Ngay khi
lập nước, họ gọi tên nước là Trung Quốc, nước ở trung tâm thế giới.
Đến đời
nhà
Còn
nhiều tên khác nữa, như Trung Nguyên, Trung Hạ, Thần Châu... đều có ý nghĩa chỉ
xứ trung tâm trời đất.
Dân Việt
gọi họ là Tàu. Từ này xuất hiện cuối Minh đầu Thanh, khi những người Trung Quốc
di cư sang Việt
Phương
Tây gọi họ là
Đầu tiên
chỉ là một bộ tộc Hoa Hạ trên lưu vực
sông Hoàng Hà, sau mấy ngàn năm, bộ tộc ấy nuốt vào bụng không biết bao nhiêu
quốc gia lớn nhỏ,thành Trung Quốc hôm nay. Cũng có lúc họ bị xâm lược, nhưng
đấy là cái bẫy của họ. Điển hình hai trường hợp : Mông Cổ và Mãn Thanh. Thế kỷ
13, Hốt Tất Liệt xâm lược Trung Quốc,
lập nhà Nguyên, kết quả toàn bộ người Mông Cổ vào Trung Nguyên biến thành người
Hán, Mông Cổ mất một nửa đất nước cho Trung Quốc, đó là Khu tự trị Nội Mông
hiện nay. Mãn Thanh còn bi thảm hơn. Năm 1644,
họ tràn qua Sơn Hải Quan, diệt Minh, lập Thanh triều, vài trăm năm sau,
người Mãn thành người Hán tất, cái duy nhất còn lại là cái đuôi sam cũng bị cắt
nốt sau 1911. Đến giờ, chỉ còn lại độ
10000 người Mãn sống ở vùng đông bắc, ngồi tưởng nhớ quá khứ huy hoàng của dòng
họ Ái Tân Giác La ngày xưa.
Nước duy
nhất Hoa Hạ không đồng hoá được, là xứ Giao Chỉ, dù nó cai trị trên dưới 1000
năm,với nhiều thủ đoạn dã man, hèn hạ. Có ba nhân tố làm cho dân Việt giữ được
nước, đó là làng xóm, luỹ tre xanh và thói quen lười học ngoại ngữ của người
Việt.
Cũng có
lúc Trung Quốc định giăng bẫy, khi các thủ đoạn đồng hoá vô tác dụng. Đó là
thời kỳ Tây Sơn. Càn Long hứa trả cho Quang Trung hai tỉnh Quảng Đông, Quảng
Tây. Thật may mắn, Quang Trung mất sớm, nên ý định đó không thực hiện được. Nên
nhớ Lưỡng Quảng có diện tích và số dân gấp hai lần Việt Nam.
Tất nhiên,
họ phải có đầu óc sáng tạo. Sáng tạo đầu tiên của người Trung Quốc chính là chữ
viết. Trên thế giới, không có thứ chữ tượng hình nào phong phú như chữ tượng
hình Trung Quốc. Đằng sau mỗi chữ là một khái niệm. Đọc một bài thơ bằng chữ
Hán như xem một bức tranh. Trong chữ hưu (hưu trí) có ông già ngồi dưới gốc cây. Trong chữ An,
có người phụ nữ ngồi trong ngôi nhà. Trong chữ Tửu (rượu) có 3 giọt nước bên cạnh cái bình.........
Chính chữ viết đã kết nối các tiểu quốc thành quốc gia vĩ đại Trung Hoa.
Từ Tần
Thuỷ Hoàng, ông vua phong kiến đầu tiên, đến Phổ Nghi, ông vua cuối cùng, tổng
cộng Trung Quốc có 494 Hoàng Đế, với vài chục triều đại, 6 kinh đô. Nhà Tần
khởi đầu, và không có ấn tượng gì ngoài Vạn Lý Trường Thành. Nhà Hán bắt đầu
định hình cơ cấu xã hội phong kiến, kéo dài hơn 400 năm, giữ vai trò quan trọng
nhất lịch sử Trung Quốc, không triều đại nào so sánh được. Nhà Đường đạt mức độ
thịnh trị nhất thế giới về mọi mặt từ kinh tế đến chính trị văn hoá, đồ gốm sứ
đi đến tận châu Âu, thơ Đường là đỉnh cao của ngôn ngữ văn minh nhân loại, bằng
Tiến Sĩ thời Đường là học vị cao nhất thế giới. Thời Tống nổi tiếng với các
phát minh. Nguyên, ngoại lai, nhạt nhẽo. Minh triều, bắt đầu có sự kết nối
Trung Quốc với thế giới qua cuộc hành trình của Trịnh Hoà đầu thế kỷ 15, và mầm mống tư bản xuất hiện. Và khi người
Mãn Thanh vào Trung Nguyên, Trung Quốc bắt đầu ngủ yên.
Trong
sân khấu chính trị ấy, xã hội Trung Quốc có đủ các gương mặt. Có tiểu nhân và
quân tử. Có bọn thái giám và ngoại thích. Có Nhạc Phi ngồi cạnh Tần Cối, Đổng
Trác cùng Gia Cát Lượng. Có tứ đại mĩ nhân, tứ đại kỳ thư, tứ đại phát minh.
Người ta vừa kính phục, vừa sợ, vừa căm ghét.
Xuyên
suốt lịch sử Trung Quốc, có bóng dáng của một con người vĩ đại, dù ông chưa một
ngày làm Vua, nhưng là ông Vua tư tưởng. Khổng Tử. Tư tưởng của ông là cơ sở
tinh thần cho xã hội phong kiến Trung Quốc. Giống như Mĩ, cơ sở tinh thần là
văn minh Thiên Chúa giáo.
Tư tưởng
Khổng Tử có tác dụng đảm bảo cho xã hội cân bằng, nhưng có nhược điểm là bảo
thủ, hướng nội, khó tiếp thu cái mới.
Thế kỷ
17, châu Âu bắt đầu bừng tỉnh, với các
cuộc cách mạng tư sản và các nhà khai sáng như G.Ruxo, Đidoro, Kand, Vonte,
Decac, Paxcan..... thì Trung Quốc đang trong giấc mộng. Họ đang say sưa với
Trường An, Lạc Dương, những thành phố lớn nhất thế giới say sưa với 4 phát minh, mà có biết đâu, châu
Âu đã lợi dụng thuốc súng của họ, chế ra đại bác, chuẩn bị bắn vào đầu họ.
Trung
Hoa đã trở nên vô cùng lạc hậu vào giữa thế kỷ 19. Lúc ấy, các nước phương Tây đến mở cửa, giống
như họ đã mở Nhật Bản. Nhưng thành trì Trung Quốc quá vững. Văn minh phương Tây
chỉ như lớp sơn bề ngoài. Một Trung Quốc đầy chia rẽ và bệnh hoạn. Phương Tây
giống như một lão già bệnh tật, hãm hiếp nền văn minh Trung Quốc, không đem lại
sự sinh sản, mà gây ra bệnh tật và sự khổ đau.
Văn minh
phương Tây không có đất sống ở Trung Quốc. Họ phải có con đường riêng. Tam
quyền phân lập, lưỡng viện Quốc Hội, khẩu hiệu
tự do bình đẳng bác ái, chế độ đa nguyên..
hầu như
không hợp với Trung Quốc.
Chỉ đến
khi họ bị dìm đến đáy, họ mới vùng dậy. Cái đáy này là năm 1978, khi Trung Quốc trở thành gã nghèo khổng lồ
của thế giới.
Tư tưởng
dân chủ tư sản, chủ nghĩa Mac đều không phù hợp với họ. Họ cần con đường riêng.
Người xây con đường riêng ấy là Đặng Tiểu Bình
Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào, Tập Cận Bình.
Nhưng
xuyên suốt lịch sử Trung Quốc từ cổ đến kim, là tư tưởng Đại Hán, xâm lược,
cướp giật. Đó là bi kịch của các nước xung quanh. Nếu khôn ngoan, hãy chung
sống hoà bình, và lợi dụng con hổ này để kiếm tiền.
Dại dột
thì đối đầu, như đối đầu với Mĩ.
Trong
tương lai, Trung Quốc có trở thành một nước dân chủ như phương Tây hay
không? Chắc chắn không.
Bài học
lớn nhất từ lịch sử Trung Quốc là : nếu chính quyền trung ương suy yếu thì đất
nước sẽ bị chia cắt, mà đã chia cắt là kéo dài vài trăm năm.
Vậy
tương lai Trung Quốc sẽ thế nào?
Tôi tin
theo lời Ngài Lý Quang Diệu, khi ông cho rằng, có thể Trung Quốc sẽ đuổi kịp Mĩ
về kinh tế, nhưng không bao giờ Trung Quốc đuổi kịp Mĩ về khoa học và quân sự.
Vì sao
vậy?
Vì Trung
Quốc vướng cái rào cản ngôn ngữ. Chữ Hán là thứ chữ của nghệ thuật, thơ ca. Còn
tiếng Anh mới là ngôn ngữ của khoa học và kỹ thuật.
Vậy, cứ
để cho họ mơ giấc mơ Trung Hoa.
Mọi giấc
mơ đều đẹp
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét