Tôi sinh
ra năm 1930. Những năm đầu đời của tôi gắn bó với một giai đoạn quan trọng của
lịch sử xây dựng đường sắt xuyên Đông dương (tổng chiều dài 1.730km, - tiền
thân của Đường sắt Bắc Nam ngày nay).
Năm
1898, Quốc hội Pháp thông qua một đạo luật cho Đông Dương vay 200 triệu franc
nhằm thực hiện ba đoạn đường sắt chính:
- Đoạn
Hà Nội đi Vinh, qua Nam Định (dài 319 km, thực hiện trong giai đoạn 1903-1905),
được đánh giá là có thể sinh lợi ngay tức khắc.
- Đoạn
Tourane (Đà Nẵng) đi Đông Hà, qua Huế (dài 169 km, - giai đoạn1906-1908), mở
những lối đi ra biển Đông cho một vùng dân cư đông đúc.
- Đoạn
Sài Gòn đi Nha Trang (dài 411km, - giai đoạn 1904-1913).
Năm
1912, Quốc hội Pháp cho Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut vay tiếp 90 triệu
franc để thực hiện đoạn đường sắt Vinh – Đông Hà, Công việc vừa mới bắt đầu thì
Thế chiến thứ nhất (1914- 1918) bùng nổ. Sau đó, Toàn quyền Maurice Long tranh
thủ Quốc hội Pháp được một khoản vay 6 triệu đồng Đông dương (piastre) để tiếp
tục thi công đoạn đường sắt Vinh-Đông Hà, đến năm 1927 được đưa vào hoạt động.
Như vậy,
đến 1927, đường xe lửa Đông Dương đã có hai đoạn dài: đoạn Hà Nội – Tourane ở
phía Bắc và đoạn Sài Gòn- Nha Trang ở phía Nam. Đoạn cuối cùng phải hoàn tất là
đoạn Nha Trang – Tourane dài 532 km. Sau những tranh cãi dai dẳng trong nghị
viện Pháp, đến tháng 11.1931, đoạn đường này mới được khởi công.
Ba tôi
tốt nghiệp trường Cao đẳng Công chính Đông dương năm 1929, được bổ nhiệm vào
Công trường Đường sắt xuyên Việt, lúc bấy giờ đang tiến hành công tác khảo sát
cho đoạn Tourane - Nha Trang. Sau khi sinh tôi được 6 tháng mẹ tôi được ông bà
cho phép đi theo chồng. Lúc bây giờ mẹ con tôi đã được đi tàu hỏa suốt từ Vinh
đến Tourane. Đoạn còn lại từ Tourane đến Trị Bình (Dung Quất bây giờ) đi xe đò,
tất nhiên là chỉ đến và thuê nhà ở tại một thị trấn nhỏ gần công trường nơi ba
tôi làm việc, chứ không đến công trường ở được.
Lúc vào
Trị Bình thì tôi còn bé, không biết gì, nhưng năm lên 5 tuổi được về Vinh ăn
Tết với ông bà nội thì tôi đã biết quan sát. Mẹ tôi đem tôi và em gái kề tôi
(mới lên 3) đi tàu hỏa từ Tourane ra Vinh. Lúc bấy giờ ba tôi cũng hãy còn
nghèo nên mẹ con đi toa hạng tư. Toa xe hạng tư được làm chủ yếu bằng gỗ và chỉ
cung cấp các tiện nghi cơ bản. Tuy vậy, đến 1937 khi gia đình tôi đi từ Nha
trang ra Hà nội (ghé qua Vinh) đã thấy có loại khoang hành khách bằng kim loại
với hệ thống giảm sóc cải tiến, ghế ngồi được nâng cấp cho êm hơn, đặc biệt là
từ toa khách hạng nhì trở lên. Với toa hạng nhất, hành khách được hưởng loại
ghế ngồi thoải mái như salon, với chỗ để tay riêng và đệm tựa lưng lịch sự. Tàu
Tourane đi Vinh – Hànội là tàu suốt, chỉ dừng ở mấy ga lớn. Khách đi tàu cũng
đông, đặc biệt là ở hạng tư, nhưng không đến nỗi đông như các toa tàu Ấn độ mà
ta thường thấy trên phim ảnh, tạp chí. Toa hạng tư có hai dãy ghế ngồi dọc
thành toa và một lối đi khá rộng rãi ở giữa. Khách hạng tư tha hồ mang theo
hành lý cồng kềnh, nếu xếp lên xích đông trên dãy ghế ngồi không đủ thì được
phép xếp ra lối giữa, nhưng phải có trật tự và không được gây ô nhiễm môi trường
trong toa. Người phụ trách toa khá nghiêm khắc, hành lý quá cồng kềnh kiên
quyết bắt đem ra xếp vào toa hàng hóa. Hành khách đi tàu người miền Nam rất tử
tế. Họ giúp đỡ mẹ tôi, có người còn cho quà tôi và chơi đùa với hai anh em tôi.
Hồi đó hình như người dân có thói quen là đi tàu phải ăn mặc nghiêm chỉnh. Có
người mặc áo dài quốc phục, người mặc âu phục, không thấy ai mặc may-ô quần
đùi. Đi tàu dọc theo các tỉnh miền trung thấy phương ngữ đổi dần theo khách
xuống/khách lên. Chập tối đi qua Thừa thiên đang nghe tiếng Huế nhỏ nhẹ, ngọt
lịm thiu thiu ngủ đến gần sáng tỉnh dậy đã nghe thấy tiếng Quảng Trị, Quảng
Bình, Hà tĩnh nằng nặng lạ tai. Qua cầu Đức Thọ rồi là tiếng Nghệ “nhà choa”,
quen rồi mà vẫn thấy lạ!
Từ khi
qua cầu Đức Thọ tàu lăn bánh trên đất Nghệ an, tôi một mực đứng lên ghế nhìn ra
ngoài cửa sổ. Mẹ tôi sợ bụi than bay vào mắt tôi, nhưng không cản được. Những
cánh đồng lướt qua cửa sổ. Làng mạc xuất hiện xa xa, lưa thưa rồi đông dần lên.
Bỗng nghe tiếng còi tàu vang lên, tôi biết là tàu sắp vào ga. Tàu giảm tốc độ,
đã vào đến sân ga. Tôi nhoai người nhìn ra cửa sổ, một bác đứng gần kéo tôi
lại. Tàu chạy chậm dần rồi dừng hẳn. Nhìn ra đã thấy ông nội tôi đứng chếch về
phía trên một chút. Tôi gọi toáng lên “ông, ông ơi”. Ông tôi lật đật chạy lại gần
cửa toa. Vẫn cái bác ban nãy bế tôi lên và đưa ra cửa toa, cẩn thận xuống bậc
để trao cho ông tôi. Tôi ôm cổ hôn ông rồi tụt xuống, đứng khoanh tay cúi đầu
cảm ơn bác đồng hành tốt bụng (hồi đó tôi chơi với một thằng bé cùng tuổi con
ông chánh kỷ sư người Pháp, bà vợ ông dạy dỗ rất cẩn thận cho cả hai đứa cách
cư xử). Cô tôi cũng ra đón. Cô vỗ nhẹ lên đầu tôi rồi trèo thoắt lên toa vào bế
em tôi để cho mẹ tôi dọn hành lý. Mẹ tôi trao dần từng kiện cho một ông trung
niên người Bắc kỳ chuỷển qua cửa sổ cho người giúp việc ông nội đứng đón ở
dưới. Xong xuôi, mẹ tôi lễ phép chào những bạn đồng hành và theo cô tôi xuống
toa. Mẹ cũng không quên chào và cảm ơn người phụ trách toa đang đứng thẳng
người trực ở cạnh bậc thang xuống toa. Nói dài dòng một tý cho thấy con người
hồi đó cư xử với nhau tử tế như thế nào!
Ngày 2/9/1936, hai tuyến đường sắt ở 2 đầu Bắc-Nam
gặp nhau tại km 1221 thuộc Hào Sơn, thuộc tỉnh Phú Yên. Một buổi lễ trang trọng
và hoành tráng đã được tổ chức để chào mừng sự kiện này, Toàn quyền Réne Robin
tự tay đặt những mảnh đường ray cuối cùng nối liền 2 đầu Bắc-Nam của tuyến
đường sắttrước sự hiện diện của vua Bảo Đại
Việc
hoàn thành tuyến đường sắt xuyên Đông Dương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
nhằm cung cấp khả năng di chuyển giữa Hà Nội và Sài Gòn trong khoảng thời gian
chỉ 40 giờ đồng hồ, trên những con tàu được trang bị các loại đầu kéo khá hiện
đại so với thời bấy giờ.
Ngày
1/10/1936, một tấm bia lưu niệm đã được dựng tại vị trí km 1221. Tham gia lễ
đặt bia khánh thành có sự Vua Bảo Đại, quyền Toàn quyền A Sylvestre và Tỉnh
trưởng Vân Nam - Trung Quốc Long Vân. Trên bia khắc dòng chữ tiếng Pháp:
"Tại đây, tuyến đường sắt xuyên Đông Dương, được khởi công bởi Toàn quyền
Paul Doumer nhằm đánh dấu sự thống nhất của Đông Dương được hoàn thành vào ngày
2/9/1936 với sự kết nối từ tuyến đường xuất phát từ biên giới Trung Quốc ở phía
Bắc và tuyến đường từ Sài Gòn đi ra ở phía Nam".
Tuyến
đường đã đặt xong, nhưng vẫn còn những công trình phụ phải hoàn thành. Ba tôi ở
lại Nha trang đến mùa hè năm 1938 mới được điều ra Hà nội. Vì những công lao
trong 9 năm khảo sát và thi công tuyến đường Tourane-Khánh hòa, ba tôi được
thăng cấp trong công ty GTEO, cả nhà được vé toa nằm hạng nhì và phiếu ăn ở toa
ăn trên chuyến tàu Saigon-Hanoi (đoạn Nha trang- Hanoi, có ghé xuống Vinh). Toa
hạng nhì rất sang, toa ăn thì như một tiệm ăn Pháp lưu động có thực đơn Âu-Á
phong phú và đủ loại rượu quý.
Ghi chú:
Các ảnh trong bài lấy từ “Những hình ảnh cực hiếm về đường sắt Bắc Nam từ gần
một thế kỷ trước” đăng ngày 2/9/2016 trên trang Web của Tổng Công ty Đường Sắt
Việt nam”
Sưu Tầm Facebook
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét