Thị trấn Vĩnh Lộc ngày nay được hình thành trên cơ sở đất
của làng Cao Mật, làng Nhân Lộ, làng Giáng (xã Vĩnh Thành), đất của làng Phương
Giai (xã Vĩnh Tiến) và đất của làng Bái Xuân, làng Đồng Minh (xã Vĩnh Phúc).
Theo các nghiên cứu khảo cổ học, mảnh đất Vĩnh Lộc từ xa xưa đã có dấu chân
định cư của con người. Thông qua việc khai quật di chỉ Đa Bút (xã Vĩnh Tân),
các nhà khoa học chứng minh cư dân thời nguyên thủy từng sinh sống ở khu vực
này. Những di vật khai quật được từ di tích Phà Công (giáp ranh giữa xã Vĩnh
Thành và xã Vĩnh Khang) cũng chứng tỏ cách đây hàng nghìn năm đã có con người
sinh sống trên mảnh đất này. Thị trấn Vĩnh Lộc ngày nay thuộc huyện Vĩnh Lộc.
Thời Bắc thuộc, huyện Vĩnh Lộc thuộc huyện Tư Phố, quận Cửu Chân. Đến thời Tùy
- Đường, huyện Vĩnh Lộc cùng với các huyện Thạch Thành, Hà Trung lập thành
huyện Nhật Nam, quận Ái Châu. Đến thời Lý - Trần, toàn bộ vùng đất của huyện
Vĩnh Lộc ngày nay cùng với một số xã của huyện Hà Trung được thành lập huyện
Vĩnh Ninh, thuộc thị trấn Thanh Đô.
Đến thời Tây Sơn, huyện Vĩnh Ninh đổi thành huyện Vĩnh Lộc.
Từ đây, tên gọi huyện Vĩnh Lộc chính thức ra đời. Năm Minh Mệnh thứ 16 (năm
1835), 4 huyện Vĩnh Lộc, Cẩm Thủy, Thạch Thành, Quảng Địa được sáp nhập thành
phủ Quảng Hóa, sở lỵ đặt tại Vĩnh Lộc thuộc xã Biện Hạ (nay thuộc xã Vĩnh
Minh), sau chuyển về Nhân Lộ (nay thuộc xã Vĩnh Thành, huyện Vĩnh Lộc). Năm
1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, sau hiệp ước Hác-măng và
Đến năm 1937, Pháp làm đoạn đường từ cổng chùa Thông - qua
cánh đồng của làng Thọ Vực, làng Hà Lương, làng Giáng, làng Nhân Lộ (xã Vĩnh
Thành), qua làng Bái Xuân (xã Vĩnh Phúc) lên làng Xuân Giai (xã Vĩnh Tiến) và
đi vào giữa Thành Nhà Hồ để lên huyện Cẩm Thủy. Những con đường này đã tạo điều
kiện thuận lợi để huyện Vĩnh Lộc nói chung và các xã nằm dọc các tuyến đường có
điều kiện giao thương buôn bán. Nhân dân từ các nơi tập trung về các khu vực
này để buôn bán ngày càng nhiều. Năm 1913, chính quyền Pháp mở Trường Tiểu học
Pháp - Việt phủ Quảng Hóa đặt tại làng Cao Mật (xã Vĩnh Thành)1. Đây là trường
phủ nên học sinh của các huyện Vĩnh Lộc, Thạch Thành, Cẩm Thủy, Yên Định đều
tới đây học. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, sở lỵ của phủ Quảng Hóa chủ
yếu đóng tại làng Nhân Lộ. Sách Đại
Làng Nhân Lộ Thuộc xã Vĩnh Thành, cách Thành Nhà Hồ khoảng
2,5km về phía Tây
Trước khi sáp nhập theo tinh thần Nghị quyết 786/NQ-UBTVQH14
ngày 16/10/2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; đối với thị trấn Vĩnh Lộc cũ có
03 khu phố, với tên gọi là: khu phố 1, khu phố 2, khu phố 3 và duy trì tên gọi
này từ khi hình thành cho đến nay. Đối với xã Vĩnh Thành cũ, có 08 thôn. Năm
2017, thực hiện Đề án sáp nhập thôn theo Quyết định số 3507/QĐ-UBND ngày
18/9/2017 của UBND tỉnh Thanh Hóa, xã Vĩnh Thành cũ còn 07 thôn, với tên gọi
là: thôn 1 (còn gọi là thôn Thành Nhân), thôn 2 (còn gọi là thôn Nhân Lộ), thôn
3 (còn gọi là thôn Thành Long, hay làng Cao Mật), thôn 4 (còn gọi là thôn Thành
Công, hay làng Giáng), thôn 5 (còn gọi là thôn Hà Lương), thôn 7 (còn gọi là
thôn Phụng Công), thôn 8 (còn gọi là thôn Đún Sơn).
Lịch sử các làng như sau:
- Làng Quảng
Nhân, hay làng Thành Nhân. Làng Quảng Nhân tên gọi lúc đầu là làng Ấp. Ấp ở đây
với nghĩa làng xóm do một nhóm người khai khẩn đất hoang mà lập nên. Từ đầu thế
kỷ XIX, triều Nguyễn đã có những cố gắng nhất định để phục hồi các làng, xã cũ,
mở thêm các làng mới, khuyến khích khai hoang bằng nhiều hình thức khác nhau;
triều Nguyễn còn lập vành đai trung du những đồn lính gọi là đồn Sơn Phòng. Các
cư dân đã đến xung quanh khu vực đồn Sơn Phòng khai phá đất đai, lập nhà cửa,
do đó nhiều đồn Sơn Phòng đã trở thành làng, trong đó có làng Ấp, nay là làng
Quảng Nhân. Năm 1948 – 1952 số dân Hưng Yên tản cư vào phố mới bị Pháp đánh bom
chuyển vào ở hầu hết ở Làng Quảng Nhân làm nghề hàng xáo, trồng rau và buôn bán
nhỏ với cư dân quanh vùng; Năm 1960, làng Quảng Nhân thành lập hợp tác xã nông
nghiệp bậc thấp, đặt tên là hợp tác xã Thành Nhân. Khi thành lập Hợp tác xã
toàn xã làng Quảng Nhân được gọi là đội 1. Hiện nay, cả làng Quảng Nhân cộng
với địa dư của 52 hộ công giáo họ Phúc Chỉ được gọi là thôn 1. Tên của thôn 1
sau khi đổi trở thành Khu phố Thành Nhân
- Làng Nhân
Lộ tên khởi đầu là làng Giò. Tên làng Giò được lưu truyền đến ngày nay. Làng
Giò xưa kia cũng là nơi hoang vu, rậm rạp đã được những cư dân đến trước khai
phá rồi lập nên làng xóm. …nhưng làng Giò hình thành từ thời nào hiện vẫn chưa
chứng minh được và sau này gọi là làng Nhân Lộ. Làng Nhân Lộ hiện nay có 52 hộ
thuộc họ giáo Phúc Chỉ được chuyển về làng Quảng Nhân để lập ra thôn 1, số hộ
còn lại của Nhân Lộ được thành lập một thôn, gọi là thôn 2. Tên của thôn 2 sau
khi đổi trở thành Khu phố Nhân Lộ
- Làng Cao
Mật trước Thế kỷ XV thuộc làng Giáng. Đến thế kỷ XV mới tách khỏi làng Giáng
lấy tên chữ là Cao Mật. Vì vậy, thôn 3 (Làng Cao Mật) đổi tên thành khu phố Cao
Mật. Tên của thôn 3 sau khi đổi: gọi là Khu phố Cao Mật.
- Làng Giáng
(Thôn 4): Xưa kia nơi đây là một bãi cây giáng, loại cây mộc thuộc họ với cây
vả, cây sung dễ khai phá. Những người đầu tiên đến nay khai phá lập nên làng
xóm gọi là làng Giáng. Vì vậy, thôn 4 đổi tên thành khu phố Giáng. Tên của thôn
4 sau khi đổi: Khu phố Giáng.
- Làng Hà Lương buổi đầu gọi là ấp A Lãng,
rồi Lương Hà, Hà Lưỡng, Hà Lãng…Sau cuộc kháng chiến lần thứ nhất chống đế quốc
Mông Cổ giành thắng lợi; tết Nguyên đán Mậu Ngọ (năm 1258), vua Trần Thái Tông
phong thưởng cho các tướng soái có công, đứng đầu là tướng Lê Tần và Hà Bổng.
Cũng năm này, Lê Tần đổi thành Lê Phụ Trần được vua Trần gả công chúa Lý Chiêu
Hoàng vợ cũ của vua làm vợ. Hai người sống với nhau từ năm 1258 tới năm 1279.
Có với nhau 2 người con, Con trai: Thượng vị hầu Lê Tông. Con gái: Ứng Thụy công
chúa Lê Ngọc Khuê. PGS Trần Bá Chí căn cứ vào Lê triều miêu duệ và Cổ Mai bi ký
cho rằng Lê Phụ Trần là cha Trần Bình Trọng và có thể chính Lê Tông là Trần
Bình Trọng vì tài liệu chỉ ghi Lê Phụ Trần và công chúa Chiêu Thánh chỉ có một
người con trai, không nhắc đến người con trai nào khác. Trần Bình Trọng tức Lê
Tông sau lấy Công chúa Nhà Trần được được vua đổi họ theo quốc tính từ họ Lê
sang Họ Trần (có con hay không không thấy sử ghi lại) sau này Bị giặc Nguyên
bắt và bị giết vì cương quyết không đầu hàng với câu nói nổ tiếng “Ta thà làm
quỷ nước Nam chứ không làm vương đất Bắc” được Vua Trần gia phong Bảo Nghĩa
Vương; Lê Phụ Trần được vua phong thái ấp ở Hà Lương đã đưa dòng họ đến khẩn
hoang, phát triển kinh tế và lập làng, tính đến nay đã là hơn 700 năm. Năm
1955, Hà Lương gọi là xóm Thành Khang, rồi khi thành lập hợp tác xã toàn xã gọi
theo đội sản xuất là đội 8. Hiện nay, làng Hà Lương được gọi là thôn 5. Tên của
thôn 5 sau khi đổi trở thành Khu phố Hà Lương;
- Làng Phụng
Công, chính tên là Phượng Công, vì có đỉnh núi ở đầu làng như đầu con chim
Phượng, chân núi xòe ra ở cuối làng như đuôi con chim Công, nên có tên là
Phượng Công. Vì “Phượng” cũng là “Phụng” nên dân gọi ra là Phụng Công và gọi
tắt là làng Công. Làng Phụng Công ngày xưa chỉ là lán trại tạm của dân làng Hữu
Chấp xã Vĩnh Hoà làm ruộng ở đấy thuộc đất xã Vĩnh hoà; Năm 1965 - 1966 ông Trần Đảng Trưởng ty Kiến
Trúc cùng ông Trần Tiến Quân (Trịnh Huy Lãng) làm cán bộ ở tỉnh Thanh Hoá (sau này làm phó chủ tịch tỉnh) người xã Vĩnh Hòa đề
nghị Tỉnh Thanh Hoá thành lập Xí nghiệp gạch ngói lấy tên là xí nghiệp gạch ngói
vôi Vĩnh Hoà (vì đặt trên đất xã Vĩnh Hòa), Năm 1967 Tỉnh chia lại địa giới hành
chính từ cầu Công trở lên cho xã Vĩnh Thành;
Người làng Phụng Công gồm dân số nhiều nơi chuyển đến định cư, bao gồm
người xã Vĩnh Hoà, xã Vĩnh Ninh, xã Vĩnh Khang, dân miền ngoài, dân đò dọc ven
sông Bưởi và Sông Mã, Công nhân xí nghiệp gạch ngói mua đất làm nhà định
cư đến nay dân số đã tăng lên trên dưới
200 hộ; Hiện nay, làng Phụng Công được gọi là thôn 7. Tên của thôn 7 sau khi
đổi: là Khu phố Phụng Công.
- Làng Mới:
Với chủ trương chuyển dân cư ra khu vực chân núi Đún (Đốn Sơn) nhằm mục đích
cho nhân dân phát triển kinh tế vườn đồi, có điều kiện đi lại làm đồng thuận
lợi và giải quyết được đất ở cho nhân dân. Từ năm 1981, các gia đình bắt đầu
chuyển cư ra khu vực chân núi Đún định cư, lập nghiệp và lập nên làng xóm như
ngày nay, với tên gọi là làng Mới. Làng Mới dưới chân núi Đún hiện nay được gọi
là thôn 8, hay còn gọi là thôn Đốn Sơn. Tên của thôn 8 sau khi đổi: Là Khu phố
Đốn Sơn.
Sưu tầm từ trang Vĩnh Lộc và sử liệu Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét