Lịch Sử
Việt
Hồ
Bạch Thảo
Đúng
như kế hoạch đã định sẵn, mặc dù trở ngại về việc Tổng binh Chu
Năng mất vào đầu tháng 10; Tân thành hầu Trương Phụ lên thay thế, tiếp
tục chuẩn bị hành quân xâm lăng:
“Ngày
2 tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 4 [ 12/11/1406 ]. Chinh thảo An
Bảy
ngày sau khi Chu Năng mất, Trương Phụ điều binh từ Bằng Tường, vượt ải
Nam Quan xâm lăng nước ta. Sau khi chiếm Ải Lưu; Phụ thừa lệnh Minh Thái
Tông, công bố tờ hịch gồm 20 điều kết tội cha con Hồ Quí Ly; việc
làm này gây ảnh hưởng tâm lý rất mạnh, vì lòng người lúc bấy giờ
không có cảm tình với chế độ nhà Hồ:
“Ngày
9 tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 4 [19/11/1406]. Ngày hôm nay bọn chinh thảo An Nam Hữu Phó Tướng quân Tân
thành hầu Trương Phụ điều quân xuất phát từ Bằng Tường (2) , vượt quan ải Pha Lũy
hướng vào An Nam tế cáo sông núi nước này:
‘Giặc họ Lê giết vua, bạo ngược với dân, tội lớn
như biển.’
Rồi
sai Đô đốc Đồng tri Hàn Quan đóng quân tại quan ải; đôn đốc quan binh các xứ
tại tỉnh Quảng Tây vận lương, sửa đường, chặt cây làm cầu. Lệnh du binh trinh
sát, sai bọn Ưng Dương Dương Tướng quân Đô đốc Thiêm sự Lữ Nghị mang đạo quân
tiền tiêu đến Ải Lưu. Chỗ này lực lượng giặc hơn 3 vạn tên dựa vào núi
đóng trại, đào hào đắp lũy; chúng bắn tên độc, lăn đá, chặt cây cố thủ. Lữ
Nghị đốc quân tiến công, dùng thuẩn để che, xông lên; chém 40 thủ cấp, bắt sống
hơn 60 tên, số còn lại bỏ chạy. Đại quân vượt ải, rồi cho binh chiếm giữ.
Trương Phụ lãnh ý Thiên tử, truyền hịch cho quan lại và quân dân An
‘ An
Nam kề cận Trung Quốc, từ khi Hoàng khảo Thái tổ Hòang đế lãnh mệnh trời thống
nhất đất nước, Vương nước này là Trần Nhật Khuê qui thuận trước tiên; được
phong tước ban ân, đời đời truyền cho con cháu. Rồi nghịch tặc, cha con
Lê Quí Ly làm đại thần phụ chính, chuyên quyền phản phúc, giết chúa soán ngôi.
Quí Ly đổi tên họ là Hồ Nhất Nguyên, con Lê Thương đổi là Hồ Đê; mạo kết hôn
nhân với họ Trần để thừa cơ gây uy phúc, giết chúa hãm hại suốt cả nhà; lăng
loàn tàn bạo khắp nước, đến thảo mộc cầm thú cũng không được yên, trời đất quỉ
thần đều chung lòng giận dữ.
Lúc
Hoàng thượng mới lên ngôi, vốn rộng lòng quyến luyến kẻ xa xôi. Cha con giặc họ
Lê bèn rắp mưu gian, sai sứ đến triều đình tâu rằng: con cháu họ Trần đã hết, y
là cháu ngọai, xin tạm quyền việc nước. Triều đình vốn cả tin cho là có lòng
thành, nên không nghĩ là dối trá. Rồi người cháu của Vương An Nam bị bách bức,
chạy trốn sang Lão Qua, đến kinh sư tố cáo tội ác; lúc đầu triều đình chưa tin,
sau nhân Sứ thần An Nam biết được đó là sự thực, không quên chủ cũ, vui buồn
lẫn lộn, tìm cách ủy lạo; Thiên tử bèn ban tỷ thư (3), định hưng binh thảo
phạt. Cha con giặc họ Lê biết quốc chúa hiện còn, lại lo thiên binh sắp tru
phạt, nên sai Sứ xin tha tội và gian dối xin đón về nước để tôn lên làm vua.
Triều
đình vẫn tin và không nghi, bỏ qua tội cũ, khen là biết đổi mới; rồi chấp nhận
lời xin, sai Sứ giả mang 5000 quân hộ tống trở về nước. Nhưng cha con nhà họ Lê
rắp mưu gây họa, dùng quân mai phục chống lại Thiên binh, cản trở Thiên sứ, bắt
giết cháu của viên Quốc vương xưa. Sứ thần về tâu, Thiên tử hết sức giận dữ,
bèn sai tướng mang 80 vạn quân tiễu trừ nghịch tặc. Phàm đạo quân trừ bạo, cần
kê rõ ràng mọi tội lỗi:
Cha
con Lê Quí Ly hai lần giết Quốc vương An Nam để chiếm nước này, đó là tội thứ
nhất.
Chúng
giết sạch con cháu nhà Trần, tội thứ hai.
Không
tuân theo lịch Chính Sóc của triều đình, tiếm gọi tên nước Đại Ngu, xưng càn
tôn hiệu kỷ nguyên là Nguyên Thánh; tội thứ ba.
Xem
người trong nước như cừu thù, đặt hình pháp tàn bạo giết kẻ vô tội, vơ vét thuế
má, trưng thu phiền hà; bóc lột không ngừng khiến dân đói khổ, hoặc chết vùi
nơi ngòi rãnh, hoặc bỏ trốn nơi tha phương; tội thứ tư.
Chúng
vốn họ Lê, bội phản tổ tông đổi sang họ khác; tội thứ năm.
Lấy
cớ bà con với họ Trần, xưng tạm quyền quốc sự để lừa dối triều đình; tội thứ
sáu.
Nghe
tin cháu Quốc vương cũ tại kinh sư, giả dối xin đem về nước để tôn lên làm vua.
Triều đình bỏ qua lỗi cũ, chấp nhận lời xin; rồi lập mưu gian, chống cự Thiên
binh, cản trở Thiên sứ; tội thứ bảy.
Cháu
Quốc vương An Nam bị bức bách trốn tránh, trải qua nguy hiểm trăm phần chết một
phần sống; được Hoàng thượng thương xót tư cấp và cho hộ tống về nước. Cha con
giặc họ Lê không biết cảm động hối hận, bèn dẫn dụ để giết. Việc làm nghịch với
trời, hủy diệt đạo lý; tội thứ tám.
Châu
Ninh Viễn đời đời triều cống Trung Quốc. Giặc họ Lê cậy mạnh chiếm 7 trại; rồi
cai trị dân chúng, giết cả nam lẫn nữ; tội thứ chín.
Giết
rể của Thổ quan Đèo Cát Hãn là Đèo Mãnh Mạn; bắt con gái y để dễ bề sai khiến,
đòi nạp tiền, phục dịch trăm thứ; tội thứ mười.
Uy
hiếp bức bách Thổ quan phục dịch, phát binh bắt bớ di dân khiến họ sợ phải bỏ
trốn; tội thứ mười một.
Xâm
chiếm đất thuộc phủ Tư Minh ( 4 ), Lộc châu, Tây Bình châu, trại Vĩnh Bình.
Triều đình sai sứ đòi lại, thì dùng lời lẽ chống chế, chỉ trả lại không đến hai
hoặc ba phần mười; tội thứ mười hai.
Sau
khi trả đất, lại sai đồ đảng đến cướp giết mệnh quan của triều đình tại châu
Tây Bình, cùng mưu cướp phá tại tỉnh Quảng Tây; tội thứ mười ba.
Trong
lúc Quốc vương Chiêm Thành là Chiêm Ba Ðích Lại đang lo việc tang cha, bèn mang
quân đến đánh các đất Cách Liệt, châu cũ của Chiêm Thành; tội thứ mười bốn.
Lại
đánh 4 châu của Chiêm Thành tại Bản Đạt Lang Bạch Hắc, cướp bắt dân chúng và
súc vật; tội thứ mười lăm.
Lại
mang quân đến Chiêm Thành, bắt hơn 100 con voi, cùng chiếm các đất Chiêm Sa, Ly
Nha; tội thứ mười sáu.
Chiêm
Thành đã là Phiên thần của Trung Quốc, nhận ấn chương phẩm phục của triều đình.
Giặc họ Lê lại tự chế ấn mạ vàng bạc, cửu chương, phẩm phục, dây đeo ngọc để ép
ban cho; tội thứ mười bảy.
Quốc
vương Chiêm Thành chỉ tôn kính nhà Minh, không tôn trọng An
Thiên
sứ cùng sứ Chiêm Thành đến nước này. Giặc họ Lê dùng binh cướp tại bến cảng Thi
Côn Nại [Thi Nại, Qui Nhơn]; tội thứ mười chín.
Triều
cống Trung Quốc không dùng Bồi thần. Sai những tội nhân giả mạo làm quan chức
đi sứ, thái độ khinh mạn bất kính; tội thứ hai mươi.
Đó là
những tội lớn, kỳ dư không cần nói thêm; chỉ riêng cha con nhà họ Lê không theo
đạo quân thần đã là tội tầy trời, xét về lý không thể dung được. Dân trong nước
lâm vào cảnh hà khắc, độc hại chất chứa từ năm này đến năm khác, tình cảnh thực
đáng thương xót. Thiên binh đến để cứu dân bị khốn khổ, khôi phục con cháu họ
Trần, nên đã nghiêm sức các tướng sĩ mảy may cũng không được xâm phạm; những
nơi đi qua mọi người nên yên ổn như thường, chớ nên nghi ngờ sợ hãi. Những kẻ
bị uy hiếp ra làm quan vẫn được giữ yên chức vụ, không bị bắt tội. Nếu cùng với
kẻ ác hợp mưu; nay biết lỗi lầm, sửa theo điều thuận, được chấp thuận cho đổi
mới và vẫn giữ quan chức như cũ. Những người tại nước khác đến kinh doanh buôn
bán tại An Nam, hoặc bị câu lưu, hãy đến cửa quan tự trình bày để được hộ tống
trở về nước; những kẻ muốn lưu lại buôn bán, cũng được chấp thuận. Nếu vì dân
nước này làm phúc, bắt sống được cha con giặc họ Lê đem đến cửa quân sẽ được
ban tước hậu thưởng. Kẻ dám hôn mê bất tuân, theo ác cự mệnh, Thiên binh một
lần hươi qua lên, sẽ quét sạch không để sót. Đợi ngày cha con Lê Quí Ly bị bắt,
sẽ hội họp bách quan, tướng, lại, kỳ lão trong nước tuyển cầu con cháu nhà
Trần, nối lại Vương tước, rửa sạch mối oan khiên vùi xuống đất, cởi bỏ sự đàn
áp hành hạ trong nước, trên xứng với lòng nhân của Hoàng thượng, dưới đáp ứng
được nguyện vọng của các ngươi.”( Minh
Thực Lục quan hệ Trung Quốc Việt Nam,
tập 1, trang 235)
Toàn
Thư ghi rằng bọn Phụ, Thạnh chép văn
bản vào những tấm ván thả trôi theo dòng sông, quan quân ta đọc, vốn
ghét sự hà khắc của nhà Hồ, cho là đúng nên không còn lòng dạ
chiến đấu:
“Trước đó, nhà Minh sai Thái tử thái phó Thành quốc công Chu
Năng làm tổng binh đeo ấn Chinh Di tướng quân đem quân xâm lược phương
Sau
khi chiếm được Ải Lưu, vào ngày 20/11/1406 Thiêm sự Chu Vinh mang quân
chiếm Kê Lăng, tức huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn:
“Ngày
10 tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 4 [20/11/1406]. Ngày hôm nay chinh thảo An Nam Phiêu Kỵ Tướng quân Đô đốc
Thiêm Sự Chu Vinh mang quân đến quan ải Kê Lăng. Nơi này quân giặc xây trại,
đào hào sâu, cắm chông xung quanh, chia binh 3 vạn phòng thủ, trang bị súng,
cung nỏ để chống cự. Tuy nhiên tàn quân tại Ải Lưu chạy về truyền lời rằng đại
quân thế mạnh không chống được; nên khi quân Chu Vinh tấn công giết hơn 60 tên,
số còn lại bỏ vũ khí mà chạy. Quân tiếp tục tiến 40 dặm, đánh một quan ải nhỏ,
giặc theo nhau bỏ chạy.” (Minh Thực Lục quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 1, trang 240)
Bốn
ngày sau đại quân Trương Phụ tiến tới Cần Trạm, tức vùng Kép phía
bắc tỉnh Bắc Giang; tại đây chia một cánh nhỏ, vượt sông Cầu, cho
toán tiền tiêu đến tận Gia Lâm, Bắc Ninh. Riêng đại quân theo hướng tây
đến Phúc Yên, Vĩnh Phúc, liên lạc với đạo quân Mộc Thạnh, cùng nhân
dịp tiếp xúc với bọn Mạc Thúy ra hàng; bọn này lập công, chỉ điểm
nội bộ quân tình nhà Hồ:
“Ngày
14 tháng 10 năm Vĩnh Lạc thứ 4 [24/11/1406]. Hữu Phó Tướng quân chinh thảo An Nam Tân thành hầu Trương
Phụ mang binh vào ải Kê Lăng, rồi trên đường đến Cần Trạm. Điệp báo cho biết
hai bên đường tại Cần Trạm [Kép, Bắc Giang] đều có quân mai phục, bèn ra lệnh Ưng Dương Tướng quân Đô
đốc Thiêm Sự Lữ Nghị, cùng Đô đốc Thiêm Sự Hoàng Trung mang quân tìm diệt; giặc
phải bỏ trốn. Cho quân tiền tiêu đến Xương Giang [Thị xã Bắc Giang] và Thị Cầu, làm cầu nổi đóng đồn tại Thị Cầu, lại sai Ưng Dương Tướng
quân Phương Chính, Du Kích Tướng quân Vương Thứ mang quân tuần thám đến huyện
Gia Lâm, phía bắc sông Phú Lương [Hồng Hà]. Riêng đại quân dùng đường khác từ Cần Trạm theo hướng tây
đến huyện Tân Phúc [Phúc Yên, Vĩnh Phúc] phủ Bắc Giang; rồi hay tin Phó Tướng quân Tây bình hầu Mộc
Thạnh đến Bạch Hạc [Vĩnh Tường, Vĩnh
Phúc], bèn sai Phiêu Kỵ Tướng quân Chu Vinh
đến họp, Thạnh cũng sai Đô Chỉ huy Du Nhượng đến trại. Bọn Phụ tuân lệnh trên,
răn thuộc cấp không được giết bừa, nên đến nơi nào dân cũng vui theo, các ngụy
quan như Thiêm phán Đặng Nguyên; người châu Nam Sách, phủ Lạng Giang là Mạc
Thúy, Mạc Viễn đến yết kiến. Bọn họ nói rằng:
‘
Giặc dựa vào Đông Đô, Tây Đô; cùng sự hiểm trở của các sông Tuyên, sông Thao,
sông Đà, sông Phú Lương. Đường huyết mạch từ phủ Tam Giang, qua bờ phía nam
sông Đà, núi Tản Viên, đến phía nam sông Phú Lương, qua sông Ninh đi sang phía
đông. Lại từ bờ bắc sông Phú Lương theo sông Hải Triều [sông Luộc, Hưng Yên], sông
Hy, sông Ma Lao đến Bàn Than, núi Khốn Mai, dọc sông xây đồn. Ải Đa Bang (4 ) cho xây thêm thành
đất, đồn trại nối tiếp liên hoàn dài hơn 900 dặm ; bắt hết dân các châu tại
Giang Bắc trên 200 vạn, gồm nam phụ lão ấu vào, để trợ thanh thế. Phía nam sông
Phú Lương đều đóng cọc gỗ; tập trung các thuyền bè trong vũng nước đằng sau
cọc, các cửa sông cũng đóng cọc gỗ để đề phòng công kích. Giặc phòng bị nghiêm
nhặt tại Đông Đô, thường bày voi trận, lính tráng dọc thành; rêu rao đông đến
700 vạn.”
Quân
ta giới nghiêm tại bờ phía bắc để đợi; tuy nhiên giặc sợ hãi không muốn vượt
sông, chỉ muốn giữ hiểm để làm nản lòng quân, nên ta cho chuyển quân từ huyện
Tân Phúc đến chợ Cá Chiêu, châu Tam Đái (5) đóng thuyền để chuẩn bị tiến công. (Minh Thực Lục quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 1, trang 240)
Toàn
Thư cho biết thêm, bọn Mạc Thúy bất
mãn với nhà Hồ, đón quân Minh xin hàng, sau đó chúng được trọng dụng:
“Bọn Mạc Địch, Mạc Thúy, Mạc Viễn và Nguyễn Huân mạo nhận là
họ Mạc đều là những kẻ bất đắc chí, đón hàng quân Minh, người Minh đều trao cho
quan chức. Sau Thúy làm đến tham chính; Địch làm đến chỉ huy sứ; Viễn làm đến
diêm vận sứ; Huân làm đến bố chinh.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 8.
Lúc
này tình thế nằm trong giai đoạn quyết liệt, Minh Thái Tông cổ động
tướng sĩ, lệnh chủ tướng ghi công, hứa hậu thưởng lúc khải hoàn:
“Ngày
4 tháng 11 năm Vĩnh Lạc thứ 4 [14/12/1406]. Sắc dụ quan Tổng binh chinh thảo An Nam Chinh Di Tướng
quân Tân thành hầu Trương Phụ, Tả Phó tướng Tây bình hầu Mộc Thạnh rằng các
tướng sĩ tòng chinh được nuôi dưỡng lúc bình thời để dùng vào ngày hôm nay. Ai
liều thân phấn đấu, phá quan ải giết tướng, xung đột đánh trận lập kỳ công, hãy
ghi tên tuổi, đợi ngày quân về được thăng cấp, trọng thưởng để biểu dương công
lao.” (Minh
Thực Lục quan hệ Trung Quốc Việt Nam,
tập 1, trang 244)
Vào
tháng mười một tình hình ở thế dằng co, Minh Thái Tông sợ mắc vào
kế trì hoãn của kẻ địch, nên thúc dục ra tay gấp, mong đánh dẹp xong
vào tháng 2 năm sau:
“Ngày
26 tháng 11 năm Vĩnh Lạc thứ 4 [ 5/1/1407 ]. Sắc dụ chinh thảo An
‘Nghe
rằng quân hiện nay đang giằng co với giặc, ý đồ của chúng là muốn trì hoãn để
đợi chướng lệ gây khó khăn. Hãy phá mưu này ngay, để tháng hai năm sau dẹp giặc
ban sư.”(Minh Thực Lục quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 1, trang 244)
Toàn
Thư chép vào đầu tháng chạp [1/407]
quân Minh chiếm được bờ sông Mộc Hoàn [sông Hồng vùng Việt Trì];
tướng Hồ Xạ phải rút quân về phía nam sông . Mấy ngày sau, quân Minh
mang thuyền vượt sông tại hạ lưu, bị thua; những tên rút lui bị tử
tội, nên chúng phải liều chết cố đánh:
“Tháng 12, ngày mồng 2, người Minh chiếm được Việt Trì, bờ
sông Mộc Hoàn và chổ đóng cọc ở sông Bạch Hạc. Tướng chỉ huy quân Tả Thánh Dực
Hồ Xạ không giữ nổi, phải dời hàng trận sang phía nam sông Cái.”
“Đêm mồng 7, người Minh cho khiêng thuyền ra bờ phía bắc bãi
sông Thiên Mạc [ hạ lưu sông Hồng]. Tướng quân Trần Đĩnh đánh bại quân Minh. Tướng Minh đem
những tên thoát lui thi hành quân lệnh, binh lính chúng liều chết cố đánh, tự
nguyện lập công” Toàn Thư,
Bản Kỷ, quyển 8.
Tại
vùng Lâm Thao đối lũy với thành Đa Bang, đại quân Trương Phụ tấn công,
làm cầu phao qua sông. Cùng lúc, sai Thiêm sự Chu Vinh mang quân khiêu
khích vùng hạ lưu để đánh lừa:
“Ngày
6 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 4 [14/1/1407]. Ngày hôm nay Chinh thảo An Nam Tả Phó tướng Tây bình hầu Mộc
Thạnh chiếm quân thứ Tuyên Giang, bờ phía bắc sông Thao, đối lũy với thành Đa
Bang. Chinh Di Tướng quân quan Tổng binh Tân thành hầu Trương Phụ sai Hữu Tham
tướng Vân Dương bá Trần Húc mang quân tấn công vùng sông Thao, cùng làm cầu nổi
cho quân lính qua sông. Riêng bọn Phiêu Kỵ Đô đốc Thiêm sự Chu Vinh đánh bại
giặc tụ tập tại bắc ngạn sông Gia Lâm [Hồng
Hà].
Trước
đó quan Tổng binh bàn định cho quân vượt sông tại thượng lưu, bèn sai quân kỵ
đột nhập phía hạ lưu cách 18 dặm. Quân cách sông đối diện với giặc. Suốt ngày
tiếp tục tăng quân để đánh lừa, lại sắm thuyền bè giả bộ muốn vượt sông. Giặc
mang binh vượt sông để đoạt thuyền bè, bị bọn
Dưới
chân thành Đa Bang đất trống, có thể trú chân; đêm 19/1/1407 Trương Phụ
phân công, ra lệnh chuẩn bị công cụ đánh thành. Vào canh tư, tức sau
nữa đêm; Phụ cho thổi tù và làm hiệu, đồng loạt leo thang tấn công
thành. Quân Minh xông vào thành, quân nhà Hồ dùng voi phản công nhưng
thất bại, thành bị hãm:
“Ngày
11 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 4 [19/1/1407].Chinh thảo An
Trước
hết Trương Phụ cho Cao Sĩ Văn cùng thủy quân lưu tại cửa sông chợ Cá Chiêu, để
sẵn sàng tiếp ứng cho Chu Vinh tại Gia Lâm; riêng đích thân đốc suất đại quân
cùng Phó Tướng quân Tây bình hầu Mộc Thạnh phối hợp tấn công . Tại đây
giặc làm hàng rào ra đến tận bờ sông, còn ngay dưới thành Đa Bang thì đất bằng
có thể trú quân. Tuy nhiên thành đất xây cao dốc, dưới thành đào hào sâu, trong
hào bố trí chông tre dày đặc, ngoài hào có rất nhiều hố ngầm cắm chông để làm
cạm bẩy người, ngựa. Trên thành phòng bị nghiêm nhặt, giặc đông như kiến.
Sau
khi đã hoàn tất dụng cụ đánh thành, bèn hạ lệnh trong quân rằng:
‘
Giặc chỉ dựa vào thành này mà thôi; đại trượng phu báo đền quốc gia, công danh
chính tại nơi này, ai leo lên trước không kể cấp bực cao thấp, lập tức được
thăng thưởng.’
Do đó
quân sĩ đều hăng hái liều mình. Ngày này bọn Trương Phụ hội ý phân công tại bãi
cát, Phụ đánh thành phía tây nam, Thạnh đánh thành phía đông nam. Sau khi phân
công xong, sai một số tướng sĩ nhắm cách mục tiêu định đánh khoảng 1 dặm, chuẩn
bị dụng cụ để công thành gấp. Tối hôm đó dập tắt lửa, hẹn quân sĩ đến giờ trèo
thành mới nổi lửa thổi tù và làm hiệu lệnh. Vào canh tư, Phụ sai Đô đốc Thiêm
sự Hoàng Trung âm thầm mang công cụ vượt hào đến tây nam thành, dùng thang mây (6 ) dựa vào thành. Đô Chỉ
huy Thái Phúc leo lên trước, dùng dao chém loạn xạ, bọn giặc kinh hoảng la báo
động, trên thành lửa sáng rực, tiếng kèn, tù và huyên náo. Dưới thành quân sĩ
hăng hái liều mình leo tiếp, bọn giặc kinh hoàng không kịp trở tay, gạch đá tên
đạn không tung ra được, vội nhảy xuống thành bỏ chạy.
Quân
ta tiến vào thành, tướng giặc từ thành nội dàn trận tiếp chiến, xua voi cho đi
trước. Phụ sai Du kích Tướng quân Chu Quảng xua kỵ binh che hình nộm sư tử để
ngăn voi, bọn Thần cơ Tướng quân La Văn bắn súng thần cơ yểm trợ. Voi sợ sệt,
lại bị thương vì tên đạn nên chạy lui vào chổ giặc tụ tập, kiến bọn chúng hoảng
loạn tan rã. Quan quân đuổi dài; giết bọn tướng giặc Lương Dân Hiến; Thái Bá
Nhạc; truy kích đến núi Tản Viên, giặc dẫm đạp lẫn nhau hoặc bị giết không kể
xiết; thu 12 thớt voi, còn khí giới đếm không xuể.” (Minh Thực Lục Quan hệ
Trung Quốc Việt Nam, tập 1, trang 244).
Toàn
Thư mô tả việc tấn công thành vào rạng
ngày 20/1/1207, tức ngày 12 tháng chạp năm Khải Đại thứ 4 như sau:
“Sáng ngày 12, người Minh là Trương Phụ dẫn đô đốc Hoàng
Trung, đô chỉ huy Thái Phúc tiến công phía tây bắc thành Đa Bang. Mộc Thạnh dẫn
bọn đề đốc Trần Tuấn, tiến công phí đông nam thành. Xác chết chất cao ngang với
thành mà giặc vẫn tiến đánh, không tên nào dám dừng lại. Bọn Nguyễn Tông Đỗ,
tướng chỉ huy quân Thiên Trường đào thành cho voi ra. Người Minh dùng hỏa tiễn
bắn voi. Voi lui lại, người Minh theo voi đánh vào. Thành liền bị hạ. Các quân
ở dọc sông đều tan vỡ, lui giữ Hoàng Giang hạ lưu sông Hồng.” Toàn Thư, Bản Kỷ, quyển 8.
Chú
thích:
1.
Long Châu: vị trí gần biên giới Việt
2.
Bằng Tường: nay thuộc huyện Bằng Tường, tỉnh Quảng Tây, sát ải Nam Quan.
3.
Tỷ thư: Thư của vua có đóng dấu ấn tỷ.
4.
Theo Cương Mục vị trí thành Đa Bang tại xã Cổ Pháp, huyện Tiên Phong, tỉnh
Sơn Tây. Theo Đ.N.V.N.Q.C. Đ. (Đất nước Việt
5.
Theo Đ.N.V.N.Q.C. Đ. châu Tam Đái gồm một phần tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ hiện nay, nằm
giửa hai sông Hồng và Lô.
6.
Thang mây tức vân thê, là loại thang xếp đặt trên bệ, bệ được gắn 6 bánh xe để
tiện di chuyển. Khi thang dựng và ráp dựa vào trục thẳng đứng với bệ, nên có
thể leo lên từ bệ để quan sát trong thành, cũng có thể dựa vào thành để trèo
vào. Vì thang cao trên mây nên gọi là vân thê.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét