TRAO ĐỔI VỚI ÔNG TRẦN GIA NINH
Sau khi đăng trên tạp chí Tia Sáng,
bài viết của TSKH Trần Gia Ninh được công luận chú ý, nhiều tờ báo và trang
mạng đăng lại. Những cuộc tọa đàm về bài báo được tổ chức. Trong tọa đàm tại Cà
phê Trung Nguyên tối thứ Bảy 24.9, tôi có được mời dự và phát biểu. Do còn thắc
mắc, một số bạn bè yêu cầu tôi nói đầy đủ hơn.
Trong bài này xin được trình bày
những ý sau.
TS Trần
Gia Ninh có công sưu tầm những tài liệu mới từ cổ thư khiến cho bài viết có
những chi tiết khác với những gì đã biết từ trước nên có thể lôi cuốn được một
số người. Tuy vậy, tài liệu mà ông đưa ra chỉ được gom lại từ những sách mang
tính sử ký chung mà không phải sách chuyên khảo về Bách Việt nên không phản ánh
được toàn diện cách nhìn từ cổ thư.
Thảo
luận với tác giả, tôi thấy cần xác định rõ những vấn đề:
1. Bách Việt: một trăm nước Việt hay một trăm
tộc Việt?
Ông Trần
Gia Ninh viết:
- Bởi vì xưa có đến hàng trăm tộc
Việt, cho nên sử sách gọi chung là Bách Việt 百越 hoặc 百粤. Trong lịch sử Trung Hoa, toàn
bộ vùng đất Giang Nam (tên gọi vùng Nam Sông Dương Tử), rộng bảy tám ngàn dặm
từ Giao Chỉ đến Cối Kê, từ trước thời Tần Hán đều là nơi cư ngụ của các tộc
Bách Việt.
- Hai nước Ngô - Việt là những tộc
Bách Việt được ghi chép rất sớm trong sử sách.
Trong khi, theo chỗ tôi biết thì có
hai cuốn sách chuyên khảo về Bách Việt. Đó là Bách Việt tiên hiền chí của Âu
Đại Nhậm đời Minh và Bách Việt nguyên lưu dữ văn hóa (của La Hương Lâm - Trung
Hoa tùng thư, Đài Loan thư điếm, 1955).
Theo La Hương Lâm, thuật ngữ Bách
Việt xuất hiện lần đầu tiên trong sách Lã Thị Xuân Thu, thiên Thị Quân: “Phía
nam Dương Hán, trong khoảng Bách Việt, những đất Tệ Kha, Chư Phu, Dư My, các
nước Phộc Lâu, Dương Xuất, Hoan Đâu, phần nhiều không có vua.” Cuốn sách này
nói tới đất và nước mà không đề cập sắc tộc.
Trong Bách Việt tiên hiền chí, Âu Đại
Nhậm viết: “Cháu sáu đời của Câu Tiễn là Vô Cương cất quân đánh Sở, bị vua Sở
Hùng Thích đánh bại. Vô Cương bỏ Lang Gia, đi đến ở Đông Vũ. Nước Việt tan. Các
con của Vô Cương định cư ở duyên hải Giang
Như vậy,
ngay trong thư tịch Trung Hoa đã có hai quan niệm khác nhau. Một số coi Bách
Việt là trăm nhà nước. Số khác lại coi Bách Việt là trăm tộc Việt. Hai quan
niệm này đưa tới cách lý giải hoàn toàn khác nhau về Bách Việt. Công việc của
nhà nghiên cứu là phải phân định đúng sai của hai quan niệm trên để định hướng
nghiên cứu của mình. Trong trường hợp này phải nhờ tới những tư liệu khác.
Tài liệu khảo cổ học cho thấy, chủ
nhân các văn hóa ở Nam Dương Tử như Tiên Nhân Động, Giang Tây 25.000 năm trước,
Hà Mẫu Độ 7.000 năm trước rồi Lương Chử 5.300 năm trước, đều là người Lạc Việt.
Khảo sát di cốt người Lương Chử, học giả Trung Quốc cho rằng: “Tại di chỉ Lương
Chử khai quật được di cốt người, xác nhận bằng kỹ thuật gen, cho thấy người
Lương Chử là hậu duệ của người Lạc Việt.” Trong khi đó, Liangzhu culture từ
Wikipedia, the free encyclopedia viết: “Một phân tích năm 2007 của DNA phục hồi
từ người vẫn còn ở địa điểm khảo cổ của người tiền sử trên sông Dương Tử cho
thấy tần số cao của Haplogroup O1 (Y-DNA) trong văn hóa Lương Chử, liên kết
chúng với dân cư văn hóa Austronesian và Tai-Kadai.”
Như vậy, tài liệu khảo cổ học tại
nhiều di chỉ vùng Giang
Kết quả của những khảo cứu này phù
hợp với bản đồ dân cư Đông Á từng được nhân chủng học khẳng định: từ 2000 năm
TCN, đại bộ phận dân cư Đông Á thuộc chủng Mongoloid phương
Xác định chủng người là công việc của
khoa học tự nhiên, của Nhân học. Do vậy, muốn biết dân cư Bách Việt là ai thì
nên tìm trong các tài liệu về Nhân học. Cổ thư Trung Hoa với những thuật ngữ
dân gian như người Lê, Tam Miêu, Bách Việt… không có giá trị khoa học.
Từ đó có thể khẳng định, Bách Việt
không phải là trăm tộc Việt mà là những tiểu quốc khác nhau của chủng người Lạc
Việt
Chính là
do lầm lẫn biến trăm nước Việt thành trăm giống Việt khiến tác giả lạc đường.
2. Bách Việt có phải là cội nguồn của chủng tộc Việt?
Cổ thư Trung Hoa viết rằng thế kỷ XI
TCN, một dòng của vua Vũ nhà Hạ vượt Dương Tử xuống vùng Chiết Giang, xăm mình,
cắt tóc, lập ấp sống với người bản địa rồi trở thành thủ lĩnh, đứng ra lập nước
Việt. Tới thời
Tuy nhiên, có thực tế là, từ xa xưa,
trước cả thời Hoàng Đế, những sắc dân Cửu Lê, Tam Miêu… là những chi nhánh của
người Lạc Việt đã sống đông đúc ở cả Bắc và Nam Dương Tử.
Nếu thực sự có con cháu vua Thiếu
Khang nhà Hạ vào vùng đất của người Cửu Lê sống rồi làm vua thì cũng chỉ hoàng
tộc mới là con cháu Hạ Vũ. Ta biết, Vũ là người Việt, có thể thuộc nhóm
Tày-Thái, được vua Thuấn truyền hiền, lập ra nhà Hạ ở Trung Nguyên.
Nay, nhờ di truyền học khảo sát ADN
dân cư Đông Á, ta biết rằng, người Lạc Việt được sinh ra ở Việt
Từ đó đưa tới kết luận: người Bách
Việt không phải là cội nguồn của dân tộc Việt mà là hậu duệ của người Lạc Việt
từ Việt
Không
phải như ông Trần Gia Ninh nghĩ, Lạc và Việt là hai giống người mà đó là danh
xưng chỉ người Indonesian sinh ra trên đất Việt. Do là nơi phát tích của người
Lạc Việt nên sử đặt tên đất là Lạc Việt.
3. Nước Sở là gì?
Nước Sở là thực thể lớn, có vai trò
quan trọng trong lịch sử Trung Quốc. Do vậy, nếu không xác định được Sở là Hoa
Hạ hay Việt thì mọi nghiên cứu về Trung Hoa sẽ chỉ là ăn ốc nói mò, việc của
những ông thầy mù sờ voi!
Mặc dù dẫn: “Sách Sử Ký - thiên Sở Thế
gia viết rằng người Sở là dân Man (Sở Man), vua Sở nhận mình là dân Man Di. Man
là chữ người Hoa Hạ gọi dân miền
Sự thực
về người Sở và nước Sở như sau.
Người Lạc Việt muộn nhất từ 7.000 năm
trước đã làm nên văn hóa trồng kê và lúa Ngưỡng Thiều ở cao nguyên Hoàng Thổ và
đồng bằng Trong Nguồn (Trung Nguyên hiện nay). Khoảng 2879 TCN, đây là giang
sơn của Đế Lai trong truyền thuyết về nước Xích Quỷ. Năm 2698 TCN, họ Hiên Viên
dẫn đầu dân du mục Mông Cổ đánh vào Trác Lộc, chiếm một phần vùng đất này, lập
nhà nước Hoàng Đế. Tại vùng chưa bị chiếm, người Lạc Việt vẫn kiên cường kháng
chiến. Đọc Thượng Thư, thấy nhiều lần vua Nghiêu rồi Thuấn phải “phạt Tam
Miêu”, “dẹp Tam Miêu,” “đầy Tam Miêu...” Đặc biệt cuốn Kỳ môn độn giáp đại toàn
thư có câu; “Tích nhật Hoàng Đế chiến Si Vưu, Trác Lộc kinh kim vị nhược hưu”
(Ngày trước Hoàng Đế đánh Si Vưu, trận Trác Lộc tới nay còn chưa dứt). Điều này
cho thấy cuộc kháng chiến dai dẳng của người Việt bản địa chống lại vương triều
Hoàng Đế liên tục từ sau trận Trác Lộc. Bẵng thời gian dài, sử Trung Hoa không
nói tới những tiểu quốc hay bộ tộc người Lạc Việt này. Tới đời Thương thì những
dân này xuất hiện dưới tên nước Dương Việt, chiếm lĩnh một phần Hà Nam, Hà Bắc
tới Sơn Đông và Nam Dương Tử. Nước này sau liên minh với Chu đánh Thương. Thời
Xuân Thu hình thành nước Sở (1030 TCN - 202 TCN), cương vực ngoài Hoa Hạ, án
ngữ khoảng giữa Hoài Hà và Dương Tử. Nước Sở (楚)
vốn đọc theo tiếng Việt cổ là Trù là Trầu, một biểu trưng của dân Lạc Việt.
Cuối thời Chiến Quốc, Sở thôn tính Việt, xưng bá, ngang ngửa với nhà
4. Hai nước Ngô - Việt phải chăng là những tộc Bách Việt?
Ông Trần
Gia Ninh viết: “Hai nước Ngô - Việt là những tộc Bách Việt được ghi chép rất
sớm trong sử sách?” Có đúng vậy không? Muốn hiểu điều này, phải trở lại với nền
văn hóa gốc của đất Giang Nam: văn hóa Lương Chử. Sau 80 năm khai quật và khảo
cứu, năm 2016, các học giả Trung Quốc khẳng định, nhà nước Lương Chử của người
Lạc Việt được hình thành từ 3.300 năm TCN.
Khoảng năm 2.300 TCN, do nước biển
dâng, kinh đô Lương Chử bị nhấn chìm, nhà nước Lương Chử tan rã. Một phần dân
cư tản mát đi nơi khác. Những người ở lại, do môi trường thay đổi, gặp rất
nhiều khăn, nên buộc phải chật vật để sinh tồn. Nhưng vài trăm năm sau, nước
rút, môi trường tốt trở lại, dân cư tập trung đông hơn, tạo nên văn hóa Mã
Kiều. Khảo cổ học xác nhận Mã Kiều là văn hóa rớt của Lương Chử, từ đồ gốm tới
ngọc đều thua sút so với Lương Chử. Trên giang sơn Lương Chử (thực tế là Xích
Quỷ, xin trình bày vào dịp khác) xưa, những nhà nước mới được hình thành là
Ngô, Việt rồi Sở. Thực chất, đó là những quốc gia khác nhau của người Lạc Việt
bởi lẽ từ thời kỳ Lương chử, Nam Dương tử duy nhất chỉ người Lạc Việt sinh
sống.
Đúng là khoảng 400 năm TCN, do loạn
Chiến Quốc, nhiều triệu người từ duyên hải phía Đông Trung Quốc di tản sang
Triều Tiên, Nhật Bản và vùng đất phương
Theo
kinh nghiệm của tôi, những tư liệu của các đại học danh tiếng phương Tây về
lịch sử phương Đông như Eric Henry không đáng tin vì chúng quá cũ, chỉ là sự
sao chép cả cái sai của cổ thư lẫn Viễn Đông Bác cổ. Tôi chỉ tham khảo từ họ
những công bố di truyền và phát hiện khảo cổ mới!
Bài viết
của ông Trần Gia Ninh chủ yếu dựa vào cổ thư Trung Hoa. Nhưng như ta biết, cổ
thư chỉ xuất hiện vào thời Tần Hán. Do lẽ đó nên dù có tới nhị thập tứ sử,
người Trung Quốc cũng chưa biết tổ tiên dòng giống mình là ai? Tiếng nói Trung
Quốc là tiếng gì? Chữ viết Trung Quốc do đâu mà có? Vì vậy, hy vọng từ cổ thư
Trung Hoa tìm ra lịch sử Việt
Lịch sử, văn hóa là hoạt động xã hội
của con người. Một khi không xác định đúng về con người chủ nhân tạo ra văn hóa
lịch sử đang bàn, mọi nghiên cứu trở thành vô bổ. Jared Diamond, nhà nhân học
nổi tiếng người Mỹ có câu nói đáng suy ngẫm: “Nay không còn là lúc chơi với
những khúc xương và những hòn đá nữa. Tất cả những gì thuộc về con người mà
chưa được di truyền học xác nhận, đều không đáng tin cậy.” Ý kiến này cho thấy,
hệ quy chiếu của khảo cổ học bằng việc khảo sát những di cốt, những hòn đá, hoa
văn trên gốm… không còn đáng tin cậy. Trong khi nguồn tư liệu duy nhất của TSKH
Trần Gia Ninh lại quá xưa cũ, chỉ xào xáo lại cổ thư! Đó là lối làm sử mà tôi
từng đề cập trong bài Lịch sử phương Đông và nền sử học không ADN.
Kết luận
Trong các sách và bài viết của mình,
tôi đã trình bày có ba lý do cốt lõi để người Việt không bị đồng hóa trong quá
khứ:
Về mặt
di truyền học:
Là tổ tiên của người Trung Hoa nên
người Việt có chỉ số đa dạng di truyền cao. Độ đa dạng di truyền chỉ có thể
chuyển từ cao xuống thấp. Khi sinh ra con, cha mẹ san sẻ một phần “độ đậm đặc
nòi giống” của mình cho đứa trẻ nên dòng huyết thống càng xa càng nhạt. Trong
khi đó, con cháu không bao giờ lội ngược dòng trở lại “độ đậm đặc nòi giống”
như cha ông. Có thể ví, dân tộc Việt
Về tiếng
nói:
Việt
Về hoàn cảnh lịch sử:
Lịch sử đã tạo ra ở Việt
Nhưng ngay sau đó, nước ta giành lại
quyền tự chủ, thoát khỏi ách đô hộ. Ta dùng Đường âm như một quốc bảo làm quốc
ngữ mãi tới sau này. Trong khi đó, Trung Quốc luôn loạn lạc, các tộc người
phương Bắc xâm chiếm, thống trị khiến tiếng nói biến đổi theo. Đường âm bị mai
một. Do là nước độc lập, chúng ta không buộc phải học những thứ quan thoại của
phương Bắc. Vì vậy giữ được tiếng nói của mình.
Tuy nhiên, có thực tế là: dù tàn bạo
bao nhiêu thì các nhà nước Trung Hoa cổ cũng không thể dã man như nhà nước
Trung Hoa hiện đại. Suốt trong lịch sử, đến cuối đời Thanh, người Giang
Nếu nay chúng ta bị chiếm thì chắc
chắn, bằng sức mạnh tàn bạo và những phương tiện hiện đại, sự đồng hóa xảy ra
nhanh chóng!
-----------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét