XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Hai, 14 tháng 2, 2022

ĐỀN THỜ, BIA KÝ TRỊNH KHẢ - XÃ VĨNH HÒA

 Trịnh Khả người làng Kim Bôi, huyện Vĩnh Ninh là bậc khai quốc công thần, làm quan dưới 3 triều vua Lê: Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông được ban quốc tính họ vua gọi là Lê Khả. Trịnh Quyện là cha của Trịnh Khả. Ông sinh được 4 người con trai, Trịnh Khả là con út.

Trịnh Khả rất ham mê đọc sách, thường nằm nghỉ ngơi ở chùa Kiều Sơn. Sách Thanh Hóa tỉnh, Vĩnh Lộc huyện chí của tác giả Lưu Công Đạo viết: Năm 1407, sau khi bắt sống được cha con Hồ Quý Ly, nhà Minh đặt ách cai trị, đã sai Trương Phụ đi khắp các quận huyện nước ta xem phong thủy. Một hôm đến xã Kim Bôi ngắm kỹ non nước địa hình thì thấy: “Hướng Càn có đồn binh, hướng Cấn có chỗ lên ngựa..., trong đất ấy ắt sẽ sinh ra tướng giỏi”.

Năm 16 tuổi, một hôm Trịnh Khả dắt trâu đi cày về ngồi nghỉ tại cổng chùa Kiều Sơn. Trương Phụ thấy ông kỳ lạ cho rằng đây là người mình đang cần tìm. Nhìn dung mạo khôi ngô, mày rồng, trán hổ, tai dày dính thịt, mắt nhỏ ẩn thần ông lập tức hỏi: “Con là ai ngồi đây có công cán gì” ; Trịnh Khả trả lời “Tôi là người nông canh nhàn hạ câu cá, ngồi đợi quạt gió cỏ nam thơm, đa tạ quan nhân đã để mắt tới kẻ hèn mọn. Có quan hệ gì đâu?”.Trương Phụ vừa nghe nói thất sắc đáp lại rằng “Ngươi có tướng mạo phi thường, nhưng lời nói lại càng phi thường hơn” Rồi lại nói “Câu cá phải có bạn cùng câu, ấy cỏ Nam thơm phải có người thưởng ngoạn cùng, ngươi cũng không phải là ngoại lệ, kẻ tiền bối của ta sau này ta sẽ bắt được ngươi” tức thì ôngđứng dậy cười và nói “có việc nhà bức bách, vả lại phải xin cha mẹ mới đi được” rồi về nói với mẹ “Con là người nước Nam, sao lại yên việc với bọn giặc Ngô” bèn chốn đến gia đình người cô ở Duyên Phúc. Thời gian không lâu giặc Minh kéo đến nhà bắt ông không được chúng đã quay sang giết cha rồi ném xác xuống sông Mã lúc ấy là ngày 14 tháng 9. Hai ngày sau Trịnh Khả mới biết chuyện men theo bờ sông tìm cha đến Hà Uyên (vực Tôm) bỗng thấy có 2 người đương vớt xác của thân phụ ông lên đem chôn, khi lại gần ông bàng hoàng sợ hãi ôm xác cha lên bờ tìm nơi cao an táng. Lại thấy một ông lão tóc bạc chắp tay hướng về phía ông mà nói rằng “Cát địa ở trước mặt ông đó sao không mang đến táng ở đó, đất bằng huyệt khởi, chỉ có lòng đất mới giữ được lâu…sau 3 năm sẽ phát phúc”.Ôm xác cha táng ở đó rồi về xã Diên Phúc chịu tang cha vừa căm thù giặc quyết chí báo thù. Nghe tin Lê Lợi đang náu mình ở Lam Sơn ngầm nuôi binh mã, ông liền vác gươm tới xin theo.

Đến với Lê Lợi, Trịnh Khả được trọng dụng tin dùng, ông được phong làm Phó chỉ huy lực lượng quân Thiết Đột. Ngày 07 tháng 2 năm 1418 Lê Lợi long trọng tổ chức lễ tế cờ, bố cáo với thiên hạ bắt đầu cuộc khởi nghĩa chống quân Minh đô hộ. Nhiều trận đánh lớn của nghĩa quân Lam Sơn với quân Minh điển hình là trận ở Lạc Thủy với lòng chiến đấu dũng cảm nghĩa quân đã đánh cho giặc Minh tơi bời chém được ba nghìn thủ cấp bắt sống được gần một nghìn tên.

Bấy giờ, để trả thù và uy hiếp lòng tin của nhân dân đối với Lê Lợi và toàn bộ nghĩa quân, giặc Minh đã kéo đến Phật Hoàng quật mộ lấy thi hài của thân phụ Lê lợi, chúng loan báo khắp nơi rằng ngôi huyệt đại phát của dòng họ Lê không còn, theo Lê Lợi chỉ có đổ máu vô ích mà thôi. Lúc bấy giờ Trịnh Khả đến trước mặt Lê Lợi xin được làm việc lớn mang thi hài của thân phụ trở về. Ông liền đội cỏ mà bơi đến bến Dao Xá Thượng thẳng đến trước mủi thuyền, lúc bấy giờ quân Minh đang ngủ say Trịnh Khả bèn lấy cái tiểu đựng xương cốt thân phụ Lê Lợi đem về. Tỉnh giấc, quân Minh kiểm tra không thấy hài cốt tổ tiên của Lê Lợi đâu vô cùng sợ hãi cho rằng việc ấy là do trời giúp Lê Lợi.

 Mưu trả thù không thành, giặc Minh tức tốc kéo quân đánh vào Lam Sơn lần thứ 2 trận đánh quá bất ngờ khiến nghĩa quân bị tổn thất nặng phải rút lên núi Chí Linh. Trong bối cảnh đó, Lê Lợi muốn có sự giúp đỡ của Ai Lao ông đã cử Trịnh Khả là người vừa thông thạo tiếng nói, ứng xử nhanh nhẹn thông minh, nắm vững đường đi lối lại sang làm sứ giả. Triều đình Ai Lao đồng ý giúp Lam Sơn một số quân và voi chiến, binh khí cùng với lương thực. Với thành công lớn trong chuyến đi sứ Trịnh Khả đã góp phần quan trọng vào việc hồi phục lực lượng của nghĩa quân Lam Sơn.

Tháng 10 năm 1424 nghĩa quân Lam Sơn ồ ạt tiến công vào Nghệ An, Trịnh Khả là một trong những tướng lĩnh cầm quân tham gia cuộc tấn công quan trọng này, ông trực tiếp chỉ huy quân đánh nhau với giặc đến mấy mươi trận lớn nhỏ trận nào ông cũng là người xung phong lên đầu hãm giặc, lập công. Lê Lợi và bộ chỉ huy đánh giá rất cao tài năng và cống hiến đa dạng của Trịnh Khả.

Tháng 9 năm 1426 nghĩa quân Lam Sơn tiến quân ra Bắc, lúc này Trịnh Khả cùng với các tướng Phạm Văn Xảo, Lý Triện và Đỗ Bí chỉ huy ba đạo quân có nhiệm vụ uy hiếp mặt Nam của Thành Đông Quan, đồng thời sẵn sàng chặn đứng đường viện binh của giặc từ Vân Nam tràn qua, lập được nhiều chiến công xuất sắc đánh thắng 3 trận lớn đó là trận Ninh Kiều, trận Nhâm Mục, trận Xa Lộc. Đáng chú ý ở trận Ninh Kiều, Trịnh Khả đã có công chỉ huy phục binh bất ngờ đánh cho Trần Trí một trận tơi bời tháo chạy về Đông Quan, ngay sau đó Ninh Kiều được xây dựng thành căn cứ rất lợi hại của nghĩa quân Lam Sơn.

Ngày 10 tháng giêng năm Đinh Mùi, Trịnh Khả tiến binh về phía Bắc bờ sông Lô bao vây thành Đông Quan, Vương Thông sợ hãi cấp báo với nhà Minh. Nhà Minh sai Liễu Thăng, Mộc Thạch chia đường sang cứu viện, khi nghe tin quân Liễu Thăng thất bại Mộc Thạch gom quân chạy về. Trịnh Khả tổ chức tung quân đuổi đánh ở Đan Xá và Lãnh Châu, quân Mộc Thạch đại loạn, quân ta chém được hơn một vạn thủ cấp bắt được hơn nghìn người ngựa cùng nhiều khí giới, lương thảo không kể xiết. Lãnh Câu và Đan Xá là hai đòn cực mạnh cuối cùng, góp phần đánh gục hoàn toàn cuồng vọng của Vương Thông nói riêng và triều đình nhà Minh nói chung. Tháng 12 năm 1426, Vương Thông xin hòa, rút quân về nước.

Niên hiệu Thuận Thiên nguyên niên 1428 Lê Lợi dẹp yên giặc Minh, phong tước công hầu, ban quốc tính. Trịnh Khả được ban hàm Kim Tử Vinh Lộc Đại Phu, Tả lân Hộ vệ tướng quân, được ban túi Kim Ngưu và Ngân Phù. Năm 1429 nhà Lê cho khắc biển ghi tên tuổi của các vị khai quốc công thần trong đó có Trịnh Khả.

Năm 1434, thừa lệnh vua Lê Thái Tổ, Trịnh Khả đem quân sang giúp Ai Lao, cùng  năm ông được cử làm tướng tiên phong cầm quân đi đánh giặc Chiêm Thành giành thắng lợi được phong làm Thái úy ban cho sáu chữ “Công thần thủ tướng Phụ chính’.

Trịnh Khả là lão thần dưới triều Hậu Lê, trải qua 3 đời vua, công lao rực rỡ. sau này được truy tặng là liệt Quốc Công, ban cho một trăm mẫu ruộng tế điền. Khi vua Lê Thánh Tông lên ngôi, truy nhớ tới ơn cứu mẹ đã gia phong cho Trịnh Khả là Hiển Ứng Vương Thượng đẳng phúc thần và lệnh cho làng Kim Bôi (ngày nay là làng Giang Đông xã Vĩnh Hòa) lập đền thờ ông.

Đền thờ và Bia ký được xây dựng trên triền đồi, hướng Nam nhìn ra dòng sông Mã. Cấu trúc của đền gồm:

Nghinh Môn (cổng) xây gạch có 2 lớp mái lợp ngói vảy, hai bên có hai tượng hộ pháp cầm trường đao đứng dưới mái che, qua nghinh môn là dãy bậc thang dẫn lên đền chính 21 bậc, phía bên phải dãy bậc thang là nhà thủ từ.

Đền chính có cấu trúc hình chữ nhị (=), tiền đường có 3 gian 2 dĩ; hiên trước được ghép với 2 trái hai bên tạo thành hình thức 4 mái có góc đao; bốn trụ hiên xây gạch, cấu trúc vì kèo đơn giản. Mái tiền đường lợp ngói vảy cá, chính giữa bờ nóc trang trí lưỡng long trầu nguyệt.

Hậu cung tiếp nối với tiền đường qua một khoảng sân nhỏ. Hậu cung rộng 18m2 tường xây gạch mái cuốn vòm; có một cửa đi mở ra phía trước; Hai bên hậu cung có 2 nếp nhà 2 gian quay nghiêng góc 300 vào tiền đường. Nhà phía bên trái là thờ các vị con trai, bên phải thờ các vị con gái.

Nhà Bia đi về phía sau qua lối nhỏ có bậc lên, nhà bia có hình thức 4 trụ, mới được xây dựng gần đây bằng bê tông cốt thép, phía sau là khu lăng mộ của song thân cùng các con trai, con gái của Trịnh Khả.

Tấm bia đá ghi nhận thân thế và sự nghiệp của Trịnh Khả, Bia được làm bằng đá xanh nguyên khối đặt trên lưng rùa có kích thước cao 1,30m, rộng 70cm, dày 0,02m. Đỉnh bia hình vòng cung khắc hai bông cúc hóa long chầu vào nhau. Bia được soạn niên hiệu Thái Hòa thứ 6 (1447) đời vua Lê Nhân Tông, người soạn là Thái học sinh khoa Canh Thìn (1400) triều Hồ tên là Nguyễn Mộng Tuân, người khắc là Nguyễn Thiên Lộ, ngự tiền tả ban. Toàn văn chữ Hán khắc kiểu chữ Khải, khoảng 22 dòng, mỗi dòng từ 2 đến 70 chữ.

Năm 2009, Di tích đã được UBND tỉnh phê duyệt trùng tu, tôn tạo với tổng mức đầu tư là 9.780.000.000 đ.

Nguồn từ Phòng Văn hóa Thông tin Vĩnh Lộc, Thanh Hoá




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét