Chân
dung Lê Thánh Tông do các nghệ nhân cung đình miêu họa ngay sau khi ông băng
hà- wikipedia
Hoa Anh Đào
“Thánh tông là một ông vua thông
minh, thờ mẹ rất có hiếu, ở với bề tôi đãi lấy lòng thành. Ngài trị vì được 38
năm, sửa sang được nhiều việc chính trị, mở mang sự học hành, chỉnh đốn các
việc vũ bị, đánh dẹp nước Chiêm, nước Lào, mở thêm bờ cõi, khiến cho nước Nam…bấy
giờ được văn minh thêm ra và lại lừng lẫy một phương, kể từ xưa đến nay chưa
bao giờ cường thịnh như vậy.”[6: tr99]
Trên đây là những nhận xét của học
giả Trần Trọng Kim khi nhận định về Lê Thánh Tông trong cuốn Việt Nam Sử Lược.
Học giả đánh giá rất cao về tài năng và đức độ của nhà Vua. Về chính sử ghi lại
như sau: “Thiên tư tuyệt đẹp, thần sắc khác thường, vẻ người tuấn tú, nhân hậu,
rạng rỡ, nghiêm trang, thực là bậc thông minh xứng đáng làm vua, bậc trí dũng
đủ để giữ nước.”[9: tr429]
Đọc những dòng này, chúng ta cũng mường tượng được dung mạo của nhà vua
là một người đàn ông tuấn tú, thông minh, tài giỏi. Ông được ca ngợi là vi vua
anh minh nhất trong lịch sử dân tộc. Không những thế, trong đối sách giữ nước
nhà vua có những lời lẽ rất cứng rắn, là tấm gương cho hậu thế đời đời học tập
và làm theo.
Năm 1471, Lê Thánh Tông chỉ dụ với
quan Thái bảo Lê Cảnh Huy rằng: “Một thước núi, một tấc sông của ta có lẽ nào
tự nhiên vứt đi được. Phản kiên quyết tranh luận, không để họ lấn dần. Nếu họ
còn không theo, có thể sai sứ sai tận triều đình của họ, biện bạch rõ lẽ phải
trái. Nếu người nào dám đem một thước núi, một tấc đất đai của Thái Tổ để lại
làm mồi cho giặc, kẻ ấy phải bị trị nặng (tru di)”[11: tr 112].
Câu nói ấy biểu thị ý chí mãnh liệt của Lê
Thánh Tông trong việc bảo vệ nền độc lập dân tộc và lãnh thổ quốc gia, đồng
thời có thể được xem như quan niệm chính trị rất cơ bản trong nhận thức về
trách nhiệm quản lý nhà nước của Lê
Thánh Tông. Để làm cơ sở cho việc khẳng định nền độc lập, Lê Thánh Tông quan
tâm tới việc xác định rõ ràng cương vực của đất nước. Quốc triều hình luật (Bộ
luật Hồng Đức) công bố năm 1483 có điều khoản 74, 88 về bảo vệ đất đai ở biên
giới như sau: “những người bán ruộng đất ở biên cương cho người nước ngoài thì
bị tội chém”; Quan phường xã biết mà không phát giác cũng bị tội; “Những người
đẵn tre, chặt gỗ ở nơi quan ải thì bị xử tội đồ” (đồ là đầy đi làm khổ sai).
Một dân tộc mà giang san của tổ tiên
để lại luôn bị đe dọa thường trực từ phương Bắc thì lời căn dặn ấy của vị vua
được cho là tài giỏi nhất trong lịch sử dân tộc luôn đúng đắn và phải được khắc
ghi. Đã có hàng trăm cuốn sách, bài báo ca ngợi về tài đức của vị vua này. Ông
có nhiều công lao lớn đối với nhà Lê nói riêng và lịch sử dân tộc nói chung.
Tuy nhiên đánh giá về một con người,
chúng ta không chỉ dựa vào tài đức và công lao của họ mà phải thông qua những
sự kiện lịch sử để có cách nhìn công tâm và thấu đáo. Dù tài giỏi đến đâu, Lê
Thánh Tông cũng có những vết đen không thể nào gột rửa được trong cuộc đời.
Chính vì vậy, trong bài viết lần này, ngoài những công lao to lớn của nhà vua
đối với dân tộc mà chúng tôi sẽ trình bày sau đây. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng
mạnh dạn chỉ ra những hạn chế trong cuộc đời của Lê Thánh Tông để người đời nay
có một cách nhìn toàn diện, công tâm về vị vua này. Chúng tôi viết bài này,
không phải để hạ thấp uy tín của vị vua mà hàng triệu người ngưỡng mộ. Chúng
tôi chỉ mong muốn đưa sự thật lịch sử gần nhất có thể với bạn đọc.
Những công lao to lớn của Lê Thánh
Tông đã được hàng trăm ngàn sách báo viết. Chúng tôi xin đánh giá sơ lược lại
như sau:
Thứ nhất, Ông có công lớn trong việc mở rộng lãnh thổ dân tộc.
Năm 1470, vua Champa là Bàn La Trà Toàn,
một mặt cầu viện nhà Minh, mặt khác xuất 10 vạn quân ra cướp Hoá Châu. Để chấm
dứt sự quấy phá của Champa, vua Lê Thánh Tông thân chinh đem 26 vạn quân đi
đánh Champa. Vua cho vẽ bản đồ Champa để biết rõ những nơi hiểm yếu của vương
quốc này, vua Trà Toàn bị đánh bại. Sau chiến thắng này, vua Lê Thánh Tông cho
một số quân đóng tại kinh đô Champa chứ không rút hết về nước như trước nữa.
Trong khi khi vua Lê Thánh Tông đánh vào kinh đô của Champa thì một viên tướng
của Champa là Bố Trì Trì đem quân chạy về phía Nam đèo Cả, tự lập làm Vua, xin
sắc phong được nhà Lê đồng ý. Với ý định tạo nên sự yên ổn lâu dài ở phía Nam,
vua Lê Thánh Tông cắt phần đất ven biển từ đèo Cù Mông tới đèo Cả (hay Đại
Lãnh) lập nên một nước riêng gọi là nước Hoa Anh. Lại lấy phần thượng nguyên ở
phía tây Hoa Anh – vùng Cheo Reo để Lập nước Nam Bàn.
Như vậy, bằng việc xuất quân đánh vào
kinh đô Đồ Bàn. Vua Lê Thánh Tông không những đã lấy lại được vùng đất Đà Nẵng,
Quảng
Thứ hai, đưa Đại Việt trở thành quốc gia hùng cường trong khu vực.
Việc đầu tiên mà Lê Thánh Tông làm
sau khi lên ngôi vua chính là xây dựng cho mình một bộ máy rường cột hoàn
chỉnh.
Vua Lê Thánh Tông ít sử dụng con cái
của các bậc trung thần có công trước đó mà chú trọng sử dụng nhân tài được đào
tạo Nho học đương thời. Câu nói “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” do Thân
Nhân Trung biên soạn, chính là ở thời đại thịnh trị này của vua Lê Thánh Tông.
Điều này giúp cho quanh vua Lê Thánh Tông toàn là những người tài như Quách
Đình Bảo, Phan Phu Tiên, Thân Nhân Trung, Ngô Sĩ Liên, Lương Thế Vinh, Vũ Hữu,
Đỗ Nhuận, Nguyễn Quang Bật. Họ là những người tài giỏi thật sự, chẳng con ông
cháu cha gì hết, ở đó cùng với ông, tất cả cùng nhau góp trí tuệ để xây dựng
nên một Đại Việt hùng cường và giàu mạnh.
Về mặt vũ khí quân sự, theo các sử
gia, dưới thời Lê Thánh Tông đã có những tiến bộ vượt bậc, do vốn có các kỹ
thuật và sáng chế cùng kỹ năng chế tạo vũ khí cực kỳ tinh xảo của Đại Việt thời
nhà Hồ về vũ khí tầm xa như hỏa thương, hỏa hổ, súng thần công,… hợp với số vũ
khí khá tân tiến thu được trước đây trong cuộc kháng chiến với nhà Minh đã tạo
nên cho Đại Việt một kho vũ khí đa dạng và hùng mạnh, có thể vượt xa so với vũ
khí châu Âu cùng thời về sát thương và chất lượng.
Bên cạnh cải tổ cơ chế Nhà nước, đề
cao ý thức độc lập, chủ quyền, bảo vệ biên cương, xây dựng vũ khí quân sự tân
tiến, Lê Thánh Tông còn đặc biệt quan tâm các chính sách phát triển kinh tế
như: sửa đổi luật thuế khoá, điền địa, khuyến khích nông nghiệp, mở đồn điền,
kêu gọi người dân phiêu tán về quê, đặt ra luật quân điền chia đều ruộng cho
mọi người. Các ngành nghề thủ công nghiệp và xây dựng dưới thời trị vì của vua
Lê Thánh Tông cũng phát triển rực rỡ. Nghề in và làm giấy ở Đại Việt đạt một
trình độ cao của thế giới thời bấy giờ. Thương mại và giao dịch buôn bán với
các lân bang phát triển mạnh, cùng với bước chân viễn chinh xa xôi của đội quân
đế chế Đại Việt. Để tạo thuận tiện cho việc mua bán, Lê Thánh Tông đã từng
khuyến dụ các quan rằng: “Trong dân gian hễ có dân là có chợ để lưu thông hàng
hoá, mở đường giao dịch cho dân. Các xã chưa có chợ có thể lập thêm chợ mới.
Những ngày họp chợ mới không được trùng hay trước ngày họp chợ cũ để tránh tình
trạng tranh giành khách của nhau”.
Về mặt văn hoá, Lê Thánh Tông đã có
công tạo lập cho thời đại một nền văn hóa với một diện mạo riêng, khẳng định một
giai đoạn phát triển mới của lịch sử văn hóa dân tộc. Các tác phẩm: Đại Việt sử
ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên, Hồng Đức quốc âm thi tập, Hồng Đức thiên hạ bản
đồ, Thiên
Thứ ba, Vua Lê Thánh Tông đóng góp vào lịch sử dân tộc một bộ luật rất
tiến bộ mang tên “luật Hồng Đức”.
Bộ luật Hồng Đức là một tên gọi khác
của bộ Quốc triều hình luật. Luật Hồng Đức là một công trình pháp luật tiêu
biểu của nhà Hậu Lê.
Bộ luật Hồng Đức được coi là bộ luật
nổi bật nhất, quan trọng nhất và có vai trò rất đặc biệt nhất trong lịch sử
pháp quyền phong kiến Việt
Bộ luật Hồng Đức là một tên gọi khác
của bộ Quốc triều hình luật (Lê triều hình luật). Mặc dù mang bản chất giai cấp
phong kiến nhưng bộ luật Hồng Đức lại chứa đựng nhiều yếu tố tiến bộ với những
quy phạm bảo vệ quyền lợi của người dân, của tầng lớp dưới, của nô tì, người cô
quả, tật … Nhiều quy định của bộ luật tập chung bảo vệ người dân chống lại sự
ức hiếp, sách nhiễu của cường hào, quan lại.
Đặc biệt bộ luật Hồng Đức còn có một
số quy định bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, điều
đó phản ánh truyền thống nhân đạo, truyền thống tôn trọng phụ nữ, tư tưởng “lấy
dân làm gốc”, lấy làng xã làm nền tảng của quốc gia…
Tính dân tộc thể hiện đậm nét trong
việc kế thừa và phát huy những thành tựu pháp luật của các triều đại trước, kết
hợp với những ưu điểm của pháp luật phong kiến Trung Hoa để xây dựng lên một bộ
luật phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Ngày nay, trẻ em, phụ nữ, người tàn
tật, người già yếu… được xếp vào nhóm “đối tượng dễ bị tổn thương” cần có sự
quan tâm, giúp đỡ của cộng đồng thì hơn 500 năm trước, trong bộ luật Hồng Đức
đã có những quy định về trách nhiệm của xã hội, nhất là của quan chức đối với
nhóm người này. Đây chính là một trong những điểm tiến bộ, nhân đạo của pháp
luật thời Hậu Lê.
Có thể nói bộ luật Hồng Đức hay Quốc
triều hình luật là văn bản pháp lý bậc nhất, là đỉnh cao nhất của thành tựu
pháp luật Việt Nam so với các triều đại trước đó và cả về sau. Đánh giá về giá
trị của bộ luật Hồng Đức, sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú
viết: “Đời vua Lê có ban hành bộ Hồng Đức hình luật, các đời sau vẫn theo bộ
luật ấy”.[14, tr304]
Những điều đó đã đủ thấy rằng bộ luật
Hồng Đức đã được vận dụng vào công quyền Việt
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định
vua Lê Thánh Tông là vị vua có rất nhiều đóng góp cho sự phát triển của dân
tộc.
Mặc dù, là một minh quân, với nhiều
công lao to lớn như chúng tôi đã trình bày. Nhưng cuộc đời của vị vua này cũng
mang nhiều khiếm khuyết đáng trách. Sau đây, chúng tôi xin mạn phép luận bàn về
những hạn chế xoay quanh của đời vị vua này như sau:
Thứ
nhất, Lê Thánh Tông được Đại Việt sử ký toàn thư nhận xét:
“Những công trình thổ mộc vượt quá
quy mô xưa, tình nghĩa anh em thiếu hẳn lòng nhân ái. Đó là chỗ kém vậy.” [9,
tr207] Sở dĩ, có chuyện đánh giá như vậy là vì vua Lê Thánh Tông đã thiếu tình
người trong việc đối đãi với những anh trai của mình.
Theo các bộ chính sử thời phong kiến
của nước ta, Lê Nghi Dân là con trưởng của vua Lê Thái Tông – vị vua thứ hai
của vương triều Lê, lên ngôi năm 1434 và mất năm 1442 trong khi đi tuần ở vùng
Đông Bắc thuộc Chí Linh (Hải Dương ngày nay). Lê Nghi Dân sinh vào tháng 6 năm
Triệu Bình thứ 6 (1439), sau khi vua Lê Thái Tông lên ngôi được 5 năm và là con
của bà phi Dương Thị Bí. Chưa đầy một năm sau, Lê Nghi Dân đã được vua cha lập
làm Hoàng thái tử, nhưng bà Dương Thị Bí vì được vua yêu quý hay sinh tính kiêu
căng nên vua đã giáng bà xuống làm Minh nghi, khiến bà rất oán vọng. Nhà vua
giận bèn giáng bà xuống tiếp làm thứ phụ và tuyên bố ngôi thái tử chưa xác
định. Sau đó, Hoàng thái tử Bang Cơ, con thứ ba của vua Lê Thái Tông do bà
Tuyên từ Nguyễn Thị Anh sinh ra, được vua Lê Thái Tông yêu quý và lập Hoàng
thái tử, còn Nghi Dân bị giáng xuống làm Lạng Sơn vương. Vì việc này mà Lạng
Sơn vương Lê Nghi Dân đã ngầm nuôi ý nhòm ngó ngôi vua dẫn đến cuộc phản loạn
cướp ngôi vào năm 1459 và bị lật đổ ngay sau khi giành ngôi của vua Lê Nhân
Tông được 8 tháng (6/1460). Đây là thời kỳ thể chế chính trị của vương triều Lê
đang diễn ra khủng hoảng sâu sắc với hoàng loạt mâu thuẫn trong cung đình.
Sau sự việc chính biến Thiên Hưng, Lê
Nghi Dân lên ngôi vua, 8 tháng sau, Lê Nghi Dân bị phế truất bởi các đại thần
đứng đầu là Lê Lăng. Sau khi phế truất Lê Nghi Dân, các đạu thần có ý muốn đưa
anh trai của Lê Thánh Tông lên làm vua là Lê Khắc Xương, nhưng ông này một mực
từ chối. Sau đó, mới đến lượt Tư Thành được chọn lên ngôi. Chuyện chẳng có gì
đáng để bàn bởi đây là một quyết định sáng suốt và có lợi cho dân tộc.
Nhưng hành động sau đó của vua Lê
Thánh Tông xứng đáng là vết đen lớn nhất cuộc đời ông. Vua Lê Thánh Tông đã bức
tử anh trai Lê Khắc Xương của mình, buộc các con của Lê Khắc Xương phải đổi
sang họ Bùi (họ mẹ) để trừ hậu họa khi đã ở đỉnh cao của quyền lực.
Bên cạnh đó, Lê Thánh Tông còn giết
và tịch biên gia sản công thần Lê Lăng, người có công lật đổ anh trai nhà vua
để đưa ông lên ngôi. Chỉ vì vua biết được trước đó Lê Lăng có ý đưa Lê Khắc
Xương lên ngôi chứ không phải là Lê Thánh Tông. Phải chăng quá “thấm nhuần”
lịch sử Trung Quốc với các cuộc tranh đoạt quyền lực qua câu nói “nhổ cỏ phải
nhổ tận gốc” và đạo lý của Nho giáo, lo
sợ quyền lực sẽ bị mất đi nên Lê Thánh Tông ra tay “thiếu tình người” như vậy.
Ngoài ra, chỉ vì muốn khẳng định tính
chính danh, Lê Thánh Tông còn đối xử rất bạc với người anh đầu là Lê Nghi Dân khiến
ông này mang vết nhơ muôn đời. Chuyện là vua Lê Thánh Tông lên án việc Lê Nghi
Dân cướp ngôi của Bang Cơ (tức vua Lê Nhân Tông, dù biết rõ Bang Cơ – một người
“anh” không có quan hệ gì với mình). Đề cao tính chính danh của Lê Nhân Tông mà
hạ nhục anh trai dù Lê Nghi Dân cướp ngôi là hoàn toàn đúng để giành quyền lực
về lại cho nhà Lê. Trước đó, khi ở ngôi Lê Nghi Dân cũng phong cho em trai của
mình là Tư Thành (vua Lê Thánh Tông) tước vương.
Như vậy, dù vua Lê Thánh Tông có tài
ba đến đâu thì lịch sử cũng không thể nào biện hộ vết đen này của ông. Dù nhà
vua thường buộc các sử gia phải cho ông xem nhật lịch – quốc sử một việc mà ông
vua nào cũng ngại xem. Về sau, dù độc tôn Nho giáo và xem Lê Thánh Tông làm
hình mẫu nhưng Minh Mạng cũng rất kiêng kỵ điều này. Mặc dù vậy, ngay ở thời Lê
Thánh Tông, những người ghi chép sử vẫn có những đánh giá tiêu cực về nhà vua.
Thứ hai, Năm 1464, Lê Thánh Tông
chính thức ban chiếu minh oan cho Nguyễn
Trãi, truy tặng ông tước Tán Trù bá. Tước bá này là hạ cấp của Nguyễn
Trãi lúc sinh thời. Cho đến năm 1512, Lê Tương Dực mới truy tặng Nguyễn Trãi
làm Tế Văn hầu. Nguyễn Trãi là công thần số một của nhà Lê. Ông cũng chết oan
do thói xử bạc đối với công thần mà họ Lê học ở Chu Nguyên Chương (thái tổ nhà Minh).
Dù Lê Thánh Tông có rửa oan cho Nguyễn Trãi nhưng hạ tước phẩm cho một người đã
mất là một việc làm thiếu rộng lượng và đáng chê trách.
Thứ ba, việc Lê Thánh Tông đối xử với
Trường Lạc hoàng hậu của mình không
được chu toàn. Ông giam hoàng hậu vào lãnh cung khiến bà oán hận. Về
sau khi nhà vua bị bệnh, lở loét khắp người, theo sử sách ghi lại đây là bệnh
giang mai. Việc lây nhiễm bệnh này cũng qua con đường tình dục. Sử thần đương
thời là Vũ Quỳnh đã dám bình luận “vua nhiều phi tần quá nên mắc phải bệnh nặng
(bệnh giang mai).”Nhắc lại người vợ của vua bị nhốt vào lãnh cung. Khi nghe tin
vua lâm bệnh trầm trọng, bà đã hết sức “đau buồn” cầu xin được gặp nhà vua để
làm trọn “tình nghĩa” vợ chồng. Bà đã tẩm thuốc độc vào tay rồi xoa lên các vết
thương đang lở loét ấy, khiến bệnh của nhà vua càng thêm trầm trọng, dẫn đến
nhanh chóng tử vong. Việc này, đã được cố giáo sư Trần Quốc Vượng, một trong tứ
trụ của nền sử học Việt
Thứ tư, đổi họ Trần sang họ Trình.
Sau khi Lê Nghi Dân bị các tướng lãnh
phản đảo chánh và lật đổ năm 1460, Lê Thánh Tông (1460-1497) hạ chiếu ra lệnh
đổi tên những họ nào đã phạm vào chữ huý của Cung Từ hoàng thái hậu. Bà này tên
huý là Phạm Ngọc Trần, người làng Quần Lai, huyện Lội Dương (Thanh Hóa), vợ của
Lê Thái Tổ, mẹ của Lê Thái Tông, tức bà nội của Lê Thánh Tông. Nhà vua cho rằng
bà nội của mình tên Trần nên yết thị cho dân chúng khắp nước, nơi nào có họ
“Trần” đều phải đổi chép thành chữ “Trình”.[15, tr1013]
Tại sao thời Lê Thái Tổ, rồi đến Lê
Thái Tông và Lê Nhân Tông, các vua không kỵ huý bà Cung Từ mà Lê Thánh Tông lại
kỵ huý? Phải chăng sau những biến động của triều đình kể từ khi Lê Thái Tông
bất đắc kỳ tử năm 1442, và Lê Nhân Tông bị Lê Nghi Dân lật đổ và bắt giết năm
1459, Lê Thánh Tông đã dùng cách kỵ huý (như Trần Thủ Độ trước đây) để tách ảnh
hưởng của họ Trần, hoặc để ngầm đe dọa con cháu họ Trần đừng kiếm cách lợi dụng
tình hình để phục hồi triều đại cũ.[7, tr4]
Thứ năm, việc nhà vua đánh chiếm
Champa xem ra là hợp lý, nó chỉ là sự tranh đoạt lãnh thổ của các tập đoàn
phong kiến. Nhưng khi thu phục được đất đai của người Chăm, vua lại không thu
phục được nhân tâm của họ. Mà đã giết quá nhiều người vô tội. Phải chăng, do ảnh hưởng qua lớn từ học thuyết Nho giáo
nên việc tàn sát để đạt được mục đích là điều nên làm, cũng bởi vì Lê Thánh
Tông hạn chế phật giáo nên đức tính từ bi trong ông không tồn tại. Đối sách
dùng đức trị trước sau đó mới dùng pháp trị, một truyền thống tốt đẹp của dân
tộc ta từ thời Lý, Trần đến đây xem như chấm dứt. Phải chăng “giết một người
thì trở thành tội nhân, giết quá nhiều người thì trở thành vĩ nhân”. Sáu mươi
ngàn tính mạng người chăm và hàng vạn người Lan Xang đó liệu không còn giải
pháp nào để tránh khỏi cái chết ư? Chỉ vì ‘trừ hậu họa” nhà vua đã quá tàn
nhẫn. Cũng đúng rồi, với anh em ruột trong gia đình, Lê Thánh Tông còn như vậy,
huống chi là người “man di”. Phải chăng Lê Thánh Tông là một ông vua rất hiếu
sát?
Thứ sáu, do việc sinh ra và lớn lên
trong cung đình lại chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo, tứ thư ngũ kinh. Chính
vì vậy, Lê Thánh Tông rất coi thường xướng ca, cho nó là vô loài. Ông còn cấm
những người sinh ra trong gia đình làm nghề hát, tuồng, chèo… thi cử. Dù là một
người trọng nhân tài tuy nhiên ông đã có sự phân biệt kỳ thị đối với những hạng
người khác nhau. Ngoài ra, ông cũng là người đầu tiên quy định người vợ phải để
tang ba năm khi chồng chết. Điều đó, cho thấy ông là người trọng nam khinh nữ.
Nó khác xa với truyền thống của tổ tiên ta. Từ thời bắc thuộc, người Hán khi
thấy hình ảnh cha tắm cho con gái bên bờ sông, hình ảnh chan chứa tình cảm cha
con, quấn quýt yêu thương nhau đó là thứ man di mọi rợ. Với văn hóa Hán trước
đó chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo quy định rõ ràng “nam nữ thọ thọ bất thân”
dù đó là cha con, anh chị em trong gia đình. Cái văn hóa đó đã quy định rất
nghiêm ngặt một cách thô cứng cũng như nó ngăn cách tình người.
Trong
Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi đã nói rõ
“Như nước Đại Việt
ta từ trước,
Vốn xưng nền văn
hiến đã lâu,
Nước non bờ cõi đã
chia,
Phong tục Bắc
Văn hóa phương Bắc khác với văn hóa
phương
Như vậy, nhân vật lịch sử Lê Thánh
Tông đã được chúng tôi miêu tả hết sức chân thật. Với những điều đã làm được
trong lịch sử dân tộc, Lê Thánh Tông xứng đáng là vị vua tài giỏi nhất mà nước
ta từng có. Tuy nhiên, nhân bất thập toàn, Lê Thánh Tông cũng mắc phải những
thiếu sót mò chúng tôi đã mổ xẻ.
Thay cho lời kết:
Khi dự
thảo viết bài này, chúng tôi vấp phải sự phản đối, cũng bởi Lê Thánh Tông là
một tượng đài trong lòng dân tộc. Trong bài viết “Về Lê Thánh Tông – mấy điều
giải ảo hiện thực lịch sử Việt Nam thế kỷ XV” của cố giáo sư Trần Quốc Vượng ở
cuối bài viết, cố giáo sư cũng kính xin hương hồn của Ngài (Lê Thánh Tông)
lượng thứ cho kẻ hậu sinh hèn mọn ấy. Bởi bằng tư duy sắc lẹm, một nhãn quan
tuyệt vời của một nhà nghiên cứu sử học lão luyện, cố giáo sư là người tiên
phong đưa sự thật lịch sử về với mọi bạn đọc.
Là kẻ hậu sinh, dù rất đam mê lịch
sử, với những hiểu biết còn nhiều hạn chế. Mặc dù, khi bài này đến với bạn đọc
sẽ có rất nhiều độc giả phản ứng dữ dội và cho rằng chúng tôi đã xét lại hay
xuyên tạc lịch sử. Nhưng với những dẫn chứng và nguồn sử liệu khả tín ấy, chúng
tôi tin rằng những luận điểm của mình hoàn toàn đúng đắn. Như chúng tôi đã
trình bày ở phần mở đầu, chúng tôi không bôi nhọ tổ tiên, người anh hùng của
dân tộc. Chúng tôi chỉ muốn mang lại một bức tranh toàn cảnh về cuộc đời và sự
nghiệp của vua Lê Thánh Tông.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
-Đào Duy
Anh (2003), Lịch sử Việt
-Huỳnh
Công Bá (2008), Cở sở văn hóa Việt
-Huỳnh
Công Bá (2011), Lịch sử Việt
-Quỳnh
Cư, Đỗ Đức Hùng (2007), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh niên, Thành phố Hồ
Chí Minh.
-Khuyết
danh (1960), Việt sử lược, Trần Quốc Vượng dịch, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội.
-Trần
Trọng Kim (2006), Việt
-Nguyễn
Mậu Hùng (2009), Những lần đổi họ lớn trong lịch sử Việt
-Trương
Vĩnh Khang, (2010), “Chính sách của vua Lê Thánh Tông đối với việc bảo vệ lãnh
thổ đất nước”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6 (410).
-Ngô Sĩ
Liên và các sử thần triều Lê (2004), Đại Việt Sử ký toàn thư, bản dịch, Nxb Văn
hóa – Thông tin, Hà Nội.
-Lương
Ninh (2006), Vương quốc Champa, Nxb Đại quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
-Quốc sử
quán triều Nguyễn (1998), Khâm Định Việt sử thông giám cương mục, tập 1 và 2,
Bản dịch, Nxb Giáo Dục, Hà Nội
-Nguyễn
Khánh Toàn (1954) Vài nhận xét về thời kỳ từ cuối Lê đến Nguyễn Gia Long, Hà
Nội.
-Trần
Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn hóa dân tộc
và Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
-Phan
Huy Chú (2009), Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Văn hóa – Thông tin, thành
phố Hồ Chí Minh.
-Viện sử
học (2010), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, bản điện tử.
-Nguyễn
Lang (2003) Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét