CỘNG
ĐỒNG MẠNG RƠI NƯỚC MẮT VÌ TỰ SỰ ĐỚN ĐAU CỦA CHA ĐẺ “MÀU TÍM HOA SIM”
Gần đây,
những tự sự của nhà thơ Hữu Loan, cha đẻ "Màu tím hoa sim” nổi tiếng đã
tạo ra niềm xúc động lớn trong cộng đồng mạng. Tự sự đớn đau này được chia sẻ
rất nhiều trên Facebook tạo nên nhiều thổn thức. "Rất cảm động, vì sự chân
thành, vì tình người, tính người. Và có thể hình dung cả bối cảnh một thời cuộc
tao loạn. Mỗi số phận cá nhân đều chứa trong lòng nó những bi kịch của lịch
sử"- (Kim Dung)
Những
người yêu thơ tình, không ai không biết đến bài thơ "Màu tím hoa sim” đầy
xúc động. Đằng sau đó là một câu chuyện còn sâu sắc hơn, đau đáu hơn của tác
giả Hữu Loan.
MÀU TÍM
HOA SIM
Nàng có
ba người anh
Ði bộ
đội
Những em
nàng có em chưa biết nói
Khi tóc
nàng đang xanh
Tôi
người vệ quốc quân
Xa gia
đình
Yêu nàng
Như
tìnhyêu em gái
Ngày hợp
hôn
Nàng
không đòi may áo cưới
Tôi mặc
đồ quân nhân
Ðôi giầy
đinh
Bết bùn
đất hành quân
Nàng
cười xinh xinh
Bên ông
chồng độc đáo
Tôi ở
đơn vị về
Cưới
nhau xong là đi
Từ chiến
khu xa
Nhớ về
ái ngại
Lấy
chồng thời chiến chinh
Mấy
người đi trở lại
Lỡ khi
mình không về
Thì
thương người vợ chờ
Bé bỏng
chiều quê ...
Nhưng
không chết người trai khói lửa
Mà chết
người em gái nhỏ hậu phương ...
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi
ngồi bên mộ con
Ðầy bóng
tối
Chiếc
bình hoa ngày cưới
Thành
bình hương
Tàn lạnh
vây quanh...
Tóc nàng
xanh xanh
Ngắn
chưa đầy búi
Em ơi!
Giây
phút cuối
Không
được nghe nhau nói
Không
được trông thấy nhau một lần
Ngày
xưa...
Nàng yêu
hoa sim tím
Áo nàng
màu tím hoa sim
Ngày xưa
môt mình
đêm
khuya
bóng nhỏ
Nàng vá
cho chồng tấm áo ngày xưa.
Môt
chiều rừng mưa
Ba người
anh
Từ chiến
trường Ðông Bắc
Ðược tin
em gái mất
Trước
tin em lấy chồng
Gió sớm
thu về
Rờn rợn
nước sông
Ðứa em
nhỏ lớn lên
Ngỡ
ngàng trông ảnh chị
Khi gió
sớm thu về
Cỏ vàng
chân mộ chí
Chiều
hành quân
Qua
những đồi hoa sim
Những
đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím
hoa sim
Tím
chiều hoang biền biệt
Nhìn áo
rách vai
Tôi hát
trong màu hoa
"Áo
anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh
chết sớm mẹ già chưa khâu".
XIN
TRÍCH ĐĂNG NHỮNG DÒNG TỰ THUẬT CỦA CHÍNH NHÀ THƠ HỮU LOAN:
"Tôi
sinh ra trong một gia đình nghèo, hồi nhỏ không có cơ may cắp sách đến trường
như bọn trẻ cùng trang lứa, chỉ được cha dạy cho dăm chữ bữa có bữa không ở
nhà. Cha tôi tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung
học, theo ban thành chung tôi cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc
Hà Nội học.
Đến năm
1938 – lúc đó tôi cũng đã 22 tuổi – Tôi ra Hà Nội thi tú tài, để chứng tỏ rằng
con nhà nghèo cũng thi đỗ đạt như ai. Tuyệt nhiên tôi không có ý định dấn thân
vào chốn quan trường. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người
đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi 5-6 chục năm sau những người cùng
thời còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, trong đó có Nguyễn Đình Thi , Hồ Trọng
Gin, Trịnh Văn Xuấn, Đỗ Thiện và…tôi – Nguyễn Hữu Loan.
Với mảnh
tú tài Tây trong tay, tôi rời quê nhà lên Thanh Hóa để dạy học. Nhãn mác con
nhà nghèo học giỏi của tôi được bà tham Kỳ chú ý, mời về nhà dạy cho hai cậu
con trai. Tên thật của bà tham Kỳ là Đái Thị Ngọc Chất, bà là vợ của của ông Lê
Đỗ Kỳ, tổng thanh tra canh nông Đông Dương, sau này đắc cử dân biểu quốc hội
khóa đầu tiên.
Ở Thanh
Hóa, bà tham Kỳ có một cửa hàng bán vải và sách báo, tôi thường ghé lại xem và
mua sách, nhờ vậy mới được bà để mắt tới. Bà tham Kỳ là một người hiền lành,
tốt bụng, đối xử với tôi rất tốt, coi tôi chẳng khác như người nhà.
Nhớ ngày
đầu tiên tôi khoác áo gia sư, bà gọi mãi đứa con gái – lúc đó mới 8 tuổi - mới
chịu lỏn lẻn bước ra khoanh tay, miệng lí nhí: ” Em chào thầy ạ!” Chào xong, cô
bé bất ngờ mở to đôi mắt nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt to, đen láy, tròn xoe như
có ánh chớp ấy đã hằn sâu vào tâm trí tôi, theo tôi suốt cả cuộc đời.
Thế là
tôi dạy em đọc, dạy viết. Tên em là Lê Đỗ Thị Ninh, cha làm thanh tra nông lâm
ở Sài Gòn nên sinh em trong ấy, quen gọi mẹ bằng má. Em thật thông minh, dạy
đâu hiểu đấy nhưng ít nói và mỗi khi mở miệng thì cứ y như một “bà cụ non”.
Đặc biệt
em chăm sóc tôi hằng ngày một cách kín đáo: em đặt vào góc mâm cơm chỗ tôi ngồi
ăn cơm lúc thì vài quả ớt đỏ au, lúc thì quả chanh mọng nước em vừa hái ở vườn,
những buổi trưa hè, nhằm lúc tôi ngủ trưa, em lén lấy áo sơ mi trắng tôi treo ở
góc nhà mang ra giếng giặt …..
Có lần
tôi kể chuyện ”bà cụ non” ít nói cho hai người anh của em Ninh nghe, không ngờ
chuyện đến tai em, thế là em giận! Suốt một tuần liền, em nằm lì trong buồng
trong, không chịu học hành… Một hôm bà tham Kỳ dẫn tôi vào phòng nơi em đang
nằm thiếp đi. Hôm ấy tôi đã nói gì, tôi không nhớ nữa, chỉ nhớ là tôi đã nói
rất nhiều, đã kể chuyện em nghe, rồi tôi đọc thơ…
Trưa hôm
ấy, em ngồi dậy ăn một bát to cháo gà và bước ra khỏi căn buồng. Chiều hôm sau,
em nằng nặc đòi tôi đưa lên khu rừng thông. Cả nhà không ai đồng ý: “Mới ốm dậy
còn yếu lắm, không đi được đâu” Em không chịu nhất định đòi đi cho bằng được.
Sợ em lại dỗi nên tôi đánh bạo xin phép ông bà tham Kỳ đưa em lên núi chơi …..
Xe kéo
chừng một giờ mới tới được chân đồi. Em leo đồi nhanh như một con sóc, tôi đuổi
theo muốn đứt hơi. Lên đến đỉnh đồi, em ngồi xuống và bảo tôi ngồi xuống bên
em.Chúng tôi ngồi thế một hồi lâu, chẳng nói gì.
Bất chợt
em nhìn tôi, rồi ngước mắt nhìn ra tận chân trời, không biết lúc đó em nghĩ gì.
Bất chợt em hỏi tôi:
- Thầy
có thích ăn sim không ?
Tôi nhìn
xuống sườn đồi tím ngắt một màu sim. Em đứng lên đi xuống sườn đồi, còn tôi vì
mệt quá nên nằm thiếp đi trên thảm cỏ…
Khi tôi
tỉnh dậy, em đã ngồi bên tôi với chiếc nón đầy ắp sim. Những quả sim đen láy
chín mọng.
- Thầy
ăn đi.
Tôi cầm
quả sim từ tay em đưa lên miệng trầm trồ:
- Ngọt
quá!
Như đã
nói, tôi sinh ra trong một gia đình nông dân, quả sim đối với tôi chẳng lạ lẫm
gì, nhưng thú thật tôi chưa bao giờ ăn những quả sim ngọt đến thế!
Cứ thế,
chúng tôi ăn hết qủa này đến qủa khác. Tôi nhìn em, em cười. Hai hàm răng em đỏ
tím, đôi môi em cũng đỏ tím, hai bên má thì… tím đỏ một màu sim. Tôi cười phá
lên, em cũng cười theo!
Cuối mùa
đông năm ấy, bất chấp những lời can ngăn, hứa hẹn can thiệp của ông bà tham Kỳ,
tôi lên đường theo kháng chiến.
Hôm tiễn
tôi, em theo mãi ra tận đầu làng và lặng lẽ đứng nhìn theo. Tôi đi… lên tới bờ
đê, nhìn xuống đầu làng ,em vẫn đứng đó nhỏ bé và mong manh. Em giơ bàn tay nhỏ
xíu như chiếc lá sim ra vẫy tôi. Tôi vẫy trả và lầm lũi đi…Tôi quay đầu nhìn
lại… em vẫn đứng yên đó… Tôi lại đi và nhìn lại đến khi không còn nhìn thấy em
nữa.
Những
năm tháng ở chiến khu, thỉnh thoảng tôi vẫn được tin tức từ quê lên, cho biết
em vẫn khỏe và đã khôn lớn. Sau này, nghe bạn bè kể lại, khi em mới 15 tuổi đã
có nhiều chàng trai đên ngỏ lời cầu hôn nhưng em cứ trốn trong buồng, không
chịu ra tiếp ai bao giờ …
Chín năm
sau, tôi trở lại nhà… Về Nông Cống tìm em. Hôm gặp em ở đầu làng, tôi hỏi em,
hỏi rất nhiều, nhưng em không nói gì, chỉ bẽn lẽn lắc hoặc gật đầu. Em giờ đây
không còn cô học trò Ninh bướng bỉnh nữa rồi.
Em đã
gần 17 tuổi, đã là một cô gái xinh đẹp… Yêu nhau lắm nhưng tôi vẫn lo sợ vì hai
gia đình không môn đăng hộ đối một chút nào. Mãi sau này mới biết việc hợp hôn
của chúng tôi thành công là do bố mẹ em ngấm ngầm ”soạn kịch bản”.
Một tuần
sau đó chúng tôi kết hôn. Tôi bàn việc may áo cưới thì em gạt đi, không đòi may
áo cưới trong ngày hợp hôn, bảo rằng là: "yêu nhau, thương nhau cốt là cái
tâm và cái tình bền chặt là hơn cả”.
Tôi cao
ráo, học giỏi, Làm thơ hay…lại đẹp trai nên em thường gọi đùa là anh chồng độc
đáo. Đám cưới được tổ chức ở ấp Thị Long, huyện Nông Công, tỉnh Thanh Hóa của
gia đình em, nơi ông Lê Đỗ Kỳ có hàng trăm mẫu ruộng.
Đám cưới
rất đơn sơ, nhưng khỏi nói, hai chúng tôi hạnh phúc hơn bao giờ hết! Hai tuần
phép của tôi trôi qua thật nhanh, tôi phải tức tốc lên đường hành quân, theo sư
đoàn 304, làm chủ bút tờ Chiến Sĩ.
Hôm tiễn
tôi lên đường, em vẫn đứng ở đầu làng, nơi chín năm trước em đã đứng. Chỉ có
giờ em không còn cô bé Ninh nữa mà là người bạn đời yêu quý của tôi. Tôi bước
đi, rồi quay đầu nhìn lại…..
Nếu như
chín năm về trước, nhìn lại chỉ thấy một nỗi buồn man mác thì lần này, tôi thật
sự đau buồn. Đôi chân tôi như muốn khuỵu xuống. Ba tháng sau, tôi nhận được tin
dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch
năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồn (thuộc ấp Thị Long, Nông
Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi đi nên trượt chân chết đuối!
Con nước
lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại tôi
tôi nỗi đau không gì bù đắp nỗi. Nỗi đau ấy, gần 60 năm qua, vẫn nằm sâu thẳm
trong trái tim tôi.Tôi phải giấu kín nỗi đau trong lòng, không được cho đồng
đội biết để tránh ảnh hưởng đến tinh thần chiến đấu của họ. Tôi như một cái xác
không hồn…
Dường
như càng kìm nén thì nỗi đau càng dữ dội hơn. May sao, sau đó có đợt chỉnh
huấn, cấp trên bảo ai có tâm sự gì cứ nói ra, nói cho hết. Chỉ chờ có thế, cơn
đau trong lòng tôi được bung ra. Khi ấy chúng tôi đang đóng quân ở Nghệ An, tôi
ngồi lặng đi ở đầu làng, hai mắt tôi đẫm nước, tôi lấy bút ra ghi chép.
Chẳng
cần phải suy nghĩ gì, những câu những chữ mộc mạc cứ trào ra: “Nhà nàng có ba
người anh đi bộ đội… Những em nàng có em chưa biết nói. Khi tóc nàng đang
xanh…” Tôi về không gặp nàng…
Về viếng
mộ nàng, tôi dùng chiếc bình hoa ngày cưới làm bình hương, viết lại bài thơ vào
chiếc quạt giấy để lại cho người bạn ở Thanh Hóa… Anh bạn này đã chép lại và
truyền tay nhau trong suốt những năm chiến tranh.
Đó là
bài thơ Màu tím hoa Sim. Đến đây, chắc bạn biết tôi là Hữu Loan, Nguyễn Hữu
Loan, sinh ngày 2-4-1916 hiện tại đang “ở nhà trông vườn” ở làng Nguyên Hoàn –
nơi tôi gọi là chỗ “quê đẻ của tôi đấy” thuộc xã Mai Lĩnh, huyện Nga Sơn tỉnh
Thanh Hóa.
Em Ninh
rất ưa mặc áo màu tím hoa sim. Lạ thay nơi em bị nước cuốn trôi dưới chân núi
Nưa cũng thường nở đầy những bông hoa sim tím. Cho nên tôi viết mới nổi những
câu : “Chiều hành quân, qua những đồi sim…
Những
đồi sim, những đồi hoa sim.. Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết.. Màu
tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt…Và chiều hoang tím có chiều hoang
biết…Chiều hoang tim tím thêm màu da diết.”
Mất
nàng, mất tất cả, tôi chán đời... từ giã văn đàn về quê làm ruộng, một phần
cũng vì tính tôi” hay cãi, thích chống đối, không thể làm gì trái với suy nghĩ
của tôi”. Bọn họ chê tôi ủy mị, hoạch hoẹ đủ điều... Mặc kệ! Tôi thương tôi,
tôi nhớ hoa sim của tôi quá!
Làm thơ
lúc bấy giờ là phải ca tụng, trong khi đó tôi lại đề cao tình yêu, tôi khóc
người vợ tử tế của mình, người bạn đời hiếm có của mình. Lúc đó tôi khóc như
vậy họ cho là khóc cái tình cảm riêng…
Y như
trong thơ nói ấy, tôi lấy vợ rồi ra mặt trận, mới lấy nhau chưa được hơn một
tháng, ở nhà vợ tôi đi giặt rồi chết đuối ở sông…
Tôi thấy
đau xót, tôi làm bài thơ ấy tôi khóc, vậy mà họ cho tôi là phản động. Tôi phản
động ở chỗ nào? Cái đau khổ của con người, tại sao lại không được khóc? Bọn họ
xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của tôi đối với người vợ mà tôi hằng yêu
quý...
Tôi bỏ
tôi về, tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe
tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng
bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo.
Xe cút
kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai tôi, tôi cũng cứ gánh,
không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản...
Định
mệnh đưa đẩy, dắt tôi đến với một phụ nữ khác, sống cùng tôi cho đến tận bây
giờ. Cô tên Phạm Thị Nhu, cũng là phụ nữ có tâm hồn sâu sắc. Cô vốn là một nạn
nhân của chiến dịch cải cách ruộng đất, đấu tố địa chủ năm 1954, 1955. Lúc đó
tôi còn là chính trị viên của tiểu đoàn. Tôi thấy tận mắt những chuyện đấu tố.
Là người có học, lại có tâm hồn nghệ sĩ nên tôi cảm thấy chán nản quá, không
còn hăng hái nữa.
Thú
thật, lúc đó tôi thất vọng vô cùng. Trong một xã thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh
Thanh Hóa, cách xa nơi tôi ở 15 cây số, có một gia đình địa chủ rất giàu, nắm
trong gần năm trăm mẫu tư điền. Trước đây, ông địa chủ đó giàu lòng nhân đạo và
rất yêu nước.
Ông thấy
bộ đội sư đoàn 304 của tôi thiếu ăn nên ông thường cho tá điền gánh gạo đến chỗ
đóng quân để ủng hộ. Tôi là trưởng phòng tuyên huấn và chính trị viên của tiểu
đoàn nên phải thay mặt anh em ra cám ơn tấm lòng tốt của ông, đồng thời đề nghị
lên sư đoàn trưởng trao tặng bằng khen ngợi để vinh danh ông .
Thế rồi,
một hôm, tôi nghe tin gia đình ông đã bị đấu tố. Gia đình ông bà địa chủ bị xử
tử hết, chỉ có một cô con gái 17 tuổi được tha chết nhưng bị đuổi ra khỏi nhà
với vài bộ quần áo cũ rách.
... Tôi
vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé cứ buổi chiều lại lén lút
đứng núp bên ngoài cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Lúc gần
tới xã, tôi gặp cô ta áo quần rách rưới, mặt mày lem luốc....
Quá xúc
động, nước mắt muốn ứa ra, tôi đến gần và hỏi thăm và được cô kể lại rành rọt
hôm bị đấu tố cha mẹ cô bị chết ra sao. Cô khóc rưng rức và nói rằng gặp ai
cũng bị xua đuổi; hằng ngày cô đi mót khoai ăn đỡ đói lòng, tối về ngủ trong
chiếc miếu hoang, cô rất lo lắng, sợ bị làm bậy và không biết ngày mai còn sống
hay bị chết đói. Tôi suy nghĩ rất nhiều, bèn quyết định đem cô về làng tôi, và
bất chấp lệnh cấm, lấy cô làm vợ.
Sự quyết
định của tôi không lầm. Quê tôi nghèo, lúc đó tôi còn ở trong bộ đội nên không
có tiền, nhưng cô chịu thương chịu khó, bữa đói bữa no… Cho đến bây giờ cô đã
cho tôi 10 người con – 6 trai, 4 gái – và cháu nội ngoại hơn 30 đứa!
Trong
mấy chục năm dài, tôi về quê an phận thủ thường, chẳng màng đến thế sự, ngày
ngày đào đá núi đem đi bán, túi dắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng
Việt đọc cho giải sầu, lâu lâu nổi hứng thì làm thơ...
Năm
1988, tôi "tái xuất giang hồ” sau 30 năm tự chôn và bị chôn mình ở chốn
quê nghèo đèo heo hút gió. Tôi lang bạt gần một năm trời theo chuyến đi xuyên
Việt do hội văn nghệ Lâm Đồng và tạp chí Langbian tổ chức.
Vào tuổi
gần đất xa trời, cuối năm 2004, công ty Viek VTB đột nhiên đề nghị mua bản
quyển bài Màu tím hoa Sim của tôi với giá 100 triệu đồng. Họ bảo đó là một hình
thức bảo tồn tài sản văn hóa. Thì cũng được đi. Khoản tiền 100 triệu trừ thuế
đi còn 90 triệu, chia “lộc” cho 10 đứa con hết 60 triệu đồng, tôi giữ lại 30
triệu đồng, phòng đau ốm lúc tuổi già, sau khi trích một ít để in tập thơ
khoảng 40 bài mang tên Thơ Hữu Loan.
Sau vụ
này cũng có một số công ty khác xin ký hợp đồng mua mấy bài thơ khác, nhưng tôi
từ chối, thơ tôi làm ra không phải để bán".
(Nhà thơ
Hữu Loan)
Nhà thơ Hữu
Loan (1916-2010)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét