Làng Thổ Phụ có tên là Thổ Sơn Trang,
rồi thôn Thổ Sơn, đến đầu thế kỷ thứ XX mới đổi là Thổ Phụ. Làng Thổ Phụ xưa
thuộc tổng Cao Mật, huyện Vĩnh Lộc. Hiện nay làng Thổ Phụ thuộc xã Vĩnh Tiến
(Vĩnh Lộc). Làng nằm bên tả ngạn sông Mã và cách Thành Nhà Hồ khoảng 1km về
phía Tây - Nam.
Vào thế kỷ XII ở khu vực làng
Thổ Phụ bây giờ đã có dòng Họ Bùi đến khai phá lập nghiệp, sau đó các dòng họ
khác như họ Phạm, Họ Dương, Họ Lê…ở các nơi khác đến sinh sống và lập nên làng
xóm; Đến cuối triều Hồ khu vực núi Ngưu Ngoạ đã có một vài ba hộ của dòng họ
Bùi, họ Lưu, họ Nguyễn đến khai phá đất đai và sinh sống;
Đất Thổ sơn trang lúc bấy giờ không
chỉ đến làng Thọ Đồn mà còn cả làng Cẩm Bào ngày nay; Bấy giờ ở Thổ Sơn Trang
có ông Phạm Đốc sinh năm 1513 (đời vua Lê Tương Dực); Phạm Đốc mặt vuông chữ
điền, lông mày nét mác, tướng mạo oai phong, đi đứng nhanh nhẹn, được cha trực
tiếp dạy bảo Văn bài và Võ nghệ; Bấy giờ triều đình nhà Lê rối loạn, các vua Lê
liên tiếp thay nhau và sống sa đoạ cực độ. Trong khi đó nhà Mạc tìm mọi cách
chiếm ngôi nhà Lê; Phạm Đốc không có chí lập công danh chỉ lấy việc đọc sách và
săn bắn làm vui;
Năm 1533 một cựu thần nhà Lê
tên là Nguyễn Kim đã đứng lên phù Lê diệt Mạc. Thái sư Hưng Quốc Công Nguyễn
Kim sai người tìm được Lê Duy Ninh là con của vua Lê Chiêu Tông, cháu nhiều đời
của Lê Thánh Tông, đón sang Ai Lao (Lào) tôn lập; Ở làng Biện Thượng (nay là là
Bồng Thượng xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc) có ông Trịnh Kiểm là người dũng lược
đã theo Nguyễn Kim phò Lê diệt Mạc; Đến năm 1538 nghe tướng Nguyễn Kim phò vua
Lê Trang Tông (tức Lê Duy Ninh) chống lại nhà Mạc, Phạm Đốc mới đi theo Trịnh
Kiểm và được nhà vua và Trịnh Kiểm trọng dụng; Ông Phạm Đốc là người có nhiều
công lao và được phong nhiều ruộng đất, trong đó ngoài đất Thổ sơn còn có ruộng
đất của làng Thọ Đồn (Thọ Sơn Trang), làng Cẩm Bào (Bắc Thượng Trang) ngày nay.
Trung tuần tháng 5 năm Mậu Ngọ
Ông Phạm đốc bị cảm mạo, thuốc thang chạy chữa không có hiệu nghiệm, ngày mùng
4 tháng 8 ông mất, năm ấy ông mới 46 tuổi (tính cả tuổi mụ) thi hài ông được
đưa về làng Thổ Sơn (Thổ Phụ) chôn cất; Ông Phạm Đốc sinh được 3 người con trai
trên đất Thổ sơn (Thổ Phụ) vào cuối thế kỷ thứ XVI người con trai cả là Phạm
Đức Thắng – Tên Bộ là Phạm đức Kỳ vẫn ở tại Thổ Sơn trang (Thổ Phụ); Người con
thứ 2 là Phạm Đức Thuần – tên bộ là Phạm Đức Nho lên Thọ Sơn Trang (Thọ Đồn);
Người con thứ 3 là Phạm Quý Thư – tên bộ là Phạm Quý Tâm lên Bắc thượng Trang
(Cẩm Bào).
Trải qua thế kỷ XVI, XVII,
XVIII, XIX làng Thổ Sơn Trang rồi Thổ sơn luôn là một làng quê yên bình bên Tả
ngạn sông Mã, dân cư đông đúc dần lên sang đầu thế Kỷ XX cho đến trước năm
1945, làng Thổ Phụ có khoảng 100 gia đình với gần 450 người. Người dân làng Thổ
Phụ có tinh thần yêu nước và có phong trào cách mạng sôi nổi liên tục. Những
năm 1924 - 1928, làng có ông Vũ Văn Huyền, thường gọi là giáo Huyền đã về Hậu
Lộc liên lạc với Đinh Chương Dương và một số người khác tham gia vận động người
đi xuất dương về làm cách mạng, tham gia chủ trương cứu nước của Phạm Hồng Thái
và Nguyễn Thái Học. Sau đó, ông tham gia thanh niên Tân Việt, Hội Việt Nam cách
mạng Thanh Niên và đã trở thành chiến sĩ cộng sản và đã có nhiều hoạt động cách
mạng bí mật trong những năm đầu xây dựng tổ chức Đảng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
tiếp nối con đường cách mạng của Vũ Văn Huyền, nhiều người con của làng Thổ Phụ
đã tích cực tham gia hoạt động cách mạng trước năm 1945 như: Lê Đình Quỷnh, Lê
Đình Huỗn, Nguyễn Văn Chí, Nguyễn Trọng Vĩnh, Nguyễn Văn Hùng, Phạm Quảng Lai,
Lê Văn Khoa, Phạm Văn Lân, Vũ Văn Kháng, Phạm Văn Huế, Phạm Bảng, Lê Đình
Diễn...
Thực hiện chủ trương của Tỉnh
ủy về việc thành lập Ủy ban vận động cách mạng các phủ, huyện. Trong tháng
7-1938, tại nhà ông Nguyễn Thành Khải (Lý Kim) ở làng Phương Giai đã có cuộc
họp thành lập Ủy ban vận động cách mạng của huyện Vĩnh Lộc. Ủy ban gồm 10
người, đồng chí Lê Văn Thiệp, Tỉnh ủy viên tỉnh Thanh Hóa 1931 - 1934 làm
Trưởng ban, trong đó làng Thổ Phụ có hai người là các đồng chí: Nguyễn Văn Chí
và Lê Đình Quỷnh.
Thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương có
phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ và sách báo cách mạng, sách báo tiến bộ được
lưu hành khá phổ biến. Tháng 5-1938, hiệu sách “Thanh Hóa thư quán”, được thành
lập tại thị xã Thanh Hóa. Từ thị xã Thanh Hóa, hội đọc sách báo được tổ chức
rộng rãi ra nhiều huyện trong tỉnh. Cuối năm 1938 làng Thổ Phụ đã tổ chức nhóm
đọc sách báo và truyền bá chữ Quốc ngữ. Sau này “Thanh Hóa thư quán” bị mật
thám theo dõi và kiểm soát, các đồng chí lãnh đạo và cán bộ “Thư quán” phải
chuyển về các huyện, trong đó có về làng Thổ Phụ được Nhân dân tận tình giúp
đỡ. Đồng chí Lê Văn Thiệp đã giới thiệu chị Đông, chị Cúc về ở nhà bà Nhàn, bà
Tường để hoạt động.
Trong phong trào đấu tranh cách mạng ở
làng Thổ Phụ có nhiều người được giác ngộ và tham gia hoạt động từ lúc cách
mạng đang còn gặp nhiều gian khó, điển hình như hai anh em ruột Lê Đình Quỷnh
và Lê Đình Huỗn. Lê Đình Quỷnh hoạt động từ năm 1936 trong phong trào Mặt trận
Dân chủ ở huyện Vĩnh Lộc, tháng 7-1939 đồng chí bị địch bắt và kết án một năm
tù giam tại nhà lao Thanh Hóa. Tháng 7-1940 đồng chí được ra tù và tiếp tục
hoạt động cách mạng, và đã hy sinh. Đồng chí Lê Đình Huỗn còn có tên là Lê Văn
Kẽm tham gia cách mạng từ năm 1938 đến năm 1941 bị địch bắt giam ở Buôn Mê
Thuột. Ra tù đồng chí được Ủy ban khởi nghĩa tỉnh Thanh Hóa cử lên chỉ đạo việc
cướp chính quyền ở các huyện miền núi phía Tây Thanh Hóa và có thời gian giữ
chức Phó Chủ tịch Ủy ban cách mạng lâm thời huyện Cẩm Thủy. Trong kháng chiến
chống Pháp, đồng chí Lê Đình Huỗn được điều vào quân đội và đã hy sinh anh
dũng.
Ở làng Thổ Phụ còn có Nguyễn Trọng Vĩnh
lớn lên đi làm công nhân Nhà máy in Hà Nội. Đồng chí đã tham gia hoạt động cách
mạng thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936 - 1939). Đồng chí Nguyễn Trọng
Vĩnh bị địch tìm bắt ở làng Thổ Phụ và bị đi tù ở Đắc Lây 5 năm (1940 - 1945).
Ra tù, đồng chí tiếp tục hoạt động cách mạng và trở thành thiếu tướng Quân đội
nhân dân Việt Nam. Năm 1960 đồng chí được bầu là Ủy viên dự khuyết Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tổ chức Trung ương Đảng,
rồi làm Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa (1961 - 1963) và giữ nhiều chức vụ khác.
Tháng 11-1939, Trung ương Đảng ra
quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho
Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Ở làng Thổ Phụ từ đầu năm 1940 đồng chí Lê Đình
Huỗn, rồi đến đồng chí Phạm Văn Lân tổ chức những người được giác ngộ vào mặt
trận phản đế cứu quốc. Những hội viên phản đế cứu quốc là đội viên tự vệ. Lúc
này làng Thổ Phụ có 13 người trong đội tự vệ có nhiệm vụ là mỗi khi có cán bộ
về họp ở cơ sở thì đội viên làm nhiệm vụ canh gác bảo vệ cuộc họp, bảo vệ cán
bộ thoát ly đang bí mật công tác trong làng, bảo vệ cơ quan làm báo “Đuổi giặc
nước” của Đảng bộ tỉnh.
Báo “Đuổi giặc nước” do các đồng chí Tố Hữu,
Lê Tất Đắc, Hoàng Tiến Trình sau khi được cử về chỉ đạo phong trào cách mạng ở
Thanh Hóa đã được giới thiệu về làng Thổ Phụ. Tại nhà đồng chí Phạm Văn Lân,
tháng 7-1942, báo “Đuổi giặc nước” ra số 1 và tháng 8-1942 ra số 2.
Từ tháng 9-1940, Nhật vào Đông Dương,
thực dân Pháp đầu hàng và cấu kết với Nhật để thống trị và bóc lột Nhân dân ta.
Các cơ sở cách mạng bị lục soát, tìm kiếm khám xét bất kể ngày đêm. Được cơ sở
cách mạng và Nhân dân che chở cơ quan làm báo “Đuổi giặc nước” và các đồng chí
lãnh đạo đều an toàn. Phát xít Nhật còn thi hành các chính sách vơ vét rất độc
ác, chúng bắt Nhân dân ta nhổ lúa, nhổ ngô để trồng bông, trồng đay. Tiêu biểu
cho phong trào đấu tranh là cuộc đấu tranh chống Nhật của Nhân dân huyện Vĩnh
Lộc là cuộc đấu tranh của làng Thổ Phụ đuổi Nhật cướp đất trồng đay.
Lần thứ 3, vào đầu năm 1944 bọn Nhật lại
kéo đến làng Thổ Phụ. Theo kế hoạch đã bàn, làng phân công người canh gác ở các
con đường và đã vận động ông Phạm Văn Tuynh (tức ông Đoàn Lơi) làm ngòi nổ đầu
tiên trong cuộc đấu tranh chống Nhật của làng. Hôm đó bọn Nhật đến làng Thổ
Phụ, chúng đỗ xe trên đường, rồi xuống đồng đánh đập những người đang cày bừa,
sau đó vào làng đi tìm hội đồng Lý hương bắt dẫn ra đồng nhận ruộng. Lúc đó ông
Đoàn Lơi dùng trống mõ của làng đánh liên hồi, lập tức tất cả người dân trong
làng, người ngoài đồng tay cầm cào, cầm cuốc, cầm gậy la thét và tiến thẳng về
phía quân Nhật để tấn công chúng, bảo vệ mình. Ông Đoàn Lơi tay cầm con dao cò
(dao dài, cán dài) nét mặt hung dữ xông thẳng vào bọn Nhật thét “tao không sợ,
tao sẽ cho bọn bay chết”. Trước thái độ dữ tợn của ông Đoàn Lơi và dân làng,
bọn Nhật (và tay sai) vô cùng sợ hãi vội vàng lên xe biến mất. Từ đó dân làng
Thổ Phụ mới được yên ổn làm ăn.
Để chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính
quyền theo chỉ đạo của Mặt trận Việt Minh, từ tháng 5-1945, làng Thổ Phụ đã
thành lập một trung đội tự vệ với trên 30 cán bộ, chiến sĩ do Phạm Xuân Lai làm
trung đội trưởng, mỗi đội viên được trang bị một thanh kiếm dài. Trung đội tổ
chức tập luyện và chờ lệnh. Sáng ngày 19-8-1945, trung đội tự vệ làng Thổ Phụ
đã tham gia giành chính quyền thắng lợi ở huyện Vĩnh Lộc.
Trong quá trình tham gia phong trào đấu
tranh giành chính quyền (1930 - 1945), làng Thổ Phụ có 13 gia đình được tặng
Bằng có công với nước, có 9 người đã được công nhận Lão thành cách mạng và 4
người là cán bộ tiền khởi nghĩa. Tự hào hơn hết là ngày 28-1-1964 Chính phủ đã
tặng Bằng có công với nước cho làng Thổ Phụ với thành tích “Đã nêu cao tinh
thần yêu nước tích cực đấu tranh chống đế quốc và bảo vệ cách mạng góp phần
xứng đáng vào thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám”.
Phát huy truyền thống yêu nước và cách
mạng của quê hương, trải qua các cuộc kháng chiến chống xâm lược, trong xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong công cuộc đổi mới đất nước... làng Thổ Phụ đã
luôn luôn hoàn thành và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Năm 2020, Thổ Phụ được
công nhận làng nông thôn mới kiểu mẫu.
Thổ Phụ - làng có công với nước xưa, đến
nay đã được đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng, như: đường giao
thông, nhà văn hóa, hệ thống đèn chiếu sáng. Ngoài việc phát triển kinh tế,
người dân trong thôn còn tự giác, hăng hái tham gia làm đẹp đường làng, ngõ
xóm, trồng hoa ven đường, giữ gìn vệ sinh chung. Ánh sáng cách mạng đã rọi soi
cho lớp thế hệ hôm nay dựng xây quê hương giàu đẹp.
Làng Thổ Phụ hiện nay:
- Diện tích: 68,7 ha, trong
đó: Đất nông nghiệp 40,92 ha; Đất phi nông nghiệp 23,87 ha; Đất GTTL + nghĩa
địa 2,83 ha; Đất chưa sử dụng 1,08 ha.
- Dân số: 521người; số hộ: 174
hộ;
- Nhà văn hóa làng: Có; diện
tích: 136 m2 ;
- Khu thể thao làng: Có; diện
tích: 2.561m2 ;
- Vị trí địa lý: Phía Nam giáp
Vĩnh Thành; phía Tây giáp Sông Mã; phía Bắc giáp thôn Phú Lĩnh; phía Đông giáp
làng Phố Mới.
Nguồn bài đăng: Sử liệu liên quan làng
Thọ Đồn Vĩnh Yên và Bài Thổ phụ làng có công với nước.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét