Phan Hưng Nhơn
Đến ngày nay, những tài liệu dân tộc
học, ngôn ngữ học, khảo cổ học đều xác nhận rằng Tổ Tiên người Việt Nam đã hiện
diện hàng thiên niên kỷ trước Tây lịch trên lãnh thổ mà ngày nay được gọi là
Bắc phần Việt Nam. Dân tộc Việt
Những di tích và di vật phát hiện
được đã xác nhận Tổ Tiên người Việt từng tạo nên được các nền văn hóa huy hoàng
một thời từng sáng chói khắp Đông Nam Á. Một nền văn minh nào đó đã được gọi
là, văn minh không thể thiếu yếu tố chữ viết, để lưu lại những tâm tư, kiến
thức hay hoạt động của người thời đó. Tìm hiểu về Tổ Tiên, nhiều người đã phân
vân muốn biết tiếng nói và chữ viết, qua các cuộc thăng trầm của lịch sử dân
tộc đã được hình thành và biến chuyển như thế nào?
I.-
TIẾNG NÓI CỦA NGƯỜI VIỆT
Sử liệu chính xác cũng như những thư
liệu khoa học mới đều đã minh định rằng dân tộc mà ngày nay được gọi là dân tộc
Việt Nam, chính là hậu duệ của dân KEO ngày xưa từng cư trú lâu đời ở Bắc Việt
Nam. Tài liệu khảo cổ xác nhận rằng từ thời đại đá mới đã cộng cư trên lãnh thổ
Bắc Phần Việt
Khi người Việt
Trong quyển Les Langues du monde, nhà
Đông phương học Henri Maspéro nói tiếng Việt
Trong sách The Journal of the Royal
asiatic society, ở trang 427, ông C.O. Blagden tỏ vẻ nghi ngờ lề lối của Henri
Maspéro trong lập luận dựa vào thanh điệu để sắp hạng ngôn ngữ. Trong sách Les
Langues du mondes của ông, ở trang 398, ông Przyluski cũng nói lập luận của
Maspéro chưa có cơ sở và sắp tiếng Việt vào dòng họ các ngôn ngữ tộc Nam Á. Năm
1953 trong Bulletin de la société de linguistique de Paris, ông A.G.
Haudricourt bác bỏ hẳn quan điểm của Maspéro và mạnh mẽ chứng minh những mối
liên hệ giữa tiếng Việt Nam và ngữ tộc Nam Á. Năm 1958, trong thuyết trình của
ông, ông Andrewnoi chủ trương rằng tiếng Việt Nam thuộc ngữ tộc Nam đảo. Nói
tóm lại nếu dựa theo các lập luận trên đây, có thể có hai quan điểm:
1- Nên
xếp tiếng Việt
2- Tiếng
Việt
Tiếng
Việt
Một số
học giả chịu nặng ảnh hưởng của Hán nho, cho rằng tiếng Việt cùng một nguồn gốc
với tiếng Trung Hoa. Đó là một sai lầm lớn lao. Sử liệu về thời Thái thú Sĩ
Nhiếp cũng như thời Mã Viện đều chứng minh người Việt
Như thế sau gần ngàn năm Bắc thuộc,
tiếng Việt
SỰ BIẾN ĐỔI CỦA TIẾNG VIỆT QUA CÁC THỜI ĐẠI
Nếu có một phép lạ nào làm cho một
người Việt
Các truyền thuyết của người Kinh (danh
xưng để gọi người Việt ở đồng bằng) và các truyền thuyết của các bộ tộc thiểu
số đã cùng nhau cư trú lâu đời ở Bắc Việt Nam đều nói lên những liên quan mật
thiết do cùng có chung một nguồn gốc từ thời buổi xa xưa của lịch sử. Nhất là
giữa người Mường và người Kinh. Sử liệu từng cho biết người Mường nguyên xưa là
người Việt từng bỏ đồng bằng lên miền núi rừng để tránh họa đồng hóa của ngoại
bang xâm lăng. Vì thế có thể nói người Mường là tiêu-bản còn lại của người Việt
thời tiền sử. Ngôn ngữ Việt và Mường đều cùng có các yếu tố Thái và Môn-Khmer.
Nên việc nghiên cứu ngôn ngữ người Mường có thể tạo nhiều dễ dàng trong công
việc tìm hiểu tiếng nói của dân tộc Việt
„Du xu
dưỡng hứa ão để ba cỏ hương cúc tẩy khu mu đơn tây hương tiêu bông ba hoàng
thiên nào du xu mông nồng tối báo kham nô hy châu rõ khoan hiểm bông uẩn hủ. Cú
nam báo kiểu dốc liễu hiên sơ chưa giác niêu huấn bộ mi phương ứng chính khu
tục ôi khoan hy…“.
Với
những lời văn như thế, nếu không có những nhà ngôn ngữ học giải thích lại thì
làm sao chúng ta có thể hiểu được ra là:
„… hoa
vàng ở trên cao, làm sao lấy được, anh cũng lấy hương vàng thắp đủ ngày khấn
hương đăng, khấn trời ở trên cao, trời ở trên cao trông xuống cùng giúp hay
không biết có anh cùng em cùng mến lòng nhau không ? Mến lòng làm bạn với nàng
mà không theo đến, anh thì lòng muốn bẻ lấy cội cây hoa, muốn lấy cây hoa mà
người khác tranh lấy tức lắm hỡi!“.
Hoặc
nghe nói những lời sau đây, nếu không được giải thích thì khó được để hiểu:
Khây khươc mang pêu Pô ràng có môch ông, thên
hôp là ông Tùng mà cỏ lại bơ chồng: nã nú ra tế nĩ lấp cái ksông Pồ. Nã tan lễ
ksông Pô pao thất Thach Pi. Bơ nã mê ti lê ksú tê nã lấp ksông. Lòng klời ksinh
tha moch ông hộp là ông sách, mê thương mê thếch pât bởi ông Tùng. Nã mê pao
lồ, nã to ming nó tha nã mê pất ông Tùng. Ông Tùng mê chãi hết ming mê chết.
Cho dênh cái ksông dĩ chãng lấp ẩu, mê danh cái Thác pờ di.
Nghe nói
như vậy thì nên hiểu rằng:
„Khi
trước nghe người ta nói rằng có một ông tên gọi là ông Tùng mà có hai vợ chồng:
nó rủ nhau để nó lấp cái sông Bồ vào đất Thạch Bi. Vợ nó mới đi lấy đá để lấp
sông. Lòng trời sinh ra một ông gọi là ông Sắt mới xuống mới thách vật với ông
Tùng. Ông Tùng mới chạy hết mình mới chết. Cho nên cái sông ấy chấp lấp được
nên mới có cái thác ấy“.
Bài
„Mộng Ký“ trong sách THÁNH TÔNG DI KHẢO có kể lại việc vua Lê Thánh Tông vào
một đêm mưa gió nghỉ đêm gần hồ Trúc Bạch đã nằm mộng thấy một người con gái
dâng một bức tấu thư gồm 71 chữ ngoằn ngoèo không thể đọc hiểu được, ngay cả
triều đình cũng thế. Ba năm sau lại có dịp nằm mộng thấy một tiên ông thổi sáo,
nhà vua hỏi về lối chữ lạ đã thấy năm xưa thì tiên ông cho biết „đó là chữ cổ
của nước
Xem như thế đủ rõ nhiều danh xưng
Việt-cổ đã biến đổi theo thời gian. Ví dụ như cau trầu ngày xưa được nói là
ping nang và bu liu. Bu liu là phiên âm của TRẦU trong tiếng Việt-cổ qua đầu
Tây lịch biến thành bliu, vài thế kỷ sau thành blô, đến thế kỷ 17 biến thành
blầu và đến nay biến thành trầu. Ngày xưa CAU được gọi pinang sau biến thành
M’nang, ngày nay người Mường gọi là nang, còn nếu người Việt ngày nay nói mo
nang có nghĩa là mo cau. Danh xưng Mỵ Nương ngày xưa là mệ nàng. Con gái ngày
xưa được gọi là mại. Ngày nay mái chỉ còn được dùng để chỉ những loại chim chóc
hay gia cầm thuộc giống cái. Ví dụ như con gà mái. Trưng Trắc chỉ là danh xưng
của vị nữ anh hùng Việt
Tiếng nói của người Việt lại còn đôi
khi biến giọng vì những biến cố đã tuần tự xảy ra. Như khi trên lãnh thổ mà
ngày nay được gọi là Trung Hoa có loạn Xuân Thu Chiến Quốc (thế kỷ thứ 8 đến
thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch), một số cư dân miền lưu vực sông Dương Tử cùng dân
vùng đông nam Trung Hoa đã di tản bằng đường biển sang đất Việt tỵ nạn ở vùng
Kinh Bắc, vùng Phong Châu. Hoặc sau khi thắng được hai Bà Trưng, Mã Viện đã đưa
sang đất Việt hàng ngàn tội nhân, dân nghèo Trung Hoa cùng ngược lại đày sang
vùng lưu vực sông Dương Tử hàng ngàn người Việt từng trung thành với hai Bà.
Những người mới đến dầu sao cũng chỉ là thiểu số nên phải uốn theo tập tục của
người bản địa và trong các cuộc đàm thoại họ phải uốn lưỡi nói theo giọng bản
xứ để được thông cảm. Lần lần giọng nói ở những vùng này theo thời gian cũng
biến đổi, nhất là vùng dân cư ở phía Bắc lưu vực sông Hồng.
Trong lời nói phần nhiều đã mất hẳn âm
R và có nhiều lẫn lộn giữa L và
Năm 1609 vua Lý Thánh Tông cất quân
đánh Chiêm Thành. Vì phải đề phòng quân Tống từ Trung Hoa có thể tràn sang nên
nhà vua chỉ sử dụng các lộ địa phương quân của các tỉnh phía Nam tức là Thanh
Hóa, Nghệ An. Sau khi thắng lợi thu được ba châu Địa Lí, Bố Chính và Ma Linh,
thì những người Việt đầu tiên di dân đến ở đây đều là dân dinh của các lộ quân
xuất phát từ Thanh Hóa, Nghệ An, và sau đó là gia đình họ. Những di dân Việt
này tới vùng đất mới, tất nhiên có sự tiếp xúc với dân Chiêm còn lại trong
vùng. Muốn được để thông hiểu, trong lối nói có đôi chút đổi giọng. Thêm vào đó
sự pha giống là những điều tất phải có và tất cả đã tạo ra những biến ngữ mới,
tạo thành giọng nói đặc biệt của vùng Quảng Bình, Quảng Trị ngày nay kèm theo
sự thay đổi ngữ- thể của nhiều từ. Ví dụ như nói nác thay vì nói nước, hoặc cái
đao thay vì cái dao… Các vần anh, ách, ênh, êch, inh, ích nói thànhaen, aet,
un, út, in, ít.
Năm 1307, Công Chúa Huyền Trân lấy
vua Chiêm là Chế Mân. Nhà Trần thâu về được hai châu Ô, Lý, tức là khoảng lãnh
thổ từ sông Thạch Hãn của tỉnh Quảng Trị đến gần sông Thu Bồn của tỉnh Quảng
Nam ngày nay. Những người di dân Việt vào khai khẩn vùng đất mới này là dân
vùng Quảng Bình, Quảng Trị với giọng nói đã được biến đổi. Có lẽ vì lần này
lãnh thổ Ô, Lý được đổi chủ một cách hòa bình nên dân Chiêm ở lại nhiều hơn.
Giọng nói người di dân pha giống với dân bản địa đã tạo thành giọng nói đặc
biệt của người vùng Thừa Thiên (Huế) hiện nay. Trong việc hội nhập với người
Chiêm, người di dân Việt thường uốn cong thêm đầu lưỡi mà nói an, át, en, et,
on, ot, ôn, ót thành ra ang, ac, eng, ec, oong, oc, oông, ooc. Tỉnh Quảng
Sử liệu cho biết rằng phần lớn di dân
đến tỉnh này là cư dân tỉnh Nghệ An được đưa vào bằng đường biển nên vì vậy sau
này giọng Quảng Nam tuy hơi thanh nhưng còn phảng phất giọng nặng nề của người
Nghệ An. Sử liệu cũng có cho biết rằng quân đội viễn chinh Việt tiến đánh vùng
Bình Định ngày nay, bao gồm quân phát xuất từ Nghệ An Hà Tịnh cộng thêm với dân
quân từ Quảng Nam, nên giọng nói Nghệ Tịnh pha lẫn giọng Quảng Nam đã tạo ra
giọng Bình Định và chính giọng Bình Định về sau ảnh hưởng nhiều đến giọng nói
các cư dân các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận mà các chúa Nguyễn Phúc
Tần và Nguyễn Phúc Chu đã chiếm lĩnh được.
Trong thời Trịnh Nguyễn phân tranh,
một số cư dân vùng phụ cận sông Gianh vì chán cảnh khổ cực triền miên vì binh
đao đã theo đường biển vào
Ở Trung Hoa nhà Thanh triệt hạ được
nhà Minh. Khoảng năm ngàn người Trung Hoa không chịu làm tôi nhà Thanh nên bỏ
trốn sang miền Trung nước Việt được chúa Nguyễn cho vào khai khẩn đất Đông Phố
tức đông bộ
Năm 1698 chúa Nguyễn Phúc Chu chia
đất Đông Phố ra làm hai dinh Trấn-Biên và Phiên-Trấn cùng mộ thêm dân cận vùng
Hoành-Sơn đưa vào. Cùng thời có Mạc-Cửu người tỉnh Quảng Đông sang lánh nạn
được chúa Nguyễn cho khai khẩn vùng đất Hà Tiên. Nhân tiện Chân Lạp đang có nội
loạn, chúa Võ Vương bèn can thiệp rồi cho thu luôn phần đất phía Tây.
Đến cư trú tại vùng đất mới lại
thường chung đụng với người Chân Lạp, người Trung Hoa, tất nhiên sự pha giống
là điều tất phải có. Trong cuộc sống hàng ngày, muốn có sự thông cảm, mỗi người
phải sửa giọng nói của mình lúc nói chuyện. Lần lần theo thời gian dân cư vùng
đất mới này nói tiếng Việt với một giọng lẫn lộn Việt, Chiêm, Miên, Trung, mà
mọi người đời nay gọi là giọng
ẢNH
HƯỞNG CỦA CỔ NGỮ, THỔ NGỮ VÀ THỔ ÂM ĐỐI VỚI TIẾNG NÓI
Người Việt
Ở miền Bắc hiện trạng thổ ngữ đa dạng
phức tạp ở nông thôn là phản ảnh cội rễ lâu đời nói lên tính chất biệt lập của
các thôn xã ngày xưa ở đây. Tại đồng bằng Bắc Việt, có khi hai thôn cách nhau
không xa mà thổ ngữ lại khác nhau; chỉ cần nghe qua giọng nói cũng có thể phân
biệt người thôn nọ với thôn kia. Ngoài thổ ngữ còn vấn để cổ ngữ. Trung và bắc
Trung phần Việt
Trăm năm dầu lỗi hẹn hò,
Cây đa bến cộ con đò khác đưa.
Cây đa bến cộ còn lưa,
Con đò còn đó người đưa đâu rồi.
Thì nên
nhớ cây đa là cây da, bến cộ là bến cũ, còn lưa là còn lại.
Lâu đời
như dòng giống Việt Nam, tiếng Việt ra đời từ khi có thủy tổ người Việt Nam
thành hình, nên tiếng Việt gắn liền với số phận nổi chìm của đất nước. Suốt gần
ngàn năm Bắc thuộc, Hán nho được các Thái thú Tàu cho phổ biến sang đất Việt
hòng để thực hiện một chính sách nô dịch nặng nề về tư tưởng hay văn hóa với
nhân dân Việt
Tiếng Việt ngày xưa không được xem là
quốc gia văn tự, do đó ở các trường không dạy, các học giả không ai để tâm
nghiên cứu, nên người Việt Nam cứ theo thói quen thuở nhỏ mà nói, cứ thuận
miệng mà đọc, nên có những âm thanh vì thế mà sai lạc đi, thành ra nơi này khác
với nơi nọ.
Ở Bắc Việt thường nói và viết sai những
phụ âm ở đầu các tiếng. Lầm âm tr với âm ch, âm d với âm gi, âm s lẫn với âm x.
Ở Nam Phần thường nói và viết sai
những phụ âm ở cuối tiếng. Âm C sai thành âm T, AC thành AT, UÔC thành UOT. Âm
T sai thành âm C, AT thành AC, UÔT thành UÔC. Vì vậy cũng không nên ngạc nhiên
lắm khi thấy người miền
Có nơi người Việt viết đúng nhưng lại
đọc sai: Như ở Nam Phần phụ âm V đọc như D: đi về thì nói đi dề, hoặc vợ chồng
thì nói dợ chồng. Ở vùng Thừa Thiên thì phụ âm NH đọc như GI. Viết trong nhà mà
lại nói trong già.
Đôi khi khác biệt trong tiếng nói
cũng do phong thổ mà ra. Nhiều khi cùng một từ mà người miền
Sự kiêng
tên húy vua chúa hay thần thánh cũng là một cớ cho sự thay đổi nguyên âm tại
một vài nơi:
– Ở Bắc
tùng được nói là tòng vì kiêng tên chúa Trịnh Tùng hoặc cang nói cương vì kiêng
tên chúa Trịnh Can.
– Ở Nam
thì hoàng nói là huỳnh vì kiêng tên húy chúa Nguyễn Hoàng, Phúc được nói thành
Phước vì kiêng chữ Phúc trong họ Nguyễn Phúc hoặc tiếnghồng nói thành hường vì
kiêng tên húy Hồng Nhậm của vua Tự Đức.
Sự kiêng
tên như thế nên nhiều vùng trong nước nhiều tiếng đã được nói sai chính âm đi,
ví dụ như thật nói thành thiệt hay thực, hoặc thì thì nói thànhthời, nhưng dầu
có thay đổi lối nói thế nào, giữa người Việt với nhau vẫn không có gì khó hiểu.
Trong ít
nhiều tiếng, người ở Nam Phần dùng phụ âm này thì người ở Bắc Phần lại dùng phụ
âm khác. Ví dụ như người Việt ở Nam Phần nói: trời, trồng, tro, nhuộm, lời, lẽ,
lanh, nhành… thì người ở Bắc Phần lại nói giời, giồng, gio, duộm, nhời, nhẽ,
nhanh, cành.
Có những
tiếng được dùng nhiều ở Bắc Phần nhưng ở trong Nam Phần lại ít được dùng hay
không biết hẳn. Ví dụ như người ở miền Nam nói bông, trái, rương, đặng, kiếm
v.v…, thì người ở miền Bắc nói hoa, quả, hòm, được, tìm...
Từ 1945,
chữ quốc ngữ đã được nâng lên văn tự quốc gia nên qua việc học hành hay sự phổ
biến sách báo bằng Việt ngữ thì những lối nói sai, viết sai đã được sửa đổi
lại. Hệ thống giao thông ngày càng thuận tiện hơn trước, cùng những sự di cư đã
làm giảm bớt những sai biệt do phong thổ tạo ra.
NHỮNG ÂM TƯỢNG HÌNH TRONG TIẾNG VIỆT
Đặc điểm
lạ lùng nhất của tiếng Việt Nam đã được học giả Lê Văn Siêu nêu lên trong sách
Nguồn gốc văn học Việt Nam là những khả năng tượng hình các vật và các việc của
một số âm trong tiếng nói. Theo ông, dường như có một số âm gốc với những tiếng
gốc của nó mà người xưa luôn luôn dùng tới, vừa dùng vừa làm dấu hiệu để rồi theo
với thời gian và theo với những trường hợp đặc biệt, nó nảy sinh ra những tiếng
khác, tuy nghĩa có khác đi nhưng tính cách đại thể vẫn không đổi. Mỗi âm do đó
được mặc nhiên nhìn nhận là dấu hiệu để tượng hình ra vật gì không thể tưởng
được. Nếu chữ tượng hình dùng hình vẽ để diễn tả thì trong tiếng Việt
– ÂM „
Í“ CHỈ NHỮNG GÌ NHỎ NHÍT Ví dụ: con chí là con vật bé tí mà nếu mình không mở
to mắt ra mà chỉ mở hi hí hay ti hí thì không thể nào thấy được. Trong mọi
giống chuột, con chuột nhỏ nhất là con chuột chí.
– ÂM „Ì“
CHỈ NHỮNG GÌ NẶNG NỀ BÉO MẬP Người béo mập thì bụng cứ muốn phì ra, dáng đi thì
ì ạch,
– ÂM „Ọ“
CHỈ NHỮNG GÌ ĐEN ĐỦI, XẤU NGƯỜI, XẤU NẾT Mặt nhọ là mặt có vết dơ. Chơi nhọ là
chơi xấu không lịch sự. Con bọ là con vật ăn bám đáng khinh. Con vọ là chim ăn
đêm phá mùa màng. Người quạu quọ là người có tính nết cáu kỉnh. Người lọ là
người lố lăng đáng ghét.
– ÂM „Ơ“
CHỈ NHỮNG TRẠNG THÁI TÂM LÝ LẠ LÙNG Khi thấy lạ thì mặt mày ngơ ngác. Giữa
những người lạ thì bơ vơ một mình, mắt đờ ra như một người khờ, thấy gì cũng
ngờ ngợ, dễ bị sợ sệt. Người đờ đẩn đâm ra dớ dẩn, chờ mà không biết chờ gì,
nhớ mà không biết nhớ ai, mặt mày phờ phạc, trí óc lờ mờ…
– ÂM „Ò“
LẤY CÒ LÀM TIẾNG GỐC, CHỈ NHỮNG VIỆC MỆT NHIỀU LỢI ÍT KHÔNG RÕ RÀNG Con cò hay
đi lò dò ở bờ ao để mò tôm tép. Làm việc mà chưa biết cách gọi là làm mò. Lạ
đường phải vừa đi vừa hỏi là dò đường. Thò tay xuống nước để mò cua bắt óc… Đưa
câu chuyện ra để nghe ngóng ý tứ của người ta là dò ý. Những việc mệt sức nhiều
mà lợi ít thì khác gì tò vò nuôi nhện, như con bò làm nhiều mà ăn ít.
– ÂM
„ÓT“ DIỄN TẢ SỰ VIỆC TỪ THẤP LÊN CAO Cao chót vót là cao quá khó với tới hoặc
khó lên tới được. Thót lên yên ngựa là nhảy thật mau từ dưới đất lên ngồi trên
yên ngựa. Vót là dùng dao gọt từ dưới lên trên. Tót vòi là cao quá không có gì
sánh được. Trót dại là lỡ có lỗi với người trên.
– ÂM
„ONG“ TẢ HÌNH DÁNG NHỮNG VẬT CONG Con ong có thân hình cong theo nhiều chiều.
Cái nong để phơi lúa có hình tròn. Cái lọng khi được giương lên để che nắng cho
các quan thì có hình tròn. Đong lúa là dùng cái đấu hình tròn mà lường. –
ÂM „OĂN“
TẢ SỰ UỐN CONG NHIỀU LẦN Đường ngoằn ngoèo là đường quanh co. Xoăn xe là cứ
quanh quẩn bên mình. Băng khoăng là không biết xử trí làm sao. Loăn xoăn là hơi
cuộn lại. Loăng quăng là chạy quanh quẩn, không đích.
– ÂM
„OAY“ TẢ THỂ ĐỘNG THEO ĐƯỜNG TRÒN NHIỀU LẦN Xoay nghĩa là quay tròn. Xoáy là
nơi gặp gỡ của các luồng nước khiến nước quay tròn và lõm xuống. Loay hoay là
bối rối, quay đi, quay lại không biết xử sự như thế nào. Xoay vần là nói cuộc
đời thay đổi. Ngoáy là quay đảo theo hình vòng tròn.
– ÂM „
– ÂM
„ÓP“ CHỈ NHỮNG VẬT ĐƯƠNG TO BỊ LÀM NHỎ LẠI, HOẶC ĐƯƠNG TRÒN BỊ ÉP MÉO Sự ép ấy
gọi là bóp. Củ cải phơi xong bị tóp lại. Cái lon tròn hay hộp giấy vuông bị méo
đi một chỗ gọi là móp. Tre hóp là tre nhỏ hơn các loại tre khác. Chóp nón là
chỗ nhỏ nhất trên cùng của nón. Thở thoi thóp là thở rất yếu.
– ÂM
„UÔT“ CHỈ MỘT TÌNH TRẠNG TRƠN TRU DỄ TUỘT HOẶC QUÁ MỨC Cầm một vật trơn mà để
rơi gọi là tuột tay. Sờ nhẹ lên da người hay lông thú gọi là vuốt. Lấy dao gọt
cho tròn và trơn gọi là chuốt. Trời lạnh quá tê cả người gọi là lạnh buốt. Cởi
quần thả xuống gọi là tuột quần.
– ÂM
„ẤP“ DIỄN TẢ MỘT VIỆC LÀM TỪ TRÊN CAO XUỐNG DƯỚI THẤP Con gà ấp nằm phủ lên
trên trứng để lấy hơi nóng làm cho trứng nở. Ngã sấp là ngã từ trên cao xuống
nằm dài úp mặt xuống. Lấp đất là đổ đất xuống hố sâu cho đầy hố. Nấp là trốn
vào một nơi kín cho khỏi bị thấy. Đang đi chân đụng vật gì gọi là vấp.
– ÂM
„ẬP“ CŨNG DIỄN TẢ VIỆC LÀM TỪ CAO XUỐNG THẤP NHƯNG LANH HƠN Lưỡi dao phập xuống
là lưỡi dao chém xuống thật lanh và mạnh. Dập tắt ngọn lửa. Đập đá là dùng búa
đánh mạnh vào đá cho vỡ ra. Ngập nước là nước trên cao đổ xuống khiến mọi thứ ở
dưới bị chìm nằm dưới nước. Lạnh quá hay sợ quá thì run lập cập. Gẫy gập là gẫy
nửa nọ đè lên nửa kia. Trên đây chỉ giới thiệu tượng trưng một số tiếng tượng
hình trong tiếng Việt
TIẾNG VIỆT
Có người nói rằng tiếng Việt
Thật ra trước đây tiếng Việt
Có người nói đó là những từ vay mượn.
Nhưng về việc vay mượn tiếng ngoại quốc, thử hỏi trên thế giới hiện nay, có
nước nào khỏi vay mượn tiếng nước ngoài. Nhưng độc đáo hơn tiếng các nước khác,
tiếng Việt
– Từ HẠ
của tiếng Hán, hội nhập vào tiếng Việt
– Từ XA
của tiếng Hán, hội nhập vào tiếng Việt
– Từ MÁT
của tiếng Môn, hội nhập vào tiếng Việt
– Những
từ như autobus, casseroles, alcool, gare, essence tiếng Pháp thành xe buýt,
soong, cồn, nhà ga, xăng của tiếng Việt hoặc những từ aluminium, tank của tiếng
Đức trở thành nhôm, xe tăng của tiếng Việt. Từ nào của ngoại quốc không biến âm
được thì thường được xoay ra dịch nghĩa hoặc phiên âm theo ngoại ngữ.
Một ví dụ để chứng tỏ tiếng Việt
Những từ
Việt
– MANG:
đem theo mình, đeo vào mình Vai MANG khăn gói sang sông, Mẹ kêu mặt mẹ, theo
chồng phải theo.
– XÁCH:
cầm quai hay cán mà nhấc lên để đem theo Gió đưa ông Đội về trời Mụ Đội thương
tình XÁCH nón chạy theo.
– ẴM: ôm
bằng hai tay mà nâng lên.
– BỒNG:
ôm trên tay.
– BẾ:
vừa ôm vừa ẵm.
– CÕNG:
để lên lưng mà đi.
– ĐEO:
mắc hay buộc vào thân thể người hay một vật gì.
– ĐÈO:
mang thêm.
–
KHIÊNG: hai hay nhiều người hợp sức lại để khênh một vật gì nặng.
– ĐỘI:
để lên đầu.
– BƯNG:
hai tay cầm mà nâng lên.
– VÁC:
để đồ gì nặng lên vai mà đi.
– QUẢY:
đeo một vật gì nặng vào một đầu đòn để lên vai mà đi.
– KHÊNH:
hai hay nhiều người nâng một vật gì nặng mà đưa đi chỗ khác.
Như vậy
cùng nghĩa với PORTER của tiếng Pháp hay từ TRAGEN của tiếng Đức, tiếng Việt
Nam kể sơ đã có rất nhiều từ cùng nghĩa nhưng vì tiếng Việt Nam rất chính xác
và gợi hình đầy đủ nên khỏi cần thêm bổ-sung-từ theo sau như các từ PORTER hay
TRAGEN, để có thể nói rõ mang như thế nào.
TIẾNG VIỆT
Nghe
người Việt
Sáu thanh đặc thù của ngôn ngữ này đã
tạo được những tiếng bằng, tiếng trắc, thấp cao, nặng nhẹ, rõ ràng. Sáu thanh
cũng cấu tạo thành ba cặp đối nhau về độ cao xuất phát: bình bày huyền, hỏi và
ngã, sắc và nặng. Tiếng Việt
Vó câu
KHẤP KHỂNH, bánh xe GẬP GHỀNH.
Vừa nghe
xong câu thơ đó người nghe có thể mường tượng ngay hình ảnh một chiếc xe ngựa
đi trên một con đường xấu lồi lỏm gồ ghề, vó ngựa bước thấp bước cao làm cho
chiếc xe lắc lư, cùng với tiếng móng ngựa lộp cộp… Những từ ngữ KHẤP KHỂNH và
GẬP GHỀNH đã làm cho câu thơ có nhạc. Hoặc nghe ai đọc:
Đờn kêu
tích tịch tình tang,
Ai đem
công chúa lên thang mà về. (Thạch Sanh Lý Thông)
thì cũng
phải công nhận rằng tiếng nói của người Việt
Để chứng
tỏ tiếng Việt
Tai
NƯƠNG NƯỚC giọt mái nhà,
Nghe
trời NẰNG NẶNG, nghe ta BUỒN BUỒN.
Nghe đi
RỜI RẠC trong hồn,
Những
chân XA VẮNG, DẶM MÒN LẺ LOI.
Tiếng
Việt
BA, BÀ,
BÁ, BẠ, BẢ, BÃ.
BA = số
mục sau số hai.
BÀ = mẹ
của cha mẹ mình.
BÁ = bố,
truyền rộng ra.
BẠ =
không lựa chọn.
BẢ =
thuốc độc trộn với đồ ăn để nhử.
BÃ = vật
gì hết hương vị chỉ còn xác, ví dụ như bã chè, bã mía.
Chính
sáu thanh điệu này làm cho câu nói có vần có điệu, do đó làm cho tiếng Việt
giàu chất nhạc.
TIẾNG VIỆT
Nhiều nhà ngôn ngữ học danh tiếng thế
giới sau khi nghiên cứu tiếng nói của người Việt
Ngôn ngữ Việt
Ngoài đặc tính tiêu biểu là một tiếng
nói đầy nhạc tính, tiếng Việt
Tiếng Việt
Văn phạm Việt
Có những ngôn ngữ như Pháp, Đức lại
có văn phạm rắc rối tới mức không cần thiết và một cách phi lý. Tại sao những
vật vô tri vô giác lại phải thuộc giống đực hay giống cái. Tại sao cái ghế đẩu
(le tabouret) là đực, mà cái bàn (la table) lại là cái. Người lính gác là đàn
ông rõ ràng mà lại gọi là „la sentinelle“. Trong Đức ngữ, trái bí rợ (der
Kurbis) thuộc giống đực nhưng trái chuối (die Banane) lại là cái. Tiếng Đức,
tiếng Ý ngoài giống đực, giống cái còn có cả „trung hòa“. Cô gái trẻ được gọi
là das Mädchen.
Ngôn ngữ nhiều nước Tây phương được
rập khuôn với những mẹo luật phiền phức về cách chia động từ, cách sử dụng các
thì và trạng thái. Ví dụ như khi tiếng Việt, nếu dùng động từ LÀ với các chủ từ
TÔI, NÓ, CHÚNG TA, CÁC ANH, CHÚNG NÓ động từ LÀ vẫn không thay đổi; thì theo Pháp
ngữ với động từ ÊTRE phải là JE suis, TU es, IL est, NOUS sommes, VOUS êtes,
ILS sont; trong tiếng Đức thì phải: ICH bin, Du bist, WIR sind hay trong Anh
ngữ thì I am, YOU are, HE is.
Trong các ngôn ngữ này, tùy theo chức
năng trong câu, mỗi từ biến đổi theo mỗi cách hay trạng. Một động từ ở chỉ định
cách từ không biến cách mà chỉ cần thêm một số phụ từ liên hệ. Ví dụ: Tôi đi
bây giờ. Tôi vẫn đi. Tôi đang đi. Tôi sẽ đi.
Tiếng Việt
Trước đây tiếng Việt
Tiếng Việt Nam lại có đủ từ để chỉ
từng vật, từng việc, có thể được dùng để điễn tả bất kỳ tư tưởng cao siêu nào,
bất cứ tình cảm tế nhị nào hoặc trình bày bất cứ kiến thức khoa học phức tạp và
hiện đại nào. Nhiều từ tiếng Việt rất khai quát, có thể có nhiều ý nghĩa. Ngoài
hàng chục vạn từ sẵn có, tiếng Việt
Ngôn ngữ
Việt
Con chó
khác chó con. Trong nhà khác nhà trong. Vị trí của từ trong câu thay đổi thì ý
nghĩa cũng thay đổi:
Em yêu
anh. Anh yêu em. Yêu anh em. Anh em yêu. Em anh yêu. đều có ý nghĩa khác nhau.
Tiếng
Việt lại có lối NÓI LÁI độc đáo, một đặc biệt mà ngôn ngữ các nước khác không
thể có được nên có nhiều trường hợp không thể dịch ra ngoại ngữ được hoặc nếu
có dịch cũng chỉ là phỏng dịch không sát nghĩa, khó lột được tinh thần nguyên
văn.
Khen ai
ĐẺO ĐÁ tạc nên mày,
KHÉO
ĐỨNG chi mà đứng mãi đây?
Trên cổ
ĐẾM ĐEO dăm chuỗi hạt,
Dưới
chân ĐỨNG CHÉO một đôi giày... (Cống Quỳnh)
LỐI NÓI
LỜI NGƯỢC VỚI Ý: Nhỏ phải hiểu To, Khen có nghĩa là Chê. Khéo có nghĩa là Vụng.
„Bé cái lầm“ có nghĩa là „lầm to“. „Rõ Khéo“ chưa ? Có nghĩa là „lầm lỗi vụng
về“.
KHEN ai
khéo đúc chuông chì,
Dạng thì
có dạng, đánh thì không kêu.
Những
tiếng KHEN, KHÉO ở đây đã được dùng để trách móc mỉa mai không còn nghĩa đen
thuần túy nữa.
TIẾNG VIỆT
Lời nói
chẳng mất tiền mua
Lựa lời
mà nói cho vừa lòng nhau.
Thi sĩ
Bàng Bá Lân từng chứng minh rằng do bản tính hiền hòa người Việt Nam luôn luôn
chú trọng đến việc xử thế, cố tránh va chạm tình cảm, do đó trong ngôn ngữ đầy
đặc tính uyển chuyển ngọt ngào và ông từng đưa ra những ví dụ lời tỏ tình dịu
dàng thiết tha của Kim Trọng: Tiện đây xin một hai điều, Đài gương soi đến dấu
bèo cho chăng? Để chứng minh tiếng Việt
Chim lạc
bầy xa cây nhớ cội
Người xa
người tội lắm, người ơi!
Trong
lời nói sự sử dụng điệp ngữ khiến lời nói thêm uyển chuyển:
Bình xa
chén, chén lại xa bình,
Đó xa
đây, đây xa đó, mối chung tình xa nhau.
BẢO TOÀN
SỰ TRONG SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT
Nếu từ
1960 trở về trước tiếng Việt được phát triển tốt đẹp và sau thời này tiếng mẹ
đẻ và chữ quốc ngữ tuy phát triển ngày càng mạnh hơn nhưng có lẽ chỉ về lượng
chớ về phần phẩm thì không khá mấy. Có thể do tình trạng chiến tranh, con người
đổ ra nói và viết nhiều mà không cần nói đúng và viết đúng chăng ? Nếu có những
người cố gắng làm cho tiếng mẹ đẻ càng ngày càng giàu và hay hơn thì cũng có
lắm kẻ làm cho tiếng này càng ngày càng mất lần sự trong sáng của nó bằng:
1) TẬT HAY DÙNG TIẾNG NƯỚC NGOÀI.
Không có
ngôn ngữ nào giàu đến mức không cần mượn thêm tiếng nước ngoài cho đến ngày nay
việc đôi khi cần phải mượn một số từ của ngôn ngữ nước khác cũng là một chuyện
bình thường. Trong tiếng Việt
Sau
1945, tật hay dùng tiếng nước ngoài đã được người Việt hay mắc rất nhiều. Ví dụ
như trước 1945 chữ AVION của tiếng Pháp được dịch sang tiếng Việt là MÁY BAY,
PORTE AVION là tàu sân bay thì đến thời sau 1960 có chiến tranh với cộng sản
thì tại miền Nam Việt Nam lại dùng những từ gốc Hán như PHI CƠ hoặc HÀNG KHÔNG
MẪU HẠM.
Hoặc
trước 1945, người Việt thường quen tai với những từ như LÍNH THỦY, LÍNH BỘ thì
sau đệ nhị thế chiến thường chỉ thấy nói THỦY QUÂN, LỤC QUÂN. Thậm chí có một
số người trẻ tuổi cho rằng nói MÁY BAY, LÍNH THỦY, LÍNH BỘ là những từ của cộng
sản, người quốc gia không nên dùng. Cho nên đã có câu chuyện buồn cười là một
em bé Việt ở Pháp học tiếng Pháp đem từ HELICOPTÈRE hỏi nghĩa với cha nó thì
cha nó nói là PHI CƠ TRỰC THĂNG. Em bé bực mình vì không hiểu phi cơ trực thăng
là gì bèn chạy sang hỏi ông nội của bé thì được ông giải thích cho rằng đó là
danh xưng gốc Hán và ông giải thích PHI là BAY, CƠ là MÁY, TRỰC là THẲNG, THĂNG
là LÊN nghĩa là MÁY BAY LÊN THẲNG. Ông dùng tiếng mẹ đẻ để giải thích như vậy
thì cháu ông là người Việt tất dễ hiểu ngay chớ cha bé dùng danh xưng gốc Hán
thì làm sao bé hiểu được. Làm như thế khác gì dịch cho một người Việt một từ
tiếng Pháp bằng một từ tiếng Anh trong khi người Việt đó Anh hay Pháp ngữ đều
mù tịt. Với tiếng Hán cũng thế thôi, Hán ngữ cũng là một ngoại ngữ. Có nhập một
từ Hán vào ngôn ngữ Việt
Trái lại
không nên dùng những từ gốc Hán mà Việt Nam cộng sản hay bất cứ ai đã sử dụng
để tự CHẾ BIẾN thành những từ kỳ quái khó hiểu như khẩn trương, tuyên giáo,
tung thâm, quán triệt v.v… mà sự sử dụng sẽ làm mất sự trong sáng của ngôn ngữ
mình.
Trên một
tạp chí xuất bản ở Paris năm 2009, ông Lâm Dĩ Mộc kêu gọi nên bảo tồn tiếng
Việt Nam, đừng để bị tiêu diệt, nhưng trong suốt bài báo, tác giả lại chỉ trích
những ai dùng những từ như: LÍNH BỘ, LÍNH THỦY ĐÁNH BỘ, CHỮ THẬP ĐỎ, LẦU NĂM
GỐC, TÒA NHÀ TRẮNG, SAO HỎA… viện cớ đó là ngôn ngữ „miền núi“ của Việt Nam
cộng sản và chỉ được dùng những từ như: LỤC QUÂN, THỦY QUÂN LỤC CHIẾN, TÒA BẠCH
ỐC, HỎA TINH. Lời chỉ trích lại quá nhiều mâu thuẫn và quá khắt khe, chớ trước
năm 1945, người Việt
Những từ
như TÒA BẠCH ỐC, NGŨ GIÁC ĐÀI, HỒNG THẬP TỰ là những từ gốc Hán, được Việt hóa
để làm ngôn ngữ Việt
Ngoài ra
ông Lâm Dĩ Mộc còn viết rằng: „Ai nói hay viết đảo ngược Á CHÂU thành Châu Á, Y
KHOA thành Khoa Y, HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA thành Công chúa Huyền Trân, TRÚC LÂM
THIỀN VIỆN thành Thiền Viện Trúc Lâm… PHI CHÂU thành Châu Phi đều là „SAI PHÁP
CÚ, không ý nghĩa, kém cỏi biểu lộ bản chất thất học“.
Nếu ông
Lâm Dĩ Mộc là người Việt thì tác giả nên nhớ rằng ngữ pháp Việt Nam hoàn toàn
khác biệt hẳn với ngữ pháp Hán và tiếng Việt Nam hiện đại không phải là tiếng
nôm như tác giả lầm tưởng. Những từ gốc Hán được mượn dùng trong ngôn ngữ Việt
II) HAM DÙNG NHỮNG TỪ HÁN ĐỂ DỊCH HAY PHIÊN ÂM
Trước
1945, những danh xưng ngoại quốc như Montesquieu, Voltaire hoặc những địa danh
như
Trên một
tạp chí ở hải ngoại có bài tường thuật về giải vô địch túc cầu thế giới ở Đức.
Nhiều nước tham dự đã được gán cho những danh xưng lạ lùng khó hiểu nào là: Nãi
Gia Lợi, Ba Nhã Quế, Khốt Đột, Kha Luân Quốc, Gia Mai Kha, Khả Mại Dung, làm
người đọc tuy am hiểu nhiều về địa lý cũng không hiểu đó là những nước nào và ở
đâu? Sau cùng nhờ xem lại kết quả trên các báo Âu Mỹ lúc đó mới có thể biết:
Nãi Gia Lợi là NIGERIA, Ba Nhã Quế là PARAGUAY, Khốt Đột là CROATIA, Khã Mại
Dung là CAMEROUN…
Nhiều
người tự hỏi không hiểu tại sao tác giả bài tường thuật không dùng danh xưng
đặc thù của các nước đó mà lại dùng những từ Hán vô nghĩa… Có ai thử giải thích
các danh xưng Nãi Gia Lợi, Ba Nhã Quế, Khã Mại Dung có nghĩa là gì ?
Còn nếu
muốn phiên âm lại cho dễ đọc thì tại sao không dùng chữ quốc ngữ để âm vì hơn
cả tiếng Hán, chữ Hán, tiếng và chữ Việt Nam có đủ âm để phiên âm bất cứ ngôn
ngữ nào trên địa cầu.
Hay hơn
hết là giữ nguyên lối viết và lối đọc của danh xưng nước người. Để cho những
người không biết ngoại ngữ dễ đọc thì âm viết sau danh xưng chính, kế thêm
trong vòng ngoặc. Ví dụ TUNISIE (Tuy-ni-di), MAROC (Ma-rốc), CAMEROUN
(Ca-morun) chớ dùng những từ Hán như Ba Nhã Quế, Khốt Đột, Khã Mại Dung đã vô
nghĩa mà còn chướng tai khó hiểu.
III) HAY NÓI XEN THÊM CHỮ HÁN MÀ KHÔNG HIỂU
ĐÚNG NGHĨA CHỮ ĐÓ
Có đôi
người thường có thói xen vào câu nói bằng tiếng mẹ đẻ của họ những từ ngoại
quốc, nhất là những từ gốc Hán mà họ không hiểu rõ nghĩa của từ đó. Ví dụ như
muốn nói về CHỖ YẾU thì họ lại dùng từ YẾU ĐIỂM mà thật sự theo Hán ngữ, YẾU
ĐIỂM có nghĩa là ĐIỂM QUAN TRỌNG mà đúng ra từ NHƯỢC ĐIỂM mới có nghĩa là CHỖ
YẾU.
Nhiều âm
của Hán ngữ đôi khi lại trùng âm với âm Việt ngữ nhưng lại có nghĩa khác nhau.
Ví dụ từ Hán YẾU có nghĩa là CỐT, QUAN TRỌNG, CHÍNH nên Yếu điểm có nghĩa là
điểm quan trọng. Yếu nhân là người trọng yếu. Từ YẾU của Việt ngữ là có nghĩa
là yếu ớt, kém, vì vậy khi người Việt
Cũng nên
lưu ý rằng có nhiều từ Hán, khi được mượn vào ngôn ngữ Việt
Cũng có
từ Hán-Việt được tưởng rằng có ý nghĩa giống nhau nhưng thật ra vẫn có nhiều
khác biệt. Ví dụ như từ PHÁT HIỆN và từ KHÁM PHÁ. Sự thật thì PHÁT HIỆN có
nghĩa là tìm thấy cái gì trước đây chưa biết hoặc chưa tìm thấy; còn KHÁM PHÁ
có nghĩa là tìm ra được cái gì được ẩn giấu trong bí ẩn và việc đó bao hàm ý
phải có công tìm tòi.
Vì vậy
muốn sử dụng đúng từ Hán-Việt nên hiểu rõ đúng nghĩa và cách dùng từng từ, nhất
là phải biết phân biệt các từ Hán-Việt trùng âm với các từ thuần Việt ngữ.
IV) NÓI VÀ VIẾT ĐÚNG THEO NGỮ PHÁP
Trong
cuộc nói chuyện hay trên các văn thư, việc nói và viết sai ngữ pháp cũng thường
có thể xảy ra cho bất cứ ai. Nhưng có người cho rằng cần gì phải giữ gìn ngữ
pháp trong lời nói, cốt hiểu nhau là đủ rồi. Nhưng một lời nói sai ngữ pháp tất
nhiên sẽ mất đi sự trong sáng và sẽ trở thành khó hiểu hoặc có thể tạo ra nhiều
ngộ nhận. Ngữ pháp tiếng Việt
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TIẾNG VIỆT
Những
kết quả mới nhất của ngành khảo cổ cũng như kết quả về những nghiên cứu khoa
học đã cho thấy Việt
Ngành
dân tộc học cho biết dân tộc Việt
Trong
suốt gần ngàn năm bị Tàu đô hộ, các di tích lịch sử bị hủy diệt, chữ viết cũng
như tiếng nói bị cấm đoán. Tổ tiên người Việt chỉ được phép dùng chữ Hán để
viết và tiếng Hán để nói. Tuy vậy vì nhờ Tổ tiên người Việt đã cư trú lâu đời
trên lãnh thổ Bắc Việt nên có được thời gian dài đủ để hình thành ngữ hệ một
cách ổn định để sau đó dầu bị ngoại bang phương Bắc thống trị vẫn giữ được bản
sắc tiếng nói của dân tộc. Suốt thời gian bị đô hộ chữ viết của dân tộc bị cấm
đoán. Chữ Hán được các Thái thú Tàu áp đặt thay thế chữ Việt. Học hành, thi cử,
luật lệ, dụ sắc, giấy tờ chốn công đường đều dùng chữ Hán. Đó là nguyên do của
sự ra đời của văn chương truyền khẩu của dân tộc Việt
Từ thế
kỷ XIII, trong khi ngay tại Âu Châu văn chương chưa được triển khai bao nhiêu
thì tại Việt
Tuy
nhiên suốt thời kỳ Bắc thuộc, Hán Nho đã được phổ biến ở đất Việt để khống chế
nhân dân Việt Nam, đã tạo ra ở đây một số khoa bảng NAM NHÂN BẮC HƯỚNG. Cho nên
đến thời kỳ nước nhà được tự chủ một số lớn khoa bảng đã trở thành quan lại của
triều đình. Tuy có thể họ đã có ý thức rõ rệt về độc lập và chủ quyền lãnh thổ,
nhưng vẫn còn rất mơ hồ về ý thức độc lập văn hóa. Do đó chữ Hán vẫn được họ áp
dụng làm văn tự quốc gia trong khi chữ NÔM được xem là: nôm na mách qué.
Suốt thế
kỷ XIV và XV mặc dầu mọi khó khăn, tiếng Việt vẫn phát triển không ngừng. Người
Việt đã khéo lợi dụng các thể thơ lục bát để diễn tả hay phát biểu cảm xúc hay
tư tưởng của mình.
Đi đôi
với tinh thần độc lập của dân tộc từ thế kỷ XV, tiếng Việt đã là một lợi khí
văn hóa hoàn bị, nên mặc dầu có sự bành trướng mạnh mẽ của văn chương Trung
Hoa, tiếng Việt vẫn dũng mãnh sát cánh với dân tộc. Tiếng mẹ đẻ đã đủ khả năng
diễn tả mọi tâm tư của con người. Có lẽ người Việt thuộc một dân tộc có máu thi
sĩ trong huyết quản nên lối diễn tả vào thời kỳ này thường dùng lối văn vần.
Với các thể thức gắt gao chặt chẽ của thi thơ nôm do Hàn Thuyên mở lối, nhiều
tác phẩm văn vần bằng tiếng mẹ đẻ đầy giá trị ra đời. Tiêu biểu là tác phẩm
Chinh Phụ Ngâm của Bà Đoàn Thị Điểm. Như thế loại văn vần, lục bát, dầu có niêm
luật khác hẳn lối thơ Trung Hoa, vẫn đầy đủ khả năng để phô diễn tất cả mọi tâm
trạng đầy tế nhị hay khúc chiết của người Việt
Như thế
từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVIII tiếng Việt Nam càng ngày càng phát triển mạnh
mẽ trong quảng đại quần chúng Việt Nam trong lúc giới quan lại của triều đình
cùng giới khoa bảng vẫn xem tiếng Hán, chữ Hán như là ngôn ngữ và văn tự quốc
gia. Tuy vậy suốt gần 500 năm, văn thể thơ Đường chỉ có một vài tác phẩm, văn
thể thơ nôm tràn ngập trong quần chúng Việt
Mãi đến
đời Tây Sơn, tiếng Việt mới được xem là ngôn ngữ chính thức và chữ NÔM được xem
là văn tự quốc gia. Khi viết chiếu cầu hiền La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiệp, Nguyễn
Huệ không dùng chữ Hán mà lại viết bằng chư Nôm. Có thể nói dưới triều đại
Nguyễn Huệ, mọi chiếu chỉ, văn thư của triều đình đều dùng chữ Nôm. Nhà cầm
quyền thời đó còn lợi dụng thi ca bằng chữ Nôm làm lợi khí giáo dục. Tiêu biểu
là tác phẩm Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca.
Tiếc
thay về sau triều đình nhà Nguyễn lại quay trở lại sử dụng chữ Hán như là văn
tự quốc gia. Nhưng chữ Nôm và tiếng mẹ đẻ vẫn được dân chúng bảo vệ. Sự thành
hình của chữ quốc ngữ đã giúp nhiều vào công việc cải thiện tiếng nói mẹ đẻ rất
nhiều.
Từ năm
1945, tiếng mẹ đẻ được xem như là ngôn ngữ chính thức của dân tộc Việt
Nghe ca ngợi tiếng Việt giàu, đẹp, hay, ... thì thích cái bụng lắm. Tinh thần dân tộc mà.
Trả lờiXóaNhưng bạn có dám nói/viết rằng tiếng Việt giàu từ ngữ mô tả màu sắc và mùi. vị không ?
Mạnh, hay đến mấy cũng có chỗ yếu.