“Lửa từ bi” trên hành trình thơ của Vũ Hoàng
Chương
Hoàng
Chương xuất hiện trên thi đàn sau khi những tên tuổi lớn của Phong trào thơ mới
như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu… đã đi qua thời đỉnh cao. Ông xuất
hiện với một giọng thơ lạ: vừa cổ kính xưa cũ vừa hiện đại đến táo bạo; vừa
thanh cao phiêu dật vừa nhục thể đến trần trụi rã rời…
Ông tự
nhận và cũng được không ít người xưng tụng là “Ông hoàng thơ ca”, bậc “Thi
vương” (Hoàng Chương), “Thi bá”... Trước 1945 ông có Thơ say (1940), Mây
(1943). Trong kháng chiến ông có Thơ lửa (1948), Rừng phong (1954). Sau 1954
ông có Hoa đăng (1959), Trời một phương (1962), Lửa từ bi (1963), Ánh trăng đạo
lý (1966), Bút nở hoa đàm (1967), Cành mai trắng mộng (1968), Ngồi quán (1971),
Chúng ta mất hết chỉ còn nhau (1973)... Dõi theo hành trình thơ của Vũ Hoàng Chương
ta thấy có nhiều thay đổi, trong đó có khúc quanh quan trọng là việc cho ra đời
tập thơ Lửa từ bi – một tập thơ được viết ra từ ánh sáng ngọn lửa tự thiêu của
Hòa thượng Thích Quảng Đức trong cuộc đấu tranh vì tự do, hòa bình, vì Phật
pháp và vì dân tộc.
1. VŨ HOÀNG CHƯƠNG TỪ “THƠ SAY” ĐẾN “LỬA TỪ
BI”
Từ Say (Thơ say) đến Mộng (Mây)
Vũ Hoàng
Chương xuất hiện với những vần thơ say – có cái say từ thiên cổ theo kiểu “túy
hậu cuồng ngâm”, say để phát lộ tính tình, nhưng cũng có cái say của thời hiện
đại, ở những đô thị mới mẻ, náo nhiệt mà cũng không thiếu trụy lạc của thời
thực dân. Bài thơ Say đi em mở đầu tập Thơ say là bài thơ mang nhịp điệu mới mẻ
ấy. Người thơ say nhạc, say khiêu vũ, say rượu và say với giai nhân:
Khúc nhạc hồng êm ái
Điệu kèn biếc quay cuồng.
Một trời phấn hương
Đôi người gió sương
(…) Âm
ba gờn gợn nhỏ,
Ánh sáng phai phai dần…
Bốn tường gương điên đảo bóng giai nhân,
Lui đôi vai, tiến đôi chân:
Riết đôi tay, ngả đôi thân,
Sàn gỗ trơn chập chờn như biển gió,
Không biết nữa màu xanh hay sắc đỏ,
Hãy thêm say, còn đó rượu chờ ta!
Say để
quên đi mối Sầu – một mối Sầu nào đó người thơ không nói rõ, nhưng cơ hồ lớn
lắm, như bức thành sừng sững mà cái say rã rời cũng không làm cho nó sụp đổ
được:
Say đi em! Say đi em!
Say cho lơi lả ánh đèn,
Cho cung bực ngả nghiêng, điên rồ xác thịt
Rượu, rượu nữa và quên quên hết!
(…) Chân
rã rời
Quay cuồng chi được nữa,
Gối mỏi gân rơi!
Trong men cháy giác quan vừa bén lửa.
Say không còn biết cho đời,
Nhưng em ơi,
Đất trời nghiêng ngửa
Mà trước mắt thành Sầu chưa sụp đổ
Đất trời nghiêng ngửa,
Thành Sầu không sụp đổ, em ơi!(1)
Bài Say
đi em mở đầu tập thơ mà như bài tựa, nó gồm thâu hết cái say trong cả tập thơ.
Ẩn chứa sau cái say ấy là mối sầu vạn cổ như trong thơ xưa, mà cũng pha chút
đắng cay thân phận của một người dân thuộc địa.
Người
thơ sẽ nói rõ hơn, thảm hại hơn về cái thân phận ấy ở nhiều bài thơ sau, mà ấn
tượng nhất là bài Phương xa:
Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa,
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh,
Bể vô tận xá gì phương hướng nữa,
Thuyền ơi thuyền! theo gió hãy lênh đênh.
Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ.
Một đôi người u uất nỗi bơ vơ,
Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị,
Thuyền ơi thuyền! xin ghé bến hoang sơ.
Thế
nhưng nhổ thuyền đi đâu, trốn ở bến bờ nào được? Người trốn vào ái tình bẽ bàng
với những cô gái môi nâu vì thuốc phiện:
Hãy buông lại gần đây làn tóc biếc,
Sát gần đây, gần nữa cặp môi nâu
(…) Hãy buông lại gần đây làn tóc rối
Sát gần đây, gần nữa cặp môi điên,
Rồi em sẽ dìu anh trên cánh khói,
Đưa hồn say về tận cuối trời Quên.
Quên
(Thơ Say)
Trong
những cơn say rượu và thuốc phiện, người thơ mơ trốn lên Thiên Thai, Đào
Nguyên… nhưng động xưa đã khép, “Đào Nguyên lạc lối” không tìm được nữa! Người
tìm vào những mối tình học trò với những U tình, Cánh buồm trắng, Vườn tâm sự,
Em là công chúa... Nhưng tình học trò dù có thiết tha đến mấy nhưng dường như
cũng quá nhạt với người! Người tìm vào những giấc mộng tình yêu với hồ ly, gái
liêu trai… với phức cảm vừa rùng rợn lại vừa đắm say:
Gạn giấc chiêm bao với mảnh hình
Tóc xòa buông rủ mái tròn xinh.
Hoa mai thêu trắng nền xiêm lụa,
Đôi mắt ngời sao miệng đẫm tình.
Lòng cháy yêu đương tự bấy giờ,
Sá chi người thực với trong mơ!
… Đêm đêm ảo ảnh thơm chăn gối,
Tình hướng về Đông, dạ lắng chờ.
Tình
Liêu Trai (Mây)
Thế
nhưng Tình Liêu Trai cũng chỉ Mộng. Đôi khi người sực tỉnh, một niềm xót xa
thân phận và một niềm khao khát hành động lại ùa về:
Ôi! Lòng ta sao buồn không nguôi?
Niềm u uất dâng cao hề tháng ngày trôi
xuôi.
Há vì cơm áo chẳng no lành?
Há vì đời không ai mắt xanh?
Nhớ thuở xưa chưa có ta hề đường đi thênh
thênh
Kịp tới khi có ta hề chông gai mông mênh.
Cuồng vọng cả mà thôi, bốn phương hề vướng
mắc.
Ba mươi năm trên vai hề trống không bình
sinh…
Túy hậu cuồng ngâm
Bài thơ
Túy hậu cuồng ngâm cuối tập thơ Mây có một giọng khác lạ so với những bài thơ
trước, nhưng theo tôi nó vẫn là một phần máu thịt trong hồn thơ Vũ Hoàng
Chương. Bài thơ như một sự tỉnh mộng, nhưng từ một góc nhìn khác lại cũng là
chìm vào giấc mộng: giấc mộng hành động, giấc mộng anh hùng!
Từ
Mộng đến với Hành động và Sân hận
Từ Vũ
Hoàng Chương của Túy hậu cuồng ngâm đến Vũ Hoàng Chương của Thơ lửa do Hội Văn
hóa Liên khu 3 ấn hành 1948 thì gần lắm rồi, chỉ một bước chân qua bên kia là
“Vùng tự do” (vùng kháng chiến) là tới. Như chính Vũ Hoàng Chương bộc bạch: “Tự
biết mình là một người dân vong quốc, tôi rất kính trọng Kháng chiến và cảm
phục Cách mạng. Sự cảm phục và kính trọng này đã khiến cho tôi giác ngộ được
phần nào, và tự hứa sẽ tích cực tham dự công cuộc chung của nhân dân do Hồ Chủ
tịch lãnh đạo”(2).
Trong
kháng chiến, Vũ Hoàng Chương chuyển hướng thành một nhà thơ ái quốc nhiệt thành
và say mê hành động, như chính trong văn bản trên, ông đã kể về những hoạt động
của mình:
“- đã
viết được vở kịch thơ Hồn Cách mạng, diễn tại Nhà Hát Lớn Hà Nội (1946)
- đã được giải thưởng thứ 3 về thơ Toàn quốc
kháng chiến, do đích thân Hồ Chủ tịch làm chủ khảo (1947)
- đã
được hội Văn hóa Liên khu 3 ấn hành cho tập thơ kháng chiến nhan đề Thơ lửa (1948)
- đã
viết đều ở báo Công Dân tại tỉnh Nam Định (1947, 48)…
- đã
được bầu làm trưởng nhánh Văn chương Báo chí của hội Văn nghệ chi nhánh Liên
khu 3 (1948)…”(3).
Vì thế
chúng ta không hề ngạc nhiên khi đọc bài thơ Nhớ về Hà Nội vàng son của ông viết
năm 1947 – bài thơ có một giọng điệu trong sáng, hào hứng hiếm có. Theo tôi,
đây là một trong những bài thơ hay nhất viết về Cách mạng tháng Tám:
Ôi ngày
mười chín, ngày oanh liệt!
Sóng đỏ
hoa vàng khắp bốn phương
Hà Nội
tiếng reo hò bất tuyệt
Vang sang
bờ nọ Thái Bình Dương.
Ba mươi
sáu phố, ngày hôm ấy
Là những
nhành sông đỏ sóng cờ
Chói lọi
sao vàng, hoa vĩ đại
Năm cánh
hoa xoè trên năm cửa ô (…)
Chen
tiếng hoan hô, này khẩu hiệu
Muôn năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh!
Muôn năm
người lính già tiêu biểu
Vì giang
sơn quyết bỏ gia đình.
Ôi ngày
mười chín, ngày sung sướng!
Vạn ước
mong dồn một ước mong!
Ôi mùa
thi ấy, mùa tin tưởng!
Một tấm
lòng mang vạn tấm lòng (…)
Thế
nhưng rồi Vũ Hoàng Chương lại đi đến một khúc quanh khác: năm 1950, ông bỏ về
Hà Nội, rồi từ Hà Nội ông di cư vào Nam năm 1954. Thơ Vũ Hoàng Chương từ sau
1954 là nỗi hoài niệm về Hà Nội, về quê hương miền Bắc. Được chiều chuộng trong
không gian văn nghệ bên kia bờ Hiền Lương, ông trượt đi trong nghịch cảnh. Với
những tập Hoa đăng (1959), Trời một phương (1962)… thơ ông mang nặng nỗi niềm u
uất và cả sân hận… Đọc những bài thơ như Bài ca Bình Bắc, Nhớ Thăng Long, Từ
đây, Nhớ Bắc… người ta thấy rất nhiều ảo tưởng, rất nhiều hoang tưởng và nhất
là rất nhiều sân hận. Nhưng mà thôi, với thi sĩ thì nói đến sân hận làm gì!
Nguyễn Du chẳng đã từng nhắc chúng ta: “Thân tàn gạn đục khơi trong/ Là nhờ
quân tử khác lòng người ta”?…
2. ĐẾN VỚI TỈNH THỨC, TÌNH YÊU TRONG “LỬA TỪ
BI”
Chế độ
Ngô Đình Diệm đã không đem lại tự do, hòa bình, thống nhất như có thời Vũ Hoàng
Chương từng ảo tưởng. Chế độ ấy thi hành chính sách kỳ thị tôn giáo, cấm đoán
Phật giáo – một tôn giáo thân thiết gắn bó với dân tộc hơn nghìn năm nay. Chế
độ ấy mở cửa đất nước cho quân đội ngoại bang vào dày xéo quê hương. Hòa bình,
thống nhất trở nên xa vời, thảm họa của cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong
lịch sử dân tộc đang đến rất gần… Ngày 11 tháng 6 năm 1963, Hòa thượng Thích
Quảng Đức tự thiêu. Hòa thượng bình thản ngồi trong khối lửa, nhưng cả thế giới
thì rúng động trước sức nóng của khối lửa ấy.
Trong
bối cảnh ấy, Vũ Hoàng Chương đã nhận chân ra bộ mặt thật của chế độ và nghịch
cảnh của dân tộc, nhà thơ đã đi đến một khúc quanh mới: ông từ bỏ những vọng
tưởng và sân hận mà thức tỉnh đi đến với Tình yêu - tình yêu Tự do, Hòa bình,
tình Anh em và tình Nhân loại. Bài thơ Lửa từ bi và cả tập thơ cùng tên là minh
chứng cho khúc quanh đó.
Vũ Hoàng
Chương cũng xác quyết về khúc quanh này trong Lời tựa tập Lửa từ bi: “Những bài
thơ trong tập này nhằm ghi lại một nguồn cảm hứng mới của tác giả, khơi dậy
trong lòng cuộc tranh đấu của Phật giáo đồ Việt Nam, khoảng năm 2.507 Phật lịch
(từ 15 tháng Tư đến 15 tháng Chín), tức là năm 1963 d.l.”(4).
Trong
không khí đàn áp Phật giáo khốc liệt của năm 1963, bài thơ Lửa từ bi đã ra đời
một cách khó khăn. Lúc đầu bài thơ bị tòa báo từ chối, sau nó được in dạng quay
ronéo như truyền đơn, và sau đó mới được xuất bản trong tập thơ Lửa từ bi cùng
14 bài thơ khác. Tác giả kể: “Bài Lửa từ bi gửi đăng nhật báo Tự do Saigon ngày
28/7/63 bị kiểm duyệt bỏ trọn, đã được văn phòng Chùa Xá Lợi, ngay sau đó, quay
thành những bản "Ronéo" và phổ biến nhân ngày Chung thất của Bồ Tát
Quảng Đức. Bài Người với người được đăng trên nhật báo Tự do ngày 18/8/63 chỉ
bị kiểm duyệt bỏ 10 chữ. Sau đấy, Chùa Xá Lợi bị cường quyền xâm phạm, nhật báo
Tự do cũng bị đình bản, tác giả không còn phương tiện nào khác để phổ biến thơ
của mình ngoài cách truyền tay trong số các bạn thân tín”(5).
Tập thơ
được xuất bản, nhưng không phải bởi một nhà xuất bản có uy tín nào, mà do Đoàn
Thanh niên tăng ni – một tổ chức đấu tranh cho Phật giáo đứng ra in. Giấy in
xấu, bìa vẽ vội, xuất bản rất nhanh – chỉ 3 tháng sau khi Hòa thượng chịu pháp
nạn: tháng 9 năm 1963. Thế nhưng tập thơ này lại trở thành tập thơ hay nhất của
Vũ Hoàng Chương sau Thơ say.
Bài thơ
bắt đầu bằng cảnh tượng Hòa Thượng Thích Quảng Đức tọa thiền trong tòa sen lửa.
Ngọn lửa thì ngùn ngụt bốc lên, còn chúng sinh với xác phàm và tâm trần khổ đau
thì quỳ xuống. Ngọn lửa của Hòa thượng cháy lên thành một mặt trời thứ hai:
Lửa! lửa
cháy ngất tòa sen!
tám chín
phương nhục thể trần tâm
hiện
thành THƠ, quỳ cả xuống.
Hai Vầng
- Sáng rưng rưng
Đông Tây
nhoà lệ ngọc
chắp tay
đón một Mặt-trời-mới-mọc,
ánh Đạo
- Vàng phơi phới
đang
bừng lên, dâng lên(6)
Hòa
thượng thiêu mình không phải bằng cái tâm sân hận, mà Người tận hiến cuộc sống
của mình từ tình thương và lòng từ bi:
Thương
chúng sinh trầm luân bể khổ,
NGƯỜI rẽ
phăng đêm tối đất dày
bước ra,
ngồi nhập định, hướng về Tây;
gọi hết
lửa vào xương da bỏ ngỏ,
Phật -
pháp chẳng rời tay.
Sáu ngả
Luân - hồi đâu đó
mang
mang cùng nín thở,
tiếng
nấc lên ngừng nhịp Bánh - xe - quay.
Ngọn lửa
từ nhục thân của Hòa thượng ngùn ngụt cháy, nhưng ngọn lửa ấy không phải lan ra
thành bão lửa, mà ngọn lửa đưa Hòa thượng lên Niết bàn và để lại bóng mát cho
chúng sinh:
Không
khí vặn mình theo
khóc oà
lên nổi gió;
NGƯỜI
siêu thăng
giông
bão lắng từ đây.
Bóng
NGƯỜI vượt chín tầng mây,
nhân
gian mát rợi bóng cây Bồ - đề.
Hòa
thượng trở thành bất tử - bất tử mà không cần ngọc đá để tạc tượng, không cần
lụa tre của người viết sử làm thơ:
Ngọc hay
đá, tượng chẳng cần ai tạc;
lụa hay
tre, nào khiến bút ai ghi;
chỗ
NGƯỜI ngồi: một thiên - thu - tuyệt - tác
trong vô
hình sáng chói nét Từ - Bi.
Vì ngọc
đá lụa tre của trần gian vẫn có ngày mục nát, nhưng trái tim yêu thương của Hòa
thượng thì vĩnh cửu, tỏa ánh sáng từ bi xuống tận tầng đáy sâu nhất của hỏa
ngục – nơi con người bị đọa đày:
Rồi đây,
rồi mai sau, còn chi ?
ngọc đá
cũng thành tro
lụa tre
dần mục nát
với Thời
- gian lê vết máu qua đi.
Còn mãi
chứ! còn Trái - Tim - Bồ - Tát
gội hào
quang xuống tận ngục A - tỳ.
Trước
ngọn lửa từ bi ấy, nhà thơ đại ngộ: từ vô minh mà đến tỉnh thức. Những kiêu
căng, ngông nghênh của một “thi vương”, “thi bá” trần hoàn cũng hết, nhà thơ
chỉ coi thơ là rơm rác trước ánh lửa
kia, và rồi lại mong thơ mình là rơm rạ để cháy lên theo lời kinh:
Ôi Ngọn
- lửa - huyền - vi!
thế giới
ba nghìn phút giây ngơ ngác
từ cõi
Vô - minh
hướng về
Cực - lạc;
vần điệu
của Thi - nhân chỉ còn là rơm rác
và chỉ
nguyện được là rơm rác,
THƠ cháy
lên theo với lời Kinh
tụng cho
Nhân - loại hoà bình
trước
sau bền vững tình Huynh - đệ này.
Thơ Vũ
Hoàng Chương cháy lên từ đó, cháy lên để soi đường đi đến với Tình yêu - tình
yêu Tự do, Hòa bình, tình Anh em và tình Nhân loại:
Thổn
thức nghe lòng trái Đất
mong
thành quả Phúc về cây;
nam mô
Bổn - Sư Thích - Ca - Mâu - Ni - Phật;
đồng
loại chúng con
nắm tay
nhau tràn nước mắt,
tình
thương hiện Tháp - Chín - Tầng xây.
Bài thơ
có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngay sau đó nó được truyền ra nước ngoài. Với uy tín
của mình, Vũ Hoàng Chương đã kêu gọi giới trí thức quốc tế chú ý đến cuộc đấu
tranh của nhân dân Việt Nam. Tác giả kể:
“Riêng 2
bài Lửa từ bi và Người với người đã gửi sang Âu châu ngay sau lúc sáng tác nên
nữ thi sĩ Bỉ quốc Simone Kuhnen de la Cœuillerie đã dịch Pháp ngữ để kịp thời
đệ trình lên Hội nghị thi ca quốc tế họp tại Knokke từ 5 đến 9 tháng 9/63. Tác
giả cũng đích thân gửi thư yêu cầu Hội nghị chú trọng đến cuộc tranh đấu của
Phật giáo đồ tại Việt Nam. Thi sĩ Pierre - Louis Flouquet, nhân danh Phó chủ
tịch, đã thỏa mãn lời yêu cầu này. Hai bản dịch (Feu de Sacrifice và D’homme à
homme) đã được giới thiệu với các đại biểu của 50 quốc gia. Một đoạn trong bài
thứ nhất được ngâm lên giữa Hội nghị, đó là đoạn:
Rồi đây,
rồi mai sau, còn chi?
Ngọc đá
cũng thành tro, lụa tre dần mục nát
Với
Thời-gian lê vết máu qua đi.
Còn mãi
chứ! còn TRÁI TIM BỒ TÁT
Gội hào
quang xuống tận ngục A - Tỳ”(7)
Từ sau
tập Lửa tư bi, trong thơ Vũ Hoàng Chương những chán chường, khổ đau, mộng mị
như trong Thơ Say và Mây cũng hết; những ảo tưởng, hoang tưởng và sân hận trong
Hoa đăng, Trời một phương cũng không còn, thơ ông như đến với một cảnh giới
khác: tràn đầy yêu thương, tràn đầy tình huynh đệ, tràn đầy hỉ xả, và cả lạc
quan. Đọc tên các tập thơ sau Lửa từ bi cũng thấy được phần nào: Ánh trăng đạo
lý (1966), Bút nở hoa đàm (1967), Cành mai trắng mộng (1968), v.v... Ông bắt
đầu cách ly mình với chính quyền thân Mỹ. Năm 1966 khi đang làm chủ tịch Hội
văn bút(8), ông đã từ chối tham gia hội
nghị về thơ tổ chức ở New York để phản đối Mỹ và chính quyền bù nhìn – như ông
viết: “Năm 1966, hội nghị ở Mỹ (New York) nhưng tôi không đi, và đã cử Tổng thư
ký đi thay làm trưởng phái đoàn. Vì tôi ghét bọn Mỹ Thiệu và Kỳ lúc đó đang đàn
áp Phật giáo ở Đà Nẵng, Sài Gòn”(9).
Con
đường thơ của Vũ Hoàng Chương trải qua những tháng ngày buồn tủi, khốc liệt
nhất của dân tộc. Vũ Hoàng Chương là một thiên tài thơ Việt Nam hiện đại, một
thiên tài thơ chịu lắm thăng trầm. Dường như chúng ta vẫn nhìn ông với con mắt
định kiến mà không biết ông đã trải qua một hành trình gian khổ từ Thơ Say, Mây
đến Thơ lửa; rồi từ Hoa đăng, Trời một phương đến với Lửa từ bi… một hành trình
tự lột xác mình. Chúng ta chưa đánh giá hết bước chuyển mình của Vũ Hoàng
Chương từ tập Lửa từ bi cũng như chưa đánh giá hết vị trí lịch sử của tập thơ
này với văn học Việt Nam hiện đại. Tôi xin trích một đoạn đánh giá về tập thơ
này trong Lời giới thiệu của Nhà xuất bản Rừng Trúc khi ấn hành thơ Vũ Hoàng
Chương ở Paris:
“Phải
nhận rằng ngàn-chín-trăm-sáu-ba đánh dấu sự chuyển mình lớn của văn học Việt
Nam trong giai đoạn mới của sử tính. Dường như chúng ta vừa trở về tổ ấm, vừa
nắm bắt vũ khí sở trường chôn lâu trong hoen rỉ và lãng quên để trang bị tri
thức và tâm linh mình. Không có vũ khí tinh thần này, chúng ta chẳng còn là ta
nữa.
Bài Lửa
từ bi của Vũ Hoàng Chương đã thực đánh dấu cho sự chuyển mình đó. Nó bộc lộ đủ
một phong triều văn học mới, dựng trên Bao dung và Trí tuệ. Bởi nó ánh được
Ngọn lửa tỉnh thức. Bởi nó đã dùng lời Việt nói ra sự chấn động ầm ầm của lương
tâm quốc tế”(10).
Bài thơ
là một khúc quanh của một nhà thơ, đánh dấu một khúc quanh của một nền văn
học(11). Nó thực sự cần có một chỗ đứng xứng đáng hơn trong các tuyển tập,
trong các bộ lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Và tác giả của bài thơ cũng vậy
Tạp chí Nghiên cứu văn học số 7 năm 2013
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét