, trỏ ba quân quát:
- Bớ ba
quân! các người phải đâu về đấy ngay, không được làm ầm ỹ, ta sẽ chém đầu chúng
mày!
Quân
lính vốn sợ Huy, thấy hắn cưỡi voi, lại càng khiếp đảm, đều ngồi sụp xuống nghe
lệnh, không dám lên tiếng, cũng không dám xông tới.
Nhưng
chỉ được một lát, bao nhiêu người đang ngồi lại nhao nhao đứng dậy, kéo ập vào
trước đầu voi. Voi vươn đầu ra húc, quân lính chạy quanh chân voi để tránh cặp
ngà. Rồi họ lấy khí giới đâm chém túi bụi, có kẻ cạy gạch ngói ở phủ ném ra tới
tấp, voi co vòi mà gầm không dám húc nữa. Quận Huy giương cung định bắn, chẳng
may cung bị đứt dây; lại vớ lấy súng để nạp đạn, nhưng mồi lửa tịt không cháy.
Quân lính thừa dịp dùng luôn câu liêm lôi viên quản tượng xuống đất mà chém.
Voi bước lùi trở lại. Quân lính xúm đến vây kín dưới chân voi. Quận Huy lấy mũi
lao phóng xuống, làm bị thương vài người. Quân lính hăng máu kéo đến càng đông.
Lại có một toán ở cửa Tuyên-vũ xông vào, đứng chắn ở đằng sau voi, khiến voi phải
đứng im không thể nhúc nhích. Họ bèn dùng câu liêm móc cổ quận Huy kéo xuống,
rồi đánh đấm túi bụi giết chết ngay tại chỗ.
Sau đó,
họ phanh bụng quận Huy lấy gan ăn sống, còn thây chết thì lôi ra ngoài cửa
Tuyên-vũ.
Em ruột
quận Huy là Lý vũ hầu Hoàng Lương nghe tin có biến, vội vàng chạy bổ vào phủ
đường. Nhưng mới đi đến cửa chùa Báo Thiên thì bị quân lính quát đứng lại, rồi
họ vớ luôn gạch đá trên đường đập cho vỡ đầu và vứt xác xuống hồ Thuỷ Quân (Hồ
Hoàn Kiếm bây giờ).
Anh em
quận Huy chết rồi, quân lính vui mừng reo hò như sấm. Họ kéo nhau vào nhà Tả
Xuyên phò thế tử Tông lên phủ đường. Họ kiệu thế tử lên vai, rồi đứng xúm chung
quanh, gào lên vui sướng:
- Xin
ngồi cao thêm nữa để thiên hạ đều được thấy mặt rồng, cho thoả lòng vui của mọi
người!
Trong
lúc gấp vội không có kỷ sập, họ phải dùng tạm chiếc mâm vẫn bày cỗ lộc làm ghế,
đặt thế tử ngồi lên, rồi tám người kề vai vào khiêng. Chốc chốc họ lại nâng
bổng chiếc mâm lên trên đầu mà đội; đầu mỏi lại hạ xuống vai, rồi vai mỏi lại
nâng lên đầu. Cứ thế lên lên xuống xuống y như người ta giỡn quả cầu hoặc rước
pho tượng phật. Mỗi lần thế tử được nhô lên cao, quân lính lại vỗ tay reo hò
vang lên một chặp. Những kẻ buôn bán ở các phố phường, chợ búa đều tranh nhau
kéo đến xem chúa, sân phủ đông như họp chợ.
Quận
Châu phải đem ngọn cờ đuôi báo phất ở giữa sân, rồi khua chiêng thu quân, mãi
đến hơn một trống canh mới yên.
Mấy hôm
trước, ngày nào trời cũng u ám. Hôm ấy tự dưng bầu trời lại trong sáng, mọi
người đều cho đó là cái điềm thái bình, thánh chúa. Kẻ qua người lại trên đường
đều hý hửng nói: "Chúa ta lập rồi!". Thế rồi họ truyền miệng nhau mà
reo mừng, kinh kỳ hôm ấy vì thế phải nghỉ phiên chợ.
Quân
lính đặt chiếc sập ngự ở ngoài phủ đường, các quan đều dìu thế tử lên ngôi
chúa. Cuộc lễ mừng xong rồi, các quan mới đem đạo sắc của nhà vua và tờ chỉ của
thánh mẫu dụ ba quân về việc phò lập chúa, tới dán ở cửa các. Những tờ ấy đều
là tạm thời thảo ra, nhưng được gọi là mệnh lệnh định sẵn.
Hôm ấy,
việc biến xảy ra, Thị Huệ khiếp sợ vô cùng, phải thay đổi quần áo, nấp ở hậu
cung. Các gia thần của vị chúa nhỏ cũng đều chạy trốn hết cả. Riêng quận Diễm
bế chúa lánh đi ở một nơi khác, từ sớm đến tối không được miếng gì vào mồm,
chúa gào khóc nheo nhéo. Quận Diễm phải doạ: "Không được khóc to, kẻo quân
lính nghe tiếng, chúng nó kéo đến đánh chết!" Chúa nhỏ sợ hãi, mới không
khóc nữa.
Đến đêm,
thánh mẫu sai người đi tìm Thị Huệ cùng chúa nhỏ về cung, cho thay quần áo và
ăn uống. Chúa nhỏ vì quá sợ hãi không ăn uống gì được, bệnh càng thêm nguy
kịch.
Chúa mới
(Trịnh Tông) bèn treo giải hễ người nào chữa khỏi bệnh cho chúa nhỏ, thì thưởng
một trăm lạng vàng và phong cho tước hầu. Nhưng rốt cuộc không có ai nhận chữa.
Hôm sau,
chúa mới ra lệnh cho quan tham tụng Tứ-xuyên hầu, thay chúa nhỏ làm một tờ khải
xin tự lui xuống làm vương đệ. Tờ khải làm xong, chúa mới giao xuống cho các
đình thần bàn bạc. Các quan xin giáng phong chúa nhỏ làm Cung quốc công. Được
ít lâu sau thì Cung quốc công qua đời.
Lại nói,
bọn quân lính tuy đã giết chết anh em quận Huy, nhưng cơn giận vẫn chưa hả. Phò
lập thế tử Tông lên ngôi chúa xong xuôi, họ lại kéo đến quỳ ở trước mặt chúa
xin phá tất cả dinh cơ của quận Huy.
Chúa ưng
lời ngay. Ba quân liền reo lớn:
- Quan
cứ lệnh, lính cứ truyền, mau đi phá huỷ dinh quận Huy anh em ơi!
Chỉ
trong chốc lát, nhà cửa của quận Huy bị phá tan tành, một mảnh ngói cũng không
còn. Rồi bọn quân lính càng thừa thế hoành hành. Phàm các quan văn võ hễ ai
thuộc bè đảng của Thị Huệ và quận Huy, cùng những người dự vào việc tố giác vụ
án năm Canh-tý (việc Tông mưu cướp ngôi khi trước) những viên quan hầu mọi ngày
có tính nghiệt ngã mà quân lính vẫn ghét, lúc ấy cũng đều bị phá nhà hàng loạt
và bị lùng bắt đem giết chết.
Luôn
trong mấy ngày, họ làm náo động cả kinh thành. Tông phải hạ chỉ ngăn cấm mà họ
vẫn không thôi.
Sau,
chúa phải sai người dò xét trong kinh kỳ, lén đến chỗ họ tụ họp, rồi bắt phứa
lấy một người thường dân ở gần đó đem chém để ra oai. Từ đó về sau việc phá
phách nhà cửa mới tạm ngừng, nhưng việc lùng bắt người để giết thì vẫn chưa dứt.
Lại nói,
trong bọn thủ hạ của quận Huy có một người tên là Nguyễn Hữu Chỉnh, quê ở làng
Đông Hải, huyện Chân Phúc, trấn Nghệ An.
Cha
Chỉnh nhờ nghề buôn bán, trở nên giàu sang, gia tư kể có hàng vạn, thường vẫn ở
dưới cửa quận Việp.
Chỉnh,
phong tư đẹp đẽ, trí tuệ hơn người. Lúc nhỏ theo học nho, đã đọc khắp các kinh
sử, năm mười sáu tuổi đỗ hương cống; đã từng theo cha nương nhờ dưới cửa nhà
quận Việp.
Chỉnh
giỏi về thơ văn quốc âm. Vì mến công nghiệp của Quách Tử Nghi nhà Đường, Chỉnh
có làm bài Quách lệnh công phú bằng chữ nôm, được nhiều người trong nước truyền
tụng.
Tính
Chỉnh lại hào hiệp, giao du khắp thiên hạ. Trong nhà Chỉnh lúc nào cũng có vài
chục người khách, khi ngâm thơ, khi uống rượu, tuỳ theo sự hứng thú mà thù tạc
với nhau. Nhà Chỉnh nuôi mười mấy ca nhi và vũ nữ; Chỉnh tự tay soạn ra bài
hát, phổ vào đàn sáo, ngày đêm bắt họ ca múa để mua vui.
Vì thế,
Chỉnh được xem là tay phong lưu bậc nhất ở đất Trường An (tức là kinh đô Thăng
Long. Nguyên là tên kinh đô nhà Hán, sau thành danh từ chung chỉ kinh đô) hồi
ấy.
Ngoài
ra, Chỉnh lại còn có tài khôi hài, mỗi khi bông đùa ai cũng phải phục.
ở trong
nhà quận Việp hơn mười năm, Chỉnh mới được cử ra coi đội Thiện-tiểu; có kẻ thấy
vậy chê rằng: "Sao nhỏ thế?". Chỉnh liền đáp lại ngay: "Chớ cho
điều thiện nhỏ mà không làm!" (câu này rút trong bài di chúc của Lưu Bị
đời Tam quốc để lại cho con. Nguyên văn là: "Vật dĩ thiện tiểu nhi bất
vi", ở đây Chỉnh mượn hai chữ Thiện-tiểu của Lưu Bị để chỉ đội Thiện-tiểu
với ý khôi hài). Cả đám đều bật cười. Tài bông đùa của Chỉnh đại để là như vậy.
Khi quận
Việp vào đánh phương Nam, Chỉnh được đi theo giúp việc bút nghiên. Thấy Chỉnh
có tài, quận Việp hết sức yêu mến.
Sau khi
quận Việp qua đời, có kẻ tố cáo rằng trong lúc làm việc quan, Chỉnh đã đánh cắp
vàng bạc của công kể đến hàng trăm vạn. Việc ấy liên luỵ đến cả quận Huy. Chỉnh
bị tống giam vào ngục và bị tra tấn đến gần chết, nhưng vẫn nhất định không
xưng. Nhờ vậy Chỉnh mới được vô tội. Còn quận Huy thấy thế thì lại càng trọng
Chỉnh bội phần.
Lúc vào
làm trấn thủ Nghệ An, quận Huy dùng Chỉnh làm hữu tham quân; thường giao cho
Chỉnh luyện tập thuỷ thủ để chống giặc biển. Chẳng bao lâu Chỉnh trở thành vô
địch trong nghề thuỷ chiến. Ngoài biển, mọi người thường gọi Chỉnh là "con
hải ưng".
Đến hồi
quận Huy đổi về trấn Sơn Nam, Chỉnh cũng được đổi sang cai quản đội Tiền-trung,
đem quân đi tuần mặt biển. Rồi ít lâu sau, Chỉnh lại được đổi về trông coi cơ
Tiền-ninh ở trấn Nghệ An.
Ngôi mả
tổ nhà Chỉnh nằm ở trên núi Côn Bằng. Về thế đất ấy, sách địa lý nói rằng:
"Ngàn vạn con rồng đuổi ngàn vạn con hổ; xưng bá xưng vương đều được như
ý". Nhân đó Chỉnh mới tự đặt hiệu là Bằng lĩnh hầu.
Thời kỳ
còn ở dưới trướng quận Việp, Chỉnh có một người quen cùng làng tên là Nguyễn
Viết Tuyển, thi võ đỗ biền sinh. Tuyển vốn có sức lực hơn người, lại là tay can
đảm, mưu lược, nhờ Chỉnh tiến cử lên quận Việp, nên Tuyển được coi trung đội
của đạo Hậu-kiên đóng ở trấn Sơn Nam.
Đến lúc
này nghe tin trong kinh có biến, Tuyển vội vã vượt biển về quê. Giương buồm ra
đi từ ngày 26 đến ngày 28 thì đến làng Đông Hải. Tuyển đem hết mọi việc ở đường
ngoài kể lại với Chỉnh. Chỉnh bối rối, hoảng hốt, không biết nên làm thế nào.
Thật là:
Sóng nổi
đất bằng ai chẳng sợ,
Nắng
thiêu núi tuyết khó nương nhờ
Chưa
biết Chỉnh tính liệu như thế nào? Hãy xem hồi sau phân giải.
__
Sách
Thông giám chép: Đời Đường, có người bảo Trương Thoàn nên tới nhà Dương Quốc
Trung. Thoàn nói: "Các người tựa vào Dương hữu tướng như tựa núi Thái Sơn;
tôi thì cho đó là trái núi băng. Hễ mặt trời lên thì các người hết chỗ
dựa". Câu này lấy ý ở điển ấy.
Chương 3 : Dương nguyên cữu bàn chém kiêu
binh, Nguyễn quốc sư mưu trừ nội loạn.
Người
đăng: Lịch sử Việt Nam
Lại nói, Nguyễn Hữu Chỉnh nghe lời Viết Tuyển,
bị một phen giật mình sợ hãi, nhưng rồi lại cố trấn tĩnh ngay và giữ kín chuyện
đó không để lộ cho ai biết, chỉ bí mật dặn vợ mấy điều, rồi đi thẳng đến trấn
sở Doanh cầu để bàn với Dao trung hầu [tức Vũ Tá Dao, người huyện Thạch Hà, Hà
Tĩnh (Nghệ Tĩnh)].
Dao
trung hầu nguyên là em rể quận Việp, hiện làm trấn thủ Nghệ An, nghe lời Chỉnh
nói, sợ lắm, liền hỏi mưu kế nên như thế nào.
Chỉnh
nói:
- Trấn
này giáp liền trấn Thuận Hoá, hiện nay phó tướng Phú Xuân là Thể quận công, đồn
thủ Động Hải là Khôi thọ hầu (Thể quận công tên là Hoàng Đình Thể. Khôi Thọ hầu
tên là Khôi Thọ), đều là môn đồ của cụ quận Việp; với chúng ta cũng là những
người cùng thuyền. Quan lớn nên viết thư kín bảo quận Thể tìm cách giết viên
đại tướng Phú Xuân, chiếm lấy thành đó, rồi kíp cho người ra dụ Khôi Thọ. Khôi
Thọ thế nào cũng đem cả thành Động Hải mà hưởng ứng với ta. Còn ở đây, quan lớn
cứ việc giữ lấy trấn này để làm cái thế môi răng với hai nơi ấy. Rồi ngài thu
dùng hào kiệt, chiêu mộ thổ binh, chặn đường Hoàng Mai và đóng đồn lớn ở vùng
Quỳnh Lưu để làm kế cố thủ. Còn về việc phòng giữ mặt biển, tôi xin đảm đương.
Trấn này địa lợi có thể nương tựa, nhân tâm có thể trông cậy. Năm trước, quận
Siêu bị tội với đức Dụ tổ (tức Trịnh Giang) cũng giữ trấn này để chống lại nhà
chúa, cuối cùng đã thoát khỏi tai nạn. Huống chi sự thế ngày nay lại còn dễ
dàng hơn hồi quận Siêu, nếu ngài làm được như vậy, ấy là đã lấy được nửa thiên
hạ rồi. Chẳng những triều đình không làm gì nổi, mà ngài còn có thể giữ cõi yên
dân, ung dung ngồi nhìn sự thay đổi của thiên hạ. Như thế, chẳng những trước mắt
khỏi bị tai vạ mà về sau còn có thể lập được kỳ công nữa!
Dao
trung hầu ngẫm nghĩ hồi lâu rồi nói:
- Kế của
ông quả thực là hay lắm. Nhưng tôi tự liệu tài sức không thể làm được như thế.
Xin ông nghĩ cho cách thứ hai nữa xem sao?
Chỉnh
đáp:
- Ngoài
kế ấy ra, chỉ còn một cách bỏ nước mà đi thôi!
Dao
trung hầu lại hỏi:
- Nhưng
mà đi đâu?
Chỉnh
nói:
- Thiên
hạ vạn nước lo gì không có chỗ đi?
Rồi
Chỉnh ghé tai Dao trung hầu nói nhỏ mấy câu. Dao trung hầu nửa muốn nghe theo,
nửa lại mơ hồ chưa quyết, liền nói với Chỉnh:
- Đó
cũng là việc to lớn lắm, để tôi nghĩ lại xem đã!
Chỉnh
nói:
- Bây
giờ sự biến chỉ trong chốc lát, đợi khi ngài nghĩ lại thì có lẽ cái lệnh tróc
nã đã tới nơi rồi. Vậy ngài hãy ở lại mà nghĩ, xin để cho tôi được tự tiện!
Rồi
Chỉnh cáo từ ra về. Tới nhà, Chỉnh hỏi vợ biết mọi việc đã sửa soạn xong; bèn
nói là có lệnh của quan trấn thủ sai đi tuần tiễu mặt biển, rồi đưa hết người
nhà từ già đến trẻ và tất cả các thứ gia sản xuống thuyền. Mọi người trong nhà
đều không hiểu là chuyện gì.
Khi tất
cả đã ở trên thuyền rồi, Chỉnh mới gọi hơn ba trăm lính cơ do Chỉnh trông coi,
bảo họ đứng ở bờ sông, nói rõ ràng duyên cớ cho họ nghe, để lại cho mỗi tên
lính một quan tiền đen, rồi từ biệt họ. Đến tận lúc ấy, bọn lính mới hiểu công
việc của Chỉnh.
Thuyền
nhổ neo, Chỉnh cho bắn ba phát súng lớn, rồi sai chèo ra giữa dòng sông và kéo
buồm cho thuyền chạy thẳng ra biển.
Lại nói,
ba quân sau khi đã phò lập được thế tử Tông lên ngôi chúa, họ cậy vào công đó
sinh ra kiêu căng. Hàng ngày họ tụ họp để cùng nhau bàn việc triều đình. Thường
khi họ viết giấy đưa vào trong triều, nói việc này nên để, việc kia nên đổi.
Nhiều khi những việc vô lý họ cũng bắt buộc triều đình phải làm. Chẳng những
thế họ còn đòi hỏi những ơn này ơn khác, không biết thế nào là đủ. Triều đình
hễ có ai bàn chuyện phải chăng, thì họ lấy việc phá nhà, đánh giết ra để hăm
doạ. Những lúc các quan xử kiện, họ cũng nhúng tay vào, hoặc nhận bên nguyên là
người họ, hoặc nhận bên bị là người quen, rồi ép các quan phải đổi trắng thay
đen. Còn dân chúng trong vùng họ đóng có kiện cáo gì, thì họ tự ý đòi bắt và xử
đoán lấy, không cần gì đến quan tư.
Các quan
đều phải nhịn hơi nuốt tiếng, không dám động chạm đến họ. Trong cung hễ động
làm việc gì bất kể lớn nhỏ, họ cũng dòm nom bàn tán; hoặc bẻ việc này sao làm
thế kia, hoặc hỏi việc kia sao làm thế này. Chúa và Dương thái phi cũng tự thấy
bị bó buộc quá, không thể chịu nổi.
Triều
đình bàn nên xét công ban thưởng, để tỏ rõ sự đền ơn, khiến cho họ đều được mãn
nguyện; rồi sau đó sẽ dùng phép vua mà trừng trị dần dần. Chúa cho là phải, bèn
sai các quan bàn định về công giúp đỡ tôn phò nhà chúa. Phong cho Bằng Vũ là
Suy trung dực vận công thần, tước hầu, coi đội quân chầu chực ở nội cung. Quận
Viêm, quận Hoàn cùng bọn Nguyễn Kiêm, Gia Thọ, Dự Vũ đều được phong làm Tuyên
lực công thần và theo thứ bực khác nhau, đều được thăng chức tất cả. Riêng ba
chục người nhóm họp ở chùa Khán-sơn lại còn được ghi tên vào sổ trung nghĩa và
cho thăng thưởng thêm. Ngoài ra, các quân lính thuỷ, bộ, trong, ngoài đều được
thăng chức một lần, đồng thời được ban tiền thưởng tuỳ theo công trạng nhiều
hay ít. Triều đình lại cấp cho họ những đạo sắc bỏ trống chỗ đề tên người, họ
có thể nhượng lại cho kẻ khác mà lấy tiền để hưởng được ơn huệ thực sự.
Sau khi
quân lý đã nhận thưởng đâu vào đấy, chúa bèn dụ họ ai nấy đều nên tuân theo
pháp luật để cùng vui hưởng thái bình.
Bấy giờ,
quân lính liền răn bảo nhau rằng:
"Cánh
mình đã phò lập ông ấy làm chúa, thì cũng đừng nên quấy nhiễu quá để cho ông ấy
được biết cái thú vui làm chúa. Rồi xem sau này dần dần thuận cảnh ông ấy cư xử
ra sao? Nếu ông ấy càn rỡ quá đáng, thì lúc bấy giờ sẽ liệu cách mà trừng trị.
Chúng mình đằng nào cũng không mất quyền làm lính kia mà!".
Rồi từ
đó, họ cũng bớt làm bậy.
Chúa
được yên ổn đôi chút, liền đưa những người thân tín cũ vào các chỗ trọng yếu.
Lấy tả tư giảng Nguyễn Khản làm tham tụng; cậu cả là Khuông thọ hầu Dương
Khuông làm quyền phủ sự.
Nguyễn
Khản người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, là con Xuân quận công Nguyễn
Nghiễm. Khản sinh ra là một trang phong lưu công tử, thi đỗ rất sớm, theo phò
Thịnh vương từ lúc chưa lên ngôi chúa, được vương rất đỗi yêu mến. Kịp đến khi
vương lên ngôi, Khản lại càng được tin dùng, được ra vào trong cung cấm, y như
các viên nội giám.
Tính
Khản hào hoa, trong lâu đài không mấy khi dứt tiếng sênh ca, hoặc tiếng ngâm
thơ, đánh đàn để mua vui. Người ta thường xem Khản là bậc phong lưu đại thần.
Tại đình Kim-âu nơi Khản ở, có đủ cả nước, non, trúc, đá, cảnh trí hết sức thú
vị. Thịnh vương hay ngự chơi nhà Khản, thường ban thưởng rất nhiều.
Trước
Khản làm tả thị lang sung chức bồi tụng, với Xuân quận công cùng ở trong chính
phủ. Sự yêu quý của chúa đối với Khản hồi ấy, thật là có một không hai trong
hàng các quan văn võ.
Sau đó,
Khản được đổi làm trấn thủ Sơn Tây và kiêm cả trấn thủ Hưng Hoá. Đến khi xảy ra
vụ án năm Canh tý, tội Khản đáng phải chết, nhưng Thịnh vương nghĩ thương tình,
đặc cách cho giảm nhẹ, chỉ bắt giam ở nhà quận Châu. Hồi ấy quận Huy và Thị Huệ
cũng muốn tìm cớ đưa Khản đến chỗ chết. Nhưng Khản biết ý đã làm một bài Tự
tình khúc bằng chữ nôm, kể hết những sự đãi ngộ quý mến ngày xưa, rồi nhờ người
lén đưa giấu cho chúa. Chúa xem bài đó, động lòng thương; nhờ vậy Khản mới
thoát chết.
Kịp đến
khi thế tử Tông lên ngôi, Khản lại được phục chức về ban cũ, rồi thăng chức
thượng thư bộ Lại, tước Tán quận công.
Nguyên
ngày đi đánh dẹp phương Nam, Khản làm tham lĩnh trấn Nghệ An, kiêm trông coi về
lương hướng của quân lính; Khản có dung túng cho người nhà quấy nhiễu xứ ấy.
Nên bây giờ thấy Khản được phục chức, thì bọn lính xứ Nghệ lại lôi cái oán cũ
ấy ra. Họ nhao nhao bảo nhau: "Lão ấy là người xa xỉ, phóng túng, năm xưa
đã từng gieo rắc bao nhiêu tội ác cho trấn ta, ta kiện nhưng không được xử. Nay
lão ấy lại làm quốc sư, rồi nếu để lão ấy lại làm tể tướng nữa thì dân chịu sao
nổi? Chi bằng chúng ta mỗi đứa cho một quả đấm cho xong đời lão ấy đi!
Nhưng
rồi trong bọn lại có kẻ đứng ra khuyên giải, nên Khản mới được vô sự.
Dương
Khuông là em ruột Dương thái phi; người rất dung tục bỉ ổi, không có tài năng
gì hết. Vụ án năm Canh tý, tôi tớ, họ hàng, bè đảng nhà thế tử Tông đều bị tai
vạ, riêng Khuông nhờ ngu si mà được hưởng phúc thái bình.
Khi thế
tử mới lên ngôi, Khuông liền được giao cho trông nom cơ Trung uy, cùng với
Dương thái phi nấp bên trong mà định đoạt mọi việc. Quân lính đã từng nhạo báng
rằng: "Cậu ấy thì có tài cán gì? Chẳng qua chỉ nhờ vào cái bóng của người
mặc váy mà được như thế. Nay vừa khỏi vòng cùng khốn, đã muốn vội giàu sang.
Cũng ví như kẻ bị đói đã lâu, lúc gặp cơm thì ăn ngốn ăn ngấu rồi cũng đến nứt
ruột ra mà thôi!".
Đến bây
giờ thấy Khản và Khuông cùng vào chính phủ, lòng họ đều không phục. Tuy vậy,
bọn họ cũng rất giảo quyệt, kẻ này oán nhưng kẻ kia lại ơn, sau lưng họ chê mà
trước mặt họ lại khen, chẳng còn hiểu đầu đuôi ra sao?
Vả chăng
những nhà có chức quyền trọng yếu thường thường chỉ nghe lời nói chuyện thái
bình mà không nghe lời nói chuyện nguy biến. Việc gì cũng muốn mạnh bạo tiến
tới, nhưng không biết ngoảnh nhìn mối lo về sau. Họ chỉ muốn nóng vội làm cho
chóng được thái bình. Cho nên mới có những mưu kế sâu sắc, những lời bàn bạc
kín đáo, mà việc cần kíp thứ nhất là đè nén bọn kiêu binh.
Tình cờ
lúc đó, trong đám kiêu binh có bốn người lính giả lấy danh nghĩa đồng đội, ức
hiếp người lái buôn Đông Hà để mượn thuyền. Việc này bị người đội trưởng phát
giác và triều đình đem chém cả bốn. Bọn kiêu binh đều oán là hình phạt quá lạm.
Nhưng vì họ đã trót tự mình phát giác ra, nên cuối cùng cũng đành im.
Khản và
Khuông thấy đám lính im lặng, cho là uy quyền đã được lập lại; hai người mừng
rỡ bảo nhau: "Nhà nước đã sẵn có pháp luật. Nếu ta cứ giữ vững pháp luật
như thế vài lần, thì dù chúng có kiêu cũng chẳng kiêu được!".
Bấy giờ
có viên tri huyện Đông Thành là Mai Doãn Khuê, người làng An Toàn, huyện La
Sơn. Khuê vốn là tay giảo quyệt ghê gớm trong trấn Nghệ An. Việc quân lính
ngông nghênh làm bậy, phần nhiều đều do hắn xui giục. Vì muốn tâng công với
triều đình, Khuê bèn mật báo với Tán quận công Nguyễn Khản rằng:
- Triều
đình cho rằng kiêu binh có thể dẹp được, nhưng không biết rằng hoạ lớn sắp xảy
ra không thể nào ngăn nổi. Tôi nghe bọn lính bàn nhau: Hoàng tự tôn (Hoàng tự
tôn là cháu nối nghiệp của hoàng thượng, chỉ Lê Duy Kỳ, tức Chiêu-thống sau
này) nguyên trước do họ đón về, nay hoàng thượng tuổi già, mà hoàng tự tôn cũng
đã khôn lớn, họ muốn họp nhau tâu xin hoàng thượng nhường ngôi cho cháu. Khiến
cho ngôi vua ngôi chúa đều do tay quân lính dựng lên, để công của họ càng to
thêm. Trong bọn họ lại có một số người cậy mình có công rồi tỏ ý oán vọng, họ
muốn phò cho nhà vua thống nhất thiên hạ, để cướp lại quyền ở nhà chúa. Nếu kế
ấy mà thành được, tôi e các ngài sẽ không còn đất mà gửi thân nữa.
Tán quận
công đem lời ấy tâu lại với chúa. Chúa sai Doãn Khuê phát giác chuyện đó.
Khuê bèn
vu cáo cho viên câu kê Siêu thọ bá, cháu gọi Tứ xuyên hầu bằng cậu, cũng có dự
mưu.
Việc ấy
được giao xuống tra xét thì không thấy bằng chứng gì hết. Nhưng triều đình vẫn
cho là người tố cáo nói đúng, bèn đưa Siêu Thọ về giam ở quê quán.
Còn Doãn
Khuê vì có công phát giác, được phong làm Khuê lĩnh bá, cho cai quản toán lính
chầu hầu ở nội điện. Khuê lại còn được kiêm chức giảng quan cho hoàng tự tôn và
được ở luôn trong nội điện để dò xét công việc của ông hoàng đó.
Lại nói,
hoàng tự tôn Lê Duy Kỳ (trước tên là Duy Khiêm, hoặc Tư Khiêm), là con thái tử
Lê Duy Vỹ đã mất.
Thái tử
xưa vóc người đẹp đẽ, tư chất thông minh. Thấy nhà vua bị mất quyền, thái tử
căm tức lắm, thường vẫn khảng khái nuôi chí thu phục lại quyền bính. Thái tử
lại từng xem khắp kinh sử, yêu mến các nho sinh; nên hào kiệt trong thiên hạ
không ai là không ngưỡng vọng. Trong lúc Thịnh vương còn là thế tử, chỉ vì
tranh giành trên dưới mà vương có bụng ghét thái tử.
Khi ấy
chính phi của Ân vương không có con trai, chỉ sinh được một con gái tức là công
chúa Tiên Dung. Tiên Dung được vương hết sức yêu chiều. Năm nàng mới mười tuổi,
chính phi xin với vương gả cho thái tử để sau này nàng làm hoàng hậu. Vương
bằng lòng.
Một hôm
thái tử và thế tử cùng vào thăm Ân vương; vương mời ăn cơm và để con rể với con
trai cùng ngồi một mâm. Chính phi thấy vậy liền nói rằng:
- Sao
chúa lại được cùng ăn với vua?
Rồi bà
ta bắt ngồi riêng ra mỗi người một nơi. Thế tử giận tái mặt lại, nhưng vẫn cắn
răng không dám nói. Lúc tan tiệc trở ra, thế tử bảo với thái tử:
- Hai
chúng ta sẽ phải một người sống, một người chết. Vua ấy cũng không nên đứng
cùng với chúa này!
Đến khi
Thịnh vương lên ngôi chúa, liền lập mưu với gia thần là viên quan hoạn Thiều
quận công Nguyễn Kim Đĩnh (chính tên là Phạm Huy Đĩnh, người xã Cao Mỗ, nay là
xã Kim Bôi, huyện Tiên Hưng, Thái Bình), vu cho thái tử Vỹ thông dâm với cung
nữ của Ân vương; rồi đem tội đó tâu lên hoàng thượng để bắt thái tử bỏ ngục.
Trước
đó, trong giếng Tam Sơn ở mé sau điện bỗng có tiếng nổ như sấm. Thái tử dùng
thuật số để bói, biết mình sắp gặp nạn, bèn đến nói với hoàng thượng. Hoàng
thượng cũng lấy làm lo, vẫn phải luôn luôn cầu nguyện cho con.
Kịp tới
ngày bị bắt, thái tử biết tai nạn xảy ra đến nơi, liền vào ẩn ở trong điện ngủ
của hoàng thượng.
Quận
Thiều dẫn toán lính trước tiên xông thẳng vào Đông cung, định bắt thái tử đã
rồi mới tâu vua, nhưng tìm khắp cả Đông-cung không thấy. Quận Thiều liền vào
thẳng trong điện, kể tội thái tử cho vua nghe, rồi nói rằng:
- Tôi
nghe nói thái tử náu ở chỗ ngủ của bệ hạ, xin hãy bắt giao cho tôi.
Hoàng
thượng ôm mãi lấy thái tử không nỡ rời ra. Quận Thiều cũng cứ quỳ mãi ở giữa
sân điện.
Thái tử
tự biết mình không thể thoát được, liền lạy trước mặt hoàng thượng, rồi ra cho
quân lính trói.
Sau khi
giải về phủ chúa, thái tử bị truất xuống làm dân thường và bị giam vào ngục.
Rồi Thịnh vương ép hoàng thượng lấy người con thứ tư là Lê Duy Cận làm hoàng
thái tử.
Được ít
lâu sau, quận Thiều lại sai tay chân vu cáo cho hai nho sinh thi đỗ ở làng Đan
Luân là Nguyễn Huy Sưởng [chính là Vũ Bá Sưởng người làng Đan Luân, nay thuộc
Bình Giang, Hải Dương (Hải Hưng)] và Lương Giản (người xã Tào Sơn, huyện Ngọc
Sơn, nay là Tĩnh Gia, Thanh Hoá), rằng hai người này âm mưu cướp thái tử ra
khỏi ngục để cùng dấy quân làm loạn. Việc này được đưa xuống các quan bàn bạc, và
bắt Sưởng để tra xét. Giản khi ấy đã kịp bỏ trốn. Còn Sưởng bị đánh đau quá,
không chịu nổi roi vọt, đành phải nhận liều. Thế là thái tử phải ghép vào tội
thắt cổ.
Ngày
hành hình, bầu trời tự nhiên tối tăm, giữa ban ngày mà chỉ cách nhau gang tấc
cũng không trông rõ. Chừng hơn một khắc mới lại sáng sủa. Già, trẻ, trai, gái
trong thiên hạ, không ai là không rơi nước mắt. Họ đều cho rằng đó là việc trái
ngược nhất, bi thảm nhất từ xưa đến nay. Hôm ấy nhằm ngày 20 tháng chạp, năm
Tân-mão, niên hiệu Cảnh-hưng (1771).
Sau khi
giết thái tử, Thịnh vương bắt đầu có chí thống nhất đất nước, định bắt cả ba
con của thái tử giam vào một nơi. Một hôm, chúa tắm gội ăn chay, rồi ngự ra hồ
Tây để cầu thần báo mộng. Đang đi, chợt thấy trước mặt có một cái kiệu, trên
kiệu có một người ngồi chĩnh chện, nhìn kỹ té ra đó là thái tử Vỹ. Chúa truyền
hỏi quân lính có ai trông thấy xe kiệu gì ở trước mặt không. Quân lính đều nói
không thấy. Chúa lo lắm, liền sai quay ngay về cung. Đêm ấy, chúa đang nằm
trong màn, bỗng thấy một người đầu đội khăn hồng, mình vận áo đỏ, tay cầm một
chiếc mái chèo, vạch màn ra rồi đứng ở đầu giường trừng mắt nhìn mình. Chúa vội
hỏi ai thì người ấy đáp rằng:
- Ta là
Duy Vĩ đây!
Chúa cả
sợ, bấy giờ mới biết đó là linh hồn của thái tử Vỹ.
Nguyên
khi thái tử bị bắt thì một người đàn bà trong cung bế các con của thái tử chạy
trốn về phía tây, vào ngủ nhờ nhà một người dân ở làng Dịch Vọng, huyện Từ
Liêm.
Người
dân này đêm trước đã mơ thấy có người bảo rằng: "Mày phải quét rửa nhà
cửa, sân sướng cho sạch sẽ, thiên tử và thái hậu sắp sửa tới nơi?" Tỉnh
dậy hắn ta nghĩ bụng: "Mình là nhà dân, đâu được cái may mắn có các bậc
chí tôn ngự tới?" Rồi suốt ngày hôm đó, hắn ta chắp tay đứng đợi ở ngoài
cổng; nhưng đợi mãi mà vẫn chả thấy một ai. Đến xẩm tối, mới thấy một người đàn
bà bồng con xăm xăm tiến đến trước cổng xin ngủ nhờ; hắn ta liền đón ngay vào
trong nhà và mời ngồi lên chiếc phản cao nhất. Sau khi đã kể qua câu chuyện
chiêm bao cho người đàn bà nghe, hắn ta lại nói:
- Cứ
theo giấc mộng đêm qua của tôi như thế, thì bà và các cậu đây hẳn phải là dòng
dõi quí tộc; nếu không phải thân thích nhà vua, ắt cũng là họ hàng nhà chúa!
Người
đàn bà đó chính là cung phi họ Nguyễn, nghe nói, vội gạt đi mà rằng:
- Câu
chuyện chiêm bao, có gì là bằng cứ. Bác đừng nói nhảm, đó là việc chết người
chứ không phải chuyện chơi đâu!
Ngay sớm
hôm sau, mấy mẹ con lại từ giã chủ nhà mà ra đi. Nhưng chẳng bao lâu, bị người
ta dò theo tung tích bắt được, đưa về an trí ở trấn Sơn Tây, rồi lại bị giải về
kinh đô và giam ở ngục đề lĩnh.
Kịp đến
khi quân lính phò thế tử Tông làm chúa, thì hoàng tôn (Lê Duy Kỳ) đã 17 tuổi.
Nhâ dịp ấy, quân lính bèn mang luôn kiệu tới nhà giam đón hoàng tôn về điện.
Hoàng
tôn mặt rồng mắt phượng, tiếng nói như chuông, quân lính thấy vậy đều khen: "Thật
đúng là bậc thiên tử"
Bà nội
thế tử Tông xưa nay vốn thân với thái tử Lê Duy Cận. Thấy hoàng tôn về, bà ta
sợ thái tử Cận mất ngôi, liền sai người giả vờ mời hoàng tôn vào chầu ở cung
Huỳnh, để lừa bắt hoàng tôn đem dìm xuống sông Nhĩ Hà. Lúc hoàng tôn vào cung,
bà ta cho tay chân bức hoàng tôn phải nằm lên cáng rồi bí mật khiêng đi.
Khi qua
hồ Sen. hoàng tôn nằm trong cáng kêu gào ầm ĩ: lính canh nghe tiếng, quát phải
đứng lại. Phu cáng và tên đi theo bỏ chạy tứ tung, nhân đó hoàng tôn được thoát
nạn (theo Cương mục thì hơi khác; bà nội Tông sai hoạn quan Liêm Tăng ép Kỳ tới
chầu hầu, để bí mật giết chết. Kỳ chối không được, vừa khóc vừa đi. Do đó, quân
lính phát hiện được la hét đòi tra ra kẻ thủ mưu. Họ tìm Liêm Tăng không thấy,
có ý ngờ cho Cận chủ mưu).
Bấy giờ
ba quân ồn ào nhốn nháo, muốn tra ra kẻ mưu hại hoàng tôn để bắt mà giết đi.
Thái tử
Cận nghe được chuyện đó, liền vào phủ hầu chúa.
Thấy
kiệu thái tử để ở ngoài cửa phủ, quân lính đều tức giận nói: "Ngôi vua lại
có thể cầu may mà được à? Để chi cái của này để hắn tiện đường chạy chọt làm
những việc bậy bạ!"
Rồi họ
phá tan chiếc kiệu. Thái tử Cận hoảng sợ phải ăn mặc giả làm thường dân mà lẻn
về cung.
Chúa
biết việc đó là do ở nơi bà mình gây ra, bèn dụ quân lính không nên làm ồn ào.
Rồi lập tức sai triều đình bàn định việc dựng hoàng tôn Kỳ lên ngôi đông cung,
cho được yên lòng ba quân.
Chúa ép
thái tử Cận phải nhường ngôi và giáng phong làm Sùng nhượng công.
Thế là
hoàng tôn Lê Duy Kỳ được lên ngôi làm hoàng tự tôn. Hoàng thượng liền sai đặt
ra các giảng quan để trông nom việc học hành. Công phu dạy dỗ ấy, ngày tháng
thêm nhiều mãi. Do đó cái tiếng thánh hiền nhân hiếu của hoàng tôn được đồn
vang khắp cả trong ngoài. Cũng do đó mà quân lính mới có cái mưu tôn phò cho
hoàng tôn lên làm vua.
Đến khi
Doãn Khuê tố cáo, tuy tra xét không thấy có bằng chứng gì, nhưng cuối cùng chúa
cũng vẫn ngờ.
Một hôm,
quân lính họp nhau, đem việc đón rước hoàng tôn ở nhà giam ra tâu lên hoàng
thượng, để kể công và xin được ban ơn. Hoàng thượng cho ba quân vào lạy ở sân
điện Vạn-thọ, tuyên chỉ uý lạo họ. Rồi truyền cho viên tả phiên lại sai người
đánh cá hồ Sen lên, chọn lấy cá trắm làm gỏi thết đãi cả bọn. Sau đó mới từ từ
bàn đến cách thưởng công cho họ.
Lúc quân
lính ngồi dự yến tiệc ở trên điện, có kẻ chạy đi báo tin với chúa. Chúa cho đòi
ngay quốc sư Nguyễn Khản, quốc cữu Dương Khuông vào phủ và bảo:
- Cái
mưu mô tôn phò của bọn kiêu binh thật là giập không thể tắt được! Hiện giờ
chúng nó đang tụ họp trên điện nhà vua. Vậy ta nên làm thế nào?
Quốc sư
Nguyễn Khản đáp:
- Xin
cho bắt mà giết đi!
Chúa bèn
sai viên đầu hiệu đội Nhưng-nhất là Triêm vũ hầu (tên là Nguyễn Triêm) đem đội
quân Phong-vân đến vây bắt.
Gã Triêm
vũ hầu này người làng Phú Hoa, huyện Yên Lãng, thi đỗ tạo sĩ, dáng người hùng
vĩ, có can đảm lại có sức khoẻ. Sau khi vâng mệnh chúa, Triêm vũ hầu liền xách
gươm đi thẳng ra ngoài cửa phủ, rồi tuốt gươm ra, lấy tay gại gại vào lưỡi gươm
mà nói: "Gươm sắc lắm! Gươm sắc lắm!
Chém
được đầu kiêu binh đây!". Tiếp đó gã dẫn quân xông thẳng lên trên điện,
vây lấy chỗ bọn kiêu binh đang tụ họp ăn uống.
Ba quân
đang mải mê chè chén, thấy có lính đến vây bắt thì đều hoảng hốt bỏ chạy tán
loạn. Triêm vũ hầu và đội quân Phong-vân đuổi bắt được bảy tên, đem giải về phủ
chúa.
Chúa lập
tức cho với các quan tới để bàn cách xử trí. Các quan tới đông đủ, đem cả bảy
tên ra tra hỏi. Bảy tên cứ thực tình khai hết, không có âm mưu gì khác cả. Các
quan họp bàn đều có ý che chở cho họ. Riêng nguyên cữu Dương Khuông lại quả
quyết mà rằng:
- Không
phải hỏi tội trạng nào cả! Chỉ cái thói hay tụ họp mà không chừa cũng đáng xử
chém rồi, còn phải bàn bạc làm gì nữa? Bọn chúng cứ cậy đông người mà ngông
nghênh, không thể một lúc giết cho hết được. Nhưng hễ đứa nào phạm tội thì
quyết không dung tha. Ví như cả bó đũa thì không thể nào bẻ gãy được, nhưng nếu
cứ rút riêng một hai chiếc ra mà bẻ, thì lâu dần rồi cũng phải gãy hết. Hôm nọ
chém bốn đứa đó, thế là chịu chết bốn đứa, có thấy chúng bắt đền được ai đâu?
Quốc sư
Nguyễn Khản cũng nói thêm:
- Lời
bàn của quốc cữu thực là có lý. Các quan cứ nên theo luật mà thi hành.
Các quan
bèn chiểu theo điều luật "vào trộm hoàng thành" mà xử cả bảy tên vào
tội bêu đầu.
Tờ khải
dâng lên, chúa sai đem tội phạm ra chém ngay hôm đó. Trong triều ngoài phố, ai
cũng lấy làm hể hả. Bữa ấy nhằm ngày 15 tháng thái tử năm Nhâm thìn, niên hiệu
Cảnh hưng (1772).
Sau vụ
bảy kiêu binh bị giết chết, ba quân thẩy đều đem lòng oán giận. Họ lại họp nhau
bàn bạc.
Một
người trong bọn nói:
- Ngày
nay được có triều đình này, khiến cho chúa tôi ngồi yên mà hưởng phú quí, đều
là do công sức của chúng mình cả. Thế mà, họ chẳng ơn thì chớ, lại còn cho là
kẻ thù, động một tí là bị đè nén. Nếu chúng ta cứ chần chừ nín nhịn mãi, khiến
cho cái mưu "bẻ đũa" của họ thành được, thì rồi bọn mình sẽ không còn
người nào sống sót đâu!
Một
người khác lại nói:
- Chúng
ta không biết bẻ, chỉ biết "đả" thôi! Mau mau mỗi người một đấm, đưa
ngay chúng đi theo quận Huy, xem chúng nó có còn bẻ được nữa hay không?
Rồi họ
hẹn nhau đến hôm sau, vào lúc tan chầu thì sẽ khởi sự.
Có kẻ
đem việc đó mật báo với các quan trong triều. Các quan nửa ngờ, nửa tin. Sớm
hôm sau, quốc cữu Dương Khuông và Triêm vũ hầu đi lén vào trong phủ. Còn quốc
sư Nguyễn Khản thì đóng cửa nằm nhà, không dám vào triều. Tan chầu, quân lính
chia nhau đi bủa vây các dinh thự. Vào nhà Dương Khuông và Triêm vũ hầu, không
thấy hai người, quân lính tức thì hò nhau phá nhà. Chỉ trong chốc lát, cả hai
dinh đó đều bị san thành đất bằng.
Riêng ở
dinh quốc sư Dương Khuông, có một thủ hạ là người khách phương Bắc (chỉ người
Trung Quốc lúc bấy giờ), vốn rất giỏi thuật đánh kiếm. Nghe tin có biến, hắn
vội tuốt gươm ra đứng giữ ở cổng. Quân lính nom bộ dạng người khách phương Bắc
ngờ ở trong còn nhiều tay kiếm khách khác, nên không dám vào. Nhưng lâu lâu, họ
thấy ra ra vào vào vẫn chỉ có một hắn ta; tức thì cả bọn liền sấn ngay vào sát
cổng. Người khách múa gươm ra đánh, chém bị thương vài người, quân lính kéo ùa
vào, vằm hắn ra nát như bùn. Rồi họ xông thẳng vào trong dinh; lúc ấy Khản đã
thay đổi quần áo, theo đường tắt chạy ra cửa ô Trường Bắn mà trốn đi rồi. Quân
lính lập tức phá tan dinh của Khản.
Chúa
nghe tin dinh thự của quốc sư Nguyễn Khản có người canh giữ, cho rằng Khản đã
phòng bị, chắc không việc gì; bèn sai một hiệu quân đến ngay đó để phân giải.
Nhưng lúc quan quân tới nơi thì Khản đã bỏ trốn, dinh thự đã bị phá gần hết.
Sau đó,
đám kiêu binh lại kéo về phủ bảo với chúa rằng:
- Quốc
sư mang quân ra ngoài làm loạn, xin chúa cho người đuổi theo!
Chúa bất
đắc dĩ phải sai viên thị thần là thiêm tri binh phiên Thoan trung hầu đem quân
đuổi theo Khản; nhưng lại dặn ngầm là cứ đi từ từ để cho Khản chạy thoát. Thoan
trung hầu đuổi đến ô Cầu Giấy không theo kịp Khản, lại quay trở về.
Quân
lính giận Thoan trung hầu không chịu đem hết sức ra đuổi, liền kéo đến nhà phá
luôn nhà hắn ta.
Thoan
trung hầu cũng phải chạy trốn nốt.
Quân
lính không bắt được ba viên quan ấy, lấy làm căm tức lắm. Sau khi dò biết quốc
cữu Dương Khuông và Triêm vũ hầu lẩn trốn trong phủ chúa, họ bèn chai nhau chắn
kín cửa phủ, rồi cho một toán xông vào bên trong, đòi chúa phải đưa hai viên ấy
ra cho họ.
Chúa nói
dối rằng:
- Không
thấy ai trong này cả!
Quân
lính đều nhao nhao:
- Chúng
trốn vào phủ, đã có người trông thấy rõ ràng. Người ta còn nhớ cả giờ chúng đi
vào nữa, thế nhà chúa còn chối à? Xưa nay há lại có chuyện vua chúa chứa giặc ở
trong cung bao giờ?
Dương
thái phi vừa khóc vừa dỗ dành các quân lính rằng:
- Cái
thân goá bụa may nhờ có ba quân phò chúa mới được như thế này! Nay chỉ còn có
một đứa em, xin ba quân hãy tha mạng nó, để cho được trọn vẹn cái ơn xương
thịt.
Đám kiêu
binh thét lên:
- Tha
mạng cậu ấy à! Thế hôm nọ bảy mạng người chết, ai tha? Nếu còn cố giấu, cung
khuyết sẽ ra tro ngay lập tức, cái đó chắc cũng không hay ho gì!
Thái phi
bèn ngồi sụp xuống đất, chắp hai tay lại vái lạy, van xin.
Các quân
lính lại nói:
- Không
nói chuyện với đàn bà. Chỉ hỏi nhà chúa thôi!
Chúa
nói:
- Bức
bách nhau thế này, thà đừng lập làm chúa còn hơn!
Quân
lính nói:
- Tưởng
rằng muốn làm chúa nên mới lập, chớ nếu không muốn thì có ai ép?
Một
người nữa hùa theo nói:
- Bẻm
mép thế! Thôi, hãy xuống khỏi bệ đi! Chúng tôi mời Thuỵ quận công đến là khắc
yên chuyện.
Chúa
hoảng sợ, không dám ho he gì nữa.
Lúc bấy
giờ đã sắp tối, bọn quân lính đều tản ra về, và họ còn nói thêm:
- Bắt
chúng nó cũng ví như bắt cá. Nước sâu thì cá còn lặn; đến mai tháo cho cạn
nước, xem chúng nó có thể bay lên trời được không?
Đêm ấy,
kiêu binh canh giữ cửa phủ rất chặt chẽ.
Chúa bàn
với thái phi rằng:
- Khí
thế của chúng như vậy, không thể dùng lời nói suông mà giảng giải được đâu. Cần
phải mất nhiều của đấm mõm cho chúng nó, may ra mới xong, nếu không, thì phải
xoay kế khác. . .
Thái phi
đáp:
- Nghe
nói có tên Nhuyến Thọ, biện lại đội Nhưng-nhất là một đứa giảo quyệt, bọn kiêu
binh làm gì cũng phải hỏi mưu nó.
Sáng
mai, chúa bèn cho người ra dụ Thọ, ngỏ ý đút lót, bảo Thọ hễ nhận thu xếp việc
này, sẽ giao một vạn lạng bạc, ba vạn quan tiền, cho y mặc sức muốn làm gì thì
làm, không cần hỏi đến. Lại hứa thêm rằng: "Nếu làm xong việc, sẽ còn có
trọng thưởng nữa".
Nhuyến
Thọ trong bụng đã ưng, nhưng còn làm bộ khó khăn mà rằng:
- Bọn họ
muôn người muôn miệng, khó mà nói năng được với họ. Vả chăng, hễ đã ngỏ ý đút
lót thì thế nào họ cũng sinh ngờ vực. Rồi ngộ nhỡ lúc ấy lại có một vài người
bàn ngang vào nữa, làm cho cơn giận của họ bốc lên, thì lưng tôi phỏng chịu
được mấy đấm?
Người
của chúa sai đến vẫn cố kèo nài. Nhuyến Thọ ngần ngừ đáp:
- Nếu
vậy để tôi lựa chọn lấy mấy chục người hung hăng, táo tợn nhất, đem tình thực
ra bàn với họ, rồi bảo họ phụ hoạ thêm với tôi. Nhưng khi bàn bạc, giả sử mấy
chục người này có đòi thêm điều gì, thì tuỳ nhà chúa thương lượng lấy; tôi chỉ
xin đứng ra làm kẻ dàn xếp mà thôi. Còn như cái khoản tiền bạc công cộng kia,
cũng xin đợi đến lúc quân lính tập hợp đông đủ đã. Bấy giờ nhà chúa sẽ tự ngỏ
lời trước; tôi và mấy chục người này ở bên cạnh hùa thêm vào, như thế việc mới
có thể thành được!
Người ấy
về nói lại với chúa. Chúa bằng lòng, liền sai đưa riêng Nhuyến Thọ một ngàn
lạng bạc để hắn phân phát.
Gần
chiều, quân lính lại tụ họp và tiến sát vào tận trong phủ. Chúa và thái phi lại
phải ra dỗ dành. Bọn lính nói:
- Việc
gì mà phải lắm mồm! Cứ vào trong cửa cấm lùng khắp toà phủ, rồi túm búi tóc lôi
ra, hỏi hắn xem cái nắm đũa ấy còn có thể bẻ được mấy chiếc nữa?
Chúa
nói:
- Ba
quân làm như vậy thì có sướng gì, chẳng qua chỉ thêm bẩn tay mà thôi! Nay quả
nhân có chút quà mọn là một vạn lạng bạc, ba vạn quan tiền, xin đưa để khao
thưởng ba quân, mong ba quân hãy nghĩ lại mà tha thứ cho hai cái mạng nhỏ bé
đó!
Đám kiêu
binh đáp:
- Chúa
còn tiếc hai người đó, rồi sẽ thấy phủ đường cũng không giữ được đâu. Bọn tôi
cần gì số tiền bạc ấy!
Giữa lúc
họ đang nhao nhao, Nhuyến Thọ bỗng vượt lên phía trước và nói:
- Nhà
chúa là bề trên đã phải chịu nhũn như vậy; các anh em không nên ăn nói cạn tàu
ráo máng quá!
Tiếp đó
bọn mấy chục người kia cũng mỗi người một câu phụ hoạ thêm vào. Rút cục lính
tráng ai chẳng hám lợi, họ bèn dịu giọng mà rằng:
- Đã
thế, thì hãy tha cho em ruột thái phi. Còn Triêm vũ hầu là người giữa trời, bọn
tôi phải xin mỗi người một miếng thịt để nhắm rượu, rồi sẽ tan về ngay tức
khắc. Nếu không, thì dẫu có số tiền ấy cũng chẳng làm cho ba quân nguôi giận
được.
Chúa
nói:
- Tha
thì tha cả. Sao còn tách bạch người nọ người kia?
Quân
lính nói:
- Nhà
chúa nếu còn quanh co che chở cho Triêm vũ hầu; bọn tôi khi "máu đã nhập
tim" (do câu tục ngữ: "Máu nhập tim, nhà lim cũng nhỏ"), thì
ngay cả quốc cữu cũng không tha nữa!
Nguyên
hôm trước Triêm vũ hầu trốn vào phủ, lẩn ở trên gác Kỳ-lân, vẫn dùng đôi kiếm
để giữ mình. Trong lúc bọn quân lính đòi giết, Triêm vũ hầu bụng bảo dạ:
"Nếu chúng không nghe nhà chúa điều đình, mà cứ xông vào bắt ta, thì phải
đứng trên thang chém lấy dăm ba cái đầu của bọn chúng, chứ ta không chịu chết
một mình!".
Đến lúc
này việc đã gấp quá, chúa bèn sai người đến dỗ Triêm vũ hầu rằng: "Bây giờ
xã tắc nguy nan như treo trên sợi tóc, nhà chúa không thể cố giấu tướng quân
được nữa. Vậy xin tướng quân hãy vì chúa chớ tiếc cái chết, để cho nhà chúa
được yên. Đó là công muôn đời của tướng quân!"
Triêm vũ
hầu bất đắc dĩ phải trèo thang xuống ra mắt chúa mà nói:
- Chết
thì chết, thần xin hai tay hai kiếm tung hoành với chúng nó một trận, giết gọn
lấy vài trăm đứa, cho hả bớt cơn giận của nhà chúa!
Chúa
nói:
- Như
thế chỉ làm cho thái phi kinh sợ, mà quả nhân cũng chẳng được yên nào!
Triêm vũ
hầu quẳng hai thanh gươm xuống đất nói:
- Bó tay
mà chịu như thế, thần đành chết uổng vậy!
Chúa
khóc mà từ biệt Triêm vũ hầu. Rồi lại hứa với Triêm vũ hầu rằng, sau khi y
chết, sẽ cấp cho một ngàn khoảnh ruộng làm của nối đời và phong cho làm phúc
thần, bắt dân mười làng thờ cúng.
Triêm vũ
hầu đáp:
- Thần
chỉ vì chúa mà chết, đâu phải cầu mong tước lộc? Xin chúa hãy ra sức tăng thêm
uy quyền, xoay loạn làm trị, thì thần dẫu chết, xương vẫn không mục nát!
Chúa bèn
tự tay viết sáu chữ: "Trung nghĩa tráng liệt đại vương" đưa cho Triêm
vũ hầu. Triêm vũ hầu quì xuống nhận mảnh giấy đó, vê tròn, nuốt vào bụng, rồi
lạy tạ chúa mà đi ra. Khi qua điếm Tiểu-bút, Triêm vũ hầu bị đám kiêu binh lôi
kéo và hỏi:
- Gươm
sắc của mày bây giờ như thế nào?
Triêm vũ
hầu đáp:
- Tao
không thể dùng thanh gươm đó chém đầu chúng bay là theo mệnh chúa và vì xã tắc
đó thôi. Nhưng mà, chẳng lâu gì đâu, tao chết rồi, sẽ có người khác đến chặt
đầu lũ chúng bay. Đến lúc ấy, chúng bay sẽ biết gươm có sắc hay không!
Quân
lính xúm vào toan đánh Triêm vũ hầu, gã cản lại mà rằng:
- Đây là
nơi nghiêm cấm, không được hành hung. Hãy để tao ra khỏi cửa phủ, ngồi yên đâu
đấy, rồi tha hồ cho chúng bay muốn làm gì tao thì làm.
Đoạn gã
bước khoan thai đến bên cạnh cầu đá, tìm chỗ, ung dung ngồi xuống và bảo bọn
quân lính:
- Nào,
bây giờ chúng bay làm gì tao thì làm đi!
Đám kiêu
binh lấy gạch đá đập mãi vào đầu Triêm vũ hầu khiến máu chảy đầy mặt. Nhưng gã
vẫn ngồi yên không cựa, khẽ lấy tay áo lau mặt, rồi vừa cười vừa nói:
- Bây
giờ tao không thi đấu võ, nhưng vẫn còn thi can đảm! Thế mới lạ chứ!
Ngay đó,
một tên lính đứng sau cầm giáo đâm thọc vào lưng gã, gã mới chết.
Triêm vũ
hầu chết rồi; quân lính vẫn chưa hết giận, lại vào buộc chúa phải xử lại vụ án
vừa qua.
Chúa bất
đắc dĩ phải giao việc đó xuống cho triều đình bàn định. Quốc sư, quốc cữu đều
bị bãi chức làm dân thường. Bảy tên lình bị chém ngày trước đều được đền mạng.
Từ đó,
kiêu binh lại càng ngông nghênh tợn. Tại các đường phố, họ cứ dăng tay nhau mà
đi. Các vị công hầu gặp họ đều phải quay xe tránh sang lối khác.
Lại nói,
Nguyễn Khản lúc mới phục chức, được làm trấn thủ Sơn Tây; đến khi vào làm tể
tướng thì cho em ruột là Điền nhạc hầu Nguyễn Cương (Cương mục chép là Nguyễn
Điều. Có sách lại chép Nguyễn Điền) ra thay.
Hôm ấy,
Khản lật đật trốn ra ngoài thành, dùng võng một đòn bắt hai người khiêng đi,
nhằm hướng Sơn Tây mà chạy. Tới trấn, Cương ra đón vào trong dinh và hỏi duyên
cớ. Khản đáp:
- Tục
ngữ nói: "Quân bất trị". Thật là đúng lắm!
Rồi Khản
đem đầu đuôi câu chuyện kể hết cho Cương nghe. Cương nói:
- Bây
giờ việc đã như thế, anh định đối phó ra sao?
Khản vốn
là hạng người xuềnh xoàng, không có cơ mưu, nghe em hỏi liền cười và đáp:
- Trừ ra
có thuật quỷ thần, hễ thấy chúng nó họp nhau, tức thì theo đến mà ám ảnh, làm
cho chúng nó đau bụng nứt ruột, như Tề thiên đại thánh bóp Hoàng My (Điển này
lấy ở truyện Tây du), không biết đằng nào mà lần nữa, hoạ may chúng nó mới sợ.
Chứ còn sức người thì không làm sao được!
Cương là
kẻ có nhiều mưu mẹo khôn ngoan, liền nói với Khản:
- Tôi có
một mẹo, có thể khiến cho chúng nó chết ráo.
Khản
hỏi:
- Mẹo
như thế nào?
Cương
đáp:
- Ngày
nay dân trong bốn trấn (Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương. Thời Lê, 4trấn ở
chung quanh kinh đô này được gọi là kinh trấn hay kinh lộ, là những nơi che chở
cho kinh đô; ngoài kinh trấn lại có 9 phiên trấn hay phiên lộ như Cao Bằng,
Lạng Sơn, Tuyên Quangv. v. . . là phên giậu che chở cho các kinh trấn) đang oán
ghét chúng nó đến xương tuỷ; nếu ai lấy danh nghĩa diệt kiêu binh để kêu gọi,
thì chỉ cần hô một tiếng, không người nào là không hưởng ứng. Trấn này ở về
miền thượng du, dân chúng thuần hậu dễ bảo. Trước kia anh làm trấn thủ Hưng
Hoá, các tù trưởng địa phương đều là thuộc hạ của anh, anh bảo chắc họ phải
nghe. Trên vùng Tuyên Quang, phiên mục Diễn quận công (tức Hoàng Văn Đồng giữ
Mỏ đồng Tụ Long, Tuyên Quang) giàu có nhất thiên hạ, năm xưa có tội được anh
cứu giúp, ông ta hẳn còn nhớ ơn; nếu viết thư lên rủ, thế nào ông ấy chả theo.
ở trấn Sơn Nam, quận Thạc (tức Hoàng Phùng Cơ) là tướng đánh trăm trận, vốn nổi
tiếng là bậc vô địch. Rồi ở trấn Kinh Bắc thì Thần trung hầu (tức Trương Tuân),
ở trấn Hải Dương thì Thái đình hầu (tức Trịnh Tự Quyền), đều là những tay có
mưu trí. Bây giờ hãy dùng mật lệnh nhà chúa, sai họ ngầm nuôi nghĩa sĩ, giữ
vững dinh trấn, và nghe theo sự điều khiển của anh. Còn anh, vốn là một vị tể
tướng lại kiêm chức sư phó, thì một lời nói ra khỏi miệng, trấn nào lại dám
không tuân theo. Bên Kinh Bắc còn có hai tên tướng giặc đầu hàng là tú Huy và
cai Hồ, đều là những tay dữ tợn, tinh khôn. Hiện chúng đang ở chỗ viên nội thần
Nhật trung hầu; nếu thả cho chúng và sai đi xui giục hai phủ Lạng Giang, Bắc Hà
(đều thuộc Bắc Giang), chắc cũng giúp cho mình được một tay. Trên Thái Nguyên
lại có tên giặc già là cai Già, thuở xưa đã từng làm môn hạ của anh, hẳn anh
cũng có thể sai khiến được. Cả bấy nhiêu nơi ta hẹn nhau cùng ngày khởi sự.
Phàm ưu binh (thời Lê trung hưng, kén lính ở 3 phủ thuộc Thanh Hoá và 12 huyện thuộc
Nghệ An để chuyên bảo vệ kinh thành. Loại lính này được ưu đãi hơn các lính nơi
khác, vì thế gọi là ưu binh, hoặc cũng gọi là lính tam phủ) Thanh-Nghệ, hễ đứa
nào ở các trấn ngoài đều phải trừ cho hết. Đứa nào trốn thoát, cho dân sở tại
cứ bắt mà giết đi. Rồi thì bốn phương tám mặt cùng ập vào kinh thành kiêu binh
ắt sẽ không còn đường mà chạy nữa. Đó là một kỳ công muôn đời mới gặp, anh nên
tính gấp đi!
Khản
nghe xong, nói:
- Hay
lắm! Nhưng nay chúa còn đang ở trong tay chúng; ném chuột lại có thể không
kiêng đồ vật được ư? (ý muốn nói diệt kiêu binh lại sợ vạ đến Trịnh Tông)
Cương
nói:
- Đó là
việc rất dễ: Trước hãy sai người trình với chúa, bí mật lấy hết vàng bạc, của
cải trong kho, phân tán ra các trấn; thái phi, vương tử và các cung tần cũng lén
đưa cả ra ngoài thành, hễ gặp chỗ nào tiện thì hãy ở tạm. Sau đó ngầm báo cho
quận Thạc đem thuyền chở quân đến bến Thanh Trì, nói phao là đi tuần sông: rồi
giấu kín một chiếc đò ngang, đợi sẵn ở bến Tây Long. Còn chúa thì sẽ mặc quần
áo thường dân, cất lẻn xuống chiếc thuyền ấy đi xuôi đến dinh trấn Sơn Nam và
tạm đóng tại đó. Xong đâu đấy bấy giờ các trấn mới cùng khởi sự. Như vậy, thì
không còn lo ngại gì nữa!
Khản
mừng mà rằng:
- Không
có chú, tôi không nghĩ được đến thế. Dẫu không thành cũng là một việc làm hả
dạ!
Rồi Khản
làm tờ mật khải đưa về cho chúa. Chúa mừng lắm, viết ngay tờ mật chỉ khen ngợi,
đồng thời hẹn sẵn mọi việc. Tiếp đó, chúa mời thái phi cải trang và lẻn ra
ngoài thành, đến tạm trú tại nhà người chồng bà dì thứ bảy của chúa ở làng Văn
Giáp, huyện Thượng Phúc. Vương tử và các cung tần cũng đều theo cả đến đó. Một
mặt, chúa cho mở kho lấy hết vàng bạc châu báu, sai các thị thần thân tín ngầm
đem ra, giao phó cho bốn trấn. Một mặt, chúa cho hẹn với quan trấn thủ trấn Sơn
Nam, đúng ngày 28 tháng ấy thì bí mật đến đón mình; lại hẹn với các trấn đúng
ngày mồng một tháng sau thì các đạo sẽ cùng khởi binh cả một loạt.
Công
việc sắp đặt như thế là xong.
Tới ngày
hẹn, quận Thạc theo lệnh chúa đem thuyền đến đón.
Khi ấy
trong kinh hết sức nhốn nháo: người ta kháo nhau rằng quan trấn thủ Sơn Nam sắp
đem quân vào thành, để giết hết kiêu binh. Đám quân lính nghe tin ấy đều hoảng
hốt, ngầm cho vợ con gói ghém hành lý đem ra ngoài thành và trốn tránh đi các
nơi, còn ở kinh chỉ để lại những người thuộc "quân tịch" mà thôi. Rồi
chúng kéo nhau vào phủ chúa, xin chúa cấp tốc khởi binh đánh dẹp. Chúa bất đắc
dĩ phải ra ngự ở Trạch các để uý lạo ba quân.
Trong
đám kiêu binh có kẻ biết mưu của chúa, liền mắng chúa rằng:
- Chúa
đừng tưởng chúng tôi không biết mà hòng đem đầu lưỡi ra khua múa để che đậy. Từ
đây theo cửa Tuyên Vũ đi ra, rồi đến bến Tây Long (tục gọi là Tây Luông, ở
thẳng phía sau nhà hát thành phố Hà Nội bây giờ); chẳng qua chỉ độ trăm bước đã
có thuyền của quận Thạc chờ đón sẵn sàng ở đó; trông trước trông sau, khi nào
thấy không có người, thì bước lên thuyền cho nhanh rồi tìm đường mà đi chứ gì!
Chúa
biến sắc mặt, nín lặng quay vào.
Từ hôm
ấy, quân lính canh giữ phủ chúa rất ngặt. Những người nào ra vào, hễ hơi có vẻ
khang khác là bị họ khám xét tra hỏi liền.
Vì vậy,
chúa không dám ra khỏi cung. Quận Thạc nghe tin, lại rút quân về trấn của mình.
Chúa sai
người ra báo lại với các trấn hoãn ngày khởi sự, nhưng chưa đến kịp thì các đạo
theo đúng hẹn cũ đã rầm rộ kéo quân lên đường. Thiên hạ cực kỳ náo động. Hào
kiệt các nơi đồng thời nổi dậy, ai ai cũng nói phải tiêu diệt hết kiêu binh.
Ngày hôm
đó, hết thảy kiêu binh hai xứ Thanh-Nghệ đóng ở các trấn đều phải bỏ trốn, lúc
đi qua làng mạc chúng không dám lên tiếng. Hễ kẻ nào buột miệng lòi ra thổ âm
Thanh-Nghệ, tức thì bị dân chúng bắt giết ngay. Bọn chúng phải luôn luôn giả
cách làm người câm, ăn xin ở dọc đường, rồi lần mò về kinh, báo cho đám kiêu
binh ở đây biết cái tin nay mai quân các trấn sẽ về họp ở dưới thành.
Được tin
này, bọn kiêu binh ở kinh tức thì họp nhau bàn cách chống cự. Rồi họ chia nhau
thành các đạo kéo đi. Nhưng đạo phía tây mới kéo ra đến Đại-phùng, đạo phía bắc
mới kéo đến cầu Vịnh thì đã bị ngay các tay thổ hào địa phương đánh thua. Họ
phải bỏ cả khí giới, cố mang vết thương mà chạy về kinh.
Bấy giờ
kinh thành chấn động, dân hàng phố kẻ chợ đều dắt díu bồng bế nhau ra ngoài
thành chạy trốn.
Đám kiêu
binh vừa sợ vừa tức, gọi chúa là giặc. Rồi họ kéo vào trong phủ, lấy hết binh
khí, chia cho cơ đội các dinh nắm giữ. Phủ chúa lúc ấy không còn một tấc sắt
nào để tự vệ.
Đêm hôm
ấy, kiêu binh bắt được bốn tay nghĩa sĩ lẻn vào thành; họ liền bí mật đem đến
hội sở của họ để tra hỏi. Mấy tay nghĩa sĩ đau quá, khai liều rằng đêm nay quân
ở ngoài sẽ vào đánh úp. Đám kiêu binh cả sợ, bèn bảo nhau phòng bị nghiêm nhặt.
Súng nhồi sẵn mồi lửa, gươm tuốt khỏi vỏ, suốt đêm họ hò hét, đi lại rầm rập,
kinh thành hầu như sắp vỡ.
Sớm hôm
sau, họ đem chém cả bốn nghĩa sĩ, rồi xúm quanh phủ chúa mà trách rằng:
- Nhờ có
chúng tôi phò, chúa mới được lên ngôi. Nay chúa lại coi chúng tôi là kẻ thù.
Lính Thanh-Nghệ hai trăm năm nay vẫn là nanh vuốt cật ruột của nhà chúa. Bây
giờ chúa lại nỡ dấy quân bốn trấn về giết hại lính hai xứ chúng tôi. Tin da dẻ
mà ngờ cật ruột, giơ dao cưa để cắt nanh vuốt, kẻ nào bày ra mưu ấy đều là
những kẻ bỏ thuốc độc cho chúa. Nếu chúa không mau dụ bốn trấn bãi binh, thì
đừng có trách chúng tôi là vô lễ!
Chúa một
mực chối là không biết, rồi ngầm sai người bảo các trấn bãi việc ấy đi.
Đám kiêu
binh không biết là chúa đã ngầm ra lệnh đình chỉ, nên vẫn còn nghi ngờ. Họ bèn
tụ họp nhau, bàn làm chuyện đại nghịch. Hẹn đến canh ba đêm ấy, nổ ba tiếng
súng Bảo-long làm hiệu, rồi cùng kéo vào phủ chúa để hành sự; sẽ lấy hết của
cải đồ vật trong phủ chia nhau; sau đó lấy xe kiệu của chúa chở hết các đồ nghi
vệ cùng sổ sách đưa đến nội điện, rồi rước hoàng thượng về Thanh Hoa để mưu
toan công việc sau này.
Thật là:
Ao cá hớ
hênh nên chẳng quyết,
Lòng hồ
cố chấp hoá ngờ nhau.
Chưa
biết việc này ra sao? Xin xem hồi sau phân giải.
__
Áo cá:
dịch chữ "ngư phục". Sách Thuyết uyển chép: Bạch long ngư phục, khốn
ư Dự Thư, nghĩa là: con rồng trắng cải trang làm con cá, bị người Dự Thư bắn
trúng mắt. ở đây ý nói Trịnh Tông định cải trang làm thường dân để ra khỏi
thành, nhưng mưu cơ bị lộ. . . ).
Lòng hồ:
bụng da loài cáo nham hiểm, hay nghi ngờ.
Chương 4 : Nhờ ngoại viện, Hữu Chỉnh rửa thù
thầy, Tỏ lòng trung, Trần Quán chết theo chúa.
Người
đăng: Lịch sử Việt Nam
Lại nói, đám kiêu binh sau khi đã bàn định mưu
mô xong, liền kéo nhau đến hỏi Trần Nguyễn Nhưng. Nhưng vốn quen làm giấy tờ
cho đám lính; bèn lập ngay một bản điều ước, cắt đặt rõ người nào làm việc nào,
rồi đưa cho họ. Sau đó, Nhưng lại tức tốc đem mưu ấy vào báo với chúa. Chúa cả
sợ nói:
- Hôm
qua ta ngồi ở cung Trung Hoà, có con quạ khoang bay xuống trước sân vừa nhảy
nhót vừa nhìn vào ta đến hai ba lần, như có ý muốn mổ. Ta phải sai thị thần lấy
giáo ra xua mấy cái, nó mới bay đi. Thấy điềm ấy, bụng ta đã biết chắc là có kẻ
dưới đang mưu hại ta. Nay quả nhiên đúng như vậy. Bây giờ ngươi hãy nên vì ta
mà giảng giải với họ, cho nó hợp với cái điềm "xua giáo" của ta.
Rồi chúa
lại hứa cho Nhưng tiền bạc, để Nhưng ngầm phá mưu của quân lính.
Nhưng là
một người nông nổi, được chúa tỏ ý khen thưởng, tin dùng, liền đi khoe ngay với
người khác. Quân lính biết mưu của họ đã bị Nhưng tiết lộ, bèn lùng bắt, Nhưng
phải trốn về vùng Thanh Hoa.
Chúa
thấy Nhưng là kẻ đa tâm lại hay kiếm chuyện, nhân dịp hắn đi trốn, bèn cho làm
chức ký lục ở Thuận Hoá.
Sau khi
Nhưng đi rồi, thì vừa lúc các trấn cũng bãi binh; vì vậy mưu của quân lính cũng
thôi nốt.
Bây giờ
lại nói về việc Nguyễn Hữu Chỉnh giong buồm ra biển vào Tây Sơn trong năm Nhâm
dần (1782).
ấp Tây
Sơn thuộc địa phận xứ Quảng Nam (Quảng Nam hồi ấy gồm cả ba tỉnh Nam-Ngãi-Định
cũ. ấp Tây Sơn ở vào địa phận tỉnh Bình Định). Xứ này phía bắc giáp ải Vân,
phía nam giáp Gia Định, phía tây giáp Ai Lao, phía đông giáp biển; bờ cõi rộng
hàng ngàn dặm.
ở ấp Tây
Sơn có người họ Nguyễn tên là Văn Nhạc, tổ tiên nguyên là người Nghệ An. Khoảng
năm Thịnh-đức (Lê Thần Tông 1653-1657), quân nhà Nguyễn ra đánh Nghệ An, chiếm
cứ được bảy huyện phía nam sông Cả, rồi dồn bắt tất cả dân cư đưa về Nam cho
sống ở vùng Tây Sơn. Tổ bốn đời của Văn Nhạc, chuyến ấy cũng bị bắt ở trong số
đó.
Văn Nhạc
trước kia nhà nghèo, nhưng sau nhờ vào việc gá bạc mà gia tư bỗng trở nên giàu
có. Nhạc từng làm biện lại ở Vân Đồn, nên người ta vẫn thường gọi là biện Nhạc.
Biện Nhạc vì tiêu mất tiền công, bèn trốn vào núi, tụ tập tay chân hơn một trăm
người, rồi đi ăn cướp ở các châu ấp. Viên trấn tướng vùng ấy không sao trị nổi.
Từ đó,
biện Nhạc tự xưng là chúa Tây Sơn. Một hôm, biện Nhạc tự ngồi vào trong cũi,
cho bọn tay chân khiêng đi và loan báo ở dọc đường rằng đã bắt được chúa Tây
Sơn tức biện Nhạc, xin đưa đến dinh trấn để trình nộp. Viên trấn tướng mừng
lắm, mở cửa cho vào, rồi đem giam ở trong ngục. Đêm ấy, biện Nhạc phá cũi xông
ra, cướp lấy thanh gươm của tên lính canh ngục, chém chết tên ấy, phóng lửa đốt
luôn dinh trấn, rồi giết nốt viên tướng trấn và chiếm lấy thành (đây là thành
Qui Nhơn, do trấn tướng Nguyễn Khắc Tuyên coi giữ. Theo một số tài liệu khác
thì Nhạc chỉ là người vào làm nội ứng, bên ngoài lúc ấy đã có Nguyễn Thung cầm
đầu một toán quân Tây Sơn ập vào, cùng với Nhạc cướp thành).
Bấy giờ
chúa nhà Nguyễn là Nguyễn Phúc Thuần (tức Định vương) còn bé, quan quốc phó của
triều đình nhà Nguyễn là Đạt quận công (Trương Phúc Loan) nắm hết quyền chính,
làm lắm điều càn bậy, nên lòng người trong xứ đều lìa tan.
Khi Văn
Nhạc nổi loạn, lại mượn một bọn vô lại người phương Bắc (khi Nguyễn Nhạc khởi
nghĩa, có hai thương nhân Trung Quốc là Tập Đình và Lý Tài chiêu tập các dân
nghèo người Hoa-kiều theo giúp. Lý Tài xưng là Hoà nghĩa quân, Tập Đình xưng là
Trung nghĩa quân. Quân của Lý Tài và Tập Đình chiến đấu rất hăng, làm cho bên
địch vô cùng sợ hãi. Nhân đó, Nhạc thường chọn nghĩa quân của mình lấy những
người cao lớn, cho ăn mặc giống như quân của Lý Tài và Tập Đình, lúc ra trận
quân Nguyễn trông thấy bóng đã bỏ chạy. Người phương Bắc nói đây chính là trỏ
vào những người Hoa-kiều đó) giả xưng làm quân cứu viện của Tập đình hầu, để
chống với quân nhà Nguyễn. Mấy trận đánh nhau, quân nhà Nguyễn đều không thắng
nổi, do đó mà thanh thế của Tây Sơn ngày càng to lớn hơn.
Năm Giáp
Ngọ (1774) niên hiệu Cảnh hưng, thánh tổ Thịnh vương nhân cơ hội đó, mới sai
quan đại tư đồ Việp quận công làm Bình Nam thượng tướng, đem quân đóng ở La Hà
và phao lên rằng sẽ vào tiếp viện cho chúa Nguyễn. Nhạc thấy vậy liền sai người
đem cống một con ngựa hay, một thanh gươm báu, và xin theo về triều đình.
Hồi ấy,
xứ Thuận Hoá mới dẹp yên, tướng sĩ đều ngại vất vả, muốn để công việc Tây Sơn
sẽ tính toán sau. Do đó quận Việp mới làm tờ khải về trình với Thịnh vương, xin
nên nhân dịp ấy mà vỗ về Nhạc. Vương cũng nghe lời, bèn cho Nhạc làm trấn thủ
Quảng Nam và phong làm Tuyên uý đại sứ, Cung quốc công. Từ đó, hàng năm Nhạc
vẫn dâng lễ cống đều đặn.
Quận
Việp thường hay sai Nguyễn Hữu Chỉnh làm sứ giả qua lại với Tây Sơn. Thấy Chỉnh
có tài biện luận, Nhạc rất yêu mến. Được ít lâu, Nhạc thấy có điềm rồng vàng,
liền cho đóng ngai rồng, lên ngôi vua, tự xưng là thiên vương, đặt niên hiệu là
Thái đức. Triều đình biết vậy, nhưng cũng bỏ đó không hỏi gì đến. Bấy giờ Nhạc
đang có ý muốn thôn tính Thuận Hoá, mà vẫn chưa có người để bàn định công việc.
Nên khi được Chỉnh chạy vào với mình, Nhạc mừng lắm. Nhưng thực ra, trong lòng
vẫn chưa tin. Chỉnh cũng nhận thấy điều đó, liền kể với Nhạc tất cả đầu đuôi
câu chuyện của mình, rồi lại tình nguyện gửi vợ con làm con tin, để xin được
nương tựa vào xứ sở của Nhạc, Nhạc bằng lòng.
Nhạc vốn
đã mến tài của Chỉnh, nên đối với Chỉnh càng ngày càng thân mật, tin cậy. Ngược
lại, Chỉnh cũng hết lòng thờ Nhạc, bày kế cho Nhạc đánh chiếm đất đai các nước
Chiêm Thành, Xiêm La, Bồn Man. Rồi Chỉnh lại tự mình cầm quân đi tiên phong,
xông pha vào những nơi tên đạn, khiến mấy nước lân cận ấy lần lượt đều bị đánh
bại. Do đó, ân tình giữa Nhạc với Chỉnh lại càng thêm mặn mà.
Tuy thế,
nhưng trong khi ở với Tây Sơn, Chỉnh vẫn hàng ngày mong về nước cũ.
Lại nói,
triều đình từ khi mất Chỉnh, rất lấy làm lo, thường vẫn chiêu mộ xem ai dụ được
Chỉnh trở về thì sẽ trọng thưởng. Một người em rể của Chỉnh xin nhận việc đó.
Triều đình liền cấp cho một đạo mật chỉ để người ấy lên đường.
Lúc gặp
Chỉnh, người ấy chưa kịp nói gì thì Chỉnh đã hỏi:
- Chú
lận đận trèo đèo lội suối tới đây làm chi? Có phải định làm thuyết khách cho
chúa Trịnh không? Chú coi mặt ta, xem từ khi đẻ ra đến giờ đã từng nghe ai xui
khôn xui dại chưa, mà chú dám cả gan như vậy?
Người em
rể chỉ còn biết cúi đầu nín lặng, không dám nói gì nữa.
Chỉnh
lại hỏi tiếp:
- Nhưng
thôi được, chú đã ở Bắc vào đây, ắt là biết rõ đầu đuôi sự việc. Vậy chú hãy kể
cho ta nghe xem, từ sau khi Huy quận công bị nạn, thì công chúa (chỉ con gái
Trịnh Doanh, vợ Huy quận công) và các cậu công tử lưu lạc đi đâu?
Người ấy
đáp:
- Khi
ấy, công chúa bị Dương thái phi giam vào hậu cung. Còn hai công tử nghe tin có
biến thì bỏ chạy về huyện Yên Dũng, dấy quân trả thù, làm chấn động cả vùng
Kinh Bắc. Chúa Trịnh sai viên trấn thủ Kinh Bắc là Mãn trung hầu đem quân đi
đánh. Quân Mãn trung hầu bày trận ở núi Ba Tầng (nay ở địa phận huyện Việt Yên,
Hà Bắc). Các công tử sai viên thủ lệnh Hoàng Tú làm tiền bộ đem quân ra đánh.
Hoàng Tú bị chết ngay trước trận. Quân sĩ tan rã. Hai công tử đều bị bắt sống,
đóng cũi giải về kinh.
Chỉnh
nghe xong, than rằng:
- Tuổi
trẻ bồng bột, hèn nào không hỏng việc! Nhưng cũng là một việc làm vì nghĩa, dầu
thất bại mà vẫn vẻ vang. . . !
Rồi
Chỉnh lại hỏi:
- Thế
đưa về kinh rồi sau ra sao?
Người ấy
trả lời:
- Triều
đình bàn định hai công tử đều đáng tội chết. Chúa nghĩ tình anh em cô cậu, ra
ơn cho được tha tội chết. Nhưng lại bị thái phi ngầm sai người đến bắt uống
thuốc độc. Có kẻ báo với chúa. Chúa vội sai viên trung sứ đến ngăn lại. Nhưng
khi đến nơi thì cậu cả đã bị trúng độc chết rồi. Chỉ còn cậu hai hiện đang bị
giam ở ngục cửa Đoài.
Chỉnh tỏ
vẻ ngậm ngùi mà rằng:
- Thương
thay! Phá tổ đổ trứng (đời Tam-quốc, Khổng Dung bị Tào Tháo bắt, lúc sắp bị
giết chết, có kẻ đến bảo hai con của Dung nên trốn đi; hai người đó trả lời:
"Tổ vỡ thì trứng còn toàn vẹn làm sao được"- Câu này dùng theo ý đó)!
Người ta có tội tình gì?
Lại hỏi:
- Còn
công chúa, từ khi bị giam vào hậu cung thì việc ăn ở ra sao?
Đáp:
- Chúa
cũng nghĩ tình cô ruột, không nỡ hành hạ gì cả. Song vì thái phi vẫn có hiềm
cũ, nên đã làm cho khổ cực đủ đường. Công chúa vừa đau buồn vừa uất giận, nên
đã thành bệnh mà chết rồi!
Chỉnh
thở dài hồi lâu, rồi nói:
- Công
chúa chết cũng là phải, sống mà làm gì nữa. . . !
Lại hỏi:
- Thế
còn Đặng Tuyên phi thì thế nào?
Đáp:
- Khi
chúa nhỏ bị bỏ, thái phi liền sai người bắt Tuyên phi đến trước mặt mình, kể
tội, rồi buộc Tuyên phi phải lạy tạ. Tuyên phi không chịu lạy. Thái phi bèn sai
hai thị nữ đứng kèm hai bên, níu tóc Tuyên phi rập đầu xuống đất. Nhưng Tuyên
phi vẫn nhất định không chịu lạy, mà cũng không nói nửa nhời. Thái phi giận
quá, đánh đập một hồi, nhổ nước bọt vào đầu vào mặt, rồi đem giam vào nhà
Hộ-tăng ở vườn sau. Tại đây, Tuyên phi bị làm tình làm tội cực kỳ khổ sở. Một
bữa, Tuyên phi lấy áo che mặt, trốn ra khỏi cửa Tuyên-vũ, chạy đến bến đò phố
Khách thì bị quân lính đuổi kịp. Từ đó, lại càng bị giam giữ chặt chẽ. Năm sau
trong nhà tẩm miếu trên lăng Thịnh-phúc, tự dưng bao nhiêu đồ thờ bằng gỗ, bằng
vàng hễ động tay vào là nát mủn như bùn. Viên giữ lăng miếu vội vàng gửi thư về
kinh trình rõ việc biến. Thái phi cho đòi cô đồng vào hỏi. Cô đồng phán rằng:
"Chúa thượng đã làm trái ý tiên vương; tội bất hiếu có hai điều: Chúa vừa
lên ngôi, đã ngờ Đặng thị làm bùa yểm trong tử cung, rồi tự ý cạy mở tử cung,
thay đổi quần áo khâm liệm, khiến cho xương ngọc không yên. Đó là một! Đặng thị
là người mà tiên vương yêu dấu, bây giờ bị chúa làm cho tủi nhục đủ đường,
khiến vong linh tiên vương phải áy náy. Đó là hai! Nếu không mau hối lỗi tạ tội,
tai biến sẽ còn nhiều nữa!". Thái phi sợ hãi, lập tức vào nói với chúa.
Chúa bèn sai quan tế lễ tạ tội, rồi cho Tuyên phi được trở lại làm cung tần nội
thị vào thờ phụng tẩm miếu. Tuyên phi được vào hầu hạ lăng tẩm, đêm ngày chỉ
gào khóc xin chết theo tiên vương. Đến ngày giỗ "đại tường" của tiên
vương, Tuyên phi bèn uống thuốc độc mà chết. Chúa sai quan trấn thủ Thanh Hoa,
theo lễ cung nhân táng Tuyên phi ở cách Vọng-lăng của tiên vương một dặm.
Chỉnh
nói:
- Chết
được đấy! Ta tưởng Tuyên phi chỉ có nhan sắc, không ngờ lại có tiết liệt như
vậy. Nhưng không hiểu vì sao ngôi của Tuyên phi lại bị giáng làm cung tần như
thế?
Đáp:
- Bởi vì
khi chúa lên ngôi được một năm, người ta lục tờ cố mệnh của tiên vương, thấy có
chữ son của thánh mẫu ngự phê rằng: "Không phải bút rồng của tiên vương,
không đủ làm bằng". Chúa liền giao tờ đó cho triều đình bàn định, bấy giờ
quan thiêm sai Phạm Nguyễn Du làm tờ luận về "quốc sách", nói rằng:
"Ngôi của chúa Điện đô với sách mệnh của Tuyên phi cùng tờ cố mệnh, đều là
cái mệnh của tiên vương trong lúc mê lẫn. Nó rất trái lẽ thường, sai đạo lý,
không thể cho là phải được. Nay thánh mẫu là mẹ mà đổi lại ý của con thì thật
là một việc hết sức chính đáng. Vậy cần phải truy xét về cái tội của những kẻ
phụ hoạ, để làm cho sáng tỏ và nghiêm chỉnh pháp điển của nhà nước!" Do đó
mà Tuyên phi bị truất làm người thường. Rồi Tứ xuyên hầu vì viết tờ thư cố
mệnh, Khanh quận công vì tự tiện viết thay bút rồng, Thiêm sai Nhữ Công Chấn vì
tự tiện thảo tờ sách mệnh phong Tuyên phi, xuất nạp Thuỳ trung hầu vì sao những
tờ sách mệnh ấy đưa ra chính phủ. . . đều phải bãi chức về làm dân thường. Đặng
thị sau này lại phải giáng làm cung tần, cũng là vì cớ đó.
Lại hỏi:
- Ngoài
mấy việc ấy, còn chuyện báo ơn báo oán gì khác nữa không?
Đáp:
- Chúa
mới lên ngôi hôm trước, hôm sau liền hạ lệnh rằng, tất cả mọi người đều được
khoan dung, chỉ riêng những kẻ tố giác việc năm Canh tý thì không được tha. Vì
vậy những kẻ này lần lượt đều bị bắt và bị làm tội hết thảy. Duy Ngô Thì Nhậm
không biết trốn đi đâu. Những kẻ phải chết về vụ án Canh tý gồm có Tuân sinh
hầu, Khê trung hầu và chồng dì Sáu, về sau đều được truy tặng tước vương và lập
đàn chay để làm lễ cầu siêu, giải oan cho họ.
Chỉnh
nói:
- Bãi bỏ
mệnh của cha giữa triều đình, phô bày lỗi của cha với cả nước; đó là việc đại
bất hiếu!
Lại hỏi:
- Tham
tụng, bồi tụng bây giờ là những ai?
Đáp:
- Chúa
mới lập nên, Tứ xuyên hầu liền bị bãi chức; quan bồi tụng Bùi Huy Bích lên thay
chân và được phong làm Kế liệt hầu. Nay Kế liệt hầu vẫn một mình giữ ngôi tham
tụng. Còn bọn Trương Đăng Quỹ, Mai Thế Uông, và Trần Công Thước được thay nhau
làm bồi tụng. Đó đều là những bậc tai mắt nắm quyền chính hiện giờ.
Hỏi
tiếp:
- Từ bấy
đến nay, còn có điềm lành, điềm gở gì không?
Đáp:
- Điềm
lành không thấy, chỉ có điềm gở thì nhiều: ngày rằm tháng một năm Nhâm dần
(1782), ở trong cung bỗng dội ra một tiếng rất to, rền vang đến hơn một khắc,
làm rung chuyển cả trời đất. Không hiểu là tiếng gì?
Chỉnh
nói:
- Đó là
tiếng trống trời.
Người ấy
kể tiếp:
- Năm
Quí mão (1783), núi vua Hùng tự nhiên sụt xuống hơn hai chục thước. Tháng sáu
năm ấy, con sông Thiên-đức (tức sông Đuống) cạn hẳn một ngày một đêm. Năm Giáp
thìn (1784), giữa đêm mùng một tháng mười, trong hồ Thuỷ-quân (tức hồ Hoàn
Kiếm) thình lình có tiếng phát ra như sấm, nước hồ sủi lên sùng sục, sớm mai
bao nhiêu tôm cá đều chết sạch. Cũng trong năm ấy, trên các cây cối trong phủ
chúa, thường có hàng vạn con quạ ở đâu kéo đến, bay lượn lao xao, ngày đêm kêu
gào quang quác. Rồi ở quãng bờ thành phía ngoài cửa các của phủ đường, bỗng
dưng cũng sụt xuống hơn mười trượng. Đó là những sự lạ to lớn, ai ai cũng biết.
Còn những chuyện lặt vặt, thì không sao kể hết được.
Chỉnh
chắt lưỡi luôn mấy cái, rồi hỏi đến tình trạng bọn kiêu binh. Người ấy cứ theo
sự thực kể lại hết đầu đuôi. Chỉnh xem chừng câu chuyện đã cạn, bèn sai nhà bếp
làm cơm rượu, thết đãi cho người ấy ăn uống thật no say. Sau đó, Chỉnh mới căn
vặn người ấy rằng vào đây để làm gì?
Người ấy
thưa:
- Đương
trung hầu thấy tôi với quan lớn có tình bà con, nên mới tâu với chúa, xin giáng
chỉ sai tôi đến đây khuyên quan lớn về triều, cho khỏi mất công danh phú quí.
Chỉnh
cười mà rằng:
- Chú là
đứa ngu, ta thực không thèm chấp. Song ta chỉ ghét cái đứa sai chú đến đây dám
khinh nhờn ta. Vậy ta kết quả tính mạng cho chú; nếu có oan ức thì cứ xuống âm
phủ mà kiện cái đứa đã sai chú ấy!
Rồi
Chỉnh hạ lệnh cho tay chân lôi luôn người ấy ra chém chết.
Nhạc
thấy Chỉnh chém thuyết khách, lại càng thân cận tin yêu hơn.
Qua năm
Bính ngọ (1786), khoảng cuối mùa xuân, đại tướng Thuận Hoá là Tạo quận công
(tức Phạm Ngô Cầu) sai viên thuộc hiệu đội Dực-hữu là Dương lĩnh bá Nguyễn Phu
Như vào Tây Sơn nói về công việc biên giới của hai xứ.
Phu Như
với Chỉnh vốn là chỗ quen biết, liền nói với Chỉnh những lẽ có thể lấy được
Thuận Hoá. Rồi Như lại cho Chỉnh biết rằng hai xứ Thanh-Nghệ và cả bốn trấn
hiện đang bị đói lớn, dân chúng đều ta oán kêu khổ, dân với lính chẳng ưa gì
nhau, tình thế không thể lâu bền; nếu lấy được Thuận Hoá, thì việc dẹp yên
thiên hạ không khó gì nữa!
Do đó,
Chỉnh mới quyết định mưu kế về nước. Luôn bữa ấy, Chỉnh vào hầu Nhạc, bày cách
thức lấy đất Thuận Hoá, và xin điều động binh tướng đánh chiếm ngay lấy Phú
Xuân.
Nhạc
theo lời, liền sai người em ruột là thượng công Nguyễn Văn Bình (tức Nguyễn
Huệ), đốc xuất các quân thuỷ bộ; lại sai dũng tướng Võ Văn Nhậm (Võ Văn Nhậm
vốn là tiết chế của họ Nguyễn, bị Tây Sơn đánh thua ở trận Gia Định, toan tự
tử, sau nghe Nguyễn Huệ dụ hàng, Nhậm bèn theo Tây Sơn từ đó, rồi được Nhạc gả
con gái cho) làm tả quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc, cùng
theo hiệu lệnh của Bình, đến ngày 28 tháng tư thì kéo quân lên đường, tiến
thẳng về phía thành Phú Xuân.
Lại nói,
từ năm Giáp-ngọ (1774), Thuận Hoá thuộc về bờ cõi nước ta (đứng về phía
Lê-Trịnh ở Đàng ngoài mà nói. Năm 1774 quân Trịnh hạ được thành Phú Xuân),
thành Phú Xuân trở nên chỗ đầu cùng của miền biên giới và là một thị trấn rất
xung yếu. Bởi thế, triều đình mới để ba ngàn quân đóng đồn và ba vạn quân thay
phiên canh phòng; lại cử một viên đại tướng, một viên phó tướng, cùng với một
viên đốc thị, một viên phó đốc thị trông nom công việc đó. Các nơi trọng yếu từ
đèo ải Vân trở ra đều có lập đồn đóng quân. Rồi lấy dân địa phương để bổ sung
thêm quân lính. Khai khẩn đất hoang để tăng thêm lương thực. Mở mang việc lưu
thông trao đổi hàng hoá. Khai thác các nguồn lợi trên rừng dưới biển. Lấy việc
thi cử để kén chọn người tài. Dùng danh vị, tước lộc để thu phục lòng người. .
. Cách khống chế, cai trị thật không còn thiếu sót điều gì. Chỉ đáng tiếc là
viên đại tướng Tạo quận công đứng đầu xứ đó lại là một người nhu nhược, chỉ
quen lấy miệng lưỡi chống chế người, còn đến khi gặp việc quan trọng xảy ra thì
lại không có tài năng đối phó kịp thời. Trước kia, viên đốc thị Nguyễn Lệnh Tân
cứ mỗi lần nhắc đến việc phải gấp rút đánh lấy Tây Sơn, thì lại bị quận Tạo gạt
đi. Lệnh Tân bèn tâu về triều rằng: "Quận Tạo là kẻ nhút nhát, ít mưu cơ,
Thuận Hoá chắc chắn sẽ mất ở tay ông ta; xin hãy bãi chức ông ta và nhắc phó
tướng lên làm đại tướng, hoạ may xứ này mới có thể giữ vững được". Chúa
(Trịnh Sâm) nghĩ rằng Thuận Hoá là xứ vừa mới dẹp yên, lại thích tính ôn hoà,
thận trọng của quận Tạo, bèn bãi chức đốc thị của Lệnh Tân và cho người khác
làm thay.
Bấy giờ
bảng nhãn Lê Quí Đôn khảo cứu những sấm ký về đất khởi nghĩa Tây Sơn, nói với
chúa rằng: " Tây Sơn có đất thiên tử, đến mười hai năm nữa thì sức mạnh
của họ sẽ không ai chống nổi. Đại tướng Thuận Hoá e không phải là tay đối địch
được với họ. Xin chúa hãy lưu ý". Nhưng chúa cũng chỉ cho là lời nói quá
đáng, không để ý gì mấy.
Rồi đó,
bờ cõi không có chuyện gì, Nam-Bắc đều yên ổn, Thuận Hoá đang là một miền thái
bình, vui vẻ.
Đến
tháng tư năm Bính-ngọ (1786), bỗng có chiếc thuyền buôn của người khách phương
Bắc đi tới. Người khách vào ra mắt quận Tạo, rồi giở thuật tướng số ra nói
rằng: "Hậu vận của ngài rất tốt, phúc lộc không thể kể xiết. Có điều hiện
nay ngài đang gặp phải năm xung tháng hạn, cần đề phòng bệnh tật xảy ra. Mùa hè
này ngài nên lập đàn mà cầu cúng thì tốt!". Quận Tạo tin lời, tức thì sai
lập đàn chay rất lớn, cúng luôn bảy ngày bảy đêm. Quân lính phải phục dịch liên
tục hết đêm này sang ngày khác rất là vất vả.
Thình
lình thấy có tin báo bộ binh của địch đã lấy mất đồn ải Vân, tướng giữ ải Vân
là Quyền Trung hầu (tức là Hoàng Nghĩa Hồ) bị chết trong khi đánh nhau; hiện
nay các đạo thuỷ binh của địch đang theo đường biển kéo ra, chỉ sớm tối sẽ đến
đây. Quận Tạo hốt hoảng về thành, không biết nên làm thế nào. Các quân lính vì
suốt mấy hôm hầu hạ đàn chay đang mỏi mệt, thốt nghe tin có địch, ai nấy đều không
còn hồn vía. Quận Tạo vội cho người đi tìm người khách, thì đã mất tăm không
thấy đâu nữa. Bấy giờ, quận Tạo mới biết hắn là thám tử của địch, đến bày mưu
để đánh lừa mình.
Nguyễn
Hữu Chỉnh khi ở Tây Sơn vốn đã biết quận Tạo là người nhút nhát mà đa nghi, dụ
hàng chưa chắc Tạo đã tin. Chỉnh bèn viết một bức thư cho phó tướng Thể quận
công (tức Hoàng Đình Thể) đại ý nói rằng: quân Tây Sơn tinh nhuệ lắm, không thể
địch nổi. Quận Thể với Chỉnh xưa đều là thuộc hạ của quận Huy, nếu nay Thể chịu
đem thành Phú Xuân ra hàng thì Chỉnh sẽ bảo đảm cho được giàu sang toàn vẹn.
Rồi Chỉnh lấy sáp bọc kín (xưa các thư từ bí mật đều bọc sáp ong), và mật sai
người cố ý đưa lầm phong thư ấy vào dinh đại tướng Tạo quận công. Quận Tạo nhận
được thư đâm ra nghi ngờ, sợ hãi, ngầm có ý muốn hàng Tây Sơn, bèn dìm luôn bức
thư đi.
Chẳng
bao lâu, đại binh Tây Sơn kéo đến. Đại tướng và phó tướng bèn cùng nhau bàn
cách chống cự.
Nguyên
thành Phú Xuân ở ngay bờ sông, từ mặt nước dưới dòng sông lên chân thành, chiều
cao khoảng độ hơn hai trượng. Lúc ấy thuyền Tây Sơn ở dưới sông bắn ngược lên,
vì vậy không tới mặt thành. Trong thành, người ta đóng chặt các cửa, rồi dốc
tất cả quân sĩ ở trên bắn xuống. Bộ binh của Tây Sơn phải lui cả vào trong
thuyền. Trên thành bắn theo, thuyền của Tây Sơn bị chìm một chiếc. Nhờ vậy,
tinh thần quân lính trong thành đã hăng hái lên được một chút. Chẳng dè, đêm ấy
thuỷ triều lên to, nước sông tràn ngập khắp chân thành. Quân Tây Sơn thừa dịp
thả thuyền tiến sát vào, bắn thẳng lên thành, rồi cho bộ binh vây chặt cửa
thành.
Quận Tạo
tự mình chỉ huy các toán quân giữ cổng thành; rồi sai phó tướng quận Thể cùng
các thuộc tướng là bọn Kiên kim hầu (tức Vũ Tá Kiên) ra ngoài thành đón đánh.
Hai người con trai quận Thể đều làm quan võ, cũng theo cha ra đánh, cả toán dựa
lưng vào bờ thành mà bày trận. Đánh nhau được hơn một canh, tên đạn đều hết,
quận Thể cử người vào thành xin thêm. Quận Tạo ngồi trên lầu thành, sai người
đóng cửa chặn lại mà cự rằng: "Cơ nào đội ấy, ngoài việc cấp lương khẩu
phần, đạn dược cũng đều có cả rồi, giờ lại còn vào đòi hỏi ai?" Quận Thể
giận lắm, liền bảo với các tướng:
- Quận
Tạo phản rồi! Để ta phá cửa thành vào chặt lấy đầu thằng giặc già trước đã, rồi
sau sẽ ra đánh.
Đoạn
ngoảnh lại nói với các con:
- Chúng
bay hãy đứng phía trước cản địch, ta vào một lát sẽ quay ra.
Rồi quận
Thể co đầu voi quay vào. Voi vừa lùi lại, thế trận tức thì rối loạn, quân Tây
Sơn thừa cơ sấn đến. Hai con quận Thể phóng ngựa ra trận, múa đao chém chết
chừng vài trăm người. Quân địch kéo đến càng đông hơn, họ xông vào chém chân
ngựa của hai người. Ngựa quỵ, hai người lại hoa đao đánh bộ, giết thêm vài chục
người nữa, rồi bị thương nặng và cùng đuối sức, bèn gọi cha ra cứu.
Quận Thể
vội quay voi đến cứu, thì hai người đã bị chém chết ở trước trận. Liền đó, Kiên
kim hầu cũng bị giết chết.
Quận Thể
thu quân, toan bày trận khác, nhưng ngoảnh đầu nom lên thành thì đã thấy kéo cờ
trắng rồi.
Tên quản
tượng của quận Thể hốt hoảng, bỏ voi nhảy xuống đất chạy trốn. Quân địch đuổi
theo voi mà bắn. Quận Thể chết ngay trên bành voi.
Đại
tướng Tạo quận công truyền mở cổng thành, xe quan tài ra hàng (tỏ ý xin ra chịu
chết). Bình thả quân vào thành, chém giết bừa phứa. Đốc thị Nguyễn Trọng Đương
chết trong trận đó. Còn bao nhiêu lính tráng trong thành chạy trốn ra ngoài,
đều bị thổ dân giết sạch.
Trong
trận đánh này, mấy vạn mạng tướng sĩ đóng ở thành Phú Xuân đều không còn sống
sót lấy một mống.
Chiếm
xong Phú Xuân, Bình nhân đà thắng kéo quân ra lấy luôn đồn Động Hải. Tướng giữ
đồn là Vị phái hầu cùng hiệp trấn là Ninh Tốn mới trông thấy bóng quân Tây Sơn
đã chạy trốn. Thế là mất hết cả đất Thuận Hoá. Bấy giờ là ngày 14 tháng 5 năm
Bính Ngọ niên hiệu Cảnh hưng (1786).
Sau khi
hoàn toàn lấy được Thuận Hoá rồi, Bình bèn họp các tướng bàn việc sửa lại địa
giới La Hà; đồng thời sai làm tờ "lộ bố" (thư báo tin thắng trận) báo
tin thắng trận về cho chúa Tây Sơn.
Lúc ấy,
Chỉnh nói với Bình rằng:
- Ngài
vâng mệnh ra lấy Thuận Hoá, đánh một trận mà xong, oai danh lừng lẫy khắp thiên
hạ. Phép dùng binh có ba điều cốt yếu, một là "thời", hai là
"thế", ba là "cơ"; ba điều ấy đều có cả thì đánh đâu cũng
thắng. Nay ở Bắc Hà, tướng lười binh kiêu, triều đình không còn kỷ cương gì cả,
ta thừa thế mà đánh lấy, như trong sách đã nói: "Chiếm nước yếu, đánh nước
ngu, lấy nước loạn, lấn nước suy vong". Cơ và thời ấy không nên bỏ lỡ!
Bình
đáp:
- Bắc Hà
là một nước lớn, có nhiều người tài. Lời xưa có nói: "Con ong có
nọc", há có thể khinh thường được ư?
Chỉnh
nói:
- Người
tài ở Bắc Hà chỉ có một Chỉnh này mà thôi. Nay tôi đã đi rồi, ấy là cái nước
rỗng không, xin ngài chớ nghi ngại!
Bình vốn
khéo dùng ngôn ngữ để bẻ người, liền đùa rằng:
- Không
nghi ngại người nào khác, chả hoá ra chỉ có ông là đáng nghi ngại thôi ư?
Chỉnh
tái mặt mà tạ rằng:
- Sở dĩ
tôi tự nêu lên cái ngu hèn của mình như thế, chẳng qua cũng chỉ để nói quá rằng
nước tôi tuyệt nhiên không có người tài đó mà thôi! (ý Chỉnh muốn nói chữa,
ngoài Bắc chỉ có Chỉnh là tài mà Chỉnh cũng chỉ xoàng như vậy thì quả là ngoài
Bắc không còn có người tài nữa)
Bình lại
an ủi mấy câu, rồi tiếp:
Một nước
đã trải bốn trăm năm, nay bỗng chốc mình đến cướp lấy, người ta sẽ gọi đạo quân
ấy là đạo quân gì?
Chỉnh
đáp:
- Nước
tôi có vua lại có chúa, đó là một việc hết sức trái ngược xưa nay. Chúa Trịnh
tiếng rằng phò Lê, thực ra chỉ là ăn hiếp thiên tử. Người trong nước vốn không
phục. Trước đây các bậc anh hùng mỗi khi nổi dậy, chưa từng có ai không lấy
danh nghĩa phò Lê. Nhưng số họ Trịnh chưa hết, nên công việc của những người ấy
đều không thành. Nay xét ở trong "địa ký" của họ Trịnh có câu:
"Chẳng đế chẳng bá, quyền nghiêng thiên hạ, truyền được tám đời, trong nhà
dấy vạ". Mà tính từ Thái vương đến Tĩnh vương [địa ký: sách ghi lời dự
đoán trước về thế đất để mả. Thái vương là Trịnh Kiểm; Tĩnh vương là Trịnh Sâm.
Tương truyền Trịnh Kiểm lúc nhỏ nhà nghèo, thường ăn trộm gà hàng xóm để nuôi
mẹ, ai cũng ghét. Họ bèn ném mẹ Kiểm xuống vực sâu ở làng. Qua một đêm, chỗ vực
sâu ấy bỗng biến thành một gò đất. Sau có một thầy địa lý đi qua gò đất, đọc
bốn câu rằng: Phi đế phi bá, quyền khuynh thiên hạ, tộ truyền bát đại, tiêu
tường khởi hoạ (nghĩa như trên). Câu "tộ truyền bát đại" có bản chép
"truyền nhị bách niên" (truyền hai trăm năm)] thì đã đủ số tám đời
rồi. Nếu ngài lấy cớ "diệt Trịnh phò Lê" mà kéo quân ra, thiên hạ
không ai là không hưởng ứng. Đó chính là cái công không mấy đời có vậy!
Bình
nói:
- Đó là
việc rất hay! Nhưng nay ta vâng mệnh đi đánh Thuận Hoá, không phải vâng mệnh đi
đánh nước người. Tự ý thay đổi mệnh lệnh của nhà vua như thế thì ra làm sao?
Chỉnh
đáp:
- Trong
kinh Xuân Thu có nói: "Thay đổi nhỏ mà công lao lớn, ấy là có công!"
Như thế thì thay đổi cũng có ngại gì đâu? Huống hồ, ngài há chẳng nghe nói câu
"tướng ở ngoài, mệnh vua có khi không cần phải theo" đấy ư?
Bình là
một người thông minh, quyết đoán, được lời Chỉnh nói trúng với ý mình, tức thì
nghe theo ngay. Bình sai Chỉnh đem đội quân tuyển phong, vượt vào cửa biển Đại
An, đánh lấy kho lương Vị Hoàng (xã Vị Hoàng, sau là tỉnh lỵ Nam Định) trước;
còn tự mình thì dẫn thuỷ binh theo sau, lại hẹn với Chỉnh hễ đến được Vị Hoàng
thì phải đốt lửa lên làm hiệu.
Bố trí
xong rồi, Chỉnh liền cầm quân đi trước. Lúc ngang qua mấy trấn Nghệ Anh, Thanh
Hoa, Chỉnh sai nhiều toán du binh, mỗi toán chừng vài trăm người, chia ngả đi
đánh các đồn để phô trương thanh thế.
Trấn thủ
Nghệ An là Đương trung hầu, trấn thủ Thanh Hoa là Thuỳ trung hầu (tức Bùi Thế
Toại và Tạ Danh Thuỳ) đều bỏ thành mà chạy.
Ngày
mồng sáu tháng sáu năm ấy (1786) Chỉnh tới Vị Hoàng. Quân ở trong đồn mới trông
thấy bóng quân Chỉnh đã bỏ trốn. Hơn một trăm vạn hộc lương ở đây đều bị Chỉnh
chiếm gọn. Sau đó, Chỉnh bèn đốt lửa báo tin.
Bình
thấy hiệu lửa, lập tức dẫn hơn một ngàn chiếc thuyền theo đường biển đi ra. Dân
chúng Nghệ An lên núi, trông bóng lâu thuyền (loại chiến thuyền hạng lớn,
khoang thuyền có lầu cao) cùng cờ quạt ngoài biển đều ngậm ngùi than:
"Cõng rắn cắn gà nhà, hắn ta thật có tội. Song cũng là một việc không mấy
đời có!"
Chỉnh ở
Vị Hoàng hợp với quân của Bình, thanh thế rất lớn. Bấy giờ trong nước, những kẻ
hai lòng thường hay lui tới dinh quân của Chỉnh, đem hết tình hình nước nhà mà
kể với địch. Còn như tình hình quân địch ra sao, thì triều đình lại không hề
hay biết gì hết.
Khi Phú
Xuân bị vỡ, tin từ biên giới báo về kinh, những người dự bàn đều nói: Thuận Hoá
vốn không phải là bờ cõi của triều đình, tiên triều hao phí bao nhiêu của cải
trong nước mới lấy được xứ ấy, rồi lại phải đem quân đóng giữ, rốt cuộc chẳng
có ích gì. Ngày nay mất đi cũng là một cái may. Bây giờ chỉ nên bàn tính việc
đóng đồn ở trấn Nghệ An và định rõ cương giới cũ mà thôi. Ta lấy sự mất Thuận
Hoá làm may, ắt họ phải lấy sự lấn đất của ta làm điều đáng ngại. Như vậy hẳn
là ta không phải lo gì nữa.
Thế là
kẻ trên người dưới, ai nấy đều yên lòng. Chợt nghe tin Nghệ An bị vỡ, quân địch
sắp sửa đến nơi; triều đình bấy giờ mới hốt hoảng, bèn sai Thái đình hầu (tức
Trịnh Tự Quyền) làm thống lĩnh, đem 27 cơ lính vào Nghệ An chống nhau với quân
địch, Thái đình hầu lĩnh mệnh đã hơn mười ngày, mà sửa soạn vẫn chưa xong. Kịp
đến khi rời thành được nửa ngày, thì quân địch đã tới Vị Hoàng. Bấy giờ triều
đình lại sai luôn Thái đình hầu xuống giữ ở vùng Sơn Nam; và phái thêm Liễn
trung hầu Đinh Tích Nhưỡng đốc lĩnh đường thuỷ, dẫn các đội thuyền Tả-vệ,
Hữu-vệ, Ngũ-hầu, Ngũ-thiện, Ngũ-trung cùng với Thái đình hầu thuỷ bộ đều tiến.
Hồi ấy
Nhưỡng đang đánh nhau với bọn thuỷ khấu (bọn cướp trên sông, biển) ở vùng Hải
Dương; đến lúc này, bọn thuỷ khấu đã hợp cả với quân Nam, vì vậy triều đình
liền sai luôn Nhưỡng về đánh giữ mặt Nam.
Nhưỡng
là danh tướng ở vùng Hàm Giang, vốn là con nhà dòng dõi, triều đình đem hết
công việc thuỷ chiến giao phó cả cho Nhưỡng.
Các
thuyền quân của Nhưỡng kéo đến đóng ở cửa Luộc [cửa Luộc, chỗ sông Luộc chảy
vào sông Hồng Hà giáp liền với huyện Tiên Lữ (Hưng Yên) và huyện Hưng Nhân
(Thái Bình)], cầm cự với quân Tây Sơn. Bấy giờ gió đông nam thổi rất dữ, quân
Tây Sơn ở hạ lưu cho năm chiếc thuyền làm tiền bộ tuyển phong, giương buồm
ngược dòng tiến lên, còn đại quân thì từ từ tiến theo sau. Nhưỡng thấy những
thuyền tuyển phong của địch xông đến, tức thì đem chiến thuyền chặn ngang sông,
dàn thành thế trận hình chữ "nhất"; rồi truyền quân lính nạp súng
Bảo-lân, bắn sang thuyền địch. Bắn phát đầu, thuyền địch đứng yên không động.
Nhưỡng truyền bắn phát thứ hai, các buồm của thuyền địch đều cuốn lại. Quân bên
Nhưỡng mừng rỡ, cho là bên địch có ý sợ. Nhưỡng lại sai bắn luôn ba phát nữa.
Lúc ấy bên địch mới bắn trả một phát súng lớn, tiếng nổ như sấm, đạn bay lên
cây cổ thụ bên bờ, làm cho thân cây bị gãy làm hai đoạn.
Bấy giờ
Trướng trung hầu (tức Đỗ Thế Dận) và viên đốc đồng Nguyễn Huy Bình đều một mình
bỏ trốn. Quân của Thái đình hầu đóng ở cửa Kim Động [thuộc Hưng Yên (Hải Hưng)]
cũng tự vỡ mà chạy.
Khi ấy,
thư báo tin thua trận tới tấp đưa về kinh, các quan văn võ trong triều ai nấy
chỉ cuống lên lo thu xếp chỗ nương náu cho vợ con, lo cất giấu của cải, không
một ai dám ra nhận lấy việc đánh nhau với quân Tây Sơn.
Chúa
thấy tham tụng Bùi Huy Bích ở ngôi tể tướng lâu ngày mà chẳng làm được việc gì,
đến lúc này lại không có mưu kế gì để chống địch, trong lòng đã chán ghét. Rồi
nhân những người xung quanh lại công kích Bích rất gay gắt, chúa bèn bãi chức
tể tướng của Bích và cử ra trận đốc chiến.
Tể tướng
đi rồi, lòng người càng nôn nao. Chúa bèn đòi Công Thước (Trần Công Thước, sau
đổi là Công Xán) vào phủ, mật bàn xem nên đánh lui địch hay nên tránh địch.
Công Thước thưa:
- Giặc
kéo quân vào sâu xứ lạ, đó là điều mà trong binh pháp rất kỵ. Nên dử cho chúng
tới gần nữa, rồi đánh một trận mà tiêu diệt hết, đó cũng là cái thuật kỳ diệu
trong phép dùng binh. Vả lại, kinh sư là cái gốc của thiên hạ, rời bỏ thì sẽ đi
đâu? Chẳng những thế, nếu kiệu chúa lật đật ra ngoài thành, tất lòng người sẽ
phải lìa tan, ấy là đem nước mà trao cho giặc vậy. Bây giờ chỉ nên xin thái phi
và cả sáu cung hãy tạm lánh ra ngoài thành mà thôi.
Chúa
nghe theo lời Thước. Lại tự nghĩ rằng, trong hàng võ tướng chỉ có Thạc quận
công là tay lão tướng có thể trông cậy được, bèn sai người ra trấn Sơn Tây tức
tốc triệu ông ta về triều.
Được
lệnh, quận Thạc liền đem ngay năm trăm quân nghĩa dũng về cứu kinh thành. Thấy
quận Thạc về, lòng người cũng hơi vững. Khi quận Thạc vào ra mắt, chúa nói:
- Ông bỏ
quả nhân hay sao? Bây giờ thế nước như vậy thì làm thế nào?
Quận
Thạc khóc mà rằng:
- Thần
chịu ơn dày của nhà nước, thề không cùng sống với giặc. Cha con thần tất cả còn
có chín người, nếu phải dựa lưng vào thành mà quyết một trận tử chiến, thần xin
cầm roi mà theo dưới chân chúa, chúa không lo gì hết!
Chúa bèn
bỏ ra năm ngàn lạng bạc, giao cho quận Thạc để chi về việc binh. Thạc lập tức
ra lo liệu việc quân, một ngày gọi được hơn một ngàn thủ hạ, toàn là những tên
quân hết sức tinh nhuệ. Rồi theo lệnh chúa, quận Thạc tiến quân ra đóng ở hồ
Vạn Xuân (tức đầm Vạn Phúc ở làng Vạn Phúc, huyện Thanh Trì, Hà Đông, nay là
ngoại thành Hà Nội).
Bấy giờ
gió đông nam đang mạnh, đường thuỷ trở nên rất xung yếu. Sau khi các đội thuyền
của Liễn trung hầu đã bị đánh bại, quân địch chiếm được cả một dải đất yên ổn
chạy dài theo ven sông, rồi thuận đường kéo thẳng lên kinh kỳ. Tông sai cả bốn
hiệu lính thuỷ dốc hết quân xuống ngăn địch ở cửa Thuý ái (Cửa Thuý ái nằm ở
địa phận bãi Thuý ái, Thanh Trì, Hà Đông, nay thuộc ngoại thành Hà Nội).
Thuyền
địch đến bến Nam Dư (cũng thuộc Thanh Trì, Hà Đông, nay thuộc ngoại thành Hà
Nội), tức thì bỏ thuyền nhảy lên bộ, đánh úp vào đám lính thuỷ ở cửa Thuý ái.
Trước đó, thuỷ binh ở đây nghe tin quân địch còn xa, nên không phòng bị gì hết,
cứ cột thuyền lại rồi lên bờ đi tản mát, linh tinh ở các bãi sông. Khi quân
địch thình lình kéo đến, thuỷ binh không kịp lên thuyền, bao nhiêu thuyền bè
đều bị địch chiếm hết cả. Cả đội duy có viên tiểu tướng họ Ngô (tức Ngô Cảnh
Hoàn, theo Cương mục, Hoàn có người thiếp yêu là Phan Thị Thuấn rất trẻ, đẹp.
Sau khi Hoàn chết, nàng cứ nhởn nhơ may sắm quần áo và trang điểm như không có
chuyện gì, mọi người chê cười cũng mặc. Đến hết giỗ 100 ngày, bấy giờ nàng mới
trang điểm đẹp đẽ, bơi thuyền đến chỗ chồng chết mà tự tử. Nhân dân địa phương
bèn lập đền thờ, khen là người con gái tiết liệt) là dám vác đao đứng ở đầu
thuyền, đánh nhau với địch. Được chừng hơn một khắc, quân Tây Sơn dùng súng lớn
bắn vào đầu thuyền, viên tiểu tướng ấy trúng đạn chết tại chỗ. Quân địch bèn
kéo ùa lên bộ, xông vào trận của quận Thạc. Quân lính của quận Thạc khi ấy đang
ăn cơm, chợt thấy địch ập tới, ai nấy bỏ cả khí giới mà chạy (theo Cương mục,
lúc ấy có Mai Thế Pháp dám một mình vác dao ra chặn đường quân Tây Sơn, nhưng
giết được mươi người thì bị vây chặt, phải nhảy xuống sông tự tử). Quân Tây Sơn
từ hai phía tả hữu cùng đánh dồn lại, chém giết quân của quận Thạc tơi bời,
thây chết nằm ngổn ngang khắp bãi. Những kẻ nhảy xuống hồ Vạn Xuân mà chết,
cũng không biết bao nhiêu mà kể.
Quận
Thạc chỉ còn hơn mười thủ hạ và tám người con. Bọn họ đều xúm quanh chân voi
của quận Thạc, tựa vào voi mà chống cự lại quân Tây Sơn. Sáu người con của quận
Thạc ra sức chiến đấu, chết ở trước voi. Quận Thạc liền sai quản tượng cho voi
quỳ xuống, rồi ông ta nhảy xuống đất cùng hai người con cướp đường mà chạy tháo
thân.
Thuỷ
binh của Tây Sơn tiến thẳng đến bến Tây Long. Chúa thân hành ra ngự trên lầu
Ngũ-long bày trận. Chia thành năm đạo quân: hiệu Tả-bộ giữ mặt Đông Long, hiệu
Hữu-bộ giữ mặt Tây Hổ, hiệu Tiền-bộ giữ mặt cửa thành Tiền Lâu, hiệu Hậu-bộ giữ
mặt Hậu Lâu, cạnh bờ hồ Thuỷ-quân, còn hai hiệu Nhưng, Kiệu ở trung quân để hộ
giá.
Quân Tây
Sơn từ bãi sông tiến vào, chúa ở trên lầu sai nổi hiệu trống trận, hiệu Tiền-bộ
liền nổ súng bắn ra. Bắn được một hồi lâu, quân địch khom mình vừa tránh đạn
vừa xông vào. Chúa bèn mặc đồ trận, xuống lầu, trèo lên mình voi, cầm cờ đỏ chỉ
ba cái, vẫy ba cái, rồi sai thúc trống làm hiệu cho quân lính tiến về phía
trước. Quân lính nghe trống giục, trông theo lá cờ liều mạng tiến lên. Bên địch
dùng "hoả hổ" (tên một thứ ống phun lửa của Tây Sơn) phun lửa bừa
vào, quân lính nhà chúa đều sợ mất mật, bỏ cả khí giới ở bờ sông mà chạy thục
mạng.
Chúa
thấy quân lính tan tác, ngoảnh nhìn quanh mình, đã không còn một người nào;
nhưng quân Tây Sơn không biết đó là chúa, hối hả tranh nhau xông vào phủ chúa,
không ai lại gần chân voi. Chúa vội cởi bỏ quần áo trận, đội khăn chữ đinh, tụt
xuống ngồi núp trong ngăn hòm da ở mé sau bành voi, rồi co đầu voi quay về phủ.
Khi qua cửa Tuyên Vũ, thì thấy tiền binh của địch chừng vài chục người đã vào
lọt trong phủ và đang kéo cờ ở phía ngoài phủ; chúa liền quay voi men theo bờ
hồ Minh Đường, nhằm phía cửa ô Yên Hoa (tức là ô Yên Phụ, Hà Nội bây giờ) mà
chạy.
Bấy giờ
Bình đã vào thành [Nguyễn Huệ vào Thăng Long ngày 26 tháng 6 năm Bính-ngọ
(1786)], hạ lệnh nghiêm cấm quân sĩ không được cướp bóc của dân, rồi Bình vào
phủ chúa nghỉ ngơi.
Mấy viên
cận thần và các thân binh biết chúa chạy về phía tây, bèn lục tục chạy theo.
Tới ngoài cửa thành, hãy còn có chín thớt voi hơn mười con ngựa và hơn ngàn
người. Lúc qua địa phận Từ Liêm, dân quê thấy bóng gươm giáo, ngờ là địch đến,
vội dắt nhau chạy. Quan quân trông đằng xa thấy dân chạy tưởng là địch, quá nửa
số người vứt bỏ cả khí giới mà trốn. Đến huyện Yên Lãng, thì có người con trai
Nguyễn Thưởng là Nguyễn Noãn, quê ở làng Vân Điềm, huyện Đông Ngàn, vốn là gia
thần của chúa, đón chúa ở dọc đường quỳ xuống mép đường bên trái mà thưa rằng:
- Ngày
trước tôi vâng mệnh chúa đi mộ quân, hiện đã mộ được năm trăm tên, đang chờ ở
phía bờ bắc sông này. Xin chúa hãy ngự giá sang phía bắc, tới làng tôi đóng tạm
để lo tính công việc về sau.
Chúa bèn
sai gọi đò để sang sông. Bao nhiêu chân sào ở bến đò mỗi người lẩn đi mỗi ngả.
Tìm mãi mới được ba chiếc thuyền nhỏ, mỗi chiếc chỉ chở được khoảng 13, 14
người. Chúa vội lên thuyền, chỉ có năm sáu viên quan hoạn trẻ tuổi và Noãn đi
theo. Còn bao nhiêu quan quân và voi ngựa đều phải ở lại: khi nhìn thấy chúa đã
sang đến bờ bên kia, thì họ cũng bảo nhau trốn chạy tan tác.
Chúa lên
bờ, không thấy một tên quân nào, vội hỏi Noãn thì Noãn đáp:
- Lính
tráng hiện ở làng tôi, xin chúa hãy quá bộ đi dấn lên phía trước, làng tôi cách
đây cũng không xa.
Chúa có
ý hối bị Noãn làm lỡ việc, lại sợ đi nữa chưa chắc giữa đường có được yên lành
hay không. Bấy giờ quanh mình chẳng có ai đáng tin; chúa nghĩ rằng chỉ có những
bậc văn thần tiến sĩ là có thể trông cậy được, bèn hỏi Noãn:
- Những
thôn ấp gần đây có viên tiến sĩ nào không?
Noãn
thưa:
- ở đây
thì chẳng có ai là tiến sĩ. Chỉ có viên thiêm sai tri lại phiên Lý Trần Quán,
trước kia phụng mệnh đi chiêu dụ nhân dân, vẫn đóng tạm tại làng Hạ Lôi, nhưng
không biết hiện giờ có còn ở đó nữa không?
Chúa
nói:
- Người
hãy thử đi hỏi xem. Nếu còn thì nên bảo kín tình trạng này để cho viên ấy biết
mà lo liệu giúp ta.
Noãn
vâng mệnh, đi tới ra mắt Lý Trần Quán kể rõ đầu đuôi, rồi nói:
- Tôi
trước vâng mệnh về quê mộ quân, hiện nay đã mộ được một số, đang đợi ở địa giới
huyện tôi. Quan lớn hãy liệu cách nào mượn tạm lấy ít binh lính, khí giới hộ vệ
cho chúa tới đó, thế là yên ổn.
Quán có
người quen là viên tuần huyện Trang (tức Nguyễn Trang) ở làng Hạ Lôi. Trang vốn
là một tên tướng cướp, thuở trước đã có học với Quán. Bấy giờ Quán trú ở Hạ Lôi
cũng là nhờ có Trang che chở. Nghe Noãn nói thế, Quán bèn cho gọi Trang vào
bảo:
- Hiện
có quan tham tụng là Kế liệt hầu tránh loạn đến đây, muốn phiền anh hộ tống ra
khỏi địa phận.
Trang
xin vâng.
Quán
liền cùng Trang theo Noãn đến yết kiến chúa.
Nguyên
lúc Quán ở chính phủ chỉ là một viên quan nhỏ, chưa từng được thấy mặt chúa, mà
chúa cũng chưa hề biết Quán bao giờ. Khi ấy, chợt thấy Quán đến, chúa bèn
ngoảnh lại hỏi mấy viên thị thần:
- Đó là
người nào?
Bọn thị
thần đáp:
- Đó là
Lý Trần Quán!
Chúa
đang nhún nhường chưa biết nên nói câu gì. Quán khi được tiếp kiến cũng tỏ ra
hết sức cung kính, điệu bộ rụt rè, khúm núm. Vô tình chúa và tôi đều lộ rõ chân
tướng. Hồi lâu, chúa mới nói tâm sự với Quán.
Quán chỉ
vào Trang thưa:
- Tôi có
tên này, vốn là học trò cũ của tôi, việc đó hắn rất có thể đảm đương được.
Rồi Quán
quay sang bảo Trang:
- Anh
phải cẩn thận hộ vệ quan lớn ra khỏi địa giới đấy nhé!
Trang
thưa: "Dạ!".
Quán bèn
từ biệt chúa, trở về nhà riêng. Còn Trang thì đem theo năm mươi thủ hạ đi hộ vệ
chúa. Lúc đi qua một ngôi nhà mà Quán đã từng ở, Trang giữ chúa lại trong một
căn buồng bỏ không và hỏi:
- Ông có
phải là Đoan nam vương thì cứ nói thực với tôi. Nếu không, rồi xảy ra việc gì,
ông đừng có trách!
Chúa mới
đầu còn định giấu giếm, bèn đáp:
- Sao
anh lại đoán xằng như vậy? Ta chỉ là quan tham tụng Bùi Huy Bích mà thôi!
Trang
nói:
- Ông
chớ nói dối người ta. Cái bộ điệu che đậy của chúa tôi nhà ông lúc nãy tôi đã
thấy cả rồi, còn che mắt ai được nữa? Từ xưa đến nay, hưng phế là việc thường,
ông cũng không thể tránh khỏi, đừng có làm gì nữa cho thêm nhọc mình!
Rồi
Trang đưa chúa về nhà. Chúa giận lắm, đổi sắc mặt mà nói:
- Vua
chúa phải có mệnh trời. Chính thật đại nguyên soái Đoan nam vương là tao đây!
Nếu có chết về tay người trong nước thì cũng là mệnh trời. Tha hồ cho mày làm
gì thì làm!
Trang
bèn sai người đi báo tin cho quân Tây Sơn. Hết thảy những kẻ đi theo chúa đều
bị bắt giữ.
Quán
nghe tin có việc biến, thân hành đến tận chỗ chúa, rập đầu xuống đất mà nói:
- Làm
lầm chúa đến nông nỗi này, là do tội của tôi cả!
Tông
đáp:
- Người
ta ai có bụng nấy, khanh có can dự gì?
Quán lui
trở ra, bảo Trang:
- Chúa
là chúa chung của thiên hạ. Mà ta lại là thầy anh. Vua tôi là nghĩa lớn, sao
anh nỡ làm như thế?
Trang
đáp:
- Quan
lớn không bảo tôi trước, khiến tôi trót lầm đến gặp chúa. Nếu chúa trốn thoát ở
tay tôi, rồi nữa quân Nam đến hỏi tội tôi, liệu quan lớn có thể biện bạch hộ
được không? Sợ thầy chưa bằng sợ giặc, yêu chúa chưa bằng yêu thân mình, tôi
không để quan lớn làm cho lầm lỡ đâu!
Tiếp đó,
Trang bức Quán phải trở về nhà, rồi quát thủ hạ dìu chúa về kinh đô.
Quán tới
lạy chúa, vừa khóc vừa kêu gào rằng:
- ối
trời ơi! Tôi giết chúa tôi rồi, trời có hay chăng?
Chúa an
ủi:
- Tấm
lòng trung thành của khanh, "cô" (lối khiêm xưng của vua chúa đời
xưa) đã biết rồi đừng nên tự oán mình như thế!
Quán
muốn nèo chúa ở lại chút nữa, nhưng chưa kịp nói thì chúa đã bị Trang đẩy đi
rồi.
Đi đến giữa
đường, Trang dẫn chúa vào tạm nghỉ trong một cái quán. Chúa vớ được con dao con
của nhà hàng, đưa lên đâm ngay vào cổ mình. Trang trông thấy vội giằng lấy dao.
Mũi dao đâm vào hãy còn nông, nên vết thương ở cổ cũng nhỏ. Chúa bèn dùng ngón
tay chọc vào vết thương xé cho rách thêm ra, nhưng cũng bị Trang ngăn chặn. Một
chốc, chúa thấy trong bụng nôn nao, buồn bực, đòi uống nước lạnh. Trang sai
người lấy nước cho chúa. Chúa bưng nước uống xong thì chết liền. Trang đưa thi
hài chúa đến kinh. Quân Tây Sơn mừng lắm, đem phơi xác chúa ra ngoài cửa Tuyên
Vũ để cho thiên hạ cùng biết. Sau đó, sai khâm liệm chúa đúng theo lễ vua chúa,
rồi dùng kiệu rồng đưa ra chôn ở lăng Cung quốc công (nơi chôn Trịnh Cán).
Còn
Trang, được phong làm Tráng nghĩa hầu thêm chức trấn thủ Sơn Tây. Hôm ấy nhằm
ngày 27 tháng 6 quận công năm Bính-ngọ (1786) (theo Trịnh thị thế gia, thì
ngoài Trang còn có Nguyễn Noãn tức Ba Đóm cũng tham dự vào việc bắt Tông. Nhưng
lúc Noãn đòi thưởng công thì Nguyễn Huệ cho là kẻ bất nghĩa và sai đem chém
ngay).
ở Hạ
Lôi, Lý Trần Quán sau lúc từ biệt chúa, liền quay về nhà trọ, nói với chủ nhà
rằng:
- Bề tôi
mà làm lầm vua, tội thật đáng chết! Nếu ta không chết, không lấy gì tỏ được
lòng này với trời đất. Vậy hãy sắm cho ta một cỗ quan tài, mười vuông vải
trắng, để ta làm theo cái chí của ta.
Chủ nhà
hết sức khuyên giải, Quán vẫn không nghe, nói rằng:
- Ta đã
muốn chết, tự khắc còn có những cách khác, nhà ngươi không thể ngăn nổi đâu.
Nếu quả là yêu mến ta, thì cứ để mặc ta làm gì thì làm.
Qua hai
ngày sau, Quán càng phẫn uất, bồn chồn. Chủ nhà ngăn Quán chẳng được, biết lòng
trung của Quán không thể lay chuyển, đành phải sắm sửa đầy đủ các thứ theo như
lời Quán đã bảo.
Quán sai
đào huyệt ở ngay vườn sau nơi nhà mình ở đặt sẵn chiếc quan tài xuống đó. Lại
lấy vải trắng xé ra làm một chiếc khăn đội đầu và một chiếc dây lưng. Sau đó,
đội mũ mặc áo chỉnh tề, hướng về phía nam lạy hai lạy. Lạy xong, lại bỏ mũ, lấy
khăn trắng chít lên đầu, lấy dải lưng trắng thắt ngang lưng; rồi nằm vào trong
quan tài, bảo chủ nhà đậy nắp lại.
Tấm ván
vừa đặt lên, bỗng Quán ở trong áo quan nói vọng ra:
- Hãy
còn thiếu một câu nữa, phải nói hết cái đã. Chủ nhà lại mở nắp ra, Quán liền
đọc hai câu rằng:
Tam niên
chi hiếu dĩ hoàn,
Thập
phần chi trung vị tận (nghĩa là: Đạo hiếu ba năm đã trọn, Chữ trung mười phần
chưa xong).
Rồi Quán
bảo với chủ nhà:
- Phiền
ông đem câu ấy dặn lại con ta, bảo nó sau này dán ở nhà thờ mà thờ ta.
Nói xong
câu ấy, lại tiếp luôn:
- Đa tạ
ông chủ, ta vĩnh biệt ông từ đây nhé!
Chủ nhà
và năm sáu tên đày tớ cùng sụp xuống lạy chào ở trước quan tài, rồi đậy nắp và
lấp đất lên. Hôm ấy là ngày 29 tháng 6, năm Bính ngọ (1786) sau khi chúa chết
hai ngày.
Quán
người làng Vân Canh, huyện Từ Liêm, đỗ tiến sĩ khoa Bính Tuất (1766); tính nết
giản dị, chất phác và rất hiếu thảo. Trong khi chịu tang mẹ, Quán ở nhà mồ luôn
ba năm liền; miệng không ăn thịt cá, thân thể gầy rạc, chỉ còn da bọc xương.
Quán thường tự nói: "Ta nay đã bốn chục tuổi đầu, nhưng những việc đã làm
trong quãng đời vừa qua của ta, chỉ có ba năm chịu tang này là gần với đạo làm
người". Bởi Quán cư xử không có điều gì đáng phàn nàn như vậy, nên khi sắp
chết, Quán mới có lời tự hứa (nghĩa là tự cho rằng mình có điều đáng khen. ở
đây chỉ vào câu "Tam niên chi hiếu dĩ hoàn", ý nói mình đã tận hiếu
với cha mẹ) như thế
Sau khi
Quán mất, thiên hạ ai cũng thương chúa và kính trọng Quán là bậc nghĩa khí. Rồi
nhân đó truy nguyên đến kẻ gây ra tai hoạ, không ai là không oán Chỉnh. Chỉnh
cũng cảm thấy điều ấy.
Chỉnh có
một người quen là Đỗ Thế Long, quê ở làng Hoằng Liệt, huyện Thanh Trì, vốn là
một kẻ giảo hoạt. Hồi Chỉnh nợ tiền công bị bỏ ngục, Long vì cớ khác phải tội,
cũng cùng ở tù với Chỉnh. Long làm các bài từ khúc bằng chữ nôm rất giỏi, so
với Chỉnh cũng không kém gì. Kịp đến khi Chỉnh ở Tây Sơn ra, Long vẫn còn bị
giam. Chỉnh tới kinh, tức thì sai người thả Long ra, và đãi Long làm bậc khách
quý. Mỗi lần có việc nước, Chỉnh đều hỏi han Long. Long biết điều gì, không bao
giờ không nói. Đã nói, không bao giờ Chỉnh không theo.
Đến lúc
này thấy chúa chết, Chỉnh bèn nói với Long rằng:
- Chúa
không tin bụng ta, nên mới đến nỗi tự huỷ hoại đời mình. Nếu chúa còn sống, hẳn
ta cũng đặt vào một địa vị thanh nhàn không để đến nỗi phải mất danh lộc.
Long
nghe lời lẽ của Chỉnh, thấy Chỉnh đối với chúa cũng có tình, bỗng nhiên Long
nảy ra cái ý muốn lập lại họ Trịnh. Rồi nhân ý của Chỉnh, Long bèn xoay chuyển
thêm để cho đúng với cơ mưu của mình.
Thật là:
Ác độc
than người tàn phá trứng,
Ngây thơ
cười kẻ giữ gìn con
Chưa
biết việc này ra sao? Xin xem hồi sau phân giải.
____
phá
trứng: dịch ở chữ huỷ noãn, nghĩa bóng ý nói Nguyễn Hữu Chỉnh diệt họ Trịnh
cũng giống như phá tổ chim đập vỡ trứng chim.
giữ gìn
con: tạm dịch ở chữ "Tồn sô" nghĩa đen là bảo tồn con chim con. Nghĩa
bóng ý nói Đỗ Thế Long muốn lập lại họ Trịnh cũng giống như tổ chim đã bị phá
mà còn muốn bảo tồn con chim con.
Chương 5 : Phò chính thống, thượng công vào
điện, Kết duyên lành, công chúa ra xe.
Người
đăng: Lịch sử Việt Nam
Lại nói, Đỗ Thế Long nghe lời lẽ Chỉnh có ý
hậu với chúa, bèn nhân đó nói với Chỉnh rằng:
- Việc
ông đã làm, tiếng làm nhân nghĩa, nhưng xét rõ ra thì lại là tàn hại! Ngày nay
ông có cái thế nghiêng non lật biển, quả thật là nhờ vào sự giúp đỡ của quý
quốc (chỉ Tây Sơn). Nhưng khi ông mới xuất thân, nào cầm quân, nào phong hầu,
thử hỏi có cái gì không phải là ơn của nhà chúa? Chuyến này ông lấy tiếng
"phù Lê, diệt Trịnh" để kéo quân ra, thật là quá lắm! Nếu bảo nhà
chúa hiếp chế nhà vua là việc có lỗi, thì sao lại không nghĩ đến cái công tôn
phò hai trăm năm trời? Theo người mới mà phản người cũ là bất nghĩa; bới lỗi
lầm để lấp công lao là bất nhân. Đã bất nghĩa, bất nhân tức là tàn hại. Kẻ đại
trượng phu lập thân, có thể tự mình đứng vào địa vị tàn hại được ư?
Chỉnh
nghe nói, sắc mặt tái mét, lặng đi hồi lâu mới đáp:
- Gây
dựng là ơn riêng của một người, cương thường là nghĩa lớn của thiên hạ. Tôi làm
cái việc tôn phò ấy, là cốt để chống đỡ cho nền cương thường. Đó là một việc
nhân nghĩa vô cùng lớn lao, vậy mà ông lại cho là tàn hại, chẳng phải là ông
nói nhau quá tệ ư? Nếu tôi không nghĩ sai, thì chắc là ông nói quá lời đấy!
Long
nói:
- Nhà
vua vốn đã tôn quý sẵn rồi, cần gì đợi ông tôn phò nữa? Chẳng qua ông cũng chỉ
mượn cớ ấy để làm cho trôi cái mưu cướp bóc đó thôi. Nhưng mà, nhà nước đang
như chiếc âu vàng lành lặn, bỗng dưng vô cớ ông đưa người ngoài đến đây, làm
hại chủ suý, làm hại nhân dân; người trong thiên hạ nhất định sẽ còn cho ông là
beo, sói, diều quạ. Bảo là tàn hại cũng chưa phải là quá đáng. Nay ông dựa vào
thế lực nước ngoài, cũng giống như cáo mượn oai hùm. E rằng lòng người còn nhớ
họ Trịnh, chắc sẽ có ngày sinh biến. Vả lại, mai đây người ta bỏ ông mà về; bấy
giờ ông lấy cái thân cỏn con để cõng cái tội tầy trời, làm sao mà đứng vững
được với thiên hạ?
Chỉnh
giận nghiến răng lại, nhưng vẫn còn làm ra vẻ mặt tươi cười mà rằng:
- Vậy
thì ông bạn của giống beo, sói, diều, quạ nên làm thế nào bây giờ?
Long
đáp:
- Ông ra
chuyến này, chẳng qua muốn vì ngài trấn thủ trước (chỉ quận Huy) mà trả thù bọn
kiêu binh. Nay kiêu binh đã diệt, ấy là chí ông đã thoả. Nếu ông có thể nhanh
chóng xoay lại đường lối đã định, khéo điều đình với quý quốc, khiến cho họ mãn
nguyện mà rút quân về rồi ông ở lại, chọn trong tôn thất họ Trịnh lấy một người
khá, lập nên làm chúa, còn ông thì sẽ làm phụ chính. Đó thực là cái công không
mấy đời có vậy!
Chỉnh
nói:
- Đúng!
Nhưng để tôi nghĩ xem đã. Bây giờ ông hãy về nhà, đi tìm người nào đáng nói,
rồi liệu mà sửa lời nói cho khéo, đợi lúc người ta thích nghe, thì ông có thể
dùng lời nói mà làm cho mình được vẻ vang đấy!
Long ra
khỏi, Chỉnh bảo với mọi người chung quanh:
- Rồng
[nghĩa của chữ "long" (tên Đỗ Thế Long)] thì phải đưa xuống nước,
không nên cho ở trên cạn để nó làm mê hoặc thiên hạ.
Rồi
Chỉnh sai người chặn bắt Long ở ngoài cửa, trói lại, đem ra dìm xuống giữa dòng
sông Nhĩ-hà.
Lại nói,
nguyên soái Tây Sơn ngay từ lúc mới đến Vị hoàng, đã làm tờ tâu nói rõ về ý tôn
phò và đã sai người bí mật dâng lên nhà vua. Người ngoài cũng nghe phong thanh
chuyện đó. Nhưng phần đông đều cho rằng lòng giặc khó lường, lời nói suông chưa
thể tin được. Bởi vậy, khi ấy quan, quân, lại, sĩ ở kinh thành ai cũng tranh
nhau mà chạy trốn. Người nào còn bận việc quan hoặc còn đang mắc cớ gì khác,
chưa kịp ra ngoài thành thì đến ngày 26, cũng hốt hoảng đeo bọc mang hòm chuồn
ra nốt.
Nhân lúc
rối ren, dân chúng ở xung quanh kinh thành tha hồ rủ nhau đón đường cướp bóc.
Ngựa xe, của nả của các họ hàng nhà chúa và của các đại thần, đại phu đều bị họ
lấy sạch, không biết bao nhiêu người chỉ còn trơ chiếc mình không mà chạy.
Còn bọn
kiêu binh, sau khi tan vỡ đều phải chạy trốn đi các nơi. Nhưng chúng đến đâu
cũng bị dân quê kể tội kiêu ngạo lộng quyền ngày trước và làm cho nhục nhã đủ
đường, không có ai chứa chấp.
Bữa ấy,
có một người cởi trần trùng trục cũng ở trong thành chạy ra, khi qua cửa ô bị
dân chúng trông thấy, họ liền chỉ mặt mà nói:
- Thằng
bụng phệ kia chẳng phải lính Nhưng, Kiệu (Nhưng và Kiệu là tên của hai cơ lính
trong hàng ngũ kiêu binh hồi bấy giờ) là gì, lôi cổ nó lại mà đánh chết đi!
Người ấy
vội đáp:
- Không
phải, ta là huyện uý huyện Thọ Xương đây!
Mọi
người cùng cười mà rằng:
- Người
ta thường nói "bụng to như bụng ông huyện", thật không sai!
Người ấy
cũng cười rồi đi.
Ngày hôm
đó lính Thanh-Nghệ dắt díu nhau về quê, bị đói khát ở dọc đường, lại chết thêm
đến hàng trăm tên.
Riêng có
chi phái nhà vua, các gia thần nội điện, các lính tráng nội điện, cùng dân
chúng ở phố phường quanh điện, thì vẫn yên ổn như cũ.
Đến ngày
kinh đô bị mất, Bình vào thành, việc trước tiên là sai tỳ tướng đem một đội
quân vây giữ cung điện. Lúc ấy hoàng thượng đang ốm, các hoàng tử đều hầu hạ ở
trong điện. Thấy sân điện có quân lính đứng vây kín như bức tường, ngờ là địch
đến bức bách nhà vua, ai nấy vội vàng nâng hoàng thượng dậy, định dìu ra vườn
Tam Sơn ở mé sau điện mà trốn. Chợt thấy có viên tỳ tướng quì giữa sân, hai tay
nâng tờ tâu lên trán để tiến dâng; gia thần nội điện vội chạy ra đón lấy và đem
dâng vua xem. Trong tờ tâu, đại ý trước nói những lời thăm hỏi sức khoẻ nhà
vua, sau xin ngày khác sẽ vào ra mắt. Hoàng thượng xem xong tờ tâu, bấy giờ
trong lòng mới yên.
Tinh mơ
sớm hôm sau, Bình và Chỉnh cùng vào điện Vạn Thọ để ra mắt nhà vua. Quan hầu
vào tâu, hoàng thượng đang ở trong điện, sai người vén màn lên, đưa Bình vào
hầu ở sập ngự. Bình sụp xuống đất lạy năm lạy và rập đầu vái ba vái. Hoàng
thượng sai hoàng tử nâng Bình dậy, và mời đến ngồi vào một chiếc sập khác ở bên
trái sập ngự. Bình nhún nhường không dám ngồi. Hoàng thượng phải hai ba lần dụ,
Bình mới ngồi ghé vào một góc chiếu cuối sập, một chân bỏ thõng xuống đất.
Hoàng
thượng uý lạo hết sức ôn tồn. Bình nói:
- Thần
vốn là một kẻ hèn mọn ở đất Tây Sơn, gặp thời nổi dậy, chưa từng được mặc áo
của bệ hạ, ăn lộc của bệ hạ. Nhưng vì thánh đức của bệ hạ tràn đi xa rộng, nên
thần tuy ở chốn mọi rợ mà cũng vẫn một lòng kính mến. Ngày nay được thấy mặt
rồng, cũng là bởi tấm lòng chí thành như hoa quì (Bình muốn nói: lòng luôn luôn
hướng về nhà vua như hoa quì luôn luôn hướng về mặt trời) của thần xui khiến ra
vậy. Vả lại, cũng vì họ Trịnh vô lễ, lấn ép nhà vua đã lâu, cho nên hoàng thiên
mới mượn tay thần diệt trừ họ Trịnh, để tỏ oai quyền của bệ hạ. May được thành
công như thế này, thực cũng là nhờ phúc lớn của bệ hạ đưa đến. Nay thần chỉ cầu
mong thánh thể khoẻ mạnh, coi trị thiên hạ, cho thần được hưởng nhờ chút phúc
thừa.
Hoàng
thượng đáp:
- Đa tạ
ông có lòng quá hậu đối với quả nhân, trèo đèo vượt suối từ xa đến đây, thật là
vất vả cho tôi tớ ngựa xe. Hiềm nỗi quả nhân ở ngôi thanh bạch giản dị, không
có gì để biếu tặng.
Bình
nói:
- Thần
vì nghĩa tôn phò mà đến đây, đâu dám kể công lao. Vả chăng, chuyến này thần ra
cũng là bởi ý trời, không phải sức người làm được. Nếu bảo là thần có hậu tình
riêng với bệ hạ mà kéo quân ra, thì đành rằng quân lính, thuyền bè, thần có thể
điều khiển được, nhưng đến chuyện nước lụt rút xuống, gió nồm mạnh lên, há phải
sức thần làm nổi? Đó thực là mệnh trời muốn bệ hạ thống nhất bờ cõi, để lưu lại
nền móng cho ức vạn năm sau. Từ nay thần xin bệ hạ sắp đặt giường mối, yên kẻ
trong, nuôi kẻ ngoài, để đưa cõi đời này lên cảnh thái bình. ấy là thần được
ban tặng nhiều lắm vậy!
Rồi Bình
ngoảnh về phía Chỉnh nói:
- Kia là
bề tôi cũ của bệ hạ đấy!
Chỉnh
liền ra trước sập ngự lạy chào.
Hoàng
thượng phán cho Chỉnh ngồi.
Bình lại
nói:
- Ông này
đội ơn tước lộc của bệ hạ tưởng chưa nhiều lắm. Vậy mà tấm lòng trung thành của
ông ấy đối với bệ hạ, thật là có một không hai trong nước Nam. Thần được đến
đây cũng chính là nhờ vào công sức giúp đỡ của ông ấy một phần lớn.
Hoàng
thượng nói:
- Chỉnh
biết trung nghĩa như vậy cũng là do ông gây dựng cho.
Chỉnh
rập đầu rằng:
- Thật
đúng như lời dạy của thánh thượng.
Hoàng
thượng vỗ về, an ủi hồi lâu nữa, rồi Bình cáo từ mà rằng:
- Hiện
giờ thánh thể không được khoẻ lắm, ứng tiếp mãi e rằng sẽ mỏi mệt. Thần xin tạm
lui về nơi đóng quân. Từ nay về sau, thỉnh thoảng thần lại xin vào chầu. Nếu bệ
hạ còn muốn hỏi han điều gì, thần xin cung kính đợi chờ thánh chỉ.
Hoàng
thượng nói:
- Quả
nhân có nước mà không được tham dự, khoanh tay rủ áo đã hơn bốn mươi năm. Nay
lại già lẫn, việc nước việc quân đều không quen thạo. Ông đã có lòng tôn phò,
thì hãy nên ở lại tệ quốc để giúp quả nhân, xin đừng ruồng bỏ!
Bình
đáp:
- Thần
chỉ vâng mệnh vua anh đi lấy Thuận Hoá; nay đã trót ra đây cũng là việc nhân
tiện mà làm, thần không dám ở lâu. Tuy nhiên, vì bốn phương còn rối loạn, nên
thần cũng phải đánh dẹp một phen cho yên đã rồi mới xin về.
Hoàng
thượng sai trà đồng pha chè thết Bình. Bình ung dung uống chè, rồi lui ra.
Chỉnh cũng ra theo.
Trong
lúc ngồi chầu, Chỉnh nhận thấy các quan tản mát chẳng ra sao: Gia thần của
hoàng thượng thì không có người nào ứng đối nên lời. Còn về hoàng thân, chỉ có
Thanh nguyên hầu Lê Duy Thiều, áng sơn hầu Lê Duy Phục, mà cũng đều là những kẻ
tầm thường. Xem chừng không còn ra triều đình nữa. Về hàng quan văn, chỉ còn
hai người là Lê Duy Tân và Lê Duy Chiểu thì lại đều là những kẻ lêu lổng ở
Trường An, vì cùng khốn quá không cần phải trốn, mới vào nương nhờ trong nội
điện, rồi nhân có Thanh nguyên hầu tiến dẫn, nên được hoàng thượng dùng để coi
về việc giấy má. Đối với hai người này, bụng Chỉnh cũng đều không ưa. Chỉnh tự
nghĩ: "Gần đây, những triều thần có tham dự chính sự và hàng ngày mình
cũng đã biết, thì chỉ có Tứ xuyên hầu Phan Lê Phiên, Kiến xuyên hầu Trương Đăng
Quĩ, Thao đường hầu Uông Sĩ Lãng (còn có tên là Uông Sĩ Điển), Luyện đường hầu
Trần Công Thước, Thiêm sai Nhữ Công Điền, Hoàn quận công Nguyễn Hoàn, cả thảy
sáu người". Chỉnh bèn tâu xin hoàng thượng ban sắc gọi đến. Hoàng thượng
lập tức cho đi vời ngay mấy người ấy vào triều.
Phan Lê
Phiên và Nhữ Công Điền bị cách chức, ở nhà đã lâu. Nguyễn Hoàn, Trương Đăng
Quĩ, Uông Sĩ Lãng và Trần Công Thước đều ra lánh nạn binh đao ở ngoài thành.
Khi có chỉ nhà vua đòi, các viên ấy đều vâng mệnh tới kinh, riêng Nhữ Công Điền
lấy cớ mắc bệnh điên để từ chối.
Uông Sĩ
Lãng thấy chiếu vua đòi, ngỡ có sự quở trách gì, trước khi vào chầu, vội đem
chiếc ấn bộ Binh mà Lãng vẫn giữ, nộp cho Chỉnh để xin hàng. Nhưng Chỉnh trả
lại ấn và bảo cứ ra. Thế là từ đó, các viên ấy ngày ngày lui tới triều đình để
bàn việc nước. Những viên quan khác nghe tin, cũng đều lục tục đến kinh. Hoàng
thượng liền truyền cho tất cả các viên quan trong triều đều phải tuỳ công việc
mà giao thiệp với Bình.
Bình tự
nghĩ rằng mình ở nước ngoài xa xôi mới đến, chưa am hiểu phong tục tập quán của
xứ này; cho nên công việc giao thiệp với các quan trong triều, Bình đều nhất
nhất nghe theo Chỉnh.
Một hôm
Chỉnh nói với Bình rằng:
- Ngài
lấy danh nghĩa tôn phò nhất thống mà ra đây thiên hạ ai cũng mong ngóng. Nhưng
danh phải đi đôi với thực. Muốn cho nhất thống, thì những việc quân việc nước
đều phải do hoàng thượng quyết định, đó mới là cái thực của sự phò tôn. Ngài
nên làm cái gì cho rõ sự thực ấy đi. Hôm nọ, ngài vào ra mắt hoàng thượng ở
điện Vạn Thọ, mới chỉ là việc gặp gỡ riêng, chưa được tỏ rõ với thiên hạ. Nay
ngài nên chọn ngày lành, cử hành lễ chầu yết cho thiên hạ đều biết. Như thế mới
là việc quang minh chính đại.
Bình lấy
làm phải, bèn chọn ngày mùng 7 tháng bảy.
Đến
ngày, Bình xin hoàng thượng mở cuộc đại triều ở điện Kính Thiên, các quan đều
theo thứ tự đứng hầu. Bình tự dẫn các tướng sĩ theo cửa Đoan-môn đi vào. Sau
khi đã lạy năm lạy và rập đầu vái ba vái, Bình dâng lên tờ tâu nói về công diệt
họ Trịnh, cùng các sổ sách quân, dân để hoàng thượng sai quan coi giữ.
Hoàng
thượng nhận lễ triều yết xong, truyền đưa tiễn Bình ra khỏi cửa điện, rồi bãi
triều.
Hôm sau,
hoàng thượng sai quan đem tờ chiếu đến tận chỗ đóng quân của Bình, phong cho
Bình làm nguyên soái phù chính dực vũ, Uy quốc công.
Bình làm
lễ bái mạng nhận phong xong, liền sai sứ vào triều tạ ơn, rất là chu đáo.
Nhưng
sau đó, Bình bảo riêng với Chỉnh rằng:
- Ta đem
mấy vạn quân ra đây, chỉ đánh một trận mà dẹp yên được cả thiên hạ. Một thước
đất, một người dân của nước Nam, không có cái gì không thuộc quyền sở hữu của
ta. Ví phỏng ta muốn xưng đế, xưng vương, gì mà chẳng được. Sở dĩ ta nhường
nhịn không ở những ngôi ấy, là hậu đãi nhà Lê đó thôi! Cái chức nguyên soái,
quốc công, với ta có thêm được gì đâu? Phải chăng là nước Nam dùng cái danh hão
ấy để lung lạc ta? Nếu ta không nhận thì e hoàng thượng bảo ta là kiêu căng.
Song nhận mà không nói gì, thì người trong nước lại bảo ta là mọi rợ. Nên nhân
tiện nói chuyện, thì ta cũng nói cho rõ mà thôi!
Chỉnh
biết ý Bình không bằng lòng, bèn bịa ra lời riêng của hoàng thượng rồi vờ tiết
lộ với Bình rằng:
- Hoàng
thượng đã có ý bảo riêng với tôi rằng: nhà vua đơn bạc, không có vật gì đáng
tặng. Vẫn biết những cái danh tước nhỏ mọn, không đủ làm cho ngài sang thêm.
Song vì tục lệ trong nước vốn chuộng lễ nghĩa, nên cũng gọi là tỏ chút lòng
thành của hoàng thượng kính ngài mà thôi. Bản ý của hoàng thượng vẫn cho rằng
mình đã cao tuổi, sợ sau khi ngài về, không thể nương tựa vào ai, nên người
muốn nối liền tình thân hai họ, để cho hai nước đời đời kết tình thông gia giao
hảo với nhau. Nhưng vì chưa hiểu ý ngài thế nào, nên hoàng thượng vẫn còn trù
trừ chưa dám nói rõ.
Bình
đáp:
- Xưa
nay những kẻ chinh phu xa nhà, tình khuê phòng rất là cần thiết. Hoàng thượng
cũng xét đến chỗ ấy kia à? ừ! Em vua nước Tây, làm rể hoàng đế nước Nam,
"môn đương hộ đối" như thế, tưởng cũng không mấy người đã có được.
Mọi
người ngồi quanh Bình đều cười.
Bình lại
tiếp:
- Nhưng
nói đùa đó thôi! ý nghĩ ấy của hoàng thượng thật là mưu kế già giặn. Người muốn
cho hai nước hoà hiếu với nhau đấy mà.
Chỉnh
biết là Bình bằng lòng, bèn vào tâu với hoàng thượng, kể hết đầu đuôi như vậy,
rồi lại hỏi xem con cái hoàng thượng hiện còn mấy công chúa chưa gả chồng.
Nguyên
trong số những người con gái đẻ sau của hoàng thượng, còn có đến năm, sáu nàng
công chúa chưa chồng. Nhưng chỉ riêng có một nàng tên chữ gọi Ngọc Hân, là
người có sắc đẹp và nết na hơn cả. Hoàng thượng rất yêu quí Ngọc Hân, thường
ngày vẫn nói: "Con bé này ngày sau nên gả làm vương phi, không nên gả cho
hạng phò mã tầm thường!"
Lúc ấy
nghe lời Chỉnh nói, hoàng thượng trong bụng cũng ưng, bèn bảo Chỉnh:
- Con
gái chưa chồng của trẫm còn nhiều, nhưng chỉ có mình Ngọc Hân là có chút nhan
sắc. Tuy vậy, thói thường yêu con vẫn hay thiên lệch, chưa biết ở mắt người
ngoài thì ra sao. Ngươi hãy ở đây, để trẫm đòi cả ra cho mà coi qua, rồi tuỳ
người lựa xem người nào xứng đáng thì giúp cho thành việc đi!
Rồi
hoàng thượng sai viên quan đứng hầu đi gọi các công chúa. Một lát, tất cả các
cô con gái chưa chồng của hoàng thượng đều ra hầu ở trước ngự toạ. Chỉnh liếc
nhìn một lượt, rồi nói:
- Được
rồi! Mối nhân duyên tốt lành này, thần xin làm mối, mười phần chắc xong cả
mười.
Rồi
Chỉnh về nói với Bình:
- Câu
chuyện riêng hôm qua tôi nói với ngài, nay tôi đã vào tâu với hoàng thượng, Người
vui mừng mà bảo tôi rằng: Nếu đã được ngài bằng lòng cho như thế, âu cũng là
duyên trời run rủi. Hiện hoàng thượng có nàng công chúa thứ chín, tuổi vừa đôi
tám, xin cho nương bóng nhà sau, hầu hạ khăn lược, để cho hai nước thành thông
gia, đời đời hoà hiếu với nhau.
Bình nói
đùa rằng:
- Vì dẹp
loạn mà ra, để rồi lấy vợ mà về; bọn trẻ nó cười cho thì sao. Tuy nhiên, ta mới
chỉ quen gái Nam Hà, chưa biết con gái Bắc Hà, nay cũng nên thử một chuyến xem
có tốt không?
Những
người cùng ngồi với Bình đều cười ầm.
Chỉnh ra
về, Bình lại nói thêm:
- Tôi
xin kính lạy dưới bệ hoàng thượng vạn tuế! ở nơi khe núi hẻo lánh xa xôi tới
đây, há dám đường đột như vậy? Bây giờ may sao được bám vào cành vàng lá ngọc,
thật là một mối duyên kỳ ngộ ngàn năm mới có. Kẻ ở khe núi này xiết bao mừng
rỡ.
Chỉnh
vào điện tâu lại với hoàng thượng. Hoàng thượng bèn gả công chúa Ngọc Hân cho
Bình.
Bình
chọn ngày mồng mười tháng ấy, sắp sẵn hai trăm lạng vàng, hai ngàn lạng bạc,
hai chục tấm đoạn màu, bày biện gươm giáo cờ quạt; rồi sai viên thị lang bộ
Hình đem các thứ lễ vật đó cùng một tờ tâu vào điện Vạn Thọ.
Hoàng
thượng cho hoàng tử là Sùng nhượng công ra đó nhận lễ vật, làm lễ cáo ở nhà
Thái Miếu, định ngày hôm sau thì đưa dâu. Rồi hoàng thượng lại truyền cho các
hoàng thân, hoàng phi, công chúa và các quan văn võ, ai nấy đều phải sửa soạn
ngựa xe, sớm hôm đó đợi ở cửa điện, để đưa công chúa về phủ của Bình.
Sáng sớm
hôm sau, Bình lại sai quan đem một tờ tâu vào triều, xin cho làm lễ nghênh hôn.
Một mặt, Bình khiến quân lính đứng sắp hàng ở hai bên đường, từ cửa điện đến
cửa phủ. Trai gái trong kinh nghe tin, rủ nhau đi xem đông như ngày hội. Ai
cũng cho là việc hiếm có xưa nay. Khi xe của công chúa tới cửa phủ, Bình ngồi
kiệu rồng vàng ra đón, hết thảy mọi thứ lễ nghi đều theo đúng như lệ thường ở
các nhà. Sau khi công chúa vào cung, Bình sai đặt tiệc ở bên ngoài để thết các
vị hoàng thân, hoàng phi, công chúa và các quan văn võ đi đưa dâu. Trong tiệc,
mọi người đều theo thứ bậc mà ngồi. Tiệc tan, Bình sắp riêng hai trăm lạng bạc,
sai quan ngỏ lời kính tặng các vị nhà gái, và đưa tiễn ra tận cửa phủ. Các quan
ra về, lại họp ở nhà công đường bộ Lễ, ai nấy đều khen nhà vua kén được rể tốt,
và bảo nhau: "Thế là từ nay nước An-nam ta đã có một nước dâu gia".
Công
chúa lúc mới về còn có vẻ bẽn lẽn e thẹn, nhưng sau rồi cũng quen. Hôm vào làm
lễ yết các vị tiên hoàng đế ở nhà Thái Miếu, Bình và công chúa gióng kiệu cùng
đi, lúc lễ xong lại gióng kiệu cùng về.
Bình vốn
có tính kiêu căng, chợt hỏi công chúa:
- Con
trai con gái nhà vua, đã có mấy người được vẻ vang như nàng?
Công
chúa đáp:
- Nhà
vua ít lộc, các con trai con gái ai cũng thanh bạch nghèo khó. Chỉ riêng thiếp
có duyên, lấy được lệnh công (tiếng gọi tôn trọng, chỉ Nguyễn Bình), ví như hạt
mưa, bụi ngọc bay ở giữa trời được sa vào chốn lâu đài như thế này, là sự may
mắn của thiếp mà thôi!
Bình
nghe câu ấy, thích thú lắm.
Đến ngày
14, bệnh của hoàng thượng đã nguy kịch. Bình muốn nhân lúc nhà vua đang còn
sống, xin nhà vua nhận lễ chúc mừng về cuộc nhất thống để trong ngoài đều biết,
cho trọn vẹn cái công tôn phò của mình. Bình bèn chọn ngày rằm để đặt lễ đại
triều rồi dâng tờ tâu lên xin với hoàng thượng. Đúng ngày, triều đình bày cuộc
đại nhạc ở mé đông và mé tây đan trì (thềm sơn đỏ nơi cung điện nhà vua) Các lễ
quan sắp đặt đồ nghi vệ cực kỳ trang trọng, rồi xin hoàng thượng ra ngự chầu.
Sau khi các hoàng tử đã dìu hoàng thượng lên ngự toạ, ngoài điện nổ ba phát
súng làm hiệu lệnh, trăm quan đều lần lượt làm lễ mừng. Lễ xong, hoàng thượng
ban tờ chiếu nói về việc nhất thống sai đem dán ở ngoài cửa Đại hưng. Thần dân
thiên hạ thấy vậy đều khen "phúc, lộc, thọ khảo" (Phúc là điều tốt
lành, lộc là của cải, thọ khảo là sống lâu) của hoàng thượng thế là hoàn toàn
tốt đẹp.
Sau ngày
lễ ấy, bệnh của hoàng thượng càng nguy hơn, đã gần hấp hối. Công chúa mời Bình
vào thăm, Bình nói:
- Nay
tôi với hoàng thượng, nghĩa như cha con. Tôi thành thật muốn kịp thời vào thăm
khi hoàng thượng còn sống, để chiêm ngưỡng mặt rồng, cho tỏ tấm lòng lưu luyến.
Song, tôi mới từ xa tới đây, người trong nước chưa chắc đã tin hết cả. Hôm qua
hoàng thượng ra ngự chầu, ai biết thánh thể mang bệnh? Nếu như tôi vào thăm lại
chẳng may đúng lúc Người về chầu giời, há chẳng khiến cho tôi mang tiếng muôn
đời với thiên hạ ư? Chi bằng, nàng cứ về thăm hoàng thượng và nói rõ với các
anh em như thế, để ai nấy đều hiểu lòng tôi.
Công
chúa Ngọc Hân bèn từ biệt Bình về cung thăm vua cha.
Đêm đó,
hoàng thượng tinh thần tỉnh táo, bèn cho đòi hoàng tự tôn vào, dặn dò các công
việc lớn lao của nhà nước, lại cho đòi công chúa Ngọc Hân vào để dạy bảo về đạo
làm vợ. Trối trăng với con gái xong đâu vào đấy, đúng giờ mão ngày 17, hoàng
thượng băng ở điện chính tẩm. Bấy giờ hoàng thượng thọ 70 tuổi, ở ngôi vua được
47 năm.
Nhà vua
râu rồng, mũi cao, tóc hạc, mắt phượng, đi nhẹ như nước, ngồi vững như non;
tính nết hiền từ, giản dị. Khi còn làm hoàng tử, vì việc ông hoàng Lê Duy Mật
chống lại họ Trịnh, nên nhà vua bị chúa Trịnh nghi ngờ, đem giam vào nhà viên
nội thị Hồng quận công. Đến năm Canh thân (1740) Nghị tổ (tức Trịnh Doanh) lên
làm chúa, quận Hồng ra trấn Sơn Nam, chúa liền chuyển nhà vua đến giam ở nhà
cậu mình là Bính quận công (Vũ Tất Thận, cậu ruột Trịnh Doanh, em thái phi Vũ
thị). Khi chưa có lệnh ấy của chúa, một đêm quận Bính bỗng mơ thấy thiên tử tới
nhà, cờ quạt phấp phới, nhã nhạc vang lừng, rõ ra cảnh tượng của đời thái bình.
Sớm hôm sau liền thấy quận Hồng cho giải hoàng tử đến giam ở nhà mình, quận
Bính hết sức ngạc nhiên, nghĩ rằng giấc mộng lúc ban đêm không phải là chuyện
tình cờ, bèn vào kể lại với chúa. Bấy giờ bốn phương đang loạn lạc, thế nước
ngả nghiêng, chúa thấy điềm lành ấy, muốn nhờ vào phúc đức của nhà vua để dẹp
cho yên thiên hạ, liền cho đón về, lập nên ngôi và đặt niên hiệu là Cảnh-hưng.
Sau khi
nhà vua lên ngôi, bốn phương dần dần dẹp xong, thiên hạ lại bình yên. Chúa biết
phúc của nhà vua rất lớn, nên càng hết sức tôn kính. Nhà vua cũng nhã nhặn,
khiêm tốn, tin cậy vào chúa. Thỉnh thoảng chúa lại dâng tiến thức nọ thức kia,
vì thế sự chi dùng của nhà vua cũng được thừa thãi.
Lúc nhà
vua ở ngôi, chẳng qua chỉ rủ áo khoanh tay, tìm trò mua vui chứ không có việc
gì phải lo. Nhà vua lại giỏi về các kỹ nghệ lặt vặt. Bao nhiêu cung điệu Nhạc
phủ, nhà vua đều chế ra bài mới, âm thanh cực kỳ du dương, trong sáng. Thường
khi nhà vua lại còn theo tranh Tam quốc, sai các cung nữ mặc áo trận, cầm giáo
mác, chia thế trận ba nước Nguỵ, Ngô, Thục, rồi dạy họ các cách ngồi, đứng,
đâm, đỡ, để mua vui trong lúc thư nhàn.
Những
năm tuổi già, nhà vua bị Thánh tổ Trịnh Sâm đè nén đủ đường, người khác hẳn
phải tức giận không thể chịu nổi, nhưng nhà vua vẫn vui đùa như thường. Những
người gần gũi nhà vua thấy vậy đều can ngăn. Nhà vua liền đáp rằng:
- Các
ngươi mới chỉ biết một mà chưa biết hai. Nhà vua đối với nhà chúa, hiện nay
đang ở vào cái thế bị ngờ vực; nếu trẫm lấy việc mất quyền làm tức giận, thì
nhà chúa ắt phải ngấm ngầm tính việc chẳng hay. Vì vậy, trẫm phải mượn hứng vui
chơi như thường để tránh tai vạ đó thôi!
Có lần,
nhà vua lại nói với các cung nữ rằng:
- Trong
đời ta, thế nào cũng có phen được trông thấy cuộc nhất thống, nhưng đó chẳng
phải là điều mà ta vui mừng.
Các cung
nữ hỏi lại:
- Nhà
chúa chèn ép như vậy, nếu chúa bại là may cho nhà vua, cớ sao bệ hạ lại không
vui mừng?
Nhà vua
đáp:
- Trời
sai nhà chúa phò ta. Chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui. Mất chúa, tức là cái
lo lại về ta, ta còn vui gì?
Khi Đoan
nam vương Trịnh Tông mới lên làm chúa, bọn kiêu binh có lần đã nghĩ đến cái mưu
tôn phò nhất thống và lén đến xin ý kiến nhà vua. Những người xung quanh cũng
đã khuyên nhà vua nên nghe theo mưu ấy. Nhưng nhà vua nói:
- Ta vì
thành thật nghe theo trời nên mới được như thế này. Những chuyện do ở mưu người
xếp đặt, ta quyết không làm. Nếu kẻ nào còn dám nói đến chuyện đó, trẫm sẽ lôi
sang cho chúa, để theo phép mà làm tội.
Vì thế,
mưu ấy mới thôi.
Đến hồi
này, thấy Bình làm việc tôn phò, nhà vua bề ngoài tuy mừng nhưng bề trong thì
lại lo. Những việc giao thiệp, tiếp đãi đều là bất đắc dĩ.
Kịp đến
khi bệnh nặng, nhà vua bảo với hoàng tự tôn rằng:
- Ta chỉ
sớm tối là được trút hết gánh nặng, cái lo sẽ dồn cả vào thân mày, mày phải
nghĩ tới điều đó!
Lúc sắp
băng, nhà vua lại trối thêm:
- Sau
khi ta nhắm mắt, việc nối ngôi là việc trọng đại, chuyện gì cũng phải bẩm qua
với ông ấy, không được khinh suất.
Nói
xong, nhà vua băng. Hoàng tự tôn bèn lên nối ngôi vua.
Trước
đó, lúc công chúa Ngọc Hân mới về với Bình, Bình đã hỏi công chúa về đức tính
của các vị hoàng tử. Người nào thế nào, công chúa cũng đều kể thật với Bình.
Khi Bình hỏi đến nhân phẩm của hoàng tự tôn như thế nào, công chúa chưa thoát
khỏi thói thường của người đàn bà, nghĩ bụng anh thân hơn cháu, lại sợ hoàng tự
tôn sẽ cướp mất ngôi của Sùng nhượng công, bèn đáp:
- Nhân
phẩm của hoàng tự tôn cũng tầm thường thôi!
Do đó,
Bình có ý không thích hoàng tự tôn.
Đến khi
bệnh của hoàng thượng đã tới lúc hấp hối, triều đình bàn nhau lập hoàng tự tôn,
và sai người ra nói với Bình. Bình không nghe. Sứ giả quay về nói lại ý Bình,
cả triều bàn bạc phân vân, chưa biết quyết định ra sao. Thình lình trong bọn có
một người lớn tiếng nói rằng:
- Tự tôn
không được làm vua, thiên hạ ắt loạn. Họ Lê sẽ mất, ấy là lỗi tại công chúa
Ngọc Hân. Công chúa thực đã làm hại đến việc lớn của xã tắc, hãy xoá tên trong
sổ họ đi, để cho công chúa về nước Tây Sơn mà yên hưởng giàu sang, họ ta chẳng
thiếu gì một con người ấy!
Triều
đình nhìn xem ai, thì té ra là hoàng thân Vượng quận công.
Công
chúa sợ hãi, bèn về phủ xin với Bình. Bấy giờ Bình mới bằng lòng. Sau khi hoàng
thượng băng, trăm quan bèn phò tự tôn lên ngôi.
Hôm ấy,
Bình ở trong phủ, nghe tin hoàng thượng băng, liền sai lính thị vệ sắp sửa đồ
nghi vệ, xe kiệu, để chờ khi hoàng tự tôn được lập rồi, nếu có ai bên họ nhà
vua lại trình và mời sang lo việc tang, thì Bình sẽ sàng đi ngay. Nhưng hoàng
tự tôn không hiểu ý đó, nên sợ phiền chẳng dám mời, mãi đến lúc khâm liệm xong
xuôi và cho vào quan tài rồi, mới bẩm với Bình.
Bình
giận vì không được mời trước, cho là hoàng tự tôn coi mình như người ngoài, bèn
sai ngay người vào triều bắt phải hoãn lễ đăng cực (lễ lên ngôi vua), có ý muốn
lập người khác. Sứ giả đến nơi thì lễ đăng cực đã xong, triều đình đem cái việc
đã rồi ấy báo lại với Bình. Bình càng tức liền đòi công chúa về phủ, rồi mắng
rằng:
- Tiên
đế là vua chung của thiên hạ, không phải là vua riêng của hoàng tộc. Ta thương
mến tiên đế, hôm qua vì tránh sự hiềm nghi không dám vào thăm; hôm nay muốn kịp
lúc chưa khâm liệm, tới nơi để được thấy mặt ngọc, cho trọn cái tình bố vợ con
rể; song tự dưng ta đến, e rằng không phải phép. Sao hoàng tộc lại gạt ta ra
ngoài, không thèm mời? Nếu không có ta, thử hỏi: Triều đình sẽ thành cái gì?
Chính sự sẽ ra cái gì? Cớ sao lại dám sơ suất như vậy? Ta thử bỏ đây mà đi, xem
hoàng tộc làm ăn ra sao?
Rồi Bình
lập tức truyền lệnh cho các quân thuỷ, bộ sửa soạn hành trang, để sớm hôm sau
rút quân về nước.
Công chúa
khóc lóc xin Bình ở lại, một mặt ngầm sai người tỏ bày ý kiến với tự hoàng. Tự
hoàng vội cho người ra phủ tạ lỗi và xin Bình ở lại. Bấy giờ, Bình mới thôi
việc rút quân.
Đến ngày
làm lễ thành phục, tự hoàng sai quan mời Bình vào tế.
Bình mặc
đồ tang, đứng ở trên điện tế, coi xét lễ nghi hết sức chu đáo. Lúc đang tế, có
viên tả phiên lại hơi có vẻ cười, Bình sai lôi ngay ra chém. Đại khái đối với
việc tang lễ, Bình hết sức kính cẩn như vậy.
Bấy giờ,
Bình đã ngấm ngầm có ý định muốn về, bèn nói với các quan trong triều rằng:
- Tôi
vâng mệnh vua anh đem quân ra ngoài cõi, đi hay ở không có kỳ hạn nhất định.
Tôi vì nghĩa tôn phù mà tới đây, may mắn đã làm xong việc. Nay tôi là chàng rể,
muốn ở cho hết đạo hiếu với bố vợ. Làm cho xong sớm việc tang tế kịp khi tôi
chưa rút về, để cho trung hiếu vẹn cả hai bề, đó là ước muốn của tôi vậy.
Các quan
đều nói:
- Chúng
tôi xin vâng mệnh!
Rồi họ
liền chọn ngày để đưa tử cung xuống thuyền.
Còn Bình
thì suốt ngày đêm sắm sửa cho lễ táng, các đồ tế lễ tuy đơn sơ, giản dị, nhưng
lễ nghi thì đều đầy đủ không thiếu sót gì.
Đến ngày
đưa đám, Bình tự cưỡi voi, đem ba ngàn quân, hộ tống tử cung đến bến đò, rồi
chờ cho lễ rước tử cung xuống thuyền xong xuôi đâu đấy, mới quay trở lại.
Lúc công
chúa Ngọc Hân về phủ, Bình nhơn nhơn ra vẻ tự đắc mà rằng:
- Tiên
đế có hơn ba mươi người con trai, ngày nay báo hiếu lại chỉ ở một người con
gái, nào có ai giúp đỡ cho được mảy may? Người xưa thường bảo "Con gái làm
rạng rỡ cho nhà cửa", quả cũng đúng thật!
Công
chúa cảm tạ và nói:
- Nhờ
công đức của thượng công, thiếp được báo hiếu với hoàng khảo, mở mặt với anh
chị em. Tục ngữ vẫn nói: "Trai không ăn mày vợ, gái phải ăn mày
chồng", chính là như thế đó!
Bình
nghe nói, thích lắm. Chợt có tin báo vua Tây Sơn sắp ra. Bình vội sai Chỉnh cho
dán yết thị khắp kinh thành, nói là: "Thiên vương tuần du ra Bắc để xem
xét phong tục, khoảng mười ngày nữa sẽ tới. Vậy bố cáo cho cả trong ngoài đều
biết". Một mặt, Bình sai người tâu với tự hoàng, xin cho văn võ trăm quan
ra ngoài cửa ô đón tiếp.
Ngày
mồng năm tháng Tám, vua Tây Sơn đến kinh thành (ở một bản khác, thấy có thêm
một đoạn như sau: "Hoàng thượng thân hành ra đón ở cửa Nam-giao và sai
quan khâm mạng đứng ở bên đường, sau đó ngỏ lời chào mừng, rồi đi về. Chúa Tây
Sơn sai người đáp lại, rồi truyền đánh xe vào thành").
Vua Tây
Sơn chẳng quản muôn dặm đường xa tới đây, mà coi bộ lại hết sức hối hả, vội vã;
mọi người đều không hiểu duyên cớ làm sao?
Thật là:
Cá kình
vượt biển giương vây nhảy,
Cọp dữ
lìa rừng mượn cánh bay.
Chưa
biết vua Tây Sơn đến về việc gì? Xin xem hồi sau phân giải.
Chương 6 : Chúa Tây Sơn lẻn rút quân về nước,
Quân Đông Giang mưu khởi nghĩa phò vương
Lại nói, khi Thuận Hoá mới vỡ, vua Tây Sơn
nhận được thư báo tin thắng trận của Bình. Đại ý bức thư viết như sau: "Lũ
thần vâng theo mưu mô của miếu đường, lại kính nhờ về oai trời thiêng liêng,
Thuận Hoá, đã dẹp yên, thiên hạ đều rung động. Nay ở Bắc Hà quân kiêu tướng
lười, thế có thể lấy được. Thần cúi xin mạn phép tuỳ tiện, đã uỷ cho hữu quân
Nguyễn Chỉnh đem tiền bộ thuỷ binh đi trước, thẳng tới Sơn Nam. Riêng thần hiện
đang chiêu mộ nhân dân các vùng ven biển, chọn lấy đinh tráng để tăng thêm thế
lực cho quân ta. Hẹn trong ít ngày sẽ dẹp yên xứ Bắc Hà. Còn quan ải, thành
quách xứ Thuận Hoá, hiện đã giao cho Đông định công (tức Nguyễn Lữ, em thứ ba
của Nguyễn Nhạc) coi giữ. Vậy xin bề trên ban cho chiếu chỉ để thần tuân
theo".
Vua Tây
Sơn xem thư, mừng rằng việc đã thành công, nhưng lại ghét cái chỗ tự chuyện của
Bình. Vả lại, vua Tây Sơn vốn đã biết Bình là người khôn ngoan, giảo quyệt, sợ
Bình lấy được Bắc Hà, lúc trở về ắt sinh ra kiêu căng, khó kiềm chế. Vua Tây
Sơn lại còn nghĩ rằng: "Nhà mình đời đời vẫn ở Nam Hà, được xứ Thuận Hoá
là nơi bờ cõi cũ, đủ rồi; không cần lấy thêm một nước lớn nữa làm gì. Ví dụ có
lấy được, chưa chắc đã giữ được, vạn nhất vấp ngã một cái, thì sự tai hại không
phải là nhỏ". Do đó, vua Tây Sơn liền sai người hoả tốc mang thư ra ngăn
Bình. Nhưng khi người đưa thư tới nơi, thì Bình đã thân hành đem đại quân,
thuận theo gió nồm trẩy ra Bắc rồi. Tiếp được tin này, vua Tây Sơn càng không
hài lòng.
Qua ngày
hai mươi sáu tháng sáu khi kinh sư bị vỡ, Bình lại gửi thư báo tin thắng trận
về Tây Sơn. Trong thư đại khái nói rằng: "Trước đây thần vâng mệnh cho
phép tuỳ tiện đem quân ra dẹp Bắc Hà, trông nhờ vào oai danh của vương huynh,
chỉ đánh một trận mà thắng. Nay nhà Trịnh đã diệt, thiên hạ thu về một mối,
thần thể theo lòng ước muốn của người trong nước, phò lập nhà Lê, cho họ yên
lòng. Bây giờ trong nước mới tạm yên, thần xin để cho quân lính được nghỉ ngơi,
tạm đóng tại kinh đô nước họ, để vỗ yên dân chúng và cắt đặt mọi việc cho đâu
vào đấy. Chờ đến dịp thu đông thuận gió, thần lại xin kính cẩn đem quân về
nước".
Bức thư
đến Tây Sơn vào ngày mười bốn tháng bảy. Vua Tây Sơn tiếp được thư, hết sức lo
ngại, nghĩ bụng: "Bình luôn luôn lập được chiến công, đã làm cho hắn thêm
kiêu ngạo. Huống hồ trong tay hắn lại nắm giữ đạo quân lớn, chuyên chế ở ngoài
muôn dặm. Rồi Võ Văn Nhậm, Nguyễn Hữu Chỉnh, những viên tướng dũng mãnh, mưu
trí lại đều thuộc quyền sai khiến của hắn. Nếu cứ buông lỏng cho hắn bay nhảy ở
ngoài, lâu dần ắt phải sinh ra những việc không hay. Nhưng khí thế của hắn như
thế, không thể dùng một lá thư mà gọi về được. Nếu mình không thân hành ra Bắc,
bắt hắn phải về, ấy là thả hùm ra khỏi cũi, không bao giờ còn có thể nuôi dạy
được nữa vậy. Thế rồi, luôn trong bữa đó, vua Tây Sơn tự đem năm trăm tên lính
thị vệ ra thẳng Phú Xuân. Tới nơi, lại lấy thêm hơn hai ngàn quân Phú Xuân đi
gấp ra kinh sư. Đoàn quân tất tưởi kéo đi, dáng dấp tiều tuỵ, người ta không
còn nhận ra đó là đám quan quân nào nữa.
Lúc vua
Tây Sơn tới cửa biển Hội Thống ở trấn Nghệ An, có người dân quê đem ít đồ biển
xin ra mắt, nói rằng:
- Chúng
tôi thấy quan lớn đi qua, nhân có chút quà mọn, gọi là tỏ tấc lòng thành kính.
Vua Tây
Sơn tính vốn thật thà, không quen ăn nói văn hoa, thấy vậy, liền đáp:
- Tôi
không phải là quan lớn, tôi là họ ngoại của chúa Nam Hà (Chúa Nam Hà chỉ vào họ
Nguyễn, vì Nhạc gả con gái cho thế tử Dương của chúa Nguyễn, nên tự xưng là họ
ngoại), vẫn quen gọi là biện Nhạc ấy mà! Các người hậu tình, thấy tôi đi xa,
lương khô, ăn nhạt, mà đem cho những món ngon lành thế này, cám ơn lắm, cám ơn
lắm!
Rồi lại
hối hả đi luôn.
Thình
lình thấy một bọn chừng vài chục người, kẻ nào cũng lưng đóng khố, tay cầm đòn
ống, mình trần trùng trục đứng ở ven đường. Chờ cho vua Tây Sơn đi qua, bọn đó
liền kêu lớn lên rằng:
- Chúng
tôi về Nam, bị Chưởng Tiến (một lục lâm hảo hán ở Nghệ An hồi ấy) đòi tiền mãi
lộ, lấy hết của cải rồi.
Vua Tây
Sơn hỏi:
- Nó
đâu?
Bọn đó
đáp:
- Nó lấy
được của xong, vội vàng chạy vào trong dãy núi kia!
Vua Tây
Sơn liền sai một tốp lính đuổi bắt. Vừa đến một chỗ núi hiểm, mấy chục người đó
đều rút dao kiếm trong đòn ống ra và reo lên:
- Chúng
bay đã biết bọn tao hay chưa; bọn tao đều là các bậc đàn anh trong đám thủ hạ
của Chưởng Tiến. Hôm nay đến để chặt cái đầu của lũ "lông đỏ" (không
hiểu sao lại gọi Tây Sơn là "lông đỏ" (hồng mao), chưa tra cứu ra.
Trong Đại nam quốc sử diễn ca thấy có câu tả cách ăn mặc của quân Tây Sơn như sau:
"Quân dung đâu mới lạ nhường; Mão mao áo đỏ chật đường kéo ra". Có lẽ
tác giả đã căn cứ vào cách ăn mặc đó (mũ lông áo đỏ) mà gọi Tây Sơn là
"hồng mao" chăng?) chúng bay đây.
Vừa reo
họ vừa xông vào đâm chém, dao kiếm vung lên tua tủa, quân Nam bị đánh bất ngờ,
thua chạy liểng xiểng.
Vua Tây
Sơn cả sợ, từ đó, trên đường hành quân không dám vào ngủ trong nhà dân nữa; tối
đâu giăng màn ra giữa đồng ruộng ở đó mà ngủ, còn các quân sĩ thì đều ngủ ngoài
trời.
Bởi lẽ
đó, khi tới kinh sư, cả đoàn quân chỉ còn là một lũ nửa người nửa ngợm, mặt mũi
hốc hác, coi không ra bộ quân của vua chúa nữa.
Thấy
vậy, thiên hạ đều đồn đại lung tung. Kẻ thì bảo thành Tây Sơn đã bị nhà Nguyễn
phá vỡ, vua Tây Sơn vì không giữ được nữa nên phải chuồn ra đây. Người thì nói
Bình dùng mưu chước gian dối, mượn một kẻ khác giả làm vua anh để thêm thanh
thế cho mình. Hào kiệt thiên hạ và những kẻ coi giữ châu quận ngầm nuôi binh
mã, đều muốn dò xem thực hư thế nào, để tìm cách bắt lấy; nhưng rốt cuộc cũng
không ai biết rõ tình hình.
Lúc vua
Tây Sơn mới đến kinh, Bình ra tận ngoài ô đón tiếp và tạ cái tội tự chuyên của
mình. Vua Tây Sơn nói:
- Tướng
ở bên ngoài, nếu gặp việc có ích lợi cho nước nhà thì cứ tự ý mà làm cũng được.
Bắc Hà có thể lấy, mà ông lấy ngay được, đó là chỗ thần diệu trong phép dùng
binh. Vả lại, ông trèo đèo lội suối đi hàng muôn dặm để mở mang bờ cõi cho đất
nước rộng thêm; thủ đoạn anh hùng như vậy, anh thực không thể nào sánh kịp.
Nhưng mà, mình đi đánh nước khác, kéo quân vào sâu trong xứ sở của người ta, một
chốc làm thay đổi hết nền nếp cũ của họ như thế; tránh sao khỏi sự thù oán của
muôn họ. Anh luôn luôn lo ngại đến những việc bất ngờ có thể xảy ra, vì vậy
phải lật đật ra ngay đây để nghĩ kế đỡ ông.
Rồi hai
anh em cùng gióng ngựa đi vào thành.
Tới phủ,
Bình dắt công chúa Ngọc Hân ra chào và nói hết cả sự thật với anh. Vua Tây Sơn
khen:
- Chà,
em vua Tây Sơn làm rể vua nước Nam, "môn đương hộ đối" mối nhân duyên
đẹp thật!
Rồi lại
bảo công chúa rằng:
- Người
quí giá như thế này, thực không hổ là cô em dâu của nhà ta.
Hai
người ôn tồn trò chuyện thân mật như anh em nhà thường dân vậy.
Hồi lâu,
công chúa cáo từ lui ra. Bình sai quây màn ở cung chính tẩm, mời anh vào nghỉ;
còn tự mình thì chuyển ra ngủ ở gác Kỳ-lân.
Quân
lính của Bình đem đi trước đây, các đội ngũ đều đã thay đổi một lượt. Đến lúc
này, Bình đem binh phù nộp cả cho anh. Vua Tây Sơn nắm được binh quyền trong
tay rồi, bèn bố trí lại đội ngũ y như cũ, còn sự thay đổi mới đây của Bình thì
vờ như không hay biết gì cả. Thế là từ đó, bao nhiêu tướng sĩ lại đều chỉ nghe
theo mệnh lệnh của "ông vua lớn".
Được ít
bữa, vua Tây Sơn liền bí mật cùng với Bình bàn chuyện rút về. Bình đành phải
vâng theo. Các tướng tá chỉ riêng có Võ Văn Nhậm được biết việc kín này, còn
Chỉnh thì không được dự nghe.
Lại nói,
lúc mới tới kinh, Chỉnh và Nhậm đều đóng ở lầu Ngũ-long. Nhậm đóng trước lầu,
Chỉnh đóng sau lầu.
Chỉnh
vốn là người bản quốc, nhiều kẻ quen thuộc, nên người trong nước chỉ biết có
Chỉnh. Quan lại, dân chúng, ai đến ra mắt đều vào cửa Chỉnh. Sau lầu thường
đông như chợ; mà trước lầu nơi Nhậm ở thì chẳng có lấy một ma nào lui tới. Việc
ấy làm cho Nhậm có vẻ không thích. Thấy vậy, Chỉnh phải sai một tên thư lại mới
vào làm việc, ngày ngày ngồi chực ở cửa Nhậm để mời khách đến chỗ Nhậm, nhưng
khách vẫn không đến, Chỉnh bất đắc dĩ lại phải xoay cách khác. Hễ khách nào tới
thăm Chỉnh, sau khi đã thù tiếp xong. Chỉnh lại sai đưa người khách kèm theo đồ
lễ đến cửa Nhậm. Nhưng rốt cuộc Nhậm vẫn không bằng lòng. Chỉnh bèn dời chỗ ở
sang chùa Tiên Tích (ở xóm Nam Ngư, huyện Thọ Xương. Nay là đường Nam Bộ, Hà
Nội).
Sau
chuyện này, Nhậm bèn đem những lời gièm pha Chỉnh mà nói với Bình rằng:
- Hắn là
một kẻ bầy tôi đi trốn, chạy về với mình, muốn mượn sức của mình trả thù cho
thầy, để hả cái lòng căm tức với nước cũ. Nay mình rong ruổi hàng muôn dặm, đưa
hắn về nước, vẽ mày vẽ mặt cho hắn. Thế mà khi hắn đã đạt được chí nguyện,
những người trong nước vào hùa với hắn, có kẻ lại đem hai câu đối: "Hổ tự
Tây Sơn xuất, Long tòng Đông-hải lai" (hổ từ non Tây ra; rồng ở biển Đông
lại) ở tháp chùa Thiên Mụ của nhà Nguyễn, để bảo ông là hổ, hắn là rồng. ý nói:
"Hổ lìa khỏi núi thì thất thế, rồng ra khỏi biển vẫn vẫy vùng". Thế
là chẳng những hắn không chịu để mình dùng, mà lại còn có chí ngang tàng nữa.
Bây giờ mình giam mấy vạn người ngồi ăn không ở đây, để giúp cho hắn gây nên
thế lực, nghĩ cũng khờ dại quá! Tôi nghe người trong nước này oán hắn rất sâu
sắc, sở dĩ họ chưa nổi dậy là vì còn sợ mình đó thôi. Nếu mình bỏ hắn mà về,
người nước này hẳn sẽ tranh nhau nhai thịt hắn. Và hắn thường nói: "Nhân
tài Bắc Hà chỉ có mình hắn". Để cho hắn chết, mình lấy Bắc Hà sẽ càng yên
ổn.
Bình tin
lời Nhậm, nên từ đó đối với Chỉnh tuy ngoài mặt vẫn như thường, nhưng trong
lòng thì rất ngờ vực.
Quân Nam
vì đi xa cũng rất oán Chỉnh, ngày đêm mong cho Bình giết Chỉnh. Rồi họ biết thế
nào Bình cũng đưa Chỉnh đến chỗ chết, nên họ khinh Chỉnh ra miệng. Một hôm, bọn
người trong nước vào hùa với Chỉnh, có kẻ mang binh phù của Chỉnh cấp băng qua
khu đất cấm; khi bị quân Nam gạn hỏi, người ấy đáp:
- Tôi có
binh phù của quan hữu quân cấp cho đây!
Quân Nam
bèn nói:
- Hữu
quân là ai? Có phải Hữu Chỉnh không? Được, cứ đợi đấy nửa tháng nữa mà xem hữu
quân của các anh!
Chỉnh
nghe được chuyện đó, bèn sinh ra hai lòng với Bình. Vả Chỉnh cũng đã tính toán,
biết rằng sớm muộn thế nào rồi Bình cũng phải đi, mình sẽ không thể ở lại kinh
sư một mình được. Vì vậy, Chỉnh ngầm có ý muốn chiếm cứ Nghệ An, bèn mật tâu
với hoàng thượng rằng:
Thần đem
hắn ra, chỉ vì việc tôn phù. Bây giờ việc đã xong, thần quyết không theo hắn
nữa. Chắc thế nào hắn cũng rút về, mà khi hắn đã về rồi, thì trấn Nghệ An tức
là một bức phên giậu ở bên cạnh giống sài lang. Vậy xin bệ hạ cho thần vào đấy
trấn thủ, một mặt Nam Hà thần xin đương cả!
Kịp đến
khi nghe tin vua Tây Sơn ra. Chỉnh lại đoán là vua Tây Sơn sẽ cướp ngôi của
hoàng thượng và chiếm cứ đất nước. Rồi muốn dựa vào vua Tây Sơn để tránh tai
vạ, Chỉnh bèn khuyên hoàng thượng nên sắp sẵn ngọc tỷ mà ra hàng, lại giục các
quan trong triều thảo gấp một tờ biểu xin hàng. Triều đình bàn bạc mấy ngày
liền chưa quyết không ai dám hạ bút trước. Lúc vua Tây Sơn tới nơi hoàng thượng
thân hành ra đón ở cửa ô phía Nam. Ngài đứng ở trong cửa ô, sai hoàng thân là
Thanh nguyên hầu quỳ ở mé bên trái đường đi, để chào và nói thay hoàng thượng.
Vua Tây Sơn khi qua cửa ô không đáp lễ, cứ giục ngựa đi thẳng và cho một người
quay lại nói rằng:
- Quả
quân thấy nhà vua lễ độ quá, sợ rằng nếu xa giá ở lại chậm trễ, hoặc giả làm
phiền cho quý thể phải quỳ lạy mệt nhọc, rồi quả quân lại mang tiếng là thất
lễ. Bởi thế, quả quân phải vội vã đi ngay. Xin ngự giá hãy cứ về cung, ngày
khác thong thả sẽ cùng gặp nhau.
Hoàng
thượng thấy vậy, biết vua Tây Sơn còn ưu đãi mình, nên khi về cung không bàn
đến việc đầu hàng nữa.
Hôm sau
vua Tây Sơn sai bày ở phủ đường ba chỗ ngồi. Chiếc sập của vau Tây Sơn kê ở
chính giữa, bên trái là ghế của hoàng thượng, bên phải là ghế của Bình. Hai bên
có hai hàng giáp sĩ đứng hầu cực kỳ nghiêm chỉnh.
Cuộc hội
kiến này dùng lễ "hai vua gặp nhau", không ai phải lạy ai. Khi hoàng
thượng ngự giá đến cửa phủ, vua Tây Sơn sai viên quan hầu ra đón. Hoàng thượng
đi bộ vào trước thềm; vua Tây Sơn đang ngồi vội bước xuống đất và đứng sang bên
cạnh sập để tỏ ý kính lễ; rồi sai Bình xuống dưới thềm đón tiếp và mời hoàng
thượng vào ghế. Mọi người đã ngồi yên chỗ, vua Tây Sơn liền hỏi:
- Hoàng
thượng năm nay xuân thu độ bao nhiêu?
Viên
quan đi theo đáp thay hoàng thượng, rồi nhân đó nói tiếp rằng:
- Quốc
quân họ Lê chúng tôi gặp phải họ Trịnh lấn quyền lộng thế, mũ dép đảo lộn đã
lâu. May nhờ thánh thượng là bậc chí nhân đại nghĩa, sai tướng ra quân, vì quốc
quân chúng tôi mà chỉnh đốn lại cơ đồ. Hiện nay đất đai cùng dân chúng nước Nam
đều là do thánh thượng gây dựng lại. Nếu như thánh thượng muốn thu nhận một vài
quận ấp của nước tôi để làm quà khao thưởng quân sĩ, thì quốc quân chúng tôi
xin nhất nhất vâng mệnh.
Vua Tây
Sơn đáp:
- Tôi
nghe ngày xưa đức Thái tổ mở mang ra nước Nam Việt, công đức như trời. Tôi tuy
ở xa khuất tại miền biển phương Nam, song cũng là đất của đức Thái tổ khai
thác. Tôi vì giận kẻ cường thần hiếp chế nhà vua, nên phải làm việc tôn phò.
Nếu là đất của họ Trịnh, một tấc tôi cũng không để; còn đất của nhà Lê, thì một
tấc tôi cũng không dám lấy. Tôi nghĩ rằng nước ta đây mới dẹp yên, còn có nhiều
việc cần phải sửa sang, vì vậy tôi phải ra để giúp đỡ nhà vua. Sau khi bốn
phương đã phẳng lặng, anh em tôi lại xin rút về nước. Bây giờ chỉ mong nhà vua
chấn chỉnh giường mối triều đình, giữ yên bờ cõi, cùng nước tôi đời đời kết
nghĩa láng giềng, như thế là phúc cho cả hai nước vậy.
Viên
quan theo hầu hoàng thượng lại thay lời mà rằng:
- Thánh
thượng nghĩ đến công đức của tiên hoàng đế, ra ơn nối lại dòng dõi, khiến cho
cơ đồ của tiên hoàng đế không đến nỗi tuyệt diệt; ơn ấy của thánh thượng thật
là vô cùng. Quốc quân chúng tôi và các bề tôi xin đời đời giữ tình láng giềng
hoà hiếu, không dám sai trái.
Vua Tây
Sơn sai trà đồng pha trà đệ lên các ghế. Hoàng thượng uống trà xong, ung dung
cáo từ ra về.
Vua Tây
Sơn đứng dậy từ biệt. Bình tiễn hoàng thượng xuống thềm, vua Tây Sơn đi theo
một quãng, rồi né mình bước giật lùi về chỗ, sai viên quan hầu đi hộ vệ hoàng
thượng ra khỏi cửa phủ.
Hoàng
thượng lên kiệu về cung, rồi sai các quan trong triều tới ra mắt vua Tây Sơn.
Vua Tây Sơn lần lượt hỏi hết quan chức, họ tên từng người. Các quan trả lời
xong, vua Tây Sơn liền nói rằng:
- Tôi
nghe nói ở nước An Nam, tiến sĩ là quí nhất. Thế các ông có phải là tiến sĩ
không? Tôi sẽ nói với nhà vua cho xin may ông đem về để dạy dỗ người trong
nước. Vậy các ông có chịu đi theo tôi không?
Các viên
quan trong triều đều thưa:
- Quốc
quân chúng tôi bảo sao chúng tôi phải nghe làm vậy. Dẫu rằng sang đông, sang
tây, sang nam, sang bắc, đi đâu chúng tôi cũng không dám chối.
Vua Tây
Sơn lại hỏi:
- Các
ông lúc mới thấy tôi đột ngột ra đây như thế, có ngờ tôi không?
Các viên
quan đáp:
- Thánh
thượng đã sai thượng công ra phò lập nhà Lê, việc ấy rõ ràng lắm rồi, lũ chúng
tôi đâu còn dám ngờ.
Vua Tây
Sơn nói:
- Ai ngờ
tôi, kẻ ấy là người ngu! Chúa Trịnh bắt quân đi hàng muôn dặm, cố chiếm lấy đất
Thuận Hoá, lấy nước lớn làm hại nước nhỏ, nên mới dẫn đến cái vạ ngày nay.
Gương ấy há có xa đâu? Tôi nếu tham đất nước Nam, như vậy là lấy nước nhỏ mà
hại nước lớn, còn mong lâu bền sao được? Giả sử đời tôi giữ được đi nữa, thì
đến đời con cháu tôi cũng không thể nào giữ nổi. Tôi có ngu gì mà lại nuôi cái
mầm vạ ấy? Chẳng bao lâu nữa anh em tôi sẽ về, các ông nên giúp rập nhà vua cho
yên thiên hạ. Hai nước chúng ta sẽ kết nghĩa láng giềng, giữ vững tình hoà
hiếu, để cùng hưởng phúc thái bình!
Các quan
đều ca ngợi:
- Sách
có nói rằng: "Bậc thánh nhân không chăm lo đến việc lập công ở phương
xa". Thánh thượng nghĩ tới chỗ đó, thật là vượt quá người thường đến muôn
vạn lần. Nhưng quốc quân chúng tôi hiện còn trẻ tuổi, nhiều việc chưa quen
thạo, lũ chúng tôi lại đều là những kẻ tài hèn; thánh thượng nếu đã giúp cho
nước tôi được còn, xin hãy tạm lưu lại đây, để vua tôi nước chúng tôi nhờ cậy
vào oai linh của thánh thượng. Bao giờ bốn phương đều yên, giường mối đã dựng
lại, bấy giờ ngự giá hãy về cũng chưa muộn.
Vua Tây
Sơn nói:
- Có về
cũng còn hàng năm hàng tháng, há phải đâu là chuyện ngày một ngày hai? Các ông
chớ vội lo!
Các quan
lạy tạ lui ra, rồi cùng bàn riêng với nhau: kẻ thì cho lời vua Tây Sơn nói là
thật, người thì bảo lời vua Tây Sơn nói là giả; đại để cũng chỉ đoán có hai
việc là ông ta đi hay ở lại, mà cứ hư hư thực thực, chẳng ai biết đích xác như
thế nào cả.
Nhưng
người trong nước biết rõ hay không biết rõ, vua Tây Sơn cũng chẳng cần. Chỉ
riêng có Nguyễn Hữu Chỉnh là người trong bọn, lại là tay quỷ quyệt, nên vua Tây
Sơn mới phải tìm đủ mọi cách để kiềm chế mà thôi.
Lúc này,
trong bụng vua Tây Sơn rất nôn nóng muốn về, nhưng bề ngoài vẫn tỏ ra vẻ ung
dung, thư thái. Sau lễ tiếp kiến, vua Tây Sơn sai Chỉnh chọn ngày tốt, để vào
làm lễ ra mắt ở nhà Thái-miếu. Chỉnh xin chờ đến sau tết Trung thu, vua Tây Sơn
cũng bằng lòng. Rồi nhân nói đến chuyện hôn nhân của Bình, vua Tây Sơn bảo
Chỉnh:
- Chú
hai ra đây, được ngươi làm mối cho cô vợ đẹp; riêng ta lại không ư?
Chỉnh
thưa:
- Chỉ sợ
thánh thượng chê gái Bắc Hà quê mùa mà thôi. Nếu như thánh thượng rộng lượng
bao dong, thì sự đó cũng chẳng phải là khó!
Vua Tây
Sơn cười mà rằng:
- Thế
thì ngươi còn nợ ta đấy, phải trả mau đi nhé!
Chỉnh
thấy lời lẽ của vua Tây Sơn có vẻ ung dung thong thả, do đó cũng yên lòng, bèn
xin lui về.
Ngày 17
tháng ấy, vua Tây Sơn bí mật hạ lệnh cho tất cả các quân thuỷ, bộ đều phải sửa
soạn hành trang nai nịt gọn gàng. Rồi sợ Chỉnh ở ngoài thấy rõ tình hình sinh
nghi, vua Tây Sơn bèn cho đòi Chỉnh vào hầu, giữ chân Chỉnh từ sáng đến tối,
người ngoài không được vào, tin ngoài không cho tới. Vì thế nên mọi việc xảy ra
ở bên ngoài, Chỉnh đều không biết gì hết. Đến khuya, vua Tây Sơn mới thả cho
Chỉnh ra. Kịp đến khi Chỉnh về nhà, người nhà có kẻ báo cho Chỉnh biết việc vua
Tây Sơn sắp về, thì Chỉnh còn nửa tin nửa ngờ nói:
- Ta
suốt ngày ngồi hầu, chuyện trò rất thư thái, làm sao lại có sự lật đật như vậy
được?
Đến canh
hai đêm ấy, vua Tây Sơn cho người vào gõ cửa điện, ngỏ lời từ biệt hoàng
thượng, nói là sớm mai rút quân về Nam. Vậy mà Chỉnh cũng vẫn không biết gì cả.
Trước đó
hơn mười ngày, đêm nào ở trại quân Nam cũng nổi chiêng trống vang trời, nhưng
sang đến đầu canh hai thì chỉ còn thưa thớt vài tiếng, rồi từ canh ba trở đi
thì lặng như tờ, không còn tiếng nào nữa. Vì thế, mỗi hôm cứ vào quãng nửa đêm,
người trong kinh lại tưởng là quân Tây Sơn ngầm rút đi rồi; nhưng đến sáng ngày
mai thì lại thấy doanh trại vẫn y nguyên. Từ đó về sau ai cũng cho là thường,
không hề để ý. Mà tiếng trống canh cũng không còn lấy gì làm chuẩn xác nữa.
Phép
quân Tây Sơn, lệnh cấm ban đêm rất ngặt. Thám tử của Chỉnh mọi đêm đều không
được ra ngoài. Đêm ấy, khoảng đầu canh năm, bọn thám tử của Chỉnh liều mạng
xông ra đường không kể gì lệnh cấm; khi vượt qua mấy điếm canh, vừa đi vừa nghe
ngóng thì thấy tất cả đều vắng lặng không có tiếng người. Chúng đi vòng đến cửa
phủ, ngó khắp bốn phía cũng không thấy có người nào, mà chỉ thấy gáo mẻ nồi vỡ
vứt bừa bãi trên đường. Chúng vội vàng đi ra bến sông, thì ở đó chỉ có trời
nước mênh mông, hàng trăm vạn lâu thuyền trước đấy, không biết đi đâu hết cả.
Lập tức chúng chạy về báo với Chỉnh.
Chỉnh
được tin ấy, trong bụng cực kỳ hoang mang, tự biết mình đã thất thế, ở lại thì
không dám, mà bỏ đi thì cũng dở: đường thuỷ không có thuyền, đường bộ không có
quân, muốn trốn không có chỗ trốn, không biết nên đi đường nào.
Người
nhà Chỉnh khi ấy cũng rất sợ hãi. Nhưng Chỉnh trong lúc sống chết nguy cấp như
vậy, vẫn còn dở giọng bông đùa mà rằng:
- Ta đã
đi khắp bốn biển chín châu, chẳng lẽ khi trở về xó bếp, lại bị chuột chù gặm
chân ư? Không sợ! Không sợ! Ta cứ ở đây xem sao?
Bấy giờ
bọn người nhà mới hơi vững dạ. Chỉnh bèn bí mật sai người chạy gấp ra bến Cơ Xá
tìm thuyền. Tảng sáng, kiếm được một chiếc thuyền buôn. Chỉnh cùng bọn tay chân
độ vài chục người đi đến cửa ô Tây Long thì bị dân chúng ở kinh kỳ từ tứ phía
kéo ra đuổi bắt. Chỉnh một mình một đao quay lại đón đánh, mọi người phải chạy
tán loạn. Thừa cơ, Chỉnh liền cướp đường chạy xuống bến sông, nhổ neo buông
thuyền, thuận dòng xuôi thẳng ra cửa biển để theo quân Nam. Còn ngựa xe, khí
giới, đồ đạc, của cải của Chỉnh đều bỏ lại ở chùa Tiên-tích, không biết bao
nhiêu mà kể.
Khi trời
sáng rõ, có người đem chuyện đó tâu vơí hoàng thượng, hoàng thượng vẫn không
tin. Sau cho người đi tra xét, mới biết là thật, hoàng thượng hết sức kinh
ngạc, vội cho đòi các quan vào triều hỏi rằng:
- Anh em
hắn cướp hết của nước ta mà đi, để cái nước rỗng không lại đây cho ta, nếu như
có việc nguy cấp thì lấy gì mà chống chế?
Các quan
ngơ ngác nhìn nhau, chưa biết nên nói thế nào. Chợt viên quan hầu cận tâu rằng:
- Hôm
qua vâng chỉ truyền sớm nay thiết triều. Bây giờ ngự giá đã cột ngựa rồi, dám
xin tâu lại.
Hoàng
thượng bèn hỏi các quan:
- Phiên
chầu này hãy thôi chăng?
Các quan
đều nói:
Hoàng
thượng ra triều để ban chiếu chỉ đổi niên hiệu, đó là việc lớn, sao lại thôi?
Hoàng
thượng bèn ra ngự triều, rồi ban tờ sắc công bố việc đổi niên hiệu, lấy năm sau
tức năm Đinh mùi (1787) làm năm đầu niên hiệu Chiêu-thống. Trong tờ sắc đó, chỗ
nào cũng một rằng nhờ đức vua của quý quốc, hai rằng nhờ thượng công của quý
quốc, giọng văn đại để đều là những câu viết trong lúc vua Tây Sơn còn ở kinh
sư; vả lại, những chỗ kể tội của họ Trịnh cũng hơi nhiều. Vì thế có người bàn
rằng: Nay họ đã về rồi, nên đổi lại hết cả đi! Song trong khi vội vàng không
làm kịp, nên lại cứ để như cũ không sửa đổi gì.
Tan
chầu, hoàng thượng bảo các quan ở lại triều đường họp thêm để bàn việc.
Nguyên
hoàng thượng là người anh minh, quả quyết, từ lâu vẫn căm tức về việc bị nhà
Trịnh chèn ép. Vả hoàng thượng với Thịnh vương lại có mối thù không đội trời
chung (đây chỉ vào việc Trịnh Sâm giết Lê Duy Vỹ, tức là cha Lê Duy Kỳ), nên
khi được Tây Sơn ra diệt Trịnh, hoàng thượng rất mừng. Lúc Đoan nam vương chết,
hoàng thượng đang còn là hoàng tự tôn; tiên đế sai hoàng thượng đem các hoàng
tử đến chỗ Bình ở tỏ lời chúc mừng, hoàng thượng đã nói với Bình rằng:
- Tôi có
thù cha chưa trả, nay ông trả thù thay cho tôi, đời tôi không còn mong gì hơn
thế. Nếu thân này có phải chết ở quý quốc, tôi cũng không hề phàn nàn. Huống
chi ông còn phò dựng họ Lê, khiến cho được thờ phụng tôn xã lâu dài, công đức
ấy thật không nói sao cho xiết.
Bình
đáp:
- Đạo
trời vẫn hay đền bù. Đấng thái tử xưa bị hại, thì nay hoàng tự tôn cố nhiên là
phải được hưởng phúc thái bình, thống nhất.
Kịp đến
khi tiên đế băng, hoàng thượng lên nối ngôi, liền hăng hái tự gánh lấy việc
nhất thống. Lại muốn nhân dịp quân Nam tôn phò, tự mình gây lấy uy thế, cho nên
trong khi quân Nam chưa về, hoàng thượng đã nuôi ngầm vây cánh. Ngoài việc sai
các hoàng thân ai về quê ngoại của nấy, để chiêu tập binh mã phòng khi dùng
đến, hoàng thượng còn cho người tìm kiếm các nho sĩ, mời vào giúp việc cho
mình. Về mặt quan văn, lúc ấy đã thu dùng được bọn Ngô Vi Quý, Vũ Trinh, Nguyễn
Nễ. Hoàng thượng ngày đêm cùng họ trù tính mọi công việc, ngay cả những mưu kế
phải dùng đến trong lúc bối rối bất ngờ, cũng được lo toan chu đáo.
Bấy giờ,
danh tướng trong thiên hạ thì có Thạc quận công Hoàng Phùng Cơ, Liễn quận công
Đinh Tích Nhưỡng. Còn văn thần mà có binh lực mạnh mẽ thì có Dương Trọng Tế
(còn có tên là Trọng Khiêm, người xã Lạc Đạo, huyện Gia Lâm, đỗ tiến sĩ).
Hoàng
Phùng Cơ từ khi thua trận ở Thuý ái, phải chạy về Sơn Tây, vẫn còn nấp náu chưa
dám ra.
Nhưỡng
từ khi bị tan đạo quân ở Sơn Nam, liền về Cẩm Giàng, đem hết cả họ hàng ra
chiếm luôn lấy trấn Hải Dương. Trấn này lúc trước chưa bị binh đao, trong thành
còn có năm vựa thóc công, Nhưỡng bèn đem số thóc ấy ra nuôi quân. Nhờ đó Nhưỡng
chiêu mộ được hơn một ngàn dũng sĩ, thanh thế lẫy lừng. Lúc ấy lại có một tên
cướp biển là Thiêm Liên, nghe tiếng Nhưỡng cũng đem đồ đảng xin theo, thành ra
Nhưỡng có trong tay cả thảy tới vài vạn quân.
Hồi
Chỉnh mới về kinh sư, đã có viết thư gọi Nhưỡng. Nguyên Nhưỡng với Chỉnh đều là
môn hạ của quận Việp, hai người vốn ăn ý với nhau. Nhưng khi viết thư trả lời
Chỉnh, thì Nhưỡng lại kiếm cớ từ chối không đến, Chỉnh cũng chưa có thì giờ hỏi
đến việc ấy. Do đó, Nhưỡng được chuyên giữ một lộ, ngày đêm ra sức luyện tập
quân lính.
Còn viên
văn thần Dương Trọng Tế thì vốn không biết việc binh. Nhưng Tế có Dương Vân là
con trai người anh ruột, tính rất hung tợn, vẫn thường tụ tập những phường vô
loại, hoành hành ở các làng xóm, ai cũng phải khiếp sợ. Lúc quân Nam ra, Vân
ngầm cho gọi thợ rèn đến rèn đúc khí giới. Bình sai người tìm thợ rèn, nhân
biết việc đó, bèn cho tróc nã bọn Vân. Vân đóng cổng làng, bắt hết những người
của Bình đem giết đi. Trọng Tế cả sợ, bất đắc dĩ mới phải khởi binh, kéo cờ,
chiếm cứ huyện Gia Lâm. Chỉ trong mười ngày, quân của Tế đã lên trên một vạn. Quân
tuần tiễn của Tây Sơn sang đánh không hạ nổi.
Lúc quân
Tây Sơn còn ở kinh thành, người trong kinh đồn rằng: hai đạo đông tây đã hợp
quân làm một chẳng bao lâu sẽ tới dưới thành. Đến lúc quân Nam lén rút đi,
trong thành trống rỗng, các quan bàn nên gọi các hào kiệt vào giữ hoàng thành.
Bấy giờ ai có người nào quen biết, đều xin nhà vua ban chỉ đi vời. Trong một
ngày, chỉ dụ đưa đi đến hơn mười đạo. Nhưỡng và Tế cũng đều ở trong số những
người bị gọi.
Hoàng
thượng cho rằng Tế là quan văn, nghe mệnh nhà vua tất phải đến ngay; còn Nhưỡng
là quan võ, lại có chút tiếng tăm, nếu mời mọc không trịnh trọng, chưa chắc
Nhưỡng đã chịu đến. Bởi vậy, hoàng thượng mới sai thảo một tờ sắc, lời lẽ cực
kỳ ôn tồn, và trong sắc lại có các lời hứa như "nguyên huân"
"đồng hưu", v.v... ("Nguyên huân" là người có công lao cao
cả trên hết, "Đồng hưu" là hưởng chung mọi sự tốt lành) Rồi sai người
đem sắc đưa cho Nhưỡng.
Nhưỡng
đọc tờ sắc vừa khóc vừa nói:
- Nhà
tôi mười tám đời quận công, ơn nước thật cao dày, đội trời đạp đất há dám quên
ơn? Nay tôi còn có dăm ba người theo, cũng là nhờ về oai đức của nhà vua. Bây
giờ đã có chiếu mệnh ra đòi, đáng lý tôi phải lập tức đến ngay trước cửa
khuyết. Nhưng vì tôi còn đang bận kiểm điểm binh mã, sắm sửa hành trang chưa
thể đi được; vậy xin hãy hoãn cho tôi chừng năm ba ngày nữa, tôi sẽ vào triều
sau.
Đoạn
Nhưỡng thảo tờ tâu và sai người theo sứ giả về kinh dâng vua.
Lúc
Nhưỡng chưa đến kinh, người ở đây đồn rầm lên rằng Nhưỡng đem thuỷ binh đánh úp
quân Nam, bắt được không biết bao nhiêu mà kể. Lại có tin nói rằng Nhưỡng đã
tóm được Chỉnh, chặt hết chân tay làm hình "lợn người", chỉ trong sớm
tối sẽ đưa tới kinh. Chợt lại có tin rằng con "lợn người" ấy đã được
đưa đến kinh rồi. Thế là người ta tranh nhau đi xem. Một ngày có đến bốn năm
lần háo hức, ồn ào lên, và cứ như vậy luôn trong mấy ngày liền.
Bởi lẽ
đó, hễ ai nghe tên Nhưỡng cũng đều khiếp phục và trông ngóng.
Hoàng
thượng nhận được tờ tâu của Nhưỡng, thấy lời lẽ chan chứa lòng trung vua yêu
nước, thì rất mừng, cho rằng Nhưỡng tất là người có thể tin cậy được, nên trong
bụng cũng đỡ lo.
Lại nói,
sau khi họ Trịnh bị diệt, quân Tây Sơn giết chết Đoan nam vương rồi kéo về Nam,
những gia đình quan lại cũ và những bầy tôi còn sống sót ai nấy đều tiếc cho
vương không khéo lẩn núp để đến nỗi bị nạn. Lòng họ vẫn còn chưa tuyệt vọng đối
với họ Trịnh.
Bấy giờ
con đầu lòng của Đoan nam vương hãy còn nhỏ, vương thân Khanh quận công Trịnh
Kiều thì đã già nua; chỉ còn có Côn quận công Trịnh Bồng và Thuỵ quận công
Trịnh Lệ khi ấy đều khoảng bốn mươi tuổi, là có thể đảm đương được công việc.
Côn quận
công là con trai Dụ tổ (tức Trịnh Giang), tính nết hiền từ khoan hậu, được
nhiều người yêu mến. Cuối đời Thịnh vương, vì việc con thứ lôi thôi chúa đã
muốn cho Thị Huệ nuôi Côn quận công Trịnh Bồng làm con, để nếu bệnh của vương
tử Cán không khỏi, thì sẽ lập Côn quận công làm chúa. Nhưng rốt cuộc ý định ấy
vẫn chưa thực hiện được. Đến lúc thế tử Tông lên ngôi, kiêu binh mấy lần muốn
phò dựng Côn quận công, họ vào tận nhà để thúc ép và đón rước ông ta, khiến ông
ta phải lẩn vào phủ chúa kể rõ đầu đuôi với Đoan nam vương, rồi mới dám về nhà.
Còn Thuỵ
quận công là con trai Nghị tổ (Trịnh Doanh) là em ruột Thánh tổ (Trịnh Sâm),
vốn là người khôn ngoan và thông minh. Lúc Nghị tổ còn sống, quận Thuỵ thường
vẫn có ý muốn cướp quyền con cả. Đến khi Nghị tổ mất, Thánh tổ lên làm chúa,
quận Thuỵ bèn cùng với một người gia thần là Phạm Huy Cơ, tiến sĩ khoa Đinh sửu
(1757) mưu toan việc cướp ngôi. Chẳng may bị Dương Trọng Tế phát giác, Thánh tổ
lấy tình anh em ruột thịt tha tội chết cho quận Thuỵ, và bắt giam vào một nơi.
Kịp khi Đoan nam vương lên ngôi, vương nghĩ nể mẹ quận Thuỵ là bà dì mẫu của
mình, liền thả quận Thuỵ ra khỏi ngục. ít lâu sau, gặp lúc bọn kiêu binh oán
giận vương, quận Thuỵ lại thừa cơ cùng với bọn này mưu cướp ngôi
của
vương. Nhưng việc cũng bị lộ. Mẹ Đoan nam vương vì lẽ quận Thuỵ là con trai của
chị ruột mình, nên phải đứng ra cố xin với vương, vương nể lời mẹ, lại tha cho
quận Thuỵ.
Lúc quân
Tây Sơn kéo ra, quận Côn chỉ đem theo một con đòi, một tên đày tớ, lánh vào
huyện Chương Đức, lẩn lút trong đám dân gian làm kế ở ẩn lâu dài. Còn quận Thuỵ
thì trốn về huyện Văn Giang, cùng với Thần trung hầu (tức Trương Tuân, người xã
Như Quỳnh, huyện Văn Giang) ngầm chiêu tập binh mã, hòng có dịp là sẽ nổi lên.
Thần
trung hầu là con trai của công chúa Quỳnh Anh, đối với quận Thuỵ và chỗ con cô
con cậu. Thần trung hầu đỗ tạo sĩ, đã từng coi cấm quân, lại từng làm trấn thủ
trấn Kinh Bắc. Khi nghe tin quân Tây Sơn đã rút, Thần trung hầu bèn dựng cờ viết
hai chữ "cần vương", rước quận Thuỵ qua sông, rồi theo bến Thanh Trì
đi thẳng lên cung Tây-long. Lúc này, quân của Dương Trọng Tế vâng chỉ hoàng
thượng từ Gia Lâm vượt sông sang, tình cờ chạm trán với quân của quận Thuỵ.
Nguyên
trước kia, Tế mới đỗ tiến sĩ và ra làm quan được ít lâu, thì đã phải bãi chức
quan hơn mười năm vì tội ăn của đút; mãi sau nhờ công phát giác việc quận Thuỵ
mưu phản, mới được phục chức. Bấy giờ gặp quận Thuỵ, Tế vô cùng sợ hãi, bèn đem
quân xin hàng để chuộc lỗi xưa. Quận Thuỵ tức thì sai luôn Tế và Thần trung hầu
đóng quân ở ngoài thành, khua chiêng đánh trống, thanh thế rất là lừng lẫy.
Khi ấy,
hoàng thượng nghe tin Thần trung hầu đang lảng vảng ở bên ngoài, bèn sai người
ra gọi vào. Thần trung hầu vào yết kiến, hoàng thượng liền bảo rằng:
- Ngươi
là danh tướng con nhà dòng, nay dấy quân gìn giữ kinh thành, tấm lòng trung
nghĩa ấy trẫm rất ngợi khen. Vậy ngươi cứ mang quân vào, trẫm sẽ tuỳ việc mà
dùng.
Thần
trung hầu quỳ tâu:
- ở
trong bốn biển, ai chẳng là tôi nhà vua. Bệ hạ khoanh tay rủ áo không làm việc
gì, thì còn cần chi binh lính bảo vệ? Duy có nhà chúa chẳng may bị lũ lính mọi
làm hại, thì mới cần kíp phải dùng đến binh lính mà thôi!
Nói
đoạn, Thần trung hầu lạy tạ đi ra.
Hoàng
thượng giận, sai quan trấn điện đem quân đuổi chém. Mọi người phải cố sức can
ngăn, hoàng thượng mới thôi.
Thần
trung hầu về nói với Trọng Tế rằng:
- Xưa
nay nhà chúa truyền ngôi, nối ngôi, có bao giờ phải xin mệnh lệnh nhà vua đâu?
Thường thường khi công việc đã làm xong rồi, bấy giờ mới đệ tờ tâu vào triều.
Ngay cả những tờ sắc dụ, sách phong, cũng đều do nhà chúa thảo sẵn trước, sau
đó đệ lên hoàng thượng ngự lãm qua, rồi đưa trả về phủ chúa để tuyên bố thi
hành, thế là thành mệnh (mệnh lệnh của vua làm thành từ trước), cần gì phải xin
phép nhà vua cho thêm rắc rối?
Rồi hai
người bèn tức tốc chỉnh đốn hàng ngũ binh lính, rước quận Thuỵ vào thành. Bấy
giờ trời đã xẩm tối, chừng đến canh hai mới vào tới phủ. Họ bèn thắp đèn sáng
trưng khắp cả phủ, đánh ba hồi chín tiếng trống, rồi phò quận Thuỵ lên ngôi.
Thần trung hầu và Trọng Tế tự chia làm hai ban đứng ra lạy mừng. Lạy xong, họ
lại bảo các quân sĩ cùng hò reo cho thêm rầm rộ.
Sau đó,
hai người chia quân đi đóng giữ các cửa thành cùng các điếm canh trong kinh
đúng như lệ cũ. Đến sớm mai, họ mới cho người đi gọi các quan văn võ.
Các quan
văn là Hoàng quận công, Tứ xuyên hầu, Thao đường hầu, Kiến xuyên hầu, Luyện
đường hầu, cùng vài ba viên tiến sĩ, khi ấy đang ở trong triều, thấy có giấy
đòi, liền bảo nhau rằng:
"Quận
Thuỵ từ trước đến giờ, đã từng ba lần gây việc mà đều không thành. Con người mà
tâm địa như vậy, hẳn không phải là "của quý". Thần trung hầu là hạng
công tử ăn chơi, bình sinh chỉ biết ban đêm uống rượu say mềm, rồi lăn ra ngủ
đến khi mặt trời sắp xuống núi mới dậy. Như thế, trong một ngày còn được mấy
giờ để lo việc nước mà còn muốn làm đại thần? Trọng Tế hồi trước phản quận
Thuỵ, nay lại theo quận Thuỵ, há cũng là "đồ vật ở chốn miếu đường"
được ư? (câu này ý nói Trọng Tế không phải là người xứng đáng làm một vị đại
thần ở triều đình) Huống chi, một việc lớn lao như vậy, mà trên không xin mệnh
lệnh của nhà vua, dưới không thu góp ý kiến của mọi người, chỉ cắm đầu nhắm mắt
để tự làm với nhau, lẽ nào lại thành việc được? Hoàng thượng vốn anh minh, quả
quyết, chắc chắn bọn ấy không thể lấn ép được. Chúng ta chớ nên hấp tấp, nhẹ dạ
mà đến với họ, kẻo sau này có hối lại cũng không kịp!".
Thế rồi,
mấy người sai viên thư lại trả lời cho bọn Thần trung hầu và Trọng Tế, đại để
như sau: "Các quan trong triều vì chưa vâng mệnh của hoàng thượng, cho nên
không dám tự tiện tới phủ chúa. Xin hai quan lớn trình chúa hãy thảo giấy tâu
xin mệnh lệnh của hoàng thượng, thì các quan sẽ xin vâng mệnh hoàng thượng sang
phủ lạy mừng".
Trọng Tế
bèn tự ý làm một tờ tâu rằng: "Thần là Trịnh Lệ kính tâu: Nhà thần đời đời
nối nghiệp chúa, tôn phò nhà vua. Vừa rồi nhân vì quân mọi vào cướp, tôn miếu
nghiêng đổ. Mây nhờ trung thần nghĩa sĩ một lòng giúp rập, giặc mọi nghe tin,
đang đêm phải hốt hoảng chạy trốn. Hôm mồng mười tháng này, thần đã vào ở trong
phủ. Vậy cúi xin ban cho sắc dụ, khiến thần được nối ngôi chúa, đời đời tôn
phò, để giữ vững lấy cái cơ nghiệp vua, chúa trong ngàn vạn năm".
Hoàng
thượng coi tờ tâu, cả giận nói:
- Nhà
Trịnh là kẻ dưới mà dám lấn người trên, nên mới chuốc lấy cái nạn bại vong. Thế
mà nay nó lại vẫn đi theo cái vết xe đổ ấy. Nó định khinh trẫm ít tuổi hay sao?
Khi ấy,
quân của hoàng thượng chiêu mộ, đã có tới vài ngàn người, hiện đã đến ở trước
cửa khuyết. Các quan tả hữu bèn khuyên hoàng thượng rằng:
- Chẳng
qua hắn cũng giương to thanh thế đấy thôi! Ta cứ doạ cho hắn sợ, ắt là có thể
nhân đó mà đè bẹp được hắn. Hắn có một vạn thủ hạ, quân ta cũng hàng mấy ngàn;
nếu như hai bên đánh nhau, hắn muốn nuốt ta cũng chưa dễ đã nuốt trôi. Vả chăng
nhân dân trong nước tuy nơi nào theo sự kêu gọi của hào kiệt nơi ấy mà nổi lên,
và cố nhiên lại có chia ra đám nọ đám kia khác nhau, nhưng cái lòng tôn vua thì
đều như nhau cả. Nếu lấy việc chống lại nhà vua để nổi dậy, thì quyết không một
người nào dám theo. Nay quận Thuỵ không chịu vào triều để bái yết, lại nghênh
ngang ngồi trong phủ, chưa được mệnh vua mà đã xin sắc dụ, nếu ta dễ dãi cho
hắn ngay, sau này khí thế của hắn mạnh thêm, sẽ có nhiều điều khiến ta không
thể chịu nổi. Vậy xin cứ bắt hắn phải vào lạy trước đã rồi mới được lập, chắc
chắn là hắn sẽ không dám tới. Hắn không tới, thì việc sách lập sẽ chậm, mà thế
lực của hắn tất nhiên sẽ tan vỡ. Thần trung hầu, Dương Trọng Tế hai người ngồi
suông trong phủ mà đóng vai quan võ, quan văn phường chèo, thì rốt cuộc cũng
chẳng được mấy lúc.
Hoàng
thượng theo lời, sai thảo một tờ chỉ, truyền dụ cho Trọng Tế, nói rõ lệ cũ mỗi
khi lập ngôi chúa, thì chúa mới phải thân hành vào triều vâng mệnh nhà vua; rồi
nhà vua mới hậu đãi bằng cái lệ "vào triều không lạy, tờ tâu không xưng
tên". Thảo xong, hoàng thượng sai viên nội hàn là Lê Hữu Cáo đem tới phủ
đường.
Trọng Tế
xem rồi, tức thì xé tan tờ chỉ dụ ngay trước mặt sứ giả mà nói:
- Lạ
thay, ta chưa từng thấy triều nào, đời nào lập ngôi chúa mà vua lại dám ngăn
trở như vậy! Chắc là mấy thằng rồ dại đã lạy quân mọi hôm nọ, sợ rằng sau khi
lập chúa, chúa sẽ hỏi tội chúng nó, cho nên chúng nó mới xúi bẩy nhà vua đấy
thôi. Ta cần gì phải xin xỏ, cứ việc đem quân đến bắt hết mấy thằng xúi bẩy ấy
đi, cho trơ cái ngai gỗ ra. Xem vua có cho lập hay không cho lập?
Đoạn,
Trọng Tế lại bảo sứ giả:
- Ông về
tâu với hoàng thượng, chúa vẫn làm chúa, nhà vua có thiệt hại gì đâu? Xin hãy
cứ lập đã, rồi sẽ vào lạy sau:
Sứ giả
về triều tâu hết đầu đuôi, hoàng thượng càng tức giận mà rằng:
- Nó
khinh ta quá lắm! Như thế nó còn phải xin mệnh của ta làm gì? Thôi mặc cho nó
tự làm lấy, ta cũng không khiến nó lạy nữa!
Các quan
trong triều thấy vậy, thảy đều run sợ. Giữa lúc ấy, bỗng có tờ tâu của quận Côn
đệ vào, đại ý nói rằng: "Tổ tiên nhà thần giúp đức tiên đế gây nghiệp
trung hưng, đội ơn thiên tử xét công ban thưởng rất hậu, phong cho ngôi chúa.
Đến đời gần đây, vì chuyên quyền lâu ngày, đâm ra kiêu lộng, làm những việc
trái với lẽ thường, đến nỗi sụp đổ mất cơ nghiệp của tổ tông. Nay thánh thiên
tử thống nhất thiên hạ, đùm bọc che chở, tấm lòng rộng mở bao la như trời đất,
chẳng nỡ làm tuyệt diệt tôn miếu nhà thần. Thần may được là dòng trưởng họ
Trịnh, lánh nạn nấp ở dân gian, cái bụng mến nhớ tông miếu, bâng khuâng suốt cả
đêm ngày, chỉ vì chưa được chiếu chỉ, cho nên thần vẫn chưa dám tự tiện vào
thành. Vậy dám đánh bạo tâu lên hoàng thượng xem xét".
Hoàng
thượng coi hết tờ biểu, rất hài lòng, khen:
- Trẫm
nghe nói quận Côn là người hết sức lễ độ, khiên tốn, quả nhiên không sai!
Rồi ngài
sai giao tờ biểu đó xuống cho triều đình bàn bạc. Các viên quan triều nghe tin
quận Côn ở vùng Chương Đức, hiện có cái thế nổi lên được, ai nấy đều ngầm có
bụng ngả theo, nên đều khuyên hoàng thượng xuống chỉ vời vào.
Quận Côn
tiếp được chiếu chỉ, lập tức phân chia hàng ngũ người ngựa, luôn trong bữa ấy
lên đường về kinh. Quan quân lại sĩ nghe tin, tranh nhau đi đón.
Thần
trung hầu và Trọng Tế thấy vậy đều sợ hết hồn hết vía, đám người đi theo cũng
hơi ngã lòng. Cả hai bấy giờ mới chịu lép vế cúi mình, sai người vào triều tâu
xin cho quận Thuỵ tới lạy. Hoàng thượng ưng lời.
Khi sứ
giả ra khỏi, hoàng thượng bèn sai lính phục sẵn ở bên cầu Cận-thiềm, chờ quận
Thuỵ và bọn Thần trung hầu, Trọng Tế tới nơi sẽ bắt lại để hỏi tội.
Nhưng
quận Thuỵ rốt cuộc cũng không dám vào. Trọng Tế biết việc không xong, bèn nói
với quận Thuỵ, xin để mình và Thần trung hầu chia quân chống chọi với quận Côn.
Quân của Trọng Tế ra đóng ở cửa ô Trường-bắn (ở vào khoảng Giảng Võ, Voi phục
trên đường Đại La, Hà Nội bây giờ), còn quân của Thần trung hầu thì đóng ở cửa
ô Xã Đàn [nay ở vào khoảng làng Xã Đàn và Nam Đồng (Hà Nội)].
Rồi thừa
cơ, Trọng Tế bèn bí mật sai Nguyễn Mậu Nễ đem một cánh quân lẻn đi xin hàng.
Nễ tới
làng Nhân Mục, vừa gặp tiền quân của quận Côn. Nễ liền sai quân lính cắm ngược
gươm giáo xuống đất, hai tay chắp lên trán, đứng ở bên trái đường. Khi kiệu của
quận Côn đến nơi, Nễ quỳ xuống, thuật rõ ý của Trọng Tế. Quận Côn bằng lòng,
sai ngay Nễ làm tiền bộ tuyển phong. Đi đến dưới lầu Trường Thi, gặp quân của
Thần trung hầu chĩa súng bắn thẳng vào, quân của Nễ liền ngồi thụp cả xuống đất
để tránh đạn. Quân của Thần trung hầu kéo ùa tới. Quân của Nễ bấy giờ mới nhất
tề đứng dậy, xông bừa vào đám quân của Thần trung hầu. Quân Thần trung hầu thấy
quân Trọng Tế đã đầu hàng như thế, liền vất bỏ cả gươm giáo mà chạy. Quân Nễ và
quân của quận Côn thừa thế đuổi thẳng đến trại Nam Đồng, chém được chừng vài
trăm người, quân của Thần trung hầu thua to phải chạy vào thành. Thế là tất cả
đều tan vỡ. Quận Thuỵ, Thần trung hầu, Trọng Tế không còn dịp nhìn nhau, nhắm
thẳng phía cửa ô Ông Mạc, mạnh ai nấy chạy lấy thân mình.
Quận Côn
kéo quân vào thành. Khi ấy đám tàn quân của Trọng Tế ở cửa ô Trường Bắn, phía
ngoài bị quân của quận Côn chẹn ngang, phía trong bị lính thị vệ của nội điện
chặn giữ, thành ra chúng không còn đường nào mà chạy, phải liều chết cố đánh.
Chúng
đâm một hoàng thân ngã ngựa chết. Hoàng thượng cả giận, liền sai quân bổ vây,
bắt hết cả bọn đem chém, máu chảy lênh láng, ngập đến mắt cá chân. Hôm ấy là
ngày 14 tháng chín.
Lại nói,
bấy giờ thanh thế của quận Côn rất là ghê gớm. Nhưng vì thấy y có vẻ cung kính,
hoà thuận, nên hoàng thượng định hãy cứ vỗ về y, rồi sẽ ngấm ngầm uốn nắn dần.
Đến lúc
quận Côn đã vào trong thành, hoàng thượng liền sai dẫn y tới ra mắt ở điện Vạn
Thọ. Quận Côn lạy năm lạy và rập đầu vái ba vái. Lễ xong hoàng thượng cho ngồi
và bảo:
Nhà chúa
trải hai trăm năm tôn phò, công lao đối với nhà vua không phải là nhỏ. Trẫm
muốn đền ơn thật hậu. Xét trong họ hàng nhà chúa, không ai được hiền như ông,
vả ông lại là ngành trưởng, nên việc nối dòng tế tự trẫm vẫn để dành cho ông.
Quận Côn
tâu rằng:
- Thần
vốn là kẻ hèn mọn, tính lại ưa sự điềm tĩnh. Gặp lúc vận nhà suy bĩ, thần đành
cam phận bỏ đi, những toan khoác áo cà sa mà sống cho trọn quãng đời thừa. May
sao, nhờ hoàng thượng sẵn có mưu mô thần thánh, xoay lại vận hội trời đất, nên
nạn nước lại yên, thần lại được trông thấy mặt trời. Bây giờ, hoàng thượng lại
nghĩ đến tiên tổ nhà thần, mà không nỡ dứt bỏ thần, thần kính xin được về triều
để đợi mệnh. Gây dựng cho thần kiếp này, đều là ơn của hoàng thượng vậy!
Hoàng
thượng khen phải, rồi hỏi luôn:
- Thế đã
chọn nơi nào để đóng quân hay chưa?
Quận Côn
đáp:
- Toà
lượng phủ (phủ cũ của thế tử họ Trịnh) còn có thể che mưa che gió, thần xin ở
đấy.
ý hoàng
thượng không muốn cho quận Côn ở trong phủ, bèn nói:
- Nhà cũ
của ông không việc gì chứ?
Quận Côn
thưa:
- Nhà
thần ở chỗ hẻo lánh, lửa binh không lan tới, nhưng cũng bị người kẻ chợ cướp
bóc, tàn phá, không còn chỗ nào nguyên lành.
Hoàng
thượng lại hỏi:
- Thái
phi và các vương tử của Đoan nam vương bây giờ ở đâu?
Quận Côn
đáp:
- Trong
lúc hoảng hốt vội vàng, mỗi người chạy đi mỗi ngả, đến khi tạm yên mới kịp dò
hỏi. Nay vừa được biết, họ đều ở nhà Ngạn lĩnh hầu trên trấn Sơn Tây. Nghe đâu
ba vị vương tử đã chết mất hai, giờ chỉ còn vị con cả mà thôi!
Hoàng
thượng nói:
- Đoan
nam vương xưa cũng có hậu tình với trẫm, trẫm rất thương xót, thường vẫn cho
người thăm viếng phần mộ, sửa lễ cúng vái, để an uỷ hương hồn. Trẫm cũng thường
hay hỏi thăm tin tức thái phi và các vương tử, đến nay mới biết đích xác. Vậy
hãy cho người đón về đây, trẫm sẽ hậu đãi!
Quận Côn
đáp:
- Dạ!
Hồi lâu,
quận Côn lạy tạ xin lui. Khi qua cửa phủ, vào thăm cung miếu, quận Côn gào khóc
một chặp, rồi lại sai xe đưa về lượng phủ. Nhưng bọn tay chân nói:
- Thần
dân thiên hạ rước ngài đến đây, chỉ muốn ngài ở phủ làm chúa, để họ lập chút
công danh. Nay ngài lại nhường phủ không ở, chắc họ sẽ bảo ngài là "vương
tử lại hoàn vương tử". Rồi đó lòng người chán nản, đại binh sẽ tan, khó mà
thu thập lại được. Nếu về ở lượng phủ, thà rằng cứ ở Chương Đức làm một người
thanh nhàn, còn phải lôi kéo bao nhiêu người tới đây làm gì cho nhọc?
Quận Côn
nghe lời, bèn lưu lại trong phủ, vào ở tại Trạch Các, rồi làm tờ tâu lên hoàng
thượng, đại ý nói rằng: "Thần vào thăm gia miếu, trông thấy lửa hương
nguội lạnh, quang cảnh tiêu điều, lòng bồi hồi không nỡ bỏ mà đi. Vậy xin tạm
chọn một ngôi nhà cạnh miếu để ở, cho tiện sớm hôm quét dọn thăm nom, để cho
linh hồn tiên tổ được yên". Hoàng thượng xem tờ tâu, hiểu ý ngay, nhưng
thế chưa ngăn cấm được, liền bảo với các quan tả hữu rằng:
- Nếu
muốn ở phủ, tức là lại muốn được làm chúa rồi. Như thế thì cái nạn quận Thuỵ
cũng vẫn chưa trừ được vậy. Cái ổ đã vỡ đó, hết kẻ kia đi, lại đến kẻ này lại,
ồn ào bụi bậm làm dơ bẩn con người. Trẫm giận mình, lúc Tây Sơn mới đi, đã
không kịp cho ngay nó một mồi lửa cho rảnh!
Hôm sau,
hoàng thượng sai các quan trong triều bàn việc sách phong cho quận Côn. ý hoàng
thượng chỉ muốn phong làm quốc công rồi cho hưởng lộc hậu hơn mà thôi. Nhưng
các quan triều thấy quận Côn giữ binh ở phủ, chắc y không chịu ngồi suông; vả
lại, coi cái thế thiên hạ hùa theo y bây giờ, thì có đè nén cho y khỏi to lớn
cũng chẳng được nào. Bởi vậy, không có người nào dám bàn trước. Chợt có kẻ xin
với vua rằng:
- Nhà
chúa từ khi Văn tổ (tức Trịnh Tráng) bắt đầu được phong là chức tiết chế thuỷ
bộ chư doanh, bình chương quân quốc trọng sự và tước quốc công. Bây giờ, xin
theo như lệ cũ ấy mới là có căn cứ.
Hoàng
thượng bèn sai lấy quốc sử xuống để tra xét cho rõ, rồi bắt bớt đi hai chữ
"tiết chế". Các quan triều đều phân vân chưa dám quyết định.
Giữa lúc
ấy, chợt có tin báo Liễn trung hầu Đinh Tích Nhưỡng vâng sắc hoàng thượng đã
tới. Nhưỡng có ba ngàn bộ binh đóng ở Bát Tràng, nói thặng lên là ba vạn, và ba
trăm chiến thuyền đóng ở bến Thuý ái, nói thặng lên là ba ngàn; lại lấy hiệu
quân là Đông-giang. Người trong nước bấy giờ, nghe thanh thế của Nhưỡng, đua
nhau đi theo rất đông.
Nhưỡng
đem vài trăm khinh kỵ vào thành, dương dương tự đắc có vẻ coi khinh cả thiên
hạ.
Hoàng
thượng thấy Nhưỡng đến vừa lúc quận Côn cũng đến, e cuộc gặp gỡ ấy làm cho
Nhưỡng bất bình, mới sai người dẫn Nhưỡng vào ra mắt, vỗ về an ủi cực kỳ ôn
tồn. Nhưỡng cũng giãi tỏ hết tấm lòng trung ái của mình. Hoàng thượng bảo
Nhưỡng:
- Nhà
ngươi nay đã đến đây, nên đem hết quân vào thành để bảo vệ kinh sư.
Nhưỡng
lạy tạ rồi lui ra.
Hoàng
thượng lại bảo Nhưỡng ra triều đình để cùng các quan bàn việc.
Các quan
đem lệ cũ ở quốc sử ra nói với Nhưỡng. Nhưỡng nói:
- Tôi là
kẻ võ biền không biết văn học; chẳng hay hoàng thượng đãi nhà chúa như thế là
hậu hay bạc?
Các quan
ngập ngừng chưa dám trả lời ngay. Chợt có Nguyễn Hàn đáp rằng:
- Nhà
chúa không thể giữ nổi tôn miếu, hoàng thượng bảo tồn cho, như thế kể cũng đã
là hậu.
Nhưỡng
nhìn Hàn chòng chọc và hỏi:
- Ông là
tiến sĩ phải không?
Hàn
thưa:
- Phải!
Nhưỡng
lại hỏi:
- Đỗ
khoa nào?
Hàn trả
lời:
- Khoa
Kỷ hợi (1779).
Nhưỡng
nín lặng đi ra.
Các quan
cũng đều lui về.
Hôm ấy,
thủ bạ của quận Côn vì muốn dựa vào uy thế của Nhưỡng cho chóng thành việc, mới
khuyên quận Côn mời Nhưỡng đến để phó thác công việc.
Nhưỡng
từ chối mà rằng:
- Tôi là
bề tôi nhà Lê nhà Trịnh, chỉ biết có nhà Lê nhà Trịnh, há lại có bụng dạ kia
khác nào? Nay ông đến đây, việc phong tước còn chưa xong, tôi lại vừa mới đem
quân tới, nếu tôi vào ra mắt ông, e khi ông được làm chúa, rồi nay mai hội bàn
ở triều đình, tôi có điều gì không đồng ý kiến với họ, người ta sẽ ngờ cho tôi
là tư túi với ông. Vậy xin hãy cứ chờ đến khi nào có mệnh lệnh nhất định của
hoàng thượng, bấy giờ tôi sẽ đến lạy chào cũng chưa muộn gì.
Hôm sau,
hoàng thượng xuống chỉ phong Nhưỡng tước quận công, rồi sai nội hàn Lê Hữu Cáo
khuyên Nhưỡng một lòng giúp rập nhà vua cho thành công cuộc nhất thống.
Nhưỡng
nói:
- Tôi
vâng chiếu đến đây, chỉ mong thánh thiên tử ở trên cầm quyền, nhất thống bốn
biển, ấy là phúc của thiên hạ. Tôi đâu dám chẳng ra sức để làm cho tỏ hết lòng
ngu của mình? Nhưng trước kia tôi trót phạm quân luật, làm tan vỡ cả một đạo
quân, để cho việc nước đến nông nỗi này; mà nay hoàng thượng lại tha tội cho,
như thế cũng đã là may mắn lắm rồi. Còn bây giờ, trong lúc ngôi chúa vẫn chưa
định, mà tôi lại đi nhận phong tước trước, thì dư luận của mọi người sẽ bảo tôi
ra sao? Tôi thờ bệ hạ còn về lâu về dài, vậy nay hãy xin trả lại mệnh phong
tước.
Tiện
thể, Cáo đem việc hoàng thượng muốn phong cho quận Côn tước quốc công để dò ý
Nhưỡng. Nhưỡng bèn đáp rằng:
- Thánh
thiên thử chẳng thiếu gì trí tuệ, cứ đãi ngộ thế nào cho xứng với công đức của
nhà chúa là được.
Cáo về
triều, thuật lại ý Nhưỡng, và xin theo đúng như lệ phong Văn tổ khi trước.
Hoàng thượng lại sai các quan triều bàn bạc rồi phong quận Côn làm tiết chế
thuỷ bộ chư doanh, bình chương quân quốc trọng sự, tước Côn quốc công, cấp ba
ngàn tên lính, năm ngàn mẫu ruộng, hai trăm xã dân để cung phụng về việc tế tự
nhà chúa. Sau đó, các quan lại đem ý của hoàng thượng nói với Nhưỡng. Nhưỡng
chẳng có ý kiến gì khác. Các quan bèn đem lời bàn của triều đình tâu lên hoàng
thượng. Hoàng thượng nghĩ rằng: Văn tổ ngày xưa lúc mới phong thì thế, mà rồi
về sau, lại tiến lên đến ngôi chúa. Bây giờ nếu không nói trước rõ ràng, e rằng
lâu dần sẽ lại sinh ra những chuyện khác. Bởi vậy, khi đã quyết định việc phong
tước quốc công cho quận Côn, hoàng thượng bèn bắt các quan triều làm tờ sắc dụ,
nói rõ từ nay về sau cứ đời đời nối tiếp tước công mà thôi. Các quan triều vâng
mệnh hoàng thượng làm đúng như vậy. Mấy chữ ấy ghi trong sắc dụ. Nhưỡng không
được biết gì hết.
Hôm sau,
hoàng thượng, sai quan đem sắc đến phủ ban cho quận Côn, rồi lại sai đem dán
bản sao ra ngoài cửa Đại hưng cho thiên hạ đều biết.
Nhưỡng
xem tờ yết thị, thấy có chữ "đời đời nối tiếp tước công" liền hằm hằm
mà rằng:
- Lấy
tước công làm cái mệnh lúc đầu, còn có lý. Nay lại nhất quyết hạn định ở tước
công, bắt con cháu nhà chúa đời đời kiếp kiếp cứ phải noi theo như thế mãi thì
còn có lý nào nữa? Vừa rồi giặc đến, nhà vua được tôn phò, các quan văn võ
không một người nào phải mất tước vị; riêng nhà chúa thì có tội tình gì mà lại
bị thụt chức? Thử coi những kẻ tai mắt ngồi ở trong triều, ai không chịu ơn sâu
của nhà chúa? Thế mà bây giờ người ta lại dùng những câu văn khéo léo để chiều
ý nhà vua như vậy, thật là khinh bạc quá lắm! Được! Họ đã nổi tiếng vì câu văn
khéo léo, thì ta cũng lại lấy câu văn khéo léo mà chọi lại, thử xem ai thắng
ai?
Rồi
Nhưỡng làm luôn một tờ yết thị như sau:
"Hàm-giang,
Đinh mỗ kính đạt các quan văn võ quý đài:
Nay vâng
sắc chỉ lập quốc công để nối dòng dõi nhà chúa. Nếu như lòng người đều đã thoả
thuận, thì nên đến phủ lạy mừng. Nhược bằng ai còn nghĩ đến công đức nhà chúa,
riêng có ý tâu xin thế nào, thì hãy đến cùng họp ở cung Tây-long, bàn với mỗ về
việc thảo biểu dâng lên hoàng thượng, để cúi chờ thánh thượng xét định, cho
thoả lòng mong mỏi của thiên hạ".
Khi mệnh
ban tước quốc công mới ban xuống, ai nấy đều nghĩ rằng việc đó hẳn chưa hết
miệng tiếng. Đến lúc này Nhưỡng đã đi trước mọi người, lập ra cuộc họp để tranh
công đầu. Tuy nhiên, để phòng ngừa vì lỗ mãng thô bạo mà hỏng việc như bọn Thần
trung hầu, Dương Trọng Tế, nên Nhưỡng cũng không dám dùng uy thế mà ăn hiếp các
viên triều thần hiện đang theo nhà vua. Ngược lại, các viên triều
Chương 7 :
Phò Lê đế, đạo Vũ thành lại ra quân, Đốt Trịnh cung, chúa án đô phải bỏ nước.
Lại nói, Thạc quận công (Hoàng Phùng Cơ) sau
khi thua trận ở cửa Thuý ái, liền chạy về vùng Hưng Hoá, nương nhờ ở nhà một
phiên mục là Đinh Công Hồ. Kịp khi nghe tin quân Tây Sơn đã rút về Nam, quận
Thạc bèn tới trấn Sơn Tây, thu nhặt binh lính để về bảo vệ kinh thành. Khi ấy
hoàng thượng vẫn thường cho người qua lại chỗ quận Thạc, vua tôi rất là ăn ý
với nhau.
Đến lúc này được tin quận Thạc đã
tới, nhà vua liền sai ông ta đem quân vào đóng ở cửa ô Trường Bắn để bảo vệ
hoàng thành. Lúc vào thành, quận Thạc đến lạy chào nhà vua, rồi sau mới ra chào
án đô vương.
Bấy giờ, người trong kinh nhao nhao
đồn rằng: "Thạc vào bè với vua; Nhưỡng vào bè với chúa. Hai người sẽ có
ngày dàn quân đánh nhau. Cả hai đều là tướng mạnh chưa biết ai thua ai
được?". Hoặc có người lại nói rằng: "Vua với chúa thế lực cũng ngang
nhau, nhưng vua có phần mạnh hơn một chút".
án đô vương thường sai người đến uý
lạo quận Thạc, khuyên Thạc nên giúp đỡ nhà chúa. Nhưỡng cũng hay cho người đi
lại biếu xén để liên kết với quận Thạc.
Thủ hạ của quận Thạc có người tên là
Nguyễn Liên, thấy thế lớn trong thiên hạ đang có chiều ngả về phía chúa, nên
cho rằng việc Nhưỡng phò chúa khó mà có thể xoay chuyển được. Rồi nhân đó, muốn
cho quận Thạc hợp vào với Nhưỡng, Liên bèn cố khuyên quận Thạc bỏ vua mà theo
chúa. Quận Thạc trả lời:
- Người ta khó nhọc mới làm được mâm
cỗ ngon, mình bỗng xông đến, chọc ngay đũavào mà ăn, còn ra cái mặt mũi gì nữa?
Liên nói:
- Hiện nay ngôi chúa tuy đã lập,
nhưng quyền chúa chưa định xong. Ông Nhưỡng vì đã trót hứa với hoàng thượng là
quyền bính thuộc về nhà vua, nên bây giờ không dám hé răng nói lại. Chúa ngồi
chồm chỗm ở trong phủ, mà hoá ra chính phủ chẳng có người nào, dân không biết
theo ai. Việc ấy không có ông thì không xong. Người xưa có câu: "Làm việc
thì dễ; làm cho nên việc mới khó". Bây giờ nếu ông gánh lấy cái khó ấy,
thì công nghiệp chẳng kém gì ông Nhưỡng đâu!
Quận Thạc hỏi:
- Thế thì nên làm ra sao?
Liên đáp:
- Người ta có thể họp được các quan,
sao ông lại không chịu họp? Nay ông hãy định ngày hội họp các quan để bàn về
việc đặt tên các quan chức rồi sau đem những lời bàn ấy mà tâu xin với nhà vua,
hẳn là nhà vua phải nghe theo.
Quận Thạc khen phải, rồi sai thảo tờ
hiểu thị các quan văn võ, đại ý nói rằng:
"Khi Nguyễn Hữu Chỉnh đưa giặc
vào cướp nước, mỗ vâng mệnh dẹp giặc, chẳng may đã sai phạm quân luật và làm
tan vỡ quân đội, đến nỗi kinh thành không giữ được, thật là đáng chịu tội muôn
lần. May nhờ lòng trời hối hoạ (một quan niệm cũ cho rằng, mọi tai hoạ ở trên
đời đều là do trời gieo rắc, khi tai hoạ hết, ấy là lúc trời đã hối lại), quân
giặc phải lẻn trốn về. Nay non sông lại y nguyên, vua chúa vẫn như cũ. Nhưng
giường mối đã đổ, triều chính lại càng rối bời. Tướng võ, quan văn, há nên một
mực im lặng? Vậy xin định đến ngày này tháng này, hội họp ở bộ Lễ, cùng nhau
bàn định, rồi sẽ tâu lên hoàng thượng và trình lên vương thượng biết; sau đó
xin giao xuống cho thi hành, để chỉnh đốn lại thể thống của triều đình".
Mọi người thấy tờ hiểu thị đó, đều
cho rằng quận Thạc vì nhà vua mà mở ra cuộc họp ấy, để báo thù lại cuộc họp của
Nhưỡng ở Tây-long trước đây. Đến ngày đã định, quận Thạc kéo quân từ hoàng
thành ra, Nhưỡng dẫn quân từ phủ chúa lại, người ta chắc là hai tướng sắp sửa
đánh nhau, có kẻ sợ vạ lây đã phải lánh đi nơi khác. Nhưng đến khi thấy hai
tướng đã gặp nhau mà không xảy ra chuyện gì, thì người ta lại đồ rằng quận Thạc
lừa cho Nhưỡng ngồi vào họp rồi mới bắt, tướng trẻ tất phải mắc mưu tướng già.
Rút lại, chẳng ai hiểu được ý định của quận Thạc như thế nào?
Kịp đến lúc các quan văn võ đến họp,
chào hỏi nhau xong, quận Thạc nói:
- Chúa lên ngôi đã hơn một tuần, mà
chính sự vẫn chưa ra đầu ra mối gì cả, các ông có ý kiến gì xin cứ bày tỏ, rồi
cùng lựa chọn những điều đáng làm để đem tâu xin với bề trên.
Mọi người còn chưa biết nói thế nào.
Trong đám có Ninh Tốn là tay lắm mưu mẹo giảo quyệt, định dùng lối nói lập lờ
nước đôi để dò ý quận Thạc, bèn lên tiếng mà rằng:
- Từ khi sáng nghiệp về sau, quyền ở
nhà vua. Từ ngày trung hưng lại đây, quyền ở phủ chúa. . .
Tốn vừa mở miệng đến đấy, đã bị
Nhưỡng hỏi vặn ngay:
- Bây giờ là sau đời sáng ngiệp hay
là sau đời trung hưng? Làm sao lại còn nói đèo thêm đời sáng nghiệp vào nữa?
Xem viên ấy là quan chức gì mà nói dốt đến vậy?
Tốn vốn có tài đối đáp nhanh nhẹn,
liền nói luôn:
- ấy là tôi cũng chỉ viện dẫn ra để
tỏ rằng, từ sau đời trung hưng thì như thế đó mà thôi!
Nhưỡng nói:
- Nếu vậy thì mời ông ra thảo bản
nghị sự.
Tốn bèn thảo một bản nháp, đại ý như
sau:
"Nhà vua, nhà chúa, vẫn là một
thể. Nay tên gọi các chức quan ở phủ chúa phải theo như chỉ ý của nhà vua vừa
mới định, nhưng cũng nên giữ cả tên gọi cũ. Vậy xin để chức bình chương kiêm
chức tham tụng, tham tri kiêm bồi tụng, thiêm thư kiêm thiêm sai, đô cấp sự
kiêm lục phiên tri phiên. Về hàng quan võ thì những chức chưởng phủ, thự phủ,
sẽ thêm vào những chữ ngũ quân đô đốc phủ, tả hữu đô đốc. Còn nhà nghị sự ở
ngoài cửa phủ đã quen tai mắt thiên hạ, xin cứ để nguyên như tên cũ. Các việc
chính sự sau khi bàn xong, trước hết phải trình cho chúa biết, rồi sau mới tâu
vua để xin nhà vua quyết định".
Nhưỡng coi bản nháp của tờ nghị sự,
thấy lời văn chứa đựng những ý từ khôn khéo, tiếng rằng theo vua mà kỳ thực là
xem trọng ở chúa, bèn đổi ra giọng vui mừng mà rằng:
- Người ta khen ông là tay lão luyện
về nghề từ hàn, quả thật là không sai! Vừa nãy tôi nói lỡ lời, xin ông đừng
giận.
Rồi Nhưỡng bảo Tốn chép thành bản
tâu để dâng lên nhà vua. Lúc bản tâu đã chép xong, Nhưỡng tự thấy rằng việc làm
ấy và lời hứa của mình với nhà vua trước đây là trái ngược nhau, nên không dám
giáp mặt vua, bèn cáo từ các quan mà về dinh. Các viên quan võ cùng đều theo Nhưỡng
ra về hết. Chỉ còn lại quận Thạc và mấy viên quan văn vào điện để xin mệnh của
nhà vua.
Hoàng thượng lúc đầu tưởng quận Thạc
hẳn phải thuận theo ý mình, nên rất mừng, cho người dẫn ông ta vào ra mắt. Đến
khi coi hết tờ tâu, hoàng thượng nổi giận mà rằng:
- Tham tụng, bồi tụng cứ việc tham
tụng, bồi tụng, hà tất phải đèo thêm bình chương, tham tri? Chưởng thự cứ việc
chưởng thự, can gì phải đèo thêm ngũ quân đô đốc? Bọn các ngươi lấy hư văn mà
đánh lừa ta; bịp bợm, xảo trá như vậy, há phải là lễ thờ vua?
Quận Thạc nghĩ xưa nay mình với nhà
vua vốn có ân tình sâu xa, bỗng dưng vô cớ thay đổi thì thật là xấu hổ, vì vậy,
không dám hé răng, chỉ cúi rập đầu tạ tội mà thôi.
Ninh Tốn quỳ tâu:
- Nay ở ngoài thành đều là bãi chiến
trường, thiên hạ đang loạn lớn, mà chính sự trong triều đình thì vẫn còn rối
bời. Lũ thần trót phạm oai trời, thật là sợ hãi khôn xiết. Dám xin hoàng thượng
soi xét.
Hoàng thượng nói:
- Ngoài thành đều là bãi chiến
trường, vạ ấy hỏi tại nhà ai gây ra? Đâu phải là lỗi ở trẫm? Thôi đừng nói lắm,
lũ ngươi tưởng rằng bè đảng đông, có thể ăn hiếp được trẫm, thì cứ việc làm đi!
Cần gì mà phải xin mãi?
Bọn quận Thạc đều sợ hãi, bồ hôi
toát ra khắp lưng, không dám nài xin gì nữa; bèn cùng nhau phủ phục ở sân rồng,
mãi đến đầu canh một chưa dậy.
Hoàng thượng thấy họ cứ nằm lỳ ở
sân, nghĩ rằng người ta đã có bụng khác với mình, không thể trông cậy được nữa,
dầu có cố giữ ý mình cũng là vô ích, bèn ưng cho lời tâu của họ.
Bọn quận Thạc xin được mệnh lệnh
rồi, liền lạy tạ mà ra.
Hôm sau, họ cùng vào phủ để lựa chọn
các quan. Mọi người bàn bạc cho rằng, chúa mới được lên ngôi, những người mà
hoàng thượng tin dùng như loại Tứ xuyên hầu, chưa nên gạt bỏ vội. Rồi họ bèn
lấy Tứ xuyên hầu (tức Phan Lê Phiên) làm chức bình chương kiêm tham tụng; Kế
liệt hầu (tức Bùi Huy Bích) và Khuê phong hầu (tức Phan Cận) cùng làm chức đồng
bình chương sự kiêm hành tham tụng; quận Thạc làm trung quân đô đốc phủ, tả đô
đốc chưởng phủ sự, tước Thạc vũ công; Nhưỡng làm đông quân đô đốc phủ, hữu đô
đốc thự phủ sự, tước Liễn quận công; Ngô Trọng Khuê, Ninh Tốn đều làm tham tri
chính sự kiêm bồi tụng; Nguyễn Huy Chiểu, Phan Huy ích, cả bọn gồm sáu người
đều làm chức đô cấp sự trung, kiêm thiêm sai tri phiên trong sáu khoa.
Mệnh đó được ban xuống. Tứ xuyên hầu
từ chối không nhận. Kế liệt hầu thì tự thẹn mình không làm được công trạng gì,
nói:
- Ta làm tể tướng không được tốt
lành (trỏ việc Bùi Huy Bích trước kia làm tham tụng (tướng quốc) nhưng bất lực,
để Tây Sơn lấy được Bắc Hà). Việc trước hãy còn tấm gương sờ sờ ra đấy. Một đời
lại định mấy lần làm hại nước người ta nữa? (người ta đây chỉ vào nhà vua; quan
niệm phong kiến cho nước là của vua).
Rồi Kế liệt hầu cũng không chịu nhận
chức. Chỉ có Khuê phong hầu một mình gánh vác công việc. Nhưng bấy giờ quyền
bính trong nước đều ở tay Nhưỡng. Còn quận Thạc thì già nua dốt nát, chẳng biết
gì đến chính sự, chỉ giữ một chức quan cho đủ số mà thôi:
Quan liêu trong chính phủ đã đầy đủ,
họ bèn ngày ngày bàn mưu tìm kế để đè nén nhà vua, muốn cho tất cả quyền hành
về việc binh, việc dân đều thuộc về phủ chúa. Riêng có bổng lộc của nhà vua,
thì họ bàn nhau đãi hậu hơn các triều trước một chút. Nhưng hoàng thượng cũng
không chịu lép vế, cứ mỗi việc mỗi giằng giữ co kéo, thành ra các việc binh,
dân, chính đều rối tung chẳng đâu vào đâu. Rồi đó hoàng thượng lại ra sức mộ
thêm binh mã để tự vệ, và ngấm ngầm lập mưu chế ngự nhà chúa.
Lệ cũ, nội điện nhà vua có một viên
quan phụ tá. án đô vương bèn sai một hoàng thân tin cẩn của mình đến sung vào
chức đó. Hoàng thượng bảo với vị hoàng thân ấy rằng:
- Ta vừa cho lên làm chúa, sập ngồi
còn rung rinh, thế mà đã vội sai người đến dòm dỏ, làm như nền nếp lúc thái
bình ấy. Ông về bảo chúa án đô rằng, chúa đã sai ông đến làm phụ tá cho trẫm,
thì trẫm cũng khiến ông trở lại làm phụ tá cho chúa.
Vị hoàng thân ấy lui ra, hoàng
thượng bèn dặn mấy người tả hữu:
- Các ngươi hãy nhớ lấy, hễ mà người
này còn lại đây nữa, thì cứ chặt chân hắn đi cho ta!
Thế là từ đó, vua chúa đâm ra thù
nhau.
Hồi án đô vương mới vào kinh thành,
Trọng Tế trốn về huyện Gia Lâm. Vương vốn mến tư cách của Trọng Tế, lúc này bèn
cho sứ giả đi mời. Khi Tế đến nơi, vương nói:
Trong lúc giặc mọi vào cướp kinh kỳ,
các quan văn võ hoặc chạy trốn hoặc đầu hàng, riêng ngươi là nho thần lại dám
lập đồn bên cạnh kinh thành để chống nhau với giặc; cái tiếng nghĩa khí của
ngươi đã làm rung động cả nước, bọn giặc càn rỡ sở dĩ phải trốn đi, cũng chính
là sợ về oai phong của ngươi. Điều đó, quận Thạc quận Liễn không thể sánh kịp.
Vả lại, ngươi mới thoạt vào thành đã lấy ngay việc lập chúa làm điều trước
nhất. Tuy việc quận Thuỵ không thành, nhưng thanh thế nhà chúa lại nhen nhúm
lên được cũng là từ đấy. Nay ta mới được lên ngôi, nhà vua với ta lại chưa hoà
thuận, mà thiên hạ thì đang còn rối ren, vậy ngươi hãy cố ở lại giúp ta.
Sau đó án đô vương bèn cho Tế trông
nom về việc tài phú. Nguyễn Mậu Nễ, học trò của Tế, cũng được cất nhắc lên làm
chức tiến triều.
Tế vốn có bụng oán giận nhà vua,
liền nói với án đô vương:
- Cái thuyết nhất thống (tập trung
quyền bính vào tay nhà vua) do ở giặc Chỉnh xướng ra, thật không nghĩa lý gì
hết. Xưa nay nhà vua vẫn uỷ quyền cho nhà chúa, mà nhà chúa thì phò giúp mối
giường của nhà vua; có hề "nhị thống" (quyền lực thuộc vào cả vua và
chúa) bao giờ? Nhà vua đã chẳng chịu chung tai nạn với nhà chúa, trái lại còn
lấy sự thất bại của nhà chúa để làm lợi cho mình. Bọn Tứ xuyên hầu đã cúi mình
theo giặc, giờ lại hùa theo nhà vua mà không biết chi đến chúa. Đó đều là những
việc mà lẽ trời, tình người đều không thể dung tha. Dạo nọ vì chúa đến chậm,
thần bất đắc dĩ mà phải phò Thuỵ quận công. Nếu chúa đến sớm, thì thần há lại
để cho bọn đầu hàng giặc tới nay vẫn còn trốn khỏi hình pháp? Tôn thất nhà vua
hãy còn nhiều, tìm một vị khác làm người khoanh tay rủ áo, tưởng cũng không
thiếu gì. Chúa mà đến sớm hơn nữa, ông vua "lông đỏ" hẳn đã phải đi
theo bọn giặc "lông đỏ" từ lâu rồi!
Đoạn, Tế xui án đô vương cho quân
vây điện vua ở, bắt hết bọn gia thần của vua giết đi, rồi bỏ vua này mà lập vua
khác.
Mưu mô đã định xong, Tế bèn sai
Nguyễn Mậu Nễ đem quân chẹn ở phía trước điện, đồng thời ngầm cho Nhuận trạch
hầu (Bùi Nhuận) lẻn vào cửa Đông Hoa để đánh úp mé sau.
Hoàng thượng nghe tin có biến, liền
sai các hoàng thân đem hết binh lính đã mộ ra chống giữ. Nễ cưỡi voi đến ngoài
cửa Đại Hưng, khí thế rất mạnh, khiến cho trong điện ai nấy đều run sợ, cơ hồ
muốn tan vỡ. Thình lình thấy quận Thạc ngồi trên đầu voi từ phía sau điện xông
tới cửa Đông Hoa, ngăn Nễ không được vào nữa và quát:
- Mày muốn sống thì mau mau thu quân
về, bằng không, tao sẽ chặt đầu mày trước để bêu ra cho thiên hạ coi, rồi sau
sẽ bắt nốt những tên trong đảng nghịch.
Nguyên quận Thạc vốn ghen với danh
vọng của Tế, vả lại trong bụng cũng không ưng cái việc đại nghịch ấy; mặt khác,
lúc bấy giờ, quận Thạc đang làm chức đề lãnh chính hiệu, phải gìn giữ hoàng
thành, e rằng trong điện có biến thì mình cũng mang tội, vì vậy quận Thạc phải
kíp ngăn cản.
Nghe Thạc quát, Nễ sợ hãi lùi ngay,
Nhuận trạch hầu cũng không dám vào nữa. Thế là trong điện được vô sự.
Hoàng thượng giận lắm, bảo các quan
tả hữu rằng:
- Đảng ác đã đông, gốc hoạ khó mà
nhổ nổi. Nếu không có hữu quân (chỉ vào Nguyễn Hữu Chỉnh) trở lại, thì việc tất
không xong.
Rồi đó, hoàng thượng bèn bàn tính
việc vời Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân ra bảo vệ kinh sư.
Lại nói, sau khi quân Nam lén lút
về, Chỉnh cướp được chiếc thuyền hối hả đuổi theo, ra đến biển lại bị gió cản
lại luôn mấy ngày, chừng hơn một tuần mới vào đến cửa biển Hội Thống. Lúc
thuyền của Chỉnh đậu ở dưới bến Động Hải (tức xã Đông Hải, quê Chỉnh. Nay thuộc
Nghi Lộc, Nghệ Tĩnh), thì cũng vừa gặp lúc anh em Tây Sơn đi đường bộ đã vào
tới Vĩnh Doanh (tức vùng thị xã Vinh-Bến Thuỷ bây giờ) Bình nghe tin Chỉnh đã
trốn thoát và theo về đến đó thì cả kinh mà rằng:
- Thằng chết tiệt này khéo tìm đường
sống, thật chẳng khác gì mười lăm giống quỉ dạ xoa luân hồi làm hại, cắt cũng
không đứt đi cho.
Tuy vậy, lúc Chỉnh vào ra mắt, Bình
vẫn vỗ về yên ủi. Chỉnh xin theo Bình cùng về, Bình nói:
- Nay quận Thạc quận Liễn chưa trừ
xong, nước An Nam phi ông không ai trị nổi; ông hãy tạm ở đây đã!
Rồi Bình sai người san sẻ các thứ
súng đồng, súng sắt, cùng những khí giới, đồ lề thu được ở Bắc Hà, đem đến Đông
Hải cho Chỉnh.
Chỉnh từ chối không nhận.
Bình lại cho Chỉnh hai mươi lạng
vàng, hai trăm lạng bạc, và để lại một trăm tên lính để hộ vệ cho Chỉnh, Chỉnh
nghĩ để số lính ấy cũng chẳng dùng được bèn nhận vàng bạc, trả lại lính và nói:
- Tôi xin được tự mộ lấy quân địa
phương mà dùng. Nếu như sức tôi không đủ, phải đưa thư cáo cấp, thì bấy giờ
mong ông hãy chú ý sai tướng sĩ giúp đỡ tôi.
Bình ưng lời, rồi về Phú Xuân, lưu
Chiêu viễn hầu đóng lại ở Kỳ Hoa để hưởng ứng với Chỉnh. Nhưng Bình về rồi thì
Chiêu viễn hầu cứ đóng lỳ ở Kỳ Hoa không hề liên lạc gì với Chỉnh.
Chỉnh ở dưới thuyền, thủ hạ chỉ có
hơn ba chục người, thành thử không dám bỏ thuyền lên cạn.
Người xứ Nghệ biết Chỉnh đang lúc
thân cô thế cùng liền bàn nhau định ngày khởi binh bắt Chỉnh.
Chỉnh được tin, vội gọi người anh rể
là Nguyễn Kim Khuê xuống thuyền để bàn cách đối phó. Chỉnh bảo Khuê:
- Nay trong nước rối loạn, tôi muốn chiếm
cứ lấy trấn này để tính việc lấy thiên hạ. ý anh thấy thế nào? Mưu mẹo của anh
sắp đặt ra sao?
Kim Khuê người làng Đặng Điền, huyện
Chân Phúc, từng làm chức tri huyện, là bậc túc học và có mưu trí. Thấy Chỉnh
hỏi vậy, Khuê liền bày mưu rằng:
- Tên tuổi ông, thiên hạ không ai là
không sợ! Sức ông lấy Nghệ An, chẳng qua chỉ như trở bàn tay. Nay người trong
trấn này tuy biết ông thân cô thế cùng, song họ vẫn chưa biết rõ hư thực thế
nào. Tờ hịch của họ mới truyền đi, chỉ là những lời đưa đẩy lẫn nhau, chưa kẻ
nào dám thò đầu ra trước. Nếu ông làm trước để chặn họ, hẳn họ sẽ trở tay không
kịp. Hiện nay ông mà có được một ngàn thủ hạ, thì ông có thể dọc ngang khắp
thiên hạ vậy!
Chỉnh nói:
- Anh nói rất hợp ý tôi.
Rồi đó, Chỉnh bèn làm tờ hịch lông
gà (dịch chữ "vũ hịch". Thời xưa, trên tờ Hịch văn mộ quân người ta
thường cắm chiếc lông gà, để tỏ ý phải thi hành thật mau, phải làm gấp như bay)
để điều động quân lính. Hịch phát bắt đầu từ làng Chỉnh ở. Ra lệnh hễ chậm một
khắc sẽ chém liền.
ở làng bên cạnh có hai tên lính già,
nguyên là lính ở các đội Nhưng, Kiệu mãn về, thường vẫn hống hách với dân làng,
thấy hịch của Chỉnh đến, chúng liền ra ngăn dân làng và bảo họ đừng nhận.
Chỉnh được tin, tức thì đêm sai bọn
thủ hạ sang cướp phá làng đó, đâm chết hai tên lính già, chém lấy đầu, rồi
truyền hai cái đầu ấy đi khắp các thôn ấp, rao cho nhân dân biết.
Thế là cả huyện Chân Phúc, không ai
dám trái mệnh của Chỉnh. Chỉ trong mười ngày, Chỉnh đã mộ được hơn một ngàn
quân.
Các hào mục ở huyện bên cạnh, thấy Chỉnh
dấy binh vội vàng tính việc đánh Chỉnh. Họ tôn viên trấn thủ cũ là Đương trung
hầu (Bùi Thế Toại) lên làm thủ lĩnh, rồi ai nấy đều kéo quân đi theo.
Chỉnh lúc đó bị vây hãm tứ phía,
tình thế hết sức nguy ngập.
Bấy giờ, ở kinh đô có Khuê phong hầu
là người Nghệ An, thường được người làng cho biết Chỉnh hiện đang ở vào tình
thế rất dễ bắt. Khuê phong hầu liền đem việc đó tâu trình với án đô vương; rồi
xin cho Đương trung hầu ra làm trấn thủ như cũ, lại xin cử con là Phan Huy ích
làm chức đốc thị, và viên trấn thủ Thanh Hoa là Mãn trung hầu (tức Lê Trung
Nghĩa, người xã An Hoạch, huyện Đông Sơn, Thanh Hoá) sung chức tham lĩnh, thu
nhặt các tàn binh ở Thanh Hoa đem vào Nghệ An, rồi lại triệu tập binh xứ Nghệ
và các hào mục, thổ dân sở tại để đánh Chỉnh. án đô vương bằng lòng.
Lúc lĩnh mệnh lên đường, ích hung
hăn nói với mọi người rằng:
- Các ông hãy chờ đó, để tôi vào xứ
Nghệ lấy đầu Hữu Chỉnh về cướp ấn quận công cho mà coi!
ích lại còn sai bọn thủ hạ làm chiếc
trống trận và dặn:
- Phải làm cho rõ lớn, có thể chứa
được người vào trong, để khi ta thúc đội tiền quân xông vào bắt được Chỉnh rồi,
thì sẽ chọc thủng mặt trống, nhét hắn vào đó mà khiêng về dưới cửa khuyết.
Ngày ích xuất quân, ai cũng cho rằng
sự thành công có thể đứng mà chờ đợi.
Hồi Chỉnh ở Nghệ An, lúc nghe tin án
đô vương mới lên ngôi, bèn đặt câu nói lái mà đùa rằng: "yến đô là đố
yên" (âm Hán đọc án đô hay yến đô đều được). ý Chỉnh muốn bảo: nhà chúa có
muốn yên cũng không thể yên được.
Kịp đến lúc nghe tin ở kinh thành
các tàn quân đã họp thành cơ ngũ như cũ, lại nghe tin án đô vương đã sai người
vào đánh mình; Chỉnh bèn viết thư báo gấp vào Phú Xuân, nói là Thạc, Nhưỡng lại
lập họ Trịnh, định chiếm cứ đất nước để báo thù xưa, xin cho quân cứu viện ra
để chống nhau với chúng.
Bình được thư ấy, tức thì sai viên
tả quân đem binh ra ngay.
Cùng lúc ấy, Chỉnh lại viết thư cho
Đinh Tích Nhưỡng. Trước hết Chỉnh nhắc lại tình xưa nghĩa cũ; rồi nói rằng mình
hiện đã đoạn tuyệt với Tây Sơn, xứ Nghệ An tiếp giáp xứ Thuận Hoá, chưa biết
quân Nam sẽ ra đánh lúc nào. Tiếp theo, Chỉnh xin hãy cho ở đó để đương lấy một
mặt: sau khi bình yên rồi, nếu Nhưỡng có thể bảo toàn cho Chỉnh, thì chẳng bao
lâu, Chỉnh cũng sẽ về triều.
Nhưỡng coi thư xong, liền gọi con rể
của Chỉnh là Siêu Vũ vào dinh mà bảo rằng:
- Ông anh với chú trước đây cùng ở
trong cửa cụ Huy, cụ lớn đều coi như con đẻ. Chẳng may cụ lớn bị nạn, ông anh
đã trả thù được cho ngài; riêng chú chẳng có công trạng gì, chú thẹn với ông
anh nhiều lắm. Song ông anh ta, nói về nghĩa thời đã đủ rồi, mà nói về trung
thời hãy còn chưa trọn. Nay chú phò nhà chúa, dựng lại cơ đồ; ông anh đã ngỏ ý
muốn đóng giữ trấn Nghệ An lẽ đâu chú dám chẳng chiều ý? Nhưng ông anh chớ có
lừa ta, rồi mà bất thình lình nổi dậy kéo quân về. . . Tuy nhiên, chú cũng nói
thế thôi, chứ chú còn ở đây, thì dù ông anh có muốn về chú cũng chẳng nghe đâu.
Anh về phải thưa lại ý chú như thế nhé!
Từ đó, Nhưỡng không để ý gì đến việc
Chỉnh nữa.
Bấy giờ án đô vương đang ngày ngày
mưu sự chuyên quyền, không nghĩ gì đến các việc khác.
Có người thấy vậy, nói với Nhưỡng
rằng:
- Hiện nay giặc dữ mới đi, bờ cõi
còn chưa yên ổn, mà giặc Chỉnh ở Nghệ An thế lực càng ngày càng lớn mạnh. Nhân
trong lúc này lòng người đang phấn chấn, hãy xin chúa ngự giá thân chinh để
diệt hữu quân, đuổi Chiêu Viễn, lấy lại bờ cõi cũ của đất Nghệ An; thì như vậy
cũng chẳng kém gì cái công dựng nghiệp trung hưng của các bậc tiên vương. Khi
đã lập công mà về, quyền lớn tự nhiên sẽ vào tay. Cần gì chúa cứ phải quẩn
quanh tranh giành những chuyện cũ rích, mà bỏ quân giặc không lo nghĩ đến? Vạn
nhất Chỉnh lại đem binh ra, thì lúc ấy lấy gì mà chống chọi?
Nhưng Nhưỡng chỉ làm thinh.
Giữa khi ấy Chỉnh lại sai anh ruột
là giám sinh Nguyễn Ban lẻn ra kinh đô yết kiến hoàng thượng, để xin mệnh làm
trấn thủ Nghệ An. Hoàng thượng liền hỏi kín Ban về tình hình quân lính của
Chỉnh. Ban được thể, nói thêm lên để phô trương thanh thế cho Chỉnh. Hoàng
thượng mừng lắm, bèn nói rằng:
Việc ấy, trước mặt trẫm hữu quân đã
từng tâu xin, mà trẫm cũng đã hứa cho rồi. Nay lại xin nữa thì sẽ làm cho tờ
sắc ban xuống. Vậy ngươi hãy ở đó mà đợi mệnh!
Các quan tả hữu thấy thế, khuyên nhà
vua rằng:
- Hữu quân ở xa mà chúa thì gần.
Chưa biết sau này hai bên thua được ra sao? Nếu như mệnh này ban ra, mà việc
của hữu quân không thành, thì chúa sẽ có cớ mà nói.
Hoàng thượng nghe theo, bèn thôi
không dám hạ mệnh cho Chỉnh.
Ban lật đật ra về, nói dối là đã có
sắc của vua cho Chỉnh làm trấn thủ Nghệ An, được mở dinh quân Trung-hùng, thăng
tước Bằng lĩnh hầu, đồng thời khiến Chỉnh phải đem quân về bảo vệ kinh sư.
Chỉnh cũng vờ làm lễ bái mệnh, rồi
truyền hịch đi kêu gọi các hào mục và thu thập các quân lính tản mát trong
vùng.
Do đó, các tay hào mục đều bảo nhau:
- Hắn dẫu đáng ghét thật, nhưng nay
đã chịu mệnh vua, nếu chống lại hắn tức là chống mệnh triều đình, hắn sẽ vin
vào cớ đó mà nói, thì mình khó tránh khỏi tội.
Rồi họ bỏ Đương trung hầu mà theo
Chỉnh chỉ trong khoảng mươi ngày, Chỉnh đã thu nhặt được hàng vạn quân. Chỉnh
bèn cho người bà con là Nguyễn Kim Khuê làm chức thị sư, đặt ra những hiệu quân
Tứ đột, Tứ thành, lấy danh nghĩa là vâng sắc tôn phò nhà vua mà hẹn ngày xuất
quân. Quân của Chỉnh tuy mới mộ, song đội ngũ chỉnh tề, hiệu lệnh nghiêm túc.
Bấy giờ ở kinh sư hoàng thượng đang
tức vì bị bọn Nhưỡng ăn hiếp, nên ngày đêm chỉ mong Chỉnh kéo quân ra. Hoàng
thượng bèn ngầm ban xuống một tờ chiếu giục Chỉnh tức khắc lên đường.
Chỉnh nhận được mệnh, vội hội họp
đông đủ quân sĩ, rồi tuyên cáo với mọi người rằng:
- Bọn Đinh Tích Nhưỡng và Dương
Trọng Tế cầm quân ở kinh sư, ngầm mưu làm việc phản nghịch. Ta nay vâng mật chỉ
đem quân về triều, để quét cho sạch lũ giặc bên cạnh nhà vua. Vậy các ngươi
phải nên chung lòng gắng sức để cùng giúp nhà vua trong lúc khó khăn.
Khi quân Chỉnh qua bến Hoàng Mai ở
huyện Quỳnh Lưu, thì gặp tham lĩnh Mãn trung hầu và đốc thị Phan Huy ích, hai
người vâng mệnh chúa án đô vào mộ lính Thanh Hoa đánh Chỉnh. Chỉnh lập tức sai
đội thiết kỵ bất thình lình đón đánh. Hai bên giao chiến ở địa phận Ngọc Sơn
(một huyện giáp liền với Quỳnh Lưu. Nay là huyện Tĩnh Gia, Thanh Hoá). Kết quả,
Mãn trung hầu bị thua, chết tại trận, còn Phan Huy ích thì bị bắt sống.
Chỉnh mắng ích về những tội vào bè
với Nhưỡng làm phản nhà vua, rồi hỏi:
- Nghe nói nhà ngươi làm cái trống
lớn lắm, chọc thủng mặt trống có thể chứa được người phải không?
ích run sợ mà xin lỗi.
Nguyễn Kim Khuê vì chỗ quen biết nên
hết sức cứu gỡ cho ích. Chỉnh cười khẩy mà rằng:
- Hừ! Cái bộ thầy đồ nói khoác, giết
cũng vô ích.
Đoạn Chỉnh tha cho ích và bắt phải
đi theo mình.
Sau khi Chỉnh thắng được trận ấy,
thanh thế càng lừng lẫy. Tin báo đến tai án đô vương, vương liền cho đòi Nhưỡng
vào phủ để bàn cách chống cự.
Lúc này, hoàng thượng đã hạ mật chỉ
sai các hào kiệt vùng Hải Dương đánh phá đất Hàm Giang để diệt trừ họ Đinh.
Nhưỡng bất đắc dĩ phải cố xin được lĩnh chức trấn thủ hai trấn Hải Dương và Yên
Quảng. Rồi Nhưỡng tự đem bộ hạ kéo về miền đông.
Dân chúng các hạt Thượng Hồng, Hạ
Hồng, Kinh Môn, Nam Sách vốn ghét Nhưỡng là kẻ tàn bạo, nên khi được mật chỉ
của nhà vua, họ rất mừng. Lập tức họ họp nhau thành từng đoàn, đưa hịch kể tội
ác của Nhưỡng, rồi bốn mặt ào ào kéo đến, vây kín thành trấn.
Nhưỡng liệu sức mình không ngăn nổi,
bèn lừa lúc ban đêm, phá vỡ vòng vây, chạy về giữ Hàm Giang.
Khi ấy, ở kinh kỳ người ta đồn rằng
Nhưỡng đã bị dân xứ đông giết chết, chỉ trong sớm tối hữu quân Nguyễn Hữu Chỉnh
sẽ đến nơi, kinh sư ắt thành bãi chiến trường. Trong một ngày, người ta nhốn
nháo bỏ chạy đến ba bốn lần. Lòng người nơm nớp lo sợ. Dân chúng trong thành
khuân chuyển đồ đạc, dắt già bế trẻ, tranh nhau chạy trốn về các vùng thôn quê;
quan quân ngăn cấm cũng không được.
Quận Thạc biết sự thế không thể làm
gì được nữa, liền bàn riêng với bộ hạ rằng:
- Vua chúa thù ghét nhau, việc nước
không có chủ. Quận Liễn đã đi mất rồi mà giặc Chỉnh lại sắp đến, ta đóng mãi ở
đây, thật là thất sách. Chi bằng rút về Sơn Tây, chiếm cứ miền thượng du, giữ
vững thế căn bản, bảo tồn lấy lực lượng, ung dung xem việc thiên hạ, chờ cơ hội
mà nổi dậy, sau này ắt phải ký công. Các ngươi đều ở dưới cờ của ta, roi cung
giong ruổi, phải nên gắng sức. Trong lúc trẩy quân, cần phải đánh dẹp trộm
cướp, làm cho dân chúng ăn ở yên ổn, chứ đừng có bắt chước quận Liễn, đi đâu
làm việc tàn bạo ở đó, khiến cho dân chúng xứ đông đều phản lại mình.
Bọn thủ hạ đều nói:
Chúng tôi đâu dám chẳng nghe theo
tướng lệnh?
Quận Thạc liền thu quân trở về xứ
Đoài (tức Sơn Tây).
Thế là quận Liễn đi, quận Thạc lại
đi nốt, kinh sư khi ấy thành ra một nơi trống rỗng. Hoàng thượng truyền cho các
hoàng thân đốc thúc những lính đã mộ được đêm ngày tuần phòng, canh giữ cung
điện. Còn ở bên phủ chúa thì chỉ có viên quyền phủ sự Bùi Nhuận, viên hành tham
tụng Mai Thế Uông và viên bồi tụng Dương Trọng Tế, hàng ngày ngồi trong phủ
đường thảo giấy bắt lính, thu lương. Nhưng các phủ huyện không một ai chịu làm
theo. Người của phủ chúa sai đi, qua các thôn ấp đều bị dân quê đánh đập, lột
quần áo, chỉ còn cái mình trần chạy về.
Chúa án đô thấy vậy rất lo, nói với
Trọng Tế:
- Việc lớn hỏng mất rồi! Nếu không
phải người có tài như Thiếu Khang, Thần My (Thiếu Khang là chắt vua Hạ Vũ; Thần
My là bề tôi của Thiếu Khang. Lúc nhà Hạ bị bọn Hậu Nghệ, Hàn Sác cướp mất
nước, Thiếu Khang và Thần My đã khôi phục được) thì không thể cứu vãn được tình
thế. Ta không tự lượng sức mình, trót đã làm chúa. Nhà ngươi quá đỗi trung thành,
trót đã giúp ta. Nay giặc Chỉnh sắp kéo ra, thế lực cực kỳ mạnh mẽ.
Tục ngữ có nói: "ở vào thế cưỡi
hổ không thể xuống được". Muốn cho xong việc này, phi nhà ngươi không còn
ai.
Rồi chúa bèn sai Tế làm chức trấn
thủ Thanh Hoa, đem quân chống nhau với Chỉnh. Tế bất đắc dĩ phải xin vâng mệnh.
Nhưng khi nghe người ta nói đến tên Chỉnh thì Tế đã mất cả hồn vía. Kéo quân ra
đến ô Cầu Dền, Tế còn trùng trình đóng ở đó hai ngày, chưa chịu lên đường. Sau
chúa phải cho người đến giục, Tế mới chịu đi. Quân Tế vừa mới đến làng Bình
Vọng (tức làng Bằng, Thường Tín, Hà Đông (Hà Sơn Bình)), thì có tin báo Chỉnh
đã vượt sông Thanh Quyết, Tế giật mình mà rằng:
Trừ phi có Phù Đổng thiên vương sống
lại, còn ai có thể địch nổi với hắn? Quận Liễn, quận Thạc thật là biết thời cơ.
Tiếc thay ta là kẻ đọc sách biết chữ mà lại không bằng mưu trí của bọn võ biền!
Bây giờ nghĩ lại thì đã muộn mất rồi!
Liền đó, Tế thu quân qua bến Thanh
Trì, không kịp vào gặp án đô vương nữa. Chạy một mạch thẳng sang vùng Kinh Bắc,
rồi Tế mới sai người về dâng tờ khải, xin án đô vương cho lĩnh chức trấn thủ
Kinh Bắc, để chiêu mộ hào mục ở đó mà mưu đồ cuộc nổi dậy khác.
Chúa án đô thấy tờ khải của Tế, sợ
hãi luống cuống như mất cả hai cánh tay, lập tức cho gọi Bùi Nhuận. Nhưng Bùi
Nhuận đã đem cả gia quyến trốn đi từ ban đêm rồi. Chúa lại cho đòi Sỹ Uông.
Uông cũng thác bệnh xin về nhà riêng. Chúa khóc mếu nói:
- Ta chẳng may đẻ ra ở nhà chúa, lại
bị một lũ tiểu nhân làm cho lầm lỡ. Nếu sớm biết thế này, thà cứ ở Chương Đức
làm ông sư già, chống cây thiền trượng (gậy của nhà sư) ở dưới cửa chiền mà lại
hoá hay!
Rồi chúa ngoảnh lại hỏi bọn tả hữu:
- Bây giờ nên đi đâu?
Có người trong họ quê ở huyện Quế
Dương tâu rằng:
- Xin chúa cứ trấn tĩnh, hãy vào nhà
Thái-miếu làm lễ cáo biến, thu xếp thân chủ của tiền vương, để tôi ra sông tìm
thuyền, chờ đến đêm khuya, tôi xin phò chúa qua sông sang bắc, đi về làng tôi.
Nhà tôi đã trải mấy đời làm tướng cầm quân, hào mục vùng Từ Sơn đều ở trong cửa
mà ra, nếu tôi lấy điều trung nghĩa mà kêu gọi, chắc hẳn không ai là không
theo. Đinh Tích Nhưỡng ở Cẩm Giàng làm cánh tay trái; Dương Trọng Tế ở Gia Lâm
làm cánh tay phải; Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Tây làm ngoại ứng; còn chúa cứ việc
đóng tại huyện Quế Dương mà hiệu triệu quân cần vương, đồng thời dựa vào thế hiểm
của sông Nhị Hà để cố thủ. Chỉnh tuy hung tợn, há dám sang sông đánh nhau cùng
ta? Xin chúa đừng lo!
Chúa mừng rỡ mà rằng:
- Có lẽ trời chưa nỡ làm mất họ
Trịnh, nên mới đem ngươi mà ban cho ta. Nếu quả như lời ngươi nói, thật là phúc
lớn cho xã tắc vậy!
Đồng hồ (đây là đồng hồ ngày xưa:
người ta dùng một cái bình đựng nước có khắc từng độ, và có lỗ cho nước nhỏ
giọt dần dần, rồi cứ xem mực nước mà biết giờ giấc) nhỏ giọt xuống đến trống
canh ba. án đô vương bèn lẻn sang bắc, quan quân theo hầu chỉ chừng vài chục
người. Tàn binh Thanh-Nghệ ở trong bốn đội quân thị vệ không một tên nào đi
theo.
Sớm hôm sau, hoàng thượng mới biết
là án đô vương đã trốn đi lúc ban đêm tức thì ngầm sai người phóng hoả đốt hết
phủ chúa. Khi phủ cháy, khói lửa bốc lên ngút trời, hơn mười ngày chưa tắt.
Thế là hai trăm năm lâu đài cung
khuyết huy hoàng bỗng chốc đã thành ra bãi đất cháy đen! Xa gần nghe thấy tin
đó, ai cũng thương chúa và trách vua làm quá đáng. Hôm ấy nhằm ngày mồng 8
tháng chạp năm Bính-ngọ (1786).
Lại nói, khi qua khỏi sông Thanh
Quyết, Chỉnh trước hết cho ngay bộ hạ là Lê Giốc đem biểu tới dâng nhà vua.
Trong biểu đại ý nói rằng:
"Thần vâng chỉ kéo quân vào bảo vệ kinh sư, đã kính cẩn xuất quân từ tháng
trước. Khi tới huyện Ngọc Sơn, Lê Trung Nghĩa (tức Mãn trung hầu) và Phan Huy
ích dám ra chống cự, thần vẫy toán thiết kỵ tiến đánh, chém chết Trung Nghĩa,
bắt sống Huy ích. Nhờ về oai trời, lòng hăng hái của quân sĩ tăng lên gấp trăm
lần. Từ Thanh Hoá trở ra Bắc, thần đi tới đâu dân chúng vui mừng đón rước tới
đó. Đến chỗ nào thần cùng đều kính cẩn tuyên bố oai đức của nhà vua, khiến cho
đâu đấy đều yên nghiệp làm ăn. Thần nay thân mang giáp trụ, hồn mơ tưởng quân
thiều (khúc nhạc của vua Thuấn. ở đây mượn để chỉ vào nhà vua), tấc lòng khôn
xiết nhớ mong cửa khuyết.
Hoàng thượng xem xong tờ biểu, mừng
lắm, liền hỏi thăm về tình trạng khi ở trấn Nghệ An, Giốc cứ thực mà tâu. Hoàng
thượng khen Chỉnh đã khéo quyền biến; rồi phong cho Giốc làm chức nội hàn viện
cung phụng sứ thiêm thư khu mật viện sự, trông coi cơ Tả oai.
Khi Chỉnh tới làng Thịnh Liệt, hoàng
thượng sai các quan triều ra ngoài cửa ô đón tiếp. Lúc Chỉnh vào triều hoàng
thượng cho ra mắt ở điện Trung Hoà và ân cần an uỷ. Chỉnh tâu rằng:
- Gần đây, kiêu binh làm loạn, đại
thần (chỉ quận Huy) gặp nạn, thần bấy giờ đang cầm quân ở ngoài, vì chúa Trịnh
không dong, nên phải bỏ nước trốn đi. Thần đã nghĩ kỹ, nguồn gốc của sự rối
loạn ấy, là do cương thường sai trái, mũ dép đảo lộn mà ra. Khoảng năm Canh
thân (1740), Tân-dậu (1741), những kẻ trung nghĩa trong nước đều căm tức về
chuyện ấy, người thì phò hoàng thân mà nổi dậy, người thì giữ quận ấp mà mộ
binh. Công việc của họ tuy không thành, nhưng cái tiếng nghĩa khí cũng đã lan
rộng. Coi đó đủ biết, người ta ai cũng chung một bụng ấy, không phải thần vì
mưu riêng của thân mình mà gây ra hiềm khích. Vả chăng thần lấy điều nghĩa mà
cảm động lòng người, là cốt để chỉnh đốn lại cơ đồ nhà vua, làm sáng tỏ đạo
quân thần cho hợp với lẽ trời đất. Chớ còn đối với chúa Trịnh, thần có thù oán
gì đâu? Nay nếu lòng trời đã hối việc gieo hoạ, mọi người đều biết sửa lỗi lầm;
đó há chẳng phải là phúc lớn của nước nhà sao? Tiên đế thương tấm lòng ấy của
thần, đã dùng những lời lẽ ôn tồn để dụ thần, thần thật cảm kích khôn xiết. Vậy
mà người trong nước, những kẻ không hiểu thần, lại cho thần là có tội. Họ muốn
mưu đồ bước theo vết xe đã đổ, rắp tâm giết chết thần để quấy rối chính sự buổi
đầu của bệ hạ. Cúi xin bệ hạ xét kỹ lo xa, không có điều gì là không soi đến.
Thần chẳng dám đổ vạ cho người để che lỗi của mình. Người xưa đã nói:
"Biết tôi là vua". Mong ở lượng trên soi xét.
Hoàng thượng nói:
- Trẫm đã biết rồi! Ngày nay giúp
trẫm dẹp yên loạn lạc, làm cho nước được thái bình, chỉ nhờ nhà người mà thôi!
Rồi đó, hoàng thượng thăng cho Chỉnh
làm chức bình chương quân quốc trọng sự, tước Bằng trung công. Một người thân
cận với Chỉnh là Nguyễn Kim Khuê và con trai Chỉnh là Nguyễn Hữu Du đều được
phong tước hầu, được cầm quân và cùng thuộc vào trong tướng phủ. Ngoài ra, bao
nhiêu bộ hạ, tướng sĩ của Chỉnh, cũng đều được theo thứ bậc mà thăng chức tất
cả.
Khi Chỉnh mới chạy về Nghệ An, trong
triều có viên quan văn là Nguyễn Đình Giản, thường vẫn nói mãi về tội Chỉnh dắt
quân nước ngoài về phá nước nhà; lại xin gánh vác việc đánh Chỉnh để giết tên
giặc của nước, và thề không cùng sống với Chỉnh. Bấy giờ triều đình cũng cho là
người hăng hái, nhưng không dám chuẩn y lời xin của Giản.
Viên quan Nguyễn Đình Giản ấy, người
làng Vĩnh Trị, huyện Hoằng Hoá, đỗ tiến sĩ khoa Kỷ-sửu (1769), là người chất
phác, cương trực, hay công kích lỗi lầm của người khác. Kẻ có lỗi dẫu là bậc
quyền quý, là bạn bè gần gũi hay là bà con thân thuộc, Giản cũng đều vạch lỗi
ngay trước mặt, không hề kiêng nể. Bởi vậy mọi người đều khen Giản là thẳng
thắn.
Đến lúc Chỉnh vào kinh, thì Giản
đang vâng mệnh đi chiêu dụ ở trấn Sơn Tây chưa về. Các quan bàn riêng với nhau:
Giản chắc không về, mà có về chắc cũng không chịu khuất phục, nhất định Giản sẽ
lập mưu với Hoàng Phùng Cơ để diệt Chỉnh. Nếu Giản về triều, chắc Chỉnh sẽ
không dung, thế nào Chỉnh cũng ngầm kiếm cớ để giết Giản. Hai sự việc ấy không
biết rồi sẽ ra sao?
Kim Khuê nghe được những lời bàn ấy,
bèn hỏi Chỉnh:
- Ông cho Nguyễn Đình Giản là hạng
người như thế nào?
Chỉnh đáp:
- Cuồng trực! (thẳng thắn đến mức
cuồng dại)
Khuê lại hỏi:
- Có thể dùng được không?
Chỉnh trả lời:
- Chẳng những dùng được mà thôi, con
người ấy còn đáng trọng nữa là khác!
Khuê lại hỏi tiếp:
- Ông không giận Giản, có phải là
thật tình chăng?
Chỉnh nói:
- Ông chẳng thấy quận Hoàn là bố vợ
hắn, vậy mà hắn còn ngồi tại giữa triều kể tội ông ta rằng quỳ gối theo giặc,
huống chi là người khác? Nếu mình có lỗi, hắn nói đúng. Còn như mình không có
lỗi mà hắn nói, thì cũng không hại gì cho mình. Con người như hắn thực không
nên giận. Mà có giận cũng không làm gì hắn tốt. Chẳng qua chỉ tổ để cho người
ta nhòm thấy chỗ nông sâu của mình thôi!
Khuê nhân đó bèn khuyên Chỉnh nên
vời Giản về dùng, để thu phục lòng người trong nước. Chỉnh nghe theo, liền sai
người đưa thư cho Giản, trong thư lời lẽ hết sức ôn tồn, mềm mỏng.
Giản trở về, vừa gặp lúc triều đình
đang bàn việc sắp đặt quan chức. Phan Lê Phiên được cử làm bình chương sự;
Trương Đăng Quỹ, Trần Công Xán làm đồng bình chương sự; Nguyễn Huy Trạc, Phạm
Đình Dư làm tham tri chính sự; Nguyễn Đình Giản làm phó đô ngự sử.
Khi mọi việc đã tạm yên, Chỉnh liền
sửa sang dinh thự ở toà Lượng phủ để ở.
Năm ngày Chỉnh mới vào chầu một lần,
tan buổi chầu, lại ra ngồi ở chính sự đường để bàn bạc công việc. Còn những
ngày khác, bất kỳ việc quan, việc dân, các quan đều phải tới dinh thự riêng của
Chỉnh, để xin Chỉnh quyết định.
Từ đó, quyền Chỉnh thật ngang với
nhà vua, thế của Chỉnh có thể lật nghiêng cả nước.
Bấy giờ, tiền tệ trong nước phần
nhiều bị các nhà giàu giấu cất, nhân dân đều khốn khổ về nạn khan tiền, hàng
hoá không lưu thông, vật giá cao vọt. Chỉnh bèn xin với triều đình, ra lệnh thu
vét hết tượng đồng, chuông đồng ở các chùa, miếu, đem về kinh sư, mở lò đúc
tiền. Rồi Chỉnh thả cho thủ hạ đi về khắp nơi, cướp bóc chuông tượng của các
thôn ấp. Người nào mà dám giấu giếm, tức thì bị chúng tra khảo, trừng trị. Chỉ
riêng có pho tượng thần bằng đồng đen ở quán Trấn Vũ phía bắc kinh thành, là
chúng không dám lấy mà thôi.
Thấy Chỉnh làm như vậy, trăm họ ai
cũng ta thán. Một đêm, có người dán ở ngoài cửa Đại Hưng hai câu đối như sau:
Thiên hạ thất tự chung, chung thất
nhi đỉnh an tại?
Hoàng thượng phần vương phủ, phủ
phần tức điện diệc không! (thiên hạ mất chuông chùa, chuông mất, vạc còn đâu
nữa? Hoàng thượng thiêu phủ chúa, phủ thiêu, điện cũng trơ thôi! Chữ
"đỉnh" (vạc) ở vế trên, là tượng trưng cho cơ nghiệp của nhà vua)
Chỉnh nghe hai câu đó, lấy làm căm
ghét lắm. Vả chăng, Chỉnh cũng tự đoán biết rằng, những việc mình làm đều không
được dư luận đồng tình. Bởi vậy, Chỉnh càng mượn thế ra oai, để hòng khoá miệng
mọi người.
Hồi Chỉnh trốn theo quân Nam, có
viên quan võ là Hoàng Đình Xước vâng chỉ đốc lính coi giữ kinh thành. Khi đó,
Xước gặp người nhà Chỉnh đeo gươm chạy ở trên đường, liền bắt lại hỏi. Người ấy
xin nộp thanh gươm, Xước thu lấy rồi thả cho đi. Đến khi Chỉnh tới kinh sư,
Xước đang đóng quân ở trấn Kinh Bắc, liền về ra mắt Chỉnh để trả lại thanh
gươm. Chỉnh lập tức sai bắt Xước bỏ ngục. Nghe nói nhà Xước có nhiều đồ quý lạ,
Chỉnh bèn đòi lấy kỳ hết, rồi mới tha.
Những việc làm của Chỉnh đại loại
đều như thế thực là tàn bạo và không còn kiêng sợ gì cả.
Muốn thêm oai thế, Chỉnh lại tự đặt
tên quân đội của mình là đạo Vũ Thành. Trong đạo chia ra năm doanh; nội quân
gồm có hai vệ gọi là Thiết kỵ, Thiết đột; mỗi vệ chia làm năm đội; khí giới,
màu sắc quần áo đều trang bị theo hình thức của triều nhà Thanh, để cho phân
biệt với các toán quân khác. Tại Lượng-phủ, nơi ở của Chỉnh, nhà cửa, lâu đài,
kiệu xe, quần áo hết thảy đều chế theo kiểu mới, có ý muốn sánh ngang với nhà
vua. Trong thì nắm giữ quân cơ, ngoài thì chiếm quyền trấn thủ các trấn, phàm
những chỗ cơ mật, trọng yếu, đều do vây cánh của Chỉnh chia nhau lĩnh chức. Tất
cả mọi việc, Chỉnh đều chuyên quyền, làm trước rồi sau mới tâu vua. Thậm chí có
việc đã bàn định tại triều mà vua cũng không được biết.
Uy quyền của Chỉnh ngày càng to lớn
như vậy, nên hình tích của hắn cũng lộ ra hết. Người ta bàn tán sôi nổi, ai
cũng bảo rằng Chỉnh sẽ làm chúa, và rồi đây Chỉnh hiếp chế nhà vua sẽ còn tệ
hơn chúa Trịnh ngày xưa.
Hoàng thượng thấy thế cũng hơi ngờ
Chỉnh. Một hôm, hoàng thượng đuổi hết tả hữu, rồi nói kín với hai viên nội hàn
là Ngô Vi Quý và Lê Xuân Hợp rằng:
- Chỉnh tuy có công bảo vệ, nhưng
dần dà đã thấy hắn có vẻ muốn lấn bức. Giá có thể chặn ngay lúc đầu, khiến hắn
không thể càn rỡ được nữa, thì mới đúng với thuật nuôi chim ưng (đời Tam quốc,
Trần Đăng nói với Lã Bố rằng: "Tào công nói nuôi Lã Bố như nuôi chim ưng,
cáo thỏ chưa hết thì không dám cho ăn no, nếu ăn no ưng sẽ bay đi mấtv. v. .
.". ở đây dùng ý ấy). Nếu để khi thế lực của hắn đã thành, thì hắn sẽ khó
trị, e cũng giống như nuôi cọp để lo về sau. Vậy các ngươi hãy nên tính hộ
trẫm!
Bọn Quý, Hợp tâu:
- Như lũ thần đã xem xét, thì Chỉnh
là hạng người ý nghĩ cực kỳ hiểm độc, bụng dạ quá ư tàn nhẫn, mưu mô hết sức
sâu sắc, giả trá rất đỗi khôn ngoan, mà ứng biến thì mau lẹ tuyệt vời. Con
người ấy thực là một kẻ gian hùng ở đời loạn, chưa chắc là một kẻ bầy tôi hiền
tài ở đời trị. Cũng ví như loài chồn sói, không phải là vật có thể dạy dỗ;
giống yêu ma, không phải là vật có thể kiềm chế. Chỉ còn có một cách là giết đi
mà thôi. Nhưng giết hắn cũng phải có mẹo. Bệ hạ hãy nên coi hắn như người tâm
phúc, đãi hắn với vẻ lễ mạo, cho hắn ra vào nơi cung cấm, không tỏ vẻ gì nghi
kỵ này khác. Rồi đó, thỉnh thoảng lại mời hắn vào điện bàn việc, luôn thể đặt
tiệc cho hắn uống rượu thật say. Vài lần như thế để hắn quen đi mà coi là
thường, bấy giờ mới dùng thuốc độc mà giết. Như vậy, việc làm mới khỏi lộ, biến
loạn cũng không thể do đâu mà xảy ra được. Theo ý ngu của lũ thần, chỉ có mẹo
ấy là hay hơn cả!
Hoàng thượng nói:
- Chuyện này ra ở miệng các ngươi,
vào trong tai trẫm, đừng để cho người nào biết. Kinh Dịch có câu rằng:
"Làm vua không kín chuyện thời mất bề tôi, làm bề tôi không kín chuyện
thời mất thân mình". Các ngươi phải lấy đó làm răn. Bao giờ gặp cơ hội có
thể làm được, trẫm sẽ bảo với các ngươi.
Thực là:
Âu quen trên biển chừng không lạ
Thỏ mắc trong vòng hẳn khó ra.
Chưa biết việc này như thế nào? Hãy
xem hồi sau phân giải.
Theo sách Liệt sử: xưa trên biển có
người chơi với chim âu đã quen thuộc. Một hôm anh ta theo ý người cha định bắt
chim âu về cho cha chơi, chim âu bèn không chịu đậu xuống nữa. Câu này ý nói
việc vua Lê định lừa Nguyễn Hữu Chỉnh uống rượu cho quen để đánh thuốc độc cũng
giống như thế.
__
Kinh Thi có bài thơ "Thỏ
ta" ý nói đời Văn vương đến những người làm nghề bẫy thỏ cũng có thể dùng
làm quan. "Thỏ ta" là cái bẫy đánh thỏ. ở đây tác giả chỉ mượn hai
chữ ấy để nói một khi Nguyễn Hữu Chỉnh đã mắc vào cạm bẫy thì khó mà trốn khỏi.
Chương 8 :
Dương Trọng Tế bị dâng tù trước nhà Thái học, Hoàng Phùng Cơ phải tự tử ở ngoài
Tây thành.
Lại nói, sau khi vua đã lập mưu giết Chỉnh,
một hôm viên nội hàn là Vũ Trinh có việc riêng vào yết kiến, vua bèn đem việc
ấy bảo kín với Trinh, Trinh giật mình, nói:
- Người nào bày cho bệ hạ cái mưu ấy,
thần trộm lấy làm nguy hiểm. Hiện nay ở ngoài có giặc mạnh, tin tức ngoài biên
ải đang báo về khẩn cấp, ở trong triều đình thì mọi người còn nghi ngờ nhau. Bệ
hạ đã dựa vào Chỉnh làm nanh vuốt, thì nên đối đãi bằng cách thành thực, để cho
y được vui lòng thần phục. Hễ mà biết cách giá ngự, thì kẻ loạn thần có thể
thành kẻ lương thần. Sao lại đón trước sự dối trá của người ta để đoán chừng
một việc chưa chắc đã có? Hình tích chưa lộ mà nghi kỵ đã sinh. Họ hàng bè đảng
của Chỉnh đều cầm nhiều quân và ở nơi trọng yếu, la liệt trong ngoài, một khi
xảy ra biến cố, bọn ở kinh thành sẽ làm việc có hại cho xã tắc, bọn ở các ngoại
trấn sẽ chạy theo quân giặc. ấy là mình tự cắt vây cánh của mình để giúp cho kẻ
thù vậy.
Vua liền đổi sắc mặt mà rằng:
- Nếu nhà ngươi không nói, thì có lẽ
trẫm bị lầm rồi.
Tức thì vua đòi Vi Quý, Xuân Hợp vào
quở trách và bảo mau mau thôi ngay việc ấy đi.
Về sau Chỉnh biết chuyện ấy, rất oán
vua bạc bẽo và muốn hại ngầm những người bày ra mưu đó.
Chỉnh bảo với viên tướng bộ hạ là Nguyễn
Như Thái rằng:
- Ta đi khắp bốn biển, không kẻ nào
dám ngó thẳng vào mặt ta. Mấy thằng học trò chưa thông hiểu việc đời ấy là cái
thá gì mà dám cả gan như vậy? Chờ khi nào ta xuất quân đánh giặc, sẽ đem chúng
để thử gươm xem có sắc không, rồi tống cổ chúng xuống âm ty cho chúng gây
chuyện với Diêm Vương.
Thái hỏi người nào, Chỉnh trả lời:
- Chính là Ngô Vi Quý và Lê Xuân
Hợp, bọn bề tôi thân cận của nhà vua đấy!
Từ đó, Chỉnh cứ ở luôn trong dinh
thự riêng, không vào triều yết. Mọi việc quân, việc nước, đều sai người vào
tâu. Vua có ý kiến nên chăng thì lại sai các đại thần như bọn Phan Lê Phiên,
Trần công Xán, Vũ Trinh đến dinh của Chỉnh để biện bạch cho rõ.
Một hôm, trời rất rét, bọn Phiên ở
trong triều, cử Trinh tới nhà Chỉnh.
Trinh người làng Xuân Liên, huyện
Lang Tài, nổi tiếng là người có tài và nhanh nhẹn, Chỉnh cũng có ý kính mến.
Vua thường dặn Trinh nếu có dịp thuận tiện thì nên biện bạch với Chỉnh về
chuyện hiềm nghi trước đó.
Hôm ấy, Trinh đến nhà Chỉnh là để
phúc tư về việc quân, ngồi chờ trên linh các mãi không được vào. Một viên công
sai nói với Trinh.
- Thượng công đang ở nhà trong uống
rượu không phải là giờ tiếp khách, quan lớn hãy về đã.
Trinh nói to lên rằng:
- Việc quân khẩn cấp, không thể báo
chậm. Thượng công ngồi chơi, chỉ cách hai tấm cánh cửa, mà tắc tịt không thông;
trên nhà dưới nhà mà xa nhau hơn hai ngàn dặm, thế là cớ làm sao? Tôi có việc
công đến đây không phải là để gặp riêng, về cũng không được!
Chỉnh nghe tiếng, vội sai người dẫn
Trinh vào.
Sau khi nói xong. Trinh xin lui, Chỉnh nói:
- Việc ấy đã có bọn tỳ tướng của quận Thái trông nom, sẽ
phát binh phù ngay, không phải phiền đến sứ thần nhà vua phục mệnh. Ông hãy ở
đây cùng uống chén rượu đã. Rồi Chỉnh rót một chén rượu lớn đưa cho Trinh.
Trinh cố từ không nhận, Chỉnh nói:
- Quan nội hàn nghi tôi chăng?
Trinh đứng dậy tạ lỗi, xin uống, và nói:
Tôi là kẻ bất tài, được thu dùng đã là quá lắm. Việc gây
dựng cho tôi đều là nhờ ở nhà vua và quan tể tướng, dám đâu có bụng nghi ngờ
như chuyện "cung treo rơi bóng" đời xưa (theo Tân thư: xưa Nhạc Quảng
mời bạn uống rượu, cái cung treo ở trên tường soi bóng vào trong chén, người
bạn tưởng là con rắn, uống xong về nhà thành bệnh. Sau Quảng phải mời bạn đến
uống rượu một lần nữa ở chỗ ngồi trước kia và chỉ cho bạn biết rõ là bóng cái
cung, soi vào trong chén rượu bấy giờ người bạn mới khỏi bệnh. - Đây mượn ý để
chỉ sự nghi ngờ).
Chỉnh im lặng không nói gì. Tan tiệc. Trinh ra bảo với
viên thị sư của Chỉnh là Nguyễn Khuê rằng:
- Gần đây lắm kẻ bịa đặt tin nhảm, trăm điều không có một
điều thật. Bọn gian đó thêu dệt ra những việc không có căn cứ, để gây sự nghi
hoặc cho cả trong và ngoài. óc suy xét của người tầm thường có khi không khám
phá nổi. Nhưng người cao minh như ông lớn nhà ta, chắc là không để những câu
nói ấy vào tai. Tuy vậy, về phần hình tích, có lẽ ngài cũng chưa khỏi lầm lẫn;
tôi sợ rằng vì thế mà họ lại bịa ra nhiều chuyện. "Cọp ở chợ" (theo
Chiến quốc sách: Bàng Thống nói với vua nhà Nguỵ rằng: một người nói ở chợ có
cọp thì vua không tin, nhưng hai ba người nói ở chợ có cọp thì vua sẽ phải tin,
- ý nói tuy lời gièm pha không thật, nhưng nhiều người nói thì người nghe cũng
phải tin) là việc không thể có, nhưng đến ba người nói thì người nghe cũng
không rõ là có hay không. Huống chi những kẻ bịa chuyện, lại không phải chỉ có
ba người mà thôi. Vì thế, tôi muốn nói rõ sự tình ấy, để dứt mối hiềm nghi từ
lúc còn nhỏ bé, khiến cho giữa vua và tôi, tình ý thông suốt, trên dưới yên ổn
với nhau, há chẳng hơn hay sao?
Khuê trả lời:
- Vâng! Ông hãy cứ về.
Sáng mai, nhân lúc rảnh, Khuê đem lời Trinh thuật lại với
Chỉnh. Chỉnh nói:
- Lời người ta nói cố nhiên không thể tin cả, nhưng cũng
không thể hoàn toàn không tin. Ta đã xem kỹ, nhà vua là người nhẫn tâm và đa
nghi, việc ấy chắc có. Tuy vậy, dù có dù không, cũng chẳng làm gì được ta. Vả
chăng, trong lúc bốn cõi còn nhiều giặc giã, hãy gác chuyện đó lại, khoan nói
đến.
Lại nói, Dương Trọng Tế từ khi ở làng Bình Vọng rút quân
chạy sang Kinh Bắc, liền cùng cháu là Dương Vân, học trò là Nguyễn Mậu Nễ, đắp
đồn luỹ ở huyện Gia Lâm để chống giữ và lo tính việc khởi bính. Vừa lúc ấy,
chúa Trịnh chạy đến làng Quế ổ (nay thuộc huyện Quế Võ, Hà Bắc), cho người đến
gọi Tế, Tế nói:
- Vừa rồi, việc đi Thanh Hoá, trong phủ có Bùi Nhuận là
võ tướng, Mai Thế Uông là thổ quan, chúa không sai hai người ấy mà lại dùng ta
trước để thử quân giặc. Đó là chúa muốn đem ta mà cho giặc vậy. Bởi chúa đãi
người không thật cho nên mới đến thế này. Bây giờ cùng chúa mưu tính việc lớn,
đã có một lũ võ biền ở làng Quế ổ, vời ta làm gì?
Rồi Tế chối là việc quân khẩn cấp, không thể đến được. Tế
tự mộ lấy vài ngàn người tráng đinh, đắp luỹ từ làng Như Kinh đến làng Phú Thị
(Như Kinh nay thuộc Văn Giang, Hưng Yên. Phú Thị thuộc Gia Lâm, Hà Nội), dựng
lên ba đồn, chia quân đóng giữ. Tế cho Vân làm chức bình địch tướng quân, Nễ
làm chức tham tán quân vụ. Lại đưa hịch đến các quận bên cạnh, kể cái tội nhà
vua dựa vào Chỉnh mà đuổi chúa. Lời hịch đại lược như sau:
"Trong hồi nguỵ Mạc, nhà Lê đã không còn nước. Nhờ
có Thái vương họ Trịnh giúp cuộc trung hưng, công nghiệp thấu đến trời đất,
phúc khánh để cho con cháu. Hai trăm năm nay, vua Lê chỉ việc khoanh tay rủ áo,
chúa Trịnh coi hết mọi việc chính sự; thần dân trong ngoài cùng tôn phò và kính
mến, không ai có lòng nào khác. Tên Nguyễn Hữu Chỉnh vốn là một kẻ vong mạng,
thoát chết, mưu đồ làm việc càn rỡ, đem giặc ngoài vào phá phách nước nhà, giết
chủ cũ mà làm hại nhân dân, xướng ra câu "diệt Trịnh", mượn cái tiếng
"phò Lê". Vua Chiêu thống là người do quân Nam và Chỉnh lập lên. Nể
giặc lập mình, quên ân nghĩa tám đời chủ suý; đốt phủ đuổi chúa, tựa vào sức
một lũ loạn thần. Đã không xứng đáng làm vua, lấy gì tiêu biểu cho nước. Tôi là
viên đài thần (chức ngự sử) của tiên triều, nghĩa không thể nín. Nay sắp dấy
quân giết Chỉnh, tìm lấy người hiền trong họ vua cháu chúa mà lập lên để nối cơ
nghiệp vua, chúa thuở trước. Hẹn đến ngày mồng một tháng nọ sẽ kéo quân qua
sông Nhĩ Hà. Các vị hào kiệt bốn phương người nào đồng chí với tôi, đều nên
đúng hẹn họp quân, hợp sức tiến đánh, công khôi phục kíp sớm hoàn thành, nghĩa
đồng hưu cùng ghi vĩnh viễn. . . "
Các thổ hào ở vùng Từ Sơn, Thuận Thành thấy lời hịch chỉ
trích nhà vua, giọng nói ngược ngạo, họ bèn nói với nhau rằng: "Danh đã
không chính thì lời nói cũng không thuận, mà việc sẽ không thành. Chúng mình đều
là bề tôi của nhà vua, không nên theo y để chuốc lấy vạ". Bởi vậy, chẳng
một người nào hưởng ứng với Tế; mà những người đã nhóm họp với Tế rồi cũng rút
về dần dần, thành ra người giúp Tế càng ngày càng ít đi. Vả chăng bọn Tế, Vân
sẵn có tính tàn bạo, hay cướp bóc của nhân dân, Nễ lại là tên ty bỉ dung tục,
không hiểu biết gì, nên ai cũng chán ghét.
Lúc bấy giờ có người giám sinh ở huyện Văn Giang, bắt
được tờ hịch của Tế, chạy lên báo với vua. Vua xem hịch giận lắm, vội vàng cho
gọi Chỉnh mà bảo rằng:
- Trọng Tế xuất thân ở hàng tiến sĩ, sao lại được khinh
vua. Trước đây y đã gọi trẫm là vua "lông đỏ" (ý nói Chiêu Thống theo
Tây Sơn) và xé tờ chỉ dụ của trẫm trước mặt sứ giả. Nay y lại viết ra tờ hịch,
không kiêng sợ gì cả. Thằng giặc ấy mà không giết thì lấy gì để răn kẻ khác.
Vậy phải cho quân đi đánh ngay.
Chỉnh lạy hai lạy, vâng mệnh lui ra, rồi sai Nguyễn Như
Thái và Hoàng Viết Tuyển đem quân đi đánh Tế.
Lúc sắp đi, Chỉnh dặn họ rằng:
- Trọng Tế chiếm giữ vụng trộm mấy thôn ấp ở quê mình,
chẳng khác con cáo nương nơi gò cũ. Thứ quân nhà quê của y cũng như bầy dê chăn
ở ngoài đồng, cầm roi mà đuổi là chạy, có cần gì phải đánh! Các ông cứ gióng
trống mở cờ, đến thẳng dưới luỹ. Chắc hắn chỉ có hai cách: không hàng thì chạy.
Hắn hàng thì điệu ngay về, không được cướp bóc làng xóm. Hắn chạy thì không cần
đuổi tới cùng, sợ sinh ra việc rắc rối khác. Ta nghe nói người vùng Kinh Bắc
oán hắn đến tận xương, hắn chạy đến đâu chắc không có ai chứa chấp, sớm muộn
thế nào họ cũng bắt hắn đến cửa quân cho hắn nộp đầu mà thôi.
Thái, Tuyển vâng mệnh dẫn quân qua sông.
Tế nghe tin báo, liền gọi bọn Vân và Nễ bàn việc chống
cự. Vân nói:
- Giả sử Chỉnh tự đến đây, cũng không phải là kẻ đối thủ
của cháu, huống chi mấy thằng thiên tỳ (những quan võ giúp việc cho chủ tướng)
kia thì làm được trò trống gì? Cứ cho chúng nó đến để chịu chết. Chém đầu hai
đứa ấy trước, rồi kéo tràn qua sông, bắt Chỉnh và dựng nước đều ở cả một chuyến
này. Quan chú không phải lo lắng làm gì!
Tế mừng lắm, cho là phải, rồi cười nói:
- Cửa chùa đã có thiên thần hộ pháp, khắp ba ngàn thế
giới, mười lăm loài quỷ, tự nhiên đều phải lui bước nghe theo. Đức Phật Thế tôn
chỉ việc chắp tay ngồi trên toà sen nhận lễ dâng cúng mà thôi.
Mậu Nễ cũng nói:
- Tôi xin sắp sẵn trâu rượu, chờ khi tới kinh mở tiệc
uống cho thật say. Lần này quan thầy sẽ là đức Phật sống của nước Nam Việt,
trăm nghìn Phật La-hán chắc đều phải hiện chân thân để nghe ta chỉ vẽ.
Chú cháu, thầy trò tâng bốc, khoe khoang lẫn nhau, không
còn để ý gì đến việc binh nữa. Chợt có tin báo quân của Thái, Tuyển đã đến. Tế
bèn lấy thanh gươm trao cho Vân và nói:
- Kinh thư nói rằng: "Nãi ngôn để khả tích"
(nghĩa là: Lời ngươi đưa đến thành công). Phải nhớ lấy nhé!
Vân lạy hai lạy, nhận gươm lui ra, rồi dẫn quân lên mặt
luỹ, phấp phỏng dòm ngó. Thấy thế quân của Thái, Tuyển rất mạnh, Vân bắt đầu tỏ
vẻ lo sợ. Vả chăng, quân của Vân mới mộ, đều là hạng người ô hợp chưa qua trận
mạc bao giờ, tai mắt chưa quen thuộc với chiêng trống cờ xí, họ tưởng đó cũng
như những đám rước thần, cúng Phật ở thôn quê mà thôi.
Vân tựa vào luỹ mà dàn trận. Thái, Tuyển chia quân làm
hai đường cùng đánh ập lại. Súng và hoả hổ cùng nổ ran một lúc, xa gần rung
động, khói lửa ngút trời. Quân của Vân kinh hãi, tan vỡ, không sao ngăn được.
Vân hoảng hốt, cuống quít, không biết làm thế nào, bèn cởi bỏ áo trận, rồi chạy
trốn.
Trọng Tế ở trong đồn Lạc Đạo (tên xã, thuộc Gia Lâm, Hà
Nội) cho người đến dò, thì Vân đã bỏ đi đâu mất, chỉ thấy hai đạo quân của
Thái, Tuyển đang trèo lên luỹ, chém giết tứ tung.
Người do thám sợ hãi chạy về báo tin, Tế nghe nói, vội
vàng đứng dậy, ruột gan rối bời, chưa biết tính liệu ra sao? Lại thấy quân lính
tan tác, mỗi người chạy mỗi ngả, Tế trông trước, nhìn sau, chẳng biết làm thế
nào, bèn ngửa mặt lên trời, mà kêu rằng:
"Trời ơi, chỉ tại trời không phù hộ nhà chúa cho nên
mới đến thế này đây!".
Rồi Tế dẫn vài tên tay chân vượt luỹ chạy trốn. Chập tối,
Tế chạy đến làng Ngọc Xá (sau đổi là Yên Xá, thuộc huyện Cẩm Giàng, Hải Dương
(Hải Hưng)) thì Vân theo kịp. Đêm ấy chú cháu bàn với nhau vào ngủ nhờ ở nhà
một người dân trong làng. Vân nói với Tế:
- Xin chú trước hết hãy vào Quế ổ ra mắt chúa, chúa vốn
tin và trọng chú, thấy chú chắc là mừng. Hơn nữa, ở đó đều là những người võ
biền, được chú là văn thần bày mưu lập kế, chỉ huy mọi việc cho, thế nào chúa
cũng nghe theo. Nhân cơ hội ấy, mình sẽ thu thập tàn quân để tính việc về sau.
Chẳng qua chỉ trong mươi ngày, thanh thế nổi lên là lại có thể làm nên việc.
Tế nói:
- Không được! Trước đây chúa cho gọi ta, ta chối không
đến. Bây giờ thua trận mà đến, thì lấy cớ gì mà nói! Vả chăng như thế thì còn
mặt mũi nào? Mà rồi những người ở Quế ổ còn coi ta ra gì? Trước đây ta đã cộng
sự với quận Nhưỡng, rất là tương đắc. Nay nghe ông ta chiếm giữ vùng Hàm Giang,
và hiệu triệu nhân dân vùng Hải An, thủ hạ có tới vài vạn, thuyền bè đầy sông.
Ông ta là tay tướng giỏi, ta nên đến ngay Hàm Giang, mưu tính với ông ta, rồi
xin chúa dời xa giá về đó, bọn người ở Quế ổ không thể không theo chúa tới họp.
Nhân đó ta bảo họ nổi lên ở xứ bắc, cháu đem một cánh quân đi cùng họ; quận
Nhưỡng thì nổi lên ở xứ đông; ta thì phò chúa đốc chiến. Các đạo hẹn nhau cùng
cất quân trong một ngày, việc lớn chắc có thể thành. Không như trước đây, chỉ
một toán quân chơ vơ, đến nỗi bị giặc uy hiếp.
Vân nói:
- Phải lắm! Nhưng từ Ngọc Xá đến Hàm Giang, đường sá xa
xôi, mà mình chỉ có năm sáu người lủi thủi đi đường, bộ dạng tiều tuỵ, trông
chẳng ra sao. Vả lại, vạn nhất xảy ra biến cố gì, giữa đường tay không, lấy chi
mà chống đỡ. Vậy cháu xin mộ lấy dăm sáu chục tên lính, khí giới sắc bén, mở cờ
gióng trống mà đi; sớm lên đường chiều tới nơi, quận Nhưỡng thấy thế cũng không
đến nỗi khinh mình.
Tế nói:
- ý kiến của cháu cũng đúng. Cháu nên gấp rút đi mộ quân
lính, hẹn chiều tối hôm nay phải đến đây ngay.
Không ngờ chú cháu y bàn luận cả đêm như thế, đều bị
người trong nhà nghe thấy hết và biết rõ chuyện. Nửa đêm, họ liền đi báo với
viên ấp trưởng. Sáng dậy, khi Vân đã đi rồi, viên ấp trưởng liền đem vài chục
bộ hạ cầm khí giới và khiêng một cái cũi đến, bảo với Tế rằng:
- Mời quan lớn vào trong này! Đã có quân của quận Tuyển
chờ ở gần đây, xin sẵn sàng hộ tống ngài về kinh yết kiến cụ Bằng trung công.
Tế vờ thất kinh mà rằng:
- Các ông lầm rồi! Tôi là học trò xứ Hải Dương, tới Như
Kinh kiếm nơi dạy học, thình lình gặp việc binh đao, nên lại trở về xứ đông, có
việc gì mà phải yết kiến bậc quý nhân trong triều?
Người ấp trưởng cười mà nói:
- Quan lớn đừng có dùng miệng lưỡi nói dối người ta!
Trước kia ngài đã bay lượn ở vùng Thăng Long, gầm hét ở hạt Kinh Bắc, tự cho là
người tài giỏi độc nhất trong nước Nam. Học trò Hải Dương đâu có khí thế ấy?
Bây giờ xin mau mau vào cũi để họ khiêng đi cho sớm. Đừng nhiều lời làm gì, mệt
sức vô ích!
Rồi họ đẩy Tế vào cũi, giải đến dinh quân của Tuyển.
Những nơi cũi Tế đi qua, nhân dân đều đổ xô ra hai bên vệ đường để xem. Có
người gọi Tế mà bảo:
Ông nghè sao lại đến thế; tức thay thằng kẻ cướp vô loại
kia sao lại lọt lưới? (chỉ Dương Vân)
Trước đó, khi bọn Tuyển cầm quân ra đi, Chỉnh đã có lời
răn bảo. Đến lúc bắt sống được Tế rồi, Tuyển liền đem quân thắng trận trở về,
hết thảy đúng như lời Chỉnh đã dặn.
Các quan trong triều đến dinh Chỉnh.
Mừng việc thắng trận, ai cũng tấm tắc khen ngợi và khâm phục. Riêng Trần Công
Xán lại nói:
- Không phải ông có tài tính liệu
tình hình địch mà chỉ vì Tế vô mưu "Giống vật thương tình đồng loại"
(dịch câu: "Vật thương kỳ loại", câu này do ở thành ngữ Thố từ hồ bi,
vật thương kỳ loại, nguyên nghĩa là: "Con thỏ chết con cáo buồn, giống vật
thương tình đồng loại". ý nói người ta thấy kẻ đồng loại gặp nạn thì cũng buồn
thương. Đây chỉ vào ý Xán mượn câu này để ngầm tỏ ý nói Tế cũng là kẻ đáng
thương) thật là đáng buồn!
Chữ "vô mưu" ở đây là Trần
Công Xán ám chỉ việc Trọng Tế viết tờ hịch chỉ trích vua Lê trước kia.
Vua nghe tin đã bắt được Tế, liền
sai thảo bản kể tội của Tế, để làm cho nghiêm chỉnh pháp điển. Chỉnh tâu:
- Xin kéo hắn ra cửa Bắc mà chém đi
là xong, chẳng cần phải làm bẩn bút mực!
Phan Lê Phiên nói:
- Với tên giặc khác, cố nhiên nên
như vậy. Nhưng Tế là người học hành thi đỗ, xuất thân trong hàng tiến sĩ mà dám
làm việc phản nghịch như thế, thật là kẻ tội nhân trong danh giáo. Sao được
chết một cách im lặng như vậy? Bởi thế, cần vâng theo chỉ ý của hoàng thượng,
nêu rõ tội ác của y, để cho người khác thấy y mà biết răn mình, thì bọn ngang
ngược kia mới dẹp đi được.
Rồi Phiên cầm bút thảo lời
"Luận tội" dâng lên rằng:
"Làm tôi phản vua, trời đất
không còn chỗ chứa; mang tên là giặc, người nước cùng được giết đi. Vậy phải
đục bỏ tên trong bia tiến sĩ, dâng tù trước nhà Thái-học, để tỏ rõ rằng y đã bị
đuổi ra ngoài hàng kẻ sĩ, khiến cho không làm nhơ danh của nhà nho".
Vua truyền "được", rồi lập
tức sai bọn Tuyển mặc quần áo trận, bắt Tế đưa đến nhà Thái-học phủ phục chịu
tội, rồi điệu đến Trường thi võ mà chém.
Sau đó, vua lại thăng thưởng quân công
cho bọn Tuyển, Thái, và theo thứ bậc mà ban cấp tiền bạc cho các tướng sĩ.
Nhân việc này, triều thần lại kiến
nghị tâu với vua thăng cho Chỉnh lên tước công một chữ (theo quan chế đời xưa,
tước "một chữ" (nhất tự) là cao quý hơn tước có nhiều chữ. Ví dụ;
Bằng công to hơn Bằng trung công), cho phép mở ra phủ quân Vũ thành, đúc con
dấu Vũ thành và để Viện xu mật thống thuộc vào đấy. Chỉnh nhân dịp, liền tâu
xin cho con trai là Hữu Du làm chức doanh tướng, coi lĩnh toán quân ấy.
Vua ưng cho.
Từ đó, những việc thuộc về quân sự,
Chỉnh đều để cho Du điều khiển lấy. Chỉnh lại xây dựng một toà phủ ở phía đông
chỗ ở của mình, nhà cửa rất mực lộng lẫy để cho Du ở, theo như lệ "thế tử
ra ở phủ riêng" của chúa Trịnh ngày xưa. Bộ hạ của Chỉnh nhân đó cậy thế
làm nhiều điều phi pháp. Bất cứ là nha môn nào hay việc gì, hễ đã thấy những
giấy tờ đưa đến, có đóng dấu quân Vũ thành, là không ai dám trái lệnh. Vì thế,
triều đình không còn kỷ cương gì cả, mà lòng người cũng sinh ra chia lìa. Người
hiểu biết đều cho là thế nào cũng có loạn. Có người cáo bệnh bỏ quan, tìm chốn
nhàn tĩnh ở nơi xó rừng, góc biển để tránh tai vạ.
Chỉnh cũng biết dư luận không ưa gì
mình, muốn mượn con đường khoa mục, thu nhặt nhân tài, để mua chuộc lòng người
làm chước yên lành về sau. Chỉnh bèn bàn với Lê Phiên tâu xin theo phép
"kén học trò theo mười khoa" của Tư Mã Quang nhà Tống, đặc cách mở
một chế khoa (Chế khoa là khoa thi do nhà vua tự ra đầu bài và tự chấm lấy văn.
Nhưng đời sau, những khoa thi mở bất thường cũng đều gọi là chế khoa. - Đời
Tống Triết-tông, Tư Mã Quang xin vua cho đặt mười khoa (10 điều) để làm tiêu
chuẩn kén nho sĩ. Mười khoa đó đại để như sau: Có nết; có tiết tháo; có mưu trí
và sức khoẻ; thông minh; ngay thẳng; thông kinh sử; học rộng biết nhiều, v. v.
. . ). Các quan văn từ tam phẩm trở lên đều phải tiến cử những người mình biết,
rồi cho phép họ vào trong sân điện, đối đáp những câu văn sách của nhà vua hỏi.
Khi ấy, các danh sĩ trong nước ai cũng trau dồi chữ nghĩa và đức hạnh để chờ
đợi ơn trên. Cả những người làm quan rồi cũng đều hăng hái ứng cử. Bấy giờ là
tháng giêng mùa xuân, năm đầu niên hiệu Chiêu-thống (1787).
Lúc đó có viên hiến phó là Ngô Tưởng
Đào được cử vào khoa "hiền lương phương chính", dâng biểu cố từ như
sau:
"Hiện nay, nhân sau khi sụp đổ,
những việc đáng cảm đáng than trong nước, kể không thể xiết. Không phải chỉ có
"một đau, hai khóc, ba thở dài" (nói theo lời của Giả Nghị trong bài
nói về tình hình trị an đời Hán Văn-đế) mà thôi. Nếu không có tài hơn đời thì
sao có thể xoay chuyển được thời thế. Nhưng những bậc kỳ tài, kỳ ngộ, phải đâu
hết thảy đều do khoa cử mà ra. Đời nếu có người tài, bệ hạ nên dùng lễ mà mời
ra như vua Thang mời Y Doãn ở đất Sằn, vua Văn vương thăm Lã Thượng ở sông Vị
(Y Doãn là công thần đời nhà Thương, từng cày ruộng ở đất Sằn, vua Thang ba lần
đến mời ông mới chịu ra giúp. - Lã Thượng tức Lã Vọng, công thần đời nhà Chu,
từng câu cá ở bờ sông Vị, vua Văn vương đi săn bắt gặp, hết sức kính trọng, đón
lên xe mời về triều làm quân sư), ngõ hầu mới mời được họ đến. Còn như thần đây
lạm giữ một chức còn sợ chưa nổi, dám đâu làm nhơ đến việc long trọng này, để
thương tổn đến sự sáng suốt trong việc cất nhắc nhân tài của thánh triều".
Lê Phiên nghe bài biểu ấy nói với
Công Xán rằng:
- Ông ta bảo cần phải có người có
tài lạ, là muốn nói nước giặc đang nhòm ngó ở bên ngoài, chẳng bao lâu sẽ có
nạn binh đao. Mình bỏ việc ấy không lo, mà lại đi mở khoa thi kén học trò, để
vờ làm ra vẻ thái bình. Sợ khi quân Nam trở lại, không biết dùng chước gì mà
chống đỡ? Đó thật là cái lo trước mắt!
Năm ấy, những kẻ vào điện thi để đối
đáp văn sách, có đến hai trăm người. Chỉnh muốn kén chọn cả loạt để thu nhặt
danh sĩ trong nước. Nhưng đến khi xướng tên, thì hạng đúng tư cách thì đỗ chỉ
có hai người là Trần Bá Lãm và Nguyễn Gia Cát mà thôi. Chỉnh có ý không bằng
lòng, cho nên mùa đông năm ấy, Chỉnh lại xin thi hội ở lầu Ngũ phượng, lấy bọn
Bùi Dương Lịch vào hạng tiến sĩ, tất cả mười lăm người. Nguyễn Khuê là người bà
con của Chỉnh, đỗ vào thứ tư, dự luận trong ngoài có ý chê là tư vị.
Nhắc lại, khi Chỉnh ở Nghệ An về
triều, được vua trọng dụng, các thân thần, cựu thần của nhà vua chẳng ai được ở
trên Chỉnh. Vì vậy, Chỉnh làm việc gì cũng trôi chảy, không còn lúc nào nghĩ
đến tình hình nước địch và công việc ở ngoài biên cương nữa.
Lúc ấy, những người ở ngoài đối địch
với Chỉnh, thì phía tây có quận Thạc, phía đông có quận Nhưỡng, Chỉnh đều xem
khinh. Mỗi khi chuyện trò với ai, Chỉnh vẫn thường nói:
- Nhưỡng tuy là dòng nhà tướng,
nhưng là người thô lỗ, không thạo mưu cơ làm tướng. Xưa kia ở dưới cửa tiên
công (chỉ quận Huy), y vẫn coi ta là bậc anh. Về sau vì sự gặp gỡ khác nhau,
thành ra mỗi người một ngả. Chắc Nhưỡng không dám tranh giành với ta, mà ta
cũng không nỡ đánh nhau với Nhưỡng, hãy để y ra ngoài đã. Đến như quận Thạc thì
chỉ là người dũng mãnh, mà lúc gặp việc cần ứng biến thì lại không phải là
giỏi. Vả nay y đã tuổi già sức yếu, nên cũng không đáng sợ nữa.
Vừa lúc ấy, có người thân của Chỉnh
là Lệ Vũ ở Sơn Tây về, nói với Chỉnh rằng:
- Quận Thạc trước đi Hưng Hoá, chiêu
dụ mấy viên quan Mường, mở lò đúc khí giới. Hiện nay đồ đảng ở bốn trấn có đến
vài vạn, ông ta đang truyền hịch cho các thổ hào trấn Sơn Tây, hẹn ngày đem thủ
hạ vào kinh. Nghe đâu ông ta có sai người đem tờ biểu bí mật dâng lên nhà vua,
ông có biết không?
Chỉnh nói:
- Ta biết rồi. Trong tờ biểu, quận Thạc trình bày rằng:
"Trước đã trái luật làm tan mất quân đội, sau vào bảo vệ kinh thành lại
không nên công trạng gì, nhờ hoàng thượng có lòng bao dong, lại cho làm chức
trấn thủ để cho bù lại tội xưa. Ngày nay có lòng luyến nhớ cửa khuyết, lại sợ ý
ấy chưa được rõ ràng, kẻ không ưa sẽ được thế chỉ trích, đổ cho tiếng xấu, nên
còn dùng dằng chưa dám tới ngay. . .". Hoàng thượng có đưa tờ biểu cho ta
xem. Ta đã đoán ngầm được ý của Thạc, chắc y không dám dùng quân sự chống cự lại
ta, mà chỉ muốn giảng hoà. Y ở ngoài lâu ngày, tình thế cách trở, đâm ra nghi
hoặc, sợ hoàng thượng không tin dùng. Mà đột ngột về kinh, thì lại sợ có ta ở
trong triều, chưa biết hoạ phúc thế nào, nên mới dâng trước tờ biểu ấy để dò
xem ý tứ của triều đình đó thôi. Ta cũng muốn tâu xin hoàng thượng giáng chỉ
triệu y, nhân tiện ta gửi cho y một lá thư, nhưng khó kiếm được người xứng đáng
để sai đi. Người đã biết rõ tình hình thì nên theo sứ giả của nhà vua mang thư
cùng đi.
Lệ Vũ xin vâng lời. Chỉnh bèn viết thư gửi cho quận Thạc,
đại lược như sau:
"Trước đây tướng quân lên miền thượng du, xếp đặt
công việc ngoài bờ cõi, trèo đèo vượt suối, thật là vất vả. Nếu tướng quân có ý
chuyên giữ một phương để che chở cho miền tây, thì tôi xin đề đạt ý ấy lên nhà
vua, cho phép tướng quân tuỳ ý mà làm. Nếu tướng quân cho rằng ở trong quân ngũ
đã lâu, sức lực suy yếu, muốn nghỉ việc quân cơ, thì tôi dám đâu không giúp đỡ
tướng quân chọn một địa vị tốt đẹp để cho tướng quân giữ trọn công danh, làm
bậc túc tướng (vị tướng cũ đời trước còn lại) của tiên triều? Kẻ đại trượng phu
ở đời chỉ có hai con đường là "hành" và "chỉ", cần phải sơm
sớm chọn lấy một. Mong tướng quân tính liệu lấy".
Lúc mới nghe có mệnh lệnh nhà vua đòi, quận Thạc liền ra
ngoài sân để bái nhận và hạ lệnh cho tướng tá kiểm điểm binh mã chờ ngày lên
đường. Đến khi mở thư Chỉnh ra, quận Thạc bỗng nổi giận bảo Lệ Vũ:
- Mày là người riêng của Chỉnh phải không?
Sứ giả đỡ lời:
- Thư này Bằng công đã trình lên hoàng thượng xem; như
vậy, người đưa thư tức là do hoàng thượng sai đi, không phải là người riêng.
Thạc nói:
- Tục ngữ có câu: "Bò con mới đẻ không biết sợ
cọp". Chính là bảo hạng người như Nguyễn Hữu Chỉnh đây! Ta là con nhà võ
biền, không biết văn hoa che đậy, việc gì cũng cứ thẳng băng mà làm. Điều gì
không bằng lòng, chỉ biết có lưỡi gươm mà thôi. Này ta nói cho các ngươi nghe:
Nguyễn Hữu Chỉnh trước thì phản bội nước nhà mà giúp Tây Sơn, sau lại ở hai
lòng với Tây Sơn mà chiếm giữ đất Nghệ An. Đến khi Tây Sơn không nhìn nhận,
người Nghệ An không dong, mới quay về với hoàng thượng. Các vị văn quan lại bị
hắn lừa dối, để cho hắn có thể mượn mệnh lệnh của nhà vua, sai khiến người
trong nước. Riêng có Dương Trọng Tế chống cự với hắn, nhưng vì không rõ nghĩa
lớn, cho nên hắn có cớ mà nói. Quận Nhưỡng lại là bạn quen của hắn, thành ra
chỉ bay lượn ở vùng Hàm Giang, không dám vượt lên một bước, tiến về kinh đô mà
hỏi tội hắn. Hiện nay, riêng ta thề lấy việc đánh Chỉnh làm trách nhiệm của
mình. Các ông hãy về bảo với Chỉnh rằng: hắn quen dùng thói gian trá, giảo
quyệt để lừa dối người trong nước, nhưng lừa dối thế nào được ta đây. Ta nay
vâng chỉ về triều hỏi tội hắn. Nếu hắn có thể đánh với ta, thì nên ra ngoài
thành vài dặm để chọi nhau cho tiện, đừng để kinh động đến cung khuyết. Bằng
không thì hắn nên ra chịu tội ở ngoài cửa Đại Hưng, đã có triều đình xử trí.
Rồi đó, quận Thạc tiễn sứ giả về kinh, lại viết tờ biểu
"xuất sư" dâng lên nhà vua, đại lược nói:
"Trước đây, thần vâng mệnh ra trấn Sơn Tây, vừa lúc
ấy Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An vào chầu. Bệ hạ cho là Chỉnh có công tôn phò,
nên giao việc chính trị trong nước cho hắn. Đứa tiểu nhân đắc chí, dần dà mưu
đồ làm việc không hay. Cứ như ý ngu của thần, thì Chỉnh không phải là người bề
tôi thuần thục, mà là một đứa tự mưu lợi riêng. Xem việc hắn làm, giống như ma
quỷ; xét bụng hắn nghĩ, độc hơn hùm beo. Cúi xin bệ hạ xét rõ, cho phép thần
được trị hắn ngay từ lúc đầu, để hắn không thể rông rỡ làm ác về sau, thì thật
là phúc cho xã tắc. . .".
Tiếp đó, quận Thạc đưa tờ hịch đến các lộ Quốc Oai, Quảng
Oai, kể rõ tội ác của Chỉnh, gọi Chỉnh là tên giặc ở cạnh nhà vua, nguyền thế
nào cũng giết Chỉnh để triều đình được trong sạch.
Chỉnh nghe tin quận Thạc đem quân đến nổi giận nói:
- Tên giặc già này thật đáng giết! Không muốn làm người
công danh ở thế gian, lại muốn theo gót thằng Trọng Tế làm con ma phản nghịch
ư?
Rồi Chỉnh vào tâu với vua, xin sai bộ tướng là Lê Duật
đem quân đi đánh quận Thạc: còn tự mình đốc suất đội quân lớn theo sau tiếp
ứng.
Duật đến làng Đại Phùng (thuộc huyện Đan Phượng, Hà Đông,
nay thuộc Hà Nội) thì quân quận Thạc cũng vừa tới đó. Hai bên mới giao chiến
được một trận thì quân Duật chống không nổi đã vứt bỏ khí giới mà chạy.
Con trai quận Thạc là Gia Vũ xin thừa thắng đuổi tràn,
khiến hậu quân của Chỉnh kinh sợ, để có thể giữ được toàn thắng.
Quận Thạc không nghe và nói:
- Quân lệnh sớm nay đã truyền là đúng trưa họp ăn ở làng
Đại Phùng. Các quân lính đang đói mệt, chờ đợi nghỉ ngơi ăn uống, thì quân giặc
thình lình kéo đến; ta mới vẫy quân một cái mà đã đánh lui được chúng, bây giờ
nên nhân đấy mà truyền cho quân lính ăn cơm là phải. Nếu lại khua cho họ tiến
lên, chiều tối đến kinh thành, giặc tất nhiên dốc hết quân ra liều chết mà
đánh, lúc đó quân ta vừa mệt vừa đói, lấy sức đâu mà chống? Binh pháp có nói:
"Quân đi hàng trăm dặm để kiếm lợi, sẽ què thượng tướng"; đó là con
đường nguy hiểm. Hãy cứ nghỉ quân mà ăn uống, ăn rồi thúc trống tiến lên, gặp
giặc là đánh. Ăn no khí mạnh, lo gì không thắng địch? Vả lại, ta bắt Chỉnh như
bắt trẻ con, có cần gì mà phải gấp vội để cho thất tín với quân lệnh.
Quận Thạc bèn truyền lệnh khua chiêng cho quân tạm nghỉ.
Duật chạy đến nửa đường, ngoảnh lại trông biết là quận Thạc không đuổi; lại sợ
Chỉnh đến sẽ bị quở phạt, liền thu quân, dàn thành trận, quay trở lại đánh quận
Thạc. Quân của quận Thạc đang ngồi lên khí giới mà ăn, hàng ngũ lộn xộn chẳng
đâu vào đâu. Thấy quân Duật ào đến, quân quận Thạc không kịp đánh lại, sợ hãi,
tan vỡ, chạy tứ tung. Lúc ấy quận Thạc đang ngồi trên đình Đại Phùng, vội vàng
trèo lên mình voi, thủ hạ chỉ còn vài chục người, xúm quanh thân voi, ra sức mà
đánh. Quận Thạc ngồi trên bành voi, ném lao giết chết quân Duật chừng vài trăm
người. Duật không dám lại gần. Chốc lát thấy Chỉnh đem đại quân kéo đến tiếp
ứng, Duật liền vẫy quân vây quanh voi của quận Thạc, lấy giáo dài mà đâm. Quận
Thạc co voi vào bãi cát, rồi xuống voi nhảy phốc lên ngựa, múa đao chém vung
tàn tán, người ngựa qua lại như bay. Gia Vũ ở phía sau trận phi ngựa hô tới,
xông lên phía trước, lăn xả vào đánh giết, làm bị thương quân địch rất nhiều. Một
viên tỳ tướng của quận Thạc là Hoàng Đăng, tập hợp được vài trăm tên lính tản
mát, cũng quay trở lại hợp sức mà đánh, Chỉnh trông thấy thế, sợ quận Thạc
thoát thân được thì sẽ phi ngựa trốn mất, bèn vẫy quân Thiết đột vây kín bốn
mặt, nhắm vào ngựa quận Thạc mà bắn. Ngựa què, quận Thạc bị Duật bắt sống. Gia
Vũ, Hoàng Đăng liệu chừng không thể chống nổi, đều theo lối Thượng Hiệp (tên
xã, thuộc Sơn Tây. (Cũng ở gần vùng Đan Phượng)) mà tháo lui.
Trận này, quận Thạc tự mình đốc suất các phiên thần Hưng
Hoá, thổ mục Sơn Tây, lại hợp với quân của cả hai trấn, khí giới rất là sắc
bén. Sau khi thua một trận, hết thảy đều bị thu bắt, không còn sót một tý gì.
Do đó, oai danh của Chỉnh rung động khắp thiên hạ.
Tin thắng trận về đến kinh thành, các quan vào mừng. Vua
Lê miễn cưỡng ra ngự triều, rồi nói riêng với Ngô Vi Quý rằng:
- Quận Thạc không phải là bề tôi bạo nghịch của trẫm.
Quận Thạc còn sống thì tên gian hùng kia (chỉ Nguyễn Hữu Chỉnh) còn e sợ, nay
chẳng may mà chết, trẫm rất thương xót, còn mừng nỗi gì?
Tiếp đó, Chỉnh rút quân về và giải quận Thạc vào kinh
thành tâu xin đem chém.
Vua khuyên Chỉnh rằng:
- Quận Thạc trọng về phần nghĩa nhiều, mà ít hiểu về phần
lý, cho nên danh với thực không xứng với nhau, hình tích khó mà rõ rệt. Nay
thua trận bị bắt, phép vẫn nên chém. Nhưng nghĩ lại lúc Trọng Tế thả quân vây
bức kinh thành, trẫm đứng chơ vơ một mình trong điện suýt nữa mắc phải tai biến
bất trắc; nếu không có quận Thạc, làm gì có ngày nay? Theo như phép "Bát
nghị" (theo sách Chu lễ, hình phạt có "Bát nghị" (tám phép bàn),
chia ra tám loại người thân của vua, người có công, người có tài, người quý
hiển v. v. . . để xét xử phân biệt khác nhau mà định cách giảm tội) Lòng trẫm
thật không nỡ, nên bài lại để cho tỏ rõ cái ơn nghĩ đến công trạng hồi xưa.
Chỉnh đối với quận Thạc từ trước vốn không có hiềm thù
gì, nay đánh một trận mà thắng, khí tức cũng đã hả, lại nghe lời vua khuyên dụ,
bèn xin giao cho triều đình bàn lại.
Ngự sử là Ngô Trọng Khuê thảo lời nghị tội khác, trong có
câu:
"Làm quan chống lại mệnh lệnh của triều đình, tội
vẫn đáng chém; nhưng đem công mà bù với tội, thì sự chết cũng nên có lễ. .
.".
Vua bèn sai đưa quận Thạc ra ngoài cửa Tây, cho uống
thuốc độc.
Quận Thạc lạy hai lạy, rồi uống thuốc độc mà chết.
Lúc quận Thạc mới bị giải vào thành, nhân dân kinh đô xúm
lại xem. Quận Thạc nói:
- Ta là tên tướng già Hoàng Phùng Cơ đây. Cha con một nhà
đã có sáu người chết vì việc nước. Phải, trái đã có công luận. Thành, bại là
bởi lòng trời. Ta không giết được Nguyễn Hữu Chỉnh, thế nào Tây Sơn cũng sẽ
giết hắn. Đạo trời báo ứng không bao giờ sai; chỉ tiếc rằng ta không kịp trông
thấy mà thôi.
Sau khi quận Thạc chết, thi hài được đem về chôn ở Sơn
Tây, quân và dân ai cũng chảy nước mắt.
Lại nói, Nguyễn Hữu Chỉnh nắm hết quyền bính trong nước,
việc gì cũng tự tay của y mà ra. Càng ngày y càng lộng hành, lòng người lìa
tan, quan văn quan võ, ai cũng chán nản. Người nào theo lẽ công, giữ phép nước,
đều bị bọn tướng sĩ cơ Vũ thành của Chỉnh quấy nhiễu. Người nào khảng khái dám
nói thì nhiều khi bị chúng làm hại, tai hoạ xảy ra bất ngờ không sao mà lường
được. Bởi thế, thường thường ai cũng kiêng nói. Cũng có người đã cáo bệnh, trả
lại ấn tín, bỏ về nơi làng xóm.
Bọn hào mục gian ác ở đâu thì tụ họp ở đấy, rồi đi cướp
bóc lẫn nhau. Ngoài thành vài dặm, đều là hang ổ của bọn trộm cướp.
Vua Lê lấy thế làm lo, bèn vời viên tham tụng cũ là Bùi
Huy Bích vào triều để hỏi về việc thiên hạ. Bích sợ Chỉnh không dám nói gì, chỉ
từ tạ mà rằng:
- Thần may được thi đỗ, nhưng không có tài giúp đời trị
nước. Chúa Trịnh xưa cất nhắc thần làm việc trong chính phủ; lính kiêu dân oán,
quân giặc lấn cướp, thần không có một chước gì để cứu vãn. Kinh thành bị hãm,
chúa soái mắc nạn, cái tội làm lầm lỡ việc nước ấy, thần thật khó lòng mà trốn
tránh. Nay nước nhà đã nhất thống, chính sự ban đầu đang sáng suốt, bệ hạ hãy
nên tìm lấy những người tài giỏi khác. Còn như thần đây, thì dám đâu lại làm
nhơ đến triều đình, để lỡ việc thiên hạ? Cúi xin bệ hạ cho thần được lui về nơi
ruộng đồng, làng xóm.
Lúc lui ra, Bích bảo riêng với người thân tín rằng:
- Thiên hạ sắp loạn mất rồi! Từ đây ta cũng bỏ mà đi
thôi.
Rồi đó, ông ta đem cả gia quyến dời sang xứ đông.
Viên đốc đồng trấn Nghệ An là Phạm Huy Khiêm cũng bỏ quan
đi lên vùng thượng du huyện Thanh Chương mưu đồ việc khởi quân cần vương. Khiêm
có đưa tờ hịch kể tội của Chỉnh, nhưng việc chưa thành thì đã chết (Huy Khiêm
(có người đọc là Vĩ Khiêm, tức Phạm Nguyễn Du)).
Bấy giờ, trong bọn sĩ phu tại chức, lại có hạng người
khác, nặng lòng công danh, lấy việc dẹp loạn, phò nguy làm trách nhiệm của
mình. Họ tụ tập các người đồng chí, chiêu mộ quân lính nghĩa dũng. Hào kiệt bốn
phương, khi nhận được chỉ thư, cũng theo lời hiệu triệu mà đến với họ. Những
đám như vậy, khắp nơi đều có.
Viên đốc trấn Cao Bằng là Lưu Tiệp (có bản chép là Lưu
Côn, Lưu Tiệp quê ở làng Nguyệt áng, huyện Thanh Trì, Hà Nội) nhận tờ mật chỉ
của chúa Trịnh. Còn viên đốc đồng là Nguyễn Hàn (Nguyễn Hàn quê ở xã Phú Thị,
Gia Lâm, Hà Nội, Tiệp và Hàn đều đỗ tiến sĩ) lại nhận tờ mật chỉ của vua Lê. Cả
hai đều khuyên dỗ bọn phiên mục ở trấn ấy giúp sức, rồi lại cấp phát phù tín,
sắm sửa khí giới cho họ, và dặn họ sẵn sàng chờ lệnh đòi gọi. Lúc bấy giờ một
trấn Cao Bằng, chia làm hai đảng. Kẻ theo tiết chế của viên đốc trấn, thì không
biết có viên đốc đồng. Người theo ước thúc của viên đốc đồng, thì lại không
biết có viên đốc trấn. Hai người ai ở dinh nấy, không chịu họp chung với nhau.
Tiếng là đồng liêu với nhau, thật ra chỉ là thù địch.
Tiệp ngầm sai viên phiên thuộc của mình đem thủ hạ về trá
hàng Nguyễn Hàn, rồi lại cho người tới cầu hoà để đòi lại viên phiên thuộc cùng
bọn đầu hàng ấy. Hàn không biết là mẹo lừa, cứ nhận bọn đầu hàng mà cự lời xin
của Tiệp. Tiệp liền đem quân vây đánh Hàn. Bọn trá hàng bấy giờ mới nổi lên làm
nội ứng cho Tiệp, quân của Hàn tức thì rối loạn tan vỡ. Hàn hoảng sợ vội vàng
bỏ chạy, bị giết chết liền. Vợ con của Hàn ở trong dinh cũng đều bị giết tất
cả. Do đó, trấn Cao Bằng rối loạn lung tung. Bọn hào mục kẻ nào giữ ấp trại của
kẻ nấy, rồi đem quân đánh giết lẫn nhau. Tiệp cũng không thể ngăn nổi.
Cùng lúc đó, Hà Quốc Ký ở Lạng Sơn, Triệu Văn Khương ở
Thái Nguyên, Hoàng Văn Đồng ở Tuyên Quang, Đinh Văn Hồ ở Hưng Hoá và các tù
trưởng ở vùng Phù Sương, Tây Lĩnh cũng đua theo, đâu đó đều chống lại mệnh lệnh
của triều đình, quan lại ở trấn có người cũng bị chúng đuổi. Khắp trong bốn cõi
không còn có chỗ nào yên tĩnh.
Thật là:
Quạ cáo tranh nhau, không đáng ngại.
Cọp, rồng đánh lộn, mới ghê thay!
Chưa biết đại thể ra sao? Hãy chờ
hồi sau phân giải.
Chương 9 :
Tướng Tây Sơn Võ Văn Nhậm đem quân lấn ngoài bờ cõi Quan bình chương, Trần Công
Xán vâng mệnh bàn việc biên cương
Lại nói, khi ở Cao Bằng bắt đầu nhóm lên việc
binh đao, Lưu Tiệp, Nguyễn Hàn đều có sai trạm đưa thư về kinh cáo biến. Tiệp
bảo Hàn là phản nghịch, Hàn bảo Tiệp là phản nghịch, và cả hai đều nói
"hiện đã điều quân vây đánh, chỉ khoảng mươi ngày sẽ bắt được kẻ có
tội".
Quan Bình chương là Phan Lê Phiên
thấy thư ấy, rất kinh hãi mà rằng:
- Hai người đều là bậc thanh cao
trong hàng triều sĩ, ra ngoài gánh việc phiên trấn, đáng lẽ phải vì việc công
mà quên việc riêng. Sao họ không chịu nén lòng theo nhau, lại đi cầm đầu cho
cuộc quấy rối? Đồng loại làm hại nhau, đó cũng là một biến cố lớn! Đáng ghê!
Đáng sợ!
Vừa lúc ấy, các viên trấn thủ ở bốn
lộ Lạng, Thái, Tuyên, Hưng cũng đều lần lượt gửi thư hoả tốc về cáo biến.
Vua Lê bèn bàn với Bằng công Nguyễn
Hữu Chỉnh. Chỉnh thưa:
Các trấn đem quân đánh nhau, cũng là
thói thường của bọn tù trưởng ở ngoài bờ cõi, chỉ cần hạ một bức thư, báo cho
họ biết đường hoạ phúc, chắc họ sẽ nghe theo; dẹp yên việc ấy, không có gì khó.
Riêng việc biến cố ở Cao Bằng thì lại do các viên quan trấn gây ra, bọn tù
trưởng trên ấy đều không đáng trách. Cái tội tự tiện đánh nhau, giết nhau,
triều đình sẽ phải có phân xử, vậy xin giao xuống cho các quan họp bàn.
Quan đồng bình chương Trương Đăng
Quỹ và quan tham tri Nguyễn Diệu đều xin gấp rút chọn hai viên đốc trấn, đốc
đồng khác có tài cán lên coi thay việc trấn và luôn thể hạ chiếu chỉ triệu bọn
Tiệp, Hàn về triều, may ra mới dẹp được cuộc rối loạn.
Phan Lê Phiên nói:
- Phải đấy! Rễ chùm, mấu cứng, phải
dùng đồ sắc! Viên quan cử lên coi trấn ấy, không thể dễ dàng muốn sai ai cũng
được.
Quan đồng bình chương Trần Công Xán
nói tiếp:
- Việc loạn ở Cao Bằng hồi xưa, viên
đại thần đã qua đời là Nghĩa thành vương (tức Nguyễn Đình Bá) vâng mệnh lên vỗ
về, ở luôn trên trấn ấy bảy năm, nhân dân các bản đều mến phục. Sau ông mất tại
đó, dân địa phương vì thương tiếc mà nghỉ mấy phiên chợ liền, lại dựng đền mà
thờ. Quan xu mật hiện nay là Nguyễn Đình Tố (người ở Khoái Châu, Hưng Yên (Hải
Hưng)), chính là con của Nghĩa thành vương. Ông ta là người rộng rãi có độ
lượng, tài xử sự cũng nhanh, vậy xin gấp rút sai đi ngay.
Vua Lê bèn dùng Nguyễn Đình Tố làm
đốc trấn Cao Bằng, lại sai Nguyễn Huy Túc làm phó đốc trấn. Rồi hạ lệnh giục
hai người lên đường đi nhậm chức. Tố nói:
- Cha thần sinh ở Cao Bằng, mất ở
Cao Bằng, thần cũng sinh ở Cao Bằng, nay lại lên đó, việc sau này có thể biết
rồi. Vậy xin cho phép mười ngày để thần xếp đặt việc nhà.
Khi hai người lên đến giáp giới tỉnh
Lạng Sơn thì nghe tin Hàn đã bị hại, Tố giật mình nói:
- Thương thay! Chết cũng bởi số,
nhưng cũng lỗi tại ta đi chậm quá.
Rồi Tố lập tức giục trạm đi dấn lên.
Khi trạm đầu báo tin quan đốc trấn mới là Nguyễn Đình Tố đến, thì tù trưởng các
nơi đều vui mừng chờ đón. Lúc Tố đến Cao Bằng thì Lưu Tiệp còn đang đóng cửa
thành, đánh nhau với dư đảng của Hàn. Tố vâng lệnh tuyên bố uy đức của nhà vua,
bảo hai bên phải giải tán quân lính, rồi thong dong xếp đặt mọi việc, trong cõi
lại yên ổn như thường.
Một hôm, vừa gặp lúc đến yết kiến
đền thờ Nghĩa thành vương, Tố bảo Nguyễn Huy Túc:
- Tôi nay có lẽ sắp đi với tiền
nhân, trách nhiệm ở bờ cõi rất nặng, rồi đây sẽ có những việc khó khăn, lớn
lao. Trấn này thông với đất Trung Quốc, trước đây tôi đã đi sứ, cũng hơi thuộc
đường lối, chỉ giận rằng không ở đây nữa. Ông còn ở đây, hãy nên cố gắng mà
đương lấy mọi việc.
Tố lại ngoảnh sang các phiên trưởng
mà dặn rằng:
- Sau khi tôi đi rồi, các ông chỉ
nên nghe lệnh quan phó đốc trấn, chớ như vừa rồi, gây ra nhiều việc, thì thế
nào cũng có vạ lớn.
Mọi người đều lấy làm lạ mà hỏi, thì
Tố nói:
- Điều đó rất khó nói.
Chiều hôm ấy, Tố về doanh rồi chết.
Huy Túc một mặt lo liệu việc ma
chay, một mặt viết thư báo tin cho triều đình, rồi vâng chỉ của vua lĩnh chức
đốc trấn Cao Bằng.
Lại nói vua Tây Sơn từ lúc rút quân
về Nam, đến Nghệ An ở lại mười ngày, giao cho phó tướng Nguyễn Duệ giữ đất này,
cùng đô đốc là Chiêu Viễn đóng quân ở doanh Hà Trung (thuộc Hà Tĩnh).
Sau đó, vua Tây Sơn lại đổi Chiêu
Viễn vào đóng ở châu Bố Chánh, Nguyễn Duệ coi doanh Kỳ Hoa, tả quân Võ Văn Nhậm
đóng một đạo binh quan trọng ở Động Hải (Bố Chánh thuộc Quảng Bình. Kỳ Hoa
thuộc Hà Tĩnh. Động Hải tức Đồng Hới Quảng Bình (Bình Trị Thiên)) để làm thanh
viện và nương tựa lẫn nhau.
Lúc Nguyễn Hữu Chỉnh theo kịp,
thượng công (tức Nguyễn Huệ) ngỏ lời yên uỷ dỗ dành, và bảo ở lại Nghệ An làm
việc với Duệ. Bề ngoài tuy thượng công hứa hẹn với Chỉnh bằng những lời ngon
ngọt, nhưng lại dặn riêng Duệ rằng:
- Chỉnh vốn người Bắc, trốn về với
ta. Xem bộ hắn ta là kẻ phản phúc gian dối, không thể tin cậy. Vả chăng người
Bắc oán hắn rất sâu. Ta định bỏ hắn, để cho hắn chết. Không ngờ hắn lại trốn
chết cố theo. Nghệ An là quê hương của hắn. Nay để nhà ngươi ở lại đây, ngươi
nên xem xét kỹ lòng người xứ này, xem theo ai chống ai và tình hình động tĩnh
của hắn ra sao. Chiêu Viễn ở gần đấy, gọi một tiếng là đến. Tả quân cũng không
xa đây lắm, có việc nên chăng, ngươi phải viết thư báo tin cho mau, và cùng bàn
định với ông ta. Sống ở nước ngoài đất khách, ngươi phải để ý đề phòng cẩn
thận, chớ có dễ dàng tin theo Chỉnh mà mắc mưu của hắn. Ngươi phải cẩn thận lắm
mới được!
Sau khi thượng công về Nam, Chỉnh
liền được chiếu chỉ nhà vua vời đưa quân ra Bắc. Lúc đi, Chỉnh để đồ đảng của
mình là Nguyễn Duật ở lại làm việc với Duệ. Ngày chia tay lên đường, Chỉnh hai
ba lần dặn dò và mong mỏi Duệ đối xử tử tế với mình; Duệ cũng tiễn đưa Chỉnh
rất ân cần, tử tế.
Sau khi Chỉnh nắm được chính quyền,
thường thường gửi thư qua lại với Duệ và biếu tặng rất hậu. Rồi Chỉnh lại ngầm
sai người gọi Duật về kinh thành, để hỏi tình hình Tây Sơn và dò ý tứ của Duệ.
Khi đã biết vua Tây Sơn và thượng công gây ra việc binh đao, anh em đánh lẫn
nhau, tiếp đó lại được thư của Duệ hẹn cùng chung sức đánh vào phương Nam, thì
Chỉnh rất mừng, cho là có thể mưu đồ lấy lại Nghệ An. Chỉnh bèn thu xếp mười
lạng vàng và mười tấm đoạn, sai Duật đem vào biếu Duệ, nhân tiện lấy việc lợi
hại hoạ phúc mà doạ hắn ta, lại dỗ dành hắn ta giữ lấy Nghệ An, ngăn chặn Chiêu
Viễn, đắp lại luỹ cũ Hoành Sơn, và vạch sông Gianh làm nơi biên giới như việc
cũ trước đây (chỉ vào cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn (1627-1672), sau lấy sông
Gianh làm giới hạn để phân chia Đàng trong (Nam) và Đàng ngoài (Bắc)).
Lúc đó, người do thám của Võ Văn
Nhậm ở Nghệ An biết rõ việc ấy, vội vàng về báo với Nhậm. Nhậm lập tức đưa binh
phù triệu Duệ về. Duệ chống lại và nói:
- Tướng ở ngoài, mệnh lệnh của vua
cũng có khi không cần phải theo. Lúc thượng công về, giao cho tôi đóng giữ đất
này, nay tôi không dám tự tiện rời khỏi trấn này.
Nhậm được thư ấy, liền nói:
- Quả nhiên Duệ làm phản rồi!
Tiếp đó, Nhậm lập tức gửi thư cáo
biến với thượng công; trong thư có đoạn viết: "Ngày trước dùng Chỉnh tức
là nhốt hổ gầm giường; ngày nay để Duệ, ấy là nuôi ong tay áo. Xin kíp phát
quân ra Bắc, trước hết giết Duệ ở Nghệ An, rồi sau bắt Chỉnh ở Thăng Long. Dẹp
loạn và bình định đất nước ở một chuyến này, cơ hội không nên bỏ lỡ. . ."
Trong lúc ấy, thượng công và vua Tây
Sơn đang có việc xích mích, cuộc binh đao giữa hai anh em chưa dàn xếp xong,
việc nội chiến ở miền Nam so với mối lo ở miền Bắc còn cần kíp hơn nhiều. Bởi
vậy thượng công không quả quyết thi hành, bèn sai người báo cho Nhậm biết, và
giục Nhậm tiến quân ra Nghệ An bắt Duệ; rồi sau đó sẽ kiểm điểm quân lính, thu
góp lương thực, chia đi đóng đồn ở các nơi hiểm yếu và viết thư hỏi Chỉnh về
tội thông mưu với Duệ, xem Chỉnh trả lời ra sao. Nếu Chỉnh còn biết sợ hãi, cố
tình chối cãi, thì nên để đó sau này sẽ liệu, chưa nên đánh vội. Bằng Chỉnh ra
mặt chống lại, thì như thế là đã có cớ, lúc ấy cứ việc tiến quân ra đánh cũng
không muộn gì.
Nhậm vâng lệnh, tự mình đem đại quân
đi gấp. Chỉ trong một ngày một đêm. Nhậm đã đến doanh Kỳ-hoa nhưng Duệ không
còn ở đó nữa.
Số là mùa đông năm trước, thượng
công nghe tin Chỉnh đem quân ra bảo vệ vua Lê, sợ có biến cố gì khác xảy ra,
liền sai Nguyễn Văn Đức đem quân giữ phủ Diễn Châu cùng làm chức trấn thủ với
Duệ, để nương tựa lẫn nhau. Kịp đến khi nghe miền Nam đánh nhau, Duệ và Đức đều
gửi thư cho Chỉnh, mưu đồ hợp lực kéo quân về Nam, để thừa cơ làm loạn. Hai
người hẹn rằng, sau khi đắc thắng, sẽ trả các đất từ Hoành Sơn ra Bắc, nhưng
Chỉnh còn chần chừ chưa quyết định. Đến khi bị Nhậm phát giác, hai người bèn bỏ
xứ Nghệ đem quân theo mạn ngược trở về Nam. Duệ về với vua Tây Sơn. Còn Đức vốn
là một đại thần của chúa Nguyễn, bị quân Tây Sơn bắt, phải miễn cưỡng theo, chứ
thực ra cũng không thích làm việc cho họ. Lúc đó, Đức bèn theo đường núi tây
nam, trốn thẳng sang nước Tiêm La. Đức đi đã lâu, thượng công mới nhận được thư
hoả tốc của Nhậm, vội sai quân đón bắt, nhưng cũng không kịp.
Nhậm đến Nghệ An, kiểm điểm binh
lính, trưng thu lương thực, sửa soạn khí giới, rồi đưa thư ra Thăng Long, trách
móc Chỉnh gay gắt.
Chỉnh được thư, giấu giếm không cho
vua Lê biết, đoạn viết thư tạ tội, đại ý nói:
"Trước kia tôi bỏ nước cũ về
với chúa công, nhờ ơn cho vào nơi mạc phủ, hầu hạ túi cung roi ngựa đến bốn năm
năm. Mùa thu năm ngoái, đại quân về Nam không cho tôi biết, tôi cũng hiểu là
thượng công muốn dùng cách đó thử tôi, để xem tôi lui tới ra sao. Lúc bấy giờ
người Bắc cố lưu lại, nhưng tôi quả quyết bỏ họ mà đi. Nghĩ rằng lòng này không
có đổi thay như thế, bậc cao minh hẳn đã soi xét đến. Lúc vào yết kiến thượng
công ở Vĩnh Dinh, tôi xin đi theo quân đội về Nam, ngài bảo tôi rằng:
"Quận Thạc, quận Nhưỡng còn làm ngang trở không thể không trừ khử, nhà
ngươi hãy ở lại đây, lo liệu một phen". Tôi dám đâu không theo mệnh lệnh?
Tôi đã đem thân mình mà ruổi rong theo chúa (chỉ vua Tây Sơn) thì còn dám tiếc
gì? Vì thế, tôi tự mình xông pha tên đạn, quyết chiến với bọn Thạc, Nhưỡng. Chỉ
mong trừ được hai tên ngang ngược ấy, thì sẽ lập tức quay ngựa về Nam. Nhưng,
tháng trước đây đánh ở Sơn Tây, mới bắt được có quận Thạc. Riêng Nhưỡng thì vẫn
đang vùng vẫy ở miền Hải Dương, còn cần phải đánh dẹp vất vả. Bởi vậy cho nên
tôi chưa về triều được. Những kẻ ghét tôi, thấy tôi ở lại đất Bắc, liền đặt lời
gièm pha. Sao họ không xét rằng, sau khi thượng công về Nam, tôi chỉ ở lại Nghệ
An hơn mười ngày, rồi lại ra Bắc ngay, thì còn thời giờ đâu mà mưu toan với
Duệ? Từ đó kẻ Nam người Bắc, ai làm việc nấy, tôi có hề đi lại gì với Duệ đâu?
Nếu xét rõ tình cảnh ấy, hẳn không cần phải chờ tôi biện bạch gì thêm. Vả
chăng, cái ngày mà tôi làm việc chung với tướng quân, không phải không lâu. Nếu
quả là tôi có lòng gì khác, hồ dễ đã giấu được cho khỏi lộ? Tướng quân nên
chuyển đạt lời tôi đến trước chúa công, thì tôi đội ơn nhiều lắm!".
Nhận được thư ấy, biết Chỉnh còn có
ý sợ, Nhậm bèn viết bức thư khác, dùng lời nói khéo, vỗ về khuyên giải làm cho
Chỉnh yên lòng, để mình còn có thì giờ sắp đặt công việc ở trấn Nghệ An. Tiện
thể Nhậm cũng không quên buộc Chỉnh phải mau chóng dẹp yên quận Nhưỡng, rồi rút
quân về Nam, để khỏi trái với ý định.
Chỉnh tiếp thư, không hiểu rõ ý của
Nhậm, cho rằng Nhậm có thể dễ lừa phỉnh, chắc không phải lo gì về mặt Nam.
Lúc bấy giờ, trong ngoài đều đồn đại
rằng tướng của Tây Sơn là tả quân Nhậm, kéo quân ra Nghệ An, kén chọn lính
tráng, định kỳ xuất phát, chẳng bao lâu quân Tây Sơn lại tới, Thăng Long sẽ
thành nơi chiến trường. Vì thế, trong kinh nhốn nháo, người chuyển vận đồ đạc,
người bồng bế con cái, tranh nhau đi lánh nạn, lính Kim Ngô (tên một đội lính
bảo vệ trật tự ở kinh đô) ngăn cấm không nổi. Nhiều viên đình thần đem việc đó
tâu với vua Lê. Vua Lê liền triệu Chỉnh vào hỏi. Chỉnh tâu:
Người ta đồn nhảm, không cần phải
tin. Thần đã cho người đi xem xét biết hết sự thật rồi. Vua Tây Sơn từ khi ở
đất Bắc về Nam, liền vào thẳng chỗ quốc thành (tức Qui Nhơn). Còn thượng công
thì đóng ở Phú Xuân, nghỉ quân để vui chơi, ban bố hiệu lệnh, sửa sang thành
luỹ. Bao nhiêu vật liệu, khí giới và các báu vật lấy được ở Bắc về, thượng công
đều thu chứa lấy. Vua Tây Sơn sai sứ thần tuyên triệu, thượng công không chịu
về triều. Mọi việc phong quan, ban tước và xử trí này khác, thượng công đều tự
tiện quyết định. Vua Tây Sơn sai người đưa ấn phong thượng công làm Bắc bình
vương và hỏi những thứ của báu lấy được ở phủ chúa Trịnh. Thượng công cũng
chống lại không chịu dâng lên. Vua Tây Sơn giận lắm. Vì thế, anh em mới gây ra
cuộc binh đao, ở trong một nhà mà đối với nhau còn dữ dội hơn là đối với nước
thù địch. Ngay trong bọn họ với nhau cũng không đủ thì giờ để cứu vãn được tình
thế cấp bách, đâu còn dám ra khỏi Hoành Sơn một bước để tranh quyền với ta? Ta
cần làm sao cho việc nội trị có quy mô yên ổn, thế là sẽ được thái bình. Đến
như trấn Nghệ An, thì chỉ cần sai một sứ giả đem bức quốc thư sang, bàn bạc với
họ, một lời nói là xong. Ta cùng họ đã thành thông gia, ta cũng không cần lo xa
làm gì.
Quan ngự sử là Nguyễn Đình Giản nói:
- Xưa nay tình hoà hảo thông gia,
nói chung đều không thể tin cậy. Chỉ có bằng vào chước tự cường của mình, làm
sao cho bờ cõi được vững chắc, ngăn chặn sự dòm dỏ của kẻ địch, thì như vậy mới
có thể tin cậy được. Bắc bình vương cũng là một bậc anh hùng, xem thường ông ta
không được đâu!
Chỉnh nói:
- Tôi đã từng cộng sự với ông ta, há
lại không biết? Ông ta quả thật là bậc anh hùng, nhưng nhân tài xứ Bắc ta đây
cũng không thua lắm. Vạn nhất xảy ra việc binh đao, tôi xin chọi với ông ta,
còn như bọn Võ Văn Nhậm đã chiếm giữ đất Nghệ An, nhưng cứ mặc y. Quân nước
ngoài ở trọ, chẳng qua cũng như bọn Chiêu võ, Thuận nghĩa hồi xưa chiếm đóng
bảy huyện phía nam Nghệ An, không bao lâu rồi cũng lại về ta (chỉ việc các
tướng của họ Nguyễn là Thuận nghĩa hầu, Nguyễn Hữu Tiến và Chiêu võ hầu Nguyễn
Hữu Dật, đánh chiếm được bảy huyện ở nam sông Lam hồi xưa (1655-1660), trong
cuộc chiến tranh Trịnh-Nguyễn. Về sau, các miền ấy, lại bị họ Trịnh giành lại).
Vua Lê nói:
- Nhân tình lo sợ, nghi ngờ, họ đang
coi việc động tĩnh ở phương Nam để định sự thể khinh trọng của nước nhà. Ngươi
nên tính kỹ liệu trước cho lòng trẫm được thư thái.
Chỉnh tâu:
- Đó là việc trong chức phận của
thần, dám đâu không hết lòng hết sức?
Ngoài mặt, Chỉnh tuy nói năng khuếch
khoác để trấn áp mọi người, nhưng kỳ thực, từ khi được thư của Nhậm, trong lòng
Chỉnh rất đỗi lo sợ.
Một hôm vào chầu, Chỉnh đuổi người
chung quanh ra mà nói kín với nhà vua rằng:
- Võ Văn Nhậm tuy là tả tướng trong
soái phủ của Bắc bình vương, nhưng vốn là rể vua Tây Sơn. Lâu nay chỉ huy việc
quân, y vẫn đóng vai con rể của nước. Nay thấy anh em Tây Sơn xích mích nhau,
Nhậm là kẻ đứng giữa, cố nhiên là phải tuân theo tướng lệnh, nhưng trong lòng
lẽ nào lại hoàn toàn không nghĩ gì đến bố vợ? Vừa rồi có tên do thám nói rằng:
"Nhậm ở Động Hải nghe việc biến cố ấy, bèn xin về hầu. Nhưng Bắc bình
vương không cho mà bảo ra thẳng Nghệ An. Nay Nhậm đang ở vào địa vị nguy ngập
và bị ngờ vực, nên không thể không có ý trông về bên trong. Thần xin nhân cơ
hội này để thương lượng về việc bờ cõi Nghệ An. Hết sức nhắm nhe vào ân tình
của họ, lại lễ nhiều, lời ngọt, ngoài có Văn Nhậm tâng bốc, trong có công chúa
đỡ lời; Bắc bình vương dù có lòng nào chăng nữa cũng không thể không gượng theo
mình.
Vua Lê khen phải.
Sáng hôm sau, nhân buổi chầu sớm,
vua nói với các quan rằng:
- Nghệ An liền kề với Thanh Hoa, là
một quận phụ vào đất "thang mộc". Con em đất ấy vẫn được lựa chọn vào
quân túc vệ, làm nanh vuốt cho nước nhà. Đất ấy không thể để cho người khác
chiếm giữ mãi. Trẫm sắp sai người đi Phú Xuân để bàn với Bắc bình vương một
phen. Vậy các ngươi hãy chọn xem người nào có thể sung vào sứ bộ?
Trương Đăng Quỹ thưa:
- Nguyễn Đình Giản và Phạm Đình Dư
là người ngay thẳng có thể làm được việc ấy.
Phan Lê Phiên nói:
- Giản cương trực có thừa mà mềm
mỏng ôn hoà thì không đủ. Dư tuy nghị luận vững vàng, nhưng xét việc hơi chậm.
Bắc bình vương là người rất quỷ quyệt, hay dùng mưu khôn lung lạc người ta.
Trong lúc bàn bạc, khi nén xuống, khi nâng lên, không biết đường nào mà dò.
Thần sợ rằng hai người ấy tranh biện với ông ta, thế nào rồi cũng làm hỏng việc
nước.
Đình thần bàn mãi việc cử người,
luôn mấy ngày vẫn chưa ngã ngũ. Chỉnh bèn tâu để Trần Công Xán đi.
Vua Lê nói:
- Được đấy!
Nhà vua bèn đòi Công Xán vào triều
mà bảo rằng:
- Người là người trung trinh vì
nước, lòng trẫm đã biết. Ngày xưa Phú Bật sang sứ Khiết Đan, làm cho nước địch
phải kính trọng, công việc xong xuôi (Khiết Đan là một nước ở phía đông bắc
Trung Quốc, thường hay xâm phạm bờ cõi. Đời vua Tống Nhân tông, quân Khiết Đan
đến đóng sát biên giới và bắt nhà Tống phải cắt đất. Phú Bật được đi sứ, đã hết
sức biện bạch, kết quả làm cho quân Khiết Đan phải lui và từ đó hai nước hoà
bình được đến vài chục năm). Chuyến đi này, cũng giống như thế. Ngươi cố vì
trẫm vâng mệnh ra đi, cũng là Phú Bật của nước Nam đó. Một vị hoàng thân cùng
đi, trẫm đã sai Duy án (Cương mục chép là Duy Hiên), còn một viên phó sứ nữa
thì tuỳ ngươi chọn lấy.
Xán hăng hái xin đi, và nói:
- Vua phải lo thì bề tôi mang nhục;
thần đâu dám sợ khó khăn? Trong những người từng làm việc chung với thần mà
thần đã biết, thì có Ngô Nho là có thể dùng được.
Vua ưng lời, rồi ban mệnh lệnh
xuống. Cả triều đình đều khen là chọn được người xứng đáng.
Duy án là con thứ sáu của vua ý
tông, và là ông chú họ nhà vua. án tính người cẩn thận, nho nhã và trung thực.
Công chúa Ngọc Hân khi chưa lấy chồng, vẫn thường tôn kính án, mọi việc nên
chăng đều hỏi ý kiến của án. Kịp đến khi công chúa về với Bắc bình vương, án
thường nhân có việc tới gặp, Bắc bình vương cũng khen án nói năng lui tới có lễ
độ. Lúc đó vì muốn luôn tiện hỏi thăm công chúa, cần chọn người hoàng thân xứng
đáng, nên mới sai án đi.
Trần Công Xán, người làng Yên Vỹ,
huyện Đông An, đỗ tiến sĩ khoa Nhâm thìn (1772) đời Cảnh Hưng. Hồi Đoan nam
vương còn coi giữ việc nước, Xán đang ở chức tả thị lang bộ công, được sung
chức hành tham tụng. Trong cuộc biến loạn năm Bính ngọ (1786), quân Tây Sơn
tiến sát kinh kỳ, quân quận Thạc tan vỡ, các quan văn vỡ đang đêm đua nhau bỏ
trốn, riêng có mình Xán xin với chúa quyết liều một trận sống chết. Xán bận
quần áo trận, tay cầm gươm, hộ vệ chúa Trịnh ở lầu Ngũ Long.
Lúc Bắc bình vương vào kinh đô, vua
Lê trước sai các quan lần lượt tới yết kiến. Thấy thần sắc của Bắc bình vương
rực rỡ, nghiêm nghị, ai cũng run sợ, hãi hùng, riêng có Xán là tiến thoái như
thường, không mất phong thể của bậc đại thần. Bắc bình vương lấy làm lạ, đã mấy
lần mời Xán đến, hỏi việc Bắc Hà. Hỏi đâu Xán đáp luôn đấy, nói như suối chảy,
không có chỗ nào ngập ngừng, ấp úng.
Có lúc Bắc bình vương cố ý hỏi vặn,
nhưng Xán vẫn lật qua lật lại, tranh cãi nhiều lần, không mảy may chịu khuất
phục.
Bắc bình vương bảo với tả hữu rằng:
"Ta nghe Bắc Hà rất nhiều nhân
tài, nay đến tận nơi thì chỉ thấy Trần Công Xán là có khí sắc con người mà
thôi!".
Công Xán vốn được Bắc bình vương
kính trọng là như vậy.
Xán đã từng làm thượng thư bộ Hình,
được vào chầu ở toà Kinh-diên, rồi lĩnh chức đồng bình chương quân quốc trọng
sự. Trong triều đình, Xán là người cương trực, gặp việc có tài ứng biến, lại
thêm có học thuật, vì vậy ai cũng tôn trọng. Xán lại là thầy học của Chỉnh. Mỗi
khi Chỉnh có tâm sự gì, không thể nói với người ngoài thì không khi nào không
hỏi Xán để quyết định. Vì thế, chuyến này Chỉnh mới xin vua để sai Xán đi.
Ngô Nho người làng Tri Chỉ, huyện
Phú Xuyên. Trước kia Xán làm đài quan (tức là chức ngự sử) coi việc chấm thi,
đã lấy Nho đậu tiến sĩ khoa ất-tỵ (1785), nên Nho vẫn theo lễ thầy học mà đối
đãi với Xán, thường tới nhà Xán luôn. Nho thấy Xán là người khảng khái, có khí
tiết lớn lao, không thèm xu phụ quyền thế, nên hai bên thanh khí hợp nhau. Xán
cũng yêu và trọng Nho, vì thế bảo Nho đi với mình.
Khi Nho mới nghe lệnh ấy, liền vào
gặp Xán. Xán bảo Nho rằng:
- Nước địch đè lấn, tin báo ngoài bờ
cõi đang gấp. Nay chỉ biết ra đi chưa biết ngày về. Tôi là đại thần của nước
nhà, nghĩa phải ra đi, sống thác không cần tính đến. Ông mới làm quan, ngôi thứ
còn thấp, ở nhà lại có mẹ già. Trung hiếu không thể vẹn cả đôi đường, hãy thử
nghĩ cho kỹ, tôi không dám ép ông đâu.
Nho trả lời:
- Tướng công chịu ơn dày của nước,
tôi thì chịu ơn trí ngộ cao cả của tướng công. Đại thần gánh việc cho nước nhà,
kẻ sĩ chết vì người tri kỷ, đều là nghĩa phải như thế, ngoài ra không biết đến
việc gì khác.
Xán mừng mà rằng:
- Mạnh mẽ thay! Kẻ sĩ như thế đáng
gọi là "đạt" vậy.
Rồi đem Nho vào yết kiến vua. Vua
cho Nho lạy ở nội điện và hỏi:
- Nhà ngươi đã ôm ấp kinh luân, từng
trải việc đời thử liệu xem chuyến đi này ra sao?
Nho tâu:
- Ngửa trông phúc lớn của nhà nước
và mưu sâu của miếu đường, công việc xong xuôi tưởng cũng không khó. Vả lại lúc
ấy đã có vị lương thần chuyên việc ứng đối, chắc sẽ không để nhục đến mệnh vua.
Thần làm người giúp việc chỉ biết làm hết chức phận mà thôi.
Nhà vua gật đầu, rồi sai quan bình
chương Phan Lê Phiên cùng với Bằng công Nguyễn Hữu Chỉnh họp nhau bàn việc thảo
quốc thư. Trong thư đại lược nói rằng:
" Nghệ An là đất nền móng trong
cuộc trung hưng của bản triều, cùng với Thanh Hoa, đều là quận chân tay của nhà
nước, quan văn tướng võ phần nhiều ở đó mà ra. Quân lính túc vệ cũng đều kén
chọn đinh tráng ở xứ ấy sung vào. Nếu như dùng người mà bỏ đất, để họ cách trở
quê hương, xa lìa thân thích, xét về nhân tình, rất là trái ngược. Đức vua quý
quốc trọng điều tín nghĩa, hoà với láng giềng, "suy bụng ta ra bụng người",
chắc rằng không việc nhỏ mọn nào mà không soi thấu, huống chi là việc rõ ràng
như thế. Nghĩ lại đức vua quý quốc lúc mới ra Bắc, vốn lấy việc tôn phò làm
nghĩa thứ nhất. Tiên đế lúc sinh thời, từng mời ngồi trên giường, cầm tay cùng
trò chuyện. Tiếng ngọc còn văng vẳng bên tai, vội quên sao được? Kịp đến khi
tiên đế tựa ghế trối trăng mọi việc, ân cần lo cho kẻ tiểu tử này tuổi còn trẻ
nhỏ, muốn nhờ vào phúc ấm của quý quốc, để làm nơi nương tựa. Gần đây nghe tin
quý quốc sai tướng ra đóng ở Nghệ An, lòng người ngờ vực, có kẻ cho rằng đó là
do bọn bề tôi ở biên giới gây việc, không phải bản ý của quý quốc vương. Đến
lúc tiếp được bức thư tư ra, mới biết thật là vâng mệnh lệnh của quý quốc
vương. Trong thư vin vào cớ mùa thu năm ngoái bản quốc đã hứa cắt đất khao
quân. Kẻ tiểu tử này mới lên ngôi, chưa được rõ nguyên nhân việc trước, đã sai
đình thần tra cứu lại cái ước cắt đất, thì là hai châu Bố Chánh, Minh Linh (Bố
Chánh nay gồm các huyện Bố Trạch, Quảng Trạch, Tuyên Hoá thuộc Quảng Bình. Minh
Linh nay là Vĩnh Linh, Do Linh thuộc Quảng Trị (Bình Trị Thiên)), chứ không
liên can gì tới bờ cõi xứ Nghệ An. Vả lại, hồi đó đã vâng lời quý quốc vương dụ
rằng: "Quả là đất đai của nhà Lê, một tấc cũng không lấy". Nay nếu
khao quân bằng đất thì không bằng khao quân bằng của. Vậy xin tính số thu nhập
hàng năm của đất ấy, dùng làm chi phí khao quân; rồi cứ hàng năm đưa đến biên
giới, làm thành định lệ lâu dài. Xa trông quý quốc vương xét cho, để trọn tình
hoà hảo của hai nước. Cả nước chúng tôi đều lấy làm may lắm!".
Thư thảo xong, đệ lên vua xem. Vua
sai lấy ở kho nội phủ một số vàng, đoạn màu, và lụa vải thổ sản làm đồ biếu
tặng. Rồi vời Trần Công Xán vào trước mặt để dặn dò và giao cho mang đi. Ngay
hôm đó, bọn Xán lên đường. Trăm quan đều tiễn chân đến ngoài kinh thành. Riêng
Nguyễn Hữu Chỉnh thì cùng Xán ngủ đêm ở chùa Thịnh Liệt. Xán bảo Chỉnh rằng:
- Bắc bình vương là người hiểm sâu
khó lường, chuyến đi này vị tất ông ta đã nghe theo. Nhưng tôi đã vâng mệnh nhà
vua thì cứ liệu chiều biện luận, liều chết mà cãi. Còn công việc phòng bị thì
sau khi tôi đi, ông phải chú ý thêm, chớ có sơ suất. Dọc theo địa phận miền núi
Thanh Hoa, phải gấp rút chia đồn đóng giữ các nơi hiểm yếu đề phòng quân bộ.
Cửa biển trong trấn Sơn Nam cũng nên đóng cọc ngang dòng sông, để chặn quân
thuỷ. Nếu họ trái lời hẹn, mà tới đánh, thì ta đã có phòng bị trước, không đến
nỗi để việc tới nơi mới hấp tấp.
Chỉnh nói:
- Xin thầy cứ đi, không cần phải quá
lo. Lời nói của thầy ai chẳng nghe theo? Nếu không thì việc điều khiển quân
lính của trò đây cũng chẳng kém ai. Vạn nhất có biến, há lại không làm nổi một
trận sấm vang chớp giật, nghiêng biển, lật núi cho sướng bụng hay sao? Họ dù
kiệt hiệt, cũng chẳng làm được gì.
Xán không cho lời nói của Chỉnh là
phải.
Khi sứ thần đến đầu huyện Quỳnh Lưu
thì có viên tướng của Võ Văn Nhậm sai ra đóng đồn ở đấy đón vào trong đồn. Xem
xét đồ vật xong rồi, y chỉ cho ba viên sứ thần và mười tám người tôi tớ cùng
đi, còn bao nhiêu đều bảo về.
Đến doanh trấn Nghệ An, Nhậm sai thết
tiệc khoản đãi, rồi thong thả hỏi Xán rằng:
- Quan văn quan võ ở Bắc Hà như cụ
phỏng được mấy người? Vua Lê giao nước cho tên giặc Chỉnh, ý ngài tự nghĩ ra
sao? Tôi nay đã lĩnh binh phù, sớm tối sẽ kéo thẳng ra Thăng Long, trước chém
đầu giặc Chỉnh sau hỏi tội vua Lê sao lại bội ơn dong nạp đứa làm phản? Rồi báo
cáo rõ ràng với sĩ dân Bắc Hà, cho họ biết tại sao chúng tôi phải dùng quân?
Vua Lê đã không giữ nổi nước nhà thì các trấn từ Thanh Hoa trở ra, chúng tôi
không lấy, người khác cũng sẽ lấy. Nghệ An là một mảnh đất cỏn con, cắt hay
không cắt có quan hệ gì đến việc mất còn của nước nhà mà phải đi xa xin xỏ cho
mất công trèo non lội suối. Tôi chỉ e rằng con chim đã lìa tổ, đến lúc bay về
lại không có cành để đậu nữa mà thôi!
Xán im lặng, mọi người nghe nói đều
sợ hãi. Đến lúc trở ra, Xán bảo Nho rằng:
- Người Tây Sơn hành binh như bay,
tiến quân rất gấp. Xem họ đi lại vùn vụt mau chóng như thần, chống không thể
được, đuổi không thể kịp, xưa nay chưa hề nghe có giặc nào như thế. ý tôi đã lo
xa, phải đề phòng trước, lúc đi đã dặn ông Bằng phải như thế, như thế, không
biết ông ấy có nhớ không? Nếu hơi chậm trễ, việc sẽ không kịp.
Nói xong, than thở hồi lâu rồi đi.
Nho bèn nói với Xán rằng:
- Xem mưu kín của chủ tướng họ, thì
việc thôn tính nước mình họ đã sắp đặt sẵn sàng. Việc tôn phù năm trước chẳng
qua chỉ là mượn cớ mà thôi. Bọn lang sói vốn sẵn bụng ác, quyết không thể nói
bằng nhân nghĩa. Bây giờ xe sứ thần đã ra khỏi bờ cõi, kinh thành sắp bị nạn
đinh đao, sự thế quá gấp, phải tính đường quyền biến để làm cho được việc,
không nên câu nệ. Vả xem ông Bằng từ khi đắc chí đến nay, đai vàng ngang lưng,
bộ dạng nhơn nhơn tự đắc, không còn như hồi trước "nhá rễ cây mà làm nên
việc". Tôi e rằng ông ta lính quýnh ra trận, thế nào cũng bị Võ Văn Nhậm
bắt mất. Lúc đó vua ta đi hay ở lại, cũng chưa dám chắc. Chúng ta phải trù tính
thế nào để ngấm ngầm xoay lại then máy, may ra mới có thể cứu vãn được. Chỉ cần
cho nước được yên, dầu có tự tiện cũng không hề gì. Nếu cứ vâng chỉ cũ, cố
tranh cãi về việc Nghệ An, thì đúng như người ta vẫn nói: "Cướp đã vào nhà
còn sửa phên dậu". Như thế thật là thất sách. Vậy xin chữa lại quốc thư để
mang đi.
Xán nói:
- Chữa! Chữa như thế nào?
Nho nói:
- Chữa rằng: "Họ Trịnh chuyên
quyền, vua Lê đã không còn nước. May nhờ quý quốc vương tôn phò. Nếu trời còn
phù hộ nhà Lê, tiên đế đâu đến nỗi qua đời. Tôi là cháu kế tự còn nhỏ tuổi,
nghĩ rằng gánh vác không nổi, để nhục cho xã tắc. Kinh thư có chữ "làm
khách", Kinh thi nói rằng "có khách" (hai câu này đều có nghĩa
là muốn nhường nước cho người khác. ở đây, tỏ ý nhường cả nước cho Tây Sơn, và
chỉ xin cắt lại cho một mảnh để vua Lê lấy chỗ thờ cúng tổ tiên mà thôi), đều
là việc cũ đời xưa. Kính xin cắt cho một phần đất để được nối đời thờ phụng tổ
tiên. Thật là thuận mệnh trời để mà sống còn, cầu lòng thương của trời về dài
lâu vậy!". Nếu họ chỉ muốn giữ nước, không có bụng làm hại mình, thấy nói
như thế chắc hẳn phải mừng rỡ, thế nào họ cũng thả sứ thần về nước và chia đất
cho ta. Nhân thế ta có thể khuyên vua ta hãy tạm ở đất ấy. Họ không có lòng ngờ
ta, thì sẽ không đến dòm giỏ nữa. Bấy giờ ta sẽ lo tính dần dần như vua Thiếu
Khang ở Luân ấp, vua Câu Tiễn ở Cối Kê, tự nhiên sẽ có ngày trung hưng. Nếu
không thế, họ đã tức giận mà ra tay hung tàn, thì bọn mình chỉ làm ma biển khơi.
Điều đó tuy chẳng đáng kể nhưng vua ta sau khi phiêu bạt, long đong, không còn
tấc đất để nương tựa, thì dẫu đến tài như Khổng Minh cũng khó lòng mà trở tay.
Xán nói:
- Không được! Ông Bằng theo việc
quân từ lúc đầu còn để chỏm, là tay lão luyện trong chốn trận mạc, nếu như đô
thành mắc nạn binh đao, tưởng cũng không đến nỗi khốn đốn lắm. Hai nước đánh
nhau, chưa biết ai thua ai được. Chúng ta vâng mệnh đi sứ, mới ra khỏi cõi mà
đã chữa quốc thư, mạo lời chúa, chẳng những bị tội với nước mình, mà nếu bên
địch khám phá ra chỗ lừa dối đó, họ cũng không dong mình; tai vạ càng lớn,
tiếng cười không biết bao giờ mới hết. Chi bằng cứ minh bạch mà làm, việc thành
hay bại là tại ông trời, ta có lo gì.
Từ đó Nho không dám nói nữa.
Khi đến Phú Xuân, các sứ thần bày lễ
vật vào yết kiến Bắc bình vương. Xán trình quốc thư lên. Bắc bình vương xem qua
một lượt, rồi vứt xuống đất mà nói to:
- Thư này ai làm? Nói ra toàn điều
vô nghĩa lý. Người Bắc quen dùng lời lẽ để dử người. Ta không phải trẻ con mà
lừa dối được đâu!
Xán vẫn không đổi nét mặt, ung dung
trả lời:
- Xin đại vương hãy bớt giận, để tôi
nói rõ. Nếu muốn giết tôi, tôi cũng xin nói một lời rồi chết.
Bắc bình vương vốn trọng Xán, liền
đổi nét mặt mà rằng:
- Ngày xưa ta vượt biển ra Bắc, phá
Thăng Long, diệt họ Trịnh, cả nước khiếp sợ, trong triều ngoài nội đều chịu bó
tay, không ai dám làm gì. Lúc bấy giờ nếu ta chiếm giữ đất nước, xưng đế, xưng
vương, gì mà chả được? Nhưng vì ta xa mến đức của tiên đến, nên đem cả cõi đất
nguyên vẹn trả lại ngài. Cơ đồ thống nhất đều do tay ta gây dựng lại. Bắc triều
lại dùng chế sách "thượng công" để đền đáp ta. Chẳng biết
"thượng công"? là danh hiệu gì? Đối với ta có thêm được cái gì không?
Kịp đến khi tiên đế chầu trời, lễ cả sơn lăng, ta giúp đỡ cho: tự vương nối
ngôi, lễ lớn sách lập, ta chủ trương cho. Nay không cảm ơn những việc của ta
làm, lại chứa chấp kẻ phản ta, chống cự với ta, mưu đồ dành lại đất Nghệ An. Xử
sự như thế, nhân tình có ai nín nhịn được không? Ta đã phái ra hai vạn binh mã,
sai tả quân Võ Văn Nhậm thống lĩnh, thẳng tới Thăng Long, chặt đầu cha con giặc
Chỉnh về dâng. Chắc rằng khi Chỉnh nghe tin quân ta kéo ra, thế nào cũng kèm tự
tôn bỏ chạy. Bấy giờ ở dưới gươm đao, ngọc đá lẫn lộn, không biết tự tôn có giữ
được yên lành hay không? Nếu có làm sao, người trong nước lại qui oán về ta thì
thật phiền.
Xán thưa:
- Xưa đức Lê Thái tổ dẹp yên quân
Ngô, mở mang nước nhà, công đức như trời. Vua Thánh tông tự mình làm nên thái
bình, rạng danh đời trước, mở rộng về sau. Từ núi Thạch Bi ra bắc, từ dẫy Đại
Lĩnh (Thạch Bi ở Quảng Nam (Quảng Nam-Đà Nẵng) Đại Lĩnh ở Khánh Hoà (Phú
Khánh)) vào nam, đều làm tôi làm dân, ai ai cũng phải tôn kính, trải qua hàng
trăm năm. Họ Mạc tiếm ngôi, cả nước đều giận. Đấng tiên vương hội họp những người
đồng chí, dựng lại họ Lê. Họ Trịnh nối theo cũng vì có công phò Lê, cho nên mới
sai bảo được bốn phương, và được mọi người hưởng ứng. Từ mấy đời nay, chúa
Trịnh tuy là hiếp chế vua Lê, nhưng chính sóc không đổi thay, chuông khánh vẫn
ở đấy (Chính sóc là ngày mùng 1 tháng giêng; xưa các vua sáng nghiệp khi lên
ngôi thường đổi chính sóc, đây mượn ý đó để nói đến quyền vua. Chuông khánh
(nguyên văn là chuông và giá khánh) là những đồ thờ của nhà vua; đây ý nói miếu
đường của nhà vua vẫn tồn tại), thiên hạ vẫn là thiên hạ của nhà Lê. Đại vương
ruổi xe một mạch, thẳng đến kinh thành, tuy rằng oai danh đã vang dậy khắp nơi,
nhưng cũng do lấy nghĩa cả tôn phò, khiến người ta tin phục, mới được như vậy.
Nếu không, việc vào nước người ta, đâu có dễ dàng như thế. Tiên đế thoạt thấy
đại vương, tiếp đãi rất là long trọng. Trước ban sách mệnh làm tước công, rồi
sau sẽ phong vương, đó là điển cũ của bản triều, không phải trả ơn không hậu,
chớ nên thấy như thế mà cho là bạc. Một nước đã trải hơn ba trăm năm, trời cao
chứng giám, lòng người tôn sùng. Đại vương đem cả cõi đất trả lại nguyên vẹn,
là thể thuận ý trời, chiều lòng dân, chưa có thể lấy đấy làm ơn. Tiên đế mất
đi, hoàng thượng nối ngôi, mọi việc đều bẩm trước với đại vương. Đại vương
không làm chủ thì ai làm chủ nữa. Lý đã đến thế, đừng cũng chẳng được. Tôi
không dám khen ngợi để dâng lời ton hót. Đại quân về Nam, Nguyễn Hữu Chỉnh đuổi
theo, đại vương để hắn ở lại Nghệ An, sao lại bảo hắn làm phản? Nghệ An vốn là
đất cũ của bản triều, bản triều phải giữ lấy bờ cõi, sao lại nói là tranh
giành? Đại vương phái binh mã ra, nếu là để thăm hỏi, bản triều đã có lễ nghênh
tiếp. Bằng không, thì như người xưa đã nói: "Nước lớn có quân đánh dẹp,
nước nhỏ có cách chống giữ". Tôi nay đã ra khỏi cõi, việc ấy không còn dám
biết đến. Tự hoàng của nước tôi, trời đã sai làm vua, đế vương có chân mệnh,
gươm đao cũng phải lựa chọn, đại vương chớ có lo. Nếu như đại vương cứ thuận lẽ
trời mà làm, gây lại nước đã suy, nối lại họ đã dứt, để cho nước của nhà họ Lê
được yên ổn, thì những người làm tôi làm dân trong cả nước ai chẳng cảm đội
công đức, còn có oán gì? Nhược bằng làm trái lại, thì sự thế thay đổi khác
thường, tôi đây ngu dại, không thể nào mà thấy trước được.
Xán cứ cãi đi cãi lại mãi, không
chịu khuất phục một lời nào. Đến lúc trời sắp tối, Bắc bình vương bảo:
- Hãy ra nhà trọ mà nghĩ đi nghĩ lại
cho kỹ!
Xán nói:
- Nghĩ lắm luẩn quẩn lại dễ lầm lẫn,
một chết là xong!
Bắc bình vương nổi giận, sai đem
giam Xán vào ngục. Bọn án và Nho cũng đều bị chia ra giam ở các nơi khác.
Xán vào ngục, cười nói như thường,
Bắc bình vương sai người đến dò, thấy Xán viết ở chỗ giam đôi câu đối như sau:
Đạt đức hữu tam, túng vị năng chi,
nguyện học.
Tiểu tâm vô nhị, hành kỳ tố dã, hà
vưu? (nghĩa là: Đạt đức có ba, dù chẳng làm nên xin học. Giữ lòng như một, noi
theo chí cũ, oán gì? )
Tư mã Ngô Văn Sở xin giết chết bọn
Xán. Bắc bình vương còn tiếc tài của Xán, bèn bảo trung thư Lê Văn Kỷ và viên
quan bộ Lễ là Vũ Văn Trụ rằng:
- Nhân vật Bắc Hà, Xán cũng vào bậc
giỏi đấy! Ta muốn thu phục hắn để dùng, nhưng mà chắc hắn không chịu. Các ngươi
thử hiểu dụ hắn một phen nữa xem sao?
Hai người bèn đến chỗ giam Xán, thấy
Xán mang gông nằm sấp, liền nói:
- Ông già sao lại tự mình làm khổ
mình như vậy?
Xán trả lời:
- Cũng là số mệnh đấy thôi!
Kỷ nói:
- Quân tử có khi không cần theo số
mệnh, chế ngự được số mệnh là cốt ở mình. Ví như đánh bạc, đồng tiền một sấp
một ngửa; ta theo kẻ được mà đánh, thiên hạ sẽ khen ta là người đánh bạc giỏi.
Xán nói:
- Bởi thế cho nên đó chỉ là phường
cờ bạc, chứ không phải đạo của người quân tử. Tôi nghe nói: "Kẻ làm bề tôi
phải chết vì chữ trung". Đấy là lời dạy của người xưa!
Hai người biết là không thể làm lung
lay được ý chí của Xán, liền đi ra và nói với nhau:
- Nhà Hán có Tô Tử Khanh (tức Tô Vũ
đời Hán Võ đế. Khi đi sứ Hung Nô, Tô Vũ bị Hung Nô giữ lại, bắt nuôi dê ở Bắc
Hải 19 năm ròng, mà Tô Vũ vẫn giữ khí tiết không chịu khuất phục) nhà Lê có
Trần Công Xán. Đáng thương, nhưng cũng đáng ghét thay!
Vừa gặp lúc đó, vua Tây Sơn gửi thư
ra kể tội lỗi của Bắc bình vương và sắp phái quân tới đánh. Tướng sĩ dưới cờ
của Bắc bình vương có kẻ trốn đi, Bắc bình vương liền bảo Trần Văn Kỷ rằng:
- Nay nước ta có việc lôi thôi, lòng
người còn phân vân. Việc biến trong nhà không nên để nước láng giềng nghe biết.
Sứ Bắc ở đây, tai vách mạch rừng. Họ ở xa đến để dò xét ta, giữ họ ở lại thì họ
biết rõ tình hình trong nước, hoặc giả nhân đó họ xúi giục, gây ra việc không
hay. Thả họ về thì lại bị họ rêu rao làm lộ việc, người Bắc Hà mà biết, thì lại
sinh lòng khinh rẻ ta. Bởi thế, ta định ném bọn họ xuống biển, để cho hết tiếng
tăm dấu vết, vậy cứ theo chước đó mà làm.
Rồi Bắc bình vương sai đô đốc là Võ
Văn Nguyệt sắp sẵn vài chiếc thuyền biển, nói phao là đưa sứ thần về Bắc.
Lúc bọn Xán vào từ giã, Bắc bình
vương nói:
- Các ông hãy về trước, chờ lúc tôi
ra ngoài ấy vời vào gặp mặt, sẽ có cách xử trí việc Nghệ An.
Rồi Bắc bình vương lại đem tặng họ một
trăm nén bạc và bảo:
- Đây là của công chúa gửi tặng, các
ông đừng chối từ.
Tiếng gọi là đưa họ về, nhưng thật
ra Bắc bình vương đã ngầm bày mưu cho Nguyệt, người ngoài không ai được biết.
Tháng ba, mùa xuân năm Đinh vị
(1787) thuyền từ cửa Tư Dung (thuộc Thuận Hoá, nay là cửa Tư Hiền) giương buồm
ra đi, không mấy ngày đã đến cửa biển Đan Nhai thuộc thị trấn Nghệ An. Nguyệt
cùng bọn sứ thần ghé thuyền vào bờ, rồi cùng lên bộ.
Lúc ấy có người học trò của Xán là
giám sinh Nguyễn Hiên, người huyện Chân Lộc, nghe tin thầy học được về, vội
mừng rỡ đến chào. Chợt thấy nét mặt Nguyệt có vẻ khác thường, Hiên ngầm đoán
được ý của hắn, bèn nói kín với Xán hãy xin đổi đi đường bộ.
Nhưng Nguyệt nói:
- Tôi vâng mệnh đưa sứ giả đi đường
biển, thuận tiện mà ổn thoả, không nên đi đường bộ, trèo non vượt suối vất vả.
Rồi đó, cả bọn lại lên thuyền ra
biển.
Vừa ra đến ngoài khơi, Nguyệt liền
bảo bọn lái thuyền đục thuyền cho nước vào, dìm cả bọn sứ thần xuống biển. Hiên
đứng trong bờ trông ra xa gào khóc hồi lâu mà về. Hôm ấy nhằm ngày 11 tháng 4,
mùa hè năm Đinh vị (1787).
Xong việc, Nguyệt lại ghé thuyền vào
bờ, nói phao cho trong ngoài biết rằng, thuyền gặp sóng gió bị đắm, để tránh
cái tiếng giết hại sứ giả. Lúc bấy giờ, có người làm hai câu thơ rằng:
Tên lưu vũ trụ bia ngàn thuở,
Nghĩa nặng cương thường biển vạn
năm.
Từ lúc bọn Xán đi Nam, Chỉnh cho
rằng việc thế nào cũng xong, nên đã nói toạc ra ở trong triều rằng:
- Tình hình Tây Sơn như ở trong tầm
con mắt của ta. Họ sẽ mừng là ta đã không gây sự, để họ có thể chuyên tâm vào
việc nước họ. Hiện nay cuộc nội chiến của họ đang rối ren, thì giờ đâu mà lo
đến việc bên ngoài. Còn Võ Văn Nhậm thì chơ vơ ở Nghệ An ngoảnh về bên trong
không có quân cứu viện, có làm được gì? Bắc bình vương thấy thư của ta đưa đến,
thế nào cũng mừng mà nghe theo, xin đừng lo gì việc miền Nam!
Vì thế, những lời Xán dặn lúc ra đi,
Chỉnh đều không để ý tới, chỉ tâu xin cho Nguyễn Duật làm trấn thủ Thanh Hoa mà
thôi.
Lúc Duật sắp đi, Chỉnh dặn rằng:
- Chỉ nên giữ gìn bờ cõi cẩn thận,
chớ có sinh sự để bên địch nghi ngờ. Đợi khi Trần bình chương trở về, sẽ dời
vào làm trấn thủ Nghệ An, sửa lại luỹ cũ ở Hoành Sơn, giữ vững bờ cõi để làm
chước lâu dài.
Quan bình chương Phan Lê Phiên nghe
được chuyện ấy, liền đến nhà Chỉnh mà nói:
- Ông Trần đã già giặn việc đời, xét
đoán công việc rất nhanh. Ngày thường ông ấy bàn bạc tính liệu như thần, đến
lúc sự việc xảy ra, không việc gì là không đúng. Ông chớ nên xem thường!
Chỉnh cũng không cho là phải. Phiên
ra ngoài nói với người bạn đồng liêu là Trương Đăng Quỹ rằng:
- Ông Bằng vốn có tiếng là biết việc
binh, thế mà không nghe lời can, coi thường quân giặc, sợ rằng quốc đô mới qua
một cuộc tàn phá, không thể chịu nổi một trận giày đạp nữa. Chúng ta gánh chức
phụ bạt đã lâu, nếu "đổ mà không giữ, nguy mà không phò" thì còn dùng
hạng tướng quốc như chúng ta làm gì?
Hai người than thở cùng nhau hồi
lâu, rồi Phiên nói:
- Nghĩ lại công đức của tiên đế rất
lớn, mà nay ngài chưa có miếu hiệu, không bàn định cho kịp lúc này, rốt cuộc
điển lễ vẫn thiếu.
Hai người bèn cùng bàn với các quan,
dùng sách vàng tôn xưng tiên đế làm Vĩnh hoàng đế, miếu hiệu Hiển tông. Rồi tâu
với vua xin làm lễ cáo miếu. Chỉnh nói:
- Theo lễ, việc tôn xưng miếu hiệu
phải chờ sau ngày đại tường, khi đã rước linh vị vào miếu rồi mới cử hành, làm
gì mà gấp thế?
Phiên nói:
- Việc đời chưa biết thế nào, bây
giờ chính là lúc cần phải tôn mỹ hiệu của tiên đế cho xong ngay đi!
Chỉnh nghe nói cũng im lặng.
Lại nói, lúc Nguyễn Hữu Chỉnh từ
Nghệ An vào kinh. án đô vương Trịnh Bồng chạy qua sông, sang trấn Kinh Bắc, vào
tạm lánh ở làng Quế ổ. ở đấy có viên võ biền tên là Nguyễn Đình Toại (Cương mục
chép là Nguyễn Trọng Mại) vâng mật chỉ của chúa kêu gọi các thổ hào vùng Thuận
Thành, Từ Sơn mộ quân nghĩa dũng, mưu đồ đánh Chỉnh để dẹp yên nạn nước và khôi
phục nghiệp cũ. Rồi đó, Toại lại đưa hịch cho các phiên thần ở vùng Lạng Sơn,
Cao Bằng, bảo họ họp quân lại, làm việc cần vương.
Chỉnh thấy vậy, luôn luôn tỏ ý muốn
đánh, nhưng vì có Dương Trọng Tế chiếm giữ huyện Gia Lâm, đắp luỹ chống nhau
với Chỉnh, đường đi còn bị ngáng trở một lối, nên Chỉnh đành phải tạm gác việc
ấy lại chưa làm vội. Kịp đến khi Trọng Tế đã bị giết, Chỉnh bèn hối hả cho việc
đánh chúa Trịnh là điều cần thứ nhất, liền tâu xin tự mình đem quân bản bộ tiến
đánh.
Vua Lê nghĩ chúa Trịnh vốn có lòng
kính thuận không nỡ đánh, vả trong bụng đang hết sức ghét Chỉnh, không muốn cho
hắn đắc chí, sợ sẽ thành cái thế lấn át vua, nên muốn ngăn việc ấy lại. Nhưng
rồi khó nói ra lời, nhà vua bèn sai viên nội hàn là Vũ Trinh tuyên rõ chỉ ý của
vua và truyền cho Chỉnh biết rằng:
- Gia đinh họ Trịnh trải qua nhiều
đời, thực có công lớn, nếu để người như Tử Văn mà phải tuyệt tự thì lấy gì mà
khuyến khích điều thiện? (Tử Văn tên thực là Đấu Cốc Ô Đồ, người đời Xuân thu,
làm quan nước Sở, có công lớn trong việc trị nước. Sau người em họ là Đấu Việt
Thục làm loạn, đáng lẽ phải tru di cả họ, nhưng Sở Trang Vương tha tội cho
người cháu của Tử Văn, và nói: "Người như Tử Văn mà bị tuyệt tự thì lấy gì
mà khuyến khích điều thiện"). Chỉ bằng trước hãy làm bài cáo văn hiểu dụ
rõ đường phúc hoạ cho y. Nếu y cứ u mê không tỉnh, sau đó ta hãy đem quân đánh.
Ta cứ giữ niềm trung hậu, để cho người ngoài không nói vào đâu được, há không
hơn hay sao?
Chỉnh không nghe, nói:
- Nếu tôi không đem quân ra, để cho
việc Trọng Tế giúp chúa được thành, xem y có xử hậu với hoàng thượng không? Anh
hùng làm việc, há lại theo lòng nhân đức của đàn bà?
Rồi Chỉnh cố xin ra quân, vua Lê bất
đắc dĩ phải cho Chỉnh đốc suất các quân qua sông, thuyền bè chật cả mặt nước,
khí thế rất là lẫm liệt đáng sợ.
Chúa Trịnh nghe tin, vội vàng sai
Toại đốc suất người trong họ ở Quế ổ làm quân tiền phong, thổ hào Yên Dũng là
Nguyễn Trọng Linh làm tướng chống bên tả, thổ hào Gia Bình là Trần Quan Châu
làm tướng chống bên hữu, bày trận chờ sẵn.
Quân Chỉnh tới nơi, hai bên đánh
nhau từ sáng đến trưa, chưa phân được thua; sau đều rút quân để nghỉ ngơi.
Chỉnh sai người đưa tờ chiếu của vua
tới dụ chúa, khuyên nên qui thuận, không nên chống cự. Chúa cười mà nói:
- Hữu Chỉnh đến đây lần này, ý muốn
bắt sống ta, nếu nuốt trôi được, chắc không chịu nhả ra. Nay lại lấy lời ngon
ngọt dỗ ta, thằng nghịch tặc này quỉ quyệt đáng ghét thật. Tuy vậy, hắn đã mượn
mệnh lệnh hoàng thượng đưa ra, ta không thể im lặng không trả lời.
Chúa bèn tự thảo một tờ biểu trần
tình, kể tội ác của Chỉnh và nói nhân dân ai cũng nghiến răng tức giận, xin hãy
giết Chỉnh đã, rồi sẽ về triều, lời lẽ có nhiều câu gay gắt.
Thật là:
Sống mái ngoài đồng còn chửa quyết,
Trai cò trong ruộng vẫn giằng co
Chưa biết thua được ra sao? Hãy xem
hồi sau phân giải.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét