Chương 10 : Lân dương hầu phò chúa vượt biển
đến Yên Quảng, Bằng công Chỉnh mời vua qua sông đi Lạng Sơn
Lại nói, Chỉnh thấy lời lẽ trong tờ biểu, gọi
mình là thằng giặc, thì nổi giận đùng đùng, vung gươm quát to:
- Cái
quân mất nước kia mà chưa biết sợ, còn dám múa bút khua lưỡi để lừa người trong
nước! Hôm nay ta thề với hắn một sống một thác. Tướng sĩ các ngươi đều phải
trông cờ nghe trống, ra sức xông vào trận mạc, chỉ có tiến không có lùi. Kẻ nào
không nghe mệnh lệnh đã có thanh gươm này!
Rồi
Chỉnh vận đồ trận, lên mình voi, cầm lá cờ đỏ vẫy các quân sĩ tiến về phía
trước.
Nguyễn
Như Thái tế ngựa vào trận hò reo "giết giặc". Súng nổ, cung bắn, tên
đạn bay tới tấp như mưa rào.
Quân bên
tả của chúa chống không nổi cơ hồ sắp vỡ. Chúa bèn sai đội tiền phong hợp với
hai đội tả hữu vừa đánh vừa lui vào trong luỹ, rồi chia quân để cố thủ.
Chỉnh
dàn quân giáp liền với luỹ, bốn mặt đánh vào, suốt nửa ngày không lấy được luỹ.
Đến tối, mưa dầm rả rích, gió thổi ào ào, trời đất đen ngòm, cách gang tấc
không trông thấy gì. Chỉnh hạ lệnh cho quân lính vây sát luỹ của chúa. Chúa bèn
chia quân làm ba toán. Những người dũng cảm thì làm hai cánh quân trước và sau,
do Toại và Châu đốc suất. Những người già yếu thì cho làm cánh giữa, chúa tự
dẫn đi.
Đêm đã
yên lặng, chiêng trống im bặt, đèn lửa tắt hết. Ngoài luỹ súng bắn liên thanh
không ngớt, mà trong luỹ im lặng như tờ. Chỉnh sai quân do thám ngầm đến dưới
luỹ nghe ngóng, hình như trong luỹ không có người, nhưng cũng không lường được
hư thực ra sao.
Đến canh
tư, mưa và sấm sét lại nổi lên dữ dội.
Chúa sai
mở rộng cửa luỹ, bảo Toại, Châu ra trước, mỗi người đem năm mươi tên dũng sĩ,
đánh thẳng vào doanh của Chỉnh; Toại đánh mặt tả, Châu đánh mặt hữu, mở một
đường ở giữa. Tiếp đó chúa dồn quân ra, nhằm phía đông mà chạy, để Toại và Châu
làm đội chặn hậu.
Đêm ấy,
quân của Chỉnh không phân biệt ai với ai, bắn nhau đâm nhau lộn bậy. Sáng ra
mới biết rõ sự thật, thì đuổi theo không kịp nữa rồi. Chỉnh dồn quân vào luỹ,
chỉ thấy nhà cửa rỗng không, sai quân tìm kiếm khí giới lương thực, chẳng được
gì hết. Chỉnh rầu rầu không vui, liền rút quân về kinh.
Chúa
Trịnh chạy đến Hàm Giang, nương tựa vào Đinh Tích Nhưỡng. Bao nhiêu quân lính
già yếu, chúa đều cho về, chỉ để hai tướng Châu, Toại và hơn một trăm thủ hạ ở
lại với mình. Nhưỡng sai dọn riêng một trại để cho chúa ở.
Tính
Nhưỡng nóng nảy, lại không thông thạo nghề làm tướng, và cũng không phải thật
thà có lòng trung nghĩa. Lời nói, việc làm thường ngày của Nhưỡng cũng đều là
giả dối, cốt lấy tiếng mà thôi. Từ khi xuất thân tới nay, Nhưỡng chỉ quen thuỷ
chiến, chứ chưa từng đốc suất lính bộ. Sau trận thua ở huyện Kim Động, Nhưỡng
bỏ hết thuyền bè, thất thểu chạy về miền đông, giữ trấn thành Hải Dương. May
nhờ ở đấy sẵn có quân lương, nhưng Nhưỡng không khéo vỗ về trăm họ, lại thả
lỏng cho bộ hạ cướp bóc xóm làng, nên dân chúng hai phủ Thượng Hồng, Hạ Hồng
đều căm giận. Hào mục các nơi hùa nhau nổi lên đánh lại, Nhưỡng phải bỏ chạy về
Hàm Giang. Khi nghe tin Tây Sơn đã về Nam, Nhưỡng lại kéo quân vào kinh, định
mưu lập quận Thuỵ để chống vua Lê. Đến khi quận Thuỵ thua chạy. Nhưỡng bất đắc
dĩ lại phải bám vào chúa Trịnh Bồng. Lúc nghe tin Chỉnh lại ra Bắc, sợ Chỉnh
không dong mình, Nhưỡng bèn dẫn quân về đông, xin lĩnh hai trấn Hải Dương, Yên
Quảng để tránh tai vạ. Khi chúa chạy về Quế ổ, Nhưỡng vẫn vẫy vùng ở phía đông,
chưa hề lần nào đến thăm chúa. Đến lúc này, chúa đến Hàm Giang, Nhưỡng luôn
luôn tỏ vẻ nhạt nhẽo, lễ ý xem chừng cũng đơn bạc. Toại và Châu đêm ngày ở bên
cạnh chúa. Đối với Toại thì Nhưỡng ghen ghét là con nhà tướng; đối với Châu thì
Nhưỡng khinh rẻ là kẻ bạch đinh. Hai người dò biết ý Nhưỡng, sợ có điều gì bất
trắc, nên đều từ giã chúa và ra đi cùng một ngày.
Chúa
khóc lóc tiễn đưa hai người và nói:
- Tục
ngữ có câu "chết đuối vớ phải bọt", bám cũng không được, chẳng bao
lâu nữa ta cũng đi thôi, giữ các ngươi lại làm gì cho nhục!
Chúa ở
lại hơn 10 ngày. Nhưỡng không hề nói đến việc quân, việc nước. Chợt một đêm,
Nhưỡng tới chỗ chúa ở mà nói:
- Trời
thanh trăng sáng, vẻ thu rất đẹp, thần đã đem rượu lên thuyền chờ đợi, xin chúa
đi chơi một lúc, ngắm xem phong cảnh, cho khuây nỗi buồn.
Chúa tỏ
vẻ sầu não mà rằng:
- Phong
cảnh vẫn như thường mà ngước mắt thấy non sông khác lạ. Ta chưa giết được quân
thù, không nên quên ngồi trên áo giáp. Bơi thuyền uống rượu không phải là việc
của ta ngày nay. Tướng quân hãy đi mà chơi!
Sau khi
Nhưỡng đi, chúa rầu rầu tựa ghế, bảo bọn người hầu:
- Quan
võ đều không thể trông cậy, hoặc giả bọn quan văn có khá hơn chăng? Chúa bèn
viết bức thư, sai người ngấm ngầm đưa cho quan bình chương là Trương Đăng Quỹ.
Thư nói rằng:
"Kiếp
này sinh ra lỗi thời, gặp lúc nhà nước lắm nạn; lạm dự vào dòng đích nhà chúa,
rất lo cho việc tôn miếu xã tắc. Dâng biểu trần tình, may được hoàng thượng cho
về triều kiến. Lúc mới về, chỉ muốn giữ lấy việc thờ phụng tổ tiên cho tròn đạo
hiếu, thực không có bụng chuyên quyền giữ nước. Sự thế đổi thay, lại bị chư
tướng ép buộc, thành ra trái ý hoàng thượng. Lúc Chỉnh vào kinh, cung khuyết
liền bị tiêu huỷ. Con chim bị cháy tổ, bay quanh không biết nương nhờ vào đâu.
Vì thế phải phiêu bạt giang hồ, không dám về nơi kinh khuyết. Nay Quế ổ, mai
Hàm Giang, chỉ vì lo tìm nơi trú ngụ, bèn vướng lấy hình tích chống chế triều
đình, khiến kẻ ghét mình có cớ mà nói. Mảnh lòng kính thuận, không có cách nào
thấu đến bề trên. Ông hãy dùng lời lẽ khéo léo, tâu bày giúp cho. Lần này, dù
tiến dù lui, tuỳ theo mệnh lệnh của hoàng thượng".
Quỹ tiếp
thư ấy, liền đem tâu vua. Vua ngậm ngùi mà rằng:
- Tấm
lòng thật thà của chúa, trẫm đã lường biết. Chỉ vì không khéo xử sự trong lúc
gặp biến cố nên mới đến nỗi như thế. Nếu đã nghĩ lại và biết hối lỗi, trẫm sẽ
có cách đỗi đãi, chẳng những giữ được dòng dõi, mà cũng không mất địa vị giàu
sang.
Luôn
dịp, vua Lê bèn sai Quỹ làm sứ thần đi nghênh tiếp, đón chúa về triều.
Lúc đó, chúa
ở Hàm Giang, nghe nói Nhưỡng và Chỉnh ngấm ngầm thông tin tức với nhau, ngỡ
rằng bọn chúng có mưu đồ gì khác, liền than rằng:
- Đây
không phải là chỗ yên lành có thể ở được. Ta thà vượt biển vào núi còn hơn là
ngồi lại mà chịu nhục.
Rồi chúa
sai người hầu bí mật mượn mấy chiếc thuyền buôn, đang đêm đem cả đồ đảng, thuận
gió giương buồm chạy thẳng tới Sơn Nam. Sáng ngày Nhưỡng mới biết, rất lấy làm
kinh sợ mà nói:
- Chúa
đi sang nam mà không bảo cho ta biết trước, phải chăng là có ý ngờ ta? Nếu
không theo chúa, lòng này không sao bộc bạch ra được, thiên hạ sẽ cho ta là
người thế nào?
Tức thì,
Nhưỡng cũng cưỡi chiếc thuyền binh chạy theo chúa.
Chúa đến
huyện Chân Định thì có Phạm Tôn Lân (Cương mục chép là Phạm Đình Thiện) lên
thuyền yết kiến.
Lân quê
ở làng Bác Trạch, huyện Chân Định (nay là huyện Kiến Xương, thuộc Thái Bình),
vốn dòng dõi thế phiệt; ông tổ đời trước là Phạm Tôn Nhậm, một danh tướng của
Trịnh Doanh, khoảng đầu niên hiệu Cảnh hưng từng lập được nhiều chiến công,
trong quận ấp ai cũng kính phục. Tính Lân hào hiệp, khách ăn trong nhà thường
có hàng trăm, khí giới cất giấu đầy đủ. Trong đám thổ hào của trấn Sơn Nam hạ,
Lân là bậc nhất.
Lúc ấy
gặp chúa, Lân bàn việc binh cùng chúa, và vạch chước tiến thủ. Chúa rất mừng và
nói:
- Tiếc
rằng ta gặp ngươi muộn quá! Ngươi hãy gắng giúp ta để nối công đức của tổ tiên
ngày xưa.
Lân nói:
- Tuần
vốn không có tài gì. May được nhờ oai linh của chúa, dám đâu không hết lòng hết
sức.
Rồi đó,
Lân mời chúa về nhà, nhóm họp đồ đảng, hộ vệ cho chúa.
Hôm sau,
Nhưỡng cũng đã theo đến nơi. Trước hết. Nhưỡng sai người đưa một tờ khải cho
chúa, trong nói:
"Nhà
thần bao đời được đội ơn dày, một lòng với nhà chúa. Nay thần với Chỉnh, nói về
tình tuy có quen thuộc, nhưng nói về thế thì không thể nào đứng đôi. Cả nước ai
cũng biết điều đó, thần dám có lòng nào để nhục đến tổ tiên đời trước, xin chúa
soi xét cho, khiến thần có thể lập được chút công, bù lại lỗi trước. . .".
Chúa xem
khải rồi hỏi ý Lân, Lân vốn nghe tiếng tăm của Nhưỡng, thường coi là tay cự phách
xứ đông, nay may được chung sức làm việc thì rất lấy làm mừng, nên cố khuyên
chúa đem lòng thành thực mà dùng Nhưỡng để thêm thế lực. Chúa nghe lời, Lân lập
tức tự mình ra đón Nhưỡng cùng vào gặp chúa. Do đó, hai người rất là tương đắc.
Họ liền đưa hịch đi các phủ Thái Bình, Kiến Xương, Thiên Trường (Thái Bình,
Kiến Xương sau đều thuộc tỉnh Thái Bình. Thiên Trường sau là Xuân Trường thuộc
Nam Định (Hà Nam Ninh)), hẹn cùng dấy quân đánh Chỉnh. Trong khoảng mười ngày,
người theo về có đến vài vạn. Họ định ngày cùng tiến quân, thuyền bè đầy sông,
thanh thế lừng lẫy xa gần đều hưởng ứng. Nhiều người cho rằng, nghiệp chúa có
thể tính ngày mà khôi phục. Con em nhà quan lúc trước, như bọn Đoàn Nguyễn
Tuấn, Phạm Giáp, Nhữ Công Liêu, Đào Nhữ Toản cũng đều chiêu mộ người làng đến
họp. Các xứ đông tây cùng nổi dậy trong một lúc.
Bấy giờ
Trương Đăng Quỹ vâng mệnh đi đón chúa, đến huyện Tiên Hưng, đường bị nghẽn,
phải trở lại.
Vừa lúc
ấy có người từ kinh thành tới yết kiến chúa, nói rõ việc Chỉnh chuyên quyền
kiêu ngạo, lòng người không phục, vua cũng nghi kỵ, và khuyên chúa nên kíp tiến
binh đánh Chỉnh. Chúa nói:
- Ta có
viên tướng cũ là Bùi Nhuận, hiện ở kinh thành, coi quân Kim-ngô, lĩnh chức tứ
thành đề lĩnh, có thể bảo y làm nội ứng. Chức trách của Nhuận là việc tuần
phòng, chắc không ai nghi ngờ.
Rồi chúa
bèn sai người đưa tờ chỉ bí mật cho Nhuận, nói về việc ấy.
Tiếp
chỉ, Nhuận liền bàn với người thân tín. Đổi hết các quân canh giữ cửa ô. Con
Hữu Chỉnh là Bái xuyên hầu dò biết việc đó, lập tức sai quân bắt Nhuận; rồi sai
tướng của Chỉnh là Nguyễn Viết Tuyển hiện làm chức trấn thủ Sơn Nam đem quân
đánh chúa.
Lúc lính
thuỷ của Tuyển tới sông Ngô Đồng (thuộc huyện Giao Thuỷ, Nam Định (Hà Nam
Ninh)), mà lính bộ chưa đến cửa Đại Hoàng (thuộc huyện Yên Mô, Ninh Bình (Hà
Nam Ninh)), có người dò biết về báo với chúa. Nhưỡng đem hai chục thuyền biển
lớn nhất, dàn ngang sông thành trận chữ "nhất", trên đầu thuyền bày
đặt các thứ súng, trông như bức thành. Quân Tuyển đến đánh, vì thuyền nhỏ không
thể chống cự, nhiều chiếc bị súng Bảo-long bắn chìm xuống sông, Tuyển sợ, định
lui giữ Hoàng-giang (tên sông, thuộc phủ Lý Nhân, Hà Nam (Hà Nam Ninh)) để cùng
bộ binh nương tựa lẫn nhau.
Thình
lình có gió đông nam nổi lên, Nhưỡng liền sai các hải thuyền tản ra, ghé sát
vào hai bờ, rồi buộc thuyền lại mà lên bộ. Tiếp đó Nhưỡng chỉ huy quân lính từ
trên bờ theo chiều gió bắn xuống thuyền quân của Tuyển. Nhưng quân của Nhưỡng
toàn là quân ô hợp, đứng, ngồi, tiến, lui chưa quen hiệu lệnh, lại hờ hững
không có chí chiến đấu; nên sau khi lên bộ, hàng ngũ lộn xộn, chẳng ra sao.
Tuyển ở dưới sông trông thấy vậy, liền hô to:
- Quân
Nhưỡng thua rồi!
Thế là
quân lính của Nhưỡng đâm nghi hoặc, rồi hoảng sợ, tan vỡ, đua nhau cướp đường
mà chạy, giày xéo lẫn nhau, không sao ngăn cấm được nữa. Thuyền bè bỏ bừa ven
sông, đều bị quân Tuyển bắt được.
Quân Lân
ở sau, trông thấy quân của Nhưỡng thua chạy tan tác, lại nghe nói Nhưỡng đã bị
giặc giết rồi, nên đều kinh ngạc run sợ. Riêng Lân cũng không thể kiềm thúc
được nữa, thế là cùng lúc ấy, đám quân tan vỡ luôn. Lân bèn hộ vệ chúa, cưỡi
một chiếc thuyền, xuôi dòng chạy sang phủ Thái Bình. Chừng nửa đêm, đến huyện
Đông Quan, chợt nghe tiếng súng đùng đùng, giống như hiệu lệnh hành quân. Có
người bảo quân Tuyển đuổi theo. Có người ngờ là bọn kẻ cướp. Sau Lân sai người
đi dò, mới biết đó là quân của Trần Mạnh Khuông.
Trần
Mạnh Khuông là một người hào mục ở huyện Đông Quan, gia tư giàu có, lại có
nghĩa khí. Khi mới tiếp được tờ hịch, lập tức tụ tập quân lính trong huyện để
hưởng ứng việc nghĩa, hẹn ngày hôm ấy xuất quân ra đi. Lúc này quân Khuông đóng
ở Bái Hạ, cách đấy không xa.
Nghe
nói, chúa bèn vội vàng sai người đến gọi Khuông. Khuông theo sứ giả tới yết
kiến, chúa nói:
- Quả
nhân tài hèn, đức kém, không biết tự lượng sức mình, hễ hành động gì liền bị
vấp ngã. Bây giờ nên làm thế nào?
Khuông
nói:
- Thua
được là sự thường của nhà binh, dù là đạo quân thắng trận luôn, cũng phải có
một lúc thua trận. Cho nên tướng giỏi đời xưa trước hết phải xem hình thế, đắp
doanh luỹ, chứa lương thực, phòng bị sẵn những khi xảy ra việc cần kíp, làm cho
khi tiến có thể đánh, khi lui có thể giữ. Đó chính là cái chước vạn toàn, không
làm gì đến nỗi thua một trận mà đã phải bẹp hẳn. ở huyện tôi có làng Bái Hạ,
bốn mặt đều là đồng lầy, phía trước có sông lớn chặn ngang, chỉ có một lối ra
vào, lại có khe nhỏ quanh co thông với con sông, có thể dùng để chuyển vận quân
lương. Cuộc loạn lạc năm trước, địa phương đây ở vào chỗ xung yếu của hai vùng
đông và nam, nên tôi đã cho sửa sang lại, nay hào rãnh đều đã bền vững. Chỉ hiềm
luôn mấy năm mất mùa, thóc lúa tích trữ chưa được đầy đủ mà thôi. Xin chúa hãy
tạm dời xa giá về đó, rồi thong thả sẽ tính chuyện sau.
Chúa
Trịnh nghe theo, bèn phong cho Lân làm quân phủ trưởng sử. Khuông làm chức hành
doanh sứ, dẫn quân vào đóng ở ấp Bái Hạ.
ở đó mới
được vài đêm, Khuông sai người đi trưng thu lương thực chưa về, thì Chỉnh đã
lại sai Nguyễn Như Thái đem lính bộ đến, hợp với quân của Tuyển, hai đường thuỷ
bộ tiếp nhau, hai mặt trước sau đánh dồn lại. Trong đồn dựa vào tình thế hiểm yếu
mà giữ, quân Chỉnh đánh luôn mười ngày không hạ được. Tuyển bèn đắp luỹ dài để
tuyệt đường lương thực của quân chúa. Quân chúa hết lương đến nỗi phải đào cả
củ chuối mà ăn, tình thế rất là khốn quẫn.
Lân và
Khuông vội gọi các thủ hạ mà bảo rằng:
- Ngồi
đây để làm con ma chết đói của làng Bái Hạ, sao bằng quyết một trận tử chiến,
giết lấy vài trăm tên giặc cho sướng tay? Các ngươi ai là người có thể chung
lòng góp sức với ta, để ta khỏi mang tiếng phụ chúa mà các ngươi cũng không
mang tiếng phụ ta. Dẫu có chết còn được làm con ma trung nghĩa. May mà không
chết, rồi đây công lao sự nghiệp sẽ không biết đến đâu mà lường!
Mọi
người nghe nói đều cảm động, có hơn trăm người xin theo. Đêm đến, bốn bề đã
vắng lặng, họ bèn cưỡi thuyền nan, theo đường khe mà đi ra. Nhân lúc Tuyển và
Thái sơ ý, họ liền phóng hoả đốt doanh trại. Hai người hoang mang không kịp
chống cự. Lân và Khuông tức thì phá vỡ vòng vây, đem chúa ra, cướp mấy chiếc
thuyền, rồi theo cửa biển chạy thẳng về phía đông. Tuyển đem quân đuổi theo, nhưng
không kịp. Thái thả quân vào làng Bái Hạ, chém giết lung tung, trai, gái, già,
trẻ, không sót lại một người. Từ khi dấy cuộc binh đao tới lúc này, không chỗ
nào không có nạn chém giết, nhưng chưa có đâu bị chém giết thảm hại như ở đây.
Lại nói,
sau trận thua ở sông Ngô Đồng, Nhưỡng một mình chạy về phía đông, thuyền bè và
đồ quân dụng bỏ mất gần hết.
Đến khi
đồn Bái Hạ bị vỡ, chúa chạy về Hải Dương, lại cùng bọn Lân vượt biển tới đất
Quảng Yên, giả làm khách buôn, chia nhau ở trọ trong các nhà dân ở châu Vạn
Ninh (nay là đất Móng Cái (Quảng Ninh)). Chẳng bao lâu, Lân vì có việc nhà, cáo
từ xin về, người theo hầu chúa chỉ còn lại Mạnh Khuông mà thôi. Sau đó hơn một
tháng, Khuông lại mắc bệnh, rồi chết. Lúc bấy giờ, bên cạnh chúa không còn có
ai, chúa một mình sống lẩn lút ở vùng ven biển, tình cảnh rất là điêu đứng.
Chúa
nghĩ bụng: "Giầu sang ở kiếp phù sinh, đều là cảnh mộng. Bởi vậy, ngày xưa
đã có người xin thề đời đời đừng sinh vào nhà đế vương. . . Phật thương hết
thảy chúng sinh bị chìm đắm trong biển khổ. óc Người thông suốt, ý kiến Người
thông suốt, thật như gương sáng muôn đời. Từ lúc ta ở trọ đất Chương Đức đã có
ý nghĩ như thế. Bây giờ nên quay đầu lại là hơn".
Thế rồi
chúa Trịnh gột sạch ma chướng ở đời, tự xưng là Hải đạt thiền sư, dạo khắp các
chùa ở vùng Lạng Sơn, Cao Bằng.
Bấy giờ
có người học trò đất Kinh Bắc tên là Vũ Kiền, chạy loạn lên ở Lạng Sơn. Một hôm
Kiền gặp Hải đạt thiền sư ở chùa Tam Giáo, nhân trong lúc đàm kinh thuyết pháp,
Kiền ngầm biết đó là chúa, bèn báo với bọn phiên thần ở đó là Hà Quốc Ký, và
Nguyễn Khắc Trần (có bản chép là Nguyễn Khắc Lâm).
Hai
người bèn vờ nói là có việc làm chay, đón Hải đạt thiền sư về nhà, rồi đuổi hết
người nhà ra mà bảo với nhà sư rằng:
- Chúng
tôi nối đời làm bề tôi ở chốn biên cương. ở xa vẫn mến oai đức của triều đình,
thường chỉ nghe người ta nói vua Lê chúa Trịnh như ở trên trời. Nếu như thiên
hạ vô sự, bọn chúng tôi làm gì được trông thấy chúa. Chẳng may nhà nước có nạn,
xe chúa phải tới nơi biên ải, thần dân ai chẳng đau lòng. Lúc này chính là dịp
cho kẻ trung thần nghĩa sĩ ra tài linh luân. Vậy chúng tôi xin rước chúa về ở
Đoàn Thành (tức thành trấn Lạng Sơn), xướng nghĩa cả, để lo việc hưng phục.
Trông nhờ vào phúc hồng của chúa, thành được công lớn thì may chăng lũ tù
trưởng nhỏ mọn ở xứ mọi rợ này được dự vào hàng cuối ở vân đài (Vân Đài: Đài
cao chạm mây, nơi vua Minh-đế nhà Hán sai vẽ hình 28 người công thần), ấy là ý
nguyện của chúng tôi.
Nhà sư
nhắm mắt chắp tay, khoan thai trả lời:
- Sư già
này xuất gia theo Phật, không can dự gì đến việc đời. Các ông chớ có nhận lầm,
khiến cho đương lúc yên lặng, lại sinh ra bao nhiêu nỗi phiền não. Trong thiên
hạ, ai là vua, ai là chúa, đã có mệnh trời; sư già này chỉ biết một lọ một bát,
tu hành ở cửa thiền, làm môn đồ đức Phật Như lai mà thôi.
Vũ Kiền
lúc ấy cũng thưa rằng:
- Thần
tuy chưa được vào chầu phủ chúa, nhưng khi du học ở kinh sư cũng đã từng trông
trộm dung nhan của chúa. Người trong nước còn có lòng ấy, chúa cũng không nên
từ chối. Thần nghe nói, nghiệp vương phải khó nhọc, không thể ngồi yên mà làm
nên được. Bởi vậy, Quang Võ đã phải bạc cả tóc đầu, Tiên chúa (Quang Võ là vua
đầu nhà Đông-Hán. Tiên chúa tức Lưu Bị, là vua nhà Thục đời Tam-quốc) thì phải
mòn hết thịt vế. Những cơn nguy hiểm ở Quế ổ và Bái Hạ gần đây, cũng giống việc
Tuy Thuỷ, Hô Đà đời Hán (theo Hán thư, sau khi Hán vương là Lưu Bang vào chiếm
Bành Thành, Sở vương là Hạng Võ đem quân trở về, phá tan quân Hán trên sông Tuy
Thuỷ và vây Hán vương ba vòng, may gặp có gió lớn nổi lên, thổi tan quân Sở,
Hán vương mới chạy thoát.
Cũng
theo Hán thư: Khi vua Quang Võ đi đến trạm Khúc-Dương, phía sau có quân Lương
Vang theo đuổi, mọi người đều kinh sợ, Quang Võ cho người đi dò đường thì họ
nói, trước mặt có sông Hô Đà nước chảy mạnh lắm, không thể qua được. Quang Võ
lại bảo Vương Bá đi xem lại. Vương Bá e quân lính hoảng sợ, bèn nói dối là ở
sông băng giá đóng rất chắc, có thể đi qua được. Quang Võ bèn bảo Bá hộ vệ mình
qua sông, nhưng mới qua được mấy người thì băng đã tan. ở đây, mượn hai điển
này để nói làm nên nghiệp lớn thế nào cũng phải trải qua nhiều gian nan, nguy
hiểm thì mới đi tới thành công), chỉ vì không nản chí, không ngã lòng, rốt cuộc
họ đã làm nên nghiệp lớn. Thần chưa từng bao giờ thấy ai đường đường là một vị
vương giả mà lại lui về làm nhà sư nhàn hạ. Xin chúa hãy nghĩ lại!
Nhà sư
khóc và nói:
- Cái
cảnh "Thử ly" "Mạch tú" ("Thử ly" là một bài thơ
trong Kinh Thi nói về cảnh cung điện nhà Chu bị tan hoang thành ra ruộng lúa.
"Mạch Tú" là bài hát của Cơ tử nói về việc nhà Thương mất nước, cung
điện thành ruộng cấy lúa mạch. - ở đây chỉ cảnh tang thương của họ Trịnh) ở đâu
cũng đều cảm động. Ta không phải là loài gỗ đá, sao không căm hờn. Nhưng đã
biết sức của ta, mà vẫn không thể dành được với trời, nên đành phải nín nhịn để
giữ lấy mình, đâu còn dám làm càn để lại lầm lẫn lần nữa?
Chúa đã
nói lộ bản tướng, liền bị mọi người vin lấy mà bắt buộc phải truyền sắc lệnh ra
để điểm quân, thu lương.
Bọn Ký
và Trần đều là kẻ tầm thường, không nghiêm cấm nổi thủ hạ, để chúng làm bừa
những việc phi pháp. Nhân dân không thể chịu đựng được, họ bèn nổi lên làm
loạn, giết bọn Ký và Trần, rồi đuổi chúa đi. Chúa chạy về đất Hữu Lũng (nay
thuộc Lạng Sơn) rồi từ đó nấp náu trong chốn núi rừng, cả nước không còn thấy
mặt chúa ở đâu nữa.
Họ Trịnh
từ Thái vương là Trịnh Kiểm thụ phong, truyền đến Thịnh vương là Trịnh Sâm, vừa
được tám đời thì xảy ra biến loạn. Rồi đến Đoan nam vương là Trịnh Khải, án đô
vương là Trịnh Bồng thì nghiệp chúa hết. Tất cả trước sau gồm 243 năm (theo
Lịch triều hiến chương lại chí thì tất cả là 248 năm, gồm 11 đời chúa, kể từ
Trịnh Kiểm năm Kỷ hợi (1539) đến Trịnh Bồng năm Bính ngọ (1786)).
Xét
trong địa ký chép về đất phát tích của tổ tiên họ Trịnh có lời đoán rằng:
"Chẳng
đế chẳng bá, quyền nghiêng thiên hạ, truyền được tám đời, trong nhà dấy
vạ".
Xem thế
đủ biết, cái lý hưng vong tuy là việc của người, mà cũng tự có số mệnh vậy.
Lại nói
sau khi Chỉnh đưa Tây Sơn vào nước, dân chúng oán Chỉnh thấu đến xương tuỷ. Lúc
Chỉnh tất tả chạy về Nghệ An, người cả một xứ ai cũng muốn giết Chỉnh cho hả
dạ. May được vua Lê có chỉ vời, Chỉnh bèn lấy việc dấy quân ra bảo vệ nhà vua
mà thoát khỏi tai nạn. Rồi Chỉnh lại được nhà vua mở lòng tin dùng, cho nên mọi
người trong ngoài chỉ dám oán mà không dám nói. Các quan văn võ trước kia chạy
trốn ra ngoài, đều dấy quân và lên tiếng giết Chỉnh. Chỉnh mượn nhà vua để sai
khiến cả nước, tự tiện làm oai làm phúc, luôn luôn đem quân đi trừ khử những
người muốn làm hại mình. Thế rồi, bắt Trọng Tế, giết Phùng Cơ, đem quân đánh
mãi án đô vương, làm cho vương phải chạy trốn lang thang không dám về kinh.
Việc
Chỉnh làm phần nhiều là càn bậy, nhưng đụng đâu là thắng đấy, nên chẳng ai biết
làm thế nào. Vì thế, Chỉnh càng ngày càng làm lắm điều bạo ngược, Chỉnh tự cho
rằng người đời chẳng ai bằng mình. Thậm chí Chỉnh coi nhà vua như đứa trẻ con,
khi bảo làm thế này, khi bảo làm thế kia, không còn kiêng sợ gì cả. Bụng Chỉnh
còn e dè, chỉ một Bắc bình vương mà thôi. Chỉnh thường nói riêng với người thân
tín rằng:
- Bắc
bình vương là người anh hùng hào kiệt ở miền Nam ta cũng không thua. Hắn quỷ
quyệt hơn ta, nhưng ta khôn ngoan hơn hắn. Năm trước ta từng cộng sự với hắn,
nên ngày nay hãy nhường hắn một nước cờ, đợi khi trong nước tạm yên, ta sẽ
chuyên tâm lo việc phương Nam. Lúc đó ta có thể tập hợp binh mã, cùng hắn giao
phong trong một trận lớn lao. Đã trừ khử được vật ngăn trở rồi, thì từ dải đèo
Ngang trở về Nam, lại là bờ cõi của nước nhà. Nay Trần bình chương vào Nam bàn
việc bờ cõi, dù bất đắc dĩ mà phải nhường đất Nghệ An cho họ, thì cũng như cái
mưu khôn xưa nước Tấn đem ngọc bích và ngựa tốt đút cho nước Ngu, Hán Cao tổ
đem đất Quan Trung nhường cho Hạng Vũ đấy thôi (thời Xuân thu, nước Tấn lấy
ngựa hay và ngọc quý đút lót cho nước Ngu để mượn đường sang đánh nước Quắc;
đến khi diệt được nước Quắc rồi, Tấn liền quay lại diệt luôn cả nước Ngu, thu
lại ngựa và ngọc đã biếu-việc Hán Cao-tổ cũng tương tự, tạm nhường đất Quan
Trung cho Hạng Vũ rồi sau lại lấy lại). Đúng như lời sách xưa đã nói:
"Định lấy của nó hãy tạm cho nó" (câu này nguyên văn chữ Hán là
"Tương dục thủ chi tất cô dữ chi" Trong Đạo đức kinh của Lão Tử cũng
có câu tương tự là: "Tương dục đoạt chi, tất cô dữ chi" (muốn chiếm
đoạt của nó, hãy tạm cho nó). Có thể tác giả dẫn câu này là thoát thai từ câu
của Lão Tử). Điều đó người thường không thể biết được!
Vì thế, đối
với việc Nghệ An, Chỉnh mới dùng lễ vật nhiều, lời nói ngọt, mong sao cho được
vô sự; lại đem hết những điều uỷ khúc trong lòng mà dặn dò Trần Công Xán. Chỉnh
cho rằng chuyến đi ấy thế nào cũng dẹp yên được việc binh đao, nên không còn để
ý đến việc quân lữ và việc bờ cõi nữa. Không ngờ rằng Bắc bình vương lập tâm
bắt Chỉnh đã lâu, nhưng cơ mưu giấu kín quá nên Chỉnh không biết. Hoặc có người
nhắc đến việc biên cương thì Chỉnh cũng xem thường, cho là kẻ hiếu sự đoán mò
hay cho là tin đồn nhảm ngoài đường sá mà thôi. Tới lúc sứ bộ chết đắm ở biển,
nhiều người trong triều bảo đó là do Bắc bình vương sợ lộ việc tranh chấp ở
miền Nam mà giết ngầm đi, khi nội biến đã yên, thế nào họ cũng sẽ mưu đồ đánh
ta; Chỉnh cũng vẫn không cho là phải. . .
Sau khi
Bắc bình vương đã hoà với vua Tây Sơn (theo các tài liệu lịch sử, thì hai anh
em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ giảng hoà với nhau ở thành Qui Nhơn (Nghĩa Bình)
liền trở về Phú Xuân mở đại hội các tướng mà bảo họ rằng: "Nguyễn Chỉnh là
người đã chết, ta lại vẽ mặt vẽ mày cho. Nay hắn bay nhảy ở Bắc Hà, phò vua Lê
để sai khiến cả nước. Đã không lo đền đáp ơn ta mà còn định cắn lại, mưu đồ
giành đất Nghệ An, đặt làm một trấn quan trọng, để bắt chước việc chúa Trịnh
xâm lấn phương Nam ngày xưa. Thằng giặc ấy thật đáng giết. Không biết hắn đã
sắp sẵn được bao nhiêu binh mã, có thể đánh nhau với ta được một trận hay
không?"
Tức thì,
Bắc bình vương sai bọn Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân, kéo quân ra Nghệ An, họp cùng
Võ Văn Nhậm tính việc đánh dẹp phương Bắc. Tiếp đó lại cho Võ Văn Nhậm lĩnh ấn
tiết chế, các tướng đều phải ở dưới quyền. Khi sắp đặt đã xong, Bắc bình vương
hạ lệnh giục họ tiến quân. Bấy giờ đúng vào tháng mười một mùa đông năm Đinh vị
(1787).
Khi Văn
Nhậm kéo quân qua Thổ Sơn, trấn thủ Thanh Hoa là Lê Duật không dám chống cự,
rút quân lui giữ Trinh Giang (sông Trinh Giang thuộc xã Trinh Sơn, huyện Hoằng
Hoá, Thanh Hoá), rồi cho người phi ngựa về kinh cáo cấp. Tin cáo cấp một ngày
đến chín lần, làm cho kinh thành nhao lên, nhân tình tan rã, vội vàng mang
xách, bồng bế nhau ra ngoài thành để trốn tránh: phố phường đều đóng cửa thôi
buôn bán đường sá cũng ít người đi lại, trong chốn đài sảnh chỉ còn người có
chức vụ ở lại mà thôi.
Vua Lê
sai các quan cùng họp ở dinh của Chỉnh để bàn cách đánh giữ. Chỉnh nói:
- Đời
nhà Tấn, khi quân nhà Tần ập đến bờ cõi, Tạ An vẫn cười nói như thường; đời
Tống, khi quân Khiết Đan vào sâu trong nước, Khấu Chuẩn vẫn điềm nhiên như
không. Các vị đại thần, cần phải trấn tĩnh, không nên tự mình bối rối trước,
chỉ tổ làm cho lung lay lòng người. Chức trách của Lê Duật là giữ đất đai, thấy
giặc đến không thể không báo cáo, nhưng y cũng là một tay tướng giỏi. Võ Văn
Nhậm vị tất đã dễ dàng nuốt sống được y. Vả chăng, sông Trinh Giang, sông Thanh
Quyết (sông Thanh Quyết tức khúc sông Đáy thuộc huyện Gia Viễn, Ninh Bình (Hà
Nam Ninh)), sông sâu nước lạnh, dù có thiên binh vạn mã chưa dễ đã vượt qua
được một cách yên ổn. Công việc đánh hay giữ, đã có định cục, làm gì mà phải
luống cuống.
Quan phó
đô ngự sử là Nguyễn Đình Giản nói:
- Thanh
Hoa là đất "thang mộc", lăng tẩm mấy triều đều ở đấy. Nay người Tây
Sơn tới đánh, cả vùng Tĩnh Gia đã bị chiếm mất, còn các vùng Thiệu Thiên, Hà
Trung đều thành chiến trường, xã tắc nguy như treo trên sợi tóc. Ông làm vị
quan đầu triều, binh quyền ở trong tay, định cục thế nào, thử nói ra cho rõ
ràng, để chúng tôi đều đem hết ý kiến nông cạn, cùng ông lo liệu. Việc thiên hạ
không phải là chuyện riêng một nhà, sao không nói cho mọi người đều biết? Ngày
xưa người Nguyên cười người Tống rằng: "Đợi khi chúng bay bàn bạc ổn thoả
thì ta đã qua sông rồi". Nay không lo liệu cho sớm, chờ khi quân giặc đã
đến ô Cầu Dền thì giả sử Tạ An, Khấu Chuẩn (Tạ An, người đời Tấn, làm Đại đô
đốc, có tài chỉ huy, đã cứu nguy cho kinh đô trong lúc đang bị hàng trăm vạn
quân Bồ Kiên uy hiếp. - Khấu Chuẩn, người đời Tống, khi quân Khiết Đan xâm phạm
bờ cõi, được vua Chân Tông giao cho chỉ huy quân sự, ông đã dùng kế buộc địch
phải rút về nước) có sống lại, họ cũng không thể trấn tĩnh được!
Ninh Tốn
và Nguyễn Bá Lan (có bản chép Nguyễn Nhuận) cũng đều nói:
- Quan
ngự sử nói rất đúng.
Ngày
thường Chỉnh quen dùng miệng lưỡi để lấn át người ta, người ta cũng sợ khí thế
của y, nên không dám tranh cãi lại. Nhưng lúc ấy, tin tức về quân địch gấp rút
đưa đến, trong bụng rối beng, lại bị Giản bẻ, nên Chỉnh chưa biết trả lời ra
sao. Quan bình chương Phan Lê Phiên nói:
- Không
cần nói nhiều, quân giặc đến chỉ có đánh mà thôi. Bộ hạ của ông, người nào có
thể làm tướng, xin tâu với hoàng thượng cho làm tướng; toà Xu mật sẽ cấp binh
bài, toà Độ chi sẽ cấp lương thực, ngày nay vào bái mạng, ngày mai tức tốc lên
đường, không thể chậm trễ!
Chỉnh
nói:
- ý tôi
cũng vậy, nói trấn tĩnh là nghĩa như thế!
Chỉnh
liền tâu vua cho Nguyễn Như Thái làm thống lĩnh, Ninh Tốn làm tham tán quân vụ,
đem quân cùng họp với Duật, chống địch ở trấn Thanh Hoa.
Lại nói,
Duật đóng quân ở Trinh Giang, Nhậm bèn sai người đến báo rằng:
- Ngày
mai đại quân qua sông, ngươi dám đánh nhau thì bày trận chờ đợi. Nếu không có
thể đánh nhau thì mau mau tới đầu hàng.
Lúc đó
Nhậm đóng quân ở phía nam Trinh Giang, trước tiên sai Ngô Văn Sở đem quân men
theo chân núi đi về phía tây, cất lẻn qua sông Tất Mã, đánh úp phía sau quân
Duật. Duật không hề biết, tối hôm ấy rút quân chạy cả đêm; hôm sau tới Cao
Lũng, đã thấy quân Sở ở đấy, quân Duật sợ hãi, chạy tan tác ra tứ phía. Duật bị
quân Sở giết chết. Khí giới, lương thực, hết thảy đều bị địch thu lượm.
Quân
Nguyễn Như Thái đi đến Châu Cầu (nay là thị xã Phủ Lý, Hà Nam (Hà Nam Ninh)),
nghe tin Duật đã thua và chết, vội gọi Ninh Tốn cùng bàn, Tốn nói:
- Binh
pháp dạy rằng: "Tranh được núi thì thắng, giữ chỗ hiểm thì vững".
Giữa Thanh Hoa nội và Thanh Hoa ngoại có núi Tam Điệp (tục gọi là núi Ba Dội, ở
chỗ giáp giới giữa Thanh Hoá và Ninh Bình ngày nay) ngăn cách, ấy là chỗ trời
đất xây dựng, rất là hiểm yếu. Ta nên tiến quân gấp để giữ lấy, chớ để quân
giặc chiếm trước. Được như vậy thì từ Trường Yên (tên phủ, sau đổi là
Yên-Khánh, thuộc Ninh Bình (Hà Nam Ninh)) về bắc còn là của mình. Nếu núi Tam
Điệp mà mất, thì lộ Nam Sơn thênh thang với những cánh đồng bằng phẳng rộng
rãi, e khó tranh nhau với giặc, việc nước sẽ không thể làm thế nào được nữa.
Thái cho
là phải, lập tức chỉnh đốn đội ngũ, đang đêm gấp rút tiến quân. Mờ sáng, quân
Thái qua sông Giản Khẩu (tức sông Gián, cũng thuộc Ninh Bình (Hà Nam Ninh)) thì
nghe tin quân Nhậm đã vượt qua núi Tam Điệp, Phan Văn Lân đã đem quân tuyển
phong đóng ở Hàm Mai (có sách chép là Đa Mai), cách đấy chỉ có vài dặm. Thái vỗ
ngực kêu to mấy tiếng, rồi đem quân bày trận trên bờ sông Giản để chờ địch.
Quân Tây
Sơn đến, chia hai ngả đánh kẹp vào. Quân Thái lẻ loi không có quân cứu viện, cố
sức đánh nhau từ sáng đến trưa, tên đạn đều hết sạch. Bọn lính ở đằng trước trở
giáo hàng địch. Thái biết thế không thể chống nổi, bèn cùng vài chục người bộ
thuộc, phi ngựa chạy về phía bắc. Quân địch đuổi theo, bắn chết hết. Ninh Tốn
chạy trốn vào nhà dân, được thoát nạn.
Văn Nhậm
đã thắng trận, tức thì dẫn quân tiến lên.
Chỉnh
đang ăn thì tin báo đến nơi, luống cuống vứt đũa, chạy vội vào nhà, gọi Hữu Du
và bảo:
- Chiến
tướng của ta chỉ có bốn người. Thái và Duật chẳng may chết rồi. Tuyển ở Sơn
Nam, Thước ở Kinh Bắc, gọi về không kịp. Tình thế gấp rút ta phải tự ra cầm
quân. Con nên sắp đủ binh lính, lương thực, cùng đi với ta. Quân cha, con cùng
dốc một lòng mới có thể nên việc được.
Du nói:
- Sách
có câu: "Thờ cha phải hết sức, thờ vua phải liều mình". Con xin đi
trước, đánh với giặc một trận lớn, không dám để cho vua và cha phải lo vì giặc.
Cha cứ đi thong thả mà đốc thúc việc chiến trận, con sẽ lấy đầu thằng Võ Văn Nhậm
đem về cho cha xem.
Lúc
Chỉnh sắp ra đi, người hầu yêu nắm vạt áo của y mà nói:
- Thiếp
nghe đâu các quan trong triều đều đã đem vợ con đi trốn trước rồi, đài sảnh
hiện bỏ không tất cả. Bây giờ quan lớn lại ra đánh giặc, tướng sĩ cũng đều theo
đi hết, riêng thiếp ở đây một mình, chịu làm sao được? Vậy xin cho thiếp một
chiếc kiệu nhỏ để thiếp đi theo quan lớn.
Chỉnh
nói:
- Trong
vòng tên đạn, không phải nơi đàn bà nên đi, đừng làm cho người ta thêm rối ruột
nữa!
Rồi
Chỉnh tự mình vào cung điện tâu xin xuất quân.
Vua bèn
ngự ra điện Cần-chánh, truyền chỉ ban tiết việt (tức "phù tiết" và
"phủ việt". Phù tiết: vật làm tin, thường làm bằng thanh tre viết chữ
vào đó, rồi chẻ đôi mỗi người giữ một nửa, sau kháp lại để làm tin. Cũng có khi
làm bằng vàng, ngọc hoặc gỗ. . . Phủ việt: lưỡi búa. Đời xưa khi đại tướng ra
trận được vua ban tiết việt để trao quyền hạn và làm tin) cho Chỉnh và dụ rằng:
- Trẫm
dựa vào ông như dựa bức trường thành. Chuyến đi này quan hệ đến sự an nguy của
nhà nước. Nhất thiết chớ có khinh giặc đánh tràn, phải tuỳ cơ mà làm, mau đưa
tin thắng trận về để yên lòng trẫm!
Chỉnh
tâu:
- Thần
đã biết rõ tình hình của giặc. Võ Văn Nhậm mạnh mà không có mưu khôn, làm tỳ
tướng thì dư sức, mà làm chủ tướng thì không đủ tài. Ngày thường hắn vẫn sợ
thần, nay thấy thần, nay thấy thần đến, chắc là không dám chống chọi. Thần chỉ
lấy khí thế mà đè nén, không cần phải đánh cũng thắng. Chuyến đi này, không quá
năm ngày, sẽ có thư trạm tâu tin thắng trận, xin bệ hạ chớ lo!
Tâu
xong, Chỉnh bái từ mà ra. Vua Lê thân hành tiễn đến ngoài cửa Đoan môn, rồi sai
các hoàng thân và trăm quan tiễn đưa ra ngoài kinh thành.
Chỉnh
đem quân đến trạm Hoàng Mai (nay thuộc ngoại thành Hà Nội), sai Hữu Du lĩnh các
đội quân của cơ Ngũ-nhuệ đi trước.
Du đi
đến sông Thanh Quyết, liền đắp luỹ đất chạy theo bờ sông, chia đồn mà cố thủ.
Lúc bấy
giờ, khí trời rét buốt, quân lính của Du đêm ngủ giữa trời, túm năm tụm ba đốt
củi để sưởi. Quân đi tuần của địch trông vào ánh lửa, thấy rõ tất cả, bèn về
báo với Văn Nhậm.
Nhậm cho
quân cưỡi bè, sang thẳng bãi sông, ngầm bắn xuyên qua các khe hở trên bờ luỹ,
nhắm chỗ có lửa làm đích, bắn phát nào trúng phát ấy. Quân ở trong luỹ hoảng
sợ, bối rối, tự nhiên tan vỡ, Du rút quân về giữ Châu Cầu. Quân sĩ mười phần
chỉ còn hai ba, không dám đón đánh, cũng không dám chạy về, phải vừa lui vừa
dừng để đợi hậu quân (sự kiện này, Cương mục chép hơi khác; thuyền súng đạn của
Du đậu ở bờ bắc sông, không phòng bị gì: nửa đêm quân Tây Sơn ngầm bơi sang,
buộc thừng vào các thuyền của Du, rồi kéo về phía bờ nam, tước đoạt hết súng
đạn do đó Du thua. . . ).
Lại nói,
Chỉnh đem quân đến trạm Bình Vọng (tục gọi làng Bằng, thuộc Thường Tín, Hà Đông
(Hà Sơn Bình)), tạm dừng lại nghỉ. Chợt thấy gió nam thổi vù vù, có đám mây đen
chạy suốt từ tây nam đến. Chỉnh ngồi trong kiệu, giở sách bói ra xem, vừa gặp
một quẻ, có lời đoán rằng: "Nước có giặc lớn, nguyên nhung thua
trận", Chỉnh tỏ ý buồn rầu, đang lúc trầm ngâm nghĩ ngợi, thình lình lại
có đàn ong rừng vo vo bay đến, đua nhau đốt vào cổ Chỉnh. Chỉnh giật mình ngã
xuống, sực nghĩ toàn là điềm gở, chần chừ không muốn tiến quân.
Chốc
lát, thấy quân bại trận của Du tan tác chạy về nói:
- Quân
ta đã vỡ, quân giặc đuổi theo sắp sửa đến nơi!
Chỉnh
nghe nói, mặt mày thất sắc, tiến lui hai đường đều khó khăn. Tướng sĩ, bộ hạ
cũng đều mất vía, đua nhau nói: "Thế giặc rất mạnh, chưa thể giao tranh
với chúng được. Kinh thành ít quân, khó mà giữ nổi. Chi bằng dẫn quân về, lui
giữ đất Kinh Bắc, chặn ngang sông Nhĩ Hà cho vững; rồi sau sẽ từ từ tính chước
công thủ, thế là tiện hơn". Chỉnh nghe theo.
Sau một
lúc, Hữu Du đến, Chỉnh kéo quân tức tốc về kinh. Xẩm tối, vừa về tới thành,
Chỉnh liền bảo quan tham tri chính sự là Nguyễn Khuê vào tâu với vua, xin đến
ngày mai, xa giá đi sang Kinh Bắc (theo Cương mục thì vua Lê cho gọi mấy lần
nhưng Chỉnh không đến, cuối cùng mới cho Nguyễn Khuê đến thay. . . ). Rồi Chỉnh
vào thẳng lượng phủ là chỗ mình ở, sắp xếp hành trang, sai người hộ vệ vợ con
gia thuộc sang sông trước.
Lính Kim
ngô biết chuyện, vội vàng vào điện tâu với vua rằng: "Gia quyến ông Bằng
đi rồi!"
Vua Lê
lật đật chạy đến dinh của Chỉnh. Lúc bấy giờ Chỉnh đang chạy đi chạy lại trước
sân, dặn dò những người ra đi. Vua cầm lấy tay Chỉnh mà hỏi:
- Sự thể
đã đến thế này thì làm thến nào?
Chỉnh
thấy vua, thẹn thùng, run sợ, bèn lạy mà thưa rằng:
- Bệ hạ
giao nước cho thần, thần không xứng đáng với chức vị, làm lầm lỡ việc nước, tội
ấy không dám chối cãi: hai mặt tây nam kinh sư, không còn có gì để nương tựa,
thành trì cũng chưa đào đắp, chỉ có cửa ô mà thôi. Quân giặc thừa thắng ruổi
dài, không có thành luỹ nào ngăn cản; đánh thì không được, giữ cũng không xong,
lấy gì để bảo đảm cho được toàn vẹn? Nay bệ hạ hãy nên đi sang phương bắc, để
lo tính công việc sau này. Quân giặc từ xa đến đã mệt nhọc, lại bị sông lớn ngăn
trở, thế nào cũng không dám đuổi ta. Trong khoảng mười ngày, ta được thư thả,
rồi sẽ lo sâu tính xa, há lại không có cơ hội tốt để khôi phục? Bệ hạ hãy về
cung, tâu với hoàng thái hậu, xin đưa từ giá (xe của mẹ vua) đi trước, thần sẽ
thân đem lính và voi đợi ở bến sông.
Dứt lời,
Chỉnh nhớn nhác đảo mắt ngó quanh một lượt, rồi đi. Vua cũng lập tức đi bộ về
cung. Trên đường, đã thấy dân chúng dắt díu nhau cùng chạy. Bọn vô loại thừa cơ
cướp giật, tiếng kêu khóc oai oái. Có kẻ giữ lấy vua, sờ nắn trong lưng không
có gì, mới tha cho đi. Vua vội vàng đi về phía cửa Chu Tước, rồi vào cửa Tả
Khúc. Vừa tới nơi đã nghe thái hậu và các phi tần tìm nhà vua không thấy, đang
gọi luôn miệng: "Thừa dư (chỉ nhà vua) ở đâu?". Vua vội trả lời:
"ở đây! ở đây!". Rồi nhà vua lập tức gọi lính thị vệ, nhưng chỉ được
mười bảy, mười tám người, còn thì đều lẩn trốn không đến. Vua vội vàng sai lấy
võng đòn tre cáng thái hậu và nguyên tử (con đầu của vua mà chưa lập làm thái
tử thì gọi là nguyên tử) đi. Các tôn thất và phi tần đều phải đi bộ. Những đồ
ngự dụng chỉ khênh đi được bốn hòm, còn bao nhiêu đều bỏ lại trong điện. Những
đồ riêng tây cùng quần áo quí báu của bọn thị vệ, cũng đều bỏ rơi dần ở dọc
đường.
Đến bến
sông, phải giành giật lấy đò mà qua, bất cứ kẻ sang người hèn, ai mạnh thì được
qua sông trước. ở trong bãi cát, mọi người giẫm đạp lẫn nhau, có người bị ngã
rồi bị xéo đến chết. Các tay lái đò chèo không kịp, hoặc có thuyền vì chở nặng
quá mà bị đắm. Tiếng kêu khóc vang trời động đất. Kinh thành rối loạn lung
tung. Bọn vô loại ùa vào trong cung, phủ, cướp bóc bừa phứa. Nhưng những vật
lấy được, chúng cũng không dám chuyên chở ra ngoài thành, mà phải giấu ở các
phố.
Gần tối,
Võ Văn Nhậm đến nơi đem quân vào thành thì thấy cung điện, kho tàng chỉ còn trơ
lại xác nhà không mà thôi. Nhậm nói:
- Vào
chợ còn được cái kim, huống chi là vào một nước. Ta nghe đất Bắc Hà giàu có,
sao lại sạch trơn thế này? Ta ở xa đến mà lại không kiếm được một đồng tiền nào
đưa về thì nói ra con nít cũng không nghe được.
Ngày hôm
sau Nhậm bèn thả lính lùng khắp các nhà dân ở phường phố, lấy được của báu rất
nhiều, đến cả của tư cũng đều lấy hết.
Có người
dân đến cửa quân kêu rằng:
- Đời
xưa hành quân, không hề chạm đến một mảy may của dân. Có người lấy lấy cái nón
của dân để che áo giáp của quan, cũng không dung thứ. Sao nay dân gian lại bị
hại đến như thế?
Nhậm
quát to:
- Những
vật quân ta lùng được đều là tài sản trong cung phủ nhà Lê, phải đâu là của nhà
dân? Chẳng qua chúng bay nhân lúc rối loạn, tranh nhau ăn trộm, đại quân ập
đến, không kịp cất giấu đấy thôi. Thằng này chính là bè đảng của bọn côn đồ,
không thể tha thứ được!
Lập tức,
Nhậm sai điệu người ấy ra chém. Do đó, dân chúng rất sợ, không còn ai dám kêu
ca gì nữa.
Lại nói,
cha con Chỉnh cùng các quan theo vua chạy sang phương bắc. Vì sợ quân địch đuổi
kịp, ai nấy chạy sấp chạy ngửa, người nọ níu áo người kia, chẳng còn ra thể
thống gì cả. Chập tối thì vua tôi nhà Lê đến trấn Kinh Bắc. Gặp lúc trấn thủ là
Nguyễn Cảnh Thước mưu đồ làm phản, mượn cớ ốm không chầu vua. Chỉnh tới, quở
trách gắt gao, Thước mới miễn cưỡng ra yết kiến.
Lúc ấy,
dọc đường quân lính đã bỏ trốn quá nửa. Chỉnh rất lo, liền kiểm điểm số lính
còn lại, ưu binh và nhất binh (lính tuyển ở bốn trấn) chỉ còn hơn bốn trăm ba
mươi người, ngựa hơn sáu chục con, Chỉnh đem quân đi trước, qua sông Như Nguyệt
(tức sông Cầu (Hà Bắc)), đóng đồn ở núi Tam Tằng (nay thuộc Hà Bắc), tự mình
đốc suất quân lính đắp luỹ, cắm rào, rồi sai Thước hộ vệ nhà vua đến sau.
Chỉnh đi
rồi, vua và thái hậu chờ đợi bên sông, lâu mãi chẳng thấy thuyền, liền cho gọi
Thước đến hỏi.
Thước
tâu:
- Các
thuyền đều không ở đây, bệ hạ muốn sang sông gấp thì xin cho thần ít nhiều vàng
lụa, mới có thể thuê được. Nếu không, dẫu đến sáng mai cũng vẫn ở đây. Giả sử
quân giặc đuổi đến, thần xin dùng thùng gỗ để đưa bệ hạ qua sông. Nhưng chỉ e
những đồ ngự dụng không thể giữ được mà thôi.
Vua nói:
- Trẫm
có cả thiên hạ còn không giữ được, bây giờ lại còn tiếc cái gì nữa.
Tức thì
nhà vua sai mở hòm cho Thước xem. Trong hòm chỉ có con dấu truyền quốc và bốn
mươi lạng vàng mà thôi.
Vua nói:
- Tuỳ
nhà ngươi muốn lấy gì thì lấy.
Thước
nói:
- Đội ơn
bệ hạ ban cho, thần xin chia một nửa.
Vua cho
Thước tất cả. Thước liền gọi lái đò đưa thuyền đến bến, chở nhà vua và đám
người cùng đi qua sông. Khi vua đã lên bờ, Thước lại cho người đuổi theo, lột
chiếc ngự bào vua đang mặc. Vua ứa nước mắt, cởi ngự bào trao cho chúng, rồi
chạy về núi Như Thiết.
Vua xin
với thái hậu rằng:
- Con
tài đức kém cỏi, không đủ làm chủ thần khí (trỏ ngôi vua), lại không sành sỏi
trong việc xét người, bị Nguyễn Hữu Chỉnh làm lầm lỡ, đến nỗi kinh thành thất
thủ, phiêu bạt ra ngoài, để gây mối lo cho thánh mẫu. Bây giờ trèo leo ở chốn
núi rừng, nay đây mai đó, tình thế này không chắc đã sum họp một nhà được. Đã
thế lại còn dắt díu nhiều người đi theo, sợ giặc dò biết, sẽ sinh ra tai biến
bất ngờ. Con đã nghĩ đi nghĩ lại, chỉ có viên đốc đồng trấn Cao Bằng Nguyễn Huy
Túc là người trung hậu có thể nương nhờ được. Vậy xin thánh mẫu hãy tạm lên Cao
Bằng, nơi đó đường đất xa xôi, quân giặc không thể phút chốc đi tới được. ở đó,
công việc nên chăng thế nào, con xin viết bức thủ thư giao cho Túc. Đến như
việc sớm khuya hầu hạ, em con có thể thay con. Dám xin thánh mẫu tạm yên lòng,
để con ở đây ngầm lo việc khôi phục, ngõ hầu có thể chuộc được tội lỗi.
Thái hậu
nói:
- Trời
đã không giúp xã tắc, già này sống chẳng bằng chết, nguyện lấy mảnh đất ở núi
này làm nơi chôn cất hài cốt, chớ còn phải trèo non vượt suối làm chi nữa cho
khổ?
Vua rập
đầu chảy máu, mãi không dậy. Các quan cũng có nhiều người khuyên giải. Thái hậu
mới ưng ý.
Rồi đó,
em vua là Quang, thị thần là Quýnh cùng bọn tôn thất hơn ba chục người đều theo
thái hậu đi lên Cao Bằng.
Hôm sau,
vua sang huyện Yên Dũng (nay thuộc tỉnh Hà Bắc), văn thần đi theo chỉ có năm
sáu người là bọn Nguyễn Đình Giản, Phạm Đình Dư, Chu Doãn Lệ, Vũ Trinh, Trương
Đăng Quỹ mà thôi.
Vừa lúc
ấy, Võ Văn Nhậm sai bộ tướng là Nguyễn Văn Hoà đuổi kịp Nguyễn Hữu Chỉnh. Hai
bên đánh nhau ở núi Tam Tằng. Hữu Du múa đao đánh mạnh, giết vài chục quân
địch. Hoà chia một đội kỳ binh vòng ra sau núi đánh úp. Quân Chỉnh rối loạn, tự
nhiên tan vỡ. Hữu Du chống cự không nổi, chết ở trước trận. Tham tri chính sự
là Nguyễn Khuê cũng bị địch giết. Chỉnh lên ngựa nhằm hướng bắc mà chạy, ngựa
ngã, bị quân địch đuổi kịp, chúng tranh nhau chĩa giáo chực đâm. Chỉnh vội kêu
to:
- Xin cứ
bắt sống mà đem dâng!
Quân
địch bèn trói Chỉnh lại, bỏ cũi đưa về kinh.
Chỉnh
xin gặp Văn Nhậm để nói một lời. Nhậm không cho, sai người kể tội Chỉnh rằng:
Mày vốn
là tôi chúa Trịnh, phản chủ mà về với chúng tao để mưu đồ diệt họ Trịnh; rồi
lại phản chúng tao về Bắc, lừa dối vua Lê, chiếm lấy ngôi cả, tự tiện làm oai
làm phúc, ngầm ngầm lo mưu lấn cướp để tranh giành với chủ tao. Xét cuộc đời
của mày, toàn học thói cũ của quân giặc loạn, phải phanh gan ruột mày ra, bỏ
hết những cái dơ bẩn, để người Bắc lấy mày làm răn!
Rồi Nhậm
bảo phanh thây Chỉnh, thả cho chó ăn thịt.
Trong
trận ấy, Hoà tuy bắt được Chỉnh, nhưng chưa bắt được vua Lê, Hoà thả quân lùng
mãi không được, bèn ngấm ngầm sai người dò tìm tung tích. Vua Lê nghe tin sợ
quá, liền chạy trốn vào vùng núi Bảo Lộc (nay thuộc huyện Lạng Giang, Hà Bắc).
Lại nói,
trước kia Lân dương hầu tà Phạm Tôn Lân theo án đô vương chạy ra Yên Quảng, rồi
vì có việc phải cáo từ về nhà; nhân đó Lân mưu đồ chiêu dụ quân lính để giúp
chúa Trịnh, nhưng về sau không biết chúa ở đâu, bèn nương nhờ vào người hào mục
huyện Yên Dũng, là Nguyễn Trọng Linh (Cương mục chép là Dương Đình Tuấn, người
huyện Yên Thế, Bắc Giang (Hà Bắc)).
Lúc ấy,
nghe tin vua ở vùng Bảo Lộc, Lân bèn nói với Linh cùng nhau đi đón vua về. Rồi
họ đốc suất nhân dân bảy tổng thuộc huyện Yên Dũng, đắp luỹ ở phía bắc sông
Nguyệt Đức (tức sông Cầu (Hà Bắc)), chống nhau với Hoà. Hoà đánh không được.
Nhậm phải tự mình dẫn đại quân đến, đêm ngày đánh rất dữ. Quân Linh thua trận.
Linh dắt vua Lê chạy trốn. Em Linh là Lung bị Nhậm bắt sống. Nhậm không giết mà
sai đem thư dụ Linh, bảo phải nộp vua Lê, đại lược nói rằng:
"Tôi
vâng mệnh ra Bắc, chỉ giết giặc Chỉnh, không can gì đến tự hoàng nhà Lê. Tự
hoàng là người của chúa thượng lập nên, bị giặc kèm đi, cùng chạy với chúng.
Loài cáo vốn hay ngờ vực, vẫn mê không chịu quay về; bọ ngựa dám chống bánh xe,
nên phải đem quân tới đánh. Nay nếu biết hối mà về ngay, còn có thể chuộc được
lỗi trước. Nếu không, thì sẽ tìm người khác để coi việc nước. Ngôi chủ tể đã có
người, thì tự hoàng không còn ngày trở về nữa, mà lũ các ngươi rồi cũng bị vạ
lây".
Linh
nhận được thư, dùng dằng chưa quyết, lại sai Lung về báo với Nhậm rằng:
"Sau khi bị thua, mỗi người bỏ chạy một ngả, thật không rõ vua Lê ở đâu.
Xin cho phép mươi ngày để đi tìm kiếm, rồi sẽ tự đến".
Đình
Giản biết chuyện ấy, bèn tâu riêng với vua Lê rằng:
- Anh em
Linh không thể tin cậy được. Các ông Đinh Dư, Doãn Lệ, Vũ Trinh đều là người
Kinh Bắc, nên kíp sai đi chiêu dụ lấy quân để tự vệ, rồi dời xa giá đến phủ
Thuận An (nay là huyện Thuận Thành, Hà Bắc). Còn các ông Đăng Quỹ, Văn Lân đều
là người Sơn Nam, cũng nên sai về bản quán mộ quân, chờ lệnh trưng phát.
Vua Lê
nghe lời, sai mọi người chia ngả mà đi làm việc, chỉ để Đình Giản ở lại hộ giá.
Vua Lê
ngấm ngầm tới huyện Gia Bình (nay là huyện Gia Lương, Hà Bắc), vời tiến sĩ là
Trần Danh án, đến hỏi về tình hình vùng đó. án tâu:
- Thổ
hào phương bắc đây có Trần Quang Châu, nguyên là xã trưởng xã Kênh Than, là
người dũng cảm mà lại có sức mạnh. Trước đây nhân khi loạn, Châu tụ tập đinh
tráng, để giữ xóm làng. Trong huyện nơi nào có kẻ cướp thì Châu liền đem quân
đến cứu. Trộm cướp không dám đụng chạm đến, cả huyện yên ổn, họ bèn bầu Châu
làm chức huyện trưởng. Có lúc, Châu vác cày bừa, giả dạng làm người nông phu,
hễ gặp lính Tây Sơn là đánh chết liền. Quân Tây Sơn luôn luôn bị Châu giết hại,
răn nhau không dám xâm phạm đến bờ cõi huyện này. Văn Nhậm nghe tin giận lắm,
định đem quân đến bắt Châu. Châu bèn trốn vào vùng Chí Linh, Phượng Nhãn (Chí
Linh thuộc Hải Dương (Hải Hưng). Phượng Nhãn nay sáp nhập vào huyện Yên Dũng,
Hà Bắc), chiêu mộ dũng sĩ, chống nhau với địch. Người ở hai vùng đông bắc, theo
về với Châu mỗi ngày một nhiều. Châu thường cho người dò la nơi ở của quân Tây
Sơn, rồi đêm đến đem quân đi gấp tới nơi, đánh úp giết chết. Quân của Châu khi
ẩn, khi hiện như thần, đánh đâu là thắng đấy. Quân Tây Sơn chẳng làm gì được.
Châu vẫn muốn khởi nghĩa, nhưng chưa có ai làm chủ. Vậy xin đưa lá thư của bệ
hạ đi để chiêu dụ Châu, chắc là Châu sẽ đến ngay.
Vua nói:
- Vậy
nhà ngươi hãy sai người đi đi!
Châu
nghe tin, mừng lắm, nói với mọi người:
- Quân
ta nay đã có danh nghĩa rồi!
Châu bèn
đem quân đến đón vua Lê, vua tôi gặp nhau rất là vui mừng.
Vua nói:
- Nghe
đồn nhà ngươi dùng binh rất hùng dũng, nay quân giặc tụ tập ở vùng Bảo Khảm
chừng hai trăm tên, nếu ngươi có thể đánh phá được chúng, ta sẽ cho ngươi làm
chức trấn thủ xứ Kinh Bắc.
Châu
nói:
- Việc
đó rất dễ, song chỉ e khi chúng kéo hết quân đến, thần ít quân, lại không có
quân cứu viện, thì không đủ sức đánh nhau với chúng, mà rồi lại không thể tránh
đi nơi khác để giấu kín tung tích. Lâu nay những việc thần đã làm, chỉ có thể
hả bớt tức giận mà chưa thể tự lập được cũng là vì cớ ấy. May nhờ oai linh của
bệ hạ, lại được các tướng góp sức, thần xin tự mình chống đỡ một mặt, gặp giặc
là đánh, có chết thì thôi chứ không chạy.
Vua nói:
- Mạnh
mẽ thay! Thật đáng là bậc đại tướng.
Rồi đó
vua bèn phong cho Châu làm quyền trấn thủ, tước Dao quận công. Châu liền mở
cuộc diễu võ ở núi Vạn Kiếp (thuộc huyện Chí Linh, Hải Dương (Hải Hưng)), dựng
cờ và trống đại tướng ở trên núi, rồi sai người tâu mời nhà vua tới xem.
Thật là:
Thành lữ
long đong lo việc nước,
Trạch
bào hăng hái giết quân thù
Chưa
biết việc này ra sao? Hãy xem hồi sau phân giải.
__
Thành
ngữ: mượn ở câu: Hữu điền nhất thành, hữu chúng nhất lữ (Đất đai có mười dặm,
quân lính có trăm người) trong Bắc sử, trỏ vào việc vua Thiếu Khang nhà Hạ bị
mất nước, chỉ còn có một thành một lữ mà khôi phục được cơ nghiệp. Trạch bào
mượn chữ ở bài "Vô y" trong Kinh thi, bài thơ nói về tinh thần hữu ái
và khảng khái của quân lính. "Trạch" là áo lót, "bào" là áo
khoác. Nguyên văn là Khởi viết vô y, Dữ tử đồng bào. . Khởi viết vô y, Dữ tử
đồng trạch (Há rằng không có áo? Ta sẽ chung áo khoác cùng anh. . . " cả
hai câu thơ trên đều nói về việc Chiêu-thống cùng đám quân cần vương đang hăng
hái mưu khôi phục lại cơ nghiệp.
Chương 11 : Tây Sơn lại kéo vào thành chiếm
giữ đất nước, Chiêu Thống ba phen tính chước khôi phục kinh đô
Lại nói, vua Lê thân hành tới xem diễu võ ở
núi Vạn Kiếp. Nhà vua ngự ở đền Trần Hưng Đạo, gọi Châu đến và hỏi:
- Có
được mấy trăm quân?
Châu
đáp:
- Trừ số
người mới theo về, thủ hạ tinh luyện của thần chỉ có trăm người mà thôi!
Vua nói:
- Tiếc
rằng ít quá!
Châu
đáp:
- Quân
cần tinh nhuệ không cần nhiều. Có trăm quân cảm tử, cũng đã đủ để hoành hành
trong thiên hạ. Thần đã từng thử, quân giặc có lúc kéo tới đầy cả đồng, thần
chỉ sai vài chục người xông đến trước trận, múa dao chém bừa, không lần nào
giặc không tan vỡ.
Vua bảo:
- Đúng
như lời ngươi nói, nhưng đánh bất thình lình thì được, chứ đối trận mà đánh thì
không được. Nay đang khi trốn chạy tan tác, nhân tình dễ loạn, làm gì cũng phải
cho chu đáo mới có thể đứng vững để lo việc khôi phục. Vạn nhất bị vấp ngã thì
không thể nào nhóm họp lại được nữa. Vì thế, thời xưa có người chịu nương náu ở
núi Cối Kê, có người chịu nép mình ở đất Ba Thục (ở đây Chiêu-thống muốn nói
đến chí phục thù của các vua đời xưa ở Trung Quốc, như Việt vương Câu Tiễn thời
Xuân-Thu và Hán Cao Tổ cuối đời Tần. Câu Tiễn bị Ngô Phù Sai đánh bại và cho ở
đất Cốt Kê, nhưng vẫn nhẫn nhục chịu đựng mọi cay đắng, ngầm nuôi chí lớn, sau
quả nhiên trở lại diệt được nước Ngô. Hán Cao Tổ bị Sở Bá vương biếm phong vào
đất Ba Thục. Cao Tổ tạm thời chịu lép vế, rồi về sau đã thắng Sở), người ta vẫn
phải ẩn nhẫn mà giữ lấy lực lượng, không dám làm liều để rước lấy sự thất bại.
Ngày nay, việc nước nhà cũng giống như vậy, nên trước tiên phải kêu gọi quân
cần vương để thêm thanh thế, không nên lộ mặt ra vội. Trẫm đã sai các quan chia
đường đi chiêu mộ binh lính, ở Kinh Bắc có Phạm Đình Dư, Chu Doãn Lệ, ở Sơn Nam
có Trương Đăng Quỹ, Phạm Văn Lân, ít lâu nữa họ sẽ trở về phục mệnh. Nhà ngươi
nên đợi họ, bây giờ hãy đóng quân ở trong núi, luyện tập số người mới theo, cho
tất cả đều tinh nhuệ, để chờ sai khiến.
Vua lại
sai Đình Giản qua miền thượng du trấn Sơn Tây, kêu gọi nghĩa binh các trấn
Tuyên Quang, Hưng Hoá, hẹn ngày cùng đến. Còn tự mình thì đi tới vùng Hải
Dương, truyền hịch chiêu dụ.
Lúc vua
đến huyện Chí Linh, quan văn đi theo chỉ có ba người là Trần Danh án, Vũ Trinh
và Ngô Thì Chí mà thôi.
Ngô Thì
Chí có dâng vua bài "Sách lược trung hưng" như sau:
"Thần
trộm nghĩ, dẹp loạn phải xem cơ, dùng võ phải có đất. Vua Thiếu Khang giữ Luân
ấp mà sau mới dấy được nghiệp trung hưng; Vua Chiêu Liệt chiếm ích Châu mà sau
mới chống được kẻ ngoại địch. Địa thế nước ta, Cao Bằng, Lạng Sơn nằm ở phía
đông bắc, giáp với đất Trung Hoa. Núi sông hiểm trở, đủ để giữ vững, binh mã
hùng cường, đủ để tiến đánh. Nay bệ hạ hãy ngự giá đến đó, sai một sứ thần sang
báo với nhà Thanh, xin họ đem quân đóng áp bờ cõi, để làm thanh viện cho ta;
đồng thời đưa mật chỉ cho hào kiệt bốn trấn, bảo họ hưởng ứng. Lòng người đã
được khích lệ, ai dám không theo? Trăm quan kẻ nào chưa theo kịp, ai dám không
tới? Ngoài tựa vào thế thượng quốc, trong nhóm họp quân cần vương, khiến cho
thế giặc mỗi ngày mỗi trơ trọi, thế ta mỗi ngày một lớn mạnh. Rồi đó, ta sắp
đặt phương lược, tiến lên khôi phục kinh thành, công nghiệp trung hưng hẳn có
thể hẹn ngày mà làm nên được!".
Vua vời
Chí tới và bảo:
- Ngươi
nói rất hợp ý ta. Mùa đông năm ngoái, ta sai hoàng đệ và các hoàng thân hầu
thái hậu lên Cao Bằng, có đưa mật chỉ cho viên đốc đồng Nguyễn Huy Túc, dặn y
dùng lời nghĩa khí khích động lòng người, liên kết bọn phiên tướng, tụ tập quân
biên cương, cũng là sắp sẵn cho việc ấy. Nhưng còn Lạng Sơn thì ta chưa sai ai
đi.
Chí tâu:
- Trước
kia, khoảng năm Đinh Dậu (1777), niên hiệu Cảnh Hưng, cha thần đã vâng chiếu
lên làm trấn thủ xứ Lạng Sơn, để tuyên bố uy đức của triều đình và chiêu tập
những kẻ lưu vong. Nhân dân bảy châu, đến nay vẫn còn mến yêu. Thần xin lên đó,
vâng chỉ chiêu dụ, nhân dịp báo tin cho Túc, tâu với thái hậu, hẹn ngày ra quân
để đón xa giá. Thế là một chuyến đi mà được cả hai việc.
Vua Lê
khen là phải rồi cho Chí đi. Chí mới đến huyện Phượng Nhãn thì phát bệnh, không
thể đi tiếp, liền gửi tờ biểu về xin nghỉ ít hôm để điều trị. Vua bèn cho mười
nén bạc để chi về việc thuốc thang.
Trong
lời biểu của Chí gửi về tạ ơn vua, có đoạn viết:
"Gặp
cơn nguy biến, chí hợp mà tâm đồng; nghĩa vua tôi ngàn năm mới gặp; trong đạo
luân thường, phận ưa mà tình nặng; tình cha con một nhà khác chi? Nay gặp buổi
quốc gia còn lắm nạn; chính là khi thần tử phải quên mình. Dám đâu vì việc
riêng mà tiếc thân; nguyện sẽ đeo bệnh tật để dấn bước".
Vua xem
tờ biểu lấy làm cảm động.
Vừa lúc
đó, bọn Đình Dư, Doãn Lệ sai người đưa tờ mật biểu tới nói rằng: "Các vùng
Đông Ngàn, Kim Hoa, Võ Giàng, Quế Dương (nay đều thuộc Hà Bắc; riêng Kim Hoa
sau đổi là Kim Anh nay thuộc Vĩnh Phú và một phần nhập vào huyện Sóc Sơn thuộc
Hà Nội), lòng người đâu đâu cũng căm tức. Bọn thần đã tuyên lời chiếu dụ, các
hào mục đều xin dấy quân cần vương. Cúi xin xa giá trở về Kinh Bắc, để cho bọn
họ được vào yết kiến. Rồi nhân đó, bệ hạ ban lời dụ trước mặt họ cho họ về nói
lại với nhau, như vậy ai mà không theo? Khi đã phò giá về đóng ở đấy, thì người
trong thiên hạ đều được trông thấy mặt trời. Đình Giản trước đây đi Sơn Tây,
Tôn Lân trước đây đi Sơn Nam, cũng được xa nhờ tiếng tăm, uy linh của nhà vua
mà đem quân về họp. Hà tất phải lên Lạng Sơn, là nơi bờ cõi xa xôi cách trở?
Bọn thần e rằng cứ nấn ná ngày tháng sẽ làm lỡ mất cơ hội, rồi lại bỏ chỗ gần
mà lo chỗ xa, thì thật là thất sách!".
Vua Lê cho
lời ấy là phải.
Vũ Trinh
mời nhà vua về làng Xuân Liên, huyện Lang Tài (nay sáp nhập với huyện Gia Bình
thành huyện Gia Lương). Cha Vũ Trinh là Vũ Chiêu làm tờ biểu xin dâng hai trăm
lạng bạc để tiêu vào việc quân. Vua nhận số bạc ấy, bèn dùng nhà Chiêu làm nơi
hành tại.
Lại nói,
khi Bắc bình vương sai Võ Văn Nhậm ra đánh đất Bắc, vốn do mệnh lệnh đã định từ
trước, nhưng trong bụng cũng hơi nghi ngờ Nhậm, bèn sai bọn Ngô Văn Sở, Phan
Văn Lân làm tham tán quân vụ để chia bớt quyền của Nhậm. Bắc bình vương lại bảo
riêng với Sở rằng:
"Nhậm
là con rể vua anh. Nay ta với vua anh có sự xích mích, lòng y chắc cũng không
yên. Chuyến này y cầm trọng binh vào nước người, sự biến không thể liệu trước
được. Nay ta không lo Bắc Hà mà chỉ lo về Nhậm mà thôi. Ngươi nên xem xét từng
ly từng tý, hễ có gì thì phải gấp rút báo cho ta biết. Ví như lửa cháy, dập tắt
từ khi mới bén thì dễ dàng hơn".
Lúc Nhậm
thừa thắng kéo xe ra Bắc, như vào làng bỏ trống, không một người nào dám chống
cự. Nhậm có vẻ dương dương tự đắc. Kịp khi bắt sống được Nguyễn Hữu Chỉnh, Nhậm
tự cho là uy vũ của mình đủ khiến người ta phải phục, khu xử việc Bắc Hà không
có gì khó.
Khi nghe
vua Lê chạy sang phía bắc, nương tựa vào Nguyễn Trọng Linh, Nhậm liền tức tốc
gửi thư bắt buộc LInh phải đem vua Lê ra nộp. Nhậm lại cho đòi các người trong
tôn thất và các quan văn võ phải đến cửa quân chờ hầu; thường dùng cách hất
hàm, đưa mắt, dùng bộ điệu, khí sắc để sai khiến mọi người mà chẳng ai dám làm
gì.
Thế
nhưng, rốt cuộc Nguyễn Trọng Linh vẫn không đến, các viên quan có thế lực cũng
chẳng có ai tới. Trần Quang Châu ở Kinh Bắc. Nguyễn Viết Tuyển ở Sơn Nam, Đinh
Tích Nhưỡng ở Hải Dương, ai nấy cầm quân giữ đất và nói phao lên rằng, chẳng
bao lâu, bốn phía sẽ nhòm về kinh đô, cùng Nhậm quyết chiến. Rồi đó, hễ quân
Tây Sơn có tên nào ra khỏi thành là bị bọn thổ hào giết chết. Giặc cướp cũng
nhân dịp nổi lên khắp nơi, khói lửa liên tiếp. Lúc bấy giờ Nhậm mới có ý sợ,
liền bắt hết nhân dân quanh vùng kinh kỳ đắp lại thành Đại La. Ngày đêm đốc
thúc, không cho nghỉ ngơi chút nào, đến nỗi có người đang đội đất mà ngã sấp
xuống. Làm lụng mệt nhọc, đói khát, ai cũng ta oán. Khi ấy, có người đồn rằng:
Trần Quang Châu đã lẻn vào trong thành làm nội ứng, hẹn Nguyễn Viết Tuyển đem
binh thuyền ngược dòng sông Nhĩ Hà đi lên để làm ngoại ứng. Nhậm bèn hạ lệnh
lùng khắp kinh sư, những người ở trọ trong các phố phường đều đem chém chết.
Ngô Văn
Sở nói:
- Mình
cứ vững dạ, có lo gì họ? Nếu mình tự bối rối trước, thì còn trấn áp được ai?
Chi bằng tha họ cho yên lòng dân.
Nhưng
Nhậm không nghe. Vừa lúc ấy có người ở làng Cơ Xá, huyện Gia Lâm, tự xưng là
Trần Đình Khôi làm chức thiêm sự của nhà Lê, xin vào yết kiến. Nhậm cho mời vào
và hỏi:
- Nguyễn
Hữu Chỉnh là kẻ vong mạng, lấy trộm ngôi cao, tàn hại nhân dân, thiên hạ ai
cũng căm giận. Người Bắc Hà mưu đồ đánh hắn mà không được, trở lại bị hắn làm
hại. Nay ta trừ hắn đi cho, đáng lẽ ơn ta mới phải, sao ta vời mà không ai đến?
Khôi
đáp:
- Ông có
tài quyết thắng ở ngoài ngàn dặm, lẽ nào lại không xét rõ tình người? Người Bắc
Hà dù oán Chỉnh rất sâu, mà lòng nhớ nhà Lê chưa nguôi. Họ thấy ông giết Chỉnh,
xa gần cũng đã mừng rỡ, nhưng vì ông chưa bàn gì đến việc phò Lê, nên người ta
bàng hoàng trông ngóng, chưa dám đến vội. Nay tự quân đã bỏ nước mà đi, không
có lẽ còn quay trở lại. Có Sùng nhượng công Lê Duy Cận, lúc tiên đế còn sống,
đã chính vị làm đông cung, sau gặp việc biến cố năm Nhâm dần (1782), mới bị
kiêu binh truất bỏ. Nếu ông khôi phục ngôi đó cho Sùng nhượng công để tạm coi
việc nước, rồi đem việc ấy bá cáo khắp trong ngoài, yết một mảnh giấy ở cửa Đại
Hưng, thì chẳng bao lâu các quan văn võ sẽ đến họp cả. Lúc bấy giờ việc thiên
hạ ai cũng phải nghe ông, ông xoay vần dễ như trở bàn tay, lo gì mà không xong
xuôi?
Nhậm gật
đầu nói:
- Ông
nói rất có lý. Ví như mổ trâu, cắt đúng đường gân khớp xương thì các thớ thịt
sẽ đứt cả, không khó nhọc gì.
Rồi đó,
Nhậm bèn sai mời Sùng nhượng công vào phủ, lấy lễ thượng khách mà tiếp đãi và
bảo rằng:
- Thiên
hạ vốn là thiên hạ của nhà Lê. Tự hoàng bỏ nước mà đi, trong nước không có ai
làm chủ. Ông là thái tử cũ, đã có mệnh vua từ trước. Bây giờ ở ngôi ấy, ngoài
ông ra thì còn ai nữa?
Sùng
nhượng công nói:
- Nước
mọn này mất cả giường mối, nhờ ơn thượng công (chỉ Nguyễn Huệ) đã gây dựng lại
cho. Nhưng trời chưa thôi vạ, tự hoàng thơ ấu, bị tên loạn thần làm lầm lỡ,
phải chuốc lấy sự bại vong. Nay chúa công (chỉ Võ Văn Nhậm) không nỡ bỏ, lại lo
nối lại cái dòng đã đứt, đó là điều may lớn cho nước mọn này. Chỉ hiềm tôi là
người không có đức, nếu được lạm giữ ngôi ấy, thì công việc chỉnh đốn phen này,
cũng xin nhờ chúa công giúp đỡ cho, may ra mới có thể tự lập được.
Nhậm
cười mà rằng:
- Ông
hãy cứ làm, không cần lo xa. Có tôi ở đây, bọn gian hùng dù muốn hại ông, cũng
quyết phải sợ mà không dám hành động. Đợi khi thượng công ra đây, tôi xin nói
giúp ông, ông sẽ được lên ngôi vua thật sự.
Sùng
nhượng công nghe nói, mừng lắm, bèn sắm sửa lễ vật tới yết nhà Thái-miếu, rồi
vào ở trong gian nhà phía tả điện Cần-chính, và cho Khôi đi tìm tất cả các quan
đến để bàn việc.
Trước
hết, Khôi tới nhà Lê Phiên. Phiên mắng rằng:
- Vua
phải chạy đã không đi theo, lại theo người ta mà lập vua khác. Lời nói ấy sao
còn đến tai ta làm gì?
Rồi
Phiên bỏ trốn lập tức.
Khôi lại
tới nhà viên tham tụng là Huy Bích. Bích từ chối không chịu gặp. Sùng nhượng
công bèn thảo tờ dụ các quan đại ý nói rằng:
"Năm
xưa đã nhường ngôi, quả không có lòng tham thiên hạ. Ngày nay tạm nắm quyền,
chỉ mong giữ việc tế tự. Những ai hiểu cho ý đó, thì nên tới họp tại
triều".
Nhưng
các quan văn, rốt cuộc chẳng một ai tới. Khôi liệu công việc chắc là không
thành, bèn bàn tính với một người bạn. Người ấy trả lời:
- Anh
nộp tiền để mua chút bằng sắc, triều không ngồi, tiệc không dự, mất nước không
phải tội lỗi của anh, được nước không phải trách nhiệm của anh, chẳng qua anh
muốn nhân lúc loạn lạc mưu đồ phú quí mà thôi. Nhưng Sùng nhượng công không
phải món hàng lạ có thể buôn bán được, Văn Nhậm lại là kẻ dã tâm khó lòng tin
cậy. Một mai Bắc bình vương đến, tai vạ thật là khó lường; mà sau này vua Chiêu
thống trở về, anh cũng không có chỗ nào để dung thân nữa. Tục ngữ có câu:
"ở yên chẳng muốn, muốn chui đầu vào chum để mua vạ". Chính là nói
hạng người như anh đó!
Khôi sợ,
bèn bỏ trốn.
Sùng
nhượng công ngồi trơ trong điện, chỉ có một vài hoàng thân và ba bốn tên võ
biền, sớm tối ở chung với nhau; còn mọi công việc đều không đến tay. Hàng ngày
hắn ta đi bộ đến phủ đường, chầu chực Văn Nhậm và hỏi cách xử trí, song Nhậm
cũng chẳng biết xử trí ra sao. Người kinh thành thấy vậy, đều gọi hắn ta là
"giám quốc lại mục" (viên thơ lại coi việc nước).
Lại nói,
Ngô Văn Sở từ khi nhận mật chỉ của Bắc bình vương và cùng Nhậm ra Bắc, lúc ở
trong quân thường vẫn dùng lời nói ngọt nhử Nhậm, để ngầm dò ý. Đến lúc này, Sở
bèn bảo Nhậm rằng:
- Chúng
tôi vâng mệnh theo ông đánh dẹp, giặc Chỉnh đã bị giết, nhưng dư đảng của y ở
vùng đông nam vẫn chưa dẹp yên, vua Lê vẫn còn chạy trốn ở ngoài, mà các quan
cũng đều lẩn tránh. Nay ông cho Sùng nhượng công làm giám quốc, nhưng tôi xem
lão ấy chỉ là phường a dua không được tích sự gì, rốt cuộc chỉ là một cục thịt
trong cái túi da, làm sao mà sai khiến được kẻ khác? Từ khi có nước Nam tới
nay, triều đại thay đổi không biết là mấy lần rồi. Thiên hạ nào phải là của
riêng ai. Liệu có thể lấy được thì cứ lấy đi, rồi đặt quan, chia chức để xây
dựng phên giậu, làm cho tai mắt của mọi người đều được một phen đổi mới. Nếu có
kẻ nào lấy trộm danh nghĩa (ý nói những kẻ mượn tiếng phò Lê) thì cứ bảo là
giặc, rồi đem quân tới đánh, ai dám chống lại? Việc gì mà phải mượn đứa tôi đòi
ngoài chợ trông coi việc nước, để hắn sắm vai ông chủ "tượng đất"
trong vườn; còn mình thì cứ đóng mãi trong thành, làm tụi lính khách ở trọ nước
ngoài?
Nhậm
nói:
- Bọn
Nhưỡng, Tuyển chẳng qua hơi tàn thoi thóp; nắm lấy cánh tay tự nhiên phải đến.
Vả ta xem bọn bề tôi nhà Lê chẳng có mặt nào như Điền Đan nước Tề, Vân Trường
nhà Hán (Điền Đan là người họ vua Tề đời Chiến quốc; Vân Trường tức tên tự của
Quan Vũ, là bạn kết nghĩa của Lưu Bị thời Tam Quốc. Hai người đều có tài trong
việc đánh dẹp và giúp nhà vua khôi phục đất nước); chẳng qua họ sợ binh oai của
ta, nên sớm chiều dùng dắng đó thôi. Nếu ta hạ một cái bảng, hẹn ngày phải tới
cửa quân, không tới thì chém, chắc là chúng sẽ cởi áo mang roi đến xin chịu
tội. Điều đó không phải là việc đáng lo. Chỉ vì lòng người đất Bắc còn nhớ họ
Lê, không thể không chiều theo lòng mong mỏi của mọi người. Mượn hắn ra làm pho
tượng gỗ, là cốt để chia rẽ đồ đảng của Chiêu thống, và ràng buộc lòng dân Bắc
Hà đó mà thôi. Chỗ đó không phải chỗ lũ các ông có thể biết được! Các ông khoẻ
sức đánh trận, ta sẽ giao cho các ông chia đường tiến đánh, rồi giữ lấy đất,
làm bức trường thành cho ta, há chẳng tốt ư? Đến lúc đó, cuộc thế xoay vần, tự
nhiên có nhiều việc hay, đường đường làm chủ không phải ta thì còn ai? Cần gì
mà phải làm khách?
Sở im
lặng ra về, rồi bảo với Lân rằng:
- Lão
tiết chế thật khinh người quá. Hắn có tài đức, trí lược gì mà dám coi bọn ta là
tụi lính tráng? Xem hắn từ khi vào thành đến nay, đã làm được việc gì? Thúc ép
dân phải gấp rút đắp luỹ và phò Lê Duy Cận làm giám quốc, đều là sắp sẵn cái
mưu làm phản, để hòng tranh giành với chủ ta. Đã không biết lấy giặc Chỉnh làm
răn, trở lại muốn bắt chước nó. Không muốn sống lại muốn chết, thì cứ cho hắn
đi theo Chỉnh, để răn những kẻ khác!
Sở bèn
lượm lặt các việc làm của Nhậm, cho là tội trạng làm phản, lấy Lân làm chứng,
rồi ngầm sai người về Nam báo với Bắc bình vương (theo Cương mục thì Nhậm có
làm những việc trái phép, như tự đúc ấn chương, chuyên quyền trong việc cất
nhắc, xếp đặt quan chức, v. v. . . Nhưng bên cạnh đó, Sở vốn có hiềm khích với
Nhậm, nên đã dâng mật thư vu oan cho Nhậm làm phản). Bắc bình vương nói:
- Thằng
Võ Văn Nhậm đáng chết thật! Ta vẫn biết hắn thế nào rồi cũng làm phản, quả
nhiên không sai.
Tức thì
Bắc bình vương hạ lệnh tiến ra Bắc, đốc thúc các quân bộ và quân kỵ mã ngày đêm
đi gấp. Chừng hơn mười ngày, đến thành Thăng Long. Bấy giờ đồng hồ vừa nhỏ giọt
xuống đến trống canh tư, Nhậm đang ngủ say trong phủ. Sở được tin, liền dặn
người do Bắc bình vương sai đến phải giấu kín việc ấy, không được báo cho Nhậm
biết; rồi sai người ngấm ngầm ra ngoài thành đón Bắc bình vương. Người nhà và
người xung quanh Nhậm cũng đều không ai biết gì. Chốc lát, Bắc bình vương vào
thành, đến thẳng chỗ Nhậm nằm, Nhậm cũng vẫn chưa biết. Bắc bình vương liền sai
võ sĩ là Hoàng Văn Lợi đâm chết Nhậm rồi khênh xác ra sau phủ đường (cũng theo
Cương mục, lúc Nguyễn Huệ đến, Nhậm ra ngoài thành đón, Nguyễn Huệ liền nhường
ngựa đang cưỡi và lọng che cho Nhậm vào thành, lại an ủi vỗ về ôn tồn. Sau đó,
Nguyễn Huệ mới bắt Nhậm đem tra khảo và giết chết).
Mờ sáng,
Bắc bình vương truyền lệnh cho Sở làm chức đại tư mã, thống lĩnh quân đội thay
Nhậm, lúc đó quân lính mới biết.
Hôm ấy,
Bắc bình vương cắt đặt lại quan chức: Đô đốc nghĩa hoà hầu làm trấn thủ trấn
Sơn Nam; Lôi quang hầu (có bản chép Tuyết quang hầu) làm trấn thủ trấn Sơn Tây;
Nguyệt quang hầu làm trấn thủ trấn Kinh Bắc; Hám hổ hầu (có bản chép Hô hổ hầu)
làm trấn thủ trấn Hải Dương. Còn Giác hoà hầu coi giữ bộ Hình, chánh ngôn hầu
coi bộ Hộ, Ước thiện hầu coi bộ Lễ, Lộc tài hầu coi bộ Lại, và đều kiêm nhiệm
chức hiệp trấn. Bắc bình vương lại bảo họ tiến cử những người mà họ hiểu biết,
chia ra cho làm quan ở các huyện. Võ thì chia ra chức suất, chức nội; văn thì
chia ra chức tri, chức ngoại. Cả sáu trấn (theo Dụ am văn tập, dưới triều Tây
Sơn, các trấn ở Bắc Hà được chia lại thành 7 nội trấn và 6 ngoại trấn. Đây là 6
ngoại trấn: Lạng Sơn, Cao Bằng, Tuyên Quang, Hưng Hoá, Thái Nguyên, Yên Quảng)
đều do Sở tuỳ theo tài năng mà cắt đặt người, sau đó bẩm lên xin cấp văn bằng,
rồi cho ai nấy lĩnh quân bản bộ về trấn của mình. Bắc bình vương lại hạ chỉ vẫn
để con thứ tư của tiên hoàng nhà Lê là Lê Duy Cận làm giám quốc, coi việc tế
tự, và cho đòi hết thảy các quan văn võ phải tới cửa khuyết, chực sẵn ở nhà bộ
Lễ, rồi theo viên lễ quan là Võ Văn Ước vào yết kiến.
Bấy giờ
viên quan văn là Ngô Thì Nhậm vào yết kiến trước, Ước tưởng lầm là hoàng tử nhà
Lê, liền mời cùng ngồi với mình. Tiếp đó, bọn Lê Phiên đến, đều lạy ở dưới sân,
Ngô Thì Nhậm trong bụng rất áy náy, vội đứng dậy đi ra. Ước lấy làm lạ không
biết là ai, bèn hỏi:
- Người
vừa ngồi đây là ai thế?
Có người
trả lời:
- Văn
ban Ngô Thì Nhậm đấy!
Ước giận
mà rằng:
- Ta
vâng mệnh cai quản tất cả, sao lại được vô lễ như vậy?
Rồi Ước
tức tốc sai người theo bắt.
Ngô Thì
Nhậm đã biết trước chuyện đó, nên lúc ra, vội vàng trốn tránh ngay. Đến tối,
Nhậm vào yết kiến viên trung thư lệnh Kỷ lễ hầu là Trần Văn Kỷ.
Kỷ người
Thuận Hoá, vốn có văn học, là bậc danh sĩ ở Nam Hà. Năm Đinh dậu (1777) niên
hiệu Cảnh hưng, Kỷ thi ở trấn đậu giải nguyên. Năm Mậu tuất (1778), Kỷ tới kinh
thi hội, sĩ phu ở Bắc Hà, Kỷ có giao thiệp quen biết ít nhiều. Năm Bính ngọ
(1786), Bắc bình vương đánh lấy thành Phú Xuân, sai người tìm Kỷ hỏi việc Nam,
Bắc. Kỷ đối đáp rất nhanh và rất hợp ý, nên Bắc bình vương rất trọng, cho ở vào
chỗ "màn trướng" (nơi ở của bậc tướng soái), việc gì cũng bàn với Kỷ,
lúc nào cũng gần bên Kỷ, không mấy khi xa rời.
Lúc ấy
Ngô Thì Nhậm tới gặp Kỷ, nói rõ tình trạng mình xúc phạm tới Ước, sợ bị hãm hại
nên không dám đến, chứ không phải dám trốn tránh, rồi nhờ Kỷ giải cứu cho. Kỷ
nói:
- Nghe
ông là bậc kỳ tài, không may bị tiếng gièm pha, trốn tránh hơn năm sáu năm, sự
tích luỹ càng thêm tinh tuý. Nay ra ứng dụng với đời, chính là hợp thời. Tôi đã
đem tên ông trình với chúa thượng khen tài ông có thể dùng làm việc lớn. May
mắn nay được chúa thượng rủ lòng yêu mến, đã sai tôi tìm ông, vậy không phải
cần gì đến ông Ước!
Tức thì
Kỷ đưa Nhậm vào yết kiến Bắc bình vương. Bắc bình vương nói:
Ngày
trước, ngươi vì chúa Trịnh không dung, một mình bỏ nước mà đi. Nếu ta không đến
đây, ngươi làm sao được thấy bóng mặt trời? Có nhẽ đó là ý trời muốn để dành
người tài cho ta dùng. Vậy ngươi hãy cố gắng mà lo việc báo đáp, thế là được.
Ngô Thì
Nhậm rập đầu tạ ơn. Bắc bình vương ngoảnh lại bảo Kỷ:
- Đây là
người do ta gây dựng lại, nên thảo ngay tờ chế phong làm chức tả thị lang bộ
Lại, tước Tình phái hầu, cùng với Văn Ước coi tất cả các quan văn võ của nhà
Lê.
Hôm sau
các quan lục tục kéo đến, lễ quan đưa vào lạy ở điện Chính trung. Bắc bình
vương đòi hết lên sảnh đường mà bảo:
- Vua Lê
do ta lập lên, nhưng là người tối tăm nhu nhược, không thể gánh nổi công việc.
Sau khi ta về Nam, liền bị Nguyễn Hữu Chỉnh sai khiến tự rước lấy bại vong, đất
nước này dù ta không lấy thì cũng bị người khác lấy mất. Nay ta để Sùng nhượng
công làm giám quốc, các ngươi hãy cố gắng ở lại giúp đỡ ông ta. Ta thật không
muốn lấy Bắc Hà để kiếm lợi, nay mai lại sắp về Nam. Nhưng vì sợ tự hoàng tranh
giành cùng giám quốc, thành ra ta làm ơn mà lại hoá ra gây loạn cho họ, nên ta
phải để viên đại tư mã là Ngô Văn Sở ở lại trông nom việc binh, chờ khi bốn cõi
tạm yên, ta sẽ gọi về.
Trăm
quan từ giã lui ra, rồi nói riêng với nhau:
- Bắc
bình vương tạm dùng lời nói ngọt để giá ngự chúng ta, chứ không phải thật bụng.
Văn Sở cầm quân ở đây, thì Sùng nhượng công làm gì mà có nước? Hễ cử động gì
liền bị họ nắm lấy cánh tay, ông ấy còn làm được chi? Ví như cây tầm gửi, bám
vào cành cây khác, rễ không bén đất, sống lâu dài làm sao được? Chúng ta, người
nào có thể đi theo vua lo việc khôi phục thì đi đi, nếu không thì nên ẩn xa cho
sạch mình, chớ để cho người ta lừa phỉnh mà rước lấy vạ.
Sùng
nhượng công cũng biết như thế, nên đã phải than rằng:
- Ta nay
tiếng là làm giám quốc, thật ra chỉ là một ông từ giữ đền. Nhưng vì miếu xã ở
cả đây, bỏ đi thì đi đâu? Thôi thì cũng đành cam lòng như thế, không hối hận gì
nữa vậy!
Qua vài
ngày, Bắc bình vương dẫn quân về Nam. Trước khi lên đường, vương chọn năm sáu
viên văn thần là bọn Phan Huy ích, Nguyễn Thế Lịch, Ninh Tốn, Nguyễn Bá Lan. .
. , phong cho quan tước: ích làm chức tả thị lang bộ Hộ, tước Thuỵ nham hầu,
được đưa về Nam (bản chữ Hán chép cả Ngô Thì Nhậm cũng được đưa về Nam; đó là
chép lầm). Còn bọn Lịch, Tốn, Lan. . . , thì đều được phong chức hàn lâm trực
học sĩ, theo đại tư mã Sở ở lại đất Bắc. Nguyễn Hoàn và Phan Lê Phiên đều xin
về dưỡng nhàn, nhưng vẫn được Bắc bình vương cho giữ nguyên chức tước, và sai
bộ Lễ cấp phát giấy tờ cho họ trở về làng xóm. Tham tụng là Bùi Huy Bích, thiêm
đô là Nguyễn Huy Trạc đều có đến kinh, nhưng không chịu cho dẫn vào lạy chào.
Rồi đang đêm Bích trốn, còn Trạc thì tự tử ở đài Ngự-sử.
Những
người trốn tránh không chịu ra thì có phó đô ngự sử Nguyễn Đình Giản, tham tri
chính sự Lê Duy Đản, Phạm Đình Dư, đồng xu mật viện Nguyễn Duy Hạp, Phạm Trọng
Huyến, thiêm sai công phiên Phạm Quí Thích, đô cấp sự trung Nguyễn Đình Tứ, tất
cả chỉ có bảy người mà thôi (theo Cương mục, thì số người này gồm tám viên, mà
có một số tên khác hẳn đây).
Lại nói,
bấy giờ vua Lê đang ở huyện Lang Tài, lại dời đến huyện Chí Linh. Các quan biết
chỗ vua ở, nhiều người đến theo. Lê Ban ở Giáp Sơn (cũng gọi Hiệp Sơn, nay là
đất huyện Kinh Môn, Hải Dương (Hải Hưng)) đem một trăm người nghĩa dũng đến yết
kiến. Vua mừng lắm, phong cho làm chức ngự doanh sứ, tước trung nhạc hầu.
Ban nói
kín với vua rằng:
- Trước
đây, thần về Nghệ An, thấy nhân tình rất là căm phẫn, ghét Tây Sơn như cừu thù,
nhiều người đã nhóm họp ở rừng núi để cùng lo việc khởi nghĩa. Các bậc phụ lão
nghe tin thần ở Bắc vào, đều lần lượt đến hỏi nhà vua ở đâu, muốn cho con em đi
theo. Nhân thể, thần mới cùng đi với họ. Dọc đường qua cửa biển, thần lấy điều
nghĩa khuyên dụ, nhiều người xin đem thuyền qua biển, hẹn nhau họp ở ngoài khơi
phủ Kinh Môn (địa bàn phủ Kinh Môn (Hải Dương) đời Lê rất rộng, gồm cả một số
huyện của Quảng Yên và Kiến An hiện nay). Gần đây, thần được tin báo rằng: hiện
có chừng hơn bảy chục chiếc thuyền và hơn ba trăm thuỷ thủ, khí giới lương thực
đầy đủ, ít hôm nữa sẽ đến. Vậy xin xa giá ngự ra Giáp Sơn, hạ chiếu cho Trần
Quang Châu đem quân bản bộ hộ vệ. Quân bộ do Châu thống lĩnh; mặt thuỷ thần xin
đảm đương. Hai cánh quân nương tựa lẫn nhau. Trước hãy khôi phục trấn Hải Dương
để làm nơi xa giá tạm nghỉ. Trấn ấy phía bắc có thể khống chế các huyện Từ Sơn,
Thuận Thành; phía nam thông với các phủ Thái Bình, Kiến Xương, theo đường Yên
Quảng có thể đến thẳng Cao Bằng, và kéo luôn sang vùng Lạng Sơn. Cơ trung hưng
không còn cách nào khác nữa.
Vua Lê
nghe theo, bèn hạ chiếu cho Châu làm chức đốc chiến ở đạo Kinh Bắc
Quân
chưa kịp tiến, thì vừa gặp lúc Đinh Tích Nhưỡng ở Hải Dương dâng tờ biểu xin
theo đi đánh trận. Mọi người nghe tin, nói nhao lên rằng: "Nhưỡng là một
thằng chẳng ra làm sao. Bảo là có nghĩa ư? Trước đây hắn đã toan giúp nhà chúa
để chống lại mệnh lệnh nhà vua, lúc đầu phò quận Thuỵ, sau lại theo chúa án đô.
Đến khi quận Thuỵ làm không nên việc và án đô bị thất bại, hắn đều bỏ đi không
nhìn. Bất nghĩa đến thế là cùng! Bảo là có tài ư? Chính hắn đã hai lần cầm quân
chống giặc, thì một lần thua ở Kim Động, một lần thua ở Ngô Đồng, chỉ chạy
thoát được cái thân, không chết là may đấy thôi! Xem một đời hắn, toàn không có
nghĩa khí, lại không có tài chiến đấu, chỉ cậy thế con nhà tướng, quen dùng khí
thế đè nén người ta. Khi hắn mới về Hải Dương, thả bộ hạ cướp bóc trong xứ.
Người ta coi hắn là giống diều quạ gian giảo và gọi là giặc Nhưỡng. Hào mục các
huyện đã viết thư cho nhau kể tội các của hắn. Họ đã họp nhau trong làng Lai
Cách, huyện Cẩm Giàng, hẹn nhau đến đánh phá Hàm Giang. Nhưỡng phải lui quân về
huyện Bình Giang. Rồi nhân lúc ban đêm, kéo đến làng Lai Cách, giết hại không
biết bao nhiêu người mà kể, đến nỗi thây nằm ngổn ngang đầy đồng. Sự tàn nhẫn
của hắn như vậy, nên người Hải Dương ai cũng coi hắn là kẻ thù. Nay dung nạp
hắn, chẳng những vô ích mà còn mất lòng nhân dân Hải Dương; thật là thất sách!".
Vua Lê
cũng từng nghe tin: Nhưỡng bị mọi người không dùng đã ngấm ngầm đưa thư xin
hàng Tây Sơn, nên lúc này cũng nghi ngờ không cho Nhưỡng theo đi đánh.
Các hào
mục ở trấn Hải Dương nghe tin vua sang xứ đông, đều dâng tờ biểu, quyết xin
đánh Nhưỡng.
Vì thế,
Nhưỡng bối rối quá, tính không còn chỗ nào để dung thân liền phát cáu mà nói
rằng:
- Vua đã
không thương ta, ta còn cần gì vị nể vua?
Rồi
Nhưỡng sai tên đồ đảng của y là Trần Liên đến Thăng Long ngấm ngầm tố cáo chỗ
vua ở, và xin Văn Sở sai quân đi bắt. Ban đầu, Liên nghe tin vua lén lút ở
trong nhà dân, chỉ có sáu bảy người theo, bèn báo cho Sở biết.
Sở hỏi
cặn kẽ, Liên vẽ rõ đường đi cùng chỗ ở của vua, rồi nói:
- Ví như
vào chùa trói một lão trọc lôi đi mà thôi!
Sở cười
mà rằng:
- Nếu
quả như lời ngươi nói, sao ngươi không lôi cổ đến đây cho ta, còn xin quân làm
gì?
Liên
đáp:
- Lôi
ông ta đi chẳng qua chỉ một tên lính cũng đủ, nhưng chúng tôi còn sợ danh
nghĩa, nên không dám làm. Việc ấy cố nhiên là việc dễ, nhưng lại khó đối với
người trong nước, xin ngài xét cho chỗ đó!
Sở tin
là thật, liền sai một trăm tên lính cùng đi với Liên. Không ngờ lúc ấy, Trần
Quang Châu và Lê Ban đã đến chỗ vua ở, và quân lính bảo vệ cũng không ít. Đêm
ấy nghe báo quân Tây Sơn vượt núi mà đến, hai người bèn chia hai đường đánh dồn
lại, và giết chết sạch. Liên chạy trốn vào hang núi được thoát, rồi chạy về
Thăng Long báo tin. Văn Sở lập tức cho một đạo quân lớn đi đuổi vua Lê (theo
Cương mục, thì Đinh Tích Nhưỡng đã đến vây đánh vua Lê hơn một tháng. Sau có
hai người ở Hải Dương là Trần Đĩnh và Hoàng Xuân Tú đến cứu vua, chém giết hai
người em của Nhưỡng. Nhưỡng mới phải bỏ chạy). Vua mới đến Giáp Sơn, các đạo
quân cần vương còn chưa nhóm họp được hết. Chợt nghe tin quân địch sắp đến,
Nhưỡng làm hướng đạo. Mọi người đều run sợ nói nhao nhao lên rằng: "Nhưỡng
mà thông đồng với giặc thì Hải Dương không thể ở được". Châu xin vua lại
về huyện Chí Linh. Ban thì xin vua đi Yên Quảng. Mọi người đang bàn bạc phân
vân chưa quyết, thì vừa lúc Trương Đăng Quĩ và người con là Trương Đăng Thụ
cưỡi chiếc thuyền biển từ phủ Kiến Xương đến yết kiến vua. Thấy thế, Quĩ bèn
nói:
- Chí
Linh là nơi đồi núi gập ghềnh, tắt ngang sang Gia Bình thì lại là đồng ruộng
mênh mông. Ta quân ít sức hèn, đánh hay giữ đều không tiện. Còn Yên Quảng thì
lại giáp với Hải Dương, đường sông, vũng biển, đều là cửa ngõ ra vào của
Nhưỡng. Hắn đã ăn ở hai lòng, thì đó cũng không phải chỗ yên lành có thể trú
ngụ. Trấn Sơn Nam đất tốt dân đông, đinh tráng có thể luyện làm quân lính, thóc
gạo có thể trưng làm lương thực, sông ngòi chằng chịt như mạng nhện, cưỡi một
chiếc thuyền, bỏ chỗ nọ đến chỗ kia, chẳng ai còn biết lối nào mà tìm. Bệ hạ
đang lúc như con rồng ẩn bóng, không đâu yên ổn bằng đấy.
Vua theo
lời Quĩ, bèn quyết ý dời về phía nam. Còn lời bàn của Châu và Ban thì vua đều
không nghe. Rồi đó, vua yên uỷ hai người, sai Châu dẫn quân về Bắc, Ban thì đem
thuyền biển lui về Biện Sơn (núi Biện Sơn ở vùng biển huyện Tĩnh Gia, Thanh
Hoá), chờ lệnh trưng phát. Thế là quân cần vương tan tác đi ra bốn phía, còn vua
thì đi về phía nam.
Lúc tới
nơi, vua đóng ở huyện Chân Định, dùng nhà Đăng Quĩ làm nơi hành tại. Quĩ đưa
con em và người trong họ tới lạy chào, vua đều ban cho quan tước, sai họ chia
nhau đi các làng, các huyện chiêu mộ quân nghĩa dũng. Xa gần nô nức hưởng ứng,
đều xin họp quân cần vương, hẹn ngày cùng đến, thuyền bè kể có hàng nghìn, quân
lính có tới vài vạn. Các tay hào mục đều đến, vua tự mình ra yên uỷ họ. Rồi sai
Đăng Quĩ chia quân làm năm đạo, trong từng đạo lại đặt ra các chức thống lệnh,
đốc chiến, tham quân, đốc hướng mỗi chức một viên, lập thành cơ đội, chờ ngày
xuất phát.
Viên nội
hàn là Lê Xuân Hạp bảo Đăng Thụ rằng:
- Quân
lữ là việc lớn, không thể khinh suất. Trước hết nên điểm số quân, kén lấy người
cường tráng sung làm chiến sĩ, cứ năm chục người làm một đội, năm đội làm một
cơ, năm cơ làm một đạo, do viên thống đạo đốc suất. Những người còn lại thì để
dùng vào việc chuyên chở và sai khiến, chớ để quân lính không tinh nhuệ lẫn lộn
vào, tiếng là có số mà vô dụng. Nay nên kê rõ danh sách, dẫn vào bái mạng, để
nhà vua ban cho binh phù, trao cho quân luật. Viên thống đạo vâng mệnh lệnh
triều đình; các cơ đội thì chịu sự tiết chế của viên thống đạo. Người nào tuân
theo mệnh lệnh thì có trọng thưởng; người nào không nghe mệnh lệnh thì bị tội chém.
Sao cho quân lính đều hăng hái và biết khuôn phép, sau đó mới có thể đưa ra
trận mạc. Binh là việc dữ, chiến là việc nguy, không phải là trò trẻ con.
Thụ nói:
- Ngày
nay chính là lúc đang cần gấp rút thu phục lòng người, mọi việc hãy tạm giản
dị, chưa thể buộc ngay họ vào khuôn phép được!
Hạp nói:
- Thu
nạp được nhiều người mà dùng không được chỉ sợ họ thấy giặc là chạy, rồi lại
còn giày xéo lẫn nhau nữa, thì dù nhiều cũng chẳng làm gì. Sao không nghĩ đến
việc cụ lớn đại thần nhà ta đã cố sức khuyên nhà vua qua sứ Sơn Nam, ông là con
ngài, vâng mệnh cầm quân, vạn nhất mà bị vấp ngã, tội ấy tại ai?
Thụ
không nghe, chỉ gọi các hào mục đến mà phân phái bằng miệng, tuyệt nhiên không
có sổ sách gì để có thể tra cứu. Bởi vậy, đến khi có việc cần sai khiến, Thụ
đều lờ mờ không biết đâu mà lần, đến nỗi phải chạy đi hỏi lăng xăng khắp nơi,
trong quân ngũ chẳng còn có kỷ luật gì nữa. Quĩ cũng không biết, gọi Thụ hỏi về
việc quân thì Thụ thưa:
- Các
đạo nay đã tề tựu, quân số rất nhiều, ai cũng hăng hái đánh giặc. Xin đánh một
trận để lập công!
Quĩ cho
là phải, tâu xin chọn ngày xuất quân. Vua có ý ngần ngại mà rằng:
- Ta
nghe những người giỏi về chiến trận, trước hết phải lo đến việc thua, rồi sau
mới thắng được người. Nay ta xem thuyền bè thì đều là thuyền câu, thuyền chài,
quân lính thì đều là những kẻ chợ búa ô hợp, dùng quân ấy mà đánh, có chắc là
không bị thua chăng? Nghĩ đến cái cảnh sau lúc trốn chạy, cùng một và người bề
tôi lo việc dựng lại cơ nghiệp, thì trẫm dù không thể khôi phục được xă tắc cũng
quyết chết với xã tắc, thề đánh nhau với giặc đến cùng, chớ có sợ gì xuất quân?
Nhưng trẫm muốn làm việc gì cũng phải tính kế vạn toàn, ngõ hầu khỏi mang tiếng
là vì khinh suất, vội vàng mà chuốc lấy vạ bại vong.
Quĩ
ngoảnh lại bảo Thụ:
- Thánh
thượng bảo như vậy, con nghĩ thế nào?
Thụ nói:
- Ngày
nay, điều mà mình trông cậy, ấy là lòng người. Mọi người ai cũng kính mến ơn
đức của thánh thượng, căm thù với giặc, nguyện xin đánh một trận lớn, giết cho
hết giặc. Lòng người như thế, đánh đâu không tan? Đẽo cây gậy có thể quật ngã
được nước Sở, dựng ngọn tre có thể làm mất nhà Tần (trong sách Mạnh tử, lời
Mạnh tử nói với Lương Huệ vương có câu: Chế đình khả dĩ thát Tần, Sở chi kiên
giáp lợi binh, nghĩa là đẽo cây gậy có thể đánh bạt giáp bền gươm sắc của quân
Tần, Sở. Theo Bắc sử, cuối đời Tần, Trần Thắng và Ngô Quảng khởi binh, chỉ dùng
cây cối làm gươm dáo, dựng ngọn tre lên làm cờ mà đánh bại quân Tần); huống chi
số quân này và số thuyền này, há không đủ giết chết quân giặc hay sao? Nếu cứ
muốn quân lính quen thạo trận mạc, thuyền bè phải đủ lầu gác, thì trước đây
quận Thạc, quận Nhưỡng đều là những viên tướng trải qua trăm trận, lính thuỷ bộ
các doanh mà họ thống lĩnh đều là quân tinh nhuệ, hùng dũng, sao cũng không thể
thành công mà lại phải tan vỡ? Vậy thần xin thả thuyền ngược dòng mà lên, quyết
chiến với giặc. Xe nhà vua tới sông, quân sĩ hăng lên gấp trăm, chẳng qua năm
ngày, có thể lấy lại kinh thành. Cơ hội này không nên bỏ lỡ!
Vừa lúc
ấy Nguyễn Viết Tuyển đưa binh thuyền đến đón vua. Nhân thế, Đăng Quĩ khuyên nhà
vua cho xuất quân.
Nguyên
trước, Tuyển là người cùng huyện với Hữu Chỉnh, làm bộ tướng của Chỉnh, cùng
với Chỉnh vượt biển vào với Tây Sơn, xông pha những nơi nguy hiểm, không hề rời
bên cạnh Chỉnh. Đến lúc Chỉnh về nước và đắc chí, liền tiến Tuyển với vua, nói
là tài Tuyển có thể đương nổi một mặt. Vua bèn hạ chiếu cho Tuyển làm trấn thủ
trấn Sơn Nam, thống lĩnh năm ngàn lính bộ và bảy chục chiến thuyền.
Tuyển
giỏi về thuỷ chiến, nên khi Chỉnh có hiềm khích với Tây Sơn, sợ Văn Nhậm lợi dụng
lúc sơ hở mà đi đường biển đến, Chỉnh bèn sai Tuyển đóng đồn ở cửa biển Đại
Hoàng, đem quân đi tuần ngoài biển để dò la tin địch. Đến lúc kinh sư tan vỡ,
Chỉnh đưa vua chạy sang Kinh Bắc, Tuyển không được biết. Sau đó tin báo đến
nơi, Tuyển mới lật đật ở biển rút về trấn, mưu đóng giữ đất ấy để chống với
địch. Văn Nhậm đã có lần đánh Tuyển, nhưng không hạ được. Đến khi Văn Sở lên
thay Nhậm, muốn dỗ Tuyển về hàng, bèn sai người vào Nghệ An, bắt cha và vợ
Tuyển ra Thăng Long. Rồi sai vợ Tuyển cầm thư cha Tuyển viết để dụ Tuyển, đồng
thời lại đưa tin rằng: "Nếu Tuyển không mau mau đầu hàng, thì sẽ giết
cha!".
Tuyển
lấy thư của cha, khóc và nói:
- Đời
người có ba đấng bề trên thì hoàng thượng là vua ta, Bằng công là thầy ta; mệnh
cha không dám không theo, nhưng thù của vua và thầy không thể không trả. Giả sử
đầu hàng mà được trọn đạo nuôi cha, trở về quê hương họ hàng làm người nông dân
huyện Chân Phúc cho hết đời, thì dù được đằng nọ mất đằng kia, ta cũng cam
lòng. Song chỉ sợ bị lừa dối, rơi vào tay quân độc ác, cả mình ta cũng bị nó
giết hại, thì trung hiếu đều hỏng, để tiếng cười cho ngàn đời, làm kẻ ngu dại
trong thiên hạ, như thế rất là không nên.
Rồi đó,
Tuyển dặn vợ trở về từ tạ với cha. Cha Tuyển được tin, biết Tuyển không có ý
cứu mình, bèn ngửa mặt lên trời mà than rằng:
- Đã
không có thể cầu sống với con thì còn xin sống với người khác làm gì? Giả sử nó
làm được như Vương Lăng (đời Hán, Vương Lăng là một tướng giỏi của Hán Cao-tổ;
khi Sở Hạng Vũ đánh nhau với Hán, bắt mẹ Vương Lăng, rồi buộc phải viết thư dụ
con về hàng, nhưng bà không chịu, tự ấn cổ vào mũi gươm mà chết để cho con một
lòng phò Hán), thì dù có chết như bà mẹ Lăng, ta cũng không hối tiếc. Nhưng ta
xem nó chỉ như con lợn, con chó, khó lòng mà làm được như thế. Chết khi chính
mắt trông thấy nó thất bại, thà rằng chết trước còn hơn!
Sở biết
ý ông ta, liền sai người canh giữ rất nghiêm ngặt, và nói:
- Tuyển
đã không có ý hàng, thì ta cũng không thể nuôi giặc.
Rồi Sở
tự đem quân đi đánh Tuyển, đưa cả cha và vợ Tuyển đi theo. Sở sai đại đô đốc
Nguyễn Văn Tuyết thống lĩnh thuỷ quân, còn mình thì thân hành đem bộ binh cùng
Phan Văn Lân chia làm hai cánh tả hữu, men theo hai bờ sông cái, cùng tiến lên.
Đến bến
Thanh Trì, Sở bắt được một tên do thám của Tuyển, tra hỏi thì y nói:
- Tuyển
chỉ có tám chục chiếc chiến thuyền, đóng ở cửa ải Hàm Tử, mà không có quân bộ.
Lương thực toàn lấy của dân, năm ngày một kỳ, nhưng cũng không được đều đặn.
Quân của Tuyển có khi buộc thuyền ở ven bờ sông, rồi vào nhà dân cướp bóc, mọi
người ai cũng chán ghét, thế không thể nào đóng lâu ở đấy được. Gần đây, Tuyển
lại sai đắp luỹ đất ở sông Hoàng Giang, đốc thúc công dịch rất gấp. Nghe đâu
ông ta sắp lui về đấy để làm chước cố thủ.
Nhờ vậy,
Sở biết rõ tình hình hư thực của Tuyển, liền bảo với Lân rằng:
- Quân
ta chuyến này bắt Tuyển như bắt đứa trẻ con, không khó gì cả!
Sở bèn
họp quân bộ, chia làm hai đạo, nhân đêm tối tiến về phía nam, vòng ra sau quân
Tuyển, phục kích ở hai bên bờ sông, đợi khi thuỷ quân giao chiến với quân Tuyển
và nghe thấy tiếng súng nổ, thì lập tức giục trống, hò reo xông lên, hai cánh
cùng nhắm thuyền quân của Tuyển mà bắn.
Rồi đó,
hai bên giao chiến ở vùng huyện Kim Động, quân Tuyển bất lợi, phải theo nước
xuôi chèo gấp về nam. Sở thừa thế vẫy quân đuổi theo. Đến sông Hoàng Giang, quân
Tuyển dựa vào luỹ đất để giữ thế thủ, hai mặt thuỷ bộ nương tựa lẫn nhau để
chống với quân Sở.
Lúc
Tuyển thua ở Kim Động, sĩ dân mạn xuôi đều chưa ai biết. Trông thấy thuyền bè
đầy sông, cờ quạt rợp trời, họ cho là quân Tuyển thế nào cũng thắng trận. Lại
nghe vua Lê ở Chân Định, Tuyển đã cho thuyền đi đón, xe vua sắp đến, nên ai
cũng nô nức mừng rỡ, tranh nhau đem đinh tráng, mở cờ gióng trống để đón quân
vua. Tuyển thấy dân tình như thế, nên mới dâng biểu tâu xin nhà vua ngự ra coi
quân. Đăng Quĩ cũng hết sức chủ trương việc nhà vua thân chinh. Vua Lê bất đắc
dĩ phải gắng gỏi nghe theo. Nhân dân vùng ven sông trông thấy tàn lọng nhà vua,
đều xúm xít trên bờ, chen chúc đứng xem chật như nêm cối. Ai nấy đều nói:
"Vua ta đến đấy!" Rồi bảo nhau vái lia lịa và tung hô "vạn
tuế".
Xe vua
đi sang hướng bắc, đến sông Ngô Đồng, chợt thấy một người hớt hơ hớt hải chạy
về phía nam. Quân lính liền bắt lại, hỏi cớ sao mà chạy. Người ấy miệng run cầm
cập, không thể nói được, chỉ giơ ngón tay trỏ về một làng ở đằng xa, hồi lâu
mới đáp:
- Giặc.
. . đến. . . nơi. . . rồi!
Mọi
người cùng lên trên cao mà nhìn thì thấy thấp thoáng ở trong đám cây cối um
tùm, có một toán quân đang từ phía tây đi tới, cờ quạt khi mờ khi tỏ. Ai nấy
đều nói: "Đúng là bộ dạng quân Tây Sơn". Họ vội vàng xuống thuyền,
tâu rõ với vua. Vua nói:
- Quân
Tuyển đóng ở phía trước, quân giặc sao lại vượt qua mà đến đây được?
Rồi nhà
vua sai Xuân Hạp lên bờ, dùng ống viễn kính để xem. Hạp xem đúng là quân Tây
Sơn, nhưng sợ quân sĩ kinh sợ, bèn trở lại tâu rằng:
- Bộ
dạng toán quân ấy chưa được rõ ràng, nhưng quân Tây Sơn xuất quỷ nhập thần, rất
là khó lường. Đề phòng việc bất trắc, đó là phép đời xưa. Vậy xin tạm dời
thuyền ngự sang bờ bên đông xem sao?
Vua cho
là phải.
Thì ra
lúc bắt đầu đi đánh Tuyển, Sở đã dùng thuỷ quân thẳng theo dòng sông xuôi xuống
làm chính binh; lại ngầm sai đô đốc Nguyễn Văn Hoà lĩnh đạo khinh binh do đường
Bình Lục, Thiên Thuỷ vòng lại làm kỳ binh, để đánh úp phía sau. Nhưng Tuyển
không hề biết.
Quân hai
bên đánh nhau mới được vài hiệp, Tuyển sai tướng sĩ đặt súng bảo long ở trên bờ
sông, để bắn quân địch. Chợt thấy quân địch trói cha và vợ Tuyển ở đầu thuyền,
rồi chèo thuyền vun vút xông lên phía trước. Tuyển trông thấy, khóc và nói:
- Con
bắn cha là trái với đạo trời!
Đoạn
Tuyển vội vã thét quân sĩ thôi bắn, và lui vào trong luỹ để cố thủ.
Bỗng
nghe tiếng súng ầm ầm như sấm, khói lửa ngút trời, quân lính hoảng sợ, đều nói
nhao lên rằng: "Giặc đã chặn mất đường về rồi".
Họ bèn
bỏ chạy tan tác. Tuyển ngăn không nổi, liền cùng bộ hạ hơn trăm người nhằm phía
nam sông Hoàng Giang mà chạy.
Thuyền
vua Lê đóng ở bờ phía đông hồi lâu, sau nghe tin quân Tuyển thua trận, quân Tây
Sơn xông ra bốn phía, chém giết rất giữ dội, thì mọi người đều mất hết hồn vía,
bỏ cả thuyền bước vội lên bờ, cướp đường mà chạy. Nhà vua thấy vậy, liền thuận
theo dòng sông buông thuyền chạy về phía nam. Khi tới một ngã ba sông, không
biết đi về ngả nào, vua bèn sai gọi gấp Đăng Quĩ để hỏi, nhưng đã không thấy
Quĩ ở trên thuyền nữa.
Lúc ấy
gió bắc đang mạnh, vua sai giương buồm thẳng ra biển mà đi. Bốn bề mênh mang,
mù mịt, trời nước một màu, theo gió cưỡi sóng, lênh đênh trong biển khơi, việc
sống chết lúc ấy thật không biết đâu mà lường. Vua Lê ngước mắt lên trời mà
khấn rằng:
"Nếu
trời không muốn bảo tồn dòng dõi họ Lê, thì xin nguyện đi theo hải mã đến chỗ
Quảng lợi vương ở biển Nam Hải, không cần sống làm gì nữa".
Nói chưa
dứt lời, chợt thấy có một chòm núi, đột ngột hiện ra giữa những lớp sóng, sau
núi có chừng vài chục chiếc thuyền. Vua vội vàng hỏi người cầm lái, thì ra đã
đến hải phận Biện Sơn. Dần dần lại gần, thấy một người bận quần áo trận đứng ở
đầu thuyền, nhìn kỹ chính là Lê Ban.
Vua vừa
mừng vừa thẹn, chưa biết nói sao. Ban biết là thuyền vua, vội vàng đến bái yết.
Vua ứa nước mắt mà nói:
- Ta hối
không dùng kế của nhà ngươi, bị Trương Đăng Quĩ làm lỡ. Biết trước thế này, thà
ở Giáp Sơn mà thua, còn hơn là đến Chân Định mà thua, thêm một phen lặn lội,
chỉ tổ cho người ta chê cười. Nhưng thôi, cũng là việc đã rồi. Còn bây giờ thì
nên làm như thế nào?
Ban tâu:
- Thần
nghe nói: "Có lắm nạn mới dấy được nước, sự lo phiền mở rộng thánh
đức". Xin bệ hạ chớ vì thế mà nhụt chí. Thua được là việc thường của nhà
binh. Ví như đánh cờ, thua ván này bày ván khác, cố làm sao cho có nước cờ lạ
hơn người, quy mô sắp sẵn rồi, mới có thể ra mặt. Hiện nay thế giặc quá mạnh,
ta chưa chiếm được một mảnh đất nào, không thể đánh nhau với chúng. Thần xin bệ
hạ lên đường vào Lam Sơn là đất hưng vương của Thái tổ ngày xưa, lấy đó làm nơi
bảo vệ xa giá, rồi sai người truyền dụ các tù trưởng của dân mường mán. Họ đều
là dòng dõi phiên thần, ai mà chẳng hăng hái? Thêm vào đó, lại thu nhặt quân
hai xứ Thanh, Nghệ, họ đều là lính túc vệ thân cận xưa kia, ai là chẳng vui
lòng đi theo? Thế rồi theo đường ven núi, qua lại liên lạc với nhau. Quân ở ba
trấn Sơn Nam, Sơn Tây, Hưng Hoá xuôi dòng sông mà xuống, đột ngột từ trong núi
kéo ra. Một ngày kia cả ba đạo đồng thời nổi dậy, tiến thẳng đến đô thành. Cuộc
trung hưng của triều ta xưa kia, chính là dùng cách ấy.
Vua nghe
lời, liền theo đường bộ đi về vùng Lam Sơn, trấn Thanh Hoa. Rồi sai Ban qua đất
Thiên Quan (tên phủ, gồm đất các huyện Nho Quan, một phần huyện Gia Viễn (Ninh
Bình) và một phần huyện Lạc Sơn (Hoà Bình) ngày nay) dụ quận Thái; sai tôn thất
Duy Lan tới đất Phù Sùng dụ hai viên tù trưởng ở Tây Lĩnh.
Hai viên
tù trưởng này vừa mới qua lại hoà hảo với Tây Sơn, không dám trở mặt ngay, họ
đều nói:
- Chúng
tôi mấy đời nhờ ơn nặng của nhà nước, há dám không hết lòng? Nhưng mà kinh
doanh nghiệp lớn, ắt phải tích luỹ lâu năm mới thành, không thể làm xong ngay
trong khoảng mươi hôm. Đời xưa Hán Cao-tổ, Đường Thái-tông còn phải khó nhọc
đến năm sáu năm. Vậy xin lượng thánh xét kỹ, hãy cứ lấy Lam Sơn làm nơi ẩn náu,
thư thả để cho chúng tôi luyện tập quân mã, sắm sửa khí giới, thu góp lương
thực, sửa sang đường sá, rồi mới có thể vâng mệnh nhà vua được. Nếu muốn làm
gấp, e không phải sức của chúng tôi có thể làm nổi.
Lan về
nói với vua rằng:
- Chúng
nó thật không có lòng mộ nghĩa, nên tạm dùng lời thoái thác để cự tuyệt ta. Chỗ
này sơn lam chướng khí không thể ở lâu. Vậy xin bệ hạ sơm sớm lo liệu, đừng để
mất thì giờ vô ích.
Vua cho
là phải, bèn lập mưu thay quần áo như người thường, trở về Kinh Bắc, tạm trọ ở
phủ Lạng Giang, sau lại dời ra phủ Từ Sơn, ở nhà viên tham tri là Đình Dư. Do
đó, bọn Lê Đản, Doãn Lệ, Danh án, Vũ Chiêu, Vũ Trinh, Xuân Hạp lại lần lượt lui
tới chỗ vua ở. Vua cùng họ bàn mưu tính kế; Đình Dư nói:
- Nay bề
tôi nanh vuốt của nhà vua chỉ có ba người là Ban, Tuyển và Châu. Tuyển từ sau
khi thua ở Hoàng Giang, chạy về Nghệ An, nay không biết ở đâu? (theo Cương mục,
thì sau đó Tuyển ra Thăng Long xin hàng Ngô Văn Sở, bị Sở giết chết) Châu bị
Tây Sơn lùng bắt, lẩn trốn vào hang núi, không còn thì giờ lo toan công việc.
Ban vâng chỉ đi chiêu dụ, còn ở Thanh Hoa, cũng chưa có tin tức gì. Hiện nay bệ
hạ nương náu ở nơi thôn ổ, lũ thần đi lại luôn, sợ lâu dần có người biết, sẽ
xảy ra tai biến bất trắc. Chi bằng bệ hạ hãy đi lên Cao Bằng, Huy Túc hiện còn
hầu thái hậu ở đó. Trong thì dùng các phiên thần hộ vệ, ngoài thì dựa vào sự
cứu viện của thiên triều, ngõ hầu mới có thể làm được việc.
Vua nói:
- Trước
kia, ta đã sai Ngô Thì Chí lên Cao Bằng (ở trên nói đi Lạng Sơn, đây lại nói đi
Cao Bằng, có lẽ là chép lầm) để sắp đặt sẵn mọi việc. Nghe đâu Chí bị ốm giữa
đường, nay không biết ra sao?
Danh án
thưa:
- Chí bị
bệnh nặng, không đi được, phải cáng về huyện Gia Bình, rồi mất. Chúng thần nghe
tin, nhưng chưa kịp tâu.
Vua ứa
nước mắt, nói:
- Mất
một người bề tôi giỏi rồi đấy! Tiếc thay!
Rồi vua
bèn tự tay viết tờ chiếu, truy tặng Chí làm chức hàn lâm thị chế, tước Dụ trạch
bá, trao cho án và nói:
- Nhà
ngươi cầm tờ chiếu này đưa cho vợ con của ông ta, cho họ biết ý của trẫm.
Đản tiến
lên nói:
- Hiện
nay những kẻ thần dân theo giặc, đem hết tình hình nước nhà nói với chúng, cho
nên mình sắp mưu toan việc gì, thế nào chúng cũng biết trước. Thậm chí có kẻ
còn đưa giặc đến để bức bách nhà vua. Biến tự trong sinh ra, không chỉ có giặc
ngoài mà thôi. Vì thế mà việc ở Chí Linh và Giáp Sơn, cả hai lần đều không làm
nên chuyện; liền đó, việc ở Sơn Nam cũng vậy. Ngày nay chỉ còn có cách là sai
sứ sang cáo cấp với nhà Thanh, xin họ dàn quân sát biên giới nước ta, để hỏi
cái tội của quân Tây Sơn gây việc binh đao và bọn người trong nước theo giặc;
làm cho bọn giặc không thể ở yên, mà lũ phản nghịch cũng có phần sợ. Như vậy,
thì lòng mộ nghĩa của người ta mới được bền vững mà mưu cơ khôi phục mới khỏi
bị tiết lộ và khỏi bị phá rối.
Vua cho
là phải, bèn sai thảo bức thư, đưa trước cho viên tổng đốc lưỡng Quảng (tức hai
tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây (Trung Quốc)), đại lược nói rằng:
"Ba
trăm năm nay, nước chúng tôi nhờ đội oai đức của thiên triều, đời đời giữ chức
phiên phong, trong nước yên lặng. Chẳng may vận nước giữa chừng gặp buổi suy
vi, vua trước qua đời. Nguyễn Huệ Tây Sơn là rể nước tôi, quên ơn bội nghĩa,
nhân khi nguy biến, đánh người trong lúc có tang; lại chiếm cứ đất nước, để đến
nỗi người cháu nhà vua phải trốn chạy ra ngoài, chưa kịp sai sứ báo tang và xin
phong, thể lệ nhiều điều thiếu thốn. Nếu không tới cửa ải mà bày tỏ, e lại vì
thế mà mang tội. Vì vậy, nay xin bẩm rõ nguyên do, mong rằng quan lớn thương tình
kẻ ở xa, đề đạt giúp cho. Tôi đã có biểu trần tình, xin giao cho một người đem
đi, lại có chép một bản phụ, xin trình lên ngài xem. Vời trông thiên triều, ví
như trời che đất chở, xa gần không sót chỗ nào. Xét đến tấm lòng kính thuận của
các đời trước nhà tôi, và thương đến nỗi khổ yếu ớt, lang thang của tôi; xin
hãy truyền cho đem quân tới sát bờ cõi, đánh kẻ có tội, dẹp yên loạn lạc, để
gây dựng lại nước tôi. Muôn vàn lần nhờ ơn thiên triều, ơn đức của đại hoàng đế
không sao kể xiết, mà công giúp đỡ của quan lớn cũng sẽ cùng bền vũng với núi
sông của nước tôi vậy".
Thư thảo
xong, vua sai Đản và án sung chức chánh, phó sứ. Hai người đem vài kẻ thân tín
cùng đi, chỉ đội nón cũ, bận áo rách như người thường dân đi đường. Vua Lê tiễn
hai người đến vùng núi Bảo Lộc và dặn rằng:
- Đối
đáp ở đất nước người là chức trách của sứ thần. Chuyến đi này quan hệ đến sự
mất, còn của nước nhà và sự thành, bại của công việc. Các ngươi nên tuỳ cơ ứng
biến, đem cái tài học chất chứa lúc bình sinh mà thi thố ra việc làm. Tài kinh
luân ở ba tấc lưỡi, việc từ lệnh ấy không thể thiếu được. Các ngươi nên cố
gắng, cho xứng đáng với tấm lòng trông chờ của trẫm.
Hai
người lạy tạ rồi đi. Đản nói riêng với án rằng:
- Bọn ta
tiếng là bồi thần, thật ra chẳng khác gì kẻ vong mạng, ra đi lúi xùi chẳng có
ai đưa đón, trên đường thì nhiều sự cách trở, lại phải trèo leo vất vả trong
chốn núi rừng. Nếu chưa đến đất Trung Hoa mà đã bị quân giặc đuổi bắt, thì đó
chính là sự dở dang rất đáng lo ngại. Còn như đã tới được gần doanh của đốc bộ
lưỡng Quảng thì ta không còn lo gì nữa.
Án nói:
- Nếu
như lòng trời còn giúp xã tắc, chắc sẽ không có việc ấy, cần gì mà phải lo xa?
Có điều, từ khi nước ta có nước đến nay, trong việc đi lại với Trung Hoa tuy
rằng các đời sáng nghiệp và trung hưng cũng đã từng gặp cảnh gieo neo không
biết là bao nhiêu phen, nhưng mà kẻ bồi thần đi sứ, chưa có ai lại như chúng ta
ngày nay.
Nhân
thế, án làm bài thơ, trong có hai câu rằng:
"Ngàn
thuở còn truyền câu chuyện lạ:
Sứ thần
áo rách, nón mê tàn"
Rồi hai
người theo con đường tắt trong núi, qua cửa ải Lạng Sơn mà đi.
Thật là:
Rời nước
một thân qua ải Hán
Đau lòng
hai mắt khóc sân Tần *
Chưa
biết hai người đi chuyến này ra sao? Hãy xem hồi sau phân giải.
__
Dịch ở
hai câu chữ Hán như sau: Thiên cổ do truyền kỳ tuyệt sự, Tệ soa tàn lạp sứ thần
trang)!
Đời Xuân
thu, nước Sở bị nước Ngô chiếm đóng, quan đại phu nước Sở là Thân Bao Tư sang
cầu cứu với nước Tần. Vua Tần không nghe, Bao Tư cứ đứng khóc ở sân luôn bảy
ngày đêm: sau đó vua Tần phải cho quân sang cứu Sở-Đây mượn ý đó để nói việc
bọn án sang cầu cứu nhà Thanh cũng khó khăn như vậy.
Chương 12 : Lê sứ thần qua đất Bắc xin quân,
Tôn đốc bộ tới ải Nam truyền hịch.
Lại nói, viên tham tri chính sự Lê Duy Đản và
viên phó đô ngự sử Trần Danh án theo đường tắt trong núi đi đến vùng Hoà Lạc
(thuộc huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn), gặp lúc quân do thám của viên đô đốc Tây Sơn
Nguyễn Văn Diệm đi tuần, xét hỏi rất ngặt, người nào không có giấy tờ đều bị
ngăn trở. Hai người bèn cải trang làm người lái buôn, nhập theo bọn khách trú
(tiếng đương thời, dùng để chỉ những người Hoa kiều ngụ cư ở Việt Nam), men núi
đi tắt sang Trung Hoa, rồi nhờ quân của viên quan giữ cửa ải đưa đến doanh phủ
Thái Bình (thuộc Quảng Tây).
Bọn Đản
lạy rập dưới sân mà nói:
- Kinh
thành của nước chúng tôi từ năm Bính Ngọ (1786), bị giặc Tây Sơn là Nguyễn Huệ
đánh phá, quốc vương qua đời, cháu nối nghiệp do dòng chính thống lên làm chủ
việc tế tự. Mùa đông năm Đinh Mùi (1787), Huệ lại sai tướng ra đánh. Tự quân
phải chạy trốn ra ngoài, các bề tôi lớn nhỏ đều phiêu bạt nơi sườn non góc
biển. Người ở lại bị chúng bắt bớ, người đi ra bị chúng ngăn chặn, hễ chúng bắt
được là giết chết liền. Trước đây, tự quân của chúng tôi chạy vào Sơn Nam cùng
một vài người bề tôi tập hợp quân dân, tính việc khôi phục, lại bị chúng đánh
phá, phải chạy vào trấn Thanh Hoa. Nay nhân khi dân mộ nghĩa còn mến chủ cũ,
đều muốn tự quân của chúng tôi lẻn về phía bắc sông Nhĩ Hà, đem tình hình báo
với thiên triều, ngước mong thương đến nước chúng tôi, đem quân cứu viện để cho
tự quân của chúng tôi có thể khởi sự ngay ở trong nước, rồi dựa vào uy thế của
thiên triều mà sai khiến các nghĩa sĩ. Như vậy thì việc khôi phục đất nước mới
mong có cơ hội. Hiện nay tự quân của chúng tôi đóng ở huyện Phượng Nhãn, sai
chúng tôi lẻn lút sang đây. Đường đi đến cửa ải, tính ra chỉ có bốn ngày nhưng
vì chúng tôi sợ giặc bắt, phải vượt suối trèo non, đi vòng theo đường quanh co,
nên hơn một tháng mới tới nơi. Cúi xin nghĩ lại: Nước nhỏ mọn chúng tôi làm bề
tôi của thiên triều đã hơn ba trăm năm, lo giữ chức phận và việc tiến cống
không bao giờ ngớt. Nay bỗng chốc bị giặc chiếm đoạt, xã tắc tàn hoang.
"Người ta đến lúc cùng thì quay về gốc", không thể không gọi ông trời
mà kêu. Đức đại hoàng đế cũng tức là vua nước nhỏ mọn chúng tôi, mà các vị quan
lớn lại là bậc quan lại giúp việc nhà trời. Muôn trông thương đến kẻ ở nơi biên
ải xa xôi, dựng lại nước đã mất, nối lại dòng đã dứt, để cho họ Lê là người bề
tôi tiến cống, được đội phúc lớn của trời.
Bọn Đản
nói rất thảm thiết và đem các tờ biểu, tờ bẩm trình lên. Viên phân phủ họ Vương
ngờ rằng quân Tây Sơn giảo quyệt, giả làm sứ thần của họ Lê để dò la tình hình
Trung Quốc, bèn vờ hỏi vặn rằng:
- Vua
trước của nước Nam mất đi đã hai năm nay. Nếu như trong nước có biến, tự tôn
đáng lập mà không được lập, sao lại không tới cửa ải bày tỏ sự tình ngay từ năm
ấy? Vả chăng, trước đây có tiếp được công văn đệ sang, chẳng qua chỉ nói về
việc làm mất quốc ấn, xin cấp cho chiếc khác mà thôi. Còn như duyên cớ tại sao
không được lập, nguyên do tại sao bị đuổi đi thì không hề nói tới một lời. Nay
việc đã trải qua hai năm, tự tôn nương náu ở đâu, quân giặc động tĩnh ra sao,
người trong nước theo ai phản ai như thế nào, tình hình đều chưa rõ rệt. Lại
nữa, trong tờ biểu này đứng tên tự tôn họ Lê, mà chưa có tờ biểu báo tang và
cầu phong, chưa được cấp lại quốc ấn thì sao được khinh suất dâng tờ biểu lên,
và vội vã sai sứ thần đến? Xét ra, những việc ấy đều là việc chưa hợp thể lệ.
Cần phải có tự tôn họ Lê tự mình đến đây khai báo, để ta giáp mặt mà hỏi rõ
tình do. Nếu chỉ bằng vào lời nói của người khác thì không được. Ta là bề tôi
giữ đất, việc ở ngoài bờ cõi là việc lớn, quyết không thể nhẹ dạ mà tin các
ngươi. Nhưng thôi được, các ngươi đã vì việc cáo cấp mà đến đây, nghĩ tình ta
cũng không nỡ đuổi đi. Hãy cho ở lại đây, để ta bẩm rõ với quan đốc bộ, phái
người ra ngoài bờ cõi, dò xét một phen cho đích xác, rồi mới có thể làm tờ biểu
tâu lên nhà vua mà chờ chỉ ý quyết định.
Đản và
án nghe vậy, không biết nói sao, đành phủ phục dưới sân mà gào khóc. Viên phân
phủ họ Vương xét thấy thật tình, bèn dỗ dành rằng:
- Xem ra
lũ các ngươi trung thực đáng khen, mà tình cảnh thật đáng thương! Thiên triều
sẽ có cách phân xử, không nên kêu mãi cho nhàm, cứ ra nhà trọ để chờ mệnh lệnh.
Hai
người mừng rỡ, bái từ lui ra. Bấy giờ là năm 53 niên hiệu Càn-long, tức là
tháng chín mùa thu năm Mậu-thân (1788).
Đản và
án ở đó được ít lâu, viên phân phủ họ Vương gọi vào mà bảo rằng:
- Việc
bên ấy xin cứu viện, đã được thấu đến triều đình. Hoàng đế thương đến các vua
đời trước của nhà Lê làm bề tôi tiến cống nhiều đời, đã hạ chỉ cho quan tổng
đốc lưỡng Quảng là Tôn đại nhân, hiệp đồng cùng quan tổng đốc Vân, Quý (Vân
Nam, Quý Châu) là Phú đại nhân, điều động năm chục vạn lính dõng ở Điền Châu ra
ngoài biên thuỳ tìm kiếm tự tôn họ Lê, hộ tống về nơi kinh thành nước An Nam.
Những tình hình đó, từ cuối mùa đông năm Đinh Mùi (1787), quốc mẫu bên ấy và
viên trấn mục ở Cao Bằng là Nguyễn Huy Túc đã qua cửa ải Đẩu áo sang bày tỏ
rồi. Nhưng chưa rõ hai anh em tự tôn thất lạc ở đâu. Còn tự tôn thì sau khi chạy
trốn, mẹ con cách trở, cũng không rõ tình trạng bên này nên lại sai các người
trèo đèo vượt suối sang đây (theo Cương mục, thì việc mẹ Chiêu thống sang cầu
cứu nhà Thanh như thế nào, Chiêu Thống đã được Lê Quýnh về báo cáo rõ cả rồi,
lúc này cử Đản và án sang chỉ là để đón quân Thanh mà thôi). Các ngươi đã là
người do tự tôn sai đi, mà tự tôn đang ở đất Phượng Nhãn, thế thì tình hình ra
sao, các ngươi hãy làm tờ cung khai, bẩm lên quan đốc bộ, chờ khi đại quân xuất
phát, ta sẽ dẫn các ngươi tới lạy chào và cung khai.
Bọn Đản,
án được tin ấy, mừng lắm, bèn xin để một người ở lại chờ hầu, một người về
trước phí báo cho tự tôn rõ, để nhóm họp những kẻ đồng chí, kêu gọi người trong
nước, khiến cho xa gần đều biết, và các nơi đều nổi dậy, chờ thời cơ hưởng ứng
với thiên binh. Lại dựa vào oai linh của thiên triều, các nơi sẽ nhắm những chỗ
hiểm yếu mà đóng đồn trại để ngăn chặn quân địch. Đó thật là một cơ hội rất
tốt.
Viên
phân phủ họ Vương bằng lòng cho. Thế là án ở lại phủ Thái Bình, còn Đản thì
theo đường cũ về nước.
Lại nói,
từ khi kinh thành thất thủ, vua Lê chạy sang phương bắc. Còn hoàng thái hậu
cùng mấy người tôn thất chạy trước lên Cao Bằng; viên đốc đồng Cao Bằng là
Nguyễn Huy Túc đem phiên binh đón rước mời về ở tạm tại một nhà dân bên cửa ải
Đẩu áo, để mưu đồ sang cầu cứu nhà Thanh.
Nguyên
lúc Huy Túc mới đến Cao Bằng, có người khách trú tự hiệu là Ngô-sơn tiều ẩn,
vốn quen với Nguyễn Đình Tố, thường vẫn hay đi lại nơi dinh trấn. Túc lần đầu
được gặp và nói chuyện với hắn ta, lấy làm lạ lắm. Đến lúc Tố mất, người khách
đến viếng, Túc lấy lễ thượng khách mà đối đãi, mời ở lại hơn mười ngày. Việc
tang của Đình Tố đã xong xuôi, người khách mới cáo từ ra về. Lúc sắp chia tay,
người khách bảo riêng với Túc rằng:
- Quí
quốc từ nay sẽ có nhiều việc, quan đốc thần trước cũng đã biết, không hiểu lúc
gần mất ngài có nói lại với các vị đồng liêu không?
Túc nói:
- Nước
tôi, bên ngoài có giặc mạnh, sau này chắc là không thể yên ổn, đó là việc mà
người trong nước ai cũng biết. Nhưng kết cục ra sao, không phải là điều Túc này
có thể biết trước. Quan đốc thần trước với Túc này đều lấy làm lo. Nay tôi làm
quan ở ngoài, đã không được dự vào nơi trọng yếu, thì dù có ý kiến nông cạn
cũng không làm được gì?
Người
khách nói:
- Chính
vì làm quan ở ngoài nên mới không thể không đương lấy việc nước. Cứ như tài của
ông, há chẳng có thể làm được một phen kinh trời động đất, khiến người cả nước
vội vàng chạy vạy ư? Nhưng chẳng qua chỉ là một giấc chiêm bao mà thôi. Đó thật
là khí số với nhân sự có quan hệ với nhau; đáng cười mà cũng đáng tiếc vậy!
Túc nằn
nì hỏi mãi, nhưng cuối cùng người khách vẫn không chịu nói rõ, cáo từ mà đi.
Đến lúc
Túc đưa thái hậu qua đất Trung Hoa, tới Long Châu lại gặp người khách ấy giữa
đường. Túc đem tình hình trong nước nói với hắn ta không hề giấu giếm, và nói
thêm:
- Việc
gấp lắm rồi! Ông có cách gì dạy cho tôi không?
Người
khách nói:
- Khi
ông ở trấn Cao Bằng, bắt đầu nghe có tai biến nếu có thể cùng viên đốc đồng
trấn Lạng Sơn, đồng một lòng hợp sức giữ lấy đất hai trấn ấy, tụ tập phiên
tướng phiên binh, chống nhau với giặc, làm hùng bá ở một phương; rồi đưa thư
sang các phủ Long Châu, Bằng Tường (đều thuộc Quảng Tây, giáp liền với Cao
Bằng, Lạng Sơn), hẹn khi có việc nguy cấp thì họ cứu giúp, để nhờ cái tiếng
viện trợ của họ. Ngày xưa họ Mạc đã dùng kế ấy mà duy trì được 56 năm. Nếu quả
ông mà làm được như thế, há chẳng giữ được trọn đời của ông hay sao? Sao lại bỏ
chỗ ấy cho người ta? Đã bỏ lỡ mất cơ hội đó không làm, thì nay chỉ có cách liên
lạc với các xứ Long Châu, Bằng Tường, thiết tha xin với quan tổng đốc, đem việc
tâu lên nhà vua, trông vào điều may trời cho, để cầu xin cứu viện mà thôi. Sau
khi lấy lại được nước nhà, ông nên cố gắng "đào giếng đắp núi", tự
mình phải hết sức, đừng để làm cái trò cười cho đời sau.
Túc nói:
- Đó là
cái ý quan trọng xa xôi, tôi xin kính vâng lời dạy, không dám lãng quên. Nay
Túc tôi đưa quốc mẫu chạy sang đây, cũng chính là ý như thế, song chỉ sợ tình
của kẻ dưới, không thể thấu lên đến bề trên. Nếu được nhờ ơn ngài chỉ đường
vạch lối, đem việc này thưa trước lên trên cho chúng tôi, thì xin đội ơn vạn
lần, vạn lần!
Người
khách nói:
- Đất lạ
quen nhau, tôi dám đâu không hết sức?
Người
khách bèn cùng đi với Túc. Viên đô ty Long Bằng (Long Châu, Bằng Tường) tên gọi
Trần Hồng Thuận là bạn quen của người khách. Khách bèn dẫn Túc đến đấy, nói là
mẹ, vợ và thân thuộc của tự tôn nước An Nam bị quân giặc Quảng Nam (chỉ quân
Tây Sơn) đuổi giết, trốn đến cửa ải, cúi đầu đợi mệnh...
Hồng
Thuận lập tức hội đồng với viên phó quan ở Long Châu là Trần Thốt đi tới nơi
tra xét. Tất cả đàn ông đàn bà gồm 64 người, Hồng Thuận tuỳ tiện cho ở bên cửa
ải, rồi đem việc ấy nói rõ với viên quản đạo Giang Tả thuộc tỉnh Quảng Tây là
Thanh Hùng Nghiệp, để bẩm lên quan tổng đốc lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị. Tiếp
đó, Hồng Thuận lại cho sao đơn khiếu nại của nước Nam đại ý nói rằng:
"Quốc thành bị giặc đánh phá, cướp bóc, không biết kêu xin với ai? Ai cũng
căm thù giặc, thề không cùng sống với chúng, nhiều người lẻn lút nấp ở trong
núi, kết thành đồ đảng, chỉ vì chưa có người đứng ra làm chủ, cho nên họ còn
rời rạc khó bề hợp nhất. Nếu được thiên binh sang cứu thì các nơi sẽ cùng hưởng
ứng ngay, và có thể hẹn ngày mà lấy lại quốc thành".
Sĩ Nghị
thấy giấy báo tin ấy, liền bảo bọn liêu thuộc rằng:
- Nước
An Nam từ đời Hán, Đường, là đất phụ thuộc vào nước ta; đến đời nhà Tống, họ
Đinh quật cường, mới trở thành nước tiến cống. Trải mấy đời nối theo nhau cho
đến ngày nay, lại không thể giữ được nước. Hoặc giả trời khiến nước ấy lại làm
quận huyện của Trung Quốc chăng?
Lập tức,
Sĩ Nghị ruổi ngựa tới vùng Long Bằng, dò xét tình hình biên giới, rồi họp bàn
với viên tuần phủ là Vĩnh Thanh.
Vĩnh
Thanh nói:
- Mở
mang bờ cõi là một việc lớn, lợi hại không phải nhỏ. Quả như lời họ nói, thì
nước ấy kể cũng đáng thương. Nhưng thế lực của giặc, đoán chắc là không phải
như vậy. Chúng ở ven biển nổi lên, theo việc binh nhung từ khi đầu còn để chỏm,
một lần khởi quân mà lấy được cái nước đã ba trăm năm, nhất định không phải là
yếu, và cũng nhất định không đời nào chịu để cho người ta doạ dẫm, mới nghe
tiếng đã phải đêm hôm lẻn trốn đi. Trừ phi chúng có bị đánh cho giập gẫy một
vài phen thì chúng mới chịu rút lui và nghe theo. Trung Quốc ta thái bình đã
hai trăm năm nay, dân chúng không biết đến việc binh. Nay bỗng dồn họ tới chỗ
nóng nực lam chướng, dù thắng được cũng không phải là mạnh. Huống chi chưa chắc
đã thắng, mà vạn nhất vấp ngã thì tổn thất thật không nhỏ. Cụ lớn là vị đại
thần của nước, nắm quyền ở chốn biên thuỳ, cần phải giữ vững bờ cõi; há nên vừa
mới nghe kêu nài một tý đã vội gây hấn ở nơi biên ải? Cái gương của bọn Hoàng
Phúc, Trương Phụ ở đời Vĩnh-lạc, Tuyên-đức (Hoàng Phúc và Trương Phụ là tên các
tướng nhà Minh. Vĩnh-lạc là niên hiệu Minh Thành tổ, Tuyên-đức là niên hiệu
Minh Tuyên tông. Đây chỉ việc quân Minh sang xâm lược Việt Nam hồi đầu thế kỷ
XV, sau bị Lê Lợi đánh bại), cũng chưa phải xa xôi, xin nghĩ kỹ cho!
Nghị
nói:
- Nước
An Nam được phong, đời đời lo giữ chức phận tiến cống. Tây Sơn là bọn giặc nhỏ,
dám diệt nước họ. Nạn của cống thần không thể không cứu, tội của cuồng tặc
không thể không trị. Vì nghĩa mà hành quân ai dám không theo? Nếu lấy cớ là mọi
rợ mà bỏ ra ngoài, ngồi nhìn bọn họ giết hại nhau mà không cứu thì tám xứ
"man", chín xứ "di" làm bề tôi Trung Quốc, còn trông cậy gì
nữa?
Rồi Nghị
gọi sáu người là bọn Nguyễn Huy Túc, Lê Quýnh, Hoàng ích HIểu, Nguyễn Đình
Quán, Nguyễn Quốc Đống và Nguyễn Đình Mai đến cửa quan, để hỏi tình trạng.
Trước
hết, Nghị hỏi tự tôn có mấy anh em, sau khi chạy trốn, hiện nay ở đâu?
Bọn Túc
khai là: Tự tôn có ba anh em, rất yêu mến nhau. Anh trưởng là Lê Duy Kỳ, tức là
người đáng được nối ngôi, thứ hai là Tụ quận công Duy Tụ, thứ ba là Lan quận
công Duy Chỉ. Hiện nay, Duy Kỳ chạy xuống lộ Sơn Nam hạ (năm Lê Cảnh hưng
(1741), chia xứ Sơn Nam làm 2 lộ: lộ Sơn Nam thượng (Vùng Hà Nam, Hưng Yên, Hà
Đông sau này) và lộ Sơn Nam hạ (vùng Nam Định, Thái Bình sau này)), để chiêu
tập nghĩa binh. Duy Tụ ở vùng Tuyên Quang, Hưng Hoá cũng đang nhóm họp các
người đồng chí, xa xa làm thanh viện cho nhau. Nghe nói họ nương tựa lẫn nhau,
thần dân thuận theo, quyết không đến nỗi tan tác. Nhưng không biết từ đấy về
sau có thể hăng hái làm nên việc hay không? Tới đây đã hơn bảy tám tháng, sự
thế đổi thay, họ có còn giữ được chỗ ấy nữa không, điều đó chúng tôi không được
biết.
Nghị lại
hỏi tin tức của mẹ con tự tôn nay ra sao?
Túc nói:
- Chúng
tôi trước ở Cao Bằng, rồi rước quốc mẫu sang nội địa (chỉ đất Trung Hoa). Tự
tôn thì vẫn ở trong nước. Quan san cách trở, tin tức không thông. Nay nếu được
phép thì xin lẻn về báo cho tự tôn biết tin của mẹ và gia quyến. Xin cho ba
người chia đi hai ngả. Đình Mai xin đi đường cửa ải núi Mông Tự. Quýnh và Đống
xin theo đường Long Môn mà vượt biển. Ngửa trông cụ lớn cho người dẫn đến biên
giới, để chúng tôi gấp đường chạy về; chừng trong một tháng, dò xem tin tức ra
sao, sẽ xin bẩm rõ.
Nghị lại
hỏi lâu nay ở bên ấy mùa màng ra sao?
Túc
thưa:
- Nước
chúng tôi luôn mấy năm bị mất mùa, giá gạo rất đắt, một thưng gạo giá đến sáu
trăm đồng tiền. Lộ Sơn Nam hạ vốn được gọi là nơi giàu có, bây giờ dân gian
cũng không có thóc lúa để dành, các nhà đều trống rỗng như chiếc chuông treo.
Tự tôn trước kia đóng ở xứ ấy, vì lương thực không đủ, cho nên hễ làm việc gì
cũng bị thất bại. Chúng tôi khi ở nước nhà, chỉ nghe như thế, đó là việc thực.
Nghị
quay sang hỏi Lê Quýnh, Quýnh liền đáp:
- Họ Lê
giữ nước hơn ba trăm năm, dùng ân huệ buộc chặt lòng người, dùng lễ nghĩa vun
trồng sĩ khí. Cho nên, dù bọn phản nghịch tiếm quyền mà lòng người mến chúa cũ
vẫn như xưa. Chỉ vì họ Trịnh hiếp chế, lòng dân căm giận. Tây Sơn nhân lúc sơ hở
ấy, mượn tiếng phò Lê diệt Trịnh, nên người trong nước không ai chống cự. Chúng
nhân thế đắc chí, lại càng hung hăng, tự đặt niên hiệu, chiếm giữ kinh thành,
đến nỗi tự tôn họ Lê phải phiêu bạt ra ngoài. Do đó, dân cày và những kẻ lục
lâm nổi lên khắp nơi, không ai hẹn ai mà người nào cũng xưng là quân họ Lê. Nếu
như thượng quốc rủ lòng bao dung kẻ nhỏ mọn, giúp đỡ kẻ khốn cùng, sai một đạo
quân tới sát bờ cõi để làm thanh viện, thì người trong nước nghe tin, ai không
trỗi dậy, thề cùng phục thù? Mà như vậy, chắc cũng không hao tổn đến binh lực
của thiên triều nhiều lắm.
Nghị
nghe được lời khai rõ ràng, bèn đem một bức địa đồ nước Nam, bảo bọn Quýnh
duyệt lại, và hỏi:
- Có
đúng không? Không sai chứ?
Quýnh
bẩm:
- Vị trí
và phương hướng nhiều chỗ sai lầm, ước chừng mười phần sai đến bốn năm.
Nghị
nói:
- Cho
phép các ngươi cứ thật mà sửa lại.
Rồi Nghị
sai gọi một người thợ vẽ đến, theo chỗ Quýnh sửa đổi mà vẽ lại. Lại bảo Quýnh
lưu ý xem những vùng nào đã theo giặc, vùng nào chưa theo giặc, anh em vua Lê
hiện đóng ở đâu, nhất nhất đều ghi chú thật rõ ràng vào địa đồ.
Rồi nhân
đó, Nghị gọi bọn Túc và bảo:
- Chờ ta
tâu lên triều đình, khi nào được chỉ của nhà vua, tức khắc sẽ chiểu theo những
điều kêu xin của bọn ngươi mà làm cho thật tốt tất cả mọi việc. Chuyến này các
ngươi về nước, phải tìm cho được đích xác chỗ ở của tự tôn. Lại phải dò xem
quân giặc động tĩnh ra sao? Người trong nước có thể trỗi dậy được không? Hễ có
dịp thuận tiện lập tức phải phi báo cho ta biết, ta sẽ phúc tấu về triều, xin
cho kéo quân ra ải, thì công việc mới có thể mau xong.
Bọn Túc
mừng lắm, cùng nhau ngoảnh mặt về hướng bắc, trông vời cửa khuyết mà lạy và hô
"vạn tuế" luôn mấy lần.
Sau đó,
Nghị sai viên quản đạo Tả Giang, tỉnh Quảng Tây là Thanh Hùng Nghiệp hộ vệ quốc
mẫu An Nam và các quyến thuộc đến đất Nam Đôn, tuỳ nghi cấp cho các thứ lương
thực, chăn áo, để ai nấy đều được yên ổn.
Luôn
thể, Nghị thảo tờ biểu tâu rằng: "Cứ lời người trấn mục của nước An Nam là
Nguyễn Huy Túc, chạy sang nội địa cung khai: tháng sáu mùa hè năm thứ năm mươi
mốt, niên hiệu Càn long, em giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc là Nguyễn Văn Huệ đem
quân xâm phạm kinh thành nước ấy. Tiếp đến tháng tám, Văn Nhạc theo ra. Vừa gặp
lúc các trấn đều chỉnh đốn binh lính, voi ngựa đến cứu. Anh em Văn Nhạc sợ không
dám ở, ngay trong tháng ấy, đang đêm phải đem quân lẻn trốn. Quốc vương là Lê
Duy Đoan (tức Lê Hiển Tông) làm mất quốc ấn, liền đó bị bệnh mà mất. Vì con
trưởng chết sớm cháu đích tôn là Duy Kỳ, theo lệ được nối ngôi, có thảo văn thư
đệ sang, xin cấp cho quả ấn khác. Kế đó, tiếp được hịch của quan đốc bộ đưa
sang, nói rằng như thế không hợp thể lệ, mà phải sai bồi thần dâng biểu báo
tang rồi xin phong mới đúng. Không ngờ mùa đông năm sau, Văn Huệ lại sai bộ
tướng là Võ Văn Nhậm nhân khi nguy biến, đánh người giữa lúc có tang, đến nỗi
tự quân phải chạy trốn, chưa kịp sai sứ thần qua xin. Bọn Túc đưa quốc mẫu của
nước Nam chạy ra vùng Bắc Sơn thuộc huyện Võ Nhai, vua Lê thì chạy trốn sang
phủ Thiên Trường. Tướng giặc chiếm cứ quốc thành, sai người đi khắp nơi lùng
bắt. Lại có tên thổ dán trấn Lạng Sơn là Quyển Trâm, tên phiên mục Cao Bằng là
Bế Nguyễn Trù đầu hàng giặc, đem quân định cướp quốc mẫu để làm con tin. Bọn
Túc liền đưa quốc mẫu lên Cao Bằng. Tháng năm năm nay, đi tới đầu xứ Bác Nậm
(thuộc huyện Quảng Yên và Phú Hoà, tỉnh Cao Bằng), bị quân giặc theo kịp, không
còn kế gì để thoát thân, bọn Túc phải đứng cách sông kêu xin thiên triều cứu
giúp. Rồi họ liều mạng đưa được quốc mẫu và bọn quyến thuộc lội nước sang bờ
bên này, người nào không kịp sang sông đều bị giặc giết chết. Nay bọn Túc rập
đầu kêu van, xin được ở lại chịu tội với thiên triều, không chịu mắc vào tay
nhơ nhớp của giặc... Lại cứ lời bọn Túc nói thì hiện nay quốc thành bị giặc
chiếm đóng các nơi khác cũng đều nghe tiếng mà tan rã tơi bời. Các địa phương
tiếp liền với nội địa như Mục Mã (thuộc Cao Bằng), Lạng Sơn, đều đã theo giặc.
Riêng có vùng Diễn Châu ở Nghệ An, các hạt Kinh Môn, Nam Sách ở Hải Dương... là
còn có bọn thổ hào ứng nghĩa, ra vào các nơi hang núi, lừa dịp đánh giết quân
giặc, nên giặc cũng chưa thể đánh chiếm được hết cả. Vả chăng tuy quân giặc từ
khi chiếm được đất Tây Sơn, một mực hung tợn, chỉ biết có việc tàn sát, nhưng
cũng vẫn có những nơi không chịu hàng giặc. Tự tôn lẩn trốn, chắc cũng ở những
nơi ấy. Mẹ và vợ của tự tôn đã chạy sang đất thiên triều, muôn lần trông được
sự bao dung. Còn trong bọn bề tôi chạy trốn cũng có được một vài kẻ có chút tài
cán, họ tự xin về nước, tìm kiếm tự tôn, để lại gắng sức lo toan một phen nữa.
Nếu như sức chẳng chiều lòng, thì họ xin làm cái chước bảo tồn lấy người con
côi, tha thiết xin được thiên triều thương xót... Các khoản tình do trên này,
đều do tay tri phủ Nguyễn Hữu Nhân (có bản chép Đào Hữu Nhân) viết thành câu
hỏi, đầu mục nước ấy lần lượt trả lời. Xét ra, họ cũng thật tình, lại có phần
hăng hái, biết được nghĩa lớn. Thần trộm nghĩ, cống thần họ Lê, theo lệ thì tự
tôn của họ được nối ngôi, chẳng may nước ấy bị diệt, mẹ và vợ đã tới cửa ải kêu
van, thực cũng nên thể tình mà chu cấp, để họ được yên chỗ, rồi chờ để xét rõ
tin tức của nước họ, sẽ quyết định việc cho đi hay cho ở lại. Chỉ nghĩ bọn họ
khi chạy đến ven sông, tức là đã thuộc về địa đầu bờ cõi của thiên triều; vậy
mà tụi giặc trông thấy quân lính thiên triều đóng đồn ở đấy, lại vẫn còn dám
hung hãn giết người, lòng giặc hiểm độc, không phải là không có ý dòm dỏ. Thần
đã mật thư cho viên đề đốc là Tam Đức sắp đủ chiến binh, chi đi đóng giữ ở các
cửa ải trong sáu xứ chung quanh Long Châu. Nếu chúng qua sông, tức thì bốn mặt
chặn đánh, không để cho chúng chạy thoát; luôn dịp cũng tỏ cho chúng được biết
binh uy của thiên triều, cho chúng hoảng sợ. Thần lại xin viết thư mật cho các
viên quan coi giữ miền Triều Châu và Long Châu, bảo phải gấp rút đi tuần tra và
dò xét kỹ càng ở các miền biên giới..., Nếu có tình hình gì khác, thần xin tiếp
tục viết biểu tâu lên, chờ vâng chỉ cho thi hành".
Vua
Thanh xem tờ tâu ấy, liền bảo viên đại học sĩ là Bá Hoà rằng:
- Lê Duy
Kỳ ở An Nam, tuy chưa được phong, nhưng y là người đáng được nối ngôi, cũng
không khác gì quốc vương. Nay mẹ và vợ cùng các quyến thuộc của y đều chạy sang
đây, thế là toàn cõi nước ấy đều đã mất cả. Việc dựng lại nước đã bị diệt, nối
lại dòng đã bị tuyệt, cần phải trù liệu sắp đặt mà rốt cuộc cũng phải hao phí
rất nhiều binh lực. Nay xét ra, Duy Kỳ còn ở lại trong nước để tự lo lấy việc
khôi phục, dân nước ấy theo giặc chẳng qua mới chỉ mấy xứ Mục Mã, Lạng Sơn, còn
ở các vùng đông bắc, tây nam thì lòng người mến chủ cũ vẫn có thể tin cậy. Nếu
dựa vào đó để lo nối lại ngôi vua ắt là có thể xong việc. Vậy truyền dụ cho Tôn
Sĩ Nghị biết rằng: "Họ Lê thờ phụng thiên triều rất là kính thuận. Duy Kỳ
theo lệ đáng được nối ngôi. Việc mất quốc ấn, ngày trước đã có dâng thư xin cấp
ấn khác, song vì chưa cho sứ sang báo tang, không hợp thể chế, cho nên việc cấp
ấn phải hoãn, đã có hịch dụ. Nay họ lại sai sứ thần tha thiết sang kêu xin, vậy
chuẩn y việc sắc phong và cấp ấn cho họ. Xét cho kỹ. Duy Kỳ sở dĩ bị giặc đánh
đuổi cũng chỉ là vì y không lo gắng sức trỗi dậy mà ra. Hiện giờ đất nước của y
còn nhiều chỗ chưa bị giặc chiếm, thần dân cũng còn biết kính mến; Duy Kỳ nên
nhân dịp ấy nhóm họp nghĩa quân, thu phục quốc thành, để cho nghiệp cũ không
đến nỗi bị sụp đổ. Mẹ và vợ y chạy sang nội địa, đã được sắp đặt chỗ ở yên ổn,
ăn mặc không thiếu, đất nước đã quen, y cũng không cần phải lo nghĩ, có thể
chuyên ý lo việc trong nước, chờ khi khôi phục được kinh thành thì sẽ cho quân
đưa mẹ và vợ y trở về. Lúc y sai sứ thần, thì lại nên sai người đã thông tin
lần này sang, để làm chứng cứ, ngõ hầu mới khỏi bị kẻ gian lừa dối mưu hại. Đến
như Nguyễn Huệ cậy mạnh cướp nước, phép không thể tha, đã giáng chỉ điều động
đại quân ở Quảng Tây, để chờ khi gọi đến. Nếu giặc cứ hung hăng như trước, mà
tự tôn họ Lê không thể phấn chấn để làm nên việc, thần dân nước họ lại cam lòng
theo giặc thì sẽ cho đem đại quân bốn mặt họp lại mà đánh, cho sáng tỏ tội
trạng của chúng. Như thế, trước tiên phải đưa hịch phi báo cho thần dân nước
ấy, khiến họ đều biết, để làm mạnh thêm thế của họ Lê và làm cho bọn Tây Sơn
mất vía kinh hồn, mà đối với việc giúp đỡ cho sự thanh viện cũng là có ích.
Những người đi theo như bọn Nguyễn Huy Túc, tình nguyện về nước, tìm kiếm chỗ ở
của tự tôn, để cùng giúp việc khôi phục, chí ấy rất đáng khen, lẽ nên cho họ về
sớm; sớm một ngày là tự tôn của họ đỡ lo một ngày, và sau này trẫm cũng được
nghe tin nước ấy mau hơn một ngày. Tôn Sĩ Nghị vốn có tiếng nhanh nhẹn, sáng
suốt, sao không liệu trước điều đó, mà còn lo trẫm không ưng cho làm, để phải
tâu đi tâu lại, không khỏi phạm sai lầm về sự câu nệ. Nay Nghị cần phải sớm tới
Long Châu, giáp mặt mà hiểu dụ bọn sứ thần, giục họ lập tức lên đường; đem ý
của trẫm truyền bảo cho họ biết, để họ về nước báo tin với anh em Duy Kỳ; đồng
thời phải sao các tờ hịch thành nhiều bản, bảo họ đem về trong nước, ngõ hầu có
thể truyền bá rộng rãi. Ngoài ra, bọn họ lặn lội khó nhọc, hành lý sơ sài, vậy
ở đường thuỷ và đường bộ đều phải cấp phu trạm, hộ tống cho họ gấp đường mà đi;
lại cấp cho mỗi người mười lạng bạc để tiêu pha về việc ăn uống. Nói tóm lại,
việc này, nếu như cả nước An Nam bị mất, Duy Kỳ lại bị giết hại, thì nghĩ tình
cống thần, không thể bỏ qua mà không hỏi tới. Vả chăng bờ cõi nước Nam chưa đến
nỗi hoàn toàn mất hết, tự tôn tuy phải chạy trốn, nhưng thần dân vẫn còn mến
phục. Như vậy, ta chỉ cần làm thanh viện cho họ, để họ tự lo lấy công việc, bất
tất phải dấy quân làm to chuyện đem binh lực trong nước hao phí ở ngoài cõi
nóng nực, xa xôi. Đó mới là kế tuyệt hay. Tôn Sĩ Nghị phải theo chỉ dụ trước,
tới nơi biên thuỳ, trù tính cho kỹ, đốc thần (chỉ Tôn Sĩ Nghị) là người thạo
việc, chắc có thể hiểu được ý của trẫm. Việc kinh lý biên thuỳ ở đấy, cho phép
đốc thần được cùng viên phủ thần là Tôn Vĩnh Thanh họp bàn thoả đáng, tuỳ tiện
thi hành. Hãy kính theo chỉ dụ này!".
Lại nói,
quan lại hai hạt Triều Châu, Long Châu từ khi tiếp được thư mật của Nghị, lập
tức đi tuần tra dò xét miền biên giới và cho người đưa hịch sang bá cáo ở trấn
Thái Nguyên.
Bấy giờ
có hai họ Trương và Cát quê ở hạt Triều Châu, chuyên sống về nghề khai mỏ lấy
bạc, sang cư trú tại làng Tống Tinh trong trấn Thái Nguyên. Họ vỗ về mọi người,
làm kẻ tù trưởng địa phương, đồ đảng có đến hơn vạn người, đều là các gia đình
người Trung Hoa. Hai họ ấy nghe được tờ hịch, liền tìm đến chỗ trọ của người
đưa hịch mà trình rằng:
- Chúng
tôi chuyên sống về nghề mở xưởng khai mỏ, đời đời ở nước Nam. Trước đây nghe
tin kinh thành của nước An Nam bị mất, trong nước loạn to, sợ rằng cháy thành
vạ lây, nên đã cùng người địa phương luyện tập súng, nỏ, làm chước giữ mình. Có
lần, mấy trăm quân giặc đến cướp, chúng tôi mới thử đánh một trận mà đã giết
hết được tất cả. Nghĩ rằng chúng tức giận, ắt lại đến nữa, chúng tôi bèn chia
ra làm mười đoàn, mỗi đoàn một nghìn người thề cùng liều chết chống giặc. Nay
tiếp được hịch văn, ai cũng nô nức nhảy nhót, xin làm tiên phong. Vả lại chúng
tôi vốn là nhân dân Triều Châu, nay cũng muốn xin được cùng ra sức một phen với
quân nghĩa dũng ở Điền Châu.
Người
đưa hịch nghe họ nói như vậy, liền lấy tờ khai và đem tình hình duyên do về
bẩm.
Lại nói,
vua Lê trước kia đã sai bọn bồi thần sang trần tình và cầu cứu với nhà Thanh.
Đến bây giờ, Lê Duy Đản ở Thái Bình về, báo tin viên đốc bộ tỉnh Quảng Tây đem
việc tâu lên, đã được vua Thanh chuẩn y, chẳng bao lâu đại binh sẽ sang.
Rồi tiếp
đó. Lê Quýnh lại từ Long Châu về báo, nói là thái hậu và quyền thuộc hiện ở
thành Nam Ninh, ăn ở yên ổn. Vua mừng lắm bèn chắp tay lên trán mà rằng:
"Kẻ
tiểu tử này, gặp lúc vận nhà lắm nạn, nhờ được chín miếu thiêng liêng, đức đại
hoàng đế rủ lòng thương, bao bọc cho kẻ nhỏ mọn, trong nước lại được thấy bóng
mặt trời, cơ hội trung hưng phải chăng là ở lúc này?".
Rồi nhà
vua sai thảo tờ biểu tạ ơn và các thư từ trình bẩm, để cùng đưa sang một thể.
Trong đó nói rõ: "Giặc Tây Sơn tàn ngược, dân không chịu nổi. Hiện nay
thần tuy chạy trốn ở ngoài, nhưng may nhờ lòng người vẫn còn nhớ đến chủ cũ.
Nhân đó thần cũng đã cử sự được một vài phen, song đều bị thất bại. Gần đây
tiếp được văn thư, thần đã ngấm ngầm khuyến dụ hào kiệt trong nước, ai cũng
hăng hái, thề giết quân giặc, hằng ngày trông mong ở sự viện trợ của thượng
quốc. Nhờ cậy oai trời, việc chắc phải thành. Khi tiếp được hịch văn do viên
sai quan mang về, thần đã đem tuyên cáo với mọi người trong nước, ai nấy đều
mừng rỡ, hớn hở hơn là chết đi được sống lại; quân giặc cũng vì thế mà mất hết
nhuệ khí. Hiện nay, các nơi đều đã nhóm họp quân nghĩa dũng, chờ thiên binh qua
cửa ải, thì sẽ đến cửa quân lạy chào, và xin chịu kỷ luật làm quân đi tiên
phong. Đảng giặc chắc sẽ bị bắt và quốc đô chắc sẽ được khôi phục. Ơn tái tạo
của đức đại hoàng đế, cùng với đức gây dựng của cụ lớn, thật đáng ghi tạc dài
lâu mãi mãi như sông Lô non Tản vậy!".
Tôn Sĩ
Nghị vừa tiếp được tờ bẩm của Triều Châu lại được luôn tin ấy, liền hội đồng
với viên tuần phủ, tâu xin xuất quân. Trong tờ biểu đại khái nói rằng:
"Vâng lời thượng dụ: Chỉ nên làm thanh viện cho họ, để họ tự lo lấy không
cần phải dấy quân làm to chuyện. Kính tuân theo thánh chỉ ấy, thần đã tra xét
kỹ càng các nơi đường sá qua lại. Từ đài Chiêu-đức đến đô thành nước họ, quân
đi chẳng qua chỉ mất sáu ngày. ở Lạng Sơn hơi có lam chướng. Qua khỏi đó, thuỷ
thổ đều tốt lành. Đại quân tiến lên đóng ở La Thành (người Trung Quốc bấy giờ
cũng thường gọi Thăng Long là La Thành (một thành do Cao Biền đắp ở vùng Hà Nội
từ thời thuộc Đường)) vừa không nóng nực lại không có lam chướng. Vả lại cũng
cần diễu võ giương oai, phô trương thanh thế quân ta ở đấy, để cho giặc biết là
không thể địch nổi. Rồi sau mới sai phái các quân ứng nghĩa của nước họ tự đi
đánh dẹp lấy. Quân ta sẽ không đến nỗi phải vấy máu mũi gươm, mà quân giặc đều
bị bắt giết. Như vậy, công trạng hẳn chóng thành. Trộm nghĩ lần đi này thực
đúng như lời thánh thượng đã dạy. Lần trước cứ tâu đi tâu lại thần tự biết là
đã phạm cái sai lầm câu nệ, chậm trễ. Việc binh cần mau chóng, nếu gặp được cơ
hội, thần dám đâu không hết sức tính việc biên thuỳ để xứng đáng với sự giao
phó của bề trên? Đến như sau khi dẹp yên, các công việc cần phải xử trí ra sao,
thần sẽ xin kính cẩn viết tờ biểu tiếp tục tâu lên".
Rồi đó,
Nghị hoả tốc tư cho bọn đốc thần ở các tỉnh Vân Nam, Quí Châu, tuân theo như
chỉ vua đã gửi trước từ hai tỉnh ấy kéo quân theo đường Tuyên Quang mà đi, còn
đại binh thì qua ải Nam Quan, do đường Lạng Sơn tiến sang.
Thật là:
Vâng
lệnh, nguyên nhung coi hống hách,
Ra quân,
đại tướng vẻ vênh vang.
Chưa rõ
lần ấy thua được ra sao? Hãy xem hồi sau phân giải.
Chương 13 : Khiếp thanh thế, giặc mạnh rút
lui, Nhờ viện binh, vua xưa trở lại
Lại nói, lúc sắp xuất quân, Tôn Sĩ Nghị lại
dâng tiếp một tờ sớ, đại ý nói: "Thần nghe họ Lê ở nước An Nam hèn yếu,
sau này không chắc đã giữ được nước. Nay họ sang cầu cứu, bản triều theo nghĩa
phải cứu giúp. Vả chăng, An Nam vốn là đất cũ của Trung Quốc (chỉ nước ta ở
thời kỳ Bắc thuộc), nếu sau khi khôi phục họ Lê rồi, nhân đó lại cho quân đóng
giữ, thì như thế là bảo tồn họ Lê mà đồng thời lại chiếm giữ được nước An Nam,
một công mà hai việc vậy".
Tuần phủ
là Tôn Vĩnh Thanh dâng sớ chống lại lời bàn ấy của Nghị, đại để nói:
"Triều đình mượn tiếng khôi phục họ Lê, khi thấy họ Lê không thể giữ được
nước, lại định sai quan chiếm nước họ; ban đầu thì làm việc nghĩa, cuối cùng
lại theo việc lợi, thần trộm cho là không nên. Hiện nay họ Lê họ Nguyễn (họ
Nguyễn đây là chỉ Tây Sơn) đang đánh nhau, họ Lê thế nào cũng bị họ Nguyễn thôn
tính. Chi bằng cứ đóng quân yên lặng, rồi sau đó, nhân lúc cả hai bên đều kiệt
quệ, bấy giờ ta sẽ đánh lấy cũng chưa muộn gì".
Rốt
cuộc, vua Thanh nghe theo lời Nghị. Vì không hợp ý với Nghị, Vĩnh Thanh bèn cáo
ốm không đi.
Nghị một
mình vâng chiếu đem quân bốn lộ Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quí Châu, ra
khỏi cửa ải, rồi chia làm hai đạo: một đạo đi đường Lạng Sơn, do Nghị đốc suất;
một đạo đi đường Tuyên Quang, do viên tổng binh đốc suất. Cả hai đạo đều chịu
dưới quyền tiết chế của Nghị (theo Cương mục thì quân Thanh kéo sang gồm ba
đạo: một do tổng đốc lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị và đề đốc Hứa Thế Hanh chỉ huy,
theo đường ải Nam Quan qua Lạng Sơn kéo xuống; một do đề tổng Vân Quí là Ô Đại
Kinh chỉ huy, do đường Mông Tự qua Tuyên Quang tràn sang; một do tri phủ Điền
Châu Sầm Nghi Đống điều khiển, từ Khâm Châu qua Cao Bằng đổ xuống).
Nghị họp
các tướng sĩ, ban bố quân luật gồm 8 điều như sau:
Điều thứ
1. - Đại binh ra ải, vốn để dẹp giặc an dân. Hễ qua các nơi đều phải nghiêm
chỉnh đội ngũ mà đi, không được quấy nhiễu nhân dân, cướp bóc chợ búa.
Điều thứ
2. - Ngoài ải, non cao rừng hiểm, miền ấy rất dễ mai phục, trước hết phải san
bằng đá tảng, phát hết bụi rậm, để cho trước mắt quang đãng, có thể vững lòng
mà tiến lên. Nếu gặp chỗ nào đất mới xốp bở, càng nên để ý xem xét, để đề phòng
mưu gian của giặc.
Điều thứ
3. - Hễ nơi nào đại binh địch đóng thì trước hết phải xem xét địa phương, chọn
lấy hình thế, tìm nơi dễ lấy nước, lấy cỏ, chớ có đóng gần rừng rậm, bốn mặt
phải đào hào đắp luỹ và đốc suất binh lính đêm ngày tuần phòng, ngày đêm phải
chia quân đi dò xét ở ngoài mười dặm, không được ồn ào, dễ gây ra kinh sợ rối
loạn.
Điều thứ
4. - Người Nam đánh trận, hay dùng sức voi. Voi không phải là vật nội địa từng
tập quen, nên hễ gặp phải, trước tiên quân ta thế nào cũng tránh chạy. Không
biết rằng, sức voi tuy khoẻ, chung quy cũng là thân máu thịt, không thể đương
được với súng ống của ta. Nếu thấy voi ra trận, xa thì bắn súng, gần thì dùng
cung và lao, làm cho nó bị đau mà chạy trở lại, giày xéo lẫn nhau, quân ta nhân
cơ hội ấy mà tiến lên chém giết, thế nào cũng thắng trận, không còn nghi ngờ gì
nữa. Cần phải chỉ bảo cho nhau cùng được biết.
Điều thứ
5. - Quân Nam không có sở trường gì khác, toàn dùng thứ ống phun lửa làm lợi
khí, gọi là "hoả hổ". Khi hai quân giáp nhau, trước hết họ dùng thứ
đó đốt cháy quần áo người ta, buộc người ta phải lui. Nhưng tài nghệ của họ
cũng chỉ có thế mà thôi, so với súng ống của ta thì còn kém rất xa. Hiện nay ta
đã chế sẵn vài trăm lá chắn bằng da trâu sống. Nếu gặp "hoả hổ" của
người Nam phun lửa, thì quân ta một tay cầm lá chắn đỡ lửa, một tay cầm dao
chém bừa, chắc rằng chúng sẽ phải bỏ chạy tan tác.
Điều thứ
6. - Đại binh đi đường, nếu gặp khe suối dòng sông, chỗ nào nước sâu thì phải
chặt lấy tre gỗ bắc làm cầu phao, để binh mã vượt qua cho tiện, chỗ nào sông
hẹp nước nông, thì viên quan coi quân phải dò thử đích xác, rồi cho quân lính
nối tiếp nhau như xâu cá mà kéo đi. Lúc xuống nước, không được đem bùi nhùi,
thuốc súng bạ đâu vứt đấy để bị ẩm ướt.
Điều thứ
7. - Rau củi của đại binh dùng hàng ngày, đã có tiền công cấp phát; chỉ được
đổi chác với người Nam bằng cách thuận tình, không được tự tiện chặt cây cối ở
các làng xóm, để sinh ra tranh giành. Nếu ở chỗ nào cách rừng núi độ một hai
dặm, cần sai quân lính bảo vệ cho kẻ đi kiếm củi, không được tự ý đi xa, để xảy
ra biến cố khác. Đến như việc lấy nước nấu cơm, cũng phải do viên quan coi quân
xét nghiệm rõ ràng, quả thật trong sạch không có độc mới cho múc uống.
Điều thứ
8. - Những quân lính bị thương hoặc bị ốm, viên quan coi quân phải tra xét
tường tận, làm giấy bẩm rõ, rồi cho đưa về doanh điều trị, để tỏ sự giúp đỡ,
thương xót. Nếu có bọn quân lính không tốt, giả làm bị thương hay đau ốm, hòng
được về nhà, một khi tra ra sẽ trị tội ngay tức khắc. Vả lại, lần này hành quân
xa xôi qua miền biên ải, triều đình thương đến binh lính, đã chu cấp rộng ra
ngoài thể lệ, mỗi người lính được cấp một tên phu. Các viên coi quân cần hiểu
dụ trước cho mọi người biết. Lính và phu cũng cần phải thương yêu giúp đỡ lẫn
nhau, không được tuỳ tiện sai khiến một cách tàn ngược. Đến như lúc hành quân,
lính đều phải lấy khí giới, không được tự mình buông tay đi không, vật gì cũng
giao cho phu dịch mang đội, để đến nỗi họ không thể chịu nổi, phải giữa đường
bỏ trốn. Ngoài ra, số phu quá nhiều, tra cứu rất khó, thậm chí có người ở doanh
trước lẫn vào doanh sau, người này người kia không quen biết nhau, dễ sinh ra
lộn xộn. Do đó, phải cấp cho mỗi tên phu một mảnh thẻ bài đeo ở lưng, kê rõ tên
họ, doanh hiệu, để tiện nhận xét phân biệt.
Các điều
quân luật trên đây, quân lính đều phải tuân theo một cách nghiêm túc. Kẻ nào
làm trái, nhất thiết xử theo quân pháp, không tha.
Rồi đó,
trước tiên Nghị sai truyền hịch sang dụ nước Nam, đại lược nói:
"Dấy
nước đã diệt, nối dòng đã tuyệt, việc đáng làm nào kể nơi man rợ, xa xôi; vớt
người bị chìm, cứu kẻ bị thiêu, đừng chẳng được phải dùng đến cung tên, binh
lính. Nghĩ lại họ Lê ở An Nam vốn là cống thần của thiên triều. Ba trăm năm vật
sản tiến dâng, kính theo chức phận; mười lăm lộ đất phong chia cắt, gồm có nước
nhà. Thế mà khoảng năm Càn-long, tù trưởng trong nước là bọn Nguyễn Nhạc, Nguyễn
Huệ, dấy quân làm loạn, đánh phá La Thành: vua Lê trước vì lo sợ mà phải qua
đời, tự tôn là Duy Kỳ phiêu bạt ra ngoài. Bề tôi cũ là Nguyễn Huy Túc đem mẹ và
vợ tự tôn chạy sang nội địa, tha thiết xin quân cứu viện. Sau khi hỏi rõ bọn
Túc, thì tự tôn hiện nương náu ở vùng Kinh Bắc, Lạng Sơn, thần dân còn nhớ chủ
cũ. Nguyễn Nhạc là quân mọi rợ như giống trâu dê, quen thói hung tợn của loài
lang sói, đến đâu cướp bóc đó, trăm họ oán đến xương tuỷ. Từ một tên dân ở nơi
biên thuỳ nổi dậy, can phạm luân thường, làm trái nghĩa lý, đạo trời không thể
dung tha; lại dám hoành hành ở nơi nội địa, bạo ngược quần chúng, tàn hại nhân
dân, phép vua cũng cần phải đánh. Hiện đã đem việc này tâu lên, vâng được đức
đại hoàng đế thương xót đến họ Lê tan nát, không nỡ để Giao Châu lầm than; đặc
cách sai quan đốc phủ đeo ấn chinh Man (xưa bọn thống trị Trung Quốc gọi các
dân tộc ở phương nam là Man (man rợ chưa khai hoá); "chinh Man" đây
nghĩa là: đi đánh Việt Nam) đại tướng quân, điều động năm mươi vạn quân, thẳng
tới La Thành, trị tội bọn Nguyễn Văn Nhạc, không để chúng trốn thoát hình phạt
của trời. Dân nước Nam đời đời tôn đội vua Lê, nhờ ơn nuôi dưỡng đã lâu, tri
năng chưa mất, tình cảm đang còn, không thể để mất lương tâm trời cho, bỏ vua
theo giặc. Kẻ nào có thể xướng trước tiếng nghĩa, dựa vào thiên triều làm nơi
cứu viện, nhóm họp các người đồng chí, ra sức trừ diệt quân thù, cửa ải hát
khúc khải ca, mạc phủ (chỗ làm việc ở nơi đóng quân của các tướng soái đời xưa)
dâng lên công trạng, sẽ được cắt đất chia phong, hưởng chung phúc lộc với họ
Lê, như ông tổ họ Trịnh ngày trước. Hịch văn đưa tới, quân lính đều nên hăng
hái, mài giũa giáo mác của các người mà chống lại quân thù của nhà vua. Đồng
lòng chung sức, ắt có công lao. Rồi sẽ ngửa trông ban thưởng ở cửa công, giữ
mãi phúc chung ở trong nước. Hãy cố gắng lên!".
Lúc đó,
tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Diễm và Phan Khải Đức đang đóng giữ Lạng Sơn, thấy
tờ hịch đến đều run sợ. Trong khoảng một ngày, thổ binh do họ chiêu tập được,
bỏ trốn mất quá nửa. Khải Đức trước hết bí mật sai lính đem thư sáp đến cửa ải
xin hàng. Văn Diễm tự liệu quân mình lẻ loi, thế không chống nổi; vả mình lại
là người Quảng Nam, nếu có hàng, chưa chắc đã được bao dung, bèn đang đêm rút
quân bỏ trốn về Kinh Bắc, cùng với viên lưu thủ ở đó là Nguyễn Văn Hoà hợp sức
giữ lấy trấn thành, rồi sai lính cưỡi ngựa đưa thư về Thăng Long cáo cấp.
Lại nói,
Bắc bình vương Nguyễn Huệ từ mùa hè năm ngoái ra Thăng Long giết viên chủ tướng
tiết chế là Võ Văn Nhậm, rồi thay đổi quan quân, chỉnh đốn công việc, chuyển
giao cho các viên đại tư mã Ngô Văn Sở, nội hầu Phan Văn Lân, chưởng phủ Nguyễn
Văn Dụng, đô đốc Nguyễn Văn Tuyết, thị lang bộ Hộ Trần Thuận Ngôn, thị lang bộ
Lại Ngô Thì Nhậm cùng giữ thành Thăng Long. Lúc sắp lên đường về Nam, Huệ mở
tiệc họp đông đủ mọi người, rồi nói:
Sở và
Lân là nanh vuốt của ta; Dụng và Ngôn là tâm phúc của ta; Tuyết là cháu của ta;
còn Nhậm thì vừa là bề tôi vừa là khách của ta, lại là dòng văn học Bắc Hà,
thông thạo việc đời. Nay ta giao cho các ngươi cả mười một trấn trong toàn hạt
(thời Lê, Bắc Hà gồm 11 trấn. Về sau, Quang Trung có chia lại). Những việc quan
trọng trong nước, đều cho tuỳ tiện mà làm. Mọi việc cùng nhau họp bàn ổn thoả,
chớ vì kẻ cũ người mới xa cách nhau. Ai nấy phải đồng lòng hiệp sức, lo chung
công việc để xứng đáng với sự trông mong của ta. Các ngươi hãy cố gắng nữa lên!
Mọi
người đều đứng dậy lạy tạ và xin vâng mệnh.
Sau đó,
Bắc bình vương chọn ngày lên đường về Nam.
Từ khi
ấy, trên rừng dưới biển hễ có ai dám ngang ngạnh, Sở chỉ cần sai một viên tỳ
tướng đi đánh là dẹp tan được ngay. Các phủ huyện có đệ án kiện, giấy tờ lên
thì Sở cứ theo việc mà xử, không để ứ đọng. Trong những ngày rỗi, Sở thường
cưỡi ngựa qua các đường phố để mua vui, tự cho rằng ở Bắc Hà không còn việc gì
khó.
Một hôm,
mọi người cùng họp nhau ăn uống ở nhà hiệp nghị, Sở bảo Lân và Tuyết rằng:
- Chúa
công đem cả thành lớn giao phó cho ta, cũng ví như sai người cắt áo gấm mà chưa
thể tin là có biết cách cầm kéo hay không. Các ông thấy việc đó ra sao? Giả sử
có Tề thiên đại thánh từ trên trời rơi xuống hay Diêm vương từ dưới đất lên, ta
cũng chỉ quét một lưới là hết. Huống chi cái lũ tẹp nhẹp, chẳng qua chỉ để
người ta thử xem gươm có sắc hay không, chứ làm được trò trống gì?
Rồi Sở
ngoảnh lại bảo Ngô Thì Nhậm rằng:
- Quan
thị lang thật giỏi về nghề văn học, còn việc cung kiếm có thông thạo gì không?
Nhậm
nói:
- Có văn
tất phải có võ, văn võ không phải chia làm hai đường. Nhưng người xưa dùng
binh, gặp việc thì lo sao ngài lại lấy việc binh làm trò chơi mà coi thường như
thế? Tôi trộm nghe bọn người nước ta chạy sang bên Trung Hoa, trong đó có nhiều
người định xúi họ, mở mang bờ cõi, gây ra binh biến. Ngài chịu sự ký thác ở cõi
ngoài, e rằng không khỏi một phen bạc đầu vì lo lắng, đến lúc ấy ngài nên nhớ
đến lời nói của tôi.
Sở cười
và nói:
- Lúc ấy
sẽ phiền ông làm một bài thơ để lui quân giặc. Nếu không làm được như thế, thì
túi dao bao kiếm chính là phận sự của kẻ võ thần, can gì phải quá lo?
Chẳng
bao lâu, nghe tin báo ở ngoài biên ải đưa về. Sở rất kinh sợ, tức thì hội họp
các quan văn võ cũ của nhà Lê, mượn tiếng Sùng nhượng công Duy Cận coi việc
nước, làm một bức thư đứng tên Duy Cận; lại giả danh các hào mục lập một tờ
trạng suy tôn Duy Cận làm giám quốc; rồi sai bọn quan văn là Nguyễn Quí Nha,
Trần Bá Lãm, Võ Huy Tấn, bọn quan võ là Nguyễn Đình Khoan, Lê Duy Chử, Nguyễn
Đăng Đàn đem bức thư và tờ bẩm tới cửa ải để xin hoãn binh. Một mặt, Sở họp với
bọn Văn Lân bàn việc đánh giữ. Chưởng phủ là Nguyễn Văn Dụng nói:
- Trộm
nghe hồi cuối đời Trần, người Minh sang lấn nước ta, có bọn Hoàng Phúc, Trương
Phụ, Mộc Thạnh, Liễu Thăng đều là những tướng Kiệt hiệt của Trung Quốc. Bấy giờ
vua Lê Thái Tổ khởi nghĩa ở vùng Lam Sơn, thế lực không địch nổi họ. Nhưng hành
binh theo cách quỷ quyệt, lại hay dùng mưu mẹo khôn ngoan; rồi nhờ khéo dùng cách
mai phục, nhân lúc quân giặc không phòng bị mà đánh úp; cho nên có thể lấy ít
quân mà đánh được kẻ nhiều quân, vây Vương Thông ở bến Đông Bộ, giết Liễu Thăng
ở núi Mã Yên (Bến Đông Bộ tức bến Đông Tân ở khúc sông Nhĩ Hà, Hà Nội. Núi Mã
Yên ở xã Mai sao thuộc huyện Ôn Châu, Lạng Sơn) võ công tuyệt lạ, ngàn thủa
ngợi khen. Nay người Thanh ở xa đến đây, phải trèo đèo vượt suối, ta lấy quân
nghỉ ngơi mà đón đánh quân nhọc mệt, nhắm trước các nơi xung yếu, cho quân nấp
sẵn để chờ; cứ làm theo kế ấy, lo gì mà không thắng?
Thì Nhậm
nói:
- Không
phải thế! Ông chỉ biết một mà chưa biết hai. Việc thiên hạ, tình tuy giống nhau
mà thế có khác nhau, sự đắc thất do đó cũng khác hẳn. Xưa kia, nước ta bị phụ
thuộc vào Trung Quốc, quân Minh buông tuồng làm điều tàn bạo. Người cả nước ai
cũng muốn đuổi chúng đi. Cho nên vua Lê Thái Tổ chỉ gọi một tiếng là xa gần
hưởng ứng, hào kiệt trong nước kéo đến như mây tụ. Mỗi lúc đánh nhau với giặc,
người trong nước chỉ lo quân mình bất lợi. Mỗi khi có tin thắng trận, ai nấy
đều hết sức vui mừng. Lòng người như thế, nên hễ chỗ nào có quân mình mai phục,
thì người ta đều giấu kín cho, khiến giặc không hề biết. Sở dĩ thắng được giặc,
đều bởi cớ ấy. Ngày nay, những người bề tôi trốn tránh của nhà Lê, đâu đâu cũng
có nghe tin quân Thanh sang cứu, họ đều nghển cổ mà trông. Sĩ dân cả nước,
giành nhau mà đón chúng. Quân ta mai phục ở đâu, địa thế hiểm hay không, số
quân nhiều hay ít, quân giặc chưa biết thì họ đã báo trước với chúng. Chúng sẽ
nhân kế của ta mà lập kế của chúng, rồi bốn mặt kéo đến vây bắt. Quân cơ đã bị
tiết lộ, tự nhiên mất hết điều tiện lợi. ấy là mình tự hãm mình vào chỗ chết.
Còn hòng đánh úp được ai?
Binh
pháp có nói: "Khéo che đậy không khi nào không thắng, vụng che đậy không
khi nào không thua". Được thua khác nhau là do ở chỗ xưa với nay khác nhau
vậy!
Sở hỏi:
- Vậy
thì nên làm thế nào?
Nhậm trả
lời:
- Phép
dụng binh chỉ có một đánh một giữ mà thôi. Nay quân Thanh sang đây, tiếng tăm
rất lớn. Những kẻ trong nước làm nội ứng cho chúng, phần nhiều là phao tin đồn
nhảm, làm cho thanh thế của chúng to thêm, để cho lòng người sợ hãi lay động.
Quân ta có ai được sai phái đi đâu, vừa ra khỏi thành là đã bị bắt giết. Số
người Bắc Hà thuộc vào sổ quân của ta, hễ gặp dịp sơ hở là bỏ trốn liền. Đem
đội quân ấy mà đánh, không khác gì xua bầy dê đi chọi cọp dữ, không thua sao
được? Đến như việc đóng cửa thành mà cố thủ, thì lòng người đã không vững, ắt
thế nào cũng sinh ra mối lo ở bên trong. Dầu cho Tôn, Ngô (tức Tôn Võ, người
nước Tề đời Xuân Thu, và Ngô Khởi người nước Vệ đời Chiến quốc; hai nhà quân sự
nổi tiếng của Trung Quốc thời xưa) sống lại, cũng phải bó tay, không thể làm
được gì. Thật chẳng khác gì đem một con chạch bỏ giỏ cua. Xin nghĩ kỹ mà xem!
Đánh đã chẳng được, giữ cũng không vững. Vậy thì cả hai chước đánh và giữ đều
không phải là kế hay. Nghĩ cho cùng thì chỉ còn một cách này: sơm sớm truyền
cho thuỷ quân chở đầy các thuyền lương, thuận gió giương buồm, ra thẳng cửa
biển, đến vùng Biên Sơn mà đóng. Quân bộ thì sửa soạn khí giới, gióng trống lên
đường, lui về giữ núi Tam Điệp. Hai mặt thuỷ bộ liên lạc với nhau, giữ lấy chỗ
hiểm yếu, rồi cho người chạy giấy về bẩm với chúa công. Thử xem quân Thanh đến
thành, khu xử việc nhà Lê ra sao? Vua Chiêu thống sau khi phục quốc, xếp đặt
việc quân việc nước thế nào? Chờ chúa công ra, bấy giờ sẽ quyết chiến một phen
cũng chưa muộn gì.
Sở nói:
- Chúa
công về Nam, đem thành này giao phó cho ta. Giặc đến thì phải sống chết với
giặc, còn mất với thành, trên không thẹn là kẻ bề tôi giữ đất, dưới không phụ
chức trách cầm quân. Nếu mới thấy bóng giặc đã trốn, bỏ thành cho giặc, chẳng
những mang tội với chúa công mà người Bắc còn coi ta ra cái gì?
Nhậm
nói:
- Tướng
giỏi thời xưa, lường thế giặc rồi mới đánh, nắm phần thắng rồi mới hành động,
tuỳ theo tình thế thay đổi mà bày ra chước lạ. Giống như đánh cờ, trước thì
chịu thua người một nước, sau mới được người ta một nước; đừng có đem nước sau
làm nước trước, đó mới là tay cao cờ. Nay ta hãy bảo toàn lấy quân lực mà rút
lui, không bỏ mất một mũi tên. Cho chúng ngủ trọ một đêm, rồi lại đuổi đi, cũng
như ngọc bích của nước Tấn đời xưa, vẫn nguyên lành chứ có mất gì. Nếu có vì
thế mà mắc lỗi, tôi sẽ xin bộc bạch với chúa công, thế nào cũng được chúa công
lượng xét, xin ông chớ nghi ngại.
Sở bèn
nghe theo, rồi mật truyền cho các viên trấn thủ ở Kinh Bắc, Thái Nguyên, Lạng
Sơn một mặt nói phao là đem quân đắp luỹ ở sông Như Nguyệt, một mặt cất lẻn rút
quân về. Lại tư cho các viên trấn thủ ở Hải Dương, Sơn Tây, hẹn ngày họp quân ở
thành Thăng Long. Còn trấn Sơn Nam thì sắp sửa thuyền bè, chờ thuỷ quân đến sẽ
cùng xuất phát.
Qua năm
ngày, các đạo quân đều kéo đến đầy đủ, cùng dự cuộc duyệt lớn ở bãi sông. Rồi
đó, Sở hạ lệnh cho quân bộ sắp sẵn lương khô để chờ sai phái. Trước hết, Sở cho
thuộc tướng là Đặng Văn Chân đốc suất lính thuỷ đi xuống phía đông. Cắt đặt vừa
xong, thì trời sập tối, chợt thấy bọn Nguyễn Quí Nha, Nguyễn Đình Khoan từ trên
ải Nam Quan chạy về nói rằng: khi họ đến Nam Quan, bị bọn lính canh cửa ải của
nhà Thanh ngăn chặn không cho sang; hiện nay quân Thanh đã qua Nam Quan, quân
bộ và quân kỵ của đội tiền phong đã tiến đến địa phận huyện Phượng Nhãn và đóng
tại đó.
Sở liền
họp các tướng, định rút lui. Phan Văn Lân nói:
- Quân
không cứ nhiều, nước không cứ lớn. Nay ta làm tướng cầm quân ở ngoài, giặc đến
chưa từng đón đánh, chỉ mới nghe tiếng doạ hão đã vội rút lui, thì còn làm
tướng làm gì nữa? Tôi xin đem một ngàn quân tinh nhuệ, đến thẳng sông Như
Nguyệt, đánh nhau với chúng một trận, xem khí thế của chúng ra sao và người Nam
với người Thanh ai khoẻ hơn ai, để cho chúng biết rằng bọn ta cũng không phải
là hèn nhát. Đó cũng là sự tính toán tất thắng trước dùng thanh thế của mình để
đè bẹp bên địch vậy!
Sở cũng
cho là phải.
Lân bèn
đem quân qua sông đi sang phía bắc. Canh ba tới bờ phía nam sông Như Nguyệt,
nghe tin quân của Tôn Sĩ Nghị đã đóng ở núi Tam Tằng. Lúc ấy tiết trời giá rét,
lân kéo quân qua sông thách đánh. Tướng sĩ vốn sợ oai của Lân, phải liều với
khí lạnh mà lội bừa xuống nước. Ra đến giữa sông, những kẻ cóng quá không thể
qua được, đều bị chết đuối. Còn những kẻ vào tới được bờ cũng đều bị quân Thanh
giết chết. Lân liệu chừng không thể giao chiến được nữa, liền vẫy quân chạy
lui. Đám quân tan vỡ trốn vào các làng, đều bị dân chúng bắt nộp cho quân
Thanh. Lân chỉ trơ một mình một ngựa mà chạy về.
Sở sợ
quá, giấu kín việc bại trận không cho ai biết, rồi truyền lệnh cho các đạo quân
nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi. Đúng giữa trưa, đi qua Phú Xuyên (thuộc Hà Đông (Hà
Sơn Bình)), người ta mới biết là Sở rút quân. Hôm sau tới huyện Yên Mô (thuộc
Ninh Bình (Hà Nam Ninh)), Sở sai chia quân đóng đồn dọc theo ven núi Tam Điệp,
thẳng đến bờ biển, hai mặt thuỷ bộ liên lạc với nhau để cố thủ.
Trước
đó, vua Lê đang lẩn lút ở vùng Kinh Bắc, Lạng Sơn, nghe tin Tôn Sĩ Nghị đưa
hịch sang nước Nam và hẹn ngày đến cửa ải, nhà vua bèn bí mật sai người đi gọi
nghĩa sĩ bốn phương. Các quan văn võ nghe tin, cũng đều khuyên bảo hào mục các
địa phương, nhóm họp hương binh để chờ đợi.
Rồi đó,
vua sai Lê Duy Đản đem thư lên cửa ải để yết kiến Tôn Sĩ Nghị, bẩm rõ tình hình
trong nước với Nghị và nói rằng: Tự quân vừa bị cảm hàn, không thể đi đường,
xin chờ đón ở trấn thành Lạng Sơn.
Đến khi
nghe tin quân Tây Sơn rút lui, vua mới truyền cho các đạo quân cần vương đều
tới nơi hành tại; rồi kén lấy hạng khoẻ mạnh một ngàn người sung làm quân túc
vệ ở doanh vua; còn bao nhiêu thì giao cho các tướng lập thành đội ngũ, ai đem
bộ thuộc của người nấy chia giữ các trấn. Trần Quang Châu lĩnh trấn Kinh Bắc.
Nguyễn Đạo lĩnh trấn Hải Dương. Hoàng Tố Nghĩa lĩnh trấn Sơn Nam. Hoàng Phùng
Tứ lĩnh trấn Sơn Tây. Mọi người đều vâng mệnh đi tới lỵ sở. Riêng Trần Quang
Châu thì ở lại hành doanh bảo vệ xa giá.
Châu xin
dời xe vua về trấn Kinh Bắc, sửa sang thành luỹ, xây dựng nhà cửa để chờ quân
Thanh. Vua nghe lời.
Đoạn nhà
vua lại sai bọn binh chương Phạm Đình Dữ, tham tri Vũ Trinh đem thiếp thỉnh an
lên đất Hoà Lạc gặp Sĩ Nghị, nói rõ: Hiện nay đã phái quân chia đi kinh lược
bốn trấn ở ngoài đô thành, lùng bắt bọn giặc lẻn trốn ở các nơi. Xin đưa một số
thổ sản nhỏ mọn là mười con trâu, một trăm vò rượu, làm lễ khao quân, ngước
trông thu nhận cho.
Vua lại
truyền phải sức cho các kỳ lão và các xã dân mấy huyện ven đường, sửa soạn đón
rước quân Thanh.
Đại quân
của Sĩ Nghị đi sang phương Nam, dọc đường đều thuận lợi thông suốt. Kịp khi tới
núi Tam Tằng đóng quân lại, đến đêm, tuy Phan Văn Lân định quấy rối, nhưng bị
giá rét làm cho thương tổn, nên Nghị chưa đánh mà quân Lân đã tan. Ngô Văn Sở
nghe tin cũng thu quân bỏ chạy cả đêm từ lâu rồi. Thế là trên đường tiến quân
không còn ai dám ngăn trở Nghị. Do đó, Nghị không hề lo sợ mà lại có vẻ kiêu
căng. Mới thấy Vũ Trinh, y liền hỏi:
- Lúc
đại binh ra cửa ải, trước hết đã có đưa hịch sang bá cáo, quân giặc sợ hãi đã
ôm đầu chạy trốn. Nghĩ rằng thần dân bên ấy, ai lại không phấn chấn nổi dậy?
Dựa vào oai trời mà lo giết giặc nước, chẳng mấy chốc sẽ có thể thành công, sao
cứ một mực nhu nhược, để chúng được chạy trốn một cách rảnh rang? Bây giờ đại
binh đã đến địa giới nước mình mà các người vẫn tuyệt nhiên không làm nên công
trạng gì. Như thế, còn gọi là nước có người được chăng?
Trinh
nói:
- Nước
nhỏ này tự mình không thể làm được việc, mới đến nỗi phải gõ cửa ải cầu cứu.
Nếu sức của chúng tôi có thể chế ngự được chúng thì đâu dám phiền đến đại binh?
Nay cụ lớn lấy điều đó quở trách, tôi còn biết nói làm sao? Xin thưa về tình
hình của giặc. Nguyễn Nhạc sinh trưởng ở vùng Tây Sơn, có sào huyệt hiểm yếu để
nương tựa. Nguyễn Huệ là tay lão luyện về trận mạc, lại nắm giữ đội quân hùng
mạnh. Từ khi kéo quân về Nam, anh em chúng đánh lẫn nhau. Nhạc ở Tây Sơn, Huệ
chiếm Thuận Hoá, ai nấy tự xưng hùng, kẻ đế, người vương. Còn ở quốc thành của
nước tôi, chỉ có đồ đảng của chúng là bọn Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân mà thôi.
Được tin thiên binh đến, bọn chúng chưa biết hư thực thế nào, nên hãy thu quân
tạm lánh. Nhưng nghe đâu bọn chúng đóng quân chặn ở núi Tam Điệp, ngăn hẳn từ
đất Trường Yên (tên phủ, thuộc Ninh Bình, giáp liền với Thanh Hoá) về Nam, mưu
đồ lại tiến ra đất Bắc lần nữa. Một tên tỳ tướng, còn kiệt hiệt như thế, huống
chi tên đại tù trưởng của chúng? Nếu không dùng đạo binh thật lớn mà đánh, làm
sao có thể bắt sống được chúng? Nước tôi sau khi loạn lạc tan tác, tướng ít
quân hèn, sợ rằng khó lòng làm xong việc. Nhờ oai linh lừng lẫy của cụ lớn, tên
tù trưởng mọi rợ sợ oai phải đến hàng, đó là điều mong mỏi của nước nhỏ này.
Nghị
cười mà rằng:
- Nước
ngươi vì bị tàn ngược đã lâu, mất cả tinh thần khí khái, nên động một tý là đem
hùm sói doạ nhau. Theo ta xem xét thì chúng chỉ như hạng trâu dê, sai một người
đem thừng buộc lấy cổ mà lôi về, hẳn cũng không khó gì. Đợi khi quân ta đến La
Thành, nhổ bãi nước bọt xoa tay là làm xong việc. Ngươi hãy chờ mà xem!
Lúc Nghị
tới trấn Kinh Bắc, vua Lê tự đem các quan đến chào, Nghị yên uỷ rằng:
- Quý tự
("Quý tự" là người nối nghiệp tôn quý, đây trỏ Chiêu Thống) mắc phải
nạn lớn đã nhiều năm, nhờ đức đại hoàng đế thương xót, sai bản chức đem quân hộ
tống mẹ và vợ ngài về nước. Chuyến này sang đây, giúp việc kinh lý, trước hết
cần bắt cho hết đảng giặc, rồi sau chỉnh đốn quy mô, làm kế lâu dài. Bao giờ
mọi việc đều muôn ngàn lần ổn thoả rồi, bấy giờ mới rút quân, xin chớ lo gì về
việc nước nữa.
Vua Lê
nói:
- Đội ơn
đại hoàng đế, đức cả như trời, không sao hình dung được cho hết. Lại nhờ cụ lớn
hạ mình tới đây, khiến cho nước chúng tôi được thấy ánh sáng của áo cừu, đai
ngọc, được thoả lòng ngửa trông sao Bắc Đẩu, núi Thái Sơn. Mối tình vui mừng,
kính mến, không sao kể xiết!
Rồi nhà
vua mời Nghị vào dinh nghỉ tạm. Nghị nói:
- Đây
cách quốc thành không xa, cần đi ngay, không nên dùng dằng.
Nghị
liền sai bắn chín phát súng và nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi.
Chập
tối, đến bờ bắc sông Nhĩ Hà, vua Lê xin qua sông vào kinh thành trước, rồi sai
sắm sửa giường màn ở điện Kính Thiên, mời Nghị vào ở, Nghị không ưng, nói:
- Chỗ ấy
không phải là hành doanh của đại tướng, đối với việc quân có nhiều điều bất
tiện.
Đoạn
Nghị truyền lệnh chia quân đóng ở nơi quang đãng trong hai bãi cát phía bờ nam
và bờ bắc sông Nhĩ Hà; lại sai bắc cầu phao trên mặt sông để tiện đi lại. Hôm
ấy nhằm ngày 11 tháng 11 năm Mậu thân (1788).
Hôm sau,
vua thân hành đến chờ đón ở doanh của Nghị.
Nghị sai
người bày biện nghi trượng rất long trọng ở điện Kính Thiên, rồi truyền cho
trăm quan tới hầu. Vua Lê đội mũ miện, mặc áo cổn quỳ ở giữa sân. Nghị dẫn bọn
liêu thuộc đến, rồi tuyên đọc tờ sắc của hoàng đế nhà Thanh phong cho vua Lê
làm An Nam quốc vương. Trong tờ chế phong vương, đại lược nói rằng:
"Chia
ra cõi bờ mười ba đạo, không phải tham gì đất đai này; đã lo chức cống ba trăm
năm, há chẳng nghĩ đến tổ tông trước? . . .".
Xong lễ
thụ phong, vua bèn theo lệ thảo tờ biểu tạ ơn, xa trông cửa khuyết mà lạy tạ,
rồi nhờ Nghị cho đệ tờ biểu đi.
Nghị
nhận lời.
Tuy vua
Lê đã được phong Vương, nhưng giấy tờ đưa đi các nơi, đều dùng niên hiệu
Càn-long. Vì có Nghị ở đấy nên không dám dùng niên hiệu Chiêu thống. Ngày ngày
sau buổi chầu, vua lại tới chờ ở doanh của Nghị để nghe truyền việc quân, việc
nước. Vua cưỡi ngựa đi trước, Lê Quýnh cưỡi ngựa đi sau, quân lính hộ vệ chỉ
vài chục người. Người trong kinh có kẻ không biết là vua. Hoặc có người biết,
thì họ nói riêng với nhau rằng:
"Nước
Nam ta từ khi có đế, có vương tới nay, chưa thấy bao giờ có ông vua luồn cúi đê
hèn như thế. Tiếng là làm vua, nhưng niên hiệu thì viết là Càn-long, việc gì
cũng do viên tổng đốc, có khác gì phụ thuộc vào Trung Quốc?".
Nghị
cũng ngông nghênh tự cho mình là tôn quý; có lúc vua tới yết kiến, y không buồn
tiếp, chỉ cho người đứng ở dưới linh các truyền bảo: "Hôm nay không có
việc quân, việc nước gì. Hãy về cung yên nghỉ!".
Lễ ý và
sự thù tiếp của y đối với nhà vua hết sức sơ sài như vậy. Còn đối với quân
lính, thì y lại hay dung túng cho chúng mặc sức làm điều phi pháp.
Trước
kia, người Trung Hoa ngụ cư ở các nơi như phường Hà Khẩu (khu vực phố Hàng
Buồm, Hà Nội bây giờ) ở đô thành, phố Cơ Xá ở trấn Kinh Bắc và phố Hiến Doanh
(nay là Hưng Yên (Hải Hưng)) ở trấn Sơn Nam có tới hơn vạn người. Đến lúc ấy,
bọn họ đều đến bám theo các đồn quân của Nghị, hoặc lập riêng ra điếm Liễu để.
Bọn họ thông thạo tiếng nước Nam, am hiểu phong tục tập quán nước Nam; do đó,
họ liền nhân cơ hội kiếm mọi cách vu hãm những người lương thiện, áp bức cướp
bóc những nhà giàu có, thậm chí giữa chợ, giữa đường cũng cướp giật của cải,
hãm hiếp đàn bà, không còn kiêng sợ gì cả. Nhân dân ở quanh kinh kỳ luôn luôn
bị khổ sở với bọn họ.
Vua Lê
tuy biết sự tệ hại ấy, nhưng đã trót mời quân Thanh sang, chỉ sợ vì việc đó mà
làm mếch lòng chúng, nên cũng khó ăn khó nói.
Nghị
cũng không phải không biết tình trạng như vậy, song cũng mặc cho bọn ấy tha hồ
làm bậy, không hề ngăn cấm gì hết.
Lại nói,
từ khi vua Lê trở về kinh thành, các quan văn võ trước kia phiêu bạt đều lục
tục kéo đến lạy mừng. Vua bèn ban thưởng cho những người đã từng theo đi trốn,
hoặc những người có công giúp đỡ. Phong cho Phạm Đình Dữ làm thượng thư bộ Lại,
kiêm bình chương sự, Nguyễn Huy Túc làm đồng bình chương sự, Lê Duy Đản, Vũ
Trinh đều làm tham trí chính sự, Nguyễn Đình Giản làm thượng thư bộ binh, kiêm
tri xu mật viện sự, Nguyễn Duy Hiệp, Chu Doãn Lệ làm đồng tri xu mật viện sự,
Trần Danh án làm phó đô ngự sử, Lê Huy Tấn, Phạm Quí Thích làm độ chi bộ Hộ, Lê
Xuân Hạp, Ngô Vi Quí làm đồng tri binh chính, Lê Quýnh làm quân trung uý đốc,
tước quận công, lĩnh quân cần vương theo Tôn Sĩ Nghị lo liệu và xử trí việc
quân.
Ngoài
ra, các quan liêu trong ngoài đều về các dinh thự làm việc như cũ.
Viên phó
hiến ở trấn Kinh Bắc là Ngô Tưởng Đào lấy cớ già ốm, từ chối không nhận chức,
và dâng sớ nói rằng:
"Vận
trời đang lúc gian truân, không ngờ lại được thấy bóng mặt trời, thật là cái
phúc vô cùng của xã tắc. Thần trộm nghĩ rằng: Việc binh cốt phải mau chóng. Nếu
cơ hội có thể làm được, hà tất việc gì cũng cứ giao phó cho quân nước ngoài để
đến nỗi dềnh dàng ngày tháng. Hiện nay quân cần vương các lộ, ai không muốn hết
lòng hết sức lập công ít nhiều? Nhân khi quân giặc vừa rút lui, ta nên lập tức
đem đại binh đuổi sát gót, như tiếng sét chớp nhoáng không kịp bịt tai, bọn
ngông cuồng giảo quyệt kia ắt chẳng còn thì giờ để mưu tính. Hai xứ Thanh, Nghệ
nghe tin, chắc cũng sẽ hưởng ứng. Nguyễn Huệ bị ngăn cách ở phía nam Hoành Sơn.
Sở và Lân chơ vơ ở đấy, hình thế cách trở, không liên lạc được với nhau; không
ngoài mười ngày ta có thể bắt được bọn chúng. Vây cánh của chúng đã bị cắt đứt
thì sào huyệt của chúng cũng có thể lần lượt bị san bằng. Thần ngu dại cho rằng
cái cơ trung hưng chính là ở lúc này, không thể bỏ qua".
Tờ sớ ấy
đưa tới, vua trao cho bọn Nguyễn Đình Giản xem, ai cũng cho là phải. Riêng Lê
Quýnh chống lại mà rằng:
- Sức
mình không địch nổi, mới phải cầu cứu. Hành doanh quan đốc bộ còn ở đây, việc
quân mình không bẩm trước, lại tự tiện mà làm, việc xong thì thôi, vạn nhất bị
vấp ngã, họ sẽ đổ cho ta làm lỡ quân cơ, rồi rút quân về cửa ải, ngồi xem mình
làm; như vậy việc lớn sẽ hỏng mất. Chi bằng để thần đến trình bày trước, xin họ
chỉ bảo phương lược và hợp sức với mình, như thế là được cả hai việc.
Vua cho là
phải. Quýnh bèn đến dinh Nghị, nói về việc đó.
Nghị trả
lời:
- Việc
gì mà phải vội vã như vậy? Ví như thò tay lấy đồ vật ở trong túi, đến sớm lấy
sớm, đến muộn lấy muộn đó mà thôi. Bây giờ đã sắp hết năm, đại quân xa xôi tới
đây, cần phải nghỉ ngơi, không nên đánh vội. Giặc gầy mà ta đang béo, hãy để
chúng tự đến nộp thịt. Nhưng, nếu nước ngươi đã có lời xin như thế, thì hãy nên
tính tự đô thành về nam chứng sáu chục dặm, chia làm ba nơi mà đóng quân; đó
chính cũng là cách canh gác từ xa để đề phòng bất trắc vậy. Còn đối với bọn
giặc, thì các ngươi cứ chờ đến đầu năm mới ta sẽ cho trẩy quân tiến đánh cũng
chưa muộn!
Sau đó,
Nghị sai đắp luỹ đất, một ở bờ bắc sông Nguyệt Quyết, huyện Thanh Liêm, một ở
làng Nhật Tảo huyện Duy Tiên, một ở làng Ngọc Hồi, huyện Thanh Trì rồi chia
quân ra mà đóng giữ.
Từ bấy
giờ trở đi, vua Lê chỉ lấy Nghị làm chỗ dựa vững chắc nhất. Còn các quan thì
cũng không ai nói năng gì đến chuyện xuất quân phục thù nữa.
Lê Quýnh
suốt ngày say mê tửu sắc; ân oán riêng dù bằng cái tơ, sợi tóc cũng đều đền báo
không hề sót. Quýnh lại còn xui vua rằng:
- Trước
đây lúc nhà vua gặp nạn, hoàng thân và bọn quan trong triều, nhiều kẻ lấy tai
hoạ làm điều may mắn, vui mừng, khai hết tình hình với giặc, cam tâm làm chó
săn, chim mồi cho chúng để mưu đồ giàu sang, ngược đạo lý, trái nhân nghĩa,
không gì hơn thế. Thần xin được trị tội bọn đó, để thiên hạ biết rằng danh phận
cương thường không thể rối loạn. Đó cũng là việc cần kíp, không nên dung túng
bỏ qua, khiến cho kẻ ác, người thiện không có gì phân biệt.
Vua cho
là phải, bèn giao cho các quan đình thần họp bàn.
Mọi
người đều tâu, năm ngoái thượng thư bộ Hình kiêm bình chương Trần Côn Xán đi xứ
Tây Sơn, vì không chịu khuất phục, bị địch giết hại, thật là đáng thương; xin
cho quan về tế tại nhà và thăm viếng các người con. Vua nghe lời, bèn tự tay
thảo bài văn tế, trong có câu: "Tiết lớn nghiêng non lật biển, cùng sương
thu nắng lửa tranh hơn; lòng son yêu nước trung vua, gặp đốt rắn rễ chùm càng
tỏ". Lại bàn sang đến tội của bọn phản nước theo Tây Sơn: Lúc vua đi trốn,
trấn thủ Tuyên Quang là Phạm Như toại bắt em vua là Duy Tụ đem nộp cho địch;
phò mã uý Nguyễn Bành dẫn quân địch đuổi tìm chỗ vua ở; theo luật phải tội chém
ngang lưng; Ngô Thì Nhậm, Phan Huy ích đem thân theo địch, lại nhận chức tước
của chúng, đều truất làm dân, về làng gánh vác sai dịch; Nguyễn Hoàn, Phan Lê
Phiên quì gối ở sân địch; Trương Đăng Quĩ đi theo xe vua, giữa đường bỏ dở, đều
bị giáng làm chức tư huấn; Nguyễn Quí Nha, Trần Bá Lãm, Vũ Huy Tấn, viết thư
mạo xưng là giám quốc Sùng nhượng công, để mong xin hoãn binh cho địch, đều bị
hạ ngục; Nguyễn Bá Khoan vì là kẻ võ biền, lại già nua, dốt nát không biết gì,
nên được miễn tội.
Bấy giờ
Quýnh nghe nói Nha mới ở Cao Bằng về, vàng bạc đầy xe, bèn sai người đòi lấy
hai chục lạng vàng, rồi nói rõ cho vua biết. Vua cười mà bảo rằng:
- Bớt
chỗ nhiều để bù chỗ ít, mặc ngươi làm chi thì làm, không hề gì!
Ngoài
ra, có ba người chú vua liên lạc với Tây Sơn, lại gả con gái cho họ, đều bị vua
ngầm sai người bắt đem chặt chân, rồi vất xuống cái giếng ở trong cung (theo
Cương mục thì Chiêu Thống còn sai mổ bụng cả một tôn nữ đang có mang, vì người
con gái này đã lấy viên tướng Tây Sơn. Do đó, lòng người dần dần ngờ vực, không
nhất trí).
Kịp khi
ấy, thái hậu ở Cao Bằng về, vừa tới kinh, thấy vua chỉ thích làm những việc báo
ân báo oán trái với phép thường như vậy, bèn nổi giận nói:
- Ta
phải trèo đèo lội suối khó nhọc vất vả, mới xin được quân sang đây. . . Phỏng
chừng nhà nước chịu được mấy phen ơn, thù phá hoại như thế? Nếu cứ cách ấy mà
làm thì trị sao được thiên hạ? Gái già này lại đến làm đứa lưu vong mất thôi!
Rồi thái
hậu gào khóc, không chịu vào cung.
Vua bèn
ngầm sai Nguyễn Huy Túc khuyên giải thái hậu. Túc vào thưa với thái hậu rằng:
- Ngước
trông đức hiếu sinh của thái hậu như là trời đất, cố nhiên phải lấy thế làm lạ.
Nhưng hình phạt là phép lớn của nước, cho nên Chu công phải giết Quản, Thái;
nước Lỗ phải đánh thuốc độc giết chết Thúc Nha (Quản Thúc, Thái Thúc là em Chu
công, định giúp Võ Canh là con vua Trụ nổi loạn. Chu công liền đem giết Quản
Thúc và đày Thái Thúc. Thúc Nha là bà con của vua nước Lỗ, có tội phải chạy ra
nước ngoài, sau định xin tha tội để trở về nước, nhưng người nước Lỗ không
nghe, bắt uống thuốc độc chết). Người xưa cũng không vì chỗ họ hàng hay quen
biết mà bỏ pháp luật. Mong rằng lượng trên khoan hồng, để cho hoàng thượng được
làm việc nước thì thật là vạn phúc!
Thái hậu
nể Túc có công lớn theo hầu khi mình đi trốn, không nỡ trái lời Túc, đành gắng
gượng nghe theo, song thật ra trong bụng vẫn không cho là phải. Thái hậu bèn
vào cung.
Lúc bấy
giờ là tháng mười hai, sắp đến ngày tết Nguyên đán. Quan coi lễ tâu xin đến
ngày 25 thì phong ấn cất đi (cuối năm làm lễ cất ấn (hạp ấn) để nghỉ việc ăn
tết). Các lễ trong miếu xã, triều đình đều chiếu theo lệ thường mà làm. Riêng
quan đại soái của thiên triều ở xa xôi tới, thì về phần vật phẩm cung đốn, xin
theo như lệ thết đãi sứ thần sang phong vương mà thêm gấp lên một lần nữa. Các
quan và quân lính cũng đều cho phép nghỉ mười ngày, để cùng vui đón tiết xuân.
Thật là:
Én sẻ
trên nhà còn hớn hở
Đà đồng
trong bụi chẳng lo âu
Chưa
biết việc tới ra sao? Chờ xem hồi sau phân giải.
Sách
Khổng tùng tử chép: Chim én chim sẻ ở trên nóc nhà, mẹ mớm cho con ăn mà không
biết rằng nhà sắp cháy. Đời Tấn, có Sách Tĩnh thấy con lạc đà bằng đồng để ở
cửa cung điện, liền đe rằng: "Mày sắp phải vứt vào bụi gai". ý nói
đời sắp loạn lạc. Đây ám chỉ bọn Sĩ Nghị, Chiêu Thống như đang ngồi trên đống
lửa, tai hoạ sắp đến mà vẫn nhởn nhơ không biết gì cả.
Chương 14 : Đánh Ngọc Hồi, quân Thanh bị thua
trận, Bỏ Thăng Long, Chiêu Thống trốn ra ngoài
Lại nói, Tôn Sĩ Nghị sau khi đem quân ra cửa
ải, xuyên rừng vượt núi, như giẫm đất bằng; ngày đi đêm nghỉ, không phải lo
lắng gì, kéo thẳng một mạch đến thành Thăng Long, không mất một mũi tên, như
vào chỗ không người. Từ xưa, các nhà cầm quân chưa có khi nào được dễ dàng như
thế. Cho nên y xem thường, cho là vô sự, không cần phải đề phòng. Rồi đó, y lại
càng thêm kiêu căng, buông tuồng, mặc cho quân lính các đồn tự tiện bỏ cả đội
ngũ, đi lại lang thang, không còn có kỷ luật gì cả. Có kẻ đi ra khỏi thành đến
hơn mười dặm, để kiếm củi đun, có kẻ đi tới các chợ búa dân gian để buôn bán,
hàng ngày sớm đi tối về xem như việc bình thường. Bọn tướng tá cũng ngày ngày
chơi bời tiệc tùng, không hề để ý gì đến việc quân. Hễ ai nhắc đến tình hình
giặc giã thì bọn họ đáp rằng: "Chúng nó như cá chậu chim lồng, còn chút
hơi thừa thoi thóp, không đáng nói đến. Vâng lệnh của quan lớn đốc bộ, định đến
ngày mùng 6 tháng giêng, nhân dịp đầu xuân sẽ xuất quân kéo thẳng đến sào huyệt
của quân Tây Sơn. Bọn giặc ấy nhất định sẽ lần lượt bị bắt sống không một tên
nào lọt lưới. Người Nam Hà sẽ đến mà xem!".
Thế là
người trong nước, kể cả các viên quan đã từng trốn tránh hồi xưa mà bấy giờ đã
được thấy lại bóng mặt trời, ai nấy mới đều yên tâm vui mừng về cuộc sum họp
trước mắt. Rồi họ dựa vào tổng đốc họ Tôn làm bức trường thành, không còn nghĩ
gì đến việc cung khuyết bị tàn hoang, không còn lo gì đến việc kẻ địch đang ở
nơi cửa ngõ; võ lặng, văn im, thảy đều bệ trễ.
Vừa lúc
ấy, có người cung nhân cũ từ phủ Trường Yên tới, nói với thái hậu rằng:
- Xe vua
trở về kinh thành, đã gần một tháng. Hiệu lệnh ban ra, chẳng qua mới đến các
vùng ứng Hoà, Thường Tín, Từ Sơn, Thuận Thành, Quảng Oai, năm lộ mà thôi. Còn
như từ Trường Yên về nam, Thanh Hoa là đất căn bản, lăng tẩm tiền triều ở đó,
Nghệ An cũng là quận chân tay, quân cấm và quân túc trực đều lấy người ở đấy,
thì nay vẫn bị mất về tay giặc, tin tức không thông, đó thật là điều đáng lo
rất lớn. Hiện nay, việc nước hư thực thế nào, thế giặc mạnh yếu ra sao, những
người đứng ngoài mà xem, không ai không biết. Trước đây, hoàng thượng gặp nạn
phải chạy, các quan trèo đèo vượt suối, khó nhọc vất vả đã hơn một năm, bao
nhiêu nhân tình chắc đã từng trải hết rồi, sao vẫn điềm nhiên không lo nghĩ gì
cả? Tổng đốc họ Tôn từ thượng quốc tới đây, thế nước và tình hình của giặc chỉ
biết đại khái. Đến như các miền, cũng có nơi xung yếu, noi bình thường, chia
đồn và mai phục, cần phải trù tính kỹ càng. Việc binh có lúc nên đánh, lúc nên
giữ, phải tuỳ cơ ứng biến trong chốc lát. Tất cả những điều ấy, họ làm sao mà
hiểu được rõ ràng, đích xác? Vả chăng, khi trước Lê Quýnh khai báo ở bên ấy,
nói rằng: "Nhiều nơi trong nước ta không chịu theo giặc, người chuộng
nghĩa còn nhiều, lòng người cũng có thể trông cậy, nếu được đại binh sang làm
thanh viện thì công việc khôi phục có thể thành. . .". Đó chỉ là một cách
nói, để tổng đốc họ Tôn không cho việc ấy là khó. Quýnh vì muốn chóng được quân
sang cứu, cho nên mới bịa ra lời nói hão để lừa dối họ. Họ cũng tưởng là thật,
hăng hái tiến lên, không còn lo nghĩ gì về sau. Cứ xem lời lẽ trong bài hịch,
thì những điều họ bắt buộc mình phải đương lấy, rất là nặng nề; còn họ thì chỉ
lảng vảng ở bên bờ sông, lấy thanh thế suông để doạ dẫm mà thôi. Không biết
rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân.
Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỉ thần, không ai có thể lường biết. Hắn
bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn, không một người
nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt, là ai nấy đã phách
lạc hồn xiêu, sợ hơn sợ sấm sét. E rằng chẳng mấy lâu nữa, hắn lại trở ra, tổng
đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà kia mà chống chọi, thì địch sao cho nổi? Họ
chẳng qua chỉ là người khách, chuyến này sang cũng cốt xem sự thế khó hay dễ để
liệu bề tiến lui mà thôi. Nhưng còn nhà nước của ta thì sao? Thái hậu có thể
chạy sang đất Trung Hoa một chuyến nữa chăng?
Thái hậu
giật mình nói:
- Đó chính
là tâm sự của gái già này, vẫn ngày đêm lo lắng mà chưa biết làm thế nào?
Rồi nhân
tiện, thái hậu đem việc đó nói lại với vua. Bấy giờ nhà vua mới hoảng sợ, liền
cùng bọn Quýnh đến doanh quân của Nghị tha thiết xin xuất quân. Nghị gọi Quýnh
đến mà căn vặn rằng:
- Người
nước mày nay quả thật không thể trông cậy được, thế thì lời cung khai của mày
trước đây ra sao? Dám lừa dối ta chăng?
Rồi Nghị
ngoảnh sang bảo vua:
- Tự
vương trẻ tuổi, chưa từng trải công việc, trước đây tới đón chào ta ở Lạng Sơn,
sao không nói cho rõ? Bấy giờ, nhân khi ta thắng, đè bẹp ngay lúc chúng đang
khốn đốn, há chẳng dễ dàng hơn hay sao? Nay đã bỏ lỡ cơ hội ấy, để chúng có thì
giờ thong thả mà bày mưu đặt chước, cách trị chúng cần phải tính toán cho chu
đáo, không thể hấp tấp. Vả lại, đã định đến sang xuân, vào ngày mùng sáu thì sẽ
xuất quân, như vậy cũng không còn xa gì nữa. Nếu muốn đi gấp thì cho phép vua
tôi nhà ngươi đem một đạo quân đi trước cũng được.
Vua lui
ra bảo với Quýnh rằng:
- Ngươi
từng dốc lòng với ta, việc nước cũng đã được quá nửa rồi. Vậy nay hãy cố gắng
làm cho tròn công trạng trước, đừng để người trong nước có thể bàn tán về ta,
và thiên triều có chỗ quở trách được ta.
Lại nói,
Lê Quýnh là người làng Đại Mão, huyện Siêu Loại (nay là huyện Thuận Thành, Hà
Bắc) vốn là một tay phong lưu công tử, con trai của tiến sĩ triều Lê là Lê Doãn
Giản. Khi tuổi trẻ, Quýnh chỉ biết uống rượu, đánh bạc, việc văn việc võ đều
chưa hề luyện tập qua. Trước kia vì là con nhà quí tộc thân cận, nên được vào
làm gia thần nhà vua. Đến khi quân Tây Sơn tới xâm lấn, kinh thành thất thủ.
Quýnh vâng mệnh vua theo hầu thái hậu lên Cao Bằng, rồi bị quân giặc đuổi bắt,
phải chạy sang Trung Quốc. Vì Quýnh hơi biết chữ nghĩa, cho nên khi chuyện trò
với người Thanh, thường bịa ra nhiều câu khoác lác. Tôn Sĩ Nghị cũng không xét
đến chỗ đó, đem lời tâu lên, vua Thanh ưng thuận. Thế rồi may được khôi phục
lại nước nhà. Quýnh tự cho là công lao của mình. Sau khi về thành Thăng Long,
Quýnh chỉ lo đền ơn trả oán và công nhiên ăn của đút lót. Những tay hào kiệt
trong nước đều không ưa Quýnh. Vua cho là Quýnh có công, giao cho cầm quân.
Nhưng Quýnh, mắt còn choáng lộn bóng tinh kỳ, tai chưa nghe quen tiếng chiêng
trống, nói gì đến chuyện sắp đặt việc binh bị? Quýnh bèn mượn cớ không muốn xa
rời cạnh vua, xin vua truyền cho viên trấn thủ Sơn Tây đem quân bản bộ đóng
trước ở Giản Khẩu, để chặn đường ra của quân Tây Sơn. Đó là Quýnh cốt cho mình
khỏi phải ra trận; còn việc chinh chiến được hay thua, nước nhà còn hay mất,
Quýnh chẳng cần biết đến làm gì.
Nhắc
lại, Ngô Văn Sở sau khi đem các đạo quân rút lui, tức tốc sai Nguyễn Văn Tuyết
chạy trạm vào Nam cáo cấp. Một mặt chặn ngang đất Trường Yên làm giới hạn, đóng
thuỷ quân ở hải phận Biện Sơn, quân bộ thì chia giữ vùng núi Tam Điệp, hai mặt
thuỷ bộ liên lạc với nhau, ngăn hẳn miền Nam với miền Bắc. Vì thế, việc ở bốn
trấn đường ngoài không hề thấu đến hai xứ Thanh, Nghệ. Vì vậy việc quân Thanh
đến Thăng Long và việc vua Lê thụ phong ngày 22 tháng 11, từ Thanh Hoa trở vào,
không một người nào được biết. Ngày 20 tháng ấy, Sở lui về Tam Điệp, thì ngày
24 Tuyết đã vào đến thành Phú Xuân. Bắc bình vương tiếp được tin báo, giận lắm,
liền họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay. Nhưng các người đến
họp đều nói:
- Chúa
công với vua Tây Sơn có sự hiềm khích, đối với ngôi chí tôn, lòng tôn phò của
mọi người chưa thật vững bền, nay nghe quân Thanh sang đánh, càng dễ sinh ra
ngờ vực hai lòng. Vậy xin trước hết hãy chính vị hiệu, ban lệnh ân xá khắp
trong ngoài, để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người rồi sau sẽ cất quân ra
đánh dẹp cõi Bắc cũng chưa là muộn.
Bắc bình
vương lấy làm phải, bèn cho đắp đàn ở trên núi Bân (ở địa phận xã An Cựu, huyện
Hương Trà, Thừa Thiên (Bình Trị Thiên)), tế cáo trời đất cùng các thần sông,
thần núi; chế ra áo cổn mũ miện, lên ngôi hoàng đế, đổi năm thứ 11 niên hiệu
Thái Đức của vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc làm năm đầu niên hiệu Quang Trung. Lễ
xong, hạ lệnh xuất quân, hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng chạp năm Mậu thân
(1788).
Vua
Quang Trung tự mình đốc suất đại binh, cả thuỷ lẫn bộ cùng ra đi. Ngày 29 đến
Nghệ An, vua Quang Trung cho vời người cống sĩ ở huyện La Sơn là Nguyễn Thiếp
vào dinh và hỏi:
- Quân
Thanh sang đánh, tôi sắp đem binh ra chống cự. Mưu đánh và giữ, cơ được hay
thua, tiên sinh nghĩ như thế nào?
Thiếp
nói:
- Bây
giờ trong nước trống không, lòng người tan rã. Quân Thanh ở xa tới đây, không
biết tình hình quân ta yếu hay mạnh, không hiểu rõ thế nên đánh nên giữ ra sao.
Chúa công đi ra chuyến này, không quá mười ngày, giặc Thanh sẽ bị dẹp tan.
Vua
Quang Trung mừng lắm, liền sai đại tướng là Hám hổ hầu kén lính ở Nghệ An, cứ
ba suất đinh thì lấy một người, chưa mấy lúc, đã được hơn một vạn quân tinh
nhuệ. Rồi nhà vua cho mở cuộc duyệt binh lớn ở doanh trấn, đem số thân quân ở
Thuận Hoá, Quảng Nam chia làm bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu, còn số lính mới
tuyển ở Nghệ An thì làm trung quân.
Vua
Quang Trung cưỡi voi ra doanh yên uỷ quân lính, truyền cho tất cả đều ngồi mà
nghe lệnh, rồi dụ họ rằng:
- Quân
Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong
khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam phương Bắc
(chỉ đất Trung Quốc) chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi
giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp
bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi,
ai cũng muốn đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng nữ vương, đời Tống có Đinh Tiên
Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ; các
ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy
nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc. ở
các thời ấy, Bắc, Nam riêng phận, bờ cõi lặng yên, các vua truyền ngôi lâu dài.
Từ đời nhà Đinh tới đây, dân ta không đến nỗi khổ như hồi nội thuộc xưa kia.
Mọi việc lợi, hại, được, mất ấy, đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại
trước. Nay người người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta đặt làm quận
huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa. Vì vậy ta phải
kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri lương năng,
hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn. Chớ có quen theo thói
cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc,
không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!
Các quân
lính đều nói: "Xin vâng lệnh, không dám hai lòng!".
Hôm sau,
vua Quang Trung hạ lệnh tiến quân. Các quân đều nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi. Khi
đến núi Tam Điệp, Sở và Lân ra đón, đều mang gươm trên lưng mà xin chịu tội.
Vua
Quang Trung nói:
- Các
ngươi đem thân thờ ta, đã làm đến chức tướng soái. Ta giao cho toàn hạt cả 11
thừa tuyên (từ thời Lê Hồng Đức, các trấn ở Bắc Hà đều gọi là "thừa
tuyên"), lại cho tuỳ tiện làm việc. Vậy mà giặc đến không đánh nổi một
trận, mới nghe tiếng đã chạy trước. Binh pháp dạy rằng: "Quân thua chém
tướng". Tội của các ngươi đều đáng chết một vạn lần. Song ta nghĩ các
ngươi đều là hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến như việc tuỳ cơ ứng
biến thì không có tài. Cho nên, ta để Ngô Thì Nhậm ở lại đấy làm việc với các
ngươi, chính là lo về điều đó. Bắc Hà mới yên, lòng người chưa phục, Thăng Long
lại là nơi bị đánh cả bốn mặt, không có sông núi để nương tựa. Năm trước ta ra
đánh đất ấy, chúa Trịnh quả nhiên không thể chống nổi, đó là chứng cớ rõ ràng.
Các ngươi đóng quân trơ trọi ở đấy, quân Thanh kéo sang, người trong kinh kỳ
làm nội ứng cho chúng, thì các người làm sao mà cử động được? Các ngươi đã biết
nín nhịn để tránh mũi nhọn của chúng, chia ra chặn giữ các nơi hiểm yếu, bên
trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng, kế ấy là
rất đúng. Khi mới nghe nói, ta đã đoán là do Ngô Thì Nhậm chủ mưu, sau hỏi Văn
Tuyết thì quả đúng như vậy. . .
Thì Nhậm
bèn lạy hai lạy để tạ ơn. Vua Quang Trung lại nói:
Lần này
ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi
ngày, có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước
mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì
việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như
vậy. Đến lúc ấy, chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao, không phải
Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được. Chờ mười năm nữa, cho ta được yên ổn mà
nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng?
Bọn Sở,
Lân đều lạy tạ và nói:
- Chúa
thượng thật là lo xa, chúng tôi ngu dại không thể nghĩ tới chỗ đó. Hiện nay
phương lược tiến đánh ra sao, xin chúa thượng nhất nhất chỉ rõ để chúng tôi
tuân theo mà làm.
Vua
Quang Trung bèn sai mở tiệc khao quân, chia quân sĩ ra làm năm đạo, hôm đó là
ngày 30 tháng chạp. Rồi nhà vua bảo kín với các tướng rằng:
- Ta với
các ngươi hãy tạm sửa lễ cúng Tết trước đã. Đến tối 30 Tết lập tức lên đường,
hẹn đến ngày mồng 7 năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Các ngươi
nhớ lấy, đừng cho là ta nói khoác!
Sau đó
nhà vua truyền lệnh: Các viên tướng ở trung quân thuộc về doanh vua sai phái là
đại tư mã Sở; nội hầu Lân đốc suất tiền quân làm tiên phong; Hám hổ hầu đốc
suất hậu quân làm đốc chiến; đại đô đốc Lộc, đô đốc Tuyết đốc suất tả quân,
trong đó gồm có thuỷ quân vượt biển vào sông Lục Đầu; rồi Tuyết vẫn kinh lý
vùng Hải Dương để tiếp ứng với mặt đông; còn Lộc thì đi gấp lên các hạt Lạng
Sơn, Phượng Nhãn, Yên Thế để chặn đường về của quân Thanh; đại đô đốc Bảo, đô
đốc Long đốc suất hữu quân, trong đó gồm quân voi và quân kỵ mã; Long xuyên qua
huyện Chương Đức, theo đường đến thẳng làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì để đánh
ngang vào đồn quân Điền Châu; Bảo thì thống đốc quân voi ngựa do đường Sơn Minh
ra làng Đại áng huyện Thanh Trì để tiếp ứng cho cánh hữu.
Cả năm
đạo quân đều lạy vâng mệnh lệnh, đúng ngày, gióng trống lên đường ra Bắc (theo
Cương mục thì trước khi tiến quân ra Bắc, vua Quang Trung có viết thư cho Sĩ
Nghị vờ xin đầu hàng để khiêu gợi lòng kiêu căng, khinh địch của Nghị. Theo Lê
triều dã sử, khi tiến quân ra Thăng Long vua Quang Trung bày cho quân lính cứ
ba người một tốp thay phiên võng nhau đi, thành ra quân trẩy đi liên miên không
phải dừng mà ai nấy đều lần lượt được nghỉ. Do đó, quân Tây Sơn đã hành binh
cực kỳ thần tốc).
Khi quân
ra đến sông Gián, nghĩa binh trấn thủ ở đó tan vỡ chạy trước. Lúc đến sông
Thanh Quyết, toán quân Thanh đi do thám từ đằng xa trông thấy bóng cũng chạy
nốt. Vua Quang Trung liền thúc quân đuổi theo, tới huyện Phú Xuyên thì bắt sống
được hết, không để tên nào trốn thoát. Bởi vậy, không hề có ai chạy về báo tin,
nên những đạo quân Thanh đóng ở Hà Hồi và Ngọc Hồi (thuộc Thường Tín (nay thuộc
tỉnh Hà Sơn Bình) và Thanh Trì (nay thuộc thành phố Hà Nội)) đều không biết gì
cả.
Nửa đêm
ngày mồng 3 tháng giêng, năm Kỷ Dậu (1789), vua Quang Trung tới làng Hà Hồi,
huyện Thượng Phúc, lặng lẽ vây kín làng ấy, rồi bắc loa truyền gọi, tiếng quân
lính luân phiên nhau dạ ran để hưởng ứng, nghe như có hơn vài vạn người. Trong
đồn lúc ấy mới biết, ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực khí
giới đều bị quân Nam lấy hết.
Vua
Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một bức,
bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là hai mươi bức. Đoạn kén hạng lính
khoẻ mạnh, cứ mười người khênh một bức, lưng giắt dao ngắn; hai mươi người khác
đều cầm binh khí theo sau, dàn thành trận chữ "nhất"; vua Quang Trung
cưỡi voi đi đốc thúc, mờ sáng ngày mồng 5 tiến sát đồn Ngọc Hồi (theo Dã sử,
thì lúc này vua Quang Trung sai đốt hết lương thực và tự mình quấn khăn vàng
vào cổ để tỏ ý quyết chiến quyết thắng, không chịu lùi). Quân Thanh nổ súng bắn
ra, chẳng trúng người nào cả. Nhân có gió bắc, quân Thanh bèn dùng ống phun
khói lửa ra, khói toả mù trời, cách gang tấc không thấy gì, hòng làm cho quân
Nam rối loạn. Không ngờ trong chốc lát trời bỗng trở gió nam, thành ra quân
Thanh lại tự làm hại mình.
Vua
Quang Trung liền gấp rút sai đội khiêng ván vừa che vừa xông thẳng lên trước.
Khi gươm giáo của hai bên đã chạm nhau thì quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao
ngắn chém bừa; những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới mà đánh.
Quân
Thanh chống không nổi, bỏ chạy tán loạn, giày xéo lên nhau mà chết. Tên Thái
thú Điền Châu là Sầm Nghi Đống tự thắt cổ chết (Cương mục ghi Sầm Nghi Đống
thắt cổ chết ở Loa Sơn (tục gọi gò Đống Đa). Theo Bang giao lục, trong chiến
dịch mùa xuân Kỷ Dậu, số quân Thanh bị chết là 27 vạn). Quân Tây Sơn thừa thế
chém giết lung tung, thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối, quân Thanh đại
bại.
Trước
đó, vua Quang Trung đã sai một toán quân theo bờ đê Yên Duyên kéo lên, mở cờ
gióng trống để làm nghi binh ở phía đông. Đến lúc ấy, quân Thanh chạy về trông
thấy, càng thêm hoảng sợ, bèn tìm lối tắt theo đường Vịnh Kiều mà trốn. Chợt
lại thấy quân voi từ Đại áng tới, quân Thanh đều hết hồn hết vía, vội trốn
xuống đầm mực, làng Quỳnh Đô (thuộc Thanh Trì, Hà Nội), quân Tây Sơn lùa voi
giày đạp, chết đến hàng vạn người.
Giữa
trưa hôm ấy vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long, rồi kéo vào thành (có
sách chép khi Quang Trung vào Thăng Long, chiếc chiến bào màu đỏ đã bị nhuộm
đen vì khói thuốc súng).
Nguyên
trước đó, đô đốc Long đốc suất hữu quân đã đem binh đến đóng ở làng Nhân Mục
huyện Thanh Trì. Lúc vua Quang Trung đang đánh với quân Thanh ở Ngọc Hồi, thì
sáng hôm ấy Long đã đánh tên thái thú Điền Châu ở trại Khương Thượng thuộc
huyện Quảng Đức (trại Khương Thượng tức làng Khương Thượng nay thuộc thành phố
Hà Nội). Quân Thanh tan vỡ bỏ chạy, Long liền tiến trước vào thành.
Lại nói,
Tôn Sĩ Nghị và vua Lê ở thành Thăng Long, tuyệt nhiên không nghe tin cấp báo gì
cả cho nên trong ngày Tết mọi người chỉ chăm chú vào việc yến tiệc vui mừng,
không hề lo chi đến việc bất trắc. Nào hay cuộc vui chưa tàn, cơ trời đã đổi.
Ngày mồng 4 bỗng thấy quân ở đồn Ngọc Hồi chạy về cáo cấp. Thật là: "Tướng
ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên". Bọn ấy lại nói:
- Quan
quân ở đồn Hà Hồi đều bị quân Tây Sơn đánh úp bắt hết cả. ở đây cách đồn Ngọc
Hồi không xa, sớm chiều thế nào cũng bị đánh tới.
Tôn Sĩ
Nghị hoảng hốt sợ hãi, lập tức sai lãnh binh Quảng Tây là Thang Hùng Nghiệp dẫn
viên hàng tướng Tây Sơn là Phan Khải Đức đem nghĩa binh tới cứu; lại sai hai
mươi lính kỵ mã ở dưới trướng của mình cùng đi với Nghiệp, và dặn họ rằng:
- Trong
khoảng chốc lát, phải tiếp tục báo tin về ngay.
ý của
Nghị chỉ lo có một mặt đó, không ngờ lại có mặt khác ập tới. Canh tư đêm ấy,
chợt nghe ở phía tây bắc thành tiếng súng nổ đùng đùng không ngớt. Nghị vội sai
người cưỡi ngựa ra xem, thì nghe báo tin đồn quân Điền Châu tan vỡ, quân Tây
Sơn đã vào cửa ô, đốt giết lung tung, khói lửa bốc lên đầy trời rồi.
Tôn Sĩ
Nghị sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn
lính kỵ mã của mình chuồn trước qua cầu phao, rồi nhằm hướng bắc mà chạy. Quân
sĩ các doanh nghe tin, đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang
sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân
lính đều rơi xuống nước, đến nỗi nước sông Nhĩ Hà vì thế mà tắc nghẽn không
chảy được nữa (có sách chép, đạo quân Vân-Qui lúc này mới kéo sang đến Sơn Tây,
nghe tin Nghị thua chạy, nên cũng vội vàng tìm đường tháo lui về).
Vua Lê ở
trong điện, nghe tin có việc biến ấy, vội vã cùng bọn Lê Quýnh, Trịnh Hiến đưa
thái hậu ra ngoài. Cả bọn chạy đến bến sông thì thấy cầu phao đã đứt, thuyền bè
cũng không, bèn gấp rút chạy đến Nghi Tàm thình lình gặp được chiếc thuyền đánh
cá, vội cướp lấy rồi chèo sang bờ bắc. Trưa ngày mồng 6 vua Lê và những người
tuỳ tòng chạy đến núi Tam Tằng, nghe nói Tôn Sĩ Nghị đã đi khỏi đó. Bấy giờ
quân Thanh chạy về nước, trên đường đông nghịt như chợ, đêm ngày đi gấp, không
dám nghỉ ngơi. Vua đưa thái hậu cùng đi với họ đến đồn Hoà Lạc thì gặp một
người thổ hào. Hồi trước vua Lê chạy ra ngoài, người ấy đã được biết mặt; lúc
đó thấy vua, người ấy bất giác lệ rơi, nhân tiện mời vua vào trại trong núi tạm
nghỉ. Bấy giờ, vua Lê và những người tuỳ tòng luôn mấy ngày không ăn, ai nấy
đều đã mệt lử. Người thổ hào kia liền giết gà làm cơm thết đãi. Vua sai bưng
một mâm lên mời thái hậu; còn mình thì cùng ăn với bọn Quýnh, Hiến ở mâm dưới.
Ăn vừa
xong, chợt nghe tin quân Tây Sơn đã đuổi theo đến nơi. Vua cuống quít bảo người
thổ hào rằng:
- Muôn
đội hậu tình, không có gì để báo đáp, chỉ có trời cao đất dày chứng dám tấc
lòng thành của ông mà ban phúc cho thôi. Bây giờ quân giặc gần tới, trước mắt
đây có con đường sống nào có thể chạy gấp lên cửa ải, xin tính kế ngay cho.
Người
thổ hào vội vã sai con đưa đường, theo lối tắt trong núi mà đi. Trời nhá nhem
tối thì nhà vua đến cửa ải, theo kịp chỗ nghỉ của Tôn Sĩ Nghị. Một lát các viên
quan khác cũng lục tục theo đến, cùng nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước
mắt. Tôn Sĩ Nghị cũng lấy làm xấu hổ.
Nhân
tiện, vua từ giã Sĩ Nghị và nói:
- Cô
(lối xưng nhún mình của các vua chúa đời xưa) không có tài, chẳng giữ nổi xã
tắc. Đội ơn tướng quân vâng chỉ của hoàng đế sang cứu viện; nào ngờ lòng trời
không giúp nước nhỏ, nay ngài lại bỏ mà đi. Kính chúc tướng quân về triều được
hai chữ "vạn phúc", Cô xin ở lại đất nước, thu nhặt dân binh, để tính
việc nổi lên chuyến khác. Xa nhờ oai linh, may được nên việc, đều là ơn của
tướng quân ban cho. Nếu như sự thế không xong, lại xin sang hầu tướng quân, như
thế cho tiện.
Nghị
nói:
- Nguyễn
Quang Trung chưa diệt, việc này còn chưa thôi. Nay hãy dâng biểu tâu lên xin
quân, không đầy một tháng, đại binh sẽ lại tới. Chỗ này gần kề đảng giặc, ở lại
không tiện, hãy tạm vào Nam Ninh nghỉ ngơi để chờ thánh chỉ cũng được.
Vua Lê
nghe lời. Nghị bèn cùng bọn tướng tá thu nhặt tàn quân kéo về.
Vua lại
sai bọn Quýnh, Hiến ở lại để ngầm chiêu dụ những người trung nghĩa ở trong
nước. Còn vua thì cùng viên phụ đạo (tên gọi chức tù trưởng ở ngoại phiên) Cao
Bằng là Địch quận công Hoàng ích Hiểu, viên trấn thủ Kinh Bắc người làng Nộn
Liễu huyện Nam Đường là Lê Hân, viên đề lĩnh bốn thành người huyện Thư Trì,
trấn Sơn Nam là Phạm Như Tùng viên phó đề lĩnh người làng Thanh Tuyền, huyện
Nam Đường là Nguyễn Viết Triệu, viên thư tri công lượng chính người làng Nghĩa
Động, huyện Nam Đường là Lê Văn Trương, viên hiệp lý quân vụ, người làng Quỳnh
Côi, huyện Nam Đường là Phạm Trần Thiệu, người bà con bên vợ ở làng Tỳ Bà,
huyện Lang Tài là Nguyễn Quốc Đống, viên chưởng tứ bảo người làng Đồng Bảng
trấn Thanh Hoa là Lê Quý Thích, cùng đưa thái hậu theo Nghị sang Trung Quốc.
Thực là:
Bờ cõi
chưa xong bề tính liệu,
Nước non
buồn nỗi lúc chia ly.
Chưa
biết việc ấy ra sao! Hãy chờ hồi sau phân giải.
Chương 15 : Dẹp yên cõi Bắc, Nguyễn Huệ được
phong, Đánh phá Cao Bằng, Duy Chỉ bị hại
Lại nói, khi Tôn Sĩ Nghị chạy trốn về nước,
trong lúc vội vàng, không kịp thu nhặt đồ đạc. Đến khi tới huyện Phượng Nhãn
lại nghe nói tướng Tây Sơn là Đắc lộc hầu đem quân từ mặt đông kéo lên chặn
đường, đã gần tới nơi, Nghị lại bị một phen khủng khiếp, các vật cần thiết mang
theo, đều phải vứt bừa ra giữa đường để mong chạy thoát lấy thân mình. Cho nên
những vật của vua Thanh ban cho như sắc thư, kỳ bài, quân ấn đều bị quân Tây
Sơn bắt được đem về.
Nguyên
mùa đông năm ngoái, theo lời xin của Nghị, vua Thanh đã truyền lệnh cho Nghị
đem quân ra ngoài cửa ải Nam Quan. Sau đó, vua Thanh lại có chỉ dụ bảo Nghị đi
từ từ, chớ có vội; hãy làm tờ hịch đưa sang trước làm thanh viện cho nhà Lê,
rồi thả bọn bề tôi nhà Lê về nước, tập hợp nghĩa binh, tìm tự tôn họ Lê, để cho
ra mặt đối địch với Nguyễn Quang Trung, thử xem sự thế ra sao? Nếu như lòng
người An Nam còn mến nhà Lê, lại được thiên binh kéo sang, thì ai chẳng hăng
hái nổi lên, và như vậy, Quang Trung ắt phải lui tránh. Bấy giờ sẽ bảo tự tôn
họ Lê đi tiên phong đuổi đánh còn Nghị thì đem đại binh tiếp theo, chắc là
không khó nhọc gì mà sẽ thành công. Đó là chước hay thứ nhất. Nếu như người
trong nước, nửa theo đằng nọ, nửa theo đằng kia, thì Quang Trung nhất định sẽ
không chịu lui. Khi ấy, cần phải viết thư nói rõ hoạ phúc, xem hắn đối phó ra
sao? Rồi chờ cho thuỷ quân các tỉnh Mân, Quảng (Phúc Kiến và Quảng Đông, Quảng
Tây) của ta vượt biển đánh trước vào Thuận Quảng (Thuận Hoá và Quảng Nam), bấy
giờ sẽ thúc quân tiến lên. Quang Trung mặt trước mặt sau đều bị đánh, tất phải
hàng phục. Ta nhân đó mà bảo tồn cho cả hai. Thuận, Quảng về nam cho Quang
Trung ở; Hoan, ái (Nghệ An, Thanh Hoá) về bắc, phong cho tự tôn họ Lê. Rồi đó,
đóng đại binh ở nước ấy, xa xa kiềm chế họ, sau này sẽ có cách xử trí khác.
Đến khi
đại quân của Nghị ra khỏi cửa ải Nam Quan nghe tin quân Tây Sơn đã lui chạy,
tức thì Nghị sai chỉnh đốn đội ngũ, kéo thẳng đến đóng ở thành Thăng Long,
không còn lo lắng gì cả, vì thế mới thua một trận tan tành.
Bấy giờ
dân Thanh thái bình đã lâu, không biết gì đến việc binh, thấy Nghị tất tả chạy
về, nhân tình đều nhốn nháo sợ hãi. Tiếp đó lại nghe tin quân Tây Sơn đuổi đến
Lạng Sơn, nói phao lên rằng: "Sẽ giết hết rợ Hung Nô". Do đó, ở đất
Trung Quốc, dân chúng lại càng nhốn nháo. Từ cửa ải Nam Quan trở về bắc, trai
gái già trẻ, bồng bế dắt díu nhau chạy trốn, suốt vài trăm dặm, lặng ngắt không
còn bóng người.
Vua
Thanh được tin, giận lắm, lập tức hạ chỉ, sai viên quan ở nội các là Phúc Khang
An làm tổng đốc lưỡng Quảng, đem binh mã chín tỉnh sang kinh lý việc An Nam và
đòi Sĩ Nghị về kinh chịu tội.
Lại nói,
Nghị ở Thăng Long chạy đi, nhằm đêm mồng 5 tháng giêng. Đến trưa hôm ấy, vua
Quang Trung tiến quân vào thành.
Sau khi
đã hoàn toàn quét sạch quân Thanh, vua Quang Trung bèn đóng quân tại thành
Thăng Long, rồi hạ lệnh chiêu an. Phàm những người Thanh trốn ở các nơi, đều
bảo phải tới đầu thú, dân gian không được chứa chấp. Trong khoảng mươi ngày,
quân Thanh ra thú có đến hơn vài vạn, đều được cấp phát lương ăn áo mặc.
Nhân bắt
được chiếu thư và quân ấn do Sĩ Nghị bỏ rơi, vua Quang Trung bèn đưa cho Ngô
Thì Nhậm xem và bảo:
- Ta xem
tờ chiếu của vua Thanh, thì chẳng qua họ cũng chỉ cốt xem tình hình ta mạnh yếu
ra sao để mà định bề tiến lui, chớ còn việc nghĩa cử để dựng lại nhà Lê, không
phải là bản tâm của họ. Họ chỉ mượn tiếng để mưu đồ lợi riêng mà thôi. Nay họ
đã bị ta đánh thua, nhịn đi thì thẹn, báo thù thì khó. Vậy những tàn quân ta
bắt được, đều nên cấp lương và đưa hết lên cửa ải. Ngươi vốn giỏi về nghề văn
từ đối đáp, nên thảo ngay bức thư đưa sang cho họ, đại khái nói:
"Ta
là nước nhỏ, một lòng kính thuận, sợ mệnh trời, thờ nước lớn, sao dám có ý gì
khác. Trước đã có biển văn đệ sang, bị ngài tổng đốc họ Tôn dìm đi, không thấu
đến bề trên được. Gần đây, ta từ miền Nam tới, vốn là muốn biện bạch lòng thật
thà với ngài tổng đốc họ Tôn. Không ngờ đường sá đồn nhảm, làm to thanh thế của
ta, khiến cho mọi người nghi ngờ sợ hãi, bỏ đội ngũ mà chạy trước, để đến nỗi
cầu phao bị đứt, quân lính thiên triều phải chết đuối, những kẻ tranh đường
chạy trốn lại giày xéo lẫn nhau nhiều người bị thương bị chết. Đó thật là do
ngài tổng đốc họ Tôn gây nên, không phải là tội của nước nhỏ dám giao chiến.
Hiện nay đã thu góp được số tàn quân hơn một vạn người, lại đã tra rõ họ tên,
quê quán, cấp lương đầy đủ và đưa lên cửa ải; vậy xin kê sổ dâng nộp. .
.".
Thì Nhậm
vâng lệnh, lập tức theo ý đó thảo một bức thư, rồi sai người phi ngựa giao cho
viên đầu mục ở Lạng Sơn đưa tới ải Nam Quan, nhờ chuyển đệ sang Trung Quốc.
Lại nói,
viên tổng đốc lưỡng Quảng mới là Phúc Khang An vốn là người Mãn, thuộc đội Cờ
viền vàng (hộ khẩu của dân Mãn chia theo binh chế, gồm có tám đội Cờ (bát kỳ):
Cờ vàng, Cờ trắng, Cờ đỏ, Cờ xanh, Cờ viền vàng, Cờ viền trắng, Cờ viền đỏ, Cờ
viền xanh. Các đội Cờ này lúc thường thì làm dân, lúc động thì làm lính. Về
sau, khi người Mông, người Hán qui phục nhà Thanh, vua Thanh Thái tông cũng tổ
chức ra bát kỳ người Mông và bát kỳ người Hán như vậy, để làm lực lượng nòng
cốt trong việc thống nhất Trung Quốc) do chân ấm sinh làm đến chức quan trong
Nội các, vua Thanh vốn rất tin dùng, nên mới giao cho kinh lý việc nước Nam.
Vừa mới
thay Nghị làm chức tổng đốc, Khang An đi trạm đến mạc phủ Quảng Tây, đã chính
mắt thấy Nghị trơ trọi một thân chạy về, rồi đó, tai lại được nghe thanh thế
của vua Quang Trung, nên trong bụng không khỏi rụt rè lo sợ. Đến khi tiếp được
bức thư từ biên cương đưa tới, Khang An quyết liền tự mình gánh vác lấy việc
phương Nam, bèn nói kín với viên phân phủ họ Vương ở phủ Thái Bình rằng:
- Nam
Bắc thôi việc binh đao, đó là phúc của sinh dân, mà thực là điều may lớn cho
các quan ở ngoài bờ cõi. Ta nghe nói có viên quan coi việc giấy tờ của nước Nam
tên là Ngô Thì Nhậm, bao nhiêu thư từ từ trước đến giờ đều do tay y mà ra. Vậy
ông nên viết thư trả lời, bảo y chuyên tâm chủ trương việc giảng hoà, gấp rút
viết tờ biểu tạ tội đưa sang, ta sẽ ở trong giúp đỡ cho, việc ấy thế nào cũng
xong.
Phân phủ
họ Vương lui ra, tức thì viết thư cho Ngô Thì Nhậm. Nhậm đem việc ấy tâu với
vua Quang Trung.
Bấy giờ,
vua Quang Trung tuy đã dẹp yên Bắc Hà, nhưng ở miền Nam, vẫn có cái lo bên
trong, nên muốn gấp rút về Nam, bèn họp các tướng sĩ lại mà bảo:
- Việc
binh ở Bắc Hà, ta giao cho Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân. Việc giao thiệp với
Trung Quốc ta giao cho Ngô Thì Nhậm và Phan Huy ích. Mọi việc đều cho phép các
ngươi tuỳ tiện xử trí. Ta hãy về Nam, nếu việc gì không quan hệ lắm thì bất tất
phải qua lại bẩm báo cho thêm phiền phức.
Rồi đó,
vua Quang Trung dẫn quân về Nam, để Văn Sở ở lại, coi giữ hết thảy việc quân,
việc nước. Còn Ngô Thì Nhậm thì làm chủ về việc giao thiệp với Trung Quốc, cùng
với viên quan giữ biên ải của nhà Thanh là phân phủ họ Vương hai bên liên lạc
với nhau; ngoài thì có Phúc Khang An đề đạt ý kiến, trong thì có Các thần Hoà
Khôn chủ trương mọi việc.
Hoà Khôn
người Mãn Châu, thuộc đội Cờ vàng, cũng do chân ấm sinh vào làm ở Nội các, cùng
với Khang An quản lý việc hộ.
Khang An
gửi thư cho Thì Nhậm, bảo Nhậm đưa vàng bạc đút lót Khôn. Khôn kiền tâu với vua
Thanh xin bãi việc binh, phong vương cho Quang Trung, và không nên gây hấn với
nước ngoài, làm hao phí cho Trung Quốc. Khôn lại nói: "Từ xưa đến nay,
chưa có đời nào làm nên công trạng ở cõi Nam. Nhà Tống rồi nhà Nguyên, nhà
Minh, rốt cuộc đều bị thua trận, gương ấy hãy còn rành rành".
Vua
Thanh cho là phải, bèn quyết ý giảng hoà. Bọn Hoà Khôn đón ý vua Thanh làm cho
mọi việc đều ăn khớp, nên không việc gì là không vừa lòng nhà vua. Bởi vậy, vua
Thanh rất thích, thường viết thư khen ngợi họ.
Khi ấy,
Khang An liền báo tin cho Thì Nhậm biết, giục Nhậm viết tờ biểu tạ ơn. Nhậm
thảo một tờ biểu, trong đó nói kèm thêm rằng: "Nước chúng tôi đã đến kỳ
tiến cống, theo lệ phải kính sai bồi thần đệ dâng lễ vật. Nhưng tiểu phiên
(nước phiên thuộc nhỏ mọn, ở đây là một cách nói nhún để chỉ vua Quang Trung)
còn là tạm quyền việc nước, không dám tự ý làm việc ấy, vì sợ chưa hợp lệ. Mà
nếu điềm nhiên bỏ đi lòng cũng không yên. Nay các vật phẩm tiến cống và các
người bồi thần đều đã kính cẩn đợi sẵn trên cửa ải. Vậy xin cúi mong bề trên
quyết định, chúng tôi khôn xiết run sợ chờ lệnh. . . ".
Khang An
tiếp được tờ biểu tạ ơn ấy, lập tức sai ngựa trạm đệ về Yên Kinh. Hoà Khôn liền
đem biểu dâng lên. Vua Thanh xem xong, thích lắm, bèn truyền cho các bồi thần
nước Nam là bọn Võ Huy Tấn, Ngô Vi Quý, Nguyễn Đình Cử được phép qua cửa ải,
vào chờ ở thành Quế Lâm; lại sai sứ thần sang phong cho vua Quang Trung làm An
Nam quốc vương và ban thưởng cho rất hậu. Còn các phẩm vật tiến cống đều chiếu
lệ cũ mà thu nhận. Liền đó, vua Thanh lại giáng chỉ vời vua An Nam sang chầu.
Ngô Thì
Nhậm bèn kén viên quan võ người làng Mạc Điền, huyện Nam Đường ở trấn Nghệ An,
tên là Nguyễn Quang Thực (Đại nam chính biên liệt truyện sơ tập lại chép là
Phạm Công Trị, cháu gọi Nguyễn Huệ bằng cậu), dung mạo đoan trang, giả làm quốc
vương; lấy Văn Sở làm trọng thần hàng võ, Huy ích làm trọng thần hàng văn, đô
đốc Nguyễn Duật làm hộ vệ, Võ Huy Tấn làm bề tôi coi giấy tờ, cùng hầu
"quốc vương" sang yết kiến vua Thanh. Ngoài lễ dâng thường của địa
phương lại dâng thêm hai thớt voi đực. Dọc đường, người Thanh phải phục dịch
chuyển vận rất khó nhọc. Trong ngoài ai cũng biết là giả dối, mà không ai dám
nói.
Khi
"quốc vương" tới Yên Kinh, vua Thanh mừng lắm, không hề biết đó là
vua Quang Trung giả. Lúc "quốc vương" vào yết kiến, vua Thanh cho
cùng ăn yến với các vị thân vương, lại ban ơn đặc biệt cho làm lễ ôm gối hệt
như tình cha con trong nhà. Lúc "quốc vương" lạy tạ về nước, vua
Thanh sai thợ vẽ truyền thần bức chân dung mà ban cho, ân lễ rất trọng hậu,
thực là một cách đối đãi khác thường từ ngàn xưa hiếm có.
Lại nói,
vua Lê khi ở cửa ải Nam Quan theo Sĩ Nghị vào đất Trung Quốc, trú ngụ ở thành
Nam Ninh, thì vừa gặp lúc Phúc Khang An đến thay Sĩ Nghị, và mưu đồ giảng hoà
với Tây Sơn. Khang An bèn đón vua Lê vào nghỉ ở thành phủ Quế Lâm. Hồi ấy những
người nước Nam lần lượt sang Trung Quốc theo vua Lê gồm có: Chú vua là Trung
quận công Duy án, đi đường Du Quan (ở hồi 9 đã chép Duy án đi cùng với phái bộ
Trần Công Xán vào Tây Sơn đòi đất Nghệ An, sau phái bộ bị dìm chết ở ngoài
biển. Đây lại thấy Duy án xuất hiện, không hiểu là chép lầm hay án còn sống sót
mà người viết không ghi rõ chăng? ); Đinh Nhạ Hành và Đinh Lệnh Dận quê ở Hàm
Giang, đi đường Long Môn; nội hàn Trần Duy Lâm, quê ở Nam Chân; xuất nạp Lê
Doãn, quản cơ Hậu Kính Lê Dĩnh người ở Đồng Trạch và bọn Phan Khải Đức người
Nghệ An đều đi đường ải Nam Quan; bọn Bế Nguyễn Cung, Bế Nguyễn Doãn là phụ đạo
ở Cao Bằng đi đường Cao Bằng. Lúc họ vào ra mắt, Khang An tuỳ tiện sắp đặt chỗ
ở và cấp cho lương ăn áo mặc, rồi dùng Phan Khải Đức làm chức đô ty ở Liễu
Châu, Đinh Nhạ Hành làm chức thủ bị ở Toàn Châu, Bế Nguyễn Doãn làm chức bả
tổng. Còn Trung quận công cùng các người khác thì đều đưa vào ở chỗ vua Lê
trong phủ Quế Lâm.
Sau hơn
một tháng, Khang An cũng từ Nam Ninh về Quế Lâm, liền hạ lệnh bãi hết binh mã
các tỉnh, rồi bày ra yến tiệc và âm nhạc linh đình, rộn rã. Vua Lê lấy làm lạ
hỏi, thì Khang An nói:
- Mùa hè
nắng nực, không lợi cho việc sang đánh miền Nam, cần chờ đến mùa thu mát mẻ, sẽ
điều động một thể.
Tiếp đó,
Khang An lại mời vua Lê yến tiệc say sưa, rồi ung dung nói:
- Ngày
xuất quân không còn xa, vương nên tự mình đem tả hữu liêu thuộc làm quân dẫn
đường đi trước. Nhưng bây giờ nên gọt đầu gióc tóc (kiểu đầu của người Mãn
Thanh: gọt tròn xung quanh như cái nồi đất, rồi tết đuôi xam ở đằng sau), thay
đổi quần áo giống như người Trung Quốc, để khi về Nam quân giặc không thể phân
biệt được, thì công lớn mới có thể thành. Sau khi khôi phục nước nhà, bấy giờ
sẽ lại theo như tục cũ. "Việc binh không ngại dùng cách xảo trá"
Vương nên nghĩ tới chỗ đó.
Vua Lê
cho là phải và đáp:
- Chúng
tôi không giữ được nước nhà, may nhờ thiên triều cứu viện, dù cả nước phải ăn
mặc như người Trung Quốc, cũng xin vâng lệnh. Việc ấy còn có tiếc gì?
Rồi vua
Lê cùng các bề tôi đều gióc tóc, thay đổi đồ mặc. Khang An thấy vậy, mừng lắm,
liền cho một số tiền bạc và tiếp đãi tử tế. Vua tôi nhà Lê đều không biết sự
lừa dối của Khang An. Nhân đó, Khang An bèn làm một tờ biểu kín tâu với vua
Thanh, trong đó đại ý nói: "Vua An Nam là Lê Duy Kỳ, không còn có ý xin
cứu viện, vua tôi đều đã gióc tóc đổi đồ mặc, xin ở lại yên ổn trong đất Trung
Quốc. Vậy xin bãi bỏ các đạo quân định đưa sang đánh dẹp phương Nam". Còn
Hoà Khôn cũng luôn dịp tâu xin phong vương cho vua Quang Trung. Thế là các lời
xin ấy đều được vua Thanh chuẩn y.
Một hôm,
Khang An lại mời vua Lê vào dinh. Giáo mác trang hoàng la liệt, quân hầu đứng
khắp chung quanh, cung mã, nghi trượng rất là nghiêm chỉnh, chính giữa dựng cây
cờ lớn, có thêu sáu chữ: "Đề đốc cửu tỉnh binh mã" (đề đốc binh mã
chín tỉnh).
Sau khi
uống trà và ăn hoa quả xong, An im lặng không nói câu gì, vua Lê cũng không
hiểu ý của An ra sao. Lúc từ giã đi ra, thì thấy sứ giả Tây Sơn đã ở ngoài cửa.
Vua Lê tức tối hồi lâu, rồi đành phải về quán trọ yên nghỉ.
Trước
kia Trường phái hầu là Lê Quýnh vâng mệnh ở lại trong nước, chiêu dụ hào kiệt
các địa phương để lo việc khôi phục. Lúc này, Quýnh và bọn Trịnh Hiến, Lý Tạo,
Lê Hợp (có bản chép là Lý Nhu Đạo, Lê Doãn Thực) tất cả gồm vài chục người đều
kéo sang đất Trung Quốc. Khang An cho trát đòi bọn Quýnh đến bàn việc nước. Lúc
họ tới nơi, An chẳng hỏi han gì, chỉ bàn về việc gọt đầu gióc tóc và đổi đồ mặc
mà thôi.
Quýnh
biết An dối trá, giận lắm, nói:
- Đòi ta
đến ngỡ là để giáp mặt mà bàn bạc, nay té ra lại chẳng bàn bạc gì, mà chỉ toàn
bảo gọt đầu gióc tóc và đổi đồ mặc. Chúng ta đây, đầu có thể chặt, tóc không
thể cắt, da có thể lột, đồ mặc không thể đổi!
Khang An
biết là không thể ép buộc được, bèn sai đem bọn họ an tri ở tỉnh Quảng Tây.
Hồi cuối
mùa đông năm ấy là năm Kỷ Dậu (1789), vua Thanh sau khi đã sai sứ phong cho vua
Quang Trung làm An Nam quốc vương và nhận các vật phẩm tiến cống, liền giáng
chỉ đòi vua cũ của nước An Nam phải đến Yên Kinh.
Nguyên
lúc kinh thành Thăng Long tan vỡ, vua Lê chạy sang bắc, em thứ ba của vua Lê là
Lan quận công Duy Chi đưa hoàng phi chạy ra, đến bến sông Nhĩ Hà thì gặp lúc
cầu phao đã gãy, liền theo bờ sông chạy về phía tây. Đến Tuyên Quang, Duy Chi
bèn lén lút ở đấy, rồi nhân dịp chiêu dụ các tay hào mục địa phương, để cùng
nhau gắng sức lo việc khôi phục. Về sau, Duy Chi dấy quân ở đất Bảo Lạc (nay
thuộc Cao Bằng), đắp đồn luỹ, trưng thu lương thực, chống nhau với quân Tây
Sơn. Được vài tháng, quân và lương không đủ, bị quân Tây Sơn đánh thua, Duy Chi
và các tướng tá đều bị bắt, đóng cũi đưa về Nam, rồi đều bị hại (theo Đại nam
chính biên liệt truyện và Bang giao lục thì Duy Chi đánh phá cả các vùng Cao
Bằng, Tuyên Quang, Thái Nguyên; sau lại liên kết với Lào để định đánh úp Nghệ
An. Vì thế, quân Tây Sơn phải đánh dẹp rất gay go, kéo dài hàng năm (1789-1790)
mới bắt được Chi). Quân dân cả nước, ai cũng thương xót. Có người viếng bài
thơ, trong có câu rằng:
Phú Xuân
có đất chôn hờn mới.
Bảo Lạc
không trời báo oán xưa.
Duy Chi
đã chết, hoàng phi bèn trốn về vùng Kinh Bắc, lẻn lút trong dân gian, quân Tây
Sơn tìm bắt nhưng không được.
Lúc bấy
giờ, vua Lê ở Yên Kinh, tin tức không thông, các hoàng thân đều bị quân Tây Sơn
giết hại. Các bề tôi trung nghĩa ngày xưa như bình chương Nguyễn Huy Túc, tham
tri Phạm Đình Dữ, thượng thư bộ Binh Nguyễn Đình Giản, thiêm thư xu mật viện sự
Lê Ban, phó đô ngự sử Trần Danh án, trấn thủ Kinh Bắc Trần Quang Châu đều phải
trốn nấp ở các nơi thôn ổ, quân Tây Sơn lùng bắt không được. Còn con cháu dòng
dõi của các nhà quyền quý phần nhiều cũng vẫn có cảm tình với chủ cũ. Nên chi,
trong chốn làng quê, tiếng trống thường nổi lên luôn luôn.
Nguyễn
Đình Giản, từ khi vua Lê chạy sang Trung Quốc, không kịp chạy theo, bèn ẩn ở
huyện Lập Thạch thuộc trấn Sơn Tây (nay thuộc Vĩnh Phú).
Vua
Quang Trung cho người đến trấn Thanh Hoa, bắt con gái yêu của Giản đưa vào hậu
cung muốn để vời Giản ra làm quan. Nhưng Giản nói:
- Con bé
ấy không chết, làm nhục nhà ta, ta không vì tình nhi nữ mà bỏ nghĩa vua tôi.
Quân Tây
Sơn biết không thể đoạt nổi chí hướng của Giản, bèn lập mưu bắt sống Giản về.
Giản không chịu khuất, rồi chết. Giản có làm bài thơ tự thuật như sau:
Vị thân
hay vị nước nhà,
Thân còn
nước mất biết là làm sao?
Đội non
khôn hoá thân ngao (sách Liệt sử chép: ở biển Đông có năm hòn núi nổi lênh đênh
trên mặt nước, trời sai 15 con ngao đỡ cho núi đứng vững. Đây mượn ý để nói
việc chống đỡ quốc gia),
Dễ đem
mình cuốc khóc gào núi sông (xưa vua Thục là Đỗ Vũ mất nước, sau khi chết hoá
thành con cuốc, tiếng kêu ai oán).
Giận
không Vương Xúc gươm trung (Vương Xúc làm quan nước Tề đời Chiến Quốc, sau Tề
vị nước Yên chiếm, Vương Xúc dùng gươm tự tử),
Đọc ca
chính khí dãi lòng sắt đanh (Chính khí ca của Văn Thiên Tường, một trung thần
đời Tống, làm khi bị giam ở yên kinh).
Ngoảnh
nhìn cung khuyết Long thành,
Thân này
với nước nhục vinh nỡ rời!
Lê Ban
khôi ngô, hùng dũng, sức khoẻ hơn người; mỗi bữa ăn gấp mấy chục người. Sau khi
vua Lê bị nạn, Ban thường quanh quẩn bên cạnh, không từ hiểm nghèo. Đến khi vua
Lê chạy sang Trung Quốc. Ban theo không kịp, bèn đi đường tắt về quê ở Nghệ An,
cùng các hào mục địa phương họp quân đánh nhau với Tây Sơn, bị thua mấy trận
rồi bị bắt. Ban giữ vững chí cũ, không chịu khuất phục. Quân Tây Sơn bèn thả
cho về. Sau Ban chết ở Thăng Long.
Trần
Danh án lưu lạc ở miền rừng núi, thôn quê trong xứ Bắc Giang. Vua Quang Trung
sai Ngô Thì Nhậm viết thư vời án. án cố từ, thề chết không chịu ra, lời lẽ phần
nhiều gay gắt. Nhân dịp, án lại làm bài thơ trả lời Nhậm như sau:
Gặp bác
đời nay dễ mấy lần, Dung nhan phảng phất mộng luôn gần. Về ai nước ấy thôi đành
kệ, Nương trọ, đời nay chỉ biết thân.
Song bắc
giấu mình còn nhớ Tấn (điển Song bắc trỏ Đào Tiềm người đời Tấn, vì khi Đào
Tiềm cáo quan về nhà, trong một lá thư gửi cho bạn, ông có viết câu "Bắc
song cao ngoạ. . ." (Nằm hóng mát dưới cửa sổ phía bắc) để nói về cái thú
ở ẩn. Đào Tiềm là tôi cũ của nhà Tấn, khi Tống cướp nước Tấn, Đào Tiềm viết
lách gì cũng vẫn đề niên hiệu của nhà Tấn để tỏ lòng trung nghĩa)
Biển
Đông thà chết chẳng theo Tần (điển Biển Đông trỏ Lỗ Trọng Liên người nước Tề
đời Chiến-quốc. Khi Lỗ Trọng Liên sang chơi nước Triệu, gặp lúc nước Tần vây
Triệu rất gấp; bấy giờ có sứ nước Nguỵ sang Triệu bàn nên tôn Tần làm hoàng đế
thì sẽ khỏi bị vây; Trọng Liên nghe nói, không bằng lòng, gặp sứ Nguỵ bàn lẽ
phải trái và nói; nếu Tần xưng đế thì Liên này thà nhảy xuống biển Đông mà chết
chứ không chịu làm tôi tớ cho Tần. . . Lời nói khảng khái ấy của Trọng Liên,
quả nhiên đã làm cho quân Tần phải rút lui, không vây Triệu nữa).
Người
sau bên mộ giơ tay trỏ: Tiến sĩ đời Lê cũ, họ Trần.
Nhậm
biết không thể khuất phục được án, bèn ngầm sai người đem quân đến hăm doạ. Nhưng
án vẫn ngồi làm thơ, thần sắc như thường, trong có câu rằng:
Kiếp này
dẫu béo mồm hùm sói,
Thà chết
không làm bụng chó heo!
Quân Tây
Sơn lại dỗ cho làm quan to, cuối cùng án vẫn không theo, họ bèn thôi.
Trần
Quang Châu cùng bọn bộ tướng, nhóm quân đánh lại Tây Sơn, ngang dọc trong hai
trấn Đông Bắc (Hải Dương và Kinh Bắc). Khoảng trong bốn năm năm liền, luôn luôn
phá vỡ đồn luỹ và giết được rất nhiều tướng tá của Tây Sơn, khiến cho quân Tây
Sơn cũng phải khiếp sợ Châu. Sau mắc mưu gian, Châu bị quân Tây Sơn bắt sống.
Châu cũng không chịu khuất phục, rồi chết (theo các tài liệu lịch sử, thì những
cuộc chống đối của đám cựu thần nhà Lê bấy giờ còn có: Dương Đình Tuấn (Bắc
Giang). Nguyễn Phủ (Bắc Ninh), Phạm Đình Đạt (Bắc Ninh). . . Nhưng cuối cùng cũng
đều bị Tây Sơn dẹp tan).
Từ đó
trở đi, các trấn yên lặng, không phải lo sợ về nạn binh hoả nữa.
Sau khi
nhận sắc phong của vua Thanh, vua Quang Trung bèn tự coi mình như hoàng đế, lập
con cả là Quang Toản làm thái tử, con thứ hai là Quang Thuỳ là Khang công, lĩnh
chức tiết chế các quân thuỷ bộ miền Bắc, con thứ ba là Quang Bàn làm Tuyên công
lĩnh chức đốc trấn Thanh Hoa, Tổng lý mọi việc quân, dân. Các trấn đều đặt một
viên trấn thủ, một viên hiệp trấn. Mỗi huyện đặt một viên phân tri và hai viên
tả hữu quản lý để trưng thu binh lương và xử lý việc kiện cáo. Lại lập ra binh
chế, chia ra các cấp quan võ; lấy đạo thống lĩnh làm cơ, lấy cơ thống lĩnh các
đội, để quản thúc và luyện tập cho quân lính.
Các trấn
từ sông Gianh ra Bắc đều phải kê khai sổ đinh, chiếu theo lệ cũ kén lính và thu
các thứ thuế dung (tức thuế thân, do Trịnh Cương đặt ra), thuế cước. Lập sổ
ruộng, định lệ thóc thuế. Chia ruộng công, ruộng tư ra làm ba bậc để thu thuế.
Vua Quang Trung cho rằng Nghệ An ở vào chính giữa nước, đường sá từ Nam ra từ
Bắc vào đều vừa bằng nhau, quê tổ tiên mình cũng ở đấy, bèn sai trưng dụng rất
nhiều thợ thuyền, chuyên chở gỗ, đá, gạch ngói, để xây dựng cung phủ, lâu đài.
Đắp thành đất chung quanh và sai các quân lính đào đá ong ở địa phương để xây
thành trong. Dựng toà lầu Rồng ba tầng cùng điện Thái-hoà hai dãy hành lang, để
phòng dùng đến trong những khi có lễ triều hạ (các quan vào chầu và chúc mừng
nhà vua). Thành này được gọi là Phượng Hoàng trung đô hoặc Trung kinh Phượng
Hoàng thành (thành này Quang Trung định lập làm nơi đóng đô nên mới gọi là
"trung đô" hoặc "trung kinh"; còn tên "Phượng
Hoàng" là gọi theo tên ngọn núi ở chỗ xây dựng thành, "tức rú Quyết
cạnh đường Bến Thuỷ bây giờ". Khi xây dựng "Phượng Hoàng trung
đô", Quang Trung có viết chiếu mời Nguyễn Thiếp ra xem đất. Trong tờ
chiếu, có đoạn viết như sau: "Nay kinh Phú Xuân thì hình thế cách trở. ở
xa trị Bắc Hà, sự thế rất khó khăn. Theo đình thần nghị rằng, chỉ đóng đô ở Nghệ
An là độ đường vừa cân, vừa có thể khống chế được trong Nam ngoài Bắc, và sẽ
làm cho người tứ phương đến kêu kiện, tiện việc đi về" - Xem thêm chi tiết
trong La Sơn phu tử của Hoàng Xuân Hãn).
Năm Canh
tuất (1790), nước Ai-lao chưa chịu tiến cống. Vua Quang Trung bèn sai viên đốc
trấn Nghệ An là Nguyễn Quang Diệu (có sách chép Trần Quang Diệu. Việc Quang
Trung đánh Lào, thực ra không phải nhằm mục đích chiếm đất, mà chỉ cốt phá tan
âm mưu cấu kết giữa Duy Chi và vua Lào) làm chức đại tổng quản, viên đô đốc
lĩnh tượng chính là Lê Văn Trung làm chức đại tư lệ xuất quân tiến đánh.
Quân Tây
Sơn tiến đến đô thành nước Ai Lao, vua Ai Lao chống cự không nổi, đem quân chạy
trốn. Bọn Diệu vào thành, thu hết vàng bạc, châu báu, voi ngựa đem về.
Sau khi
được vua Thanh phong vương, vua Quang Trung càng thêm kiêu căng, có ý xem khinh
Trung Quốc. Vừa lúc ấy, có giặc Tàu ô (tên gọi chung bọn giặc biển người Trung
Hoa bấy giờ, thường đi tàu thuyền ở ven biển Việt Nam để ăn cướp) ở lưỡng Quảng
cướp bóc miền ven biển, quân Thanh đuổi đánh, bọn giặc liền chạy xuống vùng Nam
Hải và xin quy phục nước Nam. Vua Quang Trung bèn cho bọn đầu mục của chúng đều
làm chức thống binh, đồng thời lại sai chúng trở lại cướp bóc quấy nhiễu miền
duyên hải của Trung Quốc. Từ đấy các thuyền buôn bán không thể qua lại giá cả
hàng hoá cao vòn vọt. Vua Quang Trung lại dung nạp cả bọn giặc Tàu ô ở Tứ Xuyên
gọi là "Thiên địa hội" ("Thiên địa hội" không phải là giặc
Tàu ô, mà là một tổ chức bí mật của nhân dân Trung Quốc, nhằm lật đổ triều đình
Mãn Thanh, thành lập năm 1674, lúc đầu trung tâm ở vùng Phúc Kiến, sau phát
triển khắp nơi trong nước, thâm nhập cả vào các tầng lớp Hoa kiều ở ngoài
nước). Tổng đốc nhà Thanh bấy giờ sợ sức mạnh của nước Nam, nên cũng không dám
hỏi chi đến.
Qua
những việc đó, vua Quang Trung càng cho người Thanh là dễ đánh, bèn tính việc
kén chọn quân lính, dành dụm lương thực, đóng tàu biển thật lớn, có thể chở nổi
voi, rồi cùng các quan văn võ ngấm ngầm để ý dòm ngó Trung Quốc.
Thật là:
Cõi Bắc
vừa xong trường chiến đấu,
Ải Nam
lại nẩy dạ anh hùng.
Chưa
biết việc ấy ra sao? Chờ xem hồi sau phân giải.
Chương 16 : Tế Linh đường, sứ Thanh bị lừa,
Chết Yên Kinh, vua Lê nuốt hận
Lại nói, vua Quang Trung toan lập mưu đánh
Trung Quốc, đêm ngày bàn bạc với các tướng tá, họ đều nói:
- Nên kê
sổ dân cho đúng để kén quân lính, đó là việc cần kíp ngày nay.
Vua
Quang Trung lấy làm phải, bèn hạ lệnh cho các trấn phải đốc thúc các xã sửa lại
sổ đinh, phát "tín bài" (thẻ làm tin) để thống kê dân chúng vào sổ,
rồi cử người coi sóc xét hỏi. Tổng trưởng các huyện có nhiều người vì cố tình
giấu giếm mà bị chém. Việc đi lại trên đường, nhân dân đều lấy làm khổ. Viên
phân tri ở các huyện nhóm họp số dân đã ghi trong sổ lại, chiếu sổ cấp cho mỗi
người một cái thẻ; giữa thẻ in bốn chữ triện "Thiên hạ đại tín" (niềm
tin lớn của thiên hạ), bốn mép chung quanh thì viết họ tên quê quán của những
người có thẻ và in dấu ngón tay trỏ bên trái để làm bằng cứ. Mọi người đều phải
đeo thẻ ấy, gặp khi xét hỏi thì đưa ra trình; đó gọi là "tín bài". Ai
không có thẻ, tức là dân lậu, sẽ bị bắt đem sung quân (bị đày đi các nơi biên
giới xa xôi để làm lính thú) và bắt tội các người tổng trưởng, xã trưởng của
họ.
Sổ đinh
thành rồi, vẫn theo lệ ba đinh bắt một người lính. Lại sai các viên phân quản
đem quân đến các xã vây bắt, tra xét. Vì thế, dân gian nhốn nháo, nhiều người
lẩn trốn vào các khe núi.
Có người
ở làng Ngọc Điền, huyện Thạch Hà, trấn Nghệ An, tên là Trần Phương Bính (nhiều
sách chép là Trần Danh Bính), nguyên là con viên tiến sĩ đời Lê xưa là Trần
Danh Tố, không chịu đeo thẻ. Trấn thủ Nguyễn Diệu khen và tha cho không bắt
tội.
Bính là
một người bản tính thông minh nhanh nhẹn, lại sẵn có khí tiết, thường làm thơ
để tỏ chí của mình, có hai câu rằng:
Tim gan
chất chứa hờn trời đất,
Mặt mũi
đành trơ với tháng ngày.
Về sau,
các cống sĩ và các hào mục địa phương họp quân ở làng Nga Khê, huyện Thiên Lộc,
định đánh úp thành Nghệ An. Họ bèn suy tôn Bính làm quân sư. Bọn Bính kéo quân
đến xã Bình Lãng, ven núi Hồng Lĩnh để đánh nhau cùng quân Tây Sơn. Bị thua
trận, Bính liền trèo lên đỉnh núi cao nhất của núi Hồng Lĩnh, tự tay đề một bài
thơ vào vách chùa ở đó như sau:
Đền nước
không còn chước,
Bên mình
có mũi dao.
Ngoái cổ
nhìn Hồng Lĩnh.
Chín
mươi chín đỉnh cao.
Rồi Bính
lấy dao đâm thọc vào bụng mà chết; quân dân nghe tin, ai cũng thương xót.
Lại nói,
vua Quang Trung, sau khi quyết định việc đánh Trung Quốc, bèn sai bề tôi là
Chiêu viễn Vũ Văn Dũng sang nhà Thanh, dâng biểu cầu hôn và đòi lại đất hai
tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây. Điều đó không phải là bản tâm của vua Quang Trung,
chẳng qua chỉ muốn thử xem ý nhà Thanh ra sao mà thôi. Nhưng vừa lúc ấy thì vua
Quang Trung bị bệnh rồi mất. Hôm đó nhằm ngày mùa thu, tháng tám năm Nhâm Tý
(về tháng vua Quang Trung mất, có một vài tài liệu chép là tháng 9. Nhưng theo
sự chứng minh rất xác đáng của ông Hoàng Xuân Hãn (La Sơn phu tử, tr. 158-160),
dựa vào sách Đại Nam thực lục và tài liệu của các giáo sĩ phương Tây đã chép
lúc đương thời, thì vua Quang Trung đã mất vào ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tý
(1792). Cũng theo ông Hoàng Xuân Hãn, thì việc Hoàng Lê nhất thống chí chép mất
vào tháng 8 như ở đây cũng không hẳn là sai; vì theo sách lịch Tây Sơn đương
thời, tháng 7 năm Nhâm tý là tháng thiếu, ngày 29 lại là ngày cuối tháng, mà
vua Quang Trung lại mất vào khoảng nửa đêm, như thế thì chép tháng 7 hay tháng
8 cũng chỉ chênh nhau chừng nửa giờ mà thôi), sau khi lên ngôi hoàng đế được 5
năm. Trước đó, khi sứ nhà Thanh sang phong, vua Thanh có ban cho vua Quang
Trung chiếc áo màu, trong thêu bảy chữ bằng kim tuyến: Xa tâm chiết trục đa
điền thử (câu này nghĩa đen là: "Bụng xe gãy trục, nhiều chuột đồng".
Theo Hán văn, chữ xa với chữ tâm hợp lại thành chữ Huệ tên vua Quang Trung.
Chuột thuộc về tý. ý nói năm tý vua Quang Trung chết). Bấy giờ không ai hiểu ra
sao, thì ra đến lúc này mới nghiệm.
Sau khi
vua Quang Trung mất, việc cầu hôn và việc đòi đất không thấu đến triều đình
Trung Quốc, nên vua Thanh cũng không biết (theo gia phả họ Vũ (Vũ Văn Dũng) thì
tờ biểu đã đệ lên vua Thanh, và đã được vua Thanh nhận lời gả công chúa cùng
trả lại đất Quảng Đông. Sau nghe tin vua Quang Trung chết nên việc đó mới đình
chỉ).
Tháng ấy
con trưởng vua Quang Trung là Quang Toản theo di mệnh của vua cha, lên nối
ngôi, đổi năm sau tức là năm Quí Sửu (1793) làm năm đầu niên hiệu Cảnh thịnh,
và truy tôn vua Quang Trung làm Thái tổ Vũ hoàng đế. Rồi đó, Quang Toản sai sứ
thần sang Trung Quốc báo tang, đem dâng các sản vật địa phương và hai thớt voi
đực; lại sắp xếp lễ cống hàng năm và làm tờ biểu xin phong vương, để hai sứ bộ
cùng đi một lúc. Trong tờ biểu có nói: "Vâng lời dặn lại của vua cha, sau
khi chết, không đưa di hài về quê hương, mà chôn cất ở làng Linh Đường (thuộc
huyện Thanh Trì (Hà Nội)) phía ngoài kinh thành để tỏ lòng mến nhớ cửa khuyết.
. .".
Vua
Thanh khen ngợi, tức thì sai sứ thần sang làm lễ tế. Quang Toản bèn làm ngôi mộ
giả ở làng Linh Đường để nhận lễ thăm viếng của nhà Thanh. Trong bài văn tế của
nhà Thanh có câu: "Chúc ngôi Nam cực, lòng trung đà tỏ trước sân triều;
yên giấc Tây Hồ, trọn đời vẫn không quên cửa khuết".
Vua
Thanh lại ban cho thuỵ hiệu là "Trung thuần" và ban tặng một bài thơ,
bảo khắc vào đá, dựng bên trái mồ vua Quang Trung để làm nổi rõ sự vinh hiển.
Rồi đó,
vua Thanh phong cho Quang Toản làm An Nam quốc vương.
Sau khi
được phong, Quang Toản bãi lệnh đeo "tín bài", triệt hồi các đạo quân
đi bắt dân lậu, nghiêm cấm việc quấy nhiễu nhân dân, dùng cậu ruột là Bùi Đắc
Tuyên làm chức thái sư, coi tất cả mọi việc chính sự của triều đình.
Vì thấy
Quang Toản còn nhỏ, Đắc Tuyên ra mặt chuyên quyền, tha hồ làm oai làm phúc, các
quan văn võ đều nem nép kiêng sợ, mầm mống tai hoạ bắt đầu từ đấy.
Lại nói,
vua Lê từ mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789) chạy sang đất Trung Hoa, trọ ở thành Quế
Lâm.
Mùa đông
năm ấy, vua Thanh nghe lời bàn của bọn Khang An, Hoà Khôn, phong vương cho
Nguyễn Huệ, lại giáng chỉ đòi vua Lê vào Yên Kinh. Mùa xuân năm Canh Tuất
(1790), vua Lê bắt đầu lên đường, tháng năm mùa hè năm ấy thì đến Yên Kinh. Các
quan văn võ của nước ta trước sau sang đất Trung Quốc đều được lần lượt đi
theo.
Vừa khi
ấy, vua Thanh đi tuần du, gặp bọn Lê Quýnh ở tỉnh Sơn Đông, bèn sai người gọi
vào ra mắt và dụ rằng:
- Chủ
các ngươi đã xin yên ổn ở lại Trung Quốc, lũ các ngươi giốc lòng cùng theo, thì
nên lập tức gọt đầu gióc tóc, đổi đồ mặc để chờ mệnh lệnh.
Bọn
Quýnh tâu rằng:
- Lũ
tiểu thần từ xa xôi muôn dặm theo trốn sang đây, xin cho được dùng phong tục
bản xứ để ra mắt quốc vương, rồi sau sẽ xin vâng chỉ.
Vua
Thanh khen ngượi hồi lâu, rồi bảo họ đi thong thả lên Yên Kinh.
Lúc bấy
giờ, vua Lê cùng thái hậu và con đầu của vua trọ ở cửa Tây Định trong thành Yên
Kinh, cạnh nhà Quốc tử giám, trước cửa có biển đề: "Tây An Nam doanh"
(Dinh An Nam phía tây). Còn các bề tôi thì ở trong cửa Đông Trực, cạnh nhà
Dương phố, ngoài cửa có biển đề: "Đông An Nam doanh" (Dinh An Nam
phía đông). Tất cả bọn đều được nhà Thanh chiểu theo số người mà cấp phát cho
lương ăn, và cho phép tự do qua lại.
Một hôm,
nghe tin vua Thanh sắp ra Nhiệt Hà tránh nắng, mờ sáng ngày mai thì lên đường.
Nhân dịp đó vua Lê liền cùng các bề tôi thảo ra tờ biểu xin quân cứu viện, rồi
nhờ vào viên đô thống đội Cờ viền vàng tên là Kim Giản, để xin yết kiến vua
Thanh.
Đến khi
xe vua Thanh đi qua, vua Lê cùng các bề tôi đều quỳ xuống yết kiến ở mép đường
bên trái. Xe vua Thanh dừng lại một chút, có viên thông ngôn báo rằng:
"Hoàng đế có chỉ khen thưởng". Rồi viên đó giục họ lạy tạ và trở về
doanh. Lát sau, đã thấy Kim Giản vâng chỉ vua Thanh phong cho vua Lê chức tá
lãnh, đời đời nối chức và được lĩnh áo mũ tam phẩm.
Vua Lê
bất đắc dĩ phải nhận vậy. Cách mấy hôm sau, lại thấy có viên quan ở nội phủ
vâng chỉ vua Thanh đòi vua Lê vào sân điện, ban cho bốn trăm lạng bạc và sai
người sắp sẵn cho các thứ đồ vật. Còn những bề tôi đi theo, đều được cấp mỗi
người năm trăm đồng tiền. Các lễ mừng, lễ điếu ở trong nước, đều chiểu theo như
thể lệ đã định cho những người thuộc tám hiệu cờ.
Năm ấy,
vua Lê thấy người Thanh không thể tin cậy được, bèn cùng bọn Phạm Như Tùng,
Hoàng ích Hiểu, Lê Hân, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Văn Trưởng, Lê
Quí Thích và Nguyễn Đình Cẩm, người làng Hương Ngạnh, huyện Từ Liêm, Lê Tùng
người làng Tây Đàm, Lê Thức người làng Đáp Cầu, huyện Hoằng Hoá cùng nhau uống
máu ăn thề, rồi cùng thảo tờ biểu, xin quân cứu viện. Lại bàn nếu xin quân
không được, thì sẽ xin đất cũ là hai châu Tuyên Quang, Hưng Hoá để thờ tổ tiên,
hoặc lẻn vào Gia Định để mưu đồ việc khôi phục, nhỡ có gặp sự bất trắc thì sống
chết cũng liều.
Thảo
xong tờ biểu, bọn họ đến báo trước cho Kim Giản biết, Kim Giản không tiếp. Vua
tôi nhà Lê cùng nhau rập đầu xuống đất mà kêu thật to. Kim Giản bất đắc dĩ phải
mời vào nhà, pha trà thết đãi, rồi bảo:
- Vương
hãy cứ về quán trọ mà chờ, sẽ bàn bạc sau.
Được hơn
một tháng, thấy có viên quan nhà Thanh tên là Khoa Lan tới báo với vua Lê rằng:
"Đã có chỉ truyền tạm cho vương vùng đất Khâm Châu (thuộc Quảng Đông). Chờ
đến năm sau vào dịp mùa xuân hoa nở sẽ trở về nước cũng không muộn gì".
Vua tôi
nhà Lê đều không tin.
Tháng
ba, mùa xuân năm Tân hợi (1791). Hoà Khôn lập mưu chia đám vua tôi nhà Lê ra
mỗi người một nơi để họ khỏi kêu ca, bèn sai Khoa Lan cưỡi ngựa tới nói dối
rằng:
- Đã có
chỉ truyền cho vương về ở đất Tuyên Quang, vậy các bề tôi cần phải chỉnh đốn mũ
áo để cho vương vào triều tạ ơn.
Các bề
tôi nhà Lê ở doanh Đông đều tin là thật, bèn theo đến ấn phòng. Khôn sai người
lấy khoá sắt khoá luôn lại, rồi dùng xe trâu đưa họ đi ra ngoài ba trăm dặm, an
trí Hoàng ích Hiểu ở Y Lê, Lê Hân ở Phụng Thiên, Như Tùng ở Hắc Long Giang,
Quốc Đống ở Cát Lâm, Viết Triệu ở Trương Gia Khẩu thuộc Nhiệt Hà, chỉ để một
mình Trần Thiện ở lại hầu hạ quốc vương.
Vua Lê
nghe tin ấy, lo giận bồn chồn, đến sáng sớm cưỡi ngựa vào nhà Kim Giản, định
kêu cho các bề tôi. Vừa lúc ấy, Kim Giản đã vào chầu vua Thanh ở vườn Viên
Minh. Vua Lê lập tức ruổi ngựa đi thẳng tới cửa vườn, nhưng đến nơi thì bị lính
canh cửa ngăn lại. Người dắt ngựa của vua Lê là Nguyễn Văn Quyên, quê ở Bố Vệ,
phục xuống đất kêu ầm lên. Bọn người Thanh sợ tiếng kêu gào vang đến chỗ vua
Thanh, bèn giật lấy con ngựa của vua Lê, rồi vực luôn cả nhà vua lên xe bắt đến
toà Thận Hình giữ lại.
Văn
Quyên bèn cất tiếng mắng to:
- Bọn
chó Ngô vô lễ, dám làm nhục vua ta!
Sau đó,
Văn Quyên lập tức lấy gạch ở sân ném bừa vào bọn chúng. Đám quân lính giữ vườn
nổi giận, xúm lại đánh Văn Quyên gần chết, đoạn cũng bắt đến giam ở toà Thận
Hình đúng một tháng mới tha cho về. Văn Quyên nhân thế bị bệnh mà chết.
Lúc bấy
giờ, Nguyễn Huy Túc đang lánh ở vùng núi Tản Viên (tức núi Ba Vì ở Sơn Tây (Hà
Nội)), nghe thấy việc ấy, cho Văn Quyên là có nghĩa, bèn làm bài
"Tán" như sau:
"Trung
thay mã đồng! Giỏi thay mã đồng! (người hầu ngựa)
Mến chúa
lòng trung nghĩa, theo đuổi việc binh nhung.
Tấc dạ
như voi, khỉ (Đường Huyền-tông thường tập cho voi quỳ lạy, lúc An Lộc Sơn cướp
ngôi, cũng bắt voi quỳ nhưng voi không nghe. Đường Chiêu Tông có con khỉ biết
quỳ lạy; lúc Chu Toàn Trung cướp ngôi, cũng bắt khỉ lạy, khỉ không chịu); một
đức như kiến, ong.
Mạnh mẽ
như loài gấu; thẳng thắn như chim hồng
Cắt đâm
chẳng lánh, hổ doạ cũng xông.
Ngựa
trời vung cẳng; hùm sói tranh phong.
Phì
nguyền da ngựa (theo ý câu nói của Mã Viện nhà Hán: "Làm trai nên lấy da
ngựa bọc thây". Chỉ việc hăng hái hy sinh nơi chiến trận); để tiếng vô
cùng.
Kìa ai
đó?
Xiêm bào
ngoài mặt; sâu mọt trong lòng.
Ruồi
xanh xu nịnh, hươu ngựa gian hùng (thơ "Thương dăng" Kinh Thi ví bọn
tiểu nhân như đàn ruồi xanh. Triệu Cao, gian thần nhà Tần, chỉ con hươu mà nói
với vua là con ngựa).
Sao
chẳng bảo chúng:
Sung làm
hẩu ngựa; bắt muỗi giết trùng.
Vậy dám
đặt tên cho anh là Trung tráng công!"
Trong
lúc vua Lê ở toà Thận Hình, một hôm Hoà Khôn sai người đến doanh Tây, ép thái
hậu bảo phải thảo tờ biểu nói rằng: quốc vương tình nguyện ở lại đất Trung
Quốc, việc xông vào cửa khuyết và làm huyên náo là tại các người bề tôi gây ra.
. .
Biểu
đang thảo thì viên giám thần là Nguyễn Trọng Đắc trông thấy, liền giật lấy bản
nháp xé đi và nói:
- Bị
người ta lừa dối mà đưa các bề tôi đến chỗ chết thì làm thế nào?
Người
Thanh lại bắt ép Trọng Đắc về ở doanh Tây, rồi cấm hai doanh không được tự tiện
đi lại với nhau.
Một hôm,
con vua Thanh, tước vương thứ sáu, nhân lúc lui triều thư thả, tới nhà Hoà Khôn
nói chuyện, có bàn đến việc nước An Nam. Vương nói:
- Vua
tôi họ Lê gặp nạn chạy sang nước ta, mà cầu cứu không được, cũng nên thương
xót, giúp đỡ họ. Chắc các bề tôi của họ cũng đều là người trung nghĩa. Nay họ
không có tội gì mà bắt giam ở đất xa, nước ngoài nghe thấy, họ sẽ bảo Trung
Quốc ra sao?
Khôn
nói:
- Hoàng
thượng đã có chỉ truyền như vậy, việc ấy đức vương không cần phải biết đến!
Vương
nói:
- Hoàng
thượng tuổi đã già, việc nước đều đo quốc lão đây xử trí; mọi việc đúng hay
sai, quan hệ không phải nhỏ. Ta đây sao lại không cần biết!
Khôn vốn
cậy thế vua Thanh yêu mến, lại ăn nói vô lễ, khiến cho vương giận lắm, lập tức
cầm chiếc bàn cờ đánh Khôn. Cả bọn người ngồi đấy đều đứng dậy khuyên giải, can
ngăn, Khôn mới thoát nạn.
Hôm sau,
Khôn hậm hực vào kêu với vua Thanh. Vua Thanh tức thì nổi giận lôi đình, sai
người đòi vương vào, định tự tay đánh đòn. Viên quan nội các là A Lâm rập đầu
xuống đất cố sức can, vua Thanh mới chịu thôi, liền sai người đánh vương ở
trước sân điện mười gậy.
Vương
lui ra, tức quá thành bệnh. Cách vài ngày, bệnh thêm nặng, vương bèn gọi các
vương thứ tám, thứ mười một và thứ mười bảy tới dặn rằng:
- Trong
ba em, chưa biết sau này hoàng thượng lập ai? Hễ ai nối ngôi thì phải trừ khử
tên gian tướng ấy đi, đừng có để mối lo lại cho xã tắc!
Ba người
nghe lời, đều lạy hai lạy xin vâng và lui ra. Sau đó, vương mất.
Từ đấy,
vua Lê không còn dám nói đến việc xin quân cứu viện nữa, nhưng trong lòng uất
ức không bao giờ nguôi.
Tới mùa
hè, năm Nhâm Tý (1792), con đầu của vua Lê lên đậu rồi mất. Nhân thế, vua Lê lo
buồn sinh bệnh, thoi thóp nằm liệt không dậy được. Năm sau, bệnh nhà vua càng
nguy kịch, các bề tôi bị an trí ở những nơi khác đều dâng biểu về hỏi thăm.
Lúc đó,
có người gia đồng của Lê Như Tùng tên là Lê Huy Vượng, vì có công hầu hạ khó
nhọc, vua Lê cho làm con nuôi, đặt tên là Duy Khang, bảo giữ việc thờ tự hoàng
khảo và hầu hạ thái hậu.
Lúc hấp
hối, vua Lê gọi các thị thần tới nhận lời trăng trối, nhà vua nói:
- Trẫm
gặp phải lúc vận nhà suy kém, không thể giữ được xã tắc; phiêu bạt ở đất nước
người để hòng tính việc khôi phục, lại bị đứa quyền gian lường gạt; uất ức đến
mãi bây giờ, phải ôm hận mà chết, thật do lòng trời gây nên. Sau này nếu các
ngươi được về nước, thì nên đèo nắm xương tàn của trẫm cùng về, chôn ở cạnh
lăng tẩm của các vị thánh hoàng đời trước, để tỏ rõ chí hướng của trẫm. Các
người nên ghi nhớ lấy và nói cho mọi người đều biết.
Các bề
tôi đều khóc lạy, xin vâng lời.
Rồi đó
vua Lê tắt thở, thọ 28 tuổi. Bấy giờ là ngày 16 tháng mười, mùa đông năm thứ 58
niên hiệu Càn-long nhà Thanh (1792).
Vua
Thanh sai dùng lễ quốc công an táng vua Lê ở khu Quảng Lăng, ngoài cửa Tây
Trực, đất rộng chừng ba mẫu, xung quanh có giậu ngăn; lại bảo các bề tôi đi
theo đều theo lễ mà chế đồ tang trở. Sau đấy, vua Thanh bèn cho Duy Khang nối
chức tá lãnh.
Nguyễn
Viết Triệu ở Nhiệt Hà, tiếp được tin buồn, liền đặt linh vị làm lễ thành phục,
khóc lóc thảm thương, hôn mê luôn mấy ngày, rồi phát bệnh mà chết.
Đến năm
đầu niên hiệu Gia-khánh nhà Thanh, tức là năm Bính Thìn (1796), hết trở vua Lê,
Thái hậu thấy các bề tôi đi theo, ở nơi đất khách cô đơn khổ sở, mà chưa biết
đến ngày nào mới trở về, bèn dâng tờ biểu xin cho các người theo trốn sang
Trung Quốc đều được lấy vợ.
Vua
Thanh cho phép và ban cho mỗi người tám lạng bạc, 35 đồng tiền lớn để làm lễ
cưới, bảo họ ai ở chỗ nào, cứ tuỳ tiện yên phận mà sinh cơ lập nghiệp ở chỗ ấy.
Lại nói,
vua Tây Sơn (từ đây, trong bản chữ Hán đều theo quan điểm của triều Nguyễn dùng
chữ "Tây nguỵ" để trỏ nhà Tây Sơn) là Quang Toản, tuổi trẻ nối ngôi,
Đắc Tuyên chuyên chính đã lâu, hình ngục phiền hà, trong ngoài chia lìa, Bắc,
Nam nhốn nháo, lòng người lung lay. Mặt khác, quân của triều Nguyễn (trong bản
chữ Hán, từ đây về sau đều dùng hai chữ "hoàng triều" để chỉ triều
Nguyễn (Gia-long)) từ năm Mậu thân (1788) đã lấy lại thành Gia Định; năm Canh
tuất (1790) lấy lại được hai phủ Bình Thuận và Duyên Khánh. Từ đó trở đi, quân
triều Nguyễn luôn luôn tiến đánh mặt bắc, thanh thế rất mạnh. Mười ba thừa
tuyên ở Bắc Hà cũng đều nghển cổ để chờ sự trung hưng của triều nhà Nguyễn. Sự
bại vong của nhà Tây Sơn, những kẻ am hiểu tình thế đều nhìn thấy rõ ràng,
nhưng riêng vua tôi nhà Tây Sơn thì vẫn không biết.
Thật là:
Gặp nước
thuồng luồng đà hoạt bát,
ở nhà én
sẻ vẫn im lìm
Chưa
biết sự thể ra sao? Hãy xem hồi sau phân giải.
__
Theo
điển trong sách Khổng tùng tử, én sẻ ở trên mái hiên, không biết rằng người nhà
đã có lửa cháy. . . ở đây ý nói nhà Nguyễn đã gặp thời cơ như thuồng luồng gặp
nước; Quang Toản sắp bị diệt mà vẫn không biết gì cả
Chương 17 : Mất thành Thăng Long, vua Cảnh
Thịnh bị bắt, Táng lăng Bàn Thạch, Nguyễn Hoàng Phi chết theo
Lại nói, vào năm đầu khi vua Tây Sơn Quang
Toản mới lên nối ngôi tức là năm Quý sửu (1793), đại quân của nhà Nguyễn
(Nguyễn Ánh) cả thuỷ lẫn bộ, từ Gia Định kéo ra đánh vua Tây Sơn Nguyễn Nhạc ở
thành Quy Nhơn. Tướng sĩ của Nhạc đánh mãi đã mệt nhọc, thế lực dần dần cùng
quẫn, Nhạc bèn sai người đến chỗ Quang Toản xin quân cứu viện. Quang Toản hợp
các tướng mà bảo rằng:
- Ta
nghe nói "môi hở răng lạnh, môi còn răng ấm", nay vua bác có nạn mà
sức chống giữ kém cỏi, không thể không cứu.
Rồi Toản
cho đô đốc Nguyễn Diệu làm chức đại tổng quản, dẫn quân vào Nam cứu Nhạc. Quân
chúa Nguyễn lại rút về.
Tháng 8
năm ấy, Nhạc mất, con cả là Quang Thiệu lên nối ngôi. Nhân thế, Diệu chia quân
giữ lấy thành. Tiếng là cứu viện, nhưng thực ra là thôn tính ngấm ngầm.
Năm sau,
tức là năm Giáp Dần (1794), Quang Toản lại sai Đắc Trụ (có sách chép Đắc Thân,
là con Đắc Tuyên) làm chức tán nghị, đi vào Qui Nhơn cùng với Quang Thiệu trấn
giữ thành ấy và lấy Nguyễn Diệu làm thống suất, lĩnh đại quân tiến đánh thành
Nha Trang. Từ Lê Văn Trung trở xuống, tất cả bảy tướng đều được gia phong làm
tước quận công quản binh và nghe theo lệnh chỉ huy của Diệu. Diệu tiến sát
thành Nha Trang, mà quân tuần tiễu thì đã đến tận địa phận tỉnh Bình Thuận.
Quân nhà Nguyễn hết sức chống giữ khiến Diệu không thể thắng nổi. Hồi đó, quân
Tây Sơn luôn luôn đến xâm lấn miền Nam, hai bên chống chọi với nhau đến hàng
năm.
Thình
lình Diệu nghe tin cha con Bùi Đắc Tuyên và Ngô Văn Sở đều bị bọn tư đồ Dũng và
thái bảo Hoá giết chết, bèn vội vàng kéo quân về, họp bàn cùng bọn tướng tá,
định dùng quân lực bắt hiếp bọn Dũng.
Nguyên
từ năm Quang Toản mới lên ngôi tới khi ấy, Đắc Tuyên thì chuyên quyền, còn Văn
Sở thì trấn giữ thành Thăng Long, coi hết việc quân, dân, rồi được thăng chức
đại tổng lý, tước quận công. Năm ấy Quang Toản lại sai đại tư đồ Dũng ra coi
binh mã bốn trấn ở miền Bắc. Dũng đến nhà trạm Hoàng Giang, gặp trung thư lệnh
là Trần Văn Kỷ phạm tội bị đày ở đó. Dũng cùng ngủ đêm với Kỷ, Kỷ bèn nói với
Dũng rằng:
- Quan
thái sư (chỉ Đắc Tuyên) chức vị đã cao tột bực, trong tay nắm quyền làm oai làm
phúc, lại đẩy ông ra ngoài, nếu có sự chẳng lợi cho nhà nước, các ông phỏng còn
giữ được đầu chăng? Bây giờ chẳng sớm liệu đi, sau này ăn năn sao kịp?
Dũng vốn
tin và trọng Văn Kỷ, bèn cho lời Kỷ là phải. Hôm sau, Dũng đem quân bản bộ gấp
đường quay về, hợp mưu với thái bảo Hoá, bắt phe đảng Đắc Tuyên bỏ ngục; lại
sai người vào Qui Nhơn bắt Đắc Trụ và sai đô đốc Hài ra thành Thăng Long lập
mẹo bắt Ngô Văn Sở đưa về, rồi thêu dệt thành tội trạng làm phản mà đem dìm
xuống nước cho chết hết.
Quang
Toản không thể ngăn chặn nổi, đành chỉ khóc lóc mà thôi. Sau đó, Dũng lại sai
Hoá vào giữ thành Qui Nhơn.
Chẳng
mấy chốc, Diệu ở Nha Trang nghe tin, đêm ngày lo nghĩ, chỉ sợ vạ lây đến mình,
bèn bảo các tướng rằng:
- Chúa
thượng không cương quyết, đại thần giết lẫn nhau, tai biến không gì lớn hơn thế
nữa. Nay hãy kéo về để dẹp yên cuộc phiến loạn ở bên trong, rồi sau lại vào
đánh giặc cũng được.
Các
tướng đều nói:
- Xin
theo mệnh lệnh!
Ngay hôm
ấy Diệu giải vây cho thành Nha Trang rồi kéo quân về thành Qui Nhơn. Hoá nghe
tin, đến tạ tội trước. Diệu lờ đi không hỏi. Về tới làng Yên Cựu (ở phía nam
thành phố Huế, trên bờ sông Hương (Bình Trị Thiên)), Diệu đóng quân ở bờ nam
sông. Dũng cùng bọn nội hầu Tứ thì đem bản bộ đóng ở bờ bắc sông, mượn mệnh
lệnh của nhà vua để chống lại với Diệu.
Quang
Toản sợ lắm, phải sai bọn trung sứ qua lại vỗ về, hoà giải, Diệu mới chịu đem
bọn tả hữu vào yết kiến Quang Toản và giảng hoà với bọn Dũng; kế đó Diệu lại
xin gọi Hoá về và xin cho Lê Văn Trung thay chân Hoá, trấn giữ thành Qui Nhơn.
Lúc đó,
bọn người ở bên cạnh Quang Toản ngày đêm gièm pha rằng, oai quyền của Diệu lớn
quá, đang toan có mưu khác. Toản tin là thật, liền rút hết binh quyền của Diệu,
chỉ cho giữ một chức quan vào hàng thị thần mà thôi. Bình sinh Diệu vốn tương
đắc với Lê Văn Trung, bèn gửi thư mật vào Qui Nhơn, hẹn Trung cất quân lập
Quang Thiệu làm vua mà bỏ Quang Toản. Trung theo lời, bèn kéo quân về, đồng
thời xin Quang Thiệu thân đem quân tiếp ứng phía sau.
Quân
Trung về đến Quảng Nam, trong ngoài nhốn nháo sợ hãi. Quang Toản họp các quan
lại bàn bạc, mọi người đều nói:
- Bảo
Văn Trung lui quân, phi Diệu không ai làm được!
Quang
Toản liền sai Diệu đi. Văn Trung không báo trước với Quang Thiệu mà một mình
một ngựa theo Diệu về yết kiến Quang Toản. Quang Thiệu nghi ngờ, sợ hãi, lập
tức rút quân và voi về thành Qui Nhơn, đóng chặt cửa thành để cố thủ.
Quang
Toản sai tướng đến đánh liên tiếp mấy tuần không hạ được, bèn tự mình làm tướng
đem quân đi. Đến Lê Giang, có viên thái phủ tên là Mân nói với Toản rằng:
- Cuộc
biến loạn Quang Thiệu thực do Văn Trung gây nên, tội không thể tha, xin giết
ngay để răn kẻ khác.
Quang
Toản cũng cho là phải, bèn sai vời Trung vào dinh, bảo võ sĩ trói lại đem chém.
Sau đó, Toản vỗ về tướng sĩ, hạ lệnh tiến đánh Qui Nhơn, mười ngày hạ được
thành, bắt sống được Quang Thiệu. Toản bèn để Mân ở lại giữ thành Qui Nhơn, rồi
cùm Quang Thiệu đưa về, dùng thuốc độc giết chết.
Nhà Tây
Sơn kể từ khi Văn Nhạc, chiếm giữ Qui Nhơn vào năm Mậu Tuất (1778), tức là năm
thứ 39 niên hiệu Cảnh Hưng, thì tự xưng là thiên vương, đặt niên hiệu là Thái
Đức; năm Canh Tý (1780) lại xưng hoàng đế, lập Quang Thiệu làm thái tử. Năm Quý
sửu (1793), Nhạc mất, Thiệu lên nối ngôi, được năm năm, đến năm Mậu Ngọ (1798)
thì mất nước, tất cả là 21 năm.
Lại nói,
sau khi Văn Trung bị Quang Toản giết, con rể Trung là Chất nghi ngờ, sợ hãi,
bèn phản Tây Sơn, vào Nam đầu hàng chúa Nguyễn ở Gia Định. Chúa Nguyễn cho coi
quân ngự lâm.
Nguyên
lúc đầu, Chất thờ Quang Toản, giỏi về tài đánh dẹp, làm đến chức đại đô đốc.
Đến khi Văn Trung chết, Chất bỏ quân lính chạy trốn. Thái phủ Mân sợ Chất làm
loạn, liền lùng bắt rất gấp. Chất có người đày tớ nghĩa hiệp hoá trang như hình
dáng của Chất, rồi tự tử ở khe núi, để cho Mân thôi, không lùng bắt Chất nữa.
Chẳng bao lâu, Mân biết là giả dối, bèn treo giải thưởng truy lùng Chất hết sức
ráo riết. Chất bất đắc dĩ phải ra thú ở cửa quan của Mân. Mân liền sai Chất coi
toán quân tiền phong, để chờ sai phái, và định bụng dùng quân luật mà giết
chết. Chất biết ý ấy, bèn dỗ bọn tướng tá của y, gồm sáu mươi người, đem quân
và voi vào Nam, dâng biểu xin hàng. Sau Chất vâng mệnh chúa Nguyễn đem quân
đánh nhau với Mân. Quân Mân thua to, Mân phải chạy vào núi rừng mà trốn; quân,
voi, khí giới đều bị Chất thu sạch.
Quang
Toản nghe tin, lại sai đại tư đồ Vũ Tuấn dẫn binh tới trấn, chiêu tập tàn quân
để đóng giữ.
Đến năm
Canh Thân (1800), quân chúa Nguyễn vượt biển ra đánh, sức Tuấn chống không nổi,
dâng thành xin hàng. Chúa Nguyễn bèn đổi thành Qui Nhơn làm trấn Bình Định, sai
quan coi hậu quân là Tính quận công Võ Đình Tính (cũng thường gọi là Võ Tính)
đem quân đóng giữ, còn thượng thư bộ Lễ là Ngô Tòng Chu thì làm chức hiệp trấn.
Được vài
tháng, Quang Toản sai thống suất Diệu và tư đồ Dũng đốc suất các đạo quân thuỷ
bộ vào đánh Qui Nhơn. Diệu coi quân bộ, Dũng coi quân thuỷ, hai đạo hợp sức mà
đánh. Quân Nguyễn hết sức chống giữ bọn Diệu không thể đánh thắng. Dũng bèn
dùng ba chiếc tàu chiến lớn, chặn ngang cửa biển Qui Nhơn, trên tàu lập chòi
gác, đặt súng lớn; phía trong lại dàn quanh vài trăm chiếc chiến thuyền, đốc
thúc quân thuỷ canh giữ đề phòng quân cứu viện ở ngoài đến.
Năm sau,
bị quân Nguyễn đánh tan, tàu lớn và chiến thuyền đều bị thiêu huỷ. Dũng lên bộ,
dẫn tàn quân mà chạy, rồi hợp quân với Diệu.
Quân Tây
Sơn đã mất đường thuỷ, bèn đắp luỹ đất, ụ đất ở xung quanh thành Qui Nhơn, để
đứng trên đó mà bắn vào thành; lại lập nhiều đồn trại kiên cố, chứa chất quân
lương, làm kế ở lâu. Nhưng quân Nguyễn canh giữ rất cẩn mật, bọn Diệu không sao
hạ được thành. Quang Toản rất lấy làm lo.
Lúc ấy
lại có bọn cha cố của đạo Gia-tô tây dương (tiếng dùng để gọi các nước phương
Tây nói chung) ở trong nước Nam, đi khắp nơi dụ các đạo đồ làm loạn. Các nơi
nổi lên như ong, Quang Toản liền sai bắt bọn trùm trưởng của họ đem giết chết,
rồi triệt hạ các nhà giảng, phá huỷ các ảnh tượng và đốt các sách tây của họ.
Hễ bắt được đồ đảng của họ, lại bắt phải giẫm chân lên ảnh thì mới tha, ai
không chịu thì bắt sung quân nuôi voi, cắt cỏ cho voi ăn. Bởi thế, giáo dân tức
giận, càng xui giục lẫn nhau, đâu đâu cũng đều náo động.
Còn quân
nhà Nguyễn thì hàng năm ra đánh, thanh thế lừng lẫy. Mỗi khi gió nam nổi lên,
thì nhân dân các trấn lại nói với nhau: "Chúa cũ ra đấy!" (bấy giờ
hàng năm cứ đến khoảng tháng 4, tháng 5 khi gió nam thổi mạnh thì Nguyễn ánh
đốc quân thuỷ bộ ra đánh, đến lúc có gió mùa đông bắc thổi thì lại rút quân về.
Người đương thời thường gọi những đợt tấn công như vậy là những trận "giặc
mùa". Bọn sĩ phu phản động chống Tây Sơn và ngả theo Nguyễn ánh mới nhân
đó, đặt ra câu ca dao: Lạy trời cho chóng gió nồm, Cho thuyền chúa Nguyễn thuận
buồm trẩy ra).
Lúc đó,
nhà Nguyễn cho rằng tướng mạnh và quân tinh nhuệ của Tây Sơn đều tụ họp cả ở
Qui Nhơn mà Quang Toản ở thành Phú Xuân thì quân lính phòng giữ rất yếu ớt, bèn
đốc suất hết thuỷ quân và trên một ngàn chiến thuyền, hẹn ngày thuận theo gió
nam vượt biển ra phía bắc. Cờ quạt chói nắng, chiêng trống vang trời, xông
thẳng vào đánh cửa Thuận An. Tướng Tây Sơn là phò mã Trị đem hết quân lính
chống giữ, địch không nổi, phải tan vỡ. Quang Toản nghe tin, lại đốc hết tướng
sĩ, tự mình cầm quân tới đánh nhau với quân Nguyễn. Gần trưa, quân Toản đại
bại, vỡ chạy tan tác. Quân chúa Nguyễn bèn tiến lên, chiếm lại đô thành. Hôm đó
nhằm vào ngày mùng 3 tháng năm, mùa hè năm Tân dậu (1801), tức là năm thứ 24,
kể từ khi chúa Nguyễn ánh quyền giữ việc nước.
Sau khi
thua trận, Quang Toản rụng rời hoảng hốt, liền thay đổi đồ mặc, cùng vài người
quan hầu, cưỡi ngựa chạy trạm, chạy ra miền Bắc. Đến Nghệ An ở lại vài ngày,
rồi lại ra Thăng Long hộ họp tướng sĩ, lo việc chống giữ. Tháng sáu mùa hè năm
ấy, thình lình viên trấn thủ Nghệ An là Nguyễn Thận sai người báo tin lầu Rồng
ba tầng ở đấy tự dưng đổ sụp. Những người nghe tin đều cho là điềm chẳng lành.
Sang đầu
mùa thu, quan nhà Nguyễn là Tường quang hầu cùng Thuỵ ngọc hầu vâng chỉ đem
quân theo hai đường Hương Sơn và Trấn Ninh ra đánh, để quấy rối trấn Nghệ An.
Nguyễn Thận sai tướng đón đánh, quân của Thận luôn bị thua. Sau vài ngày, Tường
quang hầu vì lũ lụt không thể ở lâu, bèn đem thuyền cũ cắm ở cửa sông vùng
Hương Sơn, đầu và đuôi thuyền bện cỏ làm hình quân lính, cho mặc áo giáp cầm
kích, trong thuyền đắp vài đĩa đèn để cho quân Tây Sơn nghi ngờ, rồi nhân lúc
đêm tối đem quân bản bộ cưỡi thuyền nhẹ xuôi dòng xuống phía đông, ra cửa Nam
Giới, vượt biển mà về Nam. Đến khi quân Tây Sơn biết thì quân của Tường quang
hầu đã đi được hai ngày rồi. Thuỵ ngọc hầu cũng từ Trấn Ninh rút quân theo
đường mạn ngược mà về kinh sư.
Ngày
tháng tám năm ấy (1801), Quang Toản ở Thăng Long, xuống tờ dụ vỗ về quân dân
các trấn, và đổi niên hiệu Cảnh Thịnh làm năm đầu niên hiệu Bảo Hưng. Tháng
mười một mùa đông năm ấy, Quang Toản thân hành đem quân và voi của bốn trấn Hải
Dương, Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh Bắc và hai trấn Thanh Hoa, Nghệ An vào đánh,
nhưng bị quân nhà Nguyễn đánh thua, lại phải rút về.
Mùa xuân
năm Nhâm Tuất (1802), quân nhà Nguyễn qua sông Gianh tiến đánh hạ được đồn Tâm
Hiệu thuộc châu Bố Chánh. Quân Tây Sơn tan vỡ, chạy về doanh Hà Trung trong hạt
Kỳ Anh. Tháng năm mùa hè năm ấy (1802), chúa Nguyễn hạ chiếu đổi niên hiệu làm
năm đầu niên hiệu Gia Long, ban tờ dụ ra cho quân dân Nam Hà, Bắc Hà đều biết.
Nguyên
từ năm 49 niên hiệu Cảnh hưng, tức là từ năm Bính ngọ (1786) trở về sau, nhà
Nguyễn vẫn dùng niên hiệu cũ của nhà Lê.
Năm Nhâm
Tuất (1802) này, lúc đầu cũng vẫn còn gọi là năm Cảnh-hưng, đến bây giờ mới đổi
ra niên hiệu mới.
Bấy giờ,
trong thành Qui Nhơn hết ăn, quan quân đều đói mệt. Viên tham tán là Ngô Tòng
Chu uống thuốc độc chết trước. Tính quận công cũng tự đốt mà chết. Tướng sĩ hơn
vài vạn người đều ra thành xin đầu hàng. Diệu bằng lòng nhận cho hàng.
Sau khi
vào thành, Diệu lập tức bàn với bọn tướng tá đem quân về đánh kinh thành (Phú
Xuân (Huế-Bình Trị Thiên)). Qua vài ngày, Diệu đem quân ra khỏi địa giới trấn
Qui Nhơn thì bị viên phó tướng của nhà Nguyễn là Đắc lộc hầu chặn lại. Nguyên
từ năm ngoái, sau khi nhà Nguyễn lấy lại kinh thành, liền sai Đắc lộc hầu tới
đó lập đồn cắm trại để ngăn chặn sự tiến công của quân Tây Sơn. Lúc ấy, Diệu
đem quân về qua đó, đánh phá hàng nửa ngày mà không thể hạ được. Quân Diệu bị
quân nhà Nguyễn bắn sang, người chết và người bị thương gối nhau mà nằm. Diệu
chẳng biết làm thế nào, bèn đem quân và voi dọn núi mở đường đi vào địa giới
nước Ai Lao, định ra Nghệ An. Chúa Nguyễn nghe tin, lập tức cắt đặt các tướng,
thống lĩnh các đạo quân thuỷ bộ, hẹn ngày kéo ra Bắc.
Ngày 28
tháng năm, quân thuỷ của nhà Nguyễn đi tới cửa biển Đan Nhai thuộc trấn Nghệ
An, tiến đánh và phá được đồn Quần Mộc. Quân bộ cũng tiến đến phía nam sông
Thanh Long, nổ ba tiếng súng rồi vượt sang bờ phía Bắc. Hai mặt thuỷ bộ đều
tiến công, quân Tây Sơn kinh sợ, bỏ chạy tán loạn. Quân nhà Nguyễn bèn xông lên
cướp kho thóc Kỳ Lân, rồi kéo cờ phấp phới. Viên trấn thủ của Tây Sơn là Nguyễn
Thận cùng với hiệp trấn Nguyễn Triêm, thống lĩnh Đại, thiếu uý Đằng bỏ thành
chạy ra miền Bắc. Đến đồn Tiên Lý, Triêm tự thắt cổ; còn Thận chạy ra trấn
Thanh Hoa. Thế là quân nhà Nguyễn lấy được thành Nghệ An.
Diệu ở
Qui Hợp xuống đến địa phận Hương Sơn thì nghe tin Nghệ An đã tan vỡ, bèn đến
Thanh Chương, qua sông Thanh Long, do đường phía trên huyện Nam đường chạy ra
trấn Thanh Hoa. Tướng sĩ đi theo Diệu dần dần tản mát mỗi người một nơi. Quân
nhà Nguyễn đuổi theo, bắt sống được Diệu.
Ngày
tháng sáu, quân nhà Nguyễn tiến đánh thành Thanh Hoa. Em Quang Toản là đốc trấn
Bàn cùng bọn Thận, Đằng đều đầu hàng.
Ngày 18,
vua Gia Long tiến ra Thăng Long, truyền lệnh cho các quân đánh thành, quân Tây
Sơn hoàn toàn tan vỡ. Quang Toản bỏ thành cùng với em là Quang Thuỳ và bọn đô
đốc Tú qua sông Nhĩ Hà chạy về hướng bắc. Sau, Thuỳ và vợ chồng Tú đều tự thắt
cổ. Còn Quang Toản cùng các bề tôi thì đều bị thổ hào Kinh Bắc bắt được đóng
cũi đưa đến trước cửa quân. Bọn quan lại ở các trấn hoặc trốn, hoặc hàng, không
một ai dám chống lại. Quân Tây Sơn đến đấy là hoàn toàn bị dẹp tan.
Vua Gia
Long ở lại thành Thăng Long, hạ chiếu kêu gọi nhân dân yên ổn làm ăn, chia đặt
quan văn, quan võ ở các trấn: lại vời các quan văn, võ nhà Lê và các bậc kỳ
lão, hỏi về công việc ở Bắc Hà; tha bớt thuế khoá, phu phen, bãi bỏ mọi sự
phiền hà, chiếu theo sổ đinh cũ của nhà Tây Sơn cứ bảy suất đinh kén một người
lính, rồi lập ra các quân năm doanh và mười cơ.
Vài
tháng sau, vua Gia Long về kinh đô Phú Xuân, sửa lễ cáo miếu dâng tù, đem bọn
vua tôi Quang Toản ra dùng cực hình giết chết, rồi bố cáo cho khắp cả nước đều
biết (theo Đại nam thực lục chính biên, thì Quang Toản cùng những người con
khác của anh em Nhạc, Huệ đều bị Gia Long sai dùng cực hình 5 voi xé xác để
giết chết. Còn Huệ, Nhạc cũng bị trả thù rất dã man: Mồ mả bị khai quật, hài
cốt bị giã nát vứt đi; đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ của vợ chồng
Nguyễn Huệ đều bị giam ở nhà Đồ Ngoại, sau lại đưa vào cấm vố vĩnh viễn trong
ngục thất). Từ đấy Nam, Bắc yên vui, cõi bờ chung hiệp, cơ đồ sẽ thống nhất
muôn đời vậy.
Lại nói,
từ khi thái hậu nhà Lê chạy sang Yên Kinh, ở tại "Tây An Nam doanh"
được bốn năm thì cháu đầu (tức con trai cả của Chiêu Thống) mất, năm năm thì
vua Lê mất. Những người đi theo đều bị Hoà Khôn đưa đi các nơi khác, chỉ còn
thái hậu và Duy Khang ở lại Yên Kinh mà thôi. Tấc lòng cố quốc tha hương, tơ
sầu muôn mối; mưa xuân sương thu, mấy độ thở than. Thái hậu với các thị thần
thường muốn dâng biểu xin về nước, nhưng vì đất nước đang bị Tây Sơn chiếm cứ,
lại đành phải ngậm sầu mà thôi.
Ngày 11
tháng mười, mùa đông năm thứ tư, niên hiệu Gia Khánh nhà Thanh, tức là năm Kỷ
vị (1799), thái hậu lo buồn thành bệnh, mất ở "Tây An Nam doanh". Vua
Thanh giáng chỉ sai quan bộ Lễ trông coi việc tang, và đem di hài quàn tạm ở
cạnh lăng vua Chiêu Thống.
Trước
đó, từ năm ất Mão (1795), tức năm thứ 60 niên hiệu Càn-long, vua Thanh đã
truyền ngôi cho con thứ 11, tức là vua Gia Khánh. Sau khi lên ngôi, vua Gia
Khánh bèn tôn vua Càn Long làm thái thượng hoàng. Bấy giờ vua Gia Khánh nghĩ
lại lời dặn của anh, tức là vương thứ sáu, định giết Hoà Khôn, nhưng vì Hoà
Khôn là người được thượng hoàng yêu mến, nên vẫn chưa dám hạ lệnh giết.
Đến mùa
xuân năm ấy, thượng hoàng mất, vua Gia Khánh liền sai bắt Hoà Khôn, ép buộc hắn
phải tự tử, đồng thời tịch thu hết thảy gia tài của hắn.
Sau khi
giết Hoà Khôn, nhân tiện bàn đến việc vua cũ của nước Nam, vua Thanh cũng tỏ vẻ
thương hại, bèn vời các bề tôi của nhà Lê bị an trí trước kia, cho vào ở trong
xưởng Lam thần, ban ơn rất hậu, đầu tóc, quần áo đều cho được tuỳ tiện.
Năm Quý
Hợi (1803), năm thứ tám niên hiệu Gia Khánh nhà Thanh, tức là năm thứ hai niên
hiệu Gia Long ở nước ta; lúc đó đã dẹp yên xong quân Tây Sơn, nhà Nguyễn bèn
sai sứ thần sang nhà Thanh, dâng biểu trần tình và xin phong vương. Các bề tôi
cũ của nhà Lê nghe tin, liền làm tờ bẩm trình với quan nội các, xin đem linh
cữu của vua cũ và thái mẫu về nước an táng. Viên quan nội các đem việc ấy tâu lên.
Năm Giáp
Tý (1804), vua Thanh giáng chỉ cho đưa di hài của vua Chiêu Thống về táng ở quê
nhà và cho các người bề tôi trốn theo đều được về nước; lại truyền xuất tiền
công cấp cho viên tá lãnh mười lạng bạc, viên kiêu kỵ tám láng, còn từ lãnh
viên trở xuống thì kể cả đàn ông đàn bà, mỗi người lớn được năm lạng, mỗi người
nhỏ được ba lạng; đồng thời bảo các tỉnh dọc đường phải giúp đỡ và tiễn đưa họ
ra cửa ải.
Tháng
giêng năm ấy, các bề tôi mở quan tài vua Lê Chiêu Thống thì thấy da thịt đã nát
hết, chỉ có trái tim không nát, mà sắc máu hầu như vẫn còn đỏ tươi. Tính từ khi
quàn đến bây giờ đã mười hai năm. Ai trông thấy cũng đều lấy làm lạ và than
thở. Rồi đó, họ lại lượm di hài của thái hậu và con đầu của vua. Cả di hài của
Viết Triệu và Văn Quyên cũng được đưa về theo.
Ngày 13
tháng 8 mùa thu năm ấy, di hài vua Lê đưa về đến cửa ải. Hoàng phi là Nguyễn
Thị Kim nghe tin, liền từ Kinh Bắc lên cửa ải để đón linh cữu. Ngay từ hôm ấy,
hoàng phi tuyệt thực, mỗi ngày chỉ uống một chén hồ, vật vã bên linh cữu mà
khóc lóc. Ngày 23 tháng 8 di hài đưa về đến Thăng Long, các quan dựng rạp tế ở
nhà Diên tự công. Hằng ngày hoàng phi chỉ nhấm vài đốt mía mà thôi.
Ngày 12
tháng 10, các quan thay hài cốt vua Lê sang một chiếc tiểu khác, thấy trái tim
vẫn còn y nguyên.
Tế xong,
hoàng phi đến trước hương án khóc lóc thảm thiết và nói với Diên tự công rằng:
- Ta
nhẫn nhục vất vả đã mười lăm mười sáu năm trời nay, trong những ngày ấy không
phải là không dám chết, chỉ vì thái hậu, vua ta, con ta vẫn ở bên Trung Quốc,
âm tín không thông, còn mất không rõ, nên ta còn chờ đợi một chút. Nay thái hậu
cùng vua ta đều mất, con ta cũng chết, linh cữu đã về đến nước nhà thế là việc
của ta xong rồi, ta phải chết theo để hầu bên lăng tẩm mới phải.
Rồi đó,
hoàng phi liền uống thuốc độc tự tử. Ai nghe tin ấy cũng đều thương xót. Sứ
thần Trung Hoa bấy giờ đang ở đấy cũng than thở, ngợi khen mãi.
Ngày 13,
các quan lại sắm quan khách khâm liệm cho haòng phi, rồi ngày 28 cùng rước
xuống thuyền đưa về trấn Thanh Hoa.
Ngày 24
tháng 11, các quan làm lễ an táng vua Lê, thái hậu, hoàng phi, con vua ở cạnh
lăng vua Hiển-tông, trên núi Bàn Thạch (thuộc huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá). Hai
quan tài của Nguyễn Viết Triệu, Nguyễn Văn Quyên cũng táng theo ở gần đó.
Trước
đây, khi di hài vua Lê đưa về đến ải Nam Quan, Duy Khang bái biệt trước linh
cữu rồi đi về nẻo Lạng Sơn. Còn viên trấn thủ cũ của xứ Kinh Bắc là Lê Hân về
đến Thanh Hoá thì bị bệnh chết. Vợ Hân là người Trung Quốc đưa quan tài chồng
về tại quê chồng ở làng Nộn Hồ (tục gọi là làng Non Hồ), huyện Nam Đường, trấn
Nghệ An, tìm họ hàng nhà chồng để làm lễ an táng. Rồi nàng ở lại, không về
Trung Quốc; lấy người cháu trong họ chồng làm con kế tự giữ tiết trọn đời, đến
80 tuổi mới mất.
Các bề
tôi theo vua Lê lúc đó đều về quê quán. Chỉ có Trịnh Hiến lại ra làm quan với
nhà Nguyễn; rồi sau về làng, vì việc tài sắc bị kẻ thù giết chết.
Sau khi
hoàng phi đã chết theo vua Lê, người khắp cả nước ta và người Trung Quốc đều
khen là bậc tiết nghĩa.
Có người
làm bài "Tiêu cung tuẫn tiết hành" (bài trường ca về người cung phi
chết theo vua) để lưu truyền đời sau, lời rằng:
"Đất
Thuận An cạnh sông Thiên Đức, (tức sông Đuống)
Người
đời xưa gọi ấp Tỳ Bà.
Khúc tỳ
mượn ý đặt ra,
Trời
sinh người đẹp sánh hoa Đại-đề (tên một khúc ca trong Cổ nhạc phủ, ca ngợi
người con gái đẹp như hoa. ở đây mượn tên đó để chỉ người con gái đẹp)
Khí tươi
tốt nhóm về khuê tú,
Năm Cảnh
hưng ất-dậu mừng sao,
Nhà sang
sinh bậc nữ hào,
Công,
dung, ngôn, hạnh vẻ nào kém đâu.
Tuổi
mười bảy kén vào cung khuyết,
Bính ngọ
liền sớm biết điềm hùng (điềm con gấu; thơ "Tư can" Kinh Thi nói nằm
mộng thấy con bi con hùng (gấu) là điềm sinh con trai)
Ơn trên
cao cả muôn trùng,
Đượm
nhuần mưa móc phúc hồng chứa chan,
Năm đinh
vị Tây Sơn khởi biến.
Cảnh
phong trần chợt đến khôn lường.
Ngoài
thành giong ruổi xe hương,
Quân hầu
tan tác, bàng hoàng bên sông.
Vó ngựa
lạc Văn phong mấy độ,
Theo từ
vi (trỏ mẹ vua) đến Võ Nhai sơn.
Quần
Hồng lận đận núi ngàn
Liễu bồ
phải chịu muôn vàn long đong,
Xa trông
đợi tin rồng vắng bặt,
Chốn
nhàn đình nước mắt chứa chan.
Bỗng đâu
tiếng trống nổi ran,
Tướng
Cao Bằng rước xe loan lên đường.
Tới Mục
Mã vội vàng nghỉ lại,
Thuyền
vua giong lên ải Phất Mê.
Địch
nghe tin, kíp đuổi kề,
Tên bay
đạn lạc bốn bề rối ren.
Bè một
mảng qua phen kinh hãi,
Bao hiểm
nghèo rồi lại bình yên.
Vin cây
giẫm đá trèo lên,
Mưa mù
lam chướng đầy trên một trời.
Dân sở
tại chào mời, đưa dắt,
Gập
ghềnh theo lối tắt đường ngang.
Hết
đường, tới núi, vào hang,
Giếng
thơm trong suốt, nước đang dạt dào.
Biết
động ấy thuở nào đào đục?
Mà hôm
nay hưởng phúc thần tiên!
Nước
ngàn rau núi cũng yên,
Chim
kêu, hoa rụng, nỗi buồn tạm khuây.
Trong
nội địa (chỉ Trung Quốc) tin đâu bay đến,
Quan
trên liền sai khiến người sang.
Trước
sau căn vặn tỏ tường,
Long
Châu tạm đón dọc đường nghỉ chân.
Cấp phẩm
vật mọi phần tươm tất,
Lính đưa
đường cẩn mật, tận tình.
Rồi cho
đến ở Nam Ninh,
Cửa nhà
rộng rãi quán đình nghiêm trang.
Dù Nam,
Bắc, đôi đường chua xót,
Lễ nghi
thường chưa chút đơn sai,
Một niềm
từ huấn vâng lời,
Tiêu
phòng (phòng ở của cung phi có trát hồ tiêu vào vách cho ấm; đây chỉ vợ vua)
giữ lễ trong ngoài phân minh.
Nhờ
thượng quốc đề binh cứu viện,
Muôn dặm
xa đưa đến tin vui,
Về Nam
cờ quạt rợp trời,
Vườn xưa
điện cũ sáng ngời vẻ xuân.
Tiếng
đàn, trống muôn phần rộn rã,
Cảnh cỏ
hoa thoả dạ lâu nay.
Nào ngờ
vạ gió tai bay,
Buồn vui
chốc lát đổi thay khôn lường
Trên ngự
giá vội vàng ra ải,
Từ vi và
cháu dại cùng đi.
Não lòng
thay lúc biệt ly,
Bỗng
dưng kẻ ở người đi rã rời.
Sang
phía tây tìm nơi lẩn tránh,
Cảnh chơ
vơ, cô quạnh, đau thương.
My, Ngu
xưa cũng một phường (Mỵ Châu, vợ Trọng Thuỷ; Ngu Cơ, vợ Hạng Võ; cả hai người
con gái đều chết trong cảnh loạn lạc, rồi Mỵ Châu hoá thành viên ngọc, Ngu Cơ
hoá thành cỏ thơm),
Ai làm
nên nỗi dặm đường gian truân.
Xưa nhà
Hạ có lần suy bại,
Một lữ,
thành dấy lại cơ đồ.
Giáo
gươm thượng quốc giùm cho,
Nằm gai
nếm mật vua lo đủ điều.
Ví xã
tắc có nhiều người giỏi,
Phận
thuyền quyên đâu phải gian nan.
Khoảng
năm quí sửu đồn sang,
"Chầu
trời" tin ấy bàng hoàng một phen (chỉ vào tin Chiêu Thống chết).
Nghĩ vì
lẽ dân đen mong mỏi,
Nên Tây
Sơn kia nói sai ngoa,
Đến khi
vận mở nước nhà,
Sứ thần
sang, mới biết là không sai.
Ví ngọc
nát, về nơi chín suối,
Hương
hồn khôn bạn với tiên quân (hai câu này ý nói, nếu hoàng phi chết trước di thì
hương hồn không được làm bạn với vua Lê, lúc đó thi hài còn ở Trung Quốc).
Mười sáu
năm, biết mấy lần,
Rắp theo
Tôn muội làm thân chết chìm (Tôn muội tức em gái Tôn Quyền và là vợ Lưu Bị đời
Tam quốc. Tôn muội bị anh bắt về ở bên Giang Đông; lúc Lưu Bị đánh Giang Đông
bị hại, có tin đồn Lưu Bị đã chết, Tôn muội bèn nhảy xuống sông tự tử. - ở đây
ý nói hoàn cảnh chưa cho phép Lê Hoàng phi chết được như Tôn muội).
Khiến
gia thuộc dò tìm mấy độ,
Lên ải
quan hỏi rõ nguyên nhân.
Thề sang
tới mộ cố quân,
Quyết
liều tính mệnh với khăn lụa là.
Sống là
khó, xưa đà có biết,
Nào hay
đâu muốn chết cũng gay.
Cơ trời
sao khéo vần xoay,
Quan
trên đã lấy việc này tâu lên.
Cho về
nước, vua liền có chỉ,
Tiết
Trung thu, Giáp Tý vừa qua.
Vội vàng
lên đón linh xa,
Cháo cơm
biếng nuốt, mặt hoa võ vàng.
Thuyền
đủng đỉnh Lô Giang qua bến,
Kiệu
toàn che, rước đến từ đường.
Thần
liêu dâng chén quỳnh tương,
Trông
lên, trăm họ đôi hàng lệ sa.
Tình
khuê phụ thật là khó vẽ,
Rửa nước
thơm làm lễ gọi là.
Mở quan,
cúi mặt nhìn qua,
Chắp tay
vái lạy lệ nhoà hai mi.
Cầm
thuốc độc thầm thì từ tạ
Lui vào
màn uống cả một hơi,
Trẻ già
ai nấy rụng rời,
Triều
đình nghe tiếng bồi hồi tiếc thương.
Ban gấm
vóc bạc vàng phúng viếng,
Bao vần
thơ lên tiếng ngợi khen.
Khen
thay! một chết phỉ nguyền,
Thơm tho
muôn thuở con thuyền thanh danh,
Kìa khuê
các ngọc lành hiếm có,
Sá chi
luống mộ vũ triêu vân (mộ vũ triêu vân: Chiều mưa sớm mây. Nguyên ở tích Sở
Tương Vương đi chơi Vân-mộng, nằm mơ thấy một thần nữ chung chăn gối với mình,
khi từ biệt có nói rằng: Nhà thiếp ở phía nam non Vu, sớm làm mây chiều làm
mưa. . . Sau người ta thường dùng chữ "mây mưa" để chỉ việc trai gái
giao hoan. - ở đây ý nói không thiết gì đến chuyện ái ân nữa).
Đai vàng
nọ đứa nịnh thần,
Một đời
ton hót làm thân gian tà.
Kịp đến
lúc sơn hà biến đổi,
Trước
quân thù quỳ gối, chắp tay.
Lạnh
lòng khi đọc thơ này,
Khác nào
roi quất, mặt dày mày ê.
Thân
khuê các giúp bề Tiết giáo,
Mặt phấn
son phụ đạo Cao hình (tiết giáo, cao hình là việc giáo dục của ông Tiết và việc
hình án của ông Cao Dao; hai ông này đều là những danh thần mẫu mực đời vua
Thuấn).
So thơ
Cù, Cát đã đành (thơ "Cù mộc" và thơ "Cát đàm" trong Kinh
Thi, nội dung đều ca ngợi các bà hậu phi nhà Chu),
Trúc
Tương vằn đẹp lưu danh muôn đời (tương truyền vua Thuấn chết ở núi Thương Ngô,
hai vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh đến viếng, khóc lóc thê thảm, nước mắt thấm vào
các khóm trúc ở xung quanh, thành ra các cây trúc có vằn rất đẹp. Tục gọi là
"trúc Tương phi" hoặc "trúc Tương". Sau hai bà nhảy xuống
sông Tương để chết theo chồng).
Người
xưa làm việc dễ rồi.
Nay làm
việc khó không người đó sao? (hai câu này ý nói, chết ngay theo chồng như hai
bà vợ vua Thuấn xưa đã làm, là một việc dễ; còn chịu đựng đau khổ trong một
thời gian dài rồi mới chết theo chồng như bà Lê hoàng phi, là việc khó)
Bài này
do bề tôi cũ nhà Lê là đồng bình chương sự Tô phái hầu Nguyễn Huy Túc làm.
Tổng
trấn Bắc Thành là Thành quận công (tức Nguyễn Văn Thành) đem việc ấy đề đạt
lên. Vua Gia Long bèn hạ chỉ ban khen, sai lập đền ở quê hoàng phi, là xã Tỳ Bà
thuộc huyện Lang Tài để thờ; cấp ruộng tế và tha thuế khoá cho dân làng ấy để
dùng vào việc đèn nhang thờ cúng: lại sai dựng bia khắc chữ để nêu gương tiết
hạnh.
Còn các
bề tôi đi trốn theo vua Lê thì đến mùa hè, năm Tự Đức thứ 14 (1860), các quan ở
Bộ theo lời bàn kê rõ lý lịch, vâng chỉ dụ của nhà vua cho lập đền thờ ở phía
tây thành Thăng Long, tại phường Thuỵ Chương, thuộc huyện Vĩnh Thuận. Thứ tự
các bài vị đều sắp đặt theo như lời bàn của Bộ. Chính giữa là linh vị của
Trường phái hầu Lê Quýnh đặt thuỵ hiệu là "Trung Nghị". Bên tả bày
linh vị của mười một người, gồm có đề lĩnh Nguyễn Viết Triệu, thượng thư Bút
phong Đình Giản, Đinh võ hầu Trần Quang Châu, Trần Danh Kệ, hữu thị lang Nguyễn
Huy Diệu, trấn thủ Lê Hân, chỉ huy Lê Doãn Trị, chưởng tứ bảo Lê Quí Thích,
Nguyễn Hùng Trung, Lê Tùng, tả tham chính Kinh Bắc, Bình vọng Lê Trọng Trường.
Bên hữu bày linh vị của mười một người, gồm có tĩnh nạn công thần Trần Danh án,
thanh hình hiến phó sứ Tuyên Quang Nguyễn Đình Viện, nội thị Nguyễn Quyên, Trần
Đĩnh, đốc đồng Nguyễn Quốc Đống, Địch quận công Hoàng ích Hiểu; Nguyễn Đình
Miên, Đoàn Thận Xưởng võ uý Nguyễn Trọng Du, Lê Thức, Cận quang hầu Phạm Như
Tùng. Tất cả hai mươi hai người ấy đều được đặt thuỵ hiệu là "Trung
mẫn".
Ngoài
ra, ở phía đông thờ năm người là Nguyễn Ngọc Liễn, Vương Triệu, Vương Chấn
Thiều, Tôn Hạp, Lê Diên Định. ở nhà phía tây thờ năm người là Trần Lương, Trần
Đăng, Vũ Trọng Dật, Trần Dần, Trần Hạc.
Từ Lê
Quýnh trở xuống cộng ba mươi ba người, trên đầu đều đề là "Cố Lê tiết
nghĩa thần" (các bầy tôi tiết nghĩa đời Lê) và ngôi đền cũng đề là
"Cố Lê tiết nghĩa từ" (đền thờ các bậc tiết nghĩa đời Lê). Việc ấy
nêu lên ý nghĩa giáo huấn của triều đình, là muốn gạn đục khơi trong và bồi đắp
phong tục, khiến cho người sau xem đấy cũng biết rằng: Vì nước, người ta dù có
phải chịu khốn khổ trong một lúc mà vinh quang sẽ lưu truyền muôn thuở vậy.
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét