Lịch Sử Việt
quan-minh
Hồ Bạch Thảo
Sau khi chiếm được thành Đa Bang,
quân Minh tiến dọc theo bờ sông Hồng xuống phía nam, chiếm nốt thành
Đông Đô, tức Hà Nội; quân nhà Hồ rút xuống vùng núi Thiên Kiện tại
tỉnh Hà Nam. Tiếp tục, quân Minh chiếm xong các tỉnh thuộc vùng hạ
lưu sông Thao, sông Đà, và sông Lô:
“Ngày 12 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 4
[20/1/1407]. Trước hết quân của quan Tổng
binh chinh phạt An Nam Tân thành hầu Trương Phụ tiếp tục tiến dọc sông Phú
Lương xuống phía nam, tấn công thành Đông Đô. Giặc bỏ thành chạy, bèn đóng quân
tại phía đông nam thành, chiêu tập quan lại và dân, dung nạp kẻ hàng. Số qui
thuận có đến cả vạn người; bèn yết bảng thông cáo cho trở về chức nghiệp cũ.
Trong ngày Trương Phụ sai người khẩn tâu.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc
Việt Nam, tập 1, trang 247).
“Ngày 18 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 4
[26/1/1407]. Chinh thảo An Nam Tả Tham
Chính Phong thành hầu Lý Bân, Hữu Tham tướng Vân dương bá Trần Húc mang quân
đánh giặc họ Lê tại Đông Đô. Giặc nghe tin thành Đa Bang bị chiếm, bèn đốt phá
cung thất kho tàng tại đây, rồi chạy ra biển. Bọn giặc dựa vào vùng đất tại núi
Thiên Kiện (1), đưa quân từ sông Sinh Quyết, Đàm Xá đánh vào quân ta. Quan Tổng
binh Tân thành hầu Trương Phụ sai Đô đốc Hoàng Trung mấy lần đánh bại giặc. Do
vậy lộ Tam Giang, các châu huyện tại Tuyên Giang, Thao Giang lần lượt đến cửa
quân xin hàng.”( Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 1, trang
247)
Tại
các vùng Bắc Giang, Bắc Ninh, Hải Dương quân Minh vượt sông Trú giang,
tức hạ lưu sông Thương; đánh chiếm Vạn Kiếp, Phả Lại tại huyện Chí
Linh, Hải Dương; khiến cánh quân do Hồ Đỗ chỉ huy, phải rút lui đến
cửa Muộn; một cửa sông Hồng thời xưa, thuộc tỉnh Nam Định:
“Ngày 1
tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 5 [8/2/1407]. Ngày hôm nay quan Tổng binh chinh thảo An Nam Chinh Di
Tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ điều động Thanh viễn bá Vương Hữu, Tả Phó
Tướng quân, Tây bình hầu Mộc Thạnh điều bọn Đô Chỉ huy Liễu Tông hợp binh dẹp
giặc. Quan quân vượt sông Chú Giang tập kích quân giặc tại sách Trù Giang, lại
làm khốn giặc tại Mai Sơn, sông Vạn Kiếp và núi Phả Lại; chém ba vạn bảy ngàn
ba trăm chín mươi thủ cấp, bắt Đoàn phó là Đinh Bộ Khúc giết đi, dư đảng giặc
tan rã. Lúc này tướng giặc Hồ Đỗ tụ thuyền tại sông Bình Than; Trương Phụ nhân
dịp viên nhân sĩ châu Nam Sách là Đội chính Trần Phong đến xin hàng, bèn sai đi
đánh Hồ Đỗ. Đỗ thua chạy đến sông cửa Muộn (2), tịch thu hết thuyền bè. Lại sai
Trần Phong chiêu dụ dân chúng các xứ Lạng Giang và Đông Triều, nhân dân được
yên nghiệp, do đó quận ấp Châu Phong tiếp tục đầu hàng, sĩ phu dâng thư kết tội
giặc họ Lê độc ác trăm cách.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam,
tập 1, trang 247)
Lúc
này Minh Thái Tông hay tin đã chiếm được thành Đông Đô, tịch thu nhiều
lương thảo; nên ra lệnh đình chỉ vận lương tiếp tế từ Quảng Tây:
“Ngày 9
tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 5 [16/2/1407]. Sắc dụ quan Tổng binh chinh thảo An Nam Tân
thành hầu Trương Phụ rằng:
“Nghe
tin ngươi đánh được Đông Đô, tịch thu nhiều lương đủ cho quân dùng. Hãy tiết
kiệm, chớ hoang phí! Ra lệnh đình chỉ việc Quảng Tây vận lương, nếu đang vận
chuyển trên đường thì chuyển đến thành, đồn, trên đường đi đến gần nhất, trử
tại đó; chiếu theo pháp lệnh canh gác. Cho những quân dân lo việc vận tải trở
về.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 1, trang 248)
Sau khi
chiến thắng tại vùng Bắc Giang, Hải Dương; quân Minh tiếp tục càn
quét tại hạ lưu sông Hồng, vùng Thái Bình, Nam Định; có bọn Mạc
Thúy đưa người từ châu Nam Sách, Hải Dương đến theo:
“Ngày 14 tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ 5
[21/2/1407]. Ngày hôm nay quan Tổng binh
chinh thảo An Nam Tân thành hầu Trương Phụ, Tả Phó tướng Tây bình hầu Mộc Thạnh
đánh bại giặc họ Lê tại sông Mộc Hoàn.
Khởi đầu Phụ nhận được tin từ điệp
báo cho biết thuyền giặc qua lại tại vùng sông Phú Lương [Hồng Hà], hạ lưu đất
Giao Châu khoảng hơn 20 dặm. Lại có tin Quí Ly và con là Trừng tụ tập thuyền bè
tại sông Hoàng Giang (3), rồi đem quân đóng tại sông Mộc Hoàn. Thạnh cùng Tham
tướng Phong thành hầu Lý Bân suất quân bộ, kỵ, chiến thuyền từ sông Phú Lương
đến đóng tại sông Lỗ. Giặc họ Lê dùng khoảng hơn 500 chiến thuyền đánh vào quân
ta. Quân của Phụ thủy lục cùng tiến; bọn Đô đốc Liễu Thăng hăng hái đánh thuyền
giặc tại Giao Thiển [Thủy], khiến giặc đại bại. Tịch thu hơn 10 thuyền giặc,
giết tướng giặc là Nguyễn Nhân Tử, Nguyễn Lỗi, Nguyễn Liệt, chém hơn một vạn
đầu, bắt sống tướng giặc Hoàng Thế Cương, Đồng Văn Kiệt, Phùng Tông Thực, Mạc
Thiết, Phạm Hài, Nguyễn Lợi hơn trăm tên, tất cả đều bị chém; riêng bọn giặc
chết trôi không kể xiết. Lúc này người châu Nam Sách tên là Mạc Thúy, vốn giận
giặc họ Lê, bèn mang lính địa phương vạn người đến theo, nhiều lần gắng sức lập
công.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 1, trang 248)
Toàn Thư chép đạo quân nhà Hồ,
do Hồ Nguyên Trừng chỉ huy bị thua tại hạ lưu sông Hồng, phải rút lui
về cửa Muộn,
“Mùa
xuân, tháng 2, ngày 20, Tả tướng quốc Hồ Trừng tiến quân đến sông Lô, quân Minh
giữ hai bên bờ sông đánh kẹp lại, quân Trừng thất bại, lui giữ cửa Muộn. Quý Ly và Hán Thương đều trở về Thanh
Hóa. Kinh lộ phần nhiều theo giặc làm
phản. Hồ Đỗ, Hồ Xạ bỏ Bình Than qua Thái Bình, Đại Toàn đến cửa Muộn, hợp sức
đắp lũy, đúc hỏa khí, đóng thuyền chiến để chống giặc. Quyên mộ tiền của, ai
đóng góp thì được lấy con gái tôn thất và được cấp 10 mẫu ruộng. ”Toàn Thư,
Bản Kỷ, quyển 9.
Theo kế sách đã định sẵn, Trương
Phụ giả bộ sai Mạc Thúy đi tìm một Tôn thất họ Trần, để đem về kinh
đô ban tước Vương; đây là một trò lừa bịp, nhắm che tội cướp nước.
Vào tháng sau Mạc Thúy đem đồng bọn đến khai rằng con cháu họ Trần
đã bị cha con Hồ Quí Ly giết hết; An Nam xưa là đất cũ của Trung
Quốc, xin được chia thành quận huyện, nhập vào bản đồ Trung Quốc:
“Ngày 1 tháng 2 năm Vĩnh Lạc thứ 5 [ 10/3/1407
]. Ngày hôm nay quan Tổng binh chinh thảo
An Nam Tân thành hầu Trương Phụ sai người châu Nam Sách là bọn Mạc Thúy tuyên
cáo lòng nhân đức của Thiên tử. Tập hợp các quan lại quân nhân các quận huyện,
lệnh cho quan trở về nguyên sở, lính trở về nguyên đơn vị, dân trở về với nghề
cũ. Thăm hỏi tìm họ hàng nhà Trần, chọn một người hiền tài thuộc dòng đích đưa
về kinh sư, để xin mệnh khôi phục tước Vương.” (Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 1, trang 249)
“Ngày 10 tháng 3 năm Vĩnh Lạc thứ 5
[17/4/1407]. Ngày hôm nay quan Tổng binh
chinh thảo An Nam Tân Thành hầu Trương Phụ cho biết những người được sai đi
chiêu dụ dân là bọn Mạc Thúy và những người tại các phủ như Bắc Giang, các
huyện như An Việt (4) gồm bọn kỳ lão Duẫn Bái, cùng 1.120 người đến cửa quân
thưa rằng:
“Được ơn cấp bảng dụ khắp trong nước,
tuyên bố đức ý của thánh Thiên tử cho quan trở lại nguyên chức, lính trở lại
nguyên đơn vị, dân trở về nghiêp cũ; hỏi tìm con cháu nhà Trần chọn một người
hiền, tấu xin tước Vương để làm chủ nước; lại chia người đi các nơi phủ dụ quan
lại quân dân yên nghiệp như cũ. Duy con cháu nhà Trần trước đây bị giặc họ Lê
tru diệt hết, không còn sót ai, không thể kế thừa. An
Thúy kính cẩn cùng các bậc kỳ lão
soạn sẵn biểu văn, xin dâng lên triều đình để lòng kẻ dưới được đề đạt. Quan
Tổng binh Tân thành hầu Trương Phụ cho rằng cha con giặc họ Lê chỉ trong sớm
tối sẽ bị tru lục, các phủ huyện đều được bình định, cần có sự thống trị để phủ
ngự dân này, nên ngay ngày hôm nay cho người ruỗi về kinh đô tâu trình.” (Minh Thực
Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 1, trang 250)
Chính
sách xâm lược của nhà Minh thâm độc, lúc quân mới xuất chinh ra lệnh
tịch thu thư tịch nước ta, nay lại ép buộc đem nhân tài về Trung Quốc;
nhắm vét sạch tinh hoa văn hóa Đại Việt:
“Ngày 8 tháng 2 năm Vĩnh Lạc thứ 5 [17/3/1407]. Sắc dụ quan Tổng binh chinh thảo An Nam Tân thành hầu
Trương Phụ:
“Khi quân chiếm được An Nam, hãy thăm dò rộng
rãi toàn nước để tìm người tài đức, hoặc có một điều hay, một nghề giỏi. Hãy
dùng lễ để sai khiến, tìm cách đưa về kinh đô.”( Minh Thực Lục Quan hệ Trung
Quốc Việt Nam, tập 1, trang 250)
Vào
trung tuần tháng giêng bọn Trương Phụ, Liễu Thăng càn quét tại vùng
Giao Thủy, Nam Định; nhưng vì nơi này ẩm thấp nên rút đại quân về
đóng tại Hàm Tử, Hưng Yên. Tại đây xãy ra trận đánh lớn; quân Minh
thừa thắng đuổi dài, khiến nhiều quan lại nhà Hồ ra hàng:
“Ngày 27 tháng 3 năm Vĩnh Lạc thứ 5 [ 4/5/1407
]. Ngày hôm nay quan Tổng binh chinh thảo
An Nam Chinh di Tướng quân Tân thành hầu Trương Phụ, Tả Phó Tướng quân Tây bình
hầu Mộc Thạnh đánh bại giặc tại sông Phú Lương [Hồng Hà]. Trước đây bọn Trương
Phụ truy kích giặc đến cửa Muộn huyện Giao Thủy (5), giặc chạy trốn. Đất này ẩm
thấp không thể trú quân, nên bàn định rút lui để dụ giặc. Đến Hàm Tử xây đồn,
lệnh Đô đốc Liễu Thăng trấn giữ. Lúc này Thăng báo rằng lực lượng giặc vào sông
Phú Lương, Trương Phụ mang quân đến đánh. Thuyền giặc liên tiếp hơn mười dặm,
thêm quân bộ hàng vạn tinh binh đến đánh. Quan quân hai bên bờ tấn công. Giặc
dùng thuyền bè ngăn sông, lấy gỗ ván thuyền làm trại để cự quan quân. Phụ thừa
lúc trại giặc chưa hoàn bị, bèn đốc thúc quan quân ra sức đánh, giặc không
chống nỗi. Thăng lại dùng thủy quân đánh chéo, giặc thua to, bắt sống Thượng
thư bộ Công Nguyễn Hy Chu, chém Dực Vệ Tướng quân ngụy Hồ Xạ cùng tướng lính
vài vạn người, khiến nước sông trở nên đỏ vì máu. Thừa thắng đuổi dài qua Hoàng
Giang đến cửa Muộn; tại cửa sông bắt gặp thuyền giặc nhiều không kể xiết. Cha
con giặc họ Lê chỉ còn vài chiếc thuyền trốn chạy thoát thân. Thượng thư bộ Lại
của ngụy là Phạm Nguyên Lãm, Đại Lý Tự khanh Nguyễn Phi Khanh, Thiên Vệ Tướng
quân Trần Nhật Chiêu, Hoa Ngạch Tướng quân Lê Uy đều đến đầu hàng Trương Phụ.”
(Minh Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 1, trang 251)
Trận đánh tại cửa Hàm Tử, Cương Mục
nước ta chép như sau:
“Nguyên Trừng, Hồ Đỗ và Đỗ Mãn lại
đem quân thủy, quân bộ nhất tề từ Hoàng Giang tiến lên. Hồ Xạ, Trần Đĩnh quản
lĩnh đạo quân đóng ở bờ phía nam; Đỗ Nhân Giám, Trần Khắc Trang quản lĩnh đạo
quân đóng ở bờ phía bắc; Đỗ Mẫn và Hồ Vấn quản lĩnh đạo thủy quân, tất cả bảy
vạn người, nói phao là hai mươi mốt vạn, cùng nhau tiến đến cửa Hàm Tử. Thuyền
chiến nối liền nhau hơn mười dặm, chắn ngang giữa sông. Tướng Minh đặt quân
mai phục, rình khi quân nhà Hồ trễ nải, đem hai cánh quân thủy và bộ xông ra.
Quân bộ của nhà Hồ không thể đối địch được, cùng nhau trốn chạy, gặp phục binh
nhà Minh, đều quay giáo, nhảy xuống sông chết, chỉ có cánh quân thủy được thoát
thân. Thuyền tải lương chìm đắm hầu hết. Lúc ấy đạo quân của Hồ Xạ còn ở lại
sau, biết mặt trước có quân mai phục, không chịu tiến lên, Hồ Đỗ sai người
trách móc, Hồ Xạ mới tiến quân, cũng đều bị thua. An phủ sứ Bắc Giang là Nguyễn
Hi Chu bị bắt, Hi Chu mắng nhiếc Trương Phụ là giặc tàn bạo, Phụ sai giết
đi.”Cương Mục, Chính Biên, quyển 12.
Tổng binh Trương Phụ nhận định
thế lực nhà Hồ trên đà kiệt quệ, miền châu thổ sông Hồng đã chiếm
xong; bèn tâu xin chính thức cai trị An Nam, lập tam ty (6), chia nước ta
thành quận huyện. Nhưng vua Minh cẩn thận hơn, muốn chờ đến lúc bắt
được cha con Hồ Quí Ly sẽ thi hành:
“Ngày 19 tháng 4 năm Vĩnh Lạc thứ 5 [
26/5/1407 ]. Tổng binh chinh thảo An Nam
Tân thành hầu Trương Phụ tâu :
‘Trước
đây thể theo lời Thiên tử, lúc bình định An Nam hỏi tìm con cháu nhà Trần, để
kế tục tước Vương. Thần tuân lệnh mang quân chinh thảo, các phủ huyện đều lần
lượt qui phụ. Bèn sai người châu Nam Sách đến hàng là bọn Mạc Thúy, mang văn
bảng hiểu dụ các nơi; rồi các quân nhân, kỳ lão, quan lại gồm một ngàn một trăm
hai mươi người đến gặp thần trình bày sự tình nói rằng lúc giặc họ Lê thoán đoạt,
tìm bắt con cháu họ Trần giết hết, không còn người để kế thừa. Lại bảo An Nam
là đất cũ của Trung Quốc, sau đó bị luân lạc trở thành loài khác; nay may mắn
trừ được giặc, được nhìn lại y quan (7)
cũ , xin được lập lại quận huyện, đặt quan cai trị, để được tắm gội
thánh hóa, tẩy trừ di tục . Bọn Thúy làm tờ biểu dâng lên, thuật đầy đủ ý
nguyện của dân.
Thần quan sát rõ lòng dân chúng, thấy
được tấm lòng thành thực nên có lời tâu. Vào ngày 29 tháng 3 thần lại ra quân
truy tiễu bọn giặc đến cửa Muộn huyện Giao
Thủy, giết vô số giặc, cha con Hồ Quí Ly chỉ còn một thân trốn tránh. Nay lại
truy kích tiếp, thế giặc như cá nằm trong nồi, sớm chiều sẽ chết. Nay quận ấp
đã được bình định, con cháu nhà Trần tuyệt dòng tìm không ra; đúng là lúc nên
lập Đô Chỉ huy Sứ ty, Bố chánh Sứ ty, Án sát Sứ ty để cai trị các quận huyện,
chiêu phủ binh dân.; vậy xin kính cẩn dâng tờ tấu này. Quần thần cũng đều nhất
trí như vậy.’
Thiên tử phán:
‘Chờ đến
lúc bắt hết cha con họ Hồ sẽ xử trí sau.”
(Minh
Thực Lục Quan hệ Trung Quốc Việt Nam, tập 1, trang 252)
Chú thích:
1. Theo
Cương Mục núi Thiên Kiện còn có tên là núi Địa Cận, ở xã Thiên Kiện, huyện
Thanh Liêm; nay thuộc tỉnh Hà Nam.
2. Cửa
Muộn: cửa sông Hồng tại huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Hà, nay đã bị lấp.
3. Hoàng
Giang: khúc sông Hồng ở phía trên Nam Ðịnh, phía trên là sông Thiên Mạc, phía
dưới giáp sông Giao Thủy.
4. Huyện
An Việt, thời nhà Minh thuộc phủ Bắc Giang.
5. Giao
Thủy:Thời thuộc Minh là một huyện thuộc phủ Phụng Hóa; nay tương
đương với huyện Xuân Trường, tỉnh
6. Tam
ty: Đô chỉ huy sứ ty, Bố chánh ty, Án sát ty.
7. Y
quan: Y phục và khăn đội đầu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét