Cho đến
nay ở Việt Nam
chưa có ai sánh được danh tiếng về tài tiên tri và những sấm ký lưu truyền theo
dòng lịch sử của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Ông giúp
đỡ không chỉ riêng chúa Nguyễn dựng nghiệp lớn với 9 đời chúa, 13 đời vua, mà
vạch đường cho chúa Trịnh biết cách “thờ Phật ăn oản”, cho nhà Mạc chạy về “ẩn
tại Cao Bằng”. Từ đâu Trạng Trình tiên đoán về thế sự và các vùng đất “ẩn long”
hoặc sẽ “vạn đại dung thân” chính xác như thế?
Nhà tiên tri bên sông Tuyết Hàn
Có thể
nói, ngoài tài năng thiên phú “bất khả tư nghì” ra, ông còn được “đề dẫn” từ
lúc trẻ bởi hai nhân vật lớn trong đời ông: người mẹ và người thầy của ông.
Về người
mẹ, thân mẫu của Trạng là bà Nhữ Thị Thục (con gái của quan thượng thư Nhữ Văn
Lan) là người tinh thông về khoa chiêm tinh và dịch lý, đã tự chấm lấy lá số
tương lai và biết mình sẽ sinh quý tử. Nhưng muốn vậy, bà cần phải kết duyên
với một người nào đó có cung mệnh tương ứng nên đợi chờ mãi đến ngưỡng cửa của
tuổi 30 vẫn chưa lấy ai.
Cuối
cùng bà quyết định tự tìm đến ông đồ nho nhà nghèo Nguyễn Văn Định để kết
duyên, vì bà đã nhìn ra nơi ông đồ ở chốn thôn dã này là người sẽ cùng bà sinh
ra một nhân tài. Tương truyền trong đêm hợp hôn có trăng sáng, bà ra ngoài trời
lấy một cây trúc cắm giữa sân và dặn ông Văn Định khi nào ánh trăng chiếu xuống
không còn thấy bóng dưới gốc trúc nữa mới được vào phòng hoa chúc.
Nhưng
ông Văn Định không đợi được, đã vội vào ăn nằm với bà khi dưới gốc trúc vẫn còn
một chút bóng soi, nên bà trách chồng và bảo nôn nóng như thế chỉ sinh được
người con đỗ Trạng, chứ không gầy nên nghiệp đế. Người con đó là Nguyễn Bỉnh
Khiêm sinh năm 1491, đỗ Trạng nguyên năm 1535 thời Mạc, làm quan đến Thượng thư
Bộ Lại, Thái phó, là thầy dạy học của thái tử Mạc Phúc Hải, được phong tước
Trình Tuyền hầu, Trình Quốc công, nên người đời thường gọi Trạng Trình và những
tiên tri của ông được tập hợp với tựa: Trình Quốc công sấm ký…
Về người
thầy, Nguyễn Bỉnh Khiêm theo học với Bảng nhãn Lương Đắc Bằng – là một vị quan
lớn thanh liêm, chính trực, từ quan rời kinh đô Thăng Long về quê nhà Thanh Hóa
mở trường dạy học, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng theo thầy về xứ Thanh. Thầy Lương Đắc
Bằng nắm giữ bộThái ất thần kinh và đã truyền cho Nguyễn Bỉnh Khiêm yếu chỉ của
bộ sách đó, cùng những ứng dụng trong lĩnh vực chiêm tinh và tiên đoán liên
quan đến khoa địa lý và phong thủy.
Sau này,
khi biết trước sự nhiễu nhương của thời cuộc bên ngoài và đầu mối suy sụp trong
nội tình nhà Mạc, Trạng Trình đã dâng sớ xin chém 18 kẻ lộng hành nhưng vua Mạc
không chấp thuận, ông treo mũ từ quan về quê, dựng am Bạch Vân bên bờ sông
Tuyết Hàn.
Chính ở
đó, về sau các vua Mạc, chúa Trịnh và cả chúa Nguyễn đều lần lượt phái sứ giả
đến yết kiến để xin cố vấn về các giải pháp trước mắt, hoặc tiên tri chỉ dẫn về
những điều hệ trọng liên quan đến sự sống còn của họ trong tương lai…
Cảnh sinh hoạt của một nhóm
người Đàng Trong
Vùng đất vương gia như sấm truyền
Nguyễn
Hoàng là con trai của Nguyễn Kim. Nguyễn Kim là người có công lớn đã tập hợp
quân tướng khởi nghĩa chống nhà Mạc cướp ngôi và giúp nhà Lê giành được đất
Thanh Hóa, Nghệ An – lập nên triều Lê trung hưng.
Sau
Nguyễn Kim bị tướng nhà Mạc đầu độc chết, quyền hành về tay con rể là Trịnh
Kiểm. Trịnh Kiểm lo sợ các con trai của Nguyễn Kim (là Nguyễn Uông và Nguyễn
Hoàng) tranh mất quyền của mình nên đã tìm cách ám hại Nguyễn Uông trước. Thấy
vậy Nguyễn Hoàng rất lo sợ, xem mình như chim cá trong lồng son, có ngày sẽ bị
ám hại như anh mình (Nguyễn Uông). Vì thế Nguyễn Hoàng đã bí mật sai sứ giả tìm
cách lặn lội ra ngoài Bắc, đến yết kiến Trạng Trình xin sấm giải. Trạng Trình
dạy: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”.
Vâng
theo lời ấy, Nguyễn Hoàng nhờ chị ruột là Nguyễn Thị Ngọc Bảo (vợ Trịnh Kiểm)
xin với Trịnh Kiểm cho mình vượt Hoành sơn vào trấn thủ vùng Thuận Hóa để tránh
xa “dao thớt” của người anh rể họTrịnh.
Linh
dang trong Lính Đàng Trong
Được
Trịnh Kiểm đồng ý và vua Lê cho phép, Nguyễn Hoàng đem gia quyến rời Thanh Hóa
năm 34 tuổi (Mậu Ngọ 1558) và cùng tùy tướng của mình chỉ huy hàng nghìn quân
bản bộ vượt biển để lại dải Hoành sơn phía sau, tiến về phương Nam ở phía
trước, vào thẳng cửa Yên Việt, đóng dinh ở gò Phù Sa, xã Ái Tử, huyện Vũ Xương,
thuộc địa phận tỉnh Quảng Trị ngày nay.
Những
thập niên đầu trên vùng đất mới, Nguyễn Hoàng ra sức khai hoang lập ấp, ổn định
dân tình, giữ quan hệ thuận thảo với vua Lê, chúa Trịnh ngoài Bắc, được vua Lê
sắc phong làm Thái phó và giao toàn quyền quyết định mọi việc ở vùng Thuận Hóa,
định lệ nộp thuế 400 cân vàng bạc và 500 tấn lúa hằng năm.
Nguyễn
Hoàng mất năm Quý Sửu 1613, thọ 89 tuổi, trấn thủ đất Thuận Hóa – Quảng Nam
trong 56 năm (được truy tôn: Thái tổ Gia dụ hoàng đế), có 10 người con trai,
trước khi mất dặn lại con cháu phải hết sức giữ gìn đất Thuận Quảng.
Vì đó là
nơi phía Bắc có Hoành Sơn với thế núi chắn ngang che chở, phía Nam có Hải Vân
hùng vĩ là yết hầu đưa sinh khí vào “vùng đất vương gia” (tức kinh thành Phú
Xuân- Huế sau này). Có giữ vững Thuận Quảng mới mong dựng nên cơ nghiệp muôn
đời như sấm ký của Trạng Trình truyền lại “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung
thân”.
Theo các
nhà viết sử có uy tín như Trần Trọng Kim “núi Hoành sơn tức núi Đèo Ngang ở
Quảng Bình” vốn là một nhánh của dãy Trường Sơn đột nhiên kéo đâm ra sát biển.
Đứng từ đỉnh cao nhất của Hoành Sơn (khoảng 250m) nhìn bao quát sẽ thấy hiện
lên dưới tầm mắt màu xanh ngút ngàn của rừng núi phía Tây, biển rộng mênh mông
trải dài như tấm thảm xanh về phía Đông, thấp thoáng những hòn đảo nhỏ nhô lên
mặt nước như đang chầu về “sơn lâm”.
Con
đường xuyên Đèo Ngang thời trước nằm trên đường thiên lý, cách Đồng Hới khoảng
80 cây số, chạy ngoằn ngoèo qua các sườn đồi cheo leo, men theo vực sâu, đưa
người hành trình theo chiều dọc từ hướng Bắc vào Nam. Nhìn dưới góc độ phong
thủy, Hoành Sơn đi vào các tài liệu nghiên cứu về địa lý xưa và cả thời nay.
Ngay các
tác giả người nước ngoài như học giả Léopold Cadière, chủ bút tạp chí Bulletin
des Amis du Vieux Hue, khi luận về các chi tiết phong thủy ứng dụng xây kinh
thành Huế đã nhắc đến “Hoành Sơn che chở” từ xa đối với nhà Nguyễn. Những nhà
sử học, địa lý học khi viết đến lịch sử triều Nguyễn đều nhắc “Hoành Sơn” thời
khởi nghiệp.
Cảnh sinh hoạt vui chơi (đá cầu) tại một
làng Đàng Trong
Nhà
phong thủy học Cao Trung khi luận về long mạch trong Tả Ao địa lý toàn thư đã
đưa “Hoành Sơn” vào nội dung phân tích và nêu rõ hai phần trong khoa địa lý
gồm: Loan đầu và Lý khí. Phần Loan đầu
là những gì mắt ta nhìn thấy trên đất đai của toàn thể một cuộc đất kết,
hoặc một dòng nước thuận nghịch, một thế núi quanh co.
Nếu cơ
nghiệp chúa Trịnh mở đầu với mối liên hệ về một cuộc đất thuộc vùng “thủy”
(nước), thì cơ nghiệp chúa Nguyễn mở đầu với mối liên hệ thuộc vùng “sơn”
(núi). Nói về “sơn”, cụ Tả Ao diễn giải nếu thấy núi hình thành theo dạng “một
vòng bọc lại” (nhất trùng bão khóa) rồi
“một vòng mở ra” (nhất trùng khai) thì ở đó có đất công hầu. Nếu lại thấy một dạng núi “vòng ôm”
(nhất sơn loan bão) rồi “ngoảnh lại” (nhất sơn cố) là ở đó có đất công khanh.
Trong
tập Địa lý gia truyền, cụ Tả Ao cũng chỉ rõ nếu thấy núi cao bao quanh một vùng
thì hãy tìm huyệt ở chỗ thấp (chúng sơn cao tầm đê) – còn chung quanh đều thấp
thì hãy tầm huyệt ở chỗ cao (chúng sơn đê tầm cao).
Đối
chiếu và liên tưởng tới trường hợp “Hoành Sơn”, những chỉ dẫn phong thủy và địa
lý nêu tổng quát ở trên cũng cho ta thấy qua phần “loan đầu” (có thể nhìn trực
tiếp bằng mắt để đoán định), sau đó đến phần “lý khí” (liên quan đến lý học,
thiên văn) chắc hẳn những gì nêu trongThái ất thần kinh đã được vận dụng bởi
nhà văn hóa, nhà tiên tri lừng danh nhất trong lịch sử Việt Nam : Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Nhờ vậy, cộng với khả năng thiên phú, Trạng Trình đã
chỉ đúng con đường phải đi cho chúa Nguyễn.
Theo:
Duyên dáng Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét