Lịch Sử Việt
Triều đại Hồ sụp đổ, nhà Minh đặt ách
cai trị.
quan-minh
Hồ Bạch Thảo
Sau khi
thua bại tại Hàm Tử, cha con Hồ Quí Ly chạy về Tây Đô vùng Lỗi Giang
(1), huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoá; quân Minh truy kích bén gót, bấy giờ
lòng người suy sụp, dựa vào thành hiểm cũng vô ích, không đánh mà
tan:
“Ngày 23
tháng 4 [30/5/1407], quân Minh đánh vào Lỗi Giang, quân Hồ không đánh mà tan.”
Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 9.
Mấy hôm
sau quân Minh chiếm cửa biển Điển Canh tại huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa;
quân nhà Hồ phải bỏ thuyền chạy bộ; định đến đóng tại Thâm Giang
tức Ngàn Sâu, Hà Tĩnh, nhưng việc không thành:
“Ngày 29
[5/6/1407], quân Minh đánh vào cửa biển Điển Canh (2), quân Hồ bỏ thuyền tự tan
vỡ. Hai cha con họ Hồ định lánh đến Thâm Giang (3) nhưng không thành. Nguỵ Thức
xin hai cha con họ Hồ tự thiêu. Ông nói:
‘Nước đã
sắp mất, bậc vương giả không chết bởi tay kẻ khác’.
Quý Ly
giận, chém chết.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 9.
Quân
Minh thủy bộ tiếp tục truy kích đến huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh; trước sau
trong vòng 7 ngày, cha con Hồ Quí Ly đều bị bắt:
“Tháng
5, ngày mồng 5[16/6/1407], quân Minh đánh vào cửa biển Kỳ La (4), châu Nhật
Ngày 11[
22/6/1407], quân Minh xâm phạm; bọn Vương Sài Hồ 7 người thuộc vệ Vĩnh
Định (5), bắt được Quý Ly ở bãi Chỉ
Chỉ; Giao Châu hữu vệ quân là bọn Quý Bảo 10 người bắt được Tả tướng quốc Trừng
ở cửa biển Kỳ La.
Ngày 12
[23/6/1407], đầu mục bộ hạ của Mạc Thúy là bọn Nguyễn Như Khanh bắt được Hán
Thương và thái tử Nhuế ở núi Cao Vọng (6).” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 9.
Minh Thực Lục cũng xác nhận sự kiện
tương tự, qua 2 văn bản dưới đây:
“Ngày 11
tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 5 [16/6/1407]. Ngày hôm nay quan quân chinh thảo An
Nam bắt được đầu sỏ Lê Quí Ly cùng con là Trừng. Trước hết bọn quan Tổng binh
Tân thành hầu Trương Phụ truy kích giặc tới cửa biển Điển Canh, gặp chỗ nước
trong mà cạn, nên giặc phải bỏ thuyền chạy trốn. Khi quan quân đến, nhân lúc
trời mưa to, nước dâng lên mấy thước, thuyền đi lại dễ dàng; quân lính đều mừng
nói rằng trời phù hộ Vương sư. Khi Trương Phụ điều quân kỵ đến Long Trà, thì
thủy quân cũng tới nơi. Viên Tứ phụ Đại duẫn ngụy là Nguyễn Cẩn đến xin hàng,
nói rằng giặc họ Lê đã vào Nghệ An; bèn điều Đô đốc Thiêm sự Liễu Thăng mang
thủy quân tiến trước. Quân Trương Phụ cùng Tây bình hầu Mộc Thạnh vượt qua
Quyết Giang, tiến đến cửa biển Kỳ La thuộc châu Nhật
“Ngày 12
tháng 5 năm Vĩnh Lạc thứ 5 [17/6/1407 ]. Dân bản xứ An Nam là bọn Vũ Như Khanh
bắt được ngụy Quốc vương Lê Thương, ngụy Thái tử Lê Nhuế, con cháu giặc họ Lê,
ngụy Lương quốc vương Lê Kích, cùng tướng ngụy Trụ quốc Đông Sơn Hương hầu Hồ
Đỗ tại núi Vọng Cao [Cao Vọng], cửa biển Vĩnh Áng. An
Bọn quan
lại nhà Hồ như Hồ Đỗ, Phạm Lục Tài đều bị bắt; còn Trần Nhật Chiêu, Nguyễn
Phi Khanh ra đầu hàng từ trước. Duy có Hành khiển tham tri chính sự Ngô Miễn,
trực trưởng Kiều Biểu nhảy xuống nước chết, vợ Miễn cũng chết theo:
“Khi
Miễn chết, vợ là Nguyễn thị ngửa mặt lên trời than rằng:
‘Chồng
ta thờ chúa, một đời ăn lộc, ngày nay giữ tiết nghĩa mà chết, thế là chết xứng
đáng, còn oán hận gì nữa? Nếu thiếp muốn sống cho qua ngày, chẳng lẽ lại không
còn chỗ đến nữa hay sao? Nhưng đạo chồng, ơn vua, một chốc mà phụ bạc thì thiếp
không nỡ nào! Chi bằng, xin theo nhau!’ Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 9.
Sự
việc tại châu Thăng Hoa [Quảng Nam] và Hóa Châu [Thừa Thiên], Toàn Thư
chép nội dung như sau: Trước đây Hoàng Hối Khanh nhận lệnh cai trị; dùng thổ
quan là Đặng Tất và Phạm Thế Căng làm tâm phúc. Tất và Tả châu phán Nguyễn Rổ
vốn ghen ghét nhau vì công trạng. Gặp lúc họ Hồ bị quân Minh đánh gấp, viết thư báo Hối Khanh
lấy một phần ba số dân di cư khi trước, gộp với quân lính địa phương giao cho
Rỗ chỉ huy để làm quân cần vương, lại sắc phong cho Cổ Lũy huyện thượng hầu Chế
Ma Nô Đà Nan làm Thăng Hoa quận vương, để vỗ yên dân Chiêm Thành. Hối Khanh đều
giấu đi không cho mọi người biết. Đến khi Chiêm Thành cất quân định thu lại đất
cũ, dân Việt di cư sợ chạy tan cã, bọn Hối Khanh trở về Hóa Châu, chỉ một mình
Ma Nô Đà Nan ở lại chống nhau với Chiêm Thành; nhưng thế cô sức yếu, bị người Chiêm giết chết.
Hối Khanh trở về Hóa Châu, Rỗ đưa dân
di cư đi đường bộ đến chậm, Tất đi đường thủy đến trước, Trấn phủ sứ lộ Thuận
Hóa là Nguyễn Phong ngăn không cho vào. Tất cố sức đánh, giết Phong, vào được
thành, lại đánh nhau với Rỗ hơn một tháng. Rỗ không có viện binh, bèn đem gia
quyến sang Chiêm Thành; Hối Khanh bèn giết mẹ và gia thuộc của Rỗ. Chiêm Thành
cho Rỗ làm quan to. Sau nhà Minh đòi Rỗ đến Kim Lăng, giả cách cho làm Hồ Quảng
chỉ huy sứ, rồi giết đi. Sau khi họ Hồ đã thất bại, Thế Căng trở về Tân Bình,
đón hàng người Minh ở Nghệ An và nhận chức Tri phủ của Trương Phụ. Chiêm Thành
lại chiếm cứ Thăng Hoa, rồi sang cướp Hóa Châu. Tất xin với Phụ cho làm quan để
cai quản Hóa Châu, Chiêm Thành dẫn quân rút về. Đến đây, Tất sai người đưa Hồi
Khanh về, đến cửa biển Đan Thai [cửa Hội, Hà Tĩnh] thì Hối Khanh tự vẫn;
Phụ đem đầu Khanh ra bêu ở chợ Đông Đô.
Sau khi chiếm nước Đại Việt, Minh
Thái Tông theo kế hoạch đã định sẵn, đặt nước ta vào ách đô hộ. Y
dựa vào biểu văn trước đó của bọn Mạc Thúy xưng rằng con cháu nhà Trần
đã bị giặc họ Lê sát hại, không còn người kế thừa; xin theo chế độ xưa, lập
quận huyện. Bèn ra lệnh thiết lập tam ty tức Đô chỉ huy sứ ty, Bố chánh
ty, Án sát ty, để cai trị. Đô chỉ huy sứ ty do Lữ Nghị quản lãnh; Bố
chánh, Án sát ty, cử Hoàng Phúc kiêm nhiệm.
Minh Thái Tông lập guồng máy cai trị mới
nghiệt ngã tàn bạo, với những đặc điểm sau đây:
Thứ
nhất, đổi 38 tên đất dưới thời Trần Hồ mang ý nghĩa tự cường tự
chủ thành tên mới với ý nghĩa lệ thuộc; như đổi phủ Long Hưng thành phủ
Trấn Man.
Thứ
hai, chia nước ta ra 15 phủ, 5 châu, cùng hàng trăm huyện.
Thứ ba,
lập kho tàng, ty chuyên môn như y dược, các ty, cục thuế khoá tại phủ,
châu, huyện và địa điểm quan trọng.
Thứ tư,
đặt 21 bến thuyền bè, để tiện việc chuyên chở giao thông.
Thứ
năm, thiết lập 67 ty tuần kiểm các nơi, chuyên trách kiểm soát và
trấn áp.
Thứ
sáu, hoàn thành hệ thông giao thông đường bộ từ thành Đông Đô đến ải
Nam Quan, với 7 dịch trạm ngựa, và 5 sở vận chuyển.
Thứ
bảy, thiết lập ty Tăng Hội, ty Đề Cử diêm khóa (7); đổi Kê Lăng quan tức ải
Chi Lăng, thành Trấn Di quan. Chi tiết, xin xem văn bản dưới đây:
“Ngày 1
tháng 6 năm Vĩnh Lạc thứ 5 [ 5/7/1407 ]. Sắc dụ quan Tổng binh Chinh Di Tướng
quân Tân thành hầu Trương Phụ, Tả Phó Tướng quân Tây bình hầu Mộc Thạnh, Tả
Tham tướng Phong thành hầu Lý Bân, Hữu Tham tướng Vân dương bá Trần Húc, cùng
các tiểu tướng hiệu:
‘Giặc họ
Lê giết vua cướp nước, tiếm hiệu xưng kỷ nguyên, tàn bạo bất nhân, làm đau khổ
cả một nước; lại xâm phạm lân bang, kháng cự triều mệnh, không làm tròn chức
cống. Trẫm bất đắc dĩ sai các ngươi mang quân phạt tội. Nhờ trời đất tổ tông
phù hộ, tướng sĩ hết sức liều mình, binh uy tới mọi nơi đều được tiễu bình; bắt
sống cha con nghịch tặc Lê Quí Ly cùng bọn ngụy quan; chiêu tập dân lương
thiện, dung nạp kẻ hàng; không mảy may xâm phạm của dân, chợ búa vẫn bình yên
hội họp. Tin chiến thắng đưa về, hết sức mừng vui khen thưởng. Trước đây dưới
thời Tống, Nguyên; An Nam nghịch mệnh, mang quân đi đánh đều không lập được
thành tích. Việc làm hôm nay thực hơn hẳn người xưa, danh thơm vĩ đại truyền
mãi trăm đời. Nay đặc sai sứ mang sắc văn ủy lạo, nhân trời viêm nhiệt hãy chọn
nơi cao ráo thoáng mát đóng quân để dưỡng người và ngựa, đợi lúc thời tiết
trong mát sẽ cho ban sư trở về nước.’
Lại ban sắc dụ bọn Phụ:
‘ Ngươi
trước đây đã gửi trình biểu văn của bọn kỳ lão Mạc Thúy. Biểu văn xưng rằng con
cháu nhà Trần bị giặc họ Lê sát hại, không còn người kế thừa; xin theo chế độ
xưa, lập quận huyện để cai trị. Bèn ra lệnh các ngươi lưu ý tìm thêm, lại nhận
được lời tâu họ Trần quả đã tuyệt tự, quận huyện không thể không lập, vậy xin
thiết lập tam ty để cai trị quân dân.
Nay chấp
nhận theo lời xin, cho lập Giao Chỉ Đô Chỉ huy Sứ Ty, sai Đô đốc Thiêm sự Lữ
Nghị cai quản, Hoàng Trung giữ chức Phó, tuyển thêm 2 Đô Chỉ huy có năng lực
cùng lãnh chức Phó. Cử Thượng thư Hoàng Phúc kiêm nhiệm chức Bố chánh ty và Án
sát ty. Nguyên Thị lang bộ Công Trương
Hiển Tông, Bố chính ty Phúc Kiến Tả Tham chính Vương Bình lãnh chức Tả, Hữu Bố
chánh sứ. Nguyên Bố chánh ty Hà Nam Tả Tham Chính Lưu Bản, Hữu Tham chính Lưu
Dục giữ chức Tả, Hữu Tham chính. Nguyên Án sát sứ Giang Tây Chu Quan Chính,
người An Nam qui phụ tên Bùi Bá Kỳ giữ chức Tả, Hữu Tham chính. Nguyên Án sát
sứ Hà Nam Nguyễn Hữu Chương, Án Sát Phó
sứ Dương Trực giữ chức Án Sát Phó sứ. Nguyên Tri phủ Thái Bình Lưu Hữu Niên
giữ chức Án sát Thiêm sự. Lại riêng tuyển các quan cho điều đi, lãnh nguyên
chức vụ tại các phủ, châu, huyện; nếu danh sách không đủ số sẽ ra lệnh bộ Lại
thuyên chuyển đến . Nay gửi ấn tín ban cấp cho các ngươi.’
Đổi tên các địa danh sau đây của Giao Chỉ:
– Đổi phủ Long Hưng thành phủ
Đổi phủ
Kiến Hưng thành phủ Kiến Bình.
Đổi phủ
Thiên Trường thành phủ Phụng Hóa.
Đổi phủ
Tân Hưng thành phủ Tân An.
Đổi châu
Quốc Oai thành châu
– Đổi châu Tuyên Quang thành châu Tuyên Hóa.
Đổi châu
Thượng Phúc thành châu Phúc Yên.
Đổi châu
An Bang thành châu Tĩnh An.
Đổi châu
Nhật
Đổi châu
Bố Chính thành châu Chính Bình.
Đổi châu
Minh Linh thành châu Nam Linh.
Đổi
huyện Long Nhãn thành huyện Thanh Viễn.
Đổi
huyện Yên Thế thành huyện Thanh An.
Đổi
huyện Ứng Thiên thành huyện Ứng Bình.
Đổi
huyện Sơn Minh thành huyện Sơn Định.
Đổi
huyện Thượng Phúc thành huyện Bảo Phúc.
Đổi
huyện Long Đàm thành huyện Thanh Đàm.
Đổi
huyện Đan Phượng thành huyện Đan Sơn.
Đổi huyện
Long Bạt thành huyện Lũng Bạt.
Đổi
huyện Thiên Thi thành huyện Thi Hóa.
Đổi
huyện Cổ Chiến thành huyện Cổ Bình.
Đổi
huyện Thống Binh thành huyện Thống Ninh.
Đổi
huyện Phật Thệ thành huyện Thiện Thệ.
Đổi
huyện Thiên Bản thành huyện An Bản.
Đổi
huyện Độc Lập thành huyện Bình Lập.
Đổi
huyện Lê Gia thành huyện Lê Bình.
Đổi
huyện Ngự Thiên thành huyện Tân Hóa.
Đổi
huyện Phí Gia thành huyện Cổ Phí.
Đổi
huyện An Bang thành huyện Đồng An.
Đổi
huyện An Hưng thành huyện An Hòa.
Đổi
huyện Trà Long thành huyện Trà Thanh.
Đổi
huyện Đỗ Gia thành huyện Cổ Đỗ.
Đổi
huyện Thượng Lộ thành huyện Lộ Bình.
Đổi
huyện Thượng Phúc thành huyện Phúc Khang.
Đổi
huyện Bố Chính thành huyện Chính Hòa.
Đổi
huyện Đặng Gia thành huyện Cổ Đặng.
Đổi
huyện Tả Bố thành huyện Tả Bình.
Đổi huyện
Thế Vinh thành huyện Sĩ Vinh.
Những
địa danh còn lại, được giữ y như cũ.
Đặt các phủ, châu, huyện thuộc Giao Chỉ.
Tất cả
gồm 15 phủ: Giao Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Tam Giang, Kiến Bình, Tân An,
Kiến Xương, Phụng Hóa, Thanh Hóa, Trấn Man, Lạng Sơn, Tân Bình, Diễn Châu, Nghệ
An, Thuận Hóa.
1. Phủ Giao Châu [Hà Nội] gồm 5 châu: Oai Man, Phúc An, Tam Đái, Từ Liêm, Lợi Nhân. Bản phủ trực
tiếp lãnh 2 huyện: Đông Quan, và Từ Quảng. Các châu dưới quyền gồm các huyện
liệt kê như sau:
-Châu
Oai Man lãnh 4 huyện: Sơn Định, Thanh Oai, Ứng Bình, Đại Đường.
-Châu
Phúc An lãnh 3 huyện: Bảo Phúc, Phù Lưu, Thanh Đàm.
-Châu
Tam Đái lãnh 6 huyện: Phù Long, An Lãng, Phù Ninh, An Lạc, Lập Thạch, Nguyên
Tức.
-Châu Từ
Liêm lãnh 2 huyện: Đan Sơn, Thạch Thất.
-Châu
Lợi Nhân lãnh 6 huyện: Thanh Liêm, Bình Lục, Cổ Bảng, Cổ Lễ, Lợi Nhân, Cổ Giả
2. Phủ Bắc Giang [Bắc Ninh, Bắc Giang] gồm 3
châu: Gia Lâm, Vũ Ninh, Bắc Giang. Bản phủ
trực tiếp lãnh 2 huyện: Siêu Loại, và Gia Lâm. Các châu dưới quyền gồm các
huyện liệt kê như sau:
-Châu
Gia Lâm lãnh 3 huyện: An Định, Tế Giang, Thiện Tài.
-Châu Vũ
Ninh lãnh 5 huyện: Tiên Du, Vũ Ninh, Đông Ngàn, Từ Sơn, An Phong.
-Châu
Bắc Giang lãnh Tân Phúc, Thiện Thệ, An Việt.
3. Phủ Lạng Giang [Quảng Ninh, Hải Dương]
gồm 3 châu: Lạng Giang, Nam Sách, Thượng
Hồng. Bản phủ trực tiếp lãnh 5 huyện: Thanh Viễn, Cổ Dõng, Phượng Sơn, Na Ngạn,
Lục Na. Các châu dưới quyền gồm các huyện liệt kê như sau:
-Châu
Lạng Giang lãnh 4 huyện: Thanh An, An Ninh, Cổ Lũng, Bảo Lộc.
-Châu
Nam Sách lãnh 3 huyện: Thanh Lâm, Chí Linh, Bình Hà.
-Châu
Thượng Hồng lãnh 3 huyện: Đường Hào, Đường An, Đa Cẩm.
4. Phủ Tam Giang [Phú Thọ, Sơn Tây, Vĩnh
Phúc] gồm 3 châu: Thao Giang, Tuyên Giang,
Đà Giang.
-Châu
Thao Giang lãnh 4 huyện: Sơn Vi, Ma Khê, Thanh Ba, Hạ Hoa.
-Châu
Tuyên Giang lãnh 3 huyện: Đông Lan, Tây Lan, Hổ Nham.
-Châu Đà
Giang lãnh 2 huyện: Lũng Bản, Cổ Nông.
5. Phủ Kiến Bình [Ninh Bình] gồm 1 châu: Trường Yên. Bản phủ thân lãnh 5 huyện: Ý Yên, Yên Bản, Bình
Lập, Đại Loan, Vọng Doanh.
-Châu
Trường Yên lãnh 4 huyện: Uy Viễn, Yên Mô, An Ninh, Lê Bình.
6. Phủ Tân An [Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải
Dương] gồm 3 châu: Đông Triều, Tĩnh An, Hạ
Hồng. Bản phủ thân lãnh 5 huyện: Hiệp Sơn, Thái Bình, Đa Dực, A Khôi, Tây Quan.
Các châu dưới quyền gồm các huyện liệt kê như sau:
-Châu
Đông Triều lãnh 4 huyện: Đông Triều, An Lão, Cổ Phí, Thủy Đường.
-Châu
Tĩnh An lãnh 8 huyện: Đồng An, Chi Phong, An Lập, An Hòa, An Đại, Độc, Vạn
Ninh, Vân Đồn.
-Châu Hạ
Hồng lãnh 4 huyện: Trường Tân, Tứ Kỳ, Đồng Lợi, Thanh Miện.
7.Phủ Kiến Xương [Hưng Yên] gồm Khoái Châu. Bản phủ trực tiếp lãnh 4 huyện: Bổng Điền, Kiến
Xương, Bố, Chân Lợi
-Châu
Khoái lãnh 5 huyện: Tiên Lữ,Thi Hóa, Đông Kết, Phù Dung, Vĩnh Cô.
8. Phủ Phụng Hóa [
9. Phủ Thanh Hóa [tỉnh Thanh Hoá] gồm 3
châu: Thanh Hóa, Ái, Cửu Chân. Bản phủ lãnh
7 huyện: Cổ Đằng, Cổ Hoằng, Đông Sơn, Cổ Lôi, Vĩnh Ninh, An Định, Lương Giang.
-Châu
Thanh Hóa lãnh 4 huyện: Nga Lạc, Tế Giang, An Lạc, Lỗi Giang.
-Châu Ái
lãnh 4 huyện: Hà Trung, Thống Ninh, Tống Giang, Chi Nga.
-Châu
Cửu Chân lãnh 4 huyện: Cổ Bình, Kết Duyệt, Duyên Giác, Nông Cống.
10. Phủ Trấn Man [Thái Bình] gồm 4 huyện: Tân Hóa, Đình Hà, Cổ Lan, Thần Khê.
11. Phủ Lạng Sơn [Cao Bằng, Lạng Sơn] gồm 7
châu: Thất Nguyên, Thượng Văn, Hạ Văn, Vạn
Nhai, Quảng Nguyên, Thượng Tư, Hạ Tư Lang. Bản phủ trực tiếp lãnh 7 huyện: Tân
An, Như Ngao, Đan Ba, Khâu Ôn, Trấn Di, Uyên, Đổng.
-Châu
Thất Nguyên gồm 6 huyện: Thủy Lãng, Cầm, Thóat, Dung, Pha, Bình.
-Thượng
Văn lãnh 3 huyện: Bôi Lan, Khánh Viễn, Khố.
12. Phủ Tân Bình [Quảng Bình] gồm 2 châu:
-Châu
Chính Bình lãnh 3 huyện: Chính Hòa, Cổ Đặng, Tòng Chí.
-Châu
Nam Linh lãnh 3 huyện: Đan Duệ, Tả Bình, Dạ Độ.
13. Phủ Diễn Châu [Bắc Nghệ An] gồm 1 châu: Diễn Châu. Diễn Châu lãnh 4 huyện: Thiên Đông, Phù Dung,
Phù Lưu, Quỳnh Lâm.
14. Phủ Nghệ An [Nghệ An, Hà Tĩnh] gồm 2
châu: Nam Tĩnh, Hoan. Bản phủ lãnh 8 huyện:
Nha Nghi, Phi Lộc, Cổ Đỗ, Chi La, Chân Phúc, Thổ Do, Kệ Giang, Thổ Hoàng
-Châu
Nam Tĩnh lãnh 4 huyện: Hà Hoàng, Nham Thạch, Hà Hoa,
-Châu
Hoan lãnh 4 huyện: Thạch Đường, Đông Ngạn, Lộ Bình, Sa
15. Phủ Thuận Hóa [Thừa Thiên, Quảng Trị]
gồm 2 châu: Thuận, Hóa.
-Châu
Thuận lãnh 3 huyện: Ba Lãng, Lợi Điều, An Nhân.
-Châu
Hóa lãnh 7 huyện: Lợi Bồng, Sĩ Vinh, Sạ Lệnh, Trà Kệ, Tư Dung, Bồ Đài, Bồ Lãng.
Đổi 5 trấn thành 5 châu:
Riêng 5
trấn cũ như Thái Nguyên được đổi thành 5 châu: Thái Nguyên, Tuyên Hóa, Gia
Hưng, Qui Hóa, Quảng Oai; tất cả trực thuộc vào ty Bố Chính.
–Châu
Thái Nguyên [Thái Nguyên, Bắc Kạn] lãnh 11 huyện: Phú Lương, Ty Nông, Vũ Lễ,
Động Hỷ, Vĩnh Thông, Tuyên Hóa, Lộng Thạch, Đại Từ, An Định, Cảm Hóa, Thái
Nguyên.
-Châu
Tuyên Hóa [Tuyên Quang, Hà Giang] lãnh 9 huyện: Khoáng, Đương Đạo,Văn Yên,
Bình Nguyên, Để Giang, Thu Vật, Đại Man, Dương, Ất.
-Châu
Gia Hưng [Sơn La, Phú Thọ] lãnh 3 huyện: Lung, Mông, Tứ Mang.
–Châu
Qui Hóa [Yên Bái, Lao Kay] lãnh 4 huyện: An Lập, Văn Bàn, Văn Chấn, Thủy Vĩ.
–Châu
Quảng Oai [Sơn Tây] lãnh 2 huyện: Ma Lung, Mỹ Lương.
Lập các
kho tàng; ty, cục thuế khóa:
Lập kho
Vĩnh Doanh tại ty Bố chính Giao Chỉ.
Lập ty
đặc trách về y học và tăng cang tại phủ Giao Châu.
Xây trại
nuôi ngựa trạm Phong Doanh và kho lúa Vĩnh Phong tại sông Lô.
Lập kho
Vĩnh Doanh, cùng kho lúa Thường Phong tại phủ Kiến Bình.
Lập kho
lúa Phong Tế tại phủ Tam Giang.
Xây
trường Nho học tại châu Gia Lâm.
Lập ty
thuế khóa tại 4 phủ: Giao Châu, Bắc Giang, Lạng Giang, Kiến Bình.
Lập cục
thuế khóa tại 8 châu: Phúc An, Tam Đái, Từ Liêm, Lợi Nhân, Gia Lâm, Vũ Ninh,
Bắc Giang. Tuyên Hóa.
Lập cục
thuế khóa tại 20 huyện: Ứng Bình, Đại Đường, Sơn Định, Thanh Oai, Ninh, Tế
Giang, Thiện Tài, Vũ Ninh, Đông Ngàn, Thanh Lâm, Chí Linh, Bình Hà, Cổ Dõng,
Thanh An, Thái Bình, Đa Dực, A Côi, Tây Quan, Trường Tân, Đồng Lợi.
Lập cục
thuế khóa tại 5 địa phương: xứ Ma Lãng huyện Đa Cẩm, xứ Hạ Xương huyện Bảo Lộc,
xứ Kim Lũ huyện Đường Hào, xứ Tư Vương huyện Đường An, xứ Giáp Sơn huyện Giáp
Sơn.
Bến thuyền bè đậu gồm 21 nơi:
1.Dọc
trường giang từ phủ Bắc Giang cho đến châu Tam Đái.
2.Tại
Thượng Cổ, châu Từ Liêm.
3.Tại
Dưỡng Ngoạn, châu Lợi Nhân
5.Vùng
trường giang thuộc châu Tuyên Hóa.
6.Tại
Binh Thần, huyện Từ Liêm.
7.Tại
Giang Đàm thuộc huyện Đại Đường.
Tại Sơn
Định, huyện Sơn Định.
Tại
Thanh Oai, huyện Thanh Oai.
Tại Kinh
Thai, huyện Đường An.
11.Tại
Ông La, huyện Thanh Viễn.
12.Cửa
biển Yên Mô, huyện Yên Mô.
13.Tại
Xa Lật, huyện Đông Kết.
14.Tại
Viên Quang, huyện Giao Thủy.
15.Tại
Phần Trì, huyện Cổ Dõng.
16.Tại
Đống Mỹ, huyện Bình Hà.
17.Tại
Cổ Trai Trường, huyện An Lão.
18.Xã A
Niếp, huyện Chi Phong.
19-20-21.Xã
Tứ Kỳ, xã vực Cá Lũ, xã An Định thuộc huyện Tứ Kỳ.
Đặt 67 ty tuần kiểm:
Bà Gia,
thuộc huyện Từ Liêm.
Sông Tam
Nghị, huyện Ứng Bình.
3-4. Cửa
sông Tam Giang, cầu Trường Tân, thuộc
huyện Đại Đường
5-6.Cửa
sông Hà Lỗ, cầu Đường Giang, thuộc huyện Phù Dung.
Trấn tại
cửa sông, huyện Phù Long.
Trấn
Viên Sơn, huyện Phù Ninh.
Trấn Xa
Lang, huyện Lập Thạch.
Cửa sông
Hát Giang, huyện Đan Sơn.
Kinh
Thừ, huyện Thanh Liêm.
Sông
Ninh Giang, huyện Bình Lục.
13-14.
Cầu Pháo, cửa sông Vĩnh Giang, thuộc huyện Cổ Bảng.
15-17.Cửa
sông Tam Giang, Xá Thượng, Cứu Lan, thuộc huyện Gia Lâm.
Cửa sông
Bình Than, huyện Thanh Lâm.
Bến đò
Cổ Pháp, huyện Chí Linh.
20-22.Cửa
biển Đa Ngư, cửa Đôi, cửa sông An Phố, thuộc huyện Bình Hà.
Cửa sông
A Lao, huyện Đa Cẩm.
Trần Xá,
huyện Sơn Vi.
Núi Hoa
Nguyên, huyện Ma Khê.
Đãng
Hôi, huyện Hạ Hoa.
Cửa sông
Cổ Lưu, huyện Đông Lan.
Hiên Quan,
huyện Tây Lan.
Cửa sông
Tam Kỳ, huyện Hổ Nham.
Phí Xá,
huyện Lũng Bản.
Sái Xá,
huyện Cổ Nông.
Sông Lộ
Bái huyện Ý Yên.
Cửa bể
Đại An, huyện Đại Loan.
Sông Sơn
Thủy, huyện An Ninh.
35.Núi
Sinh Dược, huyện Lê Bình.
Cửa biển
Thần Đầu, huyện Yên Mô.
37-38.Sông
Liêu, cửa kênh Đa Các, thuộc huyện Thái Bình.
Lật
Giang, huyện Đa Dực.
40.Bến
Chi Long, huyện A Khôi.
41.Xã
Chi Lai, huyện Tây Quan.
42.Sông
Thiên Liêu, Đồn Sơn thuộc châu Đông Triều.
43.Cửa
biển xã Phù Đái, huyện Cổ Phí,
44.Cửa
Lão, cửa biển Đa Hỗn, thuộc huyện An Lão.
45.Cửa
biển Đồng An, huyện Đồng An.
46.Cửa
biển xã Đa Lý, huyện Chi Phong.
47.Cửa
biển Tiểu Bạch Đằng, huyện An Hòa.
48.Xã Ba
Liễu, huyện Trường Tân.
49.Đội
Vực Cá Lâu, đội Du Giang, đội Chúc Thủy; huyện Tứ Kỳ.
50.Đa Dặc,
huyện Đồng Lợi.
51.Bổng
Điền, huyện Bổng Điền.
52.Cửa
sông Hoàng Giang, huyện Kiến Xương.
Cửa Hải
Môn, huyện Chân Lợi.
54.Cửa
khẩu Xa Lật, huyện Đông Kết.
55.Cửa
khẩu sông Ninh Giang, huyện Mỹ Lộc.
56.Cửa
khẩu Đái Giang, huyện Tây Chân.
57-58.Cửa
sông A Giang, Hội Giang, thuộc huyện Thuận Vi.
59-60.Cửa
biển Thiêm Phúc, cửa Giao, thuộc huyện Giao Thủy.
Hương
Thạch Tư, thuộc huyện Thu Vật.
62.Cầu
Bắc Quả, huyện Đại
63.Xã
Chi Lan, huyện Đương Đạo.
64.Cửa
sông Vị Long, huyện Văn An.
66.Bắc
Cù, huyện Bình Nguyên.
67.Trấn
Tích Sơn, huyện Để Giang.
Lập 7 trạm dịch dùng ngựa, gồm:
Trạm
Khương Kiều, huyện Thanh Liêm.
Trạm Bảo
Phúc, huyện Bảo Phúc.
Trạm Gia
Lâm, huyện Gia Lâm.
Trạm Thị
Cầu, huyện Vũ Ninh.
Trạm
Vĩnh An, huyện Bình Lục.
Trạm
Sinh Dược, huyện Lê Bình.
Trạm Cần
Trạm, huyện Bảo Lộc.
Lập 5 sở chuyển vận, gồm:
Sông Lô,
tại phủ Giao Châu.
Thị Cầu,
tại huyện Vũ Ninh.
Cần
Trạm, tại huyện Bảo Lộc.
Kê Lăng.
Khâu Ôn.
Thiết
lập ty Tăng Hội tại huyện Thạch Thất, ty Đề Cử diêm khóa (7) Giao Chỉ, hai công
trường diêm khóa Quảng Từ và Đại Hoàng.
Cải Kê Lăng quan thành Trấn Di quan. (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt
Nam, tập 1, trang 259)
Chú thích:
Lỗi
Giang: một nhánh của sông Mã ở huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, hạ lưu thông với
sông Đại Lại.
Điển
Canh: sau là cửa Ghép hay cửa Mom thuộc huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
Thâm
Giang: Tức cửa sông Ngàn Sâu ở tỉnh Hà Tĩnh.
4. Cửa Kỳ La: ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
Vệ
Vĩnh Định: Thời Minh Kiến Văn [1399-1402] đổi vệ Đại Dung thành vệ
Vĩnh Định, thuộc Đô ty Hồ Quảng.
6 Núi
Cao Vọng: ở huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
Ty đề cử
diêm khoá: Ty quản lý về muối.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét