- Nguyên
bản : Last Battle - Xuất bản năm 1966
- Tác
giả : Cornelius Ryan (1920-1974)
- Người dịch : QUEENIEQ
- Nguồn Voz Forum
- Số hóa : Huytop
THE LAST
BATTLE – TRẬN
CHIẾN CUỐI CÙNG
Khi nói về chiến tranh, tôi không mạo
hiểm nói lên những thông tin ngẫu nhiên, cũng không nói lên quan điểm của riêng
mình; tôi chỉ mô tả lại những gì chính mắt tôi nhìn thấy, hoặc biết được từ
những người tôi đã hỏi kỹ càng. Đây là một nhiệm vụ vất vả, vì các nhân chứng
của cùng một sự kiện thường kể lại khác nhau khi nhớ lại, hoặc chỉ quan tâm đến
hành động của phe này hoặc phe kia. Và rất có khả năng là tính tuân thủ lịch sử
nghiêm túc của bản tường thuật của tôi sẽ làm bạn chán chẳng buồn nghe. Nhưng
nếu ai muốn thấy một bức tranh chân thực về những sự kiện đã diễn ra nhận thấy
rằng những gì tôi viết là hữu ích, thì tôi sẽ rất thỏa mãn.
THUCYDIDES
Peloponesian War, tập 1, năm 400 TCN.
Cuốn sách này dành để tưởng nhớ ký ức của
một cậu bé sinh ra ở Berlin
trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến.
Tên người đó là Peter Fechter.
Năm 1962, Peter đã bị chính người dân
mình bắn chết khi cậu ta tròn 17 tuổi. Thi hài Peter nằm bên biểu tượng bi kịch
nhất dành cho chiến thắng của quân Đồng Minh.
Bức tường Berlin
LỜI TỰA
A-Day, thứ Hai ngày 16 tháng 4 năm 1945.
Cuộc chiến giành Berlin , cuộc tấn công cuối cùng chống lại Đệ
tam Quốc xã của Hitler, bắt đầu đúng 4 giờ sáng thứ Hai ngày 16 tháng 4 năm
1945 – hay quân Đồng minh phương Tây còn gọi là A-Day. Vào lúc đó, cách thủ đô
không đầy 38 dặm, lửa đỏ bừng cháy trên bầu trời đêm trên sông Oder đang dâng
cao, khai hỏa một cuộc pháo kích mạnh mẽ và là mở đầu cho cuộc tiến công vào
thành phố của quân Liên Xô.
Cùng lúc đó, các thành phần trong Tập
đoàn quân 9 của Mỹ đang quay trở lui khỏi Berlin – hướng về phía tây để đánh
chiếm các vị trí mới dọc sông Elbe, nằm giữa Tangermunde và Barby. Ngày 14
tháng 4, tướng Eisenhower đã quyết định dừng cuộc tiến quân của liên quân
Anh-Mỹ vào nước Đức. Ông nói, ―Berlin không còn là một mục tiêu quân sự nữa.
Khi các nhánh quân Mỹ nhận được tin này, một số đoàn quân chỉ cách Berlin có 45 dặm.
Khi cuộc tấn công bắt đầu, những người
dân Berlin chờ đợi trong thành phố bị đánh bom đổ nát, tê liệt và hoảng sợ, bám
víu vào niềm tin duy nhất còn lại – niềm tin sống sót. Cái ăn trở nên quan
trọng hơn tình yêu, đào bới còn đáng giá hơn chiến đấu, chịu đựng còn có ý
nghĩa quân sự hơn chiến thắng.
Những gì xảy ra sau đó là câu chuyện về
cuộc chiến cuối cùng – cuộc tấn công và chiếm đóng Berlin . Dù cuốn sách này có nhiều phần kể
lại cuộc chiến, nhưng đây không phải là một bản báo cáo quân sự. Đúng hơn thì
nó là câu chuyện của những người bình thường, cả binh lính và người dân, những
người bị mắc kẹt trong nỗi tuyệt vọng, sụp đổ, kinh hoàng và sự cưỡng đoạt
trong thất bại và chiến thắng.
I-THÀNH
PHỐ
1.
Ở những
vùng phía Bắc, bình minh đến sớm. Ngay khi những kẻ đánh bom rút khỏi thành
phố, những tia sáng ban mai xuất hiện ở đằng đông. Trong cái tĩnh lặng của buổi
sớm mai, những cột khói đen sừng sững bốc lên ở quận Pankow, Weissensee và
Lichtenberg. Trên những đám mây sà xuống thấp, thật khó phân biệt giữa ánh ban
mai mờ ảo với ánh lửa sáng rực chiếu lên từ một Berlin vừa bị đánh bom.
Khi khói chầm chậm tan đi trên những đống
đổ nát, thành phố bị đánh bom nhiều nhất nước Đức lừng lững đứng đó, ảm đạm và
rùng rợn. Cả thành phố đen kịt vì tro bụi, lỗ chỗ hàng nghìn hố bom và điểm
xuyết những cây cột xoắn từ các tòa nhà đổ nát. Toàn bộ các khu căn hộ đều biến
mất, và ở trung tâm thủ đô, toàn vùng đã bị xóa sổ. Ở vùng đất trống đó, những
gì từng là đại lộ và đường phố giờ biến thành đường mòn gồ ghề, đi xuyên qua
những ngọn núi đổ nát. Khắp nơi là những tòa nhà không mái, không cửa sổ, nội
thất bị phá hủy hoàn toàn há miệng đứng nhìn trời.
Sau cuộc đột kích, một cơn mưa bụi tro đổ
xuống, phủ lên đống hoang tàn, và trong những hẻm núi gạch và thép vụn, chỉ
thấy bụi bốc lên. Bụi cuộn xoáy dọc theo phần mở rộng của đại lộ Unter den
Linden, những hàng cây nổi tiếng giờ đây trơ trụi, chồi non héo úa trên cành
cây. Chỉ một số ít ngân hàng, thư viện và cửa hàng sang trọng nằm trên đại lộ
nổi tiếng này không bị hư hại. Nhưng ở đầu phía tây con đường, biểu tượng nổi
tiếng nhất Berlin, Cổng Brandenburg cao ngang tòa nhà tám tầng, via triumphalis
(con đường khải hoàn), vẫn đứng vững trên 12 cây cột Doric khổng lồ, dù đầy vết
sứt mẻ.
Ở gần Wilhelmstrasse, những mảnh kính vỡ
từ hàng nghìn khung cửa sổ chất đống xung quanh các tòa nhà chính phủ và cung
điện, sáng lấp lánh giữa đống gạch vụn. Ngôi nhà số 73, cung điện bé nhỏ xinh
đẹp từng là nơi sống chính thức của các thủ tướng Đức thời trước Đệ tam Quốc xã
đã bị thiêu rụi hoàn toàn bên trong. Cung điện này từng được mô tả là một
Versailles mini; giờ đây, các bức tượng nữ thần biển của đài phun nước lộng lẫy
ngoài sân trước vỡ tan thành từng mảnh, nằm cạnh mấy chiếc cột ngoài cổng
trước, còn hai bức tượng trinh nữ Rhine sinh đôi đặt trên mái nhà sứt mẻ thủng
lỗ chỗ thì nghiêng về phía sân trong đầy gạch vụn, đầu đã bị sứt mất.
Cách đó một dãy nhà, tòa nhà số 77 lại
không hề hấn gì mấy, chỉ sứt mẻ sơ sơ. Những khối gạch chất chồng quanh tòa nhà
ba tầng hình chữ L này. Lớp sơn ngoài màu vàng nâu bị tróc nhiều chỗ, và mấy
con đại bàng bằng vàng sáng chói có hoa văn chữ thập trên móng đặt ở mấy cái
cổng bị trầy xước, sứt mẻ đến là thảm hại. Phần ban công đường bệ nhô ra bên trên,
nơi một bài diễn văn điên cuồng từng được diễn thuyết cho cả thế giới nghe.
Reichskanzlei, tòa nhà văn phòng của Thủ tướng Đức, vẫn còn đứng đó. Phía trên
Kurfurstendamm, Đại lộ thứ năm của Berlin, hàng đống khung biến dạng của Nhà
thờ Tưởng niệm Kaiser-Wilhelm vốn từng rất lộng lẫy nằm ngổn ngang. Kim đồng hồ
dừng đúng 7:30 trên mặt đồng hồ đã cháy thành than; vốn đã bị như thế từ năm
1943, khi bom quét sạch một nghìn mẫu Anh của thành phố chỉ trong một đêm tháng
mười một.
Cách gần 100m là Sở thú Berlin danh tiếng thế
giới, giờ chỉ còn là một khu rừng đổ nát. Hồ cá đã bị hủy hoại hoàn toàn. Các
khu nuôi bò sát, hà mã, kangaroo, hổ và voi cũng bị hư hại nghiêm trọng, cùng
với các tòa nhà bị thủng toang hoác khác. Công viên Tiergarten nổi tiếng rộng
630 mẫu Anh nằm xung quanh đó giờ thành vùng đất không người, chỉ còn trơ lại
những hố bom to bằng cả căn phòng, những hồ nước đầy gạch vụn và tòa đại sứ đã
hư hại một phần. Công viên từng là một khu rừng thiên nhiên đầy kỳ hoa di thảo.
Giờ những cái cây quý giá ấy đã bị thiêu trụi, trơ lại mấy gốc cây xấu xí.
Góc đông bắc của công viên Tiergarten là
phế tích đáng chú ý nhất Berlin ,
không bị bom đạn của quân Đồng minh phá hủy mà bị chính trị Đức hủy diệt. Tòa
nhà Reichstag đồ sộ, nơi tổ chức họp Nghị viện, đã bị Đảng Nazi thiêu cháy vào
năm 1933, và vụ hỏa hoạn được vu cho phe cộng sản, giúp Hitler có cớ được toàn
quyền độc tài. Trên phần mái đổ nát nằm bên trên cổng vào có sáu chiếc cột,
nhìn ra biển gạch vụn đang muốn nhấn chìm tòa nhà, là mấy chữ màu đen rõ ràng,
― DEM DEUTSCHEN VOLKE – Vì nhân dân Đức.
Phía trước tòa nhà Reichstag từng có một
tổ hợp tượng. Tất cả đã bị hủy, trừ một pho tượng duy nhất – một pho tượng bằng
đồng và cẩm thạch màu đỏ thẫm cao hơn 60m, đặt trên một cái bệ khổng lồ chạm
khắc cột xung quanh bệ. Sau vụ hỏa hoạn năm 1933, Hitler đã ra lệnh di dời nó.
Bây giờ, nó nằm cách đường Charlottenburger Chaussée một dặm, gần trung tâm
trục Đông-Tây – chuỗi đường cao tốc nối nhau băng qua thành phố từ sông Havel
phía tây đến cuối đường Unter den Linden ở phía đông. Khi mặt trời mọc vào sáng
ngày tháng ba này, ánh nắng chiếu lên bức tượng vàng trên đỉnh trụ: một bức
tượng nữ thần có cánh, một tay cầm vòng nguyệt quế, tay kia cầm cây trượng chạm
huân chương Chữ Thập Sắt. Nổi lên giữa vùng đất hoang tàn, không suy suyển mặc
bom rơi đạn lạc, đó chính là biểu tượng thanh nhã, mảnh mai của Berlin – tượng
đài Chiến thắng.
Trên khắp thành phố vừa bị đột kích, còi
báo động bắt đầu rền rĩ báo hiệu nguy hiểm đã qua. Cuộc tấn công thứ 314 của
quân Đồng minh vào Berlin
đã kết thúc. Trong những năm đầu của cuộc chiến, các cuộc tấn công xảy ra rời
rạc, nhưng giờ thủ đô đang phải chịu dội bom gần như liên tục – quân Mỹ thả bom
ban ngày, Không lực Hoàng gia thả bom ban đêm. Số liệu thiệt hại tăng lên từng
giờ; vào thời nay chúng có thể khiến người ta choáng váng.
Những vụ nổ đã xóa sổ hơn 10 dặm vuông ở
những quận đã được xây dựng – gấp 10 lần phần diện tích bị phá hủy ở London trong trận
Luffwaffe. Gần 85 triệu m3 gạch đá chất ngổn ngang trên đường phố - đủ tạo
thành một ngọn núi cao hơn 300m. Gần một nửa trong số 1.562.000 người dân Berlin bị thương, và một phần ba nhà cửa bị hủy hoại hoàn
toàn hoặc không thể ở được nữa, nhưng ít nhất 52.000 người chết và gấp đôi số
đó bị thương nặng – gấp 5 lần số người chết và bị thương nặng trong trận đánh
bom London . Berlin đã trở thành một Carthage (1) thứ hai – và cơn đau sau cùng
vẫn còn chưa đến.
Trong cái tiêu điều của sự tàn phá, cần
nhận thấy rằng con người vẫn có thể sống sót – nhưng cuộc sống vẫn tiếp diễn
bình thường đến điên rồ giữa đống hoang tàn. Mười hai nghìn cảnh sát vẫn thực
hiện nhiệm vụ. Nhân viên bưu chính vẫn đưa thư; báo vẫn ra mỗi ngày; dịch vụ
điện thoại và điện báo vẫn tiếp tục. Rác rến được thu gom. Một số rạp chiếu
phim, nhà hát và thậm chí một phần sở thú bị tàn phá được mở cửa. Dàn nhạc giao
hưởng Berlin
đang dần kết thúc mùa biểu diễn.
Các cửa hàng bách hóa khuyến mãi rầm rộ.
Các tiệm bánh mì và tiệm ăn mở cửa mỗi sáng, và các tiệm giặt ủi, giặt khô, các
salon làm đẹp cực đắt hàng. Xe điện ngầm và tàu lửa trên không vẫn chạy; một số
nhà hàng và quán bar thời thượng không bị phá hủy thu hút lượng lớn khách đến.
Và trên khắp mọi nẻo đường, tiếng rao lanh lảnh của những người bán hoa dạo nổi
tiếng ở Berlin
vẫn vang vọng như trong thời bình.
Có lẽ đáng chú ý nhất là hơn 65% số nhà
máy lớn của Berlin
vẫn hoạt động bằng một cách nào đó. Gần 600.000 người có việc làm – nhưng giờ
để đến được nhà máy là cả một vấn đề. Thường phải mất hàng giờ. Giao thông bị
đình trệ, xe cộ chết máy, bị chậm và phải đi đường vòng. Hậu quả là người dân Berlin phải dậy sớm. Mọi
người đều muốn đi làm đúng giờ bởi vì người Mỹ, vốn dậy sớm, thường “làm việc”
với thành phố vào khoảng 9 giờ sáng.
Vào sáng hôm nay, một ngày sáng sủa,
trong 20 quận đầy ngổn ngang của thành phố, người dân Berlin tiến về phía trước như người tiền sử
trong thời đồ đá. Họ túa ra từ đường hầm xe điện, từ những hầm trú ẩn dưới các
tòa nhà công cộng, từ những căn hầm nằm dưới ngôi nhà thảm hại của mình. Dù họ
hi vọng hay sợ điều gì, dù lòng trung thành hay niềm tin chính trị của họ nằm ở
đâu, người dân Berlin
đều có một điểm chung: họ là những người đã sống sót thêm một đêm nữa, để sống
thêm một ngày khác.
Có thể nói điều tương tự cũng đúng với đất
nước này. Trong năm thứ sáu của WWII, nước Đức của Hitler đang liều mạng đánh
để sống sót. Đế chế Đức đã kéo dài một thiên niên kỷ đang bị xâm lăng từ cả hai
hướng đông và tây. Liên quân Anh-Mỹ đang càn quét sông Rhine vĩ đại, đã vượt
qua phòng tuyến ở Remagen, và đang tiến về Berlin . Họ chỉ còn cách 300 dặm về phía tây.
Bờ đông sông Oder còn cấp bách hơn, và rõ ràng
là đáng sợ hơn, mối đe dọa đã thành hình. Quân Nga đứng đó, cách không đầy 50
dặm.
Vào thứ tư ngày 21 tháng 3 năm 1945,
ngày đầu tiên của mùa xuân. Sáng hôm đó, trên đài phát thanh toàn thành phố,
người dân Berlin
nghe bài hát mới nhất: “Đây sẽ là một mùa xuân vô tận.”
.....................................
- (1).Carthage là một đô thị cổ, thuộc
Tuynisia ngày nay, từng phát triển rất huy hoàng, mở ra một nền văn minh Punic.
Sau nhiều lần đem quân xâm lược các nước thù địch là Syracuse và La Mã. Carthage đã bị quân La Mã san bằng vào năm
146 trước Công nguyên. Sau đó người La Mã đã tái thiết lại thành phố (ND)
2.
Về các
mối nguy hiểm đang đe dọa mình, mỗi người dân Berlin phản ứng theo một cách riêng. Một số
ngoan cố xem nhẹ hiểm họa, hi vọng rồi nó sẽ biến mất. Một số chờ đợi nó. Những
người khác phản ứng trong sợ hãi hoặc giận dữ - và một số, tuyệt vọng khi đã bị
dồn vào chân tường, lại dũng cảm ngẩng cao đầu đối mặt với số phận.
Ở tây nam quận Zehlendorf, người giao
sữa Richard Poganowskathwsc thức dậy lúc bình minh như thường lệ. Trong mấy năm
qua, lịch làm việc hàng ngày của ông có vẻ khá đơn điệu. Giờ đây ông lại thấy
biết ơn vì điều đó. Ông làm việc cho nông trại Domane Dahlem, đã có 300 năm
hoạt động, nằm ở vùng ngoại ô Dahlem của quận Zehlendorf, cách trung tâm thủ đô
có mấy dặm. Nếu là ở các thành phố khác, nơi sản xuất sữa nằm ở chỗ này sẽ bị
xem là kỳ quặc, nhưng ở Berlin
thì không.
Một phần năm diện tích thành phố là các
công viên và rừng cây, cùng với các hồ nước, kênh đào và suối. Dù vậy,
Poganowska và các nhân công khác của nông trại Domane vẫn ước gì nông trại nằm
ở chỗ nào khác, cách thành phố thật xa, tránh khỏi nguy hiểm và những trận đánh
bom liên tục.
Hôm qua, Poganowska cùng vợ ông, Lisbeth
và ba đứa con lại tiếp tục qua đêm trong hầm của tòa nhà chính trên đường
Konigin-Luise Strasse. Ngủ là một chuyện không tưởng, vì tiếng pháo cao xạ dồn
dập và tiếng bom nổ. Như mọi người dân Berlin
khác, người giao sữa 39 tuổi cao lớn cảm thấy hết sức mệt mỏi trong mấy ngày
này.
Ông không biết đêm qua thả bom ở đâu,
nhưng ông biết không có quả nào rơi gần mấy chuồng bò lớn của nông trại Domane.
Đám bò sữa quý giá vẫn an toàn. có vẻ như chẳng có gì có thể làm 200 con bò đó
phải bận tâm. Giữa tiếng bom nổ và tiếng pháo cao xạ ầm vang, chúng vẫn kiên
nhẫn đứng đó, yên lặng nhai lại, và diệu kỳ thay vẫn tiếp tục cho sữa.
Poganowska luôn ngạc nhiên khi thấy thế.
Rất buồn ngủ, ông chất sữa lên chiếc xe
chở sữa màu nâu và lên chiếc rơ mooc, buộc hai con ngựa vào xe, con Lisa và con
Hans màu lông cáo, còn chú chó pomeran Poldi lông xám thì ngồi chễm chệ bên
cạnh ông, chuẩn bị lên đường. Xe chạy lộc cộc trên mặt sân rải sỏi, rồi ông rẽ
phải vào đường Pacelli Allee và đi theo hướng bắc, về phía Schmargendorf. Lúc
đó là sáu giờ sáng. Thường thì phải chín giờ tối ông mới xong việc.
Mệt mỏi, thèm được ngủ, Poganowska vẫn
không đánh mất tính thô lỗ hài hước của mình. Ông đã trở thành một hình mẫu đạo
đức cho 1.200 khách hàng của mình. Tuyến đương giao sữa của ông nằm ở rìa của
ba quận chính: Zehlendorf, Schöneberg và Wilmersdorf. Cả ba đều bị dội bom nặng
nề; Schöneberg và Wilmersdorf, nằm gần trung tâm thành phố nhất, gần như bị xóa
sổ. Chỉ riêng quận Wilmersdorf đã có hơn 36.000 ngôi nhà bị phá hủy, và gần một
nửa trong số 340.000 người dân trong hai quận này trở thành vô gia cư. Trong
hoàn cảnh đó, một gương mặt tươi cười thật hiếm thấy và đáng được chào mừng.
Dù còn sớm, Poganowska vẫn thấy có người
chờ ông ở mấy ngã tư. Những này này, mọi người phải xếp hàng khắp nơi - ở tiệm
thịt, tiệm bánh mì, thậm chí là để lấy nước khi đường ống chính bị vỡ. Dù khách
đang xếp hàng đợi, Poganowska vẫn rung một hồi chuông lớn, thông báo là ông đã
tới. Ông bắt đầu làm thế từ hồi đầu năm, khi các cuộc công kích ban ngày tăng
lên, làm ông không thể giao sửa đến từng nhà được nữa. Đối với các khách hàng
của ông, tiếng chuông đã trở thành một biểu tượng, cũng giống như bản thân
Poganowska.
Sáng nay cũng không khác mấy. Poganowska
chào khách và bắt đầu phát phần bơ sữa của họ. Ông đã quen mặt vài người trong
số họ suốt gần chục năm nay, và họ biết ông có thể kiếm thêm cho họ một chút.
Bằng cách tráo mấy tấm thẻ khẩu phần, Poganowska có thể kiếm thêm được chút sữa
hoặc kem cho những dịp đặc biệt như lễ rửa tội hay đám cưới. Rõ ràng, như thế
là bất hợp pháp và liều lĩnh – nhưng mọi người dân Berlin đều phải liều trong những ngày này.
Càng ngày, các khách hàng của Poganowska
càng mệt mỏi, căng thẳng và lo lắng hơn. Chẳng mấy người nói chuyện về chiến
tranh nữa. Chẳng ai biết chuyện gì đang diễn ra, và cũng chẳng ai có thể làm
được gì trong chuyện này cả. Bên cạnh đó, đã có đủ mấy chuyện tầm xàm để nói.
Poganowska không khuyến khích thảo luận tin tức. Bằng cách chìm trong công việc
kéo dài 15 tiếng một ngày này và từ chối nghĩ về chiến tranh, ông cũng như hàng
nghìn người dân Berlin khác, đã tự miễn dịch với nó.
Giờ mỗi ngày Poganowska tìm kiếm những
dấu hiệu chắc chắn giúp ông khỏi mất lòng tin. Ít nhất mấy con đường vẫn còn
mở. không có rào chắn hay xe tăng mai phục trên các con đường chính, không có
mấy mảnh pháo hay xe tăng bị chôn vùi, không có lính đóng ở các điểm trọng yếu.
Không có gì cho thấy chính quyền e ngại quân Nga tấn công hay Berlin đang bị bao vây cả.
Có một dấu hiệu nhỏ nhưng đáng chú ý
khác. Mỗi sáng khi Poganowska đánh xe qua phường Friedenau, nơi có một vài vị
khách nổi trội của ông sinh sống, ông liếc nhìn căn nhà của một đảng viên Nazi
nổi tiếng, một quan chức có cỡ trong sở bưu điện Berlin. Qua các ô cửa sổ phòng
khách, ông có thể thấy bức chân dung cỡ lớn lồng trong bộ khung thật to. Bức
tranh Adolf Hitler lòe loẹt, toát lên vẻ kiêu căng hết sức, vẫn còn ở đó.
Poganowska biết rõ kiểu cách của mấy vị quan chức của nền Đệ tam Quốc xã; nếu
tình hình thật sự nghiêm trọng, chỗ thờ phụng ngài Quốc trưởng sẽ biến mất
ngay.
Ông khẽ giục mấy con ngựa và tiếp tục
đi. Mặc cho mọi thứ ông thấy được, chẳng có lý do gì phải lo sợ quá mức.
Không nơi nào trong thành phố có thể
hoàn toàn thoát khỏi mấy trận đánh bom, trừ Spandau, quận lớn thứ hai Berlin và
nằm ở cực tây, đã thoát được loại hình tấn công mà mọi người sợ nhất: đánh bom
rải thảm. Hết đêm này qua đêm khác, dân trong quận đều chờ vụ đánh bom xảy ra.
Họ rất ngạc nhiên là chẳng có đánh bom gì cả, trong khi Spandau là trung tâm
công nghiệp quân sự to lớn của Berlin .
Ngược lại với các quận trung tâm thành
phố phải chịu 50 đến 70% tổn thất, Spandau chỉ bị hư hại 10% nhà cửa. Dù điều
này có nghĩa là hơn 1000 căn nhà bị phả hủy hoặc không thể ở được nữa, xét theo
tiêu chuẩn của những người dân Berlin
đang phải chịu công kích dữ dội thì đó chỉ là một vết cắn ngưa ngứa mà thôi.
Trong những vùng hoang tàn đen kịt vì bom ở các quận trung tâm lưu hành một câu
bình luận độc địa: “Die Spandauer Zwerge kommen zuletzt in die Särge” – Bọn lùn
Span-dauites sẽ là mấy thằng cuối cùng bước vào quan tài.
Ở rìa phía tây Spandau, trong phường
Staaken yên tĩnh như ở thôn quê, Robert và Ingeborg Kolb cảm thấy vô cùng biết
ơn khi được sống trong một vùng nước lặng. Mấy quả bom duy nhất rơi gần chỗ này
là mấy quả nhắm trượt sân bay gần đó – và thiệt hại cũng khá nhỏ. Căn nhà vữa
hai tầng màu nâu - cam của họ, với hành lang bằng kính cùng thảm cỏ và khu vườn
bao quanh, vẫn không hư hại gì. Cuộc sống tiếp diễn gần như bình thường – ngoại
trừ một điều là Robert, vị giám đốc kỹ thuật 54 tuổi của một nhà máy in nhận
thấy rằng việc đi tới chỗ làm ở trung tâm thành phố trở nên khó khăn hơn hẳn.
Việc này có nghĩa là phải đi qua loạt đột kích ban ngày. Điều đó là mối lo
thường trực của bà Ingeborg.
Tối nay như thường lệ, gia đình nhà Kolb
định nghe bản tin tiếng Đức của đài BBC, dù việc này đã bị cấm từ lâu.
Họ
đã theo dõi bước tiến của quân Đồng minh trên từng cây số từ cả phía đông và
phía tây. Bây giờ, Hồng quân chỉ cần lái một chuyến xe buýt là tới được vùng
ngoại ô phía đông thành phố. Thế nhưng, do bị bầu không khí thanh bình xung
quanh ru ngủ, họ thấy mối đe dọa sắp xảy ra với thành phố là chuyện không
tưởng, chiến tranh có vẻ quá xa xôi và không thực. Ông Robert Kolb tin rằng họ
vẫn an toàn, còn bà Ingeborg thì tin ông luôn luôn đúng. Nói cho cùng, ông là
một cựu chiến binh từ WWI. Ông Robert bảo đảm với bà, “Chiến tranh sẽ chỉ đi
lướt qua chúng ta mà thôi.”
Khá chắc chắn là dù có chuyện gì xảy ra họ
cũng sẽ không bị ảnh hưởng gì, gia đình nhà Kolb bình tĩnh chờ đợi tương lai.
Mùa xuân đã đến rồi, ông Robert đang phải quyết định sẽ mắc cái võng chỗ nào
trong vườn. Bà Ingeborg có nhiều công việc nhà phải làm: bà định trồng rau
bina, mùi tây, xà lách và khoai tây đầu mùa. Có một vấn đề lớn: bà nên trồng
khoai tây đầu mùa vào đầu tháng 4 hay chờ qua tháng 5, khi thời tiết mùa xuân
ổn định hơn?
* * * *
* * * * *
Ở trụ sở đặt trong một ngôi nhà vữa ba
tầng màu xám nằm ngoài ngoại ô Landsberg, cách sông Oder
25 dặm, Nguyên soái quân Liên Xô Georgi K. Zhukov ngồi bên bàn làm việc, cân
nhắc một số kế hoạch của mình.
Trên tường, một tấm bản đồ Berlin cỡ lớn vẽ chi
tiết các hướng tấn công dự tính của Zhukov để đánh chiếm thành phố. Trên bàn
làm việc đặt ba chiếc điện thoại dã chiến. Một chiếc dùng cho mục đích thông
thường, một chiếc khác kết nối với người đồng nghiệp của ông: các Nguyên soái
Konstantin Rokossovskii và Ivan Stepanovich Koniev, các vị tư lệnh của các đoàn
quân lớn ở sườn phía bắc và phía nam quân của ông. Chiếc thứ ba nối trực tiếp
tới Moscow và
Tư lệnh Tối cao, Josef Stalin. Vị tư lệnh 49 tuổi có bộ ngực vạm vỡ của Mặt
trận Belorussia Số một nói chuyện với Stalin hàng đêm, vào lúc 11 giờ, báo cáo
lại tình hình tiến quân trong ngày.
Vào lúc này, Zhukov đang băn khoăn không
biết khi nào Stalin sẽ ra lệnh chiếm Berlin .
Ông hi vọng mình vẫn còn thời gian. Có lúc Zhukov nghĩ mình có thể chiếm được
thành phố ngay lập tức, nhưng ông chưa đủ sẵn sàng. Ông đã lập kế hoạch sẽ tấn
công vào khoảng cuối tháng 4, dù chưa chắc chắn lắm. Nếu may mắn, ông nghĩ mình
có thể tới được Berlin
và giảm thiểu mọi sự chống cự trong vòng 10 đến 12 ngày. Người Đức sẽ chiến đấu
chống lại ông trên từng tấc đất – ông nghĩ thế. Có lẽ bọn chúng sẽ chiến đấu dữ
dội nhất ở phía tây thành phố. Ở đó có tuyến đường thoát hiểm duy nhất của lực
lượng phòng vệ quân Đức, theo như ông thấy. Nhưng ông định tấn công chúng từ cả
hai phía khi chúng cố thoát ra. Đến tuần đầu tiên của tháng 5, ông tính sẽ tàn
sát hoàn toàn quận Spandau .
Trên căn hộ ở tầng hai nằm trong quận
Wilmersdorf của mình, Carl Johann Wiberg mở ô cửa chớp kiểu Pháp trong phòng
khách, bước ra ngoài cái ban công nhỏ và liếc nhìn trời. Đứng bên cạnh ông là
hai người bạn đồng hành quen thuộc: chú Otto và cô Effie, hai chú chó Dachshund
màu nâu sậm đi lạch bạch. Chúng nhìn ông đầy vẻ trông đợi, chờ ông đưa đi dạo
buổi sáng.
Những ngày này ông Wiberg chẳng làm gì
khác ngoài đi dạo. Người dân trong khu rất thích vị doanh nhân 49 tuổi người
Thụy Điển này. Họ coi ông trước hết là một “người Berlin ”, rồi mới tới là người Thụy Điển: ông
đã không ròi khỏi thành phố như nhiều người ngoại quốc khác khi những trận đánh
bom bắt đầu. Hơn nữa dù ông Wiberg chưa bao giờ than vãn về các rắc rối của
mình, mấy người hàng xóm của ông biết ông đã gần như trắng tay. Vợ ông mất năm
1939. Các nhà máy keo dán của ông bị đánh bom phải ngừng hoạt động. Sau 30 năm
làm một nhà doanh nghiệp nhỏ ở Berlin ,
ông chẳng còn lại gì ngoài hai con chó và căn hộ. Theo ý của mấy người hàng
xóm, ông là một người tốt hơn cả một người Đức chân chính.
Ông Wiberg nhìn xuống cậu Otto và cô
Effie. Ông nói, “Đến lúc ra ngoài rồi.” Ông đóng cửa sổ và bước qua phòng khách
vào phòng nghỉ nhỏ bên cạnh. Ông mặc chiếc áo bành tô được may đo đẹp đẽ rồi
đội chiếc mũ mềm được đánh bóng cẩn thận. Ông mở ngăn kéo của chiếc bàn gỗ gụ
bóng loáng, lấy ra một đôi găng tay da lộn, rồi ngây người một lúc, đứng ngắm
một bức tranh in thạch bản lồng khung đặt trong ngăn kéo.
Bức tranh in có màu sắc rực rỡ, hình một
kỵ sĩ mặc giáp kín mít, cưỡi một con ngựa chiến màu trắng đang lồng lên. Cây
giáo của kỵ sĩ gắn một dải cờ hiệu phấp phới. Qua tấm che mặt ở phần mũ áo
giáp, ánh mắt kỵ sĩ thật dữ dội. Một lọn tóc rủ trước trán; người kỵ sĩ có đôi
mắt sắc bén và hàng ria nhỏ màu đen. Trên lá cờ hiệu phấp phới là dòng chữ “Der
Bannerträger”- Nhà lãnh đạo. Ông Wiberg chầm chậm đóng ngăn kéo. Ông giấu tấm
tranh in vì những bài đả kích chế nhạo Hitler bị cấm trên toàn nước Đức. Nhưng
ông Wiberg không muốn bỏ nó đi; bức biếm họa đó quá buồn cười, làm ông không nỡ
vứt.
Nắm xích của bọn chó, ông khóa cửa trước
cẩn thận, rồi đi xuống hai dãy cầu thang và bước ra đường phố ngổn ngang gạch
vụn. Ông ngã mũ chào mấy người hàng xóm sống gần căn hộ, và với mấy con chó dẫn
đầu, ông đi dọc theo con đường, bước cẩn thận tranh mấy ổ gà. Ông không biết
Der Bannerträger đang ở đâu khi kết cục đã cận kề. Ở Munich chăng? Ở ngôi biệt thự Eagle’s Nest
của ông nằm trên dãy Berchtesgaden ?
Hay ở đây, ngay tại Berlin
này? Có vẻ chẳng ai biết – dù điều đó cũng chả có gì là lạ. Nơi ở của Hitler
luôn là một bí mật lớn.
Sáng nay, ông Wiberg quyết định ghé qua
quán bar ưa thích của mình, Harry’s Rosse ở số bảy đường Nestorstrasse – một
trong số ít những quán còn mở cửa trong quận. Khách hàng của quán khá đa dạng:
những nhân vật quan trọng của đảng Nazi, những viên chức người Đức, và một số
ít doanh nhân. Ở đó luôn có những cuộc nói chuyện hay ho và người ta có thể
hóng hớt được tin tức mới nhất – đêm qua bom nổ ở đâu, nhà máy nào bị trúng
bom, Berlin
đang chống chịu như thế nào. Ông Wiberg thích gặp mấy ông bạn già trong bầu
không khí vui vẻ và ông cũng quan tâm đến mọi khía cạnh của cuộc chiến, nhất là
tác động của những vụ đánh bom và đạo đức của người Đức.
Ông đặc biệt muốn biết Hitler đang ở đâu.
Khi băng qua đường, ông lại ngả mũ chào một người quen cũ. Mặc dù các câu hỏi
đang dày đặc trong đầu ông, Wiberg biết một số chuyện có thể làm mấy người hàng
xóm của ông kinh ngạc. Quý ngài Thụy Điển còn đậm chất Đức hơn cả dân Đức này
còn là một thành viên của Phòng Chiến lược tối mật của Mỹ (Office of Strategic
Services). Ông là một điệp viên của quân Đồng minh.
Trong căn hộ tầng trệt ở Kreuzberg, nhà
thần học Arthur Leckscheidt, linh mục dòng Phúc âm của nhà thờ Melanchthon,
đang chìm trong đau khổ và tuyệt vọng. Nhà thờ Gothic có tháp đôi của ông đã bị
phá hủy và giáo dân của ông tiêu tan cả. Qua cửa sổ, ông có thể thấy phần còn
lại của nhà thờ. Mấy tuần trước nó bị trúng bom trực tiếp, và chỉ mấy phút sau
đó, mấy quả bom lửa bốc cháy rừng rực. Mỗi lần nhìn nhà thờ ông lại thấy đau
lòng không dứt. Vào lúc cao điểm của cuộc đột kích, mặc kệ an nguy của bản
thân, Linh mục Leckscheidt chạy ào vào nhà thờ đang bốc cháy. Mặt sau nhà thờ
và chiếc đàn organ lộng lẫy của nó vẫn chưa bị suy suyển. Chạy thật nhanh qua
qua lới đi hẹp đến chỗ đặt cây đàn, ông chỉ có một ý nghĩ duy nhất: vĩnh biệt
cây đàn organ thân yêu, vĩnh biệt nhà thờ của ông. Hát khe khẽ cho bản thân
nghe với đôi mắt đầy lệ, nhà thần học dạo khúc đàn vĩnh biệt của mình. Khi bom
nổ trên khắp Kreuzberg, bệnh nhân trong bệnh viện thành phố gần đó và người trú
ẩn trong các căn hầm sát bên đã nghe thấy cây đàn organ Melanchthon ngân lên
một thành thánh ca cổ, “From Deepest Need I Cry to Thee.”
Bây giờ, ông đang nói tạm biệt theo kiểu
khác. Trên bàn làm việc của ông là bức thảo một lá thư luân chuyển mà ông sẽ gửi
cho nhiều giáo dân đã rời thành phố hoặc đang ở trong quân đội. Ông viết, “Dù
chiến trận ở phía đông và phía tây khiến chúng ta căng thẳng, thủ đô của nước
Đức vẫn luôn là trung tâm không kích… các con thân mến, các con có thể tưởng
tượng xem, thần chết sắp kiếm được một vụ mùa bội thu rồi. Quan tài đã trở nên
khan hiếm. Một phụ nữ nói với ta là bà ấy đã phải đổi cho người ta 20 pound mật ong để kiếm
một cái mà chôn người chồng đã mất.”
Ông Leckscheidt cũng giận dữ nữa. Ông
viết “Không phải lúc nào các mục sư chúng ta cũng được gọi đến để chôn cất cho
các nạn nhân bị không kích. Thông thường, Đảng sẽ chịu trách nhiệm lo việc tang
ma mà không có lấy một mục sư… không có những lời của Chúa.” Và hết lần này đến
lần khác trong thư, ông nhắc đến tình trạng bị tàn phá của thành phố. “Các con
đã không thể tưởng tượng nổi Berlin
bây giờ trông ra làm sao đâu. Những tòa nhà đẹp đẽ nhất đã sụp đổ thành đống
gạch vụn… Chúng ta thường bị cắt gas, điện hoặc nước. Chúa giúp chúng ta tránh
khỏi nạn đói! Hàng hóa chợ đen có giá trên trời.” Và ông kết lá thư với sự bi
quan cay đắng: “Đây có lẽ là lá thư cuối cùng trong một thời gian dài sắp tới.
Có lẽ chúng ta sẽ sớm bị cắt mọi hình thức liên lạc. Liệu chúng ta có gặp lại
nhau được chăng? Tất cả đều tùy thuộc trong tay Chúa.”
Đi lòng vòng có chủ đích trên các con
đường ngổn ngang gạch đá ở Dahlem, một giáo sĩ khác, Cha Bernhard Happich,
quyết định sẽ tự xử lý công chuyện. Ông đã lo lắng về một vấn đề nhạy cảm suốt
nhiều tuần nay. Hết đêm này qua đêm khác, ông đã cầu nguyện được chỉ dẫn và suy
ngẫm về con đường mà ông phải chọn. Bây giờ ông đã có quyết định.
Người ta đang có rất cần sự phục vụ của
các giáo sĩ, điều này đặc biệt đúng với Cha Happich. Vị tu sĩ 55 tuổi, người có
tấm chứng minh thư mang con dấu “Tu sĩ dòng Tên: không phù hợp phục vụ cho quân
sự” (những người Do Thái và những kẻ gây rối nguy hiểm khác cũng có một con dấu
của Đảng Nazi giống như vậy), còn là một dược sĩ có trình độ cao. Một trong các
chức trách của ông là Cha Giám Mục của Haus Dahlem, một trại trẻ mồ côi, bệnh
viện phụ sản kiêm nhà nuôi dưỡng trẻ bị bỏ rơi do các Nữ Tu Dòng Thánh Tâm điều
hành. Chính Mẹ Bề trên Cunegundes và các giáo dân của bà đã mang rắc rối này
đến cho ông, và khiến ông phải đưa ra quyết định.
Cha Happich không ảo tưởng về đảng Nazi
hay về cái kết chắc chắn của chiến tranh. Từ lâu ông đã quyết định rằng Hitler
và mệnh lệnh mới tàn bạo của ông ta chính là tai họa mà vận mệnh đem lại. Giờ
đây, cuộc khủng hoảng đang áp sát cực nhanh. Chuyện gì sẽ xảy đến với Dahlem và
những vị xơ tốt bụng ở đó, vốn chưa trải việc đời?
Với gương mặt nghiêm trọng, Cha Happich
sải bước về nhà. Tòa nhà chỉ bị hư hại bề mặt và các xơ tin rằng những lời cầu
nguyện của mình đã được Chúa nghe thấy. Cha Happich không phải là bất đồng ý
kiến với họ, nhưng là một người thực tế, ông nghĩ rằng sự may mắn và xui xẻo
của tay xạ kích mới là nguyên nhân.
Khi đi qua tiền sảnh, ông nhìn lên bức
tượng lớn, mặc trang phục màu xanh và vàng kim, tay giơ cao thanh kiếm – Thánh
Michael, “Người hiệp sĩ của Chúa chiến đấu chống lại mọi quỷ dữ.” Các xơ rất có
niềm tin vào Thánh Michael, và Cha Happich rất mừng là mình đã có quyết định.
Như tất cả mọi người, ông đã nghe từ những người dân chạy nạn đã chạy trốn
trước khi quân Nga tiến đến, về nỗi kinh hoàng đã xảy ra ở miền đông nước Đức.
Ông chắc chắn là nhiều chuyện có lẽ đã được thổi phồng, nhưng có một số chuyện
ông biết là thật. Cha Happich đã quyết định cần cảnh báo cho các xơ. Bây giờ
ông cần chọn thời điểm thích hợp để nói cho họ, và trên hết, ông cần tìm lời lẽ
phù hợp. Cha Happich rất lo lắng về việc đó. Làm sao bạn có thể nói với sáu
mươi bà xơ cùng các phụ nữ không theo Giáo hội rằng họ đang phải chịu nguy cơ
bị cưỡng hiếp?
3.
Nỗi sợ bị tấn công tình dục treo lơ lửng
trên thành phố như một tấm vải phủ quan tài, vì sau gần sáu năm chiến tranh, Berlin giờ hầu như chỉ
toàn phụ nữ.
Thời đầu cuộc chiến, năm 1939, thủ đô
có 4.321.000 cư dân. Nhưng những thương vong khổng lồ trong chiến tranh, lệnh
tổng động viên cả đàn ông và phụ nữ cùng với cuộc tản cư tình nguyện của một
triệu dân đến vùng nông thôn an toàn hơn vào năm 1943 – 1944 đã làm dân số giảm
hơn một phần ba. Bây giờ, những người đàn ông duy nhất còn lại với số lượng
đáng kể là trẻ em dưới 18 tuổi và người già trên 60. Nhóm nằm trong độ tuổi từ
18-30 tổng cộng không tới 100.000 người và phần lớn trong số đó được miễn quân
dịch hoặc bị thương.
Vào tháng 1/1945, dân số của thành phố
được ước tính vào khoảng 2.900.000 người, nhưng giờ đây, vào giữa tháng ba, con
số đó chắc chắc là quá cao so với thực tế. Sau 85 cuộc công kích trong không
đầy 11 tuần và với hiểm họa bị bao vây đang phủ lên thành phố, hàng nghìn người
đã ra đi. Chính quyền quân sự ước tính rằng dân số của Berlin giờ còn khoảng 2.700.000 người, trong
đó hơn 2.000.000 người là nữ - và đó chỉ là phỏng đoán.
Sở dĩ khó ước tính dân số thực là do
làn sóng di dân khổng lồ từ những tỉnh miền đông bị Liên Xô chiếm đóng. Một số
người ước tính số dân di cư đã lên đến 500.000 người. Buộc phải bỏ xứ ra đi,
mang theo của cải trên lưng hoặc trên những chiếc xe ngựa hoặc xe đẩy, thường
do gia súc kéo, những người chạy nạn làm tắc đường dẫn tới Berlin trong nhiều tháng liền.
Phần lớn bọn họ không ở lại thành phố,
mà tiếp tục đi về phía Tây. Nhưng theo gót chân họ, một kho chuyện kinh dị được
kể lại; những câu chuyện mà họ đã trải qua lan rộng khắp Berlin như bệnh dịch, làm nhiều cư dân hoảng
sợ.
Những người chạy nạn kể về bọn xâm lăng
tham lam, bạo lực và tràn đầy thù hận. Nhiều người tản cư từ những nơi xa như
Ba Lan, hoặc từ những vùng bị chiếm đóng ở Đông Phổ, Pomerania và Silesia, xác
nhận đầy cay đắng về kẻ thù không biết tha chết là gì.
Thực sự thì, dân chạy nạn khẳng định, cơ
quan tuyên truyền của Nga đang giục Hồng quân không được tha một ai. Họ nói đến
một bản tuyên ngôn, được cho là do chính nhà tuyên truyền hàng đầu nước Nga,
Ilya Ehrenburg đã viết, đang được truyền đến Hồng quân qua đài và qua truyền
đơn.
Bản tuyên ngôn viết, “Giết! Giết! Bọn
Đức toàn là quỷ dữ!... Theo lời dạy của đồng chí Stalin. Nghiền nát bọn quái
vật phát xít tại hang ổ của chúng một lần và mãi mãi! Dùng sức mạnh và đạp đổ
lòng tự hào chủng tộc của bọn đàn bà Đức đó. Cứ xem chúng là chiến lợi phẩm hợp
pháp của
các đồng chí. Giết! Hãy giết chúng trên đường hành quân! Hỡi những người lính
hào hiệp của Hồng quân.” (*)
(*) Lời dẫn của tác giả:
Tôi chưa được xem truyền đơn của
Ehrenburg. Nhưng nhiều người tôi phỏng vấn thì đã từng xem qua. Hơn thế nữa, nó
được nhắc tới nhiều lần trong các tài liệu chính thức của Đức, các nhật ký
chiến tranh và trong rất nhiều sự kiện lịch sử, phiên bản hoàn chỉnh nhất xuất
hiện trong cuốn Hồi ký của đô đốc Doenitz, trang 179. Tôi không hề nghi ngờ
rằng truyền đơn đó có tồn tại. Nhưng tôi thắc mắc không biết liệu phiên bản
trên, được dịch từ tiếng Nga sang tiếng Đức, liệu có bị sai lệch cố ý hay
không.
Ehrenburg có viết những truyền đơn khác
cũng kinh khủng như thế, như bất kỳ ai xem qua những bài viết của ông có thể
thấy được, đặc biệt là những bài được Liên Xô chính thức xuất bản bằng tiếng
Anh trong cuộc chiến, trên tờ Tin tức Chiến tranh Soviet, giai đoạn 1941-1945,
tập 1-8. Chủ đề “GIết bọn Đức” của ông được lặp lại hết lần này tới lần khác –
và rõ ràng là có sự chấp thuận hoàn toàn của Stalin. Vào ngày 14/4/1945, trong
một bản in chưa từng có tiền lệ của tờ báo quân sự Soviet Sao Đỏ, ông chính
thức bị bộ trưởng bộ tuyên truyền, Alexandrov, quở trách, ông viết: “Đồng chí
Ehrenburg đang phóng đại…chúng ta không phải đang chiến đấu chống lại nhân dân Đức, chỉ chống lại bọn
phát xít trên thế giới.” Lời quở mắng đó sẽ là thảm họa đối với các nhà văn
Soviet khác, nhưng không phải với Ehrenburg. Ông vẫn tiếp tục điệp khúc tuyên
truyền “Giết bọn Đức” như thể chưa có gì xảy ra – và Stalin nhắm mắt cho qua.
Trong tập 5 của cuốn hồi ký của mình, Nhân dân, Năm tháng và Cuộc đời, xuất bản
tại Moscow năm 1963, Ehrenburg đã quên đi những gì mình đã viết trong chiến
tranh. Ông viết ở trang 126: “Tôi đã nhấn mạnh trong rất nhiều bài viết rằng
chúng ta không được phép, mà thực sự thì chúng ta không thể, săn đuổi người dân
– rằng chúng ta là nhân dân Soviet, chứ không phải bọn phát xít.” Nhưng phải
nói thế này: dù Ehrenburg đã viết gì, nó cũng không thể nào tệ hơn những gì do
bộ trưởng bộ tuyên truyền của Nazi, Goebbels phát hành – một sự thật mà nhiều
người Đức cũng đã thoải mái quên đi nốt.
Dân chạy nạn kể lại rằng những đoàn quân
đang tiến tới từ tiền tuyến rất kỷ luật và biết điều, nhưng những đoàn quân
theo sau lại là một đám hèn hạ vô tổ chức. Bọn lính Hồng quân say xỉn điên loạn
này giết chóc, cướp bóc và hãm hiếp. Họ khẳng định chắc nịch rẳng các vị tư
lệnh Nga dường như bỏ qua hành vi của thuộc cấp. Ít nhất thì họ cũng chẳng làm
gì để ngăn chặn lính của mình. Từ nông dân tới tầng lớp thượng lưu ai cũng kể
giống nhau, và trong cơn lũ nạn dân, khắp nơi phụ nữ đều kể lại những câu
chuyện rùng rợn về những vụ tấn công bạo lực – bị dí súng bắt cởi quần áo và
rồi bị cưỡng hiếp hết lần này tới lần khác.
Có mấy phần thật, mấy phần giả? Người
dân Berlin
không chắc lắm. Những người biết về tội ác và vô số vụ giết chóc mà quân SS của
Đức đã gây ra ở Nga – và có hàng nghìn người biết – e là những câu chuyện đó là
thật. Những người biết chuyện gì đã xảy ra với người Do Thái ở các khu trại tập
trung – một khía cạnh mới mẻ và khủng khiếp của Chủ nghĩa xã hội Quốc gia mà
thế giới tự do vẫn chưa được biết – cũng tin lời dân chạy nạn.
Những người dân Berlin am tường này tin rằng kẻ áp bức giờ
thành người bị áp bức, rằng bánh xe báo thù đã quay đủ một vòng. Nhiều người
biết quy mô tội ác mà nền Đệ tam Quốc xã đã gây ra cảm thấy chẳng còn cơ hội
nào. Các quan chức cao cấp và các thành viên cao cấp của đảng Nazi đã lặng lẽ
đưa gia đình ra khỏi Berlin
hoặc đang trong quá trình làm vậy.
Những kẻ cuồng tín vẫn ở lại, và những
thường dân Berlin ,
vốn không được chia sẻ nhiều thông tin và không biết tình hình thực tế, cũng ở
lại.
Họ không thể hoặc không định ra đi.
Erna Saenger, một bà nội trợ 65 tuổi và là mẹ của sáu đứa con, viết trong nhật
ký: “Ôi nước Đức, nước Đức, Tổ quốc của tôi. Niềm tin đem lại sự thất vọng. Tin
tưởng chân thành đồng nghĩa với ngu ngốc và mù quáng…nhưng…chúng tôi sẽ ở lại Berlin . Nếu ai cũng ra
đi như những người hàng xóm thì quân thù sẽ có được những gì chúng muốn. Không
– chúng tôi không muốn thất bại kiểu đó.”
Rất ít người Berlin có thể nói rằng mình không hay biết
gì về tình hình nguy hiểm. Gần như ai ai cũng nghe chuyện. Một cặp vợ chồng
sống ở Kreuzberg, Hugo và Edith Neumann, đã được báo tin bằng điện thoại. Mấy
người họ hàng sống trong vùng bị Nga chiếm đóng đã liều mạng cảnh báo vợ chồng
Neumann trước khi mọi liên lạc bị cắt đứt không lâu, rằng quân xâm lược đang
cưỡng hiếp, giết chóc và cướp bóc không chùn tay. Nhưng vợ chồng Neumann vẫn ở
lại. Nhà máy điện của ông Hugo vừa bị trúng bom, nhưng bỏ nó lại là chuyện
không thể nào.
Những người khác chọn cách bỏ ngoài tai
các câu chuyện, vì những lời tuyên truyền, dù do dân chạy nạn loan truyền, hay
do chính quyền khởi xướng, đều chẳng còn mấy ý nghĩa với họ nữa. Từ lúc Hitler
ra lệnh vô cớ xâm lăng nước Nga năm 1941, tất cả người dân Đức đều liên tục bị
nhồi những lời tuyên truyền đầy thù hận. Người Liên Xô bị tô vẽ thành những kẻ
man rợ chẳng giống người. Khi thế cờ thay đổi và quân Đức buộc phải rút lui
trên mọi mặt trận ở Nga, Tiến sĩ Joseph Goebbels, ngài bộ trưởng bộ tuyên
truyền bị tật ở chân càng tăng cường nỗ lực hơn nữa – đặc biệt là ở Berlin.
Trợ lý của Goebbels, Tiến sĩ Werner
Naumann, từng riêng tư thừa nhận, “Về việc thêm thắt rằng quân Nga đáng sợ ra
sao, rằng chúng sẽ gây ra những gì cho người dân Berlin, cơ quan tuyên truyền
của chúng tôi đã thành công tới mức chúng tôi đã khiến người dân Berlin chỉ còn
biết sợ hãi. Đến cuối năm 1944, Naumann cảm thấy là: “Chúng tôi đã làm quá tay
– lời tuyên truyền giờ lại thành gậy ông đập lưng ông.”
Bây giờ giọng điệu của bài tuyên truyền
đã thay đổi. Khi đế chế của Hitler đang bị xén từng mảnh một, khi Berlin bị tàn phá từng
khu nhà một, Goebbels bắt đầu đổi từ gieo rắc sợ hãi sang cam đoan; giờ mọi
người được nghe rằng chiến thắng đã cận kề. Tất cả những gì Goebbels làm được
là tạo cho người dân thành thị Berlin
một bức tranh kỳ quặc, một câu chuyện hài đáng sợ. Nó giống như một cái bĩu môi
tập thể dành cho bản thân họ, cho lãnh đạo của họ và cho cả thế giới.
Dân Berlin nhanh chóng sửa khẩu hiệu của
Goebbels, “Quốc trưởng ra lệnh, chúng ta theo sau,” thành “Quốc trưởng ra lệnh,
chúng ta gánh chịu những gì theo sau.” Khi vị bộ trưởng bộ tuyên truyền hứa hẹn
về chiến thắng cuối cùng, những kẻ bất kính trang trọng giục mọi người “Tận
hưởng chiến tranh đi, hòa bình sẽ rất khủng khiếp.”
Trong bầu không khí gần như kinh hoàng
do lời kể của dân chạy nạn tạo ra, sự thật và nguyên do bị bóp méo khi lời đồn
lan đi. Những câu chuyện về mọi loại tội ác lan truyền khắp thành phố. Người
Nga được miêu tả như dân Mông Cổ mắt xếch tàn sát phụ nữ và trẻ em trong tầm
mắt. Người ta đồn các giáo sĩ bị thiêu sống bằng súng phun lửa; các nữ tu bị
cưỡng hiếp và phải thoát y đi ngoài đường; phụ nữ phải đi theo đoàn quân và
toàn bộ đàn ông bị bắt tới Siberia làm nô lệ.
Thậm chí còn có một bản tin trên đài nói rằng quân Nga đóng đinh
ghim
lưỡi của các nạn nhân lên bàn. Những người ít bị ảnh hưởng thấy các câu chuyện
quá khó tin.
Những người khác thì biết rõ những gì
sắp xảy ra. Bác sĩ Anne Marie Durand-Wever, tốt nghiệp đại học Chicago và là một trong những bác sĩ phụ khoa
nổi tiếng nhất châu Âu, ngồi trong phòng khám tư ở Schöneberg của mình, bà biết
sự thật là gì. Vị bác sĩ 55 tuổi, nổi tiếng với quan điểm chống Nazi (bà là tác
giả nhiều cuốn sách đòi nữ quyền, bình đẳng giới và kế hoạch hóa sinh đẻ - tất
cả đều bị đảng Nazi cấm), đang giục bệnh nhân rời khỏi Berlin . Bà đã khám cho nhiều phụ nữ chạy nạn
và kết luận rằng, có một điều là những câu chuyện về tấn công tình dục đã được
nói giảm đi nhiều.
Bác sĩ Durand-Wever định ở lại Berlin , nhưng giờ bà
luôn mang theo một viên thuốc cyanua nhỏ, tác dụng nhanh bên mình dù có đi đâu.
Sau bao nhiêu năm làm bác sĩ, bà không chắc mình có thể tự tử được không. Nhưng
bà vẫn để viên thuốc trong ví – vì nếu quân Nga chiếm được Berlin bà nghĩ nữ
giới từ 8 cho tới 80 tuổi đều sẽ bị cưỡng hiếp.
Bác sĩ Margot Sauerbruch cũng đang chờ
đợi điều tồi tệ nhất. Bà làm việc cùng chồng, giáo sư Ferdinand Sauerbruch, bác
sĩ phẫu thuật xuất sắc nhất nước Đức, tại bệnh viện lớn nhất và lâu đời nhất
Berlin, bệnh viện Charité ở quận Mitte. Vì có quy mô lớn cũng như vị trí nằm
gần ga xe lửa, bệnh viện đã tiếp nhận những trường hợp thương vong nặng nhất của
dân chạy nạn. Sau khi tự khám cho các nạn nhân, bác sĩ Sauerbruch không còn ảo
tưởng gì về sự tàn bạo của Hồng quân khi chúng phát cuồng lên. Bà biết rằng
những vụ cưỡng hiếp chắc chắn không phải là lời đồn đại.
Margot Sauerbruch khiếp sợ trước con số
nạn dân định tự tử - kể cả rất đông phụ nữ vẫn chưa bị quấy rối hay xâm hại.
Kinh hoàng trước những gì tai nghe mắt thấy, nhiều người đã cắt cổ tay. Một số
thậm chí còn cố giết con mình. Không ai biết được bao nhiêu trong số họ đã
thành công kết liễu sinh mạng của mình – bác sĩ Sauerbruch chỉ gặp được những
người đã thất bại – nhưng rõ ràng là một làn sóng tự tử sẽ xảy ra ở Berlin nếu quân Nga
chiếm được thành phố.
Đa phần các bác sĩ khác cũng đồng tình
với quan điểm này. Ở Wilmersdorf, bác sĩ ngoại khoa Gunther Lamprecht viết
trong nhật ký “chủ đề chính – ngay cả giữa các bác sĩ – là cách tự tử. Các cuộc
nói chuyện kiểu này ngày càng khó chịu đựng nổi.”
Điều đó còn hơn là hội thoại đơn thuần
nữa. Kế hoạch tìm đến cái chết đã sẵn sàng thực hiện. Ở khắp các quận, các bác
sĩ bị bao vây bởi bệnh nhân và bạn bè, hỏi họ cách tự tử nhanh chóng và hỏi xin
toa thuốc độc. Khi các bác sĩ từ chối giúp, mọi người lại quay qua những người
bán thuốc. Bị kẹt trong làn sóng sợ hãi, hàng nghìn người dân Berlin quẫn trí đã quyết định sẽ chết bằng
mọi giá còn hơn nộp mạng cho Hồng quân.
Christa Meunier, 20 tuổi, nói riêng với
bạn mình là Juliane Bochnik rằng, “Ngay khi thấy đôi ủng Nga đầu tiên, mình sẽ
tự tử ngay.”
Christa đã chuẩn bị sẵn thuốc độc. Cô
bạn của Juliane là Rosie Hoffman và ba mẹ cô ấy cũng vậy. Gia đình Hoffman đã
chán nản đến tột cùng và chẳng hề trông đợi vào lòng nhân từ của quân Nga. Dù
lúc đó Juliane không biết rằng, gia đình Hoffman có liên quan tới Thống chế
Heinrich Himmler, người đứng đầu Gestapo và lực lượng SS, người chịu trách
nhiệm cho hàng triệu cái chết trong các trại tập trung.
Thuốc độc – nhất là cyanua – là cách tự
tử được ưa chuộng. Một loại viên nhộng có tên là viên “KCB”, đang có nhu cầu
rất lớn. Hợp chất hydrocyanic cô đặc này mạnh tới mức cái chết sẽ đến ngay
trong khảnh khắc – ngay cả mùi của nó cũng có thể gây chết người. Với tính lo
xa của người Đức, một số cơ quan chính phủ đã sản xuất một lượng lớn thuốc ở Berlin .
Các thành viên của đảng Nazi, các quan
chức cao cấp, những người đứng đầu các cơ quan nhà nước và thậm chí cả những
công chức cấp thấp hơn có thể kiếm được thuốc độc cho bản thân, gia đình và bạn
bè họ mà chẳng mấy khó khăn. Các bác sĩ, người bán thuốc, nha sĩ và nhân viên nhà
máy cũng có thể tiếp cận với các loại thuốc viên hoặc thuốc con nhộng. Một số
họ thậm chí còn làm tăng hiệu lực của thuốc. Bác sĩ Rudolf Huckel, giáo sư khoa
bệnh lý học ở đại học Berlin
và là nhà bệnh lý học về ung thư nổi tiếng nhất thành phố, đã thêm axit acetic
vào viên nhộng cyanua của mình và vợ. Ông bảo đảm với bà là khi họ cần dùng
đến, axit acetic sẽ làm chất độc phát tác nhanh hơn.
Một số người dân Berlin , không thể tìm được cyanua tác dụng
nhanh, bắt đầu tích trữ thuốc ngủ hoặc các dẫn xuất của cyanua. Diễn viên hài
Heinz Ruhmann, thường được gọi là “Danny Kaye của nước Đức”, lo sợ cho tương
lai của người vợ xinh đẹp là diễn viên Hertha Feiler và đứa con trai bé nhỏ của
hai người đến mức ông đã giấu một lọ thuốc chuột trong bình hoa, phòng khi cần.
Cựu đại sứ của Nazi tại Tây Ban Nha,
trung tướng đã về hưu Wilhelm Faupel, định độc chết mình và vợ bằng cách dùng
thuốc quá liều. Viên tướng này bị bệnh tim. Những khi lên cơn, ông dùng một
liều thuốc kích thích có chứa mao địa hoàng. Ông Faupel biết là dùng thuốc quá
liều sẽ khiến tim ngừng đập và nhanh chóng kết thúc mọi chuyện. Ông thậm chí
còn để dành thuốc đủ cho mấy người bạn.
Với những người khác, một viên đạn
nhanh gọn có vẻ là cái kết tốt nhất và dũng cảm nhất. Nhưng một số phụ nữ, đông
đến kinh ngạc, đa phần ở tuổi trung niên, lại chọn cách đẫm máu nhất – dùng dao
cạo. Trong gia đình Ketzler ở Charlottenburg, bà Gertrud, 42 tuổi, bình thường
là một phụ nữ vui vẻ, giờ luôn mang theo một lưỡi dao cạo trong ví – cũng giống
chị gái và mẹ chồng của bà. Bạn của bà Gertrud, Inge Ruhling, cũng có một lưỡi
dao cạo, và hai người phụ nữ lo lắng thảo luận cách nào để chết hiệu quả hơn –
cắt ngang cổ tay hay rạch theo chiều dọc động mạch.
Luôn luôn có một cơ hội sẽ khiến người
ta không cần thực hiện các biện pháp quyết liệt ấy. Phần lớn người dân Berlin vẫn trông chờ vào
một tia hi vọng cuối cùng. Quá khiếp sợ Hồng quân, phần đông dân cư, nhất là
phụ nữ, mãnh liệt mong rẳng liên quân Anh-Mỹ sẽ chiếm được Berlin .
*
* * * * * * * *
Đã gần trưa. Đằng sau phòng tuyến của
quân Nga, ở thành phố Bromberg, đội trưởng Sergei Ivanovich Golbov mở đôi mắt
lờ đờ nhìn quanh căn phòng khách rộng lớn xa hoa trong căn hộ nằm ở tầng ba mà
anh và hai đồng đội Hồng quân khác vừa mới “giải phóng” . Golbov và hai người
đồng đội đang vui vẻ say sưa. Hàng ngày, họ lái xe từ trụ sở ở Bromberg đến mặt
trận cách đó 90 dặm để nhận tin tức, nhưng vào lúc này mọi thứ quá yên tĩnh;
chả có gì nhiều mà báo cáo cho tới khi cuộc tấn công Berlin bắt đầu. Trong lúc
đó, sau nhiều tháng lăn lộn ngoài chiến trường, anh chàng Golbov 25 tuổi đẹp
trai đang hết sức vui vẻ.
Cầm chai rượu trong tay, anh đứng đó ngắm
nhìn đồ nội thất sang trọng. Anh chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì giống vậy. Những
bức tranh nặng nề đóng trong khung bằng vàng tô điểm các bức tường. Cửa sổ có
rèm viền sa tanh. Đồ nội thất được phu vải thêu kim tuyến đắt tiền. Sàn nhà
trải thảm Thổ Nhĩ Kỳ dày cộp, và những chùm đèn treo to đùng treo trên phòng
khách và phòng ăn ở bên cạnh. Golbov khá chắc chắn rằng căn hộ này hẳn phải
thuộc về một gã Nazi cao cấp.
Có một cánh cửa nhỏ để khép hờ ở cuối
phòng khách. Golbov đẩy cửa ra và thấy đó là phòng tắm. Một đảng viên Nazi mặc
đồng phục đầy đủ đã treo cổ bằng một sợi dây thừng móc lên tường. Golboz nhìn
lướt qua cái xác. Anh đã thấy hàng nghìn xác chết của dân Đức, nhưng cái xác
chết treo này có vẻ lố bịch. Golbov gọi đồng đội đến, nhưng họ đang vui vẻ quá
mức trong phòng ăn nên chẳng thể đáp lời. Họ đang ném mấy món đồ pha lê của Đức
và Venice lên
chùm đèn treo – và ném vào nhau.
Golbov quay trở lại phòng khách, định
ngồi xuống cái ghế sofa dài nằm ở đằng kia – nhưng giờ anh thấy nó đã có người
chiếm chỗ. Một xác chết phụ nữ, mặc bộ đầm dài kiểu Hy Lạp có tua rua quanh eo,
nằm dài trên ghế. Cô còn khá trẻ, và đã chuẩn bị cho cái chết khá cẩn thận. Tóc
cô được thắt bím và để trên vai. Đôi tay chắp trước ngực. Hớp một ngụm, Golbov
ngồi xuống một cái ghế bành và ngắm cô. Đằng sau anh, tiếng cười và tiếng thủy
tinh vỡ trong phòng ăn vẫn tiếp tục vang lên. Cô gái này có lẽ mới ngoài đôi
mươi, và Golbov đoán có thể là cô đã uống thuốc độc, đôi môi cô tái xanh.
Đằng sau chiếc sofa nơi cô nằm là một cá
bàn có để mấy khung ảnh bằng bạc – bọn trẻ đang mỉm cười cùng với một đôi vợ
chồng trẻ, có lẽ là ba mẹ chúng, và một cặp vợ chồng già. Golbov nghĩ về gia
đình mình.
Khi Leningrad
bị bao vây, ba mẹ anh, sắp chết đói tới nơi, đã cố nấu súp từ một loại dầu công
nghiệp. Nó giết chết cả hai người họ. Một người anh trai bị giết từ những ngày
đầu tiên của cuộc chiến. Người còn lại, Mikhail 34 tuổi, một thủ lĩnh dân quân,
đã bị bọn SS bắt, bị trói vào cột và đem thiêu sống. Cô gái nằm trên sofa này
đã chết khá yên bình, Golbov nghĩ. Anh nốc một ngụm lớn, bước lên sofa và túm
lấy cái xác. Anh bước tới ô cửa sổ đang đóng. Đằng sau anh, giữa tiếng cười
chói tai, chùm đèn treo trong phòng ăn rớt xuống đất đánh rầm một tiếng. Golbov
làm vỡ khá nhiều kính khi anh quăng cái xác của cô gái thẳng qua cửa sổ.
4.
Hầu như ngày nào người dân Berlin cũng
muốn đấm bọn thả bom, thường xuyên phải đau lòng khi gia đình, người thân hoặc
bạn bè đã qua đời trong các cuộc không kích hoặc hy sinh ngoài chiến trường,
giờ họ nói về người Anh và người Mỹ đầy nồng nhiệt, xem đó là “giải phóng quân”
chứ không phải bọn xâm lăng. Đó là một trạng thái đối lập kỳ lạ và suy nghĩ này
dẫn tới nhiều kết quả khiến người ta phải tò mò.
Maria Kockler, người dân quận
Charlottenburg, không muốn tin là người Anh và người Mỹ sẽ để Berlin rơi vào tay người Nga. Bà thậm chí
còn muốn hỗ trợ quân Đồng minh phương Tây. Bà nội trợ 45 tuổi có mái tóc muối
tiêu nói với bạn bè rằng bà “sẵn sàng ra ngoài và chiến đấu chống lại Hồng quân
cho tới khi ‘những người bạn’ đến được đây.”
Nhiều người Berlin
chống lại nỗi sợ bằng cách nghe đài BBC và ghi chép lại từng diễn biến của cuộc
chiến ở mặt trận phía Tây đang tan tành tới nơi – như thể đang dõi theo bước
tiến của một đoàn quân Đức thắng trận đang trên đường giải phóng Berlin .
Giữa những đợt không kích, hàng đêm cô
kế toán Margarete Schwarz ở với mấy người hàng xóm, tỉ mỉ dự tính đà tiến quân
của liên quân Anh-Mỹ qua miền tây nước Đức. Với cô, đoàn quân tiến thêm một dặm
có nghĩa là giải phóng gần thêm một bước. Liese-Lotte Ravene cũng nghĩ vậy. Cô
dành hầu hết thời gian ở lì trong căn hộ chất đầy sách của mình ở Tempelhof để
cẩn thận đánh dấu bước tiến mới nhất của quân Mỹ lên một tấm bản đồ lớn rồi
mãnh liệt mong những người bạn mau đến. Cô Ravene không muốn nghĩ tới chuyện gì
có thể xảy ra nếu quân Nga đến trước. Cô là một người tàn tật một nửa – với mấy
chiếc vòng thép đặt quanh hông và chạy dài dọc chân phải.
Hàng nghìn người chắc chắn rằng những
người bạn sẽ đến được Berlin
trước. Niềm tin của họ có vẻ hơi trẻ con – mơ hồ không rõ ràng. Cô Annemaria
Huckel, có chồng là bác sĩ, bắt đầu xé mấy lá cờ Nazi cũ để dùng làm băng cứu
thương cho cuộc chiến vĩ đại mà cô mong sẽ xảy ra vào cái ngày quân Mỹ đến.
Brigite Weber, 20 tuổi, người dân quận Charlottenburg, một cô vợ trẻ vừa kết
hôn được 3 tháng, chắc chắn rằng quân Mỹ đang đến và cô nghĩ mình biết họ định
sống ở đâu. Brigite nghe nói là người Mỹ có mức sống cao và thích những thứ đồ
tốt. Cô dám cá họ đã cẩn thận chọn quận Nikolassee giàu có.
Hầu như chả có quả bom nào rơi xuống
đó. Những người khác, dù hy vọng điều tốt đẹp nhất, nhưng vẫn chuẩn bị cho cái
tồi tệ nhất. Pia van Hoeven, bằng một cái đầu tỉnh táo, cùng với mấy người bạn
của cô là Ruby và Eberhard Borgmann đã miễn cưỡng đưa ra kết luận rằng chỉ có
phép màu mới ngăn quân Nga không tới được Berlin trước.Vì thế, họ nhảy cẫng lên
khi được Heinrich Schelle, một người bạn thân vui tính có đôi má béo phệ mời
tới ở cùng cả nhà anh khi cuộc chiến chiếm thành phố bắt đầu. Schelle quản lý
nhà hàng Gruban-Souchay, một trong những quán rượu và nhà hàng nổi tiếng nhất Berlin , nằm ở tầng trệt
bên dưới căn hộ của gia đình Borgmann. Anh đã biến một căn hầm của mình thành
một chỗ trú ẩn lộng lẫy, trang bị thảm trải sàn kiểu phương Đông, quần áo và đồ
dự trữ để cầm cự trong cuộc bao vây. Thức ăn chẳng có gì ngoài khoai tây và cá
ngừ hộp, nhưng lại có cả đống rượu của Pháp và Đức thuộc hàng ngon và hiếm nhất
trong hầm rượu bên cạnh – chưa kể rượu cognac Hennessy và hàng lốc thùng sâm banh.
Anh nói với họ, “Trong khi chúng ta chờ đợi Chúa biết chuyện gì, ít ra ta vẫn
có thể sống thoải mái.” Rồi anh thêm: “Nếu hết nước thì còn có sâm banh.
Bà Biddy Jungmittag, 41 tuổi và là mẹ
của hai đứa con gái, nghĩ rằng những gì người ta nói về chuyện người Anh và
người Mỹ sắp tới thật là “quá sức nhảm nhí” – nguyên văn lời bà nói. Sinh ra ở
Anh rồi kết hôn với một người Đức, bà biết đảng Nazi quá rõ. Chồng bà bị tình
nghi là thành viên của một nhóm kháng chiến người Đức, đã bị xử tử 5 tháng trước.
Bà nghĩ đảng Nazi sẽ chiến đấu dữ dội chống lại quân Đồng minh phương Tây cũng
như chống lại quân Nga, và chỉ cần liếc qua bản đồ là đủ thấy khả năng quân
Anh-Mỹ đến được Berlin trước thấp hơn hẳn quân Nga. Nhưng dù Hồng quân sắp đến
thì bà Biddy cũng không quá lo sợ. Họ sẽ không dám đụng tới bà. Theo lối suy
nghĩ tinh tế của người Anh, bà Biddy định cho những người Nga đầu tiên bà gặp
xem tấm hộ chiếu quốc tịch Anh cũ của mình.
Có những người thấy không cần dùng giấy
tờ để bảo vệ mình. Họ không chỉ nghĩ rằng quân Nga sẽ đến mà họ đang mong chờ
được chào mừng quân Nga. Đó sẽ là khoảnh khắc ước ao mà những nhóm nhỏ người
Đức đã hoạt động và lên kế hoạch suốt cuộc đời mình để biến giấc mơ thành hiện
thực. Bị Gestapo và hình cảnh truy lùng và tấn công liên tục, một vài phần tử
cứng cựa vẫn sống sót bằng cách nào đó. Đảng Cộng sản Đức và những người ủng hộ
đang chờ vị cứu tinh từ phương Đông đến trong tâm trạng phấn khởi.
Dù hết lòng muốn lật đổ chủ nghĩa
Hitler, những người cộng sản ở Berlin bị phân tán quá mức nên hiệu quả hoạt
động của họ - đối với quân Đồng minh phương Tây, ở mức độ nào đó – là rất nhỏ.
Tổ chức Cộng sản bí mật quả thật có tồn tại, nhưng chỉ nhận lệnh từ Moscow và hoạt động trong
mạng lưới tình báo Soviet.
Hildegard và Eddy đã sống chung từ năm
1939. Họ đã sống bí mật ở Prieros trong gần 10 tháng. Hildegard nằm trong danh
sách truy nã của Nazi, nhưng cô đánh lừa được Gestapo hết lần này đến lần khác.
Vấn đề lớn nhất của cô, cũng giống như những người cộng sản khác trong vùng, là
thực phẩm. Kiếm được tem phiếu khẩu phần cũng có nghĩa là bị lộ và bị bắt ngay
lập tức. Thật may là Eddy dù là một người ủng hộ cộng sản nhưng lại không bị
truy nã và có khẩu phần quy định hàng tuần.
Nhưng khẩu phần đạm bạc ấy còn chẳng đủ
cho một người ăn (Tờ báo chính thức của đảng Nazi, tờ Völkischer Beobachter,
đăng rằng khẩu phần một tuần của người lớn là 4,25 pound bánh mì; 2 pound thịt và xúc xích; 5 ounce mỡ; 5 ounce đường; và mỗi 3
tuần có 2,25 ounce
phô mai và nửa ounce cà phê loại hai). Thông thường, hai người phụ nữ có thể
kiếm đủ đồ ăn bằng cách mua bán thận trọng từ chợ đen,nhưng giá cả cực kỳ cắt
cổ - chỉ riêng cà phê đã có giá 100 đến 200 đô-la một pound. Hildegard luôn bận
tâm với hai ý nghĩ thường trực: Thực phẩm và Hồng quân đến giải phóng. Nhưng
chờ đợi thật khó khăn, chỉ sống sót không thôi cũng ngày càng khó hơn trong
những tháng qua – như cô ghi lại trong nhật ký một cách có hệ thống.
Ngày 13/2/1945, cô viết: “Đã đến lúc
quân Nga cần đến đây ngay… bọn chó săn vẫn chưa bắt được tôi.”
Ngày 18/2: “Không có báo cáo nào từ
Zhukov về mặt trận Berlin
kể từ ngày 7/2 và chúng tôi đang rất mong chờ họ đến. Đến đây mau lên, các đồng
chí, các bạn đến đây càng sớm thì chiến tranh càng nhanh kết thúc.”
Ngày 24/2: “Hôm nay đến Berlin . Uống cà phê
trong bình thủy; một miếng bánh mì khô. Có ba người đàn ông cứ nhìn tôi nghi
ngờ trong suốt chuyến đi. Thật dễ chịu khi có Eddy bên cạnh. Chẳng kiếm được gì
để ăn nữa. Eddy đã đi nhận thuốc lá bằng tấm tem phiếu mua được ngoài chợ đen –
được 10 điếu thuốc lá. Trong cửa hàng còn không đủ, nên cô ấy nhận được năm
điếu. Cô ấy hi vọng có thể đổi một chiếc áo đầm lụa và hai đôi tất dài lấy thứ
gì dùng được. Nhưng chẳng ích gì. Đến bánh mì chợ đen cũng không còn nữa.”
Ngày 25/2: “Đã hết ba điếu thuốc lá. Vẫn
chưa có liên lạc gì từ Zhukov. Cả Koniev cũng không.”
Ngày 27/2: “Tôi bắt đầu lo lắng vì phải
chờ đợi thế này. Một người đang làm việc trong lo lắng mà lại bị nhốt ở đây thì
thật là tai họa.”
Ngày 19/3: “Một bữa trưa tuyệt vời – khoai tây
với muối. Bữa tối ăn bánh kếp khoai tây chiên bằng dầu gan cá tuyết. Vị không
cay lắm.”
Bây giờ, vào ngày đầu tiên của mùa
xuân, Hildegard vẫn đang chờ đợi và nhật ký của cô viết rằng “gần phát điên vì
chuyện kiếm đồ ăn.” Vẫn chẳng có báo cáo gì từ mặt trận của quân Nga. Tất cả
những chuyện cô có thể tìm để viết vào nhật ký là “những cơn gió đang xua mùa
đông đi khỏi những cánh đồng và bãi cỏ. Hoa giọt tuyết đang ra bông. Mặt trời
tỏa nắng rực rỡ và khí trời thật ấm áp. Những cuộc không kích thường lệ… qua
tiếng nổ, có thể đoán là máy bay đang đến gần chỗ chúng tôi.”
Và sau đó cô nhận thấy quân Đồng minh
phương Tây đang ở bên bờ sông Rhine và theo như cô đoán, có thể “tới được
Berlin trong vòng 20 ngày,” cô cay đắng viết rằng người dân Berlin “mong những
kẻ đến từ các nước tư bản đến hơn.” Cô hi vọng là người Nga sẽ nhanh chóng đến,
và Zhukov sẽ tấn công vào lễ Phục Sinh.
Cách Prieros khoảng 25 dặm về phía bắc,
ở Neuenhagen thuộc rìa phía đông Berlin, một nhóm Cộng sản khác đang chờ đợi
trong kiên định. Những thành viên của nó cũng đang sống trong nỗi lo sợ thường
trực về việc bắt bớ và chết chóc, nhưng họ giỏi chiến đấu và được tổ chức tốt
hơn những người đồng chí ở Prieros, và họ còn may mắn hơn nữa: họ chỉ cách sông
Oder có 35 dặm và biết rằng nơi họ ở sẽ là một trong những quận đầu tiên bị
chiếm.
Những thành viên trong nhóm đã làm việc
hàng đêm ngay trước mũi Gestapo để chuẩn bị một kế hoạch hoàn hảo cho ngày giải
phóng. Họ biết tên và nơi ở của mọi đảng viên Nazi, quan chức SS và Gestapo
trong vùng. Họ biết ai sẽ hợp tác còn ai thì không. Một số người được đánh dấu
là cần bị bắt ngay, những người khác sẽ bị trừ khử. Nhóm này được tổ chức tốt
đến mức họ thậm chí còn lên kế hoạch quản lý thành phố nhỏ này trong tương lai.
Mọi thành viên trong nhóm đều đang lo
âu chờ đợi quân Nga đến, chắc chắn rằng những đề nghị của mình sẽ được chấp
nhận. Nhưng không ai lo lắng hơn Bruno Zarzycki được. Ông đang bị mấy vết loét
hành hạ tới mức không nuốt nổi gì, nhưng ông cứ nói là mấy vết loét sẽ biến mất
vào ngày Hồng quân đến, ông biết thế.
Thật khó tin, trên khắp Berlin, trong
những căn phòng ngủ và phòng để đồ nhỏ tí, trong những căn hầm ẩm ướt và gác
xép thiếu khí, một số nạn nhân bị Nazi tra tấn dữ dội nhất và có lòng căm thù
sâu nhất đang kiên trì bám víu cuộc sống và chờ đợi cái ngày họ có thể thoát
khỏi cảnh trốn tránh. Họ không quan tâm ai sẽ tới trước, miễn có người tới là
được, và nhanh một chút. Một số sống thành nhóm 2-3 người, một số sống chung cả
gia đình, và thậm chí có cả những cộng đồng nhỏ. Phần lớn bạn bè tưởng họ đã
chết – và trên một mặt nào đó thì đúng là vậy. Có những người đã nhiều năm liền
không được thấy mặt trời, hoặc chưa được dạo bước trên đường phố Berlin .
Họ không được để bị ốm vì điều đó có
nghĩa là cần gặp bác sĩ, những câu hỏi ngay lập tức sẽ xuất hiện và có thể bị
lộ. Ngay cả trong những đợt không kích dữ dội nhất họ cũng ở yên trong chỗ
trốn, vì họ có thể bị nhận diện ngay lập tức trong các hầm trú ẩn. Họ duy trì
sự bình tĩnh lạnh lùng, vì từ lâu họ đã học cách không còn sợ hãi. Họ còn giữ
được mạng là nhờ khả năng dập tắt gần như mọi cảm xúc. Họ tháo vát, ngoan cường
và sau sáu năm chiến tranh và gần 13 năm sống trong lo sợ và phiền nhiễu ngay
giữa thủ đô của Đế chế Đức của Hitler, gần 3000 người trong số họ vẫn sống sót.
Những chuyện họ đã làm là một bằng chứng về lòng can đảm của một lượng lớn
những người theo đạo Cơ Đốc của thành phố, không một ai trong số họ từng nhận
được sự công nhận tương xứng vì đã bảo vệ những kẻ bị khinh ghét nhất của trật
tự xã hội mới – người Do Thái. (*)
Siegmund và Margarete Weltlinger, đều đã
gần 60, đang ẩn nấp trong một ăn hộ nhỏ ở tầng trệt trong quận Pankow. Một gia
đình theo dòng Christian Science, gia đình nhà Mohring, đã liều mạng che giấu
họ. Ở đây khá đông đúc. Vợ chồng nhà Mohring, hai đứa con gái và vợ chồng
Weltlinger cùng sống chung trong một căn hộ hai phòng. Nhưng gia đình Mohring
vẫn chia sẻ khẩu phần của họ và những thứ khác với vợ chồng Weltlinger và chẳng
bao giờ phàn nàn gì. Hai vợ chồng Weltlinger chỉ dám ra ngoài một lần trong
nhiều tháng liền: bà Margarete bị đau răng, buộc họ phải đi ra ngoài, và vị nha
sĩ nhổ răng đã chấp nhận lời giải thích của bà Margarete rằng bà là “một bà chị
họ ghé thăm.”
................................
(*) Lời dẫn của tác giả:
Ước tính số người Do Thái sống sót được
lấy từ số liệu của Thượng viện Berlin do Tiến sĩ Wolfgang Scheffler của Đại học
Tự do Berlin. Một số chuyên gia người Do Thái vẫn còn bàn cãi về điều này –
trong số đó có Siegmund Weltlinger, Vụ trưởng Vụ Do Thái trong chính phủ hậu
chiến tranh. Ông cho rằng số người sống sót chỉ vào khoảng 1.400 người. Ngoài
những người sống trong bí mật, tiến sĩ Scheffler khẳng định rằng ít nhất 5.100
người Do Thái khác đã kết hôn với người theo đạo Cơ Đốc đang sống tam gọi là
hợp pháp trong thành phố.
Nhưng sự quên lãng đó giống như một cơn
ác mộng, vì những người Do Thái đó không bao giờ biết được mình sẽ bị bắt khi
nào. Ngày nay, có 6.000 người Do Thái sống tại Berlin – một phần quá nhỏ bé so với con số
160.564 người Do Thái vào năm 1933, năm Hitler nắm quyền. Về con số đó, không
ai biết được bao nhiêu người Berlin gốc Do Thái đã rời khỏi thành phố, di cư
khỏi nước Đức, hay bị trục xuất và thủ tiêu trong các trại tập trung.
Họ đã gặp may cho tới tận năm 1943. Dù
ông Siegmund bị đuổi khỏi thị trường chứng khoán năm 1938, không lâu sau ông
lại được giao nhiệm vụ đặc biệt trong Cục Cộng đồng Do Thái ở Berlin .
Trong những ngày đó, dưới sự lãnh đạo
của Heinrich Stahl, Cục chuyên đăng kí tài sản của người Do Thái; sau đó Cục cố
gắng thương lượng với đảng Nazi để giảm bớt những khốn khổ của người người Do
Thái trong trại tập trung. Stahl và Weltlinger biết rằng việc Cục bị đóng cửa
chỉ là chuyện sớm muộn – nhưng họ vẫn can đảm tiếp tục công việc.
Và rồi, vào ngày 28/2/1943, Gestapo đóng
cửa Cục. Stahl mất tích trong trại tập trung Theresienstadt còn vợ chồng
Weltlinger thì bị ra lệnh dời đến một “căn nhà Do Thái” có 60 gia đình ở
Reinickendorf. Hai vợ chồng ở lại Reinickendorf đến đêm. Sau đó họ bỏ Ngôi sao
David ra khỏi áo khoát rồi biến mất trong màn đêm. Kể từ đó, họ sống với gia
đình Mohring.
Hai năm nay, thế giới bên ngoài đối với
họ chỉ là một mảnh bầu trời bị vây giữa các tòa nhà – cùng với một cái cây duy
nhất mọc giữa mảnh sân trong tối tăm nằm đối diện với cửa sổ phòng bếp của căn
hộ.
Cái cây đã trở thành một cuốn lịch trong
những ngày bị giam hãm của họ. Bà Margarete nói vói chồng, “Mình đã thấy cây dẻ
phủ trong tuyết hai lần, thấy lá ngả sang nâu hai lần, và giờ nó lại ra hoa lần
nữa.” Bà đang tuyệt vọng. Liệu họ có phải ẩn nấp thêm một năm nữa không? Bà nói
với chồng, “Có lẽ Chúa đã bỏ rơi chúng ta.”
Ông Siegmund an ủi bà. Họ có nhiều lý do
để sống: hai đứa con – một con gái 17 tuổi và con trai 15 tuổi – đang ở Anh.
Hai vợ chồng không gặp lại con từ lúc ông Siegmund đưa chúng ra khỏi nước Đức
năm 1938. Ông mở cuốn Kinh thánh ra bài Thánh thi thứ 91 và chầm chậm đọc: “Dù
tả hữu có ngàn người quỵ ngã, dù hai bên có chết cả vạn người, riêng phần bạn,
tuyệt nhiên không hề hấn.” Tất cả những gì họ có thể làm là chờ đợi. Ông nói
với vợ: “Chúa ở bên chúng ta. Hãy tin tôi, ngày giải phóng đang ở rất gần.”
Năm ngoái, hơn 4.000 người Do Thái đã bị
Gestapo bắt trên các đường phố Berlin .
Nhiều người trong số đó đã liều trước nguy cơ bị phát hiện vì hết chịu nổi cảnh
giam hãm.
Hans Rosenthal, 20 tuổi, vẫn đang trốn ở
Lich-tenberg, đã quyết định sẽ ra ngoài. Anh đã ở 26 tháng trong một căn buồng
không đầy 1,8m bề dài và 1,5m bề rộng. Thực tình thì nó là một cái chuồng gia
súc nhỏ sau lưng một căn nhà của một người bạn cũ của mẹ Hans. Sự tồn tại của
Rosenthal cho tới bây giờ là một mối nguy hiểm. Ba mẹ anh đã chết và lúc 16
tuổi anh bị đưa vào một trại lao động.
Tháng 3/1945, anh trốn thoát và bắt một
chuyến tàu tới Berlin ,
tá túc chỗ người bạn của mẹ mình mà không có giấy tờ gì. Ở chỗ trú ẩn giống căn
buồng giam của anh không có nước và ánh sáng, và cách duy nhất để đi vệ sinh là
dùng một cái bô kiểu cũ. Anh đổ cái bô vào ban đêm giữa các cuộc không kích,
thời điểm duy nhất anh dám ra khỏi chỗ trốn. Trừ một cái ghế dài, căn buồng
trống không. Nhưng Hans có một cuốn Kinh thánh, một cái radio nhỏ và một tấm
bản đồ được đánh dấu cẩn thận treo trên tường. Dù hi vọng quân Đồng minh phương
Tây sẽ đến, nhưng anh thấy có vẻ quân Nga sẽ chiếm được Berlin .
Điều đó làm anh lo lắng, dù nó có nghĩa
là anh sẽ được giải thoát. Nhưng anh tự an ủi mình bằng cách nói đi nói lại,
“Mình là một người Do Thái. Mình đã sống sót khỏi bọn Nazi và mình cũng sẽ sống
sót trước Stalin.”
Cũng ở quận này, tại khu Karlshorst,
Joachim Lipschitz sống trong một căn hầm dưới sự bảo vệ của Otto Kruger. Thường
thì trong căn hầm của nhà Kruger khá yên tĩnh nhưng đôi khi Joachim nghĩ anh có
nghe tiếng súng của quân Nga nổ xa xa. Âm thanh đó rất khẽ, nghe như tiếng khán
giả vỗ tay một cách buồn chán với bàn tay đeo găng. Anh nghĩ đó chắc là do mình
tưởng tượng ra – quân Nga phải ở rất xa đây mới đúng.
Anh vốn chẳng lạ gì tiếng đại bác Nga.
Là con trai của một bác sĩ Do Thái và một bà mẹ Cơ Đốc, anh bị đưa vào lực
lượng vũ trang Wehrmacht. Năm 1941, ở mặt trận phía đông, anh bị mất một cánh
tay ngoài chiến trường. Nhưng việc phục vụ cho nước Đức cũng không cứu được anh
khỏi cái tội sinh ra với dòng máu Do Thái. Tháng 4/1944, anh bị lên danh sách
cho vào trại tập trung. Anh đã lẩn trốn từ lúc đó.
Joachim, 27 tuổi, tự hỏi điều gì sẽ xảy
ra khi cao trào của cuộc chiến đang đến gần, Hàng đêm, cô con gái cả của gia
đình Kruger là Eleanore lại đi xuống hầm để thảo luận tình hình bên ngoài với
anh. Họ đã yêu nhau từ năm 1942 và do không hề giấu diếm mối quan hệ này mà
Eleanore đã bị loại khi nộp đơn vào một trường đại học vì có liên hệ với một
người “không xứng đáng.” Giờ hai người chỉ mong chờ cái ngày họ có thể cưới
nhau.
Eleanore tin rằng Nazi trắng tay về mặt
quân sự và sự sụp đổ sẽ đến rất nhanh. Joachim thì tin điều ngược lại: người
Đức sẽ chiến đấu tới cùng và Berlin chắc chắn
sẽ biến thành bãi chiến trường – có lẽ sẽ là một trận Verdun khác. Họ cũng bất đồng ý kiến về việc
quân nào sẽ chiếm được thành phố. Joachim nghĩ là quân Nga, còn Eleanore lại
cho là quân Anh-Mỹ. Nhưng Joachim nghĩ rằng họ nên dần chuẩn bị cho cả hai khả
năng. Vậy nên Eleanore đang học tiếng Anh còn Joachim thì học tiếng Nga.
Không ai mong chờ Berlin sụp đổ trong thống khổ hơn Leo
Sternfeld, vợ ông Agnes và cô con gái 23 tuổi của họ, Annemarie. Gia đình
Sternfeld không phải lẩn trốn, vì họ theo đạo Tin Lành. Nhưng mẹ của ông Leo là
người Do Thái, nên ông bị Nazi xem là có một nửa dòng máu Do Thái. Kết quả là
ông Leo và cả nhà đã sống trong thắc thỏm suốt cuộc chiến, vì bọn Gestapo cứ
chơi trò mèo vờn chuột với họ. Họ được cho phép sinh sống ở nơi mình muốn,
nhưng nỗi lo bị bắt cứ treo lơ lửng trên đầu.
Chiến tranh càng đến gần thì mối họa ấy
ngày càng lớn, và ông Leo phải cố hết sức mới giữ vững tinh thần cho vợ con.
Đêm qua, một quả bom đã phá hủy bưu điện gần đó, nhưng ông Leo vẫn còn đùa về
chuyện này được. Ông nói với vợ, “Bà sẽ chẳng cần đi xa để gửi thư nữa. Bưu
điện giờ nằm ngay bên bậc thềm chứ đâu.”
Khi ông rời khỏi căn nhà ở Tempelhof vào
buổi sáng tháng ba này, Leo Sternfeld, một cựu doanh nhân giờ bị Gestapo buộc
phải làm người lượm rác, biết rằng mình đã trì hoãn việc thực thi kế hoạch quá
muộn.
Họ không thể rời khỏi Berlin , và cũng chẳng còn thì giờ cho việc
đi trốn nữa. Nếu Berlin
mà không bị chiếm trong vài tuần tới thì họ coi như tiêu. Ông Leo đã nghe nói
là Gestapo định bắt hết tất cả những ai có chút huyết thống Do Thái trong người
vào ngày 19/5.
* * * *
* * * * *
Cách đó khá xa về phía tây, trong đại
bản doanh của Quân đoàn 2 của Anh ở Walbeck, gần biên giới với Hà Lan, vị quân
y cao cấp, Chuẩn tướng Hugh Glyn Hughes đang cố đoán trước những vấn đề y tế mà
ông có thể phải đương đầu trong vài tuần tới – đặc biệt là khi họ tới được
Berlin. Trong thâm tâm, ông sợ dịch sốt Rickettsia sẽ bùng nổ.
Đã có một số người dân chạy nạn băng qua
tiền tuyến, và viên trợ lý của ông đã báo cáo rằng họ mang theo rất nhiều loại
bệnh truyền nhiễm. Cũng như mọi bác sĩ khác trong mặt trận Đồng minh, Chuẩn
tướng Hughes đang cẩn thận theo dõi các diễn biến; một bệnh dịch nghiêm trọng
có thể biến thành thảm họa.
Ông khẽ vuốt râu và tự hỏi phải đối phó
với dân chạy nạn làm sao khi mà dòng chảy nhỏ giọt biến thành cơn lũ. Và có
Chúa mới biết được họ sẽ tìm thấy thứ gì khi tới được Berlin .
Vị Chuẩn tướng cũng lo lắng về một vấn đề
liên quan khác: các trại tập trung và trại lao động. Họ thu được một số thông
tin về những trại này qua các nước trung lập, nhưng chẳng ai biết các khu trại
này được điều hành ra sao, chứa bao nhiêu người trong đó hay điều kiện sống ở
đó như thế nào. Giờ đây có vẻ như Quân đoàn 2 sẽ là đoàn quân đầu tiên băng qua
một khu trại tập trung.
Trên bàn làm việc của ông có một bản báo
cáo rằng có một trại tập trung nằm ngay trên đường tiến quân của họ, ở phía bắc
Hannover . Chẳng có thông tin gì khác về nó.
Chuẩn tướng Hughes băn khoăn không biết họ
sẽ tìm thấy những gì. Ông hi vọng người Đức sẽ chứng tỏ sự cẩn thận thường thấy
của mình về mặt y tế, và tình hình y tế ở đó vẫn nằm trong vòng kiểm soát. Ông
chưa bao giờ nghe nói tới nơi đó. Chỗ đó gọi là Belsen .
5.
Đội trưởng Hekmuth Cords, 25 tuổi, một
cựu chiến binh ở mặt trận Nga, từng được trao huân chương Thập Tự Sắt vì lòng
dũng cảm. Anh đang bị giam ở Berlin
– và có lẽ anh sẽ không sống nổi đến lúc được thấy chiến tranh kết thúc. Đội
trưởng Cords là thành viên của một nhóm tinh nhuệ - một nhóm nhỏ sống sót trong
số 7.000 người Đức bị bắt vì âm mưu ám sát Hitler tám tháng trước, vào ngày
20/7/1944.
Hitler đã điên cuồng trút giận đầy tàn
bạo; gần 5.000 người bị tình nghi đã bị xử tử, dù có tội hay không. Nhiều gia
đình đã bị xóa sổ. Hễ ai có dính líu tới mưu phạm đều bị bắt và hầu hết bị xử
tử. Họ bị giết theo một cách do chính Hitler nghĩ ra. Ông ta ra lệnh, “Chúng
phải bị treo lên như bọn gia súc.” Những kẻ đầu đảng bị treo lên đúng y như thế
- bằng móc treo thịt. Đa số bọn họ bị treo lên bằng dây đàn piano thay vì dây
thừng.
Bây giờ, ở Cánh B của Nhà tù
Lehterstrasse có hình ngôi sao, nhóm mưu phạm cuối cùng đang chờ đợi. Họ đều
thuộc phe bảo thủ và cộng sản; họ là các sĩ quan quân đội, bác sĩ, giáo sĩ,
giáo sư đại học, nhà văn, cựu nghị sĩ, công nhân và nông dân. Một số họ không
biết sao mình lại bị giam; họ chưa bao giờ bị phán tội chính thức. Một số ít đã
được xét xử, và đang chờ tái thẩm. Một số người đã thực sự được chứng minh là
vô tội, nhưng vẫn còn bị giam. Những người khác được xét xử vờ vịt, bị tuyên án
vội vàng, và đang chờ hành quyết. Không ai biết chính xác có bao nhiêu tù nhân
ở Cánh B – một số người đoán có khoảng 200, người lại bảo không đầy 100. Chẳng
có cách nào đếm được. Mỗi ngày đều có tù nhân bị đưa đi, và không bao giờ còn
nhìn thấy họ. Tất cả đều tùy thuộc vào ý thích bất chợt của một người: thủ lĩnh
Gestapo, Thống chế lực lượng SS Heinrich Muller. Những người bị tống giam chẳng
trông đợi chút lòng nhân từ nào từ ông ta. Cho dù quân Đồng minh có tới ngay
cổng trại giam, họ tin là Muller vẫn sẽ tiếp tục cuộc tàn sát.
Cords nằm trong số những người vô tội.
Vào tháng 7/1944, anh đang trú quân ở Bendlerstrasse, làm một sĩ quan cấp thấp
trong ban tham mưu của Tham mưu trưởng quân dự bị, Đại tá Claus Graf von
Stauffenberg. Chỉ có một vấn đề về vị trí phân công này, mà sau này mới biết:
vị đại tá 36 tuổi có bề ngoài khác người này – anh chỉ còn một cánh tay và đeo
một miếng băng đen trên mắt trái – là nhân vật chủ chốt trong âm mưu ngày 20/7,
người tình nguyện đi giết Hilter.
Ở trụ sở của Quốc trưởng tại Rastenburg,
Đông Phổ, trong một cuộc họp quân sự dài lê thê của Hitler, Von Stauffenberg đã
đặt một chiếc cặp tài liệu có chứa một quả bom hẹn giờ dưới tấm bản đồ dài gần
chỗ Hitler đứng. Vài phút sau khi Von Stauffenberg chuồn ra khỏi phòng để quay
về Berlin ,
quả bom phát nổ. Thật kỳ diệu là Hitler sống sót trong vụ nổ. Vài giờ sau ở
Berlin, Von Stauffenberg, không hề được hưởng một cuộc xét xử chính thức, bị
bắn chết ở sân trong của sở chỉ huy Bendlerstrasse cùng với ba nhân vật quân sự
chủ chốt khác trong âm mưu này. Những người có dính líu dù rất xa xôi tới anh
ta đều bị bắt – trong đó có Helmuth Cords.
Hôn thê của Cords là Jutta Sorge, cháu
gái của cựu Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đức Gustav Stresemann, cũng bị
bắt và bỏ tù. Ba mẹ cô cũng vậy. Tất cả bọn họ, kể cả Helmuth Cord, đều bị giam
không qua phiên toàn xét xử nào.
Hạ sĩ Herbert Kosney, bị giam ở cùng tòa
nhà, thậm chí còn biết về vụ việc ngày 20/7 ít hơn cả Cords. Nhưng Kosney vô ý
vướng vào vụ việc. Anh là một thành viên trong nhóm cộng sản kháng chiến, và sự
tham gia của anh trong vụ mưu sát chính là đưa một người đàn ông không rõ danh
tính đi từ Lichterfelde đến Wannsee.
Dù không phải là một người cộng sản,
Herbert đã ở trong nhiều nhóm Soviet bí mật từ 1940. Vào tháng 11/1942, trong
khi anh đang công tác ở ngoài Berlin, người anh trai Kurt của anh, một đảng
viên của Đảng Cộng sản từ năm 1931, đã mạnh mẽ ngăn Herbert trở lại mặt trận:
anh ta đã bắn vào tay Herbert bằng một khẩu súng lục, đưa anh vào một bệnh viện
quân sự và giải thích với người ta rằng anh ta phát hiện ra một người lính bị
thương nằm dưới chiến hào. Vụ việc qua trót lọt. Herbert không quay lại chiến
trường nữa. Anh được phân tới một tiểu đoàn dự bị ở Berlin và mỗi 3 tháng lại
có một giấy chứng nhận y tế mới từ bác sĩ Alnert Olbertz giúp anh chỉ được giao
“việc nhẹ.” Bác sĩ Olbertz cũng là thành viên của một nhóm cộng sản kháng
chiến.
Chính Olbertz đã khiến Herbert bị bắt
giam. Vài ngày sau vụ mưu sát Hitler, Olbertz bảo Herbert đi với anh ta làm một
nhiệm vụ vận chuyển gấp. Họ lái một chiếc xe cứu thương, đón một người đàn ông
mà Herbert không biết là ai – một sĩ quan cao cấp trong Gestapo, Đại tướng
Artur Nebe, Cục trưởng Hình cảnh, đang bị truy nã để thẩm vấn. Một thời gian
sau Nebe bị bắt; cả Olbertz và Herbert cũng bị. Olbertz tự tử; Nebe bị xử tử;
còn Herbert thì bị một phiên tòa dân sự xét xử và tuyên án tử hình. Nhưng vì
anh vẫn còn trong quân đội, nên cần có một phiên tái thẩm của toà án quân sự.
Herbert biết đó chỉ là thủ tục cho có – và thủ tục vốn chẳng mấy ý nghĩa đối
với thủ trưởng Gestapo Muller. Khi anh nhìn ra ngoài ô cửa sổ phòng giam,
Herbert Kosney tự hỏi không biết khi nào mình sẽ bị hành hình.
Cách đó không xa, một người đàn ông
khác cũng đang ngồi tự hỏi tương lai sẽ giành cho anh ta điều gì – người đó là
anh của Herbert, Kurt Kosney. Anh đã bị Gestapo thẩm vấn nhiều lần, những vẫn
không nói gì về các hoạt động cộng sản của mình với chúng. Tất nhiên, anh càng
không để lộ điều gì có thể buộc tội em trai mình. Anh rất lo cho Herbert.
Chuyện gì đã xảy ra với nó? Hai anh em chỉ cách nhau có mấy buồng giam. Nhưng
cả Kurt và Herbert đều không biết họ bị giam ở cùng chung một nhà tù.
Dù không bị giam, một nhóm tù nhân khác
cũng đang sống tại Berlin .
Phải rời xa gia đình, bị buộc phải bỏ quê hương, họ chỉ có một mong ước – giống
như nhiều người khác – là nhanh chóng được giải thoát, bởi ai cũng được. Họ là
những lao động nô lệ - đàn ông và phụ nữ đến từ hầu khắp đất nước mà Nazi đã
càn quét qua. Họ là người Ba Lan, Czech, Na Uy, Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ,
Luxembourg, Pháp, Ba Tư và Nga.
Tính tổng cộng, Nazi đã buộc nhập khẩu
gần 7 triệu người – gần tương đương với toàn bộ dân số của thành phố New York –
để làm việc trong các gia đình và nhà máy của Đức. Một số quốc gia bị bòn rút
gần như sạch sẽ: 500.000 người đã bị đưa ra khỏi đất nước Hà Lan nhỏ bé (dân số
10.956.000 người) và 6.000 đến từ Luxembourg bé tí (dân số 296.000 người). Chỉ
riêng ở Berlin
đã có hơn 100.000 công nhân ngoại quốc – chủ yếu là người Pháp và Nga – làm
việc.
Lao động ngoại quốc có trong mọi loại
hình công việc có thể tưởng tượng được. Nhiều quan chức Nazi cao cấp đòi các cô
gái Nga làm người hầu trong nhà. Các kiến trúc sư có liên quan đến các công
trình chiến tranh kiếm những tay vẽ kỹ thuật trẻ tuổi người ngoại quốc làm nhân
viên cho văn phòng của mình. Ngành công nghiệp nặng kiếm đủ chỉ tiêu thợ điện,
công nhân ngành thép, thợ tiện, công nhân cơ khí và lao động tay nghề thấp từ
số người bị bắt giữ này. Các công ty công cộng cung cấp gas, nước và dịch vụ
vận tải “thuê” thêm hàng nghìn người – mà gần như không trả lương. Ngay cả sở
chỉ huy quân sự Đức ở Bendlerstrasse cũng có phiên chế nhiều nhân công ngoại
quốc. Một người Pháp tên Raymond Legathière đã làm việc toàn thời gian ở đây,
có trách nhiệm thay các ô kính cửa sổ ngay khi chúng bị bom nổ làm vỡ.
Tình hình nhân công ở Berlin đã trở nên
trầm trọng tới mức Nazi công khai coi thường Hiệp định Geneva, dùng tù binh
chiến tranh cũng như công nhân ngoại quốc cho các công trình chiến tranh quan
trọng. Vì Nga không ký kết Hiệp định, các tù binh Hồng quân bị người Đức sử
dùng theo bất kỳ cách nào mà họ thấy là phù hợp. Thực sự thì có chút khác biệt
giữa các tù binh chiến tranh với công nhân ngoại quốc. Khi tình hình xấu đi
từng ngày, các tù binh bị đưa đi xây các boong-ke chống không kích, giúp xây
lại các doanh trại quân đội bị trúng bom và thậm chí là xúc than trong các nhà
máy điện công nghiệp. Bây giờ, sự khác biệt duy nhất giữa hai nhóm này là công
nhân ngoại quốc được tự do hơn – và ngay cả điều đó cũng còn tùy thuộc vào khu
vực và loại hình công việc nữa.
Những người ngoại quốc sống trong các
“thành phố” gồm các tòa nhà giống như trại lính bằng gỗ nằm gần, hoặc nằm ngay
trong các khu nhà máy; họ ăn cơm trong những khu sảnh chung hỗn độn và mang huy
hiệu nhận diện. Một số người quan tâm thì nhắm mắt trước các quy định và cho
phép các công nhân ngoại quốc của mình được sống ngoài khu vực, chỉ cần ở trong
Berlin là
được. Nhiều người được tự do đi lại trong thành phố, đi xem phim hoặc các nơi
giải trí khác, miễn là họ chấp hành giờ giới nghiêm (*).
..................................
(*) Lời dẫn của tác giả: Có một loại
người lao động khác – những công nhân ngoại quốc tình nguyện. Hàng nghìn người
châu Âu – một số là những người ủng hộ mạnh mẽ của đảng Nazi, một số thì tin
rằng họ đang giúp đỡ những người Bolshevich, trong khi đa số toàn là những kẻ
cơ hội – đã đáp lại những tin tuyển dụng về việc làm tại Đức được trả lương cao
đăng trên các tờ báo Đức. Những người này được sống khá tự do gần nơi làm việc.
Một số đội canh gác biết chuyện gì sẽ
xảy ra nên có thái độ khá thoải mái. Nhiều công nhân ngoại quốc – đôi lúc có cả
tù binh chiến tranh – phát hiện ra họ có thể thỉnh thoảng trốn một ngày làm
việc. Một lính canh chịu trách nhiệm về 25 người Pháp vào thành phố làm việc
hàng ngày bằng tàu điện ngầm, giờ dễ chịu đến mức chả buồn đếm số tù binh xuống
xe. Anh ta không quan tâm có mấy người đã bị “lạc” trên đường đi – miễn là mọi
người có ở ga tàu điện ngầm Potsdamer Platz vào lúc 6 giờ chiều để lên đường về
trại.
Không phải công nhân ngoại quốc nào
cũng may mắn như vậy. Hàng nghìn người bị quản chế chặt chẽ, gần như chẳng hề
có tự do. Điều này đặc biệt đúng trong các nhà máy của chính phủ hoặc thành
phố. Những người Pháp làm việc trong công ty gas ở Marienfelde, nam Berlin có rất ít quyền
lợi và được đãi ngộ rất nghèo nàn so với công nhân ở các nhà máy tư nhân. Nhưng
ít ra họ vẫn còn tốt hơn chán so với những người những người Nga có cùng số
phận. Một người Pháp tên André Bourdeau viết trong nhật ký rằng viên đội trưởng
đội lính canh, Fesler, “không bao giờ đưa ai đến trại tập trung,” và để cải
thiện khẩu phần ăn, vào mỗi ngày chủ nhật, “cho phép bọn tôi ra đồng để đào một
hai củ khoai tây.” Bourdeau vui mừng là mình không phải người đến từ phía Đông:
anh viết rằng trại của công nhân Nga “Đông đến khủng khiếp, đàn ông, phụ nữ và
trẻ em cùng ở chung một chỗ... hầu hết mọi lúc đồ ăn của họ đều không thể nuốt
nổi.” Ở những chỗ khác, trong một số nhà máy tư nhân, công nhân người Nga cũng
được ăn uống ngang với những người phương Tây.
Thật kỳ lạ, công nhân phương Tây trên
khắp Berlin
đều nhận thấy một sự thay đổi của những người Nga, gần như là qua từng ngày.
Trong nhà máy hóa chất Schering ở Charlottenburg, người Nga, đáng lý ra phải
phấn khởi trước tình hình diễn biến, thì ngược lại, lại rất thất vọng. Đặc biệt
là các phụ nữ Ukraine và Belorussia có
vẻ khổ sở trước viễn cảnh thành phố sắp bị đồng bào họ chiếm đóng.
Khi đến đây vào 2-3 năm trước, những
người phụ nữ đều mặc bộ quần áo kiểu nông dân đơn giản. Dần dần họ thay đổi, ăn
mặc cầu kỳ và kiểu cách hơn. Nhiều người bắt đầu dùng mỹ phẩm lần đầu tiên
trong đời. Kiểu tóc và trang phục đã thay đổi đáng kể: các cô gái Nga bắt chước
các phụ nữ Pháp và Đức xung quanh họ. Giờ người ta thấy hầu như chỉ sau một đêm
họ đã đổi sang quần áo nông dân như cũ. Nhiều công nhân nghĩ rằng họ đoán trước
được sự trả thù của những người lính Hồng quân – dù họ bị đưa ra khỏi nước Nga
ngoài ý muốn. Rõ ràng là những người phụ nữ nghĩ mình sẽ bị trừng phạt vì đã
tây hóa quá mức.
Tinh thần của các công nhân phương Tây
đang tăng cao trên khắp Berlin .
Ở nhà máy Alkett quận Ruhleben, nơi 2.500 công nhân người Pháp, Bỉ, Ba Lan và
Hà Lan làm việc trong các dây chuyền sản xuất xe tăng, ai ai cũng đang lập kế
hoạch cho tương lai, trừ người Đức. Đặc biệt là các công nhân Pháp, họ cực kỳ
phấn khởi. Họ dành hàng đêm nói chuyện về những bữa ăn phong phú mà họ sẽ ăn
ngay khi đặt chân lên nước Pháp, và hát những ca khúc nổi tiếng: bài “Ma Pomme”
và “Prospère” của Maurice Chevalierlà những bài được yêu thích nhất.
Jean Boutin, một công nhân cơ khí 20
tuổi người Paris, thấy đặc biệt vui vẻ; anh biết mình đang đóng vai trò nhất
định trong sự sụp đổ của nước Đức. Boutin và một số công nhân Hà Lan đã phá
hoại các bộ phận xe tăng trong mấy năm nay. Quản đốc người Đức đã nhiều lần dọa
sẽ đưa bọn phá hoại đến trại tập trung, nhưng ông ta chẳng bao giờ làm thế - và
có một lý do rất hợp: nhân lực đang thiếu trầm trọng, nên nhà mấy đang phụ
thuộc gần như hoàn toàn vào các công nhân ngoại quốc. Jean nghĩ tình hình đang
khá vui vẻ. Anh phải làm xong mỗi ổ bi trong 54 phút. Anh cố gắng không bao giờ
nộp một chi tiết máy hoàn thành trong vòng 24 giờ - và nó thường có lỗi nào đó.
Ở Alkett, những lao động không tự nguyện có một quy tắc đơn giản: mỗi bộ phận
lỗi họ làm ra qua mặt quản đốc mang chiến thắng và sự sụp đổ của Berlin đến gần thêm một
bước. Và chưa có ai bị bắt được bao giờ.
6.
Rõ ràng, mặc cho có đánh bom thường
xuyên, mặc cho bóng ma Hồng quân bên sông Oder, mặc cho sự run sợ của bản thân
nước Đức khi quân Đồng minh tiến vào từ cả phía Đông lẫn phía Tây, vẫn có người
kiên quyết không nghĩ đến khả năng tai ương sắp đến. Họ là những đảng viên Nazi
cuồng tín. Phần lớn bọn họ dường như xem tình hình khó khăn mà mình đang phải
trải qua là một kiểu chuộc tội – một sự tôi luyện và tinh lọc sự dâng hiến của
mình với chủ nghĩa Quốc xã và những mục đích của nó. Một khi họ đã bày tỏ lòng
trung thành của mình, mọi chuyện chắc chắn sẽ ổn hết; họ không chỉ tin rằng
Berlin sẽ không bao giờ gục ngã, mà còn tin chiến thắng chắc chắn sẽ thuộc về
nền Đệ tam Quốc xã.
Đảng Nazi chiếm một vị trí đặc biệt
trong đời sống của thành phố. Người Berlin
chưa bao giờ hoàn toàn chấp nhận Hitler hay sự truyền giáo của ông ta. Quan
điểm của họ vừa phức tạp vừa mang tính quốc tế. Thực sự thì, khiếu hài hước cay
độc của người Berlin, sự chỉ trích về chính trị và gần như hoàn toàn thiếu lòng
nhiệt tình dành cho ngài Quốc trưởng cùng nội các của ông từ lâu đã đầu độc
đảng Nazi. Mỗi lần có diễu binh rước đuốc hoặc các cuộc thao diễn khác của đảng
Nazi để gây ấn tượng với thế giới được tổ chức ở Berlin, hàng nghìn quân xung
kích từ Munich được điều đến để bổ sung cho đám đông đi diễu hành. Người Berlin mỉa mai, “Bọn họ
đóng phim thời sự hợp hơn chúng ta đấy, và chân họ cũng to hơn nữa kia!”.
Dù đã cố gắng, Hitler vẫn không thể
giành được trái tim người dân Berlin .
Khá lâu trước khi thành phố bị phá hủy bởi bom đạn của quân Đồng minh, Hitler,
giận dữ và nản chí, đã định xây dựng lại Berlin
và quy hoạch thành hình ảnh của Nazi. Ông ta còn định đổi tên Berlin
thành Germania, vì ông ta chưa bao giờ quên rằng trong các cuộc bầu cử tự do
trong những năm 30, người Berlin
đã loại ông ta. Trong cuộc bỏ phiếu kín năm 1932, khi Hitler chắc chắn mình sẽ
hất cẳng Hindenburg , Berlin là nơi bầu cho ông ta thấp nhất – chỉ
23%. Bây giờ, những kẻ cuồng tín trong toàn thể công dân rất quyết tâm biến Berlin , thành phố ít
mang tính Nazi nhất nước Đức, pháo đài cuối cùng của chủ nghĩa Quốc xã. Dù chỉ
chiếm thiểu số, họ vẫn đang nắm quyền kiểm soát.
Hàng nghìn kẻ cuồng tín đang độ tuổi
thiếu niên, và giống như hầu hết những người khác trong cùng thế hệ, họ chỉ
biết một vị chúa duy nhất – Hitler. Ngay từ khi còn nhỏ, họ đã bị nhồi nhét mục
đích và hệ tư tưởng của chủ nghĩa quốc xã. Một số đông còn được huấn luyện để
bảo vệ và duy trì chính nghĩa, dùng các loại vũ khí từ súng lục tới loại súng
chống tăng giống bazooka có tên Panzer-fäuste. Klaus Kuster là một điển hình
trong nhóm thiếu niên này. Là thành viên của Đoàn Thanh niên Hitler (có hơn
1000 đoàn viên tại Berlin ),
cậu có biệt tài bắn xe tăng trong vòng 60 yard đổ lại. Klaus còn chưa đầy 16 tuổi.
Những người máy quân sự cống hiến nhất
là các thành viên của lực lượng SS. Họ tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng và hết
lòng với Hitler tới mức những người Đức khác chảng thể hiểu nổi thần kinh của
họ. Sự cuồng tín của họ mạnh mẽ đến nỗi đôi khi nó có vẻ như đã ăn sâu vào tiềm
thức. Bác sĩ Ferdinand Sauerbruch làm việc tại bệnh viện Charité, từng mổ cho
một mật vụ SS bị thương nặng vừa được chuyển từ mặt trận sông Oder
về, được gây mê ngay lập tức. Trong sự yên tĩnh của phòng mổ, dù đang hôn mê
sâu, người mật vụ SS bắt đầu nói mê. Anh ta lặp đi lặp lại, khẽ khàng và rành
mạch, “Heil Hitler!... Heil Hitler!... Heil Hitler!” (Hitler muôn năm!)
Dù đó là những người cực đoan quá khích,
nhưng cũng có hàng trăm nghìn công dân cũng giống như vậy. Một số bọn họ là
những bức biếm họa biết đi, minh họa hình tượng một tên Nazi cuồng tín mà thế
giới tự do hình dung ra. Một trong số đó là ông Gotthard Carl, 47 tuổi. Dù ông
Gotthard chỉ là một công dân bé nhỏ, một kế toán tạm thời của Không quân, ông
vẫn mặc bộ đồng phục không lực màu xanh biển với tất cả niềm tự hào và kiêu
hãnh của một phi công chiến đấu tài ba. Mỗi chiều tối khi bước vào căn hộ của
mình, ông lại đứng chụm gót, giơ cánh tay phải lên cao và hét to, “Heil
Hitler.” Màn biểu diễn đã này kéo dài nhiều năm nay.
Vợ ông, bà Gerda, đã ngán đến tận cổ sự
cuồng tín của ông chồng, nhưng bà rất lo lắng và băn khoăn khi phải bàn với ông
về kế hoạch sống sót của hai người. Bà chỉ ra rằng quân Nga đang đến rất gần Berlin . Ông Gotthard cắt
lời bà. Ông nổi đóa, “Chỉ là lời đồn tầm phào! Là lời đồn thôi! Do kẻ thù cố
tình tung ra.” Trong thế giới Nazi méo mó của ông Gotthard, mọi thứ vẫn đang
diễn ra đúng theo kế hoạch. Chiến thắng chắc chắn thuộc về Hitler. Bọn Nga sẽ
không bao giờ tới được cửa vào Berlin .
Còn có những người đầy nhiệt huyết và dễ
bị ảnh hưởng – những người chưa từng nghĩ đến khả năng thất bại – ví như Erna
Schultze. Vị thư ký 41 tuổi trong sở chỉ huy Oberkommando der Kriegsmarine (Bộ
Chỉ huy Hải quân Tối cao) vừa mới nhận ra tham vọng của đời mình: Bà vừa được
thăng làm thư ký của đô đốc và đây là ngày làm việc đầu tiên của bà.
Shell House, nơi đặt sở chỉ huy, đã bị
trúng bom nặng trong 48 giờ qua. Nhưng đám gạch vụn và khói bụi chẳng làm bà
Erna bận tâm – bà cũng không bị mệnh lệnh vừa đưa tới bàn làm việc làm cho lo
lắng. Mệnh lệnh yêu cầu đốt mọi hồ sơ Geheime Kommandosache (tối mật). Nhưng
Erna rất buồn vì vào cuối ngày làm việc đầu tiên này, bà và các nhân viên khác
phải “rời đi vô thời hạn” và séc trả lương của bọn họ sẽ được gửi sau.
Bà Erna vẫn không lay chuyển. Niềm tin
của bà mạnh mẽ tới mức bà không tin bản thông cáo chính thức về thất bại của
nước Đức. Bà tin tinh thần toàn Berlin vẫn rất tốt, và việc đế chế Đức chiến
thắng chỉ là vấn đề thời gian. Ngay cả vào lúc này, khi bước ra khỏi tòa nhà,
bà Erna vẫn khá chắc chắn là trong vài ngày tới Hải quân sẽ gọi bà quay lại.
Còn có những người khác quá tin tưởng và
liên quan quá sâu với tầng lớp cao cấp trong bộ máy của đảng Nazi đến mức họ
chẳng mấy nghĩ ngợi về chiến tranh hay những hậu quả của nó. Giữa bầu không khí
hăng say và sự quyến rũ của vị trí đặc quyền của mình, họ không chỉ cảm thấy an
toàn mà còn thấy được bảo vệ hoàn hảo, trong sự tận tụy mù quáng với Hitler.
Kathe Reiss Heusermann với đôi mắt xanh hấp dẫn là một ví dụ điển hình.
Ở số 213 Kurfurstendamm, cô Kathe 35
tuổi, tóc vàng, tính tình sôi nổi đang ngập trong công việc làm trợ lý cho Giáo
sư Hugo J. Blaschke, nha sĩ hàng đầu của các lãnh đạo Nazi. Nhờ phục vụ cho
Hitler và nội các từ năm 1934, giáo sư Blaschke đã được trao quân hàm
Brigadeführer (chuẩn tướng) của lực lượng SS và đứng đầu khoa nha của Trung tâm
Y tế SS Berlin. Là một đảng viên Nazi hăng hái, giáo sư Blaschke đã tận dụng
mối quan hệ giữa mình với Hitler vào phòng khám tư lớn nhất và hái ra tiền nhất
Berlin. Bây giờ ông đang chuẩn bị tận dụng thêm một bước nữa. Không giống
Kathe, ông có thể thấy rõ những gì sắp xảy ra – và ông đã lập kế hoạch rời khỏi
Berlin ngay khi có cơ hội. Nếu ở lại, quân hàm SS và vị trí của ông có thể gây
rắc rối: Dưới mắt người Nga, huy hoàng ngày hôm nay có thể trở thành nguy cơ
của ngày mai.
Kathe gần như chẳng biết gì về tình
hình. Cô quá sức bận. Từ sáng sớm đến tối mịt, cô xoay tít mù, hỗ trợ giáo sư
Blaschke ở các bệnh viện và sở chỉ huy hoặc ở phòng khám tư của ông ở quận
Kurfurstendamm. Có năng lực và được nhiều người quý mến, Kathe được các tinh
anh của đảng Nazi tin tưởng hoàn toàn tới mức cô đã phục vụ gần hết tùy tùng
của Hitler – và một lần cho ngài Quốc trưởng.
Lần đó chính là mốc son trong sự nghiệp
của cô. Vào tháng 11/1944, cô và giáo sư Blaschke được triệu tập khẩn cấp đến
sở chỉ huy của Quốc trưởng ở Rastenburg, Đông Phổ. Ở đó, họ thấy Hitler đang bị
đau dữ dội.
Sau này cô nhớ lại, “Mặt ông ấy, nhất là
má bên phải bị sưng khủng khiếp. Răng ông ấy cực lỳ tệ. Tổng cộng, ông ấy có ba
cầu răng giả. Ông ấy chỉ còn tám cái răng hàm trên và ngay cả mấy cái đó cũng
đã được trám bằng vàng. Một cầu răng giả đã hoàn thiện hàm trên của ông và nó
được giữ yên một chỗ bởi mấy cái răng có sẵn. Một trong số đó, cái răng khôn
bên phải, bị sâu cực nặng.” Giáo sư Blaschke nhìn qua cái răng và bảo Hitler
rằng nó cần phải nhổ, chẳng có cách nào chữa được. Giáo sư Blaschke giải thích
rằng ông cần nhổ hai cái răng – một cái răng mọc lệch ở phía sau răng giả và
thứ hai là cái răng sâu nằm bên cạnh. Điều đó có nghĩa là cần cắt xuyên qua cầu
răng giả bằng vàng và bằng sứ ở đằng trước cái răng mọc lệch, cần phải khoan và
cưa khá nhiều. Rồi sau khi nhổ cái răng cuối cùng, vài ngày sau ông sẽ làm một
cầu răng giả mới hoặc gia cố lại cái răng cũ.
Giáo sư Blaschke khá lo lắng về ca phẫu
thuật: nó quá rắc rối và không biết được Hitler sẽ phản ứng ra sao. Các vấn đề
phức tạp còn trở nên phiền hơn vì Hitler không thích gây mê. Kathe nhớ là ông
ta nới với giáo sư Blaschke rằng ông ta chỉ chấp nhận “một lượng tối thiểu.” Cả
giáo sư Blaschke và Kathe đều biết ông ta sẽ đau đớn không chịu nổi; hơn nữa ca
phẫu thuật có thể kéo dài từ 30 đến 45 phút. Nhưng họ chẳng thể làm gì khác.
Giáo sư Blaschke tiêm một mũi cho
Hitler vào hàm trên và ca phẫu thuật bắt đầu. Kathe đứng bên cạnh ngài Quốc
trưởng, một tay kéo căng má ông ta, tay kia cầm một cái gương. Mũi khoan ken
két của giáo sư Blaschke nhanh chóng khoan vào cầu răng giả. Rồi ông đổi một
chút và bắt đầu cưa. Hitler ngồi im – cô nhớ lại, “như bị đóng băng.” Cuối
cùng, giáo sư Blaschke làm sạch cái răng và nhanh chóng nhổ. Sau này Kathe nói,
“Suốt ca phẫu thuật, Hitler không hề cử động, cũng không thốt một lời. Thật là
phi thường. Bọn tôi thắc mắc không hiểu sao ông ấy có thể chịu nổi cơn đau.”
Lần đó đã là năm tháng trước; có cảm
giác như chưa từng có chuyện gì về cầu răng giả lung lay của ngài Quốc trưởng.
Ngoài những người trực tiếp thân cận với Hitler, rất ít ai biết về ca phẫu
thuật. Một trong các quy tắc cốt yếu cho những ai làm việc cho ngài Quốc trưởng
là mọi chuyện về ông ta, đặc biệt là bệnh tình, là tối mật.
Kathe rất giỏi giữ bí mật. Ví dụ như,
cô biết rằng một bộ răng giả đặc biệt đã được làm cho vị đệ nhất phu nhân chưa
kết hôn nổi tiếng của đế chế Đức. Giáo sư Blaschke định sửa cái răng vàng lần
tới khi bà ta đến Berlin. Tình nhân của Hitler, Eva Braun, chắc chắn rất cần
nó.
Cuối cùng, Kathe biết một trong những bí
mật được bảo vệ cẩn thận nhất. Cô có trách nhiệm gửi bộ dụng cụ nha khoa hoàn
chỉnh đến bất cứ nơi nào Quốc trưởng đi tới. Ngoài ra, cô đang chuẩn bị một cầu
răng giả mới có mấy thân răng bàng vàng cho một trong bốn thư ký của Hitler:
Johanna Wolf, 45 tuổi, béo ú và lùn tịt. Kathe sẽ nhanh chóng chỉnh sửa bộ cầu
răng giả mới cho “Wolfie”, ở trong phòng phẫu thuật của điện Reichskanzlei. Cô
đã qua lại giữa phòng phẫu thuật của giáo sư Blaschke và điện Reichskanzlei gần
như hàng ngày trong suốt chín tuần qua. Adolf Hitler đã ở đó kể từ ngày 16/1.
Khi đêm mùa xuân khép lại, thành phố có
vẻ vắng lặng. Berlin đổ nát trông ma quái và thảm thương, trải dài dưới một ánh
trăng mờ ảo, là một mục tiêu rõ ràng cho quân thù trong đêm. Bên dưới mặt đất,
người dân Berlin đang chờ đợi những kẻ đánh bom và tự hỏi sáng mai ai trong số
họ sẽ còn sống.
Vào lúc 9 giờ tối, Không lực Hoàng gia
quay lại. Còi báo động rền vang lần thứ tư trong 24 giờ qua, và cuộc tấn công
lần thứ 317 vào thành phố bắt đầu. Trong sở chỉ huy quân sự ở Hohenzollerndamm,
Thiếu tướng Hellmuth Reymann bình tĩnh ngồi bên bàn làm việc, không chú ý nhiều
đến tiếng hỏa lực phòng không và tiếng bom nổ ầm vang. Ông đang liều mạng chạy
đua với thời gian – vốn chẳng còn lại bao nhiêu.
Chỉ mới 16 ngày trước, điện thoại nhà riêng ở
Dresden của tướng Reymann đã đổ chuông. Ở bên kia đầu dây là Đại tướng Wilhelm
Burgdorf, sĩ quan hành chính của Hitler. Tướng Burgdorf nói, “Quốc trưởng đã
chỉ định anh làm tư lệnh quân sự của Dresden.”
Thoạt đầu, Reymann thậm chí không thể đáp
lời. Thủ phủ của bang Saxony từ thế kỷ 16 với những ngọn tháp nhọn, những con
đường rải sỏi và những tòa lâu đài trong truyện cổ tích, đã bị phá hủy gần như
hoàn toàn trong ba cuộc không kích lớn. Đau lòng trước cảnh tàn phá của thành
phố cổ thân yêu, tướng Reymann đã nổi giận. Ông hét lên, “Đi nói với ông ta là
ở đây chẳng còn gì mà bảo vệ ngoài gạch vụn cả,” rồi gác máy. Những lời giận dữ
của ông chỉ là nóng giận nhất thời. Một tiếng sau, tướng Burgdorf gọi lại và
nói, “Quốc trưởng đổi lại, chỉ định anh làm tư lệnh Berlin.”
Ngày 6/3, tướng Reymann nhận lệnh. Trong
vòng vài giờ, ông phát hiện ra sự thật kinh hoàng. Dù Hitler đã tuyên bố Berlin
là một Festung (pháo đài), pháo đài này chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của
ngài Quốc trưởng. Thành phố chẳng được chuẩn bị gì để chống lại các cuộc tấn
công. Không có kế hoạch, không có lực lượng phòng vệ và gần như không có quân
đội. Tệ hơn, không có lương thực dự trữ cho cư dân trong thành phố; còn kế
hoạch di tản phụ nữ, người già và trẻ em đơn giản là không tồn tại.
Bây giờ, tướng Reymann đang chạy đua
với thời gian để cố gỡ rối tình hình. Những vấn đề của ông rất nan giải: ông
phải kiếm quân lính, súng ống, đạn dược và thiết bị để bảo vệ thành phố ở đâu?
Rồi các kỹ sư, máy móc và vật liệu để xây công trình phòng ngự? Ông có được
phép di tản phụ nữ, trẻ em và người già? Nếu không, làm sao ông cung cấp thực
phẩm và bảo vệ cho họ khi cuộc bao vây bắt đầu? Và hết lần này tới lần khác đầu
óc ông quay lại với câu hỏi lớn nhất: thời gian – còn bao nhiêu thời gian?
Nội việc bảo vệ các sĩ quan cấp cao đã
đủ khó khăn. Đến tận bây giờ, vào lúc cuối ngày, tướng Reymann mới bổ nhiệm một
tham mưu trưởng, Đại tá Hans Refior. Đại tá Refior vừa đến Berlin vài giờ
trước, và ông còn giật mình trước sự hỗn loạn của Berlin hơn cả tướng Reymann.
Mấy ngày trước, trên tờ tạp chí ảnh Das Reich, đại tá Refior đã đọc một bài báo
khẳng định rằng Berlin là không thể đánh chiếm được. Ông đặc biệt nhớ một dòng
nói thế này: “Với hàng phòng thủ này, Berlin như một con nhím xù lông.” Nếu vậy
thì, hệ thống phòng thủ đó được cất giấu kỹ quá. Đại tá Refior đếm chẳng được
mấy cái.
Trong suốt bao nhiêu năm làm một quân
nhân chuyên nghiệp, tướng Reymann 53 tuổi có mái tóc hoa râm chưa bao giờ tưởng
tượng ra mình có ngày phải đối mặt với một nhiệm vụ như vậy. Ông vẫn chưa tìm
ra câu trả lời cho từng vấn đề - và phải nhanh chóng. Liệu có thể cứu được
Berlin không?
Tướng Reymann quyết làm mọi điều mình có
thể. Có vô số ví dụ trong lịch sử quân sự thế giới về những chiến thắng khi
mà thất bại tưởng như là không thể tránh khỏi. Ông nghĩ đến Vienna đã phòng thủ
thành công trước người Thổ Nhĩ Kỳ năm 1683, và Đại tướng Graf von Gnei-senau,
tham mưu trưởng của Blucher, người đã giữ vững Kolberg năm 1806. Đúng vậy, đó
là những so sánh không tương xứng, nhưng có lẽ chúng đem lại chút hi vọng.
Tướng Reymann biết mọi chuyện đều phụ thuộc vào quân Đức trấn giữ mặt trận sông
Oder, và vào viên tướng chỉ huy họ.
Những người vĩ đại nhất đã không còn –
Rommel, Von Rundstedt, Von Kluge, Von Manstein – những nhà chỉ huy tài ba có
tên tuổi nổi tiếng. Họ đều đã biến mất, đều đã chết, bị mất tín nhiệm hoặc bị
buộc phải nghỉ hưu. Giờ đây, hơn bao giờ hết, đất nước và quân đội đang cần một
người chỉ huy – một Rommel táo bạo, một Von Rundstedt tỉ mỉ. Sự an toàn của
Berlin và có lẽ cả khả năng sống sót của nước Đức sẽ tùy thuộc vào điều này.
Nhưng người đó đang ở đâu?
*************************
II- VỊ TƯỚNG
1.
Ngày 22/3, bình minh mờ sương và lạnh
lẽo. Phía nam thành phố, đường Reichsstrasse 96 chạy dài qua các rừng thông đẫm
sương, những giọt sương sáng lấp lánh trên mặt đường nhựa. Vào buổi sớm mai se
lạnh của ngày thứ hai của mùa xuân, giao thông trên con đường này cực kỳ đông
đúc – và dù đang thời chiến, chất lượng giao thông ở Đức vẫn tuyệt đến không
tưởng. Vài chiếc xe tải hạng nặng chạy trên đường, chở theo những chiếc tủ hồ
sơ kềnh càng, những hòm tài liệu, thiết bị văn phòng và thùng các tông. Những
chiếc xe tải khác thì chất
cao các
tác phẩm nghệ thuật – đồ nội thất đẹp đẽ, tranh ảnh, đồ đồng, đồ sứ và tượng.
Có một chiếc xe tải chở đằng sau một pho tượng bán thân của Julius Caesar đang
lúc lắc qua lại.
Xen kẽ giữa mấy chiếc xe tải là những
chiếc xe hơi đủ loại cỡ lớn – những chiếc Horch, Wanderer và limousine
Mercedes. Tất cả đều mang huy chương chữ vạn mạ bạc, là xe của Đảng Nazi. Xe
nào cũng chạy dọc theo đường Reichsstrasse 96 theo cùng một hướng: hướng nam.
Trong xe là các quan chức cao cấp trong đảng Nazi của Đệ tam Quốc xã – hay
“những con chim trĩ bảy màu,” những người được vinh dự trao tặng huân chương
chữ vạn mạ vàng, tượng trưng cho những tinh hoa của đảng Nazi. Những con chim
trĩ bảy màu, cùng với vợ con và gia sản, đang đi di tản. Gương mặt cứng nhắc và
lạnh lùng trong bộ đồng phục màu nâu, những người đàn ông này nhìn thẳng tắp về
phía trước, như thể bị ám ảnh về khả năng bị chặn đường và bắt quay lại nơi mà
họ không muốn về: Berlin.
Ở phần đường bên kia, một chiếc xe sĩ
quan, dòng Mercedes cỡ lớn, có gắn lá cờ kim loại màu đỏ, trắng và đen kẻ ô
vuông của một vị Tư lệnh lục quân trên tấm chắn bùn bên trái, đang chạy nhanh
về hướng bắc. Trong xe, Thượng tướng Gotthard Heinrici, mặc áo da cừu cũ, cổ
choàng khăn, đang khom người ngồi cạnh viên tài xế, nhìn ra ngoài đường đầy vẻ
chán chường. Ông biết con đường cao tốc này, giống như mọi vị tướng khác của đế
chế Đức. Anh họ của tướng Heinrich, Nguyên soái Gerd von Rundstedt, từng mỉa
mai con đường này là “der Weg zur Ewigkeit” – con đường dẫn đến sự vĩnh cửu. Nó
đã đưa nhiều người từ một sĩ quan cao cấp thành kẻ bị lãng quên, vì
Reichsstrasse 96 là đường dẫn trực tiếp đến Tổng bộ chỉ huy quân sự Đức cách
Berlin 18 dặm. Ngoài các tướng tá có quân hàm cao, rất ít người Đức biết được
vị trí của tổng bộ này. Ngay cả cư dân trong vùng cũng không biết rằng cơ quan
đầu não quân sự của nước Đức của Hilter nằm ngay bên ngoài thị trấn Zossen cổ
xưa có từ thế kỷ XV của họ, nằm sâu trong rừng và được ngụy trang cẩn thận.
Zosen là điểm đến của tướng Heinrici.
Nếu như dòng xe cộ, bằng chứng ồn ào cho
thấy các cơ quan chính phủ đang trên đường di dời, có gây ấn tượng gì với vị
tướng, thì ông cũng không nói ra điều đó với viên sĩ quan phụ tá 36 tuổi của
mình, đại úy Heinrich von Bila, đang ngồi đằng sau cùng với người lính cần vụ
của ông, Balzen. Trước khi bình minh lên, họ đã khởi hành từ bắc Hungary, nơi
tướng Heinrici đã chỉ huy đoàn quân thiết giáp số 1 và các đoàn quân số I của
Hungary. Họ đã bay từ đó tới Bautzen, gần biên giới Đức – Tiệp, và từ đây tiếp
tục đi bằng xe hơi. Và giờ đây, mỗi giờ đồng hồ trôi qua lại đưa vị tướng
Heinrici 58 tuổi, một trong những chuyên gia phòng thủ của quân đội Đức, đến
gần hơn với bài kiểm tra lớn nhất trong sự nghiệp quân sự 40 năm của ông.
Tướng Heinrici sẽ được biết chi tiết về
nhiệm vụ mới của mình ở Zossen – nhưng ông đã biết trước là mình không cần quan
tâm đến quân Đồng minh phương Tây, mà là kẻ thù cũ của ông, quân Nga. Đó là một
nhiệm vụ rất ác liệt, và với Heinrici, rất kinh điển: ông được bổ nhiệm chỉ huy
Tập đoàn quân Vistula cùng với mệnh lệnh cầm chân quân Nga bên bờ sông Oder và
cứu lấy Berlin.
Thình lình, còi báo động không kích vang
lên ầm ĩ. Tướng Heinrici giật mình quay lại nhìn mấy căn nhà gỗ mà họ vừa chạy
ngang qua. Chẳng hề có dấu hiệu nào của một cuộc thả bom hay của máy bay Đồng
minh. Hồi còi báo động vẫn kéo dài, rồi nhỏ dần đằng sau họ. Thứ làm ông giật
mình không phải âm thanh đó. Ông chẳng lạ gì các cuộc đánh bom. Điều khiến ông
ngạc nhiên là ông nhận ra sâu trong lòng nước Đức, ngay cả những ngôi làng nhỏ
thế này cũng có báo động không kích.
Tướng Heinrici chầm chậm xoay người lại.
Dù ông từng chỉ huy các đội quân từ đầu cuộc chiến năm 1939, đầu tiên ở mặt trận
phía Tây, rồi sau đó là ở Nga năm 1941, ông đã không có ở Đức trong hơn hai năm
qua và ông không rõ ảnh hưởng của toàn bộ cuộc chiến lên mặt trận gia đình. Ông
nhận ra mình như một người khách lạ ngay giữa đất nước mình. Ông thấy chán nản;
ông không hề mong đợi những thứ như thế này.
Rất ít tướng lĩnh Đức từng trải qua cuộc
chiến này nhiều hơn ông – và ngược lại, rất ít người có quân hàm tương tự lại
có thành tựu ít hơn ông. Ông không phải là Rommel táo bạo, có các chiến công
được người Đức ca ngợi và rồi được Hitler, vốn nhạy bén về mặt truyên truyền,
vinh danh bằng một cây gậy chỉ huy của nguyên soái. Ngoài các mệnh lệnh trên
chiến trường, tên của tướng Heinrici hiếm khi xuất hiện trên các tài liệu. Danh
vọng và vinh quang mà mọi người lính đều theo đuổi đã lảng tránh ông, vì trong
nhiều năm làm tư lệnh đánh trận ở mặt trận phía đông, ông đã chiến đấu với quân
Nga trong một vai trò mà các đặc điểm của nó đã quẳng ông vào chỗ bị lu mờ.
Những cuộc hành quân của ông không có
được vinh quang tiến quân thần tốc, mà chỉ có nỗi tuyệt vọng khi phải rút quân
đầy gian nan. Chuyên môn của ông là phòng thủ, và ở mặt này ông có rất ít người
ngang tầm. Là một chiến lược gia thận trọng, chuẩn xác, một vị tư lệnh có cung
cách nho nhã dễ khiến người ta mắc lừa, tuy vậy tướng Heinrici lại là một vị
tướng cứng rắn, xuất thân từ một ngôi trường quý tộc lâu đời, từ lâu ông đã học
cách trấn giữ phòng tuyến với số quân tối thiểu và với các giá thấp nhất.
Một trong số các sĩ quan tham mưu của ông
từng nhận định, “Heinrici chỉ rút quân khi tình hình đã quá xấu – và chỉ sau
khi đã cân nhắc kỹ càng.” Trong một cuộc chiến mà đối với ông là một cuộc rút
lui chậm chạp và đau khổ từ ngoại ô Moscow đến dãy Carpathian, tướng Heinrici
đã trấn giữ hết lần này tới lần khác trong những tình thế gần như là vô vọng.
Ngoan cố, ngang ngạnh và yêu cầu cao,
ông đã nắm lấy mọi cơ hội – ngay cả khi đó chỉ là trấn giữ thêm một dặm trong
một giờ nữa. Ông chiến đấu ác liệt tới mức các sĩ quan và lính của ông đặt cho
ông một biệt danh đầy tự hào “Unser Giftzwerg” (*) – thằng cha bé nhỏ gan góc
của chúng ta .
Khi gặp ông lần đầu, họ thường lúng túng
trước lời mô tả “gan góc.” Ông thuộc kiểu thấp bé nhẹ cân, với đôi mắt xanh
trầm lặng, mái tóc vàng sáng và hàng ria mép gọn ghẽ, thoạt trông Heinrici
giống một ông giáo hơn là một vị tướng – và còn là một ông giáo ăn mặc xoàng
xĩnh.
Đó là một mối lo ngại lớn của viên sĩ
quan phụ tá của ông, đại úy Von Bila, vì tướng Heinrici không quan tâm mấy về
việc trông cho giống một ông thượng tướng. Đại úy Von Bila thường khó chịu về
vẻ ngoài của tướng Heinrici – nhất là đôi ủng và áo khoác. Tướng Heinrici ghét
mang ủng cao tới gối được đánh bóng loáng vốn phổ biến trong giới sĩ quan Đức.
Ông thích mang ủng thấp, cùng với quần bó
bằng da có khóa bên hông giống thời Thế chiến thứ nhất. Còn về áo khoác, ông có
mấy cái, nhưng ông lại thích cái áo da cừu cũ kỹ, và không chịu tách rời nó bất
chấp mọi nỗ lực của đại úy Von Bila. Tương tự, tướng Heinrici thường mặc mấy bộ
đồng phục cho tới khi chúng đã mòn xơ cả chỉ mới thôi. Và vì ông tin rằng cần
mang hành trang gọn nhẹ, tướng Heinrici hiếm khi mang theo nhiều hơn một bộ
đồng phục – ngoài bộ mang trên lưng.
...............................
(*) “Unser Giftzwerg” nghĩa đen là
“người lùn độc địa của chúng ta” – và từ này thường được áp dụng cho Heinrici
với ý nghĩa này bởi những người không thích ông.
Đại úy Von Bila luôn là người khơi mào
khi nào thì tướng Heinrici cần trang phục mới – và anh phát khiếp mấy cuộc đọ sức
này, vì anh thường thua cuộc. Lần cuối đại úy Von Bila liều mình khơi dậy chủ
đề, anh tiếp cận một cách thận trọng. Anh ngập ngừng thăm dò Heinrici, “Thưa
Thượng tướng, chúng ta có nên tìm lúc nào đó may đồng phục mới không ạ?” Tướng
Heinrici nhìn Von Bila qua cặp kính mắt và nhẹ nhàng hỏi, “Anh thực sự nghĩ vậy
à, Bila?” Nhất thời, đại úy Von Bila nghĩ mình đã thành công. Rồi Giftzwerg
lạnh lùng hỏi, “Để làm gì?” Kể từ đó, đại úy Von Bila không bao giờ nhắc lại
chuyện này nữa.
Nhưng nếu như Heinrici trông không giống
một vị tướng, thì ông hành động đúng như một vị tướng. Ông là một người lính
đến từng centimet, và với những đội quân mà ông chỉ huy, đặc biệt là sau thời
gian kháng cự ở Moscow, ông là một huyền thoại.
Vào tháng 12/1941, cuộc tấn công chớp
nhoáng của Hitler vào nước Nga cuối cùng đã bị chặn đứng cứng ngắc ngay trước
cửa ngõ vào Moscow. Khắp trận tuyến của quân Đức, hơn 1.250.000 lính quân trang
gọn nhẹ đã bị mắc kẹt trong mùa đông khắc nghiệt đến sớm. Khi quân Đức loạng
choạng tiến lên trong băng tuyết, các đội quân Nga mà Hitler và các chuyên gia
của ông ta vẫn luôn coi thường bỗng bất thình lình xuất hiện giống như từ trên
trời rơi xuống. Trong một trận chiến sống còn, quân Soviet đã huy động 100 sư
đoàn gồm những người lính đã quen với mùa đông nơi đây chống lại quân xâm lược.
Quân Đức bị đẩy lui với những thất bại
đáng kinh ngạc, có lúc nó giống như cuộc rút lui khủng khiếp của Napoleon vào
năm 1812 được lặp lại - ở quy mô lớn hơn và đẫm máu hơn.
Phòng tuyến cần được gia cố. Tướng
Heinrici bị giao cho trấn giữ khu vực gay go nhất. Ngày 26/1/1942, ông được
giao cho chỉ huy phần tàn dư của đoàn quân số IV, trấn giữ khu vực ngay chính
diện Moscow, là nòng cốt trong phòng tuyến của Đức. Bất kỳ cuộc rút lui nghiêm trọng
nào tại khu này cũng sẽ gây nguy hiểm cho các cánh quân hai bên sườn và có thể
châm ngòi cho một cuộc hỗn loạn.
Tướng Heinrici nhận nhiệm vụ vào một ngày
đặc biệt lạnh; nhiệt độ xuống dưới - 41ºC. Nước đóng băng ngay trong nồi hơi xe
lửa; súng máy không bắn được; không thể đào chiến hào và hố cá nhân vì mặt đất
cứng như sắt. Những người lính với trang bị mong manh của tướng Heinrici đang
chiến đấu trong tuyết cao tới thắt lưng, với các trụ băng dính trên mũi và lông
mi. Sau này ông nhớ lại, “Tôi được ra lệnh phải trấn thủ tới khi cuộc tấn công
lần đó chắc chắn chiếm được Moscow. Đã thế người của tôi đang chết dần chết mòn
– và không chỉ vì đạn của quân Nga. Phần lớn họ đều chết rét.”
Họ trấn thủ gần 10 tuần. Tướng Heinrici
dùng mọi cách có thể, cả chính thống lẫn phi chính thống. Ông hô hào quân mình,
thúc giục họ, thăng chức, giáng chức – và hết lần này tới lần khác không tuân
theo mệnh lệnh kéo dài bất di bất dịch của Hitler, “Starre Verteidigung”- chống
cự thật nhanh. Mùa xuân đó, ban tham mưu của đoàn quân số IV ước tính là trong
suốt mùa đông dài, Giftzwerg đã có nhiều lúc bị quân thù áp đảo ít nhất là một
chọi mười hai.
Bên ngoài Moscow, tướng Heinrici đã phát
triển một kỹ thuật giúp ông nổi tiếng. Khi ông biết quân Nga sắp tấn công vào
một quân khu cụ thể, ông sẽ ra lệnh cho quân của mình rút lui vào đêm hôm trước
đến các vị trí mới ở đằng sau 1-2 dặm. Những loạt pháo của quân Nga sẽ bắn vào
tiền tuyến trống không. Như Heinrici đã chỉ ra: “Nó giống như đập vào cái túi
rỗng. Cuộc tấn công của quân Nga sẽ đánh mất tốc độ của nó, vì người của tôi sẽ
sẵn sàng mà chưa bị tổn hại gì. Rồi quân của tôi trong những quân khu chưa bị
tấn công sẽ tiến vào và giành lại tiền tuyến ban đầu.” Bí quyết là phải biết
được khi nào quân Nga chuẩn bị tấn công. Từ các báo cáo tình báo, quân tuần tra
và thẩm vấn tù binh, cùng với giác quan thứ sáu phi thường, tướng Heinrici đã
xác định thời gian và địa điểm chính xác như làm toán.
Không phải lúc nào cũng có thể áp dụng
những phương pháp đó, và khi làm, tướng Heinrici phải hết sức cẩn trọng –
Hitler đã bỏ tù và thậm chí bắn vài viên tướng vì đã bỏ ngoài tai lệnh cấm rút
lui của ông ta. Sau này Heinrici nói, “Trong khi chúng tôi hầu như không thể
dời một lính gác từ cửa sổ tới cửa ra vào mà không được ông ta cho phép, nhưng
những lúc có thể, một số trong đám chúng tôi vẫn tìm ra cách để tránh né mấy
mệnh lệnh ngày càng mang tính tự sát hơn của ông ta.”
Vì những lý do rõ ràng, Heinrici chưa bao
giờ là người được Hitler hay nội các của ông ta ưa thích. Lai lịch quân sự bảo
thủ và cao quý của ông đòi hỏi ông phải chấp hành nghiêm chỉnh lời tuyên thệ
trung thành của mình với Hitler, nhưng tiếng gọi của một nền độc tài cao hơn
luôn đến trước. Từ đầu cuộc chiến, tướng Heinrici đã đối nghịch với Quốc trưởng
vì quan điểm tôn giáo của mình.
Là con trai của một giáo sĩ Tin Lành, mỗi
ngày tướng Heinrici đọc một đoạn Kinh thánh, đi lễ ngày chủ nhật và khăng khăng
đòi đoàn quân của mình phải tuần hành trong nhà thờ. Mấy chuyện này không hợp ý
Hitler lắm. Một vài dấu hiệu rõ ràng đã được chỉ cho Heinrici rằng Hitler nghĩ
một vị tướng mà lại bị thấy công khai đi nhà thờ thì không được khôn ngoan.
Trong chuyến đi cuối cùng đến Đức, trong
lúc rời khỏi thị trấn Munster, Westphalia, tướng Heinrici được một quan chức
cấp cao trong đảng Nazi đặc biệt từ Berlin tới nói chuyện với ông. Tướng
Heinrici, vốn chưa bao giờ là thành viên của đảng Nazi, được thông báo rằng
“Quốc trưởng thấy các hoạt động tôn giáo của ông không phù hợp với mục đích của
chủ nghĩa quốc xã.” Tướng Heinrici lạnh lùng nghe lời cảnh báo. Chủ nhật sau
đó, ông và vợ con vẫn đi nhà thờ như thường lệ.
Sau đó, ông được thăng chức rất chậm và
đầy miễn cưỡng. Nếu không phải có tài lãnh đạo tyệt vời không thể phủ nhận chắc
ông cũng không được thăng chức, và sự thật là nhiều vị tư lệnh mà ông từng ở
dưới quyền – đặc biệt là Nguyên soái Günther von Kluge – luôn nhấn mạnh là ông
cần được thăng chức.
Cuối năm 1943, tướng Heinrici chịu sự
thù địch của Thống tướng Hermann Goering, một lần nữa vì vấn đề tôn giáo. Tướng
Goering phàn nàn kịch liệt với Hitler rằng trong lần rút lui của đoàn quân số
IV ở Nga, Heinrici đã không tuân theo chính sách tiêu thổ của Quốc trưởng. Ông
ta đặc biệt nhấn mạnh rằng vị tướng đã cố tình không tuân theo mệnh lệnh “đốt
cháy và phá hủy mọi ngôi nhà có người sống” ở Smolensk; trong số những tòa nhà
còn lại có Đại thánh đường của thị trấn.
Heinrici đã nghiêm trang giải thích rằng
“nếu Smolensk bị phá hủy thì lực lượng của tôi đã không thể rút quân qua đó
được.” Câu trả lời không làm cả Hitler và Goering vừa lòng, nhưng nó có đủ
logic quân sự để ông không phải ra Tòa án binh.
Tuy nhiên, Hitler không quên việc này.
Tướng Heinrici, bị trúng hơi độc trong Thế chiến thứ nhất, từ đó bị nhiều chứng
rối loạn dạ dày. Vài tháng sau vụ việc với Goering, Hitler viện cớ mấy căn bệnh
này đã đưa Heinrici vào danh sách không điều động vì “lý do sức khỏe.” Ông nghỉ
hưu trong một nhà điều dưỡng ở Karls- Bad, Tiệp Khắc, và ở đó, theo lời của
Heinrici là, “Bọn họ đơn giản là để tôi ngồi yên đó.” Vài tuần sau khi ông bị
cách chức, lần đầu tiên quân Nga vượt qua được đơn vị cũ của ông, đoàn quân số
IV.
Trong những tháng đầu của năm 1944,
Heinrici vẫn ở Karlsbad, làm một khán giả từ xa trước những sự kiện lớn lao
đang từ từ đưa đế chế Hitler đến bên bờ sụp đổ: cuộc xâm chiếm Normandy của
quân Đồng minh phương Tây vào tháng 6; liên quân Anh-Mỹ tiến vào đất nước hình
chiếc ủng, Italy và chiếm được Rome; vụ ám sát hụt Hitler ngày 20/7; thế công
mạnh mẽ của quân Nga khi chúng tiến qua Đông Âu. Khi tình hình ngày càng nghiêm
trọng hơn, Heinrici thấy cảnh ăn không ngồi rồi của mình thật bực đến không
chịu nổi. Nếu nài xin Quốc trưởng, chắc ông cũng được chỉ huy một Tập đoàn
quân, nhưng ông lại không chịu làm thế.
Cuối cùng, vào cuối mùa hè năm 1944, sau
tám tháng nghỉ hưu cưỡng chế, Heinrici được cho quay về nhiệm vụ - lần này đến
Hungary và chỉ huy binh đoàn thiết giáp số 1 cùng các Tập đoàn quân Hungary số
I đang gặp nguy khốn.
Ở Hungary, Heinrici lại quay trở về cung
cách cũ. Vào cao điểm của cuộc chiến ở đó, Thượng tướng Ferdinand Schörner,
được Hitler chống lưng, và là thượng cấp của Heinrici ở Hungary, đưa ra một quy
tắc là bất kỳ người lính nào bị phát hiện ở lại đằng sau mặt trận không theo
mệnh lệnh “sẽ bị xử bắn ngay lập tức và bêu xác làm gương.” Quá ghê tởm trước
mệnh lệnh đó, tướng Heinrici giận dữ vặn lại: “Những phương pháp như thế chưa
từng được sử dụng dưới quyền của tôi, và sẽ không bao giờ có.”
Dù bị buộc phải rút lui từ bắc Hungary
về Tiệp Khắc, ông đã chiến đấu ngoan cường đến mức vào ngày 3/3/1945, ông được
thông báo rằng Thập tự Hiệp sĩ của ông vừa được trang trí thêm Thanh gươm Lá
sồi – một lời khen tặng đáng ghi nhận đối với một người vốn bị Hitler chán ghét
mãnh liệt. Và bây giờ, chỉ hai tuần sau đó, ông đang hối hả tới Zossen, với tờ
công văn trong túi áo ra lệnh cho ông chỉ huy Tập đoàn quân Vistula.
Khi quan sát con đường Reichsstrasse 96
bị bỏ lại đằng sau chiếc Mercedes đang lao vun vút của mình, tướng Heinrici tự
hỏi con đường này sẽ đưa ông đến đâu. Ông nhớ lại phản ứng của ban tham mưu của
mình khi họ biết được lệnh điều động của ông, và ông được lệnh phải báo cáo với
Đại tướng Heinz Guderian, người đứng đầu Tổng bộ tham mưu của OKH (Oberkommando
des Heeres) – Chỉ huy Cao cấp của Quân đội. Họ đều bị sốc. Viên tham mưu trưởng
của ông hỏi, “Ông có thực sự muốn công việc đó không?”
Đối với các thuộc cấp đang lo lắng, tướng
Heinrici thẳng tính có vẻ như đâm đầu vào rắc rối rồi. Là tư lệnh mặt trận sông
Oder, phòng tuyến chủ chốt cuối cùng của hàng phòng ngự giữa quân Nga và
Berlin, ông sẽ thường xuyên bị đặt dưới sự giám sát của Hitler và “mấy thằng hề
trong cung” – như một trong số các sĩ quan của Heinrici gọi bọn họ.
Tướng Heinrici chưa bao giờ làm một kẻ
nịnh nọt, và cũng chưa từng học cách bóp méo sự thật; làm sao ông có thể tránh
va chạm với những kẻ quanh Quốc trưởng? Và ai cũng biết chuyện gì sẽ xảy đến
với những người bất đồng ý kiến với Hitler.
Tận tâm hết mức có thể, các sĩ quan thân
cận với Heinrici đã đề nghị ông nên tìm cớ không nhận nhiệm vụ này – có lẽ là
“lý do sức khỏe.” Thật đáng ngạc nhiên, tướng Heinrici đơn giản đáp lại rằng
ông sẽ tuân theo mệnh lệnh – “giống như một binh nhì Schultz hay Schmidt nào
đó.” Bây giờ ông đã đến ngoại ô Zossen, tướng Heinrici không thể chịu nổi khi
nhớ lại cảnh tượng lúc ông khởi hành, Ban tham mưu của ông nhìn ông “như thể
tôi là một con cừu non sắp bị đưa đi giết mổ.”
2.
Ở cổng chính của căn cứ, xe của tướng
Heinrici nhanh chóng được thông qua. Hàng rào bảo vệ sơn hai màu đỏ đen bên
trong được kéo qua, và chiếc xe chạy vào sở chỉ huy Zossen giữa hàng người đứng
chào xôn xao. Có cảm giác như họ vừa bước vào một thế giới khác. Về một mặt
nào đó thì đúng là như thế - một thế giới quân sự, kỷ luật, được ngụy trang
và che giấu kỹ càng, chỉ có một số ít người biết và được nhận dạng bằng các mật
danh “Maybach I” và “Maybach II.”
Khu liên hợp mà họ vừa lái xe qua là
Maybach I – trụ sở của OKH, Bộ Chỉ huy Cao cấp của Quân đội, đứng đầu là Đại
tướng Guderian. Ông chỉ huy các đội quân ở mặt trận phía Đông từ nơi này. Cách
đó một dặm về phía trong là một khu hoàn toàn tách biệt: Maybach II, trụ sở của
OKW, Bộ Chỉ huy Cao cấp của các Lực lượng Vũ trang. Dù cái tên được đánh số
hàng thứ hai nhưng Maybach II lại có thẩm quyền cao hơn – trụ sở của Tư lệnh
Tối cao, Hitler.
Không giống Đại tướng Guderian, người
trực tiếp chỉ huy từ trụ sở OKH của mình, đội hình bậc thang cao nhất của OKW –
Tổng tham mưu của OKW, Nguyên soái Wil-helm Keitel, và Tổng giám sát, Thượng
tướng Alfred Jodl – luôn kề cận bên Hitler dù ông ta có đi đâu. Chỉ có bộ máy
vận hành của OKW là nằm lại Zossen. Keitel và Jodl chỉ huy các đội quân ở mặt
trận phía tây thông qua đó, ngoài ra còn dùng nó làm cơ quan thu thập và phân
phối thông tin đưa mọi mệnh lệnh của Hitler đến toàn bộ các lực lượng vũ trang
của Đức.
Do vậy, Maybach II là thần của các vị
thần, hoàn toàn tách biệt khỏi sở chỉ huy của Guderian đến mức rất ít sĩ quan
của ông được phép vào trong đó. Sự phong bế kín kẽ tới mức hai Sở chỉ huy còn
được ngăn cách về mặt vật lý bằng những dãy hàng rào kẽm gai thường có lính gác
đi tuần. Hitler đã tuyên bố vào năm 1941 rằng không ai có thể biết nhiều hơn
phận sự của mình. Trong sở chỉ huy của tướng Guderian, mọi người nói rằng “nếu
quân địch có chiếm được OKW thì chúng ta vẫn sẽ ổn và đi làm bình thường thôi:
chúng ta có biết gì về chỗ đó đâu.”
Bên dưới sự bảo vệ của tán rừng, chiếc xe
của tướng Heinrici chạy theo một trong số mấy con đường đất nhỏ hẹp đan chéo
qua khu liên hợp. Rải rác giữa những gốc cây không ngay hàng thẳng lối là những
tòa nhà bê tông thấp. Khoảng cách giữa các căn nhà thưa tới mức chúng hoàn toàn
được các ngọn cây che phủ, nhưng để cho chắc chắn, chúng được sơn ngụy trang
màu xanh lá, nâu, đen u ám. Các phương tiện đi lại đậu phía ngoài mấy con đường
– bên cạnh những tòa nhà trông như trại lính phủ lưới ngụy trang. Lính gác đứng
khắp nơi, và ở những điểm chiến lược quanh khu trại, những gò đất thấp nhô lên
trên, chứa các boongke có lính ở trong.
Đó là phần nổi của cơ sở ngầm mở rộng bên
dưới toàn khu trại, phần ngầm của Maybach I và Maybach II còn rộng hơn cả phần
trên mặt đất. Mỗi tòa nhà có ba tầng hầm, nối với nhau bằng các hành lang. Cơ
sở ngầm lớn nhất là “Exchange 500”
– tổng đài thông tin liên lạc bằng radio quân sự, điện báo và điện thoại lớn
nhất nước Đức. Nơi này hoàn toàn tự vận hành, có hệ thống điều hòa không khí
(gồm một hệ thống lọc đặc biệt nhằm chống tấn công bằng hơi độc), hệ thống cấp
nước, bếp và không gian sinh hoạt riêng biệt. Nó nằm sâu 20m dưới lòng đất –
tương đương một tòa nhà bảy tầng dưới đất.
Exchange 500 là cơ sở vật chất duy nhất
mà OKH và OKW dùng chung. Ngoài việc kết nối hai Sở chỉ huy và Berlin với mọi
tư lệnh lục quân, không quân và hải quân cấp cao ở xa, nơi đây còn là tổng đài
liên lạc chính của chính phủ Đức quốc xã và các cơ quan điều hành. Nó được hoàn
thành vào năm 1939, được thiết kế để phục vụ cho một đế chế rộng bao la.
Trong phần thân chính hay phòng đặt các
đường dây nối đi xa, hàng dãy nhân viên trực ngồi trước những tấm bảng có đèn
nhấp nháy; trên mỗi tấm bảng có một tấm thẻ nhỏ ghi tên một thành phố nào đó –
Berlin, Prague, Vienna, Copenhagen, Oslo,… Nhưng đèn của một vài bảng điều
khiển đã tắt – những tấm bảng đó vẫn còn ghi tên của Athens, Warsaw, Budapest,
Rome và Paris.
Mặc dù đã cẩn thận ngụy trang, khu liên
hợp Zossen đã từng bị đánh bom. Tướng Heinrici có thể thấy bằng chứng rõ ràng
khi xe của ông dừng bên ngoài tòa nhà chỉ huy của tướng Guderian. Khu vực này
lỗ chỗ hố bom, cây bị bật gốc, và có mấy tòa nhà bị hư hại nặng. Nhưng hậu quả
của cuộc đánh bom đã được giảm thiểu tối đa nhờ kiến trúc kiên cố của các tòa
nhà – một số có tường dày tới 1m (*).
(*) Lời dẫn của tác giả:
Thực sự thì, Zossen đã bị quân Mỹ đánh
bom dữ dội chỉ bảy ngày trước đó, vào ngày 15/3, theo yêu cầu của người Nga.
Thông điệp từ Nguyên soái Sergei V. Khudyakov của Ban tham mưu Hồng quân gửi
đến Đại tướng John R. Deane, trưởng Phái bộ Quân sự Hoa Kỳ tại Mos-cow, giờ
đang được lưu tại Washington và Moscow, và xuất hiện ở đây lần đầu, trong một
tài liệu đầy ngạc nhiên vì nó cho thấy quy mô của tình báo Nga tại Đức: “Đại
tướng Deane thân mến: Theo nguồn tin mà chúng tôi có được, Bộ tổng tham mưu của
Quân đội Đức nằm cách Berlin 38km về phía nam, trong một khu hầm ngầm được gia
cố đặc biệt mà người Đức gọi là ‘Thành lũy.’
Khu hầm ngầm nằm cách Zossen 5,5 - 6km về
phía nam-đông nam và cách con đường cao tốc gần đó 1-1,5km về phía đông�
Theo cùng nguồn tin đó thì việc khởi công
xây công sự ngầm này bắt đầu từ năm 1936. Vào năm 1938 và 1939, khả năng chịu
bom không kích và súng phun lửa của khu công sự được người Đức kiểm tra. Tôi
mong ngài, thưa ngài Đại tướng thân mến, sẽ không từ chối ra lệnh cho không lực
của quân Đồng minh đánh bom ‘Thành lũy’ càng sớm càng tốt bằng bom hạng nặng.
Tôi chắc chắn kết quả là… Bộ tổng tham mưu của Đức, nếu nó vẫn nằm ở đó, sẽ
chịu nhiều thiệt hại và tổn thất khiến nó không thể làm việc bình thường… và
[có thể] phải di dời. Vì thế, người Đức sẽ mất một Sở chỉ huy và trung tâm
thông tin liên lạc được tổ chức tốt. Đính kèm theo đây là một tấm bản đồ có vị
trí chính xác của [trụ sở] Bộ tổng tham mưu Đức.”
Trong tòa nhà chính, bằng chứng của cuộc
tấn công còn rõ ràng hơn. Người đầu tiên mà tướng Heinrici và đại úy Von Bila
gặp là Trung tướng Hans Krebs, Tham mưu trưởng của tướng Guderian, đã bị thương
trong cuộc không kích. Chiếc kính một mắt đeo bên mắt phải, ông ngồi sau bàn
làm việc trong một văn phòng gần văn phòng của tướng Guderian, đầu quấn băng
trắng. Tướng Heinrici không quan tâm nhiều về tướng Krebs. Dù vị Tham mưu
trưởng này cực kỳ thông minh, tướng Heinrici thấy ông ta “là một người đàn ông
không chịu tin sự thật, người có thể đổi trắng thay đen để làm giảm thiểu tình
hình thực sự cho Hitler nghe.”
Tướng Heinrici nhìn ông ta. Bỏ qua sự
tinh tế, ông đột ngột hỏi:
“Ông bị thương làm sao vậy?”.
Tướng Krebs nhún vai. Ông đáp:
“Ồ không có gì. Không có gì đâu.”
Krebs vẫn luôn thản nhiên như thế. Trước
cuộc chiến, ông từng là tùy viên quân sự Đại sứ quán Đức tại Moscow, và ông nói
tiếng Nga gần như hoàn hảo. Sau khi ký Hiệp ước Trung lập Nga-Nhật năm 1941,
Stalin đã ôm Krebs và nói, “Chúng ta sẽ luôn là bạn.” Giờ đây, trong lúc ngẫu
nhiên nói chuyện với Heinrici, Krebs nói rẳng mình vẫn đang học tiếng Nga. Ông
nói, “Mỗi sáng tôi đặt một quyển từ điển trên một cái kệ bên dưới tấm gương và
học vài từ trong lúc cạo râu.” Heinrici gật đầu. Krebs sẽ thấy mớ tiếng Nga của
mình hữu dụng nhanh thôi.
Vào lúc đó, Thiếu tá Freitag von
Loringhonven, sĩ quan phụ tá của tướng Guderian, cùng nhập hội với bọn họ. Đi
cùng ông là Đại úy Gerhard Boldt, một thành viên khác trong ban tham mưu cá
nhân của tướng Guderian. Họ trịnh trọng chào Heinrici và Von Bila, rồi đi cùng
hai người tới văn phòng của Đại tướng. Với Von Bila, có vẻ như ai cũng mặc bộ
đồng phục chiến trường màu xám được cắt may và ủi cẩn thận, mang ủng cao bóng
loáng, cùng với phù hiệu màu đỏ mang quân hàm trên cổ áo. Heinrici, đi phía
trước thiếu tá Von Loringhonven, có vẻ lạc quẻ về mặt trang phục như thường lệ
- đặc biệt là nhìn từ đằng sau. Chiếc áo khoác da cừu cổ viền lông làm Von Bila
nhăn mặt vì ngượng.
Thiếu tá Von Loringhonven đi vào văn phòng
của Đại tướng, một lát sau quay lại và để cửa mở cho tướng Heinrici. Khi tướng
Heinrici đi vào, ông thông báo “Ngài Thượng tướng Heinrici.” Von Loringhonven
đóng cửa lại và rồi nhập bọn cùng Boldt và Von Bila trong phòng chờ.
Tướng Guderian đang ngồi đằng sau một cái
bàn lớn ngập giấy. Khi Heinrici đi vào, ông đứng dậy, nồng nhiệt chào vị khách,
chỉ cho ông một cái ghế và nói chuyện về chuyến đi của Heinrici một lúc.
Heinrici thấy rằng Guderian đang căng thẳng và cáu kỉnh. Bờ vai rộng, chiều cao
trung bình, với mái tóc hoa râm mỏng và hàng ria lộn xộn, tướng Guderian trông
già hơn cái tuổi 60 của mình. Ông là một vị tướng bệnh tật, dù không nhiều
người biết, với chứng cao huyết áp và bệnh tim – một bệnh tình không thể thuyên
giảm trước tâm trạng chán nản thường trực của ông. Những ngày này, người sáng
tạo ra lực lượng thiết giáp lớn nhất của Hitler – tài năng vũ khí của ông từng
đem lại cuộc chiếm đóng nước Pháp năm 1940 chỉ trong 27 ngày và gần như chưa
từng đạt được thành tựu tương tự ở Nga – thấy mình hầu như chẳng còn quyền lực
gì. Dù là người đứng đầu Tổng bộ tham mưu, ông cũng không còn ảnh hưởng gì mấy
tới Hitler nữa. Là một sĩ quan nóng tính hầu hết mọi lúc, Heinrici nghe nói bây
giờ tướng Guderian gặp nhiều trở ngại tới mức ông thường nổi cơn lôi đình.
Khi họ nói chuyện, tướng Heinrici nhìn
quanh. Văn phòng khá đơn giản: một cái bàn bản đồ lớn, vài cái ghế dựa lưng
thẳng, hai cái điện thoại, một cái đèn ngủ bóng màu xanh lá đặt trên bàn làm
việc, và trên bức tường màu be không có gì khác trừ một bức chân dung đóng
khung thông thường của Hitler, treo trên cái bàn bản đồ. Người đứng đầu Tổng bộ
tham mưu thậm chí còn chẳng có lấy một cái ghế êm ái.
Dù Guderian và Heinrici không phải là
bạn bè thân thiết, họ cũng đã biết nhau nhiều năm, tôn trọng tài năng của nhau
và đủ gần gũi để trao đổi tự do và thoải mái. Ngay khi vào chủ đề công việc,
Heinrici nói thẳng. Ông nói, “Đại tướng, thời gian qua tôi chỉ ở vùng hoang dã
của Hungary. Tôi chẳng biết gì về Cụm Tập đoàn quân Vistula, nó bao gồm những
thành phần nào hay tình hình bên sông Oder ra làm sao cả.”
Tướng Guderian cũng thẳng thừng tương tự.
Ông mạnh mẽ đáp lại, “Tôi phải nói với anh, Heinrici à, Hitler không muốn giao
anh quyền chỉ huy này đâu. Ông ta nghĩ đến người khác trong đầu rồi.”
Heinrici vẫn im lặng.
Guderian tiếp tục: “Tôi chịu trách nhiệm
việc này. Tôi đã nói với Hitler rằng anh là người cần thiết. Thoạt tiên ông ta
không chịu anh đâu. Cuối cùng, tôi đã khiến ông ta đồng ý.”
Guderian nói chuyện theo kiểu thẳng
thừng, đậm tính công việc, nhưng vì có thiện cảm với người trước mặt mà tông
giọng của ông thay đổi. Dù là 20 năm sau, Heinrici vẫn còn nhớ chi tiết của bài
chỉ trích sau đó.
Guderian gầm gừ, “Himmler. Hắn là vấn đề
lớn nhất. Phải thoát khỏi kẻ mà anh vừa thay thế - Himmler!”
Ông đột ngột đứng dậy khỏi ghế, đi quanh
bàn và bắt đầu rảo bước trong phòng. Heinrici chỉ vừa mới biết gần đây là Thống
chế Heinrich Himmler là tư lệnh của Cụm Tập đoàn quân Vistula. Tin tức đó khiến
ông ngạc nhiên tới mức thoạt đầu ông không tin. Ông biết Himmler là một thành
viên trong nội các của Hitler – có lẽ là người quyền lực nhất nước Đức sau Quốc
trưởng. Ông không hề biết rằng Himmler có kinh nghiệm gì trong việc điều binh
khiển tướng ngoài chiến trường – chứ đừng nói tới việc chỉ huy hoạt động của
một Cụm Tập đoàn quân.
Tướng Guderian cay đắng kể lại hồi tháng
1, khi Ba Lan sụp đổ trước cơn thủy triều Hồng quân, ông đã liều lĩnh thúc giục
thành lập Cụm Tập đoàn quân Vistula như thế nào. Vào lúc đó, nó được hình dung
là một tổ hợp các quân đoàn phía bắc trấn giữ phòng tuyến chủ chốt giữa sông
Oder và Vistula, đại khái từ Đông Phổ đến một điểm phía nam nơi nó sẽ liên kết
với một Cụm tập đoàn quân khác. Nếu phòng tuyến giữ được, nó sẽ ngăn quân Nga
tràn như tuyết lở vào trung tâm nước Đức, qua vùng hạ Pomerania và thượng
Silesia, rồi qua cổng Bran-denburg và cuối cùng – là Berlin.
Guderian đã đề nghị cho Thống chế
Freiherr von Weichs chỉ huy tập đoàn quân này. Guderian nói, “Vào lúc đó ông ấy
là người phù hợp nhất. Chuyện gì đã xảy ra? Hitler nói Von Weichs quá già. Jodl
cũng có mặt tại cuộc họp và tôi mong ông ta có thể ủng hộ mình. Nhưng ông ta
đưa ra vài nhận xét về quan điểm tôn giáo của Von Weichs. Thế là xong chuyện.”
Guderian lớn tiếng chửi, “Thế rồi, chúng
ta có ai nào? Hitler bổ nhiệm Himmler! Trong số bao nhiêu người – là Himmler
đấy!”
Guderian, theo lời ông, đã “tranh luận và
nài xin bãi bỏ vụ bổ nhiệm kinh khủng và vô lý” của một người không hề có kiến
thức quân sự. Nhưng Hitler rất cứng rắn. Dưới quyền Himmler, mặt trận chỉ có
sụp đổ chứ chẳng có gì khác. Hồng quân đã di chuyển đúng như Guderian dự đoán.
Một khi quân Nga vượt qua được Cụm tập đoàn quân Vistula, một phần lực lượng
của họ đi về phương Bắc tới biển Baltic ở Danzig, tách ra và chạy vòng quanh
khoảng 20-25 sư đoàn chỉ riêng ở Đông Phổ.
Phần còn lại của quân đội Soviet băng qua
Pomerania và thượng Silesia, rồi tới được sông Oder và sông Neisse. Khắp nơi
dọc theo mặt trận miền đông, phòng tuyến của Đức bị áp đảo. Nhưng không có khu
nào sụp đổ nhanh như của Himmler. Thất bại của ông ta đã mở toang cánh cổng vào
con đường chính đi qua nước Đức và kết nối với quân Đồng minh phương Tây. Hơn
hết thảy, nó đặt Berlin vào trong tình thế nguy hiểm.
Guderian nói với Heinrici rằng, chỉ 48
giờ trước đó, ông đã lái xe đến sở chỉ huy của Cụm tập đoàn quân Vistula ở
Birkenhain, cách Berlin khoảng 50 dặm về phía bắc, cố thuyết phục Himmler bỏ
quyền chỉ huy. Ở đó, ông được thông báo rằng Himmler đang bị bệnh. Ông cuối
cùng cũng tìm được vị tư lệnh SS cách đó 20 dặm, gần thị trấn Lychen, “nằm co
ro trong viện điều dưỡng, mà chả bị gì ngoài một cơn cảm lạnh.”
Guderian nhanh chóng nhận thấy “căn bệnh”
của Himmler có thể tận dụng thành lợi thế. Ông bày tỏ sự cảm thông với ngài
Thống chế, và nói có lẽ ông ta đã làm việc quá sức, rằng số chức trách mà ông
ta nắm giữ sẽ “là gánh nặng lên sức mạnh của bất kỳ người đàn ông nào.” Ngoài
là tư lệnh của Cụm tập đoàn quân Vistula, Himmler đầy tham vọng còn là Bộ
trưởng Bộ Nội vụ; Thủ lĩnh Gestapo, lực lượng cảnh sát và an ninh của Đức; đứng
đầu lực lượng SS, và là tư lệnh của Huấn luyện quân. Sao không bỏ bớt một chức
trách, Guderian đề nghị - để coi, Cụm tập đoàn quân Vistula?
Himmler tóm ngay lấy lời đề nghị đó. Ông
ta nói với Guderian, quá đúng; việc ông ta có quá nhiều chức vụ thực sự đòi hỏi
sức chịu đựng lớn lao. Himmler hỏi, “Nhưng làm sao tôi có thể nói với Quốc
trưởng là tôi muốn từ bỏ Vistula?” Guderian nhanh nhảu nói với Himmler là nếu
được cho phép, ông ta sẽ đề xuất việc này. Himmler mau lẹ đồng ý. Guderian nói
thêm, đêm hôm đó, “Hitler đã làm nhẹ bớt gánh nặng của vị Thống chế đã làm việc
quá sức và có quá nhiều gánh nặng này, nhưng chỉ sau khi đã càu nhàu một thôi
một hồi và hết sức miễn cưỡng.”
Guderian ngừng lại, nhưng chỉ trong một
lúc. Lời thuật lại tai họa đầy gay gắt của ông chấm dứt bằng một cơn thịnh nộ
trào dâng. Bây giờ ông nổi giận trở lại. Giọng run rẩy vì giận dữ, ông nói:
“Chúng ta đang ở trong một đám hỗn loạn lạ kỳ. Cái cách cuộc chiến đang diễn ra
thật là không thể tin được. Không thể tin được!”
Guderian nhớ lại, qua mấy tháng trước,
ông đã cố thuyết phục Hitler hiểu rằng “nguy cơ thật sự nằm ở mặt trận phía
Đông,” và “cần có biện pháp mạnh.” Ông thúc giục một loạt rút quân chiến lược
từ các nước quanh biển Baltic – đặc biệt là từ Courland ở Latvia – và từ các
nước ở bán đảo Balkan, và thậm chí còn đề nghị từ bỏ Na Uy và Italy. Cần rút
ngắn phòng tuyến các nơi; mỗi sư đoàn được rút bớt có thể tăng tốc hướng về mặt
trận với Nga. Theo tin tình báo, quân Nga có số sư đoàn đông gấp đôi quân Đồng minh
phương Tây – chưa kể số sư đoàn Đức chiến đấu ở phía Đông ít hơn phía Tây. Hơn
nữa, những sư đoàn thiện chiến nhất của Đức đang đối đầu với Eisenhower. Nhưng
Hitler không chịu tiếp tục phòng thủ; ông ta không tin những tin tức và số liệu
đặt trước mặt mình.
Thế rồi, Guderian tuyên bố, “Có lẽ Hitler
đã mắc phải sai lầm lớn nhất đời.”
Tháng 12/1944, ông ta phát động cuộc tấn
công ồ ạt vào lực lượng Đồng minh phương Tây, một lần đánh cược cuối cùng, ở
những cánh rừng tại cao nguyên Ardennes của Bỉ và miền bắc Luxembourg. Hitler
huênh hoang rằng cuộc tấn công sẽ đập tan quân Đồng minh và thay đổi hoàn toàn
cục diện cuộc chiến. Ông ta đưa ba đoàn quân vũ trang tận răng tấn công vào
trung tâm của phòng tuyến quân Đồng minh – tổng cộng có 20 sư đoàn, trong đó có
12 sư đoàn có vũ trang. Mục tiêu của họ là: vượt qua phòng tuyến, đến được
Meuse, và rồi tiến về hướng bắc để chiếm được cảng tiếp tế sống còn ở Antwerp.
Bị đánh úp bất ngờ, quân Đồng minh choáng váng và phải rút lui với tổn thất
nặng nề. Nhưng không lâu sau cuộc tấn công đuối dần. Hồi phục nhanh chóng, quân
Đồng minh đẩy lùi các đội quân kiệt sức của Hitler về sau biên giới Đức chỉ sau
năm tuần.
Guderian nói, “Khi thấy rõ là cuộc tấn
công đã thất bại, tôi đã năn nỉ Hitler rút quân khỏi Ardennes và đưa họ đến mặt
trận phía Đông, nơi chúng ta đoán quân Nga sẽ tấn công bất cứ lúc nào. Nhưng
chả ích gì – ông ta không chịu tin phỏng đoán của chúng tôi về sức mạnh của
quân Nga.”
Ngày 9/1, Guderian nói với Hitler là người
Nga có thể sẽ phát động tấn công từ Baltic tới Balkan bằng một lực lượng khổng
lồ vào cỡ 225 sư đoàn và 22 quân đoàn có vũ trang. Dự đoán tình hình do Đại
tướng Reinhard Gehlen, Trưởng cục tình báo của Guderian chuẩn bị. Dự báo cho
thấy về mặt bộ binh, quân Nga sẽ áp đảo quân Đức theo tỷ lệ 11 đánh 1, về quân
có vũ trang là 7 đánh 1, về cả pháo và máy bay thì ít nhất là 20 đánh 1.
Hitler đập bàn và điên cuồng chửi bới tác
giả của bản báo cáo. Ông ta rống lên, “Thằng nào chuẩn bị mớ rác này hả? Dù nó
có là ai, nó cũng sẽ bị đưa vào nhà thương điên!” Ba ngày sau quân Nga tấn
công, và tướng Gehlen cho thấy ông đã đúng.
Guderian nói với Heinrici, “Mặt trận hầu
như sụp đổ, đơn giản là vì phần lớn lực lượng thiết giáp của chúng ta đang kẹt
ở phía Tây. Cuối cùng Hitler cũng đồng ý chuyển một số binh chủng thiết giáp,
nhưng ông ta không chịu để tôi dùng xe tăng để tấn công quân Nga đang chĩa mũi
nhọn về phía đông Berlin. Ông ta đã đưa chúng đi đâu? Tới Hungary, nơi chúng bị
quăng vào một cuộc tấn công hoàn toàn vô ích để dành lại mấy mỏ dầu.”
Ông nổi điên lên, “Ngay cả bây giờ, không
hiểu sao vẫn còn 18 sư đoàn đang ngồi ở Courland – kẹt cứng ở đó, chả làm gì. Ở
đây cần họ - chứ không phải ở vùng Baltic! Nếu chúng ta muốn sống sót, cần đưa
mọi thứ đến mặt trận Oder.”
Guderian ngừng lại và cố trấn tĩnh bản
thân. Rồi ông nói: “Quân Nga đang nhìn xuống cổ họng chúng ta. Chúng đã dừng
tấn công để tái cơ cấu tổ chức. Chúng tôi đoán là anh có 3 đến 4 tuần để chuẩn
bị – trước khi mấy cơn lũ tràn tới. Vào lúc đó, quân Nga sẽ cố thiết lập những
vùng mới chiếm ở bờ Tây và mở rộng những cái họ đã có. Cần đẩy lùi những nơi
đó. Dù nơi khác có xảy ra chuyện gì, quân Nga cần phải bị chặn đứng bên sông
Oder. Đó là hi vọng duy nhất của chúng ta.”
3.
Tướng Guderian gọi người mang bản đồ vào.
Trong căn phòng chờ bên ngoài, một trong số mấy sĩ quan phụ tá cầm lấy vài tấm
bên trên một chồng đã chuẩn bị sẵn, đem vèo trong văn phòng và trải ra trên
chiếc bàn bản đồ trước mặt hai vị tướng.
Đây là lần đầu tướng Heinrici nhìn qua
tình hình tổng thể.
Hơn một phần ba nước Đức đã mất – bị nuốt
chửng bởi đà tiến quân của phe Đồng minh từ cả đông lẫn tây. Tất cả những gì
còn lại nằm giữa hai rào chắn lớn bằng nước: ở phía tây là sông Rhine; còn ở
phía đông là sông Oder và sông nhánh của nó, sông Neisse. Và tướng Heinrici
biết là những vùng công nghiệp lớn của đế chế Đức chưa bị chiếm thì đang bị
đánh bom đêm ngày.
Ở phía Tây, quân đội của Eisenhower, như
tướng Heinrici có nghe được, thực sự đã tới bên bờ sông Rhine, phòng tuyến tự
nhiên vĩ đại của nước Đức. Lực lượng của liên quân Anh-Mỹ trải dài gần 500 đặm
dọc theo bờ tây – đại khái từ Biển Bắc tới biên giới Thụy Sĩ. Thậm chí một cứ
điểm ở sông Rhine đã bị chọc thủng. Ngày 7/3, quân Mỹ đã chiếm được một cây cầu
ở Remagen, phía nam thành phố Bonn, trước khi quân Đức kịp hoàn toàn phá cầu.
Bây giờ, quân Mỹ chiếm một vùng quanh đầu cầu rộng 20 dặm, sâu 5 dặm nằm dọc bờ
đông. Những giao điểm khác đang chống đỡ từng giây từng phút.
Ở phía Đông, quân Soviet đã ùn ùn vượt qua
Đông Âu và trấn giữ một mặt trận dài hơn 800 dặm – từ biển Baltic tới biển
Adriatic. Ở Đức thì quân Nga đang đứng dọc sông Oder-Neisse tới tận biên giới
với Tiệp Khắc. Guderian nói với Heinrici, bây giờ, quân Nga đang ráo riết chuẩn
bị tiếp tục tấn công. Máy bay trinh sát đã phát hiện ra quân tiếp viện đang túa
về mặt trận. Mọi ga đầu mối đều đầy ắp súng và trang thiết bị. Mọi con đường
đều kẹt cứng xe tăng, những đoàn xe ngựa kéo và máy kéo, và các đoàn quân đang
di chuyển nhanh như vũ bão.
Sức mạnh của Hồng quân vào lúc tấn công
sẽ lớn tới đâu, không ai có thể đoán nổi, nhưng đã nhận dạng được ba Tập đoàn
quân hiện diện tại Đức – tập trung chủ yếu ở ngay đối diện Cụm tập đoàn quân
Vistula.
Nhìn vào mặt trận để lại cho ông, tướng
Heinrici lần đầu thấy được cái mà sau này ông mô tả là “toàn bộ sự thật choáng
váng.”
Trên bản đồ, đường màu đỏ uốn lượn đánh
dấu vị trí của Vistula kéo dài 175 dặm – từ bờ biển Baltic tới chỗ sông Oder và
sông Neisse gặp nhau ở Silesia, nơi nó kết nối với lực lượng của Thượng tướng
Schörner. Phần lớn mặt trận nằm trên bờ Tây sông Oder, nhưng có ba đầu cầu lớn
vẫn còn nằm trên bờ đông: ở phía bắc là Stettin, thủ phủ có từ thế kỷ XIII của
Pomerania; ở phía nam là thị trấn Küstrin và thành phố cổ Frankfurt bên sông
Oder – cả hai đều nằm trong quân khu quan trọng ngay đối diện Berlin.
Để ngăn quân Nga chiếm được thủ đô và
tiến thẳng vào trung tâm nước Đức, tướng Heinrici phát hiện ra mình chỉ có
trong tay hai quân đoàn. Trấn thủ cánh phía bắc của mặt trận là Quân đoàn Thiết
giáp số 3, do Đại tướng Hasso von Manteuffel nhỏ con chỉ huy – có lẽ là chiến
thuật gia thiết giáp vĩ đại nhất của quân đội Đức sau tướng Guderian và Rommel.
Ông trấn giữ các vị trí kéo dài khoảng 95 dặm – từ phía bắc Stettin đến giao
điểm của kênh Hohenzollern và sông Oder, cách Berlin khoảng 28 dặm về hướng
đông bắc. Phía dưới đó, cách ngã ba sông Neisse 80 dặm, lực lượng phòng thủ do
Đại tướng Theodor Busse, 47 tuổi, mang kính cận cùng với Quân đoàn 9 của ông
phụ trách.
Chán nản trước bức tranh toàn cục, tướng
Heinrici không quá ngạc nhiên trước số lượng đông đảo của quân địch nữa. Ở mặt
trận phía Đông, đánh trận mà không có không quân yểm hộ là chuyện bình thường,
chỉ có vài chiếc xe tăng ít ỏi, và còn bị áp đảo số lượng ít nhất là một chọi
chín hoặc mười. Nhưng tướng Heinrici biết, mọi chuyện đều tùy thuộc vào năng
lực của các đội quân. Giờ điều làm ông lo lắng là làm sao kết hợp hai quân đoàn
này.
Đối với tướng Heinrici có kinh nghiệm
trận mạc đầy mình, tên của một sư đoàn và tư lệnh của nó thường biểu lộ lịch sử
và khả năng chiến đấu của nó. Giờ đây, ngồi xem xét bản đồ, ông thấy mặt trận
phía đông có rất ít sư đoàn chính quy mà ông có biết. Thay vì được đánh số
thông thường, phần lớn các sư đoàn ở đây lại có tên khá kỳ quặc, kiểu như
“Gruppe Kassen,” “Döberitz,” “Nederland,” “Kurmark,” “Berlin” và “Müncheberg.”
Heinrici tự hỏi kết cấu của các lực lượng
này là thế nào. Họ có phải là quân tàn dư – đơn giản là quẳng phần còn lại của
các sư đoàn vào với nhau? Tấm bản đồ của tướng Guderian không vẽ nên một bức
tranh rõ ràng cho ông. Ông cần chính mắt thấy, nhưng ông nghi từ đầu là mấy lực
lượng này chỉ là sư đoàn về mặt danh nghĩa. Heinrici không nói gì về sự nghi
ngờ của mình, vì tướng Guderian có những vấn đề khác, khẩn cấp hơn để thảo luận
– đặc biệt là Küstrin.
Quân đoàn lớn nhất của tướng Heinrici là
Quân đoàn 9 của tướng Busse, tấm khiên chắn ngay trước Berlin. Từ những dấu
chấm đỏ trên bản đồ, có thể thấy rõ là tướng Busse đang phải đối mặt với sức ép
lớn lao. Guderian nói, quân Nga đang tập trung ngay đối diện Quân đoàn 9. Chúng
đang phi thường nỗ lực để quét sạch hai đầu cầu của Đức bên bờ đông tại Küstrin
và tại vùng Frankfurt. Tình hình tại Küstrin nguy ngập hơn.
Trong mấy tuần qua tại quân khu này, Hồng
quân đã mấy lần thành công vượt sông Oder và giành được mấy vị trí vững chắc
bên bờ tây. Đa số những cố gắng đó đều bị đẩy lui, nhưng quân Nga vẫn đóng
quanh Küstrin bất chấp các nỗ lực phòng ngự. Chúng đã chiếm được những vùng quanh
đầu cầu với quy mô lớn cả hai bên thành phố. Giữa những công sự tạm chiếm vây
quanh thành thế gọng kềm đó, trơ lại một hành lang đơn độc, nối quân phòng thủ
tại Küstrin với Quân đoàn 9. Một khi gọng kềm đó xiết lại, Küstrin sẽ sụp đổ và
mối liên kết giữa hai đầu cầu sẽ là tấm ván dậm nhảy lớn bên bờ tây cho quân
Nga lấy đà tiến về Berlin.
Và giờ đây, tướng Guderian tung cho tướng
Heinrici một quả bom nữa. Ông nói, “Hitler đã quyết định sẽ phát động một cuộc
tấn công để quét sạch đầu cầu phía nam Küstrin, và Đại tướng Busse đang chuẩn
bị đấy. Tôi tin nó sẽ xảy ra trong 48 giờ tới thôi.”
Theo như tướng Guderian phác thảo, kế
hoạch là cuộc tấn công sẽ phát động từ Frankfurt, dưới Küstrin 13 dặm. Năm sư
đoàn Đặc nhiệm Thiết giáp sẽ vượt sông vào đầu cầu của Đức rồi từ đó tấn công
bờ đông và đánh từ đằng sau vào đầu cầu của Nga ở phía nam Küstrin.
Tướng Heinrici nghiên cứu tấm bản đồ.
Thành phố Frankfurt nằm ở cả hai bên sông Oder, với phần lớn thành phố nằm bên
bờ tây. Một cây cầu duy nhất nối hai bờ thành phố. Đối với vị tư lệnh mới của
Cụm tập đoàn quân Vistula, có hai sự thật rất rõ ràng: địa hình nhiều đồi núi
bên bờ đông tạo điều kiện lý tưởng cho pháo binh Nga – chúng có thể bắt chết
quân Đức từ các ngọn đồi. Nhưng tệ hơn, đầu cầu trên sông quá nhỏ để năm sư
đoàn cơ giới cùng hội lại một chỗ.
Tướng Heinrici nghiền ngẫm tấm bản đồ
một lúc. Trong đầu ông không còn nghi ngờ gì nữa rằng việc các sư đoàn Đức hợp
lại sẽ bị phát hiện ngay, và sau đó sẽ bị đập tan bằng trọng pháo, rồi bị máy
bay tấn công. Nhìn tướng Guderian, ông nói đơn giản:
“Đó là chuyện bất khả thi.”
Guderian cũng đồng ý. Ông giận dữ nói với
tướng Heinrici rằng cách duy nhất mà các sư đoàn có thể hợp lại là “nằm sấp
trên cầu, từng người từng người một – làm thành một cây cột bằng lính và xe
tăng dài chừng 15 dặm.” Nhưng Hitler khăng khăng đòi tấn công. Ông ta nói với
tướng Guderian, “Nó sẽ thành công, vì bọn Nga sẽ không ngờ tới một cuộc hành
quân liều lĩnh và phi chính thống như thế.”
Tướng Heinrici vẫn tiếp tục nghiên cứu
tấm bản đồ, ông thấy khu vực nằm giữa Küstrin và Frankfurt dày đặc quân Nga.
Cho dù cuộc tấn công có thể xuất phát từ đầu cầu đó đi nữa, quân Nga mạnh đến
mức các sư đoàn Đức sẽ không bao giờ tới được Küstrin. Heinrici nghiêm nghị
cảnh báo: “Lính của ta sẽ bị dồn về sông Oder. Đó sẽ là thảm họa.”
Tướng Guderian không bình luận gì – chả
có gì để nói cả. Đột nhiên, ông liếc nhìn đồng hồ, rồi bực bội nói:
“Chúa ơi, tôi phải quay về Berlin để dự
cuộc họp của Quốc trưởng vào lúc ba giờ.”
Chỉ cần nghĩ tới chuyện này cũng đủ làm
một cơn thịnh nộ khác bùng nổ. Guderian thở phì phò:
“Chẳng thể làm việc nổi. Cứ ngày hai lần
phải đứng hàng giờ mà nghe cái đám xung quanh Hitler nói tầm xàm ba láp – có
thảo luận gì đâu! Tôi chẳng thể nào làm xong việc gì! Tôi tốn toàn bộ thì giờ
để di chuyển trên đường hoặc ở Berlin nghe mấy lời ngớ ngẩn!”
Cơn lôi đình của tướng Guderian lớn tới
mức khiến tướng Heinrici giật mình. Gương mặt vị Tham mưu trưởng đổi sang màu
đỏ bầm, nhất thời Heinrici sợ là tướng Guderian sẽ lên cơn đau tim mà chết.
Trong khi tướng Guderian tìm cách bình tĩnh lại, căn phòng trở nên yên tĩnh
trong lo lắng. Rồi ông nói: “Hitler sẽ thảo luận về cuộc tấn công Küstrin. Có
lẽ anh nên đi với tôi.”
Tướng Heinrici từ chối. Ông nói:
“Nếu tôi phải phát động cuộc tấn công
điên rồ này ngay ngày mốt, thì tôi sẽ quay trở về sở chỉ huy của mình càng sớm
càng tốt.”
Rồi ông cứng cỏi nói thêm:
“Hitler có thể chờ thêm vài ngày nữa để
gặp tôi.”
Trong phòng đợi, Heinrich von Bila đang
tính giờ của cuộc họp thông qua đống bản đồ và biểu đồ đang thấp dần đi vì được
mang vào văn phòng tướng Guderian. Chỉ còn lại một hai tờ, anh nghĩ, vậy là
buổi chỉ dẫn sắp xong. Anh đi qua chỗ chiếc bàn và nhìn lơ đãng vào tấm bản đồ.
Nó cho thấy toàn bộ nước Đức, nhưng đường nét trên đó có vẻ hơi khác. Đại úy
Von Bila định quay đi thì có một thứ đập vào mắt anh. Anh nhìn gần hơn. Tấm bản
đồ này khác với những cái khác. Những dòng chữ trên đó khiến anh chú ý – nó
viết bằng tiếng Anh. Anh cúi xuống và bắt đầu nghiên cứu cẩn thận.
4.
Khi tướng Heinrici đầy mệt nỏi về được
trụ sở của ông tại Birkenhain, gần Prenzlau thì đã gần sáu giờ chiều.
Suốt gần hai tiếng rưỡi đồng hồ ngồi xe
từ Zossen về, ông không nói một lời. Có lúc đại úy Von Bila cố khơi chuyện bằng
cách hỏi ông đã xem tấm bản đồ đó chưa. Anh đoán là tướng Guderian đã cho tướng
Heinrici xem một bản sao khác của tấm bản đồ này và giải thích nội dung của nó.
Nhưng thực sự thì tướng Heinrici không hề biết gì về nó cả, và đại úy Von Bila
không có được câu trả lời nào. Ngài thượng tướng chỉ ngồi mím môi và lo âu. Von
Bila chưa bao giờ thấy ông chán nản đến thế.
Sau khi nhìn thoáng qua trụ sở mới của
mình lần đầu tiên, tướng Heinrici thậm chí còn chán nản hơn nữa. Nơi công tác
của tư lệnh Cụm tập đoàn quân Vistula gồm một dinh thự uy nghi đường bệ, hai
bên có các trại lính bằng gỗ. Tòa nhà chính được xây khá kỳ quặc – một tòa nhà
rộng lớn, trang trí công phu với một hàng cột quá khổ nằm dọc mặt tiền. Nhiều
năm trước, Himmler đã cho xây dựng nơi này như một chỗ ẩn náu cá nhân. Trên một
đường tàu tránh gần đó là chiếc tàu lửa xa hoa được dành riêng cho ông ta,
chiếc “Steiermark.”
Giống như ở Zossen, trụ sở này cũng được
rừng che phủ, nhưng sự so sánh đến đây là chấm dứt. Không hề có sự hối hả rộn
ràng mà tướng Heinrici nghĩ trụ sở của một Cụm tập đoàn quân đang hoạt động
phải có. Trừ một viên hạ sĩ SS đứng trong nhà nghỉ của tòa nhà chính, nơi này
dường như cực kỳ vắng vẻ. Viên hạ sĩ hỏi tên của họ, đưa họ đến một chiếc
trường kỷ rồi biến mất tăm.
Mấy phút trôi qua, rồi một trung tướng SS
ăn vận hoàn hảo không chê vào đâu được xuất hiện. Ông giới thiệu mình là Tham
mưu trưởng của Himmler, Heinz Lammerding, và giải thích trơn tru rằng ngài
Thống chế “đang có một cuộc thảo luận quan trọng” và “không thể bị làm phiền
vào lúc này.” Lịch sự nhưng lạnh lùng, Lammerding không hề mời tướng Heinrici
vào đợi trong văn phòng mình, cũng không có một cử chỉ mến khách thông thường nào.
Ông ta quay gót đi và để tướng Heinrici cùng đại úy Von Bila đợi trong phòng
nghỉ. Suốt bao năm là một sĩ quan cấp cao, tướng Heinrici chưa bao giờ bị đối
xử một cách bất cẩn như thế.
Ông kiên nhẫn đợi 15 phút, rồi nói nhỏ
với Von Bila, “Đi nói với Lammerding là tôi không định ngồi ngoài đây thêm một
phút nào nữa. Tôi cần gặp Himmler ngay.” Vài giây sau, tướng Heinrici được tháp
tùng đi xuống một hành lang vào văn phòng của Himmler.
Himmler đang đứng bên cạnh bàn làm việc.
Ông ta có vóc người trung bình, lưng dài hơn chân – một viên sĩ quan của tướng
Heinrici nhớ lại là giống như “hai cái chân sau của con bò đực.” Ông ta có
gương mặt nhỏ, cằm thụt, cặp mắt lác đằng sau đôi kính có dây đeo đơn giản, một
hàng ria mép nhỏ và đôi môi mỏng. Bàn tay ông ta nhỏ nhắn, mềm mại và ẻo lả với
những ngón tay dài thanh mảnh. Tướng Heinrici nhận thấy nước da của ông ta
“xanh xao, phù thũng và có cảm giác xốp như miếng bọt biển.”
Himmler bước về phía trước, chào hỏi rồi
ngay lập tức nói một tràng giải thích dài. Ông ta nắm tay tướng Heinrici và
nói, “Anh phải hiểu là rời khỏi Cụm tập đoàn quân Vistula là một quyết định khó
khăn vào bậc nhất của tôi.” Vừa nói, ông ta vừa ra dấu cho tướng Heinrici ngồi
vào ghế. “Nhưng như anh biết đó, tôi có quá nhiều chức trách, quá nhiều việc
phải làm – và vì thế, sức khỏe tôi không được tốt lắm.”
Ngồi đằng sau chiếc bàn, Himmler ngả
người ra sau và nói: “Bây giờ, tôi sẽ nói cho anh tất cả mọi chuyện đã diễn ra.
Tôi đã bảo đem mọi bản đồ và báo cáo vào đây.” Hai người lính SS bước vào
phòng; một là người viết tốc ký, người kia mang một đống bản đồ. Đằng sau họ là
hai sĩ quan tham mưu.
Tướng Heinrici vui mừng khi thấy hai viên
sĩ quan mặc đồng phục quân đội, chứ không phải của lực lượng SS. Một trong hai
là Trung tướng Eberhard Kinzel, Phó Tham mưu trưởng; còn người kia là Đại tá
Hans Georg Eismann, Giám sát trưởng. Tướng Heinrici đặc biệt vui khi gặp
Eismann, ông biết đây là một sĩ quan tham mưu cực kỳ có năng lực. Tướng
Lammerding không có mặt.
Himmler chờ đến khi mọi người ngồi xuống.
Rồi ông ta bắt đầu một bài biện hộ cá nhân rất kịch tính. Đối với tướng
Heinrici, nó giống như “ông ta bắt đầu kể chuyện Adam và Eve,” rồi đi vào những
chi tiết thanh minh đầy gian khổ mà ông thấy là “mấy lời ông ta nói chả có
nghĩa lý gì.”
Cả Kinzel và Eismann đều biết là Himmler
có thể nói thế hàng giờ. Sau đó vài phút, Kinzel chuồn mất vì “có công việc
gấp.” Eismann ngồi quan sát Himmler và Heinrici, âm thầm so sánh hai người họ.
Ông thấy tướng Heinrici là “một quân nhân lớn tuổi âm trầm và bền bỉ - một
người đàn ông nhỏ bé, lặng lẽ, nghiêm túc và lúc nào cũng nhã nhặn,” phải hứng
chịu một màn huênh hoang màu mè của một kẻ mới phất không hề có đặc tính quân
nhân, “một kẻ chẳng đọc nổi thước chia độ trên bản đồ.”
Nhìn cái cách Himmler khoa chân múa tay
“lặp đi lặp lại mấy chuyện ít quan trọng nhất trong bài diễn văn đầy phô
trương,” ông biết là tướng Heinrici hẳn đang vừa choáng váng vừa chán ghét.
Eismann chờ lâu hết mức có thể, rồi cả
ông cũng kiếm cớ vì “có nhiều việc phải làm.” Mấy phút sau, tướng Heinrici nhận
thấy viên tốc ký, không thể theo kịp bài nói của Himmler, đã đặt cây bút chì
xuống. Quá sức chán nản, Heinrici ngồi im, để cơn lũ ngôn từ ào qua ông.
Thình lình, điện thoại trên bàn làm việc
của Himmler reng. Himmler nhấc máy và nghe một lúc. Trông ông ta có vẻ giật
mình. Ông ta đưa điện thoại cho Heinrici và nói, “Anh là tư lệnh mới. Anh nên
nghe cú điện này.”
Người gọi là Đại tướng Busse, tư lệnh
Quân đoàn 9. Tướng Heinrici cứng người lại khi nghe. Tai họa đã xảy ra trong
nhiệm vụ mới của ông. Quân Nga đã do thám được công tác chuẩn bị cho cuộc tấn
công Küstrin của tướng Buss. Sư đoàn Thiết giáp 25, một trong những sư đoàn
thiện chiến nhất của tướng Busse, nhiều tháng nay trấn thủ hành lang để mở giữa
các đầu cầu của Nga nằm hai bên Küstrin, đã lặng lẽ rút khỏi vị trí nhằm chuẩn
bị cho cuộc tấn công.
Một sư đoàn khác là Sư đoàn Thiết giáp
20 đã đến thế chỗ Sư đoàn 25. Quân Nga đã nhận thấy sự thay đổi và tấn công từ
cả hai hướng bắc và nam. Gọng kềm đã khép lại nghe răng rắc, đúng như tướng
Heinrici đã lo sợ. Sư đoàn Thiết giáp 20 bị đánh tan, Küstrin bị cô lập – và
quân Nga giờ đã có được một đầu cầu lớn để tấn công Berlin.
Tướng Heinrici cúp máy và dứt khoát nói
cho Himmler nghe tin này. Vị Thống chế trông có vẻ lo lắng và nhún vai. Ông ta
nói, “Ừm, anh mới là tư lệnh của Cụm tập đoàn quân Vistula mà.”
Tướng Heinrici nhìn chòng chọc. Ông nói
bén nhọn, “Giờ nhìn đây này. Tôi không biết một thứ chết tiệt gì về Cụm tập
đoàn quân này. Tôi thậm chí còn không biết tôi có những người lính nào, hay ai
cần ở đâu.”
Himmler ngây ngốc nhìn tướng Heinrici và
Heinrici thấy ông chẳng thể trông đợi sự giúp đỡ nào. Ông quay lại chiếc điện
thoại và ngay lập tức ra lệnh cho tướng Busse phản công, cùng lúc đó hứa hẹn
với vị tư lệnh của Quân đoàn 9 là ông sẽ đến mặt trận sớm hết mức có thể. Khi
đặt ống nghe xuống, Himmler một lần nữa bắt đầu bài diễn văn dông dài như thể
chưa có gì xảy ra.
Nhưng bây giờ tướng Heinrici đang cực kỳ
cáu tiết. Ông thẳng thừng cắt lời. Ông nói với Himmler là ông cần nghe ý kiến
xem xét của ngài Thống chế về tình hình tổng thể cũng như về tương lai của nước
Đức. Sau này ông nhớ lại, câu hỏi đó “rõ ràng không thú vị mấy” đối với
Himmler. Vị Thống chế đứng dậy khỏi ghế, bước quanh bàn và nắm lấy tay
Heinrici, đưa ông đến một chiếc sofa cách đó một khoảng xa trong phòng, ngoài
tầm nghe của viên tốc ký. Rồi bằng một giọng khẽ khàng, Himmler quăng ra một
quả bom. Ông ta bật mí, “Tôi đã thực hiện các bước cần thiết để bắt đầu đàm
phán với các nước phương Tây thông qua một nước trung lập.” Ngừng lại một chút,
ông ta nói thêm: “Tôi nói với anh chuyện này là vì tuyệt đối tin tưởng anh đó,
anh hiểu chứ.”
Im lặng kéo dài. Himmler nhìn Heinrici đầy
trông đợi – có lẽ đang chờ một lời bình luận. Tướng Heinrici choáng váng. Đây
là tội phản quốc – phản bội nước Đức cùng quân đội và những người lãnh đạo của
nó. Ông cố đấu tranh để kiểm soát suy nghĩ của mình. Liệu Himmler có nói thật
không? Hay đó là một thủ đoạn để gài ông nói lời hớ hênh? Tướng Heinrici tin là
một Himmler tham vọng có thể làm mọi thứ - ngay cả phản quốc để giành lấy quyền
lực cho bản thân. Vị tướng dày dạn kinh nghiệm trận mạc ngồi yên lặng, đến cả
sự hiện diện của Himmler không thôi cũng đã làm ông thấy ghê tởm.
Thình lình cửa mở và một sĩ quan SS xuất
hiện. Himmler có vẻ nhẹ nhõm khi thấy có người cắt ngang. Viên sĩ quan thông
báo, “Thưa Thống chế, ban tham mưu đã tập hợp lại để nói lời tạm biệt.” Himmler
đứng dậy và bước ra khỏi phòng mà không thốt một lời nào nữa.
Đến 8 giờ tối thì Himmler cùng các sĩ
quan SS và cận về của ông ta đã đi. Balzen, người lính cần vụ của tướng
Heinrici, nhanh chóng phát hiện ra bọn họ mang theo mọi thứ, bao gồm mấy món đồ
dẹt, đĩa, kể cả ly tách và đĩa uống trà trong tòa dinh thự. Sự khởi hành của
bọn họ hoàn chỉnh tới mức giống như Himmler chưa từng đặt chân tới trụ sở này.
Trên chiếc tàu lửa xa hoa của mình, Himmler nhanh chóng biến vào màn đêm, rời
xa khỏi mặt trận sông Oder, hướng về phía Tây.
Ông ta để lại sau lưng một Heinrici đang
giận điên người. Cơn giận dữ và ghê tởm của vị tư lệnh mới càng tăng lên khi
ông nhìn quanh trụ sở của mình; một sĩ quan của ông nhớ lại là “tâm trạng tức
giận của Heinrici tăng thêm mấy độ” khi ông kiểm tra sự trang hoàng đầy nữ tính
trong dinh thự của Himmler. Văn phòng rộng rãi và mọi thứ trong đó đều có màu
trắng. Phòng ngủ được trang trí màu xanh lục nhạt – từ rèm cửa, thảm, vải bọc
đồ gỗ đến cả chiếc chăn bông và khăn trải giường. Tướng Heinrici chua chát nhận
thấy nơi này “thích hợp cho một quý bà tao nhã hơn là một người quân nhân đang
cố chỉ huy một đội quân.”
Đêm hôm đó, tướng Heinrici gọi điện cho
vị cựu Tham mưu trưởng của ông ở Silesia, như ông đã hứa, và kể cho ông ta nghe
chuyện gì đã xảy ra. Ông đã kiểm soát lại được cảm xúc của mình, và có thể suy
nghĩ về cuộc gặp mặt một cách tỉnh táo hơn. Ông quyết định là tiết lộ của
Himmler quá là không tưởng để có thể tin được. Tướng Heinrici quyết định quên
chuyện này đi. Trên điện thoại, ông nói với người đồng nghiệp cũ tại Silesia,
“Himmler quá sức vui sướng khi ra đi. Ông ta chỉ ngại không thể ra khỏi đây đủ
nhanh. Ông ta không muốn chịu trách nhiệm khi sự sụp đổ đến. Không. Ông ta chỉ
muốn một vị tướng đơn giản chịu thay – và tôi là con dê tế thần.”
Trong căn phòng được phân cho mình, viên
sĩ quan phụ tá của tướng Heinrici, Đại úy Heinrich von Bila, rảo bước lên xuống
không ngừng. Tâm trí anh không thể thoát khỏi tấm bản đồ anh đã thấy ở sở chỉ
huy của tướng Guderian ở Zossen. Anh nghĩ thật là kỳ quặc khi không có ai ngăn
cản anh nghiên cứu nó – tấm bản đồ đó rõ ràng là một tài liệu mật của tư lệnh.
Tướng Guderian hẳn đã cho ông xem, nhưng
tướng Heinrici chẳng bình luận gì. Hay có thể là tấm bản đồ không quan trọng
như anh đã nghĩ? Có thể là nó được chuẩn bị tại chính sở chỉ huy của tướng
Guderian – như là một dự đoán của người Đức về ý định của quân Đồng minh thì
sao? Dù vậy đi nữa, Von Bila vẫn thấy khó chấp nhận – sao nó lại in bằng tiếng
Anh mà không phải là tiếng Đức?
Chỉ có một cách giải thích khác: đó là nó
là một tấm bản đồ của quân Đồng minh, bị tình báo của Đức làm sao đó mà lấy
được. Nó có thể đến từ đâu khác chứ? Nếu điều này là thật – và Von Bila không
thể nghĩ ra câu trả lời nào khác – thì anh muốn tìm cách cảnh báo cho vợ và ba
đứa con của anh. Theo tấm bản đồ đó, nếu nước Đức bị đánh bại, gia đình anh ở
Bernberg sẽ nằm trong vùng do Nga kiểm soát. Trừ khi Von Bila đang tưởng tượng
ra chuyện này, anh đã thực sự thấy được một kế hoạch tối mật về cách mà quân
Đồng minh định chiếm và phân chia nước Đức.
5.
Cách đó 50 dặm, bản gốc của tấm bản đồ
và các tài liệu đi kèm của nó nằm ở một chỗ an toàn ở Auf dem Grat 1, Dahlem,
Berlin – sở chỉ huy khẩn cấp của Thượng tướng Alfred Jodl, Tư lệnh Hành quân của
OKW (Bộ Tư lệnh Cấp cao của Các lực lượng Vũ trang). Và trong số tất cả các bí
mật ngoài sức tưởng tượng từng lọt vào tay Cục Tình báo Đức trong cuộc chiến,
tập hồ sơ bìa đỏ này là tài liệu tiết lộ bí mật tàn khốc nhất mà tướng Jodl
từng đọc.
Tập hồ sơ chứa một lá thư và một bản ghi
nhớ về các thông tin cơ bản khoảng 70 trang; cùng hai tấm bản đồ in rời đính
vào bìa sau, mỗi tấm vào cỡ 18x20 inch và vẽ theo thước đo 1 inch tương ứng với 29 dặm.
Tướng Jodl tự hỏi không biết quân Đồng minh đã biết việc một bản sao của lời mở
đầu cho một trong những chỉ đạo chiến tranh tối mật của họ đã bị thất lạc hay
chưa. Tập hố sơ này lấy được từ quân Anh hồi cuối tháng 1, trong những ngày
cuối cùng của cuộc tấn công ở cao nguyên Ardennes.
Kế hoạch của quân Đồng minh được Hitler
cho là quá dễ gây kích động tới mức chỉ có một số ít người ở sở chỉ huy OKW
được phép xem. Vào tuần đầu tiên của tháng 2, sau khi dành nguyên một buổi tối
nghiên cứu tập hồ sơ, Quốc trưởng đã xếp tài liệu này vào loại “Trạng thái Tối
mật.” Các cố vấn quân sự của ông ta và những sĩ quan tham mưu của bọn họ có thể
nghiên cứu kế hoạch, ngoài ra thì không còn ai khác. Ngay cả các thành viên
trong nội các của ông ta cũng không được cho biết. Nhưng, bất chấp những hạn
chế đó, một thường dân đã được xem tài liệu và bản đồ: đó là bà Luise Jodl, vợ
mới cưới được vài tuần của tướng Jodl.
Vào một buổi tối, ngay trước hôn lễ của
bọn họ, tướng Jodl quyết định cho vị hôn thê của mình xem qua tài liệu này. Nói
cho cùng, bà là người nhận của nhiều bí mật quân sự: bà từng là một thư ký đáng
tin cậy của Bộ Tư lệnh cấp cao của Đức. Bỏ toàn bộ hồ sơ vào trong chiếc cặp
tài liệu, tướng Jodl đem nó tới căn hộ của bà, cách Sở chỉ huy của ông một khối
nhà. Gần như ngay khi cánh cửa trước được khép lại an toàn đằng sau, ông đưa
tập tài liệu ra và nói với vị hôn thê của mình: “Đây là những gì quân Đồng minh
định làm với nước Đức.”
Bà Luise cầm lấy tập hồ sơ bìa đỏ đặt
lên bàn và bắt đầu đọc. Từ lâu bà đã học cách đọc tài liệu và bản đồ quân sự,
nhưng trong trường hợp này thì kỹ năng đó không cần thiết lắm – tài liệu này đã
quá rõ ràng. Tim bà chùng xuống. Thứ bà đang cầm trong tay là kế hoạch chi tiết
cho sự chiếm đóng Tổ quốc của bà sau khi nước Đức thất bại. Bà nghĩ, một số
người ở sở chỉ huy của Eisenhower có khuynh hướng đầy thù hận khi chọn các mật
danh. Trên bìa tập hồ sơ là tựa đề ớn lạnh, “Chiến dịch Nhật thực.”
Lấy lại tập hồ sơ, tướng Jodl giở mấy
tấm bản đồ ra và trải lên bàn. Ông cay đắng nói, “Em xem đi, nhìn mấy đường
biên giới xem.”
Bà Luise im lặng nghiên cứu những đường
biên giới in đậm vẽ ngang dọc trên tấm bản đồ. Vùng phía bắc và tây bắc có dòng
chữ “U.K.” Phía nam, xứ Bavaria mang dòng chữ “U.S.A.,” và phần còn lại của đế
chế Đức, đại khái là toàn bộ vùng trung tâm và từ đó tới miền đông, có nhãn
“U.S.S.R.” Bà mất tinh thần nhận thấy ngay cả Berlin, cũng được ba ông lớn chia
chác. Nằm giữa khu vực của người Nga, Berlin được khoanh tròn riêng biệt và
được phe Đồng minh chia làm ba: Mỹ có phần phía nam; Anh được phía bắc và tây
bắc; còn Liên Xô thì có phần phía đông và đông bắc. Vậy ra đây là cái giá của
thất bại, bà nghĩ. Bà Luise nhìn vị hôn phu. Bà nói, “Chuyện này giống như một
cơn ác mộng.” Dù biết tấm bản đồ này là thật, bà Luise vẫn thấy nó khó chấp
nhận được. Bà hỏi, hồ sơ Nhật thực này từ đâu ra? Dù bà đã biết tướng Jodl
nhiều năm, bà biết ông có thể rất kín miệng về nhiều chuyện. Bà luôn nghĩ rằng
ông Alfred “là người lãnh đạm, giấu mình sau mặt nạ, ngay cả với tôi.” Bây giờ,
câu trả lời của ông cũng đầy lảng tránh. Dù khẳng định các tài liệu và bản đồ
là thật, ông không nói làm sao lấy được chúng, trừ lời lưu ý rằng “chúng ta lấy
được chúng từ một sở chỉ huy của Anh.”
Khá lâu sau, sau khi tướng Jodl đã quay
lại sở chỉ huy của mình, bà Luise chợt nhận ra một khía cạnh đáng sợ khác của
Chiến dịch Nhật thực. Nếu Đức thua, những người bà con của bà ở dãy Harz sẽ
sống trong vùng bị Nga chiếm đóng.
Dù bà yêu Alfred Jodl và hoàn toàn trung
thành với đất nước mình, bà Luise đã có một quyết định mang đậm tình người. Vào
lúc này, bà sẽ bất chấp lời cảnh báo của ông rằng không bao giờ được tiết lộ
bất kỳ điều gì bà đã thấy, đọc hay nghe thấy. Bà không thể để chị dâu và bốn
đứa cháu của bà rơi vào tay quân Nga.
Bà Luise quyết định chớp lấy cơ hội. Bà
biết số điện thoại mật ưu tiên của tướng Jodl. Cầm lấy điện thoại, bà nói
chuyện với nhân viên tổng đài và gọi cho người bà con. Mấy phút sau, đường dây
nối thông.
Sau một đoạn nói chuyện ngắn gọn và tẻ
nhạt với bà chị dâu đang ngạc nhiên, bà Luise lưu ý một cách bình thường khi
kết thúc cuộc nói chuyện, “Chị biết đó, mấy này này gió đông rất mạnh. Em thực
sự nghĩ là chị và bọn nhỏ nên chuyển về phía tây, sau con sông.”
Bà chầm chậm đặt ống nghe xuống – hi vọng
là bà chị dâu có thể hiểu thông điệp mã hóa vụng về của mình. Ở đầu dây bên
kia, bà chị dâu nghe thấy tiếng lách cách khi người nhận đã đổi. Bà băn khoăn
sao bà Luise lại gọi trễ như vậy. Nghe tin tức của cô ấy thì tốt, nhưng bà
không hiểu bà Luise nói cái gì. Bà chẳng buồn suy nghĩ thêm nữa.
Tướng Jodl và bà Luise kết hôn ngày 6/3.
Kể từ lúc đó, bà Luise vẫn luôn lo lắng liệu chồng bà có thể phát hiện ra cuộc
điện thoại hay không. Bà không cần quan tâm chuyện này. Viên thượng tướng đầy
gánh nặng này có nhiều vấn đề cấp bách hơn.
Cho tới giờ, tướng Jodl và các sĩ quan
tham mưu của mình đã nghiên cứu và phân tích Chiến dịch Nhật thực kỹ tới mức họ
gần như thuộc lòng từng đoạn một. Dù nó không phải là một tài liệu về chiến
lược – nó không cảnh báo về những bước đi sắp tới của quân địch để quân Đức có
thể đưa ra các biện pháp đối phó – kế hoạch Nhật thực cũng quan trọng tương tự.
Có một điều, nó giúp trả lời một chuỗi
câu hỏi đã làm tướng Jodl và OKW phiền muộn nhiều năm: họ đã băn khoăn rằng
quan hệ đồng minh giữa phương Tây và Liên Xô mạnh đến mức nào? Liệu nó có tan
vỡ khi bọn họ ngồi chia chiến lợi phẩm? Giờ đây, quân Nga đang nắm giữ phần lớn
Trung Âu, liệu tuyên bố “đầu hàng vô điều kiện” của Churchill và Roosevelt sau
Hội nghị Casablanca
1943 có còn hiệu lực? Và liệu quân Đồng minh có định nghiêm túc bắt một nước
Đức thất bại phải chấp nhận những điều khoản đó? Khi tướng Jodl và Bộ Tư lệnh
Cấp cao nghiên cứu hồ sơ Nhật thực, tất cả những câu hỏi như thế về ý định của
phe Đồng minh đã biến mất. Tài liệu này của phe Đồng minh đã trả lời vấn đề
bằng những điều khoản không thể nào lầm lẫn.
Tuy nhiên, phải đến tuần thứ hai của
tháng 2, tướng Jodl mới nhận ra toàn bộ tầm quan trọng của hồ sơ này - đặc biệt
là, của những tấm bản đồ của nó. Vào ngày 9/2 và trong ba ngày sau đó,
Roosevelt, Churchill và Stalin đã gặp gỡ trong một hội nghị bí mật tại Yalta . Mặc cho những nỗ
lực tình báo nhằm tìm hiểu chính xác chuyện gì đã diễn ra tại hội nghị, nhưng
tất cả những gì tướng Jodl biết được là từ bản thông cáo chính thức được đưa ra
tại buổi họp báo quốc tế ngày 12/2 – nhưng thế là đủ. Bản thông báo khá mơ hồ
và rất kín kẽ về mặt thông tin, nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, các tài liệu
và bản đồ của Nhật thực là mấu chốt trong những ý định đã thông báo của phe
Đồng minh.
Có một
đoạn trong bản thông cáo chính thức khẳng định: “Chúng tôi đã đồng thuận về
nhiều chính sách và kế hoạch nhằm thúc đẩy các điều khoản đầu hàng vô điều kiện
mà chúng tôi sẽ cùng đưa ra… Các điều khoản này sẽ không được thực hiện chừng
nào chưa tới thất bại cuối cùng của nước Đức… Theo kế hoạch đã được nhất trí,
mỗi bên lực lượng của Tam Quyền sẽ chiếm một phần nước Đức riêng biệt…” Phe
Đồng minh không cần nêu ra các “điều khoản” nữa – tướng Jodl đã đọc qua trong
hồ sơ Nhật thực rồi. Và dù bản thông cáo Yalta
không tiết lộ các khu vực chiếm đóng dự định, tướng Jodl cũng đã biết nốt. Vị
trí và ranh giới chính xác của mỗi vùng đều có trên tấm bản đồ của Chiến dịch
Nhật thực.
Có thể suy ra nhiều kết luận khác, nhưng
có một cái đặc biệt cay đắng đối với tướng Jodl. Rõ ràng là dù có chuyện gì
khác đã xảy ra ở Yalta ,
kế hoạch của phe Đồng minh đối với nước Đức đã đơn thuần được thông qua ở cuộc
họp của ba ông lớn. Trong khi bản thông cáo Yalta tạo ấn tượng là kế hoạch chi
tiết về việc chiếm đóng và chia cắt khởi nguồn từ hội nghị, ngày tháng trên tập
tài liệu và bản đồ Chiến dịch Nhật thực chứng minh rằng không cần nghi ngờ,
những quyết định cơ bản đã đạt được nhiều tháng trước đó. Lá thư đi kèm với bản
ghi nhớ thông tin cơ bản của Chiến dịch Nhật thực được ký vào tháng giêng.
Mấy tấm bản đồ đã được chuẩn bị trước
đó: chúng được in từ cuối năm 1944 và có ngày tháng đề tháng 11. Chiến dịch
Nhật thực, được định nghĩa là “kế hoạch và vận hành của cuộc chiếm đóng nước
Đức,” đơn giản là không thể nào được đưa ra trừ phi đã có sự nhất trí hoàn toàn
trong phe Đồng minh – một sự thật tỉnh táo làm khô héo một trong những niềm hy
vọng cuối cùng của nước Đức.
Từ giây phút Hồng quân vượt qua biên giới
phía đông của đế chế Đức, Hitler và các cố vấn quân sự của ông ta đã chờ đợi
vết mẻ bất đồng đầu tiên giữa phe Đồng minh với nhau xuất hiện. Họ tin là điều
này chắc chắn sẽ xảy ra, vì phương Tây sẽ không bao giờ để nước Nga Soviet
thống trị Trung Âu. Tướng Jodl cũng có đồng quan điểm. Ông đặc biệt nghiêng về
phía người Anh, vì ông cảm thấy rằng họ sẽ không bao giờ chịu nổi tình hình như
thế (*). Nhưng đó là trước khi ông xem qua Chiến dịch Nhật thực. Nhật thực cho
thấy rõ là quan hệ Đồng minh đó vẫn không suy suyển và Yalta đã chứng thực điều
đó.
Hơn thế nữa, ngay đoạn đầu của lá thư đi
kèm – một lời nói đầu cho toàn bộ hồ sơ – đã cho thấy sự nhất trí hoàn toàn
trong phe Đồng minh. Lá thư viết: “Để thực hiện các điều khoản đầu hàng mà nước
Đức phải chịu, chính phủ của Hoa Kỳ, Liên Xô và Vương quốc Anh (ở Liên Xô là
nhân danh nhà nước nắm quyền) đã đồng ý rằng nước Đức sẽ bị các lực lượng vũ
trang của ba thế lực chiếm đóng (**). Và không cần bàn cãi gì về độ đáng tin
của lá thư nữa. Nó được ký vào tháng 1/1945, tại Sở chỉ huy của Tập đoàn quân
21 của Anh, và tại Bỉ, bởi một người có địa vị không kém Thiếu tướng Sir
Francis de Guingand, Tham mưu trưởng của Thống chế Montgomery.
Lời dẫn của tác giả:
(*): Ở cuộc họp ngày 27/1/1945, Hitler
đã hỏi Goering và Jodl: “Các anh có nghĩ là sâu trong lòng bọn người Anh rất
hăng hái trước những diễn biến của Nga không? “ Jodl trả lời mà không hề ngập
ngừng. Ông đáp, “Chắc chắn là không. Kế hoạch của họ khá là khác… sau đó… họ sẽ
hoàn toàn nhận ra được.” Goering cũng rất tự tin. Ông nói, “Chắc chắn là họ
không dự tính được là chúng ta lại cầm chân họ trong khi quân Nga chinh phục
khắp nước Đức. Họ không tin là chúng ta… cầm chân họ ở phía tây như mấy thằng
điên, trong khi quân Nga tiến vào đất Đức ngày càng sâu.” Jodl hoàn toàn đồng
ý, chỉ ra rằng người Anh “đã luôn luôn nghi ngờ người Nga.” Goering thì hết sức
chắc chắn là người Anh sẽ cố dàn xếp một số thỏa hiệp với Đức, thay vì thấy
trái tim của châu Âu rơi vào vòng quỹ đạo cộng sản, ông nói: “Nếu cái đà này cứ
diễn ra, chúng ta sẽ nhận được một bức điện tín [từ người Anh] trong vài ngày
tới.”
(**): Có thể có một số sai khác nhỏ giữa
bản dịch này với tài liệu gốc. Khi Chiến dịch Nhật thực rơi vào tay người Đức,
nó được dịch ra tiếng Đức và sao chụp lại. Phiên bản trên là một bản dịch của
tài liệu bị thất lạc đã được người Anh lấy lại.
Đòn mạnh nhất dành cho tướng Jodl là sự
nhấn mạnh lặp đi lặp lại về việc đầu hàng vô điều kiện; nó được nhắc hết lần
này tới lần khác. Lúc đầu, người Đức tin chắc là lời tuyên bố đầu hàng vô điều
kiện chỉ là hành động tuyên truyền nhằm nâng cao nhuệ khí của hậu phương của
phe Đồng minh. Giờ họ đã biết rõ hơn: phe Đồng minh rõ ràng có ý định đó. Chiến
dịch Nhật thực nói rằng, “Câu trả lời khả thi duy nhất để có thể cất khúc khải
hoàn cho toàn bộ cuộc chiến là đánh bại và chiếm đóng hoàn toàn… Phải làm rõ là
người Đức sẽ không được quyền đàm phán, theo nghĩa của từ này.”
Ý định của phe Đồng minh hứa hẹn sẽ
không có chút hi vọng, chút tương lai nào cho nước Đức. Rõ ràng là dù Đức có
muốn đầu hàng đi nữa thì cũng không có cách nào ngoại trừ đầu hàng vô điều
kiện. Với tướng Jodl, điều này có nghĩa là Đức không còn lựa chọn nào khác
ngoài chiến đấu đến cùng (***).
Lời dẫn của tác giả:
(***): Ở phiên tòa xét xử của tướng Jodl
tại Nurenberg năm 1946, ông được hỏi sao không khuyên Hitler đầu hàng từ đầu
năm 1945. Tướng Jodl nói: “Lý do rất đơn giản… đầu hàng vô điều kiện… và dù
chúng tôi có chút nghi ngờ về thứ mình phải đối mặt, thì nó cũng đã hoàn toàn
biến mất khi chúng tôi lấy được bản Chiến dịch Nhật thực bằng tiếng Anh.” Vào
lúc đó, khi đang khai trước Tòa án, tướng Jodl nhìn mấy vị sĩ quan Anh đang có
mặt tại đó và nói với một nụ cười nửa miệng, “Các quý ông của phái đoàn Anh
quốc sẽ biết đó là cái gì.” Sự thật là những người Anh tại phiên tòa không hiểu
được lời nói đó: Chiến dịch Nhật thực được giữ bí mật tới mức họ không biết gì
về nó. Chính lời ám chỉ bí ẩn đó, cộng thêm vài cuộc phỏng vấn với bà Jodl, đã
đưa tác giả đến với Chiến dịch Nhật thực và nội dung của nó, lần đầu công bố
tại cuốn sách này.
Vài ngày sau – vào ngày chủ nhật trước
Lễ Phục sinh, ngày 25/3 – Thượng tướng Jodl kiểm tra bản đồ của Chiến dịch Nhật
thực một lần nữa. Ông có đủ lý do để làm vậy. Các đơn vị trong Quân đoàn 3 của
Đại tướng George S. Patton của Mỹ đã vượt sông Rhine vào đêm thứ năm ở ngôi
làng chuyên làm nông Oppenheim, gần Mainz, và giờ đang tiến về Frankfurt. Ngày
hôm sau, ở miền bắc, các lực lượng của Thống chế Montgomery càn quét qua sông
trong một cuộc tấn công quy mô lớn trên một mặt trận dài 25 dặm. Bất chấp mọi
thứ, phòng tuyến sông Rhine đang sụp đổ - và quân Đồng minh phương Tây đang
tiến cực nhanh. Giờ đây, tướng Jodl đang lo lắng kiểm tra lại mấy tấm bản đồ
của Chiến dịch Nhật thực, tự hỏi phe Đồng minh định tiến sâu vào nước Đức đến
mức nào. Đó là một câu hỏi mà bản ghi nhớ thông tin cơ bản của Chiến dịch Nhật
thực không trả lời. Tướng Jodl ước gì ông có các phần khác của kế hoạch – đặc
biệt là phần có kế hoạch hành quân.
Dù vậy, mấy tấm bản đồ vẫn cung cấp một
gợi ý. Ông thậm chí từng đề cập chuyện này với vợ. Đó chỉ là linh cảm, nhưng
tướng Jodl nghĩ là mình đã đúng. Mấy tấm bản đồ vẽ đường ranh giới giữa liên
quân Anh-Mỹ và quân Nga chạy dọc sông Elbe từ Lübeck đến Wittenberge, và từ đó
cuộn xoắn về phía nam tới vùng lân cận Eisenach, rồi qua phía đông tới biên
giới với Tiệp.
Liệu đường vẽ đó, ngoài là đường ranh
giới khu vực, còn là điểm dừng của đà tiến quân của liên quân Anh-Mỹ hay chăng?
Tướng Jodl gần như chắc chắn là như thế. Ông bảo vợ rằng ông không nghĩ là quân
Anh và Mỹ sẽ đến Berlin; ông tin là bọn họ đã quyết định để việc chiếm thủ đô
cho Hồng quân thực hiện. Trừ khi bản đồ của Chiến dịch Nhật thực đã bị thay
đổi, đối với tướng Jodl, có vẻ như các lực lượng của Eisenhower sẽ dừng chân
tại đường ranh giới của Chiến dịch Nhật thực.
Trong tuần cuối cùng của tháng ba – ngày
chính xác thì không ai còn nhớ được nữa – Đại tướng Reinhard Gehlen, Trưởng ban
tình báo của tướng Guderian, lái xe đến Prenzlau để gặp vị tư lệnh mới của Cụm
tập đoàn quân Vistula.
Trong cặp tài liệu của ông là một bản
sao Chiến dịch Nhật thực. Tướng Gehlen chỉ ra các bố trí mới nhất của quân Nga
bên sông Oder mà họ biết được cho tướng Heinrici, rồi ông đưa cho tướng
Heinrici tập hồ sơ Chiến dịch Nhật thực và giải thích đó là cái gì. Tướng
Heinrici chầm chậm xem qua các trang giấy. Rồi ông giở mấy tấm bản đồ ra. Ông
nghiên cứu chúng một lúc lâu. Cuối cùng, Heinrici nhìn Gehlen và tóm tắt lại ý
nghĩa của tài liệu này, ý nghĩa mà ai Bộ Tư lệnh Cấp cao cũng biết, bằng một
câu duy nhất. “Das ist ein Todesurteil” – Đây là một bản án tử hình.
***********************
III-MỤC
TIÊU
1.
Gần đến nửa đêm ngày chủ nhật trước Lễ
Phục sinh, một chiếc xe sĩ quan Mỹ dừng bên ngoài sở chỉ huy xây bằng đá xám
của Sư đoàn Dù 82 ở Sissonne, miền bắc nước Pháp. Hai sĩ quan bước ra ngoài.
Một người mặc đồng phục của Mỹ, người kia mặc quân trang của Anh nhưng không
mang phù hiệu. Người thứ hai gầy và cao lêu nghêu, đội một chiếc mũ nồi xanh
gọn gàng, tương phản rõ rệt với mái tóc vàng hoe của ông, nuôi bộ râu đỏ trông
rất dữ tợn. Tên của ông thật sự khó mà phát âm nổi đối với cả người Mỹ lẫn
người Anh: Arie D. Bestebreurtje. Ông thường được biết đến bằng cái tên “Arie”,
hay “Đại úy Harry.” Ngay cả những cái tên này cũng thay đổi qua từng nhiệm vụ,
vì ông dành phần lớn thời gian đằng sau các phòng tuyến của Đức. Arie là một
đặc vụ của Lực lượng Đặc biệt và là một thành viên của Cục Tình báo Hà Lan.
Mấy ngày trước, Arie được thượng cấp gọi
đến Brussels và bảo rằng ông vừa được phân đến Sư đoàn Dù 82 để thực hiện một
công tác đặc biệt. Ông sẽ phải báo cáo với vị Thiếu tướng trẻ tuổi James M.
Gavin, 38 tuổi, tư lệnh của Sư đoàn Dù 82, để tham gia vào một chỉ thị tối mật.
Bây giờ, Arie và viên sĩ quan tháp tùng đi vào sở chỉ huy, rảo bước lên một dãy
cầu thang để lên tầng hai rồi đi dọc theo một hành lang đến một căn phòng bản
đồ được canh gác cẩn mật. Tại đây, một quân cảnh kiểm tra giấy ủy nhiệm của họ,
sau đó anh ta chào họ rồi mở cửa.
Vào trong phòng, Arie được tướng Gavin và
Tham mưu trưởng của ông, Đại tá Robert Wienecke chào đón nồng nhiệt. Arie thấy
phần lớn người trong phòng đều là bạn cũ: ông từng kề vai chiến đấu cùng họ
trong cuộc tấn công của sư đoàn 82 tại Nijmegen, Hà Lan. Mấy vị thượng cấp của
ông tại Bỉ đã không phóng đại các biện pháp an ninh tại đây. Chỉ có 15 sĩ quan
có mặt –tư lệnh các trung đoàn và một số thành viên nhất định trong ban tham
mưu của họ, rõ ràng tất cả đều được chọn rất kỹ lưỡng. Bản thân căn phòng khá
đơn giản. Chỉ có vài băng ghế dài và mấy cái bàn, cùng một số biểu đồ trên
tường. Ở cuối phòng có một tấm bản đồ lớn cỡ bức tường, được phủ rèm.
Một sĩ quan an ninh gọi tên từng người để
đối chiếu với bảng phân công; rồi tướng Gavin nhanh chóng mở màn. Đứng bên tấm
bản đồ phủ rèm, ông ra dấu cho mọi người đến xung quanh. Ông bắt đầu:
“Chỉ có mấy người các anh là có lý do nhất
định để đến buổi chỉ thị này, và tôi phải nhấn mạnh rằng, trừ khi có mệnh lệnh
khác, các anh không được để những thứ được nghe trong tối nay lọt ra khỏi căn
phòng này. Nói cách khác, các anh sẽ huấn luyện người của mình trong bóng tối,
vì các anh không được cho họ biết mục tiêu. Thực sự thì, các anh đã phần nào
huấn luyện bọn họ rồi, dù phần lớn các anh không biết điều đó. Trong mấy tuần
qua, các anh cùng với người của mình đã nhảy dù xuống hoặc bay đến một khu vực
huấn luyện đặc biệt, được đánh dấu có chủ đích và bố trí mô phỏng theo quy mô
thực tế của mục tiêu tấn công kế tiếp của chúng ta.
Thưa các quý ông, chúng ta sắp tham gia
một vụ tiêu diệt. Đây sẽ là một cú nốc ao.”
Ông giật mạnh sợi dây thừng ở bên cạnh tấm
bản đồ. Tấm rèm được kéo qua, để lộ mục tiêu: Berlin.
Arie nhìn kỹ gương mặt các sĩ quan trong
khi họ nhìn chăm chăm tấm bản đồ. Ông nghĩ ông thấy được sự hưng phấn và đề
phòng. Ông không ngạc nhiên lắm. Mấy vị tư lệnh này đã chán nản suốt nhiều
tháng nay. Phần lớn bọn họ từng cùng đơn vị nhảy dù xuống Sicily, Italy,
Normandy và Hà Lan, nhưng gần đây sư đoàn lại được giao cho các nhiệm vụ trên
bộ, chủ yếu là ở cao nguyên Ardennes trong trận chiến Bulge. Ông biết rằng với
tư cách là những binh đoàn dù xuất sắc, họ cảm thấy bị phủ nhận vai trò chính
của mình: tấn công mục tiêu trước các tập đoàn quân đang tiến đến rồi trấn giữ
ở đó cho đến khi được điều đi nơi khác. Sự thật là đà tiến quân của quân Đồng
minh quá nhanh nên các kế hoạch nhảy dù cứ bị hoãn hết lần này đến lần khác.
Tướng Gavin giải thích, cuộc tấn công
Berlin sẽ là một phần trong chiến dịch của Tập đoàn quân Dù Đồng minh I, do ba
sư đoàn thực hiện. Sư đoàn 82, được chỉ định là “Lực lượng Tác chiến A,” sẽ nắm
vai trò chủ chốt. Mở lớp phủ trong suốt bên trên tấm bản đồ ra, tướng Gavin chỉ
vào một chuỗi hình vuông và oval được đánh dấu bằng bút chì đen, phác họa các
mục tiêu và khu nhảy dù rộng lớn. Ông nói, “Theo như kế hoạch, Sư đoàn dù 101
sẽ chiếm sân bay Gatow, phía tây thành phố. Một lữ đoàn từ Quân đoàn Dù 1 của
Anh sẽ chiếm sân bay Oranienburg ở phía tây bắc.” Ông ngừng lại một chút rồi
nói tiếp. “Mục tiêu của chúng ta nằm ngay giữa Berlin – sân bay Tempelhof”.
Mục tiêu của Sư đoàn 82 có vẻ quá nhỏ.
Với diện tích 321 dặm vuông của thành phố cùng các vùng lân cận, sân bay này
giống như một con tem – một vệt xanh rộng không đầy một dặm vuông rưỡi, nằm
trong một vùng nhà cửa dày đặc. Ở rìa phía bắc, đông và nam của sân bay có
không ít hơn chín nghĩa trang, quả thực hơi giống điềm gở. Tướng Gavin nói:
“Hai trung đoàn sẽ trấn giữ vành đai, và
trung đoàn thứ ba sẽ di chuyển vào các tòa nhà phía bắc sân bay, về hướng trung
tâm Berlin. Chúng ta sẽ chờ ở chỗ này cho tới khi các lục quân tới được đó. Sẽ
không lâu lắm đâu – vài ngày là cùng.”
Tướng Gavin nói, cần tăng cường huấn
luyện “mù” cho các lính dù. Mô hình phỏng theo địa thế sân bay Tempelhof và các
vùng lân cận sẽ được dựng trong một căn phòng “an ninh” của sở chỉ huy; các tư
lệnh trung đoàn cùng ban tham mưu sẽ được tiếp cận với các ảnh chụp khu vực đổ
bộ, các đánh giá tình báo và các thông tin khác để lên kế hoạch chi tiết. Tướng
Gavin nói:
“Chúng ta thật là may khi có được sự phục
vụ của Đại úy Harry. Anh ấy là một chuyên gia về Berlin đấy – nhất là ở
Tempelhof và vùng phụ cận. Anh ấy sẽ nhảy dù cùng với chúng ta và từ đây trở đi
cũng sẽ có mặt ở các buổi chỉ thị để trả lời thắc mắc của các anh.”
Tướng Gavin ngừng lại lần nữa và nhìn các
sĩ quan:
“Tôi dám chắc là tất cả các anh đều muốn
biết đáp án của câu hỏi lớn nhất: Khi nào? Cái đó thì tùy bọn Đức. Kế hoạch
không vận đã đi vào hoạt động từ hồi tháng 11 vừa rồi. Thường xuyên có thay đổi
và chúng ta phải biết là sẽ còn thay đổi nhiều nữa trước khi có ngày cụ thể.
Ngày đó
đã được xác định là ‘A-Day,’ sẽ tùy thuộc vào tốc độ tiến quân về Berlin của
quân Đồng minh. Chắc chắn là việc nhảy dù sẽ không được lên kế hoạch chừng nào
lục quân vẫn còn cách xa thành phố. Nhưng A-Day có thể sẽ đến chỉ trong 2-3
tuần nữa. Cho nên chúng ta không có nhiều thời gian đâu. Đó là tất cả những gì
tôi có thể nói cho các anh vào lúc này.”
Tướng Gavin lui xuống và nhường cuộc họp
lại cho các sĩ quan tham mưu của mình. Họ phân tích từng giai đoạn của chiến
dịch, còn tướng Gavin ngồi nghe bọn họ nói. Sau này nhớ lại, ông rất tiếc là
yếu tố bảo mật đã ngăn không cho ông nói ra đầy đủ chi tiết. Ông không hoàn
toàn ngay thằng, vì ông chỉ mới nói cho người của mình một phần của chiến dịch Nhảy
dù số 1 của quân Đồng minh – phần chiến dịch chịu trách nhiệm kết hợp cùng các
mũi tiến quân của Đồng minh tấn công Berlin.
Phần ông chưa đề cập là cuộc nhảy dù có
thể phải tiến hành trong một điều kiện quân sự khác: nước Đức và các lực lượng
vũ trang Đức đầu hàng hoặc sụp đổ đột ngột. Nhưng phần đó của kế hoạch vẫn còn
là tối mật. Đó là phần mở rộng hợp lý của Chiến dịch Lãnh chúa – cuộc xâm chiếm
châu Âu – và có giai đoạn được biết đến dưới cái tên Chiến dịch Rankin, Phương
án C, và sau này là Chiến dịch Lá bùa.
Tên chiến dịch được đổi lần cuối vào
tháng 11/1944, vì lý do bảo mật. Bây giờ nó mang mật danh là Chiến dịch Nhật
thực.
Chiến dịch Nhật thực bí mật tới nỗi ngoài
các sĩ quan tham mưu cao cấp ở Sở chỉ huy Tối cao, chỉ có một số tướng lĩnh
được phép nghiên cứu về chiến dịch. Đó là tư lệnh của các tập đoàn quân và quân
đoàn hoặc những người thuộc các bộ phận khác có trách nhiệm tương đương. Rất ít
tư lệnh sư đoàn được biết điều gì về Chiến dịch Nhật thực. Tướng Gavin chỉ được
biết một số mục tiêu của kế hoạch và các phần có liên quan tới ông cùng sư đoàn
của mình.
Trong mấy tháng qua, Đại tướng Lewis H.
Brereton, Tư lệnh của Tập đoàn quân Dù Đồng minh I, và cấp trên trực tiếp của
tướng Gavin là Thiếu tướng Matthew B. Ridgway, Tư lệnh của Quân đoàn 18 đã tham
gia vô số cuộc họp, ở đó Chiến dịch Nhật thực được xem là kế hoạch chiếm đóng
nước Đức. Nó trình bày chi tiết các bước hành quân sẽ diễn ra ngay sau khi Đức
đầu hàng hoặc sụp đổ. Các mục tiêu chính của chiến dịch là ép Đức đầu hàng vô
điều kiện cùng với giải giáp và kiểm soát mọi lực lượng của Đức.
Theo các hoàn cảnh của Chiến dịch Nhật
thực, kế hoạch không vận tấn công vào Berlin yêu cầu các lính dù phải di chuyển
thật nhanh để “giành kiểm soát thủ đô của địch cùng với các trung tâm vận
chuyển và hành chính cao nhất… và phô diễn sức mạnh quân đội của chúng ta.” Họ
sẽ phải hạ gục những nhóm cuồng tín còn sót lại, chúng có thể vẫn tiếp tục
chống cự; giải cứu và chăm sóc cho các tù binh chiến tranh; thu giữ các tài
liệu, hồ sơ và băng hình tối mật trước khi chúng bị phá hủy; kiểm soát các
trung tâm thông tin như các sở bưu chính và viễn thông, trạm phát thanh, tòa
báo và các nhà máy in; bắt giữ các tội phạm chiến tranh và các nhân vật chủ
chốt còn sống sót của chính phủ, và thiết lập luật và quy định mới. Các đội
quân dù sẽ khởi xướng tất cả các bước này, cho tới khi lục quân và các nhóm
lãnh đạo trong quân đội đến nơi.
Tướng Gavin chỉ được nghe chừng đó về
Chiến dịch Nhật thực. Còn phần kế hoạch về cách chiếm đóng và phân chia Đức và
Berlin sau khi chiến thắng thì ông không được biết. Ngay bây giờ, mối quan tâm
duy nhất của tướng Gavin là chuẩn bị sẵn sàng cho sư đoàn 82.
Nhưng vì các yêu cầu của kế hoạch, ông
cần chuẩn bị cho hai kế hoạch riêng biệt. Cái thứ nhất là tấn công để chiếm
thành phố. Cái thứ hai, tiến hành theo hoàn cảnh của Chiến dịch Nhật thực, yêu
cầu các đơn vị dù phải đổ bộ xuống Berlin với tư cách là quân canh gác, nhưng
chỉ thực hiện các hoạt động của cảnh sát.
Tướng Gavin đã nói với các vị tư lệnh
dưới quyền hết mức dám nói – dù ông biết là nếu cuộc chiến đột ngột kết thúc
thì toàn bộ nhiệm vụ không vận này sẽ thay đổi rất lớn. Với đà diễn biến hiện
tại thì nhiệm vụ của ông rất rõ ràng. Ông cần làm theo kế hoạch của chiến dịch
và làm sư đoàn 82 sẵn sàng cho một cuộc tấn công không vận nhằm chiếm đóng
Berlin.
Tướng Gavin chợt nhận ra là viên sĩ quan
tình báo Hà Lan đang kết thúc phần của ông ta trong buổi chỉ thị. Đội trưởng
Harry nói, “Tôi phải lặp lại là nếu các anh có hy vọng sẽ được ai đó ở Berlin
giúp đỡ thì hãy quên đi. Liệu các anh có tìm được những người hướng dẫn sẵn
lòng giúp đỡ?
Câu trả lời là: Không.
Liệu có cơ sở ngầm như chúng ta đã có ở
Pháp và Hà Lan không?
Câu trả lời là: Không.
Dù
có một số người dân Berlin có cảm tình riêng với chúng ta, thì họ cũng quá sợ
hãi nên sẽ không dám biểu lộ điều đó. Chúng ta có thể thảo luận chi tiết về các
vấn đề này sau, nhưng ngay bây giờ tôi đảm bảo với các anh điều này: đừng có ảo
tưởng gì rằng các anh sẽ được chào đón bằng sâm banh và hoa hồng như những anh
hùng giải phóng. Quân đội, lực lượng SS và cảnh sát sẽ chiến đấu đến viên đạn
cuối cùng, và rồi bọn chúng sẽ bước ra ngoài, tay giơ lên đầu, nói với các anh
rằng toàn bộ chuyện này chỉ là một hiểu lầm khủng khiếp, rằng mọi chuyện là lỗi
của Hitler và cảm ơn các anh vì đã đến được thành phố trước người Nga.”
Quý ông Hà Lan cao kều vuốt râu. Ông
nói:
“Nhưng chúng sẽ chiến đấu như mấy thằng
điên, và có thể sẽ mất kha khá thời gian đấy. Nhưng cũng đáng thôi, và tôi rất
tự hào được đồng hành cùng các anh. Các bạn thân mến, khi chúng ta chiếm được
Berlin, chiến tranh sẽ kết thúc.”
Tướng Gavin biết là chiếm được Berlin
không hề dễ dàng, nhưng ông nghĩ rằng cú sốc tâm lý về cuộc tấn công có khi
cũng đủ hạ gục hàng phòng ngự của Đức. Đó sẽ là một trong những cuộc tấn công
không vận lớn nhất cuộc chiến. Theo kế hoạch ban đầu, chiến dịch có 3.000 máy
bay bảo vệ, 1.500 máy bay vận chuyển, có lẽ hơn 1.000 tàu lượn và khoảng 20.000
lính dù – hơn cả lực lượng đã đổ bộ xuống Normandy vào D-Day. Tướng Gavin nói
với các sĩ quan của mình khi cuộc họp kết thúc:
“Tất cả những gì ta cần bây giờ là một
quyết định và một từ - Xuất phát.”
Cách đó 30 dặm, tại Mourmelon-le-Grand, Sư
đoàn Dù 101 cũng đang huấn luyện và sẵn sàng cho bất cứ chiến dịch nào, nhưng
không ai trong sư đoàn 101 biết sư đoàn nào sẽ được ra lệnh. Sở chỉ huy cấp cao
hơn đã đưa ra quá nhiều kế hoạch tấn công bằng lính dù đến nỗi vị tư lệnh của
sư đoàn, Thiếu tướng Maxwell D. Taylor, cùng trợ lý của ông là Chuẩn tướng
Gerald J. Higgins và Ban tham mưu thấy mình đang trong tình trạng lúng túng. Họ
phải chuẩn bị cho mọi kế hoạch, nhưng họ nghiêm túc tự hỏi liệu có kế hoạch
nhảy dù nào sẽ xảy ra hay không.
Ngoài kế hoạch ở Berlin, còn có các kế
hoạch tấn công không vận vào một căn cứ hải quân Đức ở Kiel (Chiến dịch Núi lửa
phun); kế hoạch nhảy dù hàng loạt tại các trại tù binh chiến tranh (Chiến dịch
Hân hoan); và kế hoạch tấn công nhằm chiếm các mục tiêu trước Tập đoàn quân VII
của Mỹ khi đoàn quân này tiến về Rừng Đen (Chiến dịch Sẵn sàng). Còn có nhiều
chiến dịch khác đang được nghiên cứu – và có một số cái khá là ngoài sức tưởng
tượng. Sở chỉ huy của sư đoàn 101 đã biết rằng Ban tham mưu của Tập đoàn quân
Dù Đồng minh I thậm chí đang cân nhắc việc nhảy dù xuống vùng núi quanh
Berchtesgaden, ở Bavaria, để tấn công biệt thự Eagle’s Nest nằm ở Obersalzberg
cùng với chủ nhân của nó, Adolf Hitler.
Rõ ràng không phải cuộc nhảy dù nào cũng
có thể được lên kế hoạch. Như tướng Higgins nói với ban tham mưu: “Nếu nếu tiến
hành mọi chiến dịch thì sẽ không đủ máy bay vận tải để đáp ứng nhu cầu không
vận. Dù gì thì chúng ta cũng không quá tham lam – chúng ta chỉ cần một cái
thôi!” Nhưng quân dù sẽ tiến hành chiến dịch nào – và nhất là vai trò của sư
đoàn 101 là gì? Đổ bộ xuống Berlin là nhiều khả năng nhất – ngay cả tư lệnh
hành quân, Đại tá Harry Kinnard, cũng nghĩ đó sẽ là “một vụ kinh khủng.” Mọi
người trong sư đoàn 101 đều bực bội vì trong cuộc đổ bộ xuống Berlin, người của
sư đoàn 101 sẽ chiếm sân bay Gatow, trong khi địch thủ số một của bọn họ là sư
đoàn 82 lại được giao cho mục tiêu chính, Tempelhof. Dù vậy thì Berlin vẫn là
mục tiêu lớn nhất của cuộc chiến; thế cũng đủ cho mọi người rồi.
Đối với Đại tá Kinnard, một cuộc đổ bộ
không vận có vẻ là cách hoàn hảo để kết thúc chiến tranh tại châu Âu. Ông thậm
chí còn vẽ một đường màu đỏ từ khu vực tập kết ở Pháp đến vùng đổ bộ của sư
đoàn 101 tại Berlin lên tấm bản đồ chiến tranh: thủ đô của Đức chỉ cách có 475
dặm. Nếu được bật đèn xanh, ông nghĩ những người Mỹ đầu tiên có thể đến được
Berlin chỉ trong có năm tiếng đồng hồ.
Tướng Taylor, Tư lệnh sư đoàn 101 và trợ
lý của ông là tướng Higgins vừa phấn khích về cuộc tấn công, vừa tự hỏi liệu
cuộc nhảy dù này có cơ hội xảy ra hay không. Tướng Higgins rầu rĩ nghiên cứu
tấm bản đồ. Ông nói, “Nhìn cái cách lục quân đang di chuyển thì có lẽ họ sẽ để
chúng ta ngồi chầu rìa đây.”
Cùng ngày, chủ nhật ngày 25/3, các lãnh
đạo quân đội của phe Đồng minh phương Tây nhận được tin tức hài lòng từ Sở chỉ
huy Tối cao của Lực lượng Viễn chinh Đồng minh (SHAEF). Tại Washington và
London, Đại tướng George C. Marshall, Tổng tham mưu của Mỹ và Nguyên soái Sir
Alan Brooke, Tổng tham mưu Hoàng gia, nghiên cứu một bức điện từ Đại tướng
Dwight D. Eisenhower vừa đến đêm qua.
“Chuỗi chiến thắng vừa qua ở phía tây
sông Rhine đã đạt được đúng như kế hoạch, tiêu diệt được một phần lớn quân địch
có ở Mặt trận phía Tây. Dù không muốn lạc quan thái quá, tôi tin rằng tình hình
hiện tại đưa ra cơ hội mà chúng ta đã chiến đấu để giành được và cần nắm ngay
lấy… Cá nhân tôi tin rằng sức mạnh của quân thù… đang bị kéo căng quá mức, cho
nên đà thâm nhập và tiến quân sẽ sớm chỉ bị giới hạn do phía chúng ta mà thôi…
Tôi ra lệnh hành động mạnh mẽ trên mọi mặt trận… Tôi định củng cố mọi thành
công với tốc độ nhanh nhất.”
2.
Từ độ cao 240m nhìn xuống, những hàng
người và xe cộ có vẻ dài bất tận. Ngó ra ngoài chiếc Piper Cub không vũ trang
của mình, chiếc máy bay trinh sát Miss Me, Trung úy Duane Francies say mê nhìn
cảnh tượng ngoạn mục bên dưới. Cả vùng dày đặc lính, xe tăng và các xe cộ khác.
Từ cuối tháng ba, khi những đội quân cuối cùng vượt qua sông Rhine, Francies đã
quan sát các bước tiến của đoàn quân.
Giờ con sông lớn đã nằm lại đằng sau, và
phóng tầm mắt nhìn trái nhìn phải, nhìn xa hết mức đằng trước, Francies chỉ
thấy một bức tranh toàn cảnh mênh mông một màu vàng nâu. Francies đẩy cần gạt
về phía trước và chiếc Miss Me sà xuống dọc theo ranh giới giữa Tập đoàn quân 2
của Anh và Tập đoàn quân 9 Hoa Kỳ. Anh chao đôi cánh, thấy đoàn quân bên dưới
vẫy tay đáp lời, rồi hướng về phía đông để thực thi nhiệm vụ làm “đôi mắt” cho
những hàng xe tăng đang dẫn đầu Sư đoàn Thiết giáp 5. Chiến thắng đã ở rất gần,
anh chắc chắn như thế. Không gì có thể chặn bước tiến của đoàn quân này. Đối
với anh chàng phi công 24 tuổi này, có vẻ như “đến cả vỏ Trái Đất cũng phải
rung chuyển và đoàn quân đang ồ ạt tiến về sông Elbe,” hàng rào chắn bằng nước
cuối cùng chặn trước Berlin.
Những gì Francies thấy chỉ là một phần
nhỏ xíu của cuộc tấn công vĩ đại của Đồng minh. Suốt nhiều ngày nay, trong cái
lạnh cắt da cắt thịt, trong mưa tuôn xối xả và lội qua bùn lầy, trong mưa đá và
vượt qua băng tuyết, dọc theo Mặt trận phía Tây từ Hà Lan tới gần biên giới
Thụy Sĩ, một hàng người, đồ tiếp tế và máy móc rộng 350 dặm đang đổ về vùng
đồng bằng của Đức. Cuộc tấn công lớn cuối cùng đã bắt đầu. Để hủy diệt sức mạnh
quân sự Đức, 7 tập đoàn quân hùng mạnh – gồm 85 sư đoàn lớn, trong đó có 5 sư
đoàn dù và 23 sư đoàn thiết giáp, cùng 4.600.000 lính Đồng minh phương Tây –
đang đổ dồn vào nước Đức để thực hiện cuộc tiêu diệt.
Những lá cờ đầu hàng tự chế - khăn trải
giường, khăn tắm hoặc mảnh vải trắng – treo khắp nơi. Trong các thành phố và
làng mạc, từ các ô cửa sổ vỡ tan tành và các cửa ra vào, những người dân Đức sợ
hãi, vẫn còn choáng váng bởi những trận chiến vừa quét qua chỗ họ, nhìn chăm chăm
đầy kinh ngạc vào sức mạnh khổng lồ của quân Đồng minh đang ào qua. Chiến dịch
này thật vĩ đại, tốc độ của nó làm người ta nghẹt thở.
Những đoàn xe tăng, súng tự động, trọng
pháo, xe bọc thép, xe chở súng Bren, xe chở đạn dược, xe cứu thương, xe tải chở
xăng và xe chở dầu diesel to lớn kéo theo những toa xe rơ-mooc chất đầy thiết
bị - những đoạn cầu, thuyền phao, xe ủi đất bọc thép và thậm chí cả tàu đổ bộ
đang nện bước xuống mọi nẻo đường. Sở chỉ huy của các sư đoàn cũng đang di
chuyển, bằng những chiếc xe jeep, xe sĩ quan, xe mooc chỉ huy và xe tải
phát thanh cỡ lớn có cả rừng ăn ten rung
rung ló ra bên trên. Và những đoàn lính, như những cơn sóng nối tiếp nhau, làm
rung chuyển mọi nẻo đường, ngồi trên xe tải và xe bọc thép chạy bên cạnh những hàng
xe cơ giới, hoặc nặng nề đi qua những cánh đồng cạnh đó.
Họ tạo nên một đoàn diễu binh hoa mỹ và
hung bạo, ở giữa đoàn quân là những lá cờ chiến, huy hiệu và phù hiệu riêng của
các trung đoàn đã làm nên lịch sử trong Thế chiến thứ hai.
Trong các sư đoàn, lữ đoàn và trung đoàn
là những vệ binh đã làm quân tập hậu trong cuộc di tản ở Dunkirk, là những
người lính đặc công râu ria xồm xoàm, đội chiếc mũ nồi xanh đã bạc màu, là
những cựu binh của lữ đoàn của Lord Lovat từng tấn công vào các bờ biển bị
chiếm đóng tại châu Âu trong những năm tháng đen tối của chiến tranh, là những
người Canada can trường của Sư đoàn 2 danh tiếng từng đổ bộ xuống Dieppe trong
cuộc diễn tập đẫm máu trong cuộc xâm lăng Normandy.
Trong những hàng xe thiết giáp, cờ đuôi
nheo bay phấp phới, có mấy chiếc từng thuộc đội “Chuột Sa mạc” của Sư đoàn
Thiết giáp 7, từng khiến Thống chế Erwin Rommel chịu thất bại ở vùng sa mạc
Lybia.
Và lấn át tiếng ầm ĩ kéo dài của hàng
người và vũ khí là tiếng kèn te te của “Quỷ mặc váy,” Sư đoàn Cao nguyên 51,
những chiếc kèn túi của họ đang dạo khúc mở đầu trận chiến, như họ vẫn luôn làm
vậy.
Trong những đội hình sát cánh của quân Mỹ
là các sư đoàn với cái tên khá xấc cùng những huyền thoại đầy màu sắc – Sư đoàn
“Chiến đấu 69,”
Sư đoàn Thiết giáp 5 “Sư đoàn Chiến thắng,” “Những kẻ phá đường ray” của Sư
đoàn Bộ binh 84, Sư đoàn Bộ binh 4 “Sư đoàn Thường xuân.” Còn có Sư đoàn Thiết
giáp 2, “Địa ngục trên bánh xe,” có những chiến thuật xe tăng độc đáo từng
khiến quân Đức từ khắp vùng suối cạn Bắc Phi cho tới bờ sông Rhine phải hỗn
loạn. Còn có Sư đoàn 1, “Anh cả đỏ,” với kỷ lục số lần đổ bộ tấn công nhiều hơn
mọi đơn vị khác của Mỹ: Sư đoàn 1, cùng với một trong những lực lượng lâu đời
nhất của Mỹ, Sư đoàn 29 “Xám Xanh” can trường, đậm tính truyền thống, đã từng
kiên trì giữ một dải đất hẹp trên bờ biển Normandy có tên là “Omaha,” khi mà
tất cả tưởng chừng như đã mất.
Có một đơn vị, Sư đoàn Bộ binh 83 lừng
lẫy, đang di chuyển nhanh như một đội quân thiết giáp, gần đây được các phóng
viên đặt biệt danh là “Rạp xiếc rách rưới.” Vị tư lệnh tháo vát của sư đoàn,
Thiếu tướng Robert C. Macon, từng ra lệnh hỗ trợ việc vận chuyển của sư đoàn
bằng mọi thứ có thể di chuyển được; “không cần hỏi gì thêm.”
Giờ, Rạp xiếc rách rưới đang chạy nhanh
hết sức bằng một tổ hợp lạ kỳ, gồm những chiếc xe Đức bị chiếm được sơn lại vội
vàng: xe jeep quân đội, xe sĩ quan, xe tải chở đạn, xe thiết giáp Mark V và
Tiger, xe mô tô, xe buýt và hai chiếc xe cứu hỏa. Ở hàng đầu, với lính bộ binh
ngồi kín, là một trong hai chiếc xe cứu hỏa. Trên tấm chắn sau của nó là một
tấm băng rôn lớn bay phấp phới. Trên đó viết: TRẠM DỪNG KẾ: BERLIN.
Có ba Cụm tập đoàn quân lớn. Giữa
Nijmegen ở Hà Lan và Düsseldorf bên sông Rhine, Cụm tập đoàn quân 21 của Thống
chế Sir Bernard Law Montgomery đã vượt sông Rhine vào ngày 23/3 và giờ đang
băng băng qua đồng bằng Westphalia, phía bắc Thung lũng sông Ruhr rộng lớn,
động lực công nghiệp chính của Đức. Dưới quyền Thống chế Montgomery và nắm giữ
cánh phía bắc của ông là Tập đoàn quân 1 của Canada, do Trung tướng Henry D.
Crerar chỉ huy. Ở trung tâm là Tập đoàn quân 2 của Anh do Trung tướng Sir Miles
Dempsey chỉ huy (là tập đoàn quân đậm tính “đồng minh” nhất của quân Đồng minh;
Tập đoàn quân 2 ngoài các đơn vị người Anh, Scotland và Ireland còn có quân Ba
Lan, Hà Lan, Bỉ, Tiệp – và cả một sư đoàn Mỹ: Sư đoàn Dù 17). Dọc cánh phía nam
của Cụm tập đoàn quân là lực lượng thứ ba của Montgomery: Tập đoàn quân 9 Hoa
Kỳ hùng mạnh, do Trung tướng William H. Simpson chỉ huy. Các lực lượng của
Thống chế Montgomery đã bỏ lại sông Rhine đằng sau gần 50 dặm.
Kế đó, trong hàng quân Đồng minh, trấn
giữ mặt trận khoảng 125 dặm dọc sông Rhine, từ Düsseldorf đến Mainz, là Cụm tập
đoàn quân 12 dưới quyền Đại tướng Omar N. Bradley. Cũng giống Thống chế
Montgomery, tướng Bradley có ba tập đoàn quân. Tuy nhiên, một trong số đó, Tập
đoàn quân 15 Hoa Kỳ do Trung tướng Leonard Gero chỉ huy, là một tập đoàn quân
“ma”; nó được chuẩn bị cho các nhiệm vụ chiếm đóng và hiện tại gần như không có
hoạt động gì, chỉ trấn giữ bờ tây sông Rhine, ngay phía trước sông Ruhr, từ
vùng Düsseldorf đến Bonn.
Sức mạnh của tướng Bradley nằm trong Tập
đoàn quân 1 Hoa Kỳ và Tập đoàn quân 3 Hoa Kỳ hùng mạnh, tổng cộng có tới
500.000 người. Tập đoàn quân 1 Hoa Kỳ của Đại tướng Courtney Hodges – “con ngựa
thồ” của chiến trường châu Âu và là tập đoàn quân đã đi tiên phong trong cuộc
xâm lăng Normandy – đang tràn về phía nam sông Ruhr, tiến về phía đông với một
tốc độ chóng mặt.
Kể từ khi chiếm được cầu Remagen vào ngày
7/3, tướng Hodges đã dần dần mở rộng đầu cầu ở bờ đông sông Rhine. Các sư đoàn
liên tục dồn vào đó. Rồi vào ngày 25/3, người của Tập đoàn quân 1 đã ào ra khỏi
nơi đóng quân tạm thời đó với lực lượng khổng lồ. Giờ đây, chỉ sau đó ba ngày,
họ còn cách điểm bắt đầu tấn công có 40 dặm.
Tràn qua miền trung nước Đức như vũ bão
bên cạnh Tập đoàn quân 1 là Tập đoàn quân 3 Hoa Kỳ danh tiếng của Đại tướng
George S. Patton. Tướng Button ưa tranh cãi và dễ nổi nóng – niềm kiêu hãnh của
ông là Tập đoàn quân 3 của mình đang tiến ngày càng xa hơn, nhanh hơn, có diện
tích giải phóng được và số quân Đức giết được hoặc bắt được nhiều hơn bất cứ
đội quân nào khác – lại đạt được một cái nhất nữa. Ông đã phỗng tay trên của
Montgomery bằng cách bí mật vượt sông Rhine trước cuộc tấn công nổi tiếng ngày
23/3 của Cụm tập đoàn quân 21 gần 24 giờ đồng hồ. Bây giờ, những hàng xe tăng
của tướng Patton đang tiến về phía đông với tốc độ 30 dặm một ngày.
Kề với tướng Patton và ở bên phải đoàn
quân của tướng Bradley là lực lượng lục quân thứ ba của Đồng minh, Cụm tập đoàn
quân 6 của Đại tướng Jacob Devers. Hai tập đoàn quân của tướng Devers – Tập
đoàn quân 7 Hoa Kỳ của Trung tướng Alexander Patch và Tập đoàn quân 1 của Pháp
do Đại tướng Jean de Lattre de Tassigny chỉ huy – trấn thủ cánh phía nam mặt
trận, đại khái 150 dặm. Các tập đoàn quân của tướng Patch và tướng Patton đang
gần như cùng sóng vai tiến quân.
Tập đoàn quân của tướng De Tassigny đang
chiến đấu tại một trong những vùng có địa hình mấp mô nhất trên toàn mặt trận,
trên vùng núi Vosges và Rừng Đen. Quân của ông, Tập đoàn quân 1 hậu giải phóng
của Pháp, sáu tháng trước còn chưa tồn tại. Giờ, 100.000 người lính của nó hi
vọng trước khi chiến tranh kết thúc họ vẫn còn đủ thời gian để báo thù bọn les
boches (*).
Ai cũng có món nợ phải đòi. Nhưng dọc
theo Mặt trận phía Tây, Lục quân Đức hiếm khi tồn tại thành một lực lượng có tổ
chức và gắn kết. Bị tiêu hao nhiều trong cuộc tấn công Ardennes, các đội quân
một thời hùng mạnh của Đức quốc xã cuối cùng đã bị đập tan trong chiến dịch kéo
dài một tháng giữa sông Moselle và sông Rhine.
..........................................
(*): Dùng để chỉ lính Đức trong WWI hoặc WWII,
kết hợp từ allemand (tiếng Pháp, chỉ nước Đức) và caboche (tiếng lóng nghĩa là
thủ cấp) – ND.
Quyết định của Hitler cho quân chiến đấu
ở phía tây sông Rhine thay vì rút các lực lượng tơi tả của mình về đóng bên bờ
đông đã chứng tỏ là một thảm họa; nó sẽ được ghi nhận là một trong những sai
lầm quân sự lớn nhất của cuộc chiến. Gần 300.000 người bị bắt và 60.000 thương
vong. Tổng cộng, tổn thất của quân Đức tương đương hơn 20 sư đoàn đầy đủ.
Ước tính dù Đức còn hơn 60 sư đoàn, nhưng
đó hầy hết là các sư đoàn trên giấy, mỗi sư đoàn chỉ có khoảng 5.000 lính,
trong khi một sư đoàn có quân số đầy đủ thì phải đạt 9.000 – 12.000.
Thực sự thì, có thể tin là Đức chỉ còn
không đầy 26 sư đoàn hoàn chỉnh ở phía Tây, mà ngay cả những sư đoàn này cũng
chỉ có trang bị tồi tàn, thiếu đạn dược, đặc biệt thiếu xăng và phương tiện di
chuyển, cùng với pháo và xe tăng. Thêm nữa, đó chỉ là phần tàn dư gồm các sư
đoàn, các nhóm SS rời rạc, lính phòng không, hàng nghìn lính không quân (Không
quân Đức gần như đã biến mất), các tổ chức về một mặt nào đó có thể gọi là quân
đội, các đơn vị Lực lượng phòng vệ Hậu phương Volkssturm gồm người già và thiếu
niên chưa qua huấn luyện, và thậm chí cả những nhóm học viên trường sĩ quan
tuổi thiếu niên.
Vô tổ chức, thiếu sự liên lạc và thường
không có người lãnh đạo đủ khả năng, Lục quân Đức không thể ngăn chặn, thậm chí
là trì hoãn đà tấn công dữ dội có hệ thống của các tập đoàn quân của
Eisenhower.
Trong khi cuộc tấn công ở sông Rhine
trôi qua chưa được một tuần, các tập đoàn quân đang tiến quân thần tốc của
nguyên soái Montgomery và tướng Bradley đã đến gần thành trì cuối cùng của nước
Đức: con sông Ruhr được phòng thủ nghiêm ngặt.
Cùng lúc với mũi tiến công nhanh chóng về
phía đông, ba tập đoàn quân của Mỹ đột ngột quay lại để đánh vào vùng phụ cận
sông Ruhr từ hai hướng bắc-nam. Phía bắc, Tập đoàn quân 9 của tướng Simpson đổi
từ hướng chính đông sang bắt đầu hành quân theo hướng đông nam. Phía nam, Tập
đoàn quân 1 của tướng Hodges và Tập đoàn quân 3 của tướng Patton, di chuyển
song song, tướng Patton đi phía ngoài, cũng quay lại và tiến về hướng đông bắc
để liên kết với quân của tướng Simpson.
Cái bẫy đang khép lại nhanh tới mức quân
Đức – chủ yếu là Cụm tập đoàn quân B của Thống chế Walter Model, một lực lượng
gồm không ít hơn 21 sư đoàn – có vẻ như không hề biết gì về gọng kềm đang xiết
dần quanh họ. Giờ đây, bị đe dọa trước cuộc bao vây, bị kẹt trong một cái ngõ
cụt rộng 55 dặm, dài 70 dặm – một cái ngõ cụt mà tình báo của Đồng minh nói là
chứa nhiều lính và thiết bị hơn cả số mà quân Nga đã chiếm được ở Stalingrad.
Trong kế hoạch tổng thể nhằm đánh bại
nước Đức, công cuộc vượt sông Rhine và chiếm sông Ruhr luôn là được xem là các
mục tiêu thiết yếu nhất – và khó khăn nhất. Lòng chảo công nghiệp sông Ruhr,
với các mỏ than, nhà máy lọc dầu, nhà máy thép và nhà máy vũ khí chiếm diện
tích gần 4.000 dặm vuông. Quân Đồng minh từng nghĩ chiếm được nơi này cũng phải
mất mấy tháng – nhưng đó là trước khi quân Đức ở sông Rhine tan rã hoàn toàn.
Giờ, gọng kềm – mưu kế của vị tướng
người Missouri trầm lặng, Omar Bradley – đang được thực thi với tốc độ nghẹt
thở. Quân Mỹ đang tiến nhanh tới mức giờ tư lệnh các sư đoàn nói việc hoàn
thành bao vây chỉ là chuyện tính bằng ngày. Một khi sông Ruhr bị bịt kín, Đức
sẽ chẳng còn lại bao nhiêu sức mạnh để mà ngăn cản đà tiến công của quân Đồng
minh. Thậm chí bây giờ quân địch đã rệu rã tới mức không có nổi phòng tuyến
liền mạch nữa.
Thực sự thì quân Đức đã vô tổ chức tới
mức Thiếu tướng Isaac D. White, chỉ huy Sư đoàn Thiết giáp 2 Hoa Kỳ, ra lệnh
cho người của mình bỏ qua bất kỳ kháng cự nào và tiếp tục lên đường. Sư đoàn 2,
mũi nhọn của gọng kềm của Tập đoàn quân 9 dọc vành đai phía bắc sông Ruhr, nhờ
đó đã tiến được hơn 50 dặm chỉ trong không đầy ba ngày.
Quân Đức tại các vùng bị cô lập chiến đấu
dữ dội, nhưng Sư đoàn 2 lại gặp rắc rối từ các cây cầu đã bị hủy, các chốt chặn
dựng vội, những bãi mìn và địa hình xấu nhiều hơn là từ các hành động của quân
thù. Hầu như chỗ nào cũng gặp cảnh này. Trung tá Wheeler G. Merriam, dẫn đầu
mũi tấn công chớp nhoáng của Sư đoàn 2 bằng Tiểu đoàn Trinh sát 82 của mình,
đang gặp phải một đám lộn xộn lớn và rất ít kháng cự. Ngày 28/3, khi những
chiếc xe tăng của ông dàn hai bên tuyến đường sắt chính chạy theo hướng đông
tây, trung tá Merriam yêu cầu dừng để báo cáo vị trí mới. Khi người đánh điện
radio của ông cố liên lạc với Sở chỉ huy, Merriam nghĩ ông vừa nghe thấy tiếng
đầu máy hơi nước. Thình lình, một chiếc tàu lửa Đức, chở đầy ắp quân lính và
mấy toa xe chở hàng chất đầy xe thiết giáp và súng, đang phụt khói chạy trên đường
ray, chạy ngang qua ngay trước mặt đơn vị của ông. Quân Mỹ và quân Đức nhìn
nhau chằm chằm vì kinh ngạc. Merriam nhìn lên đám lính Đức đang nhoài ra khỏi
cửa sổ toa tàu, gần tới mức ông có thể nhận thấy rõ ràng “từng sợi râu trên mặt
bọn chúng ở mấy chỗ chưa cạo.” Người của ông sửng sốt nhìn chăm chăm đằng sau
chiếc tàu khi nó chạy về hướng Tây. Cả hai bên không bắn một viên đạn nào.
Cuối cùng, kích động biến thành hành
động, trung tá Merriam chộp lấy điện đài. Cách đó vài dặm về hướng tây, Tư lệnh
Sư đoàn, Thiếu tướng White, thấy đoàn tàu xuất hiện trong tầm mắt gần như cùng
lúc ông nghe trung tá Merriam phấn khích cảnh báo qua chiếc đài trên xe jeep
của ông. Tướng White thấy một quân cảnh đang chỉ huy hàng người của mình, thình
lình dừng việc băng qua đường ray – và rồi tướng White, cũng giống trung tá
Merriam, đứng ngẩn người khi đoàn tàu lăn bánh qua.
Mấy giây sau, cầm điện thoại dã chiến
trong tay, ông yêu cầu bắn pháo. Trong vài phút, Trung đoàn Pháo binh 92, đóng
ở đằng xa phía tây, bắn một loạt đạn pháo khiến đoàn tàu bị cắt làm đôi. Sau
đó, họ phát hiện ra trên các toa xe chở hàng chất cả đống súng chống tăng, pháo
và một khẩu trọng pháo 16
inch . Đám lính trên tàu bị bắt nói rằng họ đã hoàn toàn
không biết đà tiến của quân Đồng minh. Họ cứ nghĩ quân Anh và Mỹ còn ở phía tây
sông Rhine.
Hỗn loạn vừa là bạn, vừa là thù. Trung tá
Ellis W. Williamson của Sư đoàn Bộ binh 30 đang đi nhanh tới mức quân của ông
thậm chí còn bị pháo binh của một sư đoàn Đồng minh khác bắn. Họ tưởng quân của
trung tá Williamson là quân Đức đang rút về miền đông. Trung úy Clarence Nelson
của Sư đoàn Thiết giáp 5 cũng có một trải nghiệm kỳ lạ tương tự.
Chiếc xe jeep của anh bị bắn trúng, và
Nelson nhảy qua một chiếc half-track đang bị công kích dữ dội. Anh ra lệnh cho
một chiếc xe tăng đến tấn công chỗ có hỏa lực mạnh của quân địch. Chiếc xe chạy
lên tới đỉnh đồi và bắn hai phát – vào một chiếc xe thiết giáp của Anh. Người
trong xe giận dữ nhưng không bị thương. Họ đang nằm chờ, hi vọng tìm được mục tiêu
cho riêng mình. Và giáo sĩ Ben L. Rose của Trung đoàn Kỵ binh Cơ giới 113 nhớ
lại là một sĩ quan chỉ huy xe tăng từng báo cáo rất nghiêm túc với trung đoàn
trưởng là: “Chúng ta vừa tiến được mấy trăm mét rồi, thưa ngài. Kháng cự từ
quân địch lẫn đồng bạn đều rất ác liệt.”
Thế tiến công quá mau lẹ cùng với việc
hàng phòng thủ của Đức sụp đổ quá chóng vánh đã khiến nhiều vị tư lệnh lo lắng
về các rủi ro từ tai nạn trên đường còn hơn là từ hỏa lực quân thù. Đại úy
Charles King của Sư đoàn Thiết giáp 7 danh tiếng của Anh đã năn nỉ lính của
mình “phải cẩn thận khi lái xe trên mấy con đường này.” Anh cảnh báo, “Giờ mà
chết vì tai nạn thì thật là đáng tiếc.” Mấy tiếng sau, đại úy King, một trong
những thành viên ban đầu của Chuột Sa mạc, đã chết; chiếc xe jeep của anh bị
trúng một quả địa lôi của Đức.
Phần lớn mọi người đều không biết mình
đang ở đâu hay đội quân nào đang ở bên cạnh họ. Các đơn vị đằng trước đã bắt
đầu bị thiếu bản đồ. Những chiếc máy bay trinh sát của Tiểu đoàn Trinh sát 82
không hề quan tâm chuyện này chút nào.
Họ đang sử dụng bản đồ khẩn cấp: mọi phi
công chiến đấu đều được cung cấp bản đồ thoát hiểm của Không lực Hoa Kỳ to bằng
chiếc khăn tay lụa từ đầu cuộc chiến, nhằm giúp họ thoát khỏi lãnh địa của kẻ
thù nếu như bị bắn hạ. Máy bay trinh sát của Tiểu đoàn 82 xác định vị trí của
mình đơn giản bằng cách kiểm tra các biển chỉ đường của Đức. Trong khu vực của
Sư đoàn 84, Trung tá Norman D. Carnes phát hiện ra toàn bộ tiểu đoàn của ông
còn có hai tấm bản đồ để theo dõi đà tiến quân dự định. Ông cũng không lo lắng
mấy – miễn là radio của ông còn hoạt động và ông có thể giữ liên lạc với sở chỉ
huy. Trung tá Arthur T. Hadley, một chuyên gia tâm lý chiến tranh đi cùng Sư
đoàn Thiết giáp 2, giờ đang phải dùng mấy tấm bản đồ trong một cuốn sổ tay du
lịch cũ dành cho du khách. Và Đại úy Francis Schommer của Sư đoàn 83 luôn biết
anh đang dẫn tiểu đoàn của mình đi đâu. Anh cứ tóm lấy người Đức đầu tiên gặp
được, dí súng vào mạn sườn người đó, và hỏi mình đang ở đâu bằng tiếng Đức rất
lưu loát. Anh chưa từng phải nhận một câu trả lời sai.
Đối với người của các sư đoàn thiết
giáp, cuộc tiến quân từ sông Rhine cũng là một loại chiến tranh. Những hàng xe
thiết giáp ngoằn ngoèo đột kích, vượt qua, bao vây và đục khoét các đội quân và
thành phố Đức là một ví dụ kinh điển của các chiến thuật thiết giáp tài tình
nhất. Một số người cố mô tả cuộc đua của những chiếc xe thiết giáp về miền đông
trong thư.
Trung tá Clifton Batchelder, tư lệnh
Tiểu đoàn 1, thuộc Trung đoàn Thiết giáp 67, nghĩ rằng cuộc tiến công “có được
mọi nghị lực và can đảm của các chiến dịch kỵ binh vĩ đại trong cuộc Nội
chiến.” Trung úy Gerald P. Leibman nhận thấy khi Sư đoàn Thiết giáp 5 vượt qua
quân địch, hàng nghìn lính Đức đằng sau đang chiến đấu trong những vùng bị cô
lập, viết một cách hài hước rằng “Chúng tôi dạo chơi ở hậu quân của địch sau
khi đã chọc thủng những vị trí ở tiền phương của chúng.”
Đối với Leibman, cuộc tấn công gợi nhớ
lại cuộc đột phá của đoàn xe thiết giáp của tướng Patton ở hàng rào Normandy mà
anh cũng từng tham gia. Anh viết, “Chẳng ai ăn uống ngủ nghê gì. Tất cả những
gì chúng tôi làm là tấn công rồi đi tiếp, tấn công rồi đi tiếp. Ở đây cũng
giống như ở Pháp – trừ một chỗ, lần này cờ bay trên mỗi ngôi nhà không phải cờ
ba màu của Pháp, mà là cờ trắng đầu hàng.” Trong cuộc đua giữa Trung đoàn
Devonshire với Sư đoàn Thiết giáp 7 của Anh, Trung úy Frank Barnes kể với bạn
mình là Trung úy Robert Davey là “thật tuyệt khi lúc nào cũng được tiến về phía
trước.” Cả hai đều thấy phấn chấn, vì trong buổi chỉ thị trước cuộc tấn công,
họ nghe rằng đây là lần cuối hành quân và mục tiêu sau cùng là Berlin.
Thống chế Montgomery vẫn luôn biết Berlin
là mục tiêu sau cùng. Dễ nổi nóng, thiếu kiên nhẫn khi bị trì hoãn, tính khí
thất thường và thường thiếu lịch thiệp, nhưng luôn thực tế và can đảm,
Montgomery đã chú mục vào Berlin từ chiến thắng vĩ đại của ông ở sa mạc El
Alamein. Người đàn ông này đã từng nói “Xuất phát” khi mà thời tiết xấu có thể
làm trì hoãn cuộc xâm lăng Normandy, giờ đòi được bật đèn xanh lần nữa. Thiếu
quyết định rõ ràng từ Tư lệnh Tối cao, Montgomery đã tự thông báo quyết định
của riêng mình.
Vào lúc 6:10 chiều thứ ba ngày 27/3,
trong một thông điệp mã hóa gửi Bộ chỉ huy Tối cao, ông trình bày với Đại tướng
Eisenhower rằng: “Hôm nay, tôi đã phát lệnh cho các tư lệnh lục quân rằng cuộc
hành quân về phía đông giờ đây bắt đầu… Ý định của tôi là tấn công mạnh vào
phòng tuyến sông Elbe bằng Tập đoàn quân 2 và Tập đoàn quân 9. Cánh phải của
Tập đoàn quân 9 sẽ hướng về Magdeburg và cánh trái của Tập đoàn quân 2 hướng về
Hamburg…Tập đoàn quân của Canada sẽ hành quân… đến miền Tây Bắc Hà Lan và Tây
Hà Lan và vùng ven biển bắc nằm ở ranh giới bên trái của Tập đoàn quân 2…
Tôi đã ra lệnh cho Tập đoàn quân 2 và Tập
đoàn quân 9 đưa các lực lượng thiết giáp và cơ động của họ tiến về phía trước
ngay lập tức để đến được sông Elbe bằng tốc độ cao nhất. Tình hình có vẻ tốt và
các việc trên nên bắt đầu tiến hành nhanh chóng trong vài ngày tới.
Sở chỉ huy chiến thuật của tôi sẽ dời
tới tây bắc Bonninghardt vào thứ năm ngày 29/3. Sau đó… sở chỉ huy của tôi sẽ
di chuyển đến Wesel-Münster-Wiedenbrück-Herford-Hanover – rồi từ đó đi theo xa
lộ đến thẳng Berlin, tôi hi vọng thế.”
* * * * * *
* * *
Chầm chậm quay đầu trong khi cổ bị buộc
dây, Cô Effie và Cậu Otto nhìn chăm chăm khoảnh sân Berlin ngổn ngang gạch vụn
đầy rầu rĩ. Từ ban công đằng sau của căn hộ ở tầng hai trong quận Wilmersdorf
của mình, Carl Wiberg nói khẽ khích lệ mấy con chó Dachshund và kéo chúng lại
cho an toàn. Ông đang dẫn chúng đi qua lối thoát hiểm không kích mà ông đã dựng
nên, và sau nhiều tuần huấn luyện, bọn chó đã thích nghi rất tốt. Mấy người
hàng xóm của ông Wiberg cũng vậy, dù họ cho là ông người Thụy Điển này lo cho
bọn thú cưng có hơi quá.
Mọi
người dần quen với cảnh Cô Effie và Cậu Otto mặc áo choàng lấp lánh và chải
chuốt, chạy lên xuống qua mấy ô cửa sổ. Cũng không có ai để ý tới mấy sợi dây
thừng lủng lẳng, đó chính là cái mà ông Wiberg muốn. Một ngày, nếu bọn Gestapo
có ập vào, ông có thể sẽ phải ra cái ban công đằng sau và trốn thoát bằng chính
mấy sợi dây đó.
Ông đã cẩn thận suy tính mọi thứ. Chỉ
một sai lầm nhỏ cũng có thể khiến việc ông là gián điệp Đồng minh bị lộ, và giờ
đây, khi mà dân Berlin ngày càng nghi ngờ và lo âu nhiều hơn, ông Wiberg không
còn nhiều cơ hội. Ông vẫn chưa tìm ra nơi trú ẩn của Hitler. Những câu hỏi
thông thường và có vẻ ngây ngô của ông bề ngoài không gây nghi ngờ gì, nhưng
chúng cũng chẳng đem lại thông tin gì nốt. Ngay cả đám bạn ông làm lớn trong
quân đội và không quân cũng không biết gì. Wiberg bắt đầu tin là Quốc trưởng và
nội các của ông ta không có tại Berlin.
Thình lình, khi ông dẫn mấy con chó lên
ban công, chuông cửa vang lên. Ông Wiberg thấy căng thẳng; ông không hề mong có
khách, và ông sống trong lo sợ phập phồng rằng sẽ có lúc đi ra cửa và thấy cảnh
sát đứng đó. Ông cẩn thận mở dây buộc cho bọn chó và rồi bước ra cửa. Bên ngoài
là một người khách lạ. Ông ta cao to, mặc đồ lao động và khoác áo da. Vai phải
ông ta vác một thùng các tông.
Ông ta hỏi, “Ông là Carl Wiberg hả?”
Ông Wiberg gật đầu.
Người khách lạ ném cái thùng vào trong
nhà. Ông ta mỉm cười nói:
“Đây là một món quà nhỏ từ mấy người bạn ở
Thụy Điển của ông.”
Ông Wiberg cảnh giác hỏi:
“Mấy người bạn ở Thụy Điển của tôi ư?”
Người khách lạ nói,
“Ồ, ông biết rõ cái thứ chết tiệt này là
gì mà.”
Ông ta quay lại và đi nhanh xuống lầu.
Ông Wiberg chầm chậm đóng cửa. Ông đứng
ngây ra đó, nhìn xuống cái thùng. “Món quà” duy nhất ông từng nhận được từ Thụy
Điển là đồ tiếp tế cho công tác gián điệp ở Berlin. Đây là cái bẫy chăng? Liệu
cảnh sát có ập đến căn hộ này khi ông mở hộp không? Ông nhanh nhẹn băng qua
phòng khách và cảnh giác nhìn xuống dưới đường phố. Trống không. Không thấy dấu
hiệu gì của vị khách.
Ông Wiberg quay lại bên cánh cửa và đứng
nghe ngóng một lúc. Ông không nghe thấy thứ gì bất thường. Cuối cùng, ông bê
cái thùng các tông đặt lên chiếc sofa trong phòng khách và mở nó ra. Cái thùng
được mang đến một cách thông thường này chứa một cái máy phát radio lớn. Wiberg
chợt nhận ra mình đang đổ mồ hôi.
Mấy tuần trước, ông Wiberg đã được thượng
cấp của mình, một người Đan Mạch tên Hennings Jessen-Schmidt, thông báo là từ
nay trở đi ông sẽ là “chủ tiệm” của mạng lưới gián điệp tại Berlin. Kể từ đó,
ông đã nhận được một lượng lớn đồ tiếp tế thông qua mấy người đưa thư. Nhưng
cho tới nay ông luôn được báo trước, và việc chuyển phát luôn được thực hiện
với cảnh giác cao độ. Điện thoại của ông sẽ reng hai lần rồi dừng lại; đó là
dấu hiệu sắp có đồ đưa tới.
Đồ tiếp tế chỉ đến khi trời tối, và
thường vào lúc có không kích. Ông Wiberg chưa bao giờ được người khác tiếp cận
vào ban ngày. Ông điên lên. Sau này ông nói, “Ai đó đã hành động quá mức ngây
thơ và nghiệp dư và có vẻ muốn phá hoại toàn bộ chiến dịch.”
Vị trí của ông Wiberg đang dần trở nên
nguy hiểm hơn; ông không thể gánh nổi một cuộc viếng thăm của cảnh sát. Vì bây
giờ trong căn hộ của ông là cả một kho thiết bị do thám. Mấy căn phòng của ông
trữ một lượng lớn tiền, mấy bảng mã và một đóng thuốc và độc dược – từ những
viên thuốc nhỏ “knockout” tác dụng nhanh, có thể khiến người ta bất tỉnh trong
những khoảng thời gian khác nhau, cho đến các loại hợp chất cyanua độc.
Trong hầm chứa than của ông và trong một
garage thuê gần đó là một kho vũ khí nho nhỏ chứa súng trường, súng lục và đạn.
Ông Wiberg thậm chí còn có một va li chứa thuốc nổ dễ bay hơi. Mấy cuộc không
kích làm ông rất lo lắng cho kho hàng hóa ký gửi này. Nhưng ông và
Jessen-Schmidt đã tìm ra một nơi cất giấu hoàn hảo. Mớ thuốc nổ giờ được cất
trong một két an toàn lớn nằm trong hầm của Ngân hàng Deutsche Union.
Căn hộ của ông Wiberg đã tồn tại một
cách diệu kỳ qua các cuộc không kích cho tới tận bây giờ, nhưng ông chết khiếp
khi nghĩ đến hậu quả nếu như nó bị trúng bom. Ông có thể bị lộ ngay lập tức.
Jessen-Schmidt đã bảo Wiberg rằng vào
đúng thời điểm, các món đồ tiếp tế sẽ được đưa đến các nhóm gián điệp và phá
hoại khác nhau sắp đặt chân đến Berlin. Cách hoạt động của các điệp viên đã
được chọn này là bắt đầu nhận một tín hiệu gửi qua radio hoặc qua mạng lưới
người đưa thư từ London. Ông Wiberg mong chóng đến lúc phân phối đồ.
Jessen-Schmidt đã được cảnh báo là cần chờ tin trong vài tuần nữa, vì công việc
của nhóm sẽ trùng với lúc chiếm đóng thành phố. Theo thông tin mà
Jessen-Schmidt và Wiberg nhận được, quân Anh và Mỹ sẽ đến được Berlin vào
khoảng giữa tháng tư.
3.
Trong không khí yên tĩnh của phòng làm
việc của mình tại số 10 đường Downing, Winston Churchill ngồi khom xuống trong
chiếc ghế da ưa thích, điện thoại khum bên tai. Ngài Thủ tướng đang nghe Tổng
tham mưu của mình, Đại tướng Sir
Hastings Ismay, đọc một bản sao của thông điệp của Montgomery gửi cho Tư lệnh
Tối cao. Lời hứa hẹn của vị Thống chế về “tốc độ cao nhất và tấn công quyết
liệt” thực sự là tin tốt; nhưng lời tuyên bố định tiến về Berlin của ông thậm
chí còn tốt hơn. Ngài Thủ tướng nói với tướng Ismay, “Montgomery đang có bước
tiến đáng kể.”
Sau nhiều tháng thảo luận sôi nổi giữa
các lãnh đạo quân sự của Anh và Mỹ, chiến lược của phe Đồng minh có vẻ như bắt
đầu vận hành trơn tru. Kế hoạch của Đại tướng Eisenhower, được phác thảo vào
mùa thu năm 1944 và được Hội đồng Tham mưu trưởng ở Malta chấp thuận vào tháng
1/1945, yêu cầu Cụm tập đoàn quân 21 của Thống chế Montgomery làm mũi tiến công
chính ở hạ lưu sông Rhine và bắc sông Ruhr; đây là lộ trình mà Churchill, trong
một lá thư gửi cho Roosevelt, đã gọi là “con đường ngắn nhất dẫn tới Berlin.”
Ở phía nam, quân Mỹ sẽ vượt sông và tiến
về khu vực Frankfurt, thu hút quân địch khỏi Montgomery. Mũi tiến quân hỗ trợ
này sẽ thành mũi tấn công chính nếu cuộc tấn công của Montgomery thất bại.
Nhưng dù Churchill lo lắng hết mức, chuyện đã được sắp xếp xong. Cuộc “Thập tự
chinh Vĩ đại” đã gần đi đến hồi kết, và Churchill cực kỳ hài lòng vì trong số
các vị tư lệnh của Đồng minh, có lẽ ý trời đã định cho người hùng của trận El
Alamein chiếm được thủ đô của kẻ thù. Cụm tập đoàn quân 21 đã được đặc biệt
tăng cường cho cuộc tấn công, được ưu tiên hàng đầu về binh lính, không lực để
hỗ trợ, đồ tiếp tế và thiết bị. Tổng cộng, trong tay Montgomery có gần một
triệu quân thuộc 35 sư đoàn và các đơn vị đi cùng, bao gồm Tập đoàn quân 9 Hoa
Kỳ.
Bốn ngày trước, Churchill đã đi cùng Đại
tướng Eisenhower sang Đức để chứng kiến giai đoạn mở đầu của cuộc tấn công vào
phòng tuyến bên sông. Khi đứng bên bờ sông Rhine quan sát cuộc tấn công lịch sử
mở màn, Churchill nói với Eisenhower, “Đại tướng thân mến của tôi ơi, bọn Đức
tiêu rồi. Ta đã tóm được chúng. Bọn chúng xong đời rồi.”
Và quả vậy, thật đáng ngạc nhiên là ở
hầu hết các nơi, quân địch chống cự rất yếu ớt. Tại quân khu của Tập đoàn quân
9 Hoa Kỳ, nơi 2 sư đoàn – khoảng 34.000 người – đang vai kề vai hành quân với
quân Anh, chỉ có 31 thương vong. Giờ, Montgomery dẫn hơn 20 sư đoàn và 1.500 xe
tăng vượt sông tiến về sông Elbe. Con đường dẫn đến Berlin – nơi Churchill từng
gọi là “mục tiêu đích thực và quan trọng nhất của liên quân Anh-Mỹ” – có vẻ khá
rộng mở.
Con đường này còn rộng mở về mặt chính
trị nữa. Chưa từng có một cuộc thảo luận nào giữa ba ông lớn xem quân của ai sẽ
chiếm thành phố. Berlin là một mục tiêu để mở, nằm đó chờ đội quân Đồng minh
đầu tiên tới chiếm.
Tuy nhiên, đã có nhiều cuộc thảo luận
về việc chiếm đóng phần còn lại của quốc gia đối địch này – như mấy tấm bản đồ
của Chiến dịch Nhật thực đã phân chia. Và các quyết định về việc chiếm đóng
nước Đức có ảnh hưởng quan trọng đến việc chiếm Berlin và tương lai chính trị
của thành phố. Ít nhất một vị lãnh đạo của phe Đồng minh đã nhận thấy điều này
ngay từ đầu. Ông đã nói, “Chắc chắn sẽ có một cuộc đua giành lấy Berlin.” Người
đó là Franklin Delano Roosevelt.
Trước đó 17 tháng, vào ngày 19/11/1943, vấn
đề này đã được trình bày cho Roosevelt. Lần đó, ngài Tổng thống ngồi chủ tọa
trong một phòng họp thuộc dãy buồng của Đô đốc Ernest J. King trên tàu chiến
U.S.S. Iowa. Ngồi cạnh ông là các trợ lý và cố vấn, trong đó có Hội đồng Tham
mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ. Roosevelt đang trên đường tới Trung Đông để dự hội
nghị ở Cairo và Teheran – cuộc họp thứ năm và thứ sáu trong thời chiến của các
lãnh đạo phe Đồng minh.
Đó là những ngày trọng yếu trong cuộc
đấu tranh với phe Trục trên toàn cầu. Ở mặt trận Nga, quân Đức đã phải chịu
thất bại nặng nề và đẫm máu nhất của chúng: Stalingrad, bị bao vây và cô lập
trong 23 ngày, đã sụp đổ, và hơn 300.000 lính Đức bị giết, bị thương hoặc bắt
làm tù binh. Ở Thái Bình Dương, nơi hơn một triệu quân Mỹ đang chiến đấu, quân
Nhật đang bị đẩy lui trên mọi mặt trận. Ở phương Tây, Rommel bị đánh tan tác
tại Bắc Phi. Italy, bị xâm chiếm từ châu Phi qua đường Sicily, đã đầu hàng. Và
giờ liên quân Anh-Mỹ đang chuẩn bị kế hoạch cho coup de grace – Chiến dịch Chúa
tể, cuộc xâm chiếm toàn diện châu Âu.
Trên tàu Iowa, Roosevelt đang rất bực
bội. Các tài liệu và bản đồ trước mặt ông là phần cốt yếu trong một kế hoạch
tên là Chiến dịch Rankin, Phương án C, một trong các nghiên cứu được phát triển
có liên quan với cuộc xâm chiếm sắp tới. Rankin C cân nhắc các bước cần thực
hiện nếu quân địch bất ngờ sụp đổ hoặc đầu hàng. Trong trường hợp đó, kế hoạch
này đề nghị rằng nên chia nước Đức và Berlin thành nhiều phần, mỗi ông lớn
chiếm một vùng. Điều khiến ngài Tổng thống thấy khó chịu là khu vực mà những kế
hoạch gia người Anh đã chọn cho đất nước ông.
Rankin C được lập ra dưới hoàn cảnh đặc
thù và khó khăn. Người chịu ảnh hưởng trực tiếp nhất bởi các điều khoản của nó
sẽ là Tư lệnh Tối cao của Đồng minh tại châu Âu. Nhưng vị tư lệnh này còn chưa
được chỉ định. Nhiệm vụ khó khăn phải cố lập kế hoạch trước cho Tư lệnh Tối cao
– đó là, vừa chuẩn bị cho cuộc tấn công thông qua eo biển Manche, Chiến dịch
Chúa tể, vừa chuẩn bị kế hoạch trong trường hợp nước Đức sụp đổ, Chiến dịch Rankin
– được giao cho Trung tướng Frederick E. Morgan của Anh (*), được biết đến với
mật danh “COSSAC” (Chief of Staff to the Supreme Allied Com-mander – Tham mưu
trưởng cho Tư lệnh Đồng minh Tối cao, đề cử). Đó là một công việc bạc bẽo và
mệt mỏi. Khi ông được chỉ định làm nhiệm vụ này, Sir Alan Brooke, Tham mưu
trưởng của Ban tham mưu Hoàng gia, đã nói với tướng Morgan là: “Thôi thì thế
đó; tất nhiên là nó chả đi vào hoạt động đâu, nhưng anh phải làm thật tốt vào!”
Trong lúc chuẩn bị Chiến dịch Rankin C,
tướng Morgan đã phải cân nhắc mọi tình huống không lường trước. Chuyện gì sẽ
xảy ra nếu quân địch đầu hàng đột ngột tới mức quân Đồng minh bị mất thăng
bằng, như họ từng bị hồi Thế chiến thứ nhất khi không đoán trước được Đức sẽ
đầu hàng vào tháng 11/1918? Quân của từng bên sẽ đi đâu? Ai sẽ chiếm Berlin? Đó
là các câu hỏi cơ bản, và chúng cần được giải quyết một cách quyết đoán và rõ
ràng, nếu như quân Đồng minh không muốn bị bất ngờ trước sự sụp đổ bất ngờ của
địch.
Vào lúc đó, vẫn chưa có một kế hoạch cụ
thể nào về kết cục cuộc chiến được lập ra. Dù ở Mỹ và Anh, nhiều cơ quan Chính
phủ đã thảo luận các vấn đề sẽ xuất hiện khi đình chiến, nhưng việc lập nên
chính sách chung vẫn không mấy tiến triển. Chỉ có một điểm nhất trí duy nhất:
cần chiếm đóng đất nước của địch.
Ngược lại, Nga không khó khăn gì trong
chuyện đưa ra chính sách. Josef Stalin luôn xem chiếm đóng là chuyện đương
nhiên, và ông luôn biết chính xác mình sẽ làm điều đó như thế nào. Hồi tháng
12/1941, ông đã thẳng thắn nói với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Anh, Anthony Eden,
về các yêu cầu hậu chiến của mình, chỉ ra các vùng lãnh thổ mà ông định chiếm
đóng và thôn tính. Đó là một danh sách ấn tượng: theo gót giày chiến thắng của
mình, Stalin muốn được thừa nhận chủ quyền của ông với Latvia, Lithuania và
Estonia; một phần của Phần Lan mà ông đã chiếm khi ông tấn công Phần Lan vào
năm 1939; tỉnh Bessarabia của Rumania; miền đông Ba Lan, nơi quân Soviet đã
tràn qua vào năm 1939 theo thỏa thuận với Nazi; và phần lớn vùng Đông Phổ. Khi ông
bình tĩnh đưa ra các điều khoản này, súng nổ cách điện Kremlin có 15 dặm, ở
ngoại ô Moscow, nơi quân Đức vẫn đang chiến đấu dữ dội.
Dù người Anh coi các yêu cầu của Stalin
năm 1941 là còn quá sớm để nói (**), đến năm 1943 thì họ cũng chuẩn bị kế hoạch
cho riêng mình. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Anh, Anthony Eden, đã đề xuất là Đức
phải bị Đồng minh chiếm đóng hoàn toàn và phân chia thành ba vùng.
Ngay sau đó, một cơ quan ở trong nội
các là Ủy ban Đình chiến và Hậu chiến được thành lập, dưới quyền Phó Thủ tướng
Clement Attlee, chủ tịch Đảng Lao động. Nhóm Attlee đưa ra một đề xuất công
khai, trong đó cũng chủ trương chia ba nước Đức, và Anh sẽ chiếm vùng tây bắc
giàu có về thương mại và công nghiệp. Họ cũng đề xuất để cả ba phe cùng chiếm Berlin.
Phe Đồng minh duy nhất gần như không có kế hoạch nào với nước Đức bại trận là
Mỹ. Quan điểm chính thức của Mỹ là các thỏa thuận hậu chiến nên để đến gần
chiến thắng sau cùng rồi hãy tính. Chính sách chiếm đóng chủ yếu liên quan tới
quân sự mà thôi.
..................................
(*): Hình thành ban đầu vào năm 1943,
Chiến dịch Rankin thực sự có ba phần: Phương án A là trường hợp Đức yếu tới mức
chỉ cần một “Chiến dịch Chúa tể mini” là đủ; Phương án B đặt giả thiết Đức sẽ
rút lui chiến lược tại một số nơi ở các quốc gia bị chiếm đóng trong khi vẫn
để lại lực lượng lớn dọc bờ biển châu Âu nhằm chống xâm lược; và Phương án C
đối phó với tình huống Đức đột ngột sụp đổ trước, trong hoặc sau cuộc xâm lăng.
Các Phương án A và B đã sớm bị hủy bỏ, và theo tướng Morgan nhớ lại, chỉ nhận
được sự cân nhắc ngắn ngủi.
(**): Churchill nghe được các yêu cầu của
Stalin khi ông đang băng qua Đại Tây Dương trên con tàu chiến H.M.S. Duke of
York trên đường gặp Roosevelt. Mỹ vừa mới bước vào cuộc chiến và Churchill băn
khoăn liệu có nên đưa ra vấn đề này với đồng minh mới hùng mạnh vào lúc này hay
không. Ông đánh điện cho Eden: “Dĩ nhiên, anh không được lỗ mãng với Stalin.
Chúng ta không đến Mỹ để ký các hiệp ước đặc biệt và bí mật. Tiếp cận Tổng
thống Roosevelt với mấy lời đề nghị đó sẽ chỉ chuốc lấy lời từ chối cộc lốc và
có thể gây rắc rối kéo dài… Cho dù có đặt vấn đề một cách không chính thức đi
chăng nữa… thì theo ý tôi vẫn là không phù hợp.” Bộ Ngoại giao Mỹ có nghe về
cuộc trò chuyện giữa Eden và Stalin, nhưng không có bằng chứng gì cho thấy có
ai bận tâm đến việc nói cho ngài Tổng thống Mỹ biết vào lúc đó cả. Nhưng đến
tháng 3 năm 1943, Roosevelt được thông báo đầy đủ và theo Eden, người thảo luận
vấn đề này với ông, ngài Tổng thống đoán trước là sẽ không có khó khăn lớn gì
với Liên Xô. Ông Eden nói: “Câu hỏi lớn đang ngự trị trong đầu Roosevelt là
liệu có thể làm việc với Nga vào bây giờ và sau chiến tranh được không.”
Nhưng giờ, khi mà sức mạnh kết hợp của
Đồng minh bắt đầu rõ rệt trên mọi mặt trận và nhịp độ tấn công của Đồng minh
ngày càng tăng cao, yêu cầu cần lập kế hoạch chính trị thống nhất ngày càng cấp
bách. Tháng 10/1943, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao tại Moscow, bước thăm dò
đầu tiên được thực hiện nhằm định ra chính sách hậu chiến chung của Đồng minh.
Các phe Đồng minh chấp nhận ý tưởng cùng chịu trách nhiệm kiểm soát và chiếm
đóng nước Đức, và thành lập một cơ quan giữa ba bên, Hội đồng Cố vấn châu Âu
(EAC), để “nghiên cứu và đưa ra đề xuất cho ba chính phủ về các vấn đề ở châu
Âu có liên quan tới sự kết thúc giao tranh.”
Nhưng cùng lúc đó, tướng Morgan đã đưa
ra bản kế hoạch của ông – một bản kế hoạch chi tiết sơ thảo về việc chiếm đóng
nước Đức – sau này ông giải thích, “chỉ được chuẩn bị sau khi đã bói bằng cầu
thủy tinh cả đống lần.” Ban đầu, không có chỉ dẫn chính trị, tướng Morgan chỉ
đưa ra bản kế hoạch chiếm đóng có giới hạn. Nhưng kế hoạch Rankin C sau cùng
của ông phản ánh kế hoạch do ủy ban của Attlee đưa ra, vốn phức tạp hơn.
Tướng Morgan đã chia nước Đức thành ba
phần theo toán học trên một tấm bản đồ, “phác thảo sơ qua bằng chì xanh dọc
theo ranh giới của các tỉnh có sẵn.” Rõ ràng là người Nga, đến từ phía đông,
phải chiếm một phần ở phía Đông. Việc chia chác giữa Nga với Anh-Mỹ trong kế
hoạch Rankin C (bản đã được sửa lại) là một đường chạy từ Lübeck bên bờ biển
Baltic đến Eisenach ở miền trung nước Đức và từ đó tới biên giới với Tiệp.
Quy mô khu vực của Nga lớn cỡ nào không
phải là chuyện Morgan bận tâm. Ông đâu có được ra lệnh phải cân nhắc chuyện đó,
vì đó “đương nhiên là chuyện của người Nga, họ đâu có ở trong ban COSSAC của
chúng ta". Nhưng Berlin khiến ông phiền não, vì nó sẽ nằm trong khu vực
của Nga. Ông tự hỏi, “Liệu chúng ta có tiếp tục xem đó là thủ đô hay là, nói
cho cùng, có cần có một thủ đô nữa không? Tính quốc tế của chiến dịch đã đề
xuất rằng việc chiếm Berlin hay bất cứ thủ đô nào khác, nếu có, phải được chia
đều giữa ba bên, quân Mỹ, Anh và Nga mỗi bên một sư đoàn.”
Về khu vực của Anh và Mỹ, đối với tướng
Morgan, mối liên hệ Bắc-Nam của chúng có vẻ chỉ được định trước bởi một sự thật
nghe thì kỳ cục nhưng lại có liên quan: vị trí các căn cứ của Anh và Mỹ và các
sở chỉ huy tại Anh. Từ lúc những lính Mỹ đầu tiên đặt chân lên Vương quốc Anh,
đầu tiên họ được cấp chỗ ở Bắc Ireland, rồi sau đó ở nam và tây nam nước Anh.
Các lực lượng của Anh đóng ở miền bắc và đông nam. Do đó, sự tập trung binh
lính, đồ tiếp tế và thông tin liên lạc cũng tách biệt – quân Mỹ luôn ở bên
phải, Anh bên trái đối diện với châu Âu lục địa.
Vì
Morgan đã đoán trước sẽ có Chiến dịch Chúa tể, bản kế hoạch này tiếp tục băng
qua eo biển Manche đến các bờ biển xâm chiếm được ở Normandy – và có lẽ là băng
qua châu Âu để đến trung tâm nước Đức. Anh sẽ đến miền bắc nước Đức và giải
phóng Hà Lan, Đan Mạch, Na Uy. Phía bên phải, quân Mỹ đi theo đường tiến quân
qua Pháp, Bỉ và Luxembourg, cuối cùng sẽ đến các tỉnh miền nam nước Đức.
Sau này Morgan nói, “Tôi không tin là
vào lúc đó có người có thể nhận ra ngụ ý sau cùng và đầy đủ của quyết định phân
chia vùng chiếm đóng – trong mọi khả năng, lại do các quan chức cấp thấp của Bộ
Chiến tranh đưa ra. Nhưng toàn bộ phần còn lại đều bắt nguồn từ đó.”
Trên tàu Iowa, ngài Tổng thống Mỹ nhận
ra ngụ ý sau cùng và đầy đủ khá rõ. Những ngụ ý đó chính là điều ông không
thích về kế hoạch Rankin C. Ngay khi buổi họp chiều bắt đầu lúc 3 giờ,
Roosevelt khơi mào chủ đề, và ông thực sự điên tiết. Bình luận về bản ghi nhớ
đi kèm mà mấy vị Tham mưu trưởng đã hỏi xin chỉ thị về kế hoạch đã chỉnh sửa
của tướng Morgan, Roosevelt quở trách các cố vấn quân sự của mình vì đã “đưa ra
các giả thuyết nhất định” – đặc biệt là việc Mỹ nên chấp nhận đề nghị của Anh
chiếm miền nam nước Đức. Ngài Tổng thống tuyên bố, “Tôi không thích sắp xếp
kiểu này.” Ông muốn phần tây bắc nước Đức. Ông muốn các cảng biển Bremen và
Hamburg, cũng như các cảng ở Đan Mạch và Na Uy. Và Roosevelt rất kiên quyết về
một vấn đề khác: quy mô vùng chiếm đóng của Mỹ. Ông nói, “Chúng ta nên đi tới
Berlin. Mỹ phải có được Berlin.” Rồi ông nói thêm: “Liên Xô có thể lấy phần
lãnh địa miền Đông.”
Roosevelt cũng không hài lòng về một
khía cạnh khác của kế hoạch Rankin C. Ở phía nam, Mỹ sẽ phải chịu gánh một cục
trách nhiệm gồm Pháp, Bỉ và Luxembourg. Ông khá lo lắng về Pháp, nhất là vị
lãnh đạo của tổ chức Nước Pháp Tự do, Đại tướng Charles de Gaulle, người ông
vẫn luôn xem là “một mối đau đầu về chính trị.” Khi tiến quân vào nước Pháp,
ngài Tổng thống nói với các cố vấn, De Gaulle sẽ “ở sau quân ta một dặm,” sẵn
sàng chiếm chính quyền. Hơn hết thảy Roosevelt sợ nội chiến sẽ bùng nổ ở Pháp
khi chiến tranh kết thúc. Ông nói không muốn bị dính líu “trong công cuộc khôi
phục nước Pháp.” Ngài Tổng thống tuyên bố rằng, “Pháp là một em bé người Anh.”
Và không chỉ có Pháp mà thôi. Ông thấy
nước Anh nên chịu trách nhiệm với cả Bỉ và Luxembourg nữa – và cả miền nam nước
Đức luôn. Về khu vực của Mỹ - theo như ngài Tổng thống hình dung, nó phải quét
qua miền bắc nước Đức (bao gồm cả Berlin), gồm một dải từ Stetttin cho tới sông
Oder. Và một lần nữa, cân nhắc lời lẽ, ông nhấn mạnh rằng mình rất không hài
lòng trước cách phân chia vùng chiếm đóng đề xuất. Roosevelt nói, “Người Anh
định để Mỹ lấy phần miền nam, và tôi không thích thế.”
Ý kiến của ngài Tổng thống làm các cố
vấn quân sự của ông giật mình. Ba tháng trước, tại Hội nghị Quebec, Hội đồng
Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ đã chấp nhận cơ bản kế hoạch này. Cả Hội đồng
Tham mưu trưởng Anh-Mỹ cũng thế. Vào lúc đó, Tổng thống Roosevelt tỏ ra rất
quan tâm đến việc phân chia nước Đức và gia tăng trọng lượng lời nói của ông
trong việc thúc giục lập kế hoạch bằng cách bày tỏ mong muốn rằng các đội quân
nên “sẵn sàng tới Berlin sớm ngang với Nga.”
Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa
Kỳ tin rằng các vấn đề có trong kế hoạch Rankin C đều đã được sắp đặt xong
xuôi. Sỡ dĩ họ đưa chuyện này lên tàu Iowa chỉ vì nó có liên quan tới các vấn
đề kinh tế, chính trị và quân sự. Giờ ngài Tổng thổng không chỉ chính thức phản
đối kế hoạch chiếm đóng mà còn phản đối cả nội dung cơ bản của Chiến dịch Chúa
tể nữa. Nếu phải thay đổi vùng chiếm đóng để đáp ứng mong muốn của ngài Tổng
thống, sẽ phải thay đổi tình hình bố quân ở Anh trước khi tiến hành xâm chiếm.
Điều này sẽ làm trì hoãn – thậm chí gây
thiệt hại – cho cuộc tấn công qua eo biển Manche, một trong những chiến dịch
phức tạp nhất từng có trong bất kỳ cuộc chiến tranh nào. Đối với các cố vấn
quân sự, rõ ràng là ngài Tổng thống Roosevelt hoặc là không hề hiểu được các
quy tắc vận hành logic mênh mông trong đó – hoặc là hiểu rất rõ và đơn giản là sẵn
sàng trả một cái giá phi thường đắt để nước Mỹ có được vùng tây bắc và Berlin.
Trong quan điểm của họ, cái giá đó quả thực không thể trả nổi.
Đại tướng Marshall bắt đầu tỉ mỉ phân tích tình huống
về mặt ngoại giao. Ông đồng ý là “chuyện phải thế mới đúng.” Nhưng, ông nói,
những đề xuất của kế hoạch Rankin C bắt nguồn từ các suy tính quân sự cốt yếu
nhất. Ông giải thích từ góc độ logic, “Chúng ta phải đóng quân bên phải… mọi
chuyện lại quay trở về vấn đề cũ, các cảng biển của Anh.”
Đô đốc Ernest King, Tổng Tư lệnh hành
quân của Hải quân Hoa Kỳ, ủng hộ tướng Marshall; ông nói rằng, kế hoạch xâm
chiếm đã được phát triển quá sâu rồi, muốn chấp nhận dù chỉ một thay đổi về
cách triển khai quân là chuyện phi thực tế.
Vấn đề này rộng lớn tới mức tướng
Marshall tin rằng dù chỉ hoán đổi các đội quân không thôi cũng cần có một kế
hoạch mới hoàn toàn – một kế hoạch đủ linh hoạt để áp dụng cho “bất kỳ giai
đoạn phát triển nào” nhằm đạt được những gì ngài Tổng thống muốn ở Đức.
Hết lần này tới lần khác, các cố vấn
quân sự của ngài Tổng thống cố nhấn mạnh với ông tầm nghiêm trọng của việc một
thay đổi trong kế hoạch Rankin C sẽ dẫn tới hậu quả gì. Roosevelt
vẫn cương quyết.
Cuối cùng, ông kéo một tấm bản đồ nước
Đức của National Geographic đang đặt trên bàn về phía mình và bắt đầu vẽ. Đầu
tiên, ông vẽ một đường cắt qua biên giới phía tây nước Đức tới Düsseldorf và xuôi
về phía nam sông Rhine tới Mainz .
Từ đó, bằng một nét đậm, ông cắt nước Đức ra làm đôi dọc theo vĩ tuyến 50, đại
khái từ Mainz ở
miền tây chạy về phía đông tới thị trấn Asch nằm bên biên giới với Tiệp. Rồi
ngòi bút của ông chạy về phía đông bắc tới Stettin nằm bên sông Oder . Mỹ sẽ có vùng nằm trên đường này, Anh có vùng bên
dưới.
Nhưng theo như Roosevelt phác thảo, ranh
giới phía Đông của khu vực của Mỹ và Anh sẽ tạo thành một cái nêm. Đỉnh của nó
nằm ở Leipzig; từ đó nó chạy theo hướng đông bắc tới Stettin và về phía đông
nam tới Asch.
Ngài Tổng thống không nói ra, nhưng cái
tam giác nông này rõ ràng là khu vực dành cho Liên Xô. Nó không bằng một nửa
khu vực chia cho Nga như trong kế hoạch Rankin C đề xuất. Berlin cũng không còn
nằm trong phần lãnh địa mà ông để lại cho Nga nữa. Nó nằm trên đường ranh giới
giữa khu của Nga và Mỹ. Tướng Marshall hiểu rằng ngài Tổng thống định để quân
Anh, Mỹ và Liên Xô đồng chiếm giữ Berlin.
Tấm bản đồ cho thấy những gì có trong
đầu ngài Tổng thống, không lầm đi đâu được. Ngài Tổng thống nói với các tướng
lĩnh quân sự cấp cao của mình rằng, nếu quân Mỹ lấy phần phía nam như lời đề
nghị của COSSAC theo kế hoạch Rankin, thì “người Anh sẽ xen vào mọi bước đi của
chúng ta.” Roosevelt nói, rõ ràng là “các suy tính chính trị của Anh đứng đằng
sau những điều khoản này.”Cuộc thảo luận chấm dứt mà không có quyết định rõ
ràng nào, nhưng Roosevelt khiến các tướng lĩnh quân sự cấp cao của ông không
còn chút nghi ngờ gì về việc ông muốn gì.
Để Mỹ chiếm đóng như cách Roosevelt vạch
ra có nghĩa là cần đóng một triệu quân ở châu Âu “trong ít nhất một hoặc hai
năm.” Kế hoạch hậu chiến của ông cũng tương tự cái cách Mỹ đến với cuộc chiến –
dốc toàn lực nhưng với thời gian và sự dính dáng tối thiểu vào các vấn đề của
châu Âu. Ông đã đoán trước sẽ có một cuộc đột phá thành công và nhanh chóng vào
vùng trung tâm của địch – “một cuộc xâm lược nước Đức bằng đường sắt mà không
cần chiến đấu gì nhiều” – quân Mỹ sẽ lao
theo cuộc tấn công này vào vùng tây bắc và từ đó tới Berlin. Hơn hết thảy, ngài
Tổng thống Mỹ quyết tâm có được Berlin (*).
* * * *
* * * * *
Đó được xem là kế hoạch cụ thể đầu tiên
của Mỹ với nước Đức. Chỉ có một rắc rối duy nhất. Roosevelt, thường bị chỉ
trích vì cướp việc của Ngoại trưởng của mình, không hề nói gì về quan điểm của
ông với ai khác ngoài mấy tướng lĩnh quân sự cấp cao của mình. Họ đã bỏ quên kế
hoạch đó gần bốn tháng.
Sau cuộc họp trên tàu Iowa, Đại tướng
Marshall đưa tấm bản đồ của Roosevelt – bằng chứng hữu hình của tư duy điều
hành về việc chiếm đóng nước Đức – cho Thiếu tướng Thomas T. Handy, Cục trưởng
Cục Hành quân, Bộ Chiến tranh. Khi tướng Handy quay lại Washington, tấm bản đồ
được lưu trữ trong đống hồ sơ tối mật của Cục Hành quân. Sau này ông nhớ lại,
“Theo tôi biết, chúng tôi chưa bao giờ nhận được chỉ thị nào bảo chuyển nó cho
bất kỳ ai ở Bộ Ngoại giao.”
Việc các cố vấn quân sự của Roosevelt
xếp xó kế hoạch của chính ông chỉ là một trong chuỗi đánh giá sai lầm kỳ quặc
và đắt giá đã xảy ra trong giới quan chức Mỹ trong khoảng thời gian sau cuộc
họp trên tàu Iowa. Những sai lầm này có ảnh hưởng sâu sắc đến tương lai của
Berlin và nước Đức.
Ngày 29/11, Roosevelt, Churchill và
Stalin gặp nhau lần đầu tại Hội nghị Teheran. Trong cuộc họp này, ba ông lớn đã
chỉ định các đại diện ngồi vào Ủy ban Cố vấn châu Âu (EAC) tại London đầy quan
trọng – cơ quan chịu trách nhiệm soạn thảo các điều khoản đầu hàng cho Đức,
định ra các vùng chiếm đóng, và lập kế hoạch điều hành đất nước cho phe Đồng
minh.
Anh chỉ định bạn thân của Anthony Eden,
Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Sir William Strang vào EAC. Nga chọn một tay thương
lượng cứng đầu, nổi tiếng về tính ngoan cố - Fedor T. Gusev, Đại sứ Liên Xô tại
Vương quốc Anh. Roosevelt bổ nhiệm phái viên của mình trong Điện St. James,
John G. Winant, một người tận tụy nhưng thường nhút nhát và không có tài ăn
nói. Winant chưa bao giờ được chỉ dẫn tường tận về công việc mới của ông, cũng
không được cho biết các mục tiêu tại Đức của ngài Tổng thống.
.........................................
(*): Lời miêu tả các sự kiện trên tàu Iowa
đến từ biên bản viết tay do Đại tướng George C. Marshall viết. Bản ghi nhớ thực
sự không chứa các trích dẫn trực tiếp, chỉ ghi lại các điểm chính của cuộc họp.
Tôi đã trực tiếp trích dẫn lời ngài Tổng thống và những người khác ở những chỗ
có nói rõ là họ đã nói thế.
Tuy vậy, cơ hội để vị Đại sứ biết được
mình phải tán thành chính sách gì tại EAC nhanh chóng xuất hiện – nhưng rồi lại
mất đi. Tại Hội nghị Cairo (Roosevelt, Churchill, Chiang Kai-shek) từ ngày
22-26/11; cuộc họp tại Teheran (Roosevelt, Churchill, Stalin) bắt đầu ngày
28/11 và kéo dài đến ngày 1/12; sau cuộc họp tại Teheran, Roosevelt và
Churchill gặp nhau lần nữa ở Cairo vào ngày 4/12. Đêm đó, trong một bữa ăn tối
kéo dài với Churchill, Eden và Tham mưu trưởng của Tổng thống, Thủy sư Đô đốc
William D. Leahy, một lần nữa Roosevelt lại bày tỏ sự phản đối kế hoạch Rankin
C.
Ông nói với những người Anh – hình như
là không tiết lộ nội dung tấm bản đồ của mình hay những điều ông đã sửa lại –
rằng ông thấy Mỹ nên có vùng tây bắc nước Đức. Churchill và Eden mạnh mẽ phản
đối lời đề xuất đó, nhưng vấn đề được giao cho Hội đồng Tham mưu trưởng Anh-Mỹ
nghiên cứu. Đến lượt mình, Hội đồng lại đề nghị để cho COSSAC, tướng Morgan xem
xét khả năng sửa lại kế hoạch Rankin C.
Dù là một đại biểu tại Cairo, Winant lại
không được mời tới bữa gặp mặt ăn tối này và dường như không bao giờ được cho
biết về những vấn đề được thảo luận hôm đó. Khi Roosevelt quay về nhà, Winant
bay về London để tham gia cuộc họp đầu tiên của EAC, chỉ biết áng chừng về ý
muốn thật sự của ngài Tổng thống và ban lãnh đạo.
Mỉa mai thay, cách Đại sứ quán Hoa Kỳ
tại London có vài dặm, tại Điện Norfolk ở Quảng trường St. James, có một người
biết rất rõ Tổng thống Roosevelt muốn gì. Trung tướng Sir Frederick Morgan,
sửng sốt trước mệnh lệnh mới yêu cầu ông kiểm tra lại bản kế hoạch Rankin C của
mình trên quan điểm hoán đổi khu vực của Anh và Mỹ, bắt ban tham mưu khốn khổ
của ông phải làm việc ngay lập tức. Ông nhanh chóng kết luận rằng đây là chuyện
không tưởng – ít nhất là cho tới khi Đức bại trận. Ông báo cáo lại với thượng
cấp – và sau này ông nhớ lại, “thế là chấm dứt vấn đề” mà ông đã lo lắng.
* * * * * * *
* *
Trong khi đó, các tướng lĩnh quân sự
của Mỹ, dù phản đối rằng họ không muốn dính líu vào chính trị, thực tế lại
thành người quyết định chính sách hậu chiến của Mỹ tại châu Âu. Với họ, việc
phân chia và chiếm đóng nước Đức là các vấn đề quân sự thuần túy, cần được Vụ
Dân sự của Bộ Chiến tranh giải quyết. Kết quả không tránh khỏi là Bộ Chiến
tranh mâu thuẫn với Bộ Ngoại giao về vấn đề nước Đức. Điều này làm dấy lên một
cuộc chiến, và trong quá trình đó, mọi hi vọng đạt được một chính sách nhất
quán, chặt chẽ cho Mỹ về vấn đề này đều bị dập tắt và không thể cứu vãn.
Đầu tiên, ai cũng thấy rõ là cần làm gì
đó để để chỉ đạo ngài Đại sứ Winant trong cuộc thương lượng với EAC tại London.
Để hợp nhất các quan điểm mâu thuẫn nhau của Mỹ, một nhóm đặc biệt gọi là Ủy
ban Hoạt động An ninh được thành lập tại Washington vào đầu tháng 12/1943, với
các đại diện đến từ Bộ Ngoại giao, Bộ Chiến tranh và Bộ Hải quân. Các đại diện
của Bộ Chiến tranh, là các quan chức thuộc Vụ Dân sự, thực ra ban đầu đã từ
chối không ngồi vào ủy ban – hoặc là, không công nhận sự cần thiết của EAC.
Các sĩ quan lục quân này kiên trì ý
kiến là toàn bộ chuyện nước Đức đầu hàng và bị chiếm đóng đơn thuần là một vấn
đề quân sự và sẽ được Hội đồng Tham mưu trưởng Anh-Mỹ quyết định vào thời điểm
thích hợp, và “ở một mức độ quân sự.” Vì tình cảnh lố bịch này mà các thủ tục
bị trì hoãn hai tuần. Trong khi đó, Winant ngồi ở London mà chẳng được chỉ dẫn
gì.
Cuối cùng, mấy vị quân nhân đồng ý tham
gia các cuộc họp và ủy ban bắt đầu sắp xếp làm việc – nhưng chẳng đạt được mấy.
Mỗi nhóm trong ủy ban phải giải thích rõ các đề xuất cho thượng cấp trong bộ
của mình trước khi đánh điện cho Winant ở London. Tệ hơn, lãnh đạo mỗi bộ có
thể phủ quyết một chỉ thị được đề xuất ra – một đặc quyền mà Bộ Chiến tranh sử
dụng rất nhiều lần.
Sau này, Quyền Chủ tịch Ủy ban, Giáo sư
Phillip E. Mosely của Bộ Ngoại giao, người sẽ là Cố vấn Chính trị của Đại sứ
Winant, bình luận rằng các sĩ quan trong Vụ Dân sự “đã được nghiêm khắc chỉ thị
không được đồng ý chuyện gì, hoặc gần như thế, mà chỉ có thể báo cáo lại tình
hình thảo luận cho cấp trên của họ. Hệ thống đàm phán độc lập, với các chỉ đạo
cứng nhắc và việc thực hiện quyền phủ quyết này giống với quy trình của các nhà
đàm phán Liên Xô, dù Liên Xô có thể thức cứng nhắc hơn.”
Nguyên tháng 12/1943, tình trạng tranh
cãi tiếp diễn. Theo ý kiến của quân đội, các vùng chiếm đóng có thể được xác
định ít nhiều dựa trên vị trí sau cùng của các đoàn quân khi ký kết hiệp ước
đầu hàng. Dưới tình huống đó, các đại diện của quân đội thấy việc cho phép
Winant đàm phán bất cứ thỏa thuận nào về vùng chiếm đóng với EAC là thiếu khôn
ngoan.
Các quân nhân ngoan cố tới mức họ thậm
chí còn bác bỏ một kế hoạch của Bộ Ngoại giao, dù khá tương tự với kế hoạch của
Anh – nó cũng chia Đức thành ba phần bằng nhau – nhưng có một điểm thêm vào khá
quan trọng: một hành lang nối Berlin, nằm sâu trong vùng chiếm đóng của Liên Xô
với vùng của phương Tây. Tác giả của hành lang này là Giáo sư Mosely. Sau này
ông giải thích, ông nghĩ Liên Xô sẽ phản đối nhưng ông nhấn mạnh ở phần kết
luận là “Tôi tin rằng nếu kế hoạch được trình bày trước tiên với sự kiên quyết
mạnh mẽ, nó có thể cân nhắc khi Liên Xô bắt đầu trình bày đề xuất của họ.” Ông
dám chắc, “Điều khoản này phải được thực hiện để có thể trực tiếp và tự do tiếp
cận Berlin về mặt lãnh thổ từ phía Tây.”
Kế hoạch của Bộ Ngoại giao được đưa tới
Vụ Dân sự thuộc Bộ Chiến tranh để nghiên cứu trước cuộc họp toàn ủy ban. Nó bị đình trệ một thời gian. Cuối
cùng, giáo sư Mosely đến gặp mấy quan chức của Vụ Dân sự và tìm vị đại tá có
thẩm quyền với vấn đề này. Ông hỏi viên sĩ quan này là ông ta đã nhận được kế
hoạch chưa. Vị đại tá mở ngăn kéo dưới cùng của bàn làm việc và nói, “Chắc là
nó cũng nằm trong đây.” Kế hoạch này chưa từng được gửi đến chỗ Winant.
Tại London, EAC gặp không chính thức lần
đầu vào ngày 15/12/1943, và với Đại sứ Winant, có vẻ như buổi họp chỉ thương
lượng về các quy định và thủ tục. Ông vẫn chưa nhận được chỉ đạo chính thức. Từ
nguồn tin của Anh, ông được biết một cách không chính thức về bản kế hoạch đã
làm Roosevelt phiền lòng, nhưng ông không biết đó là kế hoạch Rankin C của
tướng Morgan: ông chỉ nghe đó là Kế hoạch Attlee. Ông cũng được biết, và cũng
theo con đường không chính thức (qua Trợ lý Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Mỹ John J.
McCloy), rằng Tổng thống muốn vùng tây bắc. Winant không nghĩ là người Anh sẽ
đổi kế hoạch (*). Dự đoán của Winant hoàn toàn đúng.
.......................................
(*): Trong thư gửi Đại tướng Marshall
ngày 12/12 McCloy viết, “Người Anh đã có ảnh hưởng kinh tế lâu dài với vùng
đông bắc, và Winant nói với tôi là kế hoạch đó được đưa ra sau khi đã tham khảo
các nhân vật quan trọng trong lĩnh vực kinh tế và chính trị của họ. Tôi không
biết Tổng thống muốn có vùng đó tới mức nào khi gặp phải sự phản đối mạnh mẽ
của người Anh… Tổng thể thì tôi thích vùng đông bắc, nhưng tôi không cho là nó
đáng để tranh giành một phen lớn.” Dường như Bộ Ngoại giao không bận tâm đến
cách này hay cách khác. Trong thư, McCloy nói thêm là Cordell Hull đã gọi điện
và nói rằng “ông ấy không đặc biệt thích miền nam hay miền bắc.”
Ngày 14/1/1944, Đại tướng Dwight D.
Eisenhower, Tổng tư lệnh Tối cao mới được bổ nhiệm, đến London để thực hiện
nhiệm vụ, và toàn bộ bộ máy tham mưu quân sự, trước đó nằm trong tay tướng
Morgan, giờ chính thức thuộc quyền của ông.
Nhưng có một kế hoạch mà đến ông cũng
không có ảnh hưởng gì trong những ngày muộn màng này. Sau hôm tướng Eisenhower
đến, tại cuộc họp chính thức đầu tiên của EAC, kế hoạch Rankin C của tướng
Morgan được Sir William Strang trình bày với Đại sứ Winant và vị phái viên của
Nga Fedor Gusev. Người Mỹ, vì cứ đình trệ ở Washington, đã đánh mất tiên cơ.
Cái này thì chẳng bao giờ giành lại được.
Sau này, Strang viết rằng ông đã có một
lợi thế trước các đồng nghiệp, “trong khi họ phải đánh điện xin chỉ thị từ một
chính phủ ở xa và đôi khi còn không thông cảm và thấu hiểu, còn tôi thì ở ngay
trung tâm mọi chuyện, thường nhanh chóng có chiến lược hành động vạch ra cho
tôi. Tôi có một lợi thế lớn hơn là chính phủ tôi đã bắt đầu lập kế hoạch hậu
chiến vào thời điểm phù hợp một cách có trình tự.”
Ngày 18/2, tại cuộc họp chính thức thứ
hai của EAC, bằng một quyết định chắc chắn đã lập kỷ lục trong ngoại giao của
Liên Xô, Đại sứ Gusev khó nhìn thấu đã nghiêm trang chấp thuận đề xuất phân
chia khu vực của Anh mà không hề bàn cãi gì.
Đề xuất của Anh phân cho Liên Xô gần 40%
diện tích nước Đức, 36% dân số và 33% nguồn tài nguyên sản xuất. Dù Berlin được
phân chia giữa các phe Đồng minh nhưng lại nằm sâu trong vùng chiếm đóng của
Liên Xô, cách ranh giới Anh-Mỹ 110 dặm. Sau này Strang nhớ lại, “Điều khoản đưa
ra có vẻ rất công bằng, và nếu như nó có vẻ hơi thiên về phía có lợi cho Liên
Xô, nhưng nó lại phù hợp với mong muốn của các lãnh đạo quân sự của chúng tôi,
vốn lo lắng về thiếu hụt nhân lực sau chiến tranh, không muốn có một vùng chiếm
đóng lớn hơn mức cần thiết.” Còn có nhiều lý do khác. Một trong số đó là nỗi sợ
của các lãnh đạo Anh và Mỹ rằng Nga có thể thiết lập hòa bình riêng với Đức.
Một mối lo khác, đặc biệt là giới quân sự Mỹ, là sợ Nga sẽ không tham gia cuộc
chiến chống Nhật. Và cuối cùng, Anh tin là nếu không chặn trước thì Nga có thể
đòi tới 50% nước Đức vì đã phải chịu nhiều tổn thất trong chiến tranh.
Như Mỹ đã lo ngại, có vẻ như đã là bút
sa gà chết. Dù Ba ông lớn vẫn phải chấp nhận kế hoạch của Anh, có một sự thật
khó nuốt đối với Mỹ là cả Anh và Nga cùng nhất trí với nhau (*). Nói cách khác,
đây là việc đã rồi và Winant chẳng thể làm gì khác ngoài báo cáo lại cho chính
phủ của mình.
Sự chấp nhận nhanh chóng của Liên Xô
trước kế hoạch của Anh khiến Washington và ngài Tổng thống bị mất thăng bằng.
Roosevelt vội vã gửi một bức thư ngắn cho Bộ Ngoại giao. Ông hỏi, “Bản phác
thảo phân chia khu vực chiếm đóng của Anh và Nga là như thế nào, và chúng ta
nhận được phần nào? Tôi phải biết nó có đúng với cái tôi đã quyết định mấy
tháng trước hay không.”
Các quan chức Bộ Ngoại giao bối rối vì
một lý do rất chính đáng: họ đâu được biết những quyết định mà Roosevelt đã đưa
ra ở Hội nghị Teheran và Cairo về phân chia vùng chiếm đóng.
Có một cơn mưa điện thoại giữa Hội đồng
Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ và Bộ Ngoại giao trước khi trình thông tin lên
cho Tổng thống. Rồi vào ngày 21/2 sau khi xem qua kế hoạch của Anh và Nga,
Roosevelt phản ứng lại. Ông thẳng thừng tuyên bố trong một thư báo gửi Bộ Ngoại
giao, “Tôi không đồng ý với cách phân chia ranh giới của Anh.” Ông không đề cập
đến khu vực của Liên Xô, nhưng thay vào đó, một lần nữa bày tỏ sự phản đối mạnh
mẽ về phần được chia cho nước Mỹ, thậm chí còn lặp lại mạnh mẽ hơn nữa những
điều ông đã nói với các cố vấn quân sự của mình trên tàu Iowa. Với Bộ Ngoại
giao, bản thư báo của ngài Tổng thống đã tiết lộ cho họ một chuyện chưa được
biết trước đó.
Ông viết, “Mục tiêu cơ bản của chúng ta
không phải là tham gia vào các vấn đề nội bộ ở Nam Âu, mà là tham gia tiêu diệt
nước Đức vì nó có thể là nguyên nhân tiềm năng của một cuộc Thế chiến lần thứ
ba. Chúng ta có nhiều chỗ khó khăn trong việc di dời quân… từ mặt trận Pháp đến
mặt trận miền bắc nước Đức – được gọi là một trò chơi ‘nhảy cừu.’ Các mục tiêu
này bề ngoài có vẻ hợp lý, vì dù quân Anh và quân Mỹ có đóng ở đâu vào ngày Đức
đầu hàng đi nữa, thì các cánh quân này cũng dễ dàng đi bất cứ đâu – về phía
đông, bắc hay là nam… Cân nhắc tới mọi thứ, và hãy nhớ là nguồn tiếp tế tới từ
một nơi cách đó 3.500 dặm hoặc hơn bằng đường biển, Mỹ phải sử dụng các cảng
miền bắc nước Đức – Hamburg và Bremen – và… Hà Lan… Do đó, tôi nghĩ chính sách
của Mỹ là phải chiếm được miền tây bắc nước Đức…Nếu cần thêm điều gì để chứng
minh cho sự bất đồng với người Anh… tôi chỉ có thể thêm rằng các suy tính chính
trị ở Mỹ đã tạo nên quyết định cuối cùng của tôi.”
Rồi sau đó, để chắc chắc tuyệt đối là
ngài Ngoại trưởng của mình thực sự hiểu được ông muốn gì, Roosevelt thêm, có
gạch dưới các dòng chữ: “Nếu những gì nói trên chưa hoàn toàn rõ ràng thì anh
có thể gặp tôi nói chuyện.”
Bằng một giọng điệu hài hước hơn, ông
giải thích lập trường của mình với Churchill. Ông viết cho ngài Thủ tướng, “Làm
ơn đừng bảo tôi phải để lại một đội quân Mỹ nào trên đất Pháp. Tôi đơn giản là
không làm thế được! Như tôi đã đề nghị trước đó, tôi kịch liệt phản đối việc
phải ‘làm cha’ của Pháp, Bỉ và Italy. Ngài thực sự cần phải tự nuôi nấng và dạy
dỗ ‘con cái’ mình. Với quan điểm là chúng có thể làm bức tường chắn cho ngài
trong tương lai, ít nhất bây giờ ngài cũng nên trả tiền học phí!”
Dường như các tham mưu trưởng của Mỹ cũng
được nghe từ ngài Tổng thống. gần như ngay lập tức, các sĩ quan quân đội từ Vụ
Dân sự rút khỏi Ủy ban Hoạt động An ninh. Vài ngày sau cuộc họp của EAC tại
London, một vị đại tá xộc vào văn phòng của giáo sư Mosely trong Bộ Ngoại giao
và trải một tấm bản đồ ra trước mặt ông.
Ông ta nói, “Đây là điều Tổng thống thực
sự muốn.” Giáo sư Mosely nhìn tấm bản đồ. Ông không biết nó đã được chuẩn bị
khi nào hay là trong hoàn cảnh nào. Ông chưa bao giờ thấy qua nó – mọi người khác
ở Bộ Ngoại giao cũng chưa. Tấm bản đồ này là cái mà Tổng thống Roosevelt đã
đánh dấu trên tàu Iowa.
...............................
(*): Một trong những bí ẩn lớn xuất hiện
từ cuối Thế chiến thứ hai là Roosevelt lại là người chịu trách nhiệm cho việc
phân chia vùng chiếm đóng. Sự thật là từ đầu chí cuối kế hoạch này là của Anh.
Kế hoạch này do Anthony Eden khởi xướng, do Ủy ban của Attlee phát triển (dùng
tư tưởng quân sự nghiêm khắc của tướng Morgan làm phương tiện), do Churchill và
nội các của ông chấp thuận, và do Strang trình bày ở EAC. Nhiều nguồn tin của
Anh và Mỹ xem điều khoản phân chia khu vực là kế hoạch của Nga. Kết luận sai
lầm này xuất phát từ sự thật là khi Gusev chấp thuận đề xuất của Anh tại buổi
họp thứ hai, ông ta cũng đưa ra một bản phác thảo của Liên Xô về các điều kiện
đầu hàng cho nước Đức. Có một phần nói về phân chia khu vực: nó y chang kế
hoạch của Anh.
Kể từ đó, tấm bản đồ của Roosevelt lại
biến mất khỏi tầm nhìn, cũng bí ẩn như khi nó xuất hiện. Giáo sư Mosely đoán nó
sẽ được đem ra tại cuộc họp tới của ủy ban tại Washinton. Nhưng chẳng bao giờ
có. Nhiều năm sau, giáo sư Mosely nói, “Tôi không biết nó có chuyện gì. Lần kế
bọn tôi gặp nhau, mấy sĩ quan ở Vụ Dân sự đưa ra một tấm bản đồ mới toanh, họ
giải thích sự thay đổi này là dựa trên chỉ dẫn của Tổng thống. Tôi chẳng bao
giờ biết được ai là người nhận được các chỉ thị đó.”
Ý tưởng mới có phần tương tự tấm bản đồ
trên tàu Iowa của Tổng thống, nhưng không nhiều lắm. Khu vực của Mỹ vẫn nằm ở
vùng tây bắc, Anh nằm ở phía nam, nhưng đường ngăn cách giữa hai bên dọc theo
vĩ tuyến 50 giờ ngừng trước biên giới với Tiệp một đoạn. Hơn nữa, ranh giới
phía đông của khu vực của Mỹ chạy răng cưa về phía đông, bên trên Leipzig để
chiếm được nhiều lãnh thổ hơn.
Còn có một sự thay đổi nữa, quan trọng
hơn hết thảy: Berlin không còn nằm trong vùng chiếm đóng của Mỹ nữa. Trong
phiên bản ban đầu của Roosevelt, ranh giới phía đông của khu vực của Mỹ kéo dài
vượt qua cả thủ đô; giờ đường ranh giới chạy về phía tây thành một đường bán
nguyệt quanh thành phố. Có phải Roosevelt – sau khi khăng khăng với các tướng
lĩnh quân sự của ông là “Chúng ta phải tới Berlin” và “Mỹ phải có được Berlin”
– giờ đã đổi ý? Các sĩ quan của Vụ Dân sự không nói gì. Nhưng họ yêu cầu rằng
đề cuất mới phải được chuyển tới London ngay, và Winant phải yêu cầu EAC chấp
nhận nó!
Dù gì đi nữa thì đó cũng là một đề xuất
vô lý, và Bộ Ngoại giao biết thế. Theo kế hoạch mới, cả Anh và Nga đều có vùng
chiếm đóng nhỏ hơn; có vẻ họ sẽ khó lòng chấp nhận một thỏa thuận như thế sau
khi vừa đồng ý một điều khoản lãnh thổ vừa ý hơn trước đó. Các sĩ quan Vụ Dân
sự đã đưa ra đề xuất này mà không có một bản ghi nhớ đi kèm nào để hỗ trợ
Winant hợp lý hóa nó trước mặt EAC; Cho đến khi được yêu cầu chuẩn bị tài liệu
kèm theo thì họ từ chối và nói đó là việc của Bộ Ngoại giao. Cuối cùng, bản đề
xuất được đưa đến tay Winant mà không có bất cứ tài liệu đi kèm nào. Ngài Đại
sứ hốt hoảng đánh điện để được hướng dẫn chi tiết hơn. Vì không có tài liệu
hướng dẫn, ông đành xếp xó kế hoạch; nó không bao giờ được đưa ra.
Đó là nỗ lực cuối cùng để đưa ra một kế
hoạch của Mỹ. Roosevelt tiếp tục trì hoãn việc chấp thuận kế hoạch của người
Anh cho đến tận cuối tháng 3/1944. Lúc đó, George F. Kennan, cố vấn chính trị
của Đại sứ Winant, bay tới Washington để giải thích các vấn đề xuất hiện ở EAC
vì sự trì hoãn này cho ngài Tổng thống nghe.
Roosevelt xem lại tình hình và sau khi
kiểm tra đề xuất của Anh một lần nữa, ông nói với Kennan là “cân nhắc mọi thứ,
đó có thể là một quyết định công bằng.” Sau đó, ông chấp thuận vùng chiếm đóng
của Liên Xô và tổng thể kế hoạch, nhưng với một điều kiện: ông nhấn mạnh là Mỹ
phải có được vùng tây bắc. Theo như bản báo cáo mà Kennan đưa cho giáo sư
Mosely sau đó, khi buổi gặp kết thúc, Kennanđã hỏi ngài Tổng thống rằng chuyện
gì đã xảy ra với kế hoạch ban đầu của ông. Roosevelt cười. Ông nói, “Ồ, đó chỉ
là một ý kiến thôi mà.”
Trong suốt những tháng quan trọng đó của
năm 1944, khi quân Anh-Mỹ tiến vào lục địa, quét sạch quân Đức ra khỏi nước
Pháp và bắt đầu tiến về Đức, những cuộc chiến chính trị trong hậu trường cứ thế
tiếp diễn. Roosevelt kiên quyết giữ nguyên yêu cầu của mình về vùng tây bắc
nước Đức. Churchill cũng mạnh mẽ từ chối phải rời khỏi vị trí của mình.
Vào tháng 4, Winant đã thông báo miệng
với EAC về quan điểm của chính phủ của mình, nhưng ông không đề cập với các đại
biểu về mong muốn của ngài Tổng thống bằng văn bản ngay lập tức. Ngài Đại sứ
vẫn chưa sẵn sàng làm thế, chừng nào ông còn chưa nhận được chỉ thị về một vấn
đề mà ông cho là rất quan trọng. Trong kế hoạch của Anh, vẫn không có một điều
khoản nào về đường vào Berlin của phương Tây.
Người Anh đoán trước là sẽ không có vấn
đề gì trong việc đi đến Berlin. Họ cho là khi giao tranh chấm dứt, một số quan
chức của Đức sẽ ký kết hiệp định đầu hàng và điều hành đất nước dưới sự kiểm
soát của Tư lệnh Tối cao. Không vùng nào có thể tách biệt khỏi các vùng khác,
và theo quan điểm của Strang, sẽ có “một số người Đức được tự do qua lại giữa
các vùng và từ vùng của phương Tây qua thủ đô… các nhân viên dân sự và quân sự
của phe Đồng minh nếu có mục đích chính đáng cũng sẽ được tự do qua lại trong
nước Đức.”
Hơn nữa, những khi chủ đề này được nhắc
tới trong EAC, Gusev của Nga luôn đảm bảo trơn tru với Strang và Winant rằng
ông thấy không có khó khăn gì. Gusev nói đi nói lại, nói cho cùng, nội sự có
mặt của quân Anh và Mỹ cũng đã tự động đem lại quyền tiếp cận Berlin rồi. Đó là
chuyện đương nhiên, một loại thỏa thuận giữa các quý ông. Tuy vậy, Winant nghĩ
là cần vạch rõ điều khoản đó ra. Ông tin rằng cần đưa vào các “hành lang” như
ban đầu Mosely đã đề xuất trước khi Ba ông lớn chính thức chấp nhận kế hoạch
của Anh. Ông định trình bày đề xuất này cùng lúc với việc chính thức đưa ra
quan điểm của ngài Tổng thống về vùng chiếm đóng cho EAC. Ông muốn được bảo đảm
về các tuyến đường sắt, đường cao tốc và đường không nhất định qua khu của Liên
Xô tới Berlin.
Vào tháng 5, ngài Đại sứ bay về
Washington, gặp Tổng thống, và rồi phác họa điều khoản hành lang của mình với
Bộ Chiến tranh. Vụ Dân sự đã thẳng thừng bác bỏ kế hoạch của Winant (*).
Các sĩ quan ở đó trấn an ông rằng tiếp
cận Berlin “chỉ đơn thuần là một vấn đề quân sự” và sẽ do các tư lệnh địa
phương xử lý thông qua các kênh quân sự khi Đức bị chiếm đóng. Bị đánh bại,
Winant trở về London. Ngày 1/6, ông chính thức đồng ý kế hoạch của Anh và khu
vực dự kiến được chia cho Nga, với một điều kiện là Mỹ phải có được vùng tây
bắc. Tài liệu này không chứa điều khoản nào về quyền tiếp cận Berlin (**).
..................................................
Lời dẫn của tác giả:
(*): Những trao đổi giữa Roosevelt và
Winant trong cuộc gặp, hay lập trường của ngài Tổng thống về vấn đề Berlin
không được tiết lộ. Việc Bộ Chiến tranh phản đối hay đồng ý kế hoạch “hành
lang” của Winant cũng rất mù mờ. Thiếu tướng John H, Hildring, Vụ trưởng Vụ Dân
sự, được cho là từng nói với Winant rằng “cần bảo đảm quyền tiếp cận Berlin.”
Cuốn sách này phản ánh quan điểm của ba sử gia chủ chốt của Mỹ trong giai đoạn
này:
Giáo sư Phillip Mosely (The Kremlin and World); Herbert Feis (Churchill
Roosevelt Stalin); và William M. Franklin, Giám đốc Văn phòng Lịch sử của Bộ
Ngoại giao (Zonal Boundaries and Access to Berlin—World Politics, tháng
10/1963). Franklin viết, “Winant dường như không hề ghi lại các đoạn hội thoại
đó… Tuy nhiên, có điều này rất rõ ràng: Winant không hề được ai ở Washington
chỉ thị hay khuyến khích đặt vấn đề với Nga.”
(**): Vì một số lý do không bao giờ được
làm rõ, lập trường của Winant về quyền tiếp cận Berlin đã thay đổi sau khi ông
trở lại từ Washington.
Nhà ngoại giao kỳ cựu Robert Murphy nhớ
lại là không lâu sau khi gia nhập Bộ chỉ huy Tối cao vào tháng 9/1944, ông có
dùng bữa trưa với Winant ở London và đã thảo luận về việc tiếp cận Berlin.
Murphy giục Winant nên giở lại vấn đề. Ông viết trong cuốn hồi ký của mình,
Ngoại giao giữa các chiến binh, như sau:
Winant tranh luận rằng quyền tự do tiếp
cận Berlin của chúng ta ẩn bên trong quyền hiện diện tại đó. Người Nga… có khuynh
hướng dù thế nào cũng hoài nghi động cơ của chúng ta và nếu chúng ta cứ khăng
khăng về vấn đề chuyên môn này thì chỉ càng làm cho lòng nghi ngờ của họ sâu
thêm.” Theo Murphy, Winant không muốn ép EAC về chuyện này.
Ít ra, trong trạng thái thăm dò, phe Đồng
minh đã quyết định tương lai của thành phố: khi chiến tranh chấm dứt, nó sẽ
thành một hòn đảo do các bên cùng chiếm đóng nằm ở trung tâm khu vực do Liên Xô
nắm giữ.
Cuộc đấu tranh quyền lực giờ nhanh chóng
đi vào hồi kết. Cuối tháng 7/1944, Gusev phấn khởi hợp thức hóa những gì Liên
Xô giành được tại EAC, cố tình đưa vấn đề lên đỉnh cao tranh cãi. Ông nhẹ nhàng
nói, trừ khi bất đồng giữa Anh và Mỹ được dàn xếp ổn thỏa để Ba ông lớn có thể
ký kết thỏa thuận, còn không thì Liên bang Xô viết thấy không có lý do gì để
tiếp tục thảo luận ở EAC. Ngụ ý đe dọa sẽ rút khỏi Hội đồng Cố vấn, qua đó
khiến công sức nhiều tháng qua thành công dã tràng, rốt cuộc mong muốn đó đã có
hiệu quả.
Hai bên bờ Đại Tây Dương, các nhà ngoại
giao và cố vấn quân sự đang lo lắng thúc giục lãnh đạo của mình nhượng bộ. Cả
Churchill và Roosevelt vẫn ngoan cố. Có vẻ như Roosevelt là người dao động ít
nhất trước lời đe dọa của Liên Xô. Winant nghe nói là ngài Tổng thống không thể
hiểu nổi tại sao “còn cần thảo luận thêm với Liên Xô vào lúc này,” vì Mỹ đã
đồng ý với vùng chiếm đóng của Liên Xô rồi.
Nhưng giờ Roosevelt đang chịu sức ép từ
mọi phía. Trong khi các cuộc tranh cãi ầm ĩ về chính trị tiếp diễn, các đội
quân Anh-Mỹ đang lũ lượt kéo vào nước Đức. Vào giữa tháng 8, Đại tướng
Eisenhower đánh điện cho Hội đồng Tham mưu trưởng Anh-Mỹ, cảnh báo rằng họ
có thể
phải “đối mặt với việc chiếm đóng nước Đức sớm hơn dự kiến.” Một lần nữa, như
tướng Morgan đã dự đoán trước ngay từ đầu trong kế hoạch Rankin C của mình về
cách bố trí quân, các kế hoạch gia lại điên đầu về việc này: quân Anh bên cánh
trái đang tiến về miền bắc nước Đức, còn quân Mỹ bên cánh phải đang tiến về
miền nam.
Bây giờ, Eisenhower đang xin chỉ đạo
chính trị về khu vực chiếm đóng – ông là quân nhân Mỹ đầu tiên làm thế. Ông
nói, “Tất cả những gì chúng ta có thể làm là tiếp cận vấn đề trên cơ sở thuần
quân sự” và điều đó có nghĩa là duy trì “cách bố trí quân hiện tại.” Eisenhower
nói thêm: “Trừ khi chúng ta nhận được chỉ thị ngược lại, còn không thì chúng ta
phải chấp nhận tình hình… cân nhắc các tình huống chúng ta có thể phải đương
đầu và việc thiếu quyết định cơ bản về khu vực chiếm đóng.”
Cuộc khủng hoảng, vốn từ lâu đã là không
thể tránh được, giờ đã xuất hiện. Bộ Chiến tranh và Bộ Ngoại giao Mỹ, từng hoàn
toàn nhất trí với nhau, giờ đối mặt với một tình trạng tiến thoái lưỡng nan:
không ai sẵn sàng lật lại vấn đề với ngài Tổng thống lần nữa.
Trong bất kỳ trường hợp nào, vấn đề này
cũng sẽ được thảo luận tại cuộc họp mới giữa Roosevelt-Churchill dự kiến vào
mùa thu; bất cứ quyết định cuối cùng nào cũng phải hoãn cho tới lúc đó. Trong
khi đó, kế hoạch của Eisenhower không thể trì hoãn lâu hơn được nữa. Vì các
Tham mưu trưởng của Mỹ đã chuẩn bị sẵn kế hoạch chiếm đóng tại miền nam hoặc
miền bắc, vào ngày 18/8, họ khuyên Eisenhower là họ “hoàn toàn nhất trí” với
giải pháp của ông. Do đó, dù Roosevelt vẫn chưa thông báo quyết định của mình,
giả thuyết Mỹ sẽ chiếm miền nam được giữ nguyên.
Roosevelt và Churchill gặp nhau lần nữa
tại Quebec vào tháng 9/1944. Roosevelt đã thay đổi rõ rệt. Ngài Tổng thống vốn
đầy sức sống giờ trông có vẻ xanh xao yếu ớt. Căn bệnh bại liệt của ông, xưa
nay được che đậy bởi sức quyến rũ nổi tiếng và sự thân mật dí dỏm giờ hiện rõ
trong từng bước đi khập khiễng và đau đớn.
Nhưng còn hơn thế nữa. Ông đã tại vị từ
năm 1933 – lâu hơn bất kỳ một Tổng thống Mỹ nào khác – và giờ vẫn tranh cử cho
nhiệm kỳ thứ tư. Chiến dịch tranh cử, hoạt động ngoại giao trong nước và ở nước
ngoài, những gánh nặng căng thẳng trong những năm tháng chiến tranh, tất cả
đang gây tổn hại cho ông rất mau. Dễ thấy tại sao các bác sĩ, gia đình và bạn
bè ông đều năn nỉ ông đừng tranh cử nữa.
Đối với đoàn đại biểu Anh, Roosevelt có
vẻ đang yếu đi rất nhanh. Tham mưu trưởng của Churchill, Đại tướng Sir Hastings
Ismay, bị sốc trước vẻ ngoài của Roosevelt. Ông nói, “Hai năm trước, ngài Tổng
thống là hiện thân của sức khỏe và sinh khí, nhưng giờ ông ấy đã gầy đi quá
nhiều tới mức ông giống như bị co rút lại vậy: áo khoác của ông chùng trên bờ
vai rộng và cổ áo trông như lớn hơn vài cỡ. Chúng tôi biết bóng tối đang đến
gần.”
Mệt mỏi, chán nản, mắc kẹt giữa các tình
huống và sức ép từ các cố vấn của mình cũng như Churchill, ngài Tổng thống cuối
cùng cũng nhượng bộ và chấp nhận miền nam. Người Anh cũng thỏa hiệp với ông.
Cùng với các nhượng bộ khác, họ đồng ý để Mỹ kiểm soát các cảng lớn và các khu
vực tập kết của quân đội tại Bremen và Bremerhaven (*).
Cuộc gặp cuối cùng trong thời chiến của
Ba ông lớn diễn ra ở Yalta, vào tháng 2/1945. Đó là một hội nghị quan trọng.
Chiến thắng đang ở phía trước, nhưng rõ ràng là mối liên hệ giữa các nhà lãnh
đạo Đồng minh đang yếu đi khi mà các suy tính chính trị dần thay thế các tình
hình quân sự thực tế. Càng tiến sâu vào trung tâm nước Đức, Nga càng kiêu ngạo
và đòi hỏi nhiều hơn. Churchill, từ lâu đã ghét Chủ nghĩa Cộng sản, đặc biệt
quan ngại cho tương lai của các quốc gia như Ba Lan, mà Hồng quân đã giải
phóng và đang kiểm soát.
Roosevelt, hốc hác và yếu hơn nhiều so
với hồi ở Quebec, thấy mình vẫn ở vị trí Đại Thẩm phán. Trong quan điểm của
ông, một thế giới hòa bình sau chiến tranh chỉ có thể có được nếu như Stalin
chịu hợp tác. Ông từng bày tỏ chính sách của mình đối với nhà lãnh đạo Liên Xô
qua các lời sau: “Tôi nghĩ rằng nếu tôi đưa cho ông ta mọi thứ mình có thể đưa
và không cần nhận lại gì, kẻ quyền cao chức trọng thì phải rộng rãi với người
khác, ông ta sẽ không cố thôn tính thêm nữa và sẽ hợp tác với tôi vì một thế
giới dân chủ và hòa bình.”
Ngài Tổng thống tin rằng Mỹ có thể “hòa
thuận với Nga” và ông từng giải thích rằng ông có thể “kiềm chế Stalin” dựa
trên “nền tảng giữa những người đàn ông với nhau… Bác Joe (**)… có thể thân cận
được.” Dù ngài Tổng thống ngày càng quan ngại về các dự định của Liên Xô sau
chiến tranh, ông có vẻ vẫn khá lạc quan.
Tại Yalta, các quyết định lớn sau cùng
trong thời chiến được đưa ra. Trong số đó, có một quyết định trao cho Pháp quan
hệ đối tác toàn diện trong việc chiếm đóng nước Đức. Vùng chiếm đóng của Pháp
tại Đức và Berlin sẽ được cắt ra từ vùng của Anh và Mỹ; Stalin, vốn phản đối
việc Pháp tham chiến, từ chối không cắt phần của Nga. Vào ngày 11/2/1945, Ba
ông lớn chính thức chấp thuận khu vực tương ứng của mình.
Vậy là, sau 16 tháng mơ hồ và đầy tranh
cãi, cuối cùng Mỹ và Anh cũng nhất trí với nhau. Kế hoạch chiếm đóng, dựa trên
một kế hoạch ban đầu có tên Rankin C giờ được giới quân sự biết đến bằng cái
tên Chiến dịch Nhật thực, có một điều lãng quên đầy ngạc nhiên: không có một
điều khoản nào về đường tới Berlin của Anh và Mỹ.
.............................
(*): Tại Hội nghị, một cuộc tranh cãi
khác đã nổ ra giữa ngài Tổng thống và Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ, Henry
Morgenthau, dẫn đến một kế hoạch kinh tế khắt khe và khó đạt được dành cho nước
Đức, biến Đức thành một quốc gia nông nghiệp và không có công nghiệp. Ban đầu
Churchill tán thành kế hoạch này, nhưng sau đó lại thay đổi lập trường dưới sức
ép từ các cố vấn của ông. Mấy tháng sau, Roosevelt cũng bác bỏ kế hoạch gây
tranh cãi của Morgenthau.
(**): Chỉ Josef Stalin - ND.
Stalin mất có sáu tuần để vi phạm thỏa
thuận Yalta. Trong vòng ba tuần diễn ra cuộc hội nghị, Nga đã lật đổ chính phủ
của Rumania đang do Liên Xô chiếm đóng. Trong tối hậu thư gửi đến Vua Michael,
Liên Xô thẳng thừng ra lệnh chỉ định Petru Groza, người đứng đầu Đảng Cộng sản
Rumania làm Thủ tướng. Ba Lan cũng bị mất nốt: cuộc bầu cử tự do hứa hươu trước
đó không hề diễn ra.
Stalin có vẻ đã khinh khỉnh quay lưng lại
cốt lõi của hiệp ước Yalta, trong đó khẳng định là các bên trong phe Đồng minh
sẽ hỗ trợ “nhân dân giải phóng khỏi ách thống trị của Đức Quốc xã và… các nước
chư hầu trước đó của phe Trục… để lập nên các cơ quan dân chủ do chính mình bầu
ra.” Nhưng Stalin thấy là các điều khoản trong hiệp ước Yalta có lợi cho mình –
ví dụ như sự chia cắt nước Đức và Berlin – cần được thực thi cẩn trọng.
Roosevelt đã thường xuyên được Đại sứ của
ông tại Moscow, W. Averell Harriman, cảnh báo về tham vọng lãnh thổ tàn nhẫn
của Stalin, nhưng giờ đây, sự vi phạm niềm tin trắng trợn của nhà lãnh đạo Liên
Xô khiến ông bị sốc. Vào chiều thứ bảy ngày 24/3, trong một căn phòng nhỏ trên
tầng thượng Nhà Trắng, Roosevelt vừa dùng xong bữa trưa với bà Anna Rosenberg,
người đại diện cá nhân của ông, có trách nhiệm nghiên cứu các vấn đề về các cựu
binh đi lính trở về, thì nhận được điện tín từ Harriman về tình hình tại Ba
Lan.
Ngài Tổng thống đọc tin báo và rồi điên
lên vì giận dữ, liên tục vỗ lên tay vịn xe lăn. Sau này bà Rosenberg nhớ lại,
“Khi đập vào xe, ông ấy cứ lặp đi lại lại: Averell đã đúng! Chúng ta không thể
bàn chuyện làm ăn với Stalin được! Ông ta đã phá vỡ mọi hứa hẹn của mình tại
Yalta (*)!”
Tại London, Churchill phiền não trước sự
chệch hướng của Stalin khỏi tinh thần hiệp ước Yalta tới mức ông nói với viên
thư ký của mình là ông sợ thế giới sẽ cho là “Ông Roosevelt và tôi đã tán
thành một hiệp ước lừa dối.” Khi quay về từ Yalta, ông nói với người dân Anh
rằng “Stalin và các nhà lãnh đạo Liên Xô muốn sống trong mối quan hệ bình đẳng
và tình bạn danh dự với các nền dân chủ phương Tây. Tôi thấy… lời của họ chính
là khế ước.” Nhưng cũng trong ngày thứ bảy đó, ngày 24/3, ngài Thủ tướng đang
lo lắng đã nhận xét với người phụ tá của mình rằng: “Tôi thật không muốn chia
cắt nước Đức cho tới khi mối nghi ngờ của tôi về các ý định của Nga trở nên rõ
ràng.”
Khi mà các bước đi của Liên Xô trở nên
“rõ như ban ngày,” Churchill thấy là lực lượng đàm phán mạnh nhất của phe Đồng
minh phương Tây sẽ là sự hiện diện của quân Anh và Mỹ sâu trong lòng nước Đức,
để họ có thể gặp quân Nga tại “càng xa về phía đông càng tốt.” Do đó, tin nhắn
của Nguyên soái Montgomery báo rằng ông định tiến nhanh về sông Elbe và Berlin
thực sự là tin tức đầy khích lệ: với Churchill, việc nhanh chóng chiếm được
Berlin giờ là yếu tố sống còn. Nhưng, bất chấp thông điệp của Montgomery, không
tư lệnh nào ở mặt trận phía Tây được ra lệnh chiếm lấy thành phố. Mệnh lệnh đó
chỉ có thể đến từ một người: Tư lệnh Tối cao, Đại tướng Eisenhower.
4.
Cuộc tấn công khiến hàng phòng thủ Berlin
gục ngã hoàn toàn vì quá bất ngờ. Gần 11 giờ trưa thứ tư ngày 28/3, những chiếc
máy bay đầu tiên xuất hiện. Ngay lập tức, pháo binh toàn thành phố khai hỏa, nã
pháo lên trời. Tiếng súng nổ ầm ĩ huyên náo, cộng thêm tiếng còi báo động không
kích rền rĩ muộn màng càng ồn thêm gấp bội, nghe muốn thủng màng nhĩ. Những
chiếc máy bay này không phải của Mỹ. Các cuộc không kích của Mỹ thường dễ đoán
trước: chúng thường xảy ra vào lúc 9 giờ sáng và rồi một lần nữa vào lúc giữa
trưa. Cuộc tấn công này lại khác. Nó đến từ phía đông, và cả nhịp độ lẫn chiến
thuật đều mới lạ. Đông đảo lính Nga thét lên muốn bể nóc nhà, nã đạn vào các
đường phố.
Ở Potsdamer Platz, người ta chạy đủ
hướng. Trên đường Kurfürstendamm, những người bán hàng nhào ra cửa, chạy tới
lối đi xuống ga tàu điện ngầm, hoặc chạy vào khu phế tích của Nhà thờ Tưởng
niệm Kaiser-Wilhelm. Nhưng một số người dân Berlin đang đứng xếp hàng mấy tiếng
liền trong hàng người dài dằng dặc, chờ mua khẩu phần ăn hàng tuần, không thèm
nhúc nhích.
Ở Wilmersdorf, y tá 36 tuổi Charlotte
Winckler kiên quyết phải lấy được thực phẩm cho hai đứa con, Ekkehart 6 tuổi và
Barbara 9 tháng. Ở Adolf-Hitler-Platz, Gertrud Ketzler và Inge Rühling, bạn lâu
năm với nhau, đang cùng những người khác bình tĩnh chờ đợi trước một cửa hàng
tạp hóa. Mới nãy, cả hai vừa quyết định sẽ tự tử nếu quân Nga tới được Berlin,
nhưng giờ họ không nghĩ đến chuyện đó nữa. Họ định nướng một cái bánh cho lễ
Phục sinh, và đã đi mua sắm nguyên vật liệu cần thiết suốt mấy ngày nay.
Ở Köpenick, bà Hanna Schultze 40 tuổi mập
mạp đang hi vọng kiếm thêm được ít bột mì để làm một cái bánh bông lan cẩm
thạch cho dịp lễ. Trong buổi mua sắm hôm nay, bà Hanna còn hi vọng kếm được một
thứ nữa: một đôi dây đeo quần cho chồng bà, ông Robert. Đôi dây đeo cuối cùng
của ông gần như không xài được nữa.
...............................
(*): Tôi nghe việc này trong một cuộc trò
chuyện riêng tư với bà Rosenberg (giờ là bà Paul Hoffman). Bà Roosevelt cũng có
mặt; sau này hai người phụ nữ so sánh với nhau và nhất trí về từng lời chính
xác mà ngài Tổng thống đã nói.
Trong các cuộc không kích, bà Erna
Saenger luôn lo lắng cho “Papa,” cách bà gọi ông chồng Konrad của mình. Ông
luôn ngoan cố không chịu đến hầm trú ẩn ở Zehlendorf, và như thường lệ, ông
đang ở ngoài. Ông Konrad đang bước chậm chạp về phía nhà hàng ưa thích của
mình, nhà hàng Alte Krug trên đường Königin-Luise Strasse. Chưa có cuộc không
kích nào có thể ngăn người cựu chiến binh 78 tuổi này đến gặp các đồng đội từ
thời Thế chiến thứ nhất vào thứ tư hàng tuần. Và hôm nay cũng không ngoại lệ.
Có một người Berlin đang thực sự tận
hưởng từng giây phút của cuộc tấn công. Cậu nhỏ Rudolf Reschke, đội chiếc mũ
lính cũ, chạy tới chạy lui từ cửa ra đường và ngược lại, cố tình trêu chọc mấy
chiếc máy bay tầm thấp ở Dahlem. Mỗi lần như thế, Rudolf lại vẫy tay với các
phi công. Một trong số họ, có lẽ đã thấy được trò hề của cậu, bèn sà xuống chỗ
Rudolf. Khi Rudolf chạy đi, một tràng súng nổ lia qua vỉa hè đằng sau. Đó chỉ
là một phần trong trò chơi của Rudolf. Trong chừng mực của cậu, chiến tranh là
điều vĩ đại nhất từng xảy ra trong 14 năm đời mình.
Máy bay hết đợt này tới đợt khác tấn
công vào thành phố. Ngay khi các phi đội này hết đạn, chúng lại tách ra bay về
phía Đông, để những đội khác đang lũ lượt kéo tới thay thế.
Cuộc không kích bất ngờ của Nga vẽ thêm
một nét khủng khiếp mới vào cuộc sống tại Berlin. Thương vong rất nặng nề.
Nhiều cư dân bị thương không phải vì trúng đạn của địch mà là vì hỏa lực đáp
trả của lực lượng phòng ngự của thành phố. Để hạ mấy chiếc máy bay ở dưới thấp
nằm trong tầm nhìn, các đội phòng không phải hạ nòng súng xuống gần ngang ngọn
cây. Kết quả là, thành phố bị bao phủ trong mảnh bom đạn bị nung đỏ rực. Những
mảnh bom chủ yếu xuất phát từ sáu tháp phòng không lớn nhô cao khỏi thành phố ở
Humboldthain, Friedrichshain, và từ sở thú Berlin.
Những pháo đài chịu bom khổng lồ này
được xây dựng vào năm 1941-1942, sau những cuộc tấn công đầu tiên của quân Đồng
minh vào thành phố. Mỗi tháp đều rất hùng vĩ, nhưng lớn nhất trong số đó là hệ
thống phức hợp phòng không xây gần khu nuôi chim của sở thú, dù xây tại đó
không hợp lý cho lắm. Đó là một tòa tháp đôi. Tháp nhỏ hơn, gọi là Tháp L, là
một trung tâm điều hành thông tin, có ăng ten radar chi chít. Cạnh đó là Tháp
G, những khẩu pháo trên tháp đang nhả đạn.
Tháp G rộng khủng khiếp. Nó chiếm diện
tích gần bằng một khối nhà trong thành phố và cao hơn 40m – ngang với một tòa
nhà 13 tầng. Các bức tường bê tông kiên cố dày hơn 2,5m, có một hàng lỗ hổng
cắt sâu bên hông, được đậy lại bằng các lá thép dày khoảng 7-10 cm . Trên mái, một ụ pháo
gồm 8 khẩu pháo 127 ly đang khạc đạn liên hồi, và tại bốn tháp pháo ở bốn góc,
các khẩu pháo phòng không tự động nhiều nòng có thể bắn liên thanh đang nã đạn
lên trời.
Tiếng ồn trong pháo đài thật không thể
chịu nổi. Ngoài tiếng bắn của các ụ pháo, còn có tiếng ầm ầm liên hồi của các
trục nâng đạn pháo đang vận chuyển dòng đạn pháo vô tận từ một kho đạn dược
dưới đất đến chỗ từng khẩu pháo. Tháp G không chỉ được thiết kế làm bệ bắn pháo
mà còn là một khu nhà kho, bệnh viện và nơi trú không kích cao 5 tầng. Tầng
thượng, nằm ngay dưới mấy ụ pháo, có một đơn vị đồn trú gồm 100 lính.
Bên dưới là một bệnh viện không quân có 95
giường bệnh, có phòng chụp X quang và hai phòng phẫu thuật đầy đủ trang thiết
bị. Bệnh viện có 6 bác sĩ, 20 y tá và khoảng 30 hộ lý.
Tầng kế tiếp, tầng ba, là một kho tàng.
Các nhà kho ở đây chứa những món đồ triển lãm đắt giá của các bảo tàng hàng đầu
Berlin. Tại đây có các bức tượng Pergamon nổi tiếng, thuộc bệ thờ thiêng vĩ đại
do Vua Eumenes II của Hy Lạp cổ đại xây dựng vào khoảng năm 180 TCN; các món đồ
cổ Ai Cập, Hy Lạp và La Mã đa dạng, gồm có tượng, phù điêu, chậu và bình; có
“Kho báu vàng của Priam,” một bộ sưu tập khổng lồ gồm các món vòng tay, dây
chuyền, hoa tai, bùa hộ mệnh, đồ trang trí và trang sức bằng vàng và bạc, do
nhà khảo cổ người Đức Heinrich Schliemann khai quật năm 1872 tại thành cổ Troy.
Còn có các tấm thảm thêu Gobelin vô giá, một số lớn tranh vẽ – trong đó có các
bức chân dung của họa sĩ Đức thế kỷ 19 Wilhelm Leibl – và bộ sưu tập tiền xu
khổng lồ của Kaiser Wilhelm.
Hai tầng dưới cùng của tháp là chỗ trú ẩn
không kích rộng mênh mông, có các kho thực phẩm và nhà bếp rộng lớn, và doanh trại
khẩn cấp của đài phát thanh Đức, Deutschlandsender.
Hoàn toàn tự túc, Tháp G có nguồn nước và
năng lượng riêng, và dễ dàng đủ chỗ cho 15.000 người khi có không kích. Hệ
thống này có lượng tiếp tế và đạn dược đầy đủ tới mức đơn vị quân sự đồn trú tại
đây tin là dù phần còn lại của Berlin có gặp phải chuyện gì thì tòa tháp sở thú
cũng có thể cầm cự được một năm nếu cần.
Cuộc không kích chấm dứt, cũng đột ngột
hệt như lúc mở đầu. Các khẩu pháo trên Tháp G từ từ ngừng lại. Khắp Berlin,
khói đen bốc lên cuồn cuộn từ các đám cháy do trúng đạn. Cuộc không kích chỉ
kéo dài hơn 20 phút. Các đường phố Berlin đông đúc trở lại, cũng nhanh như lúc
trở nên trống trơn. Ngoài các khu chợ và cửa hàng, người vừa rời khỏi hàng giờ
giận dữ cố đòi lại vị trí xếp hàng trước đó từ những người đang từ chối nhường
chỗ, cũng ngang ngạnh không kém họ.
Bên trong sở thú, một người đàn ông vội
vã ra ngoài ngay khi các khẩu pháo của Tháp G ngừng bắn. Sau mỗi lần không kích
ông đều lo lắng như thế, ông Heinrich Schwarz, 63 tuổi, chạy đến khu chuồng
chim, mang theo một xô thịt ngựa nhỏ.
Ông gọi, “Abu, Abu.” Một tiếng kêu kỳ
quặc phát ra từ bờ ao gần đó. Rồi một con chim bề ngoài kỳ dị, đến từ sông
Nile, có bộ lông màu xanh xám và cái mỏ to giống như một chiếc giày gỗ Hà Lan
lật úp, nhẹ nhàng bước ra khỏi mặt nước bằng đôi chân khẳng khiu như cây cà
kheo và bước tới chỗ ông. Ông Schwarz thấy nhẹ nhõm hẳn đi. Con cò Abu Markub
(Cò mỏ giày) quý hiếm vẫn an toàn.
Dù không có không kích đi nữa, càng ngày,
việc gặp mặt con cò hàng ngày càng mang tính thử thách hơn với ông Schwarz. Ông
giơ xô thịt ngựa ra. Ông nói, “Tao phải cho mày ăn cái này thôi. Tao có thể làm
gì được? Tao không còn cá nữa. Mà có muốn ăn không?” Con chim nhắm mắt lại. Ông
Schwarz buồn bã lắc đầu. Con cò mỏ giày ngày nào cũng từ chối kiểu đó. Nếu cứ
tiếp tục cứng đầu, chắc chắn con cò này sẽ chết. Nhưng ông Schwarz chẳng thể
làm được gì. Lon cá ngừ hộp cuối cùng đã hết và không thể tìm ra cá tươi ở
Berlin – ít nhất không phải dành cho sở thú Berlin.
Trong số lũ chim chóc còn lại, con cò mỏ
giày này là thú cưng của tổ trưởng tổ giữ chim Schwarz. Những con chim yêu
thích khác của ông đã mất từ lâu – con vẹt Arra 75 tuổi mà ông Schwarz đã dạy
nó nói “Papa,” đã được chuyển tới Saar hai năm trước vì lý do an toàn. Nguyên
cả lũ đà điểu châu Phi đã chết vì bị sốc trong các cuộc không kích. Chỉ có con
Abu còn ở lại – và nó đang từ từ chết đói. Ông Schwarz điên lên vì lo lắng. Ông
nói với vợ, bà Anna: “Nó càng ngày càng gầy trơ xương. Mỗi lần tôi cố cho nó
ăn, nó lại nhìn tôi như muốn nói, ‘Chắc chắn là ông nhầm rồi. Thứ này tôi đâu
ăn được.’”
Trong số 14.000 con thú, chim chóc, bò
sát và cá có tại sở thú vào năm 1939, giờ chỉ còn lại tổng cộng 1.600 con.
Trong sáu năm chiến tranh, sở thú này – trong đó có một khu thủy cung, một vườn
côn trùng, các chuồng voi và bò sát, nhà hàng, rạp chiếu phim, phòng khiêu vũ
và tòa nhà điều hành – đã bị trúng hơn một trăm quả bom có sức công phá cao.
Cuộc không kích khủng khiếp nhất là vào tháng 11/1943, khiến hàng trăm hàng
ngàn con vật chết đi. Không lâu sau đó, phần lớn những con thú còn sống sót đã
được sơ tán tới các sở thú khác trong nước. Kiếm đồ ăn cho hơn 1.600 con thú và
chim chóc còn lại càng ngày càng khó khăn giữa một Berlin đang theo chế độ khẩu
phần thực phẩm.
Nhu cầu của sở thú, dù là cho bầy thú đã
cắt giảm số lượng đi nữa, cũng rất lớn: không chỉ cần một lượng lớn thịt ngựa
và cá, mà còn cần 36 loại thực phẩm khác nhau, từ mì, gạo và lúa mì xay cho tới
hoa quả đóng hộp, mứt cam và ấu trùng kiến. Cỏ khô, rơm, cỏ ba lá và rau quả
tươi thì có khá nhiều, nhưng những thứ khác thì gần như không thể kiếm ra được.
Dù đã dùng các thực phẩm khác thay thế, nhưng từng con chim con thú đều chỉ còn
không đầy nửa khẩu phần ăn trước kia – và hãy nhìn xem.
Trong số chín con voi của sở thú, giờ chỉ
còn mỗi một con. Lớn da xám của nó chùng xuống thành những nếp nhăn lớn, giờ
Siam nóng tính tới mức những người giữ thú không dám vào trong chuồng nó. Rosa,
con hà mã bự con, còn thảm hơn, da nó khô lại và nứt nẻ, nhưng đứa con hai tuổi
của nó, Knautschke, cục cưng của mọi người, thì vẫn giữ được sự vui vẻ trẻ thơ.
Pongo, con khỉ đột nặng 240
kg , bình thường rất tốt tính, đã sụt hơn 22 kg , thường ngồi bất động
hàng giờ trong chuồng, rầu rĩ nhìn mọi người chăm chăm. Năm con sư tử (trong đó
có hai con sư tử con), mấy con gấu, ngựa vằn, linh dương, khỉ và mấy con ngựa
hoang quý hiếm, đều đang có dấu hiệu sụt cân.
Còn có một mối đe dọa thứ ba đối với sự
tồn tại của những con vật trong sở thú. Người giữ thú Walter Wendt thường xuyên
báo cáo rằng mấy con thú quý hiếm bị mất tích. Chỉ có một kết luận khả dĩ duy
nhất: một số người dân Berlin đã ăn trộm và xẻ thịt bọn thú để bổ sung vào khẩu
phần ăn èo uột của mình.
Giám đốc sở thú Lutz Heck đang đối mặt
với một tình thế tiến thoái lưỡng nan – một tình thế mà ngay cả tình bạn của
ông với Thống tướng Hermann Goering, hay là với ai khác đi nữa cũng không thể
giải quyết. Trong cuộc bao vây kéo dài, bọn chim và thú chắc chắn sẽ chết đói.
Tệ hơn, những con vật nguy hiểm – như sư tử, gấu, cáo, linh cẩu, mèo Tây Tạng
và con khỉ đầu chó đắt giá của sở thú, một con thú quý hiếm mà cá nhân ông Heck
đã đưa về từ Cameroon – có thể trốn thoát trong trận đánh. Ông Heck tự hỏi, khi
nào thì ông nên giết con khỉ đầu chó và năm con sư tử mà ông hết mực yêu quý
đây?
Gustav Riedel, người giữ chuồng sư tử,
từng cho hai con sư tử con Sultan và Bussy chỉ mấy tháng tuổi bú bình, đã quyết
định một chuyện: dù có được lệnh như thế nào, ông cũng sẽ cứu hai con sư tử
con. Không chỉ có ông Riedel thấy thế. Gần như người giữ thú nào cũng định cứu
con vật mình yêu quý. Tiến sĩ Katherina Heinroth, 74 tuổi, vợ của giám đốc thủy
cung, nơi bị trúng bom tan tành, đang chăm nuôi một con khỉ con tên là Pia
trong căn hộ của mình. Người giữ thú Robert Eberhard thì bị ám ảnh bởi việc bảo
vệ cho mấy con ngựa và ngựa vằn quý hiếm do mình chăm sóc. Mối bận tâm lớn nhất
của Walter Wendt là mười con bò rừng châu Âu – họ hàng gần với bò rừng châu Mỹ.
Chúng là niềm tự hào và hạnh phúc của ông. Ông đã dùng những thứ tối tân nhất
của công nghệ gây giống trong ba mươi năm qua để tạo ra lũ bò này. Chúng rất
độc đáo và đáng giá hơn một triệu mark – khoảng 250.000 dollar.
Đối với Heinrich Schwarz, người giữ
chuồng chim, ông không thể chịu nổi khi thấy con cò mỏ giày phải khốn khổ. Ông
đứng bên bờ ao, gọi con chim thêm lần nữa. Khi nó bước tới, ông Schwarz cúi
xuống và nhẹ nhàng bế nó lên. Từ nay trở đi nó sẽ sống – hoặc chết – trong
phòng tắm nhà ông.
***************
Tại phòng hòa nhạc Beethoven sơn đỏ và
vàng kim theo phong cách Baroque, tiếng cây gậy điều khiển gõ đánh “cách” khiến
khán phòng đột nhiên lặng hẳn đi. Nhạc trưởng Robert Heger giơ tay phải lên rồi
đứng yên. Ngoài kia, đâu đó giữa thành phố điêu tàn, tiếng còi xe cứu hỏa rền rĩ
xa xa. Heger cứ đứng yên như thế một hồi lâu. Rồi ông hạ cây gậy điều khiển
xuống và, được báo trước bằng bốn tiếng trống trầm thấp, bản Violin Concerto
của Beethoven vang lên êm dịu từ những nghệ sĩ của Dàn nhạc giao hưởng Berlin.
Khi bộ gỗ bắt đầu đoạn nhạc trầm lắng của mình bằng tiếng trống, nghệ sĩ solo
Gerhard Taschner chờ đợi, dán mắt vào người nhạc trưởng. Phần đông thính giả
đang phủ kín phòng hòa nhạc chưa bị hư hại nằm trên đường Köthenerstrasse đến
đây để nghe nghệ sĩ violin tài hoa mới 23 tuổi này, và khi những nốt nhạc trong
trẻo như tiếng chuông ngân thình lình vang lên từ cây violin của anh, rồi nhỏ
dần và mạnh mẽ vang lên lần nữa, họ lắng nghe trong mê ly ngây ngất. Một số
người có mặt tại buổi hòa nhạc chiều hôm đó, vào tuần cuối cùng của tháng ba
nhớ lại rằng, một số người dân Berlin đã quá xúc động trước màn biểu diễn của
Taschner mà âm thầm rơi lệ.
Trong suốt cuộc chiến tranh, dàn nhạc
giao hưởng gồm 105 người này đã giúp người dân Berlin có được sự thanh thản
hiếm hoi giữa nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, và được hoan nghênh nhiệt liệt. Dàn
nhạc trực thuộc Bộ Tuyên truyền của Joseph Goebbels, và các thành viên trong
đây đều được miễn quân dịch, vì đảng Nazi thấy Dàn nhạc giao hưởng này có ích
cho tinh thần người dân. Người dân Berlin hoàn toàn đồng ý về điều này. Đối với
những người yêu âm nhạc, Dàn nhạc giống như một liều thuốc an thần giúp họ
thoát khỏi chiến tranh và sự khủng khiếp của nó trong thoáng chốc.
Có một người luôn xúc động sâu sắc khi
nghe dàn nhạc chơi, đó là Bộ trưởng Bộ Vũ khí và Sản phẩm Chiến tranh của
Hitler, Albert Speer, giờ đang ngồi tại vị trí quen thuộc của mình giữa dàn
nhạc. Speer, người có văn hóa nhất trong bộ máy quyền lực của Nazi, hiếm khi bỏ
lỡ một buổi biểu diễn. Hơn bất cứ thứ gì khác, âm nhạc giúp ông xoa dịu ưu
phiền – và ông chưa bao giờ cần điều đó nhiều hơn là lúc này.
Bộ trưởng Speer đang phải đối mặt với vấn
đề lớn nhất trong sự nghiệp. Trong suốt cuộc chiến, bất chấp mọi thất bại có
thể hình dung được, ông vẫn luôn giữ nền công nghiệp Đức tiếp tục sản xuất.
Nhưng lâu nay các số liệu và kế hoạch của
ông đã cho thấy một điều không thể tránh khỏi: những ngày cuối cùng của nền Đệ
tam Quốc xã đang được đếm ngược. Khi quân Đồng minh tiến vào nước Đức ngày càng
sâu, ngài Speer vốn thực tế là vị bộ trưởng duy nhất trong nội các dám nói thật
với Hitler. Ông viết cho Quốc trưởng vào ngày 15/3/1945, “Chúng ta thua rồi.
Nếu chúng ta thua, thì đất nước này cũng sẽ diệt vong.”
Ngày 19/3 Hitler đưa ra một mệnh lệnh
điên rồ: nước Đức phải bị phá hủy hoàn toàn. Phải cho nổ hoặc thiêu cháy mọi
thứ - các nhà máy năng lượng, các công trình nước và khí đốt, đập nước và cửa
cống, cảng và kênh rạch, các hệ thống công nghiệp và mạng lưới điện, tất cả số
tàu thuyền và cầu, mọi chiếc tàu hỏa và các công trình liên lạc, mọi phương
tiện giao thông và các cửa hàng đủ loại, thậm chí là cả đường cao tốc quốc gia.
Speer đã khẩn khoản nài xin Hitler. Ông
đã đánh liều xin rút lại chính sách này. Nếu Hitler hủy diệt thành công các
công trình kiến trúc cùng với ngành công nghiệp và thương mại của Đức, ông ta
sẽ phá hủy kha khá công trình của chính Speer xây dựng nên – những cây cầu,
đường cao tốc rộng lớn, những tòa nhà cao tầng. Hơn bất kỳ ai khác, ông là
người có trách nhiệm giúp các công cụ chiến tranh khủng khiếp của Hitler không
bị hủy hoại toàn bộ. Nhưng ông còn có một mối bận tâm khác quan trọng hơn.
Speer nói với Hitler rằng, dù chế độ có gặp phải chuyện gì, “chúng ta cũng phải
làm mọi thứ có thể để duy trì một nền tảng cho đất nước này tồn tại, dù là theo
một cách nguyên thủy đi chăng nữa… Chúng ta không có quyền phá hủy những thứ có
thể ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của nhân dân…”
Hitler không mảy may suy suyển. Ông ta
đáp lại, “Không cần phải cân nhắc đến nền tảng của một sự tồn tại dù là nguyên
thủy nhất nữa. Ngược lại, tốt hơn là phá hết đi, và phải tự tay phá nó. Quốc
gia này đã cho thấy nó quá yếu đuối…” Bằng những lời đó, Hitler đã xóa sổ nhân
dân Đức. Như ông ta đã giải thích với Speer thì, “những kẻ còn lại sau trận
chiến đều là đồ thấp kém, vì những người tài thì đã hi sinh.”
Speer thấy kinh hoàng. Những con người đã
chiến đấu anh dũng vì lãnh tụ của mình có vẻ như giờ chẳng có ý nghĩa gì với
Quốc trưởng. Nhiều năm nay, Speer đã nhắm một mắt mở một mắt trước sự tàn bạo
trong các chiến dịch của Nazi, tin rằng bản thân ông không nằm trong số đó, ít
nhất về mặt trí tuệ. Giờ, ông bắt đầu nhận ra điều mà ông đã từ chối đối mặt
suốt mấy tháng nay. Như lời ông nói với tướng Alfred Jodl, “Hitler hoàn toàn
điên rồi… phải ngăn ông ta lại.”
Từ ngày 19-23/3, một chuỗi mệnh lệnh
“tiêu thổ” tuôn ra từ sở chỉ huy của Hitler, gửi đến các tỉnh trưởng và các tư
lệnh quân sự trên toàn nước Đức. Những ai chậm chạp làm theo thì bị đe dọa xử
bắn. Speer lập tức hành động. Biết rõ mình đang đặt mạng sống vào vòng nguy
hiểm, ông định ngăn chặn kế hoạch của Hitler, với sự hỗ trợ của một số ít bạn
bè là các quan chức quân sự cấp cao. Speer gọi điện thoại cho các nhà tư bản
công nghiệp, bay tới các đơn vị quân sự đồn trú, gặp gỡ các quan chức cấp tỉnh,
đâu đâu ông cũng nhấn mạnh là kế hoạch của Hitler sẽ đặt dấu chấm hết vĩnh viễn
cho nước Đức, dù người ông gặp có là những tay Nazi bảo thủ nhất.
Cân nhắc đến mục đích nghiêm trọng của
chiến dịch của ngài bộ trưởng, sự hiện diện của ông tại buổi hòa nhạc này có lẽ
khá là ngớ ngẩn – nếu không phải vì điều sau: trong số những thứ mà Speer cố
duy trì và bảo vệ, Dàn nhạc giao hưởng này thuộc nhóm ưu tiên hàng đầu.
Mấy tuần trước, tiến sĩ Gerhard von
Westermann, giám đốc dàn nhạc, đã nói với nghệ sĩ violin Taschner, vốn là nghệ
sĩ yêu thích của Speer, rằng hãy nhờ ngài bộ trưởng giúp bảo vệ dàn nhạc. Trên
lý thuyết, các nghệ sĩ được miễn quân dịch. Nhưng mắt thấy trận chiến ở Berlin
đang cận kề, tiến sĩ Von Westermann sợ là một ngày nào đó cả dàn nhạc sẽ được
lệnh sung vào Lực lượng Phòng vệ Địa phương, Volkssturm.
Mặc dù dàn nhạc do Bộ Tuyên truyền của
Joseph Goebbels điều hành, nhưng tiến sĩ Von Westermann biết là không thể hi
vọng gì vào sự giúp đỡ từ cơ quan đó.
Ông nói với người nghệ sĩ violin, “Cháu
phải giúp chúng ta. Goebbel đã bỏ quên chúng ta rồi… hãy tới chỗ Speer và nhờ
ông ấy giúp… tất cả chúng ta cùng quỳ gối cầu xin cháu.”
Taschner cự kỳ miễn cưỡng: hễ nói tới
chuyện lẩn trốn hay bỏ chạy đều bị xem là phản quốc và có thể bị cách chức hay
bỏ tù. Nhưng cuối cùng anh cũng đồng ý.
Khi gặp Speer, Taschner do dự mở đầu. Anh
nói:
“Thưa ngài Bộ trưởng, tôi muốn nói với
ngài về một vấn đề hơi nhạy cảm. Tôi hi vọng ngài sẽ không hiểu lầm… nhưng
những ngày này, có một số chuyện hơi khó nói…”
Nhìn anh với ánh mắt sắc bén, Speer
nhanh chóng trấn tĩnh anh, được khích lệ, Taschner bèn kể cảnh ngộ của dàn
nhạc. Ngài bộ trưởng chú tâm lắng nghe. Sau đó, Speer nói với Taschner rằng
tiến sĩ Von Westermann không cần phải lo lắng. Ông đã nghĩ ra một kế hoạch có
thể làm được nhiều hơn là giúp các nghệ sĩ không phải vào Volkssturm. Ông định
bí mật di tản toàn bộ 105 người trong dàn nhạc vào những giây phút tận cùng.
Giờ Speer đã thực hiện phần đầu trong kế hoạch.
105 người ngồi trên sân khấu của Phòng hòa nhạc Beethoven đang mặc comple đen
công sở, thay vì veston lễ phục như thường lệ, nhưng trong số thính giả ngồi
đây, chỉ có Speer là biết rõ lý do. Những bộ veston – cùng với những cây đàn
piano, đàn harp, những cây kèn Tuba danh tiếng và các bản nhạc của dàn nhạc –
đã được âm thầm chuyển đi khỏi thành phố bằng xe tải ba tuần trước. Số hàng hóa
quý giá này được giấu ở Plassenburg, gần Kulmbach, cách Berlin 240 dặm về phía
tây nam – ngay trên đường tiến quân của Mỹ.
Phần thứ hai trong kế hoạch của Speer –
cứu người – phức tạp hơn thế. Bất chấp các cuộc không kích dày đặc, cùng với
việc quân xâm lược đang cận kề, Bộ Tuyên truyền vẫn không hề cắt giảm lịch biểu
diễn của dàn nhạc. Các buổi hòa nhạc được lên lịch ba đến bốn lần một tuần,
giữa các cuộc không kích, kéo dài đến hết tháng 4, khi mùa biểu diễn chính thức
kết thúc.
Muốn di tản các nghệ sĩ trước thời điểm
đó là bất khả thi: Goebbels chắc chắc sẽ quy cho họ tội đào ngũ. Speer quyết
định sẽ di tản dàn nhạc về phía Tây; ông tuyệt đối không định để họ rơi vào tay
quân Nga. Nhưng kế hoạch của ông hoàn toàn phụ thuộc vào tốc độ hành quân của
phe Đồng minh phương Tây: ông hi vọng quân Anh-Mỹ sẽ giành được Berlin trước
mũi quân Nga.
Speer không định chờ tới khi quân Đồng
minh phương Tây vào được thành phố. Ngay khi quân Đồng minh còn cách thành phố
một khoảng bằng một tuyến xe buýt chạy đêm, ông sẽ ra lệnh di tản. Mấu chốt của
kế hoạch là tín hiệu di tản. Các nghệ sĩ sẽ phải rời đi cùng lúc, và vào lúc
trời tối. Điều đó có nghĩa là cuộc bỏ trốn phải bắt đầu ngay sau buổi hòa nhạc.
Vì lý do bảo mật, tín hiệu di tản cần được giữ kín càng lâu càng tốt. Speer đã
đưa ra một cách tuyệt diệu để báo động cho các nghệ sĩ: vào phút chót, nhạc
trưởng sẽ thông báo có thay đổi trong chương trình và dàn nhạc sẽ chơi một danh
sách đặc biệt do chính Speer đã chọn. Đó sẽ là ám hiệu cho các nghệ sĩ; ngay
sau buổi biễu diễn họ sẽ đi lên một đoàn xe buýt đang chờ bên ngoài Phòng hòa
nhạc Beethoven trong bóng tối.
Trong tay tiến sĩ Von Westermann là các
bản nhạc mà Speer đã chọn làm ám hiệu. Khi chuyên gia văn hóa của Speer đưa các
bản nhạc này đến chỗ ông, Von Westermann không giấu nổi ngạc nhiên. Ông hỏi
viên trợ lý của Speer:
“Tất nhiên là anh không lạ gì âm nhạc
của những giờ phút cuối cùng. Anh biết đó, chúng khắc họa cái chết của các vị
thần, sự hủy diệt điện Vallhalla và kết thúc của thế giới. Anh có chắc đây là
cái ngài Bộ trưởng đã chọn không?”
Không có lầm lẫn nào cả. Speer đã chọn bản
Die Götterdämmerung ¬của Wagner – Hoàng hôn của các vị thần – dành cho buổi hòa
nhạc cuối cùng của Dàn nhạc giao hưởng Berlin.
Von Westermann không biết rằng, trong
lựa chọn này có một gợi ý cho kế hoạch cuối cùng và cũng là kế hoạch tham vọng
nhất của Speer. Ngài bộ trưởng với quyết tâm cứu được càng nhiều phần của nước
Đức càng tốt, đã quyết định rẳng chỉ còn một con đường duy nhất. Suốt nhiều
tuần nay, Albert Speer, con người theo chủ nghĩa hoàn hảo này đang cố tìm cách
thích hợp để ám sát Hitler.
* * * *
* * * * *
Dọc theo mặt trận phía Đông, các đoàn
quân đông đảo của Nga đang tập trung lại, nhưng còn lâu họ mới sẵn sàng mở màn
cuộc tấn công vào Berlin. Các tư lệnh Liên Xô phát cáu vì trì hoãn. Sông Oder
là một rào chắn kiên cố và băng tan mùa xuân lại khá chậm: mặt sông vẫn bị băng
bao phủ một phần. Bên kia bờ là hàng phòng ngự của Đức – các boongke, bãi mìn,
hào chống tăng và các khẩu pháo vùi lấp bên trong. Mỗi ngày trôi qua quân Đức
lại mạnh thêm, và điều này khiến các tướng lĩnh Hồng quân lo lắng.
Không ai tha thiết muốn bắt đầu hơn Thượng
tướng Vasili Ivanovich Chuikov, 45 tuổi, tư lệnh của Tập đoàn quân Cận vệ 8 tài
ba, rất nổi tiếng ở Liên Xô vì đã từng chỉ huy phòng thủ ở Stalingrad. Chuikov
đổ lỗi việc trì hoãn cho phe Đồng minh phương Tây. Sau cuộc đột kích của Đức
tại cao nguyên Ardennes vào tháng 12, quân Anh và Mỹ đã yêu cầu Stalin giải tỏa
áp lực bằng cách đẩy nhanh tiến độ hành quân của Hồng quân từ phía Đông. Stalin
đã đồng ý và mở cuộc tấn công vào Ba Lan sớm hơn dự định. Sau này Chukov nói
ông tin là “nếu các đường dây liên lạc của chúng tôi ở hậu phương không quá dàn
trải như thế, chúng tôi đã có thể hạ được Berlin từ tháng hai.”
Nhưng quân Liên Xô vượt qua Ba Lan nhanh
tới mức khi các đoàn quân tới được sông Oder thì họ nhận ra mình chạy nhanh hơn
nguồn tiếp tế và đường dây liên lạc của mình. Cuộc tiến công buộc phải ngừng
lại, theo Chuikov, vì “chúng tôi cần đạn được, nhiên liệu và cầu phao dể vượt
sông Oder, dòng chảy nằm chắn trước Berlin.” Việc phải tái cơ cấu và chuẩn bị
đã cho quân Đức thời gian gần hai tháng để tổ chức lực lượng phòng thủ. Chuikov
cảm thấy thật cay đắng. Chờ đợi hàng ngày có nghĩa là đội Cận vệ của ông sẽ
chịu nhiều thương vong hơn khi cuộc tấn công bắt đầu.
Thượng tướng Mikhail Yefimovich Katukov,
tư lệnh Tập đoàn quân Xe tăng Cận vệ 1, cũng phấn khích tương tự, mong chờ cuộc
tấn công bắt đầu, nhưng ông lại thấy mừng trước sự trì hoãn này. Lính của ông
cần nghỉ ngơi, còn các đội bảo trì thì cần thời gian để sửa chữa các chiếc xe
thiết giáp.
Ông nói với một vị tư lệnh sư đoàn của
mình là tướng Đại tướng Getman, sau khi họ tới được sông Oder, “Tính theo đường
chim bay, đội xe tăng đã đi được khoảng 570 km .” Rồi ông tiếp, “Nhưng Andreya
Levrentevich à, công tơ met của họ cho thấy họ đã đi hơn 2.000 km . Nhưng con người
thì không có công tơ met và ai mà biết được có những hao mòn và hư hại gì trong
người mình chứ.”
Getman đồng tình. Ông tin chắc quân Đức
phải bị tiêu diệt và Berlin sẽ bị chiếm, nhưng ông cũng rất vui khi có cơ hội
để tái tổ chức. Ông nói với Katukov, “Đồng chí Thượng tướng, điều cơ bản trong
chiến tranh nói rằng hạ được các thành trấn không làm nên chiến thắng, mà là
phải tiêu diệt kẻ thù. Năm 1812, Napoleon đã quên mất điều đó. Ông ta đã thua
tại Moscow – mà Napoleon đâu phải tay lãnh đạo dạng vừa đâu.”
Các Sở chỉ huy khác trên toàn mặt trận
cũng có tình trạng giống thế. Dù mất kiên nhẫn vì trì hoãn, ai cũng hào hứng
khi có dịp nghỉ ngơi, vì trận đánh dữ dội sắp tới không phải là ảo ảnh. Các
nguyên soái Zhukov, Rokossovskii và Koniev đã nhận được những bản báo cáo rùng
rợn về những thứ họ có thể sẽ phải đương đầu. Các ước tính tình báo của họ cho
thấy có hơn một triệu lính Đức trong lực lượng phòng thủ và gần ba triệu dân có
thể giúp Berlin
chống địch. Nếu các báo cáo này là đúng. Hồng quân có thể bị áp đảo ba đánh
một.
Khi nào thì cuộc tấn công sẽ diễn ra?
Các vị nguyên soái vẫn chưa biết. Cụm tập đoàn quân đông đảo của Zhukov đã được
chọn để chiếm thành phố - nhưng điều này cũng có thể thay đổi. Cũng giống quân
Anh-Mỹ bên mặt trận phía tây đang chờ từ “Xuất phát” từ Eisenhower, các tư lệnh
Hồng quân cũng đang chờ lệnh từ Tư lệnh Tối cao của mình.
Điều khiến các nguyên soái lo lắng hơn
hết thảy là tiến độ của quân Anh-Mỹ từ sông Rhine .
Mỗi ngày trôi qua, bọn họ đang tới gần sông Elbe hơn – và tới gần Berlin . Nếu Moscow không
ra lệnh tấn công sớm, quân Anh và Mỹ có thể vào thành phố trước Hồng quân. Vậy
mà Josef Stalin vẫn chưa nói ra câu “Xuất phát.” Có vẻ chính ông ta cũng đang
chờ đợi.
* * *
* * * * * * * * * * * * * * *
IV-QUYẾT
ĐỊNH
1.
Một đoàn xe tải chở đồ tiếp tế của quân
đội nối đuôi nhau lăn bánh trên con đường chính nhỏ hẹp của thành phố nước
Pháp, bụi mù mịt. Những chiếc xe gầm rú xếp thành một hàng dài vô tận, chạy về
phía tây bắc trên hành trình chở hàng tới sông Rhine
và Mặt trận phía Tây.
Không chiếc nào được phép dừng lại; xung
quanh chỗ nào cũng có quân cảnh đứng để đảm bảo dòng xe luân chuyển thông suốt.
Đối với các tài xế, dù sao cũng chẳng có lý do gì để mà dừng lại cả. Đây chỉ là
một thành phố buồn chán khác của Pháp, với tòa thánh đường quen thuộc, chỉ là
một trạm kiểm soát khác trên đường cao tốc “Red Ball.” Họ không biết rằng vào
thời điểm này của cuộc chiến, Reims có lẽ là
thành phố quan trọng nhất châu Âu.
Trong nhiều thế kỷ, các trận chiến liên
tục nổ ra để giành giao lộ chiến lược ở miền đông bắc nước Pháp này. Tòa thánh
đường xây kiểu Gothic tráng lệ nhô cao ở trung tâm thành phố đã phải chịu vô số
trận thả bom, và được xây lại hết lần này tới lần khác. Mọi ông vua Pháp đều
được trao vương miện tại đây, từ Clovis vào
năm 496 đến vua Louis XVI năm 1774. Trong cuộc chiến này, thật may là thành phố
và biểu tượng của nó đã được chừa ra. Giờ đây, tòa thánh đường với hai ngọn
tháp đôi hùng vĩ đang phủ bóng xuống sở chỉ huy của một nhà lãnh đạo vĩ đại
khác. Tên ông là Dwight D. Eisenhower.
Bộ chỉ huy Tối cao Lực lượng Viễn chinh
Đồng minh nằm trên một con đường nhỏ gần ga tàu hỏa, đặt tại một tòa nhà ba
tầng đơn giản và hiện đại. Tòa nhà này là Collège Moderne et Technique, từng là
một trường kỹ thuật dành cho nam sinh.
Có dạng như chiếc hộp, bốn phía tòa nhà vây
quanh một cái sân trong, ban đầu ngôi trường xây bằng gạch đỏ này được thiết kế
cho hơn 1.500 học sinh theo học. Các thành viên trong ban tham mưu gọi nó là
“ngôi trường bé nhỏ màu đỏ.” Có lẽ là vì đối với yêu cầu của SHAEF, nó khá là nhỏ: bộ chỉ huy đã tăng gần gấp đôi
quân số kể từ năm 1944 và giờ có gần 1.200 sĩ quan và khoảng 4.000 biên chế.
Kết quả là ngôi trường chỉ có thể đáp ứng được ngài Tư lệnh Tối cao, các tướng
lĩnh tham mưu trực thuộc ông và phòng ban của họ. Số còn lại làm việc trong các
tòa nhà khác trong thành phố Reims.
Trong phòng học ở tầng hai mà ông dùng
làm văn phòng, ngài Đại tướng đã làm việc cả ngày không nghỉ. Căn phòng nhỏ và
khá đạm bạc. Hai ô cửa sổ nhìn ra đường được phủ rèm đen. Có mấy chiếc ghế mềm
đặt trên sàn nhà bằng gỗ sồi bóng loáng, thế là hết. Bàn làm việc của
Eisenhower, đặt trong một góc phòng thụt vào ở cuối phòng, nằm trên một cái bục
nhô cao hơn mặt sàn một chút – từng được giáo viên dùng làm bục giảng.
Trên bàn có một bộ văn phòng phẩm bằng da
màu xanh, một chiếc điện thoại nội bộ, mấy tấm ảnh lồng khung da của vợ con
ông, và hai chiếc điện thoại màu đen – một chiếc sử dụng thường ngày, chiếc còn
lại đặc biệt dùng để gọi đến Washington và London mà không bị nghe lén. Ngoài
ra còn có vài gạt tàn thuốc, vì ngài Tư lệnh Tối cao nghiện thuốc lá một cây,
một ngày ông hút hơn 60 điếu (*). Đằng sau bàn là cờ hiệu của ông và ở góc đối
diện là quốc kỳ Mỹ.
Chiều hôm qua, Eisenhower đã có một
chuyến bay ngắn tới Paris để dự một buổi họp báo. Tin tức lớn chính là chiến
thắng sông Rhine. Ngài Tư lệnh Tối cao thông báo rằng lực lượng phòng thủ chính
của địch ở phía tây đã tan tác. Dù Eisenhower nói với các phóng viên là ông
không muốn “xem như chiến tranh thế là xong, vì quân Đức sẽ đứng dậy và chiến
đấu ở bất cứ nơi đâu có thể,” theo ông thì Đức là “một kẻ thù đang bị thương.”
Trong buổi họp báo, có người nhắc tới Berlin. Một phóng viên hỏi ai sẽ tới được
Berlin trước, “người Nga hay là chúng ta?” Eisenhower trả lời rằng ông nghĩ
“nội phần lợi lộc không thôi cũng đủ để họ làm thế,” nhưng ông nhanh chóng nói
thêm là ông “không muốn dự đoán điều gì”; dù quân Nga “có quãng đường chạy ngắn
hơn” nhưng họ lại phải đối đầu với “cả đống quân Đức.”
Eisenhower qua đêm ở khách sạn Raphael;
rồi rời Paris khi bình minh vừa lên chưa bao lâu, ông bay về Reims. Lúc 7:45
sáng thì ông đã tới văn phòng và hội ý với Tham mưu trưởng của mình, Trung
tướng Walter Bedell Smith. Tướng Smith ngồi đợi Eisenhower, với mấy bức điện
mật mà chỉ có ngài Tư lệnh Tối cao mới có thể hồi âm nằm trong chiếc cặp hồ sơ
bằng da màu xanh có khóa bên trên.
Mấy bức điện được đóng dấu tối mật: “Chỉ
để Eisenhower xem.” Trong số đó có lời nhắn từ Montgomery, mong được cho phép
tiến tới sông Elbe và Berlin. Nhưng bức điện quan trọng nhất là từ cấp trên của
Eisenhower, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ, Đại tướng George C. Marshall. Thật
trùng hợp là cả hai bức điện của Marshall và Montgomery cùng đến chỗ SHAEF vào tối hôm qua, cách nhau có hai tiếng đồng
hồ - và cả hai đều có ảnh hưởng lớn đến Eisenhower. Vào thứ tư tuần này, ngày
28/3, hai bức điện này sẽ là chất xúc tác cho quyết định cuối cùng của ngài Tư
lệnh Tối cao về chiến lược mà ông sẽ áp dụng cho tới khi chiến tranh kết thúc.
Mấy tháng trước, Hội đồng Tham mưu trưởng
Anh-Mỹ đã thông báo nhiệm vụ của Eisenhower trong vai trò Tư lệnh Tối cao chỉ
bằng một câu: “Anh sẽ đặt chân lên châu Âu lục địa và liên kết với các quốc
gia khác trong Hội Quốc Liên (Tiền thân của Liên hợp quốc), thực thi các chiến
dịch nhắm vào trung tâm nước Đức và tiêu diệt các lực lượng vũ trang của nó.”
Ông đã làm rất tốt chỉ thị này.
Nhờ vào nhân cách, năng lực lãnh đạo và
tài ứng biến của mình, ông đã gắn kết binh lính của hơn 12 quốc gia thành lực
lượng mạnh mẽ nhất trong lịch sử. Ít ai có thể làm được như vậy đồng thời hạn
chế sự thù địch giữa các quốc gia xuống mức thấp nhất.
Eisenhower, 55 tuổi, không phù hợp với
khái niệm cổ điển của châu Âu về nhà lãnh đạo quân sự. Không giống như các
tướng lĩnh người Anh, ông không được đào tạo rằng xem các mục tiêu chính trị là
một phần của chiến lược quân sự. Dù có bằng thạc sĩ khoa học chính trị về thỏa
hiệp và xoa dịu, nhưng về mặt chính trị, Eisenhower lại không hề biết gì về
giao thiệp quốc tế - và ông tự hào về chuyện đó. Theo truyền thống quân sự của
Mỹ, ông được dạy rằng không bao giờ chiếm đoạt uy quyền tối thượng của nhân
dân. Tóm lại, ông hài lòng với việc chiến đấu và giành thắng lợi; chuyện chính
trị thì để cho các chính khách.
Thậm chí vào lúc này, tại thời điểm mấu
chốt của cuộc chiến, các mục tiêu của Eisenhower vẫn luôn như vậy, chỉ đơn
thuần mang tính quân sự. Ông chưa từng đưa ra một chỉ thị chính trị nào về nước
Đức sau chiến tranh, ông cũng không coi đó là trách nhiệm của mình. Sau này ông
nói, “Việc của tôi là chóng kết thúc chiến tranh… tiêu diệt quân đội Đức càng
nhanh càng tốt.”
.......................
(*): Năm 1948, vì nhịp tim tăng cao đột ngột,
các bác sĩ đã bảo ông bỏ thuốc. Từ đó Eisenhower không bao giờ hút thuốc nữa.
Eisenhower có đủ lý do để phấn khởi trước
tình hình diễn biến: các đoàn quân của ông đã vượt qua sông Rhine và tràn vào
vùng trung tâm nước Đức chỉ trong 21 ngày, nhanh hơn lịch trình dự kiến. Từng
bước tiến quân của họ đều là tiêu đề cho các bài báo, được thế giới Tự do hào
hứng dõi theo, giờ lại khiến vị Tư lệnh Tối cao phải đưa ra một loạt quyết định
chỉ huy phức tạp.
Tiến độ tấn công nhanh bất ngờ của quân
Anh-Mỹ làm cho một số bước chiến lược lập ra từ mấy tháng trước trở nên lạc
hậu. Eisenhower phải điều chỉnh kế hoạch của mình để thích ứng với tình hình
mới. Điều này có nghĩa là phải thay đổi và định nghĩa lại vai trì của một số
tập đoàn quân và tư lệnh của chúng – đặc biệt là Thống chế Montgomery và Cụm
tập đoàn quân 21 hùng mạnh của ông.
Bức điện mới nhất của Montgomery là một
lời thúc giục hành động. Vị Thống chế 58 tuổi không hề hỏi phải đánh trận này
thế nào; ông chỉ đòi quyền dẫn đầu cuộc tấn công. Trước khi phần lớn tư lệnh
kịp nhận ra các ngụ ý chính trị của một tình huống quân sự, Montgomery đã thấy
quân Đồng minh nhất thiết phải chiếm được Berlin – và ông tin là việc này nên
do Cụm tập đoàn quân 21 thực hiện.
Bức điện của ông được trình bày đúng như
tính cứng đầu cứng cổ của Montgomery, cho thấy rõ là vẫn còn có những khác biệt
quan trọng giữa ý kiến của ông và của Tư lệnh Tối cao. Theo tướng Smith và
những người khác nhớ lại, phản ứng của Eisenhower trước bức điện của ngài
nguyên soái “giống như một con ngựa có cái dằm dưới yên.”
Khác biệt mấu chốt về lý thuyết quân sự
giữa Montgomery và Eisenhower nằm liên quan tới cuộc tấn công đơn lẻ so với
chiến lược diện rộng. Suốt nhiều tháng nay, Montgomery và thượng cấp của ông,
Tham mưu trưởng Ban tham mưu Hoàng gia, Nguyên soái Sir Alan Brooke, rất kích
động muốn thực hiện một cuộc tấn công chớp nhoáng vào trung tâm nước Đức. Gần
như ngay sau khi Paris sụp đổ, trong khi quân Đức vẫn còn lộn xộn và tháo chạy
khỏi Pháp thì Montgomery đã trình kế hoạch của mình lên Eisenhower. Ông viết,
“Giờ ta đã đạt đến giai đoạn mà chỉ cần một cuộc tấn công thực sự mạnh vào Berlin
là đủ để chấm dứt cuộc chiến với Đức.”
Montgomery trình bày kế hoạch của mình
trong chín đoạn văn ngắn ngủn. Ông lấy lý do là quân Anh-Mỹ thiếu đồ tiếp tế và
đội bảo trì để không chia quân thành hai hướng tấn công song song vào Đức. Theo
quan điểm của ông, chỉ cần một mũi tấn công – là đội quân của ông – và nó sẽ
cần “mọi nguồn lực bảo trì… không hạn chế.” Các chiến dịch khác sẽ phải phù hợp
với nguồn hỗ trợ hậu cần còn lại. Montgomery cảnh báo, “nếu chúng ta cố tìm giải pháp thỏa hiệp và
chia cắt lực lượng bảo trì của mình khiến cho không mũi tấn công nào thực sự
mạnh, thì chỉ tổ kéo dài cuộc chiến mà thôi.”Thời gian là “yếu tố quan trọng
sống còn… nên cần có quyết định ngay.”
Kế hoạch này khá là giàu trí tưởng tượng,
và từ quan điểm của Montgomery, được tính toán thời gian chuẩn xác. Nó cũng
đánh dấu một điểm trái ngược lạ kỳ với cách tiếp cận trận đánh thông thường của
ngài nguyên soái. Sau này, Trung tướng Sir Frederick Morgan, giờ là Trợ lý Tham
mưu trưởng của Eisenhower kể lại: “Nói ngắn gọn thì, Montgomery xưa nay nổi
tiếng thận trọng, lại có ý tưởng là nếu được ưu tiên hơn các cụm tập đoàn quân
của Mỹ, ông ta có thể vượt qua quân địch, tiến đánh Berlin và nhanh chóng kết
thúc chiến tranh bằng trình tự ngắn nhất.”
Rõ ràng kế hoạch này là một canh bạc lớn.
Đưa hai cụm tập đoàn quân lớn có hơn 40 sư đoàn vào nước Đức từ phía đông bắc
trong một cuộc tấn công ồ ạt duy nhất có thể đem lại chiến thắng quyết định và
nhanh chóng – nhưng nó cũng có thể dẫn tới một thảm họa toàn diện và có lẽ
không thể xoay chuyển được. Đối với ngài Tư lệnh Tối cao, các rủi ro đó vượt xa
bất kỳ cơ hội thành công nào, và ông đã nói rõ trong một thông điệp lịch thiệp
gửi đến Montgomery. Eisenhower nói, “Tôi đồng ý với anh về quan điểm mở một
cuộc tấn công hoành tráng vào Berlin, nhưng tôi không cho là nó nên được khởi
xướng vào lúc này.”
Ông thấy rằng trước tiên cần mở các cảng
Le Havre và Antwerp “để chống đỡ được một cuộc tấn công quy mô lớn vào sâu bên
trong nước Đức.” Hơn nữa, Eisenhower còn nói, “không cần tái phân phối các
nguồn lực hiện có của chúng ta cũng đã đủ để thực hiện một cuộc tấn công vào
Berlin rồi.” Chiến lược của ngài Tư lệnh Tối cao là tiến vào Đức trên diện
rộng, vượt sông Rhine rồi chiếm thung lũng sông Ruhr, nơi có vùng công nghiệp
phát triển, trước khi tấn công thủ đô.
Cuộc trao đổi đó đã diễn ra vào tuần đầu
tiên của tháng 9/1944. Một tuần sau, trong một thông điệp gửi đến các vị tư
lệnh của ba cụm tập đoàn quân là Montgomery, Bradley và Devers, Eisenhower nói
cụ thể hơn về kế hoạch của mình: “Rõ ràng Berlin là mục tiêu chính và nó được
quân địch tập trung lực lượng để bảo vệ. Tôi không nghi ngờ gì là chúng ta cần
tập trung mọi sức lực vào một cuộc tấn công chớp nhoáng vào Berlin. Tuy nhiên,
chiến lược của chúng ta sẽ phải phối hợp với quân Nga, nên chúng ta cũng phải
cân nhắc đến các mục tiêu thay thế.”
Các mục tiêu khả dĩ, theo như Eisenhower
thấy thế, khá đa dạng: các cảng miền bắc nước Đức (“có thể chiếm đóng chúng để
bảo vệ bên cánh của cuộc tấn công vào Berlin”); các trung tâm công nghiệp và
liên lạc quan trọng ở Hanover, Brunswick, Leipzig và Dresden (“có lẽ quân Đức
sẽ trấn giữ ở đây vì chúng che chắn cho Berlin”); và cuối cùng là vùng
Nuremberg-Munich ở miền nam, cũng cần phải chiếm (“để cắt đường lui của địch
tới Italy và bán đảo Balkan”). Do đó, ngài Tư lệnh Tối cao cảnh báo, “Chúng ta
phải chuẩn bị cho một hoặc một số trường hợp sau:
“A. Chỉ đạo lực lượng của các cụm tập
đoàn quân phía bắc và trung tâm tiến về Berlin theo trục Ruhr-Hanover-Berlin
hoặc Frankfurt-Leipzig-Berlin hoặc cả hai.
“B. Nếu Nga tới Berlin trước chúng ta,
cụm tập đoàn quân phía bắc sẽ chiếm vùng Hanover, còn quân ở Hamburg của Cụm
tập đoàn quân Trung tâm… sẽ chiếm một phần hoặc toàn bộ vùng Leipzig-Dresden
tùy vào tình hình tiến quân của Nga.
“C. Trong bất kỳ trường hợp nào, cụm tập
đoàn quân phía nam cũng sẽ chiếm Augsburg-Munich. Vùng Nuremberg-Regensburg sẽ
do cụm tập đoàn quân trung tâm hoặc phía nam chiếm… tùy theo tình hình lúc đó.”
Eisenhower tóm tắt chiến lược của mình
bằng mấy lời sau: “Nói đơn giản thì, tôi muốn tiến về Berlin bằng tuyến đường
nhanh nhất, trực tiếp nhất, các lực lượng khác sẽ hỗ trợ cho liên quân Anh-Mỹ,
đi qua các trung tâm chủ chốt và chiếm các vùng hai bên cánh, trong một chiến dịch
có sự phối hợp với nhau.” Ông còn nói thêm, nhưng phải chờ đợi cái đã, vì “vào
giai đoạn này thì không thể nói trước được thời gian hay quân lực của các cuộc
tiến công trên.”
Dù chiến lược tấn công trên diện rộng có
đúng hay sai, Eisenhower cũng là Tư lệnh Tối cao và Montgomery phải chấp hành
mệnh lệnh của ông. Nhưng Montgomery cực kỳ thất vọng. Với người Anh, ông ta là
quân nhân danh tiếng nhất kể từ trận Wellington; còn đối với lính của mình,
Monty là một huyền thoại trong thời của ông.
Rất
nhiều người Anh coi ông là vị tư lệnh chiến trường giàu kinh nghiệm nhất tại
châu Âu (ông cũng biết rõ điều này), và việc kế hoạch mà ông tin là có thể kết
thúc chiến tranh trong vòng ba tháng bị bác bỏ đã khiến Montgomery buồn phiền
sâu sắc (*). Cuộc tranh cãi về chiến lược vào mùa thu năm 1944 đã mở ra sự rạn
nứt không bao giờ hàn gắn được hoàn toàn giữa hai vị tư lệnh.
Trong bảy tháng sau đó, Eisenhower không
hề thay đổi ý định về một cuộc tấn công trên diện rộng. Montgomery cũng không ngừng
bày tỏ ý kiến rằng nên thắng cuộc chiến này bằng cách nào, tại đâu và bởi lực
lượng nào.
Sau này, Tham mưu trưởng của ông là Thiếu
tướng Sir Francis de Guingand viết rằng, “Montgomery… cảm thấy dù có dẫn tới
hậu quả gì cũng đáng, miễn là quan điểm của ông thắng thế: thực sự thì, kết
thúc chiến tranh xứng đáng với bất kỳ giá nào.” Một trong những hậu quả mà
Montgomery đem lại khá là lớn: Tham mưu trưởng Ban tham mưu Hoàng gia, Thống
chế Brooke, thấy Eisen-hower là người mập mờ và thiếu quyết đoán. Ông từng tóm
lược rằng ngài Tư lệnh Tối cao là một người “có nhân cách thu hút, nhưng đồng
thời lại có đầu óc rất, rất hạn chế về quan điểm chiến lược.”
Eisenhower biết rõ là Cục Chiến tranh và
sở chỉ huy của Montgomery đã phát ra nhiều lời bình luận cay đắng. Nhưng dù vụ
xầm xì về chính sách chiến lược của ông có làm ông tổn thương, thì Eisenhower
cũng không để lộ điều đó. Và ông chẳng bao giờ trả đũa.
Ngay cả khi Brooke và Montgomery biện hộ
cho việc chỉ định một vị “Tư lệnh các lực lượng trên bộ” – một Thống chế nằm
kẹp giữa Eisenhower và các Cụm tập đoàn quân của ông – thì vị Tư lệnh Tối cao
này cũng không hề nổi giận. Cuối cùng, sau nhiều tháng “ngồi yên không hé răng”
– theo cách nói của Đại tướng Omar Bradley – thì Eisenhower cũng nổi điên. Mọi
chuyện bùng nổ sau khi quân Đức tấn công qua cao nguyên Ardennes.
Vì mũi tiến công của địch đã chia cắt mặt
trận của quân Anh-Mỹ, Eisenhower buộc phải dồn toàn bộ quân vào đầu phía bắc do
Montgomery chỉ huy. Các cánh quân này gồm hai phần ba Cụm Tập đoàn quân 12 của
Đại tướng Bradley – là Tập đoàn quân Hoa Kỳ 1 và 9.
Sau khi đẩy lui được quân Đức,
Montgomery đã mở một cuộc họp báo đặc biệt, trong đó nhấn mạnh rằng gần như một
tay ông đã giải cứu quân Mỹ khỏi thảm họa. Ngài Thống chế tuyên bố ông đã dọn
dẹp sạch sẽ chiến trường, và đã “ngăn chặn… đuổi cổ… và tiêu diệt” quân địch.
“Trận chiến khá thú vị. Tôi nghĩ nó có thể là một trong những trận khó khăn
nhất… mà tôi từng đánh.” Montgomery nói ông đã “dùng mọi lực lượng khả dĩ của các
cụm tập đoàn quân của Anh… do đó, mọi người có thể hình dung ra cảnh các cánh
quân Anh chiến đấu hai bên quân Mỹ, vốn vừa chịu một cú đòn nặng.”
Thực sự thì Montgomery đã chỉ huy cuộc
phản công chính từ hướng bắc và hướng đông một cách oai hùng. Nhưng tại buổi
họp báo của ngài Thống chế, nói như Eisenhower là “không may là ông ta đã tạo
nên cái ấn tượng rằng mình là vị cứu tinh của quân Mỹ.” Mont-gomery đã ỉm đi
vai trò của tướng Bradley, Patton và các tư lệnh khác của Mỹ, hay trong trận
đánh, cứ mỗi lính Anh chiến đấu thì lại có ba mươi đến bốn mươi lính Mỹ tham
gia. Quan trọng hơn hết, ông cũng lờ tịt rằng mỗi thương vong của lính Anh
tương ứng với bốn mươi đến sáu mươi lính Mỹ ngã xuống (**).
Cơ quan tuyên truyền của Đức nhanh chóng
khiến mọi chuyện tồi tệ hơn. Đài phát thanh của địch thổi phồng và bóp méo buổi
họp báo, rồi phát thẳng về mặt trận quân Mỹ; nhờ đó mà nhiều người Mỹ được nghe
vụ này lần đầu.
Ngay sau buổi họp báo và vụ lùm xùm mà nó
gây nên, cuộc tranh cãi ngày trước về một vị tư lệnh các lực lượng trên bộ lại
dấy lên, lần này do báo giới Anh tích cực phát động chiến dịch ủng hộ. Tướng
Bradley nổi điên. Ông tuyên bố mình sẽ từ chức nếu ngài Thống chế được bổ nhiệm
làm Tư lệnh các lực lượng trên bộ. Ông nói với Eisenhower “Sau những gì đã xảy
ra, nếu Montgomery được giao trọng trách đó… anh cứ đuổi tôi về nhà cho xong…
tôi không thể chịu nổi chuyện này.” Tướng Patton nói với tướng Bradley: “Tôi
cũng sẽ đi với anh.”
Đây là vết rạn nứt chưa từng có trong nội
bộ quân Anh-Mỹ. Khi chiến dịch “tuyên truyền cho Montgomery” làm nó trầm trọng
thêm – một chiến dịch mà một số người Mỹ cho là bắt nguồn trực tiếp từ Sở chỉ
huy của Montgomery – thì cuối cùng vị Tư lệnh Tối cao cũng thấy tình hình đã
đến mức không thể chịu đựng nổi nữa. Ông quyết định kết thúc cuộc cãi nhau một
lần cho xong: ông sẽ cách chức Montgomery bằng cách đưa toàn bộ vấn đề ra trước
Hội đồng tham mưu trưởng Anh-Mỹ.
Vào lúc đó, Tham mưu trưởng của
Montgomery là Đại tướng De Guingand biết chuyện tai họa đang treo lơ lửng trên
đầu và vội vàng tìm cách cứu vãn tình đoàn kết Anh-Mỹ. Ông bay đến SHAEF và gặp
Tư lệnh Tối cao. Sau này, De Guingand nhớ lại, “Ông ấy đưa tôi xem bức điện ông
ấy định gửi cho Washington. Tôi xem mà choáng.” Với sự hỗ trợ của Đại tướng
Bedell Smith, ông đã thuyết phục Eisenhower hoãn bức điện thêm 24 tiếng đồng
hồ. Eisen-hower đồng ý cực kỳ miễn cưỡng.
Quay lại sở chỉ huy của Montgomery, De
Guingand nói thẳng mọi chuyện với ngài Thống chế. De Guingand nói, “Tôi bảo
Monty là tôi đã đọc bức điện của Ike, nó viết rằng ‘Hoặc tôi hoặc Monty.’”
Montgomery bị sốc.
Tướng De Guingand chưa bao giờ thấy ông
“cô đơn và xuống tinh thần đến thế.” Ông nhìn vị Tham mưu trưởng của mình và
lặng lẽ nói, “Freddie, anh nghĩ tôi nên làm gì đây?” De Guingand đã soạn sẵn
một bức điện. Dựa vào đó, Montgomery gửi cho Eisenhower một thông điệp đậm chất
quân nhân, trong đó nói rõ là ông không hề có ý bất tuân. Ông nói, “Dù quyết
định của ngài là gì, ngài cũng có thể tin ở tôi một trăm phần trăm. Cuối bức
điện ký là “Người thuộc cấp tận tụy của ngài, Monty.” (***)
.....................................
(*): Niềm kiêu hãnh của ông được phục hồi
phần nào không lâu sau việc này, khi người Anh cho thấy họ rất tin tưởng
Montgomery và các chính sách của ông bằng cách chỉ định ông làm Thống chế Lục
quân. Đối với con người từng lật ngược thế cờ cho quân Anh tại sa mạc và đánh
đuổi Rommel ra khỏi Bắc Phi thì vinh dự này đến quá chậm.
(**): Số liệu do Winston Churchill cung
cấp vào ngày 18/1/1945, trong một buổi diễn thuyết trước Viện Thứ dân. Sợ tình
hữu nghị giữa hai bên sụp đổ, ông đã thông báo rằng “quân Mỹ đã đảm đương phần
lớn cuộc chiến” ở cao nguyên Ardennes, gánh chịu tổn thất “tương đương với cả
hai bên của trận Gettysburg cộng lại.” Sau đó, có thể xem như một cú tát thẳng
vào mặt Montgomery và những người ủng hộ ông, Churchill cảnh báo quân Anh không
được “để bản thân bị bọn người gây bất hòa lợi dụng.”
(***): Vào năm 1963, Montgomery nói với
tác giả “Đáng lẽ tôi không nên tổ chức buổi họp báo đó. Lúc đó, người Mỹ có vẻ
quá nhạy cảm và nhiều tướng lĩnh Mỹ không ưa tôi, đến mức tôi nói gì cũng bị
coi là sai.” Sau này Eisenhower nói, “Montgomery tin rằng việc chỉ định một tư
lệnh chiến trường là vấn đề cốt yếu. Ông ta thậm chí còn đề nghị sẽ phục vụ
dưới quyền tướng Bradley nếu tôi chịu chấp thuận.”
Chuyện này kết thúc ở đó – ít nhất thì
tạm thời là thế. Nhưng giờ đây, ở sở chỉ huy ở Reims, vào ngày quyết định, ngày
28/3/1945, Eisenhower lại nghe điệp khúc cũ vang lên rõ mồn một: không phải
việc ủng hộ chỉ định tư lệnh các lực lượng trên bộ nữa, mà là một vấn đề cũ
hơn, căn bản hơn – dùng một mũi tiến công hay dàn trải mặt trận trên diện rộng.
Không hề hỏi ý Eisenhower, Montgomery đã “ra lệnh cho các tư lệnh hành quân về
hướng Đông”, theo lời Montgomery, và tính mở một cuộc tấn công mạnh mẽ về hướng
sông Elbe và Berlin, rõ ràng là định tiến vào thủ đô trong vinh quang.
Thực sự thì khi tiến hành cuộc tiến công
chủ lực vào phía bắc vùng Rhur, Montgomery đã làm đúng theo chiến lược được
chấp thuận trước đó – kế hoạch của Eisenhower, được Hội đồng Tham mưu trưởng ở
Malta chấp thuận hồi tháng giêng. Những gì Montgomery đang làm đơn giản là mở
rộng cuộc tiến công đó một cách hợp lý – một bước đi giúp ông tới được Berlin. Dù
hành động có hơi vội vàng, sự phấn khích của ông cũng là dễ hiểu. Cũng giống
Winston Churchill và Thống chế Brooke, Montgomery tin là thời gian sắp hết,
rằng cuộc chiến sẽ thất bại về mặt chính trị nếu như quân Anh-Mỹ tới Berlin sau
quân Nga.
Mặt khác, ngài Tư lệnh Tối cao lại không
hề nhận được chỉ thị gì từ cấp trên của ông ở Washington về cảm giác cấp bách
của người Anh. Và dù ông là Tư lệnh Lực lượng Đồng minh, Eisenhower vẫn phải
nhận lệnh từ Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ. Khi không có giải thích gì về chính sách từ
Washington, mục tiêu của ông vẫn như cũ: đánh bại Đức và tiêu diệt các lực lực
vũ trang của nó. Và giờ ông thấy cách nhanh nhất để đạt được mục tiêu quân sự
này là thay đổi triệt để kế hoạch mà ông đã trình bày trước Hội đồng Tham mưu trưởng
hồi tháng giêng.
Ban đầu, theo kế hoạch của Eisenhower,
Cụm Tập đoàn quân 12 của Đại tướng Bradley ở trung tâm sẽ có vai trò khá hạn
chế, hỗ trợ cánh quân chính của Mont-gomery ở miền bắc. Nhưng ai mà biết trước
được các tập đoàn quân của tướng Bradley lại thành công rực rỡ kể từ đầu tháng
ba? Năng lực lãnh đạo tài tình và vận may đã dẫn đến những kết quả chói lọi đó.
Thậm chí từ trước cuộc tấn công mạnh mẽ
của Montgomery vào sông Rhine, Tập đoàn quân 1 Hoa Kỳ đã chiếm được cầu Remagen
và nhanh chóng vượt sông. Xa hơn về phía nam, Tập đoàn quân 3 của tướng Patton
vượt sông Rhine gần như không có trở ngại gì. Kể từ đó, quân của tướng Bradley
tiến như vũ bão, giành hết chiến thắng này đến chiến thắng khác. Thành quả của
họ đã thổi bùng lên trí tưởng tượng của công chúng Mỹ, và giờ tướng Bradley
đang tìm một vai trò lớn hơn trong chiến dịch cuối cùng. Về mặt này, Bradley và
các tướng lĩnh của ông cũng không khác Montgomery là mấy: họ cũng muốn có uy
danh và vinh quang được kết thúc chiến tranh – và nếu có cơ hội thì chiếm
Berlin.
Ngay lúc này, Eisenhower đã hứa sẽ phát
động một cuộc tiến công lớn về phía Đông, nhưng ông vẫn chưa xác định cánh quân
nào – hay là những cánh quân nào – sẽ đảm nhiệm cuộc tiến công cuối cùng. Giờ,
trước khi ra quyết định, Eisenhower phải cân nhắc đến nhiều yếu tố, tất cả đều
có ảnh hưởng đến kế hoạch tấn công cuối cùng của ông.
Đầu tiên là tốc độ tiến quân nhanh không
ngờ của quân Nga về hướng sông Oder. Vào lúc ngài Tư lệnh Tối cao lập kế hoạch
cho cuộc tấn công sông Rhine và cuộc tấn công của Montgomery vào phía bắc vùng
Ruhr, có vẻ như quân Nga sẽ phải mất nhiều tháng liền mới có thể vượt qua được
khoảng cách xa xôi dẫn tới Berlin.
Nhưng giờ Hồng quân chỉ cách thành phố
không đầy 38 dặm – trong khi quân Anh-Mỹ vẫn còn cách hơn 200 dặm nữa. Chừng
nào thì quân Nga sẽ phát động tấn công? Bọn họ định sắp đặt tấn công ở đâu và
như thế nào – Phương diện quân của Zhukov ở trung tâm, đối diện Berlin, hay là
cả ba Phương diện quân đồng loạt tấn công? Ước tính của quân Nga về sức mạnh
của quân Đức kháng cự là bao nhiêu, và Hồng quân sẽ mất bao lâu để vượt qua
hàng phòng ngự đó? Và sau khi vượt sông Oder, quân Liên Xô sẽ mất bao lâu mới
tới được Berlin rồi chiếm lấy nó? Vị Tư lệnh Tối cao không thể trả lời được
những câu hỏi này, mà tất cả đều cực kỳ quan trọng trong kế hoạch của ông.
Sự thật đơn giản là Eisenhower hầu như
chẳng biết tí gì về ý định của Hồng quân. Không hề có sự phối hợp quân sự hàng
ngày giữa các tư lệnh Anh-Mỹ và Liên Xô ngoài chiến trường. Đến cả một đường
liên lạc vô tuyến trực tiếp giữa SHAEF và phái bộ liên lạc quân sự Anh-Mỹ tại
Moscow cũng không có. Mọi liên lạc giữa hai mặt trận đều trao đổi thông qua các
kênh ngoại giao thông thường – một phương pháp hoàn toàn không phù hợp vào lúc
này, tình hình diễn biến quá nhanh. Dù Eisenhower biết được sức mạnh ước chừng
của quân Nga, ông không biết thứ tự chiến đấu của họ.
Ngoài các dữ liệu thỉnh thoảng có được
từ nhiều nguồn tin tình báo khác nhau – phần lớn có độ chính xác không cao (*)
- nguồn tin chính của SHAEF về các bước tiến của quân Nga đến từ các thông cáo
của Liên Xô do đài BBC phát sóng mỗi tối.
Tuy nhiên, có một điều hiển hiện rõ ràng:
Hồng quân sắp tới được Berlin. Quân Nga đã tới gần như vậy rồi, liệu ngài Tư
lệnh Tối cao có nên cố giành thành phố nữa không?
Vấn đề này có rất nhiều phương diện. Quân
Nga đã dừng ở sông Oder hơn hai tháng, và trừ một vài bước tiến cục bộ cùng các
hoạt động tuần tra thì có vẻ như họ đã hoàn toàn ngừng lại. Các kênh tiếp tế và
liên lạc của họ hẳn đang bị kéo căng hết mức, và có lẽ họ sẽ không thể tấn công
cho tới chừng nào băng tan vào mùa xuân. Trong khi đó, các cánh quân phương Tây
lại di chuyển với tốc độ kinh hoàng, đang tiến ngày càng sâu vào trong lòng
nước Đức. Trung bình có lúc họ tiến được hơn 35 dặm một ngày. Ngài Tư lệnh Tối
cao không định bỏ cuộc, dù kế hoạch của quân Nga có là gì đi nữa. Nhưng ông hơi
do dự khi bước vào cuộc đua giành Berlin với Nga. Đó có thể không chỉ là sự bẽ
mặt của bên thua cuộc mà còn là tai họa cho cả hai bên, nếu các đoàn quân đang
lao tới bất ngờ đụng độ.
Trước đó quân Nga từng có một cuộc xung
đột kinh khủng, khi Nga vẫn còn là đồng minh trên hiệp ước với Đức. Năm 1939,
sau cuộc tấn công chớp nhoáng không báo trước của Hitler vào Ba Lan, để rồi sau
đó Đức và Nga chia đôi đất nước này, quân Đức tiến về phía đông đã đụng độ Hồng
quân đang tiến về phía Tây: đường phân ranh giới vẫn chưa được thiết lập. Kết
quả dẫn tới một trận chiến nhỏ, và cả hai bên đều chịu thương vong nặng nề. Giờ
một cuộc xung đột tương tự có thể xảy ra, nhưng là giữa quân Anh-Mỹ với quân
Nga – và ở quy mô lớn hơn thế nhiều. Đó quả là một cơn ác mộng. Các cuộc chiến
đã dần bắt đầu. Rõ ràng cần phối hợp từng bước với Nga, và phải nhanh lên mới
được.
...................................
(*): Ví dụ như, vào ngày 11/3, tình báo
của SHAEF báo rằng các mũi nhọn của Zhukov đã tới được Seelow, phía tây sông
Oder và chỉ còn cách Berlin có 28 dặm. Khi tác giả phỏng vấn các quan chức quốc
phòng của Liên Xô tại Moscow năm 1963, ông mới biết được là tới tận ngày 17/4
Zhukov mới tới được Seelow, trung tâm hệ thống phòng ngự của Đức tại sông Oder.
Hơn nữa, có một vấn đề chiến thuật cứ
luẩn quẩn trong đầu Eisenhower như một đám mây dông. Trong căn phòng bản đồ lớn
gần văn phòng ông, có một tấm bản đồ tình báo được vẽ cẩn thận, mang cái tên
huyền thoại “Pháo đài quốc gia.” Trên đó là một vùng núi nằm phía nam Munich
và trải dài trên vùng núi xứ Bavaria, phía tây nước Áo và phía bắc Italy. Về
tổng thể, nó có diện tích khoảng 20.000 dặm vuông. Trung tâm nơi đó là
Berchtesgaden. Ở vùng Obersalzberg gần đó – bao quanh bởi các ngọn núi cao từ
2.100 đến 2.700 m ,
mỗi ngọn đều có những khẩu súng phòng không đã ngụy trang nằm rải rác – là chỗ
trú ẩn trên đỉnh núi của Hitler, “Eagle’s Nest.”
Các chấm đỏ phủ kín bề mặt bản đồ, mỗi
cái là một ký hiệu quân sự biểu thị một dạng bố phòng nào đó. Có các kho quân
sự tạm thời chứa hóa chất, xăng dầu, đạn dược và lương thực; các trạm năng
lượng và vô tuyến; các điểm tập trung quân, trại lính và sở chỉ huy; các đường
cứ điểm hình zigzag, từ những công sự bê tông ngầm cho tới các boongke bê tông
to lớn; thậm chí có cả các nhà máy ngầm chống bom.
Giờ cứ mỗi ngày qua lại có thêm nhiều ký
hiệu trên tấm bản đồ, và dù tất cả số đó đều có nhãn “chưa xác định,” đối với
SHAEF, hệ thống phòng thủ kiên cố ở vùng núi này là mối đe dọa lớn nhất còn lại
trong cuộc chiến tại châu Âu. Khu vực này có khi được gọi là Alpenfestung, Pháo
đài Alpine hay “Pháo đài quốc gia.”
Theo tình báo, trong thành lũy hiểm trở
này, bọn Nazi, với Hitler là đầu lĩnh, định chiến đấu tới cùng. Thành trì vững
chãi này được coi là gần như bất khả xâm phạm và lực lượng cố thủ cuồng tín bên
trong có thể cầm cự được chừng hai năm. Có một khía cạnh khác thậm chí còn đáng
sợ hơn; là các lực lượng kiểu đặc công được huấn luyện đặc biệt – Goebbels gọi
bọn họ là “Người sói” – có thể xông ra từ pháo đài trên núi và gây nguy hiểm
cho các đội quân chiếm đóng.
Liệu Alpenfestung có tồn tại thật không?
Có vẻ như giới chức quân sự ở Washington nghĩ vậy. Thông tin được tích lũy từ
hồi tháng 9. Năm 1944, trong một bài nghiên cứu chung về miền nam nước Đức, Ban
Chiến lược (OSS) đã dự đoán rằng khi chiến tranh gần đi vào hồi kết, quân Nazi
có thể sẽ di tản các cơ quan chính phủ nhất định về Bavaria. Từ đó, các báo cáo
và đánh giá tình báo liên tục đổ về, từ chiến trường, từ các nước trung lập,
thậm chí từ các nguồn tin nằm trong nước Đức. Phần lớn các đánh giá này khá
thận trọng, nhưng cũng có một số hơi bị ảo tưởng.
Ngày 12/2/1945, Bộ Chiến tranh đưa ra một
tài liệu phản gián nghiêm trọng, nói rằng: “Các báo cáo về cứ điểm cuối cùng
của Nazi có thể nằm ở vùng núi Alps ở Bavaria chưa được coi trọng đúng mức… Câu
chuyện thần thoại của bọn Nazi, vốn rất quan trọng khi phải đối phó với những
kẻ như Hitler, cần bị tiêu diệt triệt để (*). Cần chú ý là Berchtesgaden, nơi
có thể là đại bản doanh, nằm ở khu lăng mộ của Barbarossa, kẻ đã trở về từ cõi
chết theo thần thoại Đức.” (**) Bản thông báo giục các tư lệnh chiến trường
phải cảnh báo mối nguy “đến cấp quân đoàn.”
Ngày 16/2, các đặc vụ của Đồng minh ở
Thụy Sĩ gửi về Washington một báo cáo kỳ dị, lấy được từ các tùy viên quân sự
trung lập ở Berlin: “ Không nghi ngờ gì nữa, bọn Nazi đang chuẩn bị cho một
cuộc chiến ác liệt từ pháo đài trên núi… Các điểm cố thủ được liên kết với nhau
bằng đường sắt ngầm… chúng trữ sẵn số đạn dược tốt nhất, đủ dùng trong vài
tháng, cùng với toàn bộ nguồn hơi độc của Đức. Tất cả những người tham gia xây
dựng các cơ sở bí mật sẽ bị giết – kể cả những người dân còn lại ở đó… khi trận
chiến thực sự bắt đầu.”
Dù cả các cơ quan tình báo Anh và OSS
đều đưa ra các phát biểu cẩn trọng nhằm làm dịu các bản báo cáo đáng sợ đó,
trong 27 ngày sau đó, bóng ma của Pháo đài quốc gia vẫn lan truyền. Đến ngày
21/3, mối đe dọa đã bắt đầu ảnh hưởng đến tư duy chiến thuật. Sở chỉ huy của
Cụm tập đoàn quân 12 của tướng Bradley đưa ra một thư báo có tựa đề “Tái định
hướng chiến lược”, trong đó khẳng định các mục tiêu của Đồng minh đã thay đổi,
nêu rằng “các kế hoạch mà chúng ta làm theo từ lúc còn ở bờ biển giờ đã lỗi
thời.” Một trong các thay đổi đó là: tầm quan trọng của Berlin đã giảm đi
nhiều. Bản báo cáo viết, “Vùng thủ đô không còn là vị trí quan trọng nữa… mọi
dấu hiệu đều cho thấy đầu não quân sự và chính trị của địch đang chuyển về
‘Pháo đài’ ở hạ Bavaria.”
Để đối phó với mối đe dọa này, tướng
Bradley đề nghị thay vì tấn công về phía bắc thì cụm tập đoàn quân của ông sẽ
chia đôi nước Đức bằng cách tiến về vùng trung tâm. Điều này sẽ “ngăn quân Đức
rút lui” về phía nam “vào trong Pháo đài.” Thêm nữa, nó sẽ đẩy quân địch “về
phía bắc, ở đó chúng sẽ bị vây bởi bờ biển Baltic và biển Bắc.” Sau đó, bản báo
cáo đề xuất rằng Cụm tập đoàn quân 12 sẽ quay về phía nam để giảm thiểu sức
kháng cự còn lại của địch ở Alpenfestung.
Bản phân tích gây hoang mang nhất xuất
hiện vào ngày 25/3, đến từ Trưởng ban Tình báo của Tập đoàn quân 7 của Trung
tướng Patch, đang chiến đấu ở cánh phía nam mặt trận. Nó dự báo trong pháo đài
có thể có “một lực lượng tinh nhuệ, chủ yếu là SS và quân miền núi, khoảng
200.000 đến 300.000 lính.” Bản báo cáo nói, đồ tiếp tế đã được đưa đến pháo đài
bằng “ba đến năm đoàn tàu hỏa cực dài… mỗi tuần (từ tháng 1/1945)… Trong số đó,
quan sát thấy có nhiều đoàn tàu có một loại súng mới trên đó…” Thậm chí bản báo
cáo còn đề cập đến một nhà máy ngầm chế tạo máy bay “có thể sản xuất… máy bay
Messerschmitt.” (***)
Ngày qua ngày, các báo cáo đổ về SHAEF. Dù
các chứng cứ có được phân tích tới lui thế nào, bức tranh còn vẫn y nguyên: dù
Alpenfestung có thể chỉ là một trò chơi khăm, nhưng cũng không thể lờ đi khả
năng tồn tại của nó. Mối bận tâm của SHAEF được nêu rõ trong một đánh giá tình
báo về pháo đài ngày 11/3:
“Trên lý thuyết… trong pháo đài này…
được cả thiên nhiên và các vũ khí bí mật mạnh mẽ nhất vừa được phát minh, sức
mạnh từ xưa đến nay đã giúp nước Đức sống sót để rồi phục sinh… Xu hướng phòng
thủ chính của Đức có vẻ là bảo vệ vùng núi Alps… Bằng chứng cho thấy một số
lượng lớn quân SS và đơn vị đặc biệt đang rút lui có hệ thống về Áo… Có vẻ khá
chắc chắn là một số cơ quan và cá nhân quan trọng nhất của bộ máy Nazi đã được
thiết lập tại pháo đài… Goering, Himmler, Hitler… được cho là đang rút lui về
các thành trì riêng trong núi…”
Trưởng ban Tình báo của SHAEF, Thiếu
tướng Kenneth W. D. Strong của Anh, nhận xét với ngài Tham mưu trưởng:
“Có thể pháo đài không có ở đó, nhưng
chúng ta phải tiến hành các bước nhằm ngăn không cho nó có ở đó.” Bedell Smith
cũng đồng ý. Theo ông, có “đủ lý do để tin rằng bọn Nazi định xây chốn cố thủ
cuối cùng trong núi.”
Khi các quan điểm đã cân nhắc của các
thành viên SHAEF và các tư lệnh chiến trường của Mỹ nằm chất đống trong văn
phòng Eisenhower, thì thông điệp đáng chú ý nhất xuất hiện.
.......................................
(*): Nguyên văn “requires a
Götterdämmerung.” Götterdämmerung tiếng Đức nghĩa là “Hoàng hôn của các vị
thần”, tượng trưng cho sự sụp đổ của các vị thần trong trận chiến cuối cùng với
quỷ dữ, theo thần thoại Đức. Götterdämmerung còn được dùng để chỉ sự sụp đổ của
một thể chế, một xã hội,… (ND).
(**): Người chuẩn bị tài liệu phản gián
này đã có sai sót về nơi yên nghỉ cuối cùng của Barbarossa. Nơi chôn cất
Barbarossa (Râu Đỏ) – là họ của vua Frederick I (1121-1190) – không phải ở
Berchtesgaden. Theo thần thoại, “ngài không hề chết, mà chỉ ngủ” giữa những
ngọn đồi ở Thuringia. Ngài ngồi “trên một cái bàn đá, có sáu hiệp sĩ luôn kề
bên, chờ đợi đến khi ngài tỉnh giấc và cứu nước Đức khỏi cảnh tù tội, đưa nước
Đức lên trên đỉnh thế giới… bộ râu của ngài đã mọc xuyên qua phiến đá, nhưng
phải cuốn bộ râu ba vòng quanh cái bàn trước khi ngài giáng thế lần thứ hai.”
(***): Messerschmitt là một tập đoàn sản
xuất máy bay của Đức, nổi tiếng với dòng máy bay chiến đấu trong thời kỳ Thế
chiến thứ hai, đặc biệt là hai dòng Bf 109 và Me 262. Thời hậu chiến, sau một
vài lần sáp nhập, Messerschmitt đổi tên thành Messerschmitt-Bölkow-Blohm, rồi
được Deutsche Aerospace (DASA, giờ là một bộ phận của EADS) mua lại vào năm
1989 (ND).
Nó đến
từ cấp trên của ngài Tư lệnh Tối cao, Đại tướng Marshall, người Eisenhower tôn
kính hơn hết thảy. (*)
Bức điện của Marshall viết:
“Từ các báo cáo chiến dịch hiện tại, có vẻ
như hệ thống phòng thủ của Đức ở phía tây có thể sẽ sụp đổ. Điều này sẽ cho
phép anh đưa kha khá sư đoàn tiến nhanh về phía đông trên một mặt trận rộng
lớn. Quan điểm của anh về việc… xem nào, đưa quân tiến nhanh theo trục
Nuremberg-Linz hay Karlsruhe-Munich là như thế nào? Ý tưởng đằng sau việc này
là… hành động nhanh chóng có thể ngăn ngừa sự hình thành của bất kỳ vùng kháng
cự có tổ chức nào. Vùng núi phía nam được xem là một trong những nơi có khả
năng.
“Một trong những vấn đề nổi lên bên cạnh
sự kháng cự rời rạc của quân Đức là việc đụng độ quân Nga. Anh nghĩ sao về việc
kiểm soát và phối hợp để ngăn các trường hợp không may…? Có một khả năng là
thiết lập đường phân ranh thống nhất. Các cách sắp xếp hiện có của ta… chưa
tương xứng… cần tiến hành các bước cung ứng liên lạc ngay, không được trì
hoãn…”
Thông điệp với lời lẽ cẩn trọng của
Marshall cuối cùng cũng giúp kế hoạch của ngài Tư lệnh Tối cao hình thành. Sau
khi cân nhắc mọi vấn đề, hội ý với ban tham mưu, thảo luận tình hình suốt nhiều
tuần lễ với ông bạn già và cũng là bạn cùng lớp ở West Point (**), Đại tướng
Bradley, và quan trọng nhất là đã quen với các quan điểm của người cấp trên,
giờ Eisenhower đã định hình được chiến lược và ra quyết định.
Vào buổi chiều tháng ba lạnh lẽo đó, ông
soạn ba bức điện. Bức đầu tiên rất nổi tiếng trong lịch sử và chưa từng có tiền
lệ: nó được gửi đến Moscow, cùng một tin nhắn kèm theo gửi đến Phái bộ Quân sự
Đồng minh. Eisenhower viết rằng các chiến dịch của SHAEF đã tới giai đoạn “mà
tôi cần được biết kế hoạch của Nga để đạt được thành công nhanh nhất.” Do đó,
ông muốn Phái bộ phải “đưa một thông điệp cá nhân từ tôi gửi đến Đại nguyên
soái Stalin” và bằng mọi giá “tìm cách hỗ trợ để được hồi âm đầy đủ.”
Trước đó, ngài Tư lệnh Tối cao chưa từng
liên lạc trực tiếp với nhà lãnh đạo Xô Viết, nhưng giờ tình thế rất cấp bách.
Ông đã được trao quyền thương lượng trực tiếp với Nga về các vấn đề quân sự có
liên quan đến việc phối hợp, vậy nên Eisenhower thấy chẳng có lý do đặc biệt gì
cần phải hội ý trước với Hội đồng Tham mưu trưởng Anh-Mỹ hay chính phủ Mỹ và
Anh. Thực vậy, đến cả Phó Tư lệnh Tối cao là Chánh Thống chế Không quân Sir
Arthur Tedder cũng chẳng hề hay biết gì. Tuy vậy, họ vẫn được xem các bản sao
đã chuẩn bị sẵn cho mình.
Ngài Tư lệnh Tối cao chấp thuận bản thảo
của bức điện gửi cho Stalin vào lúc 3 giờ hơn. Lúc 4 giờ chiều, sau khi đã mã
hóa xong, “Thông điệp cá nhân gửi Đại nguyên soái Stalin” của Eisenhower được
gửi đi. Trong đó, ngài Đại tướng hỏi về kế hoạch của ngài Tổng tư lệnh, đồng
thời trình bày kế hoạch của mình. Ông viết:
“Chiến dịch hiện tại của tôi được thiết kế
để bao vây và tiêu diệt quân địch đang phòng thủ ở sông Ruhr… Tôi đoán giai
đoạn này… sẽ kết thúc vào cuối tháng tư, thậm chí còn sớm hơn nữa, và nhiệm vụ
kế tiếp của tôi sẽ là chia cắt lực lượng còn lại của địch bằng cách chung tay
với quân của ngài… Tốt nhất là hợp quân theo trục Erfurt-Leipzig-Dresden. Tôi
tin là… các cơ quan đầu não trong chính phủ Đức đang chuyển đến vùng này. Tôi
định sẽ tấn công chủ yếu dọc theo trục này. Bên cạnh đó, một cuộc tiến công thứ
hai sẽ được thực hiện để hợp quân với quân của ngài ở Regensburg-Linz càng sớm
càng tốt, từ đó ngăn lực lượng kháng cự của Đức hợp nhất lại ở Pháo đài miền
nam nước Đức.
Trước khi quyết định chắc chắn về kế
hoạch của tôi, quan trọng nhất là cần phối hợp… với kế hoạch của ngài, cả về
thời gian và phương hướng. Ngài có thể… cho tôi biết dự định của mình và… kế
hoạch dự kiến được phác thảo … có phù hợp với hành động sắp tới của ngài không.
Tôi thấy nếu chúng ta muốn tiêu diệt hoàn toàn quân Đức không chút chậm trễ, thì
việc phối hợp hành động và… hoàn chỉnh đường dây liên lạc giữa các lực lượng
đang hành quân của chúng ta… là vô cùng thiết yếu…”
Sau đó, ông chuẩn bị các bức điện gửi
cho Marshall và Montgomery. Các bức điện này được gửi đi vào lúc 7 giờ tối, cách
nhau 5 phút. Eisenhower nói với Tham mưu trưởng Hoa Kỳ rằng ông đã liên lạc với
Stalin “về vấn đề phải hội quân ở đâu…” Rồi ông chỉ ra rằng “quan điểm của tôi
tương tự với ngài, dù tôi cho là vùng Leipzig-Dresden quan trọng hơn…” vì nó là
“tuyến đường ngắn nhất để tới chỗ quân Nga” và cũng sẽ “băng qua một vùng công
nghiệp còn lại của Đức… được cho là nơi Bộ Tư lệnh Tối cao và các bộ đang
chuyển đến.”
Đối với mối lo ngại của Marshall về
“Pháo đài Quốc gia,” Eisenhower báo cáo rằng ông biết rõ “tầm quan trọng của
việc chặn trước khả năng để địch hình thành các vùng kháng cự có tổ chức” và sẽ
tiến hành “một cuộc tiến công về phía Linz và Munich ngay khi tình hình cho
phép.” Về việc phối hợp với quân Nga, Eisenhower nói thêm, ông không cho là “chúng
ta có thể ràng buộc bản thân vào một đường ranh giới” nhưng sẽ tiếp cận bọn họ
bằng lời đề nghị “khi quân hai bên gặp nhau, mỗi bên sẽ rút về vùng chiếm đóng
của mình khi bên kia yêu cầu.”
Bức điện thứ ba trong ngày của
Eisenhower, gửi cho Montgomery, mang theo tin tức khá thất vọng. Ngài Tư lệnh
Tối cao nói “Ngay khi anh hội quân với Bradley… [phía đông sông Ruhr]… Tập đoàn
quân 9 Hoa Kỳ sẽ chuyển qua cho Bradley chỉ huy. Bradley sẽ chịu trách nhiệm càn quét vùng Ruhr và đưa mũi tấn công
chủ đạo của ông ấy đi theo trục Erfurt-Leipzig-Dresden để phối hợp với Nga
trong thời gian ngắn nhất…”
Montgomery sẽ tiến về sông Elbe; tại đó
“Tập đoàn quân 9 sẽ giao lại cho anh chỉ huy để thuận tiện vượt qua chướng ngại
vật đó.” Sau khi đọc qua bản thảo, Eisenhower viết thêm một dòng cuối bằng bút
chì, “Như anh đã nói, tình hình có vẻ khả quan.”
Ngài Tư lệnh Tối cao đã sửa đổi kế hoạch
của mình về phạm vi này: thay vì tấn công chủ lực vào miền bắc nước Đức như ban
đầu đã định, ông đã quyết định tấn công thẳng vào trung tâm. Tập đoàn quân 9
được giao lại cho Bradley, giờ đây nắm vai trò chính. Bradley sẽ phát động cuộc
tấn công cuối cùng, nhằm đưa quân đến vùng Dresden, cách Berlin 100 dặm về phía
nam.
Dù Eisenhower đã chấp nhận một số đề
xuất của Marshall, tiến trình của ông lại giống với đề xuất của Cụm Tập đoàn
quân 12 của Đại tướng Bradley nêu trong bản thư báo “Tái định hướng chiến
lược.” Nhưng trong cả ba bức điện của Eisenhower về kế hoạch cho chiến dịch của
ông, có một điều bỏ sót đáng chú ý: mục tiêu mà ngài Tư lệnh Tối cao từng xem
là “phần thưởng chính.” Ông không hề nhắc tới Berlin.
* * * * *
* * * *
........................
(*): Một tham mưu cao cấp của tướng
Marshall, Đại tướng John Hull, Quyền Tham mưu trưởng Chiến dịch của Lục quân
Hoa Kỳ vào năm 1945, nói rằng “Ike là người được Marshall bảo trợ, và có lẽ Ike
sẽ không bằng lòng nếu tôi nói thế này, nhưng mối quan hệ giữa hai người họ hơi
giống cha con.”
(**): Học viện Quân sự Hoa Kỳ, nằm ở
West Point, New York (ND).
Cổng Brandenburg sứt mẻ hiện lờ mờ
trong đám bụi. Qua những ô cửa sổ đã bịt một phần bằng ván của tòa biệt thự của
mình, Tiến sĩ Goebbels nhìn chăm chăm vào tượng đài. Người đứng đầu cơ quan
tuyên truyền của Hitler, có bề ngoài trông như một con quỷ lùn, đứng quay lưng
một cách khinh khỉnh với mấy người khách – ít ra thì người đang nói chuyện có
vẻ là khách, Sĩ quan chỉ huy Berlin, Thiếu tướng Hellmuth Reymann. Ngài thiếu
tướng đang cố xin quyết định về một vấn đề mà ông cho là cấp bách nhất: số phận
của cư dân trong thành phố trước khi trận chiến bắt đầu.
Đây là lần thứ tư trong tháng tướng
Reymann cùng Tham mưu trưởng của ông là Đại tá Hans Refior gặp mặt Goebbles.
Ngoài Hitler, giờ Goebbels, 47 tuổi, là
nhân vật quan trọng nhất Berlin. Ông ta không chỉ là Bộ trưởng Bộ Thông tin
Quần chúng và Tuyên truyền; mà còn là Tỉnh trưởng Berlin. Ông ta là Ủy viên Bộ
Quốc phòng Đức, chịu trách nhiệm về mọi phương diện của cư dân thành phố, tổ
chức và huấn luyện Lực lượng Phòng vệ Hậu phương và xây dựng các công sự. Giữa
lúc thiếu sự rạch ròi về quyền hạn giữa các cơ quan quân sự và dân sự, khiến
các nhà lãnh đạo trong quân và dân phải lúng túng, Goebbels khiến tình hình
càng thêm rối rắm.
Dù hoàn toàn làm ngơ các vấn đề quân sự
hoặc đô thị, ông ta lại vạch rõ rằng mình sẽ là người duy nhất có trách nhiệm
bảo vệ Berlin. Kết quả là tướng Reymann nhận thấy mình đang ở trong một vị trí
tiến thoái lưỡng nan. Ông phải nhận chỉ thị từ ai – từ Bộ chỉ huy quân sự của
Hitler hay từ Goebbels? Ông không chắc, và có vẻ chẳng ai muốn làm rõ vị trí
chỉ huy là của ai. Reymann muốn phát điên.
Ở các cuộc gặp trước, Reymann đã đưa ra
vấn đề sơ tán. Ban đầu, Goebbels nói “không thể được.” Rồi ông ta nói với viên
thiếu tướng rằng đã có sẵn kế hoạch rồi, do “các quan chức SS cấp cao hơn và
cảnh sát” chuẩn bị.
Tham mưu trưởng của tướng Reymann nhanh
chóng điều tra ra. Đại tá Refior đã tìm ra kế hoạch đó. Ông nói với Reymann,
“Nó gồm một tấm bản đồ, tỷ lệ 1:300.000, trên đó ghi người chịu trách nhiệm là
một đại úy cảnh sát, có đánh dấu các tuyến đường sơ tán ra khỏi Berlin theo
hướng tây và hướng nam bằng mực đỏ.”
Ông báo cáo, “Trên đó không hề có trạm y
tế, không có kho lương, không có phương tiện vận tải dành cho người đau yếu.”
Ông nói thêm, “theo như tôi thấy, kế
hoạch yêu cầu người tản cư tập hợp trên các tuyến đường đó, chỉ mang theo hành
lý xách tay, đi 20 đến 30 km
tới các ga tàu hỏa, từ đó họ được đưa tới Thüringen, Sachsen-Anhalt và
Mecklenburg. Mọi việc sẽ bắt đầu tiến hành khi Goebbels nhấn nút. Nhưng vẫn
chưa rõ tàu sẽ xuất phát từ đâu.”
Reymann cố thảo luận vấn đề với Hitler.
Ông chỉ mới gặp Hitler hai lần: vào ngày nhậm chức và sau đó mấy ngày, khi ông
được mời đến sự một buổi họp tối của Quốc trưởng. Trong buổi họp đó, đề tài
thảo luận chủ yếu là về mặt trận sông Oder và Reymann không có cơ hội giải
thích về tình hình Berlin.
Nhưng vào một quãng tạm lắng trong buổi
họp, ông đã nói chuyện với Hitler và giục ông ta nhanh chóng ra lệnh sơ tán
toàn bộ trẻ em dưới mười tuổi của thủ đô. Một sự im ắng đột ngột phủ xuống sau
lời đề xuất của Reymann, rồi Hitler quay qua phía ông và lạnh lùng hỏi, “Ý anh
là sao? Chính xác thì ý anh là sao?” Rồi ông ta nói, chầm chậm nhấn mạnh từng
chữ, “Ở Berlin không còn đứa con nít nào trong độ tuổi đó nữa!” Không ai dám
cãi lại ông ta. Hitler nhanh chóng chuyển qua chuyện khác.
Lời khước từ đó không làm viên sĩ quan
chỉ huy Berlin thoái chí. Giờ Reymann quay qua hỏi Goebbels về đề tài tương tự.
Ông nói, “Thưa ngài bộ trưởng, làm sao ta hỗ trợ người dân khi bị bao vây? Ta
sẽ cung ứng lương thực như thế nào? Lương thực từ đâu mà có? Theo số liệu của
thị trưởng thì bây giờ trong thành phố có 110.000 trẻ em dưới mười tuổi cùng
với mẹ của chúng. Làm sao ta cung cấp sữa cho em bé?”
Reymann dừng lại, chờ câu trả lời.
Goebbels tiếp tục nhìn ra ngoài cửa sổ. Rồi ông ta gắt gỏng mà không hề quay
lại: “Làm sao cung ứng lương thực à? Chúng ta sẽ đưa vật nuôi từ vùng nông thôn
xung quanh về đây – đó là cách ta cung ứng lương thực đấy! Về bọn trẻ con, ta
vẫn còn một lượng sữa hộp đủ dùng trong ba tháng.”
Sữa hộp là một tin tức mới đối với
Reymann và Refior. Còn vụ vật nuôi có vẻ hơi bị điên. Trong cuộc chiến, bò dễ
bị thương hơn người, ít ra người ta còn đi trú được. Goebbels định nuôi chúng ở
đâu? Và chúng sẽ ăn cái gì? Reymann sốt sắng:
“Chắc chắn là ta phải cân nhắc về kế
hoạch sơ tán trước mắt cái đã. Ta không thể chờ lâu hơn được nữa. Mỗi ngày trôi
qua thì mọi chuyện càng khó khăn thêm. Ít nhất bây giờ chúng ta cũng phải sơ
tán phụ nữ và trẻ em – trước khi quá muộn.”
Goebbels không đáp. Im lặng thật lâu.
Ngoài kia trời đang tối dần. Đột nhiên ông ta đứng lên, tóm lấy sợi dây bên cửa
sổ rồi kéo mạnh một cái. Tấm rèm tối lạch cạch khép lại. Goebbels quay lại. Bị
tật bẩm sinh ở chân, ông ta đi khập khiễng tới chỗ bàn làm việc, bật đèn, nhìn
chiếc đồng hồ đeo tay đặt trên mảnh vải lót, rồi nhìn Reymann.
Ông ta nhẹ nhàng nói:
“Ngài thiếu tướng thân mến của tôi ơi,
tôi là người quyết định khi nào cần sơ tán, và liệu có cần hay không.”
Rồi ông ta gầm gừ:
“Nhưng tôi không định khiến cả Berlin sợ
hãi bằng cách ra lệnh ngay bây giờ! Còn cả một đống thì giờ! Cả một đống thì giờ!”
Và
ông ta đuổi khách:
“Chào tạm biệt các quý ông.”
Khi Reymann và Refior rời khỏi tòa biệt
thự, họ dừng lại một chút chỗ bậc thềm. Tướng Reymann nhìn bao quát thành phố.
Dù còi báo động không kích chưa vang lên, đằng xa đã thấy đèn pha dò tìm rọi
lên bầu trời đêm.
Chầm chậm đeo găng tay, Reymann nói với
Refior:
“Chúng ta đang phải đối mặt với một nhiệm
vụ mà ta không thể giải quyết được; cũng không có cơ hội thành công. Tôi chỉ có
thể hi vọng sẽ có phép màu xảy ra để thay đổi vận mệnh của chúng ta, hoặc là
chiến tranh sẽ kết thúc trước khi Berlin bị bao vây.”
Ông nhìn người Tham mưu trưởng của mình.
Rồi ông nói thêm:
“Nếu không, chì có Chúa mới cứu được
Berlin.”
Không lâu sau đó, tại bộ chỉ huy của mình
nằm ở Hohenzollerndamm, Reymann nhận được một cuộc điện thoại từ OKH (Bộ Tư
lệnh Lục quân Tối cao).
Ngoài ngài Tư lệnh Tối cao Hitler và ngài
Tỉnh trưởng Berlin Goebbels, giờ Reymann được biết mình còn là thuộc cấp của
một người nữa. Ông được cho biết đã có sắp xếp là Vùng Phòng ngự Berlin sẽ do
Cụm Tập đoàn quân Vistula và tư lệnh của nó là Thượng tướng Gotthard Heinrici
chỉ huy. Reymann thấy tia hi vọng đầu tiên xuất hiện ngay khi nghe đến tên
Heinrici. Ông bảo Refior tóm tắt tình hình cho ban tham mưu của Cụm Tập đoàn
quân Vistula sớm nhất có thể. Chỉ có một điều làm ông lo lắng. Ông không biết
tướng Heinrici thấy thế nào khi vừa phải bảo vệ Berlin, vừa lo cầm cự với quân
Nga bên sông Oder. Reymann biết Heinrici khá rõ. Ông có thể tưởng tượng ra phản
ứng của Giftzwergs khi ông ta nghe được tin này.
Heinrici gầm lên, “Thật ngu xuẩn! Quá sức
ngu xuẩn!”
Tham mưu trưởng mới của Cụm Tập đoàn quân
Vistula, Trung tướng Eberhard Kinzel, và Tư lệnh hành quân, Đại tá Hans
Eismann, nhìn nhau rồi im lặng.
Chẳng có gì để nói cả. “Ngu xuẩn” là đã
nói nhẹ đi rồi. Việc giao Vùng Phòng thủ Berlin cho tướng Heinrici, vốn đang
chịu sức ép rất lớn chỉ huy vào thời điểm đặc biệt thế này có vẻ như khiến cả
hai sĩ quan không thể hiểu nổi. Họ cũng không thể hiểu làm sao Heinrici có thể
chỉ đạo, thậm chí là nhìn qua kế hoạch phòng thủ của Reymann. Nội chuyện khoảng
cách cũng đủ khiến nó bất khả thi rồi; Bộ chỉ huy của Vistula cách Berlin hơn
50 dặm. Và rõ ràng là người đề ra ý tưởng này không biết tí gì về các vấn đề
khó nhằn mà Heinrici đang phải đương đầu.
Trước đó, cũng trong tối hôm ấy, các sĩ
quan trong ban chiến dịch của OKH (Bộ Tư lệnh Lục quân Tối cao) đã cẩn thận
trình bày về việc bảo vệ Berlin với Kinzel. Ý tưởng đó được đưa ra khá rụt rè –
gần như một lời đề nghị. Giờ, khi Heinrici rảo bước quanh văn phòng, bùn ở
ngoài chiến trường vẫn còn bám trên chiếc xà cạp lỗi mốt, ông làm rõ cho các
thuộc cấp hiểu là ông chỉ xem kế hoạch này là một lời đề nghị mà thôi. Cụm Tập
đoàn quân Vistula chỉ có một nhiệm vụ: khiến quân Nga dừng bước bên sông Oder.
Heinrici nói, “Trừ khi bị bắt buộc, còn không thì tôi không định nhận trách
nhiệm về Berlin đâu.”
Điều đó không có nghĩa là ông không biết
gì về tình cảnh tuyệt vọng của dân cư trong thành phố. Thực ra, vận mệnh của
gần ba triệu người dân Berlin thường xuất hiện trong suy nghĩ của Heinrici. Ông
bị ám ảnh trước khả năng Berlin biến thành chiến trường; ông biết rõ hơn ai hết
chuyện gì sẽ xảy ra với người dân bị kẹt lại trước họng pháo và những giao tranh
trên đường phố. Ông tin là bọn Nga chẳng có chút lòng thương, và giữa đỉnh điểm
cuộc chiến, ông không mong gì là chúng có thể phân biệt giữa dân với lính. Tuy
vậy, lúc này ông không thể nào đảm nhiệm vấn đề Berlin và cư dân của nó được.
Cụm Tập đoàn quân Vistula là rào cản duy
nhất giữa Berlin và quân Nga, và như thường lệ, mối quan tâm chính của Heinrici
là lính của ông. Giftzwerg hay càu nhàu và hiếu chiến đang điên tiết với Hitler
và người đứng đầu OKH, Guderian, vì ông coi đó là hy sinh mạng sống của lính
của ông một cách có chủ đích.
Quay qua Kinzel, ông nói: “Gọi Guderian
cho tôi.”
Từ lúc nhậm chức một tuần trước đó,
Heinrici luôn ở ngoài mặt trận. Ông đi lại không biết mệt giữa các Bộ chỉ huy,
sắp xếp chiến lược với các tư lệnh sư đoàn, đến thăm lính trong các hầm trú ẩn
và boongke.
Ông nhanh chóng khám phá ra các mối nghi
ngờ của mình là đúng: lực lượng của ông chỉ là các tập đoàn quân trên danh
nghĩa. Ông kinh hoàng nhận ra phần lớn các đơn vị được đắp vào bằng các nhóm
quân rời rạc và phần tàn dư của các sư đoàn danh tiếng một thời nhưng đã bị
tiêu diệt từ lâu.
Trong số đó, Heinrici còn phát hiện ra
có những đơn vị không phải là người Đức. Có các sư đoàn mang tên “Na Uy” và “Hà
Lan” gồm những tình nguyện viên người Na Uy và Hà Lan theo chủ nghĩa Nazi, và
một sư đoàn gồm các tù nhân chiến tranh người Nga, do một quân nhân tài ba,
từng phòng thủ ở Kiev lãnh đạo, là Trung tướng Andrei A. Vlasov. Sau khi đầu
hàng vào năm 1942, ông được thuyết phục tổ chức một đội quân Nga chống Stalin,
ủng hộ Đức. Đội quân của Vlasov khiến Heinrici rất lo lắng: ông nghi họ sẽ đào
ngũ ngay khi có dịp.
Một vài sư đoàn thiết giáp của Heinrici
vẫn còn ngon lành, và ông phụ thuộc vào họ khá nhiều. Nhưng bức tranh toàn cảnh
vẫn ảm đạm quá đỗi. Các báo cáo tình báo cho thấy quân Nga có khoảng ba triệu
lính.
Heinrici có tổng cộng khoảng 482.000 quân
nằm giữa Tập đoàn quân Thiết giáp 3 của tướng Von Mateuffel ở phía bắc và Tập
đoàn quân 9 của tướng Busse ở phía nam, và hầu như không có quân dự bị.
Không chỉ cực kỳ thiếu quân đã qua huấn
luyện, Heinrici còn lâm vào cảnh thiếu thốn trang thiết bị và đồ tiếp tế. Ông
cần xe tăng, súng tự động, thiết bị liên lạc, pháo, xăng, đạn dược, và cả súng
trường nữa. Nguồn tiếp tế thiếu thốn đến nỗi Đại tá Eismann, tư lệnh hành quân,
phát hiện ra là thay cho súng trường, người ta đã gửi đến mặt trận mấy khẩu
súng chống tăng kiểu bazooka – và trong số vũ khí đó có mỗi một khẩu súng phóng
lựu.
Eismann nói với Heinrici:
“Điên hết rồi! Làm sao lính của ta có thể
đánh tiếp sau loạt đạn đầu tiên? OKH muốn họ phải làm gì cơ chứ - dùng mấy khẩu
súng hết đạn làm dùi cui à? Khác gì giết người.”
Heinrici đồng ý.
“OKH muốn người ta chờ xem số mệnh sẽ đem
đến cho họ điều gì. Tôi thì không.”
Bằng mọi cách có thể trong quyền hạn của
mình, Heinrici đang cố cứu chữa tình hình trang thiết bị của ông, dù nhiều món
đã biến mất.
Thứ ông thiếu nhất là đạn dược. Quân Nga
đang bắt đầu xây cầu vượt sông Oder và mấy vùng đầm lầy lân cận. Ở một số chỗ,
mực nước sông dâng lên vì lũ, rộng tới hơn hai dặm. Lực lượng hải quân đặc biệt
do Heinrici chỉ huy đã thả thủy lôi dọc theo dòng sông để phá hủy các cầu phao,
nhưng quân Nga ngay lập tức phản công bằng cách dựng các tấm lưới bảo vệ. Đánh
bom mấy chỗ xây cầu từ trên không thì không thể được. Các quan chức không quân
đã trình bày với Heinrici là họ không có cả máy bay lẫn xăng để thực hiện nhiệm
vụ. Họ chỉ có thể cung cấp máy bay một chỗ ngồi để trinh sát. Chỉ còn một cách
để ngăn quân Nga đang xây cầu như điên: dùng pháo. Mà Heinrici lại còn rất ít.
Để bù cho sự thiếu hụt đó, Heinrici đã ra
lệnh dùng súng phòng không thay cho pháo. Dù như thế tức là lớp bảo vệ trước
không kích của quân Nga trở nên yếu đi, nhưng Heinrici giải thích là dùng mấy
khẩu súng đó ngoài chiến trường sẽ có ích hơn. Và thực vậy, cách này đã làm dịu
bớt tình hình.
Chỉ trong vùng Stettin không thôi, Tập
đoàn quân Thiết giáp 3 của tướng Von Manteuffel đã cần tới 600 khẩu súng phòng
không. Mỗi cái phải có bệ đỡ bê tông, vì chúng quá lớn và cồng kềnh, nên không
thể đặt trên xe cộ bình thường, nhưng chúng cũng giúp lấp đầy chỗ trống. Dù
đứng đó đầy vẻ đe dọa, chúng chỉ được bắn khi thực sự cần thiết. Tình hình
thiếu hụt đạn dược nghiêm trọng đến nỗi Heinrici quyết phải tiết kiệm số ít ỏi
còn lại để dành cho lúc đánh nhau với quân Nga.
Ông vẫn hay nói với các sĩ quan của
mình là “Dù không có đủ súng đạn để ngăn bọn Nga xây cầu, ít ra chúng ta cũng
đang níu chân chúng lại.” Đại tá Eismann thấy tình hình bi quan hơn thế. Sau
này ông nói, “Cụm Tập đoàn quân này giống như một con thỏ, đang bị thôi miên
hoặc nhìn con rắn đang muốn nuốt chửng mình. Nó chẳng thể cử động nổi, chỉ biết
chờ con rắn tấn công một cú nhanh như chớp… Tướng Heinrici không muốn thừa nhận
sự thật là Cụm Tập đoàn quân này không thể làm được gì hiệu quả bằng chính sức
nó nữa.”
Chỉ trong một tuần chỉ huy, Heinrici đã
san bằng hàng tá khó khăn tưởng chừng không thể vượt qua. Giống như hồi còn ở
Moscow, ông phỉnh phờ và khích lệ quân lính, gầm gừ và khen ngợi họ, nhằm tăng
cường ý chí chiến đấu, cũng là giúp ông có thêm thời giờ và giúp họ giữ được
mạng. Dù cảm giác của ông ra sao đi nữa, đối với các sĩ quan và quân lính, ông
là Heinrici huyền thoại không biết e sợ, không thể gục ngã. Và đúng như tính
cách đó, ông vẫn đang chiến đấu với “sự điên rồ và thành kiến” của cấp trên.
Ngay bây giờ, cơn giận bừng bừng của ông
đang nhắm vào Hitler và người đứng đầu OKH, Guderian. Ngày 23/3, Tập đoàn quân
9 của tướng Busse đã tấn công hai lần, nỗ lực đột phá để đến Küstrin đang bị cô
lập, quân Nga đã bao vây nơi này từ ngày Heinrici nhậm chức từ Himmler.
Heinrici đã đồng ý với chiến thuật của Busse. Ông thấy họ đã có cơ hội duy nhất
để giải cứu thành phố trước khi quân Nga kịp củng cố vị trí. Nhưng quân Nga quá
mạnh; cả hai cuộc tấn công đều tỏ ra là thảm họa.
Khi báo cáo tình hình cho Guderian, ông
ta nói thẳng thừng: “Phải tấn công thêm lần nữa.” Hitler muốn thế; Guderian
cũng vậy. Heinrici cứng rắn đáp, “Thế là điên rồ. Tôi đề nghị lệnh cho các đơn
vị thiết giáp ở Küstrin đột phá vòng vây. Đó là cách hợp lý nhất.”
Guderian nổi cáu. Ông hét lên, “Phải tấn
công.” Ngày 27/3, tướng Busse lần nữa đưa quân vào Küstrin. Cuộc tấn công đó
mãnh liệt tới mức một vài đơn vị thiết giáp của ông đã đột phá được vào thành
phố. Nhưng rồi quân Nga dập tắt cuộc tấn công của quân Đức bằng hỏa pháo. Ở bộ
chỉ huy, Heinrici không nói nên lời. Ông nói, “Cuộc tấn công đại bại. Tập đoàn
quân 9 phải chịu tổn thất khủng khiếp mà chả được tích sự gì.”
Ngay cả bây giờ, vào ngày hôm sau, cơn
giận của ông vẫn chưa nguôi. Trong lúc chờ gọi điện cho Guderian, ông rảo bước
quanh văn phòng, liên tục lẩm bẩm hai chữ “Thất bại!” Không cần biết chuyện gì
sẽ xảy ra cho cá nhân mình, Heinrici định buộc tội cấp trên vì đã gây ra vụ
thảm sát tám nghìn người – cuộc tấn công vào Küstrin làm mất gần một sư đoàn –
ngay khi Guderian gọi lại.
Điện thoại reo, Kinzel cầm máy. Ông nói
với Heinrici:
“Lại là ở Zossen.”
Giọng nói trơn tru của Trung tướng Hans
Krebs, Tham mưu trưởng của OKH vang lên, và đó không phải là người Heinrici
mong gặp. Ông nói:
“Tôi đã nói là muốn nói chuyện với
Guderian.”
Krebs lại nói lần nữa. Càng nghe, mặt
Heinrici càng nghiêm lại. Hai sĩ quan nhìn ông và tự hỏi chuyện gì đang xảy ra.
Heinrici hỏi “Hồi nào?” Ông lại nghe tiếp, rồi đột ngột nói “Cảm ơn” và cúp
máy. Ông quay qua Kinzel và Eismann, lặng lẽ nói:
“Guderian không còn là người đứng đầu OKH
nữa. Hitler vừa cách chức ông ấy chiều nay”.
Trước sự ngạc nhiên của hai sĩ quan, ông
nói thêm:
“Krebs bảo Guderian bị ốm, nhưng ông ta
cũng không biết rõ chuyện gì đã xảy ra.”
Cơn giận của Heinrici hoàn toàn bốc hơi
hết. Ông chỉ nhận xét thêm một điều. Ông trầm ngâm nói:
“Thế này chẳng giống Guderian chút nào. Ông
ấy thậm chí còn không nói lời tạm biệt.”
Khuya hôm đó, ban tham mưu của Heinrici
mới có thể sắp xếp lại toàn bộ vụ việc. Chuyện Guderian bị cách chức diễn ra
sau một trong các sự kiện điên rồ nhất từng có trong tòa nhà quốc hội. Buổi họp
giữa ngày của Hitler bắt đầu khá lặng lẽ, nhưng trong đó có rất nhiều ý kiến
thù địch không hề kiềm nén. Guderian đã viết một thư báo gửi Quốc trưởng, giải
thích nguyên nhân thất bại của cuộc tấn công vào Küstrin. Hitler không chỉ khó
chịu với giọng điệu của Guderian, mà còn bực bội trước sự bảo vệ của Guderian
dành cho Tập đoàn quân 9 và đặc biệt là Đại tướng Busse. Quốc trưởng đã chọn
Busse làm vật hy sinh và ra lệnh cho ông ta tham dự cuộc họp và làm một bản báo
cáo đầy đủ.
Như thường lệ, các cố vấn quân sự hàng
đầu của Hitler cũng tham dự.
Ngoài Guderian và Busse, còn có Tham mưu
trưởng của Hitler, Keitel; Tư lệnh hành quân của ông ta, Jodl; sĩ quan quản trị
của Quốc trưởng, Burgdorf; vài sĩ quan cao cấp khác và nhiều sĩ quan phụ tá.
Hitler nghe báo cáo tổng quát về tình
hình hiện tại trong vài phút, rồi tướng Busse được mời trình bày bản báo cáo
của ông. Ông bắt đầu bằng cách tóm tắt sơ bộ cuộc tấn công đã được phát động
như thế nào và lực lượng nào đã tham gia. Hitler bắt đầu nổi nóng. Ông ta thình
lình hét lên cắt ngang:
“Sao cuộc tấn công lại thất bại?”
Không dừng lại, ông ta tự trả lời luôn:
“Vì kém cỏi! Vì cẩu thả!” Ông ta dùng cả
đống lời lẽ để chửi mắng Busse, Guderian và toàn bộ Bộ Tư lệnh Tối cao. Bọn họ
đều là lũ “kém cỏi.” Ông ta quát mắng rằng cuộc tấn công vào Küstrin được phát
động “mà không được chuẩn bị pháo binh thích đáng!” Rồi ông ta quay qua
Guderian:
“Nếu Busse không có đủ đạn dược như anh
nói – thì sao anh không cấp thêm cho ông ta?”
Im lặng một hồi. Rồi Guderian lặng lẽ
nói. “Tôi đã giải thích với ngài rồi…” Hitler phẩy tay ngắt lời. Ông ta hét
lên, “Giải thích! Kiếm cớ! Anh chỉ biết có thế! Được! Vậy thì anh hãy nói tôi
nghe, ai khiến ta thất vọng ở Küstrin – quân lính hay là Busse?”
Guderian thình lình sôi máu. Ông lắp
bắp:
“Vớ vẩn! Hết sức vớ vẩn!”
Ông gần như khạc ra từng chữ. Nổi cơn
thịnh nộ, gương mặt đỏ phừng phừng, ông bắn một tràng chỉ trích. Ông rống lên:
“Busse không có lỗi! Tôi đã nói với ông
rồi! Ông ấy chỉ làm theo lệnh! Busse đã dùng toàn bộ số đạn ông ta có thể dùng!
Toàn bộ số ông ta có!”
Cơn giận dữ của Guderian thật khủng
khiếp. Ông vật lộn với từ ngữ. Ông nổi điên:
“Bảo là quân lính có lỗi ư – nhìn thương
vong mà xem! Nhìn vào tổn thất kìa! Quân lính đã làm đúng trách nhiệm của họ!
Sự hi sinh của họ đã chứng tỏ điều đó!”
Hitler hét trả. Ông ta rống lên:
“Chúng đã thua! Chúng đã thua.”
Guderian rống lên hết cỡ, mặt tím rịm:
“Tôi yêu cầu ông… Tôi yêu cầu ông không
được buộc tội Busse và quân của ông ấy nữa!”
Cả hai đều đã vượt xa khỏi tranh luận
thông thường, nhưng họ không ngừng lại. Họ nhìn nhau, rồi lời qua tiếng lại
bằng những lời lẽ giận dữ và kinh khủng tới nỗi các sĩ quan và phụ tá ngây ra
vì sốc. Hitler tổng sỉ vả Ban tham mưu, gọi bọn họ là “đồ chết nhát,” “đồ ngu,”
và “đần độn.”
Ông ta quát mắng rằng họ lúc nào cũng
“làm mê muội,” “báo tin sai” và “lừa dối” mình. Guderian thách thức Hitler dùng
mấy từ “làm mê muội” và “báo tin sai.” Chả lẽ Đại tướng Gehlen trong Ban tình
báo của ông đã “báo tin sai” về sức mạnh của quân Nga à? “Không!”
Guderian rống lên. Hitler vặn vẹo “Gehlen
là một thẳng ngu! - Mười tám sư đoàn bị bao vây vẫn đang kẹt ở vùng Baltic và
Courland thì sao?". Guderian hét lên, “Ai đã làm ông mê muội về bọn họ
hả?” . Ông hỏi Quốc trưởng, “Chính xác thì ông định chừng nào mới giải cứu quân
ở Courland?”
Cuộc tranh cãi ồn ào và dữ dội tới nỗi
sau đó không ai nhớ chính xác phần sau của nó nữa . Đến cả Busse, thủ phạm vô
tội của cuộc cãi vã, sau này cũng không thể kể cho Heinrici nghe chi tiết những
gì đã diễn ra. Ông nói:
“Chúng tôi gần như đờ ra. Không thể nào
tin được chuyện gì đang xảy ra.”
Jodl là người đầu tiên hành động. Ông
tóm lấy Guderian đang la hét, khẩn khoản:
“Làm ơn! Làm ơn bình tĩnh lại đi.”
Ông kéo Guderian qua một bên. Keitel và
Burgdorf bắt đầu săn sóc cho Hitler, ông ta ngồi sụp xuống ghế, kiệt sức. Viên
sĩ quan phụ tá đang kinh hãi của Guderian,
Thiếu tá Freytag von Loringhoven, chắc
chắn là sếp mình sẽ bị bắt nếu ông không đưa Guderian ra khỏi phòng ngay sau
đó, chạy ra ngoài và gọi cho Krebs đang ở Zossen, kể cho ông ta nghe chuyện vừa
xảy ra. Von Loringhoven van nài Krebs hãy nói chuyện với Guderian qua điện
thoại, vờ có tin cấp bách từ mặt trận và nói chuyện với ông ấy cho tới khi ngài
Thượng tướng bình tĩnh lại.
Khá là khó khăn, nhưng Guderian cũng bị
thuyết phục rời khỏi phòng. Krebs từng là sư phụ về nghệ thuật điều khiển thông
tin cho phù hợp với tình hình, dễ dàng thu hút hoàn toàn sự chú ý của Guderian
trong hơn mười lăm phút – và đến lúc đó thì Chỉ huy trưởng Bộ Tư lệnh Lục quân
Tối cao đã kiểm soát được trở lại cảm xúc của mình.
Trong thời gian đó, Hitler cũng đã bình
tĩnh lại. Khi Guderian quay lại, Hitler đang chủ trì cuộc họp như thể chưa có
gì xảy ra. Thấy ông đi vào, Quốc trưởng ra lệnh mọi người trong phòng ra ngoài,
trừ Keitel và Guderian.
Rồi ông ta lạnh lùng nói:
“Thượng tướng Guderian, vì lý do sức
khỏe, ông cần đi nghỉ dưỡng bệnh sáu tuần ngay lập tức.”
Bằng một giọng vô cảm, Guderian nói,
“Tôi sẽ đi.” Nhưng Hitler vẫn chưa nói xong. Ông ta ra lệnh, “Vui lòng chờ tới
khi cuộc họp kết thúc.” Mấy tiếng sau, cuộc họp kết thúc. Vào lúc đó, Hitler tỏ
vẻ rất quan tâm lo lắng. Ông ta nói, “Hãy cố mà khỏe lại nhé. Trong sáu tuần,
tình hình sẽ rất nghiêm trọng đấy. Đến lúc đó tôi sẽ cần tới anh. Anh định đi
đâu?” Keitel cũng muốn biết.
Nghi ngờ khi thấy bọn họ đột nhiên quan
tâm, Guderian thận trọng quyết định không nói cho họ kế hoạch của mình. Ông tìm
cớ rời khỏi điện Reichskanzlei. Guderian đã đi. Nhà cải cách công nghệ thiết
giáp, người cuối cùng trong số các vị tướng tên tuổi của Hitler đã đi; sự đánh
giá đúng đắn trong Bộ Tư lệnh Cấp cao của Đức cũng biến mất theo ông, chẳng còn
dấu tích.
Sáu giờ sáng hôm sau, thứ 5 ngày 29/3,
Heinrici đã có lý do để tiếc nuối sự ra đi của Guderian. Ông vừa nhận được một
bức điện thông báo rằng Hitler vừa chỉ định Krebs làm Chỉ huy trưởng của OKH.
Krebs là một gã dẻo miệng, ủng hộ Hitler mù quáng, bị rất nhiều người căm ghét
sâu sắc. Về Ban tham mưu của Vistula, tin tức bổ nhiệm này, cùng với sự ra đi
của Guderian khiến bầu không khí trở nên ảm đạm. Tư lệnh hành quân, Đại tá
Eismann tổng kết quan điểm phổ biến lúc đó. Sau này ông nhớ lại:
“Ông ta luôn nở nụ cười thân thiện, làm
tôi liên tưởng đến một con hươu… đúng với dự đoán của bọn tôi. Krebs chỉ nói
toàn mấy lời tự tin – thế là tình thế lại biến thành màu hồng. Ông ta sẽ ủng hộ
Hitler hơn hẳn Guderian.”
Heinrici không bình luận gì về vụ bổ
nhiệm. Sự bảo vệ mạnh mẽ của Guderian dành cho Busse đã cứu được ông này và sẽ
không còn một cuộc tấn công tự sát nào vào Küstrin nữa. Vì thế, Heinrici cảm
thấy biết ơn Guderian, dù trước đây ông vẫn hay bất đồng ý kiến với ông ta. Ông
sẽ nhớ Guderian, vì ông biết Krebs từ hồi xưa, và không trông mong ông ta giúp
được gì. Sẽ không còn một Guderian trực tính để chống lưng cho Heinrici mỗi khi
ông gặp Hitler để thảo luận tình hình ở mặt trận sông Oder nữa. Ông sẽ phải gặp
Quốc trưởng trong một cuộc họp kéo dài cả ngày vào thứ sáu ngày 6/4.
Vào lúc chín giờ hơn sáng 29/3, một
chiếc xe hơi dừng bên ngoài tòa đại bản doanh chính của Cụm Tập đoàn quân
Vistula, và viên Tham mưu trưởng Berlin có bờ vai rộng cùng thân hình cao hơn
mét tám bước ra.
Đại tá Hans “Teddy” Refior mạnh mẽ đang
rất mong được gặp Tham mưu trưởng của tướng Heinrici, Trung tướng Kinzel. Ông
rất hi vọng là cuộc gặp sẽ diễn ra trôi chảy; được tướng Heinrici chỉ huy sẽ là
điều tốt đẹp nhất có thể xảy ra đối với Vùng Phòng thủ Berlin. Mang theo một mớ
bản đồ và biểu đồ, đại tá Refior, 39 tuổi, to con vạm vỡ, bước vào trong nhà.
Sau này ông viết trong nhật ký, dù đơn vị đóng ở Berlin khá nhỏ, nhưng Refior
tin là tướng Heinrici “sẽ vui vẻ khi tăng thêm quân.”
Ngay khi gặp ngài Tham mưu trưởng thì
ông bắt đầu dấy lên những tia nghi ngờ đầu tiên. Lời chào của Kinzel khá thận
trọng, dù không đến nỗi thiếu thân thiện. Refior đã hi vọng là ông bạn học cũ
của mình là Đại tá Eismann sẽ có mặt – họ đã cùng bàn bạc về tình hình Berlin
trong mấy tuần qua – nhưng chỉ có một mình Kinzel đón tiếp ông. Tham mưu trưởng
của Vistula có vẻ căng thẳng, cử chỉ của ông lộ vẻ thiếu kiên nhẫn. Được Kinzel
gợi ý, Refior mở mấy tấm bản đồ, biểu đồ ra và nhanh chóng bắt đầu tóm lược
tình hình. Ông giải thích rằng việc tướng Reymann không có cơ quan thẩm quyền
chủ chốt để chỉ thị đã tạo ra một tình thế gần như bất khả thi trong việc chỉ
huy Berlin. Ông nói thêm:
“Khi bọn tôi hỏi OKH có phải bọn tôi thuộc
quyền của họ không, thì họ bảo ‘OKH chỉ chịu trách nhiệm về mặt trận phía
đông.Các anh thuộc quyền của OKW [Bộ Tư lệnh Tối cao của các Lực lượng Vũ
trang].’ Thế là bọn tôi chạy qua OKW. Họ nói, ‘Sao lại đến chỗ bọn tôi? Mặt
trận Berlin đối diện với mặt trận phía đông, mấy anh thuộc trách nhiệm của OKH
mà.’”
Khi Refior nói, Kinzel xem xét mấy tấm
bản đồ và cách bố trí các lực lượng ở Berlin. Đột nhiên Kinzel ngẩng lên nhìn
Refior và lặng lẽ nói với ông quyết định của tướng Heinrici vào đêm hôm trước,
rằng sẽ không nhận trách nhiệm bảo vệ thành phố. Rồi theo như Refefior nhớ lại,
Kinzel nói vắn tắt về Hitler, Goebbels và vị chóp bu khác. Ông nói, “Theo tôi,
mấy thằng điên ở Berlin đó sẽ phải gieo gió gặt bão thôi.”
Trên đường quay về Berlin, Refior thấy
lòng hăng hái sôi nổi của mình vụn vỡ, lần đầu hiểu được tình cảnh của “một đứa
trẻ mồ côi bị từ chối.” Ông yêu Berlin. Ông từng theo học Học viện Quân sự, rồi
kết hôn và có hai đứa con – một trai, một gái – tại thủ đô. Giờ đây, có vẻ là
như ông đang làm việc trong sự cô đơn ngày một tăng để bảo vệ thành phố mà ông
từng có những năm tháng hạnh phúc nhất đời tại đây. Không có ai trong chuỗi mắt
xích của bộ tư lệnh muốn đưa ra quyết định mà theo Refior thấy là quyết định
tăm tối nhất: trách nhiệm phòng thủ và bảo vệ Berlin.
Tất cả những gì còn lại phải làm là cho
ít đồ đạc trên bàn làm việc vào một cái vali nhỏ. Ông đã nói lời tạm biệt với
ban tham mưu của mình, tóm lược tình hình cho người kế nhiệm, Krebs, giờ là
Thượng tướng.
Heinz Guderian đã sẵn sàng rời khỏi bộ
chỉ huy ở Zossen, điểm đến sắp tới của ông là một bí mật được bảo vệ rất kỹ.
Tuy nhiên, trước tiên ông định cùng vợ đi đến một viện điều dưỡng gần Munich , để điều trị cho
trái tim ốm yếu của ông.
Sau đó ông định đến nơi duy nhất còn
bình yên ở Đức: Nam Bavaria. Những hoạt động duy nhất ở đó xoay quanh các bệnh
viện quân đội và các nhà an dưỡng, những tướng lĩnh đã nghỉ hưu hoặc bị cách
chức, các quan chức chính phủ đi sơ tán và các cơ quan của họ.
Ngài đại tướng đã lựa chọn rất cẩn thận.
Ông sẽ ngồi ngoài cuộc chiến trong bầu không khí chẳng hề giống chiến tranh,
giữa những ngọn Alps xứ Bavaria .
Là nguyên Chỉ huy trưởng của OKH, Guderian biết tuyệt đối sẽ không có chuyện gì
xảy ra ở đó.
2.
Hôm đó là ngày Thứ sáu Tuần Thánh, ngày
30/3, ngày đầu tiên của tuần lễ Phục sinh. Ở Warm Springs ,
Georgia , Tổng thống Roosevelt vừa đến nghỉ tại Nhà Trắng Mini; một đám đông
đứng giữa trời nắng chang chang để chào mừng ông như thường lệ ở gần ga tàu
hỏa. Khi ngài Tổng thống vừa xuất hiện, đám đông xì xầm kinh ngạc. Ông được một
đặc vụ mật dìu ra khỏi tàu, đi đứng rất chậm, cơ thể nghiêng hẳn một bên. Không
còn cái vẫy tay vui vẻ, không có những lời hài hước với đám đông. Với nhiều
người, Roosevelt như sắp hôn mê tới nơi, chỉ
mơ hồ biết được chuyện gì đang diễn ra. Bị sốc và e sợ, mọi người đứng nhìn
trong yên lặng khi chiếc limousine của tổng thống chầm chậm chạy đi.
Ở Moscow ,
thời tiết êm dịu một cách lạ lùng. Từ căn hộ ở tầng hai trong tòa Đại sứ ở
đường Mokhavaya, Thiếu tướng John R. Deane nhìn chăm chăm ra bên ngoàiquảng
trường, lướt qua những mái vòm Byzantine xanh lục và những ngọn tháp của điện
Kremlin. Deane, Trưởng Phái bộ Quân sự Hoa Kỳ, cùng người đồng cấp người Anh
của ông là Đô đốc Ernest R. Archer đang đợi xác nhận từ các đại sứ của họ, W.
Averell Harriman và Sir Archibald Clark-Kerr, xem có sắp xếp được một buổi gặp
mặt với Stalin hay không. Trong buổi gặp đó, họ sẽ chuyển cho Stalin bức điện
“SCAF 252,”
đến từ Đại tướng Eisenhower ngày hôm trước (và ngài tổng thống Mỹ đau ốm vẫn
chưa xem qua).
Ở London ,
Winston Churchill vẫy tay với người đứng ngoài tòa nhà số 10 đường Downing,
miệng ngậm một điếu xì gà. Ông đang chuẩn bị đi đến Chequers, nơi ở chính thức
rộng 700 mẫu Anh dành cho Thủ tướng Anh ở Buckinghamshire, bằng xe hơi. Dù bề
ngoài tỏ ra vui vẻ, Churchill đang rất giận dữ và lo lắng. Trong mớ tài liệu
của ông có một bản sao của bức điện mà vị Tư lệnh Tối cao gửi cho Stalin. Lần
đầu tiên trong gần ba năm hợp tác khăng khít, ngài thủ tướng nổi cơn giận dữ
với Eisenhower.
Phản ứng của Anh với bức điện của
Eisenhower đã leo thang trong hơn 24 giờ qua. Ban đầu, người Anh bối rối, rồi
bị sốc, và cuối cùng là giận dữ. Cũng như Hội đồng Tham mưu trưởng Anh-Mỹ ở Washington , London
về sau mới biết chuyện bức điện – qua các bản sao gửi đến để “cung cấp thông
tin.”
Đến cả Phó Tư lệnh Tối cao người Anh,
Chánh Thống chế Không quân Sir Arthur Tedder cũng không được biết trước về bức
điện; London chẳng hề được ông báo tin gì. Bản thân Churchill thấy cực kỳ mất
cân bằng. Nhớ tới điện tín của Montgomery ngày
27/3 thông báo sẽ tiến về sông Elbe và “tôi hi vọng từ đó sẽ tới Berlin theo đường xa
lộ,” ngài thủ tướng nhanh chóng thảo một bức thư ngắn cho Tham mưu trưởng của
ông là Đại tướng Sir Hastings Ismay. Ông viết, thông điệp của Eisenhower gửi
cho Stalin “có vẻ khác với những gì Montgomery
đã nói về sông Elbe . Vui lòng giải thích.” Tạm
thời thì Ismay không thể giải thích được.
Vào lúc đó, Montgomery lại đem đến cho các vị cấp trên
của mình một ngạc nhiên nữa. Ông báo cáo với Đại nguyên soái Brooke là Tập đoàn
quân 9 Hoa Kỳ hùng mạnh sẽ đổi quyền chỉ huy từ ông sang Cụm Tập đoàn quân 12
của Đại tướng Bradley, lực lượng này thực hiện mũi tấn công trung tâm vào
Leipzig và Dresden. Montgomery
nói, “Tôi nghĩ chúng ta đã phạm phải một sai lầm khủng khiếp.”
Một lần nữa người Anh lại bị chọc điên
tiết. Đầu tiên, những thông tin như thế phải do Eisenhower nói, chứ không phải Montgomery . Nhưng tệ hơn
nữa, London
thấy có vẻ như ngài Tư lệnh Tối cao đang ôm đồm quá nhiều việc. Theo quan điểm
của Anh, ông không chỉ vượt quá phận sự bằng cách trực tiếp thương lượng với
Stalin, mà còn thay đổi những kế hoạch đã có từ lâu mà không hề báo trước. Thay
vì tấn công qua vùng đồng bằng phía bắc nước Đức bằng Cụm Tâp đoàn quân 21 của
Montgomery, vốn được đặc biệt thành lập cho cuộc tấn công này, Eisenhower lại
đột ngột chọn Bradley thực hiện cuộc tấn công cuối cùng của cuộc chiến tranh
vào trung tâm của Đức quốc xã.
Brooke đã cay đắng tổng kết quan điểm của
Anh: “Trước hết, Eisenhower không thể liên lạc trực tiếp với Stalin, mà phải
thông qua Hội đồng Tham mưu trưởng Anh-Mỹ; thứ hai, ông ta đã gửi một bức điện
báo khó hiểu; và cuối cùng, ngụ ý của thông điệp đó có vẻ mơ hồ, và cần phải
sửa đổi.” Chiều 29/3, đang cơn giận dữ, Brooke đã gửi một bức thư phản đối sắc
bén đến Washington
mà không hỏi ý Churchill. Một cuộc tranh cãi dữ dội và cay độc chầm chậm hình
thành về SCAF 252.
Cùng lúc đó, Deane, Trưởng Phái bộ Quân
sự Hoa Kỳ tại Moscow, vốn đang thực hiện những bước đầu để sắp xếp một buổi gặp
mặt với Stalin, gửi điện khẩn cho Eisenhower. Deane muốn “thêm một số thông tin
cơ bản phòng khi Stalin muốn thảo luận chi tiết hơn về kế hoạch của ngài.”
Sau nhiều tháng thương lượng vô ích với
Nga, Deane biết rõ ngài Tổng tư lệnh sẽ hỏi cái gì, và ông nói rõ toàn bộ với
Eisenhower:
“1) Bố trí hiện tại của quân Đồng minh;
2) Chi tiết hơn về kế hoạch điều động
quân;
3) (Các) Tập đoàn quân nào được dự kiến
sẽ là mũi tiến công chính và phụ…;
4) Tóm lược dự đoán hiện thời về cách bố
trí và ý định của địch.”
SHAEF nhanh chóng chấp thuận. Vào 8:15
tối hôm đó, thông tin tình báo đang trên đường tới Moscow. Deane nhận được
thông tin về bố trí của quân Anh-Mỹ và thứ tự tấn công của các đơn vị từ bắc
xuống nam. Thông tin đó chi tiết tới mức nó có đề cập cả việc Tập đoàn quân 9
Hoa Kỳ được chuyển lại từ Montgomery cho Bradley.
Năm mươi mốt phút sau, SHAEF nghe tin từ
Montgomery. Ông đang buồn rầu một cách dễ hiểu. Mất đi Tập đoàn quân của tướng
Simpson, sức mạnh của ông bị suy yếu và khả năng thành công chiếm được Berlin
coi như xong. Nhưng ông vẫn hi vọng sẽ thuyết phục được Eisenhower trì hoãn
việc chuyển giao. Ông gửi đến một thông điệp lịch thiệp kỳ lạ. Ông viết:
“Tôi nhận thấy ngài muốn đổi quyền chỉ
huy. Nếu ngài thấy điều đó là cần thiết thì tôi mong ngài sẽ không bắt làm thế
cho tới khi nào chúng ta tới được sông Elbe, vì làm thế chẳng ích gì cho cuộc
hành quân vừa mới bắt đầu phát triển.”
Các quan chức Washington nhanh chóng khám
phá ra rằng mấy vị cấp trên của Montgomery ở Anh thì chẳng còn tâm trạng đâu mà
lịch thiệp nữa. Tại Lầu Năm Góc, bức thư phản đối của Brooke được đại diện của
Anh trong Hội đồng Tham mưu trưởng Anh-Mỹ là Thống chế Sir Henry Maitland
Wilson chính thức chuyển cho Đại tướng Marshall. Bức thư lên án quá trình
Eisenhower dùng để liên lạc với Stalin và buộc tội vị Tư lệnh Tối cao vì đã
thay đổi kế hoạch. Vừa ngạc nhiên vừa lo lắng, Marshall đánh điện ngay cho
Eisenhower. Bức điện của ông chủ yếu là tường thuật lại lá thư phản đối của
Anh. Ông nói, họ cho rằng nên làm theo chiến lược đã có sẵn – để Montgomery tấn
công về phía bắc để chiếm các cảng biển của Đức rồi từ đó “hủy bỏ chiến tranh
tàu ngầm trên diện rộng,” và làm thế cũng sẽ giải phóng được Hà Lan, Đan Mạch
và mở lại liên lạc với Thụy Điển, tận dụng được “khả năng vận chuyển gần hai
triệu tấn của Thụy Điển và Na Uy, giờ đang bỏ không ở các cảng của Thụy Điển.”
Marshall trích lời vị Thống chế “thực sự thấy rằng giữ nguyên mũi tấn công
chính… qua vùng đồng bằng tây bắc nước Đức với mục tiêu chiếm được Berlin…”
Để chống đỡ với mấy lời chỉ trích về Eisenhower
của Anh và hàn gắn tình đoàn kết Anh-Mỹ càng sớm càng tốt, Marshall định trao
quyền và thỏa thuận với cả hai bên. Sự hoang mang và bực bội của ông với hành
động của viên Tư lệnh Tối cao được thể hiện trong đoạn cuối của bức điện:
“Trước khi anh gửi bức điện SCAF 252, anh đã xem xét về khía cạnh thủy chiến
của Anh chưa?” Ông kết thúc bằng câu: “Anh cần hồi âm khẩn cấp.”
Hơn ai hết, có một người thấy tình hình
đang rất cấp bách – và quả thực đang hết sức hỗn loạn. Tâm trạng lo âu của
Winston Churchill gia tăng từng giờ. Vụ Eisenhower xuất hiện đúng lúc mối quan
hệ giữa ba phe Đồng minh đang không tốt. Đây là giai đoạn khủng hoảng, và
Churchill thấy rất cô độc. Ông không biết bệnh tình của Roosevelt ra sao, nhưng
trước đó một thời gian, ông thấy việc thư từ qua lại với ngài tổng thống thật
khó khăn và khiến ông hoang mang. Sau này ông nói: “Trong mấy bức điện dài tôi
gửi, tôi cứ nghĩ mình đang nói chuyện với người bạn và người đồng nghiệp đáng
tin cậy… [nhưng] ông ấy không còn đọc hết được nữa… nhiều người khác nhau viết
thư trả lời dưới danh nghĩa ông ấy… Roosevelt chỉ có thể đưa ra chỉ thị và chấp
thuận chung chung… những tuần lễ đó thật tai hại.”
Tình hình chính trị giữa phương Tây với
Nga đang xấu đi nhanh chóng rõ rệt còn đáng lo hơn. Sự nghi ngờ của Churchill
về các mục tiêu hậu chiến của Stalin tăng dần kể từ hội nghị Yalta. Ngài chủ
tịch Liên Xô đã coi thường các điều khoản được ký kết ở đó; giờ gần như mỗi
ngày đều có khuynh hướng xấu xuất hiện. Liên Xô đang chầm chậm nuốt chửng Đông
Âu; máy bay ném bom của Anh và Mỹ, bị tụt lại đằng sau trận tuyến của Hồng quân
vì các vấn đề nhiên liệu hoặc kỹ thuật, đang mắc kẹt ở đó cùng phi hành đoàn;
các căn cứ và cơ sở hạ tầng không quân mà Stalin từng hứa sẽ cho máy bay ném
bom Anh Mỹ sử dụng đột nhiên bị hủy bỏ; và dù có quyền tự do giải phóng các
trại tù chiến tranh ở tây Đức để đưa quân của mình về nước, Nga lại từ chối cho
phép các đại diện của phương Tây tiến vào, giải cứu hoặc bằng bất kỳ cách nào
hỗ trợ lính Anh-Mỹ ở các trại tù Đông Âu.
Tệ hơn, Stalin cáo buộc rằng “Các cựu tù
binh Liên Xô trong nhà tù của Mỹ… bị đối xử không công bằng và bị hành hạ trái
luật, trong đó có đánh đập.”
Khi quân Đức ở Italy cố tìm cách đàm phán
đầu hàng bí mật, thì phản ứng của Nga là đưa ra một bức thư lăng mạ, cáo buộc
quân Đồng minh phản bội, thương lượng với địch “sau lưng Liên Xô, vốn đang phải
gánh vác cuộc chiến…” (*)
Và giờ lại thêm bức điện Eisenhower gửi
cho Stalin. Ở thời điểm mà việc lựa chọn các mục tiêu quân sự có thể quyết định
tương lai châu Âu sau chiến tranh, Churchill thấy việc Eisenhower liên lạc với
nhà độc tài Liên Xô là một can thiệp tai hại vào chiến lược chính trị và chiến
lược toàn thể - những lĩnh vực mà ngài thủ tướng và Roosevelt quan tâm sâu sắc.
Với Churchill, Berlin rất quan trọng về
mặt chính trị, mà có vẻ như giờ đây Eisenhower không định nỗ lực hết mình để
chiếm được thành phố nữa.
Gần nửa đêm ngày 29/3, Churchill điện cho
Eisenhower bằng điện thoại cao tần và yêu cầu vị Tư lệnh Tối cao giải thích rõ
kế hoạch của mình. Ngài thủ tướng thận trọng tránh đề cập tới bức điện gửi
Stalin. Thay vào đó, ông nhấn mạnh tầm quan trọng về mặt chính trị của Berlin
và tranh luận rằng nên để Montgomery tiếp tục tấn công về hướng bắc. Churchill
thấy điều quan trọng nhất là quân Đồng minh phải chiếm được thủ đô trước quân
Nga. Giờ, qua ngày 30/3, khi ông bắt đầu chuyến đi 60 dặm có lẻ tới Chequers,
ông trầm tư suy nghĩ về câu trả lời của Eisenhower. Vị Tư lệnh Tối cao đã nói,
“Berlin không còn là mục tiêu quân sự chính nữa.”
Ở Reims, cơn giận của Dwoght Eisenhower
cũng leo thang theo lá thư phản đối của Anh. Phản ứng dữ dội của London về việc
hạn chế cuộc tấn công phía bắc của Montgomery khiến ông ngạc nhiên, nhưng cơn
bão giận dữ về bức điện gửi cho Stalin của ông còn khiến ông ngạc nhiên hơn.
Ông thấy chẳng có lý do gì để bàn cãi cả. Ông tin hành động của mình là chính
xác và cần thiết về mặt quân sự, và ông điên tiết khi thấy quyết định của mình
bị thách thức. Vốn dễ nổi nóng, giờ Eisenhower là nhà lãnh đạo giận dữ nhất của
quân Đồng minh.
Sáng 30/3, ông bắt đầu hồi âm các bức
điện từ Washington và London. Bước đầu tiên ông làm là gửi một tin ngắn báo đã
nhận được bức điện của Marshall đêm qua. Ông hứa sẽ trả lời chi tiết hơn trong
vòng vài tiếng nữa, nhưng tạm thời khẳng định mình sẽ không đổi kế hoạch, và
lời cáo buộc của Anh “thực sự không có nền tảng… Kế hoạch của tôi sẽ chiếm được
các cảng biển và mọi thứ khác ở biển bắc nhanh và chính xác hơn nếu như bức
điện Wilson gửi cho ngài không làm tôi phân tâm.”
Tiếp đó, để hồi âm cho đề nghị qua điện
thoại của ngài thủ tướng hồi đêm, ông gửi cho Churchill các chi tiết giải thích
rõ những mệnh lệnh đã đưa ra cho Montgomery. “Theo ý định của Nga,” mũi tấn
công chính vào Leipzig và Dresden do Bradley chỉ huy là cần thiết để “cắt đôi”
quân Đức và tiêu diệt phần lớn lực lượng còn lại của địch ở phía tây. Một khi
đã thành công, Eisenhower định “tiến hành càn quét các cảng biển phía bắc.”
Ngài Tư lệnh Tối cao nói Montgomery sẽ “chịu trách nhiệm các nhiệm vụ đó, và
tôi định tăng cường lực lượng cho ông ấy nếu cần.”
Một khi “các yêu cầu trên đã được đáp
ứng,” Eisenhower sẽ đưa Đại tướng Devers và Cụm Tập đoàn quân 6 của ông đi về
hướng đông nam đến vùng Pháo đài “để ngăn ngừa khả năng quân Đức hợp nhất lại ở
miền nam, và phối hợp với quân Nga ở đồng bằng sông Danube.”
Ngài Tư lệnh Tối cao khép lại bằng cách
lưu ý rằng các kế hoạch hiện thời của ông “linh hoạt và có thay đổi để thích
nghi với những tình hình ngoài dự kiến.” Berlin không được nhắc tới.
.......................
(*): Sau này Churchill viết rằng, ông đã cho
Eisenhower xem bức thư này của Nga vào ngày 24/3 và vị Tư lệnh Tối cao “có vẻ
kích động vì giận dữ, cho đó là những cáo buộc vô căn cứ và bất công hết sức về
thiện chí của chúng ta.”
Bức điện của Eisenhower gửi cho ngài thủ
tướng khá thận trọng và chuẩn xác; nó không biểu lộ sự giận dữ của ông. Nhưng
cơn thịnh nộ của ông thể hiện rõ trong bức điện chi tiết gửi cho Marshall như
đã hứa trước đó. Eisenhower nói với ngài Tham mưu trưởng Hoa Kỳ rằng ông “hoàn
toàn không biết gì về cái ‘thủ tục’ mà lá thư phản đối nói đến. Tôi đã được chỉ
thị thương lượng trực tiếp với Nga về phối hợp quân sự với nhau.”
Về chiến lược của mình, Eisenhower nhấn
mạnh lần nữa rằng sẽ không có gì thay đổi. Ông nói, “Hè năm ngoái, các tham mưu
trưởng của Anh luôn phản đối quyết định mở… tuyến đường [trung tâm] của tôi, họ
nói nó vô ích và… làm giảm bớt sức mạnh của mũi tấn công hướng bắc. Tôi đã luôn
nhấn mạnh là cuộc tấn công hướng bắc sẽ là nòng cốt… để cô lập vùng Ruhr, nhưng
ngay từ đầu, từ trước D-Day, kế hoạch của tôi… đã liên kết… mũi tấn công chính
và phụ… rồi tạo thành một mũi tấn công chủ đạo về phía đông. Ngay cả khi xem
lướt qua… cũng thấy mũi tấn công chính… nên hướng vào vùng Leipzig, nơi tập
trung phần lớn năng lực công nghiệp còn lại của Đức và dự kiến các bộ ngành của
Đức sẽ chuyển tới đó.”
Quay trở lại sự ủng hộ của
Montgomery-Brooke về chiến lược một mũi tiến công, Eisenhower nói: “Đơn thuần
làm theo nguyên lý mà Thống chế Brooke suốt ngày hét bên tai, tôi đã quyết tập
trung vào một mũi tấn công chính và tất cả những gì bản kế hoạch của tôi làm là
để Tập đoàn quân 9 Hoa Kỳ quay trở lại quyền chỉ huy của tướng Bradley vì giai
đoạn đó của chiến dịch sẽ là tiến về trung tâm… kế hoạch cho thấy Tập đoàn quân
9 sẽ có thể quay lại hỗ trợ các tập đoàn quân của Anh và Canada để càn quét
toàn bộ vùng duyên hải phía tây Lübeck.” Sau đó, “chúng ta có thể đưa quân về
phía đông nam để ngăn Nazi chiếm thành trì trong núi.”
Pháo đài Quốc gia mà Eisenhower gọi là
“thành trì trong núi” giờ đã thành mục tiêu quân sự chính – được quan tâm nhiều
hơn là Berlin, thực vậy. Vị Tư lệnh Tối cao nói, “Tôi có thể chỉ ra là bản thân
Berlin không còn là một mục tiêu đặc biệt quan trọng nữa. Sự hữu ích của nó với
người Đức đã bị phá hoại gần hết và cả chính quyền ở đó cũng đang chuyển đến
nơi khác. Điều quan trọng bây giờ là tập trung lực lượng của chúng ta để thực
hiện một cuộc tấn công duy nhất, và cuộc tấn công này sẽ nhanh chóng khiến
Berlin sụp đổ, giải phóng Na Uy và giành được khả năng vận tải của các cảng
biển Thụy Điển hơn là phân tán lực lượng ra.”
Vào lúc Eisenhower viết tới đoạn cuối
bức điện, cơn giận của ông với người Anh hầu như không kiềm chế nữa. Ông khẳng
định:
“Ngài thủ tướng và tham mưu trưởng của
ông ấy phản đối ‘Anvil’ [cuộc tấn công vào miền nam nước Pháp]; họ phản đối
việc tôi cho là nên tiêu diệt quân Đức ở phía tây sông Rhine trước khi vượt
sông; và họ khăng khăng là đi theo tuyến đường đông bắc thì sẽ chỉ gặp kháng cự
sơ sài ở vùng nông thôn mà thôi. Giờ họ lại muốn tôi thay đổi chiến dịch liên
quan đến hàng chục ngàn quân trước khi quân Đức thất bại hoàn toàn. Tôi phải nói
là các vấn đề này đã được tôi và các cố vấn nghiên cứu hàng ngày hàng giờ và
tất cả chúng tôi đều chung một suy nghĩ là mau chóng thắng cuộc.” (*)
Sau đó, ở Washington, Đại tướng Marshall
và Hội đồng Tham mưu trưởng Anh-Mỹ nhận được phiên bản phóng đại của lá thư
phản đối hôm qua của ngài Tham mưu trưởng Anh quốc. Phần lớn bức điện thứ hai
lặp lạibức thứ nhất nhưng dài dòng hơn, nhưng có thêm hai chỗ quan trọng. Trong
thời gian chuyển tiếp, người Anh đã nghe từ Đô đốc Archer ở Moscow nói về những
tin tình báo mà SHAEF gửi thêm cho Deane. Anh cực lực cho rằng các thông tin
này cần giữ kín với Nga. Khi thấy các cuộc thảo luận đã bắt đầu, London muốn
hoãn các cuộc bàn bạc để Hội đồng Tham mưu trưởng Anh-Mỹ xem xét lại tình hình.
Nhưng giờ thì người Anh lại quay ra
bất đồng với nhau – không chỉ về tính đúng đắn của bức điện của Eisenhower, mà
còn về việc nên công kích những phần nào của bức điện. Ban Tham mưu trưởng Anh
quốc đã giấu không cho Churchill xem lá thư phản đối của họ trước khi gửi đến
Washington. Và sự phản đối của Churchill thì lại khác với các cố vấn quân sự
của ông. Với ông, “điểm đáng phê bình nhất trong kế hoạch mới của Eisenhower là
việc nó chuyển trục tấn công chính từ Berlin sang Leipzig và Dresden.” Ngài thủ
tướng thấy, theo kế hoạch này thì quân Anh “sẽ bị giao cho một vai trò gần như
không đổi ở miền Bắc.” Tệ hơn, “mọi khả năng để quân Anh tiến vào Berlin cùng
Mỹ coi như bị xóa sổ.”
Trong tâm tưởng ngài thủ tướng, Berlin
vẫn luôn là tối quan trọng. Có vẻ như ông thấy Eisenhower “có thể sai lầm khi
coi Berlin không quan trọng lắm về mặt quân sự hay chính trị.” Dù các cơ quan
chính phủ đã “chuyển phần lớn về phía nam, nhưng không nên bỏ qua cảm giác của
người Đức khi Berlin sụp đổ.” Ông bị ám ảnh trước mối nguy của việc “bỏ qua
Berlin và để nó cho Nga.” Ông khẳng định: “Chừng nào Berlin còn chống cự và
đứng vững trong đống đổ nát trước cuộc bao vây, mà rất có khả năng thế, thì sự
chống cự của Đức vẫn sẽ được khích lệ. Sự sụp đổ của Berlin có thể khiến gần
hết dân Đức tuyệt vọng.”
Trong khi đồng ý về cơ bản với các tranh
cãi của ban tham mưu, Churchill thấy họ dồn sự phản đối của mình vào “nhiều vấn
đề thứ yếu không liên quan.” Ông chỉ ra rằng “danh tiếng của Eisenhower đối với
Ban Tham mưu Hoa Kỳ rất là cao… người Mỹ sẽ thấy vì ông ta là Tư lệnh Tối cao
danh giá, nên ông ta có quyền, và thực sự cần cố gắng tìm… thời điểm thích hợp
nhất để quân phương Đông và phương Tây liên lạc với nhau.” Churchill sợ là sự
phản đối của Anh sẽ chỉ tạo ra “khả năng tranh cãi… với Ban tham mưu Hoa Kỳ.”
Ông đoán họ sẽ “đáp trả nặng nề.” Và thực vậy.
Thứ bảy ngày 31/3, các đầu lĩnh quân sự Mỹ
dành cho Eisenhower sự ủng hộ tuyệt đối. Họ chỉ đồng ý với Anh về hai điểm:
Eisenhower nên trình bày kế hoạch của mình cho Hội đồng Tham mưu trưởng Anh-Mỹ
và nên giữ kín các chi tiết gửi thêm cho Deane.
Theo quan điểm của các tướng lĩnh Mỹ,
“trận chiến ở Đức giờ đã tới lúc mà Tư lệnh Chiến trường là người đánh giá tốt
nhất xem biện pháp nào sẽ tiêu diệt quân Đức hoặc năng lực kháng cự của chúng
nhanh nhất… Đại tướng Eisenhower nên tiếp tục được tự do liên lạc với Tổng tư
lệnh của quân đội Liên Xô.” Đối với giới chức quân sự Mỹ, chỉ có một mục tiêu
duy nhất, và nó không bao gồm các cân nhắc chính trị. Họ nói, “Mục tiêu duy
nhất là chiến thắng triệt để và nhanh chóng.”
Tuy vậy, cuộc tranh cãi còn lâu mới kết
thúc. Ở Reims, Eisenhower đang căng thẳng vẫn cứ phải giải thích đi giải thích
lại về quan điểm của ông. Trong ngày, theo chỉ thị của Marshall, Eisenhower đã
gửi cho Hội đồng Tham mưu trưởng Anh-Mỹ một bài trình bày kế hoạch dài và chi
tiết.
Sau đó, ông đánh điện đến Moscow và ra
lệnh cho Deane giữ kín với Stalin các thông tin thêm mà SHAEF đã gửi. Sau đó
ông đảm bảo với Marshall trong một bức điện khác:
“Ngài có thể chắc chắn là trong tương
lai, các bức điện về chính sách trao đổi giữa tôi với Phái bộ quân sự ở Moscow
sẽ được sao ra cho Hội đồng Tham mưu trưởng Anh-Mỹ và cho người Anh.”
Và cuối cùng, ông giải quyết lời cầu khẩn
chưa được hồi âm của Montgomery, đến trước đó gần 48 tiếng.
Không phải chỉ vì tính cấp bách của các bức
điện trước mà Eisenhower trả lời Montgomery cuối cùng. Mối quan hệ giữa hai người
họ đã trở nên căng thẳng đến mức giờ Eisenhower chỉ liên lạc với viên Thống chế
khi thực sự cần thiết.
............................
(*): Bức điện 1.000 từ của Eisenhower
không xuất hiện trong lịch sử chính thống, và bản nằm trong cuốn Crusade in
Europe (Cuộc Thập tự chinh ở châu Âu) của ông đã được cắt xén và biên tập lại.
Ví dụ, cụm từ “suốt ngày hét bên tai” đã được đổi thành “luôn nhấn mạnh,” còn
đoạn cuối đầy giận dữ được trích bên trên thì bị bỏ hoàn toàn. Mỉa mai thay,
bức điện ban đầu do một người Anh soạn thảo, Phó Tư lệnh hành quân của SHAEF,
Thiếu tướng John Whiteley, nhưng lúc gửi đi từ bộ chỉ huy thì nó có đóng dấu
của Eisenhower.
Nhiều năm sau, vị Tư lệnh Tối cao giải
thích (*):
“Montgomery trở nên quá cá nhân, nỗ lực bảo
đảm rằng người Mỹ – mà đặc biệt là tôi – không có được danh tiếng, rằng chúng
ta chẳng có gì để làm với cuộc chiến, đến mức cuối cùng tôi ngừng nói chuyện
với ông ấy.”
Ngài Tư lệnh Tối cao và Ban tham mưu của
mình – thú vị là, gồm có các tướng lĩnh cấp cao người Anh ở SHAEF – thấy
Montgomery là một kẻ gây rối ích kỷ, ngoài chiến trường thì quá mức cẩn trọng
và chậm chạp.
Thiếu tướng John Whiteley người Anh, Phó
Tư lệnh hành quân của SHAEF nhớ lại, “Monty muốn cưỡi một con ngựa chiến tới
Berlin và đội hai cái mũ, nhưng tôi có cảm giác là muốn làm cái gì cho nhanh
thì đừng có giao nó cho Monty.”
Trung tướng Sir Frederick Morgan, Phó Tham
mưu trưởng của SHAEF, lại nói cách khác. “Vào lúc đó, Monty là người cuối cùng
Ike chọn để tấn công Berlin – Monty sẽ phải cần ít nhất 6 tháng để chuẩn bị
mất.”
Bradley là típ người khác. Eisenhower nói
với sĩ quan phụ tá của mình: “Bradley không bao giờ chần chừ, không bao giờ
ngừng lại để tái cơ cấu khi thấy có cơ hội tiến lên.”
Giờ đây, cơn giận dữ của Eisenhower trước
những lời chỉ trích về bức điện gửi cho Stalin của ông, cộng thêm sự đối kháng
lâu ngày giữa ông và Montgomery, được thể hiện rõ trong bức điện hồi âm của ông
cho ngài đại nguyên soái. Nó tràn ngập giận dữ. Ông viết:
“Tôi phải duy trì quyết định của mình về
việc giao Tập đoàn quân 9 cho tướng Bradley… Như tôi đã nói với anh, vào giai
đoạn sau của chiến dịch, anh sẽ được giao lại một đội quân Mỹ ở sông Elbe. Anh
sẽ thấy tôi không hề nhắc tới Berlin. Với tôi, nơi đó giờ chỉ còn là một địa
danh mà thôi, và tôi chưa từng quan tâm đến nơi đó. Mục đích của tôi là tiêu diệt
các lực lượng của quân địch…”
Ngay cả khi Eisenhower đã làm rõ quan
điểm của mình với Montgomery, ở Chequers, Churchill đang viết cho vị Tư lệnh
Tối cao một lời khẩn cầu lịch sử. Nó gần như đối chọi từng khía cạnh với những
lời Eisenhower đã nói với Montgomery. Gần bảy giờ tối, ngài thủ tướng đánh điện
cho ngài Tư lệnh Tối cao.
“Nếu vị trí của địch suy yếu, như anh dự
đoán… thì sao ta không vượt sông Elbe và tiến về phía Đông càng xa càng tốt?
Điều này có ý nghĩa chính trị quan trọng, vì quân Nga… chắc chắn sẽ vào Vienna
và giành lấy Áo. Nếu chúng ta chủ định để Berlin cho bọn họ, ngay cả khi nó nên
nằm trong tay chúng ta, cả hai sự kiện có thể sẽ củng cố niềm tin của họ, vốn
đã rất rõ ràng, rằng họ đã làm mọi chuyện.
“Hơn nữa, tôi không nghĩ là Berlin đã mất
tầm quan trọng về mặt quân sự và chắc chắc là mặt chính trị cũng không. Sự sụp
đổ của Berlin sẽ có hiệu quả sâu sắc về tâm lý lên sự kháng cự của Đức trên
toàn đế chế Đức. Chừng nào Berlin còn cầm cự được, cả đống dân Đức sẽ thấy mình
có trách nhiệm phải chiến đấu. Ý tưởng cho rẳng chiếm Dresden và phối hợp với
quân Nga ở đó là một thành tựu lớn không có ý nghĩa gì với tôi… Chừng nào
Berlin còn cắm cờ Đức, theo tôi chừng đó nó còn là điểm mang tính quyết định
nhất của nước Đức.
“Do đó,
tôi muốn làm theo kế hoạch vượt sông Rhine hơn, cụ thể là Tập đoàn quân 9 Hoa
Kỳ nên đi cùng với Cụm Tập đoàn quân 21 đến sông Elbe rồi đến Berlin…”
Ở Moscow, khi đêm xuống, các đại sứ Anh
và Mỹ, cùng với Deane và Archer cùng gặp ngài chủ tịch Liên Xô và chuyển cho
ông bức điện của Eisenhower. Cuộc gặp khá ngắn. Theo như Deane nói với ngài Tư
lệnh Tối cao sau này, Stalin “rất ấn tượng với phương hướng tấn công vào trung
tâm nước Đức” và ông ta nghĩ rằng “cuộc tấn công chính của Eisenhower khá tốt,
nó sẽ hoàn thành mục tiêu quan trọng nhất là chia đôi nước Đức.”
Ông ta cũng thấy “cứ điểm cuối cùng của
Đức có thể nằm ở phía tây Tiệp Khắc và Bavaria.” Trong khi chấp thuận chiến
lược của Anh—Mỹ, Stalin lại mập mờ về chiến lược của mình. Ngài chủ tịch nói,
phải chờ ông hội ý với ban tham mưu của mình rồi mới tiết lộ sự phối hợp cuối
cùng của kế hoạch của Liên Xô được. Cuối buổi họp, ông ta hứa sẽ hồi âm cho bức
điện của Eisenhower trong vòng 24 giờ.
Một lát sau khi các vị khách đã đi,
Stalin nhấc điện thoại gọi cho Nguyên soái Zhukov và Nguyên soái Koniev. Ông
nói gọn lỏn nhưng mệnh lệnh của ông rất rõ ràng: hai vị tư lệnh phải bay về
Moscow ngay để họp khẩn vào ngày hôm sau, ngày chủ nhật Phục sinh. Dù không
giải thích nguyên do cho mệnh lệnh của mình, Stalin đã quyết định tin là phương
Tây đang nói dối; ông chắc chắn Eisenhower đang định đua với Hồng quân để giành
Berlin.
3.
Chuyến bay cả nghìn dặm từ mặt trận phía
Đông về Moscow thật dài và mệt mỏi. Nguyên soái Georgi Zhukov uể oải ngồi dựa
ra sau trên chiếc xe sĩ quan màu xám đang xóc nẩy trên con dốc rải sỏi, hướng
về Quảng trường Đỏ rộng thênh thang.
Chiếc xe chạy vù qua Thánh đường St.
Basil với những mái vòm có sọc nhiều màu, rẽ trái rồi chạy qua tường bảo vệ của
điện Kremlin từ cổng tây. Ở ngay sau Zhukov, trong một chiếc sedan quân đội
khác là Nguyên soái Ivan Koniev. Trên mặt đồng hồ của tòa tháp Saviour hùng vĩ
đứng sừng sững ở lối vào, kim đồng hồ chỉ gần 5 giờ chiều.
Băng qua khoảng sân trong lộng gió, hai
chiếc xe sĩ quan tiến vào quần thể kiến trúc gồm những tòa lâu đài có bích họa,
những thánh đường có mái vòm mạ vàng và những tòa nhà chính phủ sơn màu vàng,
nơi từng thuộc về Sa hoàng và các hoàng tử, rồi chạy đến trung tâm của điện
Kremlin.
Đến gần tháp chuông tưởng niệm Ivan Đại
đế xây bằng gạch trắng có từ thế kỷ 17, xe chạy chậm lại, lăn bánh qua một hàng
đại pháo cổ xưa rồi dừng bên ngoài một tòa nhà dài, cao ba tầng màu cát. Một
lát sau, hai người đàn ông mặc đồng phục màu nâu xám may đo cẩn thận, cầu vai
bằng vàng nặng nề có một ngôi sao bề ngang khoảng hai phân rưỡi, tượng trưng
cho cấp bậc nguyên soái của Liên Xô bước vào thang máy, đi lên văn phòng của
Stalin trên tầng hai.
Trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, vây
quanh bởi các sĩ quan phụ tá và lực lượng tháp tùng, hai người họ lịch sự nói
mấy câu chuyện phiếm. Người bình thường nhìn vào sẽ tưởng họ là bạn thân. Nhưng
thực chất, họ là kỳ phùng địch thủ.
Cả Zhukov và Koniev đều đã đạt tới đỉnh
vinh quang nghề nghiệp. Cả hai đều là người theo chủ nghĩa hoàn mỹ, thực dụng
và can trường, các sĩ quan đều coi việc được phục vụ dưới quyền họ vừa là một
vinh dự, vừa là một trách nhiệm tuyệt vời. Zhukov khá thấp, đậm người, bề ngoài
có vẻ ôn hòa và cũng là người nổi tiếng hơn, được cả công chúng thần tượng và
được coi là quân nhân vĩ đại nhất Liên Xô. Cũng có những sĩ quan xem ông là một
con quái vật.
Zhukov là một quân nhân chuyên nghiệp,
khởi nghiệp từ một binh nhì trong Kỵ binh Hoàng gia của Sa hoàng. Khi Cách mạng
Nga nổ ra năm 1917, ông tham gia quân cách mạng; là một kỵ binh Liên Xô, ông đã
chiến đấu dũng cảm và ác liệt với những kẻ chống Bolshevik, và sau nội chiến
được thăng làm sĩ quan Hồng quân.
Dù có óc sáng tạo phi thường cùng tài chỉ
huy bẩm sinh, Zhukov sẽ vẫn chỉ là một sĩ quan vô danh nếu như Stalin không
tiến hành thanh trừng các tướng lĩnh Hồng quân một cách đẫm máu vào những năm
ba mươi. Phần lớn số bị thanh trừng đều là cựu binh của cuộc cách mạng, nhưng
Zhukov lại thoát, có lẽ vì con người ông thiên về “quân đội” hơn là “đảng
phái.” Cuộc trừ khử tàn nhẫn những người cũ mở đường thăng quan tiến chức nhanh
chóng cho ông. Đến năm 1941, ông đã lên được vị trí cao nhất trong giới quân sự
Liên Xô: Tổng tham mưu trưởng quân đội Liên Xô.
...............................
(*):
Trong một cuộc phỏng vấn có ghi âm khá dài và chi tiết với tác giả.
Zhukov được coi là “người lính của
lính.” Có lẽ vì bản thân từng là một binh nhì, ông nổi tiếng là khoan dung với
binh lính. Miễn là quân của ông chiến đấu tốt, ông coi chiến lợi phẩm mà họ
cướp bóc được là những thứ họ đáng được hưởng. Nhưng với các sĩ quan ông lại
rất nghiêm khắc. Các tư lệnh cấp cao khi không hoàn thành nhiệm vụ thường bị sa
thải ngay tại chỗ và bị phạt vì đã thất bại. Hình phạt thường là một trong hai
kiểu: viên sĩ quan bị đưa đến một tiểu đoàn trừng giới(*), hoặc phục vụ ở nơi nguy
hiểm nhất ngoài mặt trận với tư cách là một binh nhì. Đôi khi người đó được lựa
chọn.
Một lần, trong chiến dịch Ba Lan năm
1944, Zhukov cùng với Nguyên soái Konstantin Rokossovskii và Đại tướng Pavel
Batov, tư lệnh Tập đoàn quân 66 đứng quan sát đoàn quân hành quân. Đang quan
sát bằng ống nhòm, đột nhiên Zhukov hét với Batov: “Đưa thằng tư lệnh quân đoàn
với thằng tư lệnh Sư đoàn bộ binh 44 vào tiểu đoàn trừng giới!”
Cả Rokossovskii và Batov cùng xin cho
hai vị tướng. Rokossovskii cứu được vị tư lệnh quân đoàn. Nhưng Zhukov kiên
quyết đối với người sĩ quan kia. Vị tướng đó bị giáng chức ngay lập tức, bị đưa
ra ngoài trận tuyến và phải chỉ huy một cuộc tấn công tự sát. Ông ta nhanh
chóng bị giết. Sau đó Zhukov đề nghị truy tặng người sĩ quan đã hi sinh đó danh
hiệu quân sự cao quý nhất của Nga, Anh hùng Liên Xô.
Zhukov từng ba lần được trao tặng danh
hiệu Anh hùng Liên Xô – và đối thủ cạnh tranh của ông là Koniev cũng vậy. Cả
hai nguyên soái đều có hàng đống danh hiệu, nhưng trong khi danh tiếng của
Zhukov đã lan rộng khắp Liên Xô, thì Koniev vẫn còn khá vô danh – và điều đó
thật khốn khổ.
Koniev là một người cao ráo, mạnh mẽ,
cộc cằn với đôi mắt xanh lấp lánh vẻ sắc sảo. Ông 48 tuổi, nhỏ hơn Zhukov một
tuồi, và sự nghiệp của ông cũng giống với Zhukov về một số mặt. Ông cũng từng
chiến đấu cho Sa hoàng, rồi chuyển qua quân cách mạng và tiếp tục phục vụ trong
quân đội Liên Xô.
Nhưng có một điểm khác biệt, và đối với
những người như Zhukov thì đó là một khác biệt lớn. Koniev bước vào Hồng quân
với tư cách một chính ủy, và dù ông đã chuyển qua làm tư lệnh vào năm 1926 và
trở thành một sĩ quan bình thường, thì đối với những người lính khác, lý lịch
của ông vĩnh viễn có tì vết.
Các chính ủy luôn bị binh lính căm ghét.
Bởi vì, họ có quyền lớn đến nỗi tư lệnh không thể đưa ra mệnh lệnh nào trừ phi
đã được chính ủy đồng cấp tiếp ký. Dù trung thành với Đảng, Zhukov chưa từng
xem những người từng là chính ủy là quân nhân thực thụ. Trong những năm trước
chiến tranh, ông luôn khó chịu khi ông và Koniev cùng chỉ huy một nơi, rồi có
quá trình thăng chức tương tự nhau. Stalin đã tự tay chọn họ cho bộ khung tướng
lĩnh trẻ tuổi của mình trong những năm ba mươi, và ông ta biết rõ quan hệ đối
chọi căng thẳng giữa hai người: ông ta dùng điểm này để kiềm chế cả hai.
Dù có kiểu cách bộc trực, thô lỗ, giới
quân sự thường coi Koniev là người sâu sắc và có học vấn hơn trong hai người.
Cực mê đọc sách, ông có một thư viện nho nhỏ trong Bộ chỉ huy của mình và
thường khiến các sĩ quan của ông phải ngạc nhiên bằng cách trích dẫn các câu
thơ của Turgenev và Pushkin. Từ cấp bậc và hồ sơ của đội quân của ông, có thể
thấy ông là người nghiêm khắc chấp hành kỷ luật.
Nhưng không như Zhukov, ông khá chừng mực
với các sĩ quan, và dành cơn thịnh nộ cho kẻ thù. Trên chiến trường, ông có thể
rất dã man. Trong một giai đoạn của chiến dịch Dnieper, sau khi quân của ông đã
bao vây mấy sư đoàn Đức, Koniev yêu cầu bọn họ đầu hàng ngay lập tức. Khi quân
Đức từ chối, ông ra lệnh cho quân Cossack cầm kiếm nhẹ tấn công. Ông nói với
Milovan Djilas, trưởng Phái bộ Quân sự Nam Tư tại Moscow vào năm 1944 rằng,
“Chúng tôi để quân Cossack chém thỏa thích. Thậm chí họ còn cắt cụt tay mấy kẻ
giơ tay xin hàng.”
Ít nhất về mặt này thì cả Zhukov và
Koniev đều giống nhau: họ không thể tha thứ cho tội ác của bọn Nazi. Họ không
hề có lòng nhân từ hay thương hại dành cho người Đức.
Giờ đây, hai vị nguyên soái đi dọc theo
hành lang tầng hai về phía dãy văn phòng của Stalin, cả hai đều khá chắc chắn
vấn đề sẽ được bàn bạc là về Berlin.
Kế hoạch dự kiến là Phương diện quân
Belorussia số 1 của Zhukov ở Trung tâm sẽ chiếm thành phố. Phương diện quân
Belorussia số 2 của Rokossovskii tiến về phía bắc, còn Phương diện quân số 1
Ukraine của Koniev ở phía nam có thể sẽ được yêu cầu hỗ trợ.
Nhưng Zhukov quyết tự chiếm Berlin. Ông
không định xin trợ giúp – đặc biệt là từ Koniev. Tuy nhiên, Koniev cũng suy
nghĩ khá nhiều về Berlin. Quân của Zhukov có thể bị địa hình cầm chân – nhất là
ở cao nguyên Seelow nằm ngay sau bờ tây sông Oder, vốn được phòng thủ kiên cố.
Nếu điều đó xảy ra, Koniev nghĩ mình sẽ có cơ hội phỗng tay trên của Zhukov.
Thậm chí ông đã có kế hoạch hành động sơ bộ trong đầu. Tất nhiên mọi chuyện còn
phụ thuộc vào Stalin, nhưng lần này Koniev cực kỳ hi vọng có thể đánh bại
Zhukov và giành được vinh quang mà ông chờ đợi đã lâu. Nếu cơ hội đến, Koniev
nghĩ ông sẽ cùng đối thủ của mình tranh Berlin.
Đi nửa chừng hành lang trải thảm đỏ, các
sĩ quan tháp tùng đưa Zhukov và Koniev vào một phòng họp. Căn phòng đó có trần
cao, khá hẹp, chiếc bàn dài vĩ đại bằng gỗ gụ bóng loáng choáng gần hết phòng,
có ghế đặt xung quanh. Hai chùm đèn treo nặng nề với những bóng đèn trong suốt
treo lủng lẳng bên trên chiếc bàn. Ở một góc căn phòng, có một chiếc bàn làm
việc nhỏ và một chiếc ghế da, trên bức tường gần đó treo một bức chân dung
Lenin lớn. Cửa sổ được kéo rèm kín và trong phòng không có cờ hay phù hiệu. Tuy
nhiên, trong phòng có hai bản in thạch bằng crom, lồng trong các khung màu tối
y hệt nhau, của hai tring số các nhà quân sự nổi tiếng nhất của Nga: Đại nguyên
soái tài ba Aleksandr Suvorov của Nữ hoàng Catherine II và Đại tướng Mikhail
Kutuzov, người đã tiêu diệt đội quân của Napoleon vào năm 1812. Ở đầu kia căn
phòng có hai cánh cửa dẫn vào văn phòng riêng của Stalin.
Hai nguyên soái không lạ lẫm gì với cảnh
vật xung quanh. Zhukov từng làm việc trong sảnh này khi ông làm Tổng tham mưu
trưởng vào năm 1941; và cả hai từng nhiều lần gặp Stalin ở đây. Nhưng cuộc họp
này không phải là một buổi gặp riêng. Trong vòng mấy phút sau khi hai vị nguyên
soái đi vào phòng, theo sau họ là bảy người quan trọng nhất của Liên Xô trong
thời chiến sau Stalin – các thành viên của Ủy ban Quốc phòng Liên bang, cơ quan
toàn quyền ra quyết định của bộ máy chiến tranh Liên Xô.
.............................
(*) Tiểu đoàn trừng giới (penal
battalion, tiếng Nga là Shtrafbat) là nơi những người có tội bị buộc phải phục
vụ trong Thế chiến thứ hai. Họ chủ yếu là những người đào ngũ, bị buộc tội hèn
nhát, tù nhân chiến tranh của Liên Xô và các tù nhân trong trại lao động Gulag
(cả tội phạm thường và tội phạm chính trị) – ND.
Không có lễ nghi chính thức hay chia
theo cấp bậc, các lãnh đạo Liên Xô đi vào phòng:
Bộ trưởng Ngoại giao Vyacheslav M.
Molotov, Phó Chủ tịch Ủy ban.
Lavrenti P. Beria, một người cận thị có
vóc người chắc nịch, lãnh đạo lực lượng cảnh sát mật và là một trong những
người được e sợ nhất ở Nga.
Georgi M. Malenkov, viên thư ký mập mạp
của Ủy ban Trung ương của Đảng Cộng sản và là quản lý Cục Hậu cần Quân sự.
Anastas I. Mikoyan, có gương mặt gầy gầy,
sống mũi khoằm, Điều phối viên Sản xuất.
Nguyên soái Nikolai A. Bulganin, có bề
ngoài quý phái và chòm râu dê, Đại biểu của Bộ chỉ huy Tối cao ở mặt trận Liên
Xô.
Lazar M. Kaganovich, tính tình lãnh đạm,
có hàng ria mép, Chuyên viên Vận tải, người Do Thái duy nhất trong Ủy ban.
Nikolai A. Voznesenskii, nhà lập kế hoạch
và quản lý kinh tế.
Đại diện cho bên quân sự là Tổng tham mưu
trưởng, Đại tướng A. A. Antonov và Tư lệnh hành quân, Đại tướng S. M.
Shtemenko.
Khi các lãnh đạo hàng đầu của Liên Xô an
vị, cánh cửa văn phòng ngài Chủ tịch mở ra và bóng dáng thấp đậm của Stalin
xuất hiện.
Ông ta mặc một bộ đồng phục màu vàng mù
tạt đơn giản, không có cầu vai hay phù hiệu cấp bậc; mỗi ống quần có một đường
sọc đỏ, mang đôi ủng đen mềm cao tới gối. Phía bên trái bộ quần áo là món trang
sức duy nhất ông mang: ngôi sao vàng kim có viền đỏ của Anh hùng Liên Xô. Miệng
ông ngậm một điếu thuốc yêu thích: một điếu Dunhill của Anh. Ông dùng rất ít
thời gian để chào hỏi theo lễ nghi. Sau này Koniev nhớ lại, “Trước lúc Stalin
bắt đầu nói chuyện, chúng tôi hầu như không kịp chào hỏi nhau.”(*)
Stalin hỏi Zhukov và Koniev mấy câu về
tình hình mặt trận. Rồi đột nhiên ông vào thẳng vấn đề. Bằng chất giọng trầm,
cùng ngữ điệu ngân nga như hát đặc trưng của Georgia, ông nói nhẹ nhàng với
hiệu quả lớn: “Mấy đồng minh bé nhỏ (soyuznichki) định tới Berlin trước Hồng
quân.” Ông chờ một lúc rồi mới nói tiếp.
Stalin nói ông đã nhận được thông tin về kế hoạch của Anh-Mỹ, và rõ ràng là “ý
định của họ không giống như ‘đồng minh.’” Ông không đề cập tới bức điện của
Eisenhower đêm hôm trước, cũng không đưa ra nguồn gốc thông tin đó. Ông
quay qua Đại tướng Shtemenko và nói:
“Đọc báo cáo đi.”
Shtemenko đứng dậy. Ông đọc, các cánh
quân của Eisenhower định bao vây và tiêu diệt vùng Ruhr, rồi tiến về hướng
Leipzig và Dresden. Nhưng “dọc đường” họ định chiếm luôn Berlin. Viên đại tướng
nói, mấy chuyện này “sẽ trông như thể họ giúp Hồng quân vậy.”
Nhưng rõ ràng “mục đích chính của
Eisenhower” là chiếm Berlin trước khi quân Liên Xô tới. Hơn nữa, ông nhấn nhá
ngữ điệu, Stavka (Bộ Chỉ huy tối cao của Stalin) vừa biết được là “có hai sư
đoàn không vận của Đồng minh đang chuẩn bị đổ bộ xuống Berlin.”(**)
Sau này khi kể về cuộc họp, Koniev nhớ
lại rằng kế hoạch của quân Đồng minh, theo Shtemenko mô tả, có bao gồm một cuộc
tấn công do Montgomery chỉ huy về phía bắc vùng Ruhr “theo tuyến đường ngắn
nhất dẫn tới Berlin, tách biệt với các cánh quân khác của Anh.” Koniev nhớ là
Shtemenko kết thúc “bằng câu ‘theo mọi dữ liệu và thông tin, bộ chỉ huy Anh-Mỹ
xem kế hoạch này – tức chiếm Berlin sớm hơn Hồng quân – là hoàn toàn thực tế và
công cuộc chuẩn bị cho nó đang hoạt động hết công suất.”(***)
Nguồn tin của bản báo cáo mà Đại tướng
Shtemenko đọc chưa từng được công bố. Theo đánh giá của tác giả, nó có thể là
một đánh giá quân sự được phóng đại lên quá cỡ từ bức điện của Eisenhower đêm
hôm trước – một đánh giá một phần dựa trên sự nghi ngờ về động cơ của
Eisenhower, một phần nhằm đưa ra cơ sở hợp lý cho các mục tiêu của Stalin.
Khi Shtemenko đọc xong bản đánh giá quân
sự, Stalin quay sang hai vị Nguyên soái. Ông nhẹ nhàng nói, “Vậy, ai sẽ chiếm
Berlin? Chúng ta hay quân Đồng minh?”.
Sau này, Koniev tự hào nhớ lại rằng ông
là người đầu tiên trả lời. Ông nói:
“Là chúng ta, và sẽ làm trước bọn Anh-Mỹ.”
Stalin nhìn Koniev, khẽ mỉm cười. Ông lại
nói nhẹ nhàng, bằng cách nói hài hước vụng về:
“Vậy, anh là kiểu đồng chí như thế đó à?”
Rồi theo như Koniev nhớ lại, chỉ trong
chớp mắt, Stalin trở nên lạnh lùng hơn, giống như đang bàn chuyện làm ăn, đưa
ra vấn đề. Chính xác thì Koniev, vốn đang ở phía nam, định làm thế nào để kịp
thời chiếm được Berlin? Stalin hỏi, “Không phải là quân của anh sẽ cần một cuộc
tái tổ chức trên diện rộng hay sao?”.
Koniev nhận ra cái bẫy quá trễ. Stalin
lại dùng mấy trò cũ của ông ta, lấy người này đấu với người khác, nhưng đến lúc
nhận ra điều này thì Koniev đã bắt đầu trả lời rồi. Ông nói, “Thưa đồng chí
Stalin, chúng tôi sẽ thực hiện mọi biện pháp cần thiết. Chúng tôi sẽ kịp thời
tái tổ chức để chiếm Berlin.”
.............................
(*) Các trích dẫn từ phía Nga, nếu không
phải là được cung cấp như các nguồn tài liệu khác của Liên Xô được sử dụng
trong cuốn sách này, thì là có được trong chuyến đi nghiên cứu đến Moscow vào
tháng 4/1963. Chính phủ Liên Xô cho phép tác giả, có giáo sư John Erickson của
Đại học Manchester hỗ trợ, được phỏng vấn những người tham gia vào cuộc chiến
Berlin – từ nguyên soái tới binh nhì. Vị nguyên soái duy nhất của Liên Xô mà tác
giả bị cấm phỏng vấn là Zhukov. Những người khác – như Koniev, Sokolovskii,
Rokossovskii và Chuikov, mỗi người cho phỏng vấn trong khoảng ba tiếng. Ngoài
ra, tác giả còn được phép tiếp cận với các hồ sơ lưu trữ quân sự và được phép
sao chép và mang ra khỏi Nga các tài liệu đồ sộ, gồm các bản đồ chiến đấu, báo
cáo sau khi hành động, công trình nghiên cứu, ảnh và lịch sử quân sự trước đó
chỉ lưu hành trong nội bộ chính phủ Liên Xô.
(**) Tất nhiên, điều này là đúng.
(***) Buổi họp mang tính quyết định của
Stalin cùng các vị nguyên soái được biết đến rộng rãi trong giới quân sự cấp
cao của Liên Xô, dù trước đó chưa từng được công bố với phương Tây. Về cuộc họp
này, đã có nhiều phiên bản xuất hiện trong lịch sử quân sự Nga và các nhật ký.
Trong đó có biên bản cuộc họp của Zhukov dành cho ban tham mưu của ông, được
nhà sử họ Nga, Trung tướng N. N. Popiel ghi lại. Nguyên soái Koniev giải thích
bối cảnh cuộc họp cho tác giả và cung cấp các chi tiết mà cho tới nay chưa từng
được biết. Ông cũng kể lại môt phần các chi tiết trong phần đầu cuốn hồi ký của
mình, được xuất bản tại Moscow năm 1965. Có một vài điểm khác biệt giữa bản của
ông với của Zhukov. Ví dụ như, Zhukov không nhắc tới cuộc tấn công vào Berlin
của Montgomery; Koniev thì không đề cập đến cuộc đổ bộ dự kiến của sư đoàn
không vận Anh-Mỹ xuống thành phố.
Đó chính là thời cơ Zhukov đang chờ đợi.
Ông hỏi nhẹ nhàng, gần như trịch thượng, “Tôi nói một câu được không?” .Ông
không hề đợi câu trả lời. Ông gật đầu với Koniev và nói, “Người của Phương diện
quân Belorussia số 1 không cần tái tổ chức. Họ đã sẵn sàng rồi. Chúng tôi đang
nhắm thẳng tới Berlin. Chúng tôi cách Berlin gần nhất. Chúng tôi sẽ chiếm
Berlin.”
Stalin yên lặng nhìn hai người. Một lần
nữa, ông lại mỉm cười thoáng qua. Ông hòa nhã nói, “Rất tốt. Cả hai anh sẽ ở
lại Moscow và chuẩn bị kế hoạch của mình cùng với Bộ tổng tham mưu. Tôi muốn kế
hoạch phải sẵn sàng trong 48 giờ. Rồi các anh sẽ quay về mặt trận, khi đó mọi
thứ đã được quyết định.”
Cả hai người đều sốc vì thời gian chuẩn
bị kế hoạch quá ngắn ngủi. Cho tới giờ, họ đều biết rằng hạn định tấn công
Berlin là đầu tháng 5. Giờ rõ ràng Stalin muốn họ tấn công sớm mấy tuần.
Nhất là với Koniev, đây là một suy nghĩ
khiến ông giật mình. Dù ông đã có kế hoạch dự định, mà ông tin nó sẽ giúp ông
đến Berlin trước Zhukov, nhưng ông vẫn chưa viết gì trên giấy. Giờ cuộc họp
khiến ông đau đầu nhận thấy có nhiều vấn đề hậu cần quan trọng cần giải quyết
nhanh chóng. Phải nhanh chóng vận chuyển mọi thứ trang thiết bị và đồ tiếp tế
ra ngoài mặt trận.
Tệ hơn, Koniev còn bị thiếu quân. Sau
trận chiến ở Thượng Silesia, một phần đáng kể quân số của ông vẫn đang ở phía
nam. Một số cách Berlin rất xa. Cần đưa những nhóm quân này đi ngay lập tức,
thành ra một vấn đề vận chuyển nghiêm trọng nữa.
Nghe Stalin nói, Zhukov cũng lo không
kém. Dù ban tham mưu của ông đã chuẩn bị cho cuộc tấn công, nhưng ông vẫn chưa
sẵn sàng. Các tập đoàn quân của ông đã vào vị trí, nhưng ông cũng vẫn đang vội
vàng đưa đồ tiếp tế và quân thay thế ra mặt trận để bổ sung cho các lực lượng
đã suy kiệt nặng nề của mình. Một số sư đoàn của ông, thường có 9.000 đến
12.000 lính, giờ chỉ còn có 3.500.
Zhukov tin là chiến dịch Berlin sẽ vô
cùng khó khăn và ông muốn chuẩn bị sẵn sàng cho mọi khả năng. Ban tình báo của
ông đã báo cáo rằng “công tác phòng thủ của thành phố cùng các vùng lân cận đã
được chuẩn bị cẩn thận và kiên cố. Mỗi con đường, quảng trường, ngã tư, nhà
cửa, kênh đào và cầu đều là một phần trong hệ thống phòng thủ chung…” Giờ, cần
phải đẩy nhanh tiến độ mọi chuyện nếu ông muốn đánh bại phương Tây trên đường
tới Berlin. Chừng nào ông có thể tấn công được? Đó là câu hỏi Stalin muốn được
trả lời – và phải nhanh chóng.
Khi cuộc họp kết thúc, Stalin lại nói
tiếp. Giọng ông không có chút ấm áp nào. Ông nhấn mạnh với hai vị nguyên soái:
“Tôi phải nói với hai anh là ngày mở đầu chiến dịch là điểm mà chúng ta đặc
biệt chú ý đấy.”
Quan hệ đối địch giữa hai vị tư lệnh, vốn
chưa bao giờ bị ẩn giấu quá sâu, giờ lại sôi bùng lên lần nữa. Khẽ gật đầu với
mấy người xung quanh, Stalin quay lưng lại và rời khỏi phòng.
Giờ đây, dù kế hoạch của ông đã bắt đầu
tiến hành, vị Chủ tịch Liên Xô vẫn còn phải đối mặt với một nhiệm vụ quan
trọng: chi tiết cẩn thận cho lời hồi âm cho bức điện của Eisenhower.
Stalin bắt đầu làm việc với bản thảo đã
soạn sẵn. Đến 8 giờ tối, bức điện hồi âm của ông đã xong và được gửi đi. Stalin
viết, “Tôi đã nhận được bức điện của ngài ngày 28/3. Kế hoạch cắt đôi quân Đức
bằng cách phối hợp… với quân Liên Xô hoàn toàn phù hợp với kế hoạch của Bộ Tư
lệnh Tối cao Liên Xô.”
Stalin hoàn toàn nhất trí rằng nơi hội
quân sẽ là ở vùng Leipzig-Dresden, vì “mũi tấn công chủ lực của quân Liên Xô”
sẽ đi “theo hướng đó.” Còn về ngày tấn công của Hồng quân? Stalin đặc biệt lưu
ý đến điều đó. Nó sẽ rơi vào “khoảng nửa sau của tháng năm.”
Phần quan trọng nhất trong bức điện của
ông nằm ở đoạn thứ ba. Trong đó, ông nhấn mạnh rằng mình không quan tâm lắm đến
thủ đô của Đức. Ông khẳng định, “Berlin đã mất tầm quan trọng chiến lược trước
kia của nó.” Thực sự thì, Stalin nói nó đã trở nên kém quan trọng tới mức “Do
đó, Bộ Tư lệnh Tối cao Liên Xô định để các lực lượng thứ yếu tiến về Berlin.”
************
Winston Churchill đã hội ý với Bộ Tổng
tham mưu Anh quốc gần cả buổi chiều. Ông thấy hoang mang và phiền muộn. Sự
hoang mang của ông bắt nguồn từ một bức điện của Eisenhower, đã bị bóp méo
trong quá trình chuyển đi.
Trong bức điện Churchill nhận được có một
câu rằng: “Montgomery sẽ chịu trách nhiệm tuần tra…”
Churchill đã sắc sảo hồi âm rằng ông thấy
quân lực Hoàng gia của mình đang bị “giao cho… một phạm vi hoạt động hạn chế
ngoài dự kiến.” Eisenhower bối rối đánh điện trả lời: “Tôi cảm thấy bất an, nếu
không muốn nói là bị tổn thương… Ý của tôi không phải vậy và tôi nghĩ lời lẽ
mình đã dùng… không hề thể hiện ý như vậy.”
Thì ra Eisenhower chưa từng dùng cụm từ
“các nhiệm vụ tuần tra.” Ông đã nói là “các nhiệm vụ đó,” và làm sao đó mà cụm
từ này bị truyền sai. Churchill khó chịu trước một việc không đáng kể, nhưng
lại là giọt nước tràn ly.
Có một việc không phải không đáng kể,
trong mắt ngài thủ tướng, là sự lãnh đạm kéo dài của Mỹ đối với Berlin. Với sự
ngoan cường đặc trưng trong cả đời mình, giờ ông phải đương đầu với cả hai vấn
đề một lúc – mối quan hệ đồng minh và Berlin. Trong một bức điện dài gửi cho
Roosevelt đang đau ốm – bức điện đầu tiên mà ông gửi cho Roosevelt kể từ vụ lùm
xùm về bức điện SCAF 252 – thoạt tiên, ngài thủ tướng dành một đoạn dài để biểu
thị lòng tin tưởng tuyệt đối của ông vào Eisenhower. Rồi “đã xóa bỏ hết các
hiểu lầm giữa những người đồng minh và bằng hữu chân thành nhất từng kề vai sát
cánh chiến đấu cùng nhau”.
Churchill gắng sức nhấn mạnh sự cấp
bách cần chiếm thủ đô nước Đức. Ông tranh luận rằng “Không gì có thể tạo nên
cảm giác tuyệt vọng với quân Đức… bằng sự sụp đổ của Berlin. Đó sẽ là tín hiệu
thất bại tột cùng… Nếu [Nga] chiếm được Berlin, chẳng phải họ sẽ khắc sâu trong
tâm trí rằng mình là người góp công lớn nhất vào chiến thắng chung hay sao, và
chẳng phải điều này sẽ khiến họ có tâm thế tự cao, gây ra những khó khăn nghiêm
trọng trong tương lai? Do đó, cân nhắc điều này trên lập trường chính trị… tôi
cho là chúng ta nên chiếm Berlin…”
Ngày hôm sau, phiền não của Churchill
càng sâu thêm khi nhận được bản sao của bức điện Stalin gửi cho Eisenhower.
Ngài thủ tướng thấy nội dung của nó rất khả nghi. 10:45 đêm hôm đó, ông điện
cho Eisenhower, “Đọc bức điện hồi âm từ Moscow gửi cho ngài xong, tôi càng tin
rằng ta cần chiếm Berlin, khả năng này đang để ngỏ cho chúng ta, nhất là ở đoạn
thứ ba có viết ‘Berlin đã mất tầm quan trọng chiến lược trước kia của nó.’ Câu
này nên được hiểu theo những gì tôi đã nói về khía cạnh chính trị.” Churchill
sốt sắng nói thêm là giờ ông thấy rằng “quan trọng là chúng ta nên phối hợp với
quân Nga càng xa về phía đông càng tốt…”
Bất chấp tất cả, quyết tâm của Churchill
dành cho Berlin vẫn không suy suyển. Ông vẫn rất lạc quan. Kết thúc bức điện
gửi Eisenhower, ông viết: “Có thể sẽ có nhiều chuyện xảy ra ở phương Tây, trước
ngày mở đầu cuộc tấn công chủ lực của Stalin”.
Giờ đây, hi vọng lớn lao của ông là động
lực và lòng hăng hái của quân Đồng minh sẽ đưa họ đến Berlin trước ngày Stalin
phát động tấn công.
***************
Ở bộ chỉ huy của Stalin, hai nguyên
soái Zhukov và Koniev đang chạy đua với thời gian. Đến thứ ba ngày 3/4, đúng
hạn sau 48 giờ, kế hoạch của họ đã sẵn sàng. Họ gặp Stalin một lần nữa.
Zhukov trình bày trước. Ông đã suy tính
về cuộc tấn công nhiều tháng nay và các bước đi dự kiến cho Phương diện quân
Belorussia số 1 hùng hậu của ông đã nằm trong lòng bàn tay.
Ông nói, cuộc tấn công chính sẽ diễn ra
trước bình minh, từ đầu cầu dài 44
km trên sông Oder, phía tây Küstrin – ngay chính diện
Berlin. Các cuộc tấn công khác ở phía bắc và phía nam sẽ hỗ trợ cho cuộc tấn
công này.
Công tác hậu cần của Zhukov khá là đáng
kinh ngạc. Có không ít hơn hai tập đoàn quân xe tăng và bốn tập đoàn quân
thường sẽ được sử dụng cho cuộc tấn công chính, còn mỗi cuộc tấn công phụ trợ
thì có hai tập đoàn quân.
Tính cả các lực lượng thứ chính hỗ trợ
đằng sau, ông sẽ có 768.100 quân. Quyết không phụ thuộc vào may rủi, Zhukov hi
vọng sẽ chiếm được đầu cầu Küstrin bằng cách bố trí tối thiểu 250 khẩu pháo mỗi
kilomet – tương đương cứ 4 mét một khẩu! Ông định mở đầu cuộc tấn công với màn
nã pháo từ 11.000 khẩu pháo, chưa tính mấy khẩu súng cối có đường kính nhỏ hơn.
Giờ ông đi vào phần ưa thích trong kế
hoạch. Zhukov đã nghĩ ra một mưu kế kỳ lạ và phi chính thống để khiến quân địch
hoang mang. Ông sẽ phát động tấn công từ lúc trời còn tối. Ngay lúc đó, ông
định khiến quân Đức lóa mắt và mất tinh thần bằng cách chiếu thẳng 140 ngọn đèn
pha rọi máy bay công suất lớn vào vị trí của địch. Ông đoán chắc kế hoạch của
mình sẽ tạo nên màn thảm sát quân Đức.
Kế hoạch của Koniev cũng đồ sộ tương tự,
nhưng khó khăn và phức tạp hơn, bắt nguồn từ tham vọng của ông.
Như sau này ông nói: “Với chúng tôi,
Berlin là mục tiêu được tất cả mọi người khát khao mãnh liệt, từ lính
thường tới các tướng lĩnh đều muốn được
tận mắt nhìn thấy Berlin, được tự tay chiếm lấy nó. Đây cũng là khát khao cháy
bỏng của tôi… Tôi đang ngập chìm trong đó.”
Nhưng sự thật là tính theo điểm gần nhất
thì quân của Koniev còn cách thành phố hơn 75 dặm. Koniev mong tốc độ hành quân
có thể bù đắp được. Ông đã khôn ngoan điều các đội xe tăng về bên phải, để cho
khi nào đột phá được thì ông có thể lăn bánh về phía tây bắc và tấn công vào
Berlin, có lẽ sẽ tới được thành phố trước Zhukov.
Ông đã ấp ủ ý tưởng này nhiều tuần nay.
Giờ đây, sau khi nghe Zhukov trình bày, ông hơi do dự phải đọc kế hoạch của
mình. Thay vào đó, tạm thời ông đi vào chi tiết chiến dịch. Kế hoạch của ông là
sẽ tấn công qua sông Neisse vào lúc bình minh, dưới sự bảo vệ của một màn khói
dày đặc do các phi đội máy bay chiến đấu bay tầm thấp thải ra. Ông định dùng
năm tập đoàn quân thường và hai tập đoàn quân tăng cho cuộc tấn công – tương
đương 511.700 người. Đáng chú ý là ông cũng yêu cầu mật độ pháo dày đặc tương
tự với Zhukov – 250 khẩu một kilomet – và thậm chí còn sử dụng nhiều hơn.
Koniev nhớ lại, “Không như ông bạn tôi
đây, tôi định bắn phá tập trung vào từng vị trí của quân thù trong hai tiếng
rưỡi.”
Nhưng Koniev rất cần thêm quân. Trong khi
Zhukov có tám tập đoàn quân dọc theo sông Oder, thì bên sông Neisse, Koniev chỉ
có năm. Để kế hoạch có thể tiến hành, ông cần thêm hai tập đoàn quân nữa. Sau
một hồi thảo luận, Stalin đồng ý giao cho ông Tập đoàn quân 28 và Tập đoàn quân
31, vì “các mặt trận ở Baltic và Đông Phổ đã giảm đi.” Nhưng Stalin chỉ ra rằng
sẽ mất nhiều thời gian để hai tập đoàn quân này tới được Phương diện quân
Ukraine số 1. Vận chuyển là cả một vấn đề. Koniev quyết định đánh cược. Ông nói
với Stalin rằng mình có thể bắt đầu cuộc tấn công trong khi quân tăng viện vẫn
còn trên đường đi, rồi khi nào họ tới thì sẽ dùng sau.
Sau khi nghe qua hai người trình bày,
Stalin chấp nhận cả hai phương án. Nhưng Zhukov sẽ chịu trách nhiệm chiếm
Berlin. Sau đó, ông sẽ hướng về trận địa ở sông Elbe. Koniev sẽ tấn công cùng
ngày với Zhukov, tiêu diệt quân địch dọc mạn nam của Berlin, rồi đem quân tiến
về phía Tây để gặp quân Mỹ.
Cụm tập đoàn quân thứ ba của Liên Xô,
Phương diện quân Belorussia số 2 của Nguyên soái Rokossovskii sẽ đi dọc theo hạ
lưu sông Oder rồi tiến về bờ biển nằm ở phía bắc của quân Zhukov, không liên
quan gì đến cuộc tấn công Berlin. Với 314.000 người, Rokossovskii sẽ tấn công
sau, băng qua miền bắc nước Đức để hội quân với Anh. Tổng cộng, cả ba tập đoàn
quân của Nga có 1.593.800 người.
Vậy là Koniev được giao vai trò hỗ trợ
trong cuộc tấn công Berlin. Nhưng rồi, cúi xuống tấm bản đồ trên bàn,
Stalin vẽ một đường ranh giữa quân của
Zhukov vầ Koniev. Đó là một ranh giới kỳ lạ. Nó bắt đầu từ mặt trận của Nga,
băng qua sông và chạy thẳng tới thành phố Lübben có từ thế kỷ 16 nằm bên sông
Spree, cách Berlin khoảng 65 dặm về hướng đông nam. Tại đó, Stalin đột nhiên
ngừng vẽ. Nếu ông vẽ tiếp đường ranh đó băng qua nước Đức, thì sẽ tạo thành một
ranh giới mà Koniev không được vượt qua, Phương diện quân Ukraine số 1 rõ ràng
sẽ không còn tham gia vào cuộc tấn công Berlin nữa.
Giờ Koniev thấy rất phấn chấn. Sau này
ông nhớ lại, dù “Stalin không nói gì… nhưng có thể ngầm hiểu người chỉ huy mặt
trận sẽ có khả năng thực hiện trận đánh mở màn.” Quân của Koniev đã được bật
đèn xanh tới Berlin – nếu ông có thể, dù không có lời nào được thốt ra. Với
Koniev, cứ như thể Stalin đi guốc trong bụng ông vậy. Cuộc họp kết thúc bằng
cái mà ông gọi là “tiếng hô bắt đầu tranh tài bí mật… của Stalin.”
Ngay lập tức, kế hoạch của hai nguyên
soái được kết hợp lại thành chỉ đạo chính thức. Sáng hôm sau, hai vị tư lệnh
đối thủ cầm mệnh lệnh trong tay, chạy xe tới sân bay Moscow trong màn sương mù
dày đặc, mỗi người đều háo hức muốn về bộ chỉ huy của mình ngay.
Mệnh lệnh của họ yêu cầu phải tấn công
trước ngày Stalin nói cho Eisenhower một tháng. Vì lý do bảo mật, văn bản chỉ
đạo không nêu ngày, nhưng cả Zhukov và Koniev đã nghe Stalin nói. Cuộc tấn công
Berlin sẽ bắt đầu vào thứ hai ngày 16/4.
************
Ngay khi Zhukov và Koniev đã náo nức bắt
đầu chuẩn bị đưa 13 tập đoàn quân với hơn một triệu lính vào Berlin, trực giác
nổi tiếng của Adolf Hitler lóe lên. Ông ta kết luận rằng cuộc tấn công của quân
Nga vào Küstrin, ngay chính diện thủ đô chỉ là một trò lừa. Mũi tấn công chính
của Liên Xô sẽ nhắm vào Prague ở phía nam, chứ không phải Berlin. Chỉ có một
viên tướng của Hitler là có sự sáng suốt tương tự.
Thượng tướng Ferdinand Schörner, hiện là
tư lệnh của Cụm tập đoàn quân Trung tâm, ở phía nam quân của Heinrici, cũng
nhìn thấu được cái bẫy của quân Nga. Schörner cảnh báo, “Thưa Quốc trưởng, điều
này đã viết trong lịch sử. Hãy nhớ lời của Bismarck, ‘Ai chiếm được Prague sẽ
chiếm được châu Âu.”
Hitler đồng ý. Schörner hung ác, vị
tướng ưa thích của Quốc trưởng và nằm trong số những người kém cỏi nhất trong
giới tướng lĩnh Đức, được thăng làm Thống chế ngay lập tức. Cùng lúc đó, Hitler
đưa ra một chỉ thị định mệnh. Đêm ngày 5/4, ông ra lệnh chuyển bốn đơn vị thiết
giáp kỳ cựu của Heinrici về phía nam – các đơn vị mà Heinrici đang dùng để cản
bước quân Nga.
4.
Chiếc xe của Thượng tướng Heinrici chầm
chậm chạy qua Berlin đổ nát, để đến điện Reichskanzlei dự cuộc họp trang trọng
mà Hitler đã ra lệnh trước đó 9 ngày. Ngồi đằng sau vị tư lệnh hành quân của
mình là Đại tá Eismann, Heinrici lặng lẽ nhìn chăm chăm ra ngoài đường phố cháy
đen. Trong hai năm qua, ông chỉ về thành phố một lần. Giờ cảnh tượng trước mắt
khiến ông choáng váng. Ông không thể nhận ra đây lại là Berlin.
Bình thường, đi từ bộ chỉ huy của ông đến Reich-skanzlei mất khoảng 90
phút, nhưng họ đã đi gần gấp đôi khoảng đó. Đường bị tắc liên tục, buộc họ phải
đi đường vòng lằng nhằng hơn. Đến cả mấy đại lộ chính cũng không thể đi qua
được. Mấy chỗ khác, có những tòa nhà nghiêng đến phát ghê, chỉ chực đổ sập bất
kỳ lúc nào, khiến các con đường đều trở nên nguy hiểm.
Nước phun ra ồng ộc từ các hố bom to
đùng; gas rò rỉ từ các đường ống vỡ; và khắp chốn trong thành phố đều có các
khu vực bị cách ly và có biển báo “Achtung! Minen!” đánh dấu vị trí các quả bom
do máy bay thả vẫn chưa nổ. Heinrici cay đắng nói với Eismann. “Vậy ra đây là
những gì chúng ta có được đấy – một biển gạch vụn.”
Dù các tòa nhà hai bên đường
Wilhelmstrasse đều thành đống đổ nát, nhưng điện Reichskanzlei lại không thay
đổi mấy, trừ vài chỗ hư hại nhỏ. Đến cả các lính gác SS ăn vận chỉn chu đứng
ngoài cổng vào dường như cũng vẫn như xưa. Bọn họ đứng nghiêm chào khi Heinrici
đi vào, Eismann theo sau. Dù bị trì hoãn nhưng viên thượng tướng vẫn đến đúng
giờ.
Cuộc họp với Hitler dự kiến bắt đầu lúc
ba giờ chiều, và Heinrici đã suy nghĩ về nó khá nhiều trong mấy ngày qua. Ông
định nói với Hitler và đám bậu xậu xung quanh tình hình thực sự mà Cụm Tập đoàn
quân Vistula đang phải đối mặt chân thực hết mức có thể. Heinrici biết rõ nếu
nói ra sẽ gặp phải nguy hiểm gì, nhưng những hậu quả đó không làm ông bận tâm.
Ngược lại, Eismann rất phiền não. Sau này ông nói, “Tôi thấy Heinrici giống như
đang định tấn công toàn diện vào Hitler và các cố vấn, và rất ít người có thể
làm thế mà vẫn sống sót.”
Trong đại sảnh, một viên sĩ quan SS, ăn
mặc không chê vào đâu được trong chiếc áo vest trắng, quần dài đen và đôi ủng
kỵ binh cao cổ bóng loáng, chào Heinrici và đưa ông đến nơi diễn ra cuộc họp
trong căn hầm Führerbunker. Heinrici đã nghe nói đó là một mê cung rộng lớn gồm
các cơ sở hạ tầng xây ngầm bên dưới tòa nhà thủ tướng, những tòa nhà kế bên và
các khu vườn đằng sau, nhưng ông chưa từng vào trong đó. Đi theo người hướng
dẫn, ông và Eismann đi xuống dưới hầm và ra ngoài vườn. Dù mặt tiền của điện
Reichs-kanzlei không suy suyển gì, nhưng phần sau bị hư hại nghiêm trọng. Ngày
xưa, nơi đây là những khu vườn lộng lẫy với một hệ thống giếng phun. Giờ chúng đã biến mất, cùng
với ngôi đình uống trà của Hitler và các nhà kính trồng cây đứng bên cạnh.
Với Heinrici, noi này giống như một bãi
chiến trường, với “những hố bom rộng lớn, những tảng bê tông, các pho tượng vỡ
tan tành và những gốc cây bật rễ.” Giữa những bức tường ám đầy muội than của
tòa nhà thủ tướng là “những cái hố đen ngòm vốn từng là cửa sổ.” Eismann nhìn
cảnh điêu tàn và nhớ tới một câu trong bài “Lời nguyền của người ca sĩ” của nhà
thơ Đức Uhland vào thế kỷ 19. Câu thơ đó là “Chỉ có một cây cột cao nói lên
vinh quang đã biến mất; nó có thể sụp trong đêm.”
Heinrici thực tế hơn. Ông thì thầm với
Eismann, “Cứ nghĩ xem, ba năm trước Hitler nắm châu Âu trong tay, từ sông Volga
tới Đại Tây Dương. Giờ ông ta ngồi trong một cái hố dưới đất.”
Họ băng qua khu vườn và đi vào một dãy
nhà hình chữ nhật có hai lính gác. Họ được yêu cầu kiểm tra giấy tờ, sau đó hai
người lính gác mở một cánh cửa thép nặng nề để hai sĩ quan đi qua. Heinrici
luôn nhớ rõ, khi cửa khép đánh rầm sau lưng họ, “Chúng tôi bước vào một thế
giới ngầm không thể nào tin được.”
Ở dưới đáy một cầu thang bê tông xoắn có
hai sĩ quan SS trẻ tuổi đón họ trong một căn phòng nghỉ sáng trưng. Bọn họ lịch
sự cất áo khoác cho hai người, và soát người cũng lịch sự như thế. Nhất là
chiếc cặp táp của Eismann rất được chú ý: hồi tháng 7/1944, một chiếc cặp táp
chứa bom đã suýt kết liễu mạng sống Hitler. Kể từ đó, các cận vệ của Hitler
không cho phép ai tới gần ông ta mà không lục soát trước. Dù hai sĩ quan SS đã
xin lỗi, Heinrici vẫn điên người vì sự sỉ nhục này. Eismann cảm thấy “thật nhục
nhã khi một vị tướng của Đức lại bị đối xử như thế.”
Cuộc lục soát kết thúc, họ được đưa vào
một hành lang dài và hẹp, được ngăn làm hai khu, cái đầu tiên dẫn vào một căn
phòng đợi khá thoải mái. Các chùm đèn hình vòm nhô ra trên trần, phủ sắc vàng
lên mấy bức tường vữa màu be nhạt. Trên sàn trải một tấm thảm phương đông mà rõ
ràng được đem xuống từ một căn phòng lớn hơn trong tòa nhà thủ tướng, vì các
mép được gấp lại.
Dù căn phòng khá thoải mái, nhưng nội
thất – giống như tấm thảm – có vẻ hơi lạc lõng. Có rất nhiều ghế, một số thì
đơn giản, số khác lại được bọc rất sang trọng. Một cái bàn gỗ sồi đứng dựa vào
tường, mấy bức tranh sơn dầu, tranh phong cảnh lớn của họa sĩ và kiến trúc sư
Đức Schinkel treo quanh phòng. Bên phải lối vào có một cánh cửa mở đi vào một
phòng họp nhỏ dùng cho cuộc họp.
Heinrici chỉ có thể ước đoán độ sâu và
kích cỡ của Führerbunker. Từ những gì ông được thấy, có vẻ nó khá rộng, có các
cánh cửa nằm hai bên hành lang và ở đằng xa cũng có. Từ trần nhà khá thấp, rồi
các cánh cửa kim loại hẹp và không có cửa sổ, nơi này giống như hành lang của
một con tàu nhỏ - trừ điều đó, theo ước đoán của Heinrici, nơi đây nằm sâu dưới
đất ít nhất 12 m .
Gần như ngay lập tức, một sĩ quan SS cao
ráo ăn mặc nhã nhặn xuất hiện. Ông ta là sĩ quan phụ tá riêng kiêm cận vệ của
Hitler, Đại tá Otto Günsche. Ông ta vui vẻ hỏi thăm về chuyến đi của họ và mời
họ thư giãn; Heinrici chấp nhận uống một tách cà phê.
Không lâu sau đó, những người dự họp khác
cũng lục đục tới. Đầu tiên là sĩ quan quản trị của Hitler, Đại tướng Wilhelm
Burgdorf. Eismann nhớ là ông ta chào họ và “ồn ào nói về thành công.” Rồi Thống
chế Wilhelm Keitel, Tham mưu trưởng của OKW tới, theo sau là Himmler, Đô đốc
Karl Doenitz và người nổi tiếng là tâm phúc thân cận nhất của Hitler, Martin
Bormann. Nói theo Eismann, “Tất cả đều cao giọng chào hỏi chúng tôi. Nhìn thấy
họ, tôi thực sự tự hào về ngài tư lệnh của mình. Với cử chỉ cứng nhắc quen
thuộc của ông ấy, nghiêm túc và chuẩn mực, ông ấy là một quân nhân từ đầu tới
chân giữa đám nội các đó.”
Eismann thấy Heinrici trở nên căng thẳng
khi Himmler băng qua căn phòng, đi về phía ông. Vị tướng gầm gừ khe khẽ, “Thằng
cha đó sẽ không bao giờ được đặt chân vào bộ chỉ huy của tôi. Nếu thằng chả nói
muốn ghé thăm, phải báo sớm cho tôi để tôi còn chuồn trước. Thằng chả làm tôi
muốn ói.” Và thực vậy, Eismann nghĩ Heinrici trông hơi xanh khi Himmler bắt
chuyện với ông.
Lúc đó, Đại tướng Hans Krebs, người kế
nhiệm Guderian bước vào phòng, và khi thấy Heinrici bèn bước đến chỗ ông ngay
lập tức. Trước đó, Heinrici đã nghe Krebs nói về chuyện thuyên chuyển các đơn
vị thiết giáp sống còn của ông sang Cụm tập đoàn quân của Schörner. Dù trách
Krebs đã không mạnh mẽ phản đối quyết định đó, giờ Heinrici lại có vẻ khá thân
mật với vị thủ trưởng mới của OKH. Ít nhất ông không phải tiếp tục nói chuyện
với Himmler.
Như thường lệ, Krebs vẫn khéo léo và tỏ
vẻ quan tâm. Ông ta đảm bảo với Heinrici rằng mình không hề nghi ngờ gì là mọi
chuyện sẽ ổn cả. Doenitz, Keitel và Bormann cùng nhập hội và nghe Heinrici đề
cập đến một số vấn đề của ông. Cả ba cùng hứa sẽ ủng hộ khi Heinrici trình bày
với Hitler.
Bormann quay sang hỏi Eismann, “Anh có ý
kiến gì về tình hình của Cụm tập đoàn quân không – vì nó trực tiếp ảnh hưởng
đến Berlin và cả nước Đức nói chung?” Eismann ngẩn ra. Khi mà quân Nga chỉ còn
cách thủ đô có 38 dặm, còn quân Đồng minh thì đang tốc hành băng qua nước Đức
từ phía Tây, họa có điên mới đi hỏi vậy.
Ông thẳng thừng đáp, “Tình hình rất
nghiêm trọng. Đó là lý do chúng ta ở đây.” Bormann vỗ nhẹ lên vai ông. Ông ta
nói với Eismann, “Anh không nên lo lắng quá làm gì. Quốc trưởng chắc chắc sẽ
giúp anh. Anh sẽ có được lực lượng anh cần.” Eismann nhìn chằm chằm ông ta.
Bormann nghĩ quân từ đâu mà có cơ chứ? Nhất thời, ông có cảm giác khó chịu là
mình và Heinrici là những người duy nhất còn tỉnh táo trong phòng.
Càng lúc càng nhiều sĩ quan và tham mưu
bước vào hành lang vốn đã đầy ắp người. Tư lệnh hành quân của Hitler, Đại tướng
Alfrd Jodl, và thành viên Ban tham mưu của OKW, chịu trách nhiệm về hậu cần và
quân tăng viện, Thiếu tướng Walter Buhle cùng bước vào. Gần như ai cũng có một
sĩ quan phụ tá, một lính cần vụ hoặc một người cấp phó đi cùng. Tiếng ồn ào hỗn
loạn của bọn họ làm Eismann liên tưởng tới một bầy ong.
Heinrici đứng yên lặng trong hành lang
chật ních người, chủ động lắng nghe tiếng trò chuyện râm ran. Chủ yếu là những
chuyện nhỏ nhặt, linh tinh và chẳng có gì liên quan. Căn hầm và bầu không khí
nơi đây thật ngột ngạt và không thực.
Heinrici có cảm giác bất an là những
người thân cận với Hitler đã rút vào một thế giới trong mơ, tại đó họ tự huyễn
hoặc bản thân rằng phép màu sẽ xuất hiện và thảm họa sẽ tiêu tan. Giờ đây,
trong lúc chờ đợi người họ tin sẽ đem lại phép màu, thình lình cả hành lang
rúng động. Đại tướng Burgdorf giơ tay lên cao vẫy vẫy ra hiệu im lặng. Ông nói,
“Thưa các quý ông, thưa các quý ông, Quốc trưởng sắp đến rồi”.
“Gustav! Gustav!” Radio vang lên mật mã
cảnh báo của Tempelhof khi có máy bay xuất hiện tại quận này. Trong văn phòng
của các trưởng ga nằm dọc theo đường tàu điện ngầm U-Bahn, loa phóng thanh kêu
to, “Mối nguy hiểm 15!” Một cuộc không kích trên toàn thành phố nữa lại bắt
đầu.
Mặt đất rung chuyển. Kính vỡ bay loạn
xạ. Những tảng bê tông đổ ầm ầm xuống mặt đường, và các cơn lốc bụi cuộn xoáy
lên từ hàng trăm chỗ, cả thành phố bị bao phủ trong một đám mây xám đen. Đàn
ông và phụ nữ nối đuôi nhau chạy, vấp ngã và chen chúc tìm đường vào các hầm
trú ẩn.
Ngay trước khi tới được chỗ trú, Ruth
Diekermann nhìn lên trời và thấy các máy bay thả bom đang lớp lớp kéo tới,
“giống như một băng chuyền tự động.” Ở nhà máy Krupp und Druckenmüller, Jacques
Delaunay, một lao động cưỡng chế người Pháp vứt lại cánh tay người nham nhở ông
vừa tìm thấy trong một chiếc xe tăng sứt sẹo mà ông đang sửa chữa, rồi chạy đi
tìm chỗ trú.
Ở Siegesallee (Tượng đài Chiến thắng),
các pho tượng cẩm thạch của những nhà cai trị Brandenburg-Phổ rung chuyển rồi
đổ xuống trên bệ đỡ; pho thánh giá mà nhà lãnh đạo thế kỷ XII Margrave Albert
Gấu giơ cao trên tay bị sứt ra, cắm vào ngực con người lỗi lạc cùng thời với
ông, Giám mục Otho ở xứ Bamberg. Tại Quảng trường Skagerrak gần đó, cảnh sát
cũng chạy đi ẩn nấp, bỏ lại sau lưng xác một người treo cổ tự tử đang đong đưa
trên cây.
Một loạt bom lửa thả xuống mái khu B
của nhà tù Lehrterstrasse, gây ra cả tá đám cháy ma-giê chói lọi trên tầng hai.
Các tù nhân được thả ra để dập lửa, điên cuồng chạy qua đám khói cay xè, mang
theo mấy xô cát. Bỗng có hai người khựng lại. Người tù ở phòng giam số 244 nhìn
chăm chăm người tù ở phòng giam 247. Rồi họ ôm chầm lấy nhau. Hai anh em
Herbert và Kurt Kosney giờ mới biết là họ bị giam cùng một chỗ suốt nhiều ngày
nay.
Ở Pankow, trong căn hộ hai phòng ở tầng
trệt của gia đình Möhring, nơi gia đình Weltlingler đang lẩn trốn, trong nhà
bếp, Siegmund ôm lấy bà vợ Margarete đang khóc lóc. Ông hét át tiếng pháo phòng
không ầm ĩ, “Nếu cứ thế này, đến cả người Do Thái cũng có thể thoải mái đi
xuống hầm trú ẩn thôi. Giờ người ta sợ bom thế làm sao đuổi bắt ta được nữa.”
Rudolf Reschke, 14 tuổi chỉ kịp nhìn mấy
chiếc máy bay lấp lánh bạc trên bầu trời – quá cao nên không thể chơi trò đuổi
bắt nguy hiểm nó vẫn thích chơi với các oanh tạc cơ. Rồi mẹ nó hét lên gần như
hoảng loạn, túm nó xuống dưới hầm, nơi đứa em gái 9 tuổi Christa đang ngồi run
rẩy và khóc lóc. Dường như toàn bộ căn hầm đang rung chuyển. Vữa trên trần và
trên tường rơi xuống; rồi đèn nhấp nháy và tắt phụt. Bà Reschke và Christa bắt
đầu cầu nguyện thật to, một phút sau thì Rudolf nhập cuộc, họ cùng đọc bài kinh
“Cha chúng ta.”
Tiếng bom ngày càng khủng khiếp hơn và
giờ căn hầm rung chuyển liên hồi. Ba người nhà Reschke từng trải qua nhiều cuộc
không kích, nhưng chưa lần nào dữ dội thế này. Bà Reschke vòng tay ôm hai con,
bắt đầu nức nở.
Xưa nay Rudolf hiếm khi thấy mẹ khóc, dù
nó biết bà vẫn thường lo âu, nhất là khi cha nó còn đang ở ngoài mặt trận. Đột
nhiên nó thấy nổi điên với lũ máy bay vì đã làm mẹ nó sợ - và đây cũng là lần
đầu tiên Rudolf thấy sợ. Nó phát hiện ra mình cũng đang khóc.
Trước khi mẹ nó có thể cản lại kịp,
Rudolf lao ra khỏi hầm. Nó chạy lên cầu thang, vào trong căn hộ ở tầng trệt của
nhà mình; rồi chạy thẳng vào trong phòng mình, tới chỗ đám lính đồ chơi của nó.
Nó chọn cái nhìn oai nhất trong cả đám, có những đường nét khác biệt vẽ trên
khuôn mặt bằng sứ. Nó đi vào bếp và lấy con dao phay nặng nề của mẹ. Hoàn toàn
quên đi cuộc không kích, Rudolf đi ra ngoài sân của tòa nhà, đặt con búp bê
xuống nền, rồi một nhát cắt lìa đầu con búp bê. Nó lui lại và nói: “Đó!” Nước mắt
chảy dài trên mặt, nó nhìn xuống cái đầu nghiêm trang của Adolf Hitler mà không
hề hối lỗi.
************
Mục lục"
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét